IX
IX.
Nơi điểm này câu trả lời thực sự cho câu hỏi, làm thế nào mình trở thành chính mình (wie man wird, was man ist), chúng ta không thể nào tránh được câu trả lời này. Và như vậy tôi đụng vào kiệt tác của ngón nghệ thuật nội thủ tự thân - của tính ích kỷ (und damit berühre ich das Meisterstück in der Kunst der Selbsterhaltung - der Selbst - sucht...)
Vì chúng ta hãy thử cho rằng sứ mạng, định phận của sứ mạng vượt qua mức bình thường quá độ: trong trường hợp này, không có gì có thể nguy hiểm hơn là bắt gặp tự thân mình với sứ mạng này (...so würde keine Gefahr groesser sein, als sich selbst mit dieser Aufgabe zu Gesicht zu bekommen). Trở thành chính mình thì mình không nên có ý niệm gì hết về bản tính mình (Dass man wird, was man ist, setzt voraus, dass man nicht im entferntesten ahnt, was man ist).
Đứng từ quan điểm này ngay cả những lỗi lầm của đời sống cũng có ý nghĩa riêng và giá trị riêng của nó (Aus diesem Gesichtspunkte haben selbst die Fehlgriffe des Lebens ihren eignen Sinn und Wert) - những con đường quanh nhất thời, những con đường lộn, những trì hoãn, "những sự khiêm tốn", tinh thần trang trọng nghiêm nghị hoang phí với những bổn phận xa rời hẳn sứ mạng chính yếu (die zeitweiligen Nebenwege und Abwege, die Verzögerungen, die "Bescheidenheiten", der Ernst, auf Aufgaben verschwendet, die jenseits der Aufgabe liegen).
Tất cả những điều này đều có thể phát biểu một sự dè dặt vĩ đại, cả sự dè dặt tối cao: ở đây nosce te ipsum (tự tri) quả là phương cách để xuống dốc (Untergang) tự quên, tự ngộ nhận, tự biến mình trở nên nhỏ nhoi hơn, hẹp hòi hơn, tầm thường hơn, trở thành chính lý trí (wird Sich-Vergessen, Sich-Missverstehn, Sich-Verkleinern, -Verengern, -Vermittelmässigen zur Vernunft selber). Nói theo điệu luân lý: tình thương lân cận, sống vì người khác, và những sự việc khác có thể là một cách che chở gìn giữ mối ưu tư tự thân cứng rắn nhất. Trường hợp ở đây ngoại lệ, đi ngược lại thói quen và sở kiến của tôi, tôi lại đứng về phe của những mối xung động có tính cách "vô vị kỷ": ở đây chúng phụng sự cho lòng tự luyến, tự kỷ (Selbstsucht, Selbstzucht).
Trọn vẹn bề mặt của ý thức - ý thức là một bề mặt (Bewusstsein ist eine Oberflaeche) - phải được giữ khỏi hẳn tất cả mọi mệnh lệnh vĩ đại! (Vorsicht selbst vor jedem grossen Worte, jeder grossen Attituede!) Hãy đề phòng mọi lời nói vĩ đại, mọi dáng điệu vĩ đại!
Ồ bao nhiêu là nguy cơ hiểm họa khi mà bản năng lại "tự hiểu" quá sớm - trong khi đó "ý tưởng" điều hợp định phận để thống trị lại tiếp tục nảy nở phát triển sâu thẳm tận ở dưới - nó bắt đầu chỉ huy, dần dần chầm chậm nó dẫn chứng chúng ta trở về lại từ những con đường quanh, những nẻo lộn; nó chuẩn bị những phẩm tính và những khả năng ứng nhịp độc điệu để một ngày kia sẽ tỏ ra cần thiết như một phương tiện để hướng tới một toàn thể - lần lượt nó tôi luyện tất cả mọi khả năng phụng sự trước khi phơi bày gợi ý về sứ mạng chủ động "mục đích", "tiêu đích" hoặc "ý nghĩa" (bevor sie irgend etwas von der dominierenen Aufgabe, von "Ziel", "Zweck", "Sinn" verlauten laesst).
Được nhìn theo điệu này thì cuộc đời tôi quả là tuyệt vời. Đối với sứ mạng làm một cuộc đảo giá mọi giá trị (Zur Aufgabe einer Umwertung der Werte) thì cần có nhiều khả năng thấy được trong một cá thể đơn độc, - trước hết, ngay cả những khả năng đối nghịch cũng được giữ cho khỏi quấy rầy, tàn phá tiêu diệt lẫn nhau. Một sự trật tự về phẩm hạng trong những khả năng này; một khoảng cách mà không phải va chạm đối nghịch lẫn nhau; không trộn lẫn, không "giải hoà" cái gì cả; một đa dạng tính vĩ đại mà vẫn là sự đối nghịch với lại sự hỗn mang - đây là điều kiện tiên khởi, động tác bí mật lâu dài và ngón diệu thuật của bản năng tôi (Rangordnung der Vermoegen; Distanz Kunst zu trennen, ohne zu verfeinden; nichts vermischen, nichts "versoehnen"; eine ungeheure Vielheit, die trotzdem das Gegenstueck des Chaos ist, die war die Vorbedingung, die lange geheime Arbeit und Kuenstlerschaft meines Instinkts).
Sự bảo tồn tối cao của nó đã được tự thể hiện tới cao độ đến nỗi tôi không bao giờ ngờ được những gì đã sinh sôi nảy nở trong tôi - và thế rồi một hôm tất cả những khả năng của tôi, đột nhiên chín vàng, vụt phóng nhảy ra trong sự vẹn toàn tối thượng của chúng (dass alle meine Faehigkeiten ploetzllich reif, in ihrer letzten Vollkommenheit eines Tags hervorsprangen). Tôi không thể nhớ được rằng tôi đã từng cố gắng nhọc nhằn bao giờ cả (Es fehlt in meiner Erinnerung, dass ich mich je bemueht haette) - không có dấu vết cầm cự, tranh đấu, gắng sức nào có thể lộ nét trong tôi (es ist kein Zug von Ringen in meinem Leben nachweisbar); tôi là sự đối nghịch lại thứ bản tính anh hùng (ich bin der Gegensatz einer heroischen Natur). "Muốn" một cái gì đó, "cố sức" để được cái gì đó, một "ý muốn" nào đó - tôi hoàn toàn chẳng có kinh nghiệm nào cả về thứ này (Etwas "wollen", nach etwas "streben", einen "Zweck", einen "Wunsch" im Auge haben - das kenne ich alles nicht aus Erfahrung).
\Ngay chính giây phút này, tôi vẫn nhìn về tương lai tôi - một tương lai thênh thang! - như nhìn về trùng khơi im lặng: không có một dợn sóng dục vọng (Noch in diesem Augenblick sehe ich auf meine Zukunft - eine weite Zukunft! - wie auf ein glattes Meer hinaus: kein Verlangen kraeuselt sich auf ihm) Tôi hoàn toàn không muốn bất cứ cái gì phải xảy ra khác đi hiện trạng của nó, chính tôi, tôi cũng không muốn trở lên khác đi (Ich will nicht im geringsten, dass etwas andres wird als es ist; ich selber will nicht anders werden...).
Đấy tôi vẫn luôn sống như thế đấy. Tôi không có những ước muốn nào cả (Ich habe keinen Wunsch gehabt). Một người bốn mươi bốn tuổi mà còn có thể nói rằng không bao giờ đeo đuổi danh vọng, đàn bà và tiền bạc! (Jemand, der nach seinem vierundvierzigsten Jahre sagen kann, dass er sich nie um Ehren um Weiber, um Geld bemueht hat!)
Như vậy đấy, thế rồi một hôm, chẳng hạn, tôi lại thấy mình là giáo sư đại học - cái ý tưởng ấy không hề thoáng qua trí tôi, vì lúc ấy tôi chưa đầy hai mươi bốn tuổi. Thế rồi hai năm trước ấy, một hôm, tôi bỗng thấy mình là một nhà bác ngữ học - tôi muốn đề cập tới bài luận đầu tiên về bác ngữ học, bước đầu của tôi trong mọi ý nghĩa, được thầy tôi cụ Ritschl, yêu cầu cho đăng trong tờ Rheinisches Museum của ông. (Tôi xin nói với tất cả trang trọng tôn kính, cụ Ritschl là học giả duy nhất có thiên tài mà tôi được gặp cho đến nay. Cụ có đặc tính suy đồi khả ái nói lên sự đặc thù của người vùng Thueringen và làm cho cả người Đức có vẻ gợi cảm: ngay cả việc đạt tới chân lý thì chúng ta vẫn thích trọn những con đường lén, kín, lẩn lút (wir ziehn selbst, um zur Wahrheit zu gelangen, noch die Schleichwege vor). Những lời lẽ này tôi không có ý định hạ thấp kẻ đồng hương của tôi, ông Leopold von Ranke, kẻ tinh khôn...).
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top