tinh huong

Câu 10: Tình huống: “Công ty X tổ chức đấu thầu gói thầu xây lắp, hồ sơ mời thầu (HSMT) quy định: “Thời gian có hiệu lực của đảm bảo dự thầu (BĐDT) là 150 ngày kể từ thời điểm đóng thầu”. Thời điểm đóng thầu quy định trong HSMT là 14h ngày 07/12/2009.

Trong khi đó, bảo lãnh dự thầu (BLDT) do ngân hàng phát hành của nhà thầu A lại ghi: “Hiệu lực của BĐDT là 150 ngày kể từ 14h  ngày 05/5/2010″.

Tổ chuyên gia đánh giá hồ sơ dự thầu (HSDT) cho rằng, tới 14h ngày 06/5/2010, BLDT của nhà thầu A mới đạt 150 ngày, nên BLDT nêu trên không hợp lệ do có thời gian hiệu lực ngắn hơn quy định.

Hỏi: Đánh giá của tổ chuyên gia có phù hợp với quy định của pháp luật đấu thầu hay không? 

Trả lời:

Theo quy định tại khoản 9 điều 2 Nghị định 85/2009/NĐ-CP, thời gian có hiệu lực của BĐDT là số ngày được tính từ ngày đóng thầu (tính từ thời điểm đóng thầu đến 24h của ngày đó), đến 24h của ngày cuối cùng có hiệu lực theo quy định của HSMT:

Đối với trường hợp của bên mời thầu X, thời gian có hiệu lực của BĐDT trong HSMT chỉ quy định số ngày và quy định cụ thể ngày kết thúc hiệu lực, vì vậy cần áp dụng quy định vừa nêu để tính ngày cuối cùng có hiệu lực của BĐDT. Theo đó, từ thời điểm đóng thầu là 14h ngày 07/12/2009 đến hết ngày 07/12/2009, BĐDT được tính là có hiệu lực 01 ngày. Do vậy, đến hết 24h ngày 05/5/2010 thì BĐDT đủ hiệu lực 150 ngày.

Khi tham gia đấu thầu, nhà thầu A đã thực hiện biện pháp BĐDT là thư bảo lãnh của ngân hàng, thư bảo lãnh nêu trên có hiệu lực từ 14h ngày 07/12/2009 (là ngày đóng thầu theo quy định trong HSMT) đến hết ngày 05/5/2010 (ngày cuối cùng BĐDT cần có hiệu lực theo cách tính nêu trên). Như vậy,  BLDT của nhà thầu A là hợp lệ do có hiệu lực đảm bảo theo đúng quy định (giả thiết các yêu cầu khác của BĐDT đều đảm bảo).

Câu 11: Tình huống như sau: Hồ sơ mời thầu (HSMT) gói thầu X , tại mục Bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu, quy định: Nhà thầu tham gia đấu thầu xây lắp phải độc lập về tổ chức và tài chính với nhà thầu thiết kế, lập HSMT, đánh giá hồ sơ dự thầu ( HSMT) giám sát thi công. Công ty A là một trong số các nhà thầu tham gia đấu thầu gói thầu X  do công ty B là tư vấn thiết kế kỹ thuật. Công ty A và công ty B có cùng chủ tịch hội đồng quản trị. Công ty A( theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh).

Hỏi:  Đánh giá thế nào về tính độc lập giữa nhà thầu A và nhà thầu B? Nếu xác định nhà thầu A được tham gia đấu thầu thì có bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu không?

Giải đáp thắc mắc của BMT này như sau:

Luật đấu thầu ( điều 28 ) quy định: ” Việc đánh giá HSMT phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá HSMT và các yêu cầu khác trong HSMT” Luật đấu thầu không quy định cụ thể về tính độc lập giữa nhà thầu đã lập thiết kế của gói thầu với nhà thầu tham gia đấu thầu gói thầu đó.

Khi đánh giá tính độc lập của các nhà thầu tham dự thầu, bên mời thầu phải căn cứ vào yêu cầu của HSMT và tiêu chuẩn đánh giá trong HSMT để xác định loại bỏ hay chấp thuận đối với từng HSMT. Theo hướng dẫn tại Nghị định 58/2008/ NĐ-CP ngày 05/5/2008 của Chính phủ ( Điều 3 khoản 2) nhà thầu tư vấn lập HSMT, đánh giá HSMT và nhà thầu tham gia đấu thầu được coi là độc lập về tổ chức , tài chính và không cùng phụ thuộc vào một cơ quan quản lý nếu thỏa mãn hai điều kiện:

Không cùng thuộc một cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân ra quyết định thành lập, trừ nhà thầu là doanh nghiệp đã chuyển đổi và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp năm 2005.

Không có cổ phần hoặc góp vốn trên 30% của nhau. Trở lại tình huống nêu trên, nhà thầu A và nhà thầu B tuy về hình thức là có  tư cách pháp nhân riêng biệt nhưng về bản chất là cùng một chủ tịch hội đồng quản trị – người quản lý doanh nghiệp và đại diện theo pháp luật của cả hai công ty. Mặt khác, tuy nhà thầu B không trực tiếp lập HSMT nhưng đã tham gia một cách gián tiếp vì là đơn vị thiết kế kỹ thuật cho gói thầu nói trên. Do đó, trường hợp nói trên dễ dẫn tới mâu thuẫn lợi ích, làm giảm tính cạnh tranh do không thật sự độc lập về tổ chức và tài chính.

Việc đánh giá tính độc lập về tổ chức và tài chính giữa nhà thầu A và nhà thầu B nêu trên là tình huống trong đấu thầu ( Luật Đấu thầu và nghị định hướng dẫn không quy định chi tiết nội dung này). Người có thẩm quyền, căn cứ vào tình hình thực tế củ dự án, gói thầu, chịu trách nhiệm xem xét, quyết định xử lý trên cơ sở đảm bảo các nguyên tắc cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế nêu tại Điều 70 của Luật Đấu thầu

Câu 12: Tình huống:

Công ty X là bên mời thầu (BMT) tổ chức đấu thầu gói thầu Y. Trong quá trình tổ chức thẩm định kết quả đấu thầu có một tình huống xảy ra như sau:

Nhà thầu ghi trong Đơn dự thầu về thời gian hiệu lực của Hồ sơ dự thầu (HSDT) không đúng theo mẫu quy định của Hồ sơ mời thầu (HSMT).

Mẫu đơn dự thầu ghi: Quy định thời gian hiệu lực của HSDT kể từ thời điểm đóng thầu. Nhưng trong Đơn dự thầu của Nhà thầu lại ghi: Thời gian có hiệu lực của HSDT kể từ thời điểm mở thầu.

Căn cứ Luật Đấu thầu (Điều 31) thì Đơn dự thầu của Nhà thầu ghi như trên là không đúng và như vậy, HSDT này sẽ bị loại bỏ.

Tuy nhiên có một vấn đề là trong phần Chỉ dẫn các nhà thầu của HSMT do tư vấn lập có sự sai sót, do đã ghi là: thời gian có hiệu lực của HSDT tính từ thời điểm mở thầu, nên trong Đơn dự thầu của nhà thầu trên đã ghi thời gian có hiệu lực của HSDT kể từ thời điểm mở thầu.

Hỏi:Với tình huống trên BMT nên xử lý như thế nào?

Trả lời:

Hiệu lực của HSDT được quy định tại Luật Đấu thầu (Điều 31) như sau “Thời gian có hiệu lực của HSDT tối đa là một trăm tám mười ngày kể từ thời điểm đóng thầu”.

Theo quy định tại Điều 28 của Luật Đấu thầu, việc đánh giá HSDT phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá HSDT và các yêu cầu khác nêu trong HSMT. Ngoài ra, việc đánh giá HSDT còn phải căn cứ vào HSDT của nhà thầu.

Tại khoản 2 Điều 21 Nghị định 111/CP quy định, một trong những điều kiện tiên quyết để loại bỏ HSDT của nhà thầu là hiệu lực của HSDT không đảm bảo yêu cầu theo quy định trong HSMT.

Tuy nhiên, trường hợp với tình huống trên, trong HSMT có sự khác biệt giữa nội dung trong mẫu đơn dự thầu và phần Chỉ dẫn các nhà thầu nên đã gây ra nhầm lẫn cho nhà thầu khi lập HSDT. Đây là tình huống nằm ngoài các tình huống nêu trong Điều 57 Nghị định 111/CP, nên việc xem xét và quyết định thuộc thẩm quyền của người quyết định đầu tư hoặc người được ủy quyền trên cơ sở đảm bảo tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế

Câu 13: Tình huống:

Khi đánh giá HSDT của một gói thầu xây lắp, BMT phát hiện nhà thầu A chào giá không nhất quán cho một loại vật liệu ở đây là thép. Cụ thể đối với 40.000 tấn thép nhà thầu chào như sau: 30.000 tấn chào với giá 4.500.000 VND/tấn. 10.000 tấn còn lại chào với giá 8.900.000 VND/tấn. BMT đã yêu cầu nhà thầu làm rõ viejc chào giá này. Nhà thâu giải thích rằng do còn một lượng thép tồn kho nên quyết định chào theo giá thép cũ ( khi chưa tăng giá) đồng thời cam kết về chất lượng thép như yêu cầu của HSMT.

Bên mời thầu dự định hiệu chỉnh sai lệch theo hướng đưa về cùng một mặt bằng giá ( 4.500.000 vnd/tấn hoặc 8.900.000 vnd/tấn) cho cả 40.000 tấn thép.

Hỏi: Cách xử lý như vậy có phù hợp Luật đấu thầu không?

Trả lời:

Trong tình huống nêu trên, sau khi được bên mời thầu yêu cầu làm rõ về việc chào giá không nhất quán cho cùng một loại vật liệu(30.000 tấn chào với giá 4.500.000 VND/tấn, 10.000 tấn với giá 8.900.000 VND/tấn) nhà thầu đã có văn bản giải trình về đơn giá thấp 4.500.000 vnd/tấn là do hàng tồn kho. Việc xác định đơn giá này có bất hợp lý hay không là thuộc trách nhiệm của bên mời thầu. Bên mời thầu cần yêu cầu nhà thầu cung cấp các tài liệu chứng minh số vật liệu đó đúng là hàng tồn kho và được nhà thầu mua vào với giá tương tự mà nhà thầu đã chào, có chất lượng đáp ứng yêu cầu của HSMT.

Nếu nhà thầu có đủ cơ sở giải trình thì đây là một lợi thế cảu nhà thầu và đơn già mà nhà thầu đã chào được coi là hợp lý.

Còn nếu nhà thầu không thuyết minh được về việc chào giá thấp thì bên mời thầu được phép hiệu chỉnh sai lệch như đã quy định tại Điều 30 của Nghị định 58/NĐ-CP

Câu 14:   Thư giảm giá:

Thư giảm giá là do nhà thầu tự đưa ra mức giảm giá (hoặc giá trị giảm giá) so với giá dự thầu đã tính toán theo những “mức chuẩn” (chuẩn của nhà thầu, của nhà nước hay của Hồ sơ mời thầu quy định..). Trong thư giảm giá phải nêu và phân tích những lý do giảm giá. Thư giảm giá hợp lệ trước hết phải do người đứng đầu tổ chức doanh nghiệp được pháp luật thừa nhận ký tên và đóng dấu tất nhiên trước ngày nộp thầu. Thứ hai phải đáp ứng tất cả các quy định nếu có trong Hồ sơ mời thầu về nội dung thư giảm giá. (Nếu uỷ quyền phải là uỷ quyền hợp pháp theo quy định pháp luật). Thư giảm giá không có quy định nào hướng dẫn mà do “thực tế cuộc sống” sinh ra. Nó thuận tiện bởi nhiều lẽ:

1. Đảm bảo bí mật về giá bỏ thầu của nhà thầu: giá trị dự thầu bằng thư giảm giá chỉ có người ký mới biết (giám đốc). Người lập dự toán đấu thầu không thể biết.

2. Giảm chi phí cho từng loại công việc là rất khó giải thích được thấu đáo hợp lý, đặc biệt là trên thực tế thời gian chuẩn bị HSDT ngắn và  thực sự đấu thầu là một cuộc cạnh tranh khốc liệt.

3. Thư giảm giá là công cụ hữu ích, là “bí kíp” rất linh hoạt mà không thể bị phát hiện để giá dự thầu là thấp nhất và sát giá đối thủ cận kề.

4. Thư giảm giá là một vấn đề tế nhị.

Bởi vậy thư giảm giá là không thể thiếu trong đấu thầu. Nhưng như thế nào là hợp lệ (kể về mặt pháp lý lẫn nội dung) là do Hồ sơ mời thầu quy định. Phụ thuộc vào trình độ của người lập Hồ sơ mời thầu và hoàn toàn không có văn bản nào quy định. Bản chất của thư giảm giá rất đơn giản nhưng lại chứa đựng nhiều nội dung vô cùng quan trọng, thậm chí mang tính quyết định để giúp nhà thầu thắng thầu.

Câu 15:  Khi sử dụng thầu phụ, tổng thầu/thầu chính có phải xin phép chủ đầu tư không ? Đối với khối lượng công việc giao cho thầu phụ, chủ đầu tư có được can thiệp không ?

Trả lời:

Trong quá trình thực hiện dự án/gói thầu, việc sử dụng nhà thầu phụ của tổng thầu hoặc thầu chính xây dựng phải được sự chấp thuận của chủ đầu tư.

Việc phân chia khối lượng công việc giữa nhà thầu chính (bên giao thầu) với nhà thầu phụ (bên nhận thầu) được thực hiện theo thỏa thuận hợp đồng giữa các bên mà không liên quan trực tiếp đến chủ đầu tư. Tổng thầu hoặc thầu chính khi tham gia dự thầu phải đề xuất phạm vi công việc phần thầu phụ đảm nhiệm. Thầu phụ được chọn thực hiện công việc phải có đủ điều kiện năng lực hoạt động xây dựng theo quy định của pháp luật xây dựng.

Câu 16: Công tác khảo sát, lập dự án đầu tư xây dựng với giá trị tư vấn dự kiến khoảng 1 tỷ đồng thì có phải đấu thầu không ? Kế hoạch đấu thầu đối với gói thầu này được lập như thế nào ?

Trả lời:

Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 20 Luật Đấu thầu thì gói thầu dịch vụ tư vấn có giá gói thầu dưới 500 triệu đồng được chỉ định thầu. Các trường hợp khác phải thực hiện đầu thầu. Đối với gói thầu tư vấn khảo sát, lập dự án đầu tư xây dựng công trình nêu trên thì áp dụng hình thức đấu thầu hạn chế theo Điều 100 Luật Xây dựng. Gói thầu này được xác định tại kế hoạch đấu thầu ở giai đoạn chuẩn bị dự án, bao gồm tên gói thầu, giá gói thầu, nguồn vốn, hình thức lựa chọn nhà thầu và phương thức đấu thầu, thời gian lựa chọn nhà thầu, loại giá  hợp đồng và thời gian thực hiện hợp đồng.

Câu 17:

Trong nghị định 85/2009/NĐ-CP không thấy nêu việc nhà thầu đã tham gia thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công có được tham gia đấu thầu xây lắp, cung cấp thiết bị cho gói thầu đó.

Hỏi: Chúng tôi đã là nhà thầu tư vấn thiết kế kỹ thuật - thi công thì có được phép tiếp tục tham gia đấu thầu xây lắp, cung cấp thiết bị do mình thiết kế hay không?

Trả lời: đã có quy định tại điểm a, khoản 1, điều 11 của Luật đấu thầu: ... nhà thầu tư vấn đã tham gia thiết kế kỹ thuật của dự án không được tham gia đấu thầu các bước tiếp theo, trừ trường hợp đối với gói thầu EPC.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: