chinh phu ngam
Đặng Trần Côn (sống ở thế kỉ XVIII) quê ở Thanh Xuân, Hà Nội. Ông sáng tác nhiều thơ, phú chữ Hán, nổi bật là “Chinh phụ ngâm”.Tác phẩm ra đời vào thế kỉ XVIII , xã hội đầu thời Lê Hiển Tông nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra,từ đó mà có cảnh gia đình chia lìa, kẻ ở người đi không hẹn ngày gặp. Xúc động vì tình cảnh này và căm ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, Đặng Trần Côn cho ra đời “Chinh phụ ngâm”. Phần lớn ý kiến cho rằng Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748) hiệu là Hồng Hà nữ sĩ dịch tác phẩm,số khác lại cho rằng người dịch là Phan Huy Ích (1750 – 1822) đỗ tiến sĩ năm 26 tuổi.Đoạn trích "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ"(từ câu 193 đến câu 228) miêu tả những cung bậc và sắc thái khác nhau của nỗi cô đơn, buồn khổ ở người chinh phụ luôn chờ đợi chồng ngoài chiến trận không chút tin tức, không rõ ngày trở về.
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”
Cả ngày dài cô đơn, người chinh phụ dạo trong hiên vắng, nàng vừa đi vừa thầm đếm bước chân mình, như đếm từng ngày chồng đi. Trong bước chân tưởng như lặng lẽ của nàng mang nỗi lòng cuồn cuộn những ưu phiền, lo lắng, bồn chồn cho tính mạng người thân ở nơi chiến trường kia. Nhịp thơ chậm gợi cảm giác như thời gian ngưng đọng.
Giữa không gian tịch mịch, tiếng bước chân như gieo vào lòng người âm thanh lẻ loi, cô độc. Nỗi nhớ nhung sầu muộn và khắc khoải mong chờ khiến bước chân người chinh phụ trở nên nặng trĩu. Nàng bồn chồn đứng ngồi không yên, hết buông rèm xuống rồi lại cuốn rèm lên, sốt ruột cho người chồng ở biên ải chưa biết bao giờ trở về. Các tính từ “vắng”, “thưa” tạo nên không gian thưa thớt, trống trải, tô đậm nỗi cô đơn, tủi buồn của người chinh phụ. Các từ “từng” và “đòi” (nhiều) cũng cho thấy sự lặp lại vô thức những hành động vô nghĩa của người vợ có chồng đi đánh trận, tháng ngày lẻ loi của nàng đã dài lê thê.Qua hành động “dạo hiên”, “ngồi”, cuốn rèm, buông rèm, tâm trạng người chinh phụ với những ngổn ngang lo lắng, buồn phiền được miêu tả rõ rệt, tấm lòng nàng dành cho chồng khiến người đọc cảm động.
“Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi."
Qua bức rèm thưa, người chinh phụ ngóng bóng chim thước. Chim thước (hay chim khách) là loài chim báo tin người đi xa trở về. Nàng mong chim thước cũng là mong chồng,mong được nghe tin của chồng,nhưng trả lại nàng chỉ là hiện thực tàn khốc: nỗi nhớ, trông mong, ước muốn của nàng đều không được hồi âm.Nàng lại quay về với không gian chật hẹp của căn phòng,nơi mà nàng đối diện với bóng mình,đối diện với ngọn đèn khuya hiu hắt.Người chinh phụ ngồi trước ngọn đèn dầu tự hỏi lòng: “Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?” Câu hỏi tu từ như một lời than thở, bày tỏ nỗi cô đơn, chán chường, tuyệt vọng khôn cùng.Nhưng thật trớ trêu, đèn dù sao chỉ là một vật vô tri vô giác,có biết cũng như ko.Nếu trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ cũng lấy hình ảnh ngọn đèn dầu để gợi sự cô đơn của Vũ Nương khi Trương Sinh đi đánh trận.Thì trong đoạn trích, tác giả lấy hình tượng ngọn đèn ẩn dụ cho thời gian trôi nhanh, cho sự tàn lụi, héo hon của kiếp người. Qua hình ảnh cây đèn cháy đỏ khắc khoải, cháy đến tàn bấc dầu, nhà thơ muốn nói cuộc đời chỉ là kiếp hoa đèn mong manh dang dở. Xót xa tình cảnh lẻ loi, cuộc hôn nhân dở dang của mình, người chinh phụ thức trắng đêm với ngọn đèn, không biết san sẻ tâm tư cùng ai.Tâm trạng của người chinh phụ đã chuyển giọng tự nhiên từ lời kể bên ngoài thành lời tự độc thoại nội tâm , da diết , dằn vặt và ngậm ngùi nghe thật đáng thương làm sao.Những tính từ chỉ cảm xúc “bi thiết”, “buồn rầu”, “thương” cô đọng nỗi buồn, não nề của người chinh phụ.Như vậy,nghệ thuật miêu tả tâm trạng bằng ngoại cảnh và tính từ chỉ cảm xúc của nhà thơ đã thành công khi hình ảnh người chinh phụ với suy tư rối bời, tâm trạng héo mòn chạm đến trái tim người đọc. Không chỉ vậy, ta còn thấy được sự đồng cảm sâu sắc ở tác giả và dịch giả với số phận của người phụ nữ có chồng tham gia chiến tranh phi nghĩa.
Cảnh vật xung quanh không thể san sẻ mà ngược lại như cộng hưởng với nỗi sầu miên man của người chinh phụ, khiến nàng càng đớn đau, sầu tủi:
"Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rũ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa."
Tiếng gà gáy báo canh năm làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch, vắng lặng. Cây hòe phất phơ rũ bóng trong ánh sáng lờ mờ của ban mai gợi cảm giác buồn bã, hoang vắng. Giữa không gian ấy, người chinh phụ cảm thấy mình nhỏ bé, cô độc biết chừng nào! Từ láy “eo óc” chỉ tiếng gà gáy tang tóc, âm thanh ấy thưa thớt, buồn bã gợi không gian rộng lớn, trống trải, hiu quạnh. Một đêm có “năm trống” (năm canh) thì người chinh phụ thức trọn năm canh, đối diện với chính mình trong nỗi cô đơn khắc khoải. Hình ảnh cây hòe trong màn đêm “phất phơ rủ bóng” cũng gợi lên cảm giác man mác buồn, xót xa. Vây quanh người phụ nữ nhỏ bé đáng thương và cô độc là những bóng dáng mập mờ lay động, như có như không, cũng như tin tức về người chồng ngoài biên ải xa xôi và cuộc sống hôn nhân dang dở. Tất cả đều mờ mịt, khiến nàng hoang mang, lo sợ.So sánh với cây hòe trong “Cảnh ngày hè”: “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.” ta thấy cây hòe của Nguyễn Trãi tươi tốt, căng tràn sức sống, còn cây hòe của Đặng Trần Côn lại được đặt trong đêm khuya thanh vắng, thấm đượm nỗi buồn. Từ đó ta thấy được nghệ thuật dùng từ của tác giả, đó là sự chọn lọc một cách tinh tế từ ngữ để biểu thị cảm xúc, tâm trạng. Người chinh phụ nhìn cây hòe giống như người phòng khuê bắt gặp cành dương liễu đầy lo lắng và suy tư.
“Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”
Người chinh phụ bị bủa vây trong nỗi cô đơn, cuộc sống của nàng thật tẻ nhạt và nặng nề. Ngày lại ngày, giờ lại giờ, nàng chỉ biết mòn mỏi nhớ thương, bồn chồn lo lắng. Khoảng thời gian không tình yêu, không hơi ấm hạnh phúc ẩy đối với nàng mới khó khăn làm sao! Người chinh phụ nhận thấy thời gian trôi thật chậm chạp, một ngày dài lê thê như một năm. Những ngày tháng lẻ loi dài dằng dặc của người chinh phụ đong đầy sầu khổ. Những mối lo toan về người chồng đang ở xa liệu có mạnh khỏe, bình an cùng những thương nhớ, xót xa cho thân phận mình, cho cuộc sống hôn nhân dở dang của nàng tưởng như không có hồi kết, nỗi buồn nhớ trong người chinh phụ tích tụ lại, bao la hơn không gian, mênh mông hơn thời gian, không thể đong đếm được. “Miền biển xa” là hình ảnh mang tính ước lệ tượng trưng cho những tâm tư vô hình mà vô hạn của người phụ nữ có chồng đi lính. Bằng bút pháp ước lệ tượng trưng và nghệ thuật so sánh, sử dụng từ ngữ khéo léo, tài tình, tác giả tô đậm tâm trạng người chinh phụ, từng cung bậc cảm xúc rõ ràng và sâu sắc.
Ở các khổ thơ tiếp theo, nỗi ai oán hiện rõ trong từng chữ, từng câu, dù tác giả không hề nhắc đến hai chữ chiến tranh:
" Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dày uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng."
Người chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn đáng sợ nhưng vẫn không sao thoát nổi. Người chinh phụ muốn thoát khỏi ưu phiền, bèn đốt hương, nhưng lại không kìm lòng được mà mê man trong quá khứ.Người chinh phụ nhớ tới phút giây hẹn ước năm nào. Mùi hương đưa nàng trở về quá khứ, tâm hồn nàng lạc đi tìm những kí ức đẹp đã quá xa vời. Càng tiếc nuối cho quá khứ hạnh phúc, nàng càng xót xa, thấm thía bi kịch trong thực tại. Người chinh phụ lại chìm đắm trong thất vọng ê chề. Nàng đau lòng không dám đối mặt với hoàn cảnh trơ trọi, bơ vơ hiện tại. Việc đốt hương vốn để tìm sự thanh thản trong tâm hồn cuối cùng lại khiến người phụ nữ đáng thương thêm thống khổ. Trong quãng thời gian vắng chồng, người chinh phụ chẳng buồn đoái hoài đến phấn son hoa lệ nhưng đêm nay, mong muốn xóa tan những nỗi lo, nhớ, nàng soi gương, thấy đôi mắt chứa chan sầu bi, đôi môi không thể gượng nổi một nụ cười nhạt. Khoảng thời gian dài trông mong chồng và nỗi đau luôn âm ỉ trong lòng đã hủy hoại nhan sắc của người phụ nữ đang trong độ tuổi xuân sắc. Nàng khóc cho tuổi xuân héo tàn, cho dung nhan võ vàng, cho số phận bi đát. Những giọt lệ không thể giúp nàng lấy lại hạnh phúc, tình yêu và tuổi trẻ.Cảm thấy việc đốt hương, soi gương không thể giúp quên đi chuyện buồn, người chinh phụ tìm đến tiếng đàn. Nàng mong tiếng đàn rộn ràng có thể xóa tan âu lo, phiền muộn nhưng ghi gảy đàn, nàng lại nơm nớp lo sợ dây đàn đứt.Tác giả đã sử dụng loạt hình ảnh mang tính ước lệ tượng trưng nhằm nói lên nỗi lo khôn nguôi của người chinh phụ về tình cảm vợ chồng, về người chinh phu đang cách xa ngàn dặm.Điệp từ “gượng” cho thấy sự cố gắng gượng gạo và chán nản ở người chinh phụ, nàng vùng vẫy trong nỗi cô đơn nhưng lại bị chính nỗi cô đơn bóp chặt. Những thú vui của tầng lớp quý tộc giờ đây lại không thể đem lại cho nàng niềm vui, hơn thế nữa chúng lại như liều thuốc kích thích khối u sầu khổ trong lòng nàng. Nàng chỉ mong được sum vầy, nhưng buổi đoàn tụ trong tưởng tượng của nàng lại quá đỗi xa xỉ trong hoàn cảnh này.
Mong chờ trong nỗi sợ hãi và tuyệt vọng, nàng chí còn biết gửi nhớ thương theo cơn gió:
"Lòng này gửi gió đông có tiện ?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
."
Người chinh phụ không chỉ ao ước được thấu hiểu, yêu thương mà còn khát khao được bày tỏ tình yêu nhớ với người chồng ngoài biên ải xa xôi. “Lòng này” là tấm lòng thủy chung đợi chờ.“Nghìn vàng” là ẩn dụ cho lòng thương nhớ, trân trọng.Có thể thấy ,tấm lòng của người chinh phụ với người chinh phụ là không thể đong đếm bằng vật chất, tác giả chỉ ước lệ những tình cảm quý giá ấy như nghìn vàng.Người chinh phụ gom những yêu nhớ, thương xót vào gió đông, nhờ cơn gió mùa xuân ấm áp gửi tâm tư thầm kín của mình đến Non Yên. “Non yên” trong mong ước của nàng không chỉ là núi Yên Nhiên trong điển cố, điển tích mà là hình ảnh ước lệ tượng trưng cho nơi biên ải xa cách ngàn dặm, nơi chiến trường khốc liệt, lãnh lẹo, đặt mạng sống con người lên đường chỉ mong manh. Câu hỏi tu từ “Lòng này gửi gió đông có tiện?” cho thấy nỗi băn khoăn, lo lắng của người vợ. Sự thực, Non Yên ở đâu, gió xuân phiêu lãng nơi nào, nàng không hề hay biết. Ao ước cũng chỉ là ao ước, không có cách nào đưa nàng đến bên chồng,nàng chỉ biết ngậm ngùi đắng cay cho thân phận mình.
“Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.”
Địa danh Non Yên đã xuất hiện trong câu thơ trước được lặp lại trong câu sau, tô đậm khoảng cách giữa hai vợ chồng, nỗi nhớ gửi vào không gian rộng lớn, vô tận càng thêm dày vò, trăn trở.Nỗi nhớ của người chinh phụ được so sánh với hình ảnh “đường lên bằng trời” đi cùng từ láy giàu giá trị gợi hình “thăm thẳm”, gợi ra độ sâu, độ rộng, độ xa, độ dài của không gian. Nỗi nhớ chồng của nàng được cụ thể hóa bằng sự bao la, mênh mông của vũ trụ. Tình cảm ấy day dứt, dai dẳng, khôn nguôi, ngập tràn trong không gian, trải dài trong thời gian.Hình ảnh đường lên trời mù mịt, xa xăm, không biết đâu là bến bờ, giống như cái thực tại mơ hồ mà người chinh phụ đang sống, cái bi kịch kéo dài đày đọa tuổi xuân của nàng. Nàng không nhìn thấu được hồi kết của chuỗi ngày liên miên dai dẳng này, như bầu trời kia liệu còn bao la đến đâu nữa. Trong ngổn ngang thắc mắc, nàng lại trở về với bế tắc. Tính từ “đau đáu” gợi nỗi đau nhức nhối, âm ỉ, nỗi nhớ triền miên khôn nguôi của người chinh phụ, gợi lên cả nỗi lo liệu người chồng đang ở biên ải có được bình an, sớm về đoàn tụ.
“Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.”
Từ láy “thiết tha” cho thấy nỗi buồn dai dẳng đeo bám lấy người chinh phụ, từng cô đơn, nhung nhớ như mài cắt vào da thịt.Cảnh vật “cành cây”, “sương”, “mưa” đều thấm đượm nỗi bi ai, sầu khổ, khiến người phụ nữ nhỏ bé càng thêm cô độc, thiểu não.
Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” thể hiện nhiều cung bậc cảm xúc của người phụ nữ có chồng đi lính.Nổi bật xuyên suốt khúc ngâm là hình ảnh người phụ nữ nhỏ bé, cô độc trong không gian trống vắng, lạnh lẽo, bị nỗi buồn thương sầu nhớ ăn mòn tâm hồn và sắc đẹp.Với các biện pháp nghệ thuật: điệp ngữ, câu hỏi tu từ, ẩn dụ; các bút pháp ước lệ tượng trưng, tả cảnh ngụ tình; thêm đó nghệ thuật sử dụng từ ngữ gợi hình, gợi cảm, hệ thống tính từ chỉ cảm xúc, thể thơ song thất lục bát giàu âm điệu thiết tha réo rắt.Tác phẩm đã đề cao khát vọng về tình yêu chân chính, cao đẹp của người; phê phán chế độ phong kiến trong xã hội cũ với những cuộc chiến tranh phi nghĩa chia uyên rẽ thúy, hủy hoại hạnh phúc gia đình.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top