tlbb2428
Ngọn đèn mờ tỏ câu ân ái,
Tình xưa gợi lại chuyện oan gia.
*
* *
Tình cảnh trong nhà lúc đó nếu như Tiêu Phong không chính mắt chứng kiến, thì dù có ai kể lại cho ông, ông cũng sẽ cho là chuyện hoang đường, đặt điều bịa chuyện. Sau lần đầu tiên nơi rừng hạnh bên ngoài thành Vô Tích, ông gặp bà ta thêm hai lần nữa, lúc nào cũng thấy Mã phu nhân mặt lạnh như băng, tỏ ra một người không ai có thể mạo phạm được, đến nụ cười cũng chưa lộ ra lần nào, có ngờ đâu lại biến thành như thế này. Kỳ quái hơn nữa, bà ta đã từng dùng lời hãm hại Đoàn Chính Thuần, ắt hai người phải có thâm thù đại hận, thế nhưng trông tình cảnh trong căn nhà nhỏ, rượu chuốc hương nồng, tình ý triền miên, bốn mắt đưa tình đầy vẻ yêu thương, hai người có gì gọi là ghét bỏ nhau đâu? Trên bàn là một bình hoa lớn cắm đầy hồng mai, dưới giường ắt hẳn lò than đang đỏ, khuy cài cổ Mã phu nhân bung ra, để lộ làn da trắng ngần, hở cả một bên chiếc yếm bằng gấm đỏ. Bên cạnh giường đốt hai cây nến trắng, ánh lửa bập bùng chiếu lên khuôn mặt ửng hồng. Bên ngoài gió vẫn mạnh, tuyết vẫn đổ nhưng trong nhà thực là ấm áp tình xuân. Chỉ nghe Đoàn Chính Thuần nói:
- Lại đây, lại đây nào! Uống thêm với ta một chén nữa cho đủ cặp đủ đôi.
Mã phu nhân hứ một tiếng, phụng phịu nói:
- Cái gì mà đủ đôi đủ cặp? Thiếp một thân một mình ở đây, cô đơn lạnh lẽo, sáng đợi chiều trông, đêm mong ngày nhớ, lúc nào cũng mơ tưởng đến kẻ oan gia, còn chàng... chàng... thì đã quên bẵng đi rồi, có bao giờ nghĩ đến chuyện thăm hỏi một câu nào đâu?
Nói đến đây, mắt nàng rưng rưng tưởng chừng sa lệ. Tiêu Phong nghĩ thầm: Nghe giọng điệu bà ta thật chẳng khác gì Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc, không lẽ... không lẽ... cũng đã dan díu với Đoàn Chính Thuần từ lâu rồi?.
Đoàn Chính Thuần dịu giọng đáp:
- Ta ở Đại Lý, có ngày nào không khắc khoải nhớ nhung Tiểu Khang của ta đâu? Chỉ hận không chắp cánh mà bay tới để được ôm nàng vào lòng, say đắm thương yêu nàng một lát. Đến khi nghe tin nàng cùng Mã phó bang chủ thành hôn, ta ba ngày ba đêm không ăn không ngủ. Nàng đã có chỗ trao thân gửi phận, nếu ta vẫn còn đến thăm chẳng hóa ra làm lụy đến nàng hay sao? Mã phó bang chủ là một anh hùng hảo hán rất có thân phận trong Cái Bang, nếu ta đến chàng màng tằng tịu với nàng thì thật coi y chẳng ra gì, ta... ta... chẳng hóa thành kẻ tiểu nhân đê tiện ư?
Mã phu nhân nói:
- Nào có ai đòi chàng phải đến để vui vầy với thiếp? Thiếp chỉ khắc khoải không biết chàng có bình yên không? Trong lòng có sảng khoái không? Chuyện lớn chuyện nhỏ có xuôi chèo mát mái không? Chỉ mong chàng yên lành là thiếp mãn nguyện rồi, trên đời cũng còn được đôi điều đáng sống. Chàng ở nơi Đại Lý xa xăm, thiếp muốn nghe ngóng tin chàng thật khó khăn biết mấy. Thiếp thân tại Tín Dương, nhưng trái tim này có giờ nào, khắc nào không ở bên chàng đâu?
Nàng ta càng nói càng nhỏ dần, giọng vẫn thật là tự nhiên không có vẻ gì muốn mê hoặc ai, Tiêu Phong nghe dường như trong nũng nịu có chiều hờn mát, tuy nhẹ nhàng nhưng lại xem như trách móc, nghe vào tai khiến phải mềm lòng làm cho người ta hồn vía đi đâu mất. Bình sinh Tiêu Phong đã từng gặp biết bao nhiêu người nhưng không ngờ trên đời này lại có người đàn bà quyến rũ đến như thế khiến ông tuy ngạc nhiên thật nhưng mặt cũng phải đỏ lên. Ông đã gặp hai người tình nhân của Đoàn Chính Thuần, Tần Hồng Miên thẳng thắn bộc trực, Nguyễn Tinh Trúc xinh đẹp yêu kiều còn Mã phu nhân đây mềm mỏng đến cùng cực, ngọt ngào cũng cùng cực nhưng lại có mấy phần tình tứ. Đoàn Chính Thuần mặt tươi như hoa, giơ tay cầm nàng kéo lại, để lên lòng. Mã phu nhân ứ hự một tiếng, nửa chịu nửa không, giơ tay giả vờ đẩy ra. Tiêu Phong chau mày, không muốn nhìn hai người giở trò sàm sỡ, bỗng nghe bên cạnh có tiếng chân người đạp lên tuyết, nghe bép một tiếng. Ông kêu thầm: Không xong, hai mụ này thể nào cũng nổi cơn ghen làm hỏng hết chuyện lớn của ta. Thân hình ông vụt như gió lẻn ngay ra sau bốn người bọn Tần Hồng Miên, giơ tay điểm huyệt cả bọn. Bốn người đó chưa kịp biết ai ra tay thì đã cứng đơ nhưng lần này Tiêu Phong điểm luôn cả huyệt câm để cho họ muốn nói cũng không được. Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc nghe tình lang cùng người đàn bà ở bên cạnh nói chuyện gió trăng, lửa giận bừng bừng, cơn ghen kéo đến nhưng chỉ chịu khổ giữa trời tuyết mà không thể làm gì hơn. Tiêu Phong lại ghé mắt vào khe cửa nhìn thấy Mã phu nhân đã ngồi bên cạnh Đoàn Chính Thuần, đầu tựa vào vai ông ta, người gục xuống mềm nhũn tưởng như chẳng còn xương cốt, mớ tóc dài đen nhánh che xõa hết một nửa mặt Đoàn Chính Thuần. Đôi mắt bà ta lim dim hé mở nói:
- Chồng thiếp bị người ta giết hại, chàng thể nào chẳng nghe tin, vậy mà sao không lại hỏi thăm nhau một chút? Trượng phu thiếp không còn,
chàng có còn phải ngại ngùng gì nữa đâu?
Giọng nói nửa như trách cứ nửa như nhõng nhẽo. Đoàn Chính Thuần cười nói:
- Thế ta chẳng đến thì là gì? Ta vừa được tin, lập tức đi ngay, bất kể đêm ngày, ngựa không ngừng vó từ Đại Lý tới đây, chỉ sợ chậm mất một bước.
Mã phu nhân hỏi lại:
- Sao lại sợ chậm mất một bước?
Đoàn Chính Thuần mỉm cười:
- Sợ là sợ nàng không chịu nổi cảnh phòng không gối chiếc, đi lấy người khác mất rồi thì Đại Lý Đoàn nhị này bôn ba rong ruổi có phải công toi, mười năm nhớ nhung của ta trôi theo dòng nước.
Mã phu nhân hứ một tiếng nói:
- ối chào, nói gì chẳng nói lại vu cho người ta không chịu nổi cảnh phòng không gối chiếc đi lấy người khác? Chàng nghĩ tới thiếp hồi nào mà bảo là mười năm nhung nhớ, không sợ rụt lưỡi hay sao?
Đoàn Chính Thuần hai tay kéo lại, ôm nàng ta càng chặt thêm, cười nói:
- Nếu như ta không nhớ nàng thì sao lại từ Đại Lý lặn lội tới đây?
Mã phu nhân mỉm cười:
- Thôi được, cứ cho là chàng nhớ thiếp đi. Đoàn lang, thế từ nay chàng định sắp xếp cho thiếp thế nào?
Nói đến đây bà ta vòng hai tay vít cổ Đoàn Chính Thuần, đưa má mình vào mặt ông ta, liên tiếp cọ nhè nhẹ, mớ tóc dài bập bềnh như sóng nước. Đoàn Chính Thuần nói:
- Kim triêu hữu tửu kim triêu túy1 ! Chuyện tương lai nói tới làm gì? Thôi lại đây để ta ôm nàng xem mười năm qua có nhẹ đi tí nào không? Hay lại nặng hơn?
Nói xong giơ tay ôm lấy Mã phu nhân. Mã phu nhân nói:
- Thế chàng nhất định không chịu mang thiếp về Đại Lý hay sao?
Đoàn Chính Thuần hơi nhíu mày nói:
- Đại Lý có gì vui đâu? Vừa nóng vừa ẩm, lam sơn chướng khí, nàng đến đó thủy thổ không hợp, lại sinh bệnh mất thôi.
Mã phu nhân thở dài một tiếng, nói nhỏ:
- Ôi, chẳng qua chàng đến chỉ để dỗ dành thiếp cốt vui chơi qua đường đấy thôi.
Đoàn Chính Thuần cười nói:
- Sao lại là vui chơi qua đường? Ta lập tức sẽ làm nàng vui vầy thực sự cho mà xem.
Mã phu nhân hơi vùng ra một cái, đứng xuống đất, rót một chén rượu nói:
- Đoàn lang, uống thêm chén nữa.
Đoàn Chính Thuần nói:
- Ta không uống nữa đâu, say lắm rồi.
Mã phu nhân tay trái đưa ra vuốt ve má người tình nói:
- Không, thiếp không chịu đâu, thiếp muốn chàng uống cho thật say mèm.
Đoàn Chính Thuần cười hỏi lại:
- Say mèm ư? Say mèm thì còn gì thú vị?
Vừa nói ông vừa đưa tay cầm chén rượu uống một hơi cạn sạch. Tiêu Phong nghe hai người nói toàn chuyện gió trăng không còn chịu nổi nữa, thấy Đoàn Chính Thuần uống rượu, cơn thèm nổi lên, nuốt nước bọt một cái. Chỉ thấy Đoàn Chính Thuần há miệng ngáp dài, trông có vẻ mệt mỏi. Mã phu nhân cười tình nói:
- Đoàn lang, để thiếp kể chuyện cho chàng nghe, có chịu không?
Tiêu Phong nghe thế liền phấn chấn, nghĩ thầm: Bà ta kể chuyện xưa, không chừng có đầu mối gì đây. Đoàn Chính Thuần nói:
- Đừng nói vội, lại đây, để ta cởi xống áo cho nàng, nằm bên gối kể ta nghe.
Mã phu nhân lườm ông ta một cái nói:
- Chàng biết không, Đoàn lang, hồi còn nhỏ nhà thiếp nghèo lắm, chỉ mong được may quần áo mới nhưng cha thiếp nào có đâu mà mua. Đêm ngày thiếp chỉ nghĩ giá mình được như tỉ tỉ nhà họ Giang bên cạnh, năm nào cũng có áo hoa, giày hoa mới thì chắc là sướng lắm.
Đoàn Chính Thuần nói:
- Hồi nàng còn nhỏ chắc là dễ thương lắm, một cô bé con thật kháu khỉnh, dẫu có mặc áo rách chăng nữa thì cũng vẫn đẹp như thường.
Mã phu nhân đáp:
- Không đâu, thiếp chỉ thích mặc quần áo mới thôi.
Đoàn Chính Thuần đáp:
- Nàng mặc quần áo tang trắng toát thế này, ôi, lại càng đẹp thêm
mấy phần, quần áo hoa có gì là đẹp đâu?
Mã phu nhân nhếch mép cười, vừa dịu dàng vừa nhỏ nhẹ đáp:
- Hồi thiếp còn nhỏ, cả đêm cả ngày chỉ nghĩ đến quần áo mới đến thành bệnh.
Đoàn Chính Thuần hỏi:
- Cho đến năm mười bảy tuổi phải không?
ánh mắt Mã phu nhân sáng lên, cười khúc khích:
- Đoàn lang, từ hồi đó thiếp trở thành bệnh tương tư chàng. Cái bệnh đó chưa dứt nọc, cho tới nay vẫn chưa hết, chẳng biết kiếp này cái bệnh thương nhớ Đoàn lang có bớt được chút nào không?
Đoàn Chính Thuần nghe thế trong lòng bồi hồi rung động, giơ tay định nắm lấy nàng, nhưng vì uống rượu nhiều quá, chân tay bải hoải, giơ cánh tay lên rồi lại phải bỏ xuống, cười nói:
- Nàng ép ta uống nhiều quá, bây giờ muốn ... muốn ... ha ha, Tiểu Khang ơi! Thế mấy năm sau nàng mới được mặc áo hoa đi giày mới?
Mã phu nhân đáp:
- Chàng từ nhỏ đại phú đại quí, đâu có biết cái khổ của con nhà nghèo. Hồi đó, giá như thiếp có được đôi giày mới thì sung sướng biết mấy. Năm thiếp lên bảy, cha thiếp bảo rằng đến tháng chạp sẽ đem ba con cừu, mười bốn con gà nhà đang nuôi đem ra chợ bán sắm tết, lúc đó sẽ mua thêm một vuông vải hoa đem về may áo mới cho thiếp. Cha thiếp nói thế từ tháng tám, ngày ngày thiếp trông ngóng, chăm chỉ chăn cừu, nuôi gà...
Tiêu Phong nghe thấy chăn cừu chợt chạnh lòng, nhịn không nổi mắt đỏ hoe. Mã phu nhân kể tiếp:
- Chờ mãi mới đến tháng chạp, ngày nào thiếp cũng giục cha thiếp đi bán cừu, bán gà. Cha thiếp chỉ bảo Đừng có nóng ruột, đến khi năm cùng tháng tận, giá cừu giá gà nó mới được cao. Được mấy ngày, trời bỗng đổ tuyết lớn, liên tiếp mấy ngày mấy đêm liền. Chập tối hôm đó, đột nhiên có mấy tiếng lạch cạch, thì ra chuồng cừu bị tuyết làm sập mất rồi. Cũng may mấy con vật không bị chết, cha thiếp mới dắt cừu vào cho ở bên cạnh nói là sẽ sớm đem mấy con cừu ra chợ bán. Ngờ đâu ngay đêm hôm đó bỗng nghe sài lang tru, cừu kêu nhốn nháo cả lên. Cha thiếp nói: Chết rồi, chó sói đến rồi cầm chiếc giáo xông ra. Thế nhưng ba con cừu bị chó sói tha đi mất rồi, bầy gà hơn chục con cũng bị ăn thịt mất hơn một nửa. Cha thiếp kêu toáng lên, chạy vội ra rượt theo chúng định giành trở lại. Cha thiếp đuổi vào trong núi rồi, bụng thiếp lo lắm, không biết cha thiếp có lấy lại được mấy con cừu không. Đợi mãi đợi mãi mới thấy cha thiếp khập khiễng đi về. Cha thiếp bảo rằng tuyết ở triền núi trơn quá nên bị trượt chân, bị thương ở đùi, cái giáo cũng rơi xuống vực mất dĩ nhiên không đoạt lại được mấy con cừu. Thiếp quả là thất vọng, ngồi bệt ngay xuống tuyết khóc òa lên. Bấy lâu nay thiếp phải đi chăn cừu, chỉ mong được mặc quần áo mới, nào ngờ đến lúc cuối lại chẳng có gì. Thiếp vừa khóc vừa gào, luôn mồm giục: Cha ơi! Mau đi đòi mấy con cừu lại, con muốn có áo mới, con muốn có áo mới!.
Tiêu Phong nghe đến đây, lòng chùng xuống: Người đàn bà này trời sinh bạc bẽo, cha mụ ta ngã bị thương, mụ chẳng lo gì đến vết thương của cha, chỉ nhớ đến áo mới của mình, huống chi trời tối đuổi theo đàn sói đói, thật là nguy hiểm xiết bao? Lúc đó tuy còn nhỏ chưa hiểu sự đời nhưng cũng không phải chút nào. Lại nghe bà ta kể tiếp: - Cha thiếp mới bảo: Thôi bé ạ, từ mai trở đi mình lại nuôi mấy con cừu khác, sang năm bán đi, thể nào cũng có áo hoa cho con. Thiếp lại càng khóc to hơn nữa, nhưng đành chịu, còn biết làm sao? Chưa đầy nửa tháng sau đã đến Tết, chị họ Giang nhà hàng xóm mặc một chiếc áo bông thêu hoa đỏ nhụy vàng, mặc một chiếc quần xanh lục thêu hoa vàng. Thiếp trông thấy mà mê mẩn, tức đến bỏ cả ăn uống. Cha thiếp luôn luôn dỗ dành, thiếp nhất định không nhìn nhõi gì đến ông ta. Đoàn Chính Thuần cười nói:
- Nếu lúc đó mà ta biết được, nhất định sẽ gửi đến cho nàng một chục, hai chục cái áo mới.
Nói tới đây ông ta vươn vai một cái, ánh nến lung linh chiếu lên khuôn mặt ngà ngà say đầy sắc dục. Mã phu nhân nói:
- Có một chục, có hai chục cái thì lại chẳng còn thèm thuồng nữa. Tối hôm ba mươi Tết, thiếp nằm trên giường trằn trọc, lăn qua lộn lại không ngủ được, len lén trở dậy, mò qua bên nhà Giang bá bá. Người lớn khi đó còn canh giao thừa chưa đi ngủ, ánh nến chiếu sáng trưng, thiếp thấy chị nhà họ Giang đang nằm ngủ trên giường, quần áo mới đắp trên bụng, ánh lửa bập bùng lại càng đẹp đẽ. Thiếp đứng nhìn ngẩn ngơ một hồi lâu rồi len lén vào trong phòng, cầm bộ quần áo mới.
Đoàn Chính Thuần cười nói:
- Ăn trộm áo mới à? Chao ôi, ta tưởng Tiểu Khang chỉ ăn trộm đàn ông, ngờ đâu lại biết cả ăn trộm quần áo nữa.
ánh mắt Mã phu nhân long lanh, thản nhiên mỉm cười nói:
- Thiếp nào có ăn trộm quần áo đâu! Thiếp lấy chiếc kéo trong giỏ may để trên bàn, cắt vụn chiếc áo mới ra, lại cắt chiếc quần thành từng mảnh, không còn cách gì vá lại được. Thiếp cắt vụn bộ quần áo rồi, trong lòng hết sức vui sướng, sợ còn sướng gấp mấy lần chính mình có quần áo mới.
Đoàn Chính Thuần trước nay vẻ mặt vẫn tươi cười, nghe tới đây, khuôn mặt dần dần biến đổi, xem chừng không vui, nói:
- Tiểu Khang, thôi đừng kể chuyện nữa, mình đi ngủ thôi.
Mã phu nhân đáp:
- Không, dễ gì mà được gặp lại chàng mấy hôm, từ nay về sau, chỉ sợ không còn bao giờ gặp lại nhau, thiếp chỉ muốn nói chuyện với chàng càng nhiều càng tốt. Đoàn lang, chàng có biết tại sao thiếp lại muốn kể chuyện cho chàng nghe hay không? Để cho chàng biết rõ tính khí thiếp, từ bé đã vậy rồi, thích cái gì là ngày đêm mơ tưởng có cho bằng được, ví như người khác may mắn mà có thì bằng giá nào thiếp cũng phải hủy nó đi. Hồi còn bé thì cách làm cũng ngờ nghệch vụng về, đến khi lớn lên rồi thì cũng phải khôn ngoan hơn, cách thức cũng phải khéo léo hơn.
Đoàn Chính Thuần lắc đầu nói:
- Thôi đừng nói nữa. Những chuyện ghê gớm ấy nàng để ta nghe vào tai mất cả hứng đi thì đừng trách ta đấy nhé.
Mã phu nhân mỉm cười đứng lên, từ từ cởi chiếc dải trắng buộc tóc trên đầu, mới tóc dài xõa xuống tận eo, mềm mại đen nhánh. Nàng cầm một chiếc lược bằng gỗ dương vàng, chậm rãi chải mớ tóc dài, đột nhiên quay lại mỉm cười, vẻ mặt thật là kiều mị nói:
- Đoàn lang, chàng lại đây bồng thiếp đi.
Thanh âm cực kỳ lơi lả. Tiêu Phong tuy trong lòng ghét bỏ người đàn bà này nhưng dưới ánh nến nhìn thấy khóe thu ba long lanh, nghe nàng nói chàng lại đây bồng thiếp đi cũng thấy rung động trong lòng. Đoàn Chính Thuần cười hì hì, vịn vào thành giường, toan đứng lên lại bế nàng ta, nhưng vì uống rượu quá nhiều, không nhỏm dậy nổi chỉ nói:
- Gớm chỉ mới uống có sáu bảy chén rượu mà sao say đến thế này.
Tiểu Khang, nàng quả là hoa dung nguyệt mạo nên hôm nay ta vừa gặp đã say chẳng khác gì uống đủ ba cân liệt tửu, ha ha. Tiêu Phong nghe thấy thế, kinh hoảng nghĩ thầm: Chỉ mới uống sáu bảy chén, làm sao say được? Đoàn Chính Thuần nội lực đâu phải tầm thường, dẫu không biết uống rượu chăng nữa cũng không đến nỗi thế, hẳn có chuyện gì khác lạ. Chỉ nghe Mã phu nhân cười khúc khích, nũng nịu nói:
- Đoàn lang, chàng lại đây nào, thiếp không có chút hơi sức nào cả, chàng... chàng... lại đây ôm thiếp đi.
Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc nằm ở bên ngoài song cửa nghe Mã phu nhân õng ẹo đưa tình, câu nào câu nấy lọt vào tai, lửa ghen bốc lên, tưởng chừng muốn vỡ cả lồng ngực nhưng đâu có giơ tay bịt tai được. Đoàn Chính Thuần tay trái tựa vào thành giường, cố gắng đứng dậy, nhưng người cứ cứng đờ, đầu gối mềm nhũn, lại ngồi phịch xuống cười
nói:
- Ta cũng chẳng có chút hơi sức nào, thật là lạ quá. Ta vừa mới gặp nàng đã như chuột gặp mèo, toàn thân mềm nhũn ra ngay.
Mã phu nhân cười nhỏ nhẹ:
- Thiếp không tin đâu, chỉ mới uống có một chút mà đã giả vờ say để nựng người ta. Chàng không vận khí thúc đẩy nội lực được hay sao?
Đoàn Chính Thuần điều vận nội tức, toan đưa chân khí lên nhưng đan điền sao trống rỗng, tưởng chừng không còn gì cả, làm cách nào cũng không được. Ông liên tiếp đề khí ba lần, ngờ đâu công lực tu tập mấy chục năm không còn thấy tăm hơi đâu cả, không biết đi mất từ bao giờ. Bấy giờ Đoàn Chính Thuần mới thấy hoảng biết rằng có điều không hay xảy ra nhưng từng qua lại giang hồ đã lâu, kinh lịch cũng nhiều, trên mặt vẫn thản nhiên như không cười nói:
- Chỉ vận được nội kình sử dụng Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm thôi, thật say tới mức chỉ còn giết người được chứ không còn ôm người được nữa rồi.
Tiêu Phong nghĩ thầm: Gã này tuy tham hoa hiếu sắc nhưng không phải là kẻ hồ đồ. Y biết được đang lâm vào nguy cơ nên nói rằng chỉ còn giết người chứ không còn ôm người. Thực ra Nhất Dương Chỉ thì y biết nhưng Lục Mạch Thần Kiếm có biết đâu, chẳng qua chỉ là hư trương thanh thế để dọa người. Nếu y không còn nội lực thì làm sao sử dụng Nhất Dương Chỉ được?. Mã phu nhân người mềm xèo nói:
- Chao ôi, sao thiếp nhức đầu thế này, Đoàn lang, hay là... hay là trong rượu, chàng có bỏ cái gì vào không đấy?
Đoàn Chính Thuần vốn đã nghi nàng ta bỏ thuốc vào trong rượu, nghe nói thế, bao nhiêu ngờ vực tan biến hết, vẫy vẫy tay, nói:
- Tiểu Khang, nàng lại đây, ta có chuyện muốn nói với nàng.
Mã phu nhân dường như muốn đi lại bên cạnh ông ta nhưng không đứng lên nổi, gục xuống bàn, mặt ửng hồng, thở hổn hển, nũng nịu nói:
- Đoàn lang, thiếp một bước cũng đi không nổi, chắc chàng sợ thiếp không chiều chuộng nên bỏ xuân dược vào rượu chứ gì? Chàng thật chẳng có đàng hoàng gì cả.
Đoàn Chính Thuần lắc đầu, giơ tay làm hiệu, lấy tay chấm vào rượu viết lên bàn: Mình trúng độc kế của địch, cố gắng trấn tĩnh rồi nói:
- Bây giờ nội lực của ta lại vận được rồi, mấy chén rượu độc kia làm sao làm ta mê man cho nổi.
Mã phu nhân cũng viết lên bàn: Thật hay không?. Đoàn Chính Thuần lại viết: Chớ có lộ vẻ kém thế. Ông ta lớn tiếng nói:
- Tiểu Khang, nàng có kẻ nào đối đầu mà dám đến đây giở độc kế với ta?
Tiêu Phong ở ngoài cửa sổ thấy ông ta viết mấy chữ Chớ có lộ vẻ kém thế biết là không ổn, nghĩ thầm: Đoàn Chính Thuần là kẻ tinh minh ghê gớm thế mà lại chết về tay con đàn bà. Thuốc độc này rõ ràng là do Mã phu nhân bỏ vào, mụ ta nghe ngươi nói chỉ còn giết người được chứ không còn ôm người được sợ ngươi võ công vẫn còn nên giả vờ chính mình cũng trúng độc để xem hư thực, sao lại dễ dàng mắc mưu đến thế?. Mã phu nhân lộ vẻ lo lắng lại viết trên bàn: Nội lực mất hết là thực hay giả? nhưng mồm vẫn nói:
- Đoàn lang, nếu có đứa gian tặc chó chết nào muốn đến hại chúng mình thì thật hay lắm. Hiện giờ không có chuyện gì làm tóm cổ chúng làm vui thì đúng điệu. Chàng cứ việc ngồi đó xem chúng giở trò gì.
Đoàn Chính Thuần viết: Chỉ mong thuốc sớm rã, kẻ địch đến chậm thôi. Ông ta nói:
- Đúng thế, nếu có đứa nào đến phá quấy mình thì thật cầu còn chưa đủ. Tiểu Khang, nàng có muốn xem thuật lăng không điểm huyệt của ta không nào?
Mã phu nhân cười nói:
- Thiếp từ trước tới nay chưa từng được xem bao giờ, nếu như nội lực chàng chưa mất thì sử dụng Nhất Dương Chỉ đục thủng một cái lỗ trên giấy dán cửa sổ coi nào, có được không?
Đoàn Chính Thuần hơi chau mày, nháy nhó liên tiếp, có ý nói: Ta hoàn toàn không còn chút nội lực nào nữa, làm sao có thể lăng không điểm huyệt được? Ta chỉ để dọa địch nhân đấy thôi, sao nàng không hiểu ý ta?. Thế nhưng Mã phu nhân vẫn luôn mồm thúc giục nói:
- Mau động thủ đi nào, chàng chỉ cần đục một cái lỗ nhỏ trên cửa là dọa cho kẻ địch chạy mất nếu không thì hỡi ôi, đừng để cho chúng nhìn thấy điểm yếu của mình.
Đoàn Chính Thuần lại càng run nghĩ thầm: "Nàng ta xưa nay thông minh lanh lợi lắm, sao bây giờ lại cố giả vờ như ngờ nghệch là sao?". Ông còn đang suy nghị lại nghe Mã phu nhân dịu dàng nói:
- Đoàn lang, chàng trúng phải độc dược cực mạnh Thập Hương Mê Hồn Tán thì dẫu võ công có bằng trời cũng mất hết nội lực. Nếu quả chàng vẫn còn lăng không điểm huyệt đục được một cái lỗ nơi cửa sổ thì thật kỳ diệu quá sức.
Đoàn Chính Thuần thất kinh kêu lên:
- Ta... ta trúng phải Thập Hương Mê Hồn Tán đấy sao? Nàng làm sao... làm sao lại biết?
Mã phu nhân nũng nịu cười nói:
- Khi thiếp rót rượu cho chàng, hì hì, thật là vô ý để sẩy tay bỏ luôn một bao thuốc vào bình rượu. Chao ôi, thiếp vừa gặp lại chàng là thần hồn điên đảo, chân tay quýnh quáng, Đoàn lang ơi, chàng đừng giận thiếp nhé!
Đoàn Chính Thuần gượng cười nói:
- ồ, thì ra là vậy đó! Thế thì có hề hấn gì đâu!
Bây giờ ông đã rõ ràng, biết mình đã bị Mã phu nhân chế ngự, nếu nổi nóng chửi rủa thì sẽ không ích lợi gì nên đành giả vờ như không quan tâm, hết sức trấn tĩnh tâm thần, tìm cách ứng phó với thế cục cực kỳ nguy hiểm, nghĩ thầm: Nàng đối với ta một tấm thâm tình, chắc không nỡ nào hại tính mạng, cùng lắm là bắt mình phải đồng ý vĩnh viễn không trở về nhà nữa, chung sống tại đây, hoặc giả ép mình đem nàng về Đại Lý, danh chính ngôn thuận thành vợ thành chồng. Đó chẳng qua cũng bởi tấm lòng si mê mình, ra tay tuy hơi quá đáng nhưng cũng không phải do ý xấu mà ra. Ông nghĩ như thế mới thấy khoan tâm. Quả nhiên nghe thấy Mã phu nhân hỏi lại:
- Đoàn lang, chàng có bằng lòng thành vợ thành chồng cho lâu dài với thiếp không?
Đoàn Chính Thuần cười nói:
- Gớm nàng tính toán quả là lợi hại, thôi được rồi, ta chịu thua đó! Sáng mai nàng cùng ta lên đường trở về Đại Lý, ta cưới nàng làm trắc phi Trấn Nam Vương.
Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc nghe thế, cơn ghen nổi lên, cùng nghĩ: Con tiện nhân này có gì tốt lành đâu? Chàng không nghe lời ta, lại nghe lời nó là sao?. Mã phu nhân thở dài một tiếng nói:
- Đoàn lang ơi, mới vừa rồi thiếp đã hỏi chàng, sau này coi thiếp ra sao, chàng lại bảo đất Đại Lý ẩm thấp nhiều chướng khí, thiếp đến đó chỉ tổ sinh bệnh, đến bây giờ bị ép nên phải bằng lòng, chứ có phải là do bản tâm đâu!
Đoàn Chính Thuần cũng thở hắt ra nói:
- Tiểu Khang, để ta nói cho nàng nghe, ta là hoàng thái đệ của nước Đại Lý. Anh ta không có con trai, sau khi vương huynh thiên thu vạn tải rồi thì ngôi vua sẽ truyền lại cho ta. Ta ở Trung Nguyên chẳng qua chỉ là một kẻ võ phu thế nhưng khi về Đại Lý thì không thể nào muốn làm gì thì làm, nàng nghĩ có phải không?
Mã phu nhân đáp:
- Đúng thế, thì đã làm sao?
Đoàn Chính Thuần nói:
- Chuyện này bên trong quả có nhiều điều khó nói nhưng nàng với ta thiết tha như vậy, đến nỗi phải giở thủ đoạn hạ độc nên ta cũng phải hồi tâm chuyển ý. Ngày ngày có một người xinh đẹp như nàng bầu bạn cận kề không lẽ ta không nghĩ đến. Ta đã bằng lòng đưa nàng về Đại Lý thì quyết không thể nào hối hận đâu.
Mã phu nhân A lên một tiếng nhỏ nói:
- Chàng nói vậy cũng phải. Mai sau chàng lên làm vua rồi có phong thiếp làm hoàng hậu không?
Đoàn Chính Thuần trù trừ đáp:
- Ta vốn có nguyên phối rồi, hoàng hậu thì không thể được...
Mã phu nhân đáp:
- Thật vậy, thiếp là một người đàn bà góa xúi quẩy, sao có thể làm hoàng hậu nương nương? Như thế chẳng khiến hàng nghìn hàng vạn dân Đại Lý cười đến trẹo quai hàm ư?
Nàng ta lại cầm chiếc lược lên, chậm rãi chải đầu, cười nói:
- Đoàn lang, mới đây thiếp kể lại chuyện cũ cho chàng nghe, chàng có hiểu ý thiếp hay chăng?
Đoàn Chính Thuần toát mồ hôi trán, chảy ròng ròng cố trấn nhiếp tinh thần nhưng công lực khổ luyện mấy chục năm qua không biết biến đi đâu mất thật có khác gì người đang chết đuối, hai tay quơ loạn lên nhưng đến một cọng cỏ cũng không vớ được. Mã phu nhân hỏi lại:
- Đoàn lang, người chàng nóng lắm, có phải không? Thôi để thiếp lau mồ hôi cho.
Từ trong túi lấy ra một chiếc khăn tay trắng tinh đến trước mặt ông ta nhẹ nhàng lau những giọt mồ hôi trên trán, dịu dàng nói:
- Đoàn lang, chàng phải giữ gìn sức khỏe, uống rượu rồi dễ trúng gió máy khiến cho người khó chịu, không khỏi khiến thiếp đâm lo sao?
Tiêu Phong ở bên ngoài cửa sổ cũng như Đoàn Chính Thuần ở trong nhà, hai người nghe thấy thế không khỏi rợn tóc gáy. Đoàn Chính Thuần cố gượng nở một nụ cười nói:
- Hôm đó người nàng hương hãn đầm đìa, ta cũng từng lau mồ hôi cho, chiếc khăn đó hơn chục năm nay vẫn còn giữ đây.
Mã phu nhân vẻ mặt thẹn thùng, nói nhỏ:
- Thật không biết xấu, chuyện cũ từ đời nào vậy mà vẫn còn nhắc lại? Chàng lấy ra cho thiếp xem nào?
Đoàn Chính Thuần nói là hơn chục năm qua vẫn mang theo chiếc khăn trong người, tưởng không có gì làm thực, nhưng ngờ đâu quả có tại trong túi. Ông ta có cái tài được lòng đàn bà cũng có nguyên nhân, phụ nữ nào đã từng có với ông một phen duyên nghiệt cũng đều tưởng ông thực lòng yêu mình nhưng chỉ vì số kiếp long đong nên không thể nào ăn đời ở kiếp với nhau được. Ông toan lấy chiếc khăn trong bọc ra để cho Mã phu nhân nghĩ đến tình xưa nghĩa cũ, ngờ đâu ngón tay chỉ hơi động đậy, bàn tay hoàn toàn tê dại, độc tính của Thập Hương Mê Hồn Tán này thật là ghê gớm, không còn chút hơi sức nào. Mã phu nhân nói:
- Chàng lấy ra cho thiếp coi đi! ứ hự, chàng lại đánh lừa thiếp rồi.
Đoàn Chính Thuần cười đau khổ:
- Ha ha, say quá mất thôi đến nỗi tay chẳng còn cử động được, nàng lấy giùm ta đi vậy.
Mã phu nhân nói:
- Thiếp chả mắc lỡm chàng đâu. Chàng định lừa cho thiếp đến gần, dùng Nhất Dương Chỉ giết thiếp chứ gì.
Đoàn Chính Thuần mỉm cười đáp:
- Nàng là một tuyệt thế giai nhân xinh tươi nhường ấy, dẫu ta có là một hung đồ thập ác bất xá thì cũng chẳng nỡ dùng móng tay gạch lên khuôn mặt nàng một đường.
Mã phu nhân cười nói:
- Thật thế chăng? Đoàn lang, thế nhưng thiếp vẫn chưa yên bụng, thôi để thiếp lấy dây trói hai tay chàng lại, sau đó... sau đó, mới dùng sợi tơ mềm buộc luôn cả trái tim.
Đoàn Chính Thuần đáp:
- Thì nàng đã chẳng buộc trái tim ta rồi đấy ư, nếu không ta đâu có ngoan ngoãn mò tới tận đây?
Mã phu nhân cười rộ lên một tiếng nói:
- Chàng vốn tử tế đến thế, thảo nào khiến cho thiếp phải mắc cái bệnh tương tư không sao chữa lành cho được.
Nói xong mở cái ngăn kéo bên cạnh giường lấy ra một cuộn dây gân bò. Đoàn Chính Thuần trong lòng càng thêm kinh hãi: Thì ra mụ ta đã chuẩn bị mọi thứ đầy đủ, ta từ đầu chí cuối cứ như ở trong đám mây mù, Đoàn Chính Thuần ơi là Đoàn Chính Thuần, hôm nay ngươi táng mạng nơi đây, còn oán trách gì ai được nữa?. Mã phu nhân nói:
- Thiếp trói chân tay chàng trước, Đoàn lang, lòng thiếp thật yêu thương chàng không đâu kể xiết, chàng có giận thiếp không?
Đoàn Chính Thuần biết tính Mã phu nhân rồi, tuy là đàn bà nhưng so với đàn ông bình thường còn cứng rắn hơn, dù cho rủa xả chửi mắng mụ cũng không nổi giận, van xin năn nỉ mụ cũng chẳng hồi tâm, trước mắt chỉ còn một cách kéo dài thời giờ, may ra có cơ hội chuyển nguy thành an, thoát được khốn cảnh này nên cười nói:
- Ta vừa thấy cặp mắt long lanh của nàng, bao nhiêu giận hờn tan biến cả. Tiểu Khang, nàng lại đây, cho ta ngửi xem đóa hoa nhài trên tóc nàng có thơm không nào?
Hơn mười năm trước cũng một câu nói này mà Đoàn Chính Thuần đã cùng Mã phu nhân tạo nên một mối nghiệt duyên, bây giờ đề cập chuyện cũ, Mã phu nhân liền ngả đầu tựa vào lòng ông, thật là tình tứ dáng điệu đầy vẻ nhu mì bẽn lẽn. Bà ta giơ tay vuốt ve khuôn mặt Đoàn Chính Thuần, ỏn ẻn nói:
- Đoàn lang, Đoàn lang, tối hôm đó thiếp trao thân cho chàng, thiếp có hỏi rằng, sau này nếu như chàng lòng nọ dạ kia thì sẽ ra sao?
Đoàn Chính Thuần thấy mắt nổ đom đóm, trán từng giọt mồ hôi bằng hạt đậu nhỏ tong tỏng. Mã phu nhân tiếp:
- Hảo lang quân vô lương tâm kia ơi, lang quân yêu quí kia ơi, chàng đã thề nguyền sao sớm quên làm vậy?
Đoàn Chính Thuần gượng cười nói:
- Ta bảo sẽ để cho nàng cắn từng miếng thịt trên người ta.
Cái câu ước hẹn kia vốn dĩ chỉ là một câu bỡn cợt, trai gái hợp hoan tán tỉnh nhau nhưng bây giờ Đoàn Chính Thuần nhắc đến mà toàn thân nổi gai ốc. Mã phu nhân cười tình nói:
- Những gì chàng nói với thiếp, qua bao nhiêu năm vẫn không quên, Đoàn lang của thiếp quả là có lòng. Đoàn lang, thiếp định trói tay chàng lại, để cùng chàng chơi một trò mới, chẳng biết chàng có chịu hay không? Chàng bằng lòng thì thiếp mới trói, nếu chằng không khứng chịu thì thôi. Thiếp xưa nay đối với chàng thiên y bách thuận, làm gì cũng chỉ mong chàng được toại ý thôi.
Đoàn Chính Thuần biết rằng nếu mình không chịu cho mụ ta trói thì thể nào cô ả cũng còn những trò cổ quái khác nên đành gượng cười:
- Nàng muốn trói thì cứ trói đi. Ta dẫu phải chết dưới khóm mẫu đơn thì thành quỉ cũng phong lưu chán2 . Được chết dưới bàn tay của nàng thật là khoái hoạt biết bao nhiêu.
Tiêu Phong ở bên ngoài của sổ nghe ông ta nói vậy phải bội phục định lực quả hơn người, trong lúc nguy cơ như thế vẫn còn nói chơi được thì quả là tài. Chỉ thấy Mã phu nhân bẻ quặt hai tay Đoàn Chính Thuần ra sau, dùng gân bò trói cho thật chặt, thắt bảy tám cái nút, không nói gì lúc này ông ta võ công mất hết rồi, mà dẫu nội lực còn nguyên thì cũng không dễ gì trong chốc lát mà vùng ra được. Mã phu nhân lại cười tình nói:
- Thiếp ghét nhất là hai cái chân chàng, mỗi lần ra đi là chẳng còn thấy bóng thấy hình đâu nữa.
Bà ta nói xong giơ tay véo lên đùi ông ta một cái. Đoàn Chính Thuần cười nói:
- Thế nhưng năm xưa ta gặp được nàng cũng là nhờ đôi chân này mang ta tới. Đôi chân này tội tuy lớn thật, công cũng không nhỏ.
Mã phu nhân nói:
- Được rồi, để thiếp trói nó lại đã.
Nói xong bà ta lại lấy một sợi dây gân bò trói nốt hai chân Đoàn Chính Thuần. Bà ta lấy một chiếc kéo, chậm rãi cắt mấy lớp áo trên vai phải ông ta, để lộ làn da trắng trẻo. Đoàn Chính Thuần tuổi tuy không còn trẻ nhưng cả đời vinh hoa phú quí sống trong nhung lụa, lại thêm nội công thâm hậu, thịt trên vai vừa nhẵn nhụi vừa săn chắc. Mã phu nhân giơ tay vuốt ve đầu vai ông, hé chiếc miệng anh đào hôn nhè nhẹ lên má, từ từ lần xuống cổ, xuống vai, cổ họng rên lên ư ử thật thắm thiết không sao kể xiết. Đột nhiên Đoàn Chính Thuần kêu Oái lên một tiếng, thanh âm phá vỡ màn đêm tĩnh mịch. Mã phu nhân ngửng đầu lên, miệng đầy máu, đã cắn một miếng trên vai ông ta. Mã phu nhân nhả miếng thịt xuống đất, nũng nịu:
- Yêu nhau lắm, cắn nhau đau, thiếp yêu chàng hết mình nên mới cắn chàng đó. Đoàn lang, chính miệng chàng nói ra, nếu chàng thay lòng sẽ cho thiếp cắn từng miếng, từng miếng thịt.
Đoàn Chính Thuần cười ha hả nói:
- Đúng đó, Tiểu Khang, ta đã nói ra lẽ nào lại không tính? Ta cũng đã có lúc nghĩ rằng sau này chết thế nào cho xứng đáng? ở trên giường ốm rồi chết ư? Thế thì tầm thường quá. Tại chiến trường bảo vệ đất nước mà chết ư? Cũng tốt đấy nhưng có điều anh dũng mà chẳng phong lưu, mỹ trung bất túc, không thích hợp với con người của Đoàn Chính Thuần lúc bình thời. Tiểu Khang, hôm nay nàng nghĩ ra được cách này quả là cao minh, Đoàn Chính Thuần chết vì chiếc miệng anh đào của đệ nhất mỹ nhân trong thiên hạ, dưới những chiếc răng xinh xắn như ngọc trai kia, quả đúng là hợp với tâm nguyện của ta. Nàng thử nghĩ xem, nếu Đoàn Chính Thuần này chẳng cùng nàng trải qua một đoạn ái tình khắc cốt tương tư, nếu là một người đàn ông khác, dẫu cho nàng đầy nhà châu báu nàng cũng đâu thèm cắn y lấy một miếng đâu? Tiểu Khang, nàng nghĩ có phải không nào?
Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc vốn đã sợ mất hết hồn vía, biết Đoàn lang mệnh trong khoảnh khắc, thấy Tiêu Phong vẫn đứng bên cạnh cửa sổ quan sát động tĩnh, tuyệt nhiên không ra tay cứu giúp, trong bụng chửi thầm ông không biết bao nhiêu mà kể. Tiêu Phong vẫn chưa biết rõ chân ý của Mã phu nhân ra sao, chẳng hiểu mụ ta quả có ý giết Đoàn Chính Thuần, hay chỉ dọa già dọa non, thêm một trò phong lưu mới rồi mới tha cho để từ rày ông ta không còn thay lòng đổi dạ. Nếu như chỉ là chốn phòng the hai người đùa cợt với nhau, mình lại lỗ mãng xông vào cứu, có phải mất đi cái cơ hội bằng vàng thám thính tin tức, nên đành nén lòng yên lặng xem biến chuyển. Mã phu nhân cười nói:
- Đúng thế, dẫu là thiên tử Đại Tống, hoàng đế Khất Đan có giết thiếp thì dễ chứ đừng hòng để cho thiếp phải cắn một cái. Đoàn lang, thiếp vốn dĩ định bụng cắn chàng từ từ cho tới chết, muốn cắn chàng muôn ngàn lần, nhưng lại ngại bộ thuộc chàng đến cứu. Thế thì thôi đành, thiếp cắm con dao nhỏ này vào nơi tim chàng, đâm vào nửa tấc để chàng không chết, nếu như có ai tới cứu, thiếp chỉ nhấn vào cán dao một cái, thế là chàng không còn phải đau đớn gì nữa.
Nói tới đây mụ ta lấy ra một thanh chủy thủ sáng choang, cắt y phục trên ngực Đoàn Chính Thuần , để mũi dao đúng ngay tâm khẩu, bàn tay thon nhè nhẹ ấn xuống, cắm con dao vào ngực, quả nhiên chỉ nhấn vào một chút rồi thôi. Lần này Đoàn Chính Thuần không hự lấy một tiếng, thấy nơi ngực máu chảy ra bèn nói:
- Tiểu Khang, mười ngón tay nàng bây giờ so với thời mười bảy tuổi còn trắng trẻo nhẵn nhụi hơn nhiều.
Khi Mã phu nhân cầm dao đâm vào ngực Đoàn Chính Thuần, mắt Tiêu Phong đăm đăm nhìn không chớp, nếu thấy dùng lực quá mạnh, nguy cho tính mạng Đoàn Chính Thuần thì sẽ lập tức tung ra một chưởng đánh dạt bà ta ra, đến khi thấy chỉ nhè nhẹ ấn vào nên không lo lắng nữa. Mã phu nhân nói:
- Năm thiếp mười bảy tuổi, ngày ngày giặt dũ nấu cơm, chân tay dĩ nhiên sần sùi. Mấy năm nay không phải làm việc nặng, da dẻ cũng mịn màng hơn. Đoàn lang, miếng thứ hai thiếp cắn vào đâu cho phải? Chàng bảo cắn chỗ nào thiếp sẽ cắn chỗ đó, lúc nào thiếp cũng bảo sao nghe vậy.
Đoàn Chính Thuần cười nói:
- Tiểu Khang, nàng cắn chết ta rồi, hồn ta sẽ luôn luôn quấn quít bên nàng.
Mã phu nhân hỏi:
- Để làm gì?
Đoàn Chính Thuần nói:
- Hễ vợ mà mưu sát chồng thì chồng chết đi hồn vất vưởng không tan, lúc nào cũng loanh quanh luẩn quẩn gần bên để phòng có người đàn ông nào khác đến vui vầy.
Câu đó Đoàn Chính Thuần vốn định dọa nàng ta một chuyến cho mụ khỏi quá ác độc, ngờ đâu Mã phu nhân nghe xong, mặt liền biến sắc, không hẹn mà quay lại nhìn phía sau lưng. Đoàn Chính Thuần thừa cơ nói:
- ồ, sau lưng nàng có ai thế kia?
Mã phu nhân hoảng hốt nói:
- Sau lưng thiếp nào có ai? Chỉ nói lăng nhăng!
Đoàn Chính Thuần nói:
- Ôi, đó là một người đàn ông, há miệng cười với nàng, y đang ôm cổ họng, dường như đau đớn lắm. Người đó là ai thế, quần áo rách rưới, không ngớt chảy nước mắt...
Mã phu nhân vội vàng quay lại, nào thấy ai, run run nói:
- Ngươi nói láo, ngươi... nói láo!
Đoàn Chính Thuần lúc đầu thuận miệng nói nhăng, nhưng thấy nàng ta kinh hoảng dị thường, trong bụng khởi nghi, thoáng một cái, lập tức nghĩ ra cái chết của Mã Đại Nguyên bên trong hẳn có điều gì khác lạ. Ông ta biết Mã Đại Nguyên chết vì môn Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ nên cố ý nói người đó cổ họng đau đớn lắm, chảy nước mắt, y phục tang thương, quả nhiên Mã phu nhân lập tức khiếp đảm. Đoàn Chính Thuần cũng đoán ra được vài ba phần, nói tiếp:
- A, kỳ quái nhỉ, sao người đó chớp mắt lại biến đâu mất rồi, y là ai thế?
Vẻ mặt Mã phu nhân hết sức kinh khủng nhưng chỉ giây lát đã trấn tĩnh như thường, nói:
- Đoàn lang, hôm nay đã đến nước này, chàng còn dọa thiếp để làm gì? Hay là chàng không rủa xả thiếp vài câu thì không yên? Hai đứa mình vui vầy xong rồi bây giờ thiếp sẽ tống tiễn chàng đi một cách thật là sảng khoái.
Nàng ta nói xong đi tới một bước, giơ tay định cầm cán dao chủy thủ đâm vào. Đoàn Chính Thuần thấy không còn cách nào kéo dài thêm được nữa, hai mắt trừng trừng nhìn vào sau lưng Mã phu nhân, kêu toáng lên:
- Mã Đại Nguyên, Mã Đại Nguyên, mau giết mụ vợ ngươi đi!
Mã phu nhân thấy khuôn mặt ông ta lộ vẻ sợ hãi lạ thường, lại gào lên Mã Đại Nguyên, toàn thân không khỏi run rẩy, quay đầu lại nhìn. Đoàn Chính Thuần hết sức dùng đầu húc một cái, trúng ngay cằm Mã phu nhân khiến bà ta ngã lăn ra đất, ngất đi. Cái húc đó Đoàn Chính Thuần hoàn toàn không phải là dùng nội lực, Mã phu nhân tuy hôn mê thật nhưng chỉ một chút đã tỉnh lại ngay, suýt soa đứng lên, vỗ vỗ cằm, cười nói:
- Đoàn lang, sao chàng lại nựng thiếp mạnh tay thế, đụng thiếp chỗ này đau ơi là đau. Chàng đặt điều dọa thiếp, thiếp không mắc hỡm chàng đâu!
Đoàn Chính Thuần húc đã dùng hết bao nhiêu nội lực tích tụ được từ nãy đến giờ, trong bụng thở dài, nghĩ thầm: Bỏ mạng thế này còn gì đâu để nói nữa. Ông chợt nghĩ ra hỏi lại:
- Tiểu Khang, bây giờ nàng giết ta chứ gì? Thế nhưng nếu người trong Cái Bang đến hỏi tội mưu sát thân phu thì ai là người giúp đỡ nàng đây?
Mã phu nhân cười khúc khích nói:
- Ai bảo là thiếp mưu sát thân phu? Chàng nào có phải là chồng thiếp đâu. Nếu như chàng thực sự là chồng thiếp, thiếp yêu thương chiều chuộng chàng còn chưa đủ, lẽ đâu lại ra tay hại chàng? Thiếp giết chàng rồi cao bay xa chạy, lẽ đâu lại ở đây, thần tử nước Đại Lý của chàng có đi tìm thì làm sao thiếp đối phó nổi?
Nàng ta thở dài sườn sượt nói tiếp:
- Đoàn lang, thiếp thật thương chàng, nhớ chàng không biết bao nhiêu cho kể chỉ mong được lúc nào cũng ôm chàng, hôn hít, nựng nịu chàng thôi. Thế nhưng bởi vì thiếp không có được chàng nên không ăn thì đạp đổ, đó là cái tính trời sinh của thiếp chứ biết làm sao hơn?
Đoàn Chính Thuần nói:
- ồ, thì ra là thế, thảo nào hôm trước nàng cố ý đánh lừa cô gái kia, muốn mượn tay Kiều Phong giết ta, chẳng qua là vậy.
Mã phu nhân nói:
- Đúng vậy, Kiều Phong thật là đồ vô dụng, lại không giết được chàng, để chàng chạy mất.
Tiêu Phong trong bụng không ngừng tự hỏi: A Châu giả làm Bạch Thế Kính, thuật hóa trang như thần, đến ta cũng còn nhìn không ra, Mã phu nhân và Bạch Thế Kính có thân thiết gì đâu, sao lại nhìn ra được nhỉ?.
Lại nghe Mã phu nhân nói tiếp:
- Đoàn lang, thiếp muốn cắn chàng thêm một miếng nữa.
Đoàn Chính Thuần mỉm cười:
- Nàng cứ lại cắn ta đi, ta thật sung sướng biết là dường nào.
Tiêu Phong thấy không còn có thể diên trì thêm được nữa, đưa bàn tay ra, để ngay vào chỗ vách đất sau lưng Đoàn Chính Thuần, ám vận kình lực, bức tường vốn dĩ chẳng chắc chắn gì, quả đấm liền từ từ đi vào, thủng thành lỗ không nghe một tiếng, bàn tay đặt lên lưng Đoàn Chính Thuần. Ngay lúc đó, Mã phu nhân đã cắn được một cái trên vai Đoàn Chính Thuần, ông ta kêu rú lên, vùng vẫy, đột nhiên thấy hai tay đã tự do. Thì ra dây trói nơi cổ tay đã bị Tiêu Phong dùng ngón tay cấu đứt, đồng thời một luồng kình lực cực kỳ hồn hậu tràn vào mọi nơi kinh mạch. Đoàn Chính Thuần còn đang ngạc nhiên nhưng biết ngay bên ngoài có
cường viện, khí tùy ý chuyển, luống nội lực từ sau lưng liền dẫn ngay vào cánh tay, truyền tới ngón tay nghe suỵt một tiếng nhỏ, thần công Nhất Dương Chỉ đã tung ra. Mã phu nhân bị trúng chỉ ngay mạng sườn, chỉ rú
lên được một tiếng lập tức gục ngay xuống giường. Tiêu Phong thấy Đoàn Chính Thuần đã chế ngự được Mã phu nhân rồi, lập tức rút tay về. Đoàn Chính Thuần đang toan mở lời tạ ơn, bỗng thấy cửa mở tung ra, một người chạy vào. Chỉ nghe người kia nói:
- Tiểu Khang, nàng đối với y tình xưa nghĩa cũ vẫn còn, phải không nào? Sao phí mất bao nhiêu công phu đến giờ này vẫn chưa thanh toán xong xuôi?
Tiêu Phong từ bên ngoài nhìn vào thấy gã kia, đờ người ra, vừa kinh hoàng, vừa tức tối, chỉ trong chớp mắt bao nhiêu nghi vấn trong đầu đều giải quyết được cả. Hôm đó tại khu rừng hạnh ngoài thành Vô Tích, Mã phu nhân lấy ra chiếc quạt mình thường dùng, vu cho ông lẻn vào nhà họ Mã ăn trộm thư bị rơi lại, cái quạt đó ở đâu ra? ắt phải có ai đó ăn trộm của mình, người đó phải là kẻ thật là thân cận, thế nhưng kẻ đó là ai? Cái bí mật mình là người Khất Đan, đấu kín đã bao nhiêu năm qua, sao lại đột nhiên bị tiết lộ? A Châu cải trang thành Bạch Thế Kính, vốn dĩ không sai một mảy, Mã phu nhân làm sao lại nhìn ra được? Thì ra, kẻ vừa vào phòng chính là Chấp Pháp trưởng lão Bạch Thế Kính của Cái Bang. Mã phu nhân kinh hãi ấp úng:
- Y... y... võ công chưa mất, điểm... điểm huyệt ta rồi.
Bạch Thế Kính nhảy vọt tới, chộp hay tay Đoàn Chính Thuần, lách cách mấy tiếng đã vặn sái cổ tay ông ta. Đoàn Chính Thuần không còn sức nào kháng cự, nội lực Tiêu Phong truyền vào người chỉ giữ được một tí, vừa rụt tay về lại trở lại là một phế nhân. Tiêu Phong trông thấy Bạch Thế Kính, trong nhất thời bao nhiêu ý nghĩ dâng trào không còn nghĩ gì tới chuyện ra tay giúp đỡ Đoàn Chính Thuần, lại cũng không ngờ tới việc Bạch Thế Kính ra tay là hạ độc thủ ngay, đến lúc biết được thì hai cổ tay Đoàn Chính Thuần đã gãy lìa. Ông nghĩ bụng: Gã này phong lưu hiếu sắc, hôm nay để cho y nếm chút đau khổ cũng tốt, vì nghĩ đến A Châu nên ta sẽ cứu mạng y sau cũng được. Bạch Thế Kính nói:
- Họ Đoàn kia, ngươi kể cũng khá đấy, uống phải Thập Hương Mê Hồn Tán mà vẫn còn được mấy phần công phu.
Đoàn Chính Thuần không biết người ở bên ngoài giúp mình là ai, nhưng biết phải là một nhân vật có bản lãnh thật ghê gớm, tuy trước mắt có thêm một cường địch nhưng có đại viện sau lưng, trong bụng cũng không lo lắng lắm. Ông nghe giọng điệu của Bạch Thế Kính quả là không biết mình có người ám trợ bèn hỏi lại:
- Tôn giá có phải là trưởng lão trong Cái Bang chăng? Tại hạ và tôn giá không hề quen biết, sao lại hạ độc thủ là sao?
Bạch Thế Kính bước tới cạnh Mã phu nhân, đưa tay xoa bóp mấy cái dưới mạng sườn nhưng công phu điểm huyệt của họ Đoàn cực kỳ thần diệu, Bạch Thế Kính tuy võ công không phải là kém nhưng không cách nào giải huyệt được, chau mày hỏi:
- Nàng thấy sao?
Giọng điệu cực kỳ lo lắng. Mã phu nhân đáp:
- Thiếp chỉ thấy tay chân ê ẩm, không cử động được. Thế Kính, chàng ra tay thanh toán y đi, chúng mình chạy cho rồi. Trong căn nhà này... trong căn nhà này, thiếp không muốn ở đây nữa.
Đoàn Chính Thuần đột nhiên cất tiếng cười vang nói:
- Tiểu Khang, nàng... nàng... sao không tiến bộ chút nào cả? Ha ha! Ha ha!
Mã phu nhân mỉm cười nói:
- Đoàn lang, chàng cao hứng nhỉ, chết đến nơi rồi mà vẫn còn cười một cách vui sướng quá.
Bạch Thế Kính bực tức nói:
- Sao ngươi vẫn còn gọi y Đoàn lang là sao? Đồ lăng loàn!
Y vung tay tát trái Mã phu nhân một cái thật mạnh. Khuôn mặt trắng trẻo của mụ ta lập tức sưng vù, đau đến chảy nước mắt. Đoàn Chính Thuần quát lên:
- Ngừng tay, sao ngươi lại đánh nàng?
Bạch Thế Kính cười khẩy:
- Thứ ngươi làm gì được ta? Thị thuộc về ta, ta thích đánh là đánh, muốn chửi là chửi.
Đoàn Chính Thuần nói:
- Một mỹ nhân như hoa tựa ngọc như thế vậy mà ngươi nỡ đánh hay sao? Dẫu có thuộc về ngươi chăng nữa ngươi cũng phải ngọt nhạt cho nàng vui lòng, để nàng sung sướng chứ!
Mã phu nhân lườm Bạch Thế Kính nói:
- Người ta đối với ta như thế, còn ngươi đãi ta như thế nào? Ai lại nóng thế.
Dáng điệu ngữ âm vẫn đầy vẻ lẳng lơ. Bạch Thế Kính lại chửi:
- Đồ đĩ thõa, để xem ta có trị được ngươi không? Họ Đoàn kia, ta đếch có thèm nghe lời ngươi. Ngươi giỏi tài nịnh gái, sao còn để đến nông nỗi này? Thôi, ngày này sang năm là ngày giỗ đầu của ngươi đấy nhé.
Nói xong hung hăng tiến tới, giơ tay định ấn cán dao chủy thủ vào ngực ông ta. Bàn tay Tiêu Phong đã lòn qua lỗ hổng trên tường thò vào, chỉ cần Bạch Thế Kính tiến thêm nửa bước là chưởng phong phát ra ngay. Ngay lúc đó, đột nhiên cánh cửa bị một cơn gió giật thổi tới, nghe vù một tiếng, hai ngọn nến lập tức bị kình phong thổi tắt ngúm, trong phòng lập tức tối đen. Mã phu nhân kinh hãi kêu lên một tiếng, Bạch Thế Kính biết là có kẻ địch tới nơi, lúc này không còn thì giờ lại giết Đoàn Chính Thuần mà phải nghinh địch trước đã, bèn quát lên:
- Kẻ nào đó?
Y giơ song chưởng lên bảo vệ trước ngực rồi quay người đi ra. Kình phong đánh tắt hai ngọn nến rõ ràng là do một người võ công cực kỳ cao cường phát ra, nhưng sau khi nến tắt rồi vẫn không thấy động tĩnh gì cả. Bạch Thế Kính, Đoàn Chính Thuần, Mã phu nhân và Tiêu Phong bốn người ngưng thần, lờ mờ trong nhà thấy đã thêm một người nữa. Mã phu nhân là người đầu tiên không giữ nổi kêu rú lên:
- Có người kìa!
Chỉ thấy người đó chắn ngay cửa, hay tay bỏ xuôi, mặt mũi ra sao không nhìn rõ, chỉ đứng sừng sững không động đậy gì cả. Bạch Thế Kính quát hỏi:
- Ai đó?
Y tiến lên một bước, người kia vẫn lặng thinh không cử động. Bạch Thế Kính lại quát:
- Nếu không trả lời, tại hạ sẽ không nể nang gì nữa.
Từ khi thấy người lạ đánh tắt hai ngọn nến, Bạch Thế Kính biết y võ công cực kỳ cao cường, không dám hấp tấp ra tay. Người kia vẫn bất động, trong đêm tối mò y trông tựa như ma quỉ. Mã phu nhân lại rít lên:
- Chàng đốt đèn lên nào! Thiếp sợ lắm!
Bạch Thế Kính quát lại:
- Con đĩ ngựa kia, đừng có lắm mồm.
Y nói thế là vì chỉ quay sang thắp đèn, lập tức đưa lưng cho địch nhân, thành thử vẫn hai tay giữ thế trên ngực chờ kẻ địch ra tay trước. Ngờ đâu người kia trước sau vẫn đứng yên, hai người cứ thế nhìn nhau một lúc, khoảng thời gian uống một chén trà. Tiêu Phong dĩ nhiên không lên tiếng rồi, cả Đoàn Chính Thuần cũng lặng thinh. Bốn bề tĩnh như tờ, đến nỗi bông tuyết rơi chạm đất cũng còn nghe thấy. Bạch Thế Kính sau cùng nhịn không nổi kêu lên:
- Các hạ nếu không trả lời, ta đành phải đắc tội.
Y ngừng lại một chút, thấy đối phương vẫn không cục cựa, thò tay vào túi lấy ra một chiếc dùi thép, tung mình nhảy tới, trong bóng đêm chỉ thấy một ánh sáng lấp loáng, chiếc dùi đã đâm vào ngực người kia. Người đó nghiêng qua tránh được, Bạch Thế Kính thấy có một luồng gió ép tới, mấy ngón tay y đã chộp vào cổ họng Bạch Thế Kính. Chiêu đó ra tay thật nhanh, cương chùy của y chưa thu về kịp, mấy ngón tay của địch đã chạm vào yết hầu rồi khiến y hồn bất phụ thể, vội nhảy vọt về sau tránh được, run run hỏi:
- Ngươi... ngươi...
Y sợ hãi thực sự không phải vì võ công đối phương cao cường mà là vì chiêu số sử dụng chính là Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ. Công phu đó là tuyệt kỹ gia truyền của Mã Đại Nguyên, ngoại trừ con cháu nhà họ Mã không ai biết, chỉ vì Bạch Thế Kính giao thiệp với Mã Đại Nguyên đã lâu nên biết rõ võ công gia số của y. Lưng Bạch Thế Kính toát mồ hôi lạnh, chăm chăm nhìn kẻ kia, chỉ thấy y thân hình thật cao, chẳng khác gì Mã Đại Nguyên, nhưng vì bóng tối nên không rõ mặt. Người kia vẫn lạnh lùng như ma như quỉ không nói không rằng, Bạch Thế Kính thấy cổ mình hơi ngâm ngẩm đau, chắc hẳn bị móng tay y quệt phải. Y cố gắng định thần hỏi:
- Tôn giá có phải họ Mã không?
Người kia vẫn như bị điếc không nghe gì. Bạch Thế Kính quát:
- Con đĩ ngựa, mau thắp đèn cầy lên.
Mã phu nhân nói:
- Thiếp không cử động được, chàng lại đốt đèn đi.
Thế nhưng Bạch Thế Kính đâu có dám muốn làm gì thì làm để bị người ta thừa cơ tấn công. Y lại nghĩ Người này võ công rõ ràng cao hơn ta, nếu y muốn cứu Đoàn Chính Thuần đâu cần phải đợi ai tới giúp, sao chỉ tấn công một chiêu rồi thôi không truy kích nữa?. Lại một hồi lâu tất cả đều yên lặng, Bạch Thế Kính đột nhiên nhìn ra một điểm quái lạ của kẻ kia, trong phòng tuy ai nấy không nói năng cử động nhưng tiếng hô hấp vẫn còn, Mã phu nhân cũng thở, Đoàn Chính Thuần cũng thở, chính mình cũng thở nhưng người đối diện lại không thở chút nào. Bạch Thế Kính nín hơi, nghiêng ngó nghe ngóng, với nội lực và công phu tu tập của y, có thể nghe được tiếng hô hấp của từng người trong phòng nhưng người trước mặt quả không thở gì cả. Một lúc thật lâu sau, người kia vẫn không thở, nếu là người sống thì làm sao có thể không hô hấp? Bạch Thế Kính có thể nghe thấy cả tiếng tim mình đập, bịch, bịch, bịch... mỗi lúc một rõ, lồng ngực rung động cực mạnh, trái tim tưởng như muốn nhảy ra ngoài, càng không nhẫn nại nổi, quát lên một tiếng, xông vào, chiếc dùi liên tiếp vung lên đâm vào mặt người kia. Người kia khoát tay trái gạt Bạch Thế Kính ra ngoài, tay phải chộp thẳng vào yết hầu y. Bạch Thế Kính đã đề phòng đối phương sử dụng Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ, liền hụp đầu xuống, lòn dưới nách mà chui ra. Người kia không đuổi theo, vẫn đứng trơ trơ ở ngạch cửa. Bạch Thế Kính liền giơ dùi lên đâm vào đùi bên trái, y liền vọt lên tránh được. Mã phu nhân thấy người kia thân hình cứng đơ, lúc nhảy lên đầu gối không co lại gì cả, buột miệng rú lên:
- Quỉ nhập tràng! Quỉ nhập tràng!
Chỉ nghe bình một tiếng, gã kia nặng nề rơi bịch xuống. Bạch Thế Kính trong bụng cũng hoảng vía: Người này nếu như là cao thủ võ học, lẽ nào nhảy lên rơi xuống lại vụng về đến thế? Không lẽ trên đời có quỉ nhập tràng thực hay sao?. Bạch Thế Kính hơi chần chừ nhưng lại xông lên, vụt vụt vụt, chiếc dùi đâm luôn ba nhát vào hạ bàn. Người kia quả nhiên đầu gối không gập lại được, cứ cứng ngắc mà tưng lên tưng xuống tránh né, xem ra đến bước một bước cũng không được. Bạch Thế Kính đâm bên trái, y nhảy qua bên phải đâm bên phải, y lại tránh qua bên trái. Bạch Thế Kính phát giác được nhược điểm của đối phương rồi, trong lòng bớt sợ nhưng càng lâu càng thấy đây không phải là người còn sống. Lại đâm thêm mấy nhát nữa, đối phương thân pháp tuy vụng về thật nhưng chùy pháp của mình dù có tinh diệu bao nhiêu vẫn không trúng được y. Bất ngờ y thấy sau ót mình lạnh ngắt, một bàn tay băng giá sờ vào cổ. Bạch Thế Kính hết sức kinh hãi, vung chùy hết sức đâm ngược trở lại nghe soẹt một tiếng nhỏ đã đâm vào khoảng trống không, bàn tay to lớn của kẻ kia đã chộp được gáy y rồi. Toàn thân Bạch Thế Kính liền mềm nhũn không còn cử động được nữa, chỉ còn nước thở hồng hộc. Mã phu nhân kêu lớn:
- Thế Kính, Thế Kính, chàng sao rồi?
Bạch Thế Kính nào còn đâu hơi sức mà trả lời, chỉ thấy nội lực toàn thân theo bàn tay to lớn của người kia đang nắm nơi cổ mà tuôn ra. Lại một bàn tay to lớn lạnh ngắt sờ vào mặt y, bàn tay đó quả không phải tay người, không có một chút hơi ấm nào. Bạch Thế Kính nhịn không nổi kêu lên:
- Quỉ nhập tràng! Quỉ nhập tràng!
Tiếng kêu của y thật là thê thảm đáng sợ. Bàn tay từ trên trán vuốt xuôi xuống, mò đến đôi mắt, hai ngón tay sờ sờ vào mí mắt. Bạch Thế Kính sợ đến tưởng chừng có thể ngất đi, đối phương chỉ cần nhấn mạnh một cái thì đôi mắt y đã bị móc ra ngoài. Thế nhưng bàn tay lạnh ngắt đó lại sờ xuống dưới mò đúng mũi y, rồi xuống dần đến miệng y, từng chút từng chút lần xuống dưới, sau cùng ngừng lại nơi yết hầu. Hai bàn tay lạnh ngắt kia nắm vào cổ họng y, từ từ xiết lại. Bạch Thế Kính kinh hãi không biết bao nhiêu mà kể, kêu lên:
- Đại Nguyên huynh đệ, tha mạng cho ta! Tha mạng cho ta!
Mã phu nhân rít lên:
- Ngươi... ngươi nói gì thế?
Bạch Thế Kính lại kêu:
- Đại Nguyên huynh đệ, tất cả đều do chủ ý của con đĩ ngựa này, nó bắt ta phải làm, chứ ta... chứ ta có liên can gì đâu.
Mã phu nhân giận dữ nói:
- Chủ ý của ta thì đã sao nào? Mã Đại Nguyên, khi còn sống ngươi là đồ bị thịt, chết rồi còn tác yêu tác quái gì? Bà chẳng sợ gì ngươi đâu.
Bạch Thế Kính thấy khi mình buông lời đổ tội cho người đàn bà thì cổ họng có nới ra một tí nhưng vừa ngậm miệng thì bàn tay lạnh như băng lại từ từ bóp vào, trong bụng hoảng loạn, nghe thấy Mã phu nhân gọi y là Mã Đại Nguyên thì nghĩ ngay con quái vật này là quỉ nhập tràng hiện về liền kêu lớn:
- Đại Nguyên huynh đệ tha mạng cho ta! Vợ ngươi coi trộm di lệnh của Uông bang chủ, mấy bận khuyên ngươi tiết lộ bí mật thân thế của Kiều Phong, ngươi nhất định không chịu... mụ ta... mụ ta mới có ý hại ngươi...
Ngọn đèn mờ tỏ câu ân ái,
Tình xưa gợi lại chuyện oan gia.
*
* *
Tiêu Phong choáng váng, ông tuy không tin thế gian này có quỉ thần, đoán rằng người kia hẳn là một võ học danh gia, cố ý trang thần lộng quỉ để cho Mã phu nhân và Bạch Thế Kính hoảng hốt, thừa cơ bức vấn hai người khai ra. Quả nhiên Bạch Thế Kính bụng dạ rối ren đành thú nhận, cứ như lời y thì Mã Đại Nguyên bị hai người giết hại mà Mã phu nhân chính là kẻ chủ mưu. Mã phu nhân sở dĩ mưu sát thân phu chính là vì muốn tiết lộ thân thế mình mà Mã Đại Nguyên không chịu. Tại sao bà ta lại hận mình đến thế? Vì cớ gì không lật đổ mình không xong? Nếu như mụ muốn trượng phu lên làm bang chủ thì sao lại giết ông chồng?. Mã phu nhân rít lên:
- Mã Đại Nguyên, ngươi cứ giết ta đi, ta chán cái thứ vô dụng như ngươi lắm rồi, đồ chết nhát, chẳng làm được chuyện gì cho ra hồn!
Chỉ nghe thấy tiếng lách cách nho nhỏ, chỗ sụn nơi cổ họng Bạch Thế Kính đã bị bóp một miếng. Bạch Thế Kính hết sức vùng vẫy nhưng không sao thoát được khỏi tay của người kia, tiếp theo lại tiếng lách cách nữa, hầu quản đã nát ngướu. Y gào lên mấy tiếng nhưng miệng không hút khí vào phổi được, hai tay quơ múa rồi tắt thở. Người kia giết chết Bạch Thế Kính rồi, xoay người ra khỏi cửa lập tức không còn thấy hình bóng đâu. Tiêu Phong chợt động tâm nghĩ thầm: Người này là ai nhỉ? Mình phải đuổi theo tìm hiểu cho minh bạch. Ông lập tức phóng mình ra cửa trước, dưới bóng tuyết trắng chiếu sáng, thấy một bóng người mờ mờ đi về hướng đông bắc nếu không phải nhãn lực cực tốt thì thực không thể nào thấy được. Tiêu Phong nghĩ thầm: Người này thân pháp nhanh thật. Ông cúi xuống vỗ lên vai A Tử đang nằm dưới chân, nội lực truyền vào, giải huyệt cho cô ta, nghĩ thầm: Mã phu nhân không biết võ công, tiểu cô nương này cứu cha cô ta cũng thừa sức. Ông không kịp giải huyệt cho bọn Nguyễn Tinh Trúc, vội vàng rảo bước, đuổi theo người kia. Ông ra sức chạy thật nhanh đến khi chỉ còn cách y chừng hơn chục trượng mới nhìn rõ. Người ấy quả đúng là một võ học cao thủ, khi đó không còn cứng đơ chân mà nhảy, bước đi nhanh nhẹn nhẹ nhàng chẳng khác gì lướt trên mặt tuyết. Khinh công của Tiêu Phong vốn từ chùa Thiếu Lâm, lại được Uông bang chủ của Cái Bang dạy đỗ thuần thuộc dương cương, khi ra sức chạy rồi, mỗi lần nhảy xa cả trượng, thân hình vọt lên không trung, lại tung mình tới, tư thức tuy không tiêu sái tuấn nhã nhưng đường dài thật là hiệu quả. Đuổi theo một hồi chỉ còn cách người kia chừng một trượng. Ông đuổi theo chừng tàn một nửa nén nhang, cước bộ người đằng trước đột nhiên tăng vọt lên, chẳng khác gì cánh buồm no gió, xuôi dòng lướt đi, chốc lát đã bỏ cách Tiêu Phong một quãng xa. Tiêu Phong trong bụng kinh hãi thầm: Người này quả là tài ba thật, trong võ lâm phải cao thủ số một số hai, nếu không thế thì làm sao chỉ cất tay là giết được Bạch Thế
Kính. Ông bẩm tính trời sinh là một kỳ tài võ học, thụ nghiệp ân sư và Uông bang chủ dĩ nhiên võ học cao lắm rồi, nhưng Tiêu Phong lại thanh xuất ư lam, hơn xa cả hai sư phụ, dù chiêu nào thật bình thường vào tay ông sử dụng, cũng phát sinh uy lực thật ghê gớm. Những người biết ông thấy vậy đều bảo là do thiên phú mà có, không thể do truyền thụ hay khổ luyện mà được. Chính Tiêu Phong cũng không hiểu do đâu, chỉ thấy chiêu nào học là biết ngay, biết là tinh tường, đến khi lâm địch là biến hóa một cách xảo diệu. Thế nhưng ngoài võ học ra, các ngành khác như học hành, nghệ thuật ông đều bình bình không có gì đặc sắc hơn người. Ông bình sinh ít gặp địch thủ, nhiều cường địch nội lực so với ông thâm hậu hơn, chiêu số so với ông biến hóa hơn, nhưng khi đụng nhau, mỗi khi đến khi khẩn yếu quan đầu, chỉ một chiêu nửa thức thất bại dưới tay Tiêu Phong. Thế nhưng tuy thua mà vẫn tâm phục khẩu phục, biết mình không phải là địch thủ nên trước nay chưa có ai đi kiếm ông để rửa hờn. Đến bây giờ Tiêu Phong gặp một địch thủ khinh công cao cường như thế, hùng tâm trỗi dậy, gia tăng cước bộ, chạy vọt lên. Hai người một trước một sau chạy vùn vụt về hướng đông bắc nhưng Tiêu Phong thủy chung vẫn không sao đuổi kịp mà người kia cũng không thể nào chạy thoát. Một giờ, rồi hai giờ sau, hai người đã chạy trên một trăm dặm nhưng khoảng cách hai bên vẫn như cũ. Lại thêm hơn nửa giờ nữa, trời bắt đầu tang tảng sáng, cơn mưa tuyết cũng đã dứt, Tiêu Phong nhìn thấy xa xa nơi triền núi có một tòa thị trấn, nhà cửa san sát như bát úp, lại nghe gà gáy te te hết chỗ nọ đến chỗ kia, cơn thèm rượu nổi lên bèn kêu:
- Vị huynh đài ở trước mặt ơi, ta mời ngươi uống hai chục bát rượu, rồi lại chạy thi, được chăng?
Người kia không trả lời, lại càng chạy nhanh hơn. Tiêu Phong cười nói:
- Ngươi ra tay hạ thủ tên gian đồ Bạch Thế Kính, quả thực anh hùng làm sao, Tiêu Phong xin chịu thua khinh công không bằng được. Hai người mình đi mua rượu uống chứ không tỉ thí nữa, được không?
Ông một mặt nói, chân vẫn chạy không chậm lại chút nào. Người kia đột nhiên ngừng lại nói:
- Kiều Phong uy chấn giang hồ, quả nhiên danh bất hư truyền. Ngươi mồm nói mà vẫn vận dụng được chân khí như thường, thực là anh hùng, thực là hào kiệt.
Tiêu Phong nghe giọng ông ta mơ hồ không rõ, nhưng nghe có vẻ già nua, tuổi tác xem ra lớn hơn mình nhiều bèn nói:
- Tiền bối quá khen. Vãn bối vói cao, định kết giao bằng hữu với tiền bối, không biết có chê bỏ không?
Người kia thở dài:
- Già rồi, không còn được việc gì nữa. Ngươi đừng đuổi theo nữa, chỉ thêm một giờ là ta thua ngươi rồi.
Nói xong chậm rãi đi thẳng. Tiêu Phong định vọt lên nói chuyện thêm nhưng chỉ mới một bước nghĩ bụng Y bảo ta đừng đuổi theo nữa. Ông lại nghĩ đến mình bị quần hào Trung Nguyên coi chẳng vào đâu, e rằng người này cũng khinh thị thù ghét người Khất Đan, lập tức dừng bước, mắt nhìn theo bóng y dần dần mất hút vào sau khu rừng cây, trong bụng cảm thán: Người này khinh công thật cao, nội lực lại dài, tiếc thay không được thấy mặt y. Ông lại nghĩ: Tiếng nói của y mơ hồ, hiển nhiên cố ý trầm giọng xuống để cho ta khỏi nhận được khẩu âm. Đến cả tiếng nói y còn không muốn mình nhận ra, huống chi là nhìn mặt?. Ông bần thần một lúc rồi mới đi vào thị trấn, đến một tửu điếm nhỏ mua rượu ngồi uống, cứ uống một hai bát lại vỗ bàn chắc lưỡi:
- Hảo nam nhi! Hảo hán tử, ôi, tiếc thật, tiếc thật!
Ông ta nói hảo nam nhi, hảo hán tử là khen ngợi người kia võ công cao cường, giết Bạch Thế Kính mười phần ổn thỏa, còn luôn mồm tiếc thật là than thở mình không được cùng y kết giao. Ông xưa nay yêu bạn bè như tính mạng, lần này bị đuổi ra khỏi Cái Bang, kết thâm cừu với quần hào Trung Nguyên, bao nhiêu bạn bè trước đây nay mất sạch, trong bụng mười phần u uất, buồn phiền, hôm nay vô tình gặp một người võ công không kém gì mình, nhưng vô duyên không làm quen được, đành uống rượu tiêu sầu. Thế nhưng bao nhiêu nghi vấn tích kết trong lòng nay đã giải quyết, trong lòng cũng có phần nhẹ nhõm. Uống đến hơn hai chục bát cũng đã ngà ngà liền đi ra, nghĩ thầm: Đoàn Chính Thuần không biết ra sao? Bọn Nguyễn Tinh Trúc, Tần Hồng Miên bị ta điểm huyệt, mình phải quay lại giải cứu mới được. Nghĩ vậy ông liền rảo bước chạy trở về. Khi trở về ông không thi triển toàn lực nên chậm hơn nhiều, đến nhà họ Mã thì đã quá ngọ. Trên bãi tuyết bên ngoài nhà không còn một ai, bọn Nguyễn Tinh Trúc đều không còn nữa, chắc là A Tử đã bồng họ vào trong nhà. Ông đẩy cửa bước vào, thấy xác Bạch Thế Kính còn nằm bên cạnh cửa, Đoàn Chính Thuần không thấy đâu, bên cạnh giường một người đàn bà nằm phục đó, người đầy những máu, chính là Mã phu nhân. Bà ta nghe thấy tiếng chân người vội quay đầu ra, thều thào nói:
- Thôi làm ơn làm phước, mau lên, ngươi mau giết ta cho rồi!
Tiêu Phong thấy bà ta mặt xám xịt, chỉ qua một đêm mà dường như già đi đến hai ba chục tuổi, trông thật xấu xí bèn hỏi:
- Đoàn Chính Thuần đâu?
Mã phu nhân đáp:
- Cứu y đi rồi, con... con ác nhân đó! A!
Đột nhiên mụ ta kêu thét lên, thanh âm sắc nhọn như đâm vào tai. Tiêu Phong không ngờ đến, giật mình nhảy nhổm lên, lùi lại một bước hỏi:
- Bà sao thế?
Mã phu nhân hổn hển:
- Ngươi... ngươi là Kiều ...bang chủ?
Tiêu Phong gượng cười:
- Ta không còn là bang chủ Cái Bang từ lâu rồi. Không lẽ bà không biết hay sao?
Mã phu nhân nói:
- Đúng rồi, ông là Kiều bang chủ. Kiều bang chủ, xin ông làm ơn làm phước, mau giết ta đi.
Tiêu Phong chau mày nói:
- Ta không định giết bà. Bà mưu sát thân phu, trong Cái Bang sẽ có người đến lo liệu chuyện này.
Mã phu nhân van nài:
- Ta... ta chịu không nổi nữa rồi, con nhãi khốn kiếp đó thủ đoạn độc ác quá, ta... ta ra ma rồi cũng không tha cho nó đâu. Ngươi... ngươi xem... người ta thì biết.
Bà ta nằm phục ở nơi khuất nẻo tối tăm, Tiêu Phong nhìn không rõ, nghe nói thế bèn đi ra mở cửa sổ để cho ánh nắng chiếu vào trong nhà, vừa liếc mắt nhìn xuống, không khỏi rùng mình. Chỉ thấy Mã phu nhân, đầu vai, cánh tay, ngực, đùi chỗ nào cũng bị ai đó dùng dao rạch, trên vết thương đầy kiến bu vào. Tiêu Phong nhìn những chỗ bị thương biết ngay tứ chi và những khớp xương trên người, các đường gân đều bị cắt đứt cả rồi, không còn cử động gì được, không phải như điểm huyệt mà bảo là giải huyệt xong lại cử động bình thường, còn cân mạch đứt hết rồi thì không có cách nào chữa từ nay thành một người tàn phế. Thế nhưng tại sao trên vết thương lại đầy những kiến thế kia? Mã phu nhân thều thào nói:
- Con nhãi khốn kiếp cắt đứt gân cốt tay chân ta rồi lại lấy dao rạch đầy người, đem... đem nước đường... nước đường bôi lên, bảo là để dụ cho kiến bu khắp người ta, cho ta đau đớn, khốn khổ vài ngày, để ta sống không được, chết... không xong.
Tiêu Phong biết rằng chỉ cần nhìn thấy vết thương của bà ta một lần nữa là sẽ buồn mửa ngay. Tuy ông không phải là người yếu lòng nhưng sát nhân phóng hỏa, làm gì phải làm cho xong, còn dùng phương cách ác độc hành hạ kẻ địch thì không làm được, thở dài một tiếng, quay xuống bếp xách lên một thùng nước to, dội lên người bà ta để cho khỏi bị cái khổ bầy kiến vây quanh cắn xé. Mã phu nhân nói:
- Cảm ơn ngươi, ngươi quả là có lòng tốt. Ta không sống được nữa rồi, ngươi làm ơn làm phúc, một đao giết ta cho xong.
Tiêu Phong hỏi:
- Thế ai... ai rạch trên người bà đó?
Mã phu nhân nghiến răng hậm hực nói:
- Là con nhãi khốn kiếp chứ còn ai, nó tuổi còn nhỏ, chỉ chừng mười lăm mười sáu, mà sao bụng dạ tàn ác đến thế...
Tiêu Phong thất kinh kêu lên:
- Là A Tử ư?
Mã phu nhân đáp:
- Chứ còn ai, ta nghe con giặc cái kia gọi nó, bảo nó giết ta đi cho xong. Thế nhưng cái con nhãi khốn kiếp A Tử lại muốn hành hạ ta chầm chậm để báo thù cho phụ thân, để cho mẫu thân hả giận, bắt ta chịu muôn vàn khổ sở...
Tiêu Phong nghĩ thầm: Ta chỉ sợ Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc nổi cơn ghen, ra tay liền giết Mã phu nhân ngay, bà ta chết rồi ta không còn ai để hỏi. Ngờ đâu con tiểu a đầu A Tử lại tàn nhẫn độc ác đến thế. Ông chau mày nói:
- Đoàn Chính Thuần trước kia có tình ý với bà, tuy bà muốn giết ông ta nhưng không lẽ thấy con gái tàn ác như thế lại không ngăn cản hay sao?
Mã phu nhân đáp:
- Khi đó y còn hôn mê bất tỉnh, nhân sự bất tri, cũng bởi... cũng bởi Thập Hương Mê Hồn Tán mà ra.
Tiêu Phong gật đầu đáp:
- Thì ra là thế. Ông ta là một hảo hán trái phải trắng đen minh bạch, lẽ nào dung túng cho con gái làm chuyện ngang ngược như thế bao giờ? Ôi, thế còn mấy người đàn bà kia thì sao?
Mã phu nhân rên rỉ:
- Đừng hỏi nữa, đừng hỏi nữa, mau giết ta đi.
Tiêu Phong hừ một tiếng nói:
- Nếu bà không trả lời ta cho đàng hoàng, ta sẽ lại lấy mật bôi lên vết thương, phủi tay bỏ đi, để bà sống chết sao mặc kệ.
Mã phu nhân đáp:
- Bọn đàn ông các ngươi... đứa nào cũng lang tâm ác độc...
Tiêu Phong nói:
- Thế thủ đoạn của bà mưu hại Mã đại ca không ác độc hay sao?
Mã phu nhân lạ lùng:
- Ngươi... ngươi làm sao mà biết? Ai nói cho ngươi nghe vậy?
Tiêu Phong lạnh lùng đáp:
- Ta hỏi bà chứ không phải bà hỏi ta. Bà cầu xin ta chứ không phải ta cầu xin bà. Nói mau!
Mã phu nhân nói:
- Thôi được, để ta nói hết cho ngươi nghe. Con tiểu tiện nhân A Tử trừng trị ta, mẹ nó luôn mồm quát mắng bảo thôi nhưng con nhãi khốn kiếp đó chỉ cười hì hì không nghe. Mẹ nó bị người ta điểm trúng huyệt đạo, có muốn cử động cũng không được. Chẳng bao lâu, có năm sáu thủ hạ của Đoàn Chính Thuần tới nơi, A Tử mới ôm cha nó, mẹ nó và mẹ con Tần Hồng Miên từng người một ra khỏi nhà, nhưng không cho ai vào để họ khỏi nhìn thấy ta. Thủ hạ của Đoàn Chính Thuần có mang theo ngựa cưỡi, nên đón bọn chúng đi mất.
Tiêu Phong gật đầu, nghĩ bụng: Đoàn Chính Thuần do bộ thuộc đưa đi rồi, Nguyễn Tinh Trúc ba người tuy huyệt đạo bị đóng nhưng chỉ sau vài giờ sẽ tự động giải khai, những người đó mình không cần để ý tới làm gì. Mã phu nhân nói:
- Ta nói hết cho ngươi nghe rồi, ngươi ... ngươi mau mau giết ta đi.
Tiêu Phong nói:
- Bà nói hết rồi, có thật thế không? Muốn chết ư? Cũng chẳng dễ! Muốn sống ư? Cũng khó lắm. Bà vì cớ gì mà lại giết Mã đại ca?
Mã phu nhân mắt lộ hung quang, hậm hực nói:
- Ngươi không hỏi không được hay sao?
Tiêu Phong đáp:
- Đúng thế, không hỏi không được. Ta là một người đàn ông lòng dạ cứng cỏi, không có chuyện thương hại bà đâu.
Mã phu nhân hứ một tiếng nói:
- Ngươi đương nhiên là lòng dạ cứng cỏi rồi, chẳng nói tưởng ta không biết hay sao? Hôm nay ta thành nông nỗi này, cũng đều ở ngươi mà ra. Ngươi ngạo mạn tự đại, là đồ chó má không coi ai vào đâu. Thứ Khất Đan Hồ Lỗ không bằng con chó con heo, ngươi chết xuống mười tám tầng địa ngục, ngày ngày ác quỉ hành hạ ngươi. Dùng mật bôi vào vết thương ta thì có gì mà không dám? Ngươi là đồ chó đẻ, là quân đê tiện... Mụ ta càng chửi càng độc địa, hiển nhiên trong lòng tích súc oán hận đã lâu, không phát tiết không xong, càng chửi càng tuôn ra những lời bẩn thỉu của quân đầu đường xó chợ, có lớp có lang không sao tưởng nổi. Tiêu Phong từ nhỏ đã lăn lộn với bọn Cái Bang, những lời thô tục nghe đã quen tai, mỗi khi uống rượu vào cũng thường cùng bọn ăn mày văng tục văng rác, nhưng bây giờ quả thực không ngờ Mã phu nhân vốn dĩ hết sức tư văn, thanh nhã, lại biết chửi một cách độc địa tàn ác đến thế, toàn những lời trước nay ông chưa từng nghe thấy bao giờ. Ông chẳng nói chẳng rằng, đợi cho bà ta chửi cho sướng miệng, mặt vốn tái mét, chửi bới một hồi càng lúc càng hăng thành đỏ gay, ánh mắt đầy vẻ hả hê. Bà ta chửi thêm một chập nữa, tiếng nói nhỏ dần, sau cùng nói:
- Thằng cẩu tặc Kiều Phong kia, ngươi hại ta đến nước này, để sau này xem quả báo thế nào.
Tiêu Phong bình tĩnh nói:
- Chửi xong chưa?
Mã phu nhân đáp:
- Tạm thời không chửi nữa, để ta nghỉ một chút rồi chửi tiếp. Ngươi là thứ chó đẻ không cha không mẹ, bà còn tí hơi nào là bà còn chửi, chửi không bao giờ thôi.
Tiêu Phong nói:
- Được rồi, bà cứ chửi đi. Lần đầu tiên ta gặp bà là ở nơi rừng hạnh ngoài thành Vô Tích, lúc đó Mã đại ca đã bị giết rồi, còn trước đó ta không hề biết bà là ai, sao lại bảo là ta hại bà cho nên mới có ngày nay?
Mã phu nhân căm tức đáp:
- Há, ngươi bảo nơi rừng hạnh ngoài thành Vô Tích lần đầu tiên gặp ta, chính là câu đó, phải lắm, chính là thế đó. Ngươi tự cao tự đại, ngạo mạn cho rằng mình là người võ công số một trên đời, con mẹ ngươi chứ!
Tiếp theo bà ta lại luôn mồm chửi bới một thôi một hồi không ngừng. Tiêu Phong để cho bà ta tha hồ rủa xả, đến khi không còn hơi sức mới hỏi:
- Chửi đủ chưa?
Mã phu nhân hậm hực đáp:
- Ta không bao giờ đủ cả, ngươi... ngươi là đồ có mắt như mù, dù cho ngươi có là hoàng đế, cũng chẳng đâu vào với đâu nữa là.
Tiêu Phong đáp:
- Đúng thế, dẫu ta có là hoàng đế thì cũng có vào đâu? Ta trước nay có bao giờ cho rằng mình thiên hạ vô địch, mới rồi... mới rồi người kia, võ công cũng còn hơn ta nhiều.
Mã phu nhân chẳng cần biết ông đang nói tới ai, chỉ vẫn xoen xoét chửi bới thêm một chập nữa mới nói:
- Ngươi bảo là ngoài thành Vô Tích là lần đầu thấy mặt ta, hứ, còn hội trăm hoa trong thành Lạc Dương ngươi cũng chưa gặp ta hay sao?
Tiêu Phong ngạc nhiên, Bách Hoa hội trong thành Lạc Dương đã hai năm trước rồi, ông cùng các anh em Cái Bang cùng phó hội, đố quyền uống rượu, một bữa say sưa thoải mái nhưng nào có nhớ đã từng gặp bà ta
lần nào đâu, liền hỏi:
- Lần đó Mã đại ca cũng đến nhưng có đem bà đến gặp ta bao giờ đâu?
Mã phu nhân chửi liền:
- Ngươi là cái thá gì? Chẳng qua chỉ là đầu đảng của bọn ăn mày ăn nhặt chứ có chó gì đâu? Hôm đó trong ngày hội trăm hoa, ta đứng bên cạnh bụi thược dược vàng, bao nhiêu anh hùng hảo hán, có ai không ngơ ngẩn nhìn ta? Có ai nhìn ta mà không hồn vía lên mây? Chỉ có mình ngươi tự cho là anh hùng hảo hán không tham nữ sắc, đến nhìn thẳng cũng chẳng thèm ngó ngàng đến ta. Nếu quả như ngươi không thấy ta thì không nói gì, ta cũng chẳng trách. Ngươi rõ ràng trông thấy, vậy mà thị nhi bất kiến, chỉ đảo mắt qua chẳng thèm ngừng lại chút nào, xem ta có khác gì với bọn con gái ngoài đường? Đồ đạo đức giả, thứ quân vô sỉ mặt dầy không biết thẹn.
Tiêu Phong mới hơi hiểu ra bèn nói:
- Thì ra thế, ta nhớ ra rồi, hôm đó ở bên cạnh khóm thược dược, hình như có vài phụ nữ, lúc đó ta chỉ lo việc uống rượu, hơi đâu mà đi xem mẫu đơn thược dược, đàn ông đàn bà làm gì? Giá thử như bậc nữ lưu anh hiệp tiền bối, ta đương nhiên chạy lại bái kiến. Còn bà là bậc chị dâu, ta không nhìn bà, cũng có gì gọi là đại thất lễ? Cớ sao bà lại hậm hực thù hận về chuyện đó?
Mã phu nhân hầm hầm nhìn ông nói:
- Thế ngươi có mắt không tròng à? Bao nhiêu anh hùng hảo hán vang danh thiên hạ ai cũng nhìn ta từ đầu đến chân ngắm nghía một hồi, bao nhiêu người đức cao vọng trọng, dù không dám nhìn thẳng vào mặt ta, cũng chờ khi người khác không để ý, liếc trộm ta vài cái. Chỉ mình ngươi... hừ, hơn một nghìn đàn ông trong hội trăm hoa, chỉ có mình ngươi từ đầu chí cuối không thèm nhìn ta. Ngươi là đại đầu não của Cái Bang, là anh hùng hảo hán thiên hạ nghe danh. Trong hội Bách Hoa thành Lạc Dương, đàn ông dĩ nhiên ngươi đứng đầu, còn trong đàn bà thì ta là số một, ngươi lại không thèm nhìn ta vài cái thì ta còn cho là mình đẹp được nữa hay không? Hơn nghìn đàn ông kia vì ta mê mẩn tâm thần thì ta cũng có còn hả lòng hả dạ được không?
Tiêu Phong thở dài một tiếng nói:
- Ta từ nhỏ không thích lẵng nhẵng tán tỉnh đàn bà con gái, tuổi càng lớn càng ít nhìn nữ nhân chứ nào có phải chỉ mình bà đâu. Có người đẹp gấp trăm lần bà, ta lúc đầu cũng không để ý, mãi đến sau này, thì đã chậm mất rồi...
Mã phu nhân rít lên:
- Cái gì? Có con đàn bà đẹp gấp trăm lần ta? Ai thế? Ai thế?
Tiêu Phong đáp:
- Là con gái Đoàn Chính Thuần, chị của A Tử.
Mã phu nhân nhổ toẹt một bãi nước bọt nói:
- Tưởng gì, thứ đàn bà đê tiện nói đến cho bẩn mồm...
Bà ta chưa dứt câu, Tiêu Phong liền nắm ngay tóc nhắc lên giáng xuống sàn một cái thật mạnh nói:
- Ngươi còn nói nửa câu bất kính đối với nàng, hừ, ta sẽ cho ngươi biết tay ta.
Mã phu nhân bị ông lẳng một cái tưởng chừng muốn ngất đi, xương cốt toàn thân kêu lục cục, đột nhiên cất tiếng cười vang nói:
- Hóa ra... hóa ra Kiều đại anh hùng của chúng ta, Kiều đại bang chủ, cũng đã bị con nhỏ đó chài rồi, ha ha, ha ha, tức cười đến chết được. Ngươi mất chức bang chủ Cái Bang liền tính ngay chuyện cưới công chúa Đại Lý làm phò mã. Kiều bang chủ, vậy mà ta tưởng đàn bà nào ngươi cũng không thèm nhìn chứ.
Kiều Phong hai gối nhũn xuống ngồi phịch xuống ghế, chậm rãi nói:
- Ta chỉ mong được nhìn nàng một lần nữa, có điều... có điều... không còn làm sao gặp lại được.
Mã phu nhân cười khẩy nói:
- Sao thế? Ngươi muốn lấy nó, bằng một thân võ công như ngươi mà không lẽ không giành được nó hay sao?
Tiêu Phong lắc đầu không đáp, một hồi lâu sau mới nói:
- Dù có tài cán bằng trời, cũng không giành nàng lại được nữa.
Mã phu nhân mừng lắm, hỏi gặng:
- Sao thế ? Ha ha! Ha ha!
Tiêu Phong nói nhỏ:
- Nàng chết rồi!
Mã phu nhân im bặt, trong lòng hơi hối hận, cảm thấy gã Kiều bang chủ ngạo mạn, tự cao tự đại này có ba phần đáng thương nhưng lập tức đổi thành vui mừng, khuôn mặt càng lúc càng thích chí. Tiêu Phong thấy khuôn mặt rạng rỡ của bà ta liền hiểu ngay, mình càng đau lòng mụ càng sung sướng liền đứng dậy nói:
- Ngươi mưu sát thân phu, chết cũng đáng lắm, còn gì để nói hay không?
Mã phu nhân nghe ông ta định giết mình, đột nhiên sợ hãi, van nài:
- Ngươi... ngươi tha cho ta, đừng giết ta.
Tiêu Phong đáp:
- Được, ta cũng chẳng cần ra tay.
Ông xoay người đi ra. Mã phu nhân thấy ông ta không quay đầu nhìn lại, trong lòng phẫn nộ, lớn tiếng chửi:
- Kiều Phong, đồ chó má, năm xưa ta hận ngươi không thèm nhìn ta lấy một lần, nên mới xúi Mã Đại Nguyên khui gốc tích của ngươi ra. Mã Đại Nguyên nhất định không chịu, ta mới bảo Bạch Thế Kính giết Mã Đại Nguyên. Ngươi... ngươi hôm nay cũng không vì ta xiêu lòng chút nào cả.
Tiêu Phong quay đầu lại, lạnh lùng đáp:
- Ngươi mưu sát thân phu cũng chỉ vì ta không chịu nhìn ngươi ư? Hừ, ngươi bịa ra một chuyện lấy bàn tay che mặt trời như thế, ai mà tin cho được.
Mã phu nhân nói:
- Ta sống chết chỉ trong khoảnh khắc, dối gạt ngươi làm gì nữa? Ngươi coi thường ta, ta còn cách gì khác nữa đâu? Chỉ vì trong lòng ta hận ngươi mà thôi. Không nói gì lũ ăn mày xem ngươi như thần như thánh, khắp thiên hạ còn ai dám động đến ngươi? Thế nhưng trời cao có mắt, xui khiến cho ta hôm đó thấy được di thư của Uông bang chủ trong cái rương sắt của Mã Đại Nguyên. Muốn xem trộm lá thư bên trong mà không làm tổn thương đếu dấu si khằn bên ngoài, rồi lại bỏ trở vào như cũ thật đâu có khó gì? Ta xem lá thư biết được sự tình, ngươi xem trong lòng có sướng không? Ha ha, thật đúng là cơ hội bằng vàng để ta trút nỗi căm hờn, ta phải cho ngươi thân bại danh liệt, không còn ra vẻ ta đây, anh hùng hảo hán gì nữa. Ta mới xúi Mã Đại Nguyên trước mặt mọi người tố cáo ra, để cho ai cũng biết ngươi là giống Khất Đan Hồ Lỗ, không cho ngươi làm bang chủ Cái Bang nữa, khiến ngươi không còn đất sống ở Trung Nguyên, đến mạng cũng khó mà còn giữ được.
Tiêu Phong thấy mụ ta không còn động đậy được nữa, chẳng còn cách gì có thể hại người nhưng những lời ác độc từng câu lọt vào tai, không khỏi lạnh người, hừ một tiếng nói:
- Mã đại ca không nghe lời ngươi nên ngươi giết y chứ gì?
Mã phu nhân đáp:
- Đúng thế, y đã không những không nghe lời lão nương, ngược lại còn hung hăng chửi ta một trận, bảo là từ nay không cho ra khỏi cửa, nếu như tiết lộ một tiếng thì sẽ băm vằm bà ra. Y trước nay đối với gái này đòi gì được nấy, có bao giờ dám hăng tiết vịt như thế đâu? Ta vốn nào có coi y ra chó gì, vậy mà y dám hỗn với ta như thế thì lão nương phải cho y biết tay. Hơn một tháng sau Bạch Thế Kính đến chơi, hôm đó mười bốn tháng tám, y đến ở lại qua ngày Trung Thu. Y liếc ta một cái, lại một cái nữa, hừ hừ, thằng cha già dê. Ta thả cho thằng chả mấy bận khiến lão dê xồm mê tít. Ta mới bảo cha già dê giết tên vô tích sự Mã Đại Nguyên, y không chịu, ta dọa sẽ kêu lên là y cưỡng gian ta. Lão tặc đó ở bên ngoài lúc nào cũng ra vẻ thiết diện vô tư, thế mà với lão nương, có còn chuyện xấu xa bẩn thỉu nào mà không làm? Ta mới bảo y: Chàng giết Mã Đại Nguyên rồi, tiện thiếp từ nay thuộc về chàng. Nếu không chịu thì chàng chỉ một chưởng đánh tiện thiếp chết tươi là xong. Y đời nào lại bỏ ta được chỉ đành giết Mã Đại Nguyên.
Tiêu Phong thở hắt ra, nói:
- Bạch Thế Kính là một hán tử đanh thép như thế, vậy mà bị hại về tay ngươi. Ngươi... ngươi cũng cho Mã huynh đệ uống Thập Hương Mê Hồn Tán, sau đó mới bảo Bạch Thế Kính bóp nát yết hầu y, giả làm Cô Tô Mộ Dung dùng Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ giết y chứ gì?
Mã phu nhân đáp:
- Đúng thế, ha ha, có gì mà không phải? Có điều Cô Tô Mộ Dung gì gì đó, ta làm sao mà biết, đó là thằng cha già dịch nghĩ ra.
Tiêu Phong gật đầu, Mã phu nhân nói tiếp:
- Ta bảo cha già dê đứng ra tiết lộ thân thế bí mật của ngươi. Ôi, cha già dịch đó vậy mà vẫn còn giữ nghĩa khí, bị ta ép quá, rút dao ra toan tự tận. Được rồi, ta đành tha cho y, đi kiếm thằng cha chết dở sống dở Toàn Quan Thanh. Bà chỉ cho nó ngủ với bà ba đêm là bảo gì nghe nấy, hung hăng vỗ ngực nhận lo liệu mọi việc nhất định thành công. Lão nương tính toán nếu chỉ một mình thằng cha Toàn Quan Thanh thì không lật đổ được ngươi nên mới đi mời Từ trưởng lão ra mặt. Về sau thế nào thì ngươi biết rồi, ta chẳng cần phải nói nữa!
Cái màn bí mật của nghi vấn cuối cùng trong lòng Tiêu Phong thế là đã được vén lên, vì cớ gì mà Toàn Quan Thanh chủ mưu phản mình trong khi Bạch Thế Kính lại bị loạn đảng bắt giữ, bèn hỏi:
- Cái quạt của ta là do Bạch Thế Kính ăn trộm phải không?
Mã phu nhân đáp:
- Không phải thế. Cha già dê nói là bằng giá nào y cũng không làm điều gì không phải với ngươi. Đó là Toàn Quan Thanh dụ được Trần trưởng lão xiêu lòng, đợi ngươi rời khỏi nhà bèn vào phòng ăn cắp đem ra.
Tiêu Phong nói:
- Đoàn cô nương giả làm Bạch Thế Kính, mặc dù không sai một mảy nhưng cũng vì thế mà ngươi nhìn ra sơ hở phải không?
Mã phu nhân lạ lùng hỏi lại:
- Con bé đó là con gái Đoàn Chính Thuần đấy à? Là người trong mộng của ngươi đấy ư? Nó có đẹp thật không?
Tiêu Phong không đáp, ngửng đầu nhìn về phía chân trời xa xa. Mã phu nhân nói:
- Con... con bé đó làm ta sợ đến mất vía, còn nói gì rằm tháng tám, chính là ngày giỗ Mã Đại Nguyên. Thế nhưng về sau ta nói mấy câu hoa nguyệt, nói trăng trên trời vừa tròn vừa sáng, hôm đó cha già dê đáp lại là Cái bánh dầy ở trên người nàng kia, còn tròn hơn trắng hơn trăng trên trời. Ta hỏi con bé đó bánh Trung Thu thích bánh dẻo hay bánh nướng, hôm đó cha già dịch nói là: "Cái bánh dầy trên người nàng, dĩ nhiên là vừa dẻo vừa ngọt hơn mật rồi". Đoàn cô nương trả lời chẳng đâu ra đâu nên lập tức ta nhìn thấy chỗ sơ hở ngay.
Tiêu Phong lập tức hiểu ra tại sao hôm đó Mã phu nhân đột nhiên nói qua chuyện trăng tròn và bánh Trung Thu, thì ra tối hôm mười bốn tháng tám năm ngoái, mụ ta và Bạch Thế Kính thông gian, hai người ăn nói những chuyện nhảm nhí. Mã phu nhân cười sằng sặc nói:
- Kiều Phong, ngươi giả trang thật tệ hết sức, ta vừa biết con nhãi đó là đồ giả mạo, nghĩ lại hình dáng ăn nói của nhà ngươi, hì hì, có gì mà không biết là Kiều Phong? Ta đang muốn giết Đoàn Chính Thuần, mượn luôn tay ngươi làm việc đó.
Tiêu Phong nghiến răng nghiến lợi nói:
- Đoàn cô nương vì nhà ngươi mà chết, món nợ đó ta sẽ tính vào ngươi.
Mã phu nhân đáp:
- Thì chính nó đến đánh lừa ta trước chứ nào có phải ta đến đánh lừa nó đâu, ta bất quá chỉ tương kế tựu kế mà thôi. Nếu như nó chẳng đi tìm ta, đợi đến khi Bạch Thế Kính lên làm bang chủ Cái Bang rồi, ta sẽ có cách khiến cho Cái Bang và họ Đoàn Đại Lý gây thù chuốc oán, gã Đoàn Chính Thuần kia, hừ, sớm muộn rồi cũng không thoát khỏi tay ta.
Tiêu Phong nói:
- Ngươi quả là ác độc! Chồng mình cũng giết, đàn ông đã từng tư tình với ngươi, ngươi cũng giết; cả người không đến nhìn dung mạo ngươi, ngươi cũng muốn giết nữa.
Mã phu nhân đáp:
- Đàn bà đẹp trước mắt, không nhìn thì nhìn gì? Chẳng lẽ ta không đẹp hay sao? Trên đời này chỉ có ngươi là kẻ vờ vịt, là đồ ngụy quân tử.
Mụ ta nói đến điều mình đắc ý hai má đỏ hồng, hết sức phấn chấn, nhưng thể lực càng lúc càng suy, nói được một câu lại thở hổn hển. Tiêu Phong đáp:
- Câu cuối cùng ta hỏi ngươi đây, cái gã "đàn anh đứng đầu" viết thư cho Uông bang chủ là người nào thế? Ngươi đã đọc lá thư đó rồi, hẳn phải biết ai là người thự danh.
Mã phu nhân cười khẩy đáp:
- Ha ha, ha ha, Kiều Phong ơi là Kiều Phong, cuối cùng thì ngươi phải năn nỉ ta hay là ta phải năn nỉ ngươi? Mã Đại Nguyên chết rồi, Từ trưởng lão chết rồi, Triệu Tiền Tôn chết rồi, Thiết Diện Phán Quan Đơn Chính chết rồi, Đàm công, Đàm bà chết rồi, Trí Quang đại sư núi Thiên Thai cũng chết rồi. Trên đời này bây giờ chỉ còn mình ta và chính "đàn anh đứng đầu" là biết được y là ai thôi.
Tim Tiêu Phong càng đập nhanh hơn, nói:
- Đúng thế, sau cùng Kiều Phong phải cầu khẩn bà, xin phu nhân cho tôi biết tên người đó.
Mã phu nhân đáp:
- Mạng ta chỉ còn trong khoảnh khắc, ngươi có cái gì đền đáp ta không?
Tiêu Phong đáp:
- Nếu sức Kiều mỗ có thể làm được, phu nhân sai bảo chuyện gì cũng nhất quyết tuân hành.
Mã phu nhân mỉm cười đáp:
- Ta còn mong gì nữa? Kiều Phong, ta hận ngươi không đến chăm chú nhìn ta, để đến nỗi gây ra thành bao nhiêu tai họa, ngươi muốn ta cho ngươi biết tên của "đàn anh đứng đầu" cũng không khó khăn gì, chỉ cần ôm ta vào trong lòng, đăm đăm nhìn ta một lúc thật lâu thôi.
Tiêu Phong nhăn tít lông mày lại thực tình không muốn chút nào, thế nhưng quả đúng là trên đời chỉ một mình mụ ta là biết được cái đại bí mật này thôi, mối huyết hải thâm cừu của mình, chỉ toàn nhờ vào nơi miệng bà ta nói ra mấy tiếng, không nói chuyện bà ta bảo mình làm cực kỳ khó khăn, mà dẫu có chuyện cực kỳ xấu xa bỉ ổi, thì cũng phải miễn cưỡng mà làm. Bà ta mạng chỉ còn như mành treo chuông, lúc nào cũng có thể tắt thở, uy hiếp bức bách, lấy lợi mà dụ tất cả đều vô ích. Ông nghĩ thầm: Nếu như ta câu chấp không chịu, một khi bà ta thở hắt ra rồi thì người giết cha giết mẹ ta là ai, từ nay không bao giờ biết được nữa. Ta ôm bà ta nhìn một lát thì đã sao?.
Ông bèn nói:
- Được rồi, ta bằng lòng.
Ông khom người bồng bà ta vào lòng, đôi mắt đăm đăm nhìn vào mặt Mã phu nhân. Lúc đó mặt bà ta đầy vết máu, lại dính tèm lem đất cát bụi bậm, qua một đêm chịu bao nhiêu dày vò đọa đày, dung sắc tiều tụy thật là khó coi. Tiêu Phong ôm bà ta cực kỳ miễn cưỡng, nhìn thấy thần tình như vậy, không khỏi cau mặt lại. Mã phu nhân giận dữ nói:
- Cái gì? Ngươi chán ghét không muốn nhìn ta, phải chăng?
Tiêu Phong đành trả lời cho xuôi:
- Không đâu!
Mấy tiếng đó ông quả không thực lòng, bình thời dù gặp chuyện nguy nan thế nào chăng nữa, cũng không bao giờ ông nói một đằng nghĩ một nẻo nhưng lúc này không còn biết cách nào hơn. Mã phu nhân dịu dàng nói:
- Nếu quả thực chàng không chán ghét thiếp, sao chàng không hôn thiếp một cái đi.
Tiêu Phong nghiêm mặt đáp:
- Không thể nào được. Bà là vợ của Mã đại ca, Tiêu Phong này lấy nghĩa khí làm trọng, có lẽ nào lại giở trò sàm sỡ với vợ góa của anh em bằng hữu bao giờ.
Mã phu nhân nũng nịu nói:
- Chàng bảo chàng giữ nghĩa khí với anh em, thế sao lại ôm thiếp trong lòng...
Ngay lúc đó, bên ngoài cửa sổ có tiếng cười khúc khích nói:
- Kiều Phong, ngươi quả là đồ mặt đầy! Giết chết chị ta rồi, lại đến bồng bế tình nhân của cha ta hôn hít mèo mỡ, không biết xấu hay sao?
Chính là tiếng của A Tử. Tiêu Phong tự thấy mình không có điều gì đáng thẹn, bất chấp lời nói lăng nhăng của đứa trẻ vô tri, chẳng thèm để ý nói với Mã phu nhân:
- Bà nói mau, nói cho ta biết "đàn anh đứng đầu" là ai đó?
Mã phu nhân hờn dỗi nói:
- Thiếp bảo chàng nhìn mặt thiếp, chàng lại quay đầu đi là sao?
Thanh âm đầy vẻ kiều mị. A Tử đi vào cười nói:
- Sao đến giờ này ngươi chưa chết? Hình dáng ngươi xấu như ma, có đàn ông nào dám nhìn ngươi nữa?
Mã phu nhân hốt hoảng:
- Cái gì? Ngươi... ngươi bảo ta xấu như ma ư? Gương đâu? Gương đâu? Đưa ta chiếc gương!
Giọng nói cực kỳ kinh hoàng, Tiêu Phong vội giục:
- Nói mau lên, nói mau lên, nói rồi ta sẽ đưa gương cho bà.
A Tử tiện tay cầm chiếc gương dồng sáng choang trên bàn, đưa ra trước mặt Mã phu nhân cười nói:
- Tự ngươi nhìn xem có đẹp hay không thì biết?
Mã phu nhân nhìn vào trong gương, chỉ thấy một khuôn mặt máu me bụi bặm, đầy vẻ hoảng hốt, hung tàn, ác độc, oán hờn, thống khổ, giận dữ, bao nhiêu vẻ xấu xa đều hiện lên trên mi trên mắt, trên môi trên mũi còn đâu là vẻ xinh tươi, e ấp của một tuyệt sắc giai nhân ai gặp cũng đem lòng trìu mến? Bà ta trợn ngược đôi mắt, mở trừng trừng không sao nhắm lại được nữa. Mã phu nhân một đời tự hào về vẻ đẹp của mình, ngờ đâu đến lúc sắp lìa trần lại thấy trong bóng gương một hình ảnh xấu xa đến thế. Tiêu Phong nói:
- A Tử, bỏ kính xuống, đừng chọc tức bà ta nữa.
A Tử cười khanh khách nói:
- Ta muốn cho mụ ta thấy tướng mạo mụ xấu xí đến chừng nào.
Tiêu Phong đáp:
- Ngươi chọc giận bà ấy chết mất thì thật hỡi ôi.
Ông thấy Mã phu nhân không còn cử động, tiếng thở cũng không còn nghe, vội vàng đưa tay thăm mũi hóa ra tắt thở rồi. Tiêu Phong kinh hãi kêu lên:
- Chao ôi! Không xong, mụ ta chết rồi!
Giọng ông hoảng hốt tưởng như đại họa đang đổ xuống. A Tử bĩu môi nói:
- Bộ ngươi thích y thị thật hay sao? Thứ đàn bà như thế chết đi có gì mà phải la lối om sòm.
Tiêu Phong dậm chân đáp:
- Hừ, thứ trẻ con biết gì? Ta cần phải hỏi mụ một chuyện, trên đời này chỉ có một mình mụ biết mà thôi. Nếu ngươi không đến phá bĩnh thì mụ ta đã nói ra rồi.
A Tử kêu lên:
- Trời ơi, hóa ra ta sai quấy ư? Ta làm hỏng việc của ông rồi, phải không?
Tiêu Phong thở dài, nghĩ bụng người chết không thể nào sống lại, có nổi nóng cũng chẳng đi đến đâu, cái con bé A Tử này hoang tàng thành tính, đến cha mẹ cô ta cũng còn chẳng quản chế nổi, huống chi là người ngoài? Ông nể tình A Châu, chuyện gì cũng phải bỏ qua, đành để xác Mã phu nhân xuống giường nói:
- Thôi mình đi!
Ông tra xét bốn bề, trong nhà không còn ai khác, bà lão bộc đã chạy đâu không biết, bèn lấy đồ đánh lửa ra xuống nhà chứa củi châm vào, chỉ chốc lát đã bốc lên ngùn ngụt. Hai người đứng ở bên ngoài thấy lửa từ trong cửa sổ bén ra, Tiêu Phong nói:
- Sao ngươi không về với cha với mẹ mà còn đi đâu?
A Tử đáp:
- Không, không! Ta không về với gia gia , má má đâu. Bọn thủ hạ của ông ấy mỗi khi gặp ta người nào cũng trợn mắt, nghiến răng, hầm hầm giận dữ. Ta xúi cha ta giết chúng đi, gia gia tệ quá chẳng nghe gì cả.
Tiêu Phong nghĩ thầm: Ngươi làm chết Chử Vạn Lý là huynh đệ chí giao, người ta dĩ nhiên phải hận ngươi. Đoàn Chính Thuần lẽ nào vì ngươi mà giết đám bầy tôi trung nghĩa được? Chính ngươi mới tệ, lại nói cha ngươi tệ, đúng là giọng lưỡi trẻ con nói năng tầm bậy tầm bạ. Ông bèn đáp:
- Thôi vậy thì ta đi đây!
Nói xong quay mình đi về hướng bắc. A Tử gọi:
- Này, này! Hượm đã! Chờ ta với!
Tiêu Phong ngừng bước, quay lại hỏi:
- Ngươi đi đâu? Có đi về với sư phụ không?
A Tử đáp:
- Không đâu. Bây giờ ta không về với sư phụ đâu, ta không dám.
Tiêu Phong lạ lùng:
- Vì cớ gì mà không dám? Lại gây ra chuyện gì rồi?
A Tử đáp:
- Không phải gây chuyện mà là ta lấy một cuốn sách của sư phụ, bây giờ quay về thể nào ông ấy cũng đòi lại. Để đến khi nào ta luyện xong đã, bấy giờ sư phụ có lấy cũng không sao.
Tiêu Phong nói:
- Sách luyện võ công phải không? Nếu là của sư phụ ngươi, ngươi xin ông ta cho đọc một chút, thể nào ông ta chẳng bằng lòng. Hơn nữa nếu ngươi tự luyện sẽ có nhiều chỗ không hiểu rõ, có sư phụ ở bên cạnh chỉ điểm có phải hơn không?
A Tử nhếch môi nói:
- Sư phụ ta bảo không cho là không cho, có năn nỉ cũng bằng thừa.
Tiêu Phong quả thật không ưa nổi cô gái ngược ngạo quen nết này, lại nghĩ sư phụ cô ta Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu ác danh nổi tiếng, chẳng nên dây dưa với hạng người đó bèn nói:
- Được rồi, ngươi muốn làm gì thì làm, ta không can thiệp vào việc của ngươi.
A Tử hỏi:
- Thế ông đi đâu?
Tiêu Phong nhìn căn nhà họ Mã lửa bốc đùng đùng, thở dài một tiếng nói:
- Ta vốn dĩ định đi báo thù, thế nhưng không biết kẻ thù là ai. Đời này kiếp này, mối thù đó đành không trả được.
A Tử kêu lên:
- Ta hiểu rồi, vốn dĩ chỉ Mã phu nhân biết được thôi, tiếc rằng ta chọc tức bà ta chết mất tiêu nên từ nay ông không còn biết được kẻ thù là người nào. Thích thật, thích thật! Kiều bang chủ uy danh lừng lẫy, vậy mà ta làm cho bó chân bó cẳng không làm gì được.
Kiều Phong lườm cô ta, thấy khuôn mặt đầy vẻ hạnh tai lạc họa , vui sướng thích thú, dưới ánh lửa bập bùng chiếu vào, mặt nàng rạng rỡ chẳng khác gì một trái táo vừa chín tới, trông thật dễ thương, có ai ngờ đâu dưới khuôn mặt ngây thơ kia lại ẩn tàng ác ý vô cùng vô tận. Lửa giận bốc lên, ông định tiện tay giáng cho cô ta một cái tát đích đáng nhưng chợt nghĩ lại, trước khi từ trần, A Châu đã từng cầu khẩn mình nhờ chăm sóc cho đứa em gái duy nhất trên đời, bụng bảo dạ: A Châu cả đời chỉ xin mình một chuyện lẽ nào mình lại không theo? Tiểu cô nương này dẫu có là kẻ đại gian đại ác, ta cũng hết sức đưa nàng về đường ngay nẻo chính, huống chi nàng chỉ là một đứa bé con không hiểu chuyện đời, ngang ngược láo lếu!. A Tử mặt câng câng hỏi lại:
- Thì sao? Ông định đánh chết tôi hả? Sao không đánh đi? Chị tôi bị ông đánh chết rồi, giết nốt tôi đi có gì mà không được?
Mấy câu đó chẳng khác gì mũi dao nhọn đâm vào tim Tiêu Phong, trong lòng chua xót, không biết phải trả lời ra sao, đành quay mặt sấn bước theo con đường tuyết mà đi thẳng. A Tử cười nói:
- Này, chậm lại, ông đi đâu thế?
Tiêu Phong đáp:
- Trung Nguyên không còn là chỗ ta có thể sinh sống được, mối thù giết cha giết mẹ ta không thể báo. Ta định đi ra ngoài biên tái từ nay không quay lại nữa.
A Tử nghiêng nghiêng đầu nói:
- Thế ông đi đường nào?
Tiêu Phong đáp:
- Ta ra Nhạn Môn Quan trước.
A Tử vỗ tay reo lên:
- Thế thì hay lắm, ta cũng định đi Tấn Dương, chính là cùng đường với ông.
Tiêu Phong nói:
- Ngươi đi Tấn Dương để làm gì? Đường sá xa xôi, bé con một thân một mình không nên đi.
A Tử cười đáp:
- Hứ, sợ cái gì đường sá xa xôi? Ta đi từ biển Tinh Tú đến đây còn được, không phải xa hơn à? Ta có ông đi cùng, sao lại bảo là một thân một mình?
Tiêu Phong lắc đầu:
- Ta không đi cùng với ngươi đâu.
A Tử hỏi:
- Sao thế?
Tiêu Phong đáp:
- Ta là đàn ông, còn ngươi là một cô gái tuổi trẻ, đi lại ngủ nghê thật là bất tiện.
A Tử đáp:
- Nói gì tức cười quá vậy? Ta không thấy bất tiện thì thôi, can chi ông lại thấy bất tiện? Ông cùng tỉ tỉ ta, chẳng phải là một nam một nữ ngày đi đêm ngủ, chung đường chung sá đấy sao?
Tiêu Phong trầm giọng đáp:
- Ta cùng chị cô có ước định hôn nhân, không phải chuyện thường.
A Tử vỗ tay cười nói:
- Trời ơi là trời, thế mà ta nhìn không ra, cứ tưởng chị ta giữ gìn qui củ lắm, có ngờ đâu ông cũng chẳng khác gì gia gia, còn tỉ tỉ cũng chẳng khác gì má má, chưa làm lễ cưới, đã ăn ở với nhau rồi.
Tiêu Phong giận dữ quát lên:
- Chỉ nói láo! Chị ngươi cho đến chết vẫn còn là một cô nương băng thanh ngọc khiết, ta đối với nàng nghiêm thủ lễ pháp, một niềm kính trọng.
A Tử thở hắt ra:
- Ông la lối quát mắng có ích gì đâu? Chị tôi dẫu sao cũng bị ông đánh chết rồi. Thôi mình đi chứ?
Tiêu Phong nghe nói chị tôi dẫu sao cũng bị ông đánh chết rồi, lòng lại chùng xuống dỗ dành:
- Thôi ngươi về Tiểu Kính Hồ với mẹ đi, không chừng kiếm ra chỗ nào tĩnh mịch, luyện thành côn phu trong cuốn sách, sau đó trở về với sư phụ. Đi Tấn Dương chơi có gì thích thú đâu?
A Tử nghiêm mặt đáp:
- Tôi có phải đi chơi đâu, có chuyện quan trọng phải làm đấy chứ!
Tiêu Phong lắc đầu nói:
- Ta không dẫn ngươi đi.
Nói xong ông rảo bước đi thẳng, A Tử thi triển khinh công, lót tót chạy theo, kêu lên:
- Đợi em với! Đợi em với!
Tiêu Phong không ngó ngàng gì tới nàng, cứ lầm lũi mà đi. Một hồi lâu, gió bấc đột nhiên trở mạnh, tuyết lại rơi nữa. Tiêu Phong xông pha gió tuyết rảo bước đi tiếp, nghĩ đến từ nay oán thù chìm sâu đáy biển, đại cừu không còn báo được nữa, trong lòng u uất nhưng chẳng biết làm cách nào trút bầu tâm sự, mối hận lòng đành chịu biết sao hơn.
Vi vu tuyết thổi mịt mùng,
Ngổn ngang tâm sự biết cùng ai đây.
*
* *
Tiêu Phong đi được khoảng trên mười dặm, thấy bên cạnh đường có một cái miếu nhỏ liền đi vào trong điện, ngồi dựa lưng vào tường đánh một giấc đến hơn hai giờ, bao nhiêu mệt mỏi đều tiêu tan, lại tiếp tục đi về hướng bắc. Đi thêm bốn chục dặm nữa đi đến nơi cửa ải quan yếu của miền bắc là Trường Đài quan. Việc đầu tiên là đi kiếm một quán rượu gọi ngay mười cân rượu trắng, hai cân thịt bò, một con gà quay, một mình ngồi ăn uống. Hết mười cân rồi lại gọi thêm năm cân nữa, còn đang uống dở bỗng nghe tiếng bước chân
một người nào đó đi vào, chính là A Tử. Tiêu Phong nghĩ thầm: Con bé này đến làm mình uống rượu mất hết cả hứng thú. Ông quay mặt đi làm như không nhìn thấy. A Tử mỉm cười, đến ngồi ngay trước bàn đối diện với ông, gọi lớn:
- Điếm gia, điếm gia, đem rượu lên đây!
Một tên hầu bàn vội vàng chạy đến cười nói:
- Tiểu cô nương, cô cũng uống rượu sao?
A Tử mắng liền:
- Cô nương là cô nương, hà cớ gì lại phải thêm một chữ tiểu? Ta sao lại không uống rượu được? Mau đem lên cho ta mười cân rượu trắng trước, sau đó lấy thêm năm cân, còn đồ nhắm lấy hai cân thịt bò, một con gà quay, mau, mau!
Tên tửu bảo le lưỡi một hồi, kêu lên:
- ối mẹ ơi! Cô nương nói thật hay nói chơi, còn bé thế này làm gì mà ăn nhiều vậy?
Y vừa nói vừa liếc Tiêu Phong, nghĩ thầm: Cô nương này đang châm chọc ông đó, ông uống gì cô ta uống nấy, ông ăn gì cô ta gọi nấy. A Tử đáp:
- Ai bảo ta còn bé? Bộ ngươi không có mắt hay sao? Hay là ngươi sợ ta ăn uống không tiền trả?
Nói xong lấy một đĩnh bạc trong túi ra, cạch một tiếng vứt ngay lên trên bàn, nói:
- Ta uống không hết, ăn không hết, cho chó ăn không được hay sao? Việc gì đến ngươi mà phải lôi thôi?
Tên hầu bàn cười nịnh đáp:
- Dạ! Dạ!
Y lại liếc Tiêu Phong một cái nghĩ thầm: Cô này quả là định gây chuyện, nói bóng nói gió để chửi ông đó. Chỉ một chốc đồ ăn thức uống đã dọn lên, gã tửu bảo đem một cái bát lớn đặt ngay trước mặt cô gái cười nói:
- Cô nương, để tôi rót rượu cho cô nhé!
A Tử gật đầu nói:
- Hay lắm!
Tên tửu bảo liền rót cho cô gái một bát rượu đầy, trong bụng nghĩ thầm: Cô mà uống hết bát rượu này, không lăn quay ra sàn nhà thì mới là lạ. A Tử hai tay bưng bát rượu lên, để vào môi nhắp một ngụm, nhăn mặt nói:
- Cay quá, cay quá! Liệt tửu này khó uống quá. Trên đời này nếu không có mấy đứa ngu xuẩn chịu uống thì rượu các ngươi bán được cho ai?
Người hầu bàn liếc trộm Tiêu Phong một cái, thấy ông trước sau mặc kệ không lý đến không khỏi cười thầm. A Tử lại xé hai chiếc đùi gà, cắn một miếng nói:
- Xì, thịt gì ươn quá!
Tên tửu bảo liền cãi lại:
- Con gà béo ngậy thơm nức mũi thế này, mới sáng nay còn kêu cục cục, thịt mới nguyên nóng sốt, sao lại ươn được?
A Tử nói:
- Hừ, thế thì chắc người mi hôi, hoặc giả khách khứa trong tửu điếm này hôi.
Khi đó ngoài trời bông tuyết đang rơi, trên đường nào có ai, trong quán rượu này chỉ có Tiêu Phong và cô nàng là hai người khách. Tên tửu bảo vội cười:
- Thân thể tôi hôi hám đó, đương nhiên là người tôi hôi rồi. Cô nương ăn nói nên cẩn thận kẻo vô ý mích lòng người khác.
A Tử đáp:
- Thế thì đã sao? Mích lòng người ta không lẽ một chưởng đánh chết ta chăng?
Nói xong cầm đũa gắp một miếng thịt bò, cắn một miếng, chưa kịp nhai đã nhổ toẹt xuống sàn, kêu lên:
- ối trời, sao thịt bò gì chua thế, cái này đâu phải thịt bò mà là thịt người. Các ngươi bán thịt người, bộ đây là hắc điếm hay sao?
Tên tửu bảo quýnh quáng vội nói:
- Chao ôi, cô nương làm ơn làm phước đừng có la ầm lên thế. Thịt này là thịt bò tươi, sao lại bảo là thịt người? Thịt người làm gì mà thớ to như thế? Làm gì mà đỏ au như thế này?
A Tử nói:
- Giỏi nhỉ, ngươi biết cả màu sắc lẫn thớ thịt người. Ta hỏi ngươi, quán của các ngươi giết bao nhiêu người rồi?
Gã hầu bàn gượng cười đáp:
- Gớm sao cô nương này thích nói bông lơn quá. Trường Đài quan phủ Tín Dương là một thị trấn lớn, chúng tôi mở quán đã trên sáu chục năm, làm gì có chuyện giết người bán thịt bao giờ?
A Tử nói:
- Được rồi, giả tỉ như không phải thịt người thì cũng giống gì hôi rình, chỉ có mấy đứa khùng mới chịu ăn. ối chà, giày ta đi trời tuyết sao dơ quá chừng.
Nói rồi cô ta liền cầm một miếng thịt bò xào đang còn bốc hơi thơm phức, chà lên giày bên trái. Mũi giày vốn đầy những bùn bị cô ta quệt đi, một nửa bên liền sạch bùn đất, mỡ màng xoa lên lập tức bóng lộn. Gã tửu bảo thấy cô gái dùng miếng thịt mà đại sư phụ nơi nhà bếp đã dụng công nấu nướng để chùi giày, tiếc hùi hụi, đứng một bên mà luôn mồm suýt soa. A Tử hỏi:
- Ngươi suýt soa gì thế?
Tên hầu bàn đáp:
- Thịt bò xào của tiểu điếm xưa nay vẫn được coi là một tuyệt phẩm của Trường Đài trấn, chung quanh đây một trăm dặm, ai ai nghe tiếng cũng giơ ngón tay cái lên ca ngợi, nuốt nước miếng ừng ực, vậy mà cô nương lại đem dùng chùi giày, cái đó ... cái đó ...
A Tử trừng mắt nhìn y hỏi:
- Cái đó làm sao?
Gã tửu bảo đáp:
- Xem chừng coi nhẹ quá.
A Tử nói:
- Ngươi bảo ta coi nhẹ đôi giày ư? Thịt cũng ở con bò mà ra, da đóng giày cũng ở con bò mà ra, có bên nào nhẹ hơn bên nào đâu. Này, quán đây còn món gì ngon đặc biệt nữa? Nói cho ta nghe thử xem nào.
Tên tửu bảo đáp:
- Món đặc biệt thì dĩ nhiên là có. Có điều giá cả không phải rẻ.
A Tử lấy trong túi ra một thỏi bạc, quăng xuống bàn kêu cạnh một tiếng hỏi lại:
- Bây nhiêu đủ không?
Tên hầu bàn thấy đĩnh bạc đó nặng phải đến năm lượng, dẫu đến hai mâm rượu thịt cũng đủ, vội vàng cười nịnh:
- Đủ chứ, đủ chứ, quá đủ là khác! Những món đặc biệt của tiểu điếm, có cá chép nấu rượu, thịt cừu non xắt lát, thịt heo hầm tương ...
A Tử cướp lời:
- Được lắm, mỗi thứ làm cho ta ba tô.
Tên tửu bảo nói:
- Cô nương nếu muốn nếm thử, chắc là mỗi thứ gọi một tô cũng đủ ...
A Tử mặt sầm xuống nói:
- Ta bảo ba tô là ba tô, việc gì đến ngươi?
Gã hầu bàn vội đáp:
- Dạ, dạ!
Lập tức dài giọng ngân nga kêu xuống:
- Cá chép nấu rượu ba tô! Cừu non xắt lát ba tô ...
Tiêu Phong ở bên cạnh thản nhiên ngồi xem, biết tiểu cô nương này gây chuyện làm phiền gã hầu bàn, cốt để cho mình ở ngoài chõ vào can thiệp nên cứ làm như không nghe không thấy, thản nhiên uống rượu thưởng tuyết. Một hồi sau, thịt cừu bốc hơi nghi ngút bưng lên, A Tử nói:
- Để một bát ở đây, một bát đem qua mời vị gia đài ngồi bên còn một bát nữa để nơi bàn kia. Bên đó cũng dọn đũa bát, để sẵn rượu ngon cho ta.
Tên hầu bàn bèn hỏi:
- Bộ có khách sắp đến hay sao?
A Tử trừng mắt nhìn y nói:
- Ngươi sao lắm lời, coi chừng ta cắt lưỡi ngươi đó.
Gã tửu bảo le lưỡi, đùa lại:
- Muốn cắt lưỡi tiểu nhân chỉ e cô nương không đủ bản lãnh.
Tiêu Phong thót ruột, liếc y một cái nghĩ thầm: Bộ ngươi muốn tìm cái chết hay sao? Sao dám ăn nói kiểu đó với con tiểu ma đầu này? Tửu bảo mang thịt cừu lên đặt trên bàn Tiêu Phong, ông chẳng nói chẳng rằng cầm đũa gắp ăn. Lại một lát sau, cá chép nấu rượu, thịt heo kho tương cũng đem lên, mỗi thứ ba tô, một tô đưa cho Tiêu Phong, một tô cho A Tử, còn một tô để riêng một bàn bên cạnh. Tiêu Phong hễ thấy đồ ăn đem tới đều không từ chối, lập tức ăn uống tự nhiên. A Tử mỗi bát chỉ gắp một miếng rồi chê:
- Hôi quá, thịt rữa cả rồi, chỉ đáng cho chó ăn.
Vừa nói vừa cầm thịt cừu, cá chép, thịt heo đem ra chùi giày. Tên hầu bàn tuy sót ruột thật nhưng đành chịu, biết làm sao. Tiêu Phong trông ra ngoài cửa sổ, nghĩ thầm: Con tiểu ma đầu này quả là đáng ghét, để nó lẽo đẽo theo mình thì hậu hoạn không biết đâu lường được. A Châu gửi ta lo cho nó, con này thuộc loại quỉ thành tinh, thị lo cho mình thừa sức, chẳng cần đến mình phải lo. Chi bằng mình tránh trước là hơn, cứ làm như không thấy. Còn đang nghĩ ngợi, bỗng thấy từ xa trên con đường đầy tuyết một người đi tới. Trời đang mùa đông tháng giá vậy mà y chỉ phong phanh một chiếc áo chùng đơn bằng vải gai màu vàng, tưởng chừng không biết lạnh là gì. Chỉ chốc lát đã đến gần, thấy y chừng bốn mươi tuổi, hai tai đeo hai cái vòng lớn bằng vàng sáng choang, mồm rộng mũi to như mũi lân, hình dáng vừa dữ dằn vừa ngụy bí, hiển nhiên không phải người Trung Thổ. Người đó đi tới trước cửa quán, vén màn bước vào chợt thấy A Tử hơi có vẻ ngạc nhiên nhưng lập tức tỏ ra vui mừng, dường như định nói gì lại thôi, rồi ngồi xuống cái bàn bên cạnh. A Tử nói:
- Có rượu thịt, sao không ăn đi?
Người kia thấy một chiếc bàn bỏ không nhưng bày đầy thức ăn liền nói:
- Để dành cho ta đấy ư? Đa tạ sư muội.
Nói xong đi đến bàn đó ngồi xuống, lấy trong túi ra một chiếc dao nhỏ, cán vàng, cắt thịt bò ra, lấy tay nhón ăn, ăn vài miếng lại uống một bát rượu, tửu lượng xem ra không dở. Tiêu Phong nghĩ thầm: Thì ra gã này cũng là học trò của Tinh Tú Lão Quái. Ông vốn không ưa hình mạo cử chỉ của người kia, nhưng thấy y uống rượu cũng khá nên cảm thấy không đến nỗi hoàn toàn đáng ghét. A Tử thấy y uống cạn một hồ rượu rồi, quay sang nói với gã tửu bảo:
- Lấy chỗ rượu này đem qua cho vị gia đài kia.
Nói xong thò hai tay vào trong bát rượu trước mặt, xoa xoa vài cái, rửa sạch dầu mỡ dính trên tay, sau đó đẩy cái bát ra. Gã hầu bàn nghĩ thầm: Rượu này còn uống thế nào được nữa?. A Tử thấy có vẻ ngần ngại không dám bưng bát rượu đi liền giục:
- Mau bưng qua bên kia, người ta đang đợi.
Gã tửu bảo cười:
- Cô nương có nói chơi không chứ rượu này làm sao uống nữa?
A Tử vênh mặt lên nói:
- Ai bảo là không uống được? Ngươi cho là tay ta dơ phải không? Đã vậy, ngươi uống một hớp, ta cho ngươi một đĩnh bạc.
Nói xong thò tay vào túi lấy ra một đĩnh bạc nhỏ chừng một lượng, quẳng xuống bàn. Tên hầu bàn mừng quá nói:
- Uống một hớp được một lượng bạc, thế thì tốt quá. Chẳng nói rượu này cô nương rửa tay qua, mà dẫu có nước rửa chân, tiểu nhân cũng uống.
Nói xong bưng bát rượu lên, nốc ngay một ngụm lớn. Ngờ đâu rượu vào trong mồm thật chẳng khác nào một cục sắt nung đỏ chạm vào lưỡi, gã tửu bảo rát quá chịu không nổi, rống lên một tiếng há hốc mồm, rượu phun tung tóe, hai chân nhảy chồm chồm, kêu toáng lên:
- ối mẹ ơi! Trời ơi là trời! ối mẹ ơi!
Tiêu Phong thấy thần tình y như vậy cũng giật mình kinh hãi, thấy tiếng kêu của y càng lúc càng ú ớ khó nghe hiển nhiên đầu lưỡi đã sưng tấy lên rồi. Trong quán từ chưởng quĩ đến đầu bếp chính, đứa quạt lò, cùng những tên hầu bàn khác nghe tiếng kêu đều chạy ra, hỏi rối rít:
- Cái gì thế? Cái gì thế?
Tên tửu bảo hai tay ôm mặt, không còn nói năng gì được nữa, lè lưỡi ra, thấy sưng to bằng ba lần bình thường, màu đen kịt. Tiêu Phong lại càng hoảng hốt: Đây là y bị trúng độc cực mạnh. Con tiểu ma đầu này chỉ nhúng ngón tay vào trong rượu một chốc mà rượu đã độc đến như thế. Mọi người thấy đầu lưỡi của gã hầu bàn quái lạ như vậy ai cũng kinh hoàng, nhốn nháo cả lên:
- Trúng phải chất độc gì vậy?
- Có phải bị rết cắn không?
- Trời ơi, không thể chần chờ, mau mau đi mời thầy thuốc.
Tên tửu bảo giơ tay chỉ A Tử, đột nhiên chạy đến trước mặt cô ta, quì xuống rập đầu lạy như tế sao. A Tử cười nói:
- ấy chết! Ta không dám nhận, ngươi cầu xin ta chuyện gì?
Người hầu bàn ngẩng lên, chỉ chỉ vào miệng mình, rồi lại tiếp tục khấu đầu. A Tử cười hỏi:
- Muốn ta trị cho ngươi, có phải không?
Tên tửu bảo đau đến toát mồ hôi hột, hai tay cào vào người liên tiếp, lại tiếp tục rập đầu, rồi chắp tay vái. A Tử thò tay vào bọc, lấy ra một chiếc dao nhỏ cán vàng, giống hệt chiếc dao của gã mũi lân, một tay nắm sau gáy tên tửu bảo, tay phải múa kim đao, soẹt một tiếng nhỏ đã cắt đứt một khúc lưỡi của y. Người chung quanh thất thanh kêu la, thấy máu tên hầu bàn phun ra như suối, y kinh hãi nhưng máu chảy ra rồi, độc tính liền giảm hẳn, bao nhiêu đau đớn trên đầu lưỡi đều hết ngay, chỉ trong giây lát vết sưng liền xẹp xuống. A Tử lại lấy trong túi ra một chiếc bình nhỏ, mở nắp ra, dùng móng tay khều một chút bột vàng, búng lên đầu lưỡi tên tửu bảo, máu nơi vết thương liền chảy chậm lại. Tên tửu bảo tuy tức lắm nhưng không dám nổi giận, tạ ơn thì không đành lòng, vẻ mặt cực kỳ ngượng nghịu, chỉ ú ớ:
- Ngươi ... ngươi ...
Đầu lưỡi y đã bị cắt một khúc, nói năng không còn rõ ràng. A Tử thò tay cầm lại đĩnh bạc, cười nói:
- Ta bảo ngươi uống một hớp rượu sẽ cho ngươi một lượng bạc, nhưng vừa rồi ngươi đã nhổ rượu ra rồi, thành thử không tính, ngươi uống lại đi.
Gã hầu bàn xua tay liên tiếp, ú ớ nói:
- Ta ... ta không muốn, ta không uống.
A Tử bỏ đĩnh bạc vào túi, cười nói:
- Thế hồi nãy ngươi bảo sao? Hình như là Muốn cắt lưỡi tiểu nhân ư? Chỉ e cô nương không đủ bản lãnh, có phải không? Thế sao ngươi lại lạy lục ta xin ta cắt lưỡi? Ta hỏi ngươi: Cô nương có đủ bản lãnh không?
Tên tửu bảo bấy giờ mới hiểu ra, tất cả mọi việc chẳng qua chỉ vì mình lỡ lời một câu, trong lòng giận đến cực độ, toan xông lên đánh cho cô nàng một trận nhừ đòn, nhưng hai bàn bên cạnh, bàn nào cũng có một người đàn ông cao to hùng tráng, xem ra cùng bọn với cô ta nên cũng khiếp. A Tử lại tiếp:
- Thế ngươi có chịu uống không?
Gã hầu bàn giận dữ đáp:
- Ông ... ông không ...
Y toan chửi mấy câu nhưng chợt nghĩ lại e rằng lại làm cho cô ta nổi nóng, vừa giận vừa sợ, quay mình chạy vào nội đường, không dám thò đầu ra nữa. Bọn chưởng quĩ ai nấy xôn xao, hầm hầm nhìn A Tử rồi quay trở về chỗ làm, sai một gã tửu bảo khác ra tiếp khách. Tên này thấy tình cảnh vừa rồi, run như cầy sấy, một câu cũng không dám hở môi. Tiêu Phong cực kỳ tức tối: Tên tửu bảo kia chẳng qua chỉ nói đùa một câu, vậy mà ngươi trừng trị y đến chung thân tàn phế, từ nay không còn nói năng rõ ràng được. Mới tí tuổi đầu, hành sự sao lại độc ác đến thế. Chỉ nghe A Tử nói:
- Tửu bảo, đem bát rượu này qua cho vị gia đài kia uống.
Nói xong giơ tay chỉ vào gã mũi lân. Gã hầu bàn thấy nàng chỉ vào bát rượu, giật nảy mình, đến khi thấy nàng bảo đem qua cho người khác uống, lại càng khiếp vía. A Tử cười nói:
- à, đúng rồi. Ngươi không chịu đem rượu cho khách uống, chắc là muốn tự mình uống chứ gì? Có gì không được, ngươi cứ việc uống đi.
Tên tửu bảo sợ đến mặt xám ngoét, ấp úng:
- Không, không! Tiểu nhân ... tiểu nhân không uống!
A Tử nói:
- Vậy thì mau đem đi.
Tên tửu bảo đáp:
- Vâng! Vâng!
Hai tay trịnh trọng bưng bát rượu, lập cập đi qua bàn bên gã mũi lân ngồi, chỉ sợ sóng sánh đổ ra ngoài, tay run rẩy, lúc bát rượu đặt xuống vẫn còn lạch cạch mãi. Gã mũi lân hai tay bưng bát rượu lên, chăm chăm nhìn, còn cách miệng chừng một thước thì ngừng lại không đem tới gần hơn nữa, cũng không để lại trên bàn. A Tử cười nói:
- Nhị sư ca, sao thế? Tiểu muội mời sư ca uống rượu, sao sư ca nể mặt chút nào?
Tiêu Phong nghĩ thầm: Bát rượu này độc ghê gớm, người này đương nhiên không để bị khích mà bỏ mạng lãng nhách. Nội công dù cao cường cách mấy cũng khó mà kháng cự lại được chất độc trong rượu này. Ngờ đâu gã mũi lân vẫn chăm chăm nhìn thêm một lát rồi đưa bát lên môi, ùng ục ùng ục uống vào ruột. Tiêu Phong kinh ngạc, nghĩ thầm: Người này không lẽ có nội lực cực kỳ thâm hậu, có thể hóa giải chất kịch độc đó?. Còn đang kinh nghi đã thấy y uống cạn bát rượu, để bát xuống bàn, tiện tay chùi hai ngón tay cái lên vạt áo. Tiêu Phong hơi suy nghĩ, hiểu ngay: Đúng rồi, trước khi y uống rượu đã thò hai ngón tay vào, cầm chén một hồi chưa uống, chắc là ngón tay có thuốc giải, hóa tán kịch độc trong rượu. A Tử thấy y uống hết chỗ rượu độc rồi vẻ mặt liền hoảng hốt, gượng cười nói:
- Bản lãnh hóa độc của nhị sư ca tiến bộ thật, quả đáng mừng!
Gã mũi lân không đáp, lại hùng hục ăn uống nhồm nhoàm, chỉ một chốc đồ ăn trên bàn mười phần còn một hai, giơ tay vỗ bụng, đứng lên nói:
- Thôi đi!
A Tử đáp:
- Xin sư ca tự tiện, chúng mình sẽ gặp lại sau.
Tên mũi lân trợn tròn đôi mắt quái dị nói:
- Cái gì mà gặp lại sau? Ngươi phải đi theo ta.
A Tử lắc đầu:
- Tiểu muội không đi.
Cô ta chạy sang bàn Tiêu Phong nói:
- Tiểu muội và vị đại ca này có hẹn trước, phải cùng nhau đi Giang Nam một chuyến.
Gã mũi lân trừng trừng nhìn Tiêu Phong, hỏi lại:
- Thằng cha này là ai?
A Tử đáp:
- Cái gì mà thằng cha với chả thằng mẹ? Sư ca phải nói năng cho lễ phép. Đây là anh rể của tiểu muội, còn tiểu muội là em vợ của anh ấy, hai người là chỗ chí thân.
Gã mũi lân nói:
- Ngươi ra đề mục ta đã làm văn rồi, ngươi phải vâng lời ta. Ngươi định vi phạm môn qui của bản môn chăng?
Tiêu Phong nghĩ thầm: Thì ra khi A Tử bảo y uống rượu độc, ấy ra ra một thai đố, có ngờ đâu y ngang nhiên tiếp nhận. A Tử đáp:
- Ai bảo là tiểu muội ra đề mục? Sư ca bảo chuyện uống rượu ấy à? Ha ha, cười đến chết được, bát rượu đó là để cho gã tửu bảo uống. Còn đường đường môn hạ Tinh Tú phái, lẽ đâu lại đi uống rượu thừa của một tên hầu bàn? Tên tửu bảo dơ dáy kia uống không chết, sư ca lại uống nữa thì có gì là ghê gớm? Tiểu muội hỏi sư ca, tên xú tửu bảo kia có chết không? Không chứ gì? Đến hạng người đó uống còn được, lẽ nào đề mục lại dễ dàng đến thế?
Câu nói đó quả là cãi chầy cãi cối nhưng muốn vặn lại cô ta cũng không phải dễ. Gã mũi lân cố nén giận nói:
- Sư phụ ra lệnh cho ta dẫn ngươi về, ngươi dám chống lại sư môn chăng?
A Tử cười đáp:
- Sư phụ cưng em lắm, xin nhị sư ca về bẩm lại với sư phụ là tiểu muội trên đường gặp ông anh rể, muốn cùng đi Giang Nam chơi một chuyến, tiện thể tìm mua biếu sư phụ ít món châu báu cổ vật, sau đó sẽ về.
Gã mũi lân lắc đầu:
- Không được, ngươi lấy của sư phụ ...
Nói đến đây y liếc Tiêu Phong dò chừng, dường như sợ tiết lộ chuyện cơ mật, ngừng lại một chút nói tiếp:
- Sư phụ nổi cơn lôi đình, bảo ngươi phải về ngay lập tức.
A Tử năn nỉ:
- Nhị sư ca đã biết sư phụ nổi giận rồi sao còn ép tiểu muội phải trở về, có phải định cho em nếm mùi khổ sở hay sao? Lần sau sư phụ trách mắng nhị sư ca, tiểu muội sẽ không xin xỏ giùm cho đâu nhé!
Câu đó dường như khiến cho gã mũi lân chạnh lòng, lập tức tỏ ra do dự ắt hẳn Tinh Tú Lão Quái có chiều sủng ái cô ta, nói gì sư phụ cũng chiều theo. Y trầm ngâm giây lát nói:
- Nếu ngươi bướng bỉnh không chịu quay về thì đưa cái vật đó cho ta. Ta đem về giao hoàn cho sư phụ để làm bằng, có thế cơn giận của lão nhân gia mới hạ xuống.
A Tử nói:
- Sư huynh nói chi? Cái vật đó là vật gì? Tiểu muội chẳng hiểu gì cả.
Gã mũi lân sầm mặt xuống nói:
- Này sư muội, ta không động thủ mạo phạm ngươi vì nghĩ đến tình nghĩa đồng môn, ngươi phải biết phải biết quấy chứ?
A Tử cười đáp:
- Tiểu muội đương nhiên biết phải biết quấy, sư ca đến ăn nhậu với tiểu muội, cái đó là phải; còn sư ca ép ta quay về gặp sư phụ, cái đó là quấy.
Gã mũi lân nói:
- Vậy ngươi muốn sao? Nếu ngươi không giao lại cái vật đó thì theo ta về.
A Tử đáp:
- Ta không về, cũng chẳng hiểu sư ca nói cái gì. Sư ca muốn có cái gì trên người tiểu muội chăng? Được rồi ...
Nói xong rút trên tóc một cái trâm cài nói:
- Nếu sư ca muốn có vật gì làm tin để giao lại cho sư phụ thì cầm cái châu thoa này vậy.
Gã mũi lân hầm hè:
- Ngươi nhất định ép ta phải ra tay hay sao?
Nói xong y liền tiến lên một bước. A Tử thấy y thản nhiên uống cạn bát rượu độc, bản lãnh sử độc so với mình cao hơn nhiều, đến cả nội lực võ công, không môn gì mình có thể địch với y được. Phái Tinh Tú võ công âm độc tàn ác, đã ra tay là không có nể nang gì, địch nhân trúng đòn không chết cũng trọng thương, bị thương rồi còn phải bị biết bao dày vò, lúc chết thật là thảm khốc. Sư huynh đệ trừ khi tranh đoạt vị thứ cao thấp trong môn phái phải đem tính mạng ra đánh đổi, trước nay không bao giờ cùng nhau sách chiêu luyện quyền vì đã sách chiêu là có hơn thua, đã phân hơn thua ắt có kẻ chết. Thành thử trong đám sư phụ đệ tử với nhau không ai thi diễn công phu bao giờ. Tinh Tú Lão Quái truyền thụ yếu quyết luyện công xong, ai nấy tự mình tu luyện, cao thấp sâu nông chỉ một
mình mình biết, chỉ đến khi đối địch mới biết ai mạnh ai yếu. Cứ theo đúng môn qui của phái Tinh Tú cô ta đã đem độc tửu ra để thử tài đồng môn, ấy là một chuyện hết sức quan trọng, nếu gã mũi lân chịu thua thì mọi sự đều phải để nàng sai khiến, còn đây không do dự uống bát rượu độc vào bụng, nếu A Tử không có cách gì phản bại vi thắng, thì phải nhất nhất nghe lời y, nếu không sẽ bị cái họa sát thân ngay. Cô nàng thấy sự tình gấp gáp, vội nắm tay áo Tiêu Phong, kêu lên:
- Tỉ phu ơi, y định giết em kìa! Tỉ phu cứu em với.
Tiêu Phong thấy cô ta đầu một tiếng tỉ phu, cuối một tiếng tỉ phu, không khỏi thảng thốt, nghĩ đến lời trối trăn của A Châu nên định bụng sẽ đánh đuổi gã mũi lân đi. Thế nhưng vừa ngó qua thấy trên máu me đầy mặt đất, nhớ lại A Tử đối phó với tên hầu bàn độc ác như thế, phải để cho cô nàng chịu ít nhiều đau khổ, bị trừng trị một phen cho đáng kiếp, nên vẫn nhìn ra ngoài cửa sổ làm như không biết. Gã mũi lân cũng chẳng muốn hạ sát thủ với A Tử, chỉ muốn cô ta biết mình ghê gớm cỡ nào, mất vía một phen mà ngoan ngoãn theo mình về, lập tức vươn tay phải ra chộp ngay cổ tay trái Tiêu Phong. Tiêu Phong thấy vai phải của y hơi chuyển động, biết ngay y định xuất thủ đánh mình, cũng chẳng thèm để ý, để cho y chộp cổ tay. Da cổ tay ông vừa chạm vào vào tay y, liền thấy nóng như than, biết ngay lòng bàn tay đối phương có tẩm thuốc độc, vội vàng vận chân khí lên cổ tay, cười nói:
- Cái gì thế? Các hạ muốn uống rượu với ta chăng?
Ông đưa tay rót hai bát rượu nói:
- Xin mời!
Gã mũi lân liên tiếp vận nội lực nhưng thấy Tiêu Phong vẫn như không, làm như không hay biết gì cả, nghĩ thầm: Ngươi đừng đắc ý vội, rồi coi độc chưởng của ta ghê gớm cỡ nào. Y bèn nói:
- Uống thì uống, có gì không dám?
Y cầm bát rượu lên, uống ngay một ngụm lớn. Ngờ đâu rượu vào đến cổ họng, đột nhiên một luồng nội tức từ trong ngực dội ngược trở lên, nhịn không nổi Oa lên một tiếng, bao nhiêu rượu phun ra hết khiền cho vạt áo trước ướt đầm đìa, sau đó ho sặc sụa một hồi lâu. Việc xảy ra khiến y kinh hãi thất sắc, nội tức nghịch lưu rõ ràng là do nội lực của đối phương truyền vào thân thể mình, nếu như muốn lấy mạng mình thật dễ như trở bàn tay. Y kinh hãi vội buông tay Tiêu Phong ra. Ngờ đâu cổ tay Tiêu Phong như có một sức hút thật mạnh, bàn tay y dính chặt vào đó, không cách nào thoát ra được. Gã mũi lân sợ quá, dùng sức dãy dụa, Tiêu Phong ngồi yên không động đậy mà y vẫn chẳng khác gì lay cột đá. Tiêu Phong lại rót bát rượu khác nói:
- Vừa rồi lão huynh chưa uống rượu, vậy uống cạn bát này đi rồi chúng ta sẽ chia tay, được chăng?
Gã mũi lân lại cố gắng giựt tay về nhưng không cách nào thoát được, tay trái liền nhắm ngay mặt Tiêu Phong đánh ra một chưởng. Chưởng lực chưa đến, Tiêu Phong đã ngửi thấy một mùi tanh tưởi thối tha chẳng khác gì một con cá chết sình, tay phải liền nhẹ nhàng vung lên gạt ra. Chưởng đó gã mũi lân sử dụng toàn lực, ngờ đâu thế đánh đi được nửa chừng, bị đẩy xéo đi, không cách gì có thể thu về được, biết ngay đối phương đã mượn sức khiến cánh tay y không thể nào điều khiển được nữa, đẩy tới đánh mạnh vào vai phải của chính mình, chỉ nghe lốp cốp, khớp xương vai đã bị trật ra rồi. A Tử cười nói:
- Sao nhị sư ca tự đánh mình mạnh như thế, chẳng nhân nhượng gì cả? Tiểu thật muội không hiểu có dụng ý gì?
Gã mũi lân tức giận đến cực điểm, khổ nỗi bàn tay phải dính cứng vào cổ tay Tiêu Phong rồi, không sao thoát ra được, tay trái đâu đám đánh tiếp, giãy dụa lần thứ ba không thoát, bèn thúc đẩy nội lực, truyền chất độc súc tích trong lòng bàn tay vào cơ thể đối phương. Ngờ đâu luồng nội lực đó vừa đến cổ tay địch nhân, lập tức bị dội ngược trở về, lại không chỉ ngừng lại tại thủ chưởng, mà vẫn tiếp tục chạy lên khiến gã cực kỳ kinh hãi vội vàng vận nội lực đề kháng. Thế nhưng luồng nội lực chứa đầy chất độc đó thật chẳng khác nào sóng biển tràn vào sông, chỉ khoảnh khắc đã đến khuỷu tay, rồi chạy thẳng lên nách, từ từ đổ vào lồng ngực. Gã mũi lân làm gì chẳng biết chất độc của mình lợi hại là nhường nào, chỉ cần xâm nhập tâm tạng là chết ngay, khiến y sợ đến mồ hôi đổ ra như tắm, nhỏ tong tỏng xuống sàn nhà. A Tử cười nói:
- Nội công nhị sư ca cao cường thật. Trời đông giá rét thế này, vậy mà vẫn mồ hôi mồ kê đầm đìa, tiểu muội thật bội phục hết sức.
Gã mũi lân còn thì giờ đâu mà để ý tới câu nói châm chọc của A Tử, biết mình đường cùng nhưng chẳng lẽ bó tay chịu chết, càng hết sức thúc đẩy nội lực, hi vọng giữ lâu thêm được chút nào hay chút ấy. Tiêu Phong nghĩ thầm: Người này với mình không thù không oán, tuy y ra tay hạ độc thủ với mình trước nhưng cũng chẳng cần giết y làm gì!. Đột nhiên ông thu nội lực về. Gã mũi lân thấy sức hút nơi tay mình không còn nữa, nội lực cùng chất độc đang kề bên tâm tạng lập tức chảy ngược về chưởng tâm, vừa mừng vừa sợ, vội vàng lùi lại hai bước, mặt tái mét không còn giọt máu, thở hồng hộc, nhưng không dám tiến đến gần Tiêu Phong. Y mới rồi chết đi sống lại, thực đúng là đến quỉ môn quan lại quay về. Gã tửu bảo hoàn toàn nào có biết gì, vội đến rót rượu cho y. Gã mũi lân tung ra một chưởng, đánh trúng ngay mặt y, gã hầu bàn chỉ kêu lên được một tiếng, ngã ngửa ra. Tên mũi lân liền chạy vọt ra cửa, chạy thẳng về hướng tây nam, rồi nghe một hồi còi thật mơ hồ, thật sắc nhọn từ xa truyền đến. Tiêu Phong lại coi gã tửu bảo thấy mặt y đen sì, chỉ giây lát đã chết ngay, không khỏi nổi cơn thịnh nộ, quát lên:
- Tên này quả là đáng ghét, ta đã tha mạng cho y, cớ sao lại ra tay giết người?
Ông đẩy bàn toan đuổi theo. A Tử kêu lên:
- Tỉ phu, tỉ phu, ngồi xuống đã, để tiểu muội nói cho nghe.
Nếu như A Tử chỉ gọi ông Này, hay Kiều bang chủ, Tiêu đại ca gì đó, Tiêu Phong cũng chẳng thèm nghe đâu, thế nhưng hai tiếng tỉ phu khiến ông nhớ đến A Châu, lòng chua xót hỏi lại:
- Cái gì?
A Tử đáp:
- Nhị sư ca không phải đáng ghét đâu, y ra tay không đả thương được anh, chất độc không thể tán phát, không giết một người không được.
Tiêu Phong biết trong võ công tà phái có một môn gọi là tán độc, chất độc tụ vào bàn tay rồi, nếu không tống được vào địch nhân thì cũng phải đánh con bò con ngựa gì đó, giết chết một con vật, nếu không chất độc chạy ngược trở vào mình, bèn nói:
- Nếu muốn tán độc, sao y không kiếm một con vật mà đánh? Sao lại vô duyên vô cố giết người là sao?
A Tử liếc xác người hầu bàn nằm dưới đất, cười nói:
- Những kẻ ngu độn như thế có khác gì bò ngựa, giết y với giết một con vật cũng vậy thôi.
Cô ta thuận miệng nói ra như một chuyện đương nhiên là thế. Tiêu Phong cảm thấy lạnh người: Con bé này tính tình tàn nhẫn quá, mình lo cho nó làm gì?. Ông thấy người trong quán lại chạy ra, không muốn thêm phiền phức, vội lẻn ra khỏi cửa tiệm chạy về hướng bắc. Ông nghe thấy tiếng bước chân A Tử đuổi theo, lại càng gia tăng cước bộ, chỉ nhảy mấy bước đã bỏ cô ta thật xa, bỗng nghe tiếng A Tử uyển chuyển từ xa vọng tới:
- Tỉ phu ơi, đợi em với, em ... em không theo kịp.
Lúc trước Tiêu Phong đối diện nói chuyện với cô ta, thấy thần tình cử chỉ cô nàng sinh bụng chán ghét, lúc này nghe từ phía sau gọi tới, nghe êm ái chẳng khác gì giọng A Châu lúc sinh thời. Hai người chị em cùng một bọc tuy mới sinh ra đã chia tay, nhưng cùng cha cùng mẹ, nên cách ăn nói, giọng điệu cũng hệt nhau. Tiêu Phong trong lòng rung động, dừng chân quay đầu lại, mắt rưng rưng thấy mờ mờ hình ảnh một thiếu nữ trên tuyết địa chạy tới, thật không khác gì A Châu sống lại. Ông giang cánh tay ra, thốt lên tiếng gọi nho nhỏ:
- A Châu! A Châu!
Chỉ trong giây lát, ông tưởng chừng mình và A Châu đang từ Nhạn Môn Quan quay về Trung Nguyên, đường đi hai người thân mật, má tựa vai kề, rồi một thân hình mềm mại ấm áp sà vào lòng, kêu lên:
- Tỉ phu, sao không đợi em?
Tiêu Phong giật mình choàng tỉnh, giơ tay nhè nhẹ đẩy nàng ra nói:
- Ngươi đi theo ta làm chi?
A Tử nói:
- Tỉ phu đánh đuổi nhị sư ca giúp em, em phải tạ ơn chứ?
Tiêu Phong thản nhiên nói:
- Chẳng cần phải cảm ơn. Cũng chẳng phải ta có ý giúp ngươi mà vì y ra tay đánh ta, ta chỉ tự vệ để khỏi chết dưới tay y.
Nói xong lại quay người bước đi. A Tử chạy lên nắm cánh tay ông, Tiêu Phong hơi nghiêng người, A Tử liền chộp hụt, lỡ trớn ngã xoài về phía trước. Cứ như võ công cô ta ắt có thể tự mình đứng lên được, thế nhưng cô nàng được dịp nhõng nhẽo, ngã xuống rồi, liền nằm luôn trên tuyết, kêu lên:
- ối chao! Đau muốn chết được!
Tiêu Phong biết cô ta giả vờ, nhưng nghe giọng kiều mị của A Tử, trong lòng lại nhớ đến A Châu, cảm thấy thật là êm ái, lập tức quay người, đưa tay nắm cổ áo nàng kéo dậy, thấy cô gái đang mủm mỉm cười. A Tử nói:
- Tỉ phu ơi, chị em xin anh lo lắng cho em, sao anh không nghe lời chị ấy? Em chỉ là một cô gái nhỏ, cô khổ lênh đênh, biết bao nhiêu người định hiếp đáp em, sao anh không ngó ngàng gì tới?
Mấy lời đó nghe thật là thiết tha Tiêu Phong biết là mười phần đến chín là giả dối nhưng vẫn thấy mềm lòng hỏi lại:
- Ngươi theo ta thì được gì? Ta trong lòng u uất, không thiết gì nói chuyện với ai. Ngươi làm chuyện sái quấy thì ta lại ngăn cản.
A Tử đáp:
- Tỉ phu trong lòng u uất có tiểu muội đi theo giúp anh giải sầu, dần dần chẳng khuây khỏa hơn sao? Mỗi khi tỉ phu uống rượu, em sẽ rót rượu cho, khi nào thay quần áo ra, tiểu muội sẽ may vá giặt giũ. Nếu tiểu muội làm gì sai có tỉ phu ngăn cản thì còn gì hơn. Tiểu muội từ bé cha mẹ đã không thèm nuôi, không ai dạy dỗ, việc gì cũng không thông ...
Nói đến đây cô nàng dường như nghẹn ngào, ứa nước mắt. Tiêu Phong nghĩ thầm: Chị em cô này quả là có thiên tài đóng kịch, tài nghệ đánh lừa người khác đã đến mức lô hỏa thuần thanh, thật là cao minh. Cũng may ta đã biết cô ta hành sự độc ác, nên không để mắc mưu. Cô ta định theo mình không biết có mưu tính gì? Hay là sư phụ cô ta sai đến ám hại ta chăng? Ông cảm thấy hơi chột dạ: Hay là kẻ đại cừu của ta có liên quan đến Tinh Tú Lão Quái? Có khi chính là y không chừng?. Nhưng ông lại nghĩ ngay: Tiêu Phong đường đường nam tử, không lẽ lại sợ một đứa con gái nhỏ lén hạ độc thủ hay sao? Chi bằng tương kế tựu kế, cứ cho nó theo để xem nó còn giở trò gì, đâu biết chừng nhờ có nó mà mình báo được mối thù. Ông liền nói:
- Nếu đã thế, ngươi cùng đi với ta. Mình nói trước với nhau, nếu như ngươi giết người đánh người càn rỡ thì ta không tha đâu nhé.
A Tử le lưỡi nói:
- Nếu như người ta hại em trước thì sao? Nếu như người em giết là kẻ xấu thì sao?
Tiêu Phong nghĩ thầm: Con nhãi con này giảo hoạt lắm, nếu như nó ra tay giết người thể nào chẳng mồm năm miệng mười bảo là người ta đánh nó trước, đối phương rõ ràng là người ngay, nó sẽ bảo là nhận lầm. Ông bèn nói:
- Dù xấu hay tốt ngươi cũng chẳng phải lo đến. Nếu như ngươi đi cùng với ta thì không ai làm gì được ngươi cả, nói đi nói lại, ngươi tuyệt đối không được động thủ với ai.
A Tử vui mừng nói:
- Được rồi, tiểu muội quyết không động thủ, chuyện gì cũng do tỉ phu chống đỡ hết.
Nói rồi thở dài:
- Ôi, anh bất quá chỉ là anh rể mà đã quản thúc em chặt chẽ đến thế. Chị em nếu không chết mà lấy phải anh, chắc còn bị giám sát chặt chẽ đến chừng nào?
Tiêu Phong nổi giận, toan lớn tiếng la rầy một phen nhưng lại cảm thấy đau lòng, thấy ánh mắt A Tử lóe ra đầy vẻ tinh quái, tự hỏi: Mình nói thế sao con bé này lại có vẻ hả hê vậy nhỉ?. Ông nhất thời chưa nghĩ ra nên không để bụng nữa, hăng hái bước đi, được chừng một dặm mới chợt nghĩ ra: Chết rồi! Chắc là cô ta có đại đối đầu, đại cừu nhân đang định gây chuyện nên đánh lừa để cho mình nhận lời bảo vệ cho. Mình bảo Nếu như ngươi đi cùng với ta thì không ai làm gì được ngươi cả thì có nghĩa là nhận lời trông nom cô ả rồi. Thực ra không cần biết cô ta đúng hay sai, dẫu mình chẳng nói ra chăng nữa thì một khi đã ở bên cạnh mình, mình lẽ nào lại để cô ả bị lép vế". Đi thêm một dặm nữa, A Tử nói:
- Tỉ phu ơi! Để em hát cho tỉ phu nghe, được chăng?
Tiêu Phong đã có chủ ý: Dù cô nàng có ý định gì mình cũng nhất định không nghe. Mình càng gắt gao cô ta càng có lợi. Ông bèn đáp:
- Không được.
A Tử nói:
- Thế em ra câu đố để tỉ phu đoán, được chăng?
Tiêu Phong đáp:
- Không được.
A Tử nói:
- Vậy tỉ phu kể chuyện vui cho em nghe, được chăng?
Tiêu Phong đáp:
- Không được.
A Tử nói:
- Vậy tỉ phu hát cho em nghe, được chăng?
Tiêu Phong đáp:
- Không được.
Cô ta liên tiếp hỏi đến mười bảy, mười tám câu liền, Tiêu Phong không cần nghĩ ngợi đều nhất nhất cự tuyệt. A Tử lại nói:
- Vậy em chẳng thổi địch cho tỉ phu nghe, được chăng?
Tiêu Phong thuận mồm đáp:
- Không được.
Hai tiếng đó vừa buột mồm liền biết ngay mình nói hớ, cô ta hỏi là Vậy em chẳng thổi địch cho tỉ phu nghe, được chăng? mà lại trả lời Không được, thì hóa ra là mình bắt nàng phải thổi sáo rồi. Ông nói rồi cũng không để ý nữa, nếu ngươi muốn thổi sáo thì cứ thổi đi. A Tử thở dài nói:
- Cái gì cũng không chịu, thật khó chiều quá, nếu nhất định bắt em phải thổi sáo thì cũng đành phải chiều.
Nói xong rút trong tút ra một chiếc địch bằng ngọc. Cái ngọc địch đó ngắn lạ lùng, chỉ dài chừng bảy tấc, toàn thân trắng tinh, bóng lộn thật đẹp đẽ. A Tử đưa lên môi, nhẹ nhàng thổi, một âm thanh sắc nhọn truyền ra thật xa. Mới rồi gã mũi lân bỏ đi, cũng có phát ra một tiếng còi lanh lảnh như thế. Tiếng sáo vốn dĩ nhẹ nhàng êm ái nhưng tiếng từ chiếc địch ngọc này nghe thật thê lương, không có vẻ gì vui thú. Tiêu Phong chỉ hơi suy nghĩ đã biết ngay lý do, trong bụng cười khẩy: Đúng rồi, thì ra ngươi ước định đồng đảng, mai phục chung quanh đâu đây, định tập kích ta, Tiêu mỗ lẽ nào lại sợ cái bọn hồ quần cẩu đảng này? Có điều không có gì thích lắm. Ông biết môn hạ Tinh Tú Lão Quái võ công cực kỳ âm độc, nếu chỉ sơ sẩy một chút là trúng ám toán ngay. Chỉ nghe tiếng địch của A Tử lúc thì cao, lúc thì thấp, như heo bị cắt tiết, như ma quỉ kêu gào, hết sức khó nghe. Một cô gái xinh xắn hoạt bát như thế, cầm một ống sáo ngọc bóng loáng dễ thương nhưng lại thổi ra một điệu cực kỳ rùng rợn càng làm tăng thêm vẻ tà ác của phái Tinh Tú. Tiêu Phong cứ mặc cô ta vẫn tiếp tục đi, chẳng mấy chốc đến một đường núi dài và hẹp vắt ngang một đỉnh núi, nghĩ thầm: Địch nhân nếu như phục kích thì hẳn phải ở chỗ này. Quả nhiên lên trên núi rồi, vừa qua một vùng đất bằng đã thấy bốn người chặn đằng trước. Cả bốn người đó đều mặc áo dài bằng vải gai màu vàng, phục sứ giống hệt gã mũi lân vừa
gặp trong quán rượu. Bốn người đó không đứng hàng ngang, mà kẻ trước người sau một dãy, trong tay người nào cũng cầm cương trượng dài ngoằng. A Tử không thổi sáo nữa, dừng chân lại, gọi:
- Tam sư ca, tứ sư ca, thất sư ca, bát sư ca, các vị khỏa cả chứ? Sao thật khéo quá, mọi người ai cũng tụ lại đây là sao?
Tiêu Phong cũng ngừng bước, tựa lưng vào vách núi, nghĩ thầm: Để xem chúng bay giở trò gì?. Trong bốn người, gã đứng đầu là một người trung niên mập mạp, nhìn Tiêu Phong từ đầu xuống chân đánh giá một hồi rồi mới hỏi:
- Tiểu sư muội khỏe chứ? Ngươi sao lại đả thương nhị sư ca?
A Tử thất kinh kêu lên:
- Nhị sư ca bị thương sao? Ai đả thương thế? Vết thương có nặng hay không?
Người đứng sau cùng trong bốn người lớn tiếng đáp:
- Ngươi còn giả ngây giả dại nữa sao? Nhị sư ca bảo là chính ngươi gọi người đả thương y đó.
Người nói lùn xủn, lại đứng sau cùng, toàn thân bị ba người đứng trước che khuất, Tiêu Phong không nhìn thấy y hình dáng ra sao nhưng nghe y nói năng liến thoắng cũng đủ biết tính tình nóng nảy nhưng cương trượng y cầm vừa dài vừa to đủ biết cánh tay rất khỏe, nhưng vì trời sinh thấp lùn nên muốn tìm cách nổi trội hơn người. A Tử nói:
- Bát sư ca nói gì đó? Nhị sư ca bảo là anh gọi người đánh y sao? Chao ôi, sao anh lại nỡ nào hạ độc thủ? Sư phụ lão nhân gia mà biết thì chẳng thể nào tha thứ cho bát sư ca đâu, không lẽ anh không sợ hay sao?
Gã lùn kia nổi cơn lôi đình nhảy nhổm lên, tay cầm cương trượng động xuống đá ầm ầm, miệng gào lên:
- Là ngươi đánh y chứ nào phải ta đâu.
A Tử nói:
- Cái gì? Là ngươi đánh y chứ nào phải ta đâu! Đúng quá, sư ca thú nhận rồi. Tam sư ca, tứ sư ca, thất sư ca ba người chính tai nghe thấy nhé, bát sư ca nói là y giết chết nhị sư ca, phải rồi, chắc là bát sư ca dùng Tam Âm Ngô Công Trảo giết chết nhị sư ca.
Gã lùn lại gào lên:
- Ai bảo nhị sư ca chết đâu! Y chưa chết, thụ thương đâu phải do Tam Âm Ngô Công Trảo...
A Tử cướp lời:
- Không phải Tam Âm Ngô Công Trảo sao? Thế hẳn là do Trừu Tủy Chưởng, ngón nghề ruột của bát sư ca, nhị sư ca sơ xẩy không để ý nên bị trúng ám toán, ngươi ... ngươi quả là ghê gớm thật.
Gã lùn càng nổi điên lên, quát lớn:
- Tam sư ca mau động thủ, bắt con tiểu tiện nhân này về, về để bắt lại, xin sư phụ phát lạc, nó ... nó ... nó, nói lăng nhăng láo lếu, chẳng biết nói những gì, chẳng đâu ra đâu ...
Giọng y vốn đã khó nghe, lại thêm gấp gáp càng lắp bắp, không hiểu muốn nói gì. Gã mập liền nói:
- Động thủ thì chưa cần, tiểu sư muội xưa nay vốn ngoan ngoãn, chịu nghe lời. Tiểu sư muội, ngươi đi theo bọn ta thôi.
Gã mập đó nói năng chậm rãi, xem ra vẻ người dễ tính. A Tử cười đáp:
- Được rồi, tam sư ca bảo sao thì tiểu muội làm vậy, xưa nay em vẫn nghe lời sư ca.
Gã mập cười khà khà nói:
- Nếu thế thì hay lắm, chúng mình đi thôi.
A Tử đáp:
- Được rồi, xin chư vị cứ tự tiện.
Gã lùn ở phía sau lại rống lên:
- ấy, ấy, chư vị tự tiện là thế nào? Ngươi phải đi cùng với bọn ta.
A Tử cười nói:
- Các vị cứ đi trước đi, tiểu muội sẽ theo sau.
Gã lùn nói:
- Không được! Không được! Ngươi phải đi chung với bọn ta mới xong.
A Tử nói:
- Thế cũng được! Có điều ông anh rể của tiểu muội lại không chịu.
Nói rồi chỉ vào Tiêu Phong. Gã lùn nói:
- Ai là anh rể ngươi? Sao ta không thấy đâu cả?
A Tử cười nói:
- Bát sư ca cũng cao quá nên anh rể tiểu muội cũng không thấy đâu cả.
Chỉ nghe coong một tiếng, cương trượng của gã lùn đã giáng xuống đất, thân hình bay vọt lên, cả người lẫn gậy đã vọt qua khỏi đầu ba người đứng trước rơi xuống trước mặt A Tử, quát lên:
- Mau theo bọn ta trở về.
Vừa nói y vừa vươn tay chộp vào đầu vai cô gái. Gã này tuy lùn tịt nhưng hông to vai nở, nhìn ngang trông cũng khá vạm vỡ, động tác thật là nhanh nhẹn. A Tử không tránh, không né cứ để mặt y chộp tới. Bàn tay to lớn của gã lùn sắp sửa chạm vào đầu vai cô ta bỗng y hơi chần chừ rồi ngừng lại, hỏi:
- Ngươi đã dùng nó rồi ư?
A Tử hỏi:
- Dùng cái gì?
Gã lùn đáp:
- Tự nhiên là Thần Mộc Vương Đỉnh ...
Bốn chữ Thần Mộc Vương Đỉnh vừa buột khỏi miệng, ba người kia đã cùng quát lên:
- Bát sư đệ, ngươi nói gì đó?
Thanh âm cực kỳ gay gắt, gã lùn lật đật lùi lại một bước, mặt lộ vẻ hoảng hốt. Tiêu Phong lập tức suy tính: Thần Mộc Vương Đỉnh là cái gì thế? Bốn gã này vẻ mặt cực kỳ trịnh trọng, quyết không phải chuyện đùa. Bọn chúng mai phục nơi đây sao không ra tay mà còn cãi nhau ỏm tỏi, không lẽ sợ không địch lại mình, hay còn đang chờ thêm ngoại viện?. Chỉ thấy gã lùn giơ tay ra nói:
- Đưa đây!
A Tử hỏi lại:
- Đưa cái gì?
Gã lùn đáp:
- Là cái Thần ... Thần ... cái đó đó.
A Tử chỉ vào Tiêu Phong nói:
- Tiểu muội đưa cho tỉ phu rồi.
Câu đó vừa nói ra, ánh mắt cả bốn người liền quay về phía Tiêu Phong, đầy vẻ giận dữ. Tiêu Phong nghĩ thầm: Bọn này quả là đáng ghét, mình cũng chẳng nên dây dưa với chúng làm chi. Ông chậm rãi đứng lên, bất thần hai chân búng một cái bay vọt qua đầu bốn người kia. Hành động đó vừa kỳ quái, vừa nhanh nhẹn, cả bọn không thấy ông chạy hay cong chân nhún lấy đà, chỉ thấy trước mắt thấp thoáng, gió trên đầu hơi động, Tiêu Phong đã ở phía sau bốn người rồi. Cả bọn hốt hoảng kêu la om sòm, xoay người lại đuổi theo nhưng chỉ chớp mắt Tiêu Phong đã chạy xa đến mấy trượng. Bỗng nghe vù một tiếng thật mạnh, một món binh khí nặng nề phóng vào sau lưng. Tiêu Phong không cần quay đầu lại, biết là có người dùng cương trượng ném tới, lật ngược tay trái đón ngay lấy chiếc gậy. Cả bốn người cùng hung hăng quát tháo, lại có thêm hai chiếc cương trượng nữa ném theo, Tiêu Phong lại đưa tay về sau bắt được. Mỗi chiếc gậy phải đến năm chục cân, cả ba chiếc ở trong tay cũng phải đến trăm sáu, trăm bảy cân nhưng bước chân ông không chậm lại chút nào, chỉ nghe vụt một tiếng, lại một chiếc nữa ném tới. Chiếc gậy này bay tới tiếng kêu mạnh hơn cả, rõ ràng nặng nề hơn hết ắt hẳn là do gã lùn ném ra. Tiêu Phong nghĩ thầm: Mấy thằng mọi này chẳng biết phải quấy, phải cho chúng biết tay mới được. Ông nghe thấy tiếng gió bay tới sau ót, chỉ còn cách chừng hai thước liền thò tay về sau bắt được. Bốn người ném gậy ra đã tính toán nếu như đối phương tránh né cũng không phải dễ, trong bốn cái thể nào cũng có một hai chiếc gậy trúng vào người chứ đời nào lại để binh khí rời khỏi tay? Có ai ngờ đâu Tiêu Phong thản nhiên như không bắt được tất cả, ai nấy vừa kinh hãi vừa tức tối, lập tức lao xao chạy đuổi theo. Tiêu Phong dụ cho chúng chạy theo một quãng, bất thần đứng chựng lại. Bốn gã kia đang ra sức đuổi theo, không hãm kịp lao cả vào người ông, vội vàng đứng lại ai nấy thở hồng hộc. Tiêu Phong theo tiếng gậy ném tới và cách bọn chúng chạy theo biết rằng võ công chỉ bình thường, mỉm cười hỏi:
- Các vị đuổi theo tại hạ có điều gì dạy bảo chăng?
Gã lùn lắp bắp:
- Ngươi ... ngươi ... ngươi là ai? Võ ... võ công ... ngươi thật là ghê gớm.
Tiêu Phong cười đáp:
- Có gì ghê gớm đâu.
Ông vừa nói vừa vận sức vào bàn tay, ấn một cây cương trượng lún xuống dưới tuyết. Sơn đạo đó đất thật cứng, chỉ thấy chiếc gậy ngắn dần, đến khi chỉ còn khoảng hai thước bấy giờ Tiêu Phong mới buông ra, giơ chân phải lên dậm xuống một cái, cả cây gậy liền lún tịt xuống. Bốn người kẻ thì mắt trợn tròn, kẻ thì mồm há hốc. Tiêu Phong cứ từng chiếc một ấn xuống, sau cùng đạp một cái cắm thẳng vào mặt đất. Đến chiếc sau cùng, gã lùn liền nhảy tới, quát lên:
- Chớ có đụng đến binh khí của ta.
Tiêu Phong cười nói:
- Được, trả lại ngươi đây.
Tay phải cầm cương trượng lên, nhắm thẳng vào vách núi phóng một cái, nghe keng một tiếng, chiếc gậy tám thước phải đến năm thước lún vào trong đá. Nơi chiếc gậy cắm vào đá là một vùng đá đen cực kỳ cứng rắn, vậy mà Tiêu Phong ném sâu đến thế, chính ông cũng phải ngạc nhiên bụng bảo dạ: Mấy tháng nay mình có biết bao chuyện ưu phiền, lo lắng mà công phu không sút chút nào, ngược lại còn tiến bộ nhiều là khác. Nửa năm trước e rằng ta ném không được mạnh đến như vậy. Bốn người kia không hẹn mà cùng kêu la rầm rĩ, vẻ mặt hết sức kinh hoàng. A Tử từ phía sau chạy tới gọi:
- Tỉ phu, công phu đó của anh thật là hay, dạy cho em nhé!
Gã lùn giận dữ nói:
- Ngươi là môn hạ đệ tử phái Tinh Tú sao lại còn đi nhờ người ngoài dạy võ nghệ là thế nào?
A Tử nói:
- Y là anh rể ta đâu có phải người ngoài?
Gã lùn nóng lòng lấy lại binh khí, tung mình nhảy lên, thò tay chộp lấy cây cương trượng. Ngờ đâu Tiêu Phong đã tính toán tài nghệ khinh công của y nông sâu cỡ nào, nơi cương trượng cắm vào vách đá phải cách mặt đất đến một trượng bốn năm thước, bàn tay gã lùn còn cách cây trượng khoảng một thước, chưa chạm được tới nơi. A Tử vỗ tay reo lên:
- Hay lắm, bát sư ca ơi, nếu như anh nhổ được binh khí cầm tay tiểu muội sẽ theo sư ca đi gặp sư phụ liền, nếu không thì đừng hòng.
Gã lùn lần nhảy vừa rồi đã sử dụng hết sức bình sinh, nhưng khinh công y có hạn nên nhảy cao hơn một tấc đã khó khăn biết là chừng nào, nghe A Tử giở giọng khích bác, trong bụng tức lắm, lại phóng mình nhảy lên lần nữa, đầu ngón tay giữa quả nhiên chạm được vào cây trượng. A Tử cười nói:
- Chạm đến không tính, phải nhổ ra được kìa.
Gã lùn cực kỳ giận dữ, công phu so với bình thường tăng vọt lên, hai chân dùng hết sức, tấm thân lùn xủn to bè bè của y liền bung lên, hay tay chộp vội quả nhiên đã nắm được cây gậy rồi. Thế nhưng tới đây thân hình y lủng lẳng giữa trời, lúc lắc đong đưa nhưng không cách nào xuống được. Y hết sức lay chiếc cương trượng nhưng chiếc gậy dài tám thước này đã cắm sâu vào nham thạch đến năm thước, dù có lắc đến ba ngày ba đêm cũng chẳng ăn thua gì, cảnh tượng đó trông thoạt kê biết mấy. Tiêu Phong cười nói:
- Tiêu mỗ xin lỗi không thể chờ được.
Nói xong ông quay bước ra đi. Gã lùn kia bằng giá nào cũng không chịu buông tay, y đối với võ công mình cũng biết thừa, vừa rồi nhảy lên nắm được cây gậy cũng là may lắm, nếu như rơi xuống đất rồi, lần sau nhảy lên khó mà cách nào với tới được. Cây cương trượng đó là món võ khí y hết sức quí mến, nặng cũng vừa, cầm gọn tay, dẫu có đánh cái khác cũng chưa chắc được như thế. Y lay cây gậy mấy lần nhưng không chuyển động chút nào bèn kêu lên:
- Này này, mau bỏ Thần Mộc Vương Đỉnh lại, nếu không thì hậu hoạn không biết đâu mà kể.
Tiêu Phong hỏi:
- Thần Mộc Vương Đỉnh là cái gì thế?
Ba người đệ tử phái Tinh Tú cùng tiến lên một bước nói:
- Các hạ võ công xuất thần nhập hóa, chúng tôi hết sức bội phục. Cái đỉnh nhỏ kia bản môn coi rất trọng nhưng người ngoài thì chẳng dùng được vào việc gì, mong các hạ giao lại, chúng tôi ắt sẽ hậu tạ.
Tiêu Phong xem bộ dạng bọn họ xem chừng không phải giả dối, cũng không phải mai phục nơi đây để tấn công mình liền nói:
- A Tử, mau đem cái Thần Mộc Vương Đỉnh đưa ra ta coi xem đó là cái gì nào?
A Tử nói:
- Trời ơi, tiểu muội đưa cho tỉ phu rồi mà? Đưa ra hay không đưa ra là toàn do tỉ phu thôi. Tỉ phu ơi, hay là tỉ phu giữ luôn cho được việc.
Tiêu Phong nghe nói đoán chừng cô ả đã ăn cắp bảo vật của sư môn, bây giờ bảo là giao lại cho mình rồi ắt hẳn muốn đứng ra chịu trận, bèn tương kế tựu kế, cất tiếng cười ha hả nói:
- Ngươi giao cho ta biết bao nhiêu món, ta nào có biết cái nào là Thần Mộc Vương Đỉnh đâu!
Gã lùn đang bông bênh giữa lưng chừng trời, lập tức chõ miệng vào:
- Đó là một cái đỉnh gỗ nho nhỏ, cao chừng sáu tấc màu vàng sậm.
Tiêu Phong kêu lên:
- ồ, cái đó ư? Ta biết rồi, chẳng qua chỉ là một món đồ chơi be bé chứ có dùng làm việc gì được đâu?
Gã lùn nói:
- Ngươi biết gì mà bảo là đồ chơi be bé? Cái mộc đỉnh ...
Y chưa nói hết câu, gã mập đã quát lên:
- Sư đệ chớ có nói nhăng nói càn.
Y quay sang nói với Tiêu Phong:
- Tuy đó chỉ là một món đồ chơi không dùng làm gì được, nhưng là của ... là của ... phụ thân gia sư ban cho, thành thử không thể để mất, xin các hạ làm ơn trả lại cho, chúng tôi cực kỳ cảm kích.
Tiêu Phong đáp:
- Ta tiện tay quăng bỏ, không biết vứt đâu mất rồi, có kiếm lại được không kể cũng khó nói. Nếu các ngươi quả thực muốn lấy lại thì ta phải quay lại Tín Dương kiếm thử xem, có điều đường sá xa xôi, bây giờ quay lại thì thật phiền quá đi mất.
Gã lùng liền láu táu xen vào:
- Quả muốn lắm chứ, sao lại không muốn lấy? Chúng mình mau ... mau ... quay về Tín Dương đi thôi.
Y nói xong liền thả tay rơi xuống, đến binh khí của mình cũng không còn ngó ngàng gì nữa. Tiêu Phong giơ tay vỗ vỗ lên đầu nói:
- Hừ, mấy hôm nay chẳng uống được bao nhiêu rượu, trí nhớ sao kém quá, cái mộc đỉnh nhỏ kia, không biết vứt ở Tín Dương hay ở tại Đại Lý, hừ, không chừng ở Tấn Dương ...
Gã lùn vội kêu lên:
- ấy, ấy, ngươi nói gì đó? Xem lại xem ở Đại Lý hay tại Tấn Dương nào? Thiên nam địa bắc, không phải chuyện đùa đâu nhé!
Gã mập biết Tiêu Phong cố tình gây khó khăn bèn nói:
- Các hạ chẳng cần phải cố tình bỡn cợt làm chi, nếu như chiếc đỉnh đó hoàn hảo trở về, chúng tôi thể nào cũng hậu tạ, quyết không nuốt lời.
Tiêu Phong đột nhiên thất kinh kêu lên:
- Chết rồi, không xong, ta nghĩ ra rồi.
Cả bốn người kinh hãi hỏi dồn:
- Gì thế?
Tiêu Phong đáp:
- Cái mộc đỉnh đó ở nhà Mã phu nhân, mới rồi ta châm lửa, đốt cháy rụi rồi còn đâu, không biết cháy to thế có hỏng mất không?
Gã lùn thất thanh kêu lên:
- Sao lại không hỏng, cái đó ... cái đó ... tam sư ca, tứ sư ca, bây giờ biết làm sao. Ta không biết, sư phụ nếu trách phạt, không liên quan gì đến ta cả. Tiểu sư muội, ngươi đích thân đến bẩm với sư phụ, ta, ta không dám đâu.
A Tử cười nói:
- Tiểu muội nhớ hình như không phải ở nhà Mã phu nhân. Các vị sư ca, tiểu muội xin lỗi, các vị ở đây nói chuyện với tỉ phu.
Nói xong nghiêng người lách qua chen lên trước mặt Tiêu Phong. Tiêu Phong quay lại giang tay chặn bốn người kia nói:
- Các ngươi nếu nói cho rõ ràng lai lịch Thần Mộc Vương Đỉnh cùng dùng để làm gì không chừng ta sẽ giúp các ngươi đi tìm, nếu không, tại hạ xin lỗi không thể hầu tiếp được.
Gã lùn liên tiếp xoa tay nói:
- Tam sư ca, không còn cách nào khác, chi bằng nói cho y hay cho xong!
Gã mập nói:
- Được, để ta nói cho các hạ hay ...
Tiêu Phong đột nhiên lao mình tới bên cạnh gã lùn, vươn tay chộp luôn vào nách y nói:
- Mình đi tới đằng kia, ta chỉ nghe ngươi nói, không nghe y.
Ông biết rằng gã mập trông mặt mũi thực thà, kỳ thực cực kỳ giảo hoạt, không câu nào nói thật, chỉ có gã lùn tính thẳng lại nhanh mồm nhanh miệng, không quen nói láo. Ông xách gã lùn lên, chạy vọt lên trên vách núi. Vách núi thật là cheo leo, vốn dĩ không thể nào bám víu vào đâu mà trèo lên được, nhưng Tiêu Phong đề khí chạy thẳng lên, chỉ một hơi đã chạy được hơn chục trượng, thấy một mỏm đá thò ra, liền đặt gã lùn ngồi ngay đó, còn mình một chân đứng một chân giơ ra ngoài không nói:
- Ngươi nói ta nghe đi!
Gã lùn ở chỗ giữa lưng chừng trời, đưa mắt nhìn xuống, không khỏi hoa mắt choáng váng, vội nói:
- Mau ... mau thả tôi xuống!
Tiêu Phong cười nói:
- Ngươi tự mình nhảy xuống đi!
Gã lùn đáp:
- Chỉ nói lăng nhăng! Nhảy xuống có mà nát thây!
Tiêu Phong thấy y tính tình thẳng thắn cũng có đôi phần hảo cảm hỏi:
- Ngươi tên là chi?
Gã lùn đáp:
- Ta là Xuất Trần Tử.
Tiêu Phong mỉm cười, nghĩ bụng: Cái tên đó phong nhã quá, chỉ có điều không xứng với thân hình lão huynh chút nào. Ông bèn nói:
- Xin lỗi ta không thể bồi tiếp, gặp lại sau vậy.
Xuất Trần Tử lớn tiếng kêu lên:
- Không được, không được! Trời ôi, ta ... ta ngã xuống thì chết.
Hai tay y bám chặt lấy vách đá, ám vận nội kình định ôm lấy tảng đá nhưng chung quanh chỗ nào cũng trơn tuột, làm gì có chỗ nào mà tựa vào? Võ công y tuy không kém nhưng ở vào chỗ ba mặt chênh vênh như thế này, không khỏi cực kỳ kinh hãi. Tiêu Phong nói:
- Nói mau, Thần Mộc Vương Đỉnh dùng để làm gì? Nếu ngươi không nói là ta bỏ đi đó.
Xuất Trần Tử vội vàng đáp:
- Ta ... ta không nói không được hay sao?
Tiêu Phong đáp:
- Không nói không được, thôi để gặp lại sau vậy.
Xuất Trần Tử vội vàng níu tay áo ông lại nói:
- Để ta nói, để ta nói. Thần Mộc Vương Đỉnh là một trong tam bảo của môn phái chúng ta, dùng để tu tập Hóa Công Đại Pháp. Sư phụ có nói là, người trong võ lâm Trung Nguyên nghe đến Hóa Công Đại Pháp đều sợ đến mất cả hồn vía, nếu thấy tòa Thần Mộc Vương Đỉnh ắt sẽ đập cho tan nát, cái đó ... cái đó là một bảo vật hiếm có trên thế gian, không biết nói sao cho hết ...
Tiêu Phong đã từng nghe đến Hóa Công Đại Pháp từ lâu, biết đó là một môn tà thuật vô cùng bẩn thỉu, bây giờ nghe nói Thần Mộc Vương Đỉnh có tác dụng như thế, không cần phải hỏi thêm, giơ tay cầm ngay nách Xuất Trần Tử, chạy bon bon xuống. Chạy từ trên vách núi dựng đứng xuống, so với chạy lên còn nguy hiểm hơn nhiều, Xuất Trần Tử sợ đến la hét rầm lên, tiếng kêu chưa dứt, hai chân đã chạm đất rồi, mặt tái mét không còn hột máu, hai đầu gối run lập cập. Gã mập hỏi:
- Bát sư đệ, ngươi đã nói chưa?
Xuất Trần Tử hàm răng vẫn còn đánh vào nhau kêu lốp cốp, không nói nên lời. Tiêu Phong quay sang nói với A Tử:
- Đưa ra đây!
A Tử hỏi lại:
- Đưa cái gì?
Tiêu Phong đáp:
- Thần Mộc Vương Đỉnh!
A Tử đáp:
- Thì anh đã chẳng bảo là để ở nhà Mã phu nhân hay sao? Sao lại còn hỏi tiểu muội?
Tiêu Phong ngắm cô gái, thấy nàng eo thon, áo quần mỏng mảnh, bên người xem ra không thể dấu chiếc một đỉnh cao sáu tấc được, nghĩ thầm: Con bé con này tinh quái lắm. Việc môn phái của nó mình vốn không muốn nhúng tay vào, bọn tà ma ngoại đạo này chẳng nên dây dưa để chúng cứ như oan hồn không tan luẩn quẩn bên mình, thật là khó chịu. Ông liền nói:
- Cái vật chi đó Tiêu mỗ có cũng vô ích, không thể nào lấy mà không chịu trả. Các ngươi tin cũng được, không tin cũng không sao, Tiêu mỗ cáo lỗi vậy.
Nói xong phi thân chạy đi, chỉ nhô lên hụp xuống mấy cái đã bỏ cả năm người ở lại thật xa. Bọn bốn người kia thấy ông thần uy như thế, đuổi theo thì không dám, còn đang bàn cãi Tiêu Phong đã không biết chạy tận nơi nào. Tiêu Phong chạy một mạch hơn bảy chục dặm lúc ấy mới tìm được một cái quán ghé vào ăn cơm uống rượu. Chiều tối hôm đó, ông nghỉ lại Chu Vương điếm, vận nội công một hồi rồi đi ngủ. Đến nửa đêm, trong giấc mơ nghe thấy mấy tiếng còi rít lên, lập tức tỉnh dậy. Một lát sau, phía tây nam cũng nghe mấy tiếng còi khác, rồi phía đông nam cũng có tiếng đáp lại, tiếng còi chói tai nghe thật ghê rợn, chính là tiếng ngọc địch của phái Tinh Tú. Tiêu Phong nghĩ thầm: Bọn chúng đã đến rồi đây, mặc kệ, chẳng việc gì đến mình. Đột nhiên có hai tiếng sáo ti ti vọng lên nghe thật gần, ngay tại trong khách điếm này, rồi có tiếng người nói:
- Dậy đi thôi, đại sư ca đến rồi, chắc là đã bắt được tiểu sư muội.
Lại một người khác nói:
- Bắt được rồi ư? Ngươi thử nghĩ thị liệu có sống được chăng?
Người trước nói:
- Làm sao biết được? Đi mau, đi mau!
Rồi có tiếng hai người đẩy cửa sổ, nhảy ra khỏi phòng. Tiêu Phong nghĩ thầm: Lại thêm hai môn hạ đệ tử nữa của phái Tinh Tú, té ra trong cái quán này có hai tên ẩn sẵn nơi đây, chắc là bọn chúng đến trước ta, không nói năng gì thành ra mình không biết. Hai đứa đó hỏi nhau A Tử có sống được không, tiểu cô nương này tuy tàn nhẫn độc ác thật nhưng không thể để cho cô nàng bị giết chết, nếu không thì thật không phải đối với A Châu. Nghĩ thế ông cũng nhảy ra khỏi phòng đuổi theo. Bỗng nghe tiếng địch nổi lên liên tiếp, chỗ này vừa thổi thì chỗ kia đáp lại, từ từ chuyển qua tây rồi xuống phía nam. Ông theo tiếng địch mà lần theo, chỉ giây lát đã đuổi kịp hai người từ khách điếm đi ra. Ông lặng lẽ theo sát hai gã đó giữ khoảng cách chừng mươi trượng, vượt qua hai ngọn núi thì thấy dưới sơn cốc có một đống lửa. Ngọn lửa cao chừng năm thước, màu xanh biếc trông cực kỳ ngụy bí khác hẳn lửa bình thường. Hai người kia chạy thẳng đến chỗ đốt lửa, vừa tơi nơi đã quì phục xuống vái lạy. Tiêu Phong rón rén tới gần, ẩn thân sau một tảng đá nhìn vọng ra, thấy chung quanh đám lửa tụ tập đến hơn chục người, ai nấy đều mặc áo gai màu vàng, ánh lửa xanh chiếu lên đầy vẻ ma quái. Phía bên trái đống lửa có một người mặc áo dài màu tím đứng đó, chính là A Tử. Hai tay nàng đã bị khóa bằng xích sắt, khuôn mặt trắng trẻo dưới ánh lửa bập bùng trông thật thần bí. Mọi người không ai nói một lời chỉ chăm chăm nhìn ngọn lửa, tay trái để trên ngực, miệng lẩm bẩm không biết đang tụng niệm gì. Tiêu Phong biết rằng đây là nghi thức quái dị của bọn tà ma ngoại đạo nên chẳng thèm để ý. Mới đây ông nghe hai tên đệ tử phái Tinh Tú bàn với nhau :Đại sư ca đến rồi, chắc là đã bắt được tiểu sư muội, nhìn lại hơn mười người này, già có trẻ có, phục sức hoàn toàn giống nhau, động tác thần thái không ai có gì đặc biệt tỏ ra là một kẻ đứng đầu.
Bỗng nghe u u u mấy tiếng địch nhu hòa từ phía đông bắc vọng tới, mọi người đều quay lại cùng hướng về phía có tiếng sáo kia khom lưng hành lễ. A Tử bĩu môi, nhưng không thèm quay lại. Tiêu Phong nhìn về phía có tiếng địch thấy một người áo trắng thong dong đi tới, bộ pháp cực kỳ nhanh nhẹn, chỉ thoáng một cái đã đến trước đống lửa, đưa một đầu
chiếc ngọc địch dài chừng hai thước lên môi, thổi vào đống lửa một cái, đám lửa lập tức tắt ngúm, rồi đột nhiên bừng lên thật to, nghe bùng một tiếng bay vọt lên trên không phải chừng hơn một trượng, lúc ấy mới từ từ rơi xuống. Mọi người cùng cất tiếng hô to:
- Đại sư huynh pháp lực thần kỳ, khiến chúng ta ai nấy được một phen mở mắt.
Tiêu Phong nhìn vào gã đại sư huynh kia, hơi ngạc nhiên, người này đứng đầu cả bọn, tưởng phải là một lão già năm sáu chục tuổi, ngờ đâu chỉ là một thanh niên chừng hăm bảy hăm tám, thân hình cao gầy, gương mặt xanh mét có ẩn màu vàng, trông cũng khá anh tuấn. Tiêu Phong mới thấy y phiêu hành đến đây cùng công phu thổi tắt ngọn lửa, biết y nội lực không phải là kém nhưng cung cách thổi ngọn lửa xanh, kế đó bùng lên ắt không phải do nội công mà có lẽ trong ống sáo có để dược liệu dẫn hỏa gì đặc biệt. Gã đó quay sang nói với A Tử:
- Tiểu sư muội, ngươi quả là nở mày nở mặt, vì ngươi mà biết bao nhiêu người phải lao sư động chúng, từ biển Tinh Tú nghìn dặm xa xôi tới tận Trung Nguyên.
Vi vu tuyết thổi mịt mùng,
Ngổn ngang tâm sự biết cùng ai đây.
*
* *
A Tử đáp:
- Đến cả đại sư ca cũng phải ra tay, tiểu muội quả thực vinh hạnh, thế nhưng nếu biết được cái chỗ dựa của tiểu muội thì e rằng cả bây nhiêu người xem ra chưa phải là đủ.
Gã đại sư huynh kia hỏi:
- Sư muội còn chỗ dựa ư? Không biết kẻ đó là ai thế?
A Tử đáp:
- Chỗ dựa ư, thì phải là gia gia, bá phụ, má má, tỉ phu của tiểu muội chứ còn ai.
Gã đại sư huynh hừ một tiếng nói:
- Sư muội từ tấm bé do sư phụ nuôi dưỡng cho đến lớn khôn, không cha không mẹ, sao tự nhiên lại ở đâu ra lắm thân thích đến thế?
A Tử đáp:
- Trời ơi, có ai mà lại không cha không mẹ, chẳng lẽ nứt trong đá ra hay sao? Có điều tên tuổi của cha mẹ tiểu muội là một đại bí mật không thể để cho mọi người ai cũng biết được đấy thôi.
Gã đại sư huynh hỏi:
- Thế thì cha mẹ của sư muội là ai?
A Tử đáp:
- Nói ra chỉ sợ mọi người sợ mất vía. Sư ca muốn tiểu muội nói ra thì phải mở khóa cho tiểu muội trước đã.
Tên đại sư huynh nói:
- Mở khóa thì cũng chẳng khó khăn gì, nhưng ngươi phải giao Thần Mộc Vương Đỉnh ra trước.
A Tử đáp:
- Vương đỉnh ở trong tay tỉ phu tiểu muội. Tam sư ca, tứ sư ca, thất sư ca, bát sư ca cũng đã đòi tỉ phu tiểu muội đưa ra, tiểu muội còn cách nào hơn được?
Gã đại sư huynh liền quay sang bốn người Tiêu Phong mới gặp lúc ban ngày, hơi mỉm cười, thần sắc ôn hòa nhưng bốn gã kia mặt liền biến sắc, hiển nhiên cực kỳ sợ hãi. Xuất Trần Tử lắp bắp:
- Đại ... đại ... đại sư ca, chuyện này không liên quan gì đến sư đệ. Tỉ phu ... của thị tài giỏi quá, chúng tôi ... chúng tôi đuổi theo không kịp.
Gã đại sư huynh nói:
- Tam sư đệ, ngươi nói đi.
Gã mập đáp:
- Dạ, dạ!
Y liền thuật lại gặp Tiêu Phong thế nào, y bắt được bốn cái gậy của họ ra sao, rồi sau đó bắt Xuất Trần Tử đem lên đỉnh núi ép buộc phải nói ra tất cả kể rõ không dám dấu diếm chút nào. Y vốn dĩ hành sự nói năng chậm rãi ra chiều kẻ cả nhưng lúc này giọng run run, chẳng khác gì đang ở vào cảnh đại họa lâm đầu. Xuất Trần Tử ấp úng:
- Sư đệ ... sư đệ ...
Gã đại sư huynh hỏi:
- Ngươi nói những gì nào? Nói lại cho ta nghe.
Xuất Trần Tử đáp:
- Sư đệ ... sư đệ nói ... cái Thần Mộc Vương Đỉnh đó là một trong tam bảo của bản môn, để ... để ... luyện đại pháp đó. Đệ lại nói là sư phụ từng nói người trong võ lâm Trung Nguyên nghe đến Hóa Công Đại Pháp của bản môn ai ai cũng bạt hồn bạt vía, nếu như thấy được cái đỉnh thể nào cũng đập cho tan nát. Đệ nói đó là một bảo vật hiếm có trên thế gian, không biết nói sao cho hết ... vì thế nên xin y làm ơn trả lại. Gã đại sư huynh nói:
- Hay lắm! Thế y trả lời sao?
Xuất Trần Tử đáp:
- Y ... y chẳng nói gì cả, chỉ thả sư đệ xuống thôi.
Gã đại sư huynh kia nói:
- Ngươi giỏi lắm! Ngươi nói cho y hay cái Thần Mộc Vương Đỉnh kia dùng để luyện Hóa Công Đại Pháp, lại còn sợ y không biết Hóa Công Đại Pháp là môn gì nên nhấn mạnh hễ võ lâm Trung Nguyên nghe đến tên nó là ai cũng bạt hồn vía. Quả là hay thực, hay thực, chẳng hay y có phải là người trong võ lâm Trung Nguyên không nhỉ? Xuất Trần Tử lắp bắp:
- Sư đệ ... sư đệ ... không biết nữa.
Gã đại sư huynh hỏi vặn lại:
- Có thực là ngươi không biết, hay là ngươi biết?
Giọng y ôn hòa nhưng gã Xuất Trần Tử tính tình bộp chộp kia lại hồn bất phụ thể, hai hàm răng đập vào nhau kêu lách cách, nói:
- Đệ ... lách cách ... đệ ... lách cách ... không ... biết ... lách cách ... nữa.
Tiếng lách cách là do hàm răng y chạm vào nhau, vì y không thể nào giữ cho khỏi kêu được. Gã đại sư huynh hỏi:
- Vậy y có bạt hồn bạt vía không? Hay là chẳng sợ gì cả.
Xuất Trần Tử lập cập đáp:
- Dường như là ... y ...y ... lách cách ...chẳng có gì ... chẳng có vẻ gì ... sợ cả.
Gã đại sư huynh hỏi thêm:
- Ngươi đoán thử xem vì cớ gì y lại không sợ?
Xuất Trần Tử đáp:
- Sư đệ đoán không ra, xin ... xin đại ... sư ca cho biết.
Gã đại sư huynh trả lời:
- Võ nhân Trung Nguyên sợ Hóa Công Đại Pháp của chúng ta lắm, nhưng để luyện môn Hóa Công Đại Pháp này thì không thể không dùng Thần Mộc Vương Đỉnh. Nay tòa Thần Mộc Vương Đỉnh lọt vào tay y rồi, Hóa Công Đại Pháp của chúng ta còn luyện sao được nữa, thành ra y chẳng sợ nữa.
Xuất Trần Tử vội hùa theo:
- Dạ, dạ, đại sư ca minh kiến vạn lý, liệu địch như thần, sư đệ ... sư đệ vạn vạn không thể theo kịp.
Lúc ban ngày Tiêu Phong gặp các môn nhân đệ tử phái Tinh Tú, thấy trong tất cả có gã Xuất Trần Tử này là người tính tình bộc trực hơn cả, đối với y cũng có chút hảo cảm, thấy y sợ đại sư huynh đến như thế, có ý ra tay cứu y, ngờ đâu càng nghe càng thấy y chẳng đâu vào đâu, gã lùn này câu nào câu nấy hèn hạ, nịnh bợ hết chỗ nói. Tiêu Phong liền nghĩ: Gã này không phải là hảo hán tử, y chết hay sống chẳng mắc mớ gì đến ta. Gã đại sư huynh quay sang A Tử hỏi thêm:
- Tiểu sư muội, anh rể ngươi là ai thế?
A Tử đáp:
- Y ư? Nói ra e rằng khiến đại sư huynh phải giật mình.
Gã đại sư huynh nói:
- Ngươi cứ việc nói, nếu quả là một nhân vật anh hùng danh tiếng lừng lẫy, Trích Tinh Tử này sẽ để tâm lưu ý.
Tiêu Phong thấy y tự thông báo đạo hiệu, nghĩ thầm: Trích Tinh Tử! Cái tên nghe lớn lối nhỉ?1 Xem thân pháp y phiêu hành mới rồi, khinh công tuy khá thật nhưng đâu có hơn được Ba Thiên Thạch nước Đại Lý hay Vân Trung Hạc trong Tứ Đại ác Nhân. Lại nghe A Tử nói:
- Y ấy ư? Đại sư ca, trong võ lâm Trung Nguyên thì ai là người đứng đầu?
Gã đại sư huynh Trích Tinh Tử đáp:
- Mọi người đều nói Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung, không lẽ cả hai người này đều là anh rể ngươi hay sao?
Cơn giận Tiêu Phong xông lên nghĩ thầm: Tên tiểu tử này ăn nói lếu láo, để rồi ta cho ngươi biết phải biết quấy. A Tử cười khanh khách nói:
- Đại sư ca ăn nói quả là thú vị, tiểu muội chỉ có một người chị, làm thế nào có hai ông anh rể được?
Trích Tinh Tử mỉm cười đáp:
- Ta nào có biết ngươi chỉ có một người chị. Ôi, dẫu quả chỉ có một tỉ tỉ nhưng có đến hai ông anh rể cũng có gì là lạ lùng đâu.
A Tử nói:
- Tỉ phu của tiểu muội tính nóng lắm, lần sau nếu gặp lại anh ta, nếu tiểu muội nhắc lại câu nói của đại sư ca cho y nghe thì sư ca hẳn sẽ phải khổ thân. Tiểu muội nói cho sư ca nghe, tỉ phu của tiểu muội là bang chủ Cái Bang, uy chấn Trung Nguyên Bắc Kiều Phong đó.
Lời đó vừa nói ra, những người trong phái Tinh Tú đã từng gặp Tiêu Phong ai nấy kinh hoàng, nhịn không nổi cùng A lên một tiếng. Gã mũi lân nhị sư ca nói:
- Thảo nào! Thảo nào! Thua dưới tay y ta cũng đành lòng.
Trích Tinh Tử hơi nhíu mày nói:
- Thần Mộc Vương Đỉnh rơi vào tay Cái Bang thì kể cũng khó xoay sở.
Xuất Trần Tử tuy sợ hãi lắm nhưng cái tính lanh chanh cũng không chừa liền chõ mồm vào:
- Đại sư ca, gã Kiều Phong kia không còn làm bang chủ Cái Bang nữa, sư ca mới ở phương tây qua chắc là chưa nghe chuyện đại sự mới đây của võ lâm Trung Nguyên. Gã Kiều Phong kia, gã Kiều Phong kia đã bị bọn Cái Bang trục xuất ra khỏi bang rồi.
Việc không liên quan gì đến y ăn nói lại lưu loát hơn nhiều. Trích Tinh Tử thở phào một cái, khuôn mặt đang căng thẳng liền dãn ra, hỏi lại:
- Kiều Phong bị trục xuất khỏi Cái Bang rồi ư? Có thật thế không?
Gã mập tam đệ tử liền đáp:
- Trên giang hồ ai cũng nói thế, còn nói y không phải người Hán mà là người Khất Đan, anh hùng Trung Nguyên ai cũng muốn giết y mới hả dạ. Nghe nói người này giết cha, giết mẹ, giết sư phụ, giết bạn bè, hèn hạ đáng khinh, không chuyện ác gì là không làm.
Tiêu Phong ẩn nấp sau sơn thạch, nghe y kể lại những chuyện bất hạnh mình gặp phải trong mấy tháng qua, không khỏi đau lòng, dẫu ông võ công cái thế, can đảm hơn người nhưng thanh danh trên giang hồ tệ mạt như vậy, bị tất cả anh hùng thiên hạ coi khinh, sống trên đời thật là vô vị hết sức. Chỉ nghe Trích Tinh Tử hỏi A Tử:
- Sao chị ngươi lại chịu lấy một đứa như thế? Không lẽ người trên đời này chết hết không còn ai hay sao? Hay là bị y tiên gian hậu thú, cưỡng bức bắt phải làm vợ?
A Tử mỉm cười nói:
- Tại sao lại lấy y, tiểu muội cũng không biết nữa, có điều tỉ tỉ của tiểu muội bị y đánh một chưởng chết tươi.
Mọi người nghe thế đều kinh ngạc A lên một tiếng. Bọn này lòng dạ trơ trơ như gỗ đá, hành sự độc ác nhưng nghe Kiều Phong giết cha, giết mẹ, giết thầy, giết bằng hữu chưa đủ, lại giết cả vợ con, thủ đoạn tàn nhẫn đến như thế thiên hạ quả là hiếm thấy mình quả không thể nào bằng được đành chịu ở vào thế hạ phong. Trích Tinh Tử nói:
- Cái Bang người nhiều thế mạnh quả là không phải dễ đối phó, nay Kiều Phong đã bị trục xuất khỏi bang rồi, mình còn sợ gì y nữa? Ha ha!
Y cười khẩy mấy tiếng nói tiếp:
- Cái gì mà Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung, chẳng qua bọn võ lâm Trung Nguyên tự trương bảng huênh hoang, ta chẳng tin rằng hai gã đó lại chống nổi với thần công diệu thuật của phái Tinh Tú chúng ta đâu.
Gã mập liền hùa theo:
- Đúng thế! Đúng thế! Bọn sư đệ cũng nghĩ vậy. Đại sư ca võ công siêu phàm nhập thánh, lần này đến Trung Nguyên, chính là lúc đem hai gã Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung kia giết quách để làm nhụt nhuệ khí võ lâm Trung Nguyên, cho chúng biết phái Tinh Tú lợi hại là dường nào.
Trích Tinh Tử hỏi:
- Tên Kiều Phong kia đi về hướng nào?
A Tử đáp:
- Y nói y định ra ngoài Nhạn Môn Quan, nếu mình cứ đuổi theo thể nào rồi cũng bắt gặp.
Trích Tinh Tử nói:
- Đúng vậy! Nhị, tam, tứ, thất, bát năm vị sư đệ lần này gặp địch để bị thua, các ngươi tội đó tội gì?
Năm người khom lưng đáp:
- Cung lãnh đại sư ca trách phạt.
Trích Tinh Tử nói:
- Bọn chúng ta đến Trung Nguyên, có biết bao nhiêu việc phải làm, nếu cứ tội nào trị nấy thì không khỏi làm giảm số người của mình đi. Ôi, ta xem, thế thì đành ...
Y nói chưa hết câu tay trái đã vung lên, từ trong tay áo bay vụt ra năm đốm lửa màu xanh, chẳng khác gì năm con đom đóm, chia ra bắn vào đầu vai năm người, vừa đụng phải lập tức phát tiếng xèo xèo. Tiêu Phong ngửi thấy mùi khét lẹt của thịt cháy, nghĩ thầm: Tên này gớm thật, không lẽ y thiêu sống mấy người đó hay sao?. Đốm lửa chỉ giây lát liền tắt ngúm nhưng nét đau đớn trên khuôn mặt năm người càng lúc càng khủng khiếp. Tiêu Phong nghĩ thầm: Vật y ném ra là loại hỏa dược có chất lưu hoàng, lân tinh gì đó, xem chừng bên trong còn chứa chất độc, nên khi lửa tắt rồi, độc tính mới lan ra trong thân thể khiến cho càng thêm đau đớn khó chịu. Chỉ nghe Trích Tinh Tử nói:
- Đây là Luyện Tâm Đạn. Các ngươi trải qua một phen mài dũa, tính chịu đựng sẽ tăng thêm, lần sau có gặp kình địch thì chẳng vừa đánh đã chịu thua, làm mất mặt phái Tinh Tú chúng ta.
Gã mũi lân và gã mập cùng đáp:
- Vâng, vâng! Đa tạ đại sư ca giáo huấn.
Ba người còn lại vẫn tiếp tục vận nội lực chống lại cơn đau, không cách gì mở miệng nói năng được. Độ chừng tàn một nén hương, tiếng rên rỉ và tiếng thở hắt ra của năm người lắng xuống dần. Trong thời gian đó những đệ tử phái Tinh Tú đứng nhìn năm người nghiến răng chịu đựng, ai nấy đều kinh hoàng run rẩy. Trích Tinh Tử đưa mắt chầm chậm nhìn sang Xuất Trần Tử nói:
- Bát sư đệ, ngươi tiết lộ chuyện cơ mật trọng đại khiến cho trọng bảo của bản môn có nguy cơ bị hủy diệt, thì phải chịu xử tội thế nào?
Xuất Trần Tử mặt mày biến sắc, đột nhiên hai đầu gối khuỵu xuống, quì dưới đất van xin:
- Đại sư ... đại sư ca, khi đó ... khi đó tiểu đệ hoảng hốt buột miệng khai ra ... xin ... xin sư ca tha mạng, từ nay ... từ nay làm trâu làm ngựa, không dám nửa lời oán trách, không ... không dám để bụng ...
Nói xong y liên tiếp khấu đầu. Trích Tinh Tử thở dài một tiếng nói:
- Bát sư đệ, ngươi với ta là chỗ đồng môn, nếu như tài sức ta có thể làm được thì cũng muốn tha cho ngươi. Có điều ... ôi, nếu như tha cho ngươi lần này thì từ nay còn ai chịu tuân theo giới lệnh của sư phụ nữa? Ngươi ra tay đi vậy! Qui củ của bản môn, ngươi biết rồi, chỉ cần ngươi đánh bại được chấp pháp tôn giả thì bao nhiêu tội nghiệt cũng xóa sạch.
Thôi ngươi đứng lên động thủ đi.
Thế nhưng Xuất Trần Tử đời nào dám đối địch với sư ca? Y vẫn tiếp tục rập đầu binh binh. Trích Tinh Tử nói:
- Nếu như ngươi không chịu ra tay trước thì hãy tiếp chiêu của ta.
Xuất Trần Tử kêu rống lên một tiếng, cúi xuống nhặt luôn hai hòn đá, sử kình ném về phía Trích Tinh Tử, kêu:
- Đại sư ca, tiểu đệ đành đắc tội!
Y lại nhặt hai cục đá khác ném tiếp, đồng thời nhảy vọt về phía đông bắc, nghe vù vù hai tiếng, ném thêm hai cục đá nữa, thân hình trông như trái cầu thịt của y đã chạy ra xa. Y tự biết võ công so với Trích Tinh Tử chênh lệch quá xa, chỉ mong sáu cục đá đó cản y lại được một chút để có dịp đào tẩu rồi từ nay ẩn tính mai danh ngõ hầu môn hạ phái Tinh Tú
không tìm ra được. Cánh tay áo bên phải của Trích Tinh Tử vung lên, phất vào viên đá bay tới trước tiên, cục đá liền quay ngược lại, bắn thẳng vào sau lưng Xuất Trần Tử. Tiêu Phong nghĩ thầm: Công phu mượn sức đánh sức của gã này kể cũng khá cao, đây là bản lĩnh chân thực chứ không phải tà pháp. Xuất Trần Tử nghe tiếng gió rít ở phía sau, nhảy qua một bên tránh né, Trích Tinh Tử liền phất cục đá kế tiếp bắn tới, không để cho y kịp thở. Xuất Trần Tử vừa đặt chân xuống đất đã nghe kình phong thổi tới sau lưng, viên đá thứ ba đã tới rồi. Mỗi viên đá lại ép Xuất Trần Tử nhảy về bên trái thêm một bước, sáu bước nhảy xong y đã quay trở lại bên cạnh đống lửa. Chỉ nghe cạch một tiếng, viên đá thứ sáu rơi ở xa xa. Xuất Trần Tử mặt tái mét, lật tay một cái đã rút trong túi ra một con dao găm, đâm thẳng vào ngực mình. Trích Tinh Tử phất nhẹ tay áo, một đốm lửa xanh bắn vào cổ tay y, đốt huyệt đạo nơi đó nghe sèo sèo, bàn tay Xuất Trần Tử lỏng ra, con dao đã rơi xuống đất. Y la lớn:
- Xin đại sư ca mở lòng từ bi! Xin đại sư ca mở lòng từ bi!
Tay áo Trích Tinh Tử lại vung lên, một luồng kình phong bắn vào đống lửa, ngọn lửa liền vươn ra một ngọn lửa nhỏ lao vào người Xuất Trần Tử, vừa chạm phải liền bùng lên lem lém, quần áo đầu tóc liền bốc cháy. Chỉ thấy y lăn lộn trên mặt đất, kêu la thảm thiết nhưng chưa chết ngay, mùi khét lẹt bay ra trông thật kinh hoàng. Người trong môn phái Tinh Tú sợ đến nỗi không dám thở mạnh. Trích Tinh Tử nói:
- Không nghe ai nói gì cả, ôi, các ngươi nghĩ ta ra tay quá độc ác, Xuất Trần Tử chết thật là oan, phải không?
Mọi người vội vàng tranh nhau đáp lời:
- Xuất Trần Tử tội thật đáng chết, đại sư ca giúp y luyện thể hóa cốt, đối với đồng môn quả là nhân chí nghĩa tận.
- Đại sư ca anh minh quyết đoán, xử trí thật là thích đáng, không rộng rãi mà cũng chẳng hẹp hòi, chúng sư đệ hết sức kính phục.
- Tên đó tiết lộ chuyện cơ mật của bản môn khiến cho món chí bảo trong việc luyện công của sư tôn lâm nguy, đáng ra phải lóc da xẻo thịt, để y chịu đựng bảy ngày bảy đêm rồi mới giết chết. Đại sư ca cố giữ nghĩa khí đồng môn, gã có thành ma cũng còn cảm kích ân huệ.
- Bọn chúng ta ai ai cũng có tội, xin đại sư ca khoan dung tha thứ.
Bao nhiêu lời vô sỉ chen lẫn tiếng kêu thảm khốc của Xuất Trần Tử vang vọng trong đêm. Tiêu Phong cảm thấy cực kỳ chán ghét, quay mình, chân phải búng một cái, không một tiếng động đã vọt ra xa hơn hai trượng, đến tài ba như Trích Tinh Tử cũng không hề hay biết. Ông đang định bỏ đi bỗng nghe Trích Tinh Tử cất tiếng dịu dàng hỏi:
- Tiểu sư muội, ngươi ăn trộm bảo đỉnh của sư tôn giao cho người ngoài thì phải chịu tội gì?
Tiêu Phong kinh hãi nghĩ thầm: E rằng hình phạt A Tử phải chịu so với Xuất Trần Tử còn thảm khốc gấp mười, nếu ta xuôi tay bỏ đi thì lòng dạ đâu yên được?. Nghĩ thế ông quay lại lén lén trở về chỗ ẩn thân khi nãy. Chỉ nghe A Tử đáp:
- Tiểu muội phạm vào qui củ của sư phụ, chuyện đó không sai, nhưng chẳng hay đại sư ca có muốn lấy lại bảo đỉnh hay chăng?
Trích Tinh Tử đáp:
- Đó là một trong tam bảo của bản môn, đương nhiên không thể không thu hồi, làm sao để rơi vào tay người ngoài được?
A Tử nói:
- Tính nết của ông anh rể em không mấy dễ chịu. Cái bảo đỉnh đó do chính tiểu muội giao cho anh ta, nếu như em lên tiếng đòi lại, anh ấy sẽ giao hoàn không sứt mẻ. Còn như người khác hỏi ư, đại sư ca liệu y có chịu giao không?
Trích Tinh Tử hừm một tiếng đáp:
- Cái đó cũng khó nói lắm. Nếu như bảo đỉnh có gì hư hại thì tội nghiệt nhà ngươi càng nặng.
A Tử nói:
- Nếu như các vị đòi y, nhất định y sẽ không giao trả. Đại sư ca võ công tuy cao thật, giỏi lắm cũng chỉ giết được y thôi, còn như muốn thu hồi bảo đỉnh thì thật khó bằng lên trời.
Trích Tinh Tử trầm ngâm rồi đáp:
- Theo như ngươi thì phải làm sao?
A Tử đáp:
- Các vị thả tiểu muội ra để một mình ra ngoài Nhạn Môn Quan nói với tỉ phu trả lại chiếc bảo đỉnh. Cái đó gọi là đái công chuộc tội nhưng đại sư ca phải hứa là sau này không trách phạt gì tiểu muội nữa.
Trích Tinh Tử đáp:
- Lời nói của ngươi nghe cũng có lý. Thế nhưng, cô em nhỏ ơi, nếu làm như thế thì có khác gì bôi tro trát trấu vào mặt người anh này, từ rày về sau ta có còn làm đại sư huynh của phái Tinh Tú nữa được chăng? Ta thả cô ra rồi, cô sẽ cao bay xa chạy, cùng với ông anh rể trốn mất biệt, bóng chim tăm cá ta biết nơi mô mà tìm? Còn cái bảo đỉnh kia, có chí thì nên, cố là phải được, chỉ cần không tiết lậu phong thanh, gã họ Kiều kia chưa chắc đã dám vô cớ hủy đi. Tiểu sư muội, ngươi ra tay đi vậy, chỉ cần ngươi đánh thắng ta thì ngươi sẽ lên là đại sư tỉ của phái Tinh Tú lúc đó ta lại nghe hiệu lệnh của cô, để cô muốn làm gì thì làm.
Tiêu Phong bấy giờ mới rõ: Thì ra thứ bậc trên dưới của bọn chúng là do công phu mạnh yếu mà định chứ không phải nhập môn trước hay sau, thành thử tuy y tuổi còn trẻ mà lại là đại sư huynh, biết bao nhiêu người tuổi lớn hơn y lại là sư đệ. Nếu cứ như thế, nội bộ ắt luôn luôn tranh đoạt tàn sát, còn gì là tình đồng môn, nghĩa anh em nữa?. Ông không biết rằng đó chính là phương pháp của phái Tinh Tú để người sau phải giỏi hơn người trước. Đại sư huynh quyền lực rất lớn, nếu sư đệ bất phục có thể dùng võ lực phản kháng, dùng công phu để định thấp cao. Nếu đại sư huynh đắc thắng thì muốn đánh muốn giết gã sư đệ kia cũng đành chịu, không thể kháng cự. Còn như sư đệ đắc thắng, y lập tức nhảy lên làm đại sư huynh, quay lại xử tử gã đại sư huynh cũ. Sư phụ cũng chỉ chống mắt đứng nhìn, quyết không can thiệp. Vì có qui củ như thế nên ai ai cũng phải nỗ lực tu tập cốt để tự bảo tính mạng của mình, ngoài mặt thì thản nhiên làm như kém cỏi để khỏi bị đại sư huynh nghi ngờ. Xuất Trần Tử cánh tay rất khỏe, cây cương trượng y đúc vừa to vừa dài, vừa nặng, tuy đứng hàng thứ tám nhưng cũng đã khiến cho Trích Tinh Tử đố kỵ, nay nhân cớ này trừ khử y. Người môn phái khác thường chỉ luyện tới một mức nào đó là ngừng lại không còn tiến thêm được nữa, còn môn đệ phái Tinh Tú đến nửa ngày cũng không dám bê trễ, lúc nào cũng phải chuyên cần luyện tập. Đại sư huynh phải dè chừng sợ sư đệ đến khiêu chiến với mình đã đành, đến ngay cả các sư đệ cũng sợ đại sư huynh tìm chuyện đổ lên đầu mình, nếu như công phu luyện đến mức cao, đại sư huynh không chắc ăn thì sẽ không dám gây sự. A Tử nghĩ rằng Trích Tinh Tử sợ mất bảo đỉnh sẽ không dám mạnh tay, nào ngờ y không mắc bẫy, lập tức đòi động thủ khiến cho mặt hoa tái mét, nghe tiếng rên rỉ của Xuất Trần Tử chưa dứt hẳn, cái số phận đó chỉ chớp mắt sẽ đến với mình, đành bậm môi run run nói:
- Chân tay ta đều bị khóa chặt, làm sao động thủ quá chiêu với ngươi được? Nếu như ngươi muốn hại ta sao không dùng cách quang minh chính đại mà lại giở trò đê hèn này?
Trích Tinh Tử đáp:
- Được lắm! Để ta thả ngươi ra.
Y phất tay áo một cái, một luồng kình phong phóng thẳng vào đống lửa. Từ đống lửa một ngọn lửa xanh nhỏ bay ra, chẳng khác gì một tia nước xịt thẳng vào dây xích nối hai tay A Tử. Tiêu Phong nhìn rất kỹ, thấy đốm lửa đó quả không bắn vào người A Tử. Chỉ nghe thấy tiếng xì xì, chẳng bao lâu, hai tay A Tử bung ra, sợi xích đã đứt ngay giữa nhưng hai chiếc vòng vẫn còn ở nơi cổ tay. Ngọn lửa xanh lại thu về, rồi lại phóng tới lần này bắn vào sợi xích dưới chân, chỉ một lát sợi xích đó cũng bị cắt đứt. Tiêu Phong lúc đầu thấy ngọn lửa nung chảy được dây xích không khỏi kinh ngạc nội lực Trích Tinh Tử quả thực ghê gớm, đến lúc nhìn vào ngọn lửa đốt dây xích dưới chân mới thấy rõ, ngọn lửa tới đâu dây xích liền biến sắc, xem ra ngọn lửa này có điều gì cổ quái chứ không phải chỉ thuần nhờ vào nội lực. Các môn đệ phái Tinh Tú không ngớt tấm tắc ca ngợi:
- Nội lực đại sư ca đã đến mức siêu phàm nhập thánh, quả thực kinh người.
- Bọn chúng ta thực thấy chưa từng thấy, nghe chưa từng nghe, đời nay ngoài sư tôn ra, đại sư ca nhất định thiên hạ vô địch.
- Bọn gì Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung có xách dép cho đại sư ca cũng không đáng.
- Tiểu sư muội, ngươi bây giờ đã thấy lợi hại chưa? Thế nhưng có hối hận cũng muộn rồi.
Người này một câu, người kia một câu, tranh nhau nói. Trích Tinh Tử nghe những lời nịnh hót đó, mặt tươi như hoa, khẽ gật gù, liếc mắt nhìn A Tử. A Tử tuy tâm cơ linh xảo nhưng cũng chưa tìm ra cách nào thoát được cái họa trước mắt, chỉ mong bọn chúng nức lòng ca tụng khiến cho Trích Tinh Tử ra tay chậm lúc nào hay lúc nấy nhưng nói qua nói lại một hồi, không còn thêm được ý gì mới mẻ, giọng cũng lắng dần. Trích Tinh Tử chậm rãi nói:
- Tiểu sư muội, ngươi xuất chiêu đi thôi.
A Tử run run đáp:
- Ta không xuất chiêu.
Trích Tinh Tử hỏi lại:
- Vì sao vậy? Ta xem ngươi cử động được rồi mà.
A Tử đáp:
- Ta không đấu với ngươi, biết chắc đánh không lại, việc gì phải phí hơi phí sức? Ngươi muốn giết ta thì cứ giết đi.
Trích Tinh Tử thở dài đáp:
- Ta cũng chẳng muốn giết ngươi làm chi. Một tiểu cô nương xinh đẹp dễ thương như thế, giết đi quả là đáng tiếc, có điều không còn cách nào hơn. Tiểu sư muội, ngươi ra tay đi, ngươi giết được ta thì sẽ trở thành đại sư tỉ. Trong phái Tinh Tú, khi đó ngoài sư phụ ra có ai chẳng phải nghe lời ngươi.
A Tử đáp:
- Ta là một cô gái nhỏ, cả đời cũng không bao giờ hơn ngươi được, có gì phải e ngại mà ngươi lại muốn giết ta.
Trích Tinh Tử thở dài:
- Nếu như ngươi không phạm phải tội tày trời như thế này, ta nhất quyết không bao giờ làm khó ngươi đâu, thế nhưng lúc này ... ôi ... ta thật tiếc không giúp gì được nữa. Tiểu sư muội, tiếp chiêu!
Nói xong y phất tay áo một cái, một luồng kình phong ập vào đống lửa, đẩy một tia lửa xanh từ từ phóng tới cô gái, nhưng dường như chưa muốn giết A Tử ngay nên đốm lửa bay thật chậm. A Tử kinh hãi kêu lên một tiếng, nhảy qua bên trái hai bước. Tia lửa lập tức đuổi theo, A Tử lại lùi một bước nữa, lưng dựa ngay vào tảng đá Tiêu Phong đang náu sau đó. Trích Tinh Tử thúc đẩy nội lực, ngọn lửa lại ép tới, A Tử không còn đường lui đang tính nhảy sang bên cạnh nhưng tay áo Trích Tinh Tử đã múa lên, hai luồng kình phong chia ra tấn công tả hữu khiến cô gái không còn đường chạy nữa trong khi ngọn lửa trước mặt càng lúc càng gần. Tiêu Phong thấy ngọn lửa chỉ còn cách mặt A Tử chừng hai thước, rồi gần thêm một tấc, một tấc nữa bèn nói khẽ:
- Đừng sợ, có ta đến giúp ngươi đây!
Ông vừa nói vừa thò tay từ sau tảng đá ra để vào lưng cô gái, nói:
- Ngươi vận chưởng lực đánh thẳng vào ngọn lửa.
A Tử đang sợ đến mất cả hồn vía, đột nhiên nghe thấy tiếng Tiêu Phong, mừng không sao kể xiết, không kịp suy nghĩ gì liều vung chưởng đánh ra. Khi đó nội lực Tiêu Phong đã truyền vào thân thể cô ta rồi, chưởng đó đánh ra thật là hùng hậu, ngọn lửa xanh liền dội lại hai thước. Trích Tinh Tử hết sức kinh hãi, thấy A Tử đã như cá nằm trên thớt, đang định mãi lộng công phu cho ngọn lửa vờn qua vờn lại trên mặt cô gái, dọa cho kêu la một hồi để hiển thị uy phong trước đám đồng môn lúc đó mới ra tay hạ sát nhưng có ngờ đâu cô ta tuổi còn nhỏ mà nội lực lại mạnh dường ấy, thực ngoài dự liệu. Võ công của phái Tinh Tú, sau khi sư phụ truyền thụ rồi, mỗi người tự tu luyện riêng, cao siêu tới mức độ nào, chỉ đến khi gặp địch hay khi đồng môn tàn sát lẫn nhau mới hiển lộ, ngoài ra không ai biết được. Thành thử khi A Tử một chưởng đánh ra lại có thể dồn cho ngọn lửa dội ngược lại, ai nấy A lên một tiếng, tuy ngạc nhiên nhưng chẳng nghi ngờ có người ám trợ, chỉ nghĩ A Tử thiên tư thông minh tự luyện được công phu cực cao thâm. Trích Tinh Tử vận lực đẩy ra, ngọn lửa xanh lại nhắm ngay mặt A Tử phóng tới, lần này y dùng sức cực kỳ mãnh liệt, thế đi thật nhanh. A Tử hốt hoảng không biết tính sao để ngăn ngọn lửa, vội vàng né qua bên trái. Cũng may lúc này kình lực Trích Tinh Tử dùng chặn hai bên đã hết, nàng vừa né qua, ngọn lửa xanh bắn thẳng vào tảng đá, soẹt soẹt mấy tiếng. Tiêu Phong hạ giọng nói nhỏ:
- Tả chưởng đánh ra cắt đôi ngọn lửa đi.
A Tử nghĩ thầm: Cách này hay quá!, tay trái liền giơ lên, một luồng chưởng lực đẩy vào giữa cắt đứt sợi dây lửa, phần trước không còn tiếp nối phía sau nên chỉ cháy tại tảng đá được một hồi rồi tàn dần. Trích Tinh Tử nghĩ thầm: Nếu để tắt sợi dây lửa này thì ta đã thua một trận trước mặt đồng môn, bao nhiêu uy phong mất sạch còn gì. Nghĩ vậy y bèn thúc đẩy chưởng lực, đưa sợi dây lửa bắn vào tảng đá, định nối lại đầu kia để thu về. A Tử chỉ thấy từ sau lưng nội lực cuồn cuộn đổ vào, nếu không phát tiết chỉ sợ thân mình sẽ nổ tung lập tức vung ta phải đánh thẳng ra. Nội lực Tiêu Phong vô cùng hùng hậu, tuy đổ vào người A Tử uy lực đã giảm nhiều nhưng nếu nàng khéo sử dụng, xuất kỳ bất ý tấn công Trích Tinh Tử thì chỉ một đòn là xong. Có điều nàng chưa hết sợ hãi, chưởng đó lập cập đánh ra, nghe vù một tiếng, ngọn lửa xanh lập tức tắt phụp, tuy thắng thế nhưng không làm Trích Tinh Tử tổn hao chút nào. Việc xảy ra, đám đồng môn phái Tinh Tú ai nấy không khỏi mặt màythất sắc. Riêng gã thất đệ tử chẳng hiểu ngô khoai, ù ù cạc cạc, vẫn tiếptục lên tiếng bợ đỡ:
- Đại sư ca công lực ghê gớm thật, chưởng của tiểu sư muội giỏi lắm cũng chỉ tắt được thần hỏa chứ có làm gì được đại sư ca đâu?
Câu nói đó y bản tâm bốc thơm sư huynh nhưng Trích Tinh Tử nghe vào tai, thật chẳng khác gì châm chọc, đột nhiên phất tay áo một cái, đám lửa tạt qua, nghe suỵt một tiếng, như một mũi tên bắn thẳng vào mặt gã sư đệ. Ngọn lửa chỉ chạm vào rồi lại thu về ngay nhưng gã kia đã hai tay bưng mặt, nhào xuống đất kêu la chẳng khác gì heo bị chọc tiết. Trích Tinh Tử trừng trị gã thất sư đệ rồi tả chưởng liền đánh xéo ra, luồng lửa xanh lại tấn công về phía A Tử. Lần này ngọn lửa to hơn nhiều, tiếng kêu ù ù, chiếu lên khiến cho khuôn mặt cô gái trở thành xanh lè. A Tử đẩy song chưởng ra ngăn chặn, ngọn lửa lập tức ngừng lại trên không, cứ xông tới được một hai tấc, lại lùi về một hai tấc. Trong bóng đêm ngọn lửa trông chẳng khác gì một con rắn dài màu xanh lơ lửng vắt ngang, chỉ hơi uốn éo, màu sắc vừa rực rỡ, lại vừa ngụy bí, ánh sáng khi mờ khi tỏ,lấp lánh bất định. Trích Tinh Tử liên tiếp thôi động chưởng lực ba lần nhưng đều bị A Tử đẩy lui, không khỏi sốt ruột, lại thêm tức tối. Y thúc đẩy thêm hai lần nữa vẫn không đến đâu, một luồng hơi lạnh theo sống lưng chạy dài lên đến cổ: Dư lực ... dư lực ... của con bé này vẫn còn, thì ra nó định đùa rỡn mình, không lẽ sư phụ thiên vị, bí mật truyền công phu thượng thừa của bản môn cho nó? Ta ... ta làm sao chống nổi?. Y nghĩ thế, trong lòng không khỏi hoảng sợ, chưởng lực lập tức yếu đi, con rắn xanh liền quay vụt về đống lửa. Trích Tinh Tử gầm lên một tiếng, chưởng lực mạnh thêm, ngọn lửa biến thành một khối hỏa cầu to bằng cái đấu, bay về phía A Tử. A Tử vội vàng đánh chưởng bên phải ra nhưng không chặn nổi khối cầu lửa, vội vàng đẩy thêm chưởng bên trái, song chưởng hợp lực mới chống đỡ được. Chỉ thấy một cục lửa tròn lung linh trên không chuyển động vô cùng nhanh nhẹn, các đệ tử vội vàng cất tiếng reo hò:
- Đại sư ca công lực thần kỳ, con tiểu a đầu lần này chỉ có chết!
- Tiểu sư muội, ngươi còn hung hăng được nữa thôi? Mau ngoan ngoãn chịu thua, không chừng đại sư ca cũng cho ngươi một con đường sống.
A Tử liên tiếp thúc đẩy chưởng lực, mặc dù sức của Tiêu Phong đưa vào mạnh mẽ thật, nhưng dẫu sao cũng chỉ từ bên ngoài, nàng không thể nào vận dụng được như ý muốn. Trích Tinh Tử cùng nàng cầm cự một hồi liền phát giác được chỗ yếu của cô gái, đột nhiên lông mày dựng lên, ngón tay trỏ bên phải điểm luôn hai chỉ. Từ đống lửa nghe hai tiếng soẹt soẹt phóng ra hai đốm hỏa hoa, thế đi thật nhanh chẳng khác gì sao băng chia ra hai bên tấn công A Tử. A Tử kêu lên Chao ôi! một tiếng, hai tay nàng đang ngưng tụ chặn hỏa cầu, làm sao chia ra để chống đỡ được? Nàng không còn cách gì hơn đành né sang một bên, nhưng hai đốm lửa dưới sức thôi động của Trích Tinh Tử lập tức đuổi theo. Tiêu Phong thấy A Tử không còn cách nào kháng cự được, lập tức tay trái hơi giơ lên, một luồng chưởng lực nhè nhẹ phóng ra, vừa lúc thân hình A Tử hơi chuyển động, tà thắt lưng tung bay, nhởn nhơ phần phật, hai đốm lửa hoa nhanh nhẹn dị thường bắn ngược trở về Trích Tinh Tử. Trích Tinh Tử sợ đến há mồm trợn mắt, còn đang ngỡ ngàng, hai đốm lửa đã bắn tới người y, vội vàng nhảy vọt lên, một đóa hỏa hoa bay xẹt dưới chân. Hai tên sư đệ liền lên tiếng reo hò:
- Hảo công phu, đại sư huynh quả là giỏi thật.
Tiếng hoan hô chưa dứt, đốm lửa thứ hai đã bắn vào bụng dưới, Trích Tinh Tử còn đang ở trên không, làm sao có thể lên cao hơn được nữa? Chỉ nghe soẹt một tiếng nhỏ, hỏa hoa đã trúng bụng, Trích Tinh Tử rống lên một tiếng, rơi bịch xuống đất, quả cầu liền quay ngay trở lại đống lửa. Các đệ tử nhìn A Tử, ai nấy lộ vẻ kinh hãi, nghĩ thầm: Xem ra tiểu sư muội công lực không phải tệ, đại sư huynh chưa chắc đã thắng, mình chẳng nên reo hò quá đáng. Trích Tinh Tử thần sắc ảm đạm, giơ tay gỡ búi tóc, mái tóc dài liền xõa xuống che mặt, tiếp theo cắn đứt đầu lưỡi, phun một ngụm máu vào đống lửa. Ngọn lửa đang le lói lập tức bùng lên, ánh sáng chói lòa khiến mọi người không mở mắt nổi. Đám đệ tử không nhịn nổi lại reo hò:
- Công lực đại sư ca quả là ghê gớm khiến chúng ta một phen đại khai nhãn giới.
Trích Tinh Tử chẳng khác gì một con vụ thân hình quay tít đến hơn chục vòng, tay áo phất động, bốc đống lửa dướt đất bay lên, chẳng khác gì một bức tường lửa đổ xuống người A Tử. Tiêu Phong biết Trích Tinh Tử đang ngưng tụ công lực bình sinh vào một đòn, sử dụng một tà thuật rất lợi hại. Gã này tuy gian ác thật nhưng với ông không thù không oán, việc gì phải quyết tử với y, lập tức biến chưởng thành trảo, chộp luôn sau lưng A Tử, định kéo nàng chạy đi. Đột nhiên A Tử kêu lên:
- A Châu tỉ tỉ, A Châu tỉ tỉ, đứa em gái đang bị người ta ức hiếp, sao chị không rửa hờn cho em?
Tiêu Phong ngạc nhiên: Sao nàng lại kêu réo A Châu, ta ... ta ... làm sao bỏ đi được?. Tiêu Phong còn hơi chần chừ, khối lửa xanh kia đã đến thật nhanh, dường như muốn chồm lên, liền song chưởng tung ra một luồng kình phong luồn vào tay áo A Tử. Dưới ánh sáng xanh, hai cánh tay áo màu tím phần phật căng phồng, kình lực của Tiêu Phong ra theo, đẩy vào bức tường lửa. Ngọn lửa xanh chựng lại trên không, rồi từ từ tiến trở về phía Trích Tinh Tử. Trích Tinh Tử kinh hãi quá, nghiến răng cắn đầu lưỡi lần nữa, một ngụm máu khác phun vào, lửa lại bừng lên, quay ngược trở lại nhưng chỉ được độ hai thước thì bị nội lực của Tiêu Phong đẩy lui. Bọn đệ tử thấy cánh tay áo A Tử chẳng khác gì một cánh buồm no gió, đều tưởng nội lực vị tiểu sư muội này mạnh quá đỗi, có ai ngờ sau lưng nàng có người ám trợ. Lúc này mặt Trích Tinh Tử tái mét không còn hột máu, cứ từng ngụm từng ngụm máu phun ra. Mỗi lần như thế nội công lại giảm đi một phần nhưng ở vào thế cưỡi hổ rồi chỉ đành còn nước còn tát, cốt sao đốt chết được A Tử sau đó sẽ bỏ đi ngay từ từ tìm cách khôi phục lại nguyên khí, nếu không bọn sư đệ nhìn ra chỗ yếu, thừa cơ dậu đổ bìm leo tiến đến khiêu chiến. Y liên tiếp phun máu ra nhưng đối với nội lực hùng hồn của Tiêu Phong, ngọn lửa đâu có cách gì tiến thêm được lấy nửa thước? Tiêu Phong theo nội kình đối phương mà nhận xét thấy chân khí của y càng lúc càng yếu, dầu cạn đèn khô, liền ngưng khí nói với A Tử:
- Ngươi bảo y chịu thua đi, đừng đấu tiếp nữa.
A Tử kêu lên:
- Đại sư ca, ngươi đấu không lại ta đâu, mau mau quì xuống van xin, ta sẽ tha không giết. Ngươi chịu thua chưa?
Trích Tinh Tử hoảng hốt dị thường, biết mạng mình chỉ còn trong giây lát, nghe A Tử nói thế, vội vàng gật đầu. A Tử hỏi lại:
- Sao ngươi không chịu mở miệng? Ngươi không nói nghĩa là không chịu thua, phải không?
Trích Tinh Tử lại liên tiếp gật đầu, nhưng không sao nói được. Y đang ngưng tụ toàn lực chống đỡ chưởng lực của Tiêu Phong, chỉ vừa há miệng, chân khí thoát ra ngọn lửa biếc sẽ quay ngược về nướng sống y ngay. Các đồng môn thấy thế lập tức nhao nhao lên chửi rủa:
- Trích Tinh Tử, ngươi thua rồi sao chưa quì xuống rập đầu đi?
- Cái thứ bị thịt như ngươi mà ra ngoài thì phái Tinh Tú còn mặt mũi nào nữa?
- Tiểu sư muội khoan hồng đại lượng tha mạng cho ngươi, sao còn bướng bỉnh? Mau mau mở miệng van xin đi thôi.
- Trích Tinh Tử, mười năm trước ta đã biết ngươi là đứa tệ hại nhất trong phái Tinh Tú. Tiểu sư muội hôm nay thanh lý môn hộ, lập được công lớn, quả là đại công thần làm rạng danh bản phái.
- Ngươi âm mưu ám toán sư tôn, toan gia nhập phái Thiếu Lâm, may có tiểu sư muội nhìn thấy gian mưu của ngươi. Ngươi thật đúng là đồ thú vật, vô sỉ không đâu kể xiết.
- Tiểu sư muội thần công cái thế, ngoài sư tôn ra thì sư muội là người tài giỏi nhất, ta đã biết từ lâu rồi.
- Trích Tinh Tử, chính ngươi là đứa ăm trộm Thần Mộc Vương Đỉnh, lại dám mở mồm vu vạ cho tiểu sư muội, bộ không muốn sống nữa hay sao?
Tiêu Phong thấy bọn chúng lựa gió đổi chiều, thấy Trích Tinh Tử vừa vào thế hạ phong, lập tức hùa theo nước đục thả câu, mới vừa đây ca tụng đại sư huynh như kẻ anh hùng cái thế, bây giờ thì chửi như trâu như ngựa, thực tư cách không bằng tuồng chó lợn, nghĩ thầm: Tinh Tú Lão Ma thu được bọn đệ tử nhân phẩm kém cỏi thế này, A Tử lăn lộn với chúng từ nhỏ, thảo nào hành vi cũng chẳng ra gì. Ông thấy Trích Tinh Tử thảm hại quá rồi, không nỡ làm quá, nội kình thu về, hai cánh tay áo A Tử lập tức xẹp xuống. Trích Tinh Tử thần sắc thiểu não, thân hình lảo đảo lắc lư, đột nhiên hai gối nhũn đi ngồi phịch xuống đất. A Tử hỏi:
- Đại sư ca sao thế? Phục ta chưa?
Trích Tinh Tử nói nhỏ:
- Ta chịu thua. Ngươi ... ngươi đừng ... đừng gọi ta là đại sư ca nữa, ngươi là đại sư tỉ của tất cả.
Các đệ tử cùng cất tiếng hoan hô:
- Hay thật! Hay thật! Đại sư tỉ võ công cái thế, phái Tinh Tú có truyền nhân như vậy thể nào cũng dương danh.
- Đại sư tỉ mau mau đi giết sạch bọn Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung để phái Tinh Tú chúng ta độc tôn thiên hạ.
Một gã khác liền cãi:
- Ngươi chỉ nói năng tầm bậy! Bắc Kiều Phong là anh rể của sư tỉ, sao lại giết đi?
- Sao lại không giết được? Trừ phi y mở mồm chịu thua, đầu nhập môn phái Tinh Tú.
A Tử liền mắng:
- Các ngươi ồn ào gì thế? Không ai được mở mồm.
Cả bọn liền im bặt không xôn xao nữa. A Tử cười hì hì nhìn Trích Tinh Tử:
- Qui củ của bản môn, sau khi thay đổi truyền nhân rồi thì người truyền nhân cũ xử tội như thế nào?
Mồ hôi trán Trích Tinh Tử nhỏ xuống tong tỏng, run rẩy đáp:
- Đại ... đại ... đại sư tỉ, xin ... xin sư tỉ ...
A Tử cười khanh khách:
- Ta cũng muốn tha cho ngươi lắm, có điều qui củ bản môn không thể bị hủy hoại nơi tay ta được. Ngươi xuất chiêu đi thôi! Có tài cán gì hãy hết sức đem ra thi triển.
Trích Tinh Tử biết số mạng mình đã quyết định rồi, không thể van xin thêm được nữa, ngưng khí vào song chưởng nhắm ngọn lửa đẩy tới. Thế nhưng nội lực của y đã hết rồi, song chưởng đánh ra ngọn lửa chỉ hơi lay động một chút rồi không thôi. A Tử cười nói:
- Vui thật! Thích quá đi thôi! Đại sư ca, pháp thuật của ngươi sao không còn linh nghiệm nữa?
Nàng tiến lên hai bước, đẩy song chưởng một luồng lửa biếc phun ra, bắn thẳng vào người Trích Tinh Tử. A Tử nội lực bình thường, làn lửa xanh đi cũng chậm, lại tung tóe khắp nơi nhưng Trích Tinh Tử lúc ấy không còn hơi sức nào chống trả, đến đứng lên bỏ chạy cũng không xong. Ngọn lửa vừa chạm vào người y, lập tức đầu tóc, áo quần bốc cháy, kêu la thảm thiết luôn mồm, toàn thân biến thành một cây đuốc sống. Bọn đệ tử lại cất tiếng ca tụng, cùng tán dương đại sư tỉ võ công xuất thần nhập hóa, mừng cho phái Tinh Tú trừ được một tên bại hoại lâu nay, theo đúng ý nguyện của sư tôn, lập nên công lớn. Tiêu Phong tuy đã từng chứng kiến nhiều cảnh hung tàn thảm khốc trên giang hồ, nhưng chưa từng thấy một cô gái xinh đẹp tú lệ, trong trắng ngây thơ như A Tử lại hành sự tàn nhẫn độc ác đến thế. Ông cảm thấy chán chường, khẽ thở dài, cất bước bỏ đi. A Tử kêu lên:
- Tỉ phu, tỉ phu, đừng đi vội, đợi em chút nào.
Bọn đệ tử phái Tinh Tú đột nhiên thấy một người ở sau tảng đá bước ra, bọn nhị đệ tử, tam đệ tử nhận ra là Tiêu Phong, không khỏi ngạc nhiên thất sắc. A Tử lại gọi:
- Tỉ phu, đợi em với.
Nàng cất bước chạy đến bên Tiêu Phong. Lúc đó tiếng kêu rú của Trích Tinh Tử, thêm tiếng vang từ sơn cốc vọng lại càng lúc càng thêm ghê rợn. Tiêu Phong nhíu mày:
- Ngươi theo ta làm chi? Ngươi là truyền nhân của phái Tinh Tú, là đại sư tỉ của cả bầy, chưa thấy hả lòng hả dạ hay sao?
A Tử cười nói:
- Không!
Nàng hạ giọng thì thầm:
- Cái chức đại sư tỉ của tiểu muội là đồ giả, có gì thích thú đâu? Tỉ phu, cho em theo anh ra ngoài Nhạn Môn Quan nhé!
Tiêu Phong nghe thấy tiếng kêu la của Trích Tinh Tử, không muốn lưu lại đây thêm nữa, rảo bước đi về hướng bắc. A Tử đi song song với ông, quay đầu lại nói:
- Nhị sư đệ, ta có việc phải đi lên mạn bắc, các ngươi quanh quẩn đâu đây đợi ta về, không được người nào tự ý bỏ đi, nghe rõ chưa?
Cả bọn cùng tiến lên hai bước, cung kính khom lưng nói:
- Cẩn tuân pháp chỉ của đại sư tỉ, chúng sư đệ không dám trái lời.
Tiếp đó bọn chúng lại nhao nhao tán tụng:
- Cung chúc đại sư tỉ lên đường bình an.
- Cung chúc đại sư tỉ mọi sự như ý.
- Cung chúc đại sư tỉ kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công.
- Đại sư tỉ mang trong người thần công như thế, có việc gì trong thiên hạ mà chẳng xong? Những câu chúc tụng chỉ bằng thừa.
A Tử giơ tay vẫy vẫy mấy cái, khuôn mặt đầy vẻ đắc ý. Dưới ánh tuyết chiếu lên, Tiêu Phong thấy cô gái xinh đẹp, vẻ mặt ngây thơ dễ thương kia mỉm cười, thật chẳng khác gì đứa bé mới được món đồ chơi hay một cục kẹo, nếu ông không chính mắt nhìn thấy, thì ai
dám tin rằng nàng vừa ra tay giết đại sư huynh, mới được chức truyền nhân của một tà phái đứng đầu thiên hạ. Tiêu Phong khẽ thở dài, bỗng thấy trên đời chuyện gì cũng chán chường hết sức. A Tử hỏi:
- Tỉ phu, sao anh lại thở dài? Hay là tại em cứng đầu bướng bỉnh?
Tiêu Phong đáp:
- Ngươi đâu có bướng bỉnh, chỉ hung ác tàn nhẫn thôi. Bọn ta là đàn ông đã ra đời, nếu có hung ác thì cũng đành. Còn ngươi chỉ là một cô bé con, sao hạ thủ lại không dung tình như thế?
A Tử ngạc nhiên hỏi lại:
- Anh biết rồi mà còn vờ vịt, hay là không biết thật?
Nói xong nàng nghiêng ngó đầu, chăm chăm nhìn Tiêu Phong, khuôn mặt đầy vẻ dò hỏi. Tiêu Phong hỏi:
- Sao ta lại biết rồi mà còn vờ vịt?
A Tử đáp:
- Cũng lạ nhỉ, không lẽ tỉ phu không biết hay sao? Cái chức đại sư tỉ của tiểu muội là giả, là do anh tranh đoạt dùm em nhưng bọn chúng chưa nhìn ra đấy thôi. Nếu như tiểu muội không giết y, thể nào cũng có lúc y tìm ra chân tướng, lúc ấy chắc gì có tỉ phu ở bên cạnh, tính mạng em sẽ đi đời nhà ma. Em muốn sống không thể không giết y cho xong.
Tiêu Phong nói:
- Được rồi! Thế ngươi theo ta ra ngoài Nhạn Môn Quan làm gì thế?
A Tử đáp:
- Tỉ phu ơi, để em nói thực cho anh nghe, có được chăng? Tỉ phu có chịu nghe không nào?
Tiêu Phong nghĩ thầm: Giỏi nhỉ! Hóa ra xưa nay ngươi chỉ toàn nói láo với ta thôi, bây giờ mới nói thực. Ông bèn đáp:
- Dĩ nhiên là được, ta chỉ sợ ngươi không nói thực thôi.
A Tử cười khúc khích mấy tiếng, nắm cánh tay ông đáp:
- Tỉ phu cũng còn sợ em nữa hay sao?
Tiêu Phong thở dài:
- Ta có nhiều chuyện sợ ngươi lắm, sợ ngươi gây ra tai họa, sợ ngươi vô cớ giết người, sợ ngươi giở trò tinh ma, nghịch ngợm ...
A Tử nói:
- Thế anh có sợ người ta ăn hiếp tiểu muội, bị người ta giết hay không nào?
Tiêu Phong đáp:
- Ta nhận lời gửi gấm của chị cô, dĩ nhiên phải chiếu cố cho cô rồi.
A Tử hỏi lại:
- Vậy như nếu tỉ tỉ không gửi gấm thì sao? Nếu như thiếp không phải là em gái của chị A Châu thì sao?
Tiêu Phong hừ một tiếng đáp:
- Nếu thế thì ta việc gì phải lo cho ngươi làm gì?
A Tử hỏi:
- Chị em có gì tốt vậy? Sao anh lại chẳng coi em ra gì?
Tiêu Phong đáp:
- Chị ngươi so với ngươi tốt gấp nghìn lần vạn lần! A Tử, người như ngươi vĩnh viễn chẳng bao giờ bì kịp được nàng đâu.
Ông nói tới đây mắt lại rưng rưng, thanh âm có chiều nghẹn ngào. A Tử bĩu môi, hờn dỗi nói:
- Nếu chị A Châu hay như thế, sao tỉ phu không gọi chị ấy đi chung với anh, tiểu muội không đi nữa đâu.
Nói xong quay mình bỏ đi. Tiêu Phong chẳng ngó ngàng gì đến cô nàng, cũng cất bước, trong lòng không khỏi chua xót: Giá như có được A Châu cùng đi với ta trên tuyết địa này, nếu như nàng hờn giận ta, quay mình bỏ đi như thế thì ta se lập tức đuổi theo ngay, ngon ngọt dỗ dành nàng một hồi. Không đâu, ta chẳng bao giờ để nàng phải bực mình, chuyện gì cũng chiều theo nàng cả. Ôi, A Châu đối với ta nhu thuận dịu dàng, có bao giờ lại giận ta được?. Đột nhiên nghe tiếng chân người đuổi theo, A Tử đã chạy lại nói:
- Tỉ phu ơi, anh quả là người lòng lang dạ sói, nói không là không, không có một chút nhân từ nào.
Tiêu Phong bật cười hỏi lại:
- Người như ngươi mà nói gì chuyện bụng dạ nhân từ? Này A Tử, ngươi nghe ai nói đến hai chữ nhân từ thế?
A Tử đáp:
- Em nghe mẹ em nói, bà ấy bảo đối với người khác không nên quá tàn nhẫn bá đạo, phải có lòng nhân từ.
Tiêu Phong nói:
- Mẹ ngươi nói thế là phải lắm, chỉ tiếc rằng từ bé ngươi đã không ở với mẹ nên chỉ học được ở sư phụ những chuyện tàn ác xấu xa.
A Tử cười hỏi:
- Hay lắm! Thế từ nay em ở bên cạnh tỉ phu sẽ học ở anh những điều hay, điều tốt.
Tiêu Phong giật nảy người, liên tiếp xua tay, lật đật đáp:
- ấy chết, không được đâu! Ngươi đi theo một gã thô lỗ mãng phu như ta để làm gì? Này A Tử, ngươi đi đi! Ngươi ở gần bên ta chỉ khiến ta thêm phiền não, có muốn ngồi không một chút để suy nghĩ chuyện gì cũng không xong.
A Tử hỏi:
- Nếu như tỉ phu muốn suy nghĩ chuyện gì, chi bằng nói cho em hay, em sẽ giúp anh suy nghĩ. Anh tốt bụng quá dễ bị người ta cho vào tròng.
Tiêu Phong vừa bực mình, vừa tức cười nói:
- Ngươi chỉ là một đứa bé con, biết gì mà nói? Không lẽ chuyện ta suy tính không ra mà ngươi lại nghĩ được hay sao?
A Tử đáp:
- Cái đó đương nhiên rồi, có biết bao nhiêu chuyện, dẫu cách nào tỉ phu cũng chẳng nghĩ ra.
Cô ta bốc một nắm tuyết dưới đất, nặn thành một cục, vung tay ném ra xa hỏi:
- Tỉ phu ra ngoài Nhạn Môn Quan để làm gì thế?
Tiêu Phong lắc đầu:
- Chẳng làm gì cả. Săn bắn thả cừu, sống cho qua ngày, có vậy thôi.
A Tử nói:
- Thế ai nấu cơm cho anh ăn? Ai may áo cho anh mặc?
Tiêu Phong ngỡ ngàng, trước nay ông chưa hề tính đến chuyện đó, tiện mồm đáp:
- Nấu ăn may áo chẳng phải dễ đâu? Người Khất Đan ăn thịt bò thịt cừu, mặc áo da bò da cừu, đâu đâu cũng là nhà, tiện đâu hay đó, chẳng có gì phải lo lắng cả .
A Tử nói:
- Thế lúc anh cô đơn một thân một mình, ai nói chuyện với anh?
Tiêu Phong đáp:
- Ta trở về với người cùng bộ tộc, sẽ có bằng hữu ở nơi đó.
A Tử hỏi:
- Nếu có nói qua nói lại cũng chỉ toàn chuyện đi săn, cưỡi ngựa, giết bò, xẻ cừu nói mãi cũng nhàm, còn có gì là thú vị đâu?
Tiêu Phong thở dài, biết nàng nói đúng không biết phải trả lời ra sao. A Tử nói:
- Anh không quay về Liêu quốc không được hay sao? Thôi đừng về nữa, ở lại đây uống rượu đánh lộn, chết cũng được, sống càng tốt, chẳng phải oanh liệt, thống khoái hơn nhiều ư?
Tiêu Phong nghe nàng nói ở lại đây uống rượu đánh lộn, chết cũng được, sống càng tốt, chẳng phải oanh liệt, thống khoái hơn nhiều ư? bỗng thấy máu nóng dâng trào, hào khí sôi sục, ngẩng đầu, hú lên một tiếng dài nói:
- Ngươi nói phải lắm!
A Tử giật giật cánh tay ông ta nói:
- Tỉ phu ơi, thôi anh đừng đi nữa, tiểu muội cũng không về Tinh Tú Hải, đi theo anh uống rượu đánh lộn.
Tiêu Phong cười:
- Ngươi là đại sư tỉ của phái Tinh Tú, ngươi đi rồi họ không có truyền nhân, không có đại sư tỉ thì đâu có được?
A Tử nói:
- Cái chức đại sư tỉ đó của em chẳng qua nhập nhoạng đánh lừa mà có, đến khi lộ ra thì tính mạng ắt khó mà còn, tuy thích thật nhưng cũng chẳng đáng gì. Đi theo tỉ phu uống rượu đánh nhau còn vui gấp bội.
Tiêu Phong mỉm cười đáp:
- Nói đến uống rượu, ngươi có biết uống đâu, chỉ e uống chưa đến một bát đã say mèm. Còn đánh lộn thì tài nghệ cũng không ra gì, giúp ta không xong, ta lại phải giúp ngươi thì có.
A Tử mặt mày bần thần không vui, lông mày cau lại, đi qua đi lại mấy bước, đột nhiên ngồi phịch xuống khóc òa lên. Tiêu Phong thấy thế sợ hết hồn, vội hỏi:
- Ngươi ... ngươi ... ngươi sao thế?
A Tử không trả lời, lại càng khóc to thêm nghe thực thảm thiết. Tiêu Phong thấy chuyện gì cô bé cũng lấn lướt thiên hạ, ngay cả khi bị phái Tinh Tú bắt giữ, thái độ vẫn ngang tàng bất khuất, có ngờ đâu lại khóc lóc bi ai đến vậy, không khỏi cuống quít, hỏi gặng:
- Này, này! A Tử, cô sao thế?
A Tử vẫn sụt sùi, nghẹn ngào nói:
- Anh đi đi, khỏi lo cho em làm gì, để em ở đây khóc đến chết luôn, có thế anh mới vừa lòng.
Tiêu Phong mỉm cười:
- Đang khỏe khoắn thế này, có khóc cũng không chết được.
A Tử vẫn khóc:
- Nếu em muốn khóc cho chết thì sẽ khóc cho anh coi.
Tiêu Phong cười nói:
- Thế ngươi ngồi đây khóc cho chán đi nhé, ta không ở đây với ngươi được đâu.
Nói xong ông bỏ đi, chỉ được mấy bước thấy cô ta đã nín bặt, không còn nghe gì nữa. Tiêu Phong lạ lùng, quay đầu lại nhìn, thấy cô bé đã nằm phục dưới tuyết, không cử động gì cả. Ông trong bụng cười thầm: Trẻ con hay nhõng nhẽo, mình mà đến hỏi thăm là mình thua kế nó. Nghĩ thế ông vẫn tiếp tục đi thẳng. Ông đi được mấy dặm rồi, quay đầu lại nhìn, nơi vùng này địa thế bằng phẳng, không có cây cối núi đồi gì ngăn trở, thấy dường như A Tử vẫn còn nằm yên nơi đó. Tiêu Phong trong bụng băn khoăn: Con bé này tính tình cực kỳ quái dị, xem chừng nó sẽ nằm luôn nơi đây không bao giờ trở dậy nữa. Ông lại nghĩ: Ta đã làm chết chị nó rồi, nếu không theo lời dặn dò của A Châu, chẳng quay lại lo cho nó, bảo hộ nó e rằng sẽ khiến cô nàng tức đến cũng chết theo. Tiêu Phong vừa nghĩ đến A Châu, ngực không khỏi sôi lên, lập tức rảo bước quay lại. Ông chạy đến bên cạnh A Tử, thấy cô ta vẫn nằm y nguyên chỗ cũ, hình dáng vẫn hệt lúc đầu không xê xích một chút nào. Tiêu Phong đến gần hơn nữa, đột nhiên kinh hoàng thấy tuyết trên người nàng đã đóng đến mấy tấc, ở chung quanh cũng không tan, không lẽ chết thật rồi sao? Ông vội đưa tay sờ vào mặt cô gái, thấy da thịt lạnh như băng, thăm mũi quả nhiên không còn hô hấp. Tiêu Phong đã thấy nàng trá tử đánh lừa cha mẹ, biết phái Tinh Tú có môn qui tức công phu, có thể ngừng thở, nhưng cũng không khỏi hoảng hốt, lập tức giơ tay điểm luôn vào mạng sườn mấy cái, nội lực theo huyệt đạo của nàng truyền vào. A Tử ậm ự một tiếng, chậm rãi mở mắt, bất thần há miệng, một mũi kim xanh biếc phun thẳng vào giữa hai lông mày Tiêu Phong. Tiêu Phong với nàng cách nhau chỉ chừng một thước, không thể nào ngờ cô ta đột nhiên ám toán, mũi độc châm đó bắn thật nhanh, võ công ông tuy cao thật nhưng chỉ trong nháy mắt, lại cận kề nếu muốn tránh né cũng không thể nào kịp được. Ông không kịp suy nghĩ, tay phải vung lên, đánh ra một luồng kình lực cực kỳ hồn hậu. Chưởng đó kết tụ một đời công lực, chiếc kim nhỏ kia chỉ cách một thước bắn tới muốn dùng kình phong vô hình vô ảnh đánh tạt ra thì chưởng lực phải kinh người biết chừng nào. Chưởng đánh ra thân hình Tiêu Phong đồng thời nghiêng qua bên phải, mũi ngửi thấy thoang thoảng một mùi tanh hôi, chiếc kim độc đã sượt qua bên má, chỉ cách chừng một tấc, quả thật hung hiểm. Cũng khi đó, thân hình A Tử bị chưởng lực đánh trúng, không kêu được tiếng nào, chỉ lặng lẽ bay tung ra, rơi xuống bịch cách đến hơn mười trượng. Thân hình nàng rơi xuống tuyết rồi còn trượt đi một quãng dài mới ngừng lại.
Xa xôi vạn dặm đường trường,
Tay không bắt cọp như tuồng mèo con.
Anh hùng giữa cảnh núi non,
Can vân hào khí vẫn còn như xưa.
*
* *
Tiêu Phong trong lúc ngàn cân treo trên sợi tóc thoát được hiểm nghèo
như thế, kêu thầm: Hú vía, ý niệm đầu tiên nghĩ đến là: Con tiểu yêu
nữ này tâm địa độc ác thật, dám dùng cách đó ám toán ta. Ông biết ám
khí phái Tinh Tú thật là lợi hại, độc địa đến cực điểm, nếu như bị bắn
trúng thì thật khó mà sống được, không khỏi tim đập thình thình.
Đến khi ông nhìn lại A Tử bị một chưởng đánh văng xa hơn chục
trượng, đột nhiên thất kinh: Chết rồi, chưởng đó cô ta làm sao chịu nổi?
E rằng bị mình đánh chết rồi. Ông nhún một cái phóng mình nhảy tới,
thấy nàng hai mắt nhắm nghiền, máu từ hai bên khóe miệng ứa ra, mặt
vàng khè như đồ hàng mã, lần này quả là ngừng thở thật rồi.
Tiêu Phong ngẩn ngơ nghĩ bụng: Ta đã đánh chết A Châu, bây giờ lại
giết luôn cả cô em gái của nàng. Nàng ... nàng khi sắp chết đã dặn ta lo
lắng cho muội muội, ngờ đâu ... ngờ đâu ... ta lại đánh chết luôn cả nó.
Tuy ý nghĩ đó chỉ vụt qua đầu nhưng bởi ông tâm thần hoảng hốt nên
tưởng như trải qua một thời gian thật dài. Ông lắc đầu, vội vàng giơ
chưởng đè vào sau lưng A Tử, đem chân khí nội lực hết sức truyền vào.
Một lúc sau, thân hình A Tử hơi rung động, Tiêu Phong mừng quá gọi:
- A Tử, A Tử, em đừng chết, bằng giá nào ta cũng nhất định sẽ cứu
em.
Thế nhưng A Tử chỉ cựa một cái rồi lại nằm yên. Tiêu Phong hết sức
bồn chồn, lập tức ngồi xếp bằng ngay trên mặt tuyết, nhè nhẹ đỡ A Tử
lên, để ngồi trước mặt đưa song chưởng để vào sau lưng, đem chân lực từ
từ truyền vào người cô gái. Ông biết rằng A Tử bị thương rất nặng, lúc
này chỉ cốt sao giữ cho nàng còn thoi thóp, tạm thời không chết rồi tìm
cách cứu chữa sau thành thử truyền chân khí vào người nàng cũng hết sức
chậm rãi. Độ chừng thời gian một bữa ăn, trên đầu ông tỏa ra những làn
hơi trắng đủ biết đã dùng toàn lực rồi.
Cứ như thế liên tục hành công chừng nửa giờ A Tử mới hơi động đậy,
rên khẽ lên một tiếng:
- Tỉ phu!
Tiêu Phong mừng quá, tiếp tục truyền vào nhưng không nói chuyện
với nàng, thấy thân thể cô ta dần dần ấm lại, mũi đã có hơi thở nhè nhẹ.
Tiêu Phong e ngại có chuyện không hay nên không dám ngừng chuyển
nội lực, đến mãi giữa trưa, hơi thở của A Tử mới đều đặn mặc dù mặt vẫn
xanh mét không một chút máu. Ông liền bồng ngang nàng trên tay, rảo
bước chạy đi.
Ông gia tăng cước bộ, cố sao vừa nhanh vừa ổn, tay trái vẫn để lên sau
lưng A Tử, không ngừng chuyển chân khí vào. Chạy đến hơn một giờ mới
đến một tiểu thị trấn, nơi đó không có khách điếm, đành phải tiếp tục đi
về hướng bắc, chạy đến hơn hai chục dặm, mới tìm ra được một nhà trọ
thật sơ sài. Khách điếm đó không có tiểu nhị, do chính chủ nhân tự hầu
hạ khách hàng. Tiêu Phong bảo người chủ đem lại cho ông một bát cháo
nóng, dùng thìa múc đút vào mồm A Tử. Thế nhưng nàng chỉ uống được
ba thìa, rồi lại ói ra cả, trong nước cháo có lẫn máu bầm.
Tiêu Phong cực kỳ lo lắng, nghĩ bụng A Tử bị thương kỳ này xem ra
khó mà trị được, Diêm Vương Địch Tiết Thần Y nào có biết đang ở nơi
nao, mà dẫu có ở gần bên, cũng chưa chắc đã làm được gì. Hôm trước A
Châu bị thương không trực tiếp do chưởng lực của phương trượng chùa
Thiếu Lâm mà đã nguy hiểm vạn phần, lại được bôi linh cao của Đàm
Công Thái Hàng sơn, rồi được Tiết Thần Y cứu chữa, có thế mới khỏi.
Tuy ông biết tính mạng A Tử khó mà bảo tồn nhưng không vì thế mà chịu
bó tay, chỉ nghĩ: Dù ta phải hết lòng hết sức, chân khí nội lực hao kiệt
hoàn toàn cũng cố còn nước còn tát. Không phải ta muốn cứu cô ta mà
chính là vì không muốn phụ lời trăn trối của A Châu.
Ông vẫn biết A Tử ra tay ám toán mình trước, trong hoàn cảnh đó, nếu
không đánh chưởng đó ra, tính mạng ắt không còn. Người võ công cao
cường như ông, mỗi khi gặp nguy đâu còn kịp suy nghĩ gì lập tức ra tay
chống đỡ giải nạn. Ông bị bắt buộc phải đả thương A Tử, ví như A Châu
có mặt nơi đây thì cũng không trách cứ gì được vì chính A Tử tự gây ra
họa cho mình chứ không liên quan đến ai, có điều vì A Châu không biết
nên ông cảm thấy có lỗi với nàng.
Đêm hôm đó ông không chợp mắt được chút nào, thâu đêm không
ngừng truyền chân khí để duy trì tính mạng cho A Tử. Hôm trước A Châu
bị thương, chỉ khi nào hơi thở thoi thóp Tiêu Phong mới ra tay, còn hiện
giờ bàn tay ông không lúc nào rời khỏi lưng A Tử, nếu không sẽ lập tức
chết ngay.
Tối hôm sau cũng y như thế. Tiêu Phong công lực tuy mạnh thật nhưng
hai ngày hai đêm hao tốn hơi sức cũng mệt mỏi vô cùng. Hai vò rượu mà
tiểu khách điếm trữ được đã bị ông uống sạch không còn một giọt, muốn
bảo chủ quán đi mua thêm nhưng túi đã cạn.
Ông một ngày không ăn cơm cũng chẳng hề gì nhưng một buổi không
có rượu thì thật khó chịu, lúc này trong bụng đang buồn bực lại càng cần
có rượu cho tỉnh táo, nghĩ thầm: Trên người A Tử ắt có mang theo tiền
bạc.
Ông cởi cái bị của nàng ra, quả nhiên có ba đĩnh vàng nhỏ, vài đĩnh
bạc lẻ. Ông lấy ra một đĩnh bạc, buộc cái túi lại, thấy cái túi có một sợi
dây vải màu tím, một đầu buộc vào ngang hông. Tiêu Phong nghĩ thầm:
Gớm cô bé này cẩn thận quá, sợ cái túi bị rơi mất, không biết cái gì mà
buộc dính chặt vào người thế này mới yên bụng. Ông cởi cái nút buộc
vào lưng, cái nút đó tết thật kỹ, dùng một tay phải mất bao nhiêu công
lao mới gỡ ra được. Cái dây vừa tuột ra dường như đầu kia còn có vật gì
dấu trong quần.
Ông buông tay ra nghe cách một tiếng, vật đó rơi xuống sàn, chính là
một chiếc đỉnh nhỏ bằng gỗ màu vàng sậm. Tiêu Phong thở dài, cúi
xuống nhặt lên đặt trên bàn. Chiếc đỉnh đó điêu khắc cực kỳ tinh mỹ
bằng một loại gỗ bóng loáng như ngọc, trong thớ có thấp thoáng vân đỏ.
Tiêu Phong biết ngay đây là vật mà phái Tinh Tú dùng để luyện Hóa
Công Đại Pháp, cảm thấy chán ghét nên chỉ liếc qua rồi không màng tới
nữa, nghĩ thầm: Tiểu cô nương này quả là giảo hoạt, mồm năm miệng
mười bảo là Thần Mộc Vương Đỉnh đã giao cho ta rồi, có ai ngờ vẫn dấu
trong ống quần. Có lẽ đồng môn của nàng tưởng đã giao lại cho ta thật,
hoặc giả không tiện tra xét đàn bà con gái nên trước sau không ai khám
phá ra được. Ôi, hôm nay tính mạng nàng cũng chẳng giữ được, cái thứ
thân ngoại chi vật này có làm gì?.
Ông bèn gọi chủ quán vào bảo y cầm lượng bạc đi mua rượu thịt, còn
mình tiếp tục dùng nội lực bảo trì tính mạng cho A Tử. Đến sáng ngày thứ
tư, ông không còn chịu đựng được nữa, chỉ còn nước hai tay nắm một bàn
tay A Tử, ôm nàng vào lòng cho dựa lên người mình, đem nội lực truyền
theo chưởng tâm, chỉ được một lát hai mắt không còn mở nổi, lơ mơ ngủ
luôn.
Thế nhưng ông khắc khoải tính mạng A Tử nên chỉ chợp mắt một tí rồi
lại choàng tỉnh, cũng may trong khi nằm ngủ, chân khí lưu động miễn sao
lòng bàn tay không xa rời A Tử nên hơi thở của cô ta không bị đứt quãng.
Cứ như thế thêm hai ngày nữa, tuy A Tử miễn cưỡng không tắt hơi
nhưng thương thế chẳng bớt chút nào, dẫu nằm chết bẹp trong tiểu điếm
này cũng chẳng đi đến đâu? Thỉnh thoảng A Tử cũng mở được mắt nhưng
thần thái lờ đờ, hiển nhiên không biết gì cả, cũng không nói năng được
câu nào. Tiêu Phong hết sức suy nghĩ nhưng không tìm ra kế sách, nghĩ
thầm: Thôi đành ôm nàng lên đường, may ra còn có cơ hội chứ ở trong
khách điếm này rồi cũng vô phương.
Ông bèn tay trái ôm A Tử, tay phải cầm cái túi của nàng bỏ vào bọc,
thấy cái đỉnh trên bàn nghĩ thầm: Cái thứ đồ này chỉ dùng để hại người,
chi bằng đập vỡ nó đi cho xong. Ông định giơ chưởng đánh xuống bỗng
chợt nghĩ lại: A Tử trăm đắng nghìn cay mới ăn trộm được cái vật này.
Bây giờ xem ra thương thế nàng không thể nào chữa được, lúc sắp chết
hồi quang phản chiếu, có thể tỉnh táo lại trong phút chốc, không chừng lại
hỏi đến cái mộc đỉnh, lúc đó ta đem ra cho nàng xem để nàng an tâm mà
chết còn hơn ôm hận xuống tuyền đài.
Ông bèn cầm cái đỉnh gỗ lên, vừa chạm phải cảm thấy dường như bên
trong có cái gì cựa quậy, hết sức lạ lùng, chăm chú nhìn, mới hay chung
quanh có năm cái lỗ to bằng đồng tiền, còn nơi cổ đỉnh có đường ngấn,
xem ra có thể tháo ra. Ông lấy ngón út và ngón vô danh kẹp chiếc đỉnh,
dùng ngón tay cái và ngón tay trỏ xoay phía trên qua bên trái, quả nhiên
chuyển động được. Xoay được mấy vòng, mở nắp nhìn vào trong không
khỏi ngạc nhiên, lại thấy kinh khiếp. Thì ra bên trong có hai con độc
trùng, một con rết và một con bò cạp, đang cắn nhau hết sức dữ dội.
Mấy hôm trước khi ông bỏ chiếc đỉnh trên bàn, trong đỉnh rõ ràng có
gì đâu, xem ra con rết và con bò cạp này mới ở đâu bò vào. Tiêu Phong
đoán chừng đây là phương pháp tìm bắt độc trùng độc vật của phái Tinh
Tú nên nghiêng chiếc đỉnh đổ hai con vật xuống đất, lấy chân dẵm chết,
sau đó đóng nắp lại, bỏ lại vào trong túi vải. Tiêu Phong tính toán tiền
nong xong xuôi rồi, ôm A Tử lên xông gió đạp tuyết đi về hướng bắc.
Ông kết oán thù cực kỳ sâu xa với hào kiệt Trung Nguyên, đường đi
càng lúc càng gần kinh đô Biện Lương nhà Đại Tống, thể nào cũng đụng
đầu nhân vật võ lâm. Ông không muốn giết người kết thêm thù oán, lại
không muốn cải trang, thêm trên tay ôm A Tử nếu phải động thủ với
người thực là bất tiện thành thử tránh đường lớn, chỉ tìm những đường
mòn hẻo lánh ở chốn sơn dã mà đi nên suốt mấy trăm dặm vẫn bình an
vô sự.
Hôm đó đến một thị trấn lớn, thấy một tiệm thuốc bên ngoài có treo
bảng: Nho y gia truyền Vương Thông Trị chẩn bệnh miễn phí, nghĩ
bụng: Địa phương nhỏ chắc không có danh y đâu nhưng mình cũng cứ
vào thử xem thế nào. Ông liền ôm A Tử đi vào xin chữa trị.
Nho y Vương Thông Trị cầm tay A Tử đưa mắt nhìn Tiêu Phong, lại
bắt mạch A Tử lần nữa, lại nhìn Tiêu Phong, vẻ mặt cực kỳ khác lạ, đột
nhiên đưa tay bắt mạch Tiêu Phong. Tiêu Phong bực tức nói:
- Này thầy lang, ta nhờ ông chữa bệnh cho em gái ta chứ nào có nhờ
thầy chữa cho ta đâu.
Vương Thông Trị lắc đầu nói:
- Ta xem ông cũng có bệnh, đầu óc khật khùng, tâm thần rối loạn
đảo điên, cần phải chữa trị ngay đi.
Tiêu Phong đáp:
- Ta làm gì mà đầu óc khật khùng?
Vương Thông Trị đáp:
- Vị cô nương này mạch đã ngừng, vốn dĩ chết rồi, có điều thân thể
chưa cứng đấy thôi. Ngươi ôm cô ta đi tìm thầy thuốc làm gì? Thế chẳng
phải tâm thần rối loạn hay sao? Này lão huynh, người chết không thể
sống lại, ngươi cũng chẳng nên quá thương tâm mà ôm xác lệnh muội, chi
bằng mau mau đem chôn, thế cũng là xong.
Tiêu Phong dở khóc dở cười nhưng ngẫm lại lời ông lang này cũng có
lý, đúng là A Tử chết rồi, chỉ còn nhờ chân khí của mình mà thoi thóp,
thầy lang tầm thường làm sao biết được? Ông đứng lên quay người đi ra.
Bỗng thấy một người ăn mặc theo lối quản gia hấp tấp chạy vào tiệm
thuốc giục giã:
- Mau lên! Mau lên! Cho loại lão sơn nhân sâm1 tốt nhất. Lão thái
gia nhà ta bị trúng phong, sắp tắt hơi đến nơi, cần nhân sâm để giữ cho
khỏi chết.
Dược điếm chưởng quĩ vội đáp:
- Có đây! Có đây! Thượng hảo hạng lão sơn nhân sâm đây.
Tiêu Phong nghe nói lão sơn nhân sâm để giữ cho khỏi chết lập tức
nhớ ra cũng từng nghe người bệnh nặng sắp tắt thở nếu cho uống mấy
ngụm sâm thang sắc đặc thì có thể cầm hơi, sống thêm được một lúc, trối
trăn vài câu, có điều không nghĩ tới để dùng cho A Tử. Gã chưởng quĩ lấy
ra một cái hộp gỗ gụ, trịnh trọng mở nắp trong đó có ba củ sâm to bằng
ngón tay. Tiêu Phong cũng nghe nói nhân sâm càng to càng tốt, bên
1 Nhân sâm mọc hoang lâu năm
ngoài nhăn nhúm càng quí nếu lại thành hình người, đủ cả đầu mình chân
tay ấy là loại già dặn cực phẩm. Ba củ sâm này chỉ là loại thường, trông
chẳng có gì đặc biệt, gã quản gia lấy một củ lật đật đi ngay.
Tiêu Phong lấy đĩnh vàng ra, mua luôn hai củ còn lại. Trong tiệm
thuốc có sẵn dụng cụ sắc thuốc giùm khách hàng, lập tức bảo nấu sâm
thang đút cho A Tử uống mấy hớp. Lần này may quá nàng không nôn ra.
Lại cho nàng uống thêm mấy ngụm nữa, Tiêu Phong cảm thấy mạch
nhảy mạnh hơn, hơi thở cũng đều hòa được một chút, trong bụng không
khỏi mừng thầm.
Gã nho y Vương Thông Trị đứng bên cạnh, liên tiếp lắc đầu nói:
- Lão huynh, nhân sâm không phải dễ kiếm, phí phạm thế thật uổng.
Nhân sâm cũng chẳng phải linh chi tiên thảo, nếu như cứu người chết
sống lại được thì kẻ có tiền chắc sống đời đời.
Mấy hôm nay Tiêu Phong không hề rời xa A Tử được lấy một bước,
trong lòng buồn bực đã lâu, nghe gã Vương Thông Trị đứng kế bên lèm
bèm rặt giọng bàn ra, tức khí xông lên, vung tay toan đánh cho y một
chưởng. Thế nhưng ông vừa cất tay thì cố nhịn: Đánh bừa bãi kẻ không
biết võ công thì đâu phải anh hùng hảo hán?. Ông bèn rụt tay về, ôm A
Tử lên đi ra khỏi tiệm thuốc bắc, văng vẳng nghe Vương Thông Trị vẫn
còn khinh khỉnh nói theo:
- Hán tử này quả là hồ đồ, ôm cái xác chết chạy ngược chạy xuôi,
xem ra tính mạng y cũng chẳng được bao lâu.
Ông thầy lang có biết đâu mình vừa đến quỉ môn quan lại quay trở lại,
nếu như Tiêu Phong tức giận đánh cho bõ tức thì dẫu có mười Vương
Thông Trị cũng thành bất trị.
Tiêu Phong ra khỏi dược điếm rồi nghĩ thầm: Nghe nói lão sơn nhân
sâm chỉ có ở nơi cực lạnh trong dãy Trường Bạch, chi bằng mình lên đó
cầu may. Vẫn biết cứu sống A Tử quả là thiên nan vạn nan, nhưng giữ
cho nàng sống thêm được ngày nào, A Châu ở trên trời có linh thiêng thì
trong lòng cũng vui vẻ thêm được chừng nấy.
Nghĩ thế ông chuyển qua bên phải tìm đường đi về phía đông bắc.
Trên đường đi mỗi khi gặp tiệm thuốc liền đi vào mua nhân sâm, đến sau
tiền bạc tiêu hết, chẳng ngại ngùng gì vào lấy không, vài tên phổ ky2 làm
gì ngăn nổi? A Tử uống một lượng lớn nhân sâm rồi, thỉnh thoảng cũng
có thể mở mắt ra, kêu khẽ: Tỉ phu! đến tối cũng ngủ được vài giờ
không cần tiếp chân khí mà vẫn tự mình thoi thóp được. Cứ như thế càng
đi càng lạnh, sau cùng Tiêu Phong cũng bế A Tử đến được núi Trường
Bạch. Tuy nói là trong dãy Trường Bạch có nhiều nhân sâm nhưng nếu
không phải là người chuyên môn đã quen thuộc địa thế, trong nghề sành
sỏi lâu năm, thì dẫu có một năm sáu tháng cũng chưa chắc tìm ra một củ.
Tiêu Phong tiếp tục lên hướng bắc, người đi đường càng lúc càng thưa,
đến sau chung quanh chỉ là rừng sâu cỏ dày, núi cao đồi tuyết, luôn mấy
ngày cũng không gặp một ai, trong lòng không khỏi kêu khổ thầm: Chết
rồi! Khắp nơi chỗ nào cũng băng tuyết, làm thế nào mà tìm được sâm?
Chi bằng trở về nơi nào có buôn bán, có tiền thì mua, không tiền thì
cướp. Nghĩ thế ông ôm A Tử tìm đường quay trở về.
Khi đó khí trời lạnh ngắt, mặt đất đầy băng, tuyết đóng cao mấy thước
thật là khó đi, nếu ông không phải là người võ công trác tuyệt thì dù
không chết cóng cũng bị sa lầy vào trong tuyết trắng chẳng thoát ra được.
Đi đến ngày thứ ba, trời u ám, xem ra bão tuyết đang kéo đến, đưa
mắt trái phải trước sau chỗ nào cũng trắng xóa, trên mặt đất không thấy
một dấu chân người, đến vết dã thú cũng không. Tiêu Phong trong bụng
hoang mang, tựa hồ đang ở giữa biển khơi bao la không bờ không bến chỉ
có tiếng gió rít thổi ù ù bên tai.
Tiêu Phong biết mình đã bị lạc, mấy bận nhảy lên trên cây cao nhìn
bốn bề, chung quanh chỉ toàn cây cối rậm rạp tuyết phủ trắng xóa nào có
biết đâu là đông, là tây, là nam, là bắc? Ông sợ A Tử bị lạnh, cởi trường
bao ra bọc nàng lại ôm vào lòng. Ông tuy trước nay không sợ trời sợ đất
gì cả nhưng lúc này ở chốn thiên địa mang mang, tưởng như chỉ còn lại
một thân một mình, không khỏi chột dạ. Nếu quả như chỉ mình ông thôi
thì cũng đành, biển tuyết tuy mênh mông nhưng cũng không đến nỗi
tuyệt vọng, thế nhưng khỗ nỗi trong tay lại ôm một nàng A Tử đang mê
man, sống dở chết dở.
2 khỏa kế, tức người giúp việc trong tiệm
Đã ba hôm nay ông không ăn uống gì, tính chuyện bắt một con gà
rừng hay con thỏ dại chi đó nhưng cũng không thấy nghĩ thầm: Mình cứ
chạy lung tung thế này chẳng đi đến đâu, chi bằng ngủ lại một đêm trong
rừng, đợi tuyết ngừng rơi, nhìn trăng sao sẽ có thể tìm ra phương hướng.
Ông kiếm một nơi khuất gió, kiếm ít củi khô, đốt một đống lửa. Lửa
cháy to rồi, trong lòng cũng cảm thấy ấm áp nhưng bụng đói đến sôi sùng
sục, nhìn dưới gốc cây có những cây nấm dại màu trắng xám xem chừng
không độc liền hái nướng lên ăn đỡ dạ.
Ăn đến hơn hai chục tai nấm rồi tinh thần cũng hơi phấn chấn, bèn đỡ
A Tử nằm dựa vào ngực mình để sưởi. Đang toan nhắm mắt ngủ bỗng
nghe một tiếng à uôm thật lớn, chính là tiếng hổ gầm. Tiêu Phong
mừng quá: Xem ra có thú lớn đến đây, mình có thịt hổ ăn rồi.
Ông lắng tai nghe, thấy có hai con hổ từ tuyết địa chạy tới, kế đó có
tiếng lao xao, dường như có người đang đuổi theo. Ông nghe thấy tiếng
người thật mừng hết cỡ, lắng tai nghe thấy hai con dã thú chạy về hướng
tây, lập tức đặt A Tử xuống bên cạnh đống lửa, thi triển khinh công, đi tắt
chặn đầu chúng lại. Khi đó tuyết đổ đang nhiều, gió bấc thổi mạnh, khiến
cho khắp trời chỗ nào cũng mù mịt.
Chỉ mới chạy được độ mươi trượng đã thấy trên mặt tuyết hai con hổ
vằn vện đang chạy thục mạng, phía sau là một đại hán lưng khoác da thú,
tay cầm đinh ba đang rượt nà theo. Hai con cọp đó thật lớn, chạy được
một quãng thì một con gầm lên quay phắt lại chồm vào người thợ săn.
Hán tử đó liền giơ chĩa lên, nhắm thẳng cổ họng mãnh thú đâm tới. Con
cọp đó hết sức nhanh nhẹn, hất đầu qua tránh được thiết xoa, cùng lúc đó
con hổ kia cũng xông tới vồ.
Người thợ săn lập tức đảo đinh ba lại, nghe bịch một tiếng đã dùng cán
chĩa quật ngang bụng con vật. Con vật bị đau, rống lên một tiếng, cụp
đuôi bỏ chạy. Con hổ còn lại cũng không màng lập tức chạy theo.
Tiêu Phong thấy người thợ săn thân thể cao to, cánh tay thật khỏe
nhưng không biết võ công, chỉ quen với tập tính dã thú nên hổ chưa vồ y
đã để thiết xoa đón trước, chính là cách liệu địch cơ tiên nhưng muốn
đâm chết hai con cọp quả không phải dễ.
Tiêu Phong kêu lên:
- Lão huynh, ta đến giúp ngươi đây.
Ông từ trong phóng ra chặn đường hai con hổ. Người thợ săn thấy Tiêu
Phong xông ra, hết sức kinh hãi, lớn tiếng la lối om sòm, không phải Hán
ngữ. Tiêu Phong chẳng hiểu y nói gì cũng chẳng để ý, giơ tay phải lên,
nhắm ngay đầu một con cọp đánh cho một chưởng, bình một tiếng, con
vật tung lên, lộn tùng phèo, kêu rống lên rồi phóng thẳng vào ông.
Chưởng mới rồi Tiêu Phong sử dụng đến bảy thành lực, dù là kẻ võ
công cao cường, nếu trúng đòn thì thể nào cũng vỡ đầu nhưng mãnh hổ sọ
cứng xương thô, chưởng lực liệt thạch khai bi kia cũng chỉ khiến nó lộn đi
một vòng rồi lại xông vào. Tiêu Phong khen thầm: Giỏi nhỉ, mi quả là
gớm thật! nghiêng người né qua, tay phải từ trên chém xéo xuống, nghe
bụp một tiếng, trúng ngay ngang sườn con vật.
Cú chém đó ông tăng thêm một thành công lực, con mãnh hổ loạng
quạng mấy bước, rồi bỏ chạy. Tiêu Phong tiến lên, tay phải vươn ra chộp
trúng ngay đuôi con cọp, tay trái cũng phụ vào, quát lên một tiếng, thi
triển thần lực kéo ghì con hổ lại. Con cọp đang phóng về phía trước bị
Tiêu Phong giữ ghịt, hai luồng lực đạo chõi nhau khiến con vật bị hất tung
lên.
Người thợ săn cầm đinh ba đang đấu với con hổ kia, thấy Tiêu Phong
quăng con cọp lên kinh ngạc không sao kể xiết. Con cọp ở trên không
nhe răng, giương vuốt, từ cao vồ xuống. Tiêu Phong lại quát lên một
tiếng, song chưởng cùng tung ra, nghe hự một tiếng, trúng ngay bụng dưới
con vật. Bụng hổ là nơi thịt mềm, chiêu Bài Vân Song Chưởng đó chính
là công phu đắc ý của Tiêu Phong, ngũ tạng con cọp liền vỡ nát, lăn lộn
một hồi trên mặt tuyết rồi chết tươi.
Người thợ săn trong lòng hết sức kính phục, người ta tay không đánh
cọp, mình dùng đinh ba giết một con không xong, chẳng khiến người ta
coi thường lắm ru? Nghĩ thế y bèn đâm trái một cái, đâm phải một cái,
hết nhát nọ đến nhát kia nhằm ngay mình hổ mà nhử. Con cọp bị trúng
mấy nhát, hung tính nổi lên, nhe hàm răng nhọn hoắt, tung mình vồ tới.
Gã thợ săn nghiêng qua tránh được, đinh ba đảo ngang, nghe phụp một
tiếng đã đâm ngay vào cổ con thú, hai tay đẩy một cái, con vật rống lên
thảm thiết ngã lăn ra đất. Người đó vận sức lên cánh tay, đè chặt con cọp
xuống mặt tuyết. Chỉ nghe tiếng soạt soạt liên tiếp, quần áo bằng da thú
trên người y đã bục ra một mảng lớn, để lộ cái lưng trần, bắp thịt cuồn
cuộn trông thật hùng vĩ.
Tiêu Phong nhìn thấy khen thầm: Hảo hán tử!. Con hổ nằm chổng
bốn chân lên trời, móng vuốt cào cấu vùng vẫy, chỉ một lát không còn
động đậy gì nữa. Người thợ săn rút chiếc đinh ba ra, cười lên ha hả, quay
người lại, nhìn Tiêu Phong giơ lên một ngón tay cái, nói xí xố mấy câu.
Tiêu Phong tuy không hiểu y nói gì nhưng nhìn thần tình của y cũng biết
đang khen ngợi mình quả là anh hùng, bèn bắt chước bộ dạng của y, cũng
giơ hai ngón tay cái lên nói:
- Anh hùng! Anh hùng!
Người đó mừng lắm, chỉ chỉ vào đầu mũi mình nói:
- Hoàn Nhan A Cốt Đả!
Tiêu Phong nghĩ chắc đây là tên y, cũng chỉ vào đầu mũi mình nói:
- Tiêu Phong!
Người kia hỏi lại:
- Tiêu Phong? Khất Đan?
Tiêu Phong gật đầu nói:
- Khất Đan! Ngươi?
Rồi đưa tay chỉ vào y để hỏi. Người kia đáp:
- Hoàn Nhan A Cốt Đả! Nữ Chân!
Tiêu Phong đã từng nghe ở phía đông nước Liêu, phía bắc nước Cao
Ly có một giống người tên gọi Nữ Chân, tộc nhân dũng mãnh thiện
chiến, thì ra gã Hoàn Nhan A Cốt Đả này là người thuộc giống này3. Tuy
ngôn ngữ không thông nhưng giữa cảnh tuyết trắng mịt mùng gặp được
một đồng bạn cũng vui mừng khôn xiết, lập tức hoa chân múa tay cho y
3 tức Mãn Châu sau này
biết là còn một người nữa, sau đó vác con hổ chết lên đi lại phía A Tử
đang nằm. A Cốt Đả cũng vác con hổ của y lên đi theo ở đằng sau.
Hổ mới chết máu chưa kịp đông, Tiêu Phong lật con thú lại cắt cổ cho
máu chảy vào mồm A Tử. A Tử không mở mắt được nhưng vẫn biết
uống, đến trên chục ngụm mới thôi. Tiêu Phong rất mừng, cắt hai đùi
nướng trên lửa. A Cốt Đả thấy ông tay không xé con vật như người ta xé
con gà, thủ kình như thế y chưa từng thấy, chưa từng nghe, ngơ ngẩn nhìn
hai cánh tay ông một hồi rồi nhẹ nhàng vuốt ve cổ tay, cánh tay ông, nét
mặt đầy vẻ kính phục.
Thịt hổ nướng chín rồi, Tiêu Phong và A Cốt Đả ăn đến no. A Cốt Đả
mới ra hiệu hỏi ông đến đây làm gì, Tiêu Phong cũng chỉ trỏ ý nói đi tìm
nhân sâm để trị bệnh cho A Tử nhưng bị lạc lối. A Cốt Đả cười ha hả, lại
múa may lung tung nói là muốn có nhân sâm thì rất dễ, đi theo y bao
nhiêu cũng có. Tiêu Phong mừng quá, đứng dậy, tay trái bồng A Tử, tay
phải xách một con hổ chết. A Cốt Đả giơ tay lên khen:
- Khỏe thật!
Địa thế vùng này A Cốt Đả rất quen thuộc tuy trời gió bão lớn nhưng
không lầm lẫn chút nào. Hai người đi đến chiều tối thì ngủ lại trong rừng,
đến sáng hôm sau lại đi. Cứ như thế đi về hướng tây hai ngày, đến trưa
ngày thứ ba, Tiêu Phong thấy trên mặt tuyết rất nhiều dấu chân. A Cốt
Đả liên tiếp ra hiệu nói là đã đến gần tộc nhân rồi. Quả nhiên đi qua hai
cái thung lũng, thấy bên triền núi phía đông nam lấm tấm đến mấy trăm
căn lều bằng da thú. A Cốt Đả chúm môi huýt một tiếng, từ trong doanh
trướng lập tức có người ra đón.
Tiêu Phong theo A Cốt Đả tới gần, thấy trước mỗi căn lền đều có một
đống lửa, vô khối đàn bà ngồi đầy chung quanh kẻ thì may da thú, người
thì sấy thịt khô. A Cốt Đả dẫn Tiêu Phong đến căn lều to nhất ngay chính
giữa, vén màn đi vào. Tiêu Phong cũng đi theo y. Bên trong lều có chừng
mươi người đàn ông ngồi thành vòng tròn, đang uống rượu, vừa thấy mặt
A Cốt Đả đã lớn tiếng reo hò ầm ỹ. A Cốt Đả chỉ vào Tiêu Phong, nói
huyên thuyên, nhìn bộ dạng đoán chừng đang kể lại chuyện ông tay
không đánh chết hổ.
Mọi người liền vây quanh Tiêu Phong, ai nấy giơ ngón tay cái lên,
không ngớt tấm tắc khen ngợi. Còn đang xôn xao, một gã người Hán ăn
mặc theo lối con buôn bước vào, quay sang hỏi Tiêu Phong:
- Vị gia đài này có nói được tiếng Hán không?
Tiêu Phong mừng rỡ đáp:
- Được chứ! Đươc chứ!
Hỏi ra mới biết căn lều này là doanh trướng của tộc trưởng Nữ Chân.
Người ngồi giữa có râu đen là trưởng tộc Hòa Lý Bố. Ông ta có cả thảy
mười một người con, người nào cũng anh hùng, A Cốt Đả là con trai thứ.
Người Hán đó tên là Hứa Trác Thành, năm nào đến mùa đông cũng tới
đây thu mua nhân sâm, da thú đến đầu mùa xuân mới quay về. Hứa Trác
Thành biết nói tiếng Nữ Chân nên làm thông dịch cho Tiêu Phong.
Người Nữ Chân với người Khất Đan thường thường vẫn đánh lẫn nhau
nhưng rất kính trọng những bậc anh hùng hảo hán. Hoàn Nhan A Cốt Đả
là người lanh lợi giỏi giang, rất được phụ thân yêu thích, người trong bộ
lạc cũng kính trọng y, nay luôn mồm ca ngợi Tiêu Phong nên không ai
hiềm rằng ông là người Khất Đan mà đều đối xử như khách quí.
A Cốt Đả nhường căn lều của mình cho Tiêu Phong và A Tử ở, Tiêu
Phong chối từ mấy câu nhưng A Cốt Đả nhất định không chịu. Tiêu
Phong thấy y thành thực nên đành chấp nhận.
Tối hôm đó người Nữ Chân mở một đại tiệc để đón chào Tiêu Phong,
thịt hai con mãnh hổ đương nhiên trở thành món ăn trân quí. Đã nửa
tháng nay môi Tiêu Phong không được chạm đến một giọt rượu, bây giờ
người Nữ Chân đem túi da này đến túi da khác, đến đâu hết đó, Tiêu
Phong được một bữa thỏa thuê. Rượu của người Nữ Chân vị cay sè cực
mạnh, người thường chỉ cần nửa bao đã say nhưng Tiêu Phong uống luôn
một chục túi mà sắc mặt vẫn như không. Người Nữ Chân xưa nay vẫn
xem lượng rượu uống nhiều ít mà coi là hảo hán, chuyện ông tay không
đánh cọp chỉ nghe kể chưa thấy tận mắt nhưng cách uống rượu thế này,
mười hảo hán Nữ Chân đến uống thi mà chẳng một ai hơn khiến tất cả
đều kính phục.
Hứa Trác Thành thấy người Nữ Chân nể sợ ông nên cũng hết sức
chiều đãi. Tiêu Phong nhàn rỗi không việc gì làm, ban ngày cùng với A
Cốt Đả đi săn, đến tối về lại học tiếng Nữ Chân với Hứa Trác Thành.
Học được bốn năm thành rồi, nghĩ bụng mình là người Khất Đan, không
lẽ không biết nói tiếng Khất Đan xem ra thật không phải nên lại nhờ y
dạy. Hứa Trác Thành đi lại nhiều nơi, chẳng nói tiếng Nữ Chân mà tiếng
Tây Hạ, tiếng Khất Đan cũng đều lưu loát. Tiêu Phong học ngôn ngữ vốn
không thông minh nhưng tiếng Nữ Chân và tiếng Khất Đan so với tiếng
Hán thì giản dị hơn nhiều, ngày rộng tháng dài rồi cũng đủ cho người ta
hiểu không cần phải thông dịch nữa.
Thấm thoát đã mấy tháng qua, đông đi xuân tới, A Tử ngày ngày dùng
nhân sâm thay cơm, thương thế cũng đỡ. Người Nữ Chân đào nhân sâm
nơi hoang sơn dã lãnh, đều là loại sâm già hạng nhất, còn quí hơn cả
hoàng kim. Mỗi lần Tiêu Phong đi săn đều giết được rất nhiều dã thú,
đem đổi lấy nhân sâm cho A Tử dùng, nếu vào người khác dẫu là hào
phú có một tiểu thư ăn uống sâm nhiều như thế e rằng cũng đến khánh
tận.
Tiêu Phong vẫn ngày ngày dùng nội lực giúp nàng vận khí, bây giờ
một ngày chỉ cần hai lần chứ không phải như trước đây chưởng bất ly
thân. A Tử cũng có lúc nói chuyện được vài câu nhưng chân tay tê bại
không cử động, thành thử đi đứng nằm ngồi, chuyện ăn chuyện uống đều
do Tiêu Phong lo liệu cả. Ông nghĩ đến mối thâm tình của A Châu nên
không hiềm lo toan mệt nhọc, ngược lại còn thấy chăm sóc A Tử thêm
một lần là báo đáp được A Châu thêm một chút nên trong lòng thấy thật
an ủi.
Ngày hôm đó A Cốt Đả dẫn mươi người cùng bộ tộc định đi lên miền
tây bắc săn gấu rủ Tiêu Phong đi cùng nói là gấu da dày lông rậm, rất
nhiều mỡ, bàn chân gấu ăn thật ngon còn mật gấu trị thương rất là linh
nghiệm. Tiêu Phong thấy A Tử tinh thần đã khá nhiều, cũng yên tâm đi
săn nên vui vẻ nhận lời. Đoàn người trời chưa sáng đã ra đi, thẳng đường
về hướng bắc.
Lúc đó đã vào đầu mùa hạ, băng tuyết đang tan đấy bùn trơn trượt,
trong rừng đầu những cành nát lá mục cực kỳ khó đi nhưng những người
Nữ Chân nhẹ nhàng nhanh nhẹn đi đứng vẫn thật mau. Đến khoảng trưa,
một người thợ săn già kêu lên:
- Gấu kìa! Gấu kìa!
Mọi người đưa mắt theo hướng tay y chỉ thấy ở xa xa trên đất lầy có
những vết chân lớn, cách không xa lại có một dấu nữa chính là dấu chân
gấu. Mọi người ai nấy cao hứng lập tức theo vết chân lần theo.
Vết chân gấu dẵm xuống bùn cái nào cái nấy sâu đến mấy tấc nên trẻ
con cũng theo được, cả đoàn người hò hét la ó, rảo bước tiến lên. Những
vết chân đó đi về hướng tây, về sau ra khỏi bùn lầy trong rừng ra ngoài
thảo nguyên mọi người đi càng nhanh hơn nữa.
Còn đang rảo bước đuổi theo bỗng nghe tiếng chân ngựa dồn dập, xa
xa đằng trước bụi bay mù mịt một đại đội nhân mã đang phóng tới. Lại
cũng thấy một con gấu đen thật lớn chạy lên, đằng sau là bảy tám người
cưỡi ngựa to cao vừa hét vừa đuổi, ai nấy tay cầm trường mâu, có kẻ tay
cầm cung tên ra chiều hăm hở.
A Cốt Đả kêu lớn:
- Người Khất Đan đó, bọn chúng đông người, chạy mau, chạy mau!
Tiêu Phong nghe thấy là người đồng bộ tộc với mình, trong lòng cảm
thấy thân cận, tuy bọn A Cốt Đả quay đầu bỏ chạy, nhưng không chạy
theo mà đứng lại xem ra thế nào. Thế nhưng bọn người Khất Đan đã hét
lên:
- Bọn mọi Nữ Chân, bắn tên! Bắn tên!
Chỉ nghe tiếng rít lên liên tiếp, vũ tiễn bắn tới như mưa. Tiêu Phong
trong bụng bực tức nghĩ thầm: Chẳng có lý do gì vừa thấy đã bắn là sao?
Cớ chi không hỏi cho rõ ràng?. Mấy mũi tên bắn đến mặt ông đều bị
ông đưa tay gạt ra cả. Bỗng nghe một tiếng A thảm thiết, người thợ săn
Nữ Chân già lưng đã trúng tên, gục xuống chết ngay.
A Cốt Đả cùng cả bọn chạy qua khỏi một ngọn đồi, nằm mọp xuống,
cũng lắp tên vào cung bắn gục hai gã Khất Đan. Tiêu Phong ở giữa,
không biết phải giúp bên nào cho phải. Vũ tiễn của bọn Khất Đan vẫn
tiếp tục bắn vào Tiêu Phong như mưa bấc, Tiêu Phong bắt lấy một mũi
tên thuận tay múa lên, bao nhiêu tên bắn tới đều bị gạt ra, lớn tiếng kêu:
- Làm gì đó? Không nói năng gì đã ra tay giết người là sao?
A Cốt Đả ở đằng sau cái gò gọi:
- Tiêu Phong, Tiêu Phong, chạy lại đây ngay! Bọn chúng không biết
ngươi là người Khất Đan đâu!
Ngay lúc đó, hai tên Khất Đan cầm trường mâu, giục ngựa xông vào
Tiêu Phong, hai ngọn giáo cùng giơ lên chia ra đâm vào hai bên tả hữu.
Tiêu Phong không muốn giết người cùng bộ tộc mình, hai tay chộp hai
cán giáo, hẩy nhẹ một cái, hai gã Khất Đan cùng từ trên yên ngựa ngã
phịch xuống đất. Tiêu Phong lại dùng cán mâu hất hai người lên, hai gã
kia kêu rú lên, tung bay trở về rơi xuống một hồi lâu không dậy nổi. A
Cốt Đả cùng bọn người Nữ Chân liền reo hò khen ngợi.
Một người trung niên mặc áo bào đỏ trong bọn Khất Đan liền lớn
tiếng xí xố ra lệnh gì đó. Mấy chục tên Khất Đan liền chia thành hai
cánh, bao vây bọn Nữ Chân lại để chặn đường rút lui của A Cốt Đả,
nhưng người áo đỏ vẫn còn mấy chục người đứng bảo vệ chung quanh.
A Cốt Đả thấy tình hình bất lợi, lớn tiếng kêu la, vẫy gọi tộc nhân và
Tiêu Phong bỏ chạy. Người Khất Đan bắn tên ra như mưa, chết thêm hai
người Nữ Chân nữa. Bên phía Nữ Chân cung mạnh tên cứng bắn không
trật mũi nào, trong khoảnh khắc đã bắn hạ được khoảng chục kỵ sĩ Khất
Đan, có điều quả bất địch chúng nên phải vừa bắn vừa chạy.
Tiêu Phong thấy bọn người Khất Đan ngang ngược chẳng biết phải trái
gì, tuy là người cùng bộ tộc với mình nhưng cũng chịu không nổi, cướp
lấy một cánh cung, vụt vụt vụt vụt, bắn liền bốn mũi tên, mũi tên nào
cũng trúng vai hay đùi một gã Khất Đan, cả bốn người đều ngã xuống
ngựa nhưng không ai chết. Người mặc hồng bào lại quát tháo lập tức có
kẻ phóng ngựa xông ra cực kỳ dũng mãnh.
Tiêu Phong thấy bên mình nay chỉ còn A Cốt Đả và năm thanh niên
đang hết sức bôn đào, vừa chạy vừa bắn trả còn những người khác bị
trúng tên chết cả rồi. Trên thảo nguyên không chỗ nào có thể ẩn nấp,
xem chừng nếu tiếp tục đánh thêm ngay cả A Cốt Đả cũng sẽ bị giết nốt.
Ông nghĩ người Nữ Chân trước nay đối với mình như quí khách, nay bạn
tốt cũng không bảo vệ được thì làm sao còn gọi là anh hùng hảo hán?
Thế nhưng ra tay đại sát một phen để cho bọn người Khất Đan thấy khó
mà lui ắt phải giết rất nhiều người cùng bộ tộc với mình, chi bằng bắt lấy
người thủ lãnh áo đỏ kia, ép y phải hạ lệnh triệt thoái thì mới mong hai
bên bãi đấu được.
Ông định bụng như thế rồi nên dùng tiếng Khất Đan kêu lớn:
- Này, các ngươi mau mau rút lui! Nếu không thoái binh ta sẽ không
nể nang gì nữa đâu nhé!
Soẹt soẹt soẹt ba tiếng, ba mũi giáo đã nhắm ngay mặt ông ném tới.
Tiêu Phong nghĩ thầm: Bọn chúng bay quả không còn biết phải quấy là
gì. Ông rùn mình xuống, xông thẳng về phía người mặc hồng bào. A Cốt
Đả thấy bạn mình mạo hiểm liền kêu lên:
- Tiêu Phong, không được đâu, mau quay lại!
Tiêu Phong không để ý tới, tiếp tục phóng tới thật nhanh. Bọn người
Khất Đan lập tức nhốn nháo, trường mâu vũ tiễn đều nhắm ông mà tấn
công tới. Tiêu Phong chộp lấy một thanh trường mâu, bẻ làm đôi cầm
thanh mâu gãy sử dụng như một thanh trường kiếm, gạt tất cả những binh
khí phóng tới, bước chân vẫn như bay, xông ngay đến trước ngựa người
áo đỏ.
Người đó mặt đầy râu ria, thần tình uy võ, thấy Tiêu Phong xông đến
không tỏ vẻ gì hoảng sợ, giựt lấy ba thanh tiêu thương4 của thủ hạ chung
quanh, vụt một tiếng phóng vào Tiêu Phong. Tiêu Phong khua tay bắt
được ngay mũi lao, mũi thứ hai bay đến cũng bắt luôn. Ông vung tay một
cái hai mũi lao bay ra, đâm luôn hai gã hộ vệ hai bên người áo đỏ ngã
xuống ngựa. Người mặc hồng bào kêu lên:
- Giỏi lắm!
Mũi thương thứ ba liền ném ra, Tiêu Phong giơ tả chưởng lên, đẩy đầu
mũi lao, tá lực đả lực, mũi lao vụt bay ngược lại bắn thẳng vào ức con
ngựa y đang cưỡi. Người áo đỏ hoảng hốt kêu lên: Ối trời! vội vàng
4 mũi lao (javelin)
nhảy khỏi lưng ngựa. Tiêu Phong tung mình xông tới, tay trái vươn ra
chộp ngay được đầu vai bên phải của y. Ông nghe phía sau có tiếng gió
ập tới, vội vàng nhún một cái, nhảy vụt về phía trước hơn một trượng,
nghe phập phập, hai thanh trường mâu đã cắm thẳng xuống đất. Tiêu
Phong ôm người áo đỏ nhảy sang bên tả, rơi xuống sau lưng một kỵ sĩ
Khất Đan, vung tay đánh y một chưởng văng xuống rồi giục ngựa chạy ra.
Người áo đỏ giơ quyền lên đấm vào mặt Tiêu Phong, ông giơ tay trái
lên kẹp một cái, gã đó không còn cử động gì được nữa. Tiêu Phong quát
lên:
- Ngươi bảo bọn chúng rút lui ngay, nếu không ta kẹp chết ngươi
chết tươi bây giờ.
Người mặc hồng bào không còn cách gì khác hơn, đành kêu lên:
- Tất cả lui ngay, không được đánh nữa.
Bọn người Khất Đan xôn xao tiến đến trước mặt Tiêu Phong, toan ra
tay cứu người. Tiêu Phong để mũi chiếc giáo gãy vào má gã áo đỏ, quát
lớn:
- Các ngươi muốn ta đâm chết y chăng?
Một lão già Khất Đan quát lên:
- Mau thả thủ lãnh của bọn ta ra, nếu không ngươi sẽ bị ngũ mã phân
thi ngay lập tức.
Tiêu Phong cười ha hả, vù một tiếng, nhắm ngay lão già kia lăng
không đánh ra một chưởng. Chưởng đó ông cố tình ra oai dọa cho bọn
chúng một mẻ để khỏi phải giết người nhiều hơn nữa nên kình lực sử
dụng đủ mười thành. Chỉ nghe bình một tiếng lớn, lão già Khất Đan kia
trúng chưởng, từ trên lưng ngựa ngã văng ra mấy trượng, hộc máu mồm
xem ra không còn sống được nữa.
Bọn Khất Đan xưa nay chưa từng chứng kiến thần kỹ phách không
chưởng, lực đạo vô ảnh vô tung thật chẳng khác gì yêu pháp, ai nấy
hoảng hốt ghìm cương lùi lại, vẻ mặt kinh hoàng, chỉ sợ Tiêu Phong đánh
trúng mình. Tiêu Phong quát lớn:
- Các ngươi không lui ra, ta sẽ một chưởng đánh y chết trước.
Nói xong giơ tay lên làm như định đánh xuống đầu người áo đỏ. Người
áo đỏ vội kêu:
- Các ngươi lùi ra ngay, ta sẽ ra sau!
Cả bọn lập tức lùi ra mấy bước nhưng không chịu bỏ đi. Tiêu Phong
nghĩ thầm: Khu vực này chỗ nào cũng là đồng cỏ mênh mông, nếu mình
thả thủ lãnh của chúng về, bọn họ cưỡi ngựa đuổi theo thì mình không thể
nào chạy thoát được. Ông quay sang nói với người áo đỏ:
- Ngươi bảo chúng đem lại đây tám con ngựa.
Y theo đúng thế ra lệnh, các kỵ sĩ Khất Đan liền dắt đến tám con tuấn
mã giao cho A Cốt Đả. A Cốt Đả căm hận bọn này giết đồng bọn mình,
đấm một tên dắt ngựa nghe bình một tiếng khiến y lăn chòng chọc. Bọn
Khất Đan tuy đông người nhưng không dám đánh trả. Tiêu Phong lại tiếp:
- Ngươi hạ lệnh bảo bọn chúng giết con ngựa đang cưỡi, không để
sót con nào.
Người mặc hồng bào cực kỳ dứt khoát, không tranh biện lớn tiếng
truyền lệnh:
- Mọi người xuống ngựa, giết ngay con ngựa của mình đi.
Xa xôi vạn dặm đường trường,
Tay không bắt cọp như tuồng mèo con.
Anh hùng giữa cảnh núi non,
Can vân hào khí vẫn còn như xưa.
*
* *
Tất cả các kỵ sĩ không ai chần chừ gì, lập tức nhảy xuống, kẻ dùng bội
đao, kẻ dùng trường mâu giết ngay con ngựa của mình. Tiêu Phong không
ngờ quân sĩ tuân lệnh lẹ làng đến thế, trong lòng ngầm bội phục nghĩ
thầm: Gã mặc áo đỏ này xem ra chức vị không phải là thấp, mở miệng
nói ra một câu, các võ sĩ không ai dám trái lệnh. Quân lệnh của người
Khất Đan nghiêm minh thật, thảo nào giao chiến với người Tống bao giờ
cũng thắng nhiều thua ít. Ông bèn nói:
- Ngươi bảo tất cả quay trở về, không ai được đuổi theo. Nếu một
người đuổi theo, ta chặt ngươi một cánh tay, hai người đuổi theo ta chặt
hai cánh tay, bốn người đuổi theo thì tứ chi đều chặt hết.
Gã áo đỏ tức đến râu ria dựng ngược lên, nhưng bị kẹp chặt không thể
làm gì khác chỉ đành truyền lệnh:
- Các ngươi quay trở về, điều động nhân mã kéo đến sào huyệt
người Nữ Chân.
Các võ sĩ hô to:
- Tuân lệnh!
Tất cả cùng khom lưng hành lễ. Tiêu Phong quay đầu ngựa, đợi cho
bọn A Cốt Đả sáu người lên yên rồi cả bọn theo đường cũ trở về. Đi được
mấy dặm, Tiêu Phong thấy người Khất Đan quả nhiên không đuổi theo,
bèn nhảy lên yên một con ngựa, để cho người áo đỏ cưỡi một mình một
con. Tám con ngựa không dừng bước chạy thẳng về đại doanh, A Cốt Đả
bẩm lại cho phụ thân Hòa Lý Bố việc gặp địch như thế nào, được Tiêu
Phong cứu, bắt được thủ lãnh bọn Khất Đan ra sao. Hòa Lý Bố rất vui
mừng nói:
- Hay lắm, đem tên chó Khất Đan lên đây ta xem.
Người áo đỏ bước vào trong trướng nhưng thần thái vẫn uy võ, đứng
hiên ngang không chịu khuất phục. Hòa Lý Bố biết y là quí nhân của
Khất Đan bèn hỏi:
- Ngươi tên gì? Tại nước Liêu làm chức quan chi?
Gã kia ương ngạnh đáp:
- Có phải ngươi bắt được ta đâu, làm gì có quyền hỏi ta?
Người Khất Đan và người Nữ Chân đều có tập quán, mỗi khi bắt được
ai thì kẻ đó là nô lệ của mình. Hòa Lý Bố cười ha hả nói:
- Ngươi nói đúng lắm!
Người áo đỏ đi đến trước mặt Tiêu Phong, khuỵu chân phải, một bên
gối quì xuống, tay phải để lên trán nói:
- Chủ nhân quả thực là anh hùng, ta đánh không lại ông, bên ta đông
mà vẫn thua. Ta bị ông bắt được, không có điều gì oán hận, nếu ông chịu
thả ta về, ta sẽ đền lại năm mươi lượng vàng, năm trăm lượng bạc, ba
chục con tuấn mã.
Chú của A Cốt Đả là Phả Lạp Tô nói:
- Ngươi là đại quí nhân của Khất Đan, tiền chuộc bấy nhiêu ít quá.
Tiêu huynh đệ, ngươi bảo y đem đến năm trăm lượng vàng, năm nghìn
lượng bạc, ba trăm con tuấn mã.
Phả Lạp Tô là người lanh lợi khôn ngoan, đem giá cả tăng lên gấp
mười, cốt để hai bên trả giá. Với lối sống giản dị của người Nữ Chân, cái
giá năm mươi lượng vàng, năm trăm lượng bạc, ba chục con tuấn mã đã
là một tài sản hãn hữu. Người Nữ Chân giao chiến với người Khất Đan
mấy chục năm qua, chưa bao giờ có món tiền chuộc nào lớn đến thế, nếu
người áo đỏ không chịu tăng thêm cứ theo đúng những gì y hứa trả đã là
một món hoạnh tài khổng lồ.
Ngờ đâu người áo đỏ không cần suy nghĩ đáp ngay:
- Được rồi, cứ thế mà tính.
Những người Nữ Chân trong trướng nghe vậy không khỏi giật mình,
tưởng như không tin ở tai mình nữa. Người Nữ Chân hay Khất Đan nói láo
để đánh lừa nhau không phải là không có, thế nhưng trong giao dịch mua
bán, hoặc đã hứa với ai điều gì thì một là một, hai là hai không bao giờ
nuốt lời. Huống chi đang nói đây là tiền chuộc, một khi người Khất Đan
không giao đủ, hoặc như nói rồi lại không muốn làm thì người áo đỏ
không thể nào trở về bản tộc được thành thử có hứa cuội cũng vô ích.
Phả Lạp Tô sợ rằng y bị bắt rồi kinh hoảng mất trí, đầu óc rối loạn
bèn nói:
- Này, ngươi đã nghe rõ chưa? Ta nói là hoàng kim năm trăm lượng,
bạch ngân năm nghìn lượng, tuấn mã ba trăm con!
Người áo đỏ vẻ đầy kiêu ngạo, lạnh lùng nói:
- Hoàng kim năm trăm lượng, bạch ngân năm nghìn lượng, tuấn mã
ba trăm con thì đã là bao? Nước Đại Liêu chúng ta giàu có bậc nhất thiên
hạ, con số đó coi chẳng vào đâu.
Y quay sang nói với Tiêu Phong, đổi sắc mặt cung kính nói:
- Chủ nhân, ta chỉ nghe lệnh một mình ông thôi, người khác nói ta
không thèm nghe đâu.
Phả Lạp Tô nói:
- Tiêu huynh đệ thử hỏi y xem y ở nước Liêu làm quan chức gì?
Tiêu Phong chưa kịp mở lời người kia đã nói:
- Chủ nhân nếu muốn hỏi thân thế lai lịch, ta sẽ đặt điều nói láo
đánh lừa ông, ông cũng không biết thật hay giả. Thế nhưng ông là anh
hùng hảo hán, ta cũng anh hùng hảo hán, ta không muốn lừa ông thành
thử xin đừng hỏi làm gì.
Tiêu Phong tay trái lật một cái, rút phắt thanh đao đeo nơi hông, tay
phải vỗ vào sống đao, nghe cạch một tiếng lưỡi đao đó liền cong lại, hầm
hè quát:
- Ngươi lớn mật không nói chăng? Nếu bàn tay ta chém xuống đầu
ngươi thì sẽ ra sao?
Người áo đỏ không tỏ vẻ gì sợ hãi, đưa ngón cái tay phải lên nói:
- Tài giỏi thật! Ghê gớm thật! Hôm nay ta được gặp đương thế đệ
nhất anh hùng, quả không uổng! Tiêu anh hùng, nếu ông dùng lực uy
hiếp muốn ta phải chịu khuất phục thì không xong đâu. Ông muốn giết cứ
việc giết, người Khất Đan tuy đánh không lại nhưng cũng cứng cỏi không
kém gì ông đâu.
Tiêu Phong cười ha hả nói:
- Giỏi, giỏi lắm! Ta không giết ngươi ở đây đâu. Nếu ta một đao giết
ngươi, ngươi chắc không tâm phục. Chi bằng mình ra chỗ xa xa, ác đấu
một trận nữa.
Hòa Lý Bố và Phả Lạp Tô cùng lên tiếng khuyên giải:
- Tiêu huynh đệ, người này giết đi thật uổng, chi bằng để y sống lấy
tiền chuộc tốt hơn. Nếu như ngươi tức giận, chi bằng dùng gậy gỗ roi da
đánh cho y một chập thật đau là được.
Tiêu Phong đáp:
- Không được! Y muốn cho mình là anh hùng hảo hán thì ta để cho y
toại nguyện.
Ông quay sang mượn người Nữ Chân hai cây trường mâu, hai bộ cung
tên, nắm tay người áo đỏ cùng ra khỏi trướng, nhảy lên ngựa ra lệnh:
- Lên ngựa mau!
Người mặc hồng bào không một chút sợ hãi, biết chắc đấu với Tiêu
Phong thì chỉ có chết mà thôi, y đòi đấu thêm một trận nữa chẳng qua chỉ
là mèo vờn chuột, muốn đùa rỡn một hồi rồi mới giết mình nhưng không
sờn lòng lập tức lên ngựa chạy về hướng bắc.
Tiêu Phong theo sau, hai người chạy được mấy dặm, Tiêu Phong nói:
- Quay qua hướng tây!
Người áo đỏ đáp:
- Nơi đây phong cảnh tuyệt đẹp, ta muốn chết tại nơi đây.
Tiêu Phong nói:
- Tiếp lấy!
Ông cầm trường mâu và cung tên ném qua, người kia đều bắt được cả,
lớn tiếng nói:
- Tiêu anh hùng, ta biết chắc không phải là đối thủ nhưng người Khất
Đan thà chết không chịu khuất phục! Ta ra tay đây!
Tiêu Phong đáp:
- Hãy khoan! Tiếp lấy đã!
Ông lại cầm cây giáo và cung tên còn lại trên tay mình thẩy qua, chỉ
còn hai tay không, môi nở một nụ cười khó hiểu. Người áo đỏ cực kỳ giận
dữ, gầm lên:
- Hừ, ngươi định tay không đấu với ta, chẳng phải làm nhục ta quá
lắm hay sao?
Tiêu Phong lắc đầu:
- Không phải thế! Tiêu mỗ bình sinh kính trọng bậc anh hùng, yêu
thích người hảo hán. Võ công ngươi tuy không bằng ta thật nhưng là kẻ
đại đại anh hùng, hảo hán, Tiêu mỗ muốn kết bạn với ngươi! Thôi ngươi
trở về bộ tộc của mình đi.
Người áo đỏ hết sức kinh ngạc, hỏi lại:
- Cái ... cái gì?
Tiêu Phong mỉm cười đáp:
- Ta nói Tiêu mỗ coi ngươi là một hảo bằng hữu, để cho ngươi bình
an quay trở về.
Người mặc hồng bào tưởng chết đến nơi lại bình yên vô sự, vui sướng
không sao kể xiết hỏi lại:
- Có thực ngươi thả ta về chăng? Ngươi ... chẳng hay ngươi ... muốn
gì? Ta về rồi sẽ đem tiền chuộc gấp mười, gửi sang cho ngươi.
Tiêu Phong hiên ngang đáp:
- Ta coi ngươi là bạn, sao ngươi lại không coi ta là bạn? Tiêu mỗ
đường đường hán tử thế này, lẽ đâu lại còn tham ngoại thân tài vật hay
sao?
Người áo đỏ đáp:
- Đúng thế!
Y ném binh khí đi, nhảy xuống ngựa, quì phục xuống đất vái lạy nói:
- Đa tạ ân công tha mạng!
Tiêu Phong quì xuống hoàn lễ đáp:
- Tiêu mỗ không giết bằng hữu, cũng không nhận bạn bè vái lạy.
Còn như là phận nô lệ, thì dẫu có lạy lục Tiêu mỗ, Tiêu mỗ cũng chẳng
tha đâu.
Người áo đỏ lại càng mừng hơn nữa, đứng lên nói:
- Tiêu anh hùng, ông luôn mồm nhận ta là bè bạn, vậy ta cùng ông
kết làm anh em, nên chăng?
Tiêu Phong học nghệ xong liền gia nhập Cái Bang. Trong bang vai vế
phân biệt thật nghiêm minh, từ bang chủ, phó bang chủ trở xuống, còn có
Truyền Công, Chấp Pháp, tứ đại hộ pháp trưởng lão, rồi đến hương chủ
các đà, xuống đến đệ tử tám túi, đệ tử bảy túi cho chí kẻ chưa được mang
túi nào. Thế nhưng ông chỉ lo lập công để được thăng cấp, chưa từng giao
bái anh em với ai, mãi đến sau này ở thành Vô Tích cùng Đoàn Dự đấu
rượu với nhau, có lòng cảm mến bấy giờ mới kết nghĩa kim lan. Bây giờ
nghe người mặc hồng bào nói như thế, nghĩ đến trước đây ở Trung
Nguyên giao thiệp với đủ mọi loại anh hùng, hôm nay lưu lạc, ăn nhờ ở
đậu nơi đất man di, quả thực thất thế biết bao. Bây giờ nghe đề cập đến
chuyện này, ông không khỏi cảm khái, lại thấy người áo đỏ khí độ hào
hùng, quả là một hảo hán liền đáp:
- Hay lắm! Hay lắm! Tại hạ Tiêu Phong, năm nay ba mươi mốt tuổi.
Tôn huynh quí canh bao nhiêu?
Người kia cười đáp:
- Tại hạ là Gia Luật Cơ, so với ân công thì lớn hơn mười ba tuổi.
Tiêu Phong nói:
- Huynh trưởng sao vẫn còn gọi tiểu đệ là ân công? Huynh trưởng là
đại ca, xin nhận một lạy của đệ.
Nói xong bèn phục xuống lạy, Gia Luật Cơ vội vàng hoàn lễ.
Hai người bèn lấy ba mũi tên cắm xuống đất, đốt cháy lông đuôi làm
hương, hướng lên trời lạy tám lạy, kết làm anh em. Gia Luật Cơ trong
lòng cực kỳ vui sướng nói:
- Huynh đệ họ Tiêu cũng chẳng khác gì người Khất Đan chúng ta.
Tiêu Phong đáp:
- Chẳng dấu gì huynh trưởng, tiểu đệ chính là gốc người Khất Đan.
Nói xong cởi áo ra, để lộ chiếc đầu sói xanh xâm trên ngực. Gia Luật
Cơ vừa thấy thật mừng nói:
- Quả nhiên đúng vậy, ngươi thuộc về họ bên hoàng hậu Khất Đan.
Huynh đệ, đất Nữ Chân lạnh lắm, chi bằng theo ta đi về Thượng Kinh,
chung hưởng phú quí.
Tiêu Phong đáp:
- Đa tạ hảo ý của ca ca, có điều tiểu đệ trước nay nghèo hèn, xem ra
không hợp đời sống giàu sang. Tiểu đệ sống với người Nữ Chân, săn bắn
uống rượu thấy tiêu dao khoái hoạt hơn. Ngày sau nếu nhớ ca ca, thể nào
cũng có lúc qua nước Liêu đi kiếm.
Ông xa cách A Tử cũng đã lâu, khắc khoải không hiểu thương thế
nàng thế nào bèn nói:
- Ca ca nên sớm quay về để người nhà và bộ thuộc khỏi trông đợi.
Sau đó hai người hành lễ cáo biệt. Tiêu Phong quay ngược đầu ngựa
đã thấy A Cốt Đả cùng hơn chục người nghênh tiếp. Thì ra A Cốt Đả thấy
Tiêu Phong đi lâu không về, e ngại không biết có trúng phải ngụy kế của
người áo đỏ hay chăng, trong bụng không an nên đến tiếp ứng. Tiêu
Phong kể lại đã thả y trở về nước Liêu, A Cốt Đả là kẻ rất hiểu biết, rất
anh hùng thấy Tiêu Phong khinh tài trọng nghĩa, khoan hồng đại lượng
như thế lại càng thán phục.
Một ngày kia, Tiêu Phong nhàn rỗi nói chuyện chơi với A Cốt Đả, cho
y hay sở dĩ A Tử thụ thương vì lỡ trúng phải chưởng lực của mình, tuy
dùng nhân sâm có thể duy trì tính mạng nhưng đã lâu không thuyên giảm,
hết sức buồn phiền. A Cốt Đả nói:
- Tiêu đại ca, thì ra cô em của đại ca bị ngoại thương, người Nữ Chân
chúng tôi trị ngoại thương sai khớp xưa nay vẫn dùng ba vị thuốc gân hổ,
xương hổ và mật gấu rất là hiệu nghiệm. Sao đại ca không thử xem thế
nào?
Tiêu Phong mừng quá nói:
- Cái gì chứ gân hổ, xương hổ ở đây thiếu gì? Còn như mật gấu ư, ta
sẽ cố gắng giết ít con là xong.
Ông hỏi kỹ cách dùng, lấy gân hổ, xương hổ nấu thành cao đút cho A
Tử. Sáng hôm sau, Tiêu Phong một mình đi vào núi hoang, đầm lớn kiếm
gấu. Ông đi một mình, có thể thi triển khinh công, so với cùng đi cả đoàn
tiện hơn nhiều. Hôm đầu không thấy dấu vết gấu, hôm thứ hai săn được
một con. Ông mổ lấy mật, chạy về nơi đóng doanh, đút cho A Tử uống.
Gân hổ, xương hổ, mật gấu và nhân sâm lâu năm kiếm nơi rừng sâu núi
thẳm đều là những dược phẩm cực kỳ trân quí dùng để trị thương, mật
gấu tươi lại càng khó kiếm bội phần. Tiết Thần Y tuy nói là y đạo như
thần nhưng không có thuốc thỉ cũng đành chịu, nếu phải dùng lão sơn
sâm cho bệnh nhân dùng thay cơm thì ông cũng không thể nào làm nổi,
còn như Tiêu Phong, cứ vài ngày đi đánh chết một con gấu lấy mật tươi
cho A Tử uống thì càng khó hơn.5
Hôm đó, Tiêu Phong đang ngồi trong trướng nấu xương hổ, gân hổ làm
cao, một gã Nữ Chân hấp tấp chạy đến nói:
- Tiêu đại ca, có khoảng chục tên Khất Đan đem lễ vật đến cho đại
ca.
Tiêu Phong gật đầu, biết là do nghĩa huynh Gia Luật Cơ sai người đem
tới. Chỉ nghe tiếng vó ngựa dồn dập, một đoàn ngựa chậm rãi tiến vào,
trên lưng ngựa chất đầy phẩm vật. Tên đội trưởng Khất Đan đi đầu đã
nghe Gia Luật Cơ mô tả diện mạo Tiêu Phong nên vừa trông thấy từ xa
đã vội vàng nhảy xuống ngựa, rảo bước tới trước mặt, lạy phục nói:
- Chủ nhân từ khi từ biệt Tiêu đại gia đến nay, nhớ nhung lắm lắm,
đặc biệt sai tiểu nhân Thất Lý đem chút bạc lễ, lại mời Tiêu đại gia đến
Thượng Kinh hàn huyên.
Nói xong khấu đầu mấy lượt, hai tay trình lễ đơn6, thần thái cực kỳ
cung kính. Tiêu Phong đưa tay cầm danh sách cười nói:
- Quả là có lòng, xin hãy đứng dậy đã.
Ông mở tờ lễ đơn ra thấy toàn là chữ Khất Đan liền nói:
- Ta không biết chữ, chẳng cần xem làm gì.
Thất Lý nói:
- Chút bạc lễ này gồm năm nghìn lượng hoàng kim, năm vạn lượng
bạch ngân, một nghìn súc cẩm đoạn, một nghìn thạch lúa mạch hạng
ngon, một nghìn con bò, năm nghìn con cừu, ba nghìn con tuấn mã, ngoài
ra còn một số quần áo đồ dùng.
Tiêu Phong càng nghe càng kinh ngạc, lễ vật như thế gấp mười tiền
chuộc Phả Lạp Tô đòi hôm trước. Ông thấy hơn chục con ngựa chở đến
5 sự thực nhân sâm, hùng đảm, hổ cốt là những vị thuốc, dược tính rất mạnh, việc điều
chế và dụng pháp phức tạp không phải là thực phẩm mà có thể dùng thay cơm. Ở đây
tác giả viết theo lối kết cấu của tiểu thuyết, xin độc giả đừng tin là thật.
6 lễ đơn là danh sách viết những vật phẩm mang tới
đã quá nhiều, nếu cứ theo đúng danh sách viết đây thì không biết phải
bao nhiêu ngựa xe mới đủ.
Thất Lý khom lưng nói:
- Chủ nhân sợ các sinh vật đi đường xa mất mát, cho nên cừu bò
ngựa đều sai mang thêm một phần trừ hao nhưng may nhờ hồng phúc chủ
nhân và Tiêu đại gia, bọn chúng tôi đi đường không bị gió bão dã thú,
sinh khẩu7 tổn thất rất ít.
Tiêu Phong thở dài:
- Gia Luật ca ca tính toán thật chu đáo, nếu ta không nhận thì phụ
tấm lòng tốt của anh ta, còn nếu nhận tất cả, thì e quá đáng, không biết
sao cho phải.
Thất Lý nói:
- Chủ nhân dặn đi dặn lại, nếu như Tiêu đại gia khách sáo không
nhận, tiểu nhân trở về thể nào cũng bị phạt nặng.
Bỗng nghe tiếng tù và u u thổi, người Nữ Chân các doanh trướng đều
cầm đao thương cung tên nhốn nháo chạy ra. Có tiếng truyền lệnh:
- Quân địch đến tấn công, dự bị nghênh chiến.
Tiêu Phong nhìn về phía tiếng tù và thổi thấy bụi bay mù mịt, tưởng
chừng vô số quân mã đang tràn đến. Thất Lý lớn tiếng kêu:
- Các vị đừng hoảng hốt, đây là bò cừu ngựa của Tiêu đại gia đó.
Y dùng tiếng Nữ Chân liên tiếp gọi mấy lần nhưng những người kia
chẳng ai chịu tin, Hòa Lý Bố, Phả Lạp Tô, A Cốt Đả chia nhau ra chỉ huy
tộc nhân dàn thành trận thế ở phía tây doanh trại.
Tiêu Phong lần đầu tiên thấy người Nữ Chân bố trí trận mạc, nghĩ
thầm: Bộ tộc Nữ Chân không đông nhưng người nào cũng nhanh nhẹn
dữ dằn, các kỵ sĩ Khất Đan dưới quyền Gia Luật ca ca xem chừng không
ghê gớm lắm, chưa bằng được khí thế người Nữ Chân, còn như quan binh
nhà Đại Tống thì còn kém hơn nữa. Thất Lý kêu lên:
7 con vật còn sống
- Để tiểu nhân đi bảo bộ thuộc tạm ngừng không tiến lên nữa để
khỏi hiểu lầm.
Y chuyển thân lên ngựa, phóng về hướng tây. A Cốt Đả giơ tay một
cái, bốn tên thợ săn Nữ Chân liền đuổi theo sau. Năm người rong ngựa
chầm chậm tiến tới thấy trên đồng cỏ bụi mù toàn là bò cừu ngựa, hơn
trăm mục nhân Khất Đan dùng sào dài xua đuổi, ngoài ra không có quân
sĩ.
Bốn người Nữ Chân cười rộ lên quay về, bẩm lại cho Hòa Lý Bố.
Chẳng bao lâu, đội gia súc đến gần hơn, tiếng bò kêu ngựa hí rầm rĩ, át
cả tiếng người không nghe thấy gì cả.
Tối hôm đó Tiêu Phong bảo người Nữ Chân giết cừu xẻ bò để đãi
khách phương xa. Hôm sau, ông lấy một phần vàng bạc gấm vóc, thưởng
cho bọn người đưa lễ vật đến. Đợi khi người Khất Đan cáo từ rồi, ông
đem hết tất cả bò cừu ngựa, vàng bạc giao lại cho A Cốt Đả bảo y chia
cho người trong bộ tộc. Người Nữ Chân tụ tập sống chung với nhau,
không có của riêng, một người được thì toàn thể bộ tộc hưởng chung, thấy
Tiêu Phong khẳng khái như thế không cho là lạ lùng nhưng tự nhiên ở
trên trời rơi xuống nhiều tài vật như thế, ai nấy đều vui vẻ. Toàn bộ tộc
ăn uống vui chơi mấy ngày liền, người người đều cảm kích lòng tốt của
Tiêu Phong.
Qua mùa hạ rồi sang mùa thu, bệnh của A Tử cũng đỡ được vài phần,
thần trí vừa tỉnh táo thấy ngày ngày phải nằm trong trướng dưỡng thương
thật chán ngán, thường bảo Tiêu Phong đưa nàng ra ngoài cưỡi ngựa rong
chơi cho thư thái tâm hồn. Hai người cưỡi chung một con, nàng ngồi đằng
trước dựa vào ngực Tiêu Phong nên không tốn một chút hơi sức nào. Tiêu
Phong chiều chuộng cô gái hết mực, trong mấy tháng liền, trừ những
ngày gió lớn, bão to hai người ngày nào cũng cùng nhau nhàn du. Về sau
những nơi gần đi mãi cũng chán, hai người mang theo cả lều chăn dựng
trại ngủ ở bên ngoài, mấy ngày liền không về. Tiêu Phong cũng nhân dịp
đó đánh hổ, săn gấu, đào nhân sâm. Chỉ vì A Tử bắn lén một mũi độc
châm, gấu đen, mãnh hổ cả một dãy Trường Bạch bị chết khá nhiều,
không biết bao nhiêu con táng mạng dưới chưởng của Tiêu Phong.
Tiêu Phong vì muốn đi đào sâm nên mỗi lần đều theo hướng đông
hoặc hướng bắc. Hôm đó A Tử bảo rằng phía đông phía bắc phong cảnh
coi đã nhiều, nay muốn qua phía tây chơi. Tiêu Phong nói:
- Phía tây chỉ là một thảo nguyên thật rộng, chẳng có núi non sông
ngòi gì mà coi.
A Tử đáp:
- Đại thảo nguyên cũng thích chứ, chẳng khác gì biển cả, tiểu muội
chưa từng được thấy biển cả thực bao giờ. Tinh Tú Hải tuy nói là biển
nhưng vẫn còn bến còn bờ.
Tiêu Phong nghe nàng đề cập đến biển Tinh Tú cũng thấy chột dạ.
Trong một năm qua sống chung với người Nữ Chân, những chuyện võ
lâm đã dần dần quên lãng, A Tử không hành động được, muốn làm
chuyện xấu xa cũng chẳng có cách gì. Còn ông chỉ cố hết sức giúp nàng
trị thương cứu mạng, nhưng lại sợ rằng một khi thuyên giảm, ác tính cả
nàng lại phát tác, lúc đó biết làm sao?
Ông quay đầu nhìn A Tử, thấy khuôn mặt tái mét không một chút
máu, má hóp lại, đôi mắt to đen lõm vào, dung sắc cực kỳ tiều tụy, người
gầy tong teo chỉ còn da bọc xương. Tiêu Phong không khỏi chua xót trong
lòng: Nàng vốn dĩ là một cô bé con khả ái hoạt bát biết là dường nào, bị
ta đánh đến chết đi sống lại, có khác gì một bộ xương khô, sao ta lại chỉ
nghĩ đến những điều xấu của nàng?. Ông bèn mỉm cười:
- Nếu cô thích đi qua hướng tây thì mình đi qua đó xem sao. A Tử,
khi nào bệnh em đỡ nhiều rồi, ta sẽ đưa em đến biên giới nước Cao Ly để
xem biển cả thực sự, nước biếc mênh mông, nhìn không thấy bến bờ,
cảnh đó coi mới thật là hùng vĩ.
A Tử vỗ tay reo lên:
- Hay quá! Hay quá! Thực ra chẳng cần phải đợi cho bệnh của em
khỏi hẳn lúc ấy mình mới đi.
Tiêu Phong kêu lên một tiếng, vừa mừng vừa sợ hỏi:
- A Tử, hai tay của em cử động được như thường rồi.
A Tử cười đáp:
- Nửa tháng trước hai tay tiểu muội đã cử động được, hôm nay lại
càng linh hoạt hơn nhiều.
Tiêu Phong mừng rỡ nói:
- Thế thì hay lắm! Ngươi quả là một con bé cứng đầu, vậy mà sao lại
dấu ta?
Đôi mắt A Tử lóe lên một vẻ tinh quái, mỉm cười đáp:
- Em chỉ mong được vĩnh viễn không cử động, có thế tỉ phu mới ngày
ngày ở bên cạnh em. Chú nếu như thương thế em khỏi rồi, tỉ phu sẽ lại
đuổi em đi.
Tiêu Phong nghe nàng nói thật chân thành, trong bụng không khỏi
thương hại nói:
- Ta là một hán tử lỗ mãng, hôm đó không cẩn thận, lỡ tay đánh cô
ra nông nỗi này. Cô ngày ngày ở bên cạnh ta có gì vui đâu?
A Tử không trả lời, một lát sau mới khẽ hỏi:
- Sao hôm đó tỉ phu xuất chưởng đánh em mạnh như thế?
Tiêu Phong không muốn nhắc lại chuyện cũ, lắc đầu đáp:
- Chuyện đó vốn đã qua rồi, nhắc lại làm gì? A Tử, ta đánh cô đến bị
thương như thế này, trong lòng cảm thấy thật áy náy, em có giận ta
không?
A Tử đáp:
- Lẽ dĩ nhiên tiểu muội không giận, có việc gì em phải giận tỉ phu
đâu? Em vốn chỉ mong được anh ở kề cận bên mình, bây giờ chẳng phải
được như thế hay sao? Trong lòng em hết sức sung sướng là khác.
Tiêu Phong nghe nàng nói như thế, tuy thấy ý nghĩ của tiểu cô nương
này thật là quái lạ, nhưng gần đây thấy nàng trở nên tử tế hơn trước, nghĩ
bụng mình hết sức lo lắng cho cô ta đã làm cái tính độc ác của nàng giảm
đi thật nhiều. Ông quay về dự bị ngựa xe, màn trướng, lương khô mọi thứ.
Sáng sớm hôm sau, hai người đi về hướng tây. Đi được trên chục dặm,
A Tử bỗng hỏi:
- Tỉ phu có đoán ra được chưa?
Tiêu Phong hỏi lại:
- Đoán ra cái gì?
A Tử nói:
- Hôm đó em đột nhiên dùng độc châm đả thương anh, tỉ phu có biết
vì cớ gì không?
Tiêu Phong lắc đầu nói:
- Tâm tư cô thần xuất quỉ một, làm sao ta đoán nổi?
A Tử thở dài một tiếng nói:
- Nếu anh không đoán ra, thì chi bằng đừng nghĩ tới nữa. Tỉ phu xem
thử sao những con vịt trời kia, sao lại làm thành một đoàn bay về hướng
nam là sao?
Tiêu Phong ngửng đầu lên, thấy bên trời hai đoàn đại nhạn, bay thành
hình chữ nhân, quả thực đang bay về hướng nam bèn nói:
- Trời sắp sang đông, chim nhạn sợ lạnh nên bay về phương nam
tránh tuyết.
A Tử hỏi:
- Thế sao đến mùa xuân, chúng lại bay trở về? Mỗi năm bay đi bay
lại chẳng khổ sở khó nhọc lắm ru? Bọn chúng nếu sợ lạnh sao không ở
luôn phương nam, cần gì phải quay lại.
Tiêu Phong trước nay chuyên tâm học võ, chưa bao giờ từng suy nghĩ
về tập tính của cầm thú côn trùng, bị nàng hỏi như thế, không sao trả lời
được, lắc đầu cười nói:
- Ta cũng chẳng hiểu sao chúng lại không ngại gian khổ, chắc có lẽ
là chim nhạn sinh nơi phương bắc, lưu luyến cố hương đấy thôi.
A Tử gật đầu nói:
- Chắc là thế. Anh xem con nhạn sau cùng kia, tuy còn nhỏ vậy mà
cũng ráng bay về phương nam. Mai này cha nó, mẹ nó, chị nó, anh rể nó
cùng bay về phương bắc, dĩ nhiên nó cũng đi theo.
Tiêu Phong nghe nàng nói "chị nó, anh rể nó", trong lòng chợt động
đưa mắt nhìn A Tử, thấy cô bé đang ngẩng đầu mơ màng nhìn về phía
đàn chim nơi chân trời, hiển nhiên câu đó nói ra không có ý gì, nghĩ
thầm: "Nàng buột miệng nói ra, vậy mà đem ta cùng với cha mẹ bỏ
chung một giỏ, đủ biết trong lòng nàng coi mình là một người rất thân, từ
nay không thể nào tùy tiện bỏ rơi nàng. Để đến khi nàng khỏi bệnh rồi, ta
sẽ đưa nàng trở về Đại Lý, giao lại cho cha mẹ, lúc đó gánh nặng trên vai
mới trút đi được.
Trên đường, hai người vừa đi vừa nói chuyện. Đến khi A Tử mệt mỏi,
Tiêu Phong liền bồng nàng từ trên lưng ngựa xuống, bỏ vào thùng xe ở
đằng sau cho nàng ngủ. Khi dêm xuống, hai người tìm rừng cây dựng lều.
Cứ như thế mấy ngày liền, đã đến bên bờ đồng cỏ. A Tử đưa mắt nhìn
quanh thấy đại thảo nguyên không bờ không bến, trong lòng hết sức cao
hứng nói:
- Mình nhìn qua hướng tây chẳng thấy đâu là tận cùng, còn như biển
cả mênh mông thì nhìn bốn bề đông tây nam bắc chỗ nào cũng không bờ
không bến.
Tiêu Phong biết A Tử muốn đi sâu vào giữa đồng cỏ, không muốn trái
ý nàng, giơ roi lên quất một cái giục ngựa đi tiếp về hướng tây.
Hai người đi trong đại thảo nguyên mấy ngày liền, quả đến lúc nhìn
chung quanh bốn phía, không còn thấy biên giới dồng cỏ là đâu. Khi đó
vào mùa thu khí hậu mát mẻ, nghe tiếng rì rào, xào xạc thật là dễ chịu.
Trong đồng cỏ những thú nhỏ rất nhiều, Tiêu Phong săn bắt con nào ăn
con đó, không lo không sầu.
Lại đi thêm mấy ngày nữa, hôm ấy đến trưa, nhìn đằng xa thấy có vô
số doanh trướng, lại thêm cờ xí mao tiết, dường như chỗ đóng quân, lại
trông như nơi bộ lạc sống chung với nhau. Tiêu Phong nói:
- Trước mặt đông người lắm, không biết họ đang làm gì, mình đi về
dể khỏi gây thêm rắc rối.
A Tử nói:
- Không! Không! Em muốn đến xem. Hai chân em còn chưa cử động
được, đâu có thể gây rắc rối gì cho anh?
Tiêu Phong cười nói:
- Chuyện rắc rối đâu có phải chỉ do ngươi mà ra, có khi người khác
gây cho mình, ngươi có muốn tránh cũng không được.
A Tử cười nói:
- Thế thì mình đến xem cũng chẳng sao cả.
Tiêu Phong biết cái tính trẻ con thích chỗ náo nhiệt của nàng nổi lên,
nên giục ngựa đi chầm chậm. Trên thảo nguyên địa thế phẳng lì, những
doanh trướng đó từ đằng xa đã nhìn thấy nhưng đi cho tới nơi, lộ trình
cũng không phải ngắn. Đi đến bảy tám dặm rồi, bỗng nghe tiếng kèn
hiệu thổi u u, tiếp theo bụi bay mù mịt, hai hàng nhân mã mở ra, một đội
đi về hướng bắc, một đội phóng về phía nam.
Tiêu Phong hơi kinh hãi nói:
- Không xong, đây là kỵ binh người Khất Đan.
A Tử nói:
- Là người của anh đấy ư? Thế thì hay quá chứ có gì bảo là không
hay?
Tiêu Phong đáp:
- Nhưng ta không biết họ là ai, thôi mình quay về.
Ông ghìm cương ngựa quay đầu, theo đường cũ để trở về. Chưa được
mấy bước, bỗng nghe tiếng trống đánh tùng tùng, lại có mấy đội kỵ binh
Khất Đan nữa xông ra. Tiêu Phong nghĩ thầm: Bốn bề không thấy có
địch nhân đâu cả, không lẽ họ thao luyện tập trận chăng?.
Chỉ nghe tiếng người vang lên:
- Bắn hươu đi! Bắn hươu đi!
Phía tây, phía bắc, phía nam chỗ nào cũng nghe tiếng người giục bắn
hươu. Tiêu Phong nói:
- Thì ra họ vây để săn thú, thanh thế như vậy quả không phải nhỏ.
Ông bèn bồng A Tử đặt lên yên ngựa, ghìm cương đứng ở phía đông
nhìn ra. Chỉ thấy kỵ binh Khất Đan người nào cũng mặc cẩm bào, bên
trong có áo giáp sắt. Cẩm bào màu sắc đội thì đỏ, đội thì xanh, đội thì
vàng, đội thì tím, cờ quạt với áo cùng màu, tới lui nhanh chậm, mã tráng
binh cường trông thật đẹp mắt, Tiêu Phong và A Tử đứng coi mà khen
ngợi thầm. Quân sĩ nghe theo quân lệnh dọc ngang tiến thoái, giơ trường
mâu ra xua hươu, trông thấy Tiêu Phong và A Tử, cũng chỉ liếc một cái
rồi không để ý gì tới nữa. Bốn đội kỵ binh chia ra bao vây bốn bên, dồn
mấy chục con hươu vào giữa. Thỉnh thoảng có một con theo khe hở chạy
được ra ngoài thì lập tức có một toán quân nhỏ đi ra cản, vây thành vòng
tròn đuổi trở lại vào trong.
Thiên quân vạn mã vào ra,
Trước là cứu chúa, sau là cứu thân.
Cuộc đời như giấc mộng lành,
Hôm nay khất cái mai thành đại vương.
*
* *
Tiêu Phong còn đang đứng xem bỗng nghe có người lớn tiếng gọi:
- Bên kia có phải Tiêu đại gia đấy chăng?
Tiêu Phong nghĩ thầm: "Ai mà lại nhận ra ta nhỉ?". Ông quay lại
thấy từ đội áo xanh một người phóng ngựa chạy thẳng tới, thì ra là gã
đội trưởng Thất Lý, người mấy tháng trước Gia Luật Cơ sai đem lễ vật
đến cho mình.
Y chạy đến còn cách Tiêu Phong hơn chục trượng đã vội vàng nhảy
xuống ngựa, đi bộ lên, quì đầu gối phải xuống nói:
- Chủ nhân chúng tôi đang ở đằng trước không xa là mấy. Chủ nhân
thường vẫn nhớ mong nhắc đến Tiêu đại gia luôn. Hôm nay không biết
ngọn gió lành nào thổi Tiêu đại gia đến đây? Xin mời đại gia đến gặp
chủ nhân chúng tôi.
Tiêu Phong nghe nói Gia Luật Cơ cũng ở gần đây, thật là hoan hỉ
nói:
- Ta chỉ tùy ý ngao du, có ngờ đâu nghĩa huynh cũng ở quanh đây,
thế thì hay lắm. Được rồi, nhờ ngươi dẫn đường đến gặp anh ta.
Thất Lý chúm môi huýt một tiếng, hai tên kỵ binh cưỡi ngựa chạy
đến. Y dặn dò:
- Các ngươi mau đi bẩm báo nói là Tiêu đại gia ở núi Trường Bạch
qua thăm.
Hai tên kỵ binh khom lưng nhận lệnh, phóng ngựa chạy đi ngay.
Những người còn lại tiếp tục cuộc săn hươu, riêng Thất Lý tất lãnh một
đội kỵ binh áo xanh, hộ tống Tiêu Phong và A Tử đi về hướng tây.
Khi Gia Luật Cơ gửi cho Tiêu Phong vàng bạc bò cừu, ông đã biết y
ắt phải là một đại quí nhân người Khất Đan, bây giờ lại thấy thanh thế
như vậy xem chừng vị nghĩa huynh này phải là tướng quân, đại quan chi
đó.
Trên thảo nguyên ngựa chạy đi chạy lại như mắc cửi, người nào
cũng y giáp mới tinh. Thất Lý nói:
- Tiêu đại gia hôm nay đến chơi quả là đúng lúc, sáng sớm mai ở
đây có một buổi hội thật là vui nhộn.
Tiêu Phong đưa mắt nhìn A Tử, thấy nàng mặt tươi hẳn lên liền hỏi:
- Cái gì mà vui nhộn?
Thất Lý đáp:
- Ngày mai là ngày hội diễn võ. Hai đội vệ quân Vĩnh Xương, Thái
Hòa đều khiếm khuyết chức vụ thống lãnh. Người Khất Đan chúng tôi ai
nấy sẽ ra sức biểu diễn võ nghệ để xem ai là người vận may, được giữ
hai chức vụ này.
Tiêu Phong nghe nói đến tỉ võ, tự nhiên thấy hào khí bừng bừng nổi
lên, hết sức cao hứng, cười nói:
- Thế thì đúng là khéo thật, được dịp xem võ nghệ người Khất Đan
như thế nào.
A Tử cười nói:
- Đội trưởng ơi, vậy ông ra đại hiển thân thủ, chúc mừng ông đoạt
được một chức thống lãnh.
Thất Lý lè lưỡi nói:
- Tiểu nhân nào có cái gan đó?
A Tử lại cười:
- Đoạt được chức thống lãnh thì đã sao? Chỉ cần tỉ phu ta dạy cho
ông dăm ba miếng võ là ông đoạt được chức đó ngay chứ gì.
Thất Lý vui mừng nói:
- Tiêu đại gia nếu bằng lòng chỉ cho tiểu nhân thì quả là cầu còn
không được. Còn chức thống lãnh gì kia, tiểu nhân không có phúc phận
chẳng dám mơ tưởng tới.
Đoàn người vừa đi vừa nói chuyện, đi độ mươi dặm đã thấy trước
mặt một đoàn kỵ binh gấp rút chạy tới. Thất Lý nói:
- Đây là đội Phi Hùng trong bì thất quân của đại trướng.1
Những người đó đều mặc áo, đội mũ làm bằng da gấu, áo ngoài
bằng lông gấu đen, mũ cao làm bằng lông gấu trắng, hình dáng thật là
uy võ. Đội binh đó chạy đến gần, cùng lên tiếng reo hò, đồng thời hạ
mã, chia ra đứng hai bên nói:
- Cung nghinh Tiêu đại gia.
Tiêu Phong đáp:
- Không dám! Không dám!
Ông giơ tay chào, giục ngựa chạy lên trước, đội Phi Hùng cũng lục
tục theo sau. Đi được hơn chục dặm, lại có một đội binh khác, mặc áo da
hổ, mũ da hổ là đội Phi Hổ Binh chạy đến nghinh tiếp. Tiêu Phong nghĩ
thầm: "Không biết Gia Luật ca ca làm chức quan gì lớn thế mà sao nghi
vệ rầm rộ thế này". Có điều Thất Lý không nói, mà lần gặp trước Gia
Luật Cơ nhất định không thổ lộ thân thế mình, Tiêu Phong đành chịu
không hỏi nữa.
Đi đến xế chiều tới một nơi đóng quân thật lớn thì người trong đội
Phi Báo, tất cả đều mặc áo đội mũ da báo chạy ra nghinh tiếp, đón Tiêu
Phong và A Tử vào trong căn lều lớn ở chính giữa. Tiêu Phong vẫn
tưởng vào trong lều này ắt sẽ được gặp Gia Luật Cơ, ngờ đâu trong
trướng giường nệm khí mãnh đều là đồ sang trọng, trên bàn nhỏ để đầy
đồ ăn, hoa quả nhưng không thấy chủ nhân đâu. Đột trưởng đội Phi Báo
nói:
- Chủ nhân mời Tiêu đại gia ở đây nghỉ lại một đêm, ngày mai sẽ
tương kiến.
Tiêu Phong cũng không hỏi thêm, đến bên bàn cầm bát rượu lên
uống. Bốn tên quân sĩ, kẻ rót rượu, người cắt thịt, hầu hạ rất cung kính.
Sáng hôm sau trở dậy lại tiếp tục đi, ngày hôm dó đi về hướng tây phải
đến hai trăm dặm, đến tới lại ngủ lại một nơi đóng quân lớn.
Đến trưa ngày thứ ba, Thất Lý nói:
- Đi qua khỏi triền núi phía trước mặt thì mình sẽ tới.
Tiêu Phong thấy ngọn núi đó thật là hùng vĩ, một con sông lượn
dưới chân núi chảy cuồn cuộn về hướng nam. Cả đoàn người vòng qua
sườn núi, trước mắt cờ sí rợp trời, trên đại thảo nguyên chỗ nào cũng đầy
doanh trướng, có đến hàng vạn kỵ binh, bộ tốt, bao chung quanh một
khoảng đất trống ngay chính giữa. Các đội Phi Hùng, Phi Hổ, Phi Báo hộ
tống Tiêu Phong liền lấy kèn ra, thổi lên nghe u u u.
Đột nhiên tiếng trống đánh tùng tùng vang lên dữ dội, thêm tiếng
pháo hiệu nổ ầm ầm, trên bãi đất trống quan binh rẽ ra hai bên, một con
ngựa vàng cao to từ trong chạy ra, trên lưng là một đại hán râu xồm,
chính thị Gia Luật Cơ. Y giục ngựa thẳng đến chỗ Tiêu Phong kêu lớn:
- Tiêu huynh đệ, có nhớ ca ca chăng?
Tiêu Phong cũng phóng ngựa chạy lên, hai người cùng nhảy xuống,
bốn tay nắm chặt, mừng rỡ không sao kể xiết. Chỉ nghe bốn bề chung
quanh quân sĩ reo hò vang dội:
- Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế!
Tiêu Phong giật mình tự hỏi: "Binh sĩ lại kêu vạn tuế là sao?". Ông
đưa mắt nhìn khắp nơi, thấy quân quan sĩ tốt ai nấy khom lưng, cầm đao
chống xuống đất, Gia Luật Cơ cầm tay ông đứng ngay chính giữa, nhìn
ngang nhìn ngửa, vẻ mặt cực kỳ đắc ý. Tiêu Phong hiểu ra lắp bắp:
- Ca ca, thì ra ca ca ... là ... là ...
Gia Luật Cơ cười ha hả nói:
- Nếu như ngươi biết ta là đương kim hoàng đế nước Đại Liêu, e
rằng sẽ chẳng cùng ta kết nghĩa đệ huynh đâu. Tiêu huynh đệ, tên thực
của ta là Gia Luật Hồng Cơ. Cái ơn cứu mạng của ngươi ta vĩnh viễn
không bao giờ quên.
Tiêu Phong tuy khoáng đạt hào sảng nhưng trong đời chưa từng diện
kiến hoàng đế bao giờ, hôm nay thấy nghi vệ như thế, không khỏi bối
rối, ấp úng:
- Tiểu nhân không biết bệ hạ, mạo phạm đã nhiều, quả là tội đáng
muôn thác.
Nói xong quì xuống. Ông là thần dân nước Khất Đan, gặp bản quốc
hoàng đế dĩ nhiên phải quì xuống.
Gia Luật Hồng Cơ vội đỡ dậy, cười nói:
- Không biết thì không có tội. Này huynh đệ, ngươi với ta là anh em
kim lan, ngày hôm nay chỉ tính chuyện nghĩa khí, ngày mai hãy dùng lễ
vua tôi cũng không muộn.
Ông ta giơ tay trái lên vẫy một cái, trong quân lập tức chiêng trống
đánh lên để chào mừng khách quí. Gia Luật Hồng Cơ dắt tay Tiêu Phong
hai người cùng đi vào đại trướng.
Doanh trướng của hoàng đế Khất Đan dựng thành mấy tầng toàn
bằng da bò, trang trí đủ loại màu sắc vàng bạc, cực kỳ rực rỡ, gọi là bì
thất đại trướng. Gia Luật Hồng Cơ ngồi ngay chính giữa, bảo Tiêu Phong
ngồi ngay bên cạnh, chẳng mấy chốc bách quan văn võ cũng lục tục vào
tham kiến, Bắc Viện Đại Vương, Bắc Viện Khu Mật Sứ, Vu Việt, Nam
Viện Khu Mật Sứ, Bì Thất Đại Tướng Quân, Tiểu Tướng Quân, Mã
Quân Chỉ Huy Sứ, Bộ Quân Chỉ Huy Sứ ... Tiêu Phong nhất thời không
thể nào nhớ cho hết tên bao nhiêu người.
Tối hôm đó mở đại tiệc ăn mừng, người Khất Đan tôn trọng đàn bà
con gái nên A Tử cũng được dự phần tại bì thất đại trướng. Quả đúng là
rượu đổ thành ao, thịt chất thành núi, A Tử thấy thế cực kỳ hứng thú, mặt
tươi như hoa. Rượu đã mềm môi, hơn chục tên võ sĩ Khất Đan ra trước
mặt vua vật nhau làm trò, người nào cũng cởi trần, bắt nắm khoèo vật,
thật là kịch liệt. Tiêu Phong thấy những võ sĩ Khất Đan ai nấy đều thân
hình rắn chắc, cánh tay cuồn cuộn, đưa tay thò chân đều có dáng con
nhà võ, biến hóa xảo diệu tuy không được bằng võ sĩ người Hán nhưng
miếng nào miếng nấy đều sát phạt, thẳng thừng dùng trong chiến trận
quần đấu xem chừng kiến hiệu hơn võ của Trung Nguyên.
Các quan viên văn võ nước Liêu tiến ra mời Tiêu Phong uống rượu.
Tiêu Phong thì ai cũng không từ chối, đến đâu cạn bôi đến đó, trước sau
phải đến hơn ba trăm chén, vậy mà sắc mặt vẫn như không, mọi người
hết sức kinh ngạc.
Gia Luật Hồng Cơ xưa nay vẫn tự phụ là người dũng lực, lần này bị
Tiêu Phong bắt, cả nước ai cũng biết nên cũng có ý muốn Tiêu Phong
biểu lộ cái năng lực phi phàm để che dấu cái nỗi thẹn bị thất bại. Ngờ
đâu chưa cần phải ngày hôm sau Tiêu Phong đại hiển tài nghệ võ công
nơi tỉ võ đại hội, bây giờ chỉ lộ chút tửu lượng đã áp đảo quần hùng
khiến ai nấy đều kính phục. Gia Luật Hồng Cơ cực kỳ sung sướng nói:
- Huynh đệ, ngươi là đệ nhất anh hùng hảo hán của nước Liêu ta.
A Tử đột nhiên xen vào:
- Không đâu, anh ấy chỉ mới thứ nhì.
Gia Luật Hồng Cơ cười hỏi lại:
- Tiểu cô nương, y mới chỉ thứ hai thôi sao? Thế thì vị đệ nhất đại
anh hùng là ai?
A Tử đáp:
- Vị anh hùng hảo hán số một ư, cái dó dĩ nhiên phải là bệ hạ rồi.
Tài nghệ của tỉ phu tiểu nữ tuy giỏi thật nhưng vẫn phải nghe lời bệ hạ,
không dám trái lệnh, thế thì bệ hạ chẳng là đệ nhất anh hùng thì là gì?
Nàng là môn hạ của Tinh Tú lão nhân, nghệ thuật tâng bốc đã
thuộc hàng siêu đẳng, nói ra câu đó thật chẳng khác gì dùng dao mổ trâu
để giết gà. Gia Luật Hồng Cơ cười ha hả nói:
- Cô nói thế thật hay lắm! Tiêu huynh đệ, ta muốn phong cho ngươi
một chức quan thật lớn, để ta nghĩ xem đã, phong ngươi làm gì cho
xứng?
Khi đó y đã uống say đến bảy tám phần mười, đưa ngón tay gõ gõ
lên trán. Tiêu Phong vội nói:
- Không đâu! Không đâu! Tiển nhân tính tình giản phác, khó mà
hưởng phú quí được, xưa nay vẫn lang thang bốn phương, vãng lai vô
định, quả là không thích làm quan.
Gia Luật Hồng Cơ cười nói:
- Được rồi! Để ta phong ngươi một chức quan chỉ uống rượu không
phải làm gì cả...
Ông nói chưa dứt lời bỗng từ xa truyền lại một hồi tù và u u u inh ỏi,
nghe thật gấp rút. Những người Liêu vốn dĩ đang ngồi bệt dưới đất, uống
rượu ăn thịt, vừa nghe tiếng hiệu giác, ai nấy kêu toáng lên, cùng nhỏm
dậy, mặt lộ vẻ kinh hoàng. Tiếng tù và truyền đến thật nhanh, lúc mới
nghe còn cách khoảng hơn chục dặm, lần thứ hai đã gần thêm vài dặm,
lầm thứ ba lại gần thêm vài dặm nữa. Tiêu Phong nghĩ thầm: "Trên đời
này làm gì có con ngựa nào chạy lẹ thế, dẫu có đệ nhất đẳng khinh công
thì cũng không thể nhanh như vậy được. Đúng rồi, chắc là có những trạm
truyền tin bố trí sẵn từ trước để cấp báo quân tình, một khi nghe tiếng tù
và lập tức truyền ngay xuống trạm kế tiếp". Chỉ thấy tiếng hiệu giác cứ
truyền tới, trong nháy mắt đến ngoài bì thất đại trướng thì ngừng lại.
Mấy trăm người ngồi trong trướng vốn dĩ đang ăn uống hò reo, ồn ào
như chợ vỡ, lúc này đột nhiên lặng như tờ.
Gia Luật Hồng Cơ thần sắc trấn tĩnh, chầm chậm nâng kim bôi lên,
uống cạn chén rượu nói:
- Có phản đồ làm loạn ở Thượng Kinh, thôi mình đành phải về vậy.
Nhổ trại!
Hành quân đại tướng lập tức ra khỏi trướng truyền lệnh, hai tiếng
"Nhổ trại" truyền ra một thành mười, mười thành trăm, trăm thành nghìn,
thanh âm càng lúc càng lớn nhưng vẫn nghiêm chỉnh thứ tự không có vẻ
gì náo loạn mất trật tự. Tiêu Phong nghĩ thầm: "Nước Đại Liêu ta lập
quốc đã hơn hai trăm năm, quốc uy vang dậy thiên hạ, lúc này tuy có nội
loạn nhưng không có vẻ gì bối rối, đủ biết Liêu chúa bình thời chỉ huy
quân đội có phép tắc hẳn hòi".
Bỗng nghe tiếng chân ngựa dồn dập, đội tiền phong xích hậu quân2
ra trước, tiếp theo là hai đội tả hữu tiên phong cũng lên đường, rồi tiền
quân, tả quân, hữu quân từng đội từng đội đi về hướng nam hồi kinh.
Gia Luật Hồng Cơ nắm tay Tiêu Phong nói:
- Mình ra xem thế nào!
Hai người ra khỏi trướng, chỉ thấy trong đêm đen mỗi lá quân kỳ
đều có gắn một chiếc đèn lồng, đỏ, vàng, xanh, trắng màu sắc lấp lánh,
hơn một chục vạn quân xuôi nam nhưng chỉ nghe tiếng vó ngựa lộp cộp,
không một tiếng người. Tiêu Phong hết sức thán phục nghĩ thầm: "Trị
quân như thế này thì trong thiên hạ còn ai địch nổi? Hôm đó hoàng
thượng cậy mạnh đi săn một mình nên ta mới bắt được. Ví như đại quân
cùng đi, người Nữ Chân tuy dũng mãnh thật nhưng ít cũng không chống
nổi với số đông.
Hai người vừa ra khỏi trướng, các vệ sĩ lập tức rỡ lều, chỉ một
thoáng đã đâu đó gọn gàng sạch sẽ, hành lý tùy theo nặng nhẹ mà chất
lên xe ngựa, xe lạc đà. Trung quân nguyên soái liền ra lệnh, mọi người
lập tức khởi hành. Bắc Viện Đại Vương, Vu Việt, Thái Sư, Thái Phó
bách quan theo hầu đằng trước đằng sau Gia Luật Hồng Cơ, mặt mày ai
nấy nghiêm trọng nhưng cũng không nói lời nào. Tin tức về vụ nổi loạn
trong kinh tuy đã truyền ra nhưng nội vụ thế nào, tình huống ra sao hiện
giờ vẫn chưa rõ rệt.
Đại đội nhân mã theo đường về nam được ba ngày, tối hôm đó vừa
đóng quân xong thì một tên thám tử phóng ngựa chạy đến bẩm với Gia
Luật Hồng Cơ:
- Nam Viện Đại Vương nổi loạn, chiếm cứ hoàng cung, từ hoàng
thái hậu, hoàng hậu trở xuống đến các vương tử, công chúa cùng gia
quyến bách quan đều đã bị chúng bắt giữ cả rồi.
Gia Luật Hồng Cơ hoảng hốt, vẻ mặt lập tức biến sắc.
Việc quân quốc trọng sự nước Liêu do hai viện Nam Bắc chia ra
cáng đáng. Lần này Bắc Viện Đại Vương tùy giá đi săn để Nam Viện
Đại Vương ở lại trấn thủ kinh thành. Nam Viện Đại Vương Gia Luật
Niết Lỗ Cổ, tước phong Sở Vương, bản thân y không nói làm gì nhưng
cha y Gia Luật Trọng Nguyên, đương kim Hoàng thái thúc, quan phong
Thiên Hạ Binh Mã Đại Nguyên Soái, ấy mới thực là đáng ngại.
Ông nội của Gia Luật Hồng Cơ là Gia Luật Long Tự, Liêu sử gọi là
Thánh Tông. Con trai trưởng của Thánh Tông là Tông Chân, con trai thứ
là Trọng Nguyên. Tông Chân tính nết hiền lành, bụng dạ rộng rãi còn
Trọng Nguyên lại rất võ dũng, có tài thao lược. Khi Thánh Tông băng hà
có di mệnh truyền ngôi cho con trưởng Tông Chân. Thế nhưng hoàng
hậu lại thương con trai thứ hơn nên âm mưu lập Trọng Nguyên lên ngôi.
Nước Liêu từ xưa tới nay, hoàng thái hậu quyền thế rất lớn thành thử
ngôi vua của Tông Chân xem ra không vững, ngay cả tính mạng cũng
khó bảo toàn. Thế nhưng Trọng Nguyên đem mật mưu của mẫu hậu báo
cho huynh trưởng khiến cho bao nhiêu tính toán của hoàng thái hậu đều
không thành. Tông Chân vì chuyện đó nên đối với em cực kỳ cảm kích,
lập Trọng Nguyên lên làm Hoàng thái đệ, có nghĩa là sau này sẽ truyền
ngôi cho ông ta để báo đền ân đức.
Liêu sử gọi Gia Luật Tông Chân là Hưng Tông, nhưng khi ông ta
qua đời, hoàng vị lại không truyền cho Hoàng thái đệ Trọng Nguyên, mà
lại truyền cho con ruột là Hồng Cơ.
Sau khi Gia Luật Hồng Cơ tiếp vị, trong bụng cũng thấy bất an, nên
phong cho Trọng Nguyên làm Hoàng thái thúc, để minh định rằng chú
mình sẽ kế thừa ngôi vua của nước Liêu, lại phong thêm chức Thiên Hạ
Binh Mã Đại Nguyên Soái, lúc lâm triều miễn lạy, miễn xưng tên, ban
cho kim khoán thệ thư, mũ bốn chỏm, áo bào hai màu trong triều phải
nói là người được tôn sủng bậc nhất. Con ông ta là Niết Lỗ Cổ được
phong Sở Vương, chấp chưởng mọi việc quân chính yếu vụ Nam Viện
nên được gọi là Nam Viện Đại Vương.
Năm xưa Gia Luật Trọng Nguyên rõ ràng là được ngôi vua nhưng
nhường cho huynh trưởng đủ biết ông ta là người trọng nghĩa khí, lại tốt
nhịn. Mỗi khi Gia Luật Hồng Cơ ra ngoài đi săn, bao nhiêu việc quân
quốc trọng vụ ở kinh thành đều giao cho Hoàng thái thúc, không nghi
ngại chút nào. Bây giờ nghe tin truyền đến kẻ mưu phản là Nam Viện
Đại Vương Gia Luật Niết Lỗ Cổ, Gia Luật Hồng Cơ vừa lo lắng vừa kinh
hoàng, vốn biết tính tình Niết Lỗ Cổ hung ác bạo ngược, xử sự rất là tàn
nhẫn, nếu y mưu phản thì cha y ắt không đứng ngoài.
Bắc Viện Đại Vương tâu rằng:
- Bệ hạ đừng lo vội, Hoàng thái thúc ắt nhìn vấn đề rõ ràng, không
thể nào tha cho tên nghịch tử phạm thượng tạo phản, không chừng lúc
này đã đem quân bình loạn rồi.
Gia Luật Hồng Cơ đáp:
- Cũng mong là thế.
Mọi người ăn cơm tối xong, tên thám tử thứ hai lại đến bẩm báo:
- Nam Viện Đại Vương lập Hoàng thái thúc lên làm vua, đã ra
chiếu cáo tri thiên hạ.
Y không dám tâu tiếp phần bên dưới, chỉ hai tay dâng lên chiếu của
tân hoàng đế. Hồng Cơ cầm lấy xem qua thấy chiếu thư tố cáo đích danh
Gia Luật Hồng Cơ là soán vị ngụy đế, nói là tiên đế đã lập Gia Luật
Trọng Nguyên làm Hoàng thái đệ, trong hai mươi bốn năm ai ai cũng
biết, nhưng khi băng hà, Gia Luật Hồng Cơ sửa di chiếu, ăn trộm ngôi
đại bảo, người người ai ai cũng phẫn nộ, hiện Hoàng thái đệ đã chính vị
lên làm vua, đốc suất binh mã thiên hạ đi trừ nghịch ngụy ...
Gia Luật Hồng Cơ trong cơn cuồng nộ, cầm chiếu thư vứt luôn vào
đống lửa, nhưng trong bụng cực kỳ lo lắng nghĩ thầm: "Đạo ngụy chiếu
này lời đanh thép đâu ra đấy, quân dân Liêu quốc xem chỉ e lòng người
hoang mang. Hoàng thái thúc ở địa vị Thiên Hạ Binh Mã Đại Nguyên
Soái, trong tay cầm binh phù, có thể điều động hơn tám mươi vạn binh
mã, chưa kể thêm quân dưới tay con ông ta là Nam Viện Đại Vương. Ở
đây tùy giá ta chỉ có chưa đầy mười vạn, quả bất địch chúng, làm thế
nào bây giờ đây?". Tối hôm đó ông trằn trọc cả đêm, không sao ngủ
được.3
Tiêu Phong nghe thấy Liêu đế định phong cho ông một chức quan
đã toan nhân lúc đêm khuya dẫn theo A Tử không từ biệt lẻn đi, thế
nhưng lúc này thấy nghĩa huynh gặp cảnh nguy nan, chẳng nỡ bỏ rơi ông
ta, bằng giá nào cũng phải ra tay giúp nhau một chuyến cho khỏi phụ
tấm lòng anh em kết nghĩa. Đêm hôm đó ông ra ngoài doanh dạo chơi,
nghe thấy các quan binh thì thầm to nhỏ, đều nói cha mẹ vợ con đang ở
Thượng Kinh bị Hoàng thái thúc bắt giữ cả, e rằng tính mạng không còn.
Có kẻ nghĩ đến gia đình, đột nhiên khóc rống lên. Tiếng khóc dao động
lòng người, quan binh khác trong doanh đồng cảnh ngộ cũng không ít kẻ
sụt sùi. Quan tướng thống binh tuy cực lực ngăn trở, chém đầu mấy kẻ
khóc to hơn cả làm gương nhưng cũng không sao dứt hết được.
Gia Luật Hồng Cơ nghe thấy tiếng khóc vang động biết rằng lòng
quân có chiều ly tán, lại càng lo lắng.
Sáng sớm hôm sau, thám tử lại đến báo rằng Hoàng thái thúc và Sở
Vương dẫn binh năm mươi vạn, đang tiến lên phía bắc mưu toan phạm
giá. Hồng Cơ nghĩ thầm: "Việc đến nước này chỉ có tiến chứ không còn
đường lui, nếu như bại trận thì cũng đành một phen tử chiến cho xong".
Ông lập tức chiêu tập bách quan để thương nghị. Quần thần ai nấy một
lòng trung thành với Gia Luật Hồng Cơ, nguyện cùng chết với chủ nhưng
chỉ lo lòng quân không còn vững chãi.
Hồng Cơ truyền lệnh xuống:
Tất cả các quan binh hãy ra sức bình nghịch thảo tặc, khi dẹp yên
được giặc rồi, ngoài việc thăng quan còn được trọng thưởng.
Ông mặc giáp trụ bằng vàng, tự mình đốc suất ba quân nghinh chiến
với quân của Hoàng thái thúc. Các quan binh thấy hoàng thượng tự mình
cầm quân ra chống địch lập tức dũng khí bùng lên, hô vạn tuế ba lần
quyết lấy cái chết báo đền ơn chúa. Mười vạn quân chia thành bốn bộ
phận tiền quân, tả quân, hữu quân, trung quân, binh giáp sáng choang
tiến về phía nam, thêm những tiểu đội du kỵ đi tuần ở hai bên.
Tiêu Phong cũng đeo cung cầm mâu đi sau Gia Luật Hồng Cơ đóng
vai hộ vệ tùy giá. Thất Lý dẫn một đội Phi Hùng binh bảo hộ cho A Tử ở
hậu quân. Tiêu Phong thấy Gia Luật Hồng Cơ lông mày nhăn tít lại, biết
ông chưa có được kế hoạch gì trong trận chiến này.
Quân đi đến giữa trưa bỗng nghe đằng trước tiếng tù và nổi lên.
Tướng chỉ huy trung quân ra lệnh:
- Xuống ngựa!
Các kỵ binh ai nấy nhảy xuống, tay cầm cương dẫn ngựa đi, chỉ còn
Gia Luật Hồng Cơ và các đại thần là còn ngồi trên yên. Tiêu Phong
không hiểu sao các kỵ binh lại hạ mã, còn đang thắc mắc, Gia Luật
Hồng Cơ cười hỏi:
- Huynh đệ ở tại Trung Nguyên lâu ngày nên không biết phương
pháp hành quân của người Khất Đan, phải không?
Tiêu Phong đáp:
- Thần đang mong được bệ hạ chỉ điểm.
Hồng Cơ cười đáp:
- Ha ha, cái hai chữ bệ hạ kia không biết có còn được tới lúc mặt
trời lặn ngày hôm nay nữa hay không? Ta với ngươi dùng tình anh em
mà xưng hô, việc gì phải gọi là bệ hạ?
Tiêu Phong nghe tiếng cười của ông nhuốm vẻ cay đắng bèn nói:
- Hai bên chưa giao tranh, bệ hạ hà tất phải lo lắng quá như vậy.
Hồng Cơ nói:
- Giao phong trên đất bằng, quan trọng nhất là sức ngựa, sức người
chỉ đứng hàng thứ hai.
Tiêu Phong bấy giờ mới hiểu nói:
- À, thì ra thế! Kỵ binh xuống ngựa để cho tọa kỵ khỏi mệt mỏi.
Hồng Cơ gật đầu nói:
- Dưỡng sức cho ngựa khi lâm địch xung phong hãm trận vẫn còn
khỏe như lúc đầu. Người Khất Đan đông chinh tây thảo, đánh đâu thắng
đó chính là nhờ cái bí quyết quan trọng này.
Ông ta nói tới đây, từ xa xa đằng trước bụi bay mù mịt, bốc lên cao
đến mươi trượng, chẳng khác gì một đám mây vàng cuồn cuộn kéo tới.
Hồng Cơ chỉ roi về phía đó nói:
- Hoàng thái thúc và Sở Vương đều chinh chiến lâu năm, là những
tướng tài của nước Liêu ta sao lại xua binh kéo đến ầm ầm, không dưỡng
sức cho ngựa là sao? Hừ, thì ra bọn chúng hữu thị vô khủng4 cho rằng thể
nào cũng thắng nên không úy kỵ gì cả.
Ông còn đang trù trừ đã nghe tù và tả quân và hữu quân cùng trổi
lên. Tiêu Phong đưa mắt nhìn thấy phía đông cũng có hai cánh quân,
phía tây cũng có hai cánh quân, địch từ năm phía công tới. Gia Luật
Hồng Cơ mặt liền biến sắc quay sang vị tướng chỉ huy trung quân ra
lệnh:
- Kết trận lập trại mau!
Trung quân tướng quân đáp lời:
- Tuân lệnh!
Y giục ngựa chạy ra truyền lệnh, lập tức tiền quân, tả quân, hữu
quân cùng quay đầu lại đồng thời một toán quân dùng búa đóng các cột
dùng để dựng bì thất đại trướng xuống, căng da lên, bốn bề dựng chông,
chỉ chốc lát đã ghép gỗ thành một bức tường cực lớn giữa thảo nguyên,
tiền hậu tả hữu chỗ nào cũng có kỵ binh trấn thủ, mấy vạn cung thủ ẩn
sau thành, cung trong tay sẵn sàng, đợi giờ buông tên.
Tiêu Phong nhíu mày nghĩ thầm: "Trận đại chiến này dù cho ai
thắng ai bại thì người Khất Đan đồng tộc của ta cũng thây đầy đồng nội.
Hay hơn hết vẫn là nghĩa huynh đắc thắng, nếu như chẳng may thua trận
thì ta cũng cố tìm cách cứu cho được nghĩa huynh và A Tử đến được nơi
an toàn, còn chuyện có còn làm hoàng đế hay không cũng chẳng sao".
Doanh trại của Liêu đế kết xong chưa bao lâu thì đội tiền phong của
loạn quân đã tới nhưng không tiến lên khiêu chiến mà dừng lại xa xa nơi
cung nỏ bắn không tới được. Thế nhưng vẫn nghe tiếng trống tiếng kèn
liên miên bất tuyệt, từng đội, từng đội loạn quân tiến đến vây quanh,
bốn phương tám hướng chỗ nào cũng kết thành trận thế. Tiêu Phong đưa
mắt nhìn ra thấy đầy mặt đất chỗ nào cũng là quân địch không biết đâu
là cùng nghĩ thầm: "Binh thế nghĩa huynh kém xa, quả bất địch chúng,
xem chừng thua mất thôi. Trời sáng không tiện xung đột trùng vây đào
tẩu, chỉ còn nước cố giữ cho đến tối lúc đó ta tìm cách cứu y". Thế nhưng
bóng nắng những cây gỗ đóng trại chiếu xuống đất còn ngắn ngủn, mặt
trời đang chói chang chỉ mới xế trưa một chút.
Chỉ nghe tiếng cạp cạp cạp mấy tiếng, một đàn vịt nước bay thành
đội giữa lưng trời. Gia Luật Hồng Cơ ngửng đầu nhìn ngơ ngẩn, cười
gượng nói:
- Chỉ có nước biến thành con nhạn chứ có chắp cánh cũng không
bay khỏi nơi đây được.
Bắc Viện Đại Vương và Trung quân tướng quân nhìn nhau biến sắc,
biết là hoàng đế thấy binh thế loạn quân trong lòng khiếp sợ. Quân địch
đánh trống vang rền, mấy trăm chiếc trống da cùng gõ một lượt. Tướng
chỉ huy trung quân hét lớn:
- Đánh trống!
Mấy trăm chiếc trống trong ngự doanh cũng tùng tùng vang lên.
Phía bên kia tiếng trống bỗng ngưng bặt, mấy vạn kỵ binh gầm thét vang
trời dậy đất, cầm mâu xông thẳng qua. Khi thấy tiền phong quân của
địch sắp tới nơi, lệnh kỳ của Trung quân tướng quân phất xuống, tiếng
trống của ngự doanh lập tức ngừng, mấy vạn mũi tên đồng thời bắn ra,
quân tiền phong của địch lả tả ngã xuống. Thế nhưng quân địch kẻ trước
ngã người sau tiến lên, quân mã đi trước biến thành tấm mộc chắn cho
kẻ đi sau. Bộ binh cung tiễn của địch có thuẫn bài hộ thân xông được tới
nơi bắn tên vào ngự doanh.
Gia Luật Hồng Cơ lúc đầu quả có hơi khiếp sợ nhưng khi tiếp chiến
rồi, dũng khí lập tức tăng gia gấp bội, đứng trên cao tay cầm trường đao,
ra lệnh chỉ huy. Tướng sĩ ngự doanh thấy hoàng thượng đích thân đốc
chiến đều hô lớn:
- Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế!
Bên địch nghe thấy "Vạn tuế!" ngẩng đầu lên thấy Gia Luật Hồng
Cơ hoàng bào kim giáp, đứng ngay tại đài cao trong ngự doanh, nhất thời
sợ uy của ông nên ngần ngừ không dám tiến. Hồng Cơ thấy có dịp may
liền quát lớn:
- Kỵ binh tả quân xông ra vây lại.
Tả quân do Bắc Viện Khu Mật Sứ chỉ huy, nghe thấy hoàng thượng
ra lệnh, ba vạn kỵ binh liền từ ngang hông đánh ra vây quân địch. Loạn
quân còn đang do dự, ngự doanh quân đã tới nơi, trận thế lập tức đại
loạn. Trống của ngự doanh quân đánh liên hồi như sấm, quân địch chỉ
tiếp chiến được một lát phải rút về, ngự doanh quân liền xông lên truy
sát, khí thế cực kỳ hung tợn.
Tiêu Phong mừng lắm kêu lên:
- Đại ca, trận này mình đại thắng rồi.
Gia Luật Hồng Cơ xuống đài, nhảy lên ngựa đích thân đem quân
tiếp viện. Đột nhiên nghe tiếng tù và nổi lên, chủ lực của quân phản
loạn xông tới, tiền phong quân liền quay lại đánh, chỉ trong một thoáng
vũ tiễn trường mâu phóng tới vèo vèo, tiếng hò hét vang động cả bầu
trời, máu me vung vãi. Tiêu Phong xem mà trong bụng hãi thầm: "Cảnh
ác đấu như thế này ta bình sinh chưa từng thấy bao giờ. Một người dù võ
công thiên hạ vô địch, vào trong chốn thiên quân vạn mã thì cũng chẳng
dùng được vào việc gì, cùng lắm cũng chỉ tự bảo vệ được mình là may.
Cảnh đại quân giao chiến với cảnh tỉ đấu trong võ lâm, không thể nào có
thể so sánh với nhau được".
Bỗng nghe tiếng phèng la từ phía sau phản quân vang lên ra hiệu
thu binh. Kỵ binh của đối phương rút lui rồi, tên chặn đường liền bắn ra
như mưa, Trung Quân tướng quân và Bắc Viện Khu Mật Sứ ba lần xung
phong nhưng không qua khỏi được trận thế của địch, ngược lại còn bị
bắn chết mấy ngàn binh sĩ. Gia Luật Hồng Cơ nói:
- Sĩ tốt chết nhiều quá, tạm thời thu binh.
Lập tức ngự doanh quân cũng gióng chiêng thu binh.
Phản quân thấy thế bèn phái hai đội kỵ binh xông đến tập kích
nhưng trung quân đã phòng bị trước, giả như thua chạy, hai cánh quân
liền đánh ập vào vây luôn ba nghìn quan quân vào giữa, còn mấy trăm
người khác xuống ngựa đầu hàng. Hồng Cơ vẫy tay một cái, ngự doanh
quân liền đâm trường mâu ra, giết sạch mấy trăm người. Trận ác đấu đó
chưa đầy một giờ nhưng chém giết nhau cực kỳ thảm khốc.
Chủ lực hai bên đều lui lại vài chục trượng, khoảng đất trống giữa
hai bên đầy xác người, những người bị thương rên rỉ kêu la thật là thê
thảm. Lại thấy hai bên mỗi bên xông ra một đội áo đen khoảng ba trăm
người, ngự doanh quân đầu đội mũ vàng còn bên địch đầu đội mũ trắng
kiểm tra những người bị thương. Tiêu Phong tưởng những người này ra
tìm người bị thương để cứu chữa, nào ngờ những quan binh áo đen kia rút
phắt trường đao, giết sạch thương binh của đối phương. Những người bị
thương chết cả rồi, sáu trăm người đó rống lên một tiếng hai bên liền
đấu với nhau.
Sáu trăm hắc y quân võ công ai nấy không phải dở, trường đao lấp
loáng, ra sức ác đấu, chẳng mấy chốc đã có hai trăm người bị chém chết
lăn ra. Những người áo đen đội mũ vàng thuộc đội ngự doanh võ công
tương đối cao hơn, số bị giết chỉ độ vài chục người khiến cục thế biến
thành hai ba người đánh một và như thế việc thắng phụ đã rõ ràng. Đấu
thêm một lúc nữa, biến thành ba bốn người hợp đấu một người. Thế
nhưng quan binh hai bên chỉ hò hét trợ oai, mấy chục vạn quân phản
loạn tụ thủ bàng quan chứ không cho thêm người ra tăng viện. Cuối cùng
ba trăm phản quân áo đen mũ trắng đều bị giết sạch, ngự doanh quân
còn sống sót khoảng hai trăm kéo về. Tiêu Phong nghĩ thầm: "Chắc là
người Liêu có cái phép tắc như thế".
Lần ác đấu dọn dẹp chiến trường này tuy qui mô không lớn như lần
trước nhưng lại kinh tâm động phách hơn nhiều. Hồng Cơ giơ cao trường
đao, lớn tiếng nói:
- Quân phản loạn tuy đông nhưng không có chí chiến đấu. Đánh
thêm một trận nữa, bọn chúng ắt phải thua chạy mà thôi.
Quân ngự doanh cùng la to:
- Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế!
Bỗng từ phía trong phản quân có tiếng tù và, năm người cưỡi ngựa
chầm chậm đi ra, người đi giữa hai tay bưng một mảnh da cừu, lớn tiếng
đọc bản chiếu thư của Hoàng thái thúc ban bố:
Gia Luật Hồng Cơ soán vị, là một ngụy quân, hiện nay Hoàng thái
thúc đã lên ngôi chính thống. Phàm là quan binh trung thành của nước
Liêu ta thì ngay hôm nay phải về kinh qui phục, ai nấy được thăng ba
cấp...
Quân ngự doanh lập tức có hơn một chục binh sĩ bắn tên ra, nghe
kêu vút vút. Bốn gã đứng bên liền giơ thuẫn lên bảo vệ. Gã kia vẫn tiếp
tục đọc, đột nhiên năm con ngựa cùng bị bắn ngã, nhưng năm người vẫn
đứng nấp sau thuẫn bài đọc cho hết "chiếu thư" của Hoàng thái thúc, lúc
đó mới quay về.
Bắc Viện Đại Vương thấy thuộc hạ nghe ngụy chiếu xong có vẻ
động lòng liền quát lớn:
- Ra chửi lại đi!
Ba chục tên lính liền bước ra hơn chục trượng, hai chục người cầm
thuẫn bài bảo hộ, còn lại là mười tên "thợ chửi", đứa nào cũng mồm to
giọng lớn, tên thứ nhất liền bắt đầu, nào là "phản quốc gian tặc, chết
không có đất mà chôn" ... tên thứ hai lại tiếp, đến sau toàn những câu
hết sức thô tục. Tiếng Khất Đan Tiêu Phong biết chẳng bao nhiêu, ngôn
từ của những tay "thợ chửi" này ông phần lớn không hiểu nhưng thấy
Gia Luật Hồng Cơ luôn luôn gật gù, có vẻ thích thú, ắt là những "mạ
thủ" này chửi cũng có đầu có đuôi.
Tiêu Phong nhìn qua phía trận thế bên địch, thấy xa xa dưới lọng
vàng tiết mao rực rỡ có hai người cưỡi ngựa, tay cầm roi chỉ trỏ. Một
người toàn thân hoàng bào, đầu đội mũ xung thiên, râu hoa râm dài, còn
người kia mặc hoàng kim giáp trụ, gương mặt gầy choắt, dáng điệu tinh
anh. Tiêu Phong nghĩ thầm: "Xem ra hai người này hẳn là cha con
Hoàng thái thúc và Sở Vương rồi".
Đột nhiên mười tên "thợ chửi" kia hạ giọng thì thầm bàn tán một
hồi, rồi cùng cất cao giọng vạch trần những chuyện xấu xa của Hoàng
thái thúc và Sở Vương. Hoàng thái thúc dường như là người đứng đắn,
không có chuyện gì có thể bới móc thành ra cả mười tên chỉ lôi toàn
chuyện Sở Vương, nói y gian dâm phi tử của phụ thân, cậy quyền thế
cha làm điều càn rỡ. Những lời đó hiển nhiên cốt để đâm thọc, ly gián
cha con. Cả mười người cùng cao giọng, luận điệu cũng na ná như nhau
truyền ra xa đến mấy dặm nên trong đám mấy chục vạn quân không ít
người nghe rõ ràng.
Sở Vương giơ roi vẫy một cái, phản quân cùng gào lên một lượt,
người nào cũng a a ầm ỹ, ồn ào rức lác lập tức át hết giọng mười tên
"thợ chửi" kia.
Hai bên loạn lên một hồi, bên địch bỗng tẽ thành hai, đẩy ra mấy
chục chiếc xe đến trước quân ngự doanh thì ngừng lại. Những quân lính
đẩy xe lôi từ trong xa ra mấy chục người đàn bà, có người thì tóc trắng
như bông, có người tuổi còn non choẹt, quần áo ai nấy cực kỳ sang trọng.
Những người đó vừa ra khỏi xe, tiếng chửi hai bên lập tức ngừng bặt.
Gia Luật Hồng Cơ kêu lên:
- Mẹ ơi! Mẹ ơi! Thể nào con cũng sẽ bắt bọn phản đồ, băm chúng
ra thành vạn mảnh để cho mẹ vui lòng hả dạ.
Bà lão tóc bạc kia chính là Tiêu thái hậu, mẹ của Gia Luật Hồng
Cơ tức đương kim Hoàng Thái Hậu, ngoài ra là Tiêu hoàng hậu và các
phi tần, công chúa. Hoàng thái thúc và Sở Vương thừa cơ Hồng Cơ ra
ngoài đi săn nổi loạn, vây chặt cung cấm bắt Hoàng thái hậu và tất cả
những người kia.
Hoàng thái hậu lớn tiếng nói:
- Bệ hạ đừng nghĩ gì đến mẹ già vợ con, cứ ra sức trừ loạn giết giặc
đi.
Mấy chục tên quân sĩ liền rút trường đao nhứ vào cổ các hậu phi,
những phi tần tuổi trẻ ai nấy kinh hãi khóc òa lên. Gia Luật Hồng Cơ nổi
giận, quát lên:
- Bắn chết bọn đàn bà đang khóc cho ta!
Chỉ nghe vèo vèo, hơn chục mũi vũ tiễn bắn ra, những phi tần đang
khóc bị trúng tên ngã xuống chết ngay. Hoàng hậu reo lên:
- Bệ hạ bắn giỏi lắm, giỏi lắm! Cơ nghiệp tổ tông không thể nào để
hủy diệt trong tay gian tặc được.
Sở Vương thấy Hoàng thái hậu và Hoàng hậu đều cứng cổ như thế,
không thể bức bách được Hồng Cơ, ngược lại còn làm dao động quân
tâm bên mình bèn ra lệnh:
- Đẩy bọn đàn bà lên xe, lui lại.
Các binh sĩ liền áp giải Hoàng thái hậu, Hoàng hậu mọi người lên
xe đẩy về phía sau. Sở Vương lại hạ lệnh:
- Đem gia quyến quân địch ra.
Chỉ nghe tu tu tu tiếng còi tre thổi lên nghe thật thê lương, quân mã
lại giạt sang hai bên, rồi tiếng xích kêu loảng xoảng không ngớt, một
đoàn người già trẻ lớn bé từ phía sau được đưa ra. Chỉ giây lát tiếng
khóc hai bên vang dậy. Thì ra đây là gia quyến của ngự doanh quân.
Ngự doanh quân vốn là quân sĩ thân tín của Liêu đế, Gia Luật Hồng Cơ
đặc biệt ưu đãi nên cho gia đình của họ ở trong kinh thành, một là để cho
binh lính cảm kích, khi có việc ra sức liều thân, thứ nữa cũng để canh
chừng khiến đội quân tinh nhuệ này xuất chinh không dám hai lòng, ngờ
đâu lần này đi săn mầm họa lại ở ngay sát nách. Gia nhân quyến thuộc
của ngự doanh quân phải đến hơn hai chục vạn người, giải đến trận tiền
bất quá chỉ chừng ba vạn, trong đó vô khối người bị bắt oan nhưng chưa
phân biện được thành thử bồng con bế cháu, người nọ níu người kia loạn
cả lên.
Một tên tướng của Sở Vương giục ngựa chạy ra lớn tiếng nói:
- Chúng quan binh ngự doanh quân nghe đây: Người nhà các ngươi
lớn nhỏ đã bị bắt cả rồi, ai đầu hàng thì được xum họp với gia đình,
thăng quan ba cấp lại có thưởng. Còn như không đầu hàng thì tân hoàng
đế đã có chỉ dụ sẽ giết sạch hết gia quyến chúng bay.
Người Khất Đan xưa nay tàn nhẫn hiếu sát, nay nói đến "giết sạch"
thì không phải là chuyện dọa xuông. Trong đám ngự doanh quân có
người nhận ra thân thuộc mình "Cha ơi, mẹ ơi, con ơi, mình ơi, em ơi ..."
hai bên gọi nhau ơi ới rầm rĩ.
Trong đám phản quân trống đánh vang lừng, hai nghìn đao phủ thủ
hung hăng bước ra, tay cầm đao sáng quắc. Tiếng trống vừa ngừng lại,
hai nghìn thanh đao cùng giơ lên, nhắm ngay đầu gia thuộc của ngự
doanh quân. Gã tướng quân kia lại quát lên:
- Kẻ nào đầu hàng tân hoàng đế thì có trọng thưởng, bằng không,
bao nhiêu người thân bị giết sạch.
Y giơ tay lên, tiếng trống lại đánh inh ỏi. Ngự doanh quân biết rằng
một khi y phất tay, tiếng trống sẽ ngừng, hai nghìn thanh đao sáng quắc
kia sẽ chém xuống. Đám thân binh kia xưa nay trung thành với Gia Luật
Hồng Cơ, dẫu Hoàng thái thúc và Sở Vương có đem "thăng quan" "trọng
thưởng" ra dụ, cũng không ăn thua, nhưng lúc này thấy cha mẹ vợ con
vươn cổ chờ chém, làm gì mà không hoảng sợ?
Tiếng trống vẫn tùng tùng không ngớt, tim trong lồng ngực đám ngự
doanh quân cũng thình thình đập theo. Đột nhiên trong đám quân có kẻ
kêu lên:
- Mẹ ơi! Mẹ ơi! Đừng giết mẹ tôi!
Y quăng trường mâu xuống, chạy bổ nhào về một bà lão trong đám
địch quân. Vút một tiếng, một mũi tên từ phía ngự doanh quân bắn ra,
trúng ngay giữa lưng người nọ. Người đó chưa chết ngay vẫn còn tiếp tục
lao về phía người mẹ. Chỉ nghe thấy tiếng "Mẹ ơi! Con ơi!" ồn ào vang
dậy, mấy trăm người trong ngự doanh quân cùng chạy ùa lên. Những
tướng lãnh thân tín của Gia Luật Hồng Cơ rút kiếm chém loạn xạ nhưng
làm sao ngăn nổi? Mấy trăm người đó chạy qua rồi, chẳng mấy chốc
thành mấy nghìn người. Sau mấy nghìn người đó trận thế liền hỗn loạn,
trong số mười lăm vạn thân quân của nhà vua có đến sáu bảy vạn người
qua bên kia.
Gia Luật Hồng Cơ thở dài một tiếng biết rằng đại thế đã hỏng, thừa
cơ thân quân gặp gỡ gia quyến tình hình đang náo loạn chặn lối đối
phương lập tức ra lệnh:
- Lui quân về phía đất bằng trên núi cao mạn tây bắc.
Các tướng trong quân lập tức truyền lệnh ra, số chưa chịu hàng cũng
còn khoảng hơn tám vạn người, hậu quân đổi thành tiền quân, rút lui về
hướng tây bắc. Sở Vương vội vàng sai kỵ binh đuổi theo nhưng trên
chiến trường toàn là đàn bà trẻ con và người già yếu, ngựa chạy không
nhanh được, đến khi dẹp được bọn họ ra thì Gia Luật Hồng Cơ cùng ngự
doanh quân đã đi xa rồi.
Tám vạn thân quân khi đến được chân núi thì đã về chiều, quân sĩ
vừa đói vừa mệt, đóng trại ở ngang sườn núi, từ cao trông xuống để làm
thế phòng ngự. Sau khi doanh trại đã xong, chưa kịp nấu cơm thì Sở
Vương đã dẫn quân tinh nhuệ đến chặn dưới chân núi, lập tức đánh lên.
Quân ngự doanh bắn tên lăn đá xuống như mưa, đẩy lùi quân phản loạn.
Sở Vương thấy từ dưới công lên không có lợi nên đành thu binh, an
doanh ở chân núi.
Tối hôm đó, Gia Luật Hồng Cơ đứng cạnh mỏm núi nhìn về phía
nam thấy lửa trong trại phản quân đầy như đom đóm, xa xa lại có ba con
rồng lửa ngoằn ngoèo, đó là ba đạo quân kéo đến tiếp viện vi công.
Hồng Cơ trong lòng buồn bã, đang định vào trướng thì Bắc Viện Khu
Mật Sứ đến bẩm:
- Một vạn năm nghìn quân của thần đã chạy xuống dưới núi đầu
hàng quân phản nghịch. Thần trị quân không ra gì, thật đáng chết.
Gia Luật Hồng Cơ xua tay, lắc đầu nói:
- Cái dó không phải lỗi nhà ngươi, thôi xuống đi nghỉ.
Ông quay đầu lại thấy Tiêu Phong đang xuất thần nhìn về phía xa
xa bèn nói:
- Khi trời sáng, phản quân sẽ đem toàn lực đánh lên, chúng mình sẽ
bị bắt cả. Ta là vua một nước, không thể nào chịu nhục với bọn phản đồ,
đành tự vẫn báo đền xã tắc. Huynh đệ nhân lúc trời tối xông ra đi, ngươi
võ nghệ cao cường, phản quân không ngăn nổi đâu.
Ông nói tới đây vẻ mặt cực kỳ buồn bã, lại tiếp:
- Ta vốn định phong cho ngươi một chức quan thật lớn để hưởng phú
quí, có ngờ đâu người anh này cái thân cũng chẳng bảo toàn được, lại
làm lụy đến cả ngươi.
Tiêu Phong đáp:
- Đại ca, đại trượng phu lúc co lúc duỗi, hôm nay chiến trận không
lợi, để tiểu đệ bảo vệ đại ca ra khỏi nơi đây, chiêu tập bộ thuộc cũ rồi
lại tính sau.
Hồng Cơ lắc đầu:
- Đến mẹ già vợ con ta còn không bảo vệ nổi, nói gì đến đại trượng
phu? Dưới mắt người Khất Đan, kẻ thắng là kẻ anh hùng, kẻ thua là kẻ
phản nghịch. Ta đã thua sạch rồi còn cách gì ngoi lên nổi nữa? Ngươi
hãy một mình đi thôi.
Tiêu Phong biết ông ta thực tình liền khẳng khái đáp:
- Nếu đã thế thì tiểu đệ nguyện cùng với ca ca, ngày mai một trận
tử chiến với bọn phản khấu. Ca ca và đệ nghĩa kết kim lan, ca ca là
hoàng đế cũng vậy, là dân thường cũng vậy, đối với Tiêu mỗ cũng đều
là nghĩa huynh. Huynh trưởng có nạn thì người em này nguyện cùng anh
đồng sinh cộng tử chứ lẽ nào lại bỏ chạy bao giờ?
Gia Luật Hồng Cơ nước mắt rưng rưng, nắm chặt hai tay ông nói:
- Hảo huynh đệ, cám ơn em.
Tiêu Phong quay trở vào trong trướng thấy A Tử nằm co tại một
góc, mở tròn đôi mắt to, hóa ra vẫn chưa ngủ. A Tử hỏi:
- Tỉ phu có giận em không?
Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi lại:
- Giận ngươi chuyện gì?
A Tử đáp:
- Cũng tại em chẳng ra đâu, nếu như em không đòi ra đại thảo
nguyên du ngoạn thì anh đâu có bị khốn khổ ở nơi đây. Tỉ phu, chúng
mình sẽ chết ở đây có phải không?
Ánh lửa từ bên ngoài lều chiếu lên mặt nàng, trong vẻ xanh xao có
thoáng một chút hồng đầy vẻ ngây thơ trẻ con. Tiêu Phong trong lòng
cực kỳ thương xót dịu dàng đáp:
- Ta lẽ nào lại trách em? Nếu như ta không đả thương cô thì chúng
mình đâu có đến chỗ này.
A Tử mỉm cười nói:
- Nếu không vì em bắn kim độc vào anh thì anh đâu có đả thương
em.
Tiêu Phong giơ bàn tay thô kệch vuốt tóc nàng. A Tử bị trọng
thương rồi, tóc rụng đến quá nửa, vừa vàng vừa thưa. Tiêu Phong thở dài
một tiếng nói:
- Em còn nhỏ quá vậy mà theo ta chi cho khổ.
A Tử nói:
- Tỉ phu ơi, trước kia em không hiểu vì lẽ gì tỉ tỉ lại thích anh, bây
giờ thì em hiểu rồi.
Tiêu Phong nghĩ thầm: "Chị cô đối với ta tình nghĩa thật sâu nặng,
một đứa bé con như cô thì biết gì. Thực ra, vì cớ gì A Châu lại yêu một
kẻ thô lỗ như ta, chính ta cũng còn chưa rõ thì ngươi làm sao mà hiểu
được đây?". Ông nghĩ tới đây buồn bã lắc đầu.
A Tử nghiêng ngó nhìn ông rồi nói:
- Tỉ phu có đoán được vì sao hôm đó em lại bắn độc châm vào anh
chưa? Em thực chẳng muốn bắn chết anh mà chỉ cốt anh không còn cử
động được để em được hầu hạ anh thôi.
Tiêu Phong lạ lùng:
- Thế để làm gì?
A Tử mỉm cười đáp:
- Anh không cử động được thì mãi mãi không bao giờ xa em. Nếu
không anh đâu có coi em vào đâu, lúc nào cũng bỏ em mà đi được,
không ngó ngàng gì đến em nữa.
Tiêu Phong nghe nàng nói thật rặt giọng trẻ con nhưng biết không
phải bạ đâu nói đấy, cảm thấy chột dạ nghĩ thầm: "Thôi thì đằng nào
sáng mai cũng chết hết, an ủi cô ta vài câu cũng chẳng sao". Ông bèn
nói:
- Em thật đúng là trẻ con. Nếu quả như cô muốn theo ta thì cứ nói
thẳng lẽ nào ta lại không bằng lòng.
Đôi mắt A Tử đột nhiên sáng bừng lên, vui mừng nói:
- Tỉ phu ơi, sau khi em khỏi bệnh rồi, em muốn đi theo anh, mãi mãi
không quay lại với sư phụ và phái Tinh Tú nữa. Anh đừng bỏ rơi em nhé!
Tiêu Phong biết cô ta đã gây đại họa tại phái Tinh Tú, quả thực
chẳng dám quay lại đâu nên cười nói:
- Cô là truyền nhân đại sư tỉ của môn phái, nếu không quay về thì
quần long vô thủ biết làm sao bây giờ?
A Tử cười khanh khách đáp:
- Để cho bọn chúng loạn bát nháo lên cũng hay. Em mặc kệ họ.
Tiêu Phong cầm chiếc mền kéo lên đắp tới cổ cho cô gái, xong xuôi
rồi mới kiếm một góc trướng trải chăn da nằm ngủ. Lửa bên ngoài lúc
mờ lúc tỏ, lấp loáng bất định nghe có tiếng khóc văng vẳng, biết là ngự
doanh quân nhớ người thân. Ai cũng biết một trận sáng mai tính mạng sẽ
chẳng còn, có điều trung với hoàng thượng nên không phản bội.
Mới sớm hôm sau Tiêu Phong đã dậy rồi, dặn Thất Lý chuẩn bị
ngựa sẵn sàng lo cho A Tử, còn mình cũng xong xuôi, ăn một cân thịt
cừu, uống ba cân rượu rồi đi ra ngoài sườn núi. Khi đó chung quanh trời
còn tối mịt, nhưng chẳng bao lâu phương đông đã ửng hồng, ngự doanh
quân thổi tù và u u, tiếng leng keng của binh giáp võ khí chạm nhau
không dứt. Trong doanh từng đội binh mã đi ra, thủ ngự những nơi xung
yếu. Tiêu Phong từ cao nhìn xuống thấy phía đông, phía nam và phía
đông nam ba mặt chỗ nào cũng đầy người, đều là phản quân cả. Ở phía
xa xa một làn sương trải dài, thành thử loạn quân không biết đâu là cuối.
Ngay khi đó vầng thái dương từ chân trời nhô lên như một vòng
cung tỏa ra thành muôn ngàn tia nắng chiếu thẳng vào màn bạch lộ,
sương tan dần thấy ẩn dưới đám mây mù đâu đâu cũng là quân mã.
Khắp nơi tiếng trống đánh vang rền, từ trong quân địch hai đội cầm cờ
vàng chạy ra, sau đó là Hoàng thái thúc và Sở Vương cưỡi ngựa đến
dưới chân núi, cầm roi ngựa chỉ trỏ lên trên cao bàn tán.
Gia Luật Hồng Cơ dẫn thị vệ đứng ngay sườn núi, thấy tình hình đó
cơn giận dâng lên, cầm ngay cung tiễn trong tay lính hầu giương thẳng
cánh nhắm vào Sở Vương bắn ra một mũi tên. Từ trên cao nhìn xuống
tưởng chừng như hai bên không xa, thực ra còn cách đến mấy đường tên
mới tới, mũi tên chưa được nửa đường thì đã hết sức, rơi xuống rồi.
Sở Vương cười ha hả lớn tiếng nói:
- Hồng Cơ, ngươi soán đoạt ngôi vua của cha ta, làm ngụy quân bao
nhiêu lâu rồi, bây giờ phải nhượng vị thôi. Ngươi mau mau đầu hàng cha
ta sẽ tha cho khỏi chết, còn giả nhân giả nghĩa phong cho ngươi làm
Hoàng thái điệt nữa đấy! Ha ha ha!
Mấy câu đó hiển nhiên mỉa mai Hồng Cơ phong Trọng Nguyên làm
Hoàng thái thúc chỉ là giả nhân giả nghĩa. Hồng Cơ cơn giận xung thiên,
chửi lại:
- Đồ phản tặc vô liêm sỉ, còn bẻo mép nữa ư?
Bắc Viện Khu Mật Sứ kêu lên:
- Chúa bị nhục thì bầy tôi đành phải chết! Chúa thượng đối với thần
ơn nặng tày non, hôm nay chính là lúc bọn thần báo đền ơn nghĩa.
Y liền dẫn ba nghìn thân binh, cùng gầm lên từ trên cao xông
xuống. Ba nghìn người đó đều là dũng sĩ trong bộ tộc Khất Đan, lần này
có ý quyết tử thành thử một có thể đánh mười, chỉ nghe tiếng gào thét
vang trời động đất, máu chảy thịt rơi. Ba nghìn người càng đánh càng ít
dần, đến sau đều chết cả. Bắc Viện Khu Mật Sứ giết được vài người, rồi
tự cắt cổ mà chết. Hồng Cơ, Tiêu Phong cùng các đại thần từ trên cao
nhìn xuống thấy rõ ràng nhưng không làm sao cứu được nghĩ đến lòng
trung nghĩa của Bắc Viện Khu Mật Sứ, ai nấy đều nhỏ lệ.
Sở Vương lại giục ngựa đến chân núi cười nói:
- Hồng Cơ, ngươi có chịu hàng hay không thì bảo? Cái đám quân
lưa thưa của ngươi thì làm được gì? Thủ hạ ngươi đều là dũng sĩ Đại
Liêu, sao nỡ để họ phải chết theo ngươi? Là nam nhi đại trượng phu, hãy
cho đâu ra đấy, hàng thì hàng, chiến thì chiến, còn như biết rằng khí số
hết rồi, sao chưa tự vẫn để tạ thiên hạ, khỏi làm chết thêm sĩ tốt.
Gia Luật Hồng Cơ thở dài một tiếng, hổ nhãn rưng rưng, rút đao
cầm tay nói:
- Giang sơn gấm vóc này thôi đành nhường cho cha con chúng bay
vậy. Ngươi nói quả không sai, chúng ta chú cháu anh em, cốt nhục tương
tàn, việc gì phải làm chết thêm dũng sĩ Khất Đan.
Nói xong ông giơ đao lên đâm vào cổ mình. Tiêu Phong vươn tay ra,
đoạt ngay con dao nói:
- Đại ca, kẻ anh hùng hảo hán có chết cũng chết nơi chiến trường,
lẽ nào lại tự tận bao giờ?
Hồng Cơ thở dài:
- Huynh đệ, bao nhiêu tướng sĩ đây theo ta đã lâu, ta đành chết còn
hơn là để cho họ phải vì ta mà bỏ mạng.
Sở Vương lại lớn tiếng giục:
- Hồng Cơ, ngươi còn chờ đến bao giờ mới tự vẫn?
Ngọn roi trong tay y chỉ thảng vào mặt, thái độ cực kỳ phách lối.
Tiêu Phong thấy y càng đến càng gần, trong lòng chợt động, nói nhỏ:
- Đại ca nói chuyện cầm chừng với y, tiểu đệ lẻn tới gần, bắn y một
mũi.
Hồng Cơ biết ông tài nghệ cao cường, mừng rỡ nói:
- Thế thì hay lắm, nếu bắn chết được y rồi ta có chết cũng nhắm
mắt.
Nói rồi cao giọng kêu lên:
- Sở Vương, ta đãi cha con ngươi không bạc, nếu cha ngươi quả
muốn làm vua thì có gì là không được, việc gì phải làm chết bao nhiêu
dũng sĩ, dân đen bản quốc, làm tổn thương nguyên khí cho nước Đại
Liêu?
Tiêu Phong cầm một bộ cung cứng, lấy mười mũi lang nha trường
tiễn, dẫn một con tuấn mã len lén qua bên núi, rùn người xuống chui
dưới bụng ngựa, hai chân quặp vào yên, lấy gót chân dậm một cái, con
vật liền chạy thẳng xuống.
Phản quân dưới núi thấy một con ngựa trên lưng không có người, lại
tưởng bị sút dây cương đi lạc là chuyện cực kỳ tầm thường nên chẳng ai
để ý. Thế nhưng chẳng mấy chốc quân sĩ đã thấy dưới bụng ngựa có
người lập tức hô hoán rầm rĩ.
Tiêu Phong dùng đầu ngón chân thúc ngựa, xông thẳng vào Sở
Vương, thấy chỉ còn cách y chừng hai trăm bước, nằm dưới bụng ngựa
giương cung lên, nghe vút một tiếng bắn y một mũi. Vệ sĩ đứng bên cạnh
Sở Vương liền giơ thuẫn bài lên đỡ được mũi tên. Tiêu Phong giục ngựa
chạy tới, tên bắn liên tiếp, giết ngay tên vệ sĩ kia, mũi tên thứ hai lại
nhắm vào ngực Sở Vương.
Thiên quân vạn mã vào ra,
Trước là cứu chúa, sau là cứu thân.
Cuộc đời như giấc mộng lành,
Hôm nay khất cái mai thành đại vương.
*
* *
Sở Vương mắt tinh tay lẹ, roi ngựa vung ra gạt mũi tên. Thuật dùng
roi gạt tên vốn dĩ là bản lãnh của Sở Vương, nhưng có ngờ đâu người
bắn tên không những sức cánh tay đã mạnh, lại thêm nội kình đưa vào
đầu tên, roi ngựa tuy đánh trúng đuôi nhưng chỉ làm cho đầu tên lệch đi
một chút, nghe soẹt một tiếng đã cắm ngay vào vai y. Sở Vương kêu lên
"Chao ôi!" một tiếng, đau đến gục xuống yên ngựa.
Vũ tiễn của Tiêu Phong lại tiếp theo, lần này khoảng cách thật gần,
mũi tên trúng vào hông, xuyên thẳng qua ngực. Sở Vương chỉ dãy được
một cái, từ trên ngựa ngã xuống ngay.
Tiêu Phong vừa ra tay đã thành công, nghĩ thầm: "Sao mình không
thừa cơ bắn chết luôn Hoàng thái thúc".
Sở Vương trúng tên ngã ngựa, quân địch ai nấy kêu la, mấy trăm
mũi tên nhắm ngay Tiêu Phong mà bắn, chỉ nháy mắt con ngựa đã trúng
đầy tên thật chẳng khác gì một con nhím. Tiêu Phong lăn dưới đất mấy
vòng, lòn ngay dưới bụng ngựa một tên quân, thi triển công phu tiểu xảo,
cứ lăn một vòng lại luồn từ bụng con ngựa này sang bụng con ngựa khác.
Quan binh không sao bắn tên được, lập tức dùng trường mâu mà chọc.
Tiêu Phong lẻn qua trái, lách qua phải, toàn là ẩn dưới bụng ngựa. Quân
địch loạn cả lên, mấy nghìn quân người nọ xô người kia tưởng chừng như
dẫm phải nhau nhưng không làm sao đâm trúng ông được.
Tiêu Phong sử dụng chẳng qua chỉ là địa đường công phu thật tầm
thường của võ lâm Trung Nguyên. Dù là địa đường quyền, địa đường
đao, hay địa đường kiếm cũng đều là lăn lộn dưới đất, tấn công vào hạ
bàn bên địch. Bây giờ ông dùng vào trong chiến trận, mắt sáng tay
nhanh, tránh khỏi không bị ngựa giày. Ông nhắm kỹ nơi Hoàng thái thúc
đang đứng, lăn về hướng đó, nhắm thẳng vào y vút vút vút bắn ra ba mũi
tên.
Vệ sĩ của Hoàng thái thúc đã nhìn thấy Sở Vương bị trúng tên rồi
nên đã phòng bị, hơn ba chục người cùng giơ mộc lên chặn trước Hoàng
thái thúc kín mít, nghe keng keng keng ba mũi tên đều đụng phải thuẫn
bài rơi xuống đất. Mười mũi tên Tiêu Phong đem theo đã bắn hết bảy
mũi rồi, chỉ còn lại ba, thấy ba chục tên quân dùng thuẫn bảo vệ chủ, ba
mũi tên bắn chết ba tên vệ sĩ đã khó, huống hồ lại bắn được Hoàng thái
thúc.
Lúc này Tiêu Phong đã vào sâu trong trận của địch, phía sau mấy
nghìn người cầm mâu đuổi tới, trước mặt là thiên quân vạn mã quả đúng
là rơi vào tuyệt cảnh. Hôm xưa ông một mình chống lại quần hùng Trung
Nguyên đối phương chẳng qua chỉ vài trăm người, cũng đã cực kỳ hung
hiểm, may có người khác cứu còn hôm nay bi mấy vạn người vây khốn
làm sao chạy thoát được đây?
Trong tình hình nguy ngập đó, ông hú lên thật to, tung mình nhảy
lên, nghe vù một tiếng đã nhảy vọt qua ba chục người cầm thuẫn, rơi
xuống ngay trước đầu ngựa Hoàng thái thúc. Hoàng thái thúc hoảng hốt,
giơ roi ngựa lên đánh luôn vào mặt ông. Tiêu Phong nghiêng người rơi
xuống đúng ngay yên ngựa Hoàng thái thúc đang cưỡi, giơ tay chộp luôn
sau lưng y, giơ lên cao kêu lớn:
- Ngươi muốn sống hay muốn chết? Mau mau bảo mọi người bỏ
binh khí xuống.
Hoàng thái thúc sợ đến cứng đơ người, những gì ông nói y không
nghe thấy gì cả. Lúc đó tiếng xôn xao của loạn quân inh ỏi điếc cả tai,
hàng nghìn vạn người ai cũng lắp tên giương cung nhắm ngay Tiêu
Phong nhưng Hoàng thái thúc bị ông bắt giữ rồi ai mà dám vọng động
khinh suất?
Tiêu Phong vận khí vào đan điền kêu lớn:
- Hoàng thái thúc có lệnh, ba quân mau bỏ binh khí xuống để nghe
tuyên đọc thánh chỉ. Hoàng đế khoan hồng đại lượng, xá tội cho tất cả
quan binh, không truy cứu bất cứ ai.
Mấy câu đó át hết tất cả tiếng người đang ồn ào, qua đến mấy dặm
còn nghe thấy, đến quá nửa trong số mấy chục vạn người trước núi sau
núi nghe được rõ ràng. Tiêu Phong đã trải qua kinh nghiệm người trong
Cái Bang nổi loạn chống lại mình, biết rõ tâm tư loạn quân, sau khi thoát
khỏi nghịch cảnh rồi, việc đáng quan tâm nhất là làm sao được miễn tội,
nếu như được bảo đảm không truy cứu lỗi lầm thì ý chí chiến đấu lập tức
tiêu tan. Hiện giờ phản quân thế mạnh, bên cạnh Gia Luật Hồng Cơ
chẳng qua chỉ bảy tám vạn người, bên ít bên nhiều làm sao địch lại,
trong lúc cục diện khẩn cấp không kịp thỉnh thị ý kiến Hồng Cơ nên nói
liều mấy câu cho bên phản loạn yên tâm.
Mấy câu đó vang vang truyền ra, bao nhiêu tiếng huyên náo của
quân phản loạn liền lắng xuống, người nọ nhìn người kia, không ai định
được chủ ý ra thế nào. Tiêu Phong biết rằng tình thế hiện nay cực kỳ
nguy hiểm, trong đám quân địch chỉ cần một người kêu lên không phục,
mấy chục vạn quân như rắn mất đầu kia sẽ đại biến, thành thử không thể
diên trì một giờ khắc nào, lại lớn tiếng nói:
- Hoàng thượng có chỉ dụ, trong đám phản quân bất luận quan chức
lớn bé thế nào chăng nữa, tất cả đều vô tội, hoàng đế khai ân quyết
không truy cứu. Quan quân binh lính ai giữ nguyên chức ấy, tất cả hãy
mau mau bỏ binh khí xuống.
Tất cả lặng như tờ, đột nhiên loảng xoảng, loảng xoảng, có mấy
người liệng bỏ trường mâu. Tiếng vứt bỏ binh khí kia dường như lây qua
người khác, chỉ trong giây lát, loảng xoảng vang dậy, có đến một nửa số
người vứt binh khí, phần còn lại trù trừ chưa quyết định.
Tiêu Phong tay trái cầm Hoàng thái thúc giơ lên cao, giục ngựa
chạy lên núi, quân phản loạn nào ai dám ngăn trở, ngựa ông đến đâu lập
tức tránh ra nhường đường đến đó. Tiêu Phong cưỡi ngựa đến lưng chừng
núi rồi, hai toán ngự doanh quân liền chạy xuống nghinh tiếp, trên núi
trống chiêng đồng thời nổi lên. Tiêu Phong nói:
- Hoàng thái thúc, ông mau mau ra lệnh, bảo bộ thuộc bỏ binh khí
xuống đầu hàng thì sẽ được tha mạng.
Hoàng thái thúc run run hỏi lại:
- Ngươi đảm bảo tha mạng cho ta chứ?
Tiêu Phong nhìn xuống chân núi, thấy vô số phản quân vẫn còn
cung tên trường mâu trong tay, lòng quân chưa định, nguy hiểm chưa hết
nghĩ thầm: "Bây giờ an lòng quân là việc quan trọng nhất. Hoàng thái
thúc một người sống chết có đáng gì đâu, chỉ cần cho người canh gác kỹ
càng, để từ rày y không còn làm điều càn rỡ được nữa". Ông liền nói:
- Đây là cơ hội duy nhất để ông đái tội lập công. Bệ hạ biết rằng
chỉ tại con ông tệ hại, nhất định sẽ tha chết cho ông.
Hoàng thái thúc vốn không có lòng tranh đoạt ngôi vua, chỉ vì con
ông ta Sở Vương có dã tâm mà gây họa, lúc này rơi vào tay người ta rồi,
chỉ mong sao khỏi chết bèn đáp:
- Được, ta sẽ làm theo lời ngươi.
Tiêu Phong để ông ta an tọa trên yên ngựa rồi mới sang sảng nói:
- Ba quân nghe đây, Hoàng thái thúc có lời nhắn nhủ.
Hoàng thái thúc lớn tiếng nói:
- Sở Vương gây nên họa loạn hiện đã đền tội rồi. Hoàng thượng
khoan hồng đại lượng tha cho tất cả mọi người. Các ngươi mau mau bỏ
binh khí xuống, quay về phía hoàng thượng mà cầu xin.
Hoàng thái thúc đã nói như thế, đám loạn quân trở thành như rắn
mất đầu, tuy cũng có kẻ hung hăng ngoan cố nhưng không người nào
dám chống lại, lập tức nghe thấy loảng xoảng liên hồi, bao nhiêu loạn
quân đều vứt binh khí xuống đất.
Tiêu Phong áp giải Hoàng thái thúc lên tới khu núi trống trải, Gia
Luật Hồng Cơ mừng không để đâu cho hết, chẳng khác gì đang nằm mơ,
tiến đến bên cạnh Tiêu Phong cầm hai tay ông nói:
- Huynh đệ, huynh đệ, giang sơn này của ca ca từ nay cùng ngươi
chung hưởng.
Ông nói đến đây tâm thần khích động, tự nhiên nước mắt ròng ròng.
Hoàng thái thúc quì gục dưới đất nói:
- Kẻ loạn thần này cầu xin bệ hạ thứ tội, xin bề trên nhủ lòng
thương xót.
Gia Luật Hồng Cơ trong lòng hết sức vui sướng quay sang hỏi Tiêu
Phong:
- Huynh đệ nghĩ mình phải làm sao đây?
Tiêu Phong đáp:
- Phản quân người nhiều thế mạnh đang cần an định quân tâm, cầu
xin bệ hạ tha tội chết cho Hoàng thái thúc để cho mọi người yên lòng.
Gia Luật Hồng Cơ cười nói:
- Hay lắm! Hay lắm! Ngươi nói sao thì làm vậy!
Ông quay lại nói với Bắc Viện Đại Vương:
- Ngươi truyền thánh chỉ, phong Tiêu Phong làm Sở Vương, giữ
chức Nam Viện Đại Vương đốc suất phản quân trở về Thượng Kinh.5
Tiêu Phong hoảng hốt, ông giết Sở Vương, bắt Hoàng thái thúc
chẳng qua chỉ mong cứu mạng nghĩa huynh đâu phải có lòng ham muốn
tước lộc, Gia Luật Hồng Cơ phong cho chức quan lớn như thế khiến cho
chân tay luống cuống, sững sờ không biết phải nói sao. Bắc Viện Đại
Vương quay sang chắp tay chào Tiêu Phong:
- Chúc mừng! Chúc mừng! Tước vị Sở Vương xưa nay không phong
cho người ngoài hoàng tộc, Tiêu đại vương mau mau tạ ơn hoàng thượng
đi.
Tiêu Phong nói với Gia Luật Hồng Cơ:
- Mọi việc hôm nay toàn nhờ hồng phúc của ca ca, lòng quân hướng
về bệ hạ nên bình định được quân phản loạn, tiểu đệ chỉ bỏ chút hơi sức
nhỏ nhoi, đâu có gì gọi là công lao. Huống chi tiểu đệ không biết làm
quan, lại cũng chẳng muốn làm quan, xin ca ca thu hồi thành mệnh.
Gia Luật Hồng Cơ cười vang, giơ tay nắm vai Tiêu Phong nói:
- Chức Sở Vương, Nam Viện Đại Vương ở nước Liêu ta là tước lộc
cao quí nhất rồi, nếu như huynh đệ hiềm là chưa đủ không chịu thần
phục thì người anh này ngoài việc nhường ngôi cho ngươi không còn
cách nào khác nữa.
Tiêu Phong lại càng kinh hãi, nghĩ thầm: "Ca ca vui quá, nói năng
chẳng giữ gìn gì nữa, xem ra có chiều lung tung, mọi việc lúc này cần
quả quyết gấp rút, không thể chần chờ gì nữa để khỏi sinh họa". Ông
đành quì xuống nói:
- Thần Tiêu Phong lãnh chỉ, đa tạ ân điển vạn tuế.
Gia Luật Hồng Cơ vui vẻ đưa tay đỡ dậy. Tiêu Phong nói:
- Thần không dám vi chỉ nên phải lãnh nhận quan tước. Có điều là
kẻ thô bỉ thảo dã, không hiểu pháp độ triều đình, nếu có điều gì sai sẩy
xin bệ hạ rộng lòng tha thứ.
Gia Luật Hồng Cơ giơ tay vỗ lên vai ông mấy cái cười nói:
- Quyết không sao cả.
Ông quay sang nói với Tả quân tướng quân Gia Luật Mạc Ca:
- Gia Luật Mạc Ca, ta phong ngươi làm Nam Viện Khu Mật Sứ, phò
tá Tiêu đại vương trông coi quân quốc trọng sự.
Gia Luật Mạc Ca mừng rỡ vội vàng quì xuống tạ ơn, sau đó quay
sang Tiêu Phong tham bái nói:
- Tham kiến đại vương!
Hồng Cơ nói:
- Mạc Ca, ngươi theo lệnh Tiêu đại vương, đốc suất quân phản loạn
quay trở về Thượng Kinh. Chúng ta đi thăm Hoàng thái hậu nào.
Trên núi liền chiêng trống nổi lên, Gia Luật Hồng Cơ cùng đoàn
người đi xuống. Lãnh binh tướng quân phe phản loạn lập tức mời Hoàng
thái hậu, Hoàng hậu các người ra, cung kính an trí trong doanh. Gia Luật
Hồng Cơ vào trong trướng rồi, mẹ con vợ chồng gặp nhau, quả là chết đi
sống lại, tưởng chừng như từ một kiếp khác quay về, ai nấy tấm tắc khen
ngợi công lao vĩ đại của Tiêu Phong.
Gia Luật Mạc Ca lại đưa Tiêu Phong đi gặp tất cả các bộ thuộc
Nam Viện. Mới đây Tiêu Phong trong chốn thiên quân vạn mã vào ra,
thần dũng không ai địch nổi, ai nấy đã thấy cả rồi. Các quan quân Nam
Viện tuy đều là cựu bộ thuộc của Sở Vương nhưng một là Tiêu Phong
thần uy lẫm lẫm, mọi người sợ ông là kẻ anh hùng không dám không
phục, thứ nữa Sở Vương bình thời tính tình nóng nảy, không có ân huệ gì
với kẻ dưới, thứ ba mình là kẻ làm loạn phạm thượng, trong bụng đang
nơm nớp lo lắng thành thử Tiêu Phong vừa đến ai ai cũng nhất tề nghe
lệnh của ông.
Tiêu Phong nói:
- Hoàng thượng đã tha tội theo kẻ nghịch mưu phản cho các ngươi,
từ nay tất cả phải ăn năn sám hối, không người nào được có dạ phản
trắc.
Một viên tướng đầu râu tóc bạc tiến lên bẩm:
- Bẩm cáo đại vương, Hoàng thái thúc và thế tử bắt giữ gia quyến
chúng tôi, ép chúng tôi phải theo, nếu như chống lại, thế tử sẽ chém đầu
tất cả, thành thử không biết làm sao, xin đại vương tâu cho vạn tuế rõ.
Tiêu Phong gật đầu:
- Nếu thế, những chuyện đã qua từ nay không nhắc đến nữa.
Ông quay lại nói với Gia Luật Mạc Ca:
- Cho ba quân ai đâu ở đó, nghỉ ngơi ăn uống xong thì nhổ trại hồi
kinh.
Sau đó các quan chức Nam Viện từ lớn xuống nhỏ tiến lên tham
kiến. Tiêu Phong tuy chưa làm quan bao giờ nhưng đã từng là bang chủ
Cái Bang lâu năm, thống lãnh quần hào nên cũng có uy. Thống lãnh hào
kiệt Cái Bang với chỉ huy quân Khất Đan không khác nhau nhiều lắm,
nhưng Liêu binh có qui củ riêng mà Tiêu Phong phải để ý còn ngoài ra
mọi sự do Gia Luật Mạc Ca điều động giải quyết cho nên cũng đâu vào
đấy.
Tiêu Phong dẫn đại quân xuất phát chưa bao lâu thì Hoàng thái hậu
và Hoàng hậu đã sai sứ tới trung quân ban tặng áo đai vàng bạc. Tiêu
Phong tạ ơn xong, Thất Lý cũng đưa A Tử đến. Nàng mặc áo gấm ngồi
trên tuấn mã, nói là những thứ đó đều do Hoàng thái hậu ban cho. Tiêu
Phong thấy thân hình mảnh mai của nàng lọt thỏm vào trong cẩm bào
rộng thùng thình, khuôn mặt thon thon dường như bị cổ áo che khuất đến
một nửa không khỏi tức cười.
A Tử không chính mắt trông thấy Tiêu Phong bắn chết Sở Vương,
bắt sống Hoàng thái thúc chỉ nghe Thất Lý kể lại mà thôi. Hễ ai kể lại
chuyện gì, không khỏi thêm mắm thêm muối nên công lao của Tiêu
Phong lại càng tăng thêm vài phần thần bí.
A Tử vừa gặp ông đã cằn nhằn:
- Tỉ phu lập đại công như thế, sao không nói trước để tiểu muội
đứng ở sườn núi xem đại ca xông ra rồi lại trở về có phải vui không?
Làm em lo ơi là lo.
Tiêu Phong đáp:
- Cái đó là nhờ may mà lập được chút công lao chứ ta nào có định
trước đâu? Cô nói nghe thật trẻ con quá.
A Tử nói:
- Tỉ phu qua đây.
Tiêu Phong đi đến bên cạnh nàng, thấy khuôn mặt xanh xao của
nàng hơi ửng hồng ra chiều phấn khởi, súng sính trong bộ áo váy hoa
gấm kia, trông thật chẳng khác gì một con rối nhỏ, vừa kháu khỉnh lại
vừa dễ thương, khiến ông bật cười ha hả.
A Tử vẻ mặt phụng phịu nói dỗi:
- Em nói chuyện đứng đắn sao anh lại cười, có gì khôi hài đâu?
Tiêu Phong đáp:
- Ta thấy cô mặc y phục này, trông thật chẳng khác gì một hình
nhân, thú vị quá.
A Tử bực bội đáp:
- Anh lúc nào cũng chỉ coi em là một đứa trẻ con, cứ trêu em hoài.
Tiêu Phong vẫn cười:
- Đâu có phải vậy! A Tử ơi, lần này ta tưởng hai anh em mình chắc
chết mười mươi, ai ngờ chết đi sống lại nên mới vui đùa một chút đấy
thôi. Chứ còn cái gì Nam Viện Đại Vương, Sở Vương những tước vị đó ta
nào có ham gì, được khỏi chết là mừng lắm rồi.
A Tử nói:
- Tỉ phu cũng sợ chết sao?
Tiêu Phong chưng hửng rồi gật đầu:
- Gặp lúc hiểm nguy ai mà chẳng sợ chết.
A Tử nói:
- Em lại tưởng anh là anh hùng hảo hán, không sợ chết chứ. Nếu
quả là anh sợ chết, sao trong đám phản quân hàng nghìn hàng vạn lại
dám xông vào?
Tiêu Phong đáp:
- Cái đó gọi là vào chỗ chết để tìm đường sống. Nếu ta không xông
vào thì cầm chắc cái chết, thành thử chẳng có gì là dũng cảm hay không
dũng cảm mà là vào nước đường cùng. Nếu mình vây một con gấu hay
một con cọp, nó chạy không được thể nào cũng liều mạng quay đầu lại
cắn thôi.
A Tử bật cười:
- Anh so sánh mình với loài súc vật.
Lúc đó hai người đang ngồi trên lưng ngựa đi song hàng, đưa mắt
nhìn ra thấy cả một vùng thảo nguyên cờ sí rợp trời, những đội ngũ dài
như rắn bò tới tận cuối trời không biết đâu mới hết, trước sau trái phải
chỗ nào cũng là vệ sĩ bộ thuộc.
A Tử hết sức vui lòng nói:
- Hôm trước anh giúp em đoạt được chức truyền nhân của phái Tinh
Tú, em nghĩ bũng trong phái Tinh Tú từ nhị đại đệ tử, tam đại đệ tử tất
cả mấy trăm người, ngoài sư phụ ra thì em là lớn nhất, đã hết sức đắc ý.
Thế nhưng so với anh chỉ huy thiên quân vạn mã thật chẳng thấm gì. Tỉ
phu ơi, bọn Cái Bang không chịu để anh làm bang chủ, hứ, một cái bang
hội nhỏ xíu, có làm cái quái gì đâu? Anh đem binh mã tới giết sạch bọn
chúng cho được việc.
Tiêu Phong liên tiếp lắc đầu nói:
- Chỉ trẻ con thôi! Ta là người Khất Đan, Cái Bang không chịu cho
ta làm bang chủ là phải rồi. Trong Cái Bang toàn là cựu bộ thuộc, bạn
bè ta, sao lại giết họ?
A Tử đáp:
- Bọn chúng trục xuất anh ra khỏi bang rồi, đối xử tệ bạc nên giết
chúng đi là phải. Tỉ phu, không lẽ giờ này mà họ còn là bằng hữu của
anh nữa hay sao?
Tiêu Phong không biết trả lời thế nào, chỉ lắc đầu, nghĩ đến việc
mình đoạn nghĩa tuyệt giao với bạn bè cũ nơi Tụ Hiền Trang, bao nhiêu
hào khí đều tiêu ma. A Tử lại hỏi tiếp:
- Nếu như bọn chúng nghe tin anh làm Nam Viện Đại Vương nước
Liêu đâm ra hối hận, lại mời anh về làm bang chủ Cái Bang, anh về hay
không về?
Tiêu Phong mủm mỉm cười:
- Trên đời này làm gì có chuyện đó bao giờ? Anh hùng hảo hán
nước Đại Tống coi người Khất Đan là gian đồ chuyện ác gì cũng chẳng
từ, ta ở nước Liêu làm quan càng lớn thì họ lại càng hận ta.
A Tử nói:
- Hứ, thế thì đã sao? Bọn chúng ghét mình thì mình cũng ghét lại.
Tiêu Phong đưa mắt nhìn về hướng nam thấy nơi đất trời giao tiếp ở
xa xa núi non trùng điệp nghĩ bụng: "Qua khỏi dãy núi kia là Trung
Nguyên". Ông tuy là người Khất Đan nhưng từ nhỏ lớn lên tại phương
nam, trong lòng quả là yêu Đại Tống rất nhiều mà yêu Đại Liêu chẳng
bao nhiêu, nếu như Cái Bang cho ông làm một bang chúng vô danh
không chức phận, không túi nào, e rằng còn sung sướng hơn là chức Nam
Viện Đại Vương.
A Tử nói tiếp:
- Tỉ phu, em thấy hoàng thượng thật là thông minh nên mới phong
anh làm Nam Viện Đại Vương. Từ nay về sau mỗi khi nước Liêu đánh
với nước nào, anh đem quân xuất chinh thì thể nào cũng bách chiến bách
thắng. Chỉ cần anh xông vào quân địch, đánh chết nguyên soái bên kia,
đại đa số quân địch sẽ vứt đao thương, quì xuống đầu hàng, thế là mình
chẳng thắng thì là gì?
Tiêu Phong mỉm cười nói:
- Bộ hạ của Hoàng thái thúc đều là quan binh người Liêu, xưa nay
quen nghe lệnh hoàng thượng rồi thành thử một khi Sở Vương chết đi,
Hoàng thái thúc bị bắt tất cả mới đầu hàng. Còn như hai nước giao tranh
thì chuyện lại khác hẳn. Giết được nguyên soái thì có phó nguyên soái,
giết được tướng này thì còn tướng kia, ai nấy hết sức tử chiến. Ta đơn
thương độc mã xông vào chẳng đi đến đâu.
A Tử gật đầu nói:
- Ồ, thì ra là thế! Tỉ phu ơi, anh bảo là xông vào bên địch, bắn chết
Sở Vương, bắt sống Hoàng thái thúc cũng chưa phải là dũng cảm, thế thì
trong đời anh việc gì mới gọi là dũng cảm thực sự? Nói cho em nghe có
được không?
Tiêu Phong xưa nay không thích kể lại cho người ta nghe những sự
tích võ dũng của mình. Khi xưa còn ở trong Cái Bang ra tay tiêu diệt đại
gian đại ác, dù cho kịch chiến ác đấu cỡ nào, quay trở về bang cũng chỉ
nói gọn một câu: "Đã giết được những ai những ai ..." còn như bao nhiêu
gian hiểm từng trải qua, dù cho người khác vặn hỏi thế nào chăng nữa
ông cũng không chịu nói. Lúc này nghe A Tử hỏi thế, nghĩ mình trong
đởi trải qua hàng trăm trận, khi lâm địch chẳng lúc nào tính chuyện tháo
lui, chuyện dũng cảm quả là chẳng cần nhắc nữa, bèn nói:
- Ta phải đấu với người phần lớn là bị người ta ép, không đấu không
được chứ chẳng có gì gọi là dũng cảm.
A Tử nói:
- Thôi em biết rồi, trong đời anh dũng cảm nhất là trận ác đấu tại
Tụ Hiền Trang.
Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi lại:
- Làm sao cô biết?
A Tử đáp:
- Hôm trước nơi bờ hồ Tiểu Kính, anh đi một lúc rồi, cha em, mẹ
em cùng các thủ hạ của cha em nói chuyện về anh, ai cũng bội phục võ
công ghê gớm, một thân một mình dám đến đại hội ở Tụ Hiền Trang độc
đấu quần hùng, chỉ cốt để trị thương cho một thiếu nữ. Thiếu nữ đó dĩ
nhiên là chị em rồi. Lúc đó mọi người chưa biết A Châu chính là con
ruột của cha mẹ em, nói anh đối với nghĩa phụ, nghĩa mẫu và thụ nghiệp
ân sư cực kỳ tàn độc nhưng với đàn bà lại một mối tình trường; vong ân
phụ nghĩa, tàn nhẫn hiếu sắc quả là một kẻ tệ hại xấu xa bất cận nhân
tình.
Nói tới đây cô gái bật cười khanh khách. Tiêu Phong lẩm bẩm nhắc
lại:
- Ôi, "vong ân phụ nghĩa, tàn nhẫn hiếu sắc", anh hùng hảo hán
Trung Nguyên đã bình phẩm Tiêu Phong này tám chữ đó sao?
A Tử an ủi ông:
- Tỉ phu đừng tức tối làm chi. Riêng mẹ em hết lời ca tụng anh, nói
là đàn ông miễn sao si tình đã đủ tốt rồi, còn ngoài ra không có gì quan
trọng cả. Mẹ em bảo cha em cũng là loại "vong ân phụ nghĩa, tàn nhẫn
hiếu sắc", nhưng đối với tình nhân thì lại cũng "phụ nghĩa hiếu sắc", đối
với con cái thì "tàn nhẫn vô tình" chẳng sao bì kịp với đại ca. Tiểu muội
đứng một bên vỗ tay tán thành.
Tiêu Phong gượng gạo cười lắc đầu.
Đại quân đi mấy ngày thì đến Thượng Kinh. Bách quan và dân
chúng đã nghe tin rồi, đi ra tận xa nghinh tiếp. Lá cờ soái của Tiêu
Phong đến đâu, bách tính thắp hương lạy phục xuống, ca tụng không
ngớt lời. Ông ra tay bình được đại biến loạn khiến cho vô số quân sĩ
nước Liêu bảo toàn tính mạng, tại Thượng Kinh gần nửa dân số là gia
quyến của ngự doanh quân nên đối với ông xiết bao cảm kích. Ngựa
Tiêu Phong đến đâu dân chúng tung hô đến đấy:
- Đa tạ Nam Viện Đại Vương cứu mạng.
- Cầu trời phù hộ cho Nam Viện Đại Vương sống lâu trăm tuổi, đại
phú đại quí!
Tiêu Phong nghe những lời chúc tụng đó thấy dân chúng người nào
người nấy mắt rưng rưng, quả thực thành tâm thành ý nghĩ thầm: "Kẻ ở
trên ngôi cao, nhất cử nhất động đều liên quan đến họa phúc của muôn
vạn người. Khi ta bắn chết Sở Vương, chẳng qua chỉ là sính cái dũng
nhất thời, trước là cứu nghĩa huynh, sau là cứu mình, có ngờ đâu đối với
bách tính lại tốt lành đến thế. Ôi, ở Trung Nguyên ta hết sức làm điều
tốt, vậy mà người ta lại thù oán sàm báng biết bao nhiêu, thành kẻ đệ
nhất đại gian đại ác trên giang hồ. Qua đến Bắc quốc, vô ý lại thành cứu
tinh của muôn dân. Thị phi thiện ác quả là khó nói".
Ông lại nghĩ: "Nơi đây là đất nước cha mẹ ta, năm xưa cha mẹ chắc
thường qua lại con đường này. Ôi, ta nào có biết hình dáng tướng mạo
cha mẹ ta ra sao, hai ông bà cưỡi ngựa cùng nhau rong ruổi thế nào lại
càng khó tưởng ra nổi".
Thượng Kinh là kinh đô của nước Liêu. Khi đó Liêu quốc là nước
lớn nhất trong thiên hạ, so với Đại Tống cường thịnh hơn nhiều. Thế
nhưng người Khất Đan du mục là chính, sống rày đây mai đó, tại Thượng
Kinh dân cư, quán xá thật giản lậu thô sơ, so với Trung Nguyên còn kém
xa.
Quan chức thuộc Nam Viện liền ra nghinh đón Tiêu Phong vào Sở
Vương phủ, phủ đệ to lớn, bên trong trần thiết cực kỳ hoa lệ giàu sang.
Tiêu Phong một đời nghèo khổ đã từng ở nơi sang trọng như thế bao giờ?
Ông vào đi rảo một hồi bỗng thấy không quen liền sai quân sĩ thiết lập
hai tòa doanh trướng ở ngay trong quân, ông và A Tử mỗi người ở một
cái, sống thật giản phác chẳng khác gì khi trước.
Đến ngày thứ ba, Gia Luật Hồng Cơ và Hoàng thái hậu, Hoàng hậu,
tần phi, công chúa mọi người mới về đến Thượng Kinh, Tiêu Phong tất
lãnh bách quan tiếp giá. Trong triều liên tiếp bận rộn luôn mấy ngày.
Đầu tiên là lễ mừng bình được đại nạn, luận công thăng thưởng, phủ tuất
các gia đình Bắc Viện Khu Mật Sứ và quan binh mới tử trận. Hoàng thái
thúc tự thấy mình không còn mặt mũi nào nên trên đường về tự tử chết
rồi.
Hồng Cơ tuy vậy vẫn giữ lời, đối với quan binh phản nghịch không
hề truy cứu, chỉ tru sát hai mươi tên thuộc hạ của Sở Vương đầu sỏ mưu
việc phản loạn. Trong hoàng cung mở tiệc khao thưởng công lao binh sĩ,
đại yến liên tiếp ba ngày. Tiêu Phong trở nên anh hùng đệ nhất nơi bàn
tiệc. Các món thưởng của Gia Luật Hồng Cơ, Hoàng thái hậu, hoàng
hậu, các phi tần, công chúa kể cả tặng phẩm của văn võ bách quan, quả
thật chất cao như núi.
Khao thưởng xong rồi, Tiêu Phong mới đến Nam Viện xem xét
công việc. Mấy chục tộc trưởng trong các bộ tộc nước Liêu đều đến
tham kiến, nào là Ô Ngỗi, Bá Đức, Bắc Khắc, Nam Khắc, Thất Vi, Mai
Cổ Tất, Ngũ Quốc, Ô Cổ Lạp ... nhất thời không nhớ hết được. Sau đó là
quan quân bì thất đại trướng của hoàng đế, san quân thuộc hoàng hậu,
rồi các cấp Hoằng Ninh Cung, Trường Ninh Cung, Vĩnh Hưng Cung, Tích
Khánh Cung, Diên Xương Cung lần lượt đến chào. Thuộc quốc của nước
Liêu tổng cộng năm mươi chín nước, bao gồm Thổ Cốc Hỗn, Đột Quyết,
Đảng Hạng, Sa Đà, Ba Tư, Đại Lương, Hồi Cốt, Thổ Phồn, Cao Xương,
Cao Ly, Vu Khuých, Đôn Hoàng ... Những nước đó đều có sứ thần tại
Thượng Kinh, nghe tin Tiêu Phong nắm giữ quân quốc trọng quyền, đều
đến tặng những món quí giá lạ lùng để lấy lòng làm quen.
Tiêu Phong ngày ngày khi thì tiếp khách, khi gặp bộ thuộc, mắt
thấy toàn là vàng bạc châu báu, tai nghe những điều xưng tụng tán
dương, không khỏi chán chường. Cứ như thế đến hơn một tháng Gia Luật
Hồng Cơ mới vời vào điện, bảo:
- Huynh đệ, chức phận ngươi là Nam Viện Đại Vương nên tọa trấn
Nam Kinh6, chờ thời tiến đánh Trung Nguyên. Người anh này tuy không
muốn xa cách ngươi, nhưng để lập kỳ công thiên thu vạn thế, ngươi mau
sớm đem binh xuống phía nam.
Tiêu Phong nghe hoàng thượng sai mình đem quân nam chinh, trong
bụng kinh hoảng nói:
- Tâu bệ hạ, nam chinh là chuyện đại sự, cực kỳ quan trọng, thần
Tiêu Phong chỉ là một võ dũng thất phu, quân lược quả không phải là sở
trường.
Gia Luật Hồng Cơ cười nói:
- Nước ta vừa trải qua một cơn họa loạn, cần cho sĩ tốt nghỉ ngơi. Ở
Đại Tống hiện nay Thái hậu đang nắm quyền, trọng dụng Tư Mã Quang,
cải cách triều chính không có sơ hở nào để khai thác, chúng ta chưa thể
tính chuyện nam chinh được. Này huynh đệ, ngươi đến Nam Kinh, trong
đầu lúc nào cũng phải nghĩ đến việc thôn tính Nam triều. Chúng ta cần
phải lựa gió phất cờ, hễ Nam triều có nội biến là lập tức đưa binh xuống
phương nam. Còn như nội bộ họ tốt lành không có gì, nước Liêu đem
binh đến đánh có phải là dùng sức nhiều mà thành công ít hay sao?
Tiêu Phong đáp:
- Vâng! Quả là như thế!
Hồng Cơ nói:
- Thế nhưng sao ta lại biết được Nam triều nội chính khéo léo, trăm
họ nhân tâm qui phục?
Tiêu Phong đáp:
- Thần mong được bệ hạ chỉ điểm.
Hồng Cơ cười sằng sặc nói:
- Từ xưa đến nay cũng đều thế cả, cốt sao đem nhiều tiền bạc tài
bạch mua kẻ gian tế gián điệp. Người nam tham tiền, bọn hèn hạ xấu xa
đông lắm, ngươi hãy ra lệnh cho Nam Bộ Khu Mật Sứ đừng tiếc tài bảo,
cố mua được càng nhiều càng tốt.
Tiêu Phong vâng lệnh từ biệt ra về, trong lòng buồn bã. Ông xưa
nay chỉ kết giao anh hùng hào kiệt, tuy những chuyện lén hãm hại nhau,
mai phục hạ độc chứng kiến đã nhiều, nhưng toàn là những việc giết
người đốt nhà một cách sảng khoái chứ chưa từng đem tiền bạc đi mua
chuộc người ngoài bao giờ. Hơn nữa tuy ông là người Liêu nhưng từ nhỏ
lớn lên ở Nam triều, hoàng đế sai ông tính toán tiêu diệt nhà Đại Tống,
trong lòng quả hết sức miễn cưỡng nghĩ thầm: "Ca ca có lòng tốt phong
ta làm Nam Viện Đại Vương, nếu ta chỉ vì chuyện này từ quan, không
khỏi phụ thịnh tình của anh ta, thương tổn nghĩa khí huynh đệ. Đợi ta
xuống Nam Kinh, làm quan sáu tháng một năm, hãy xin từ chức cũng
kịp. Khi đó nếu nghĩa huynh không chịu thì ta mới treo áo, buộc ấn bỏ đi
anh ta không trách gì được". Nghĩ thế ông tất lãnh bộ thuộc, dắt A Tử
xuống Nam Kinh.
Nam Kinh thời nhà Liêu tức là Bắc Kinh ngày nay, khi đó gọi là
Yên Kinh, còn gọi là U Đô, là kinh đô của U Châu. Thạch Kính Đường
nhà Hậu Tấn tự lập xưng đế được nước Liêu hết sức phù trì nên cắt Yên
Vân mười sáu châu để đền ơn. Yên Vân mười sáu châu bao gồm U, Kế,
Trác, Thuận, Đàn, Doanh, Mạc, Tân, Quy, Nho, Võ, Úy, Vân, Ứng,
Hoàn, Sóc đều là những nơi quan trọng ở Ký Bắc, Tấn Bắc.
Từ khi cắt đất cho nước Liêu rồi, các đời Hậu Tấn, Hậu Chu, Đại
Tống ba triều đại nhiều năm tranh đoạt nhưng vẫn không sao lấy lại
được. Mười sáu châu Yên Vân địa thế hiểm yếu, nước Liêu trú đóng
trọng binh, mỗi lần đem binh xuống đánh phương nam chạy thẳng một
mạch, toàn là bình nguyên khiến Đại Tống không có cách gì thủ ngự.
Tống Liêu giao binh hơn trăm năm qua, nhà Tống không thắng trận nào,
dĩ nhiên chủ yếu là vì binh giáp không bằng nhưng người Liêu từ cao
đánh xuống khống chế được chiến trường quả là đã chiếm được tiện nghi
thật lớn.
Tiêu Phong vào thành rồi, thấy đường sá ở Nam Kinh rộng rãi, thị tứ
phồn hoa hơn xa Thượng Kinh, người qua kẻ lại đều là dân chúng Nam
triều, nghe toàn là tiếng nói Trung Nguyên, thật chẳng khác gì đã quay
về Trung Thổ. Tiêu Phong và A Tử đều rất vui mừng, hôm sau liền ăn
mặc giản dị, đi du ngoạn khắp các nơi.
Thành Yên Kinh vuông vức ba mươi sáu dặm, bao gồm tám cửa.
Phía đông là cửa An Đông, cửa Nghinh Xuân; phía nam là cửa Khai
Dương, cửa Đan Phượng; phía tây là cửa Hiển Tây, cửa Thanh Tấn; còn
phía bắc là cửa Thông Thiên, cửa Củng Thần. Hai cửa phía bắc sở dĩ gọi
là Thông Thiên, Củng Thần7 ý nói thần phục, tuân theo thánh chỉ của
hoàng đế. Vương phủ của Nam Viện Đại Vương ở phía tây nam. Tiêu
Phong và A Tử du ngoạn hồi lâu, thấy phố chợ, công thự, chùa chiền,
đạo quan san sát khắp nơi đi xem một lúc không hết được.
Khi đó Tiêu Phong giữ chức Nam Viện Đại Vương, Yên Vân mười
sáu châu đều dưới quyền ông cai quản, cả phủ Đại Đồng ở Tây Kinh,
phủ Đại Định ở Trung Kinh cũng đều phải nghe hiệu lệnh. Uy vọng lớn
như thế không thể nào ở một chỗ doanh trướng bé nhỏ nên đành phải
dọn vào vương phủ.
Ông coi việc mấy ngày đầu váng mắt hoa, thật là khổ sở thấy Nam
Viện Khu Mật Sứ Gia Luật Mạc Ca tinh minh mẫn cán, quen thuộc chính
vụ nên bao nhiêu việc giao cho y cả.
Thế nhưng làm quan to cũng có chỗ hay, trong vương phủ những
dược phẩm quí giá nhiều không biết bao nhiêu mà kể, A Tử dùng làm
thức ăn hàng ngày. Nhờ bổ dưỡng như thế, nội thương của nàng mỗi
ngày một đỡ, đến đầu mùa đông đã có thể đi lại một mình. Nàng du
ngoạn trong thành Yên Kinh đã nhiều, về sau lại bảo Thất Lý theo hầu,
đưa đi chơi khắp các nơi chung quanh thành mười dặm.
Hôm đó tuyết đổ vừa ráo hạt, A Tử mặc điêu cừu, đến Tuyên Giáo
Điện nơi Tiêu Phong cư ngụ nói:
- Tỉ phu ơi, em ở trong thành này chán muốn chết, anh đưa em đi
săn nhé.
Tiêu Phong ở trong cung điện đã lâu, cũng thấy phiền muộn, nghe
nàng nói thế, trong bụng cũng mừng bèn sai thuộc hạ chuẩn bị ngựa để
ra ngoài săn bắn. Ông không muốn rềnh rang, chỉ đem theo vài tùy tòng
phục thị A Tử, lại ngại bách tính dòm ngó nên thay áo lông cừu quân sĩ
thường mặc, đem theo một cánh cung, một túi tên, nhảy lên ngựa cùng A
Tử đi ra cửa Thanh Tấn ở phía tây.
Đoàn người ra khỏi thành hơn chục dặm, chỉ săn được vài con thỏ.
Tiêu Phong nói:
- Bọn mình đến biên giới phía nam xem thế nào.
Ông chuyển đầu ngựa, quay sang hướng nam, lại đi hơn hai chục
dặm, thấy một con cheo8 từ trong bụi chạy ra. A Tử cầm mũi tên trên tay
để vào dây, ngờ đâu cánh tay hoàn toàn không có chút hơi sức nào, cánh
cung không giương lên được. Tiêu Phong đưa cánh tay trái từ phía sau
nàng thò qua nắm thân cung, tay phải cầm tay nàng kéo dây, buông tay
nghe vút một tiếng, vũ tiễn phóng ra, con cheo liền ngã ngay xuống.
Những người đi theo reo ầm cả lên.
Tiêu Phong bỏ tay ra nhìn A Tử mỉm cười, thấy nàng mắt rưng rưng,
lạ lùng hỏi:
- Sao thế? Không thích ta giúp em bắn dã thú ư?
A Tử nước mắt chảy dài xuống má thổn thức:
- Em ... em thành phế nhân rồi, đến giương cung ... mà cũng chẳng
xong.
Tiêu Phong dỗ dành:
- Đừng có nóng ruột, từ từ rồi sẽ hồi phục lực khí. Nếu như quả là
tương lai không khỏi, ta sẽ truyền cho cô cách tập nội công, thể nào cũng
tăng gia sức khỏe.
A Tử đang khóc bật cười nói:
- Tỉ phu đã nói thế thì phải giữ lời, thể nào cũng dạy em nội công
đấy nhé.
Tiêu Phong đáp:
- Được mà! Thể nào ta cũng dạy cho cô.
Trong khi đang nói chuyện, bỗng nghe từ phương nam có tiếng chân
ngựa rầm rập, một đại đội nhân mã từ trên mặt tuyết chạy tới. Tiêu
Phong đưa mắt nhìn về phía đó thấy đội này toàn là quan binh người
Liêu nhưng không giương cờ. Bọn quan quân vừa đi vừa nói chuyện xôn
xao, ca hát cực kỳ khoái trá, sau ngựa buộc khá nhiều tù binh, tưởng
chừng như vừa thắng trận trở về. Tiêu Phong nghĩ thầm: "Mình làm gì có
giao chiến với ai, những người này đánh trận ở đâu trở về thế này?".
Ông thấy đoàn quan binh chuyển qua phía đông trở về thành liền quay
sang nói với kẻ tùy tòng:
- Ngươi ra hỏi xem đội lính kia làm gì về thế?
Gã tùy tòng liền đáp: "Vâng" rồi hỏi:
- Có phải các anh em "đi gặt" về đấy chăng?
Y giục ngựa chạy thẳng đến chỗ bọn kia. Khi tới gần y nói mấy câu,
bọn quan binh nghe thấy có Nam Viện Đại Vương đang ở tại đây liền
lớn tiếng reo hò, lập tức nhảy xuống ngựa, dây cương cầm tay rảo bước
đi tới trước Tiêu Phong, khom lưng hành lễ cùng nói:
- Đại vương thiên tuế!
Tiêu Phong giơ tay chào lại đáp:
- Miễn lễ!
Ông thấy đội binh này chừng hơn tám trăm người, trên lưng ngựa
chất đầy quần áo khí vật, số người bị bắt cũng phải đếm bảy tám trăm,
phần lớn là đàn bà còn trẻ nhưng cũng có một số thanh niên, ăn mặc đều
theo lối người Tống, người nào người nấy khóc khóc mếu mếu.
Gã đội trưởng nói:
- Hôm nay đến lượt đội Hắc Lạp Đốc chúng tôi "đi gặt", nhờ phúc
đại vương nên thu được cũng kha khá.
Y quay lại quát:
- Các ngươi đem những thiếu nữ xinh đẹp nhất, vàng bạc châu báu
quí giá nhất tất cả dâng lên, xin đại vương thiên tuế thu dụng.
Các quan binh cùng reo lên:
- Tuân lệnh!
Đem ra hơn hai chục cô gái đẩy đến trước đầu ngựa Tiêu Phong, lại
lấy ra rất nhiều kim ngân trang sức bỏ đầy một tấm chăn da. Các quan
binh chăm chú nhìn Tiêu Phong, ánh mắt đầy vẻ sùng kính trọng vọng,
hiển nhiên nếu được Nam Viện Đại Vương thu dụng đám con gái và
những món ngọc ngà này thì quả là vinh hạnh.
Hôm xưa Tiêu Phong ở ngoài Nhạn Môn Quan đã thấy quan binh
nhà Đại Tống bắt người Khất Đan, lần này lại thấy người Khất Đan đi
bắt người Đại Tống, những người bị giải đi ai nấy thê thảm khốn khổ
chẳng khác gì nhau. Ông ở nước Liêu đã lâu, hiểu biết quân tình Liêu
quốc. Triều đình nước Liêu không cấp lương cho lính, cũng chẳng trả
tiền, quan binh cần gì đều phải sang đoạt của bên địch, mỗi ngày sai lính
qua cướp của dân bên Đại Tống, Tây Hạ, Nữ Chân, Cao Ly các nước lân
cận, gọi là "gặt hái", thực ra so với cường đạo cũng chẳng khác gì. Quan
binh Tống triều cũng lại đi qua "gặt hái" của người Liêu để trả thù.
Thành thử dân chúng ở vùng biên giới khốn khổ vô cùng, ngày nào cũng
nơm nớp, sáng lo chiều lo. Tiêu Phong thấy phương thức đó tàn nhẫn vô
đạo, có điều mình không tính chuyện lâu dài nên định bụng sẽ chỉ vờ vịt
làm việc một thời gian rồi xin từ quan ẩn cư, thành thử các việc quân
quốc đại sự không đưa ra chủ trương gì, bây giờ chính mắt thấy thảm
trạng những người bị bắt, không khỏi chạnh lòng thương hại bèn hỏi gã
đội trưởng:
- Các ngươi ở đâu ... "gặt hái" ở đâu về thế?
Gã đội trưởng cung kính đáp:
- Bẩm cáo đại vương, chúng tôi "đi gặt" tại bên ngoài cảnh giới
Trác Châu, phía bên Đại Tống. Từ khi đại vương tới đây, thuộc hạ không
dám đi kiếm lương thực gần quanh bản châu nữa.
Tiêu Phong nghĩ thầm: "Nghe y nói, trước đây bọn họ đi cướp của
người Tống ngay tại bản châu". Ông dùng tiếng Hán hỏi một thiếu nữ
đang đứng trước đầu ngựa:
- Cô là người ở đâu?
Người con gái kia lập tức quì xuống, khóc nói:
- Tiểu nữ là người ở Trương gia thôn, cầu đại vương khai ân, thả cho
tiểu nữ trở về đoàn tụ với cha mẹ.
Tiêu Phong quay đầu nhìn những người kia. Tất cả mấy trăm người
bị bắt đều quì xuống nhưng trong đám người có một thanh niên đứng
sừng sững không chịu quì.
Thanh niên đó trạc độ mười sáu, mười bảy, mặt dài mà gầy, cằm
nhọn, đôi mắt láo liên bất định. Tiêu Phong liền hỏi:
- Cậu bé kia, nhà ngươi ở đâu?
Thanh niên kia đáp:
- Tiểu nhân có một bí mật đại sự, muốn bẩm riêng lên đại vương.
Tiêu Phong đáp:
- Được, ngươi lại đây!
Thanh niên đó hai tay bị dây thừng trói chặt, nói:
- Xin đại vương đứng xa bộ thuộc, việc này không thể để người
khác nghe thấy được.
Tiêu Phong nổi bụng hiếu kỳ nghĩ thầm: "Một đứa bé thế này làm
gì mà biết được chuyện cơ mật đại sự? Phải rồi, ngươi từ biên giới phía
nam qua đây, chắc là biết chuyện gì về quân tình Đại Tống chăng?". Y
là người Tống, đem chuyện cơ mật bẩm báo cho người Khất Đan, là loại
Hán gian vô liêm sỉ nên ông đã có bụng khinh khi, nhưng y nói là có
chuyện trọng đại, có nghe cũng không mất mát gì, bèn phóng ngựa ra
cách khoảng chục trượng, giơ tay vẫy:
- Lại đây!
Gã thanh niên kia liền đi theo, giơ hai tay lên nói:
- Xin đại vương cắt dây trói, tiểu nhân có vật để trong túi muốn
trình lên.
Tiêu Phong rút phắt yêu đao, giơ lên chém xuống, thế đao tưởng
chừng chặt y ra làm đôi, nhưng lại thật chuẩn xác, chỉ cắt đúng sợi dây
thừng trói hai tay. Gã thanh niên hoảng hốt, lùi lại hai bước, nhìn Tiêu
Phong xuất thần. Tiêu Phong mỉm cười, tra đao vào vỏ hỏi:
- Ngươi có cái gì?
Gã thanh niên đưa tay vào túi, lấy một vật gì đó ra cầm trên tay nói:
- Đại vương xem thì biết.
Nói xong y đến trước đầu ngựa Tiêu Phong, ông liền đưa tay ra đón
lấy. Đột nhiên, gã thanh niên cầm vật ở trong tay ném thẳng vào mặt
Tiêu Phong, Tiêu Phong liền vung roi lên đánh văng vật đó ra ngoài, thì
ra đó là một cái túi nhỏ. Cái túi đó rơi xuống đất, phấn trắng tung tóe
khắp nơi, là một túi bột vôi sống, nếu trúng mặt vào mắt thì sẽ mù ngay.
Đây là một vật thấp hèn mà bọn giang hồ hạng ba, trộm gà bắt chó
thường dùng.
Tiêu Phong hừ một tiếng, nghĩ thầm: "Thằng bé này lớn mật, thì ra
không phải là Hán gian". Ông gật đầu hỏi:
- Ngươi tên chi? Cớ sao lại có bụng hại ta?
Thanh niên đó mím chặt môi, không trả lời. Tiêu Phong dịu mặt nói:
- Ngươi mau nói ta nghe, ta sẽ tha mạng cho.
Thanh niên đáp:
- Ta báo thù cho cha mẹ không xong, còn gì để nói nữa.
Tiêu Phong hỏi:
- Cha mẹ ngươi là ai? Không lẽ bị ta giết sao?
Gã thanh niên bước tới hai bước, mặt đầy vẻ bi phẫn, chỉ vào mặt
Tiêu Phong lớn tiếng nói:
- Kiều Phong, ngươi giết chết cha ta, mẹ ta, cả bác ta, ta ... ta giận
không được ăn thịt, rút gân lột da, băm vằm ngươi thành vạn mảnh.
Tiêu Phong nghe y gọi cái tên cũ ngày xưa của mình, lại bảo mình
giết cha mẹ và bá phụ, ắt hẳn là kẻ thù ngày trước ở Trung Nguyên, bèn
hỏi:
- Bá phụ ngươi là ai? Phụ thân là ai?
Thanh niên đáp:
- Ta chẳng muốn sống làm gì nên cũng cần cho ngươi biết, nam nhi
họ Du ở Tụ Hiền Trang có phải là phường tham sống sợ chết đâu!
Tiêu Phong "À" lên một tiếng nói:
- Thì ra ngươi là con cháu của Du thị song hùng, lệnh tôn có phải là
Du Câu Du nhị gia không?
Ông ngừng lại một chút nói tiếp:
- Hôm đó ta bị quần hùng Trung Nguyên vây đánh ở quí trang, bắt
buộc phải ứng chiến, không thể làm cách nào khác hơn. Lệnh tôn và
lệnh bá phụ đều tự vẫn mà chết.
Ông nói tới đây lắc đầu tiếp:
- Ôi, tự vẫn hay bị giết thì cũng vậy. Hôm đó ta đoạt binh khí của
bá phụ và gia gia ngươi để đến nỗi ép họ phải tự vẫn. Tên ngươi là gì?
Gã thanh niên ưỡn ngực, lớn tiếng đáp:
- Ta tên là Du Thản Chi. Ta không cần ngươi phải giết, ta học được
cái gương sáng của bá phụ và gia gia rồi.
Nói xong y thò tay vào ống quần, lấy ra một thanh đoản đao, giơ lên
đâm luôn vào ngực. Roi ngựa của Tiêu Phong lại vung ra, cuốn lấy con
dao, đoạt luôn. Du Thản Chi giận dữ, chửi liền:
- Ta muốn tự vẫn cũng không cho hay sao? Tên Liêu cẩu đáng chết
kia, bụng dạ ngươi độc ác thật.
Lúc này A Tử đã giục ngựa chạy đến bên Tiêu Phong, quát lên:
- Thằng tiểu quỉ kia, sao dám mở miệng nhục mạ người khác?
Ngươi muốn chết ư, ha ha, đâu có dễ thế.
Du Thản Chi đột nhiên nhìn thấy một cô gái xinh đẹp thanh tú, ngơ
ngẩn nhìn, không nói ra lời. A Tử hỏi:
- Tiểu quỉ, cái cảnh mù lòa thật thích thú, rồi đây ngươi sẽ được
nếm mùi.
Nàng quay lại nói với Tiêu Phong:
- Tỉ phu, tên tiểu tử này tàn độc quá, dám dùng vôi sống để hại anh,
vậy mình lấy ngay vôi đó phế đôi mắt nó cho biết.
Tiêu Phong lắc đầu, quay sang nói với tên lãnh binh đội trưởng:
- Bọn người Tống đi gặt bắt được hôm nay, giao lại cho ta có được
chăng?
Gã đội trưởng mừng rỡ không để đâu cho hết vội đáp:
- Được đại vương để mắt tới thì còn gì hơn, xin đa tạ ân điển đại
vương.
Tiêu Phong nói:
- Những quan binh nào hiến tù binh bắt được cho ta, trở về nhớ đến
vương phủ lãnh thưởng.
Các quan binh vui vẻ đáp:
- Chúng bộ thuộc thành tâm dâng lên đại vương, không cần phải
thưởng.
Tiêu Phong nói:
- Các ngươi để những kẻ bắt được lại đây, về thành trước đi, nhớ
đến lãnh thưởng.
Bọn quan binh khom lưng tạ ơn. Gã đội trưởng hỏi:
- Nơi đây dã thú không có bao nhiêu, chắc đại vương muốn dùng
bọn Tống chư làm bia sống chứ gì? Trước đây Sở Vương vẫn thích trò
này lắm. Chỉ tiếc hôm nay chúng tôi bắt được phần lớn là đàn bà, chạy
không nhanh. Lần sau chúng tôi sẽ cố bắt những con lợn Tống khỏe
mạnh.
Nói xong hành lễ dẫn binh đi. "Muốn dùng bọn Tống chư làm bia
sống chứ gì", câu đó lọt vào tai, Tiêu Phong không khỏi rùng mình, trước
mắt như hình dung ra cái cảnh tàn bạo của Sở Vương năm xưa: mấy trăm
người Tống chạy thục mạng trên mặt tuyết chẳng khác gì dã thú, trong
khi quí nhân người Khất Đan cười sằng sặc, giương cung lắp tên bắn chết
từng người một. Nếu như có người Tống nào chạy được xa, người Khất
Đan cưỡi ngựa rượt theo, chẳng khác gì săn nai, đuổi chồn, rồi thì ai ai
cũng chết cả. Cái thảm cảnh đó, người Khất Đan thuận mồm nói ra,
chẳng có gì là lạ, hẳn là trước đây đã quen. Ông đưa mắt nhìn qua bọn
người bị bắt, thấy ai nấy mặt tái mét, run lẩy bẩy trong gió lạnh. Những
người dân nơi biên tái này có kẻ biết tiếng Khất Đan, đã từng nghe
chuyện "bắn bia sống", bây giờ sợ đến mất vía.
Tiêu Phong thở dài nhìn xuống núi non trùng điệp ở phương Nam
nghĩ thầm: "Nếu như không có người tiết lộ thân thế thì đến giờ này ta
vẫn nghĩ mình là dân Đại Tống. Ta cùng bọn người này nói chung một
thứ tiếng, ăn cùng một thứ cơm, có khác gì đâu? Vì sao ai cũng là người,
lại phải gượng gạo chia ra nào là Khất Đan, Đại Tống, Nữ Chân, Cao Ly
làm chi? Ngươi sang đất ta ngươi "gặt lúa", ta sang đất ngươi ta đốt nhà?
Ngươi chủi ta là chó Liêu, ta mắng ngươi là lợn Tống?". Trong nhất thời,
lòng ông cảm khái dạt dào như sóng biển.
Ông nhìn lại thấy đám quan binh đi kiếm lương kia đã khuất nẻo
không còn đâu nữa bèn quay qua nói với đám nạn dân:
- Hôm nay ta thả các ngươi về, mau mau chạy đi thôi.
Bọn người bị bắt vẫn tưởng Tiêu Phong thả cho họ chạy, sau đó sẽ
bắn chết nên vẫn chần chờ không chịu đi. Tiêu Phong lại tiếp:
- Các ngươi về rồi, tốt nhất rời xa biên giới, để khỏi bị người ta đi
"gặt lúa" bắt lần nữa. Ta chỉ cứu các ngươi được một lần, không cứu
được lần thứ hai đâu.
Những nạn nhân bây giờ mới tin là thật, vui mừng reo hò, tất cả
cùng quì xuống khấu đầu nói:
- Đại vương ân đức tày non, tiểu dân về nhà khấn vái cầu cho đại
vương sống lâu giầu bền, ngôi cao mãi mãi.
Bọn họ sớm biết người dân Tống bị bọn Liêu binh "gặt lúa" bắt
được rồi, trừ người thật giàu có có tiền bạc gấm vóc đem ra chuộc mạng,
còn không đều bỏ thân xứ người đến nắm xương cũng không mang được
về nhà. Tống Liêu hai bên giao tranh lâu năm, người có tiền sớm chạy
vào sâu nội địa rồi, còn lại sống nơi biên cảnh chỉ toàn là dân nghèo
khổ, làm gì có ai giàu có mà đem tiền chuộc mạng? Ai cũng biết mình
thật không bằng con cừu con ngựa, được vị đại vương nước Liêu tha cho
về thật mừng rỡ không đâu kể xiết.
Tiêu Phong thấy những nạn dân mặt tươi rói, người nọ dìu người kia
đi về hướng nam nghĩ thầm: "Người Khất Đan ta bắt họ tới đây, rồi lại
thả cho về, trên đường đi kinh hoàng một phen, lại chịu biết bao khổ sở,
ta nào có gì gọi là ân đức đối với họ?".
Ông thấy những người khốn khổ kia đi đã xa, còn Du Thản Chi vẫn
đứng sừng sững tại chỗ, bèn nói:
- Sao ngươi không chạy đi? Ngươi trở về Trung Nguyên có tiền bạc
gì không?
Ông vừa nói vừa thò tay vào túi, định cho y ít kim ngân, nhưng trong
mình không mang theo tiền tài, mò vào chỉ thấy một cái bao giấy dầu
nhỏ. Ông trong lòng chua xót, trong chiếc bao chỉ có một bộ Dịch Cân
Kinh viết bằng chữ Phạn mà hôm trước A Châu ăn trộm được ở chùa
Thiếu Lâm, ép mình phải cầm lấy, mà nay người mất kinh còn, làm sao
không buồn bã? Ông tiện tay bỏ chiếc bao trở lại vào túi nói:
- Ta hôm nay đi săn, không mang theo tiền, nếu ngươi không có gì
tiêu thì theo ta vào thành mà lấy.
Du Thản Chi lớn tiếng nói:
- Họ Kiều kia, ngươi muốn giết thì cứ giết, muốn lóc da xẻ thịt thì
cứ việc chứ đừng dùng ngụy kế làm nhục ta? Họ Du này dù có chết đói
cũng không thèm nhận một văn tiền của ngươi đâu!
Tiêu Phong nghĩ lại y nói không sai, mình là kẻ thù giết cha, mối
thâm cừu bất cộng đái thiên kia làm sao hóa giải, có nói thêm cũng vô
ích bèn bảo:
- Ta không giết ngươi đâu! Ngươi muốn báo thù thì lúc nào đến
kiếm ta cũng được.
A Tử vội nói:
- Tỉ phu, thả y không được. Tên tiểu tử này báo thù không dùng
cách thức đàng hoàng chân chính, chỉ dùng thủ đoạn hạ lưu hèn hạ. Chi
bằng nhổ cỏ nhổ tận rễ để khỏi di họa về sau.
Tiêu Phong lắc đầu:
- Trên giang hồ đâu đâu cũng đầy chông gai, chỗ nào cũng toàn
hung hiểm, ta đều đi qua cả rồi. Cỡ người như y không làm gì nổi ta đâu.
Hôm xưa ta khiến cho bá phụ và cha y phải tự vẫn, quả thực không phải
chủ mưu, nhưng món nợ máu đó ta thiếu đã lâu rồi, việc gì phải giết cả
con cháu Du thị song hùng nữa làm chi?
Ông nói tới đây, thấy lòng nguội lạnh bèn bảo:
- Thôi mình đi về, hôm nay chẳng có gì mà săn nữa.
A Tử bĩu môi nói:
- Em thấy nếu như được bắt gã này về hành hạ một phen cho bõ
ghét thì cũng thú vị! Anh thả y rồi, về thành còn có gì để vui đâu?
Thế nhưng nàng không dám cãi lời Tiêu Phong, đành quay đầu
ngựa, cùng Tiêu Phong sóng cương trở về, đi được mấy trượng quay đầu
nói:
- Tiểu tử kia, ngươi về luyện thêm một trăm năm nữa, lúc đó hãy
kiếm tỉ phu ta báo thù.
Nói xong nàng cười khẩy, giơ roi quất ngựa chạy đi.
Chú Thích :
1 Trướng của nhà vua (xem ở dưới)
2 Quân đi dò thám, tiền sát viên
3 Điểm này Kim Dung không biết căn cứ vào đâu. Theo sử sách, ngay trong giai
đoạn thịnh trị nhất, nước Liêu cũng chỉ độ hơn ba triệu người, trong đó người Khất
Đan chừng non một triệu, còn lại là người Hán dưới quyền cai trị của họ (do việc
đánh chiếm và nhường đất của Tống triều). Tuy dân số không đông, họ rất thiện
chiến. Trong thời kỳ này, người Nữ Chân chỉ mới là một bộ tộc, cũng dưới quyền
kiểm soát của người Khất Đan chứ chưa tách riêng thành một nước riêng biệt. Với
dân số như thế thật khó mà có được một đội quân non một triệu người. Hơn nữa, số
binh lính điều động trong một chiến dịch thường chỉ một phần nào trong toàn bộ
binh lính trong nước chứ không phải muốn đem bao nhiêu thì đem. Đi săn mà mang
theo 10 vạn quân là điều khó tin.
4 ỷ mình không kiêng nể gì cả
5 Chính sử chép như sau: Vua Khất Đan Đạo Tông Gia Luật Hồng Cơ đi săn ở
Loan Hà Thái Tử Sơn, Hoàng thái thúc Gia Luật Trọng Nguyên khởi binh tấn công
hành cung (nơi vua đang ở), Nam Viện Khu Mật Sứ Gia Luật Nhân Tiên đánh trả,
Gia Luật Trọng Nguyên thua chạy, tự sát (Bá Dương: Trung Quốc Lịch Sử niên
biểu - tập hạ [in lần thứ sáu] Tinh Quang Đài Bắc 2001 tr. 963-964)
6 tức Bắc Kinh ngày nay
7 Củng Thần là tinh tú chầu về ý nói nhà vua như sao Bắc Thần (Bắc Cực) ở giữa,
các ngôi sao đều chạy theo
Chết đi sống lại mấy lần,
Một thân gánh chịu muôn phần khổ đau.
Kim chi ngọc diệp còn đâu,
Đầu đeo lồng sắt xiết bao thảm hình.
*
* *
Du Thản Chi thấy Tiêu Phong cùng đoàn người đi thẳng về hướng
bắc, không thấy quay lại, lúc ấy mới chắc rằng mình thoát chết, nghĩ
thầm: Tên gian tặc này sao không giết ta nhỉ? Hừ, chắc là y coi ta chẳng
vào đâu, giết mình chỉ thêm bẩn tay. Y ... y ở nước Liêu làm cái chức đại
vương quái gì đó, mình sau này báo thù xem ra còn khó hơn. Thế nhưng ít
nhất mình cũng biết được tên gian tặc đó ở chỗ nào.
Y cúi xuống nhặt cái túi vôi sống lên, rồi đi kiếm con dao của y mà
Tiêu Phong đoạt bằng roi ngựa vứt ra, bỗng thấy trong bụi cỏ ở bên trái
có một cái bao vải dầu nhỏ, chính là của Tiêu Phong lấy từ trong bọc ra
rồi lại bỏ trở vào, liền nhặt lên, mở ra thấy bên trong là một cuốn sách,
thuận tay lật lật mấy trang, trang nào cũng viết đầy những chữ ngoằn
ngoèo, không đọc được lấy một chữ.
Thì ra Tiêu Phong thấy vật lại nhớ người, tâm hồn lãng đãng, bỏ bản
Dịch Cân Kinh vào trong túi không kỹ nên khi ngựa lồng lên, cái bao liền
văng ra rơi vào trong đám cỏ mà không hay biết gì cả.
Du Thản Chi nghĩ thầm: Chắc cái này là chữ Khất Đan đây. Quyển
sách này tên gian tặc luôn luôn mang theo trong người, hẳn rất quan
trọng. Ta lấy luôn không trả lại, để y khổ một phen cho đáng kiếp. Y
cảm thấy có phần nào báo được thù nên trong bụng khoái chí, lấy bao vải
dầu gói cuốn sách lại, bỏ vào túi rồi thẳng đường xuôi nam.
Y từ nhỏ theo cha học võ, có điều thân thể gầy gò, cánh tay yếu ớt,
không hợp với công phu cương mãnh ngoại gia của Du Thị Song Hùng,
học ba năm võ công nhưng tiến bộ chẳng mấy tí, thật chẳng đáng gọi là
con cháu danh môn. Y học đến năm mười hai, Du Câu chán nản hết hi
vọng, mới bàn với ca ca là Du Ký. Hai người cùng tính:
- Nếu con cái nhà họ Du mình ra ngoài mà võ nghệ quều quào như
thế chẳng khiến người ta cười đến sái quai hàm hay sao? Huống chi nếu
ai nghe y là con cháu Du Thị Song Hùng, không động thủ thì thôi chứ ra
tay thì phải toàn lực, ngay chiêu đầu đã lấy mạng y rồi. Chi bằng cho y
học văn, có thế mới bảo toàn được tính mạng.
Thành thử Du Thản Chi từ mười hai tuổi trở lên thì không học võ
nữa, Du Câu mới mời một vị túc nho dạy y văn chương. Thế nhưng y học
chữ cũng không chuyên cần, lúc nào hồn vía cũng để đâu đâu. Thầy đồ
dạy:
- Tử viết: Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ?1 Y liền đáp:Cái
đó cũng còn phải xem học cái gì mới biết được, gia gia dạy đệ tử đánh
quyền, con học rồi tập luyện, có thấy vui sướng gì đâu.
Thầy đồ cáu tiết nói:
- Khổng phu tử nói là nói chuyện học đạo thánh hiền, đại nghiệp
kinh bang tế thế chứ nào phải là chuyện múa quyền đánh gậy đâu?
Du Thản Chi nói:
- Được, thầy bảo cha con, bác con múa quyền đánh gậy là chẳng ra
gì, để con đi nói cho cha con biết.
Cứ như thế y làm cho thầy đồ tức quá phải bỏ đi. Y liên tiếp chọc
giận hết thầy đồ này tới thầy đồ khác không ai chịu nổi, Du Câu đánh nó
không biết bao nhiêu trận, nhưng thằng bé này càng đánh càng lỳ lợm.
Du Câu thấy con chẳng vâng lời, cứng đầu khó dạy chẳng biết làm sao
chỉ còn nước thở dài sườn sượt, để ra sao thì ra. Thành thử năm nay Du
Thản Chi đã mười tám rồi, tuy dòng dõi danh môn mà thật đúng là văn
dốt võ dát, đến khi bá phụ và phụ thân tự vẫn, mẫu thân đập đầu vào cột
tuẫn phu, y cô khổ lênh đênh, đi lang thang không nhà không cửa, trong
đầu lúc nào cũng chỉ nghĩ đến việc làm sao kiếm được Kiều Phong để
báo thù.
Trận đại chiến Tụ Hiền Trang hôm đó, y náu ở góc nhà xem đánh
nhau, tướng mạo hình dạng Kiều Phong y đã ghi nhớ kỹ càng, nghe nói
ông người Khất Đan bèn tất tưởi đi lên miền bắc. Y thấy trên giang hồ
một tên du thủ du thực ném vôi sống làm mù mắt địch nhân, cảm thấy
cách này có thể dùng được, nên cũng học theo tìm một gói vôi bột dắt
trong người. Y ở biên giới chạy đôn chạy đáo để sao bọn quan binh Khất
Đan đi gặt lúa bắt được thành ra mới gặp Tiêu Phong, có dịp ném bao
vôi bột ra quả thực là cơ hội ngàn năm một thuở.
Y trong bụng nghĩ thầm: Việc trước mắt là chạy sao cho càng xa
càng tốt đừng để y bắt lại được. Rồi mình sẽ tìm cách đi bắt một con rắn
độc hay một con rết lớn, len lén vứt vào giường y, y vừa chui vào chăn là
nó cắn chết tươi. Còn tiểu cô nương kia ... còn tiểu cô nương kia, chao ôi,
sao ... sao mà có người đẹp thế!.
Y vừa nghĩ đến khuôn mặt A Tử, lồng ngực thấy nóng hổi, rồi mặt
cũng bừng bừng chỉ còn nghĩ: Không biết đến bao giờ mình mới được
gặp lại cô gái xinh đẹp có khuôn mặt xanh xao, thân hình ẻo lả kia.
Y cúi đầu rảo bước, chẳng mấy chốc đã vượt qua đoàn người vừa
được Tiêu Phong thả ra. Có người tử tế gọi y nhập bọn đi chung, y cũng
chẳng thèm để ý, cứ lầm lũi mà đi. Đi được hơn chục dặm, bụng đói đến
kêu lên ùng ục, y đưa mắt nhìn ngang nhìn ngửa xem có gì ăn được không
nhưng trên thảo nguyên ngoài cỏ khô và tuyết trắng ra chẳng còn gì khác
nghĩ thầm: Nếu như mình là con bò, con cừu thì tốt biết mấy. Ăn cỏ
uống tuyết thật sung sướng bao nhiêu. Ôi, nếu như mình chỉ là một con
cừu non, người ta đem cha mẹ mình hai con vật già ấy xẻ thịt ăn thì liệu
mình có báo thù không nhỉ? Thù cha mẹ không đội trời chung, dĩ nhiên
phải trả rồi. Thế nhưng báo thù cách nào đây? Lấy hai cái sừng húc gã đồ
tể giết cha mẹ mình ư? Người ta nuôi bò nuôi cừu, vốn là để xẻ ra làm
thịt ăn, sao lại nói đến chuyện trả thù được?.
Y nghĩ ngợi gần xa, lại cất bước đi, đột nhiên nghe tiếng chân ngựa
lộp cộp, ba gã kỵ binh Khất Đan từ trên mặt tuyết chạy tới, vừa thấy y đã
lớn tiếng reo hò. Một tên Khất Đan vung sợi dây thòng lọng trên tay ra,
nghe soạt một tiếng quàng ngay vào cổ Du Thản Chi, kéo một cái sợi dây
liền xiết lại. Du Thản Chi đưa tay toan gỡ, tên Khất Đan huýt một tiếng,
con ngựa liền chạy tới. Du Thản Chi đứng không vững, ngã lăn ra, bị gã
kia lôi đi xềnh xệch. Du Thản Chi kêu lên thảm thiết nhưng chỉ được mấy
tiếng thì cổ họng đã bị dây thừng chẹn rồi, không còn ú ớ được nữa.
Tên Khất Đan cũng sợ y chết ngạt nên dừng cương lại. Du Thản Chi
ở dưới đất cố gắng lồm cồm đứng lên, gỡ chiếc dây đang buộc nơi cổ. Gã
Khất Đan kéo mạnh một cái, Du Thản Chi lảo đảo, lại ngã phịch xuống,
ba tên Khất Đan cùng cười sằng sặc. Tên Khất Đan cầm sợi dây buộc cổ
Du Thản Chi nói mấy tiếng nhưng y không hiểu được câu nào, chỉ biết
lắc đầu. Gã Khất Đan vẫy tay một cái, lại giục ngựa chạy tiếp nhưng lần
này không chạy nhanh. Du Thản Chi sợ bị xiết cổ lần nữa, không thở
được nên đành đi hai bước lại chạy ba bước cho kịp.
Y thấy ba tên lính Khất Đan đi về hướng bắc, trong bụng chột dạ:
Tên khốn kiếp Kiều Phong miệng nói nghe thật dễ nghe, bảo thả mình
về, vừa quay đi quay lại đã sai bộ thuộc bắt lại. Lần này bị bọn chúng bắt
rồi, mạng mình còn sao được nữa?. Khi y bỏ nhà đi lên mạn bắc, trong
bụng chăm chăm lo việc báo thù, chẳng biết trời cao đất dày là gì, nên
khi gặp được Tiêu Phong, hình ảnh thê thảm của cha mẹ hiện ra trước
mắt, cơn giận bùng lên, định dùng vôi bột ném mù mắt ông ta, rồi sẽ rút
dao đâm ông chết. Thế nhưng tấn công mà không trúng, nhuệ khí tiêu
tan, chỉ mong sao thoát thân, ngờ đâu lại bị lính Khất Đan bắt lại.
Khi trước y bị bọn lính Khất Đan đi gặt lúa bắt được, để lẫn trong
đám đàn bà con gái, nữ nhân đi đứng không được nhanh, cước bộ của y
cũng theo kịp nên không bị hành hạ mấy tí, ngoài một sống dao chém
vào lưng lúc bị bắt mà thôi. Lần này thì khác hẳn, bước thấp bước cao,
chạy lên chạy xuống, thở hồng hộc, chưa được mấy bước lại vấp một cái,
mỗi lần vấp ngã xuống, dây thừng lại xiết vào sau ót một đường lằn. Gã
kỵ binh Khất Đan nào có chịu ngừng, cũng chẳng thèm xem coi y còn
sống hay đã chết, kéo y một mạch tới thành Nam Kinh. Vào trong thành
rồi, Du Thản Chi người đầy máu me, chỉ mong sao chết sớm chừng nào
đỡ khổ chừng nấy.
Ba tên lính Khất Đan vào trong thành còn chạy thêm mấy dặm nữa,
lúc ấy mới lôi y vào trong một tòa nhà to. Du Thản Chi thấy dưới đất lót
toàn phiến đá xanh, cột cao cửa rộng, không biết là nơi nào. Ở ngoài cửa
ngừng lại chưa đến thời gian uống một chén trà, tên kỵ binh kéo y vào
trong một tòa đại sảnh, đột nhiên chúm môi huýt một tiếng, hai chân kẹp
thúc mạnh, con ngựa liền chồm tới trước. Du Thản Chi đâu có ngờ gã kia
vào trong viện rồi lại phóng ngựa chạy nhanh, nên chỉ được ba bước đã
ngã lăn ra.
Tên lính Khất Đan luôn mồm giục ngựa, lôi Du Thản Chi chạy ba
vòng trong tòa nhà đó, càng lúc càng nhanh, có thêm mấy chục tên quan
binh đứng chung quanh hò hét trợ uy. Du Thản Chi nghĩ thầm: Thì ra y
định kéo mình lê dưới đất cho chết. Trán, chân tay, thân thể y đụng vào
đá dưới sàn, không chỗ nào không đau.
Trong tiếng reo vang của bọn quan binh Khất Đan, có lẫn tiếng cười
trong trẻo của một thiếu nữ. Du Thản Chi trong cơn mơ mơ màng màng,
loáng thoáng nghe cô gái cười nói:
- Ha ha, cái diều người này e rằng không thả nổi.
Du Thản Chi tự hỏi: Diều người là cái gì thế nhỉ?. Ngay lúc đó y
thấy dây buộc cổ xiết chặt, thân hình tung lên không, lập tức hiểu ra, tên
lính Khất Đan kia cưỡi ngựa chạy cho nhanh để y bay bổng lên, làm như
thả con diều bằng giấy.
Y toàn thân lăng không, sau ót đau buốt, mồm miệng bị gió thổi vào
thật ngộp thở, không còn biết gì nữa, lại nghe thiếu nữ kia vỗ tay reo lên:
- Hay quá! Hay quá! Quả thực đã phóng được con diều người lên
rồi.
Du Thản Chi nhìn ra phía có tiếng nói thấy người vỗ tay reo hò kia
chính là cô gái xinh đẹp mặc áo tím. Y vừa thấy nàng lập tức ngực như bị
chấn động mạnh, không biết nên buồn hay vui, thân hình trên không bay
lạng vù vù không cách gì suy nghĩ được.
Cô gái mỹ miều kia chính là A Tử. Nàng thấy Tiêu Phong thả cho
Du Thản Chi đi, trong bụng không vui, cưỡi ngựa đi được một quãng liền
cố ý tụt ra sau, khẽ dặn tùy tòng quay lại bắt Du Thản Chi đem về nhưng
không được để cho Tiêu đại vương hay biết. Bọn tùy tòng biết nàng được
Tiêu Phong cực kỳ sủng ái, nên vui vẻ tuân lời, giả vờ sửa lại dây buộc
yên ngựa, đứng lại ở triền núi, đợi Tiêu Phong và cả đoàn đi xa mới quay
lại bắt Du Thản Chi.
A Tử trở về Nam Kinh liền đến nơi xa Tiêu Phong ở là Hựu Thánh
Cung ngồi chờ. Đến khi bắt được Du Thản Chi về, nàng mới hỏi bọn Khất
Đan xem có trò gì đánh đập, hành hạ tội nhân mới mẻ thú vị không. Có
người đề nghị thả diều người, trò đó quả là hợp ý A Tử, nàng ra lệnh
thi hành ngay, nên bọn chúng liền đem Du Thản Chi ra thả diều.
A Tử xem thấy thú vị quá, luôn mồm khen hay, nói:
- Để cho ta thả diều một tí.
Nàng nhảy lên yên ngựa tên lính kia, cầm lấy dây thừng nói:
- Ngươi xuống đi.
Tên lính kia liền nhảy xuống ngựa để cho A Tử thả diều người. A
Tử cầm dây thừng giục ngựa chạy một vòng, miệng reo hò, suýt soa:
- Thích quá! Thích quá!
Thế nhưng nàng bị thương mới đỡ, tay vẫn còn yếu, cổ tay chùng ra,
chiếc thừng liền hạ xuống, nghe bình một tiếng, Du Thản Chi rơi bịch
xuống một cái thật đau, lăn trên nền đá, trán va phải góc nhọn của bậc
thềm, sứt thành một cái lỗ, máu chảy túa ra. A Tử cụt hứng, bực tức nói:
- Cái thằng ngốc này sao nặng thế?
Du Thản Chi tưởng chừng ngất xỉu, nghe nàng trách mình thân thể
nặng quá, đang định giãi bày mấy câu nhưng đau quá không nói thành
lời. Một tên quân Khất Đan bước tới, cởi chiếc thòng lọng buộc trên cổ,
một tên khác xé vải trên áo y, buộc qua quít vết thương, nhưng máu tươi
vẫn tiếp tục chảy thấm ra ngoài, làm sao ngừng được?
A Tử nói:
- Thôi thế được rồi, được rồi! Mình thả diều thêm lần nữa cho
vui, càng cao càng thích.
Du Thản Chi không hiểu nàng nói tiếng Khất Đan những gì, nhưng
thấy nàng hoa chân múa tay, chỉ lên trên cao xem ra không phải chuyện
tốt lành. Quả nhiên một tên Khất Đan cầm chiếc dây thừng luồn dưới
nách y, vòng một vòng để y khỏi bị xiết cổ ngộp thở, quát lên một tiếng:
- Lên nào!
Y giục ngựa chạy cho nhanh, kéo lê Du Thản Chi dưới đất mấy
vòng, rồi lại phóng lên. Sợi dây thừng trong tay tên lính Khất Đan mỗi
lúc một dài thêm, thân hình Du Thản Chi cũng mỗi lúc một cao.
Tên lính Khất Đan đột nhiên buông tay, nghe vèo một tiếng, Du
Thản Chi thật chẳng khác gì tên rời khỏi dây cung, bay vút lên trời. A Tử
và các quan binh đều reo hò khen ngợi. Du Thản Chi thân hình tự nhiên
bật văng lên không, trong bụng chỉ nghĩ được: Thôi lần này chết thật
rồi!.
Khi sức văng đã hết, y đầu lộn xuống đất, chân chổng lên trời lao
thẳng xuống, xem ra thể nào cũng lao vào nền đá xanh, bốn tên quan
binh Khất Đan cùng tung thòng lọng ra, buộc chặt ngay hông y, cùng kéo
ghì về bốn phía. Du Thản Chi khi đó đã ngất đi, nhưng bốn luồng lực đạo
giữ y bông bênh giữa trời, chỉ còn cách đất chừng ba thước. Cái cảnh đó
quả thực nguy hiểm cùng cực, trong bốn người chỉ cần một người ra tay
hơi chậm, lực đạo không cân, đầu Du Thản Chi thể nào cũng rơi thẳng
xuống vỡ sọ ngay. Người Khất Đan thường thường đem người Tống ra để
làm trò vui, tù binh bị đem ra thả diều, mười người thì đến tám chín
người chết. Nếu như ở ngoài thảo nguyên đất mềm, từ trên cao như thế
đâm bổ xuống, ví như không vỡ đầu thì cũng gãy cổ chết như nhau.
Trong tiếng hò reo, bốn tên lính Khất Đan hạ Du Thản Chi xuống. A
Tử lấy tiền, thưởng cho mỗi đứa năm lượng bạc. Các quan binh lớn tiếng
tạ ơn, hỏi thêm:
- Cô nương có còn muốn thêm trò vui gì nữa không?
A Tử thấy Du Thản Chi đã ngất xỉu, cũng chẳng biết y còn sống hay
chết rồi, mới đây nàng thả diều, dùng sức quá độ, ngực ngâm ngẩm
đau, không còn hơi đâu mà vui chơi thêm nữa bèn nói:
- Vui thế đủ rồi. Gã tiểu tử này nếu chưa chết, ngày mai lại mang y
đến cho ta, để ta nghĩ cách nào tiêu khiển. Tên này định ám toán Tiêu
đại vương, không thể để y chết dễ dàng quá như thế được.
Các quan binh cùng vâng lời, lôi cổ Du Thản Chi mình mẩy đầy máu
me ra.
Khi Du Thản Chi tỉnh lại, thấy một mùi ẩm mốc hôi hám xông thẳng
vào mũi, mở choàng mắt ra thấy chung quanh tối đen như mực, không
nhìn thấy một chút gì. Ý niệm đầu tiên y nghĩ đến là Không biết mình
đã chết chưa? nhưng lập tức thấy toàn thân chỗ nào cũng đau nhức, cổ
họng khô ran không sao chịu nổi liền rên lên mấy tiếng:
- Nước! Nước!
Thế nhưng nào có ai ngó ngàng gì đến y?
Y kêu được mấy tiếng, lại mơ mơ màng màng ngủ thiếp đi, thấy nào
bá phụ, phụ thân cùng Kiều Phong đại chiến, giết nhau đến máu văng
đầy mặt đất, rồi mẫu thân ôm mình trong lòng, dịu dàng an ủi, bảo mình
đừng sợ. Rồi kế đó A Tử hiện ra với khuôn mặt thật tú lệ, đôi mắt trong
veo với quang thái thật lạ lùng. Khuôn mặt bỗng nhiên thu nhỏ lại, thành
đầu một con rắn hình tam giác, lè chiếc lưỡi dài đỏ au, lộ hai chiếc nanh
nhọn hoắt mổ vào người y. Du Thản Chi hết sức vùng vẫy nhưng không
cách nào động đậy được, con rắn đó cứ day từng miếng thịt, trên tay, dưới
đùi, cạnh cổ chỗ nào cũng cắn, khi đến trán lại càng đau hơn. Y thấy
mình từng miếng thịt bị nhả xuống, muốn kêu toáng lên, nhưng không
phát ra một tiếng nào ...
Cứ như thế trằn trọc cả đêm, tỉnh dậy thì bị hành hạ đã đành mà
trong giấc mộng cũng thật là khổ sở. Hôm sau hai tên lính Khất Đan lại
áp giải y đến gặp A Tử. Cơn sốt đêm qua chưa lui, bước một bước lại ngã
bổ nhào về trước. Hai tên lính Khất Đan chia nhau xốc hai bên, lớn tiếng
chửi rủa, kéo lê y vào một tòa nhà lớn. Du Thản Chi tự hỏi: Không biết
chúng đưa mình đi đâu? Đem mình đi giết chăng?. Đầu y mê mê mẩn
mẩn, không thể nào suy tính gì được, thấy đi xuyên qua hai hành lang dài,
đến trước một sảnh đường. Hai tên lính Khất Đan đứng ngoài cửa bẩm
báo gì đó mấy câu, bên trong có tiếng một thiếu nữ đáp lại một tiếng,
sảnh môn đẩy ra, lính Khất Đan liền đưa y vào.
Du Thản Chi ngẩng đầu lên, thấy trong sảnh trải một tấm thảm cực
lớn, thêu hoa văn sặc sỡ, một thiếu nữ xinh đẹp ngồi trên một tấm nệm
ngay đầu đằng kia, chính là A Tử. Hai bàn chân nàng để trần, để trên
thảm. Du Thản Chi vừa nhìn thấy hai bàn chân nhỏ nhắn trắng trẻo, mịn
màng như ngọc, mềm mại như gấm của nàng lập tức tim đập thình thình,
hai mắt đăm đăm dính chặt đôi chân, thấy tưởng chừng lưng đôi chân cô
gái có phát ra ánh sáng, lờ mờ mấy đường gân xanh quả muốn chạy đến
vuốt ve cho thỏa dạ.
Hai tên lính Khất Đan thả y ra, Du Thản Chi lảo đảo một hồi, sau
cùng cũng gượng đứng được nhưng mục quang không lúc nào rời bàn
chân A Tử, thấy mười đầu ngón chân nàng sơn màu hồng nhạt, trông
chẳng khác gì mười cánh hoa.
A Tử cũng nhìn ra gã thanh niên xấu xí toàn thân đầy máu me,
khuôn mặt nhăn nhúm, cằm vêu vao kia ánh mắt hau háu một vẻ thèm
thuồng. Nàng nhớ lại một con sói đói mà nàng cùng hai sư huynh săn
được khi còn ở biển Tinh Tú, nàng bắn trúng con vật một mũi tên nhưng
chưa chết hẳn. Con vật đó bị trọng thương, mắt gườm gườm nhìn mình,
lúc bấy giờ chẳng khác gì Du Thản Chi, dường như chỉ muốn xông lên
cắn chết nàng, tuy không nhảy lên được, nhưng vẫn nhe hàm răng nhọn
hoắt gầm gừ.
A Tử thích thú nhìn ánh mắt đầy dã tính đó, lại nghe tiếng gừ gừ
nhưng chẳng làm gì được mình, tiếc rằng Du Thản Chi yếu đuối quá rồi,
không phản kháng gì được nữa quả thực chẳng còn gì thú vị. Ngày hôm
qua y ném túi vôi bột vào Tiêu Phong, lại không chịu quì lạy, ăn nói ra
vẻ ngang tàng, không chịu nhận tiền của Tiêu Phong, A Tử thích thú lắm
tưởng như bắt được một con thú dữ lợi hại. Nàng muốn hành hạ y cho
người y bị thương nhiều như vẩy cá, để y mỗi khi bị thương lại muốn xông
lên cắn mình một cái nhưng dĩ nhiên nàng không để cho y cắn trúng
được.
Đến khi bắt được y làm cái diều người rồi, con dã thú này lại
không chống cự, chết dở sống dở, thật chẳng có gì thích thú. Nàng hơi
nhíu lông mày nghĩ thầm: Có cách nào mới mẻ để hành hạ y cho vui
đây?.
Đột nhiên cổ họng Du Thản Chi phát tiếng hà hà, cũng không biết
một luồng lực đạo từ đâu đến, y chẳng khác gì một con báo nhanh nhẹn
lạ thường phóng đến A Tử, ôm chặt lấy bắp chân nàng, cúi đầu hôn hít
lưng bàn chân cô gái. A Tử hoảng hốt, kêu toáng lên. Hai tên lính Khất
Đan và bốn tì nữ phục thị A Tử cùng quát mắng, xông lên lôi gã ra.
Thế nhưng hai tay y cứ ôm chặt, chết cũng không buông. Tên lính
Khất Đan vừa kéo một cái, kéo luôn cả A Tử tuột khỏi chiếc nệm bông,
ngồi phệt xuống dưới thảm. Hai binh sĩ Khất Đan vừa sợ vừa tức, không
dám kéo thêm nữa, một tên đấm lên lưng y mấy cú thật mạnh, còn một
đứa thì đánh vào mặt. Người Du Thản Chi vẫn còn sưng vều, lại thêm cơn
sốt chưa hết, thần trí mê loạn không khác gì một người điên, những gì
đang gánh chịu dường như không biết đến. Y vẫn ôm chặt lấy chân A Tử,
tiếp tục hôn chân nàng.
A Tử cảm thấy đôi môi vừa nóng hổi, vừa khô khan của y chạm vào
chân mình, trong bụng sợ lắm, lại thêm cảm giác nhột nhạt2 lạ lùng, đột
nhiên kêu hoảng lên:
- Ối trời! Y cắn ngón chân ta.
Nàng quay sang nói với hai tên lính Khất Đan:
- Các ngươi mau ra chỗ khác, người này nổi cơn điên, ối chao, đừng
để y cắn đứt ngón chân ta.
Du Thản Chi mơn man ngậm ngón chân cô gái, A Tử tuy không thấy
đau nhưng lại sợ y bất thần cắn mạnh một cái, trong cơn gấp gáp, biết là
không thể dùng sức mà xong, sợ hai tên lính đánh y, y không kể sống
chết cắn một cái thì khốn.
Hai tên lính Khất Đan không biết làm sao, đành phải buông tay. A
Tử lại kêu:
- Đừng có cắn, ta tha ngươi khỏi chết, ối ối, ta sẽ thả ngươi ra.
Du Thản Chi bấy giờ tâm thần cuồng loạn, có còn biết nàng nói
những gì? Một tên lính Khất Đan cầm chặt yêu đao, định bụng bất thần
rút ra khỏi vỏ chém xuống ót y một nhát, chặt đứt đầu y, nhưng có điều y
ôm chân A Tử chặt quá, một đao chém xuống lại sợ làm nàng bị thương
cho nên ngần ngừ không dám.
A Tử lại tiếp:
- Này này, ngươi nào có phải là dã thú sao lại cắn người là sao?
Mau nhả ra, ta sẽ sai người trị thương, thả ngươi trở về Trung Nguyên.
Du Thản Chi vẫn không lý tới nhưng răng không cắn xuống nên
không làm nàng đau chút nào, hai tay vuốt ve lưng bàn chân, trong lòng
lâng lâng bay bổng, thật chẳng khác gì một cánh diều đang lững lờ giữa
từng mây.
Một tên lính Khất Đan chợt nảy ra một ý, xông vào bóp cổ Du Thản
Chi. Du Thản Chi bị nghẹt thở, tự nhiên há mồm, A Tử vội vàng rụt chân
lại, rút được ngón chân ra khỏi miệng y, đứng phắt dậy, lại sợ y nổi cơn
điên cắn nữa, dấu hai chân vào sau tấm nệm. Hai tên lính Khất Đan liền
giữ chặt Du Thản Chi, đấm liên tiếp vào ngực gã, đánh được độ mươi
quyền, y oa oa há mồm hộc ra mấy ngụm máu, làm bẩn cả tấm thảm rực
rỡ kia.
A Tử quát:
- Ngừng tay! Đừng đánh y nữa.
Sau một trận kinh hoàng, nàng cảm thấy gã tiểu tử này có điều quái
lạ thật vui nên không muốn đánh chết y ngay. Tên lính Khất Đan không
đánh nữa, A Tử ngồi xếp bằng trên tấm nệm, để ngoặt hai bàn chân trần
dưới mông, trong bụng tính toán: Có cách nào hành hạ y cho thật bõ
nhỉ?.
A Tử ngửng đầu lên, thấy Du Thản Chi mắt vẫn chăm chăm nhìn
mình, liền hỏi:
- Ngươi nhìn ta làm chi?
Du Thản Chi vốn chẳng còn kể sống chết vào đâu liền đáp:
- Cô nương đẹp quá đỗi, cho nên tôi thích nhìn.
A Tử bẽn lẽn nghĩ thầm: Tên tiểu tử này lớn mật thật, dám nói với
ta những lời khinh bạc. Thế nhưng trong đời nàng, chưa bao giờ có một
chàng trai nào dám ca tụng nàng đẹp ngay tận mặt. Khi nàng học nghệ ở
phái Tinh Tú, chư sư huynh đều coi nàng là một cô bé con ngang ngược
lanh lợi, còn khi đi cùng với Tiêu Phong, nếu không sợ nàng gây chuyện
thì cũng lo nàng chết bất ngờ, chưa bao giờ để ý xem nàng đẹp hay xấu.
Những lời ca ngợi sống sượng của Du Thản Chi, quả là xuất tự đáy lòng,
nàng không khỏi vui sướng ngầm nghĩ thầm: Ta giữ y lại ở gần bên,
thỉnh thoảng đem ra tiêu khiển cũng thích lắm. Có điều tỉ phu đã bảo là
thả y về, nếu như biết ta sai người bắt lại ắt sẽ bực mình. Chỉ dấu được
anh ấy hôm nay nhưng làm sao dấu được mãi. Nếu muốn tỉ phu không thể
nào biết được thì làm gì đây? Không cho ai nói thì cũng còn được, nhưng
nếu tỉ phu bất thần đi vào, bắt gặp y thì làm sao?.
Nàng trầm ngâm một hồi, bỗng chợt nghĩ tới: A Châu rất giỏi hóa
trang, giả làm cha ta đến nỗi tỉ phu còn không nhận ra, ta đem tiểu tử này
thay hình đổi dạng, anh ta sẽ không nhận ra được. Thế nhưng nếu y
không tự nguyện, mình hóa trang y rồi y sẽ rửa sạch đi, trở lại hình dáng
cũ thế thì có ích gì đâu?.
Đôi hàng mi cong của nàng hơi nhíu lại, lập tức tìm ra ngay, vỗ tay
reo lên:
- Hay lắm! Thật là hay! Cứ thế mà làm.
Nàng quay sang hai tên Khất Đan nói một hồi, hai tên lính đó có chỗ
nào chưa rõ lại hỏi lại. A Tử giải thích thêm rồi gọi thị nữ lấy ra năm
chục lượng bạc đưa cho họ. Hai tên Khất Đan cầm lấy, khom lưng hành
lễ, xốc Du Thản Chi ra khỏi sảnh.
Du Thản Chi kêu lên:
- Ta muốn ngắm nàng! Ta muốn ngắm cô gái xinh đẹp tàn ác kia.
Lính Khất Đan và thị nữ nào có hiểu tiếng Hán nên chẳng ai hiểu y
đang nói gì. A Tử cười mủm mỉm nhìn theo sau lưng y, nghĩ đến chủ định
thông minh của mình, càng thêm đắc ý.
Du Thản Chi bị đem trở về địa lao, vứt trên một đống cỏ khô. Đến
chiều hôm đó, có người đem đến cho y một bát thịt cừu, vài cái bánh bao.
Cơn sốt của Du Thản Chi chưa hạ, luôn mồm lảm nhảm khiến gã kia sợ
quá bỏ vội thức ăn xuống, chạy vội ra ngoài. Du Thản Chi không biết đói
nên chẳng đụng tới thịt hay bánh bao.
Tối hôm đó có ba tên Khất Đan đi vào. Du Thản Chi thần trí mơ hồ,
thấy vẻ mặt ba gã kia đầy vẻ quái đản, xem ra không phải tốt lành gì, chỉ
mang máng biết là nguy đến nơi nên cố gắng lồm cồm đứng lên, tính
chuyện đào tẩu. Hai gã Khất Đan xông đến đè nghiến y xuống, lật ngửa
mặt lên. Du Thản Chi chửi toáng lên:
- Quân Khất Đan chó má, chết đường chết chợ, đại gia sẽ băm vằm
chúng bay ra.
Vừa tới đó, gã Khất Đan thứ ba bưng một cái gì trăng trắng, trông
tựa như bông, lại giống như tuyết, dùng sức ập lên mặt y. Du Thản Chi
thấy mặt mình vừa ẩm vừa mát, đầu óc tỉnh lại nhưng không thở nổi, nghĩ
thầm: Thì ra bọn chúng bịt chặt thất khiếu cho mình chết ngạt.
Thế nhưng xem chừng y đoán không đúng, gã kia lại châm cho thủng
mũi mồm khiến y vẫn thở được nhưng mắt mở không ra, chỉ thấy mặt
dính đầy thứ gì nhão nhoẹt, rồi ai đó nắn khắp mặt y, tưởng như trát lên
một lớp bột nát. Du Thản Chi mơ mơ hồ hồ nghĩ thầm: Không biết tên
ác tặc này dùng cách quái ác gì giết mình đây?.
Một hồi sau, lớp bùn mềm trên mặt được người ta nhẹ nhàng gỡ ra,
Du Thản Chi mở mắt nhìn, thấy một khối bột mì in thành hình một mặt
người, chính là vừa ở mặt mình ra. Tên Khất Đan đó trịnh trọng bưng cái
vật đó, dường như sợ hư mất. Du Thản Chi lại chửi:
- Đồ Liêu cẩu thối tha, chúng mày rồi sẽ chết không có đất mà
chôn.
Ba gã Khất Đan không thèm để ý đến y, bưng cái khối bột nhão đó
đi mất. Du Thản Chi chợt nghĩ ra: Đúng rồi, bọn chúng nó tô lên mặt
mình một lớp thuốc độc, rồi chẳng bao lâu, mặt mình sẽ lở loét thối tha,
da thịt vỡ nát, biến thành quỉ quái .... Y càng nghĩ càng kinh, nghĩ thầm:
So với để bọn chúng hành hạ mình đến chết, chi bằng mình đập đầu
chết còn hơn. Y bèn húc đầu vào tường, bình bình bình ba cái. Ngục tốt
nghe tiếng vội vàng chạy vào, trói chặt chân tay y lại. Du Thản Chi đập
đầu đã thành sống dở chết dở, nay đành nằm yên chịu vậy.
Qua luôn mấy ngày, mặt y không hề đau đớn, cũng không lở lói,
nhưng y đã quyết ý chết, bụng tuy đói nhưng nhất định không ăn thức ăn
ngục tốt mang vào. Đến ngày thứ tư, ba gã Khất Đan kia lại trở vào địa
lao, lôi y đi. Trong cơn đau đớn, Du Thản Chi bỗng nảy ra một ý vị ngọt
ngào, nghĩ thầm chắc A Tử sai đem mình ra xỉ vả đánh đập, tuy thân thể
có phải khổ sở nhưng lại có cơ hội được nhìn khuôn mặt tú lệ kia, trên
khuôn mặt nhăn nhúm thoáng hiện một nụ cười.
Ba tên Khất Đan dẫn y đi qua mấy ngõ hẹp rồi vào trong một căn
nhà đá tối om om. Chỉ thấy lửa bập bùng chiếu sáng một bên vách đá,
một gã thợ rèn gân guốc cởi trần, đứng bên cạnh một cái đe sắt lớn, đang
xăm xoi xem một vật gì đen sì trên tay. Ba tên Khất Đan đẩy Du Thản
Chi đến trước mặt người thợ rèn, hai người chia ra nắm hai tay y, còn một
người giữ chặt sau lưng. Người thợ rèn nghiêng đầu qua, nhìn mặt y, lại
đăm đăm nhìn vào vật trong tay, dường như muốn so sánh.
Du Thản Chi nhìn vào vật trên tay y, thấy đó là một cái mặt nạ bằng
sắt mới đúc xong, trên có đục hai mắt mũi mồm bốn cái lỗ. Y còn đang
suy nghĩ, không biết cái này để làm gì thì tên thợ rèn đã cầm mặt nạ lên,
chụp vào mặt Du Thản Chi. Du Thản Chi tự nhiên hất đầu về sau tránh,
nhưng sau ót đã bị người ta giữ chặt, không cách gì thoát được, chiếc mặt
nạ liền áp vào mặt y. Y cảm thấy trên mặt lạnh ngắt, da thịt chạm vào
kim loại, mà kỳ lạ làm sao, cái mặt nạ đó thật khít khao kể cả mắt mũi
mồm, tưởng chừng như chế riêng cho y vậy.
Du Thản Chi chỉ ngạc nhiên giây lát lập tức hiểu ngay nguyên do,
một làn hơi lạnh chạy thẳng từ đỉnh đầu xuống xương sống: Chết rồi, cái
mặt nạ này chính là để cho ta, hôm trước bọn chúng dùng bột mì nhồi
thành khuôn. Bọn chúng làm cái mặt nạ sắt đó để làm gì? Không lẽ ...
không lẽ .... Y đã đoán ra cái dụng ý ác độc của người Khất Đan, nhưng
để làm gì thì không biết, không còn dám nghĩ thêm chỉ hết sức vùng vẫy
mong sao thoát ra được.
Người thợ rèn bỏ chiếc mặt nạ ra, gật gù tỏ vẻ hài lòng, rồi dùng
một chiếc kìm lớn kẹp bỏ vào lò lửa nung cho đỏ lên, tay phải cầm búa,
đập xuống choang choang. Y đập chiếc mặt nạ một lúc, đưa tay rờ rẫm
xương gò má và trán Du Thản Chi, rồi sửa những chỗ chưa được hoàn
toàn ăn khớp.
Du Thản Chi kêu lên:
- Bọn Liêu cẩu trời đánh kia, các ngươi làm chuyện thương thiên
hại lý, hung tàn ác độc thế này, ông trời sẽ giáng họa xuống tất cả chúng
bay không được chết yên chết lành, đến cả bò ngựa nhà bay cũng chết
nốt, con nít cũng chết non.
Y ngoác mồm chửi rủa nhưng người Khất Đan chẳng hiểu câu nào.
Gã thợ rèn đột nhiên quay phắt lại, hầm hầm nhìn y, cầm chiếc kìm sắt
đang nóng đỏ, dí vào mắt y khiến Du Thản Chi sợ đến hét ầm lên.
Thế nhưng gã thợ rèn chỉ dọa y một mẻ, cười sằng sặc, rút chiếc kìm
về, lại lấy ra một khối sắt hình cong ướm thử vào sau ót Du Thản Chi.
Sau khi gõ cho vừa, tên thợ rèn bèn đem cả mặt nạ lẫn cái chụp hình bán
cầu bỏ vào lửa nung cho đỏ, lớn tiếng nói mấy câu. Ba tên Khất Đan liền
kéo Du Thản Chi lên bắt nằm trên một cái phản gỗ, để đầu y thò ra ngoài
bìa. Lại có thêm hai người Khất Đan khác đến giúp, dùng sức giữ chặt
đầu tóc y, khiến cho y không thể nhúc nhích. Năm người kẻ giữ chân
người nắm tay, thử hỏi Du Thản Chi còn cục cựa làm sao được?
Tên thợ rèn kẹp chiếc mặt nạ nóng đỏ lên, ngừng lại một chút cho
nguội bớt, quát lớn một tiếng, rồi áp lên mặt Du Thản Chi. Khói trắng
xèo xèo bốc lên đồng thời mùi thịt cháy khét bay tứ tán. Du Thản Chi chỉ
kêu lên được một tiếng rồi ngất xỉu. Năm tên Khất Đan lật người y lại, gã
thợ rèn lại kẹp nửa đầu bên kia, để vào sau ót, hai mảnh bán cầu ráp lại
thành một trái cầu sắt bao chặt đầu Du Thản Chi lại. Cái lồng sắt còn
nóng lắm, đụng vào thịt liền đốt cháy thành một khối bầy nhầy. Gã thợ
rèn đó là thiết công khéo léo vào bậc nhất ở thành Yên Kinh, hai nửa
chiếc lồng sắt dính chặt làm một chỗ nào cũng thật khít khao.
Du Thản Chi chẳng khác gì rơi vào địa ngục, bị thiêu đốt trong vạn
trượng lửa không biết bao lâu mới dần dần tỉnh lại nhưng trước mặt và
sau ót đau đớn khôn cùng chịu không nổi, lại ngất đi. Cứ như thế ba lần
tỉnh lại, ba lần ngất xỉu, y lớn tiếng kêu gào nhưng chỉ phát ra những
tiếng ú ớ không ra tiếng người.
Y đành nằm yên cố gắng không suy nghĩ gì khác, nghiến răng cố
chịu đựng nỗi đau đớn ở mặt và ót phải đến hơn hai giờ mới đưa được tay
lên sờ thử, tay đụng phải vật gì vừa cứng vừa lạnh, biết ngay những gì
mình đoán không sai, cái mặt nạ kia đã chụp lên đầu mình rồi. Trong cơn
phẫn khích, y cố giằng nó ra nhưng cái lồng sắt đó đúc thật kiên cố,
không hề suy suyển chút nào. Y càng nghĩ càng thêm tuyệt vọng nhịn
không nổi khóc òa lên.
Thế nhưng dẫu sao y tuổi cũng còn trẻ, nỗi thống khổ tuy lớn lao
nhưng rồi cũng chịu được không đến nỗi chết, qua mấy ngày sau vết
thương dần dần se da, đau đớn cũng bớt, bụng cảm thấy đói. Y ngửi thấy
mùi thịt cừu và bánh bao nhịn không nổi cầm lấy ăn. Lúc này y đã mò kỹ
biết rõ chiếc lồng sắt ấy bao chặt đầu mình như thế nào, không thể nào
thoát ra được, mấy ngày đầu nổi cơn cuồng nộ nhưng rồi cũng bình tĩnh
lại, tự hỏi: Tên cẩu tặc Kiều Phong chụp lên đầu ta cái lồng sắt này,
không biết có dụng ý gì?.
Y vẫn nghĩ tất cả đều do lệnh của Tiêu Phong làm sao có thể đoán ra
rằng sở dĩ A Tử làm cái đầu sắt chính là che dấu để ông không nhận ra y.
Cái công trình đó, tất cả đều do đội trưởng Thất Lý theo lệnh A Tử mà thi
hành.
Ngày ngày A Tử đều hỏi Thất Lý xem Du Thản Chi sau khi đeo cái
lồng sắt tình hình ra sao, lúc đầu thì lo y chết sẽ mất vui, về sau biết y
vẫn còn sống, trong bụng hết sức hoan hỉ. Hôm đó nàng nghe tin Tiêu
Phong đi xuống Nam Giao duyệt binh liền bảo Thất Lý đem Du Thản Chi
đến Đoan Phúc Cung. Gia Luật Hồng Cơ vì muốn cho Tiêu Phong vui
lòng nên đã phong nàng là Đoan Phúc quận chúa, tòa Đoan Phúc Cung
này là ban riêng cho nàng ở.
A Tử vừa nhìn thấy hình dạng Du Thản Chi liền cảm thấy một niềm
vui vô bờ bến từ đáy lòng dâng lên, nghĩ thầm: Cái cách này của ta thật
được việc. Tiểu tử này đeo cái mặt nạ thì tỉ phu dẫu có đứng trước mặt y
cũng không thể nào nhận ra. Du Thản Chi lại đi tới mấy bước, A Tử vỗ
tay khen ngợi nói:
- Thất Lý, cái mặt nạ này đúc khéo quá, ngươi đem năm chục lạng
bạc thưởng thêm cho gã thợ rèn.
Thất Lý đáp:
- Vâng! Đa tạ quận chúa.
Du Thản Chi từ trong hai cái lỗ mắt nhìn ra, thấy A Tử mặt mày tươi
rói, cực kỳ kiều diễm, lại được nghe tiếng nói thanh tao của nàng, không
khỏi ngơ ngẩn như trời trồng. A Tử thấy y đội chiếc mặt nạ, thần tình quái
lạ, nhưng mắt vẫm đăm đăm nhìn mình nên cũng biết được bèn hỏi:
- Này thằng ngốc kia, ngươi nhìn ta làm gì thế?
Du Thản Chi đáp:
- Tôi ... tôi ... không biết nữa. Cô ... cô nương đẹp quá.
A Tử mỉm cười:
- Ngươi đeo cái mặt nạ đó, thích hay không thích?
Du Thản Chi hậm hực hỏi lại:
- Thế cô nghĩ có thích hay không?
A Tử cười khanh khách đáp:
- Ta không nghĩ ra.
Nàng thấy miệng trên cái mặt nạ của y chỉ mở một đường thật hẹp,
miễn cưỡng có thể húp canh ăn cơm, còn như muốn ăn thịt thì phải dùng
tay xé nhỏ mới đút vào được, có muốn cắn ngón chân mình thì cũng
không được bèn cười nói:
- Ta đeo cho ngươi cái mặt nạ đó để ngươi mãi mãi không thể nào
cắn ta được.
Du Thản Chi trong lòng chợt mừng hỏi lại:
- Cô nương sẽ cho tiểu nhân ... cho tiểu nhân ... được ... luôn luôn ở
gần bên hầu hạ hay sao?
A Tử đáp:
- Hứ, ngươi là một tên tiểu tử xấu xa, ở gần bên lúc nào cũng tính
chuyện hại ta thì sao mà chịu được.
Du Thản Chi đáp:
- Tiểu nhân ... tiểu nhân ... nhất quyết không bao giờ hại cô nương.
Kẻ thù của tiểu nhân chỉ một mình Kiều Phong thôi.
A Tử nói:
- Ngươi muốn hại tỉ phu ta ư? Thế thì cũng như hại ta vậy? Có khác
gì đâu?
Du Thản Chi nghe nàng nói vậy thấy một nỗi chua xót dâng lên
trong lòng, không biết phải trả lời sao. A Tử cười nói:
- Ngươi muốn hại anh rể ta thật còn khó hơn lên trời. Này thằng
ngốc, ngươi có muốn chết không?
Du Thản Chi đáp:
- Lẽ dĩ nhiên tiểu nhân không muốn chết. Thế nhưng bây giờ trên
đầu đeo cái đồ chết tiệt này, người không ra người, quỉ không ra quỉ, so
với chết thì có khác gì bao nhiêu?
A Tử nói:
- Nếu ngươi quả là thà chết sướng hơn, thì cũng được, ta sẽ giúp
ngươi tròn tâm nguyện, có điều không phải muốn chết là chết ngay đâu.
Ta chặt tay trái ngươi trước đã.
Nàng quay sang Thất Lý đang đứng hầu bên cạnh truyền lệnh:
- Thất Lý, ngươi đem y ra, chặt tay trái trước.
Thất Lý đáp lời:
- Vâng!
Y đưa tay ra nắm lấy cánh tay Du Thản Chi. Du Thản Chi sợ quá kêu
lên:
- Đừng! Đừng! Cô nương, tiểu nhân không muốn chết, cô nương ...
cô nương đừng chặt tay tôi.
A Tử cười nhạt nói:
- Ta đã nói rồi không lẽ không tính, trừ phi ... trừ phi ... ngươi quì
xuống khấu đầu.
Du Thản Chi còn hơi ngần ngừ, Thất Lý đã cầm tay y lôi đi. Du Thản
Chi không còn dám lần khân nữa, khuỵu hai đầu gối, lập tức quì xuống
rập đầu, cái lồng sắt đập vào nền gạch, nghe boong một tiếng. A Tử cười
khanh khách nói:
- Tiếng khấu đầu sao dễ nghe quá, ta chưa từng nghe thấy bao giờ,
ngươi sụp lạy ta thêm vài cái nữa xem nào.
Du Thản Chi là tiểu trang chủ của Tụ Hiền Trang, tuy học văn không
được, học võ không thông, trong trang ai cũng biết y là loại ăn hại đái nát
nhưng Du Ký có con lại chết non, Du Câu thì chỉ có một cậu con vàng con
ngọc này, tiểu trang chủ nhất hô bách nặc3, từ nhỏ đã được nuông chiều
tôn kính, có bị khinh khi như thế này bao giờ đâu? Y mới gặp Tiêu Phong
vẫn còn một chút ngạo khí thà chết không chịu khuất phục nhưng mấy
hôm nay, thân thể cũng như tâm linh đều bị những vết thương cực kỳ lợi
hại, bao nhiêu hào khí của tuổi thanh niên đều tiêu tán không còn gì nữa,
nghe A Tử nói như vậy, lập tức liên tiếp khấu đầu, leng keng vang dội,
được vị cô nương trông như nàng tiên này khen mình sụp lạy dễ nghe,
trong lòng thầm hoan hỉ.
A Tử nở một nụ cười duyên dáng nói:
- Hay lắm! Từ nay ngươi phải vâng lời ta, không cưỡng lại thì
không sao, bằng không ta sẽ chặt tay ngươi, nhớ không nào?
Du Thản Chi đáp:
- Vâng! Vâng!
A Tử lại tiếp:
- Ngươi đúng là một thằng ngu, ta cứu mạng ngươi, ngươi lại không
biết ơn. Tiêu đại vương muốn băm vằm ngươi ra, ngươi không biết hay
sao?
Du Thản Chi đáp:
- Y là kẻ thù giết cha tôi, dĩ nhiên không thể tha tôi được.
A Tử nói:
- Ông ta giả vờ tha ngươi ra, nhưng lại sai người đuổi theo bắt lại
để băm ngươi ra thành tương. Ta thấy ngươi không đến nỗi tệ lắm, giết đi
thật tội nghiệp, nên cố gắng che đậy cho ngươi. Thế nhưng nếu như Tiêu
đại vương bắt gặp thì liệu ngươi có sống được hay chăng? Ngay cả ta
cũng phải chịu liên lụy rất lớn.
Du Thản Chi lập tức hiểu ra bèn đáp:
- À, thì ra cô nương đúc cái đầu sắt này cho tiểu nhân đội chính là
vì có lòng tốt, cốt để cứu mạng cho tôi. Tiểu nhân ... tiểu nhân thật là
cảm kích, thật thế ... hết sức cảm kích.
A Tử đánh lừa được y khiến cho y biết ơn mình nên rất đắc ý, mỉm
cười nói:
- Vì thế lần sau ngươi gặp Tiêu đại vương thì không được nói năng
gì để ông ta không nhận ra tiếng ngươi. Nếu như ông ta biết được là
ngươi, hừ, hừ, thì sẽ chặt ngay tay trái, một hồi sau lại chặt luôn tay phải.
Thất Lý, ngươi mau đem y ra thay đổi y phục Khất Đan, tắm cho y một
cái chứ người đầy máu mủ tanh hôi, nặng mùi quá.
Thất Lý đáp lời dẫn y ra ngoài. Chẳng mấy chốc, Thất Lý lại đưa Du
Thản Chi vào, đã thay đổi quần áo Khất Đan cho y. Thất Lý muốn A Tử
vui lòng cố ý mặc cho y thật sặc sỡ, nam chẳng ra nam, nữ chẳng ra nữ,
trông như một thằng hề.
A Tử nhếch mép cười:
- Để ta đặt cho ngươi một cái tên, gọi là ... gọi là ... Hề Sắt. Từ nay
ta gọi Hề Sắt ngươi phải dạ nghe chưa. Hề Sắt!
Du Thản Chi vội vàng đáp:
- Dạ!
A Tử cực kỳ sung sướng, đột nhiên nghĩ ra một việc nói:
- Thất Lý, nước Đại Lương bên Tây Vực có đem qua một con sư tử,
phải không? Ngươi bảo huấn sư đem nó qua đây, lại gọi thêm mười vệ sĩ.
Thất Lý vâng lời ra ngoài truyền lệnh. Mười sáu tên vệ sĩ tay cầm
trường mâu tiến vào trong điện, quay về phía A Tử khom lưng hành lễ,
rồi đứng lên, mười sáu mũi giáo chĩa ra ngoài, bảo vệ chủ nhân. Chẳng
mấy chốc đã nghe ngoài cửa điện có tiếng sư tử gầm, tám người đàn ông
khỏe mạnh khiêng một cái chuồng bằng sắt lớn, trong chuồng là một con
sư tử đực đi qua đi lại, chòm lông đuôi dài rủ xuống, răng nhọn vuốt sắc,
thần tình thật là uy võ. Người luyện thú đi trước, tay cầm roi da.
A Tử thấy con sư tử đó thật là hung dữ đáng sợ, vui mừng nói:
- Hề Sắt, mồm ngươi nói thì nghe hay lắm nhưng chẳng biết có thật
hay không. Để ta thử xem cho biết, coi ngươi có nghe lời ta chăng.
Du Thản Chi đáp:
- Vâng!
Y vừa trông thấy con mãnh sư đã hoảng thầm, không biết có dụng ý
gì nghe nàng nói thế, lập tức tim đập thình thình. A Tử nói:
- Không biết chiếc lồng trên đầu ngươi có chắc chắn hay không,
ngươi thử thò đầu vào trong chuồng cho sư tử cắn mấy cái, xem nó có cắn
vỡ được cái lồng sắt đó hay không?
Du Thản Chi hoảng hốt ấp úng:
- Cái đó ... cái đó chẳng nên thử làm gì. Nếu nó cắn vỡ thì đầu tiểu
nhân ...
A Tử nói:
- Cái đồ ngươi thật là vô dụng. Có một việc như thế mà cũng sợ,
nam tử hán đại trượng phu thì phải xem cái chết như trở về nhà4 mới phải
chứ. Ta xem chừng nó cắn không vỡ được đâu.
Du Thản Chi năn nỉ:
- Cô nương, việc này đâu phải trò đùa, ví như nó cắn không vỡ, con
súc sinh này lại làm cái lồng méo đi thì cái đầu tiểu nhân ...
A Tử cười khanh khách nói:
- Thì cùng lắm cái đầu ngươi cũng bị méo thôi. Tên tiểu tử này thật
lắm chuyện, vốn dĩ ngươi cũng đâu có đẹp đẽ gì, dù đầu có méo thì cũng
vẫn còn ở trong cái lồng có ai nhìn thấy đâu mà lo, sợ gì đẹp hay xấu.
Du Thản Chi vội đáp:
- Tiểu nhân nào có thích đẹp hay không đẹp ...
A Tử mặt sầm xuống nói:
- Ngươi không nghe lời ta, được, thôi ta biết rồi. Ngươi có ý đánh
lừa ta, vậy ta sẽ vứt ngươi vào trong lồng cho sư tử ăn thịt.
Nàng dùng tiếng Khất Đan dặn dò Thất Lý, Thất Lý liền đáp:
- Vâng!
Rồi lập tức xông lên nắm tay Du Thản Chi. Du Thản Chi nghĩ thầm:
Nếu như mình bị đẩy vào chuồng sư tử thì còn sống sao nổi, chi bằng
nghe lời cô nương, đút cái đầu sắt vào thử, may nhờ rủi chịu. Y liền kêu
lên:
- Đừng kéo! Đừng kéo! Cô nương, tôi xin nghe lời.
A Tử cười nói:
- Có thế mới ngoan ngoãn chứ! Ta bảo này, từ rày ta bảo ngươi làm
gì là phải làm ngay, đừng có lừng khừng để cô nương phải bực mình. Thất
Lý, đánh cho y ba chục roi.
Thất Lý đáp:
- Tuân lệnh!
Y cầm chiếc roi da trong tay người dạy sư tử, nghe chát một tiếng đã
quất vào lưng Du Thản Chi. Du Thản Chi đau quá, kêu lên oai oái. A Tử
nói:
- Hề Sắt, ta bảo này, ta sai người đánh ngươi là coi trọng ngươi đó.
Ngươi kêu toáng lên như thế tức là không thích ta đánh chứ gì?
Du Thản Chi đáp:
- Tiểu nhân thích lắm chứ, đa tạ ân điển cô nương.
A Tử nói:
- Thế thì được, đánh đi.
Thất Lý đánh chát chát luôn một chập mười roi, Du Thản Chi chỉ
đành nghiến răng cố chịu, không dám hé răng, thế nhưng nhờ có chụp cái
lồng sắt nên roi không đánh vào đầu, còn roi da đánh vào ngực bụng
cũng đành phải ráng chịu. A Tử thấy y không kêu nữa cảm thấy vô vị nói:
- Hề Sắt, ngươi bảo ngươi thích ta cho người đánh ngươi, phải
không nào?
Du Thản Chi đáp:
- Chính thế!
A Tử nói:
- Ngươi nói thế là thật hay giả? Hay chỉ là nói quấy nói quá để lừa
ta?
Du Thản Chi đáp:
- Đúng là thế, tiểu nhân nào dám đánh lừa cô nương.
Chết đi sống lại mấy lần,
Một thân gánh chịu muôn phần khổ đau.
Kim chi ngọc diệp còn đâu,
Đầu đeo lồng sắt xiết bao thảm hình.
*
* *
A Tử nói:
- Nếu quả là ngươi thích thú, sao không cười lên? Sao không nói là
được đánh thật sướng quá?
Du Thản Chi bị nàng hành hạ đến hết hồn hết vía, quên cả phẫn nộ,
chỉ đành xuôi theo:
- Cô nương đối với tiểu nhân thật là tử tế, lại sai người đánh thật là
sướng đời.
A Tử nói:
- Nói thế nghe được đấy, để thử xem sao.
Chát một tiếng, y lại bị thêm một roi, Du Thản Chi vội kêu:
- Đa tạ ơn cứu mạng của cô nương, roi này đánh sướng lắm.
Chẳng bao lâu đã bị đánh hơn hai chục roi, tính cả trận đòn trước thì
đã quá ba chục. A Tử xua tay nói:
- Thôi hôm nay thế đủ rồi. Ngươi mau đút đầu vào chuồng ta coi.
Du Thản Chi toàn thân đau như dần, khập khiễng bước tới bên
chuồng sư tử, nghiến răng đút đầu qua song sắt. Con sư tử thấy y dám tiến
lên khiêu khích như thế, sợ quá giật mình lùi lại hai bước, lom lom nhìn
chiếc đầu sắt một hồi, lại lùi thêm hai bước nữa, miệng gừ gừ ra oai. A
Tử quát:
- Bảo sư tử cắn đi, sao nó chưa cắn?
Gã dạy thú quát lên mấy tiếng, sư tử nhận được hiệu lệnh, liền chồm
tới, há mồm ra, ngoạm vào đầu Du Thản Chi, tiếp theo là tiếng kèn kẹt
răng sư tử cạ vào lồng sắt. Du Thản Chi nhắm chặt hai mắt, cảm thấy một
luồng hơi nóng theo lỗ mắt, lỗ mũi, lỗ mồm phà vào, biết rằng đầu mình
đã lọt thỏm trong mồm con mãnh thú, rồi sau ót và trán đau nhói lên.
Khi y bị chụp cái lồng sắt vào đầu, mặt mũi đầu tóc y đã bị chiếc
lồng nóng đỏ đốt cháy, sau mấy ngày bắt đầu liền da, bây giờ lại bị sư tử
cắn, bao nhiêu vết thương lại vỡ tung ra.
Con sư tử cố sức cắn mấy cái nhưng không được, ngược lại răng còn
bị ê ẩm, bèn ra oai giơ chân phải lên chộp lên vai Du Thản Chi. Du Thản
Chi đầu vai đau điếng, kêu A lên một tiếng. Con sư tử đột nhiên thấy
vật trong mồm mình bỗng rống lên, kinh hoảng nhả đầu y ra, lùi về nép
tại một góc lồng.
Gã dạy sư tử lớn tiếng quát tháo, giục sư tử xông đến cắn Du Thản
Chi lần nữa. Du Thản Chi giận quá, đột nhiên vươn tay ra, chộp luôn ót
gã huấn sư, đẩy mạnh một cái, dúi luôn đầu y vào trong chuồng sư tử,
khiến gã kêu lên inh ỏi. A Tử vỗ tay reo hò nói:
- Hay quá! Hay quá! Không ai được can thiệp, để hai đứa vật nhau
xem ai sống ai chết.
Bọn lính Khất Đan đang định tiến lên nắm tay Du Thản Chi lôi ra,
nghe A Tử nói thế đều đứng tại chỗ không động tĩnh gì. Gã dạy sư tử hết
sức dãy dụa, nhưng dã tính của Du Thản Chi nổi lên, nói gì thì nói nhất
định không buông. Gã huấn sư chỉ còn nước nhờ sư tử giúp mình, kêu lên:
- Cắn! Cắn y ngay!
Con sư tử thấy y thúc giục, gầm lên một tiếng chồm tới. Con vật chỉ
nghe chủ nhân bảo nó cắn đi, nhưng nào có biết cắn cái gì, hai hàm răng
nhọn hoắt há ra ngoạm luôn một nửa đầu gã dạy thú, khiến cho máu lẫn
óc tung tóe đầy mặt đất.
A Tử cười nói:
- Hề Sắt thắng rồi!
Nàng bèn bảo sĩ binh đem cái xác gã dạy thú và lồng sư tử ra ngoài,
nói với Du Thản Chi:
- Thế là phải! Ngươi làm cho ta hoan hỉ, phải thưởng gì mới được!
Thưởng cái gì đây nhỉ?
Nàng chống tay vào cằm nghiêng đầu suy nghĩ. Du Thản Chi nói:
- Cô nương, tiểu nhân không mong cô thưởng tiền, chỉ cầu xin một
việc.
A Tử hỏi:
- Ngươi cầu xin gì?
Du Thản Chi đáp:
- Xin cô cho tiểu nhân được ở bên cạnh hầu hạ, làm đầy tớ cho cô
nương.
A Tử ngạc nhiên:
- Làm đầy tớ cho ta ư? Sao lại thế? Có gì thích thú đâu? Ồ, ta biết
rồi, ngươi định đợi Tiêu đại vương đến thăm ta, thừa cơ hạ thủ, báo thù
cho cha mẹ chứ gì?
Du Thản Chi vội đáp:
- Không! Không! Không phải thế đâu.
A Tử nói:
- Không lẽ ngươi không định báo thù hay sao?
Du Thản Chi đáp:
- Không phải không nghĩ đến, có điều một là báo thù không được,
hai là không muốn để cô nương bị dính líu vào.
A Tử hỏi:
- Thế sao ngươi lại thích làm đầy tớ cho ta?
Du Thản Chi đáp:
- Cô nương là tiên trên trời hạ phàm, là người đẹp nhất trong thiên
hạ. Tiểu nhân ... tiểu nhân ... mong được ngày ngày trông thấy cô nương.
Câu đó cực kỳ vô lễ, ở vào tình trạng y lúc này, thì lại cũng thật là
lớn mật. Thế nhưng A Tử nghe vào tai thì lại rất vừa ý. Nàng tuổi còn
nhỏ, dung mạo tuy đẹp đẽ thật nhưng thân thể chưa trưởng thành, lại
thêm trọng thương mới khỏi, tiều tụy xanh xao mà bảo là người đẹp nhất
trong thiên hạ thì thật quá đáng, nhưng nghe một người vì nhan sắc mình
mà đắm đuối như thế cũng không khỏi mở cờ trong bụng.
Nàng đang toan bằng lòng lời thỉnh cầu của Du Thản Chi thì bỗng
nghe một tên cung vệ lên tiếng báo:
- Đại vương đến thăm.
A Tử đưa mắt cho Du Thản Chi, hạ giọng hỏi:
- Tiêu đại vương đến rồi kìa, ngươi có sợ không?
Du Thản Chi sợ đến mất vía nhưng vẫn run run nói cứng:
- Không sợ!
Điện môn mở toang ra, Tiêu Phong mặc khinh cừu đai lỏng5, chậm
rãi đi vào. Ông vừa vào cửa điện đã thấy trên sàn đầy những máu tươi,
lại thêm Du Thản Chi đầu đeo lồng sắt đứng đó, hình dáng hết sức lạ
lùng bèn vừa cười vừa hỏi A Tử:
- Hôm nay khí sắc cô trông tươi tỉnh lắm, lại có trò chơi gì mới
chăng? Người này trên đầu đeo cái gì lạ thế?
A Tử cười đáp:
Bối cảnh xã hội đời Tống
- Đây là người đầu sắt do nước Cao Xương bên Tây Vực tiến
cống, tên là Hề Sắt. Đầu y cứng lắm, đến sư tử cắn còn không vỡ, anh coi
nè, đây là vết răng sư tử đó.
Tiêu Phong coi kỹ chiếc lồng sắt, quả nhiên còn dấu răng mãnh thú
thật. A Tử lại tiếp:
- Tỉ phu, anh có cách gì gỡ cái lồng sắt này ra được không?
Du Thản Chi nghe nói thế, sợ đến hồn phi phách tán. Y đã từng
chính mắt trông thấy thần dũng của Tiêu Phong một mình đấu với quần
hùng Trung Nguyên, song chưởng đánh ra khiến cương thuẫn của cả bá
phụ và phụ thân đều văng đi, nếu như muốn gỡ cái lồng trên đầu mình thì
thật dễ như trở bàn tay. Khi bị người ta gắn chiếc lồng sắt vào đầu, y đau
khổ thất vọng, đến bây giờ thì lại mong rằng cái lồng sắt đó sẽ mãi mãi ở
trên đầu mình để Tiêu Phong không nhìn thấy bộ mặt thật.
Tiêu Phong giơ ngón tay búng nhẹ vào cái lồng sắt mấy cái, phát
tiếng leng keng cười nói:
- Cái lồng sắt này thật chắc chắn, thật tinh vi, làm hỏng thì uổng
lắm.
A Tử nói:
- Sứ giả nước Cao Xương nói rằng, gã đầu sắt này sinh ra mặt xanh
nanh vàng, ba phần người, bảy phần quỉ, ai trông thấy cũng phải hoảng
hồn tránh xa thành thử cha mẹ y mới đúc cái lồng này cho y đội để khỏi
làm cho người khác tởn thần. Tỉ phu ơi, em muốn xem bộ mặt thực của y
thế nào, có thực là kinh khủng dễ sợ hay không?
Du Thản Chi sợ quá run lẩy bẩy, răng đánh bò cạp kêu lách cách.
Tiêu Phong thấy y kinh hoảng dị thường bèn nói:
- Gã này sợ đến mất vía, thôi đừng bửa đầu y ra làm chi. Người này
từ nhỏ đội đã quen, nếu cố gắng lấy ra e rằng y không sống được.
A Tử vỗ tay reo lên:
- Thế thì thật thú vị. Mỗi khi em thấy con rùa em đều bắt nó đem
lột mai ra để xem rùa không mai có sống được không?
Tiêu Phong chau mày, nghĩ đến con rùa bị lột vỏ, quả là tàn nhẫn
nói:
- A Tử, sao ngươi lại cứ thích những trò tàn ác khiến cho người ta
sống dở chết dở như thế?
A Tử hứ một tiếng nói:
- Anh không thích em chứ gì? Em làm sao tốt được như chị A Châu?
Em mà được như chị A Châu thì đâu có đến nỗi mấy ngày anh không
thèm đến thăm.
Tiêu Phong nói:
- Làm cái chức khốn khổ Nam Viện Đại Vương này, suốt ngày bận
tối tăm mặt mũi. Thế nhưng chẳng phải ngày nào ta cũng đến chơi với cô
một lúc hay sao?
A Tử phụng phịu:
- Chơi với cô một lúc? Hứ, chơi với cô một lúc? Em chẳng thích cái
lối vờ vĩnh đến chơi với cô một lúc cho có chuyện của tỉ phu đâu? Giá
như em là chị A Châu thì ắt hẳn anh luôn luôn ở bên cạnh em không rời
một bước chứ đâu phải chỉ một lúc, nửa lúc mà thôi.
Tiêu Phong nghe nàng nói quả không sai nên không sao trả lời được,
chỉ đành cười trừ nói:
- Tỉ phu là người lớn, đâu có thích chơi đùa với trẻ con, sao em
không kiếm một cô gái nhỏ tuổi nào để trò truyện giải sầu?
A Tử hậm hực đáp:
- Trẻ con, trẻ con ... em nào có còn là trẻ con nữa? Anh không thích
chơi với em, sao còn đến đây làm gì?
Tiêu Phong đáp:
- Ta đến xem cô đã khỏe chưa? Hôm nay uống mật gấu rồi chứ?
A Tử cầm chiếc nệm trên ghế quăng mạnh xuống đất, giơ chân đá
một cái nói:
- Trong lòng em không được vui, dù mỗi ngày uống hàng trăm cái
mật gấu thì cũng chẳng khỏe được.
Tiêu Phong thấy nàng lại giở trò hờn mát, nếu là A Châu ông ắt sẽ
dỗ dành để nàng bớt giận làm lành, còn cô bé điêu ngoa ác độc này thì
càng nghĩ càng chán ghét nên chỉ nói:
- Thôi em đi nghỉ đi thôi.
Ông đứng lên đi ra. A Tử nhìn theo sau lưng ông, ngơ ngẩn muốn
khóc, chợt nhìn thấy Du Thản Chi, cơn giận bùng lên, bao nhiêu bực dọc
muốn trút lên đầu y bèn quát:
- Thất Lý, đánh thêm cho nó ba mươi roi nữa.
Thất Lý vội đáp:
- Vâng!
Y cầm chiếc roi lên. Du Thản Chi thất thanh kêu lên:
- Cô nương, tôi làm lầm lỗi gì thế?
A Tử không đáp, vẫy tay nói:
- Đánh mau!
Vút một tiếng, Thất Lý liền đánh xuống. Du Thản Chi lại kêu:
- Cô nương, quả thực tiểu nhân phạm tội gì, xin cô cho biết để lần
sau khỏi tái phạm.
Thất Lý cứ vút một roi rồi lại một roi nữa. A Tử nói:
- Ta muốn đánh là đánh, ngươi không được hỏi là tội gì, không lẽ ta
đánh sai hay sao? Ngươi hỏi là mình phạm tội gì ư? Thì chính vì ngươi hỏi
cho nên ta mới đánh.
Du Thản Chi nói:
- Tại cô nương đánh trước, tiểu nhân mới hỏi. Tôi chưa hỏi cô
nương đã sai đánh rồi mà.
Vút một roi, lại vút vút vút thêm ba roi nữa. A Tử cười nói:
- Ta đoán là ngươi sẽ hỏi cho nên ta sai người đánh trước. Quả
nhiên ngươi hỏi thật, có đúng là ta liệu sự như thần hay không? Cái đó
chứng minh là ngươi đâu có hết lòng hết dạ với ta. Cô nương bỗng nhiên
muốn đánh người, nếu quả ngươi trung thành thì phải xông lên, tự động
hiến thân cho ta đánh mới phải. Ngươi lầu bầu như thế đủ biết trong lòng
không phục. Được rồi, ngươi không thích ta đánh, thì thôi không đánh
cũng chẳng sao.
Du Thản Chi nghe nàng nói không đánh cũng chẳng sao mà sợ run
lên, người nổi da gà, biết rằng A Tử sẽ nghĩ ra những hình phạt còn đau
đớn khổ sở gấp mười lần đánh, chi bằng ngoan ngoãn chịu ba chục roi
còn hơn, vội nói:
- Tiểu nhân biết sai rồi! Cô nương đánh là đại ân đại đức, có ích
cho thân thể tiểu nhân, xin cô nương đánh thêm nữa, càng nhiều càng tốt.
A Tử nở một nụ cười tươi như hoa nói:
- Xem ra ngươi kể cũng thông minh nhưng ta đâu có để cho người
khác giăng bẫy được, ngươi bảo đánh càng nhiều càng tốt là để cho ta
cao hứng tha cho ngươi chứ gì?
Du Thản Chi đáp:
- Nào có dám thế, tiểu nhân quả không dám giăng bẫy đánh lừa cô
nương.
A Tử nói:
- Thế ngươi bảo đánh càng nhiều càng tốt là phát xuất tự đáy lòng
đấy chăng?
Du Thản Chi đáp:
- Quả đúng như thế, chính là tâm nguyện của tiểu nhân.
A Tử nói:
- Nếu đúng như vậy thì thôi ta cũng chiều ý ngươi. Thất Lý, đánh
cho nó một trăm roi, y thích đánh cho thật nhiều.
Du Thản Chi sợ đến mất mật, nghĩ bụng: Đánh một trăm roi thì
mạng mình còn sao nổi?. Thế nhưng việc đã đến nước này, dù y bảo
mình không muốn, nhưng người ta đánh là đánh cãi lại có ích gì đâu, nên
đành lặng thinh không dám nói gì cả.
A Tử hỏi:
- Sao ngươi không nói gì cả? Có phải trong lòng không phục chứ
gì? Ta sai người đánh ngươi, ngươi thấy không công bình chăng?
Du Thản Chi đành gượng đáp:
- Tiển nhân vui lòng thành khẩn, biết là cô nương đánh là do lòng
tốt muốn thành toàn cho tiểu nhân.
A Tử nói:
- Thế sao ngươi không nói gì cả?
Du Thản Chi không còn cách gì trả lời, ngập ngừng một hồi rồi đáp:
- Cái đó ... cái đó ... tiểu nhân nghĩ đến ơn đức cô nương nặng tày
non, trong lòng cảm kích, không còn biết nói sao nữa, chẳng biết tương lai
làm thế nào để báo đáp.
A Tử nói:
- Tốt lắm! Ngươi hỏi làm cách nào báo đáp ta ư? Mỗi roi ta đánh
ngươi, ngươi lại thêm hận thù một chút nhớ kỹ trong lòng chứ gì.
Du Thản Chi liên tiếp lắc đầu:
- Không! Không! Không đâu! Tiểu nhân nói báo đáp là nói chuyện
báo đáp chân chính. Tiểu nhân một lòng một dạ mong được vì cô nương
tan xương nát thịt, dẫu phải nhảy vào nước sôi, xông vào lửa bỏng cũng
không từ.
A Tử nói:
- Được, thế thì đánh đi.
Thất Lý vội đáp:
- Vâng.
Nghe chát một tiếng, roi da đã quất xuống. Đánh đến hơn năm chục
roi thì Du Thản Chi đau đến tê người, hai đầu gối nhũn đi, từ từ sụm
xuống. A Tử cười khì khì đứng coi, chỉ đợi cho y mở miệng van xin một
tiếng là nàng sẽ kết tội y nói láo, tăng thêm năm chục roi đòn. Có ngờ
đâu lúc này Du Thản Chi đã nửa tỉnh nửa mê, chẳng còn biết gì nữa, chỉ
rên khe khẽ nhưng không van xin câu nào. Đánh đến bảy chục roi thì y đã
ngất xỉu, Thất Lý vẫn không nương tay, đánh cho đủ một trăm roi lúc đó
mới ngừng.
A Tử thấy Du Thản Chi chỉ còn thoi thóp, chín chết một sống không
khỏi cụt hứng. Nàng nghĩ đến thái độ của Tiêu Phong chẳng thèm để ý
đến mình, trong bụng ấm ức nói:
- Lôi y đi! Gã này chẳng có gì vui! Thất Lý, có trò chơi mới nào
nữa không?
Du Thản Chi bị trận đòn đó phải dưỡng thương một tháng trời mới
khỏi. Người Khất Đan thấy A Tử đã quên y rồi nên không lôi y ra hành
hạ nữa, bỏ y vào ở chung với một đám người Tống bị bắt khác, bắt y phải
làm những việc hạ tiện nặng nhọc hơn cả, dọn hố xí, rửa chuồng cừu,
nhặt phân bò, phơi da thú chuyện gì cũng đến tay.
Du Thản Chi đầu đội cái lồng sắt nên ai ai cũng đem y ra chửi mắng
làm trò cười, đến cả đồng bào người Hán cũng coi y như con quái vật.
Thế nhưng y việc gì cũng nhịn, tưởng như biến thành người câm. Người
khác đánh chửi, y cũng không kháng cự, chỉ có khi nào có ai cưỡi ngựa đi
qua thì mới ngửng đầu lên nhìn, trong lòng khắc khoải duy nhất một
chuyện: Không biết đến chừng nào cô nương mới gọi mình lên đánh
đòn?. Y chỉ mong được nhìn thấy A Tử cho dù phải chịu roi vọt cũng
cam lòng chứ tuyệt nhiên chưa bao giờ có ý định đào tẩu.
Cứ như thế hơn hai tháng trời, khí hậu ấm dần. Hôm đó Du Thản Chi
theo mọi người ra phía nam thành Nam Kinh xúc đất khiêng gạch để đắp
thêm cho tường thêm chắc chắn, bỗng nghe thấy tiếng chân ngựa lộp cộp,
mấy người từ trong Nam môn đi ra, có tiếng cười trong trẻo nói:
- Ô kìa, tên Hề Sắt còn sống nhỉ? Ta vẫn tưởng y chết ngỏm từ đời
nào! Hề Sắt, ngươi lại đây.
Chính là tiếng của A Tử. Du Thản Chi ngày mong đêm nhớ, canh
cánh mong tới giờ phút này, nghe tiếng A Tử gọi, hai chân như đóng chặt
xuống đất, không sao di động được, chỉ thấy tim trong ngực đập thình
thình, lòng bàn tay toát mồ hôi.
A Tử lại gọi:
- Hề Sắt, đáng chết thực! Ta gọi ngươi lại đây, ngươi điếc hay sao?
Du Thản Chi lúc ấy mới đáp:
- Thưa cô nương, vâng.
Y đi đến trước đầu ngựa của cô gái. A Tử trong lòng thật vui vẻ, cười
nói:
- Hề Sắt, sao ngươi chưa chết hả?
Du Thản Chi đáp:
- Tiểu nhân vẫn mong ... vẫn mong báo đáp ân điển cô nương mà
chưa được nên không thể chết.
A Tử càng thêm vui, cười khanh khách mấy tiếng nói:
- Ta đang đi tìm một đứa đầy tớ trung thành một lòng một dạ để
làm một chuyện, chỉ sợ người Khất Đan chân tay vụng về làm hỏng việc,
nếu ngươi chưa chết thì thật tốt quá. Ngươi đi theo ta.
Du Thản Chi đáp ngay:
- Vâng!
Lập tức đi theo sau ngựa nàng. A Tử vẫy tay bảo Thất Lý và ba tên
vệ sĩ Khất Đan quay trở về, không phải theo nữa. Thất Lý biết rằng nàng
đã nói gì thì người khác không thể nào khuyên giải được, cũng may tên
đầu sắt này nhút nhát khiếp nhược, đi theo nàng ắt không có chuyện gì
xẩy ra bèn nói:
- Xin cô nương sớm quay về phủ.
Bốn người bèn nhảy xuống ngựa đứng đợi bên cửa thành. A Tử giục
ngựa chạy chậm chậm, đi chừng bảy tám dặm, càng lúc càng hoang dã rẽ
vào một sơn cốc tối om om, gió lạnh từ một khe núi thổi qua khiến hai
người da thịt như se lại.
A Tử nói:
- Thôi, ở đây được rồi!
Nàng ra lệnh cho Du Thản Chi buộc ngựa tại một gốc cây rồi bảo:
- Những chuyện ngươi trông thấy ngày hôm nay, không được tiết lộ
cho ai một tí gì, ngay cả với ta cũng không được đề cập tới, nhớ chưa?
Du Thản Chi vội đáp:
- Vâng! Vâng!
Trong bụng vui muốn phát điên, A Tử chỉ cho một mình mình đi
theo, đến một nơi hẻo lánh như thế, dẫu cho nàng có đánh cho y một chập
thật đau thì cũng vẫn còn cảm thấy ngọt như đường. A Tử cho tay vào bọc
lấy ra một chiếc đỉnh nhỏ bằng gỗ màu vàng sậm, để trên mặt đất nói:
- Lát nữa nếu có côn trùng gì quái lạ bò ra, ngươi không được la lối
om sòm, nhất định không được lên tiếng nghe chưa?
Du Thản Chi vội vàng đáp:
- Vâng!
A Tử lại cho tay vào túi lấy ra một cái gói vải nhỏ, mở ra thấy có
mấy cục hương liệu màu vàng, màu đen, màu tím, màu đỏ. Nàng bẻ mỗi
cục một miếng nhỏ, bỏ vào trong đỉnh, dùng hỏa đao, hỏa thạch đánh lên
châm lửa đốt, sau đó đậy nắp lại nói:
- Mình ra dưới gốc cây kia ngồi rình xem.
A Tử ngồi dưới gốc cây, Du Thản Chi đâu dám ngồi bên cạnh nàng,
ra một tảng đá dưới chiều gió. Gió lạnh hiu hiu, trong hơi gió có thoang
thoảng mùi thơm từ người nàng bay ra, Du Thản Chi không khỏi mê mẩn
tâm hồn, thấy rằng được một lúc như thế này, bao nhiêu khổ sở dày vò y
phải chịu những ngày qua kể cũng không uổng. Y mong sao A Tử vĩnh
viễn ngồi dưới gốc cây, còn mình được đời đời kiếp kiếp ở nơi đây hầu
bên cạnh.
Y còn đang say sưa lãng đãng, bỗng nghe thấy có tiếng loạt soạt,
một vật gì đỏ chót đang động đậy trong bụi cỏ xanh, chính là một con rết
thật lớn, toàn thân lấp lánh, trên đầu lồi ra một cái bướu nhỏ, trông khác
xa những con rết thường.
Con rết đó ngửi thấy mùi hương trong mộc đỉnh lập tức trườn tới,
chui theo cái lỗ dưới chiếc đỉnh mà vào rồi không thấy ra nữa. A Tử lấy
trong bọc ra một vuông gấm dày, rón rén tới gần, chụp mảnh gấm lên
trên chiếc đỉnh bao lại thật chặt sợ con rết chui ra mất rồi bỏ vào trong
chiếc bao da treo bên cổ ngựa cười nói:
- Thôi đi!
Nàng lập tức lên ngựa khởi hành. Du Thản Chi lẽo đẽo theo sau nghĩ
thầm: Cái tiểu mộc đỉnh đó thật là kỳ quái, nhưng chắc hẳn là vì đốt
hương liệu mà dụ được con rết đó chui vào. Không biết con rết đó có cái
gì vui mà cô nương lại lận đận vào tận trong sơn cốc để bắt nó?.
A Tử về đến Đoan Phúc Cung sai thị vệ dọn một cái phòng nhỏ ở
bên cạnh làm nơi ở cho Du Thản Chi. Du Thản Chi mừng quá, biết rằng
rồi đây mình sẽ được gặp A Tử luôn. Quả nhiên sáng hôm sau, A Tử đã
sai gọi Du Thản Chi đến, dẫn y vào bên cạnh điện, tự tay đóng cửa, trong
điện chỉ còn hai người. A Tử sang phía tây lấy một chiếc hũ bằng sành,
mở nắp ra cười nói:
- Ngươi xem này, coi có hùng tráng không?
Du Thản Chi thò đầu vào nhìn, thấy chính là con rết bắt được hôm
qua đang chạy lăng quăng trong đó. A Tử lấy ra một con gà trống đã để
san bên cạnh, rút đoản đao chặt đứt mỏ và cựa, vứt vào trong hũ. Con rết
kia liền nhảy lên đầu con gà cắn cổ hút máu, chẳng bao lâu con gà trúng
độc chết liền. Mình con rết từ từ căng lên, cái đầu màu đỏ tưởng như
muốn bật máu ra. A Tử vẻ mặt đầy vui sướng nói nhỏ:
- Thành rồi! Thành rồi! Môn công phu này có thể luyện thành công
được rồi!
Du Thản Chi nghĩ thầm: Thì ra cô đi bắt rết là để luyện một môn
công phu. Công phu đó chắc tên là Ngô Công Công. Cứ như thế nàng
nuôi nó bảy ngày, mỗi ngày cho con rết hút máu một con gà trống lớn.
Đến ngày thứ tám, A Tử lại gọi Du Thản Chi vào trong điện, cười hì hì
hỏi:
- Hề Sắt, ta đối với ngươi thế nào?
Du Thản Chi đáp:
- Cô nương đối đãi tiểu nhân ơn nặng tày non.
A Tử hỏi thêm:
- Ngươi từng bảo sẽ vì ta tan xương nát thịt, nhảy vào nước sôi,
xông vào lửa bỏng cũng không từ, cái đó thực hay giả thế?
Du Thản Chi đáp:
- Tiểu nhân chẳng dám nói láo cô nương. Cô nương sai bảo chuyện
gì tiểu nhân nhất định không từ chối.
A Tử nói:
- Thế thì hay lắm. Để ta nói cho ngươi hay, ta muốn luyện một môn
công phu nhưng phải có người giúp mới xong được. Ngươi có bằng lòng
giúp ta luyện công không? Nếu như luyện thành rồi, ta thể nào cũng
trọng thưởng cho ngươi.
Du Thản Chi đáp:
- Tiểu nhân đương nhiên nghe cô nương bảo gì làm nấy, chẳng cần
phải thưởng.
A Tử nói:
- Thế thì hay lắm, mình luyện công được rồi.
Nàng ngồi xuống xếp bằng, hai tay xoa vào nhau, nhắm mắt vận khí,
một hồi sau mới nói:
- Ngươi thò tay vào trong hũ, con rết đó thể nào cũng cắn ngươi,
ngươi giá nào cũng không được động đậy, phải để cho nó hút máu, càng
nhiều càng tốt.
Bảy ngày qua ngày nào Du Thản Chi cũng thấy con rết đó hút máu
gà, chỉ giây lát, một con gà trống đang khỏe mạnh đã ngã ra chết ngay,
đủ biết con rết này độc kinh khủng, nghe A Tử bảo thế, không khỏi ngần
ngừ không trả lời. A Tử mặt sầm xuống hỏi lại:
- Chờ gì nữa? Ngươi không muốn làm hay sao?
Du Thản Chi đáp:
- Không phải không muốn, có điều ... có điều ...
A Tử ngắt ngang:
- Cái gì? Có điều con rết này độc tính lợi hại, ngươi sợ chết chứ gì?
Ngươi là người hay ngươi là gà trống?
Du Thản Chi đáp:
- Tiểu nhân không phải là gà trống.
A Tử nói:
- Đúng thế, gà trống bị rết hút máu thì chết, ngươi không phải là
gà, sao lại chết được? Ngươi bảo san lòng vì ta nhảy vào nước sôi, xông
vào lửa bỏng, tan xương nát thịt, vậy mới để rết hút có một chút máu thì
đã gọi là tan xương nát thịt hay chưa?
Du Thản Chi ứ họng không trả lời được, ngẩng đầu nhìn A Tử, thấy
nàng khóe miệng hơi trĩu xuống ra chiều khinh miệt, lập tức ý loạn tình
mê như bị ma nhập liền khẳng khái đáp:
- Được, tiểu nhân nghe lời sai bảo của cô nương.
Y nghiến chặt hàm răng, nhắm mắt lại, tay phải chầm chậm thò vào
trong cái chóe. Bàn tay y vừa lọt vào trong hũ, đầu ngón tay giữa liền bị
đau nhói như kim chích khiến y nhịn không nổi rụt tay lại. A Tử kêu lên:
- Giữ yên đó! Không được động đậy!
Du Thản Chi cố gắng chịu đựng, mở mắt ra, thấy con rết kia đang
cắn đầu ngón tay giữa của mình hút máu. Du Thản Chi toàn thân nổi gai
ốc, chỉ muốn kéo tay ra vẩy cho con rết rơi xuống lấy chân đạp cho chết.
Thế nhưng tuy y không quay đầu lại cũng biết đôi mắt sắc như dao của A
Tử đang nhìn sau lưng mình, chẳng khác gì hai lưỡi kiếm đâm tới thì làm
sao dám cử động?
Cũng may khi con rết hút máu không đau lắm chỉ thấy con vật từ từ
phồng lên, còn đầu ngón tay giữa của Du Thản Chi thì mờ mờ phủ một
lớp màu tím thẫm. Màu tím đó từ nhạt chuyển sang đậm, rồi từ từ biến
thành màu đen, một lát sau, từ ngón tay lan sang bàn tay, rồi chạy lên
cánh tay.
Du Thản Chi lúc này không còn coi sống chết vào đâu, ngược lại còn
thản nhiên như không, mép nở một nụ cười, có điều nụ cười đó dấu sau
tấm mặt nạ thép nên A Tử không nhìn thấy được.
A Tử hai mắt đăm đăm nhìn con rết, hết sức chăm chú không dám
sao nhãng chút nào. Sau cùng con rết nhả tay Du Thản Chi ra, nằm bất
động dưới đáy hũ. A Tử kêu lên:
- Ngươi nhè nhẹ bắt con rết bỏ vào mộc đỉnh cho ta, cẩn thận đó,
đừng làm nó tổn thương.
Du Thản Chi y lời nhặt con rết lên, bỏ vào trong chiếc tiểu mộc đỉnh
để ở trước cẩm đôn. A Tử liền đóng nắp lại, chỉ trong giây lát, từ trong
chiếc lỗ có những giọt máu đen nhỏ ra. A Tử vẻ mặt vui mừng, vội đưa
tay hứng máu đó, ngồi xếp bằng vận công, hút những giọt máu độc đó
vào trong lòng bàn tay. Du Thản Chi nghĩ thầm: Đây là huyết dịch của
ta, bây giờ đi vào trong người nàng. Thì ra cô nương đang luyện Ngô
Công độc chưởng.
Một lúc lâu sau, máu đen từ chiếc đỉnh đã chảy ra hết, A Tử mở nắp
ra thấy con rết kia đã chết rồi. A Tử hai tay xoa vào nhau, nhìn lại bàn
tay thấy chẳng khác gì bạch ngọc không một tì vết, cũng không có vết
máu, biết rằng phương pháp luyện công nàng nghe lóm được của sư phụ
không sai chút nào, trong bụng sung sướng, bưng chiếc một đỉnh lên, trút
con rết ra rồi hấp tấp ra khỏi điện, chẳng thèm nhìn nhõi gì đến Du Thản
Chi, coi y không khác gì con rết chết, không còn dùng vào việc gì được
nữa.
Du Thản Chi nhìn theo sau lưng A Tử cho tới khi nàng đi khuất, lúc
ấy mới cởi áo ra xem thấy sắc đen đã lan lên tới nách, đồng thời cả cánh
tay ngứa ngáy khó chịu, chỉ giây lát đã tưởng chừng như có muôn ngàn
con rận cùng cắn một lượt.
Y kêu rầm lên, nhảy choi choi, đưa tay gãi, nhưng càng gãi thì càng
ngứa, tưởng như từ trong xương tủy, phế phủ đều có sâu bọ chui vào, ngo
ngoe ngọ ngoạy khắp nơi. Đau thì có thể chịu đựng nhưng ngứa lại thật
khó mà nín nhịn. Y nhảy lên nhảy xuống, vừa nhảy vừa kêu, lấy chiếc
đầu sắt húc mạnh vào tường, nghe kêu boong boong, chỉ mong mình ngất
đi, mất hết tri giác, để khỏi phải chịu cái cơn ngứa ngáy kinh khủng này.
Đập đầu thêm mấy cái nữa, nghe cạch một tiếng, cái gói bằng vải
dầu từ trong bọc rơi ra, lộ ra một cuốn sách bìa đã vàng, chính là bản kinh
thư bằng tiếng Phạn hôm nọ y nhặt được. Lúc này trong cơn ngứa ngáy
kịch liệt, y cũng chẳng nghĩ tới chuyện nhặt lên làm gì, chỉ thấy cuốn
sách mở tung. Du Thản Chi toàn thân khó chịu, lăn lộn dưới đất vùng vẫy
như con cá mắc lưới. Một lúc sau, y chỉ còn nằm gục một chỗ thở hồng
hộc, nước mắt, nước mũi, nước dãi từ các chỗ hổng trên chiếc lồng sắt
chảy ra, rơi cả xuống cuốn kinh chữ Phạn.
Trong cơn mơ màng, y thiếp đi không biết bao lâu, cuốn sách dính
đầy dãi nhớt, không hiểu vì sao bỗng từ trên những hàng chữ cong cong
quẹo quẹo, hiện ra hình của một nhà sư. Tăng nhân đó tư thức cực kỳ
quái dị, đầu cúi xuống chui qua háng thò ra ngoài, hay tay đưa xuống nắm
hai cổ chân.
Y nào còn tâm trí đâu mà xem hình thế cổ quái trong sách, chỉ thấy
người ngứa ngáy tưởng chừng thở không nổi, đành lăn ra đất, cào gãi lung
tung, xé vụn quần áo đang mặc trên người để cọ da thịt lên nền đá cho đỡ
ngứa, chỉ chốc lát da dẻ đã rướm máu. Y lăn qua lộn lại ma sát như thế,
đột nhiên vô ý sao, đầu chui tọt vào giữa hai bắp đùi. Đầu y có mang cái
rọ sắt, trong cơn gấp gáp không rút lại được, giơ tay tính đẩy trở ra, tay
phải quều quào sao nắm ngay cổ chân.
Đến lúc đó Du Thản Chi đã mệt ngất ngư chẳng còn hơi sức gì nữa,
không thể động đậy, chỉ đành nghỉ một chốc thở vài hơi, vô tình sao nhìn
thấy cuốn sách mở dưới đất, trong sách vẽ hình một nhà sư gầy gò, tư
thức cũng na ná như y đang làm, trong bụng vừa kinh dị lại cảm thấy tức
cười. Kỳ quái làm sao, y theo tư thức này, tuy thân thể vẫn còn ngứa ngáy
như cũ nhưng hơi thở đã dễ dàng hơn, thành thử cũng không vội chui đầu
ra khỏi háng, mà đành nằm phục dưới đất như hình vẽ, tay trái cũng đưa
ra nắm luôn cổ chân phải, cằm chống xuống đất. Thế là y và đồ hình của
nhà sư trong sách hoàn toàn giống nhau, hơi thở lúc này đã dễ dàng hơn
nhiều.
Y nằm phục như thế, đôi mắt để gần ngay cuốn sách, nhìn vào tăng
nhân thấy ở bên cạnh nhà sư có hai chữ màu vàng cực lớn, hình dáng
quái lạ cong cong quẹo quẹo, nhưng trong nét bút lại có vô số những mũi
tên đỏ nhỏ xíu bắn ra. Du Thản Chi lúc này đang nằm gục xuống hết sức
mỏi mệt nên buông tay ra đứng lên. Y vừa đứng dậy, lập tức lại ngứa đến
ngạt thở, vội vàng lại cúi xuống chui đầu vào giữa hai đùi, hay tay nắm
cổ chân, cằm chống xuống đất. Chỉ có tư thế cổ quái đó y mới lại thấy dễ
chịu mà thôi.
Du Thản Chi không dám động đậy gì nữa, một lúc sau không có việc
gì làm, đưa mắt nhìn nhà sư vẽ trên sách rồi nhìn qua hai chữ quái dị ở
bên cạnh đồ hình. Y xem những mũi tên trên hai chữ đó, tự nhiên đưa
mắt theo những đầu mũi tên quan sát nét bút, bỗng thấy những chỗ ngứa
trên tay phải biến thành một luồng khí ấm, từ cổ họng chạy xuống ngực
bụng, chạy quanh vài vòng theo hai vai lên đỉnh đầu rồi chầm chậm biến
mất.
Y thử nhìn vào đầu mũi tên trên hai chữ quái dị vài bận, lần nào
cũng có một luồng khí ấm chạy lên trên óc, còn cánh tay thì lại bớt ngứa
đi một chút. Du Thản Chi kinh ngạc nhưng chẳng hơi đâu nghĩ đến
nguyên nhân vì sao, cứ theo thế mà làm đến hơn ba chục lần thì cánh tay
chỉ còn hơi ngứa, làm thêm mươi lần nữa, ngón tay, lòng bàn tay, cánh
tay không chỗ nào còn cảm giác gì khác lạ.
Y rút đầu ra khỏi hai đùi, giơ tay xem, hắc khí trên bàn tay đã hoàn
toàn biến mất, y vui mừng khôn xiết đột nhiên kinh hoảng kêu lên:
- Chết rồi, không xong. Chất kịch độc của con rết đều chạy lên óc
cả rồi.
Thế nhưng lúc đó cơn ngứa quái lạ kia đã hết, y nghĩ thầm nếu sau
này có chuyện gì thì cũng không đến nỗi nào. Du Thản Chi tự hỏi: Cuốn
sách này rõ ràng nào có hình vẽ gì đâu, sao tự nhiên lại có một hòa
thượng cổ quái hiện ra? Ta chỉ vô ý sao lại thành tư thế giống hệt như nhà
sư này? Nhà sư này hẳn là bồ tát đến cứu mạng ta đây. Y bèn quì xuống
đất, cung kính khấu đầu trước vị quái tăng trong quyển sách, chiếc lồng
sắt gõ xuống đất kêu boong boong.
Y nào có biết hình trong quyển sách vẽ bằng một chất thảo dược pha
với nước, khi ướt thì hiện ra, còn khô thì biến mất, thành thử cả A Châu
lẫn Tiêu Phong đều không nhìn thấy. Thực ra tuyến lộ luyện công của
hình vẽ trong quyển sách đều có chú thích rõ ràng ở bên cạnh, những nhà
sư Thiếu Lâm thời trước biết chữ Phạn tuy không biết bí mật của đồ hình
vẫn theo đúng lời chỉ bằng chữ luyện thành Dịch Cân Kinh thần công. Du
Thản Chi khi bị cơn ngứa kỳ quái không chịu nổi kia, nước mắt ràn rụa
rơi xuống trang sách nên làm hình vẽ hiện ra. Đây là một môn diệu pháp
trong việc hóa giải ma đầu từ bên ngoài xâm nhập, là bí thuật trong phép
Du Già6 của Thiên Trúc thời cổ.
Y đột nhiên làm được tư thức đó cũng chẳng phải ngẫu nhiên xảo
hợp mà ăn nhanh thì nghẹn, ăn quá thì ói. Trong khi y bị ngứa quá đỗi,
đầu chúi xuống đất cũng là tự nhiên không có gì lạ, có điều nước mắt y
chảy vào đúng quyển sách thì cái đó mới thật khéo làm sao. Y ngơ ngẩn
một hồi, mệt mỏi quá lăn ra đất ngủ thiếp đi.
Sáng sớm hôm sau khi y còn chưa trở dậy, A Tử hấp tấp đi vào trong
điện thấy y trần truồng nằm đó, kêu lên một tiếng hỏi:
- Sao ngươi còn chưa chết?
Du Thản Chi kinh hãi ấp úng:
- Vì ... tiểu nhân ... tiểu nhân còn sống.
Y trong lòng chua xót: Thì ra cô nương mong ta chết cho rồi. A Tử
nói:
- Ngươi chưa chết thì càng hay. Mau đi kiếm quần áo mặc vào theo
ta đi bắt độc trùng lần nữa.
Du Thản Chi đáp:
- Vâng!
Đợi cho A Tử đi ra khỏi điện, y mới đi kiếm mấy tên lính Khất Đan
hỏi xin quần áo. Binh sĩ Khất Đan thấy quận chúa có vẻ tử tế với y hơn
một chút liền đi kiếm một bộ quần áo khô sạch cho y mặc.
A Tử dẫn Du Thản Chi đến một nơi hoang dã, lại dùng Thần Mộc
Vương Đỉnh để bắt độc trùng, dùng máu gà để nuôi, sau đó lại cho hút
máu Du Thản Chi rồi dùng để luyện công. Lần thứ hai là một con nhện
màu xanh, lần thứ ba là một con bò cạp lớn. Du Thản Chi lần nào cũng
theo đúng đồ hình trong quyển sách hóa giải chất độc.
Năm xưa A Tử nhìn trộm sư phụ luyện thần công, lần nào cũng thấy
có người chết, đều là dân chúng trong vùng bị đệ tử bản môn theo lệnh sư
phụ đi bắt về, nên tưởng Du Thản Chi trúng độc thể nào cũng chết, ngờ
đâu thấy y vẫn bình thường, không khỏi lấy làm lạ.
Cứ như thế liên tiếp bắt độc trùng luyện công, ba tháng sau, chung
quanh thành Nam Kinh trong vòng hơn mười dặm độc vật càng lúc càng
hiếm, những con bị hương khí dụ được toàn là con nhỏ bé yếu đuối,
không vừa ý A Tử chút nào. Hai người đi bắt độc trùng càng lúc càng
phải đi xa hơn.
Hôm đó họ đi về hướng tây thành Nam Kinh hơn ba chục dặm, A Tử
đốt hương trong mộc đỉnh rồi, chờ đến hơn một giờ, mới nghe tiếng sột
soạt trong cỏ, xem ra có rắn rết gì đây. A Tử kêu lên:
- Nằm xuống!
Du Thản Chi y lời nằm mọp xuống, thấy tiếng động càng lúc càng
lớn, xem ra không phải bình thường. Tiếng động lạ đó kèm theo một mùi
tanh hôi khiến người ta muốn mửa. Du Thản Chi nín hơi không cử động,
thấy đám cỏ cao rẽ ra, một con đại mãng xà7 mình trắng vằn đen lượn
mình bò tới. Đầu con trăn hình tam giác, trên mọc một cục bướu sần sùi.
Phương bắc rắn rết vốn không nhiều, con mãng xà này hình dáng lạ lùng
như thế xưa nay chưa từng thấy.
Con rắn bò đến bên cạnh chiếc đỉnh, trườn quanh. Mãng xà dài đến
hai trượng, to bằng bắp tay, làm sao chui vào trong đỉnh được? Thế nhưng
nó ngửi thấy mùi hương liệu cùng mùi chiếc đỉnh nên không ngớt đưa cái
đầu to lớn húc vào.
A Tử có ngờ đâu lần này lại dụ được một con vật to đến thế, hết sức
kinh hãi, nhất thời không biết phải làm sao, rón rén bò đến bên cạnh Du
Thản Chi nói nhỏ:
- Làm sao đây? Nếu như con trăn làm vỡ mất chiếc đỉnh thì thật hỡi
ôi!
Du Thản Chi nghe nàng ăn nói dịu dàng như thế quả không ngờ tới,
tự nhiên hăng máu lên nói cứng:
- Cô nương chớ lo, để tôi ra đuổi con rắn đi.
Y bèn đứng lên, hùng dũng đi ra chỗ con trăn. Con mãng xà nghe
thấy có tiếng động, lập tức nằm cuộn lại, vươn cao đầu, le chiếc lưỡi đỏ
chót, phát tiếng sì sì, thủ thế mổ ra. Du Thản Chi thấy nó hung dữ như
thế, chột dạ không dám tiến tới nữa.
Ngay lúc đó, bỗng có một trận gió lạnh thổi qua, từ phía tây bắc có
một đường lửa cháy thẳng tới, chỉ giây lát đã tới ngay trước mặt. Đốm
sáng đó chạy tới nơi, nhìn rõ hơn thì ra không phải là một vệt lửa, mà là
trong đám cỏ có một con gì đó chạy tới, cỏ xanh gặp phải lập tức sém
vàng, đồng thời hàn khí càng lúc càng nhiều.
Y lùi lại mấy bước, thấy đường sém vàng đó chạy tới chiếc đỉnh, hóa
ra là một con tằm. Con tằm đó trắng tinh như ngọc, hơi ẩn sắc xanh, so
với tằm thường phải to gấp đôi, lại dài như một con giun, thân hình sáng
bóng như thủy tinh. Con mãng xà vốn dĩ thật hung tợn, lúc này lại xem
chừng sợ đến mất vía, rút đầu chui vào dưới thân.
Con tằm trong như thủy tinh kia nhanh nhẹn dị thường bò thẳng một
mạch lên người con trăn, chẳng khác gì một đường lửa nóng xẻ dọc theo
xương sống con mãng xà, đến đầu thì con rắn đã bị cắt ra làm hai. Con
sâu liền rúc vào túi nọc độc ở hai bên mang con mãng xà hút độc dịch,
chỉ giây lát thân đã căng phồng lên, từ xa nhìn tới thấy giống như một cái
bình trong suốt chứa đầy một thứ nước màu xanh tím.
A Tử vừa mừng vừa sợ, nói nhỏ:
- Con tằm này lợi hại đến thế, xem ra là chúa của các loài độc vật.
Du Thản Chi bụng lại lo thầm: Một con tằm kịch độc như thế này
nếu như hút máu ta thì lần này tính mạng mình chắc không còn. Còn sâu
đó chạy vòng quanh chiếc mộc đỉnh rồi bò lên, chỗ nào nó đi qua, chiếc
đỉnh liền hiện ra một cái ngấn cháy sém. Thế nhưng dường như nó có linh
tính, bò quanh chiếc đỉnh một vòng, biết là nếu chui vào trong đỉnh thì chỉ
còn nước chết nên lại bò xuống chạy về hướng tây bắc.
A Tử vừa cao hứng vừa nóng ruột, kêu lên:
- Đuổi theo ngay! Đuổi theo!
Cô ta lấy vuông gấm bọc cái đỉnh lại rồi chạy đuổi theo con sâu. Du
Thản Chi theo sát đằng sau, cứ theo đường lửa cháy sém mà đuổi. Con
tằm đó tuy nhỏ bé như thế nhưng bò nhanh như gió, chỉ nháy mắt đã xa
đến mấy trượng, cũng may nó đi đến đâu đều để lại một cái ngấn nên
không mất dấu.
Hai người chỉ một thoáng đã đuổi đến ba bốn dặm, nghe phía trước
có tiếng nước chảy róc rách đến bên một dòng suối. Vết cháy sém đến
suối liền biến mất, nhìn qua bờ bên kia không thấy ngấn bò của con tằm
đâu, hiển nhiên con vật đã chui xuống nước trôi đi rồi. A Tử dậm chân
than thở:
- Ngươi đuổi chậm quá, bây giờ biết đi đâu mà tìm? Ta không biết,
ngươi phải tìm cách bắt nó đem về cho ta.
Du Thản Chi trong lòng lo lắng, nhìn ngang nhìn ngửa nhưng nào có
thấy bóng dáng nó đâu? Hai người tìm kiếm một hồi lâu, trời đã sâm sẩm
tối, A Tử cảm thấy mỏi mệt, lại không kiên tâm, giận dữ nói:
- Bằng giá nào ngươi cũng phải bắt nó đem về cho ta, nếu không
thì đừng gặp ta nữa.
Nói xong nàng quay trở về đường cũ một mình về thành. Du Thản
Chi thấp thỏm đành men theo bờ suối đi xuôi xuống hạ lưu, tìm kiếm đến
bảy tám dặm, trong ánh sáng lờ mờ bỗng thấy bờ trên mặt cỏ bên kia lại
có dấu cháy sém. Du Thản Chi mừng quá, mở miệng gọi to:
- Cô nương! Cô nương! Tôi tìm thấy rồi!
Thế nhưng A Tử đã đi thật xa. Du Thản Chi lội nước đi qua, lần theo
vết cháy khô. Chỉ thấy đường sém đó chạy thẳng đến một thung lũng ở
phía trước. Y ráng sức đuổi tới mãi tận cuối thì ra là một tòa cổ miếu kiến
trúc hùng vĩ, rảo bước đến gần thấy biển ngạch trên đề năm chữ Sắc
Kiến Mẫn Trung Tự thật lớn. Du Thản Chi không có thì giờ đâu mà xem
xét miếu này ra thế nào, chỉ tiếp tục đi theo đường ngấn cháy. Vết cháy
sém đó vòng quanh một bên miếu, chạy ra phía sau. Chỉ nghe thấy tiếng
chuông, tiếng mõ, tiếng tụng kinh ở trong chùa vang lên từng chập, tiếng
này dứt tiếng kia nổi lên, quần tăng chính đang vào giờ công khóa.
Y đầu đội lồng sắt, tự xấu hổ mình hình dạng không ra gì, sợ người
trong chùa nhìn thấy, nên chỉ men theo tường mà lần đi, thấy vết cháy
vượt qua một khu đất lầy lội, chạy vào một vườn rau.
Y trong lòng thật vui mừng, chắc mẩm hẳn không có người, chỉ có
con tằm ăn rau mà thôi thì thể nào cũng bắt được nó. Y đi đến bên hàng
rào nghe văng vẳng bên trong vườn rau ai đó đang lớn tiếng chửi mắng
vội vàng đứng lại. Chỉ nghe người kia nói:
- Ngươi cớ sao không biết giữ qui củ, một mình dám đi ra ngoài
chơi khiến cho ông phải lo lắng cả buổi, chỉ sợ mày đi mất không quay
về. Ông đường sá xa xăm mang mày từ đỉnh núi Côn Lôn tới đây, vậy mà
mày chẳng biết phải quấy, không hiểu được rằng lão tử chăm lo cho mày
biết là dường nào. Cứ cái ngữ này, đời mày còn ra thế nào nữa, mai sau
chắc chẳng làm nên trò trống gì, không ai thương đâu con ạ!
Ngữ khí người kia đầy vẻ phẫn nộ nhưng lại có ẩn chút lòng thương
xót kỳ vọng, tưởng chừng như lời của phụ huynh dạy dỗ con cái. Du Thản
Chi nghĩ thầm: Y nói gì mà từ đỉnh núi Côn Lôn xa xôi diệu vợi đem
đến đây, xem chừng chắc là sư phụ hay trưởng bối chứ không phải phụ
thân. Y rón rén đến sát bờ giậu, thấy người đang nói kia là một nhà sư.
Nhà sư đó thật là mập mạp, thân hình lại lùn xủn, trông chẳng khác gì
một trái cầu thịt thật lớn, tay chỉ xuống đất, mồm thì rủa sả liên hồi. Du
Thản Chi theo tay y nhìn xuống, vừa mừng vừa lo, hòa thượng mập kia
đang mắng chửi chính là một con sâu lớn sáng lấp lánh.
Hình dáng nhà sư lùn mập kia kỳ dị thì đã đành nhưng cái lối chửi sa
sả con tằm kia lại còn lạ lùng hơn. Con sâu chạy loăng quăng dưới đất
cực kỳ nhanh nhẹn, tưởng chừng như toan đào tẩu. Có điều dường như nó
chạm phải một bức tường vô hình nào đó nên lại quay đầu qua hướng
khác. Du Thản Chi cố gắng nhìn kỹ hơn, thấy dưới đất có vẽ một cái
vòng màu vàng, con tằm tả xung hữu đột nhưng vẫn không sao qua khỏi
được cái vòng đó, lập tức hiểu ra: Cái vòng đó dùng một loại thuốc vẽ
thành, dược vật hẳn là khắc tinh của con sâu.
Gã hòa thượng lùn mập chửi một hồi xong, lôi trong bọc ra một vật
gì đó, đưa lên miệng ăn nhồm nhoàm, hóa ra một cái đầu dê đã luộc chín,
xem chừng ngon lành lắm. Y lại lấy từ trên cột xuống một cái hồ lô, mở
nắp ra, ngửa cổ lên, ọc ọc uống một mạch. Du Thản Chi ngửi thấy tửu
hương, biết là quả bầu đó đựng đầy rượu nghĩ thầm: Hóa ra đây là một
nhà sư hổ mang. Xem ra con tằm này là của y nuôi, được y cưng chiều
lắm lắm. Làm cách nào ăn trộm được đây?.
Còn đang nghĩ ngợi bỗng nghe từ phía bên kia vườn rau có tiếng
người gọi:
- Tuệ Tịnh! Tuệ Tịnh!
Gã sư lùn mập nghe thế giật mình hoảng hốt, vội vàng đem cái đầu
dê và bầu rượu dấu vào trong bụi cỏ. Lại nghe người kia giục giã:
- Tuệ Tịnh! Tuệ Tịnh! Sao ngươi không tụng kinh chiều, trốn ở đây
làm gì?
Nhà sư lùn mập vội vàng vớ ngay cái cuốc dưới chân, bổ hùng hục
lên luống rau đáp:
- Đệ tử ở đây đang cuốc rau.
Người đi đến là một hòa thượng trung niên, khinh khỉnh nói:
- Kinh sớm kinh chiều, ai ai cũng phải dự. Sao lúc khác không
trồng rau, đến lúc đọc kinh chiều thì lại giở giói ra cuốc đất? Mau lên!
Mau lên! Bao giờ tụng kinh chiều xong, trở lại cuốc cũng vừa. Ở chùa
Mẫn Trung chấp tác thì phải theo qui củ của chùa Mẫn Trung, không lẽ
chùa Thiếu Lâm nhà ngươi không có miếu qui gia pháp gì hay sao?
Nhà sư lùn mập tên Tuệ Tịnh vội đáp:
- Vâng!
Y bỏ cuốc xuống, lật đật đi theo, không dám quay đầu lại nhìn con
tằm, xem chừng sợ nhà sư trung niên phát giác. Du Thản Chi nghĩ thầm:
Gã sư lùn mập này vốn ở chùa Thiếu Lâm. Sư chùa Thiếu Lâm ai ai
cũng biết võ công, mình ăn cắp con tằm của hắn thì phải thật cẩn thận
mới được!.
Y đợi cho hai người đi xa, nghe ngóng chung quanh không có gì, vội
vàng chui qua hàng rào, thấy con tằm vẫn chạy loanh quanh trong cái
vòng màu vàng, tự hỏi: Làm sao bắt được nó đây?. Y suy nghĩ một hồi
tìm ra một cách, lấy trong bụi cỏ cái bầu rượu ra, lắc lắc thử mấy cái, còn
chừng nửa bình bèn uống luôn mấy ngụm, còn bao nhiêu đổ vào luống
rau, đưa cái miệng hồ lô đến gần cái vòng màu vàng. Miệng bầu rượu
vừa lọt vào trong vòng tròn, chỉ nghe tách một tiếng, con tằm đã chui tọt
vào trong hồ lô. Du Thản Chi mừng quá, vội vàng lấy cái nắp gỗ đóng
chặt lại, hai tay bưng bầu rượu, chui qua hàng rào, ba chân bốn cẳng chạy
về đường cũ.
Ra khỏi chùa Mẫn Trung chừng vài chục trượng bỗng thấy chiếc hồ
lô lạnh một cách khác thường, xem ra còn hơn cả một khối băng, Du
Thản Chi đưa cái bầu rượu từ tay trái sang tay phải, rồi lại từ tay phải đưa
qua tay trái nhưng vẫn lạnh thấu xương không sao chịu nổi. Y không còn
cách gì khác hơn bèn để hồ lô đội lên đầu nhưng lại càng khó chịu, khí
lạnh truyền qua chiếc lồng sắt chui vào trong óc khiến y chịu không nổi,
tưởng như huyết dịch toàn thân đã đóng thành băng. Tình cấp trí sinh, y
liền cởi dây lưng buộc vào chỗ thắt trên hồ lô xách trên tay. Dây lưng
không truyền hơi lạnh nên y cầm được, thế nhưng khí lạnh từ trong cái
bầu tỏa ra, chỉ trong giây lát bên ngoài hồ lô đã bao phủ một tầng sương
mỏng.
1 Khổng tử nói: Học rồi được thực hành, chẳng vui sướng lắm sao? (Luận Ngữ)
2 tickling
3 gọi một tiếng trăm người dạ
4 thị tử như qui
5 quần áo của người quyền quí đời xưa (Xem thêm , phần y phục của Nguyễn Duy Chính)
6 tức Yoga
7 python (con trăn)
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top