TNTHPT2009
Mỗi nhà văn thường có một vùng đất riêng, với Nguyễn Trung Thành đó là Tây Nguyên. Ông đã có rất nhiều những tác phẩm viết về mảng đề tài này, đặc biệt là hình ảnh của những con người kiên cường bất khuất nơi núi rung Tây Nguyên.Một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong sáng tác của Nguyễn Trung Thành là truyện ngắn "Rùng xà nu", tác phẩm là câu chuyện về dân làng Xô Man trong kháng chiến chống Mĩ.Trong số những con người hiên ngang bất khuất của làng Xô Man nổi bật lên là hình ảnh Tnú.Câu chuyện về cuộc đời anh đã được tái hiện cụ thể qua lời kể của già làng bên bếp lửa nhà ưng.
Nhìn lại chặng đường đời của Tnú, chúng ta có thể dễ dàng thấy hiện lên hình ảnh một Tnú trước và sau khi đúng lên cầm vũ khí.Trước khi cầm vũ khí, ngày từ khi còn nhỏ Tnú đã là cậu bé gan góc, dũng cảm biểu lộ một tính cách táo bạo mạnh mẽ.Tnú thay người già làm liên lạc, nuôi giấu cán bộ, nhanh nhẹn luồn rừng đưa thư, vượt qua suối lũ một cách dũng cảm.Cậu thất sáng dạ khi biết rằng bọn Mĩ nguỵ ít khi phục kích ở chỗ nứơc chảy xiết.Nguời đọc cảm thấy một cái gì thật đáng yêu ở sự quan tâm học chữ không chịu thua kém ai của Tnú.Cậu bé này dám lấy đá đập vào đầu mình khi học cái chữ không sáng tạo bằng Mai.Và đặc biệt sự gan dạ dũng cảm của Tnú khi bị giặc bắt, chú bé nhỏ tuổi này đã chỉ vào bụng mình và nói: "Cộng sản ở đây này".Mặc cho những vết dao chém dọc ngang trên tấm lưng bé nhỏ Tnú vẫn không khai báo, vẫn gan dạ kiên cường.Trước những trận đòn roi tra tấn dã man của kẻ thù, Tnú thật may mắn khi được học cái chữ và được giác ngộ cách mạng từ rất sớm.
Khi thoát ngục Kon tum trở về, Tnú đã là một chàng trai cường tráng, hiểu biết được tôi luyện qua nhiều thử thách.Giờ đây Tnú giống như một cây xà nu trưởng thành, vạm vỡ, căng đầy nhựa sống và ham ánh sáng.Theo lời dạy của anh Quyết ngày nào, Tnú thay anh làm cán bộ và một lần nữa anh đã đi 3 ngày đường lên núi Ngọc Linh nhưng không phải là lấy đá để làm phấn mà là để mài giáo mác chuẩn bị cho cuộc nổi dậy.
Không chỉ nhìn thấy rõ con đường để đi, Tnú còn có một cuộc sống hạnh phúc với tình yêu của Mai, với đứa con mới chào đời.Nhưng quãng thời gian hạnh phúc ấy thật ngắn ngủi, giặc đã cầm súng kéo về, buôn làng còn chưa kịp cầm vũ khí. Tnú và thanh niên trong làng phải trốn vào rừng để rồi một mình Tnú lại xông ra mong che chở cho mẹ con Mai trước đòn roi của kẻ thù, nhưng cả 2 đều ko sống được.Cảnh tượng về cái chết đau thương trong đêm ấy cứ trở đi trở lại trong lời kể của già làng và dòng hồi ức đau đớn của anh.Không những không cứu được vợ con, Tnú còn bị kẻ thù đốt cháy mười đầu ngón tay "Mỗi ngón chỉ còn hai đốt....không mọc lại được".Nỗi đau thương này là minh chứng hùng hồn cho câu nói vừa giản dị vừa sâu sắc của cụ Mết: "Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo".
Đặc biệt là hình ảnh của Tnú sau khi cầm vũ khí chiến đấu thật đẹp và lớn lao biết bao.Hình ảnh Tnú hiện lên như những anh hùnh thời nào trong các khan, trong các trường ca Tây Nguyên.Khi đốt cháy 2 bàn tay của Tnú kẻ thù muốn dập tắt ý chí phản kháng, muốn tiêu diệt khát vọng chiến đấu của người dân Xô Man.Chúng muốn người dân nơi đây mãi mãi xuôi tay trong kiếp nô lệ thấp hèn dướ lưỡi gươm và nòng súng tàn bạo của chúng.Nhưng Tnú và người dân làng Xô Man khoong cam chịu khuất phục, mà ngược lại họ đã phản kháng quyết liệt.Họ đã biết vượt lên đau thương để vùng lên cầm vũ khí tự giải phóng mình .Lửa đã thiêu cháy mười đầu ngón tay Tnú, lửa bùng cháy trên mười đầu ngón tay tẩm nhựa xà nu.Nhưng Tnú không thấy đau đớn, anh chỉ thấy lửa cháy ở trong lòng- ngọn lửa chiến đấu sẽ thiêu cháy kẻ thù.Và một tiếng hét căm hờn, phẫn uất đã vang vọng khắp núi rừng Xô man, tiếng het ấy như khơi dậy cao đọ lòng căm thù giặc của cả buôn làng.Xác mười tên giặc đã chết nằm ngổn ngang trên mặt đất. Đêm ấy lửa cháy suốt trong bếp lửa nhà ưng.Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã miêu tả cái đêm nổi dậy ấy thật hào hùng, sôi động : "Tiếng chiêng nổi lên, đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn suốt đêm nghe cả rừng Xôman âo ào rung động và lửa cháy khắp rừng.Cái đêm nổi dậy ấy đâu chỉ là của dân làng Xôman mà là sự lớn dậy phi thường của cả 1 cộng đồng, dân tộc.Dường như trong đêm ấy đang sống lại cái không khí linh thiêng hào hùng của những thiên sử thi Tây Nguyên".
Một điều không thể thiếu khi nhắc tới cuộc đời của Tnú đó chính là hình ảnh hai bàn tay của anh. Đôi bàn tay bị đót cháy của Tnú đã nhóm lên ngọn lửa căm thù giặc sâu sắ của dân làng Xôman, nó còn soi sáng cuộc đời anh.Anh đã thay mặt người dân làng Xôman lên đường theo kháng chiến đi tìm những thằng Dục khác.Bởi lẽ không phải ngẫu nhiên tác giả lại để cho Tnú kể với dân làng mình sự đối đầu của anh với kẻ thù sau này: "Tôi nói: này tao có súng đây, tao có cả dao găm đây nhưng tao không giết mày súng, tao không đâm mày bằng dao nghe chưa Dục.Tao giết mày bằng mười ngón tay cụt này thôi, tao bóp cổ mày thôi".Nhà văn đã cố tình tô đậm hình ảnh đôi bàn tay Tnú- đôi bàn tay có cả một lịch sử, một số phận.
Lúc còn nhỏ, đôi bàn tay ấy kiên trì học từng nét chữ của anh Quyết, cần cù làm nương phát rẫy. Đôi bàn tay dám lấy đá đập vào đầu mình vì học cái chứ không sáng dạ bằng Mai.Và đôi bàn tay ấy dám chỉ vào bụng mình mà nói với quân giặc "Cộng sản ở đây này" khẳng định lòng trung thành vớ cách mạng.Lớn lên đôi bàn tay xúc động nắm lấy bàn tay người con gái anh yêu thương và cũng đôi bàn tay ấy xé tấm đồ làm nịu cho đứa con thơ dại.Lửa đốt cháy mười đầu ngón tay để rồi mãi mãi chỉ còn hai đốt không bao giờ mọc lại được.....cho nên Tnú muốn dung đôi bàn tay ấy để giết chết kẻ thù.Bao uất hận căm hờn đã dồn lên đôi bàn tay kia, nó đã trở thành biểu tượng cho ý chí bất khuất , cho sức sông mãnh liệt của Tnú và người dân làng Xôman.Kẻ thù tàn ác có thể đốt cháy đôi bàn tay nhưng không thể tiêu diệt được sức mạnh phi thường, tiềm ẩn trong con người họ. Đó là ý chí chiến đấu và khát vọng chiến thắng. Đó là một dân tộc kiên cường dũng cảm như những khu rừng xà nu hàng vạn cây không cso cây nào bị thương mà vẫn xanh tươi bát ngát trải xa tít tắp tận chân trời.
Xây dựng thành công nhân vật Tnú, nhà văn đã khắc hoạ được hình ảnh tiêu biểu của con người mang đạm dòng máu, tính cách của núi rừng Tây Nguyên.Và qua hình tượng Tnú, Nguyễn Trung Thành còn gợi ra được số phận và phẩm chất của cả cộng đồng trong cuộc chiến đấu bảo vệ buôn làng thân yêu. Đó là tình cảm gắn bó thiết tha sâu nặng với quê hương đất nước, với núi rừng Tây Nguyên, căm thù giặc sâu sắc một lòng một dạ đi theo cách mạng, không ngại khó khăn, gian khổ, hi sinh, tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng.Có thể nói qua thiên truyện ngắn xuất sắc này của Nguyễn Trung Thành, người đọc càng them hiểu và thêm trân trọng con người Tây Nguyên vớ biết bao phẩm chất thật đẹp, thật cao quý.
Dàn bài:
I. Mở Bài
-Đôi nét về phong cách sáng tác của tác giả (ở đây là Nguyễn Trung Thành hoạt động chủ yếu trong văn xuôi viết về Tây Nguyên)
-Nhắc đến yêu cầu đề (nêu được hướng ta sẽ phân tích, ở đây là hình tượng nhân vật Tnú)
II. Thân Bài
A/ Khi Tnú còn nhỏ
- Bản tính gan lì, táo bạo (học chữ, xé rừng mà đi, vượt thác)
- Thông minh (lựa chỗ ít bị phục kích, nuốt thư khi bị bắt)
- Kiên cường, luôn hướng về cách mạng. (bị tra tấn nhưng không khai, trốn tù về làng)
B/ Khi Tnú trưởng thành
- Gan lì (khi bị đốt tay không kêu van)
- Trung thành với Cách mạng (không xông ra ngay cứu vợ con)
- Giàu tình yêu thương (xông ra cứu vợ con, đi bộ đội lúc nào cũng nhớ về làng)
- Là người có tính kỉ luật (cấp trên cho về thăm làng 1 đêm, sáng ra đi ngay)
C/ Đánh giá nhân vật, nâng cao
- Là hình tượng tiêu biểu cho cả làng Xô Man, nhân dân Tây Nguyên.
- Là thành công của tác giả trong xây dựng nhân vật
III. Kết Bài
- Tổng kết lại về Tnú và tác phẩm
Bài Làm
Làng văn xuôi Việt Nam hiện đại có lẽ không ai gắn bó với Tây Nguyên bằng Nguyễn Trung Thành - bút danh khác là Nguyên Ngọc. Ông có mặt ở Tây Nguyên qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế quốc Mĩ. Có lẽ chính sự gắn bó này đã khiến Nguyễn Trung Thành trở thành nhà văn tiên phong đưa Tây Nguyên đến với văn chương hiện đại và đưa văn chương đến Tây Nguyên. Trong các tác phẩm của ông, nổi trội hơn cả là truyện ngắn "Rừng xà nu" kể về dân làng Xô Man trong kháng chiến chống Mĩ. Nổi bật lên là hình ảnh Tnú. Câu chuyện về cuộc đời anh đã được tái hiện cụ thể qua lời kể của cụ Mết - già làng - bên bếp lửa nhà ưng trong một đêm anh được phép về thăm làng sau ba năm đi bộ đội.
"Rừng xà nu" là truyện ngắn viết năm 1965, xuất bản lần đầu tiên trong Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng trung Trung bộ số 2 năm 1965. Sau in lại trong tập "Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc". Đây là tác phẩm xuất sắc trong việc xây dựng hình tượng cho sức sống dẻo dai, tinh thần bất khuất của nhân dân Tây Nguyên thông qua nhân vật Tnú.
Tnú là một người dân làng Xô Man với hoàn cảnh đặc biệt: mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được người làng Xô Man nuôi nấng, đùm bọc, tuy nghèo khổ nhưng tâm hồn Tnú rất trong sáng. Cụ Mết từng nói: "Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta. Số phận Tnú cũng rất đáng thương khi vợ con anh bị giặc giết hại ngay trước mắt, bản thân Tnú cũng hai lần bị giặc bắt, tra tấn, hành hạ. Đó cũng là số phận chung của người làng Xô Man và của cả Tây Nguyên sống dưới thời Mĩ-Diệm. Cụ Mết kể: "Từ ngày thằng Mĩ-Diệm đến rừng núi này, không bữa nào nó không đi lùng, không đêm nào chó của nó và súng của nó không sủa vang cả rừng". Chúng đàn áp, khủng bố, gây ra biết bao cảnh đau thương cho dân làng. "Nó treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng", "nó giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng". Chúng tra tấn mẹ con Mai đến chết. Tất cả cũng chỉ là vì mục đích dập tắt ngọn lửa cách mạng đang bùng cháy trong mỗi con người làng Xô Man, nhất là Tnú.
Tnú không dễ dàng bị khuất phục. Ngay từ lúc còn nhỏ, Tnú đã tỏ ra bản lĩnh, gan góc. Khi học chữ với Mai, Tnú học chậm, thua Mai. Tnú tức giận "đập bể cái bảng nứa trước mặt Mai và anh Quyết. Cầm một hòn đá, tự đập vào đầu, máu chảy ròng ròng". Mặc dừ chứng kiến cảnh dân làng bị giết hại dã man nhưng Tnú không hề sợ hãi mà còn tiếp bước những người đi trước phục vụ cách mạng. Tnú thay người già làm liên lạc, nuôi giấu cán bộ, nhanh nhẹn luồn rừng đưa thư, vượt qua suối lũ một cách dũng cảm. Tnú thật sáng dạ khi biết rằng bọn Mĩ ít khi phục kích ở chỗ nước chảy xiết nên "cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang". Khi bị phục kích, Tnú nhanh trí nuốt lá thư bảo vệ bí mật cho cách mạng. Trở về sau ba năm bị giặc bắt, Tnú đã là một chàng trai cường tráng, được tôi luyện qua nhiều thử thách. Giờ đây Tnú giống như một cây xà nu trưởng thành, vạm vỡ, căng đầy nhựa sống và ham ánh sáng. Theo lời dạy của anh Quyết ngày nào, Tnú thay anh làm cán bộ lãnh đạo dân làng chuẩn bị vũ khí đứng lên chống giặc.
Hình ảnh Tnú hiện lên thật đẹp, thật kiên cường qua những lần chiến đấu với kẻ thù. Khi bị bắt, Tnú chẳng hề tỏ ra lo sợ mà chỉ băn khoăn khĩ đến việc chung, nếu anh chết thì "Ai sẽ lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc?". Anh tiếc rằng "không sống được đến ngày cầm vũ khí đứng dậy với dân làng"... Bọn giặc tra tấn Tnú rất tàn độc, chúng đốt mười ngón tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu. Nhưng Tnú không hề kêu lên, Tnú nhớ lời anh Quyết: "Người Cộng sản không thèm van xin..." Tnú không thấy đau đớn, anh chỉ thấy lửa cháy ở trong lòng - ngọn lửa chiến đấu mãnh liệt thiêu cháy kẻ thù. Và một tiếng hét căm hờn, phẫn uất đã vang vọng khắp núi rừng Xô man, tiếng hét ấy như khơi dậy cao độ lòng căm thù giặc của cả buôn làng. Xác mười tên giặc đã chết nằm ngổn ngang trên mặt đất.
Tnú còn một lòng trung thành với Cách mạng, luôn hướng về Đảng, vể tự do dân tộc. Bọn giặc tra tấn mẹ con Mai dã man nhưng Tnú không xông ra ngay vì không muốn mắc mưu thằng Dục, không muốn phong trào cách mạng ở buôn làng không có người lãnh đạo để rồi tan rã. Tnú cắn răng chịu đựng, cố vượt qua nỗi bi kịch cá nhân mình, đặt lợi ích của cộng đồng lên trên hết dù anh rất yêu thương vợ con. "Ở chỗ hai con mắt anh bây gời là hai cục lửa lớn".
Một con người gan góc ấy tưởng chừng đã chai lì cảm xúc, nhưng Tnú lại là một người giàu tình thương. Khi bản năng yêu thương đã đạt mức tột cùng, nó cho Tnú cam đảm "nhảy xổ vào giữa bọn lính" mặc cho "tiếng lên đạn lách cách quanh anh". Hai cánh tay như hai cánh lim rộng của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai, Tnú ấy thân mình bảo vệ cho vợ con. Nhưng rồi Tnú cũng không cứu sống được vợ con mình. Đó chính là nỗi bi kịch của bạn thân Tnú. Đó là một phần động lực để Tnú cầm súng lên đường với mỗi ngón tay chỉ còn hai đốt trả thù cho vợ con, cho quê hương, bản làng mà anh yêu quý.
Ba năm đi giải phóng quân, Tnú lúc nào cũng nhớ về bản làng. Tnú nhớ thằng bé Heng, "ngày anh ra đi, nó chỉ mới đứng đến ngang bụng anh" mà nay nó đã "vác một khẩu súng trường Mát. Ra vẻ một người lính thực sự". Tnú nhớ về một cụ Mết "ngực căng như cây xà nu lớn" qua bao năm vẫn "quắc thước như xưa". Tnú nhớ về cô bé Dít ngày nào nay đã làm Bí thư Chi bộ... Hình ảnh mỗi người làng Xô Man đều in đậm trong Tnú, đó là tình yêu quê hương, tình yêu buôn làng tha thiết. Tnú chấp nhận mọi khổ đau, bất chấp mạng sống của mình bảo vệ làng, để dân làng thấy được lẽ phải, để buôn làng sống trong ấm no, tự do. Ngày về làng gặp Dít, Tnú "không ngờ Dít lớn lên lại giống Mai đến thế". Hình ảnh người vợ đã ngã xuống mãi trong lòng Tnú và chắc hẳn rằng Tnú sẽ còn mang theo nó đến hết cuộc đời mình.
Tnú còn là một người chấp hành kỉ luật rất nghiêm. Dù xa làng bao năm, nhưng Tnú không bao giờ tự ý bỏ về thăm làng. Cấp trên chỉ cho về phép một đêm nhưng trong sự lưu luyến của dân làng, sáng hôm sau Tnú lại lên đường trở về đơn vị.
Là hình ảnh đại diện cho dân làng Xô Man, cho người Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Ta có thể thấy ở Tnú hội tụ đủ những tố chất của một anh hùng dân tộc: gan góc, táo bạo, dũng cảm và giàu lòng yêu thương. Nguyễn Trung Thành đã rất thành công trong việc xây dựng hình tượng hình ảnh người anh hùng lí tưởng. Tnú như một cây xà nu chắc khoẻ, dẻo dai. Vừa là nguyên mẫu mang những vẻ đẹp ngoài đời, nhưng Tnú cũng vừa mang những vẻ đẹp của một anh hùng sử thi Tây Nguyên như Đăm Săn, Chi Bri - Chi Brít. Cũng qua tác phẩm và hình ảnh Tnú, tác giả đã nêu lên một chân lí tất yếu thông qua lời phát ngôn của cụ Mết "chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo". Đó chính là tư tưởng chủ đạo trong đường lối cách mạng của Đảng, của dân tộc ta.
Bằng hình tượng nhân vật Tnú, nhà văn đã khắc hoạ được hình ảnh tiêu biểu của dòng máu, tính cách núi rừng Tây Nguyên. Qua đó, Nguyễn Trung Thành còn gợi ra được số phận và phẩm chất của cả cộng đồng trong cuộc chiến đấu bảo vệ buôn làng thân yêu. Đó là tình cảm gắn bó thiết tha sâu nặng với quê hương đất nước, với núi rừng Tây Nguyên, căm thù giặc sâu sắc, một lòng một dạ đi theo cách mạng, không ngại khó khăn, gian khổ, tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng. Có thể nói qua thiên truyện ngắn xuất sắc này của Nguyễn Trung Thành, người đọc càng thêm hiểu và thêm trân trọng Tây Nguyên vốn được koi là vùng đất "rừng thiêng nước độc" với biết bao phẩm chất thật đẹp, thật cao quý. Họ cũng chính là hình ảnh đẹp đẽ, tiêu biểu cho con người Việt Nam thời chống Mĩ
Theo chương trình PTTH không phân ban (3 đ)
Phân tích hình tượng Cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn
Trung Thành. Nhận xét ngắn gọn về nghệ thuật miêu tả cây xà nu của nhà văn.
Nguyễn Trung Thành là nhà văn có duyên nợ gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên. Qua hai cuộc kháng chiến cùng vào sinh ra tử với những người dân nơi đây đã cung cấp cho Nguyễn Trung Thành một vốn hiểu biết vô cùng sâu rộng về mảnh đất âm vang rộn tiếng cồng chiêng trong mùa lễ hội, nơi có những người con trung dũng, kiên cường. Nếu trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Trung Thành - bút danh Nguyên Ngọc nổi tiếng cùng "Đất nước đứng lên"; thì trong những năm kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt là những năm 1965 khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam đang diễn ra gay go ác liệt thì Nguyễn Trung Thành cho ra mắt người đọc truyện ngắn "Rừng xà nu". Tác phẩm này đã là một bản hùng ca, ca ngợi cuộc sống và con người Tây Nguyên trong cuộc chiến tranh vĩ đại. Và nổi bật hơn cả trong tác phẩm chính là hình tượng cây xà nu.
Cây xà nu là một hình tượng nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành. Xuyên suốt trong tác phẩm ta bắt gặp những cánh rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời. Cây xà nu là một loài cây quen thuộc, có mặt trong cuộc sống hàng ngày của người dân Tây Nguyên. "Củi xà nu cháy trong mỗi bếp lửa gia đình, khói xà nu nhuộm bảng đen cho con trẻ học chữ, đuốc xà nu rọi sáng sân nhà Ưng trong những đêm lễ hội...". Tất cả mọi hoạt động dù lớn dù nhỏ của người dân Tây Nguyên đều có sự góp mặt của cây xà nu. Sự sống của dân làng Xô Man đều gắn liền với những cánh rừng xà nu. Khi Nguyễn Trung Thành viết : "Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc, chúng nó bắn đã thành lệ, ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi vào những ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn", nhà văn đã phản ảnh không khí căng thẳng của thời đại, gợi lên sự đối mặt quyết liệt giữa sự sống và cái chết. Nổi bật trên nền bối cảnh ấy, Nguyễn Trung Thành đã đi sâu miêu tả những đặc điểm nổi bật của câu xà nu. Cũng như bao loài cây khác, cây xà nu là một loài cây ham ánh sáng và khí trời "trong rừng ít có loài cây nào sinh sôi nảy nở khoẻ đến vậy... ít có loài cây nào ham ánh sáng đến thế" cũng có nghĩa là ham sống, khao khát muốn được vươn lên giữa bầu trời cao rộng.
Thế nhưng trong những năm tháng chiến tranh ác liệt ấy, cũng như bao cánh rừng khác của Việt Nam, rừng xà nu đã bị tàn phá rất dữ dội "Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão; ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt rồi dần dần bầm lại đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn". Tuy vậy, bất chấp mọi sự tàn phá huỷ diệt của chiến tranh, cây xà nu vẫn vươn lên với một sức sống mãnh liệt "cạnh cây mới ngã gục đã có bốn, năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời". Tư thế vươn lên mạnh mẽ ấy của cây xà nu như để thách thức với bom đạn của chiến tranh "đố chúng nó giết được cây xà nu đất ta". Sức sống mãnh liệt đã giúp những cánh rừng xà nu vươn lên trong một màu xanh, hiện lên hiên ngang, kiêu dũng như một tráng sĩ "cứ thế hai ba năm sau, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng Xô man".
Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, Nguyễn Trung Thành đã dựng lên thật thành công và rõ nét, ấn tượng về hình tượng cây xà nu. Không dừng lại ở đó, Nguyễn Trung Thành còn đặt hình tượng cây xà nu vào trong quan hệ đối chiếu sóng đôi với con người mảnh đất Tây Nguyên. Nếu cây xà nu là một loại cây ham ánh sáng và khí trời, thì người dân Tây Nguyên yêu tự do, tin vào Đảng, đi theo bước chân cách mạng như muôn cây vẫn hướng vào ánh sáng mặt trời. Nếu cây xà nu bị tàn phá, huỷ diệt bởi đạn bom, khói lửa thì những người dân Tây Nguyên phải chịu bao đau thương mất mát do chính kẻ thù gây ra. Bao nhiêu người bị giặc giết chết như những cây xà nu bị chặt đứt ngang nửa thân mình, bao nhiêu người còn sống mà phải mang trong mình bao nỗi thương đau. Bằng cách miêu tả hình ảnh cây và người trong quan hệ sóng đôi như thế, Nguyễn Trung Thành đã khắc sâu tội ác dã man của kẻ thù để qua đó tác giả giúp ta hình dung rõ hơn những thảm cảnh dân ta phải chịu do bọn giặc gây ra.
Cũng giống như những cánh rừng quê hương, như những con người Việt Nam vẫn ý thức được rằng:
"Gươm nào chia được dòng Bến Hải
Lửa nào thiêu được dãy Trường Sơn
Căm hờn lại giục căm hờn
Máu kêu trả máu đầu van trả đầu"
Các thế hệ nhân dân Tây Nguyên đã thay nhau tiếp nối đứng lên. ánh sáng của niềm tin "Đảng còn thì núi nước này còn" đã soi đường chỉ lối cho những bước chân đến với cách mạng. Thế hệ này ngã xuống, thế hệ sau tiếp nối đứng lên; anh Sút bà Nhan bị giặc giết, đi thay họ tiếp tế nuôi quân đã có T Nú và Mai. Cứ như thế, các thế hệ người Tây Nguyên đã thay nhau giữ vững ngọn lửa truyền thống, thay nhau giữ vững ý chí đánh giặc kiên cường, để giữ làng, giữ nước của dân làng Xô man nói riêng và của người Tây Nguyên nói chung.
Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Trung Thành, cây xà nu hiện lên sừng sững, đồng hành với những bước đi, cuộc sống của dân làng Xô man. Gắn bó với cánh rừng anh dũng, kiêu hùng, những người dân Tây Nguyên như được tiếp thêm sức mạnh để đứng lên chiến đấu. Và gắn bó với con người Tây Nguyên ân tình, thuỷ chung, trung dũng như thế. Cây xà nu cũng luôn luôn sánh bước cùng họ để họ có cuộc sống bình yên hơn; để "hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi vào những ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn" chứ không nhằm vào những người dân vô tội lầm than.
Cây xà nu là hình tượng mang đậm chất lý tưởng, tiêu biểu cho phẩm chất, số phận của người dân Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu trong tác phẩm mang đậm chất sử thi, tính hào hùng, nó làm rõ chủ đề tư tưởng của truyện ngắn "Rừng xà nu". Để xây dựng một hình tượng xà nu như thế, Nguyễn Trung Thành đã sử dụng những câu văn miêu tả, những từ ngữ, hình ảnh chọn lọc đặc sắc, cùng nghệ thuật so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, giọng văn miêu tả trong tác phẩm rất linh hoạt.
Có đọc "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành ta mới cảm nhận hết vẻ đẹp hình tượng cây xà nu. Hình tượng này đã góp phần tạo nên một "Rừng xà nu" trọn vẹn, mang đậm giá trị văn học. Nguyễn Trung Thành đã góp phần làm phong phú thêm cho nền văn học dân tộc.
Vào đại học không phải là con đường duy nhất
Trong xu thế đổi mới và hội nhập, ngành GD-ĐT nước ta đã có bước phát triển nhanh về số lượng các trường đại học và cao đẳng. Nhưng vào đại học không phải là con đường lựa chọn duy nhất.
Bằng việc dành hơn 20% GDP cho giáo dục, đồng thời cho phép thành lập thêm nhiều trường ĐH, cũng như cho phép nâng cấp nhiều trường Cao đẳng lên thành trường ĐH, vậy là khắp nơi, từ miền ngược đến miền xuôi, từ thành phố đến những vùng xa xôi hẻo lánh, các trường ĐH mọc lên như nấm sau mưa, tỉnh thành nào cũng có ít nhất một trường ĐH với đủ mọi loại hình đào tạo: Chính quy, tại chức, chuyên tu, liên thông... Đó là một tín hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, sẽ không có gì đáng nói nếu như khâu tuyển sinh cũng như chất lượng giáo dục ĐH ở nước ta không có vấn đề. Và đặc biệt, tâm lý của các bậc phụ huynh trong việc định hướng cho con em sau khi tốt nghiệp THPT là điều cần xem lại.
Do có nhiều trường ĐH, nên cơ hội học tập ở bậc học này của học sinh cao hơn rất nhiều. Vậy là, người ta đua chen nhau để kiếm cho con em họ một chỗ ngồi trong giảng đường ĐH, bằng đủ mọi con đường và bằng bất cứ giá nào: Không vào được chính quy thì học tại chức, không công lập thì dân lập. Nếu gia đình khá giả hơn thì cho con em đi du học. Miễn sao sau 4-5 năm học tập, có tấm bằng ĐH là toại nguyện. Trong khi họ không thèm để ý xem con em mình học hành thế nào, nguyện vọng của chúng ra làm sao? Sự tư duy kiểu này không chỉ ở những người ít học, mà ngay cả những người có học thức cao, thậm chi có người là cán bộ cấp huyện cấp tỉnh. Từ đó xảy ra nhiều chuỵện cười ra nước mắt.
Tôi có anh bạn là giáo viên THPT, con gái đầu của anh học hành làng nhàng, chỉ ở dưới mức trung bình. Thế nhưng, anh không hề quan tâm về điều đó mà chỉ ra "sắc lệnh" cho con là phải vào ĐH. Trong kỳ thi tốt nghiệp đợt 1, con của anh bị rớt, phải thi lại lần 2.
Nhưng ước mong con vào ĐH không làm anh nản chí. Anh ra sức động viên con cố gắng, tạo mọi điều kiện có thể, nhưng do năng lực có hạn nên sau thời gian lên thành phố "tầm sư học đạo" và 2 lần "lều chõng" đi thi, tốn kém về tiền bạc không ít, để rồi kết quả cuối cùng không được mong đợi: chưa đạt điểm sàn. Và chỉ đến khi không còn hy vọng gì nữa, "bước đường cùng" anh mới gật đầu chấp nhận cho con học dân lập, xem đó như là một sự an ủi, vì dẫu sao cũng có tiếng là có con học ĐH.
Trở lại vấn đề chất lượng giáo dục ĐH. Một vấn đề "nóng" được dư luận xã hội quan tâm và báo chí tốn không ít giấy mực. Cũng do mãi chạy theo hình thức mà chưa chú trọng đến khả năng, nên ĐH của ta chỉ mới vươn lên ở tầm cao mà chưa có chiều sâu, dẫn đến hiệu quả đào tạo còn thấp. Có trường thì phải có người học, người học càng đông càng tốt, vì như vậy mới có kinh phí để hoạt động và... có lãi. Năm nào cũng thấy trường này trường kia xin thêm chỉ tiêu đào tạo.Chinh vì thế mà chất lượng đầu vào bị xem nhẹ. Năm học 2008-2009, có trường ĐH tuyển sinh chỉ từ 5- 6 điểm, thậm chí chỉ cần tốt nghiệp THPT cũng có thể đi học ĐH.
Chúng ta không ngạc nhiên khi tình trạng một sinh viên tốt nghiệp ĐH nhưng không thể đảm đương công việc được giao. Tôi không có ý nói SV nào cũng vậy, nhưng rõ ràng đây là hiện tượng khá phổ biến.Và chúng ta hãy tưởng tượng xem điều gì sẽ đến khi trình độ chuyên môn của một cử nhân hay kỹ sư còn chưa bằng người tốt nghiệp trường nghề. Nhiều người phải "nửa đường đứt gánh" hay sa vào vòng lao lý cũng chỉ vì trình độ kém cỏi.
Một người bạn khác của tôi, anh Dần, làm nghề kinh doanh máy vi tính, than thở: "Không biết ở ĐH họ học gì mà đến những việc cài đặt đơn giản cũng không biết". Chả là, chỗ anh làm việc là trung tâm huyện, nơi tập trung nhiều cơ quan, trường học. Mỗi khi có việc gì liên quan đến máy vi tính lại phải nhờ đến anh, trong khi cơ quan sở hữu nhiều cán bộ có trình độ cử nhân tin học hẳn hoi.
Theo anh Dần, làm việc gì cũng được, miễn là không vi phạm pháp luật, và điều quan trọng hơn cả là phải có tay nghề thật tốt. Thời đi học, anh thuộc diện khá của lớp, song hoàn cảnh gia đình không cho phép anh học lên cao, nên anh đành phải đi học nghề và giờ đây anh đã tạo dựng được cơ ngơi kha khá. Dù anh mới chỉ có trình độ kỹ thuật viên và thời gian làm việc chưa dài.
Thực tế hiện nay, sự mất cân đối trong giáo dục, đào tạo là một sự thật hiển nhiên. Hiện tượng "thừa thầy thiếu thợ" làm các nhà hoạch định nhân lực cho đất nước phải đau đầu. Là vấn đề "nóng" trong bàn nghị sự các cấp. Để giải quyết tình trạng này,theo tôi , phải bắt đầu từ gốc. Nghĩa là phải nâng cao nhận thức của người dân trong việc lựa chọn nghề nghiệp cho mình hay cho con em mình, rằng: Vào ĐH không phải là con đường duy nhất để vào đời. Sự lựa chọn một con đường đúng đắn sẽ có ý nghĩa quyết định cho tương lai mỗi người. Để thay cho lời kết, xin nhắc lại một câu nói nổi tiếng của Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng: "Một người công nhân tốt còn hơn là một kỹ sư tồi".
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top