Chương 5: (Tiếp)
LÃO TIỀN BỐI CHU CHẤN LONG 30 NĂM SAU
Lúc này Phong Tử Thủ đã gần 30, không còn là một Phong Tử Thủ lỗ mãng dễ bị kích động nữa. Anh ta biết Tổ Gia muốn thống nhất thiên hạ. Trong thời điểm phải lo họa trong giặc ngoài, nguy cơ rình rập tứ phía này, anh ta không rời khỏi Tổ Gia nửa bước.
Ngay cả tôi, một kẻ bẩm sinh ngu dốt gia nhập Đường khẩu không lâu cũng cảm thấy tình hình căng thẳng. Cả nước sắp giải phóng, Tứ đại Đường khẩu sắp tan rã, tinh thần của huynh đệ phân tán, mâu thuẫn ngày càng tăng, Tiền Diệu Lâm của Bắc phái đột ngột tới thăm hỏi, Tần Bách Xuyên của Tây phái luôn tỏ ra thận trọng. Tất cả những điều này đều không biết là phúc hay là họa. Nhưng Tổ Gia vẫn bình tĩnh đến lạ thường.
Đầu năm 1949, khi ba chiến dịch lớn kết thúc, Quốc dân Đảng đang thoi thóp, cố kéo dài ngày tàn. Xuất phát từ lợi ích của bản thân, cả Liên Xô và Mỹ đã yêu cầu hai bên Quốc - Cộng "phân định giang sơn để cai trị", thực chất bọn họ chỉ muốn chia cắt Trung Quốc.
Quốc dân Đảng thừa cơ tuyên truyền những nguồn tin giả tạo hòng đe dọa dân chúng, rằng các khu giải phóng đáng sợ đến thế nào. Ngay cả Đại Sư bá Tiền Diệu Lâm từ khu giải phóng chạy tới cũng nói tình hình ở khu giải phóng không mấy tốt đẹp.
Tổ Gia vốn là người thông minh, trong lòng biết rõ, phái Giang Tướng là băng đảng lừa đảo, nơi mà những kẻ lừa bịp khó bám trụ là nơi người dân sống an cư lạc nghiệp.
Dạo đó, rất nhiều người đã hiểu lầm vì nghe theo những lời tuyên truyền tiêu cực của Quốc dân Đảng, họ đã liều mạng chạy tới Đài Loan, Hồng Kông. Chưởng môn Nam phái Việt Hải Đường Giang Phi Yến cũng liên tục qua lại giữa Quảng Đông với Hồng Kông.
Một hôm Tổ Gia nói với tôi: "Đại Đầu, ta sẽ dẫn ngươi đi gặp một người."
Tôi hỏi: "Ai vậy?"
Tổ Gia nói: "Cứ đến đó rồi ngươi sẽ biết."
Phong Tử Thủ vẫn không rời Tổ Gia nửa bước. Tổ Gia nhờ người đặt vé cho chúng tôi cùng tới Tô Châu. Đây là lần đầu tiên từ khi sinh ra tôi được đi tàu nên cảm thấy rất lạ lẫm. Trên tàu lại có cả bàn, ghế, còn có cả đèn điện, giống như phòng khách của Tổ Gia. Điều khiến tôi khó hiểu nhất là cái thứ dài thế này thì cái gì có thể kéo nó chạy về phía trước được.
Trên đường đi, tôi cứ hớn hở mãi, chốc chốc lại nhìn qua cửa sổ để ngắm cảnh vật bên ngoài. Phong Tử Thủ nói với tôi rằng: "Đây là khoang tàu hạng sang, lần đầu tiên đã được ngồi khoang hạng sang. Số anh may thật!" Lúc đó tôi chỉ mong tàu đừng dừng lại mà cứ chạy mãi, chạy mãi.
Ba giờ chiều, tàu đến ga. Đi qua đại sảnh náo nhiệt, ra tới cửa nhà ga thì có người tới đón. Chiếc xe kéo ba gác chạy lòng vòng đưa chúng tôi tới chân một ngọn núi. Tôi nhìn lên thì thấy trên đó có một ngôi chùa.
Chú tiểu gác cổng nhìn thấy chúng tôi tới liền dẫn vào trong, đi qua mấy Phật đường rồi rẽ trái tới một thiền phòng. Sau khi bẩm báo, chú tiểu nói: "Mời ba vị thí chủ vào."
Tôi và Phong Tử Thủ theo sát Tổ Gia. Vừa bước vào thì thấy một lão hòa thượng chừng tám chín mươi tuổi đang tọa thiền.
Tổ Gia chắp tay khẽ nói: "Thanh Phong Đại sư vẫn khỏe chứ?"
Lão hòa thượng đáp lễ: "A Di Đà Phật, Tổ Gia đi đường vất vả. Tuần Trúc, dâng trà!"
Chú tiểu kia đáp: "Vâng, thưa sư phụ." Rồi quay người đi.
Tôi nghe họ đối đáp như vậy thì đoán chắc rằng vị cao tăng này có mối giao tình với Tổ Gia, Tổ Gia quả là người quảng giao.
Tô Gia nói: "Đa tạ Đại sư! Lần này đệ tử đến đây có đưa cả một tiểu đồ đệ rất am hiểu về trà đạo." Nói xong liền đưa tay vẫy tôi: "Đại Đầu, ngươi mau vào pha trà giúp tiểu sư phụ đi nào."
Tôi nói: "Vâng!" Rồi vội chạy vào trong phòng nhận lấy bộ đồ pha trà. Một lát sau, tôi bưng lên một ấm trà Bích La Xuân, rót mời mọi người.
Tổ Gia nói: "Mời Đại sư!"
Thanh Phong Đại sư bưng chén trà lên nhâm nhi mỉm cười đôn hậu: "Trong lành thanh tao, thí chủ quả đúng là có thiện căn."
Tôi không hiểu lắm lời lão hòa thượng nói, nhưng dường như có ý khen ngợi tôi.
Tổ Gia cười nói: "Đại sư vẫn khỏe chứ?"
Thanh Phong Đại sư nói: "Đa tạ Tổ Gia đã quan tâm, tất cả vẫn ổn."
Tổ Gia nói: "Ba mươi năm trước tôi có duyên được gặp Đại sư, quả là vô cùng may mắn! Những năm qua, mỗi khi gặp bế tắc, nghĩ quẩn là lại được Đại sư khai mở bến mê, Đại sư đối với tôi ơn nặng như núi."
Thanh Phong Đại sư nói: "Tổ Gia quá lời rồi. Thiện căn luôn ở tại lòng ta, tự sẽ có phúc báo."
Tổ Gia nói: "Đại sư, lần này đến đây là có ba việc muốn thỉnh thị Đại sư."
Tôi thật không dám tin vào tai mình. Tổ Gia mà cũng cần người khác khai mở tâm trí sao? Tôi quay lại nhìn Phong Tử Thủ, anh ta chỉ cười chẳng nói chẳng rằng.
Thanh Phong Đại Sư nói: "Tổ Gia, trong thế giới Sa bà, vạn tướng giai không, nếu ông không từ bỏ được, sẽ không thể nhìn thấu suốt được."
Tổ Gia nói: "Việc đầu tiên đó là tôi nên đi hay ở lại?"
Vấn đề đầu tiên này khiến tôi và Phong Tử Thủ đều cảm thấy mơ hồ, không hiểu ý là gì?Tại sao lại nên đi hay nên ở lại? Mà đi đâu mới được chứ?
Thanh Phong Đại sư nói: "Phái Giang Tướng đã tồn tại suốt nhiều năm nay, làm nhiều việc thiện, cũng làm cả việc ác. Việc ác dường như nhiều hơn cả việc thiện, đặc biệt là giai đoạn Dân quốc. Cuối thời nhà Thanh liên tiếp làm việc xấu, tội ác tày trời, Tổ Gia đi hay không không quan trọng, mà việc bỏ hay giữ phái Giang Tướng mới là điều quan trọng."
Câu nói này của lão hòa thượng khiến tôi bàng hoàng, ông ta cũng biết nội tình của phái Giang Tướng ư? Đường khẩu có quy định, kẻ nào biết được nội tình của phái Giang Tướng, nếu không phải là huynh đệ thì là kẻ thù, tất sẽ bị giết chết. Tổ Gia không những không giết ông ta, mà trái lại còn cung kính. Vậy rốt cuộc ông ta là ai chứ?
Tổ Gia nghe xong, trầm ngâm suy nghĩ, một lúc lâu sau mới nói: "Đại sư, việc thứ hai ông thấy hai vị đồ đệ này của tôi tương lai sẽ đi về đâu?"
Tôi với Phong Tử Thủ nhìn nhau không hiểu, thế nào là "sẽ đi về đâu?" Hôm nay Tổ Gia làm sao thế nhỉ? Sao toàn nói những lời lấp lửng như vậy?
Thanh Phong Đại sư chỉ vào tôi nói: "Vị thí chủ này tướng mạo thật thà đứng đắn, lục căn thanh tịnh, tuy lúc nhỏ khắc tận song thân, nhưng sau tuổi trung niên tất sẽ có phúc báo, trai gái đuề huề, sống thọ chết nhàn."
Tổ Gia thở dài nói: "Xem ra tôi không nhìn nhầm người."
Tôi hoàn toàn chẳng hiểu gì cả, những lời lão hòa thượng này nói tại sao lại giống như đang xem tướng cho chúng tôi. Lẽ nào Tổ Gia đã trúng Thiên? Tôi chép miệng nhìn Tổ Gia lòng đầy ngờ vực.
Nỗi lo này của tôi không che nổi mắt Thanh Phong Đại sư, ông cười nói: "Thí chủ, cậu đã làm cho mình trở nên mê muội rồi. Thật thật giả giả, giả giả thật thật, bản thân thí chủ cũng không phân biệt được rõ đâu là thật, đâu là giả. Phái Giang Tướng đã gây hai nghiệp chướng rất lớn, một là lừa tiền ham sắc, lạm sát người vô tội. Hai là đã làm nhơ bẩn thanh danh của Chu dịch; Kinh dịch là đạo của âm dương, người xưa thường nói: "Lương tướng trị quốc, lương y cứu người, trị quốc bất thành, lui về bốc thuốc", thuật số là tinh hoa của Kinh dịch, được dùng để cầu lành tránh dữ, tạo phúc cho bách tính. Phái Giang Tướng vốn không hiểu Kinh dịch, nhưng lại mượn danh nghĩa của Kinh dịch mà rêu rao, khoác lác, khiến cho dân chúng hoài nghi về Kinh dịch. Như vậy danh tiếng của thuật số Trung Hoa sớm muộn cũng bị hủy hoại."
Những điều này tôi nghe như hiểu mà lại c hẳng hiểu gì cả. Đại khái là nói chúng tôi làm việc xấu, điều này tôi không dám biện bạch câu gì. Nhiều năm sau, sau khi tôi thực sự lĩnh hội được Chu dịch thì mới thấy lời Thanh Phong Đại sư nói quả không sai chút nào, Dịch chính là nguyên tắc sinh thành của trời đất, do đó nó chứa đựng quy luật vận hành của thiên địa.
Thanh Phong Đại sư lại chỉ vào Phong Tử Thủ nói: "Vị thí chủ này mắt dê lồi ra, tuy can đảm nhân nghĩa, nhưng sát tâm quá nặng, để lâu tất sẽ gặp họa, cho nên phải kìm hãm lại sớm bao nhiêu tốt bấy nhiêu."
Tôi liếc nhìn Phong Tử Thủ, không cần biết lão hòa thượng này có hiểu thật hay không, nhưng dù sao những lời nói đó khiến ai nghe thấy cũng đều cảm thấy bực bội trong lòng.
Phong Tử Thủ nhếch miệng nói: "Đa tạ Đại sư đã chỉ bảo, từ khi gia nhập Đường khẩu, tôi đã không màng tới chuyện sống chết." Lời Phong Tử Thủ nói không hề dối trá, anh ta đúng là không sợ chết, mỗi lần Đường khẩu xung đột với người ngoài, anh ta đều là người đầu tiên ra mặt.
Tổ Gia cười lớn chỉ vào Phong Tử Thủ rồi nói với Thanh Phong Đại sư: "Đây là Tiểu Lục Tử, người mà tôi có được từ Đường khẩu của Cửu gia. Nếu luận từ vai vế của Cửu gia và Trương Sư gia thì cậu ta phải gọi Đại sư là sư huynh."
Tôi và Phong Tử Thủ chẳng hiểu gì cả, lẽ nào Thanh Phong Đại sư cũng có mối quan hệ với Vương Á Tiều? Sao lâu nay không hề nghe thấy Tổ Gia nhắc đến chuyện này? Tôi với Phong Tử Thủ trố mắt nhìn Tổ Gia lòng đầy nghi hoặc.
Tổ Gia nói tiếp: "Đại sư, tôi có thể nói rõ để kẻ hậu bối hiểu rõ thứ bậc này được không?"
Thanh Phong Đại sư nói: "A Di Đà Phật, những việc đã qua như làn mây khói. Người xuất gia xem trọng tùy hỉ, tùy hỉ Tổ Gia với hai vị thí chủ. Chớ có khiến họ mơ mơ hồ hồ không biết đâu thực đâu hư."
Nghe Đại sư trả lời, chúng tôi nóng lòng nhìn Tổ Gia với ánh mắt trông đợi.
Tổ Gia nói: "Hai người đều biết chuyện trước đây của ta rồi, các ngươi còn nhớ ta từng kể về Chu lão tiền bối không?"
Trí nhớ của tôi không được tốt {trí nhớ không tốt mà già rồi xong kể lại câu chuyện này như thật :v bác đùa các cháu rồi}, tôi bắt đầu lục lại trong đầu, Chu lão tiền bối ư? Chu lão tiền bối nào nhỉ? Phong Tử Thủ có phản ứng ngay: "Hóa ra là lão tiền bối Chu Chấn Long năm nào. Thất kính, thất kính! Xin nhận của đệ tử một lạy!"
Lúc này tôi mới bừng tỉnh, năm xưa để báo thù cho tiểu đệ với tiểu muội, Tổ Gia vô tình đã cứu hai người, một là Trương Đan Thành, còn người kia là Chu Chấn Long, từ đó cuốn vào vòng ân oán của phái Giang Tướng. Sau này Trương Đan Thành muốn trao quyền Chưởng môn cho Tổ Gia, Chu Chấn Long và Đồ Nhất Minh đều là những người mà Trương Đan Thành tin cẩn. Ông yêu cầu họ phải tận tâm phò tá cho Tổ Gia. Về sau, Trương Đan Thành chết, Chu Chấn Long chán ghét hồng trần, liền đem hết vàng bạc châu báu của mình chia cho người nghèo, sau đó một mình rời khỏi Đường khẩu, từ đó bặt vô âm tín. Hóa ra là đến đây xuất gia nương nhờ cửa Phật.
Thời gian vùn vụt trôi đi, thấm thoắt cái đã ba mươi năm.
Tổ Gia nói: "Sau khi Chu lão tiền bối rời khỏi Đường khẩu, ta luôn thấp thỏm nhớ mong. Mười năm sau nhận được một bức thư, lúc đó mới biết lão tiền bối đã quy y cửa Phật, lấy pháp hiệu Thanh Phong."
Thanh Phong Đại sư thở dài: "A Di Đà Phật. Biển khổ vô biên, quay đầu là bờ. Bần tăng cũng mong các vị thí chủ sớm quay đầu."
Tổ Gia chắp tay: "A Di Đà Phật."
Tôi chưa bao giờ thấy Tổ Gia lại khiêm nhường như vậy. Tôi cảm thấy ông dường như là một con người hoàn toàn khác.
Thanh Phong Đại sư nói: "Thí chủ vừa nói có ba việc, thế còn việc thứ ba..."
Tổ Gia thở dài đáp: "Đại sư, việc thứ ba tôi đã có câu trả lời rồi."
Thanh Phong Đại sư nói: "Thiện tai, thiện tai. Trời đã muộn rồi, bần tăng không có gì để thiết đãi mọi người cả, để ta bảo đồ nhi chuẩn bị cơm chay. Mời ba vị thí chủ dùng tạm."
Tối hôm đó là lần đầu tiên tôi được ăn cơm chay. Tuy không có thức ăn mặn nhưng tôi vẫn cảm thấy rất ngon miệng, tôi ăn liền năm bát cơm với hai đĩa rau cải nấu mỳ, khiến Phong Tử Thủ ngây ra nhìn rồi bật cười.
Chúng tôi ở lại ngôi chùa đó hai đêm, sau đó lại trở về Đường khẩu.
Trên đường về tôi hỏi Tổ Gia: "Chu lão tiền bối có thực sự hiểu về Kinh dịch không? Ông ấy học từ bao giờ?"
Tổ Gia nói: "Phật pháp thông, vạn pháp thông. Ông ấy hiểu thế nào ta cũng không biết, nhưng đó mới là người có bản lĩnh thật sự. Ông ấy chưa từng xem cho người ngoài. Nếu không phải là đích thân ta hỏi thì ông ấy sẽ không xem đâu. Theo như lời ông ấy thì xem hay không cũng được, trong Kinh dịch chẳng phải có một câu đó sao: 'Nhà nào tích thiện thì ắt có nhiều điều tốt lành, nhà nào làm việc ác tai ương tất tìm đến'. Người hiểu rõ thiện ác, cũng chính là hiểu rõ bản chất của số mệnh."
Lúc đó tôi cảm thấy Tổ Gia và Chu lão tiền bối đều quá uyên thâm. Tôi thầm nghĩ, rốt cuộc họ đã gặp nhau mấy lần rồi? Tổ Gia từng nói gì với ông ấy? Tại sao lần này Tổ Gia lại dẫn tôi với Phong Tử Thủ tới đó? Và vấn đề thứ ba mà Tổ Gia muốn hỏi là gì? Tất cả như một câu đố, một câu đố không lời giải đáp.
PHONG TỬ THỦ BỊ HẠ ĐỘC THỦ
Sau khi trở về Đường khẩu không lâu, ngày 21 tháng 4 năm 1949, Chiến dịch Độ Giang(1) bùng nổ. Mao chủ tịch phát động chiến dịch: "Vượt Trường Giang, giải phóng Trung Quốc". Ngay lập tức, âm mưu chia cắt Trung Quốc của Mỹ và Liên Xô bị phá sản, kế hoạch "Kéo dài thời gian, chỉnh đốn quân đội" của Tưởng Giới Thạch cũng tan thành mây khói. Đại quân Giải phóng Nhân dân bắt đầu Nam tiến. Đi xung phong là ba đội xung kích Đông, Trung, Tây, các cánh quân dã chiến 2, dã chiến 3 và dã chiến 4 cùng phối hợp, nhất tề xông lên tiêu diệt thế lực Quốc dân Đảng bao gồm 11 quân đoàn, 46 sư đoàn, giết chết hơn 43 vạn quân địch, giải phóng các thành phố lớn như Nam Kinh, Thượng Hải, Vũ Hán,... tiếp đến là toàn bộ hai tỉnh Giang Tô, An Huy và phần lớn tỉnh Chiết Giang cùng với một số khu vực khác của các tỉnh Giang Tây, Hồ Bắc, Phúc Kiến,...
(1) Vượt qua sông.
Trước tình thế cấp bách đó, Tổ Gia suy đi tính lại rồi quyết định dẫn các huynh đệ của Đường khẩu tới Quảng Châu ở phía Nam để nhập với Đường khẩu Việt Hải Đường. Hai Đường khẩu danh nghĩa là sát nhập, thực tế vẫn tách riêng biệt. Giang Phi Yến vẫn là Giang Phi Yến. Tổ Gia vẫn là Tổ Gia. Đông phái vẫn là Đông phái. Nam phái vẫn là Nam phái.
Đường khẩu dời tới Quảng Châu. Vừa ổn định chưa bao lâu thì vào tháng 5, Lục gia Phong Tử Thủ bỗng nhiên đổ bệnh. Mỗi sáng dậy luyện võ, anh ta ho liên tục, sau đó bắt đầu thổ huyết. Tuy đã tìm mấy thầy lang bắt mạch bốc thuốc nhưng họ đều nói mạch tượng hư nhược, có lẽ là do lao lực. Họ kê cho mấy thang thuốc bồi bổ khí huyết thì thấy bệnh tình cũng có biến chuyển. Nhưng không lâu sau, anh ta bắt đầu rụng tóc, toàn thân rệu rã, sắc mặt vàng vọt, thân thể gầy mòn, hốc hác.
Tổ Gia thấy vậy trong lòng vô cùng lo lắng, ông nhờ Giang Phi Yến mời thầy lang tốt nhất trong vùng đến khám, sau khi khám xong thầy lang nói: "Lục phủ ngũ tạng suy kiệt, không rõ nguyên nhân."
Tổ Gia hỏi: "Phải chăng bị trúng độc?"
Thầy lang nói: "Trong người không có độc."
Tổ Gia hỏi: "Có cứu được không?"
Thầy lang lắc đầu.
Tổ Gia không biết phải xoay sở thế nào, trong lòng vô cùng đau đớn. Không chỉ riêng Tổ Gia mà ngay cả các Bá đầu khác trong lòng cũng như lửa đốt.
Dạo đó Nhị Bá đầu ngày nào cũng uống rượu, ông ta còn lôi kéo cả tôi vào cuộc, có lần ông nói rất nhiều rồi nói liên thiên: "Lão Lục sức khỏe cường tráng nhất, sao lại ra nông nỗi này kia chứ?"
Tôi nói: "Nhị gia, sống chết có số, giàu sang tại trời." Nói xong tôi mới biết mình lỡ lời, nhưng hối hận cũng đã muộn, Nhị Bá đầu bật dậy vả vào miệng tôi một cái đau điếng: "Khốn kiếp, ngươi nói gì thế?"
Tôi hai tay bưng mặt nói: "Nhị gia! Con sai rồi, con sai rồi!"
Nhị Bá đầu nói: "Đại Đầu, đừng trách Nhị gia đánh ngươi, ngươi có biết không? Ta với Lục gia đã ở với nhau hơn chục năm rồi. Khi Lục gia tới Đường khẩu, vẫn còn là một đứa trẻ, ta đã chứng kiến cậu ấy lớn lên từng ngày, luôn trung thành tuyệt đối, tuyệt không ăn ở hai lòng với Tổ Gia và các huynh đệ. Mấy năm nay, trải qua biết bao sóng gió, những việc xảy ra đều do cậu ấy đứng ra thu xếp. Trước mỗi lần dàn cục đều phải điều tra địa hình địa mạo, cậu ấy luôn là người xông xáo đi đầu. Lần quyết chiến với Thanh Long bang, Tiểu Lục Tử vì đỡ cho ta một đao mà bị một nhát vào ngực, ta hỏi: 'Cậu có đau không?' Cậu ấy chỉ cười nói rằng: 'Nhị gia, không sao đâu...'"
Nói đến đây Nhị Bá đầu bật khóc, lúc đó tôi thực sự cảm nhận được ý nghĩa của hai từ "huynh đệ". Trong kí ức của tôi, đây là lần đầu tiên Nhị Bá đầu đánh tôi vì chuyện giữa các huynh đệ. Sau khi đánh xong, Nhị Bá đầu lại uống rất nhiều rượu, uống tới mức say mèm.
Một tháng sau, Phong Tử Thủ ra đi. Trước khi chết, Tổ Gia ôm chặt lấy anh ta, anh ta cố mở mắt, cất giọng yếu ớt: "Tổ Gia, Tiểu Lục Tử đi theo sư phụ đã 14 năm... Sư phụ luôn đối xử tốt với con... Tiểu Lục Tử vô cùng khâm phục, nguyện sẽ đi theo sư phụ suốt đời. Ban đầu khi người thu nạp con từ Đường khẩu của Cửu gia, lúc đó con còn chưa hiểu chuyện, còn cãi lại người.. Tổ Gia, Tiểu Lục Tử không thể theo hầu sư phụ được nữa rồi. Sư phụ phải hết sức bảo trọng, Thanh Phong Đại sư chẳng phải đã nói con sát tâm quá nặng. Đúng là con đã giết quá nhiều người, bây giờ con sắp phải chết, chết rồi thì không thể giết người được nữa... Tổ Gia, kiếp này được đi theo sư phụ con không hề hối tiếc, kiếp sau con vẫn sẽ là Tiểu Lục Tử của sư phụ... Tổ Gia, sau khi con chết, xin hãy đốt nhiều tiền vàng một chút, không phải là để cho con dùng, mà là dành cho những oan hồn đã bị con giết chết. Trên đường xuống suối vàng, con sẽ dùng tiền đó để phát cho họ. Như vậy họ sẽ không bám lấy con, con sẽ được đầu thai trở lại làm người để hầu hạ Tổ Gia..."
Tổ Gia khóc, nước mắt rơi lã chã, rơi lên cả mặt của Phong Tử Thủ, tôi cũng không kiềm chế nổi khóc òa lên, Nhị Bá đầu nằm bò ở đầu giường gào khóc thảm thiết: "Lục Tử! Cậu nỡ lòng nào bỏ nhị ca mà đi như vậy?"
Cuối cùng Phong Tử Thủ cũng nhắm mắt, Tổ Gia ôm chặt anh ta vào lòng. Lúc đó, tôi cảm thấy đây không giống như cảnh Chưởng môn của Đường khẩu ôm thuộc hạ, mà giống như người anh ôm lấy người em vậy.
Hôm đưa tang Lục gia Phong Tử Thủ, những người của hai giới Hắc-Bạch đều đến dự. Nhị Bá đầu quỳ trước linh cữu khóc không thành tiếng. Đặc biệt khi hạ huyệt, Nhị Bá đầu như phát điên, ông lao xuống gạt đám tay chân ra rồi nằm bò trên quan tài không cho lấp đất, cuối cùng Tổ Gia phải sai người khiêng ông ấy đi. Từ khi đi theo Nhị Bá đầu đến nay, đây là lần đầu tiên tôi thấy ông ấy đau buồn như vậy.
Các vị Bá đầu khác cũng đau buồn, tuyệt vọng, Tam Bá đầu mặc áo tang quỳ trước quan tài, vừa khóc vừa đọc lời điếu văn do chính mình viết: "Đau đớn thay! Đệ hỡi! Đệ đã ở bên chúng ta mười mấy năm trời, mà nay đệ lại ra đi trước, từ nay phải ly biệt mãi mãi, đau buồn biết bao! Chúng ta chỉ có mình đệ không may đoản mệnh. Từ khi đi theo Tổ Gia, chúng ta luôn coi đệ như người anh em thân thiết, đệ võ nghệ cao cường, trọng tình trọng nghĩa, ông trời không có mắt nên để mất đi một anh tài, thật đau lòng biết bao..." Nghe những lời điếu này, mọi người càng khóc thảm thiết hơn.
Các Bá đầu, huynh đệ ai cũng khóc, nhưng trong lòng Tổ Gia biết rõ, ai là người khóc thật, ai là người khóc giả. Tổ Gia vô cùng am hiểu lịch sử, năm xưa Khổng Minh khóc Chu Du, tiếng than khóc cảm động đất trời, nhưng đằng sau tiếng khóc lại là tiếng cười.
Đối với căn bệnh của Phong Tử Thủ, Tổ Gia luôn cảm thấy có điều gì đó không bình thường, nhưng rốt cuộc vẫn không thể nào tìm ra vấn đề nằm ở đâu. Ban đầu Tổ Gia cũng cho rằng đó là do lao lực quá độ gây nên, nhưng về sau bệnh tình ngày càng trầm trọng. Ông đồ rằng đã có kẻ đầu độc. Kết quả là dù điều tra mãi vẫn không phát hiện ra bất cứ điều gì.
Phong Tử Thủ vốn là kẻ thông minh nhanh trí. Những năm qua anh ta lại được đích thân Tổ Gia tận tình chỉ bảo nên càng thông minh nhanh nhẹn. Anh ta hết sức cẩn thận trong việc ăn uống và sinh hoạt, thậm chí những điều mà Tổ Gia không nghĩ đến anh ta lại nghĩ đến, đồng thời luôn mang bên mình các loại trâm bạc thử độc do Tứ Bá đầu chế ra. Mỗi khi đến những nơi xa lạ ăn uống, anh ta đều thử độc qua một lượt, sau đó mình nếm trước mới để Tổ Gia ăn.
Do vậy, muốn cho thuốc độc vào thức ăn là điều không thể. Vả lại thầy lang cũng đã kiểm tra, nói rằng trong người anh ta không có độc.
Tổ Gia tuy hoài nghi, nhưng vẫn không tìm ra được manh mối. Dạo đó, ông lúc nào cũng đăm chiêu suy nghĩ. Ban đêm thường uống trà, tôi cẩn thận đứng bên cạnh hầu hạ ông. Có lúc thấy ông thẫn thờ ngồi ngắm ánh trăng, tôi biết ông lúc đó lại nhớ đến Phong Tử Thủ. Những lúc như vậy, tôi không dám nói câu gì, chỉ im lặng đứng bên cạnh ông.
Một hôm đêm đã về khuya, Tổ Gia bỗng nói với tôi: "Hãy đi theo ta!"
Tôi không dám hỏi đi đâu, mà chỉ ngoan ngoãn theo sau. Tổ Gia đi về phía ngôi nhà mà lúc còn sống Phong Tử Thủ đã ở. Sau khi Phong Tử Thủ chết, Tổ Gia đã sai người khóa ngôi nhà đó lại. Tổ Gia lấy chìa khóa mở cửa, bên trong tối thui. Tổ Gia bảo tôi lấy hòn đá đánh lửa rồi thắp đèn lên.
Tôi mò mẫm một hồi mới tìm thấy một ngọn đèn dầu, tôi vội đánh lửa thắp đèn, Tổ Gia nói tiếp: "Tới nhà bếp!"
Tôi không biết Tổ Gia định làm gì, chỉ ngoan ngoãn cầm đèn đi theo. Tổ Gia quan sát kĩ từng ngóc ngách trong nhà bếp hết lần này đến lần khác, như sợ mình bỏ sót thứ gì đó.
Bỗng nhiên ông nhìn chăm chăm lên bức tường rồi nói: "Mau mang đèn lại đây!"
Tôi giơ đèn lên cao quá đỉnh đầu, Tổ Gia đưa cây đèn sát vào bức tường, tôi cũng nhìn thấy rõ, trên đó có dán một tờ giấy đã bị khói làm cho ố vàng, trên tờ giấy viết: "Lục gia quý xuân thực phổ"(2), phía dưới là những dòng chữ nhỏ li ti, ghi lại tên và cách chế biến món ăn theo tuần của Phong Tử Thủ.
(2) Thực đơn cuối xuân của Lục gia.
Phong Tử Thủ vốn thích ăn ngon, điều này người trong Đường khẩu ai cũng biết. Là người luyện võ nên cơ thể tiêu hao nhiều năng lượng, mà khẩu phần ăn cũng nhiều hơn người khác. Phong Tử Thủ rất thích ăn thịt và phải đổi món liên tục. Chính vì thế nên mặt anh ta lúc nào cũng hồng hào, đánh quyền nhanh mạnh và rất có uy lực. Do đó, anh ta chọn riêng một người trong đám thuộc hạ chuyên lo việc ăn uống cho mình.
Tổ Gia thận trọng gỡ tờ thực đơn này xuống, khi về tới nhà, Tổ Gia đọc rất kỹ tờ thực đơn này:
Ngày Bính Dần: thịt lợn hầm thập cẩm, củ ấu âm dương, gà xé phay xào dưa chuột, lạc ngâm rượu cửu âm.
Ngày Đinh Mão: thịt chó tam dương khai thái, đậu song sắc, thịt thỏ, rau cần.
Ngày Mậu Thìn: cá diếc kho, du mạch, gan ngỗng rán, canh trứng.
...
Tổ Gia đọc rất lâu vẫn không phát hiện ra điều gì bất ổn. Cuối cùng, ông cầm tờ thực đơn nằm trên ghế ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Tôi lấy một tấm chăn đắp lên người cho ông, khi đang định về phòng nghỉ thì Tổ Gia nói: "Đại Đầu, đêm nay ngươi cứ ngủ ở đây, bên trái nhà phía Đông không có ai ở, bên trong có sẵn chăn mền rồi đấy."
Lúc này tôi mới biết Tổ Gia chưa ngủ, ông đang mải suy nghĩ, nhìn bộ dạng ông lúc này, trong lòng tôi dấy lên một niềm thương cảm, xót xa.
Ngày hôm sau khi trời vừa ló rạng, Tổ Gia đã gọi tôi: "Đại Đầu, hãy truyền lệnh của ta, nói rằng tối nay tổ chức 'thực lộc'. Hãy bảo Tiền gia, Phi Yến và các Bá đầu tới đây!"
Tôi nghe mà chẳng hiểu gì, chẳng phải hai hôm trước vừa mới thực lộc rồi sao? Dạo này tiền bạc của Đường khẩu cũng rất eo hẹp, sao Tổ Gia lại như vậy? Huống hồ hôm nay là ngày Ngũ thất(3) của Phong Tử Thủ, phải đi thắp hương tảo mộ mới phải.
(3) Tuần thứ năm sau khi mất.
Tôi không dám hỏi, mà lần lượt đi thông báo cho các vị Sư bá, Bá đầu.
Buổi tối Tổ Gia cho chuẩn bị hai bàn tiệc lớn, ông, Giang Phi Yến, Tiền Diệu Lâm, Đại Bá đầu, Nhị Bá đầu, Tam Bá đầu, Tứ Bá đầu, Ngũ Bá đầu, Thất Bá đầu ngồi một bàn. Còn các Bá đầu khác và những đệ tử xuất sắc ngồi chung một bàn. Tổ Gia bảo tôi ngồi cùng ông ấy để rót rượu dâng trà.
Lúc khai tiệc, đám người hầu bưng đồ ăn tới, tôi sững sờ, tất cả những món ăn này đều được chế biến theo thực đơn đã lấy từ nhà bếp của Phong Tử Thủ. Tam Bá đầu chau mày nhìn Tiền Diệu Lâm, Tiền Diệu Lâm vẫn tỉnh bơ như không.
Tổ Gia nâng chén nói: "Tiền gia, Yến tỷ, các vị huynh đệ! Phái Giang Tướng phát triển đến nay đã được hơn 300 năm, năm xưa một trong năm vị sư tổ của Hồng Môn đã theo di nguyện của Dư Tổ sư gia mà sáng lập ra phái Giang Tướng, phản Thanh phục Minh, trừ ác hướng thiện. Để làm được điều đó chính là nhờ vào sự đoàn kết, đồng tâm hiệp lực cùng sát cánh bên nhau, gan dạ mưu trí đánh đuổi kẻ thù của các huynh đệ, như vậy sẽ mãi làm rạng danh phái Giang Tướng. Đoàn kết chính là bảo giáp giúp chúng ta được lâu bền mà không bị suy vong. Chén rượu đầu tiên này hãy uống cạn vì tình đoàn kết của các huynh đệ!"
Mọi người cùng nâng chén: "Huynh đệ đồng tâm đồng lòng, nêu cao truyền thống của phái Giang Tướng. Mọi người uống cạn một hơi."
Tổ Gia lại nâng chén rượu thứ hai: "Bao nhiêu năm nay, phái Giang Tướng đã trải qua biết bao sóng gió, nhiều huynh đệ đã phải bỏ mạng vì lợi ích của Đường khẩu. Từ khi ta cai quản Mộc Tử Liên tới nay, Đường khẩu đã có 12 huynh đệ lần lượt ra đi, chỉ riêng mùa xuân năm nay đã mất đi bốn người, sau này có thể còn các huynh đệ khác phải chết, ta cũng có thể sẽ chết, chén rượu thứ hai này hãy uống để tỏ lòng kính trọng trước các huynh đệ hy sinh vì Đường khẩu chúng ta!"
Mọi người cảm thấy trong lời nói của Tổ Gia có ẩn ý gì đó, lần lượt nhìn nhau rồi nâng chén uống cạn.
Tổ Gia lại nâng chén: "Chén thứ ba này xin được mời Tiền gia và Yến tỷ. Tiền gia không quản đường sá xa xôi mà tới Mộc Tử Liên, giống như nhà tranh thêm sáng, thật vinh hạnh cho Đường khẩu biết bao! Mấy tháng nay, Tiền gia ở lại Đường khẩu bày mưu hiến kế, san sẻ nỗi lo với ta, ta vô cùng cảm động. Gần đây tình hình có nhiều thay đổi, ta dẫn các huynh đệ tới vùng đất quý Nam Việt, lại được Phi Yến tỷ đích thân nghênh đón ngoài 20 dặm, các vị đối với các huynh đệ của Đường khẩu Mộc Tử Liên ơn nặng như núi. Tiền gia, Yến tỷ! Xin kính hai vị một ly!"
Tiền Diệu Lâm vội vàng đứng dậy, mặt mày hớn hở cười nói: "Tổ Gia khách sáo quá rồi, ngu huynh vô đức vô năng, không bị Tổ Gia ghét bỏ đã là cảm kích lắm rồi. Lẽ ra tôi phải kính rượu Tổ Gia mới phải." Nói xong liền uống cạn chén rượu.
Giang Phi Yến không nói gì mà chỉ mỉm cười với Tổ Gia. Đây là lần đầu tiên tôi được nhìn thấy Giang Phi Yến cười ở khoảng cách rất gần. Một người tuy đã 47 tuổi nhưng nhìn vẫn như ngoài 30, dung nhan xinh đẹp, dáng vẻ thùy mị, sắc xuân tràn đầy. Điều khiến tôi khó hiểu nhất là bà chưa có một sợi tóc bạc nào. Về sau Nhị Bá đầu nói với tôi rằng, năm nào bà cũng nhờ người của Quân thống mua giúp một loại thuốc ở nước ngoài để bôi lên tóc, cho nên tóc bạc mới được nhuộm đen. Nhiều năm sau tôi mới biết đó là thuốc nhuộm tóc do một người Pháp phát minh vào đầu thế kỷ 20.
Tổ Gia nói: "Mời Yến tỷ!"
Giang Phi Yến nói: "Mời Tổ Gia!"
Hai người cùng uống cạn chén rượu.
Tổ Gia nói tiếp: "Hôm nay là ngày Ngũ thất của Tiểu Lục Tử. Lúc còn sống Lục Tử rất thích ăn ngon, hôm trước khi dọn phòng của cậu ta, bọn thuộc hạ đã phát hiện ra một tờ thực đơn, ta đọc thì quả đó toàn là những món ăn ngon. Cậu ta đã đi rồi nên ta dùng tờ thực đơn này để thiết đãi mọi người, cũng là để cúng linh hồn đang ở trên trời xanh của Tiểu Lục Tử. Mời mọi người nếm thử."
Mọi người đứng dậy nói: "Tổ Gia, xin hãy bớt đau buồn!"
Tổ Gia lại nâng chén rượu rồi nhìn lên trời nói rất to: "Lục Tử, Ngũ thất là ngày hiện hồn, cậu ở trên trời có linh thiêng thì hãy quay đầu nhìn xuống các huynh đệ! Hãy nhìn xem các huynh đệ đoàn kết thế này, cậu vẫn chưa đi hết quãng đường của mình, các huynh đệ sẽ thay cậu đi nốt! Mong cậu hãy yên tâm mà an nghỉ!"
Nói chưa dứt lời thì "choang" một tiếng, mọi người nhìn về phía phát ra tiếng động. Hóa ra là Nhị Bá đầu sơ ý làm rơi chén rượu.
Tổ Gia nhìn Nhị Bá đầu rồi ngửa cổ uống cạn chén rượu, nói: "Mọi người ăn đi nào, ai thích ăn gì thì ăn, phải ăn nhiều vào thì linh hồn của Lục Tử ở trên trời mới vui được chứ."
Mọi người đưa mắt nhìn nhau rồi bắt đầu dùng bữa.
Tôi lặng nhìn Tổ Gia, ông vừa ăn vừa liếc nhìn từng người trên bàn tiệc. Tôi lặng lẽ ngồi ăn, món ăn quả thật rất ngon. Tôi nếm thử tất cả những món ăn, trong lòng thầm nghĩ đến lúc còn sống Lục gia thật có phúc về đường ăn uống.
Buổi "thực lộc" kéo dài suốt hai giờ, đến tận giờ Hợi mới kết thúc.
Đêm đã khuya, Tổ Gia bảo tôi pha trà cho ông. Khi pha trà tôi bỗng thấy đau bụng, phải chạy ra nhà xí để giải quyết, tôi nghĩ chắc là do mình đã ăn quá nhiều, nhưng vừa kéo quần lên thì bụng lại đau quặn. Tôi phải đi liên tục ba lần mới thấy đỡ.
Tổ Gia vừa uống trà vừa nói: "Đại Đầu, ngày mai ngươi hãy thông báo cho các vị Bá đầu của Đường khẩu, và cả Tiền gia nữa, nói rằng tiệc thực lộc vẫn tiếp tục."
"Hả?" Tôi cứ tưởng mình đã nghe lầm.
"Hả cái gì?" Tổ Gia nói: "Ngày mai sẽ tiếp tục thực lộc. Cả ngươi cũng tham gia. Hãy nhớ! Đừng có ăn hết các món trên bàn tiệc! Ngươi chỉ được ăn một món thôi."
Tôi không hiểu: "Món nào ạ?"
Tổ Gia cười: "Tùy khẩu vị của ngươi, món nào cũng được, đừng có ăn lẫn lộn là được!"
Tôi cảm thấy khó hiểu nhưng cũng không dám hỏi nhiều mà chỉ đáp: "Dạ, con nhớ rồi."
Sáng sớm hôm sau tôi liền đi thông báo cho các vị Bá đầu, khi bước vào phủ của Tam Bá đầu, tôi thấy Ngũ Bá đầu, Thất Bá đầu cũng có mặt ở đó, tôi nói: "Tam gia, Ngũ gia, Thất gia, Tổ Gia nói hôm nay vẫn tiếp tục thực lộc."
Tôi còn nhớ mãi sắc mặt của ba vị Bá đầu lúc đó. Mặt họ đều tái mét, ánh mắt đầy kinh ngạc và tỏ vẻ khó hiểu.
Lần "thực lộc" này không có Giang Phi Yến và thuộc hạ, mà chỉ có Tổ Gia, Tiền gia, các vị Bá đầu và tôi.
Tôi nhìn qua các món ăn. Vẫn là các món trong thực đơn của Phong Tử Thủ. Tôi ngầm nhận thấy có chuyện gì đó đang xảy ra ở đây.
Tiền Diệu Lâm cười nói: "Tổ Gia, chẳng phải hôm qua mới ăn sao? Dạo này tiền bạc của Đường khẩu đang eo hẹp, nên để dành để lo việc khác.."
Ông ta chưa nói xong thì Tổ Gia đã ngắt lời: "Không thiếu khoản này được. Khà khà... các vị Bá đầu theo ta lâu rồi, hiếm khi được nhàn rỗi. Dạo này làm ăn không được tốt nên mới nâng chén mà chuyện trò cho vui."
Đại Bá đầu cười ha hả rồi gắp một miếng thịt bỏ vào miệng: "Ăn thôi, ăn thôi, tối hôm qua tôi bị đau bụng, bây giờ phải tẩm bổ mới được."
Nhị Bá đầu nói: "Đại ca, huynh cũng bị sao?"
Không đợi Đại Bá đầu trả lời, tôi liền chen ngang: "Tiểu nhân cũng bị."
Tổ Gia cười lớn: "Toàn là đồ bổ mà. Thời gian vừa rồi Đường khẩu chuyển nhà, mọi người phải vất vả. Bắt đầu từ hôm nay sẽ thực lộc liền trong một tháng."
Tam Bá đầu buồn rầu nói: "Lục Tử vừa mới qua đời, tôi... không nuốt nổi..."
Tổ Gia nghiêm sắc mặt nói: "Sống chết là do số trời, mọi người đừng quá đau buồn."
Tổ Gia nói tiếp: "Lão Lục đi rồi, việc làm ăn của Đường khẩu vẫn phải tiếp tục, việc ai người nấy làm. Còn nữa, đám tay chân đệ tử của lão Lục cũng cần phải có người dẫn dắt, mọi người hãy tiến cử đi."
Nhị Bá đầu nghe vậy liền ngẩng đầu: "Tổ Gia, tôi chọn Tiểu Hải Tử."
Tiểu Hải Tử là thuộc hạ của Nhị Bá đầu, tên thật là Triệu Đinh Hải, rất giỏi Trát phi, gan dạ dũng cảm, làm ăn cũng tốt.
Tổ Gia lắc đầu: "Đám thuộc hạ của lão Lục đều là cao thủ, không phải ai cũng có thể quản được, nếu không có chút bản lĩnh sẽ rất khó khiến cho họ phục." Tổ Gia quay sang hỏi Tam Bá đầu: "Lão Tam, cậu có chọn được ai thích hợp không?"
Tam Bá đầu nhìn Tiền Diệu Lâm. Tiền Diệu Lâm cười nói: "Chuyện này, đừng nhìn tôi! Đây là việc nội bộ của Đường khẩu, tôi quyết không tham dự vào đâu."
Tam Bá đầu nói: "Tổ Gia, thực ra con đã nhắm được một người. Con xin tiến cử Phàn Nhất Phi, thuộc hạ của lão Lục."
Phàn Nhất Phi mà Tam Bá đầu nói là trợ thủ đắc lực của Phong Tử Thủ, gia nhập Đường khẩu năm 1942, biệt hiệu "Tiểu Thời Thiên", ý nói hắn ta giống như vị anh hùng hảo hán Thời Thiên ở Lương Sơn, nhanh nhẹn hơn người, khinh công vô địch.
Tổ Gia nghe xong liền đập bàn: "Tốt lắm! Thật đúng với ý ta!"
Nhị Bá đầu miệng nhồm nhoàm đầy thịt, sững sờ nhìn Tổ Gia: "Tổ Gia... Phải suy xét thận trọng mới được."
Tổ Gia xua tay: "Đường khẩu không thể một ngày thiếu Bá đầu. Mấy ngày qua ta luôn nghĩ đến người này, không ngờ lại trùng hợp với ý của lão Tam. Cứ quyết định như vậy đi, ngày mai Đường hội sẽ quyết định việc này!"
Tam Bá đầu vội nói: "Tổ Gia thật sáng suốt!"
Ngày hôm sau, gần một trăm huynh đệ có mặt tại Đường khẩu. Trong tiếng hò reo chúc mừng, Tiểu Thời Thiên ngồi vào vị trí thứ sáu.
Buổi tối hôm đó vẫn thực lộc, tôi vẫn chỉ ăn một món theo đúng lời dặn của Tổ Gia, ăn một lát thì tôi kinh ngạc phát hiện ra một điều. Hóa ra tất cả mọi người trên bàn tiệc đều chỉ ăn một món. Sao lại thế nhỉ?
Lúc ăn gần xong, Tổ Gia nhìn mọi người nói: "Mấy hôm nay vất vả quá rồi, cái chết của Lục Tử khiến ta vô cùng đau lòng. Đại Đầu, ngươi xem kiếm vài tấm vé để hai hôm tới mọi người cùng đi xem kịch nhé."
Đại Bá đầu và Nhị Bá đầu đồng thanh nói: "Hay quá! Con chưa bao giờ được nghe kịch Quảng Đông."
Ngày hôm sau, tôi đi kiếm mấy chục tấm vé, Tổ Gia nhìn qua nói: "Tốt lắm! Hãy thông báo cho các vị Bá đầu! Ngày mai tất cả chúng ta cùng đi xem kịch."
Tối hôm đó như thường lệ tôi vẫn pha trà cho Tổ Gia.
Tổ Gia ngồi trên ghế xoay, vừa thưởng trà vừa nói: "Đại Đầu, con theo ta được bao lâu rồi?"
Tôi nhẩm tính lại: "Tổ Gia, được một năm ba tháng ạ!"
Tổ Gia thở dài: "Chà! Thời gian trôi qua nhanh thật. Đại Đầu, con thấy Tổ Gia là người như thế nào?"
Tôi không biết Tổ Gia hỏi câu này là có ý gì. Quả thực trong lòng tôi rất ngưỡng mộ Tổ Gia. Cùng là đàn ông nhưng sao ông lại giỏi như vậy, vừa có trí tuệ, lại có nhiều thủ đoạn, nhìn lại mình, tướng mạo vừa xấu xí, lại đần độn dốt nát, không biết bao nhiêu lần tôi thề rằng kiếp sau phải thay đổi, nhất định phải trở thành người giống như Tổ Gia. Trong lòng tuy rất bùi ngùi, nhưng khổ nỗi không khéo ăn khéo nói, không biết dùng lời hoa mỹ, rốt cuộc chỉ nói được mỗi câu: "Tổ Gia, người rất lợi hại."
Tổ Gia hỏi: "Lợi hại như thế nào?"
Tôi nói: "Mặt nào cũng lợi hại."
Tổ Gia cười sảng khoái một hồi rồi nói: "Đại Đầu, con còn nhớ không? Ban đầu khi thu nạp con, ta từng hỏi đã bao giờ con nghĩ rằng có ngày mình cũng làm lão gia không."
Tôi nói: "Dạ có, lúc đó con nói phận con thấp hèn, không thể làm lão gia được. Lúc đó sư phụ đã mắng con một trận."
Tổ Gia nói: "Đúng vậy! Hãy chuẩn bị tinh thần làm lão gia đi! Con sắp được trở thành lão gia rồi đấy."
Suýt chút nữa tôi làm rơi ấm trà xuống đất: "Ấy chết... Tổ Gia..."
Bỗng nhiên có tiếng gõ cửa rất gấp, Tổ Gia ngẩng đầu, ánh mắt sắc lạnh, khiến tôi run bắn người. Tôi buột miệng hỏi: "Ai gõ cửa vậy?"
THỰC ĐƠN GIẾT NGƯỜI BÍ TRUYỀN TRONG CUNG NHÀ THANH
Tổ Gia không lên tiếng, liền quay sang nói với quản gia: "Mở cửa!"
Quản gia vâng mệnh cầm đèn ra mở cửa.
Tôi không biết đã xảy ra chuyện gì, chỉ sững người nhìn Tổ Gia rồi lại ngó ra sân. Bỗng nhiên có vài tiếng hô hoán, có rất nhiều người từ trên mái nhà nhảy xuống, nhìn kỹ thì ra là Đại Bá đầu. Còn có rất nhiều thuộc hạ có võ nghệ cao cường của Đường khẩu, người nào cũng cầm một hộp pháo.
Tôi biết trong Đường khẩu có mấy chục hộp pháo, bình thường đều để trong phủ của Tổ Gia. Khi nào có nhiệm vụ đặc biệt mới đem ra cấp cho những người cần sử dụng, sau khi làm xong nhiệm vụ thì lại cất vào trong kho. Mặt khác Tổ Gia không cho phép bất cứ Bá đầu và thuộc hạ nào tự ý mang theo súng. Lần này có nhiều người mang theo súng ống, tôi nghĩ ngay: Đường khẩu sắp xảy ra chuyện lớn rồi.
Tổ Gia xua tay, Đại Bá đầu nhanh chóng nấp vào trong bức bình phong sau lưng Tổ Gia, đám thuộc hạ còn lại cũng nấp vào trong bóng tối. Đại Bá đầu thò đầu ra khẽ nói: "Tổ Gia, bên trên còn có 20 huynh đệ, bên chỗ Nhị Bá đầu cũng đã sẵn sàng rồi, bên ngoài Yến nương (Giang Phi Yến) đã bố trí đâu vào đấy. Các lối đi quan trọng đều là huynh đệ của chúng ta."
Tổ Gia gật gật đầu.
Một lúc sau, quản gia dẫn một người đi vào, tôi đưa mắt nhìn thì nhận ra là Thất Bá đầu Vương Gia Hiền.
Sau khi bước vào phòng, Thất Bá đầu chẳng nói chẳng rằng, mà quỳ sụp xuống: "Tổ Gia! Tiểu nhân tới để nhận tội." Sau đó, dập đầu lia lịa: "Tổ Gia, con biết con sai rồi. Xin Tổ Gia tha mạng!"
Tổ Gia nhìn anh ta rồi lạnh lùng nói: "Nói đi!"
Thất Bá đầu vừa khóc vừa nói, tôi đứng bên nghe mà sởn gai ốc. Đúng là một âm mưu rất lớn.
Hóa ra tên cáo già Tiền Diệu Lâm từ lâu đã cấu kết với Tần Bách Xuyên của Tây phái, từ lâu bọn chúng đã lên kế hoạch trừ khử Tổ Gia.
Tổ Gia là nhân vật trí dũng kiệt xuất, ai cũng nhận thấy điều đó. 21 tuổi nắm quyền cai quản Mộc Tử Liên. Ban đầu khi tiếp quản Đường khẩu từ tay Trương Đan Thành, tính cả lớn bé mới chỉ có hai mươi mấy người, vốn liếng cực kỳ ít ỏi, lại thiếu nhân tài. Nhưng hai mươi mấy năm sau Tổ Gia đã phát triển quân số của Đường khẩu lên tới hàng trăm người, tiền bạc kiếm được phải tính đến hàng trăm vạn.
Mấy năm qua, Tứ đại Đường khẩu về cơ bản không phân cao thấp, thực lực ngang nhau, các bên chế ước lẫn nhau, không ai có thể uy hiếp được ai. Vậy mà đến thời Dân quốc, khi Tổ Gia xuất hiện, Mộc Tử Liên dưới sự quản lý của ông phát triển mạnh mẽ, tỏ rõ ưu thế vượt trội, điều này lập tức phá vỡ thế cân bằng của Tứ đại Đường khẩu. Đó là điều đại kỵ.
Chẳng phải Tổ Gia không hiểu rõ đạo lý này. Những năm qua, mặc dù thực lực của Đường khẩu không ngừng lớn mạnh, nhưng ông vẫn không hề tỏ ra lấn lướt, luôn cung kính với các vị Đại Sư bá. Mãi đến sau năm 1945, khi ông nắm vững hoàn tòa thực lực của mình, mới bắt đầu đánh trận công tâm. Mấy năm gần đây, ông không ngừng chi tiền bạc để mua chuộc lòng người của các Đường khẩu khác, bề ngoài coi đó là điều tốt, các vị Sư bá cũng vô cùng biết ơn. Nhưng thực tế ngoài Giang Phi Yến thì Chưởng môn của hai Đường khẩu còn lại luôn tỏ ra kiêng dè, lòng người đều bị Tổ Gia mua chuộc hết, vậy thì có còn gì nữa đâu. Hơn nữa, vào năm 1943, khi Tứ đại Đường khẩu bị Cục Quân thống bao vây ở Trùng Khánh, Tổ Gia đã dồn ép Tần Bách Xuyên lên giàn thiêu, không màng đến sự sống chết của ông ta, khiến ông ta oán hận trong lòng.
Mặt khác, từ khi chiến tranh nổ ra, ở phương Bắc, Tiền Diệu Lâm ngày càng khó làm ăn. Sau khi tiếng súng của cuộc Chiến tranh giải phóng vang lên, về căn bản lão ta không thể tiếp tục hành nghề được nữa, luôn muốn dời xuống phía nam, nhưng lại sợ xảy ra xung đột với Đường khẩu của Tổ Gia, thực rã lão ta đã mấy lần lén xuống phía Nam tranh giành cơ hội làm ăn, Tổ Gia biết chuyện nhưng vì đại cục nên chưa bao giờ truy cứu. Về sau Tiền Diệu Lâm lại dẫn một nhóm A Bảo chạy tới Nam Việt, với ý đồ định chiếm bốn tỉnh Nam Bộ, nhưng bị Giang Phi Yến phản đòn, trong lòng lão ta vô cùng tức tối. Giang Hoài là vùng đất trù phú, Nam Việt lại ít chiến tranh, ai cũng biết đó là hai vùng đất béo bở, Tiền Diệu Lâm vô cùng thèm thuồng, nên nóng lòng muốn độc chiếm. Nhưng thực lực của Tổ Gia với Giang Phi Yến đều rất mạnh, lão ta không có cách nào chiếm ngay được, lại càng không muốn hạ mình xin nương nhờ. Vì thế lập mưu câu kết với Tần Bách Xuyên.
Thực ra đó là biểu hiện của sự hèn kém, chúng ngầm toan tính rằng nếu không liên kết lại để đối phó Tổ Gia, chỉ e vài năm nữa, e rằng phái Giang Tướng sẽ quy về một mối dưới trướng của Tổ Gia.
Tần Bách Xuyên bàn với Tiền Diệu Lâm, bằng bất cứ giá nào cũng phải triệt hạ Tổ Gia. Triệt hạ Tổ Gia rồi, Giang Phi Yến càng dễ giải quyết, đến lúc đó sẽ phân chia lại phạm vi thế lực, Tần Bách Xuyên vẫn nắm giữ Tây phái, sau đó thôn tính bốn tỉnh phía Nam về tay của mình. Còn Tiền Diệu Lâm quản lý Đông phái, nắm giữ tất cả địa bàn của Tổ Gia. Hai tên này còn bàn tính với nhau rằng, sẽ phân chia các nữ A Bảo của Giang Phi Yến. Giang Phi Yến đồng ý thì thôi, bằng không sẽ trừ khử.
Cuối cùng hai người chúng quyết định để Tiền Diệu Lâm giả vờ đến nhờ cậy Tổ Gia. Chỉ có tiếp cận với Tổ Gia, mới có thể nắm rõ được nội tình Đường khẩu của ông, xem liệu có thể xúi giục được vài tên Bá đầu hay không, để trong ngoài phối hợp, loại bỏ hoàn toàn Đông phái.
Từ ngày Tiền Diệu Lâm tới Đường khẩu, Tổ Gia đã sinh nghi. Tổ Gia vốn là người thích "đấu cờ", nếu trực tiếp giết phăng Tiền Diệu Lâm thì chẳng còn gì là thú vị cả. Thế nên ông quyết định bày ra một bàn cờ lớn, cố tình để Tiền Diệu Lâm tham gia vào Đường hội, được bàn luận về những việc trọng đại của Đường khẩu. Tục ngữ có câu Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào, Tổ Gia muốn xem lão ta tài giỏi đến chừng nào, biết mình biết người mới có thể bách chiến bách thắng. Điều quan trọng hơn là Tổ Gia muốn mượn tay Tiền Diệu Lâm lôi ra những phần tử chống đối trong Đường khẩu ra ánh sáng. Tổ Gia biết rằng, mặc dù bình thường các Bá đầu đều có chút kiêng nể ông, tuy phái Giang Tướng là một đám ô hợp, đều là những cao thủ về mặt trí tuệ, nhưng lại là cặn bã về mặt đạo đức, bụng dạ nham hiểm, thủ đoạn tàn độc. Tổ Gia không bao giờ quên chuyện năm xưa các Bá đầu dưới quyền của Trương Đan Thành tạo phản. Cho nên từ ngày kế nhiệm, ông luôn đề phòng tất cả các Bá đầu.
Tổ Gia không muốn các Bá đầu đoàn kết, cố tình để họ đấu đá, càng đấu đá quyết liệt bao nhiêu thì mình càng an toàn bấy nhiêu. Sau khi cuộc chiến tranh giải phóng bùng nổ, tình hình của Đường khẩu ngày càng trở nên căng thẳng, cơ sở kinh tế quyết định kiến trúc thượng tầng, vì thiếu tiền nên Đường khẩu không được ổn định. Đặc biệt là việc Tổ Gia đem tiền cho các Đường khẩu khác đã nhiều lần vấp phải sự phản đối thẳng thừng của Tam Bá đầu và Ngũ Bá đầu. Từ mùa xuân năm 1949, Tam Bá đầu từng đề nghị Tổ Gia di chuyển xuống phía Nam. Phía Nam mà hắn nói không phải là về hình thức, mà là chiếm lấy địa bàn của Giang Phi Yến nhưng Tổ Gia không đồng ý. Lần khác hắn ta lại kiến nghị tiến quân về phía Tây Nam thôn tính mấy tỉnh của Tần Bách Xuyên.
Thực ra cách nghĩ của Tam Bá đầu không sai, nhưng vấn đề là ở chỗ hắn ta không hành động nhịp nhàng với Tổ Gia. Hắn ta đi quá nhanh, mà đi như vậy sẽ làm xáo trộn ván cờ của Tổ Gia.
Tổ Gia biết Tam Bá đầu, Ngũ Bá đầu và Thất Bá đầu từ lâu đã thông đồng với nhau. Ba tên này khác hẳn với Đại Bá đầu và Nhị Bá đầu, đều là những phần tử có học thức, giỏi về định kế hoạch. Tổ Gia muốn nhân cơ hội Tiền Diệu Lâm tới Đường khẩu để xem ba người này rốt cuộc có thể làm phản đến mức độ nào.
Cuối cùng ba người này đã không vượt qua được sự thử thách. Đúng như Tổ Gia dự liệu, họ đã bị xúi giục tạo phản. Kẻ cầm đầu chính là Tam Bá đầu.
Từ khi đi theo Tổ Gia, Tam Bá đầu đã luôn có dã tâm. Hắn cho rằng trí tuệ của mình không hề thua kém Tổ Gia. Sau khi Tổ Gia thoái vị, Đường khẩu chắc chắn sẽ do hắn tiếp quản. Trong mắt hắn, Đại Bá đầu hữu dũng vô mưu, Nhị Bá đầu nửa người nửa quỷ, Tứ Bá đầu chỉ là một con mọt sách. Ngũ Bá đầu với hắn cùng ngồi chung một thuyền. Ngoài hắn ra, không ai có thể thay thế Tổ Gia.
Điều khiến hắn ta không thể ngờ tới là, vào năm 1935, Tổ Gia bỗng dẫn về một cậu bé 14 tuổi từ chỗ Vương Á Tiều. Tên Tiểu Lục Tử này dần trưởng thành dưới sự dìu dắt của Tổ Gia, nó ngày càng tỏ rõ ưu thế, thông minh hơn người, vừa can đảm lại có cơ mưu, võ nghệ cao cường, lại còn xuất thân từ Phủ Đầu bang, quan hệ rộng rãi với thế lực của cả hai giới Hắc-Bạch. Thế này thì phiền toái rồi đây, đối thủ cạnh tranh ngôi vị của hắn ta đã xuất hiện. Thế là hắn ta vừa tìm cách chia rẽ mối quan hệ giữa các Bá đầu khác, vừa ra sức củng cố thế lực của mình, tiến cử Vương Gia Hiền làm Thất Bá đầu chính là một nước cờ của hắn.
Từng có một dạo Tam Bá đầu định "bay một mình", nhưng Tổ Gia đã nhận ra điều đó. Vì lợi ích chung của Đường khẩu, ông đã nói bóng gió mấy lần nên hắn ta không dám lên tiếng.
Tam Bá đầu còn rất tham lam, hắn luôn có ý kiến với chế độ "ăn hoa hồng" của Đường khẩu và đã từng nhiều lần kiến nghị Tổ Gia. Đương nhiên là mượn cớ ổn định lòng người trong Đường khẩu, nhưng Tổ Gia không đồng ý.
Sau cuộc Chiến tranh giải phóng bùng nổ, công việc làm ăn của các Đường khẩu lớn ngày càng đi xuống, các A Bảo trong cả nước đều nháo nhác, mọi người đều không biết tình hình sẽ tiến triển theo chiều hướng nào, số phận của mình sẽ đi về đâu. Tam Bá đầu nhiều lần thăm dò ý tứ của Tổ Gia, nhưng Tổ Gia lại không để lộ một chút gì cả.
Chính trong thời khắc quan trọng này thì Tiền Diệu Lâm xuất hiện, dốc hết "lời gan ruột" với Tam Bá đầu, ông ta nói: "Bây giờ chính là thời điểm tốt nhất để tạo lên một trật tự khác cho phái Giang Tướng, không thể để một người nắm giữ mãi được."
Tiền Diệu Lâm hứa sau khi xong việc sẽ chia mấy tỉnh cho Tam Bá đầu, để Tam Bá đầu tự đứng ra cầm trịch, xưng bá một phương. Điều này vừa hay đúng ý của Tam Bá đầu đã ấp ủ suốt bao năm qua, đến nằm mơ cũng luôn mơ thấy mình được làm Đại Sư bá.
Thế là hai bọn chúng ngấm ngầm cấu kết với Tần Bách Xuyên, lên kế hoạch để trong ngoài phối hợp. Chúng tính toán rằng muốn trừ khử Tổ Gia, trước tiên phải tiêu diệt Lục Bá đầu Phong Tử Thủ, đó là hộ vệ sát sườn của Tổ Gia, trí dũng song toàn, là chướng ngại vật lớn nhất. Chỉ cần khử được anh ta thì các Bá đầu khác đều không đáng lo.
Vậy phải làm thế nào? Đánh trực tiếp thì không thể đánh lại anh ta, mà ám sát lại càng không được, cho dù là hạ độc hay bắn chết thì cũng chẳng khác gì việc trực tiếp nói với Tổ Gia rằng có người muốn làm phản. Trong thời khắc quan trọng này, tên cáo già Tiền Diệu Lâm lại phát huy vai trò, lão ta moi ra một thực đơn. Đó là Thực đơn giết người bí truyền mà năm xưa khi hành nghề lừa đảo tại Trực Lệ ở miền Bắc hắn ta đã lấy được từ tay một lão thái giám trong cung.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top