Toan cau hoa Tuan
Trình bày các quan niệm về tác động của TCH đối với thế giới.
Trong thời đại ngày nay, ngoài các vấn đề mang tính nội bộ các q.gia, thế giới đang đặt loài người trước những bài toán cấp bách nan giải: từ các vấn đề sinh thái đến môi trường; KT vi mô đến vĩ mô; bảo đảm chất lượng cuộc sống cho mỗi cá nhân đến toàn nhân loại... Các bài toán đó chỉ có thể giải được một cách triệt để khi toàn nhân loại cùng đồng tâm hiệp lực để giải quyết nó. Đó chính là xu thế TCH.
Với tính cách là một xu thế của lịch sử, toàn cầu hoá có quá trình hình thành từ cuối thế kỷ XIX và từng bước vận động qua các nấc thang mang tính tiền đề là quốc tế hoá, khu vực hoá gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất của nhân loại. Có thể phân kỳ lịch sử của toàn cầu hoá thành 3 giai đoạn lớn:
Giai đoạn thứ nhất: bắt đầu từ năm 1870 kéo dài đến cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918). Đây là giai đoạn hình thành và phát triển mạnh mẽ xu thế quốc tế hoá. Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn này là quá trình quốc tế hóa TBCN về vốn, nhân lực, thị trường... trên cơ sở các mối liên hệ theo chiều dọc là chính, tức là mối quan hệ bất bình đẳng giữa các nước tư bản đế quốc với các nước thuộc địa.
Giai đoạn thứ hai diễn ra từ sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất đến thập niên 70 của thế kỷ XX. Đây là giai đoạn xu thế quốc tế hoá tiếp tục phát triển mạnh mẽ (thông qua sự bùng nổ của các thể chế kinh tế toàn cầu như IMF, WB, GATT..) và xu thế khu vực hoá xuất hiện với sự ra đời của hàng loạt các tổ chức liên kết khu vực (SEV, EC, OEA, ALALC, ASEAN...). Cả hai quá trình quốc tế hoá và khuvực hoá giai đoạn này đều vận động qua nhiều thăng trầm bởi sự tác động của các biến cố lịch sử như chiến tranh thế giới, khủng hoảng của CNTB, chiến tranh lạnh...
Giai đoạn thứ ba diễn ra từ giữa thập kỷ 70 đến nay. Với những tiền đề vật chất, thể chế, pháp lý, kinh nghiệm ... do quá trình quốc tế hoá và khu vực hoá tạo ra dưới tác độvà khổng lồ về hàng hoá, dịch vụ, đầu tư tài chính - tiền tệ, công nghệ... trên phạm vi toàn cầu; một mạng lưới dày đặc các công ty xuyên quốc gia; một hệ thống các thiết chế quốc tế đầy quyền lực; một đời sống VH-XH có nhiều nét chung.
Như vậy, toàn cầu hoá chính là biểu hiện, là kết quả của sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dẫn đến phá vỡ sự biệt lập của các quốc gia, tạo ra mối quan hệ gắn kết, tương tác và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc, các thể chế kinh tế quốc tế, khu vực trên quy mô toàn cầu trong sự vận động và phát triển. Toàn cầu hoá bắt nguồn từ lĩnh vực kinh tế và đến nay nội dung chủ yếu của nó vẫn là toàn cầu hoá kinh tế.
Chính vì những đặc điểm, bản chất phức tạp của TCH như đã nêu trên. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về toàn cầu hoá và tác động của toàn cầu hoá đối với thế giới và các quốc gia, vùng lãnh thổ. Tựu trung lại, có 03 nhóm quan niệm như sau:
Quan niệm thứ nhất cho rằng: TCH là xu thế khách quan không cưỡng lại được, là tất yếu, hợp lý không thể khác được. Mọi quốc gia chỉ có cách duy nhất là chấp nhận, tuân thủ hoàn toàn mọi luật chơi của TCH.
Xuất phát nguồn gốc hình thành, vận động cũng như sự phân tích về những đặc điểm, bản chất của TCH ở trên ta có thể thấy rằng quan niệm này có cái nhìn tương đối phiến diện về TCH. Quan niệm này tuyệt đối hoá xu thế khách quan của toàn cầu hoá, dẫn đến thế hoàn toàn bị động, bị lôi cuốn bởi cuộc chơi. Hậu quả có thể dẫn đến là nền kinh tế, chính trị, văn hoá... của quốc gia có thể bị hoà tan, đồng hoá vào nền kinh tế, chính trị, văn hoá... thế giới. Một khi đã bị hoà tan, đồng hoá thì chủ thể (quốc gia) có thể mất quyền kiểm soát và có thể biến mất khỏi vũ đài lịch sử. Quan điểm cực đoan này có thể dẫn một quốc gia đến chỗ " tự sát".
Quan niệm thứ hai cho rằng: TCH thực chất là quá trình Mỹ hoá, thực chất là kết quả của chiến lược siêu cường Mỹ với sự đồng loã của các đồng minh của Mỹ nhằm áp đặt cho thế giới KT, CT, VH, lối sống Mỹ. Chủ trương của nhóm người này là không tham gia vào tiến trìnhTCH. Những người theo quan điểm này cự tuyệt toàn cầu hoá, đóng cửa để tự lực tự cường để khỏi bị ảnh hưởng, chi phối bởi những mưu đồ đen tối của siêu cường Mỹ. Điều này có thể dẫn đến một nền kinh tế bị cô lập, tụt hậu, bỏ rơi, trì trệ, kém phát triển. Công bằng mà nói, xét về một khía cạnh nào đó, những người theo quan điểm này có lý khi nói rằng đang diễn ra quá trình mỹ hoá toàn cầu. Với tư cách là siêu cường thế giới có ưu thế vượt trội và sức mạnh áp đảo trên hầu hết các lĩnh vực kinh tế, quân sự, chính trị, văn hoá - thông tin, Mỹ đang ra sức tận dụng thời cơ để thiết lập một trật tự thế giới đơn cực do Mỹ khống chế, chi phối, chỉ huy. Duy trì, củng cố vị trí siêu cường thế giới duy nhất, lấy đó làm chổ dựa, làm cơ sở để thực hiện mục tiêu bá chủ thế giới đã trở thành nội dung xuyên suốt, cơ bản, bao trùm trong ciến lược đối ngoại Mỹ sau chiến tranh lạnh. Tuy nhiên, trên thực tế , toàn cầu hoá cũng làm cho các nước lớn - nhỏ, mạnh - yếu, phát triển - đang phát triển ngày càng tuỳ thuộc, chế ước lẫn nhau nên Mỹ dù mạnh đến mấy cũng khó có thể biến tham vọng bá chủ thế giới thành hiện thực. Mỹ không thể đơn phương hành động bất chấp lợi ích của các nước khác mà không làm tổn hại đến chính lợi ích của nước Mỹ. Mỹ không thể toàn cầu hoá các giá trị của mình, áp đặt hệ giá trị của mình lên các nước trong cộng đồng quốc tế vốn tồn tại được là nhờ biết bảo tồn các giá trị và bản sắc riêng. Mặc dù toàn cầu hoá trong giai đoạn hiện nay về cơ bản mang tính chất TBCN nhưng đó là một quá trình đầy mâu thuẫn, vừa hợp tác, liên kết, hội nhập, vừa đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc quyết liệt vì một toàn cầu hoá bình đẳng giữa các quốc gia và dân tộc. Do đó Mỹ hoá toàn cầu chỉ là giấc mơ, chỉ là mong muốn của Mỹ chứ không phải là quá trình đang diễn ra trên thế giới hiện nay. Những gì Mỹ mong muốn và những gì Mỹ có thể làm được là hoàn toàn khác nhau.
Tóm lại, cả hai quan điểm trên có thể nói là cực đoan về toàn cầu hoá. Cả hai quan niệm này có thể thể dẫn đến việc tự tước đi quyền chủ động tham gia của mình vào cuộc chơi toàn cầu hoá. Điều này cũng đồng nghĩa với việc tự tước đi các cơ hội chủ động tận dụng cơ hội để phát triển cũng như các điều kiện mà đáng lẽ ra mình có thể sử dụng để chống trả với những mặt trái của toàn cầu hoá.
Quan niệm thứ ba cho rằng: TCH là kết quả phát triển cao, khách quan của lực lượng sản xuất và các yếu tố khác, đồng thời có yếu tố chủ quan áp đặt của các nước TBCN. Do vậy, cách tốt nhất là chủ động tham gia hội nhập trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh để tận dụng những thời cơ, vận hội mà TCH đem lại đồng thời đấu tranh để hợp tác tốt hơn.
Có thể nói đây là một quan niệm đúng đắn có được xuất phát từ sự phân tích khác quan về nguồn gốc hình thành, vận động, đặc biệt là từ "bản chất kép" của TCH
Một mặt, nó là xu thế khách quan như là kết quả của sự phát triển cao của LLSX và các yếu tố vật chất khác: Sự phát triển cao của LLSX trong điều kiện CMKHCN hiện đại là yếu tố vật chất có tính quyết định sâu xa nhất đối với sự ra đời và phát triển của xu thế TCH. Đặc biệt, trong hơn hai thập nhiên qua, sự phân công lao động quốc tế sâu rộng là yếu tố quan trọng quyết định bản chất khách quan của TCH và sự phát triển sâu rộng của nền kinh tế thị trường trên toàn thế giới cũng là yếu tố khách quan thúc đẩy toàn cầu hoá phát triển. Ngoài ra, sự xuất hiện ngày càng nhiều những vấn đề toàn cầu cấp bách cũng là yếu tố khách quan thúc đẩy xu thế TCH hiện nay.
Bên cạnh bản chất khách quan, TCH còn có bản chất là hệ quả của các nhân tố chủ quan. Cũng là một quá trình KTXH, chính trị và văn hoá, TCH bị chi phối, lợi dụng bởi một một số thế lực quốc tế. Với ưu thế về vốn, công nghệ, thông tin, thị trường...các tập đoàn tư bản độc quyền, các nước TB phát triển, các trung tâm kinh tế, tài chính, tiền tệ, thương mại quốc tế ... đã chủ động tác động, chi phối, áp đặt xu thế TCH vào khuôn khổ của quá trình tự do hoá TBCN, thông qua các công cụ như công ty xuyên quốc gia, các tổ chức q.tế lớn và chiến lược, sách lược của các nước lớn. Các tổ chức quốc tế lớn trong đó các cường quốc TB giữ vai trò khống chế, chi phối luôn đặt các thành viên trong cộng đồng quốc tế vào sự liên đới phụ thuộc lẫn nhau, từ đó áp đặt xu thế TCH theo xu thế tự do hóa TBCN bằng các công cụ kỹ thuật và các chiến lược, sách lược của mình.
Như vậy, động lực bên trong của TCH là sự ptrien mạnh mẽ của LLSX . Một trong những nền tảng cơ bản của TCH là hiện tượng xuyên quốc gia của quá trình sản xuất, cung, tiêu, xuất nhập khẩu... là một tiến trình đi đến nhất thể hóa thế giới, TCH có nhu cầu tự thân về dân chủ, công bằng, bình đẳng. Song, do sự tác động, lũng đoạn của các thế lực TBCN, TCH bị vận động một cách méo mó, biến dạng thành quá trình phương Tây hoá, TB hóa thế giới. Vì thế, trên thực tế TCH không chỉ là vấn đề kinh tế kỹ thuật thuần tuý mà chủ yếu là quá trình KT- XH, KT- CT và VH-TT chứa đựng nhiều bất công nghịch lý. TCH, do đó là một cuộc đ.tranh gay gắt và lâu dài với những thời cơ và thách thức đan xen lẫn nhau vì những mục tiêu vừa cấp bách, vừa lâu dài đặt ra với nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Quan niệm thứ ba cũng chính là quan niệm của Đảng ta về việc tham gia vào quá trình TCH.
Những thời cơ, vận hội và những nguy cơ, thách thức mà toàn cầu hoá đem lại :
Có thể nói, xu thế TCH thúc đẩy sự phát triển sâu rộng của các quan hệ KT quốc tế, tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng được thị trường thế giới để SXKD. Xu thế TCH mở ra khả năng cho các quốc gia, nhất là các nước đang p.triển tham gia nhanh chóng và hiệu quả vào hệ thống phân công lao động quốc tế, tận dụng mọi nguồn lực phục vụ mục tiêu phát triển thông qua hoạt động kinh tế. Xu thế TCH làm lưu chuyển tự do hóa các nguồn vốn, công nghệ SX tiên tiến và khoa học quản lý hiện đại. Đây chính là yếu tố quan trọng mà mọi quốc gia có thể tiếp cận, sử dụng trong quá trình hội nhập KTQT để phát triển của mình. Xu thế TCH tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả các nước tham gia vào đời sống quốc tế, bày tỏ chính kiến, bảo vệ lợi ích, tập hợp và củng cố lực lượng, bảo vệ vị thế của mình thông qua diễn đàn q.tế. Xu thế TCH thúc đẩy mạnh mẽ giao lưu văn hóa và tri thức quốc tế, tăng cường sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, hữu nghị giữa các dân tộc. Xu thế TCH làm cho các quốc gia dân tộc ngày càng phụ thuộc lẫn nhau tạo ra cơ hội tích cực để ngăn chặn những biểu hiện chi phối, áp đặt, thống trị trong quan hệ quốc tế.
Song song với các thời cơ, vận hội nói trên, xu thế TCH cũng hàm chứa những nguy cơ và thách thức lớn đối với các quốc gia, dân tộc, đặc biệt đối với các nước đang phát triển. Trên lĩnh vực kinh tế, xu thế TCH tạo ra không gian kinh tế cho các nước phát triển, nhưng không gian này bị ràng buộc bởi các quy tắc bất hợp lý do các nước phát triển đặt ra dẫn đến một môi trường cạnh tranh không bình đẳng. Trên lĩnh vực XH, cơn lốc TCH đã, đang và sẽ tiếp tục làm trầm trọng thêm tình trạng thoá triển xã hội, kinh tế tăng trưởng nhưng cơ cấu xã hội phân tầng, phân hóa, biến động phức tạp, tiêu cực và khó lường. Trên lĩnh vực văn hóa, xu thế TCH đặt các quốc gia vào nguy cơ bị các giá trị phương Tây, nhất là các giá trị Mỹ xâm nhập ồ ạt làm tổn hại đến bản sắc văn hóa dân tộc. Trên lĩnh vực an ninh q.gia, xu thế TCH tạo ra một loạt vấn đề về đảm bảo an ninh QG, nội dung khái niệm an ninh quốc gia được mở rộng, đó là an ninh fi truyền thống, phạm vi rộng, đa dạng, đa chiều, nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia ngày càng phức tạp vì xu hướng các nước nhỏ yếu phụ thuộc nhiều vào các nước lớn, mạnh. Trên lĩnh vực chính trị, xu thế TCH tạo ra một số nguy cơ về chính trị đe dọa độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, đe dọa vai trò của nhà nước. Đây là xu thế mà các thế lực thù địch q.tế lợi dụng để chống phá các nước.
Tóm lại, QG nào ko hội nhập vào tiến trình TCH sẽ ko có quyền tham gia xây dựng định chế TMTG đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình. Những tác động của xu thế TCH đối với các quốc gia dân tộc trình bày ở trên chủ yếu tồn tại dưới dạng tiềm năng và có quan hệ hữu cơ với nhau . Chúng chỉ trở thành hiện thực ở những điều kiện cụ thể, trong đó vai trò của các nhân tố chủ quan mang tính quyết định.Cơ hội trong TCH tự nó ko biến thành LL vật chất mà phụ thuộc vào k/năng tận dụng cơ hội của ta, thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng nó tác động đến đâu còn phụ thộc vào nhiều yếu tố, trong đó nhân tố chủ quan nội lực của đất nước có tính quyết định. TCH tự nó hàm chứa đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc.
Đối với VN trong quá trình hội nhập, về việc tham gia vào quá trình TCH. Đảng ta nhận định: "TCH kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh". Mục tiêu TCH của ta là chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng XHCN. Đảng ta cũng quan niệm rằng: giữa các quốc gia không thể tránh khỏi những khác biệt, bất đồng, thậm chí xung đột lợi ích, vì vậy trong hội nhập khó tránh khỏi trạng thái vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Chủ trương của chúng ta là gia tăng điểm đồng, hạn chế bất đồng, thông qua đối thoại, thương lượng để giải quyết những bất đồng ấy, không để chúng phá vỡ quan hệ hợp tác cùng có lợi.
Cần nhấn mạnh rằng, đối với Việt Nam, hội nhập không phải là mục tiêu tự thân hay là "mốt thời thượng", hoặc do sự thúc ép nào từ bên ngoài, mà chính là sự chọn lựa của bản thân chúng ta, chúng ta coi đó là một trong những biện pháp cần thiết để đạt tới mục tiêu phát triển. ĐH Đảng toàn quốc lần thứ X một lần nữa khẳng định: "Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước". Đường lối đổi mới và chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng ta là nhất quán theo tinh thần phát huy cao độ nội lực, khai thác tối đa các nguồn lực bên ngoài để tạo thế lực mới cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội, đưa đất nước ta tiến nhanh, tiến mạnh và vững chắc trong thế kỷ XXI. Chúng ta tin tưởng rằng với đường lối hội nhập đúng đắn đó, đất nước ta sẽ nhanh chóng thực hiện thành công sự nghiệp CNH-HĐH vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top