III

III.



Lựa chọn thức ăn, lựa chọn khí hậu và nơi chốn: điểm thứ ba mà mình không nên phạm lỗi lầm dù bất cứ giá nào, đó là chọn lựa sự tiêu khiển giải trí nghỉ ngơi thích hợp với mình. Điểm này cũng tuỳ thuộc vào trình độc độ đáo của tâm linh mình, giới hạn của những gì dành riêng cho mình, có lợi cho mình, hoàn toàn được hạn chế. Trong trường hợp tôi, mọi sự đọc sách thuộc những điều giải phóng tôi ra khỏi chính tôi, đưa tôi lang thang vào những khoa học kỳ lạ và những tâm hồn kỳ lạ mà tôi không còn xem trọng.



Đọc sách chính là sự giải trí của tôi ra ngoài sự trang trọng nghiêm nghị của chính tôi. Trong những thời gian tôi làm việc viết lách dồi dào siêng năng thì người ta không thấy tôi bị những quyển sách vây bọc nữa: tôi giữ gìn, thận trọng, canh phòng không để cho bất cứ ai đến gần tôi kể cả nói chuyện hoặc rề rà suy nghĩ gì hết (In tief arbeitsamen Zeiten sieht man keine Bücher bei mir: ich würde mich hüten, jemanden in meiner Nähe reden oder gar denken zu lassen). Và đọc sách có ý nghĩa rề rà là thế.



Không biết người ta có để ý rằng trong lúc tâm thần căng thẳng mãnh liệt mà sự thai nghén đã hành phạt tâm linh và hành phạt tận căn để trọn vẹn cơ thể phải chịu trạng huống khẩn trương ấy thì mọi sự việc bất ngờ ngẫu nhiên và mọi loại kích thích bên ngoài đều tác động quá kịch liệt, đánh vào như sấm sét, quá hung hăng, quá sâu thẳm? (Hat man eigentlich beobachtet, dass in jener tiefen Spannung, zu der die Schwangerschaft den Geist und im Grunde den ganzen Organismus verurteilt, der Zufall, jede Art Reiz von aussen her zu vehement wirkt, zu tief "einschlägt"?)



Mình hãy tránh hết sự bất ngờ ngẫu nhiên và những kích thích bên ngoài, càng tránh nhiều chừng nào tốt chừng nấy: tự đóng nhốt mình lại trong bốn vách tường là một trong những biện pháp đề phòng tự nhiên nhất trong thời kỳ cưu mang thai nghén của tâm linh. Tôi có nên để cho một tư tưởng ngoại lai leo trèo qua vách để đột nhập kín đáo vào thế giới mình? Và đọc sách có nghĩa là phải chịu như thế.



Những thời gian viết lách làm việc, sinh sôi nẩy nở liền được tiếp đuôi theo sau là những thời gian giải trí nghỉ ngơi: lúc ấy, những quyển sách tươi vui thông minh hãy mò tìm tới tôi!



Có phải đó là những quyển sách của nước Đức không?



Tôi phải lùi lại nửa năm qua mới bất chợt thấy mình có một quyển sách trong tay - Đó là quyển gì? Một tác phẩm nghiên cứu của Victor Brochard, nhan đề là Les Sceptiques Grecs mà trong quyển sách ấy những thiên khảo cứu của tôi về Diogenes Leartius (Laertiana) được sử dụng tích cực. Những triết gia hoài nghi, loại triết gia đáng trọng vọng duy nhất giữa bọn triết gia ăn nói ngôn ngữ từ hai nghĩa cho đến năm nghĩa! (Die Skeptiker, der einzige ehrenwerte Typus unter dem so zwei - bis fünfdeutigen Volk der Philosophen!...)



Nếu không thế thì tôi gần như vẫn luôn luôn tìm nơi trú ẩn với một số sách quen thuộc, đọc đi đọc lại, thực ra, chỉ một số ít thôi - những quyển sách chứng nghĩa riêng cho tôi (Sonst nehme ich meine Zuflucht fast immer zu denselben Büchern, einer kleinen Zahl im Grunde, den gerade für michbewiesenen Büchern). Có lẽ tôi không có tính chịu đọc sách nhiều hoặc đọc đủ loại: một phòng đọc sách luôn luôn làm tôi phát bệnh (Es liegt vielleicht nicht in meiner Art, viel und vierlerlei zu lesen: ein Lesezimmer macht mich krank). Tâm tính tôi cũng không ưa việc yêu nhiều hoặc yêu đủ loại (Es liegt auch nicht in meiner Art, viel und vierlerlei zu lieben). Cẩn thận đề phòng, và cả lòng ác cảm chống lại những quyển sách mới lạ, những điều này thích hợp với bản năng của tôi hơn là "bao dung" "rộng lượng" và "tình người nhân hậu".



Chú thích của dịch giả: Khi cho in quyển này, Nietzsche đã chữa lỗi in của ấn cáo cho tới đoạn này và cho phép chạy máy đến đây thì Nietzsche bị bệnh, té ngất quị ngoài đường, rồi từ đó im lặng, hoàn toàn im lặng, "tịch nhiên bất động" cho đến mười năm, rồi chết trong nỗi bí mật của thiên thượng địa hạ...



(Sau đây tôi xin chừa một trang trắng để tưởng niệm ngày linh thiêng Nietzche đi vào sự Im Lặng Hố Thẳm).



Có một số ít sách của những cụ tác giả người Pháp mà tôi vẫn đọc đi đọc lại nhiều lần: tôi chỉ tin tưởng nền văn hoá Pháp và coi tất cả mọi sự khác ở Âu châu ngày nay được gọi là "văn hoá" thực ra chỉ là một sự ngộ nhận thôi - đó là chưa nói đến cái gọi là văn hoá Đức.



Vài trường hợp hiếm hoi nói lên văn hoá cao lớn mà tôi đã được gặp gỡ ở nước Đức này đều có nguồn gốc ở Pháp, đặc biệt như trường hợp của bà Cosima Wagner, đó là tiếng nói hàng đầu đối với những vấn đề văn phong mỹ khiếu mà tôi đã từng được nghe.



Cái việc tôi yêu Pascal, chứ không phải chỉ đọc, như một nạn nhân dạy mình nhiều nhất về Ki-tô giáo, kẻ bị sát hại dần hồi, thoạt đầu bị sát hại về phương diện tâm lý - trọn vẹn luận lý học về hình thể ghê rợn nhất của sự tàn bạo vô nhân đạo này (Dass ich Pascal nicht lese, sondern liebe, als das lehrreichste Opfer des Christentums, langsam hingemordet. Erst leiblich, dann psychologisch, die ganze Logik dieser schauderhaftesten Form unmenschlicher Grausamkeit). Trong tinh thần tôi, tôi lại có - ai ngờ? - có lẽ cũng có cả trong cơ thể - cái chất khinh khoái hăng hái mạnh khoẻ của Montaigne; năng khiếu cảm nhận của con người nghệ sĩ trong tôi đã bào chữa bênh vực những tên tuổi của Molière, Corneille và Racine, bênh vực, không tránh được thịnh nộ, chống lại thiên tài man dại như Shakespeare - tất cả những điều ấy không phải khiến tôi bớt nhận thấy rằng ngay cả đối với những tác giả Pháp gần đây nhất tôi vẫn cảm thấy họ hấp dẫn khi sống chung với tập thể họ.



Tôi không thấy thế kỷ nào ở quá khứ mà mình có thể vớt lên được bao nhiêu nhà tâm lý vừa thẩm thấu vừa tế nhị như ở Paris hiện nay: xin đề nghị một số tên ra đây - số tên ấy không phải là ít - xin kể tên quí ông Paul Bourget, Pierre Loti, Gyp, Meilhac, Anatole France, Jules Lemaitre, hoặc xin đơn cử ra đây một tên trong chủng loại hùng cường ấy, một hạng người La Tinh chân thật mà tôi đặc biệt mở lòng, đặc biệt đón nhận, đó là Guy de Maupassant.



Thú thực nói riêng với nhau tôi thích yêu thế hệ văn sĩ này hơn cả những bậc thầy của họ, vì tất cả những bậc thầy này, không loại trừ ai hết, đều bị triết lý Đức quốc làm hư hỏng hết cả (chẳng hạn như Taine đã bị Hegel làm hư hỏng đi, Taine ngộ nhận những vĩ nhân và những thời đại vì chịu ảnh hưởng sai lầm của Hegel). Nước Đức lan rộng đến đâu thì nó phá hư nền văn hoá ở đó (Soweit Deutschland reicht, verdirbt es die Kultur). Chỉ có chiến tranh mới "giải toả" tinh thần ở Pháp.



Stendhal, một trong những sự tình cờ đẹp nhất trong đời tôi - vì bất cứ cái gì đánh dấu một biến cố quan trọng trong tôi đều xuất hiện một cách ngẫu nhiên bất ngờ, chứ không do ai suy tiến cả - (Denn Alles, was in ihm Epoche macht, hat der Zufall, niemals eine Empfehlung mir zugetrieben). Stendhal thực là vô giá, cái nhìn tâm lý dự tri của ông, cái tài khéo soi thấu những sự kiện dễ làm ta nhớ đến con người vĩ đại nhất trong những con người hiện thực (ex ungue Napoleonem: từ dấu chân mà mình có thể biết đó là Nã Phá Luân), và điều sau cùng không phải không đáng nói nhất, Stendhal là một vô thần trung thực - một loại người rất hiếm thấy ở Pháp và gần như không thể tìm thấy được - ở đây cũng cần cất nón chào Prosper Mérimée.



Có lẽ tôi cũng đố kỵ cả Stendhal? Ông ấy đã tước mất khỏi tôi lời khôi hài vô thần tuyệt diệu nhất mà đáng lẽ tôi phải nói thế: "cái cớ biện chữa duy nhất của chính Thượng đế là ông ta không có hiện hữu" (Die einzige Entschuldigung Gottes ist, dass er nicht existiert). Đâu đây chính tôi cũng đã nói: điều phản đối lớn nhất cho cuộc hiện hữu từ trước đến giờ là điều gì? Đó là Thượng Đế (Ich selbst habe irgendwo gesagt: was war der grösste Einwand gegen das Dasein bisher? Gott!...)


Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: