TLVM6

Ba bằng chứng về biến động kinh tế 

Những biến động ngắn hạn trong hoạt động kinh tế diễn ra ở các nước và mọi thời đại trong suốt chiều dài lịch sử. Để có điểm khởi đầu cho việc tìm hiểu những biến động từ năm này sang năm khác, chúng ta hãy trình bày một vài tính chất quan trọng nhất của chúng. 

Bằng chứng 1: Các biến động kinh tế diễn ra bất thường và không thể dự báo 

Biến động của nền kinh tế thường được gọi là chu kỳ kinh doanh. Như thuật ngữ này cho thấy, biến động kinh tế gắn liền với những thay đổi trong điều kiện kinh doanh, khi GDP tăng trưởng nhanh, hoạt động kinh doanh phát đạt. Các doanh nghiệp thấy có rất nhiều khách hàng và lợi nhuận ngày càng tăng. Ngược lại, khi GDP thực tế giảm, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Trong thời kỳ hoạt động kinh tế suy giảm, hầu hết các doanh nghiệp bán được ít hàng hơn và kiếm được ít lợi nhuận hơn.

Tuy nhiên, thuật ngữ chu kỳ kinh doanh có thể dẫn tới sự hiểu lầm, vì nó có vẻ hàm ý rằng biến động kinh tế tuân theo một quy luật mang tính định kỳ và có thể dự báo trước. Trên thực tế, chu kỳ kinh doanh không hề có tính chất định kỳ và không thể dự báo với độ chính xác cao. 

Bằng chứng 2: Hầu hết các đại lượng kinh tế vĩ mô biến động cùng nhau 

GDP thực tế được dùng để theo dõi những thay đổi trong ngắn hạn của nền kinh tế vì nó là đại lượng toàn diện nhất về hoạt động kinh tế. GDP thực tế phản ánh giá trị hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong một thời kỳ nhất định. Nó cũng phản ánh tổng thu nhập (đã trừ lạm phát) của mọi người trong nền kinh tế. 

Nhưng thực ra khi theo dõi biến động kinh tế ngắn hạn lại khác, việc sử dụng đại lượng nào để phản ánh hoạt động kinh tế mà chúng ta theo dõi không quan trọng. Phần lớn các biến cố kinh tế vĩ mô phản ánh dạng nào đó của thu nhập, chi tiêu hay sản xuất, biến động cùng với nhau. Khi GDP giảm trong thời kỳ suy thoái, thì thu nhập cá nhân, lợi nhuận công ty, tiêu dùng, đầu tư, sản xuất công nghiệp, doanh số bán lẻ, quy mô mua bán nhà cửa và ô tô cũng giảm xuống. Do suy thoái là một hiện tượng xảy ra trong toàn nền kinh tế, nên nó biểu thị trong nhiều nguồn số liệu vĩ mô khác nhau. 

Mặc dù các biến số kinh tế biến động cùng với nhau, song chúng biến động với quy mô khác nhau. Cụ thể, đầu tư biến động rất mạnh trong thời kỳ kinh doanh. Mặc dù đầu tư chỉ là một phần nhỏ trong GDP, nhưng sự suy giảm trong đầu tư đóng góp lớn vào mức suy giảm GDP trong thời kỳ suy thoái. Nói cách khác, khi tình hình kinh tế xấu đi, phần lớn mức suy giảm đều bắt nguồn từ giảm sút chi tiêu để xây dựng nhà máy, nhà ở và bổ sung thêm hàng tồn kho mới. 

Bằng chứng 3: Khi sản lượng giảm, thất nghiệp sẽ tăng 

Những thay đổi trong sản lượng hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế gắn chặt với những thay đổi trong việc sử dụng lực lượng lao động của nền kinh tế. Nói cách khác, khi GDP thực tế giảm, thất nghiệp sẽ tăng. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên: khi các doanh nghiệp sản xuất ít hàng hóa và dịch vụ hơn, họ sa thải bớt công nhân và số người thất nghiệp tăng. 

Biến động kt lại k thể dự báo trước dc vì :

Biến động của nền kt thường dc gọi là chu kì kinh doanh .như thuật ngữ này cho thấy biến động kt gắn liền với những dk thay đổi trong hđ kinh doanh .Khi GDP tăng trưởng nhanh ,hđ kinh doanh phát đạt .Các Dnghiep có n khách hàng và lợi nhuận ngày càng tăng .ngược lại GDP giảm các Dnghiep gặp nhiều khó khăn.Trong thời kì hdong kt suy giảm ,hầu hết các Dnghiep bán dc ít hàng hơn và kiếm đc ít lợi nhuận.

Tuy nhiên thuật ngữ chu kì kinh doanh có thể dẫn đến hiểu lầm ,vì nó có hàm ý rằng nó biến động diễn ra theo quy luật và có thể báo trước dc.Trên thực tế chu kì kinh doanh k hề có tchat định kì và k thể dự báo với độ chính xác cao.

Chu kỳ kinh tế, còn gọi là chu kỳ kinh doanh, là sự biến động của GDP thực tế theo trình tự ba pha lần lượt là suy thoái, phục hồi và hưng thịnh (bùng nổ). Cũng có quan điểm coi pha phục hồi là thứ yếu nên chu kỳ kinh doanh chỉ gồm hai pha chính là suy thoái và hưng thịnh (hay mở rộng)

Chu kỳ kinh tế là những biến động không mang tính quy luật. Không có hai chu kỳ kinh tế nào hoàn toàn giống nhau và cũng chưa có công thức hay phương pháp nào dự báo chính xác thời gian, thời điểm của các chu kỳ kinh tế. Chính vì vậy chu kỳ kinh tế, đặc biệt là pha suy thoái sẽ khiến cho cả khu vực công cộng lẫn khu vực tư nhân gặp nhiều khó khăn. Khi có suy thoái, sản lượng giảm sút, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, các thị trường từ hàng hóa dịch vụ cho đến thị trường vốn...thu hẹp dẫn đến những hậu quả tiêu cực về kinh tế, xã hội.

Liên hệ thực tế VN ,nhận xét và kiến nghị

Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2012 phụ thuộc vào ba yếu tố chính: tình hình kinh tế thế giới, sức mạnh nội tại và ổn định kinh tế vĩ mô trong nước và sự điều hành của Chính phủ. Tuy nhiên bên cạnh những thời cơ, thuận lợi thì cũng đặt ra nhiều thách thức cho cả ba yếu tố trên.

Trong ngắn hạn, năm 2012 sẽ tiếp tục chứng kiến sự phục hồi ở những nền kinh tế trên thế giới. Hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế sẽ được hồi phục nhanh hơn sau khi có sự phục hồi chậm trong năm 2011. Hơn nữa, Việt Nam vẫn được đánh giá là một trong những thị trường đầu tư hấp dẫn và nhiều doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có kế hoạch mở rộng hoạt động kinh doanh trong những năm tới. Những điều này tạo ra những ảnh hưởng tích cực trực tiếp lên nền kinh tế Việt Nam để có thể duy trì tăng trưởng khả quan hơn trong năm 2011. Tuy nhiên, xuất khẩu của Việt Nam sẽ chịu thách thức lớn hơn, nhất là trong bối cảnh hậu khủng hoảng những rào cản thương mại mới ngày càng nhiều với các hành vi bảo hộ thương mại tinh vi tại các thị trường lớn sẽ dành cho các mặt hàng xuất khẩu, nhất là các mặt hàng chủ lực của Việt Nam như khoáng sản, nông, lâm, hải sản.

Đối với trong nước, những bất ổn vĩ mô và những yếu kém trong nội tại nền kinh tế sẽ trở thành thách thức lớn cho phát triển kinh tế năm 2012. Trước hết, những nhân tố tiềm ẩn lạm phát vẫn tiếp tục trong năm 2012. Đó là giá cả thị trường thế giới sẽ tăng khi kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi, chính sách điều chỉnh tăng lương vào tháng 5/2011 sẽ tạo ra tâm lý và lý do để thị trường tăng giá hàng hóa tiêu dùng, tỷ giá biến động, đầu tư công chưa hiệu quả và bội chi ngân sách tiếp tục gây sức ép lên lạm phát… Thứ hai, mặc dù tình trạng nhập siêu đã được cải thiện nhưng chưa tạo được nền tảng vững chắc. Tình trạng này chắc chắn không dễ giải quyết trong ngắn hạn khi cơ cấu kinh tế kém hiệu quả, công nghiệp phụ trợ yếu kém và nguyên phụ liệu, máy móc, thiết bị, phụ tùng còn phụ thuộc khá nặng nề vào nước ngoài. Thứ ba, bội chi ngân sách cũng là áp lực cần giải quyết. Với mức bội chi cao và nếu nguồn vốn bù đắp ngân sách chủ yếu từ thị trường vốn trong nước, mặt bằng lãi suất sẽ chịu áp lực của nhu cầu vốn, mà đầu tiên là lãi suất tiền gửi ngân hàng.Trong bối cảnh thâm hụt, cơ cấu chi, hiệu quả chi và khả năng kiểm soát chi thể hiện dấu hiệu thiếu bền vững của ngân sách bởi các khoản chi tiêu của chính phủ không tạo nên nguồn thu trong tương lai và gây sức ép cho bội chi mới. Thứ tư, đồng nội tệ sẽ tiếp tục bị áp lực giảm giá trong thời gian tới vì lạm phát của Việt Nam luôn ở mức cao hơn so với khu vực và thế giới và NHNN không thể dùng dự trữ ngoại hối ít ỏi để can thiệp mạnh theo nhu cầu vì cần ngoại tệ để giải quyết các nhu cầu thiết yếu khác. Thứ năm, những “nút thắt” của tăng trưởng kinh tế như cơ sở hạ tầng, trình độ nguồn nhân lực và cải cách hành chính vẫn chưa có sự chuyển biến rõ rệt.

Về điều hành kinh tế vĩ mô, hiện nay chúng ta dựa trên 3 công cụ chính để tác động đến nền kinh tế, đó là chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ và chính sách cán cân thanh toán. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các chính sách đó còn lúng túng và thiếu linh hoạt. Nhiều chính sách mạng nặng tính hành chính và thiếu kết hợp với các giải pháp dựa trên nguyên tắc thị trường. Hơn nữa, các cơ quan quản lý nhà nước còn đưa ra các giải pháp mang tính tình thế, giật cục, thiếu sự minh bạch và nhất quán làm giảm lòng tin của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp. Năng lực dự báo kém cộng với dự kiến các biện pháp ứng phó với diễn biến kinh tế thấp kém cũng là những hạn chế quản lý vĩ mô nền kinh tế.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: