Chương 4: (Tiếp)
THẦY TƯỚNG SỐ DÀN CỤC MỸ NHÂN
Theo như kế hoạch, Hoa Nguyệt Dung sẽ phải giới thiệu Từ Hoài Cận với Tổ Gia vào "ngày giỗ cha" mình. Sau mấy ngày gần gũi, Từ Hoài Cận và Hoa Nguyệt Dung đã nói với nhau đủ thứ chuyện. Hoa Nguyệt Dung đã khéo léo "qua mặt" Từ Hoài Cận về việc mình vẫn còn là cô gái trinh nguyên.
Trước khi giới thiệu, Hoa Nguyệt Dung lại một lần nữa căn dặn Từ Hoài Cận: "Tuyệt đối không được nói mình là quan quân, vì mẹ con thiếp chỉ là những người dân thấp cổ bé họng, không thể có cơ hội tiếp xúc với quan chức trong Cục Quân thống. Nếu để vị tiên sinh kia biết tiểu nữ là gái lầu xanh, chuyện đến tai mẫu thân, chắc chắn sẽ khiến mẫu thân đau lòng chết mất. Tiểu nữ vẫn giấu mẫu thân là đang làm công cho một tiệm cơm, vì phải rửa bát đũa nên phải làm việc cả ban đêm."
Từ Hoài Cận gật đầu nói: "Ta sẽ nói mình là một thương nhân, là một người bạn của cha nàng trước đây vậy."
Đây kỳ thực chỉ là một chiêu trò giương Đông kích Tây mà thôi. Để cho Từ Hoài Cận giấu đi thân phận của mình, rồi lại để Tổ Gia vạch trần thân phận của hắn ta, như vậy mới chứng tỏ Tổ Gia đạo hạnh cao thâm đến mức nào. Trông thì có vẻ Hoa Nguyệt Dung đưa ra kế sách này để che đậy cho thân phận của mình, nhưng kỳ thực lại là chiêu nhằm giảm bớt sự đề phòng, cảnh giác của Từ Hoài cận.
Từ Hoài Cận lấy thân phận là một thương nhân buôn trà, mặc một chiếc áo dài thay cho bộ quân phục đến gặp Tổ Gia tại một tửu lầu.
Vừa ngồi xuống, ông ta nói rất khiêm tốn: "Từ lâu đã ngưỡng mộ danh tiếng của tiên sinh, nay mới được gặp mặt. Tiên sinh quả đúng là có phong thái tiên phong đạo cốt, danh bất hư truyền."
Tổ Gia cười khà khà: "Các hạ quá khen rồi, tôi cũng chỉ là dân đen bình thường, chỉ cốt sao được sống cho qua ngày đoạn tháng trong cái thời buổi loạn lạc này, đâu thể nói đến đại danh gì."
Từ Hoài Cận cười nói: "Tiên sinh quá khiêm tốn rồi, hôm nay may có Hoa cô nương đây giới thiệu, nếu không chẳng biết bao giờ mới có duyên gặp được tiên sinh." Nói đoạn, ông ta đưa cho Tổ Gia một tờ giấy: "Đây là Bát tự của bỉ nhân, phiền tiên sinh xem giúp cho."
Tổ Gia đón lấy tờ giấy, xem lướt qua, trầm ngâm một lát rồi đột nhiên phán: "Các hạ, có hiểu Tam cương Ngũ thường là gì không?"
Câu hỏi đột ngột khiến cho Từ Hoài Cận bối rối, lắp bắp nói: "Tiên sinh... tiên sinh nói vậy là có ý gì?"
Tổ Gia nói: "Tam cương là quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vi thê cương. Ngũ thường là chỉ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Các hạ không có chút tín nào cả, vậy thì chúng ta còn gì để nói nữa đây?"
Từ Hoài Cận giật mình: "Sao tiên sinh lại nói vậy?"
Tổ Gia cười: "Nguyệt nhi nói với ta các hạ là thương nhân buôn bán trà, ta xem Bát tự của các hạ, hoàn toàn không phải là phường lái buôn, người đi buôn thì chẳng thể có Bát tự thế này."
Từ Hoài Cận bắt đầu toát mồ hồi, hỏi: "Việc này... Vậy với Bát tự của tôi, tiên sinh cho rằng tôi làm nghề gì?"
Tổ Gia nói: "Bát tự của các hạ vô cùng khác thường, Tam Kỳ củng chiếu(1), Quan tinh, Sát tinh hợp thân, ra trận thì làm tướng quân, vào triều làm tể tướng là Bát tự của người làm quan."
(1) Trong Kỳ môn Độn giáp, Tam kỳ chỉ ba thiên can Ất, Bính, Đinh. Trong Lục Nhâm chỉ ba Địa chi Tý, Hợi, Sửu.
Chiêu này chính là trong Thiên có Đả, Thiên Long song hành, một chiêu xuất ra hiệu quả đắc kỳ.
Từ Hoài Cận không sao che giấu được niềm vui sướng trong lòng, buột miệng hỏi: "Xin hỏi tiên sinh, tôi có thể giữ đến chức vụ nào? Hiện giờ đang là thời khắc mấu chốt để được thăng chức, không biết liệu có đánh bại được đối thủ hay không, xin tiên sinh chỉ cho."
Tổ Gia cười: "Một thương nhân buôn trà, làm sao mà có cơ hội thăng quan tiến chức kia chứ?"
Từ Hoài Cận thẹn đỏ mặt: "Mong tiên sinh bỏ quá cho. Quả thực bỉ nhân không phải thương nhân buôn trà, mà giữ một chức vụ trong chính phủ. Mấy ngày trước may gặp được Hoa cô nương tại chốn thanh lâu, nàng ấy cũng vì cuộc sống mà phải sa chân vào nơi đó. Tôi và nàng vừa gặp mặt đã biết là có duyên phận, nên mới có cơ hội gặp được tiên sinh, nàng ấy sợ tiên sinh biết chuyện của mình và sẽ cho mẫu thân nàng hay, nên mới phải dùng đến hạ sách này thôi."
Tổ Gia chỉ đành lắc đầu: "Biến cố của nhà họ Hoa, ta đã sớm dự liệu trước. Năm xưa ta đã nhắc nhở cha của cô nương ấy, nhưng ông ấy không nghe...."
Từ Hoài Cận cúi đầu ngẫm nghĩ một lát, nói: "Hầy dà! Mỗi người đều có một số mệnh, tiên sinh không cần phải tự trách mình. Kỳ thực, bỉ nhân có biết đôi chút về Tứ trụ và Tướng thuật, không biết tiên sinh có cao kiến gì về thuật số Trung Hoa."
Tổ Gia vừa nghe, hiểu ngay ẩn ý trong câu nói của ông ta, vì thế ông cười nói: "Chu dịch lấy trời đất làm chuẩn mực, nó bao trùm mọi quy luật trong trời đất. Học Chu dịch phải giữ cho lý trí sáng suốt, nếu lý trí u tối, càng học nhiều, càng rối rắm."
Từ Hoài Cận nói: "Tiên sinh nói rất đúng. Bỉ nhân có vài vấn đề không được rõ cho lắm, mặc dù đã suy ngẫm rất nhiều ngày mà vẫn chưa thể lý giải được. Mong tiên sinh tận tình chỉ giáo cho!"
Tổ Gia nói: "Xin cứ nói!"
Từ Hoài Cận nói: "Trước tiên là vấn đề xem tướng mặt. Sách xưa thường nói 'Thiên đình đầy đặn, Địa các tròn trịa(2)' là tướng có phúc. Nhưng tôi thấy bao kẻ tầm thường ngoài đường, có Thiên đình và Địa các tròn đầy, vậy tại sao vẫn chỉ là đám dân đen hạ tiện? Lại như trong sách xem tướng thường nói, muốn xem tài vận thì phải quan sát mũi, nếu sống mũi cao, đầy đặn, sắc trạch sáng nhuận, là mệnh đại phú quý, tôi vẫn thường thấy đám phu xe bán sức lao động ngoài đầu đường, trên bến tàu, nhiều kẻ cũng có tướng mũi to đẹp, nhưng vẫn phải làm việc quần quật mà vẫn không đủ ăn, như vậy thì phải giải thích thế nào đây?"
(2) Thiên đình là vị trí chính giữa trán. Địa các là vị trí giữa cằm.
Tổ Gia cười khà khà nói: "Các hạ lầm rồi! Nếu chỉ có lối suy nghĩ như vậy, e rằng... sau này sẽ làm trò cười cho thiên hạ. Thuật xem tướng chung quy được gói gọn trong phép Ngũ hành, Ngũ hành gồm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Thiên đình Địa các, Tam đình Ngũ nhạc(3) chẳng qua chỉ là cách miêu tả rất hình tượng các vị trí bộ vị Ngũ hành. Ngũ hành quý ở sự cân bằng, chỉ xem một bộ vị thì không thể luận được các hung họa phúc, phải kết hợp xem cả ngũ quan thì mới đúng đắn. Chu Nguyên Chương mặt ngựa môi lừa, nếu chỉ nhìn vào từng bộ phận thì dữ tợn, xấu xí không ai sánh bằng, nhưng kết hợp xem cả ngũ quan, thì đúng là tàng phong tụ khí, Ngũ hành thông thuận, hài hòa, vì thế mới có thể thống nhất nghiệp bá, lên ngôi cửu ngũ chí tôn, đứng đầu thiên hạ. Tương tự, nếu chỉ xem tướng mũi của một người, mà không kết hợp phân tích các bộ vị khác, sẽ không thể nào phán đoán chính xác tài vận cát hung. Huống hồ, trên mũi còn chia thành bốn bộ phận từ trên xuống dưới gọi là Sơn căn, Niên thượng, Thọ thượng, Chuẩn đầu. Nếu chỉ thấy mũi cao, đầy đặn, mà không phân biệt cong thẳng, sắc trạch, thì sao có thể luận đoán chính xác? Lúc này, người học Dịch quý ở sự hài hòa. Trương Lương đã biết cắt bỏ những thứ đáng bỏ đi trong cuốn Binh pháp Thái Công để hoàn chỉnh cuốn Kỳ môn Độn giáp. Từ Tử Bình đã bổ sung thêm cái còn thiếu trong Tam trụ của Lý Hư Trung tạo nên Tứ trụ, Thiệu Ung đã phá vỡ trật tự Bát quái mà phát triển thành Hoàng cực kinh thế, người học Dịch không am hiểu về quy luật âm dương, không hiểu biết về quy luật biện chứng, chỉ là kẻ tầm thường mà thôi."
(3) Tam đình tức Thượng đình (từ mép tóc đến lông mày); Trung đình (từ đầu lông mày đến chóp mũi); Hạ đình (từ chóp mũi đến cằm). Ngũ nhạc tức Trung nhạc Tung Sơn (mũi); Nam nhạc Hoành Sơn (trán); Bắc nhạc Hành Sơn (Địa các); Đông nhạc Thái Sơn ( gò má trái); Tây nhạc Hoa Sơn (gò má phải).
Lúc này, Tổ Gia đang Đả, ông áp dụng chiêu thức cấp Đả mạn Thiên, Tổ Gia đã nắm bắt ngay được những chỗ còn thiếu sót trong mớ kiến thức về Kinh dịch của ông ta, nên cứ việc thao thao bất tuyệt, lý lẽ cặn kẽ, thấu triệt. Đả cho Từ Hoài Cận phải phục sát đất.
Đây chính là bản lĩnh thực sự của Tổ Gia. A Bảo gồm thành hai loại người, một loại hoàn toàn chỉ đi lừa đảo, một loại có chút bản lĩnh thực sự. Nhưng A Bảo không học Chu dịch đến nơi đến chốn, cách cái chết chỉ một bước chân. Bản lĩnh thật sự học được ở đâu? Một là do các vị nguyên lão ở Đường khẩu truyền lại từ đời này sang đời khác, hai là học hỏi cao nhân trong dân gian. Tổ Gia từ khi còn nhỏ đã kế thừa một chút kiến thức về Chu dịch từ Trương Đan Thành, về sau lại thường xuyên lui tới học hỏi các vị hiền tài, từ đó dần thông hiểu đạo lý, thu được không ít kiến thức.
Tổ Gia từng dạy chúng tôi: Chu dịch là nền móng sinh ra mọi thuật tướng số, điều then chốt là ở sự biến hóa.
Giống như thuật xem tướng mặt, xem tay, người bình thường chỉ biết "người này có cái mũi rất đẹp, vừa cao vừa thẳng", "người kia có đôi mắt phượng", "người này tay đẹp, nuột nà", mà không biết rằng thuật xem tướng là phải xem Ngũ hành hài hòa, hình thần kiêm bị hay không.
Ngũ hành hài hòa là thế nào? Tổ Gia từng giải thích cho chúng tôi nghe: Các cơ quan trong cơ thể người đều tương xứng với Ngũ hành . Mắt thuộc Hỏa. Tai, miệng thuộc Thủy, lưỡng quyền (gò má) thuộc Kim, mũi thuộc Thổ, còn đầu, lông mày và tóc đều thuộc Mộc. Trong Ngũ hành có tương sinh tương khắc, bất cứ một bộ phận nào quá to hoặc quá bé đều có thể làm mất cân bằng Ngũ hành trong cơ thể. Ví dụ, nếu mũi quá to, lưỡng quyền thấp bé, cằm lại nhỏ, nhìn tổng thể trên cả khuôn mặt, rõ ràng chiếc mũi đó quá "đập vào mắt". Mà mũi thuộc Thổ, Thổ nhiều thì Kim bị vùi lấp, Kim suy thì Thủy cũng chẳng thể vượng được (Kim sinh Thủy). Chiếc mũi giống như Thái Sơn, áp đảo lưỡng quyền, nuốt mất đường Pháp lệnh(4) và cằm, bị coi là tướng cực xấu. Bởi vậy muốn phán đoán tướng hung cát của một người, không phải chỉ căn cứ vào một bộ phận nào đó trông đẹp hay xấu, mà phải xem toàn bộ các bộ phận trên khuôn mặt có hài hòa với nhau hay không, tức Ngũ hành phải cân bằng. Xem tay cũng tương tự như vậy, tướng tay tốt hay xấu không chỉ căn cứ vào mấy đường chỉ tay cơ bản. Đường chỉ tay tất nhiên rất quan trọng, như đường sinh mệnh phải dài, đường tình cảm phải ổn định, đường trí tuệ phải rõ nét. Nhưng cần phải xem xét đến toàn bộ hình dáng, độ dày, độ mềm mượt của bàn tay. Tướng tay được phân làm năm loại: tướng tay hình Kim, hình Mộc, hình Thủy, hình Hỏa và hình Thổ. Trong lòng bàn tay lại có trận đồ bát quái, chia thành tám cung vị là Càn, Khôn, Chấn, Ly, Đoài, Tốn, Khảm, Cấn. Cung vị phải tương xứng với hình dáng bàn tay, không bị tương xung tương khắc, đường chỉ tay phải hài hòa với cung vị, không được tương hình tương hại. Bởi vậy, xem tướng tay lấy Bát quái làm chủ. Đường chỉ, màu sắc bàn tay là phụ. Xem tướng tay, đầu tiên phải quan sát hình tướng bàn tay, rồi xem đến đường chỉ tay, Ngũ hành cân bằng, mới có thể luận đoán được ý đồ của tạo hóa.
(4) Tức hai đường chạy từ cánh mũi xuống đến khóe miệng.
Hình thần kiêm bị là gì? Thuật tướng số Trung Hoa bắt nguồn từ thời Tiên Tần, phát triển vào thời Tần Hán. Nhà nữ tướng số đầu tiên của Trung Quốc tên là Hứa Phụ đã đề xuất ra khái niệm hình thần cộng tham. Hình chính là vẻ bề ngoài, bao gồm: tướng mặt, tướng tay, tướng xương cốt, nốt ruồi... Thần là khí chất, là trường khí toát ra bên ngoài của một người, cũng chính là diện mạo thần thái của người đó. Người xưa đã nói: "Bề ngoài dễ đoán, thần khí khó định," Tổ Gia từng nói: "Một vị cao nhân thật sự, chỉ cần anh đi qua họ, về căn bản họ không cần xem tướng mặt, tướng tay, nhưng họa phúc, thọ yếu của anh họ biết rõ như lòng bàn tay. Nhất cử nhất động, đi đứng nằm ngồi của một người cũng đều hiển lộ ra điềm cát hung. Nghe nói năm xưa Lý Hồng Chương đã dẫn theo ba người đến phủ của Tăng Quốc Phiên đang đi dạo trong sân, ba người kia đứng đó, còn chưa kịp nói gì, Tăng Quốc Phiên chỉ đưa mắt nhìn một cái, rồi nói với Lý Hồng Chương: 'Người đứng bên trái có thể tạm dùng được, người đứng giữa không thể dùng được, người đứng bên phải có thể trọng dụng.' Tăng Quốc Phiên chỉ nhìn qua dáng đứng và ánh mắt của họ, đã có thể đưa ra nhận định của mình. Về sau, lịch sử đã chứng minh cho lời luận đoán của Tăng Quốc Phiên, người đứng bên phải về sau đã trở thành vị Tuần phủ đầu tiên, tiếng tăm lừng lẫy Đài Loan, đó chính là Lưu Minh Truyền. Trước khi Tăng Quốc Phiên chết, ông ta đã để lại cuốn sách dạy xem tướng số Băng Giám do chính ông nghiên cứu và chỉnh lý." Đó cũng chính là tài liệu mà hiện nay bọn Từ Hoài Cận đang học theo.
Đứng trước Tổ Gia, Từ Hoài Cận chỉ là một chú chim non mới rời tổ. Nhưng ông ta vẫn muốn thử bản lĩnh của Tổ Gia, lại hỏi về một vấn đề đầy thách thức trong giới xem tướng: "Thưa tiên sinh, vậy thì theo ngài, đoán mệnh theo Bát tự chính xác tới đâu?"
Tổ Gia nghe xong, mỉm cười nói: "Như vừa rồi ta đã nói. Bát tự suy cho cùng cũng chỉ là tổ hợp Thiên can, Địa chi của giờ, ngày, tháng, năm sinh của một người hợp thành. Mỗi nhóm có hai chữ, tổng cộng là tám chữ, nên được gọi là Bát tự, cũng vì nó được tạo thành từ niên trụ, nguyệt trụ, nhật trụ, thời trụ nên còn gọi là Tứ trụ, đoán mệnh theo Bát tự còn được gọi là đoán mệnh theo Tứ trụ. Ban đầu, Lý Hư Trung đời Đường sáng lập ra phương pháp đoán mệnh theo Tam trụ, tức chỉ xem xét đến ngày, tháng, năm sinh của một người, mà không xem xét đến giờ sinh. Đến thời Tống, Từ Tử Bình đã phát hiện ra những thiếu sót của việc dùng Tam trụ luận đoán số mệnh, ông đã phát triển lên thành Tứ trụ, tức đưa cả giờ sinh của một người vào luận đoán, từ đó, đoán mệnh theo Bát tự cũng được tôn xưng là "Thuật xem tướng Tử Bình". Sở dĩ có bước nhảy vọt mang tính lịch sử này là do Từ Tử Bình thấy có quá nhiều người cùng ngày, tháng, năm sinh, nếu không đưa giờ sinh vào phạm vi luận đoán thì Tam trụ của những người cùng sinh ra vào một ngày sẽ giống nhau hết thảy, số mệnh cũng sẽ giống nhau. Đây rõ ràng là chuyện quá hoang đường. Việc đưa thêm giờ sinh, đã chia nhỏ hơn nữa những người được sinh ra trong cùng một ngày theo 12 canh giờ, giờ sinh khác nhau sẽ có sự khác nhau về mệnh tốt xấu, nhờ sự chia nhỏ này nên kết quả càng chi tiết và chính xác hơn. Nhưng như vậy đã hoàn hảo chưa? Chưa đâu. Những người được sinh ra cùng giờ sinh cũng có rất nhiều, Bát tự của họ cũng y hệt nhau, lẽ nào số mệnh cũng giống nhau ư? Đương nhiên không phải vậy. Theo như thiển ý của ta, nếu có thể lại chi tiết hóa hơn nữa giờ sinh đến từng khắc thì độ chính xác lại tăng thêm một phần, nhưng, như vậy sẽ không còn là đoán mệnh theo Bát tự nữa, mà phải là đoán mệnh theo Thập tự. Đương nhiên, đây chỉ là việc xem xét đến yếu tố thời gian, chứ chưa xem xét đến yếu tố về không gian. Môi trường nơi một người sinh ra cũng có ảnh hưởng rất lớn đến số mệnh. Các hạ thử nghĩ xem, vào đúng giờ khắc này, trên mảnh đất Trung Hoa rộng lớn có biết bao nhiêu con người được sinh ra? Bát tự của những người này giống nhau, nhưng môi trường mà họ được sinh ra khác nhau một trời một vực. Có người được sinh ra tại nơi có khí hậu ẩm ướt như phương Nam, có người được sinh ra tại vùng giá rét khắc nghiệt ở phương Bắc. Địa thế, ánh sáng, nhiệt độ đều khác nhau, thì vận mệnh tất cũng sẽ khác nhau. Bởi vậy, theo ta thấy, Bát tự chỉ là một khái niệm tổng quát, cần phải phối hợp xem Phong thủy với tướng thuật, mới có thể đưa ra kết luận chính xác được."
Sau khi Tổ Gia nói xong, ông yên lặng quan sát. Từ Hoài Cận đã bị khuất phục hoàn toàn, ông ta vội đứng lên, cúi rạp người nói: "Tổ Gia quả là người am hiểu tường tận Dịch lý, thông kim bác cổ. Tại hạ xin bái phục, bái phục!"
Nói xong ông ta trầm ngâm suy nghĩ một lúc, rồi lại cúi đầu nói với Tổ Gia: "Tiên sinh, bỉ nhân có một việc muốn thỉnh giáo, xin tiên sinh chỉ giúp."
Tổ Gia điềm tĩnh nói: "Các hạ cứ nói."
Từ Hoài Cận nói: "Nơi tôi làm việc, sắp cải tổ biên chế. Đây là một cơ hội thăng tiến hiếm có, không biết tiên sinh có thể thi triển đạo pháp, giúp tôi một phen. Tôi nhất định sẽ hậu tạ."
Tổ Gia trầm ngâm suy nghĩ, rồi thở dài.
Từ Hoài Cận thấy vậy vội vàng hỏi: "Sao tiên sinh lại thở dài, lẽ nào trong mệnh cục của tôi có điểm không tốt lành ư? Hay là..."
Tổ Gia nói: "Người học Chu dịch quý ở sự thành khẩn, có như vậy ta mới có thể luận đoán chính xác cho các hạ được."
Từ Hoài Cận nói: "Vâng! Vâng! Tiên sinh có điều gì xin cứ dạy."
Tổ Gia nói: "Năm nay, mệnh của các hạ gặp phải tiểu nhân. Tóm lại là luôn có kẻ làm việc xấu sau lưng ông, khiến ông không thể yên lòng được."
Từ Hoài Cận nói: "Đúng quá! Đều là một lũ lòng lang dạ sói, thường ngày luôn miệng huynh huynh đệ đệ, thế mà lại ngấm ngầm đâm sau lưng. Khốn nạn! Khốn nạn thật!"
Đây đều là những thông tin mà Hoa Nguyệt Dung cung cấp, sau mấy ngày vui vẻ bên nhau, mỗi khi ôm Hoa Nguyệt Dung trong lòng, Từ Hoài Cận thường trút bỏ nỗi bực dọc, chửi bới bọn đồng liêu trong Cục Quân thống rặt một lũ nham hiểm, xảo quyệt. Kỳ thực, cho dù Hoa Nguyệt Dung không cung cấp những thông tin này thì Tổ Gia vẫn có thể lần ra chẳng mấy khó khăn. Bọn người trong Cục Quân thống luôn lục đục, trắng đen hỗn tạp, đấu đá lẫn nhau, đã không còn là chuyện bí mật nữa rồi. Ở đây cái hay chính là ở sự mê muội của người trong cuộc. Từ Hoài Cận thường ngày luôn đề phòng bọn đồng liêu bên cạnh mình, nhưng lại không nghĩ rằng cần phải cảnh giác với cả người ngoài Cục Quân thống.
Tổ Gia nói tiếp: "Các hạ muốn một bước lên mây, thăng quan tiến chức, cần phải làm hai việc. Nếu không, không những không được lên chức, mà còn gặp họa trên chốn quan trường."
Từ Hoài Cận vội vàng hỏi: "Là hai việc gì? Xin Tiên sinh dạy bảo giúp cho!"
Tổ Gia làm ra điệu bộ muốn nói nhưng lại thôi, lắc đầu rồi thở dài đánh thượt một cái, lẩm bẩm tự nói với mình: "Khó đây, khó đây."
Từ Hoài Cận sốt ruột: "Tiên sinh cứ nói đừng ngại, cần phải mất bao nhiêu?"
Tổ Gia cười nhạt: "Đây không phải vấn đề tiền bạc, mà là... Các hạ cũng nghiên cứu về đạo thuật, không biết có từng nghe qua phương pháp lấy âm bổ dương chưa?"
Từ Hoài Cận nghe vậy, mặt đỏ rần nói: "Cái này... cái này tôi đã từng nghe qua, là cách nam nữ giao hoan để đạt được sự cân bằng âm dương, trong Thiên kim yếu phương đã nhắc đến. Tiên sinh nói vậy là có ý gì?"
Tổ Gia nói: "Tinh hoa của phương pháp này nằm ở chỗ rút lấy khí âm Tiên Thiên của một người con gái trinh nguyên, để bổ sung, bù đắp cho dương khí Hậu Thiên ở nam giới, Tứ trụ Bát tự của các hạ thuộc về thuần dương, mà năm nay lại là năm dương khí cường vượng, phàm trong vũ trụ vật cực tắc phản(5). Các hạ cần phải tìm được một người con gái còn trong trắng để cùng giao hoan, âm dương điều hòa, quan vị theo đó tất sẽ được tăng cao. Nhưng, chuyện nam nữ, nhất định phải do đôi bên cùng bằng lòng, các hạ tuyệt đối không được cưỡng cầu, bằng không làm trái đạo trời, chẳng bằn đừng làm còn hơn."
(5) Vạn vật trong vũ trụ khi phát triển cực độ tất sẽ chuyển sang trạng thái suy tàn.
Từ Hoài Cận nghe thấy, mừng như mở cờ trong bụng: "Đúng là trời giúp ta rồi. Nguyệt nhi chính là một trinh nữ." Nhưng, ông ta không nói ra, vẫn ra vẻ đạo mạo, trang nghiêm nói: "Chà chà, tiên sinh nói rất phải, việc này có cưỡng cầu cũng không mang lại kết quả gì, làm sao có thể ích kỷ vì mình mà làm hại đến con gái nhà lành được. Tôi sẽ từ từ tìm kiếm, nếu trời giúp tôi, sớm muộn gì mối lương duyên đó cũng sẽ đến, ngược lại, ý trời không muốn giúp, tôi đây cũng đành chấp nhận." Mặc dù ngoài miệng nói như vậy, nhưng trong lòng vui như hoa nở.
Tổ Gia cười thầm trong bụng vì cái điệu bộ ra vẻ con người có đức hạnh của ông ta. Ông lại bồi thêm: "Ngoài ra, nếu ngày nào đó trời giúp, gặp được một cô nương như vậy, cần phải hết sức lưu ý. Sau cuộc giao hoan đó, trong vòng một năm người phụ nữ kia không được phép lại gần sông nước, nếu không sẽ gặp họa mất mạng chứ chẳng chơi."
Từ Hoài cận giật mình: "Sao lại phải vậy?"
Tổ Gia nói: "Sau khi âm khí Tiên Thiên của người con gái bị hao kiệt, cần có thời gian hồi phục. Ta lấy một sự so sánh hình tượng thế này đây giống như cây mạ non đã nhiều ngày không được tưới tắm, héo rũ dưới ánh nắng gay gắt, thủy khí hao tổn, khát khô đến cùng cực, lúc này cần phải tưới nước, nhưng phải tưới nước từ từ từng ít một, để đất thấm nước dần dần, rễ hút lấy cung cấp cho cả cây. Nếu cứ hất nước thật mạnh, không những không cứu được cây mà ngược lại còn khiến cho ngập úng mà chết. Trong vạn vật thuộc âm, thủy là đại kỵ, vậy nên sau khi giao hoan, người phụ nữ phải tránh xa sông nước, nếu không tính mạng khó giữ. Hãy nhớ cho kỹ!"
Từ Hoài Cận nghe thấy thế, toàn thân toát mồ hôi: "Đáng sợ đến vậy sao? Bỉ nhân đã ghi nhớ rồi! Vừa rồi tiên sinh nói có hai việc, vậy việc kia là..."
Tổ Gia mỉm cười nói: "Việc còn lại rất đơn giản, không nguy hại gì đến tính mạng, đó là phải tích đức làm việc thiện. Trong mệnh cục của các hạ, Hỏa khí quá vượng, cần phải dùng thấp Thổ(6) để hấp thu Hỏa khí. Trong 12 địa chi, mỗi địa chi đều tương ứng với một con giáp như: Tý là chuột, Sửu là trâu, Dần là hổ, Mão là mèo, Thìn là rồng, Tỵ là rắn, Ngọ là ngựa, Mùi là dê, Thân là khỉ, Dậu là gà, Tuất là chó, Hợi là lợn. Trong 12 con giáp này thì Sửu có Ngũ hành thuộc thấp Thổ. Các hạ tìm mua được 50 con là tốt nhất, nuôi dưỡng cẩn thận, không được bắt chúng cày bừa, không được đánh đập, cũng không được giết mổ lấy thịt, hàng ngày phải cho chúng ăn uống, cứ nuôi chúng cho chúng được sống lâu chết chuồng là được. Nếu các hạ thành tâm thành ý làm việc này, không những quan lộ hanh thông, mà còn có thể tăng thêm tuổi thọ nữa."
(6) Đất ẩm.
Từ Hoài Cận hỏi: "Sao lại có thể nói vậy?"
Tổ Gia nói: "Chúng sinh trong sáu cõi, tất cả đều có linh ứng. Có câu 'ngưu tòng lao, cẩu tòng ngục'. Những người giết mổ ăn thịt hai loài động vật này đều không có kết cục đẹp, sinh thời thì ốm yếu đoản mệnh, sau khi chết sẽ bị đày xuống địa ngục. Ông không những không ăn thịt chúng, còn giải cứu chúng, tự nhiên tuổi thọ tăng lên, quan lộ hanh thông."
Từ Hoài Cận chợt bừng tỉnh: "Tiên sinh tấm lòng từ bi. Bỉ nhân kính phục! Nhưng, giờ đang thời kỳ loạn lạc thế này, muốn gom đủ 50 con trâu mà nuôi, cũng... cũng không phải là chuyện dễ gì."
Tổ Gia gật đầu: "Mưu sự tại nhân thôi. Các hạ có thể phải thủ hạ đi đến các chợ gia súc tìm thử xem, nhưng có một điều cần lưu ý là phải thành thực trong mua bán, không được cướp đoạt của người ta, nếu không sẽ tạo thêm nghiệp ác đấy."
Từ Hoài Cận gật đầu: "Tiên sinh cứ yên tâm. Đa tạ tiên sinh chỉ dạy." Nói xong hắn cầm một xấp tiền đưa cho Tổ Gia.
Tổ Gia xua tay: "Không cần, khi nào các hạ công thành danh toại thì cảm ơn ta cũng không muộn."
Từ Hoài Cận không biết nói thêm gì nữa.
Vào thời kỳ Dân quốc, thị trường gia súc vốn không khởi sắc, đặc biệt là sau cuộc kháng chiến, tình hình càng ảm đạm. Vì vụ dàn cục này, mà trong vòng một tháng trước đó, Trương Ân Thụy đã phải phái mấy chục tên tay chân đi hết nhà này đến nhà khác ở vùng Giang Hoài để thu mua nghé con. Giá nghé con thấp hơn trâu nhiều, cho nên không phải tốn nhiều tiền. Nhưng vì thời gian gấp rút, sau phải mua cả trâu, cuối cùng thậm chí còn đi ăn trộm, nên cũng gom đủ mấy chục con trâu trước khi Tổ Gia ra tay. Sau đó sai các A Bảo đóng giả bọn buôn gia súc, ngày nào cũng dắt nghé, dắt trâu lượn qua các chợ gia súc ở lân cận. Đồng thời còn câu kết với băng nhóm xã hội đen trong vùng, tạm thời đuổi hết bọn Chọc mông lừa ở trong các chợ gia súc đi nơi khác, rồi phái các A Bảo đến chợ giả làm bọn Chọc mông lừa.
Chọc mông lừa là tiếng lóng, chỉ người môi giới đứng giữa bên bán và bên mua. Do hai bên mua bán không quen biết nhau, chợ gia súc thì lại đầy rẫy tiếng lóng và những mưu tính ngấm ngầm thâm hiểm, nên cả hai bên mua và bán đều không dám trực tiếp thương lượng, mặc cả. Từ đó, dần dần đám người chuyên đi dàn xếp mối quan hệ giữa hai bên mua và bán xuất hiện. Chúng đóng vai trò là người môi giới, làm cán cân lợi ích giữa đôi bên, sau khi vụ mua bán thành công sẽ được ăn chia phần trăm.
Đám A Bảo đã làm chọc mông lừa, như vậy có nghĩa là cả người bán và kẻ môi giới đều là người của mình thì có thể kiếm lời nhiều nhất có thể rồi.
Tuy Từ Hoài Cận là một kẻ lọc lõi trong giới đặc vụ tình báo, nhưng lại chỉ là kẻ ngoại đạo đối với tin tình báo trên chợ gia súc, bởi thường ngày ông ta không quan tâm đến, cũng như không bao giờ để ý đến nơi buôn bán hôi hám kia.
Trong khoảng thời gian này, giá gia súc đột nhiên tăng vọt, Từ Hoài Cận đã phải dùng một khoản kinh phí rất lớn của đặc vụ, mới có thể mua được đủ 50 con trâu. Ông ta khoanh lấy một miếng đất ở ngoại thành, rồi thuê vài người chuyên chịu trách nhiệm chăm sóc trâu. Sau khi làm xong hết những việc này, ông ta ngẫm nghĩ rồi bật cười. Ban đêm, nằm trên giường trò chuyện với Hoa Nguyệt Dung, ông ta nói: "Nguyệt nhi, nàng nói xem việc này có hoang đường không chứ? Nếu mà đồn ra ngoài, lại chẳng khiến người ta cười cho thối mũi ấy à?"
Hoa Nguyệt Dung nói: "Có gì mà hoang đường đâu? Đó là việc liên quan đến vận mệnh, thà tin là nó có thể xảy ra chứ đừng nghĩ là nó không thể xảy ra. Cha muội cũng vì không tin lời vị tiên sinh này, nên mới tán gia bại sản, mất cả mạng sống đó sao? Nếu nói hoang đường, chỉ có mấy ông quan to như Sở trưởng mới hoang đường thì có. Chẳng phải Ngài đã từng nói cấp trên của mình, vị Đới Cục trưởng gì gì đó đã phải đổi đến mười mấy cái tên, lại còn Tưởng Ủy viên trưởng, mỗi khi đi đến đâu dựng trại đóng quân đều phải xem phong thủy..."
"Được rồi, được rồi! Bà cô bé nhỏ của tôi. Những việc này đều là việc cơ mật không được nói với người ngoài." Từ Hoài Cận ngắt lời Hoa Nguyệt Dung, ôm nàng ta vào lòng, hai người lại quấn lấy nhau.
Đột nhiên Từ Hoài Cận nhớ đến lời dặn của Tổ Gia, vội vàng nói với Hoa Nguyệt Dung: "Nguyệt nhi, năm nay nàng tuyệt đối không được đến bờ sông. Tiên sinh đã nói, phải đầu mùa hạ sang năm nàng mới được lại gần sông nước."
Hoa Nguyệt Dung cười nói: "Huynh sợ muội bị chết đuối ư?"
Từ Hoài Cận nói: "Nói linh tinh, chết cái gì mà chết."
Ông ta bài đâu biết, theo kế hoạch của Trương Ân Thụy và Tổ Gia, Hoa Nguyệt Dung phải "chết" một lần, nếu không, làm sao có thể thoát thân, lại dễ bị bại lộ. Vì thế, nhân dịp Từ Hoài Cận phải đến Lâm Trấn giám sát công tác, Hoa Nguyệt Dung đi dạo phố cùng với người hầu nhà Từ Hoài Cận, nàng nói nàng đã mang thai, muốn ra chợ cá bên bờ sông mua cá chép để phóng sinh, mong cho con mình và Từ Hoài Cận sau này có thể "cá chép vượt vũ môn". Cô người hầu sống chết ngăn cản không được, đành phải đi theo.
Trương Ân Thụy đã bố trí bọn chân tay ngồi chực sẵn ở chợ cá, vừa hay hôm đó nước sông lên cao. Chính vào lúc Hoa Nguyệt Dung và người hầu gái đang phóng sinh cá bên bờ sông thì trong chợ xảy ra vụ xô xát. Hình như có người cướp cá, rồi không biết một đám người từ đâu chạy nhào ra, xô ngã Hoa Nguyệt Dung và người hầu xuống sông, đợi đến khi cô người hầu được người ta cứu lên bờ thì Hoa Nguyệt Dung đã biến mất trong dòng nước xiết.
Cô người hầu hớt hải chạy vội về nhà, hốt hoảng gọi điện thoại cho Từ Hoài Cận. Ông ta vội vã quay về, đứng trước dòng sông đang cuồn cuộn chảy, thì mọi việc đã muộn mất rồi. Từ Hoài Cận đứng bên bờ sông, gào khóc đến cạn khô nước mắt, con tim kể như đã chết.
Từ Hoài Cận suy sụp suốt mấy tháng trời, vẻ cau mày nhăn mặt cùng với nụ cười của Hoa Nguyệt Dung đã hằn sâu trong tâm trí. Hoa Nguyệt Dung ra đi mang theo cả con tim ông ta. Ngày nào ông ta cũng chạy ra bờ sông, đêm đến, nằm trên giường, đôi mắt vô hồn trân trân nhìn lên trần nhà. Mỗi khi nhớ đến những ngày tháng có Hoa Nguyệt Dung, lại xúc động, nước mắt trào ra.
Ông ta định sau này sẽ chăm sóc thật tốt cho "mẹ" của Hoa Nguyệt Dung, ông ta muốn thực hiện lời hứa của "Nguyệt nhi", nhưng ông ta đâu biết rằng, người "mẹ" cũng "lao đầu xuống sông mà tự vẫn" vì không chịu đựng nổi nỗi đau mất con gái.
Cuộc chơi kết thúc, tất cả mọi người đều phải rút, ngoài 50 con trâu vẫn đang nhởn nhơ gặm cỏ ra, Từ Hoài Cận đã chẳng còn gì trong tay.
Sau khi Hoa Nguyệt Dung và vị A Bảo già đi lánh mặt một thời gian quay về Đường khẩu, Trương Ân Thụy và Tổ Gia bắt đầu bày tiệc ăn mừng.
Xa cách lâu như vậy, Trương Ân Thụy cũng rất nhớ Hoa Nguyệt Dung. Sau bữa tiệc, Trương Ân Thụy giữ Hoa Nguyệt Dung ở lại, ôm chầm lấy nàng: "Nguyệt nhi, lần này muội đã phải chịu nhiều thiệt thòi rồi."
Hoa Nguyệt Dung cười khổ sở: "Sao đột nhiên Đại Sư bá lại khách khí như vậy? Lần này đâu có mất mát gì nhiều."
Trương Ân Thụy nói: "Nguyệt nhi, nàng có biết lần này ta vét bao nhiêu tiền như vậy là để làm gì không?"
Hoa Nguyệt Dung nói: "Chẳng phải là vì kế sinh nhai của các huynh đệ trong Đường khẩu sao?"
Trương Ân Thụy cười, nói: "Ừm, nói như vậy cũng đúng, nhưng có điều lần này là vì tính kế lâu dài cho các huynh đệ."
Hoa Nguyệt Dung thấy lạ bèn hỏi: "Lâu dài ư?"
Trương Ân Thụy nói: "Đúng vậy, đây là vụ cuối cùng của chúng ta rồi."
Hoa Nguyệt Dung sửng sốt: "Cuối cùng?"
Trương Ân Thụy nói: "Chẳng phải nàng vẫn thường hỏi ta, khi nào có thể cưới nàng, chúng ta cùng rời khỏi chốn thị phi này, để được sống một cuộc sống yên vui hay sao? Giờ đây chúng ta đã sắp được rời khỏi chốn thị phi này rồi, bỏ lại tất cả, để sống một cuộc sống khác, một cuộc sống đàng hoàng, đường đường chính chính."
Những lời này khiến Hoa Nguyệt Dung giật mình ngồi bật dậy: "Muội chưa hiểu."
Trương Ân Thụy nói: "Cuộc sống chuyên đi lừa đảo không phải là kế lâu dài. Sau khi Cửu gia chết, ta đã định rửa tay gác kiếm, muốn đầu quân cho Lý Kế Thâm đi kháng Nhật. Số tiền kiếm được lần này đều dùng để mua súng ống đạn dược. Hai hôm nữa, ta sẽ đánh bài ngửa với mọi người. Ai bằng lòng theo ta, ta sẽ đưa đi cùng, còn những ai không bằng lòng theo ta thì tùy... Ta muốn đưa muội đi, sau này sẽ đối tốt với muội, cưới hỏi muội đàng hoàng..." Nói đến đây, Trương Ân Thụy nắm chặt tay Hoa Nguyệt Dung, ánh mắt tha thiết nhìn nàng.
Hoa Nguyệt Dung im lặng.
"Sao vậy? Muội không thấy vui sao? Chúng ta sắp đi trên con đường chính nghĩa rồi, muội sẽ là cô dâu của ta. Về sau ta sẽ không để nàng phải lo lắng, sợ hãi nữa!" Trương Ân Thụy vừa nói vừa nhìn Hoa Nguyệt Dung với ánh mắt tha thiết.
Hoa Nguyệt Dung trầm giọng nói: "Muội vui, muội vui lắm!"
Trương Ân Thụy từ từ cởi áo Hoa Nguyệt Dung...
Một khi phụ nữ đã thay lòng thì mọi thứ diễn ra trên giường cũng chẳng còn hương vị gì cả. Cái cảm giác này không thể nói được thành lời, nhưng có thể cảm nhận được. Sau một hồi lăn qua lăn lại, Trương Ân Thụy buông Hoa Nguyệt Dung ra, tựa vào đầu giường, châm một điếu thuốc, hút một hơi thật dài, rồi chậm rãi nhả khói, nói: "Muội rất khác."
Hoa Nguyệt Dung không chối cãi, cũng không lên tiếng, nàng im lặng rất lâu rồi nói: "Khác sao?"
Trương Ân Thụy nói: "Muội vẫn như đang dàn cục."
Hoa Nguyệt Dung gượng cười một cách khổ sở: "Chẳng phải ngày nào muội cũng ở trong cục đó sao?"
Trương Ân Thụy hít một hơi dài, nhả khói ra. Khói thuốc bện lại thành những vòng tròn bay lên. Hai người im lặng, không ai nói với ai câu gì. Căn phòng bỗng trở nên tĩnh lặng. Một lúc lâu sau, Trương Ân Thụy nói: "Muội nói đi! Nói!"
Hoa Nguyệt Dung cắn môi, cúi đầu trầm tư suy nghĩ, một lúc sau ngập ngừng, ấp úng nói: "Muội... có thể sống cuộc sống của mình không? Muội không cần thứ gì khác và muội cũng không muốn gì lúc này."
Tay Trương Ân Thụy run lên, tàn thuốc dài rụng xuống, lại là một khoảng tĩnh lặng trống rỗng. Hoa Nguyệt Dung vẫn cúi đầu. Một lúc sau, Trương Ân Thụy nói tiếp: "Mấy năm nay... Muội đi theo ta phải chịu nhiều cực khổ... Nếu muội đã có lựa chọn, chỉ cần không phương hại đến việc lớn của ta, ta... sẽ để muội ra đi."
Đột nhiên Hoa Nguyệt Dung ngước mắt lên, nhìn thẳng vào Trương Ân Thụy nói: "Để muội đi thật sao?"
Trương Ân Thụy chau mày, không nói.
Hoa Nguyệt Dung đột nhiên quỳ xuống, nước mắt tuôn rơi: "Hãy để muội đi! Hãy buông tha muội! Muội thề sẽ giấu kín những chuyện này trong lòng, suốt đời không bao giờ nói ra. Muội chỉ cầu mong được sống cùng ông ấy. Muội chỉ cầu mong được sống cùng ông ấy."
Trương Ân Thụy sững sờ nhìn Hoa Nguyệt Dung, mãi sau mới nói: "Hãy đứng lên, đứng lên đi, từ từ nói. Nói ra xem đã xảy ra chuyện gì, ta sẽ để muội đi."
Hoa Nguyệt Dung nhìn Trương Ân Thụy với ánh mắt dè chừng. Trương Ân Thụy mỉm cười nói: "Đừng sợ, hãy nói ta nghe."
Hoa Nguyệt Dung thu hết can đảm nói ra từ đầu đến cuối mọi việc chôn giấu trong lòng, nàng kể đến việc Từ Hoài Cận đã đối xử với mình chân tình thế nào, bản thân mình cũng không kìm nén nổi tình cảm nên đã yêu thương Từ Hoài Cận ra sao, nàng kể mãi, kể mãi... Cuối cùng khi đôi mắt đã nhòa lệ, nàng nói: "Là muội có lỗi với huynh, là muội có lỗi với huynh. Lần này, muội không thể đi cùng huynh được, không thể đi cùng được. Sau này muội nhất định sẽ không nói ra những chuyện này, tuyệt đối im lặng. Đường khẩu cũng sắp giải tán rồi, muội cũng không làm hại đến việc lớn của huynh, muội chỉ cầu xin huynh buông tha cho muội!"
Trương Ân Thụy chỉ im lặng nghe, gương mặt không chút biểu cảm, cuối cùng chỉ nhẹ nhàng hỏi: "Nói như vậy, muội... yêu hắn thật lòng sao?"
Hoa Nguyệt Dung thẳng thắn gật đầu. Trương Ân Thụy nhắm nghiền mắt lại, hai giọt nước mắt từ từ lăn xuống.
Hoa Nguyệt Dung không nói gì, lặng lẽ lui ra khỏi phòng Trương Ân Thụy. Trở về phòng mình, nàng lấy bút mực ra viết một bức thư mà nàng tự biết rằng không bao giờ có thể gửi đi được, viết xong nàng lại đặt thư dưới gối, rồi ra trước gương chải tóc, sau đó nằm lên giường, gối đầu lên bức thư rồi nhắm mắt lại trong niềm hạnh phúc.
Một tiếng súng vang lên khi trời còn chưa sáng, cảnh đêm tĩnh mịch dường như cũng run rẩy, thương cảm cho một kiếp hồng nhan, Hoa Nguyệt Dung đã chết. Không ai biết Trương Ân Thụy vì nghĩ đến việc lớn của mình, hay vì nỗi oán hận trong lòng. Chỉ biết rằng ông ta đã tự tay giết chết người con gái mà mình yêu thương nhất. Càng không ai có thể biết rằng trước khi chết Hoa Nguyệt Dung có ngủ thật hay không, hay là nàng im lặng nằm trên giường. Có lẽ nàng cũng nghe thấy tiếng bước chân của Trương Ân Thụy, hơn hết là nghe được tiếng lên đạn của ông ta, nhưng nàng không chạy trốn, mà có muốn cũng không biết phải trốn nơi nào. Đất trời tuy rộng lớn, nhưng không có nơi nào cho nàng dung thân cả.
Nhiều năm sau, nhắc lại vụ dàn cục này Tổ Gia vẫn chỉ biết lắc đầu thở dài. Ai tốt, ai xấu, ai trong cục, ai ngoài cục, Tổ Gia không rõ, Trương Ân Thụy cũng không rõ, Từ Hoài Cận lại càng không rõ. Hoa Nguyệt Dung ra đi, mang theo nỗi thống khổ và mối tình chưa dứt của cả cuộc đời nàng.
Sau khi quân Nhật đánh đến, Tổ Gia sai người đem những con trâu này đến cho các vị hương thân phụ lão của địa phương, họ đã dùng những con trâu này đi kéo xe, giúp đưa các chiến sĩ, quân nhân Quốc dân Đảng bị thương ở tiền tuyến về. Tổ Gia thở dài thương cảm: "Người nuôi trâu ba năm, trâu phục vụ người cả đời, thiện ác tương báo vốn rất đơn giản, vì đâu con người cứ vướng mãi trong cái vòng luẩn quẩn này!"
Về sau, Tổ Gia nghe nói Từ Hoài Cận và Quân thống đường ai nấy đi. Hắn bị truy sát phải chạy sang Hồng Kông, về sau không còn tin tức gì nữa.
Sau khi Trương Ân Thụy lừa được tiền liền chiêu binh mãi mã, lôi kéo người hòng đọ sức với Cục Quân thống. Nghe nói ông ta đã giết chết rất nhiều thân tín dưới quyền của Đới Lạp. Về sau, Trương Ân Thụy đầu quân cho Lý Kế Thâm cùng phản Tưởng kháng Nhật. Sau khi cuộc kháng chiến bùng nổ toàn diện, Trương Ân Thụy đã nhiều lần xung phong ra tiền tuyến. Năm 1940 oogn ta bị một viên đạn bắn trúng ngực trong chiến dịch Quế Nam, trước khi chết có để lại một di nguyện, sau khi hỏa táng đưa tro cốt của mình về quê nhà, chôn bên cạnh mộ phần cô độc của Hoa Nguyệt Dung.
Vụ dàn cục mỹ nhân lần này, là cuộc giao đấu trực diện đầu tiên của phái Giang Tướng với Cục Quân thống Quốc dân Đảng. May thay, lần đó bọn đặc vụ của Quân thống vẫn chưa phát giác ra, nên chưa bị chúng quay lại vồ. Phong Tử Thủ muốn báo thù cho Cửu gia, Tổ Gia cũng vậy. Ông đã dùng cách này để nhắn nhủ Phong Tử Thủ, cũng là giảng một bài học sinh động cho anh ta. Từ đó, Phong Tử Thủ ngộ ra một đạo lý rằng: phàm là người thành đại sự, tất không phải là kẻ hữu dũng vô mưu, liều mạng thì ai cũng có thể liều, nhưng một mạng sống thì đáng bao nhiêu quan tiền chứ?
Thế lực của Quân thống ngày một mạnh thêm, Tổ Gia đã liệu trước sớm muốn đến một ngày phái Giang Tướng sẽ đụng độ với Cục Quân thống tại nơi ngõ hẹp, nhưng ông không ngờ rằng ngày đó lại đến nhanh và bất ngờ như vậy.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top