Các Sách Tiếp Theo Của Ngũ Thư
- Phần kết (12,5-13)
Sách Huấn ca
***
hhuan ca imagesI. THIÊN CHÚA TỎ MÌNH QUA THIÊN NHIÊN VÀ TRONG LỊCH SỬ (42,15 – 50,29)
1. Ca tụng Chúa
a) Ca tụng Chúa trong thiên nhiên (42,15 – 43,35)
Tác giả nói đến nguồn gốc những công trình của Thiên Chúa: “Do lời Đức Chúa mà có những công trình của Người” (42,15), đồng thời con người không thể kể hết mọi kỳ công của Chúa (42,17). Ông liệt kê những kỳ công của Chúa: bầu trời và mặt trời (43,1-5), các hiện tượng trên trời (43,6-12), thời tiết (43,13-23), biển cả (43,24-26). Câu kết “Người là tất cả” (43,27) không có ý diễn tả niềm tin phiếm thần nhưng muốn nói lên tâm tình của tác giả: chiêm ngưỡng kỳ công của Chúa dẫn ta đến tâm tình chúc tụng, ngợi khen “Làm sao đủ sức để tôn vinh Người? Vì chính Người là Đấng Cao cả, vượt trên mọi công trình Người thực hiện” (42,28).
b) Ca tụng Chúa trong lịch sử (44,1 – 50,29)
Trong phần này, tác giả chúc tụng Chúa vì những việc vĩ đại Chúa đã làm trong lịch sử Israel bằng cách kể ra những nhân vật và thời đại cụ thể. Ở đây ta không có một bản tóm lược lịch sử theo nghĩa các biến cố đan kết chặt chẽ với nhau. Tác giả có thể bỏ qua một số chi tiết và đôi khi sắp xếp lại. Cấu trúc của phần này:
Dẫn nhập (44,1-15)
Các tổ phụ (44,16-23)
Môsê, Aaron, Phinehas (45,1-26)
Joshua, Caleb, Các thẩm phán, Samuel (46,1-20)
Nathan, David, Salomon (47,1-24)
Elia và Elisê (47,25 – 48,16)
Hezekiah và Isaia (48,17-23)
Josiah và các tiên tri (49,1-10)
Các vị anh hùng sau thời lưu đày (49,11-13)
Các vị anh hùng trước lụt Hồng thủy (49,14-16)
Simon (50,1-24)
Kết thúc (50,27-29)
2. Nhận biết Thiên Chúa qua thiên nhiên và trong lịch sử
Thánh Phaolô khẳng định, “Những gì người ta có thể biết về Thiên Chúa thì thật là hiển nhiên trước mắt họ… Quả vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người” (Rm 1,19-20). Thánh Augustino cũng viết những suy tư thật sâu sắc, “Hãy hỏi vẻ đẹp của trái đất, của biển khơi, của khí trời và bầu trời… hãy hỏi tất cả những thực tại ấy. Tất cả sẽ trả lời bạn: ‘Hãy xem đó, chúng tôi quả là đẹp.’ Vẻ đẹp của chúng là một lời tuyên xưng. Ai đã làm ra những cảnh đẹp thiên biến vạn hoá đó nếu không phải là Đấng Toàn mỹ không bao giờ đổi thay” (Thánh Augustino, Bài giảng 241,2).
Có bao giờ bạn dâng lời chúc tụng ngợi khen Chúa khi chiêm ngắm thiên nhiên? Có bao giờ bạn giúp con cái mình cầu nguyện giữa lòng thiên nhiên? Có bao giờ bạn cầu nguyện bằng cách nhìn lại chính lịch sử đời mình?
II. GIÁO DỤC CON CÁI (30,1-13)
1. Một quan điểm về giáo dục
Muốn giáo dục con cái nên người, phải biết áp dụng kỷ luật: “Thương con thì cho roi cho vọt, sau này sẽ vui sướng vì con” (30,1) và “Khi con còn bé nhỏ, cứ thẳng tay trừng phạt; kẻo nó ra bất trị, chẳng vâng lời nữa đâu” (30,12). Ngược lại, quá nuông chiều sẽ làm cho con cái ra hư hỏng, làm hỏng cuộc đời nó và làm khổ cha mẹ (30,7-11). Giáo dục con cái thành công đem lại niềm vui cho cha mẹ trong cuộc đời tại thế và cả cuộc sống mai sau: “Người cha có chết thì cũng như chưa chết, vì đã để lại đứa con giống như mình” (30,4). Ở đây chưa phải là niềm tin vào sự sống lại, chỉ là sự tồn tại nơi hậu duệ của mình.
2. Vai trò của kỷ luật trong việc giáo dục con cái
Kỷ luật là đòi hỏi cần thiết trong mọi việc tập luyện: thể thao, sắc đẹp, tri thức. Đối với đời sống thiêng liêng cũng thế, cần có kỷ luật trong việc tập luyện các nhân đức, hình thành những thói quen tốt. Điều nghịch lý ngày nay là người ta nhìn nhận tầm quan trọng và tuân thủ kỹ càng những kỷ luật trong việc tập luyện thân xác và tri thức, nhưng lại cho những kỷ luật trong đời sống đạo đức là cổ hủ và không hợp thời.
Muốn giáo dục con cái nên người, cũng cần áp dụng kỷ luật. Nhiều bậc cha mẹ nhân danh tình yêu để nuông chiều con cái quá mức, không biết rằng làm như thế chỉ mang lại đau khổ cho con cái và cho chính mình. Tình yêu chân thật là nỗ lực đem lại cho con cái những điều tốt đẹp và vững bền nhất. Tình yêu đó thúc đẩy các bậc cha mẹ phải lo cho con cái được một nền giáo dục toàn diện. Chính ở đây, ta thấy được sự cần thiết của kỷ luật. Đồng thời, phải nhìn và áp dụng kỷ luật từ góc độ của tình yêu chân thật, khi đó ta mới có thể giúp con cái thấy giá trị tích cực của kỷ luật trong đời sống của chúng.
Sách Khôn ngoan
***
khon ngoanI. TỔNG QUÁT
Tựa đề nguyên thủy của sách là Sách Khôn Ngoan của Salomon nhưng các văn bản La tinh chỉ gọi đơn giản là Sách Khôn Ngoan. Salomon không bao giờ xuất hiện trong sách như tác giả nhưng đại từ “tôi” rõ ràng nhắc đến những hành động của Salomon (chương 9). Dựa vào nội dung của sách, các học giả suy đoán rằng tác giả của sách là một người Do thái đạo đức, trung thành với Lề luật, học thức cao, biết thi ca và triết học Hi lạp.
Sách Khôn Ngoan có lẽ đã được biên soạn vào giữa thế kỷ 1 tức khoảng năm 50 trước Công nguyên. Nơi biên soạn có thể là Ai Cập vì tác giả quan tâm nhiều đến những vấn đề liên quan đến Ai Cập.
Mục đích của sách là nhằm củng cố đức tin của các độc giả Do thái. Một số độc giả là những người đạo đức và tác giả khuyến khích họ giữ vững đức tin giữa những xáo trộn của đời sống. Một số khác xem ra đã bị lung lay trước sức hấp dẫn của triết học Hi lạp, và Sách Khôn Ngoan muốn nhắc họ nhớ lại vẻ đẹp của tôn giáo và niềm tin truyền thống so sánh với niềm tin và tư tưởng của dân ngoại. Đối với những người đã bỏ đạo, Sách Khôn Ngoan kêu gọi họ trở về với Chúa. Cuối cùng có thể có độc giả là dân ngoại, Sách Khôn Ngoan chỉ cho họ thấy sự sai lầm khi thờ phượng các ngẫu tượng.
Sách Khôn Ngoan dạy ta rằng Thiên Chúa hoạt động khắp mọi nơi, biết hết mọi sự, và yêu thương hết mọi loài. Thiên Chúa cũng trừng phạt và ban phần thuởng dù phần thuởng ở đây không nhất thiết là của cải trần gian. Sự ác trong thế gian bắt nguồn từ sự ghen tị của ma quỷ. Sự khôn ngoan gần như được đồng hoá với Thiên Chúa vì phát xuất từ Thiên Chúa và thực hiện thánh ý Thiên Chúa trong thế giới. Theo đuổi sự khôn ngoan là điều tốt đẹp nhất, và đạt đến khôn ngoan là được đến gần Chúa hơn. Sách Khôn Ngoan cũng dạy rằng con người có linh hồn bất tử; sau khi chết, người công chính sẽ được ở bên Chúa và các thánh. Tuy nhiên tác giả không nói về sự phục sinh thân xác. Sống công chính là con đường dẫn đến sự khôn ngoan và con người có tự do chọn lựa Chúa hay điều ác.
Sách Khôn Ngoan có ba phần chính:
– Khôn ngoan, phần thuởng của công chính (1,1 – 6,21)
– Salomon ca tụng sự khôn ngoan (6,22 – 11,1)
– Sự quan phòng của Chúa trong cuộc Xuất hành (11,2 – 19,22)
II. LỐI SỐNG CỦA PHƯỜNG VÔ ĐẠO (1,16 – 2,24)
Câu mở đầu (1,16) khẳng định gốc rễ của sự ác là chọn lựa của mỗi cá nhân. Phường vô đạo ở đây có thể hiểu về Adam và Eva “đã lên tiếng vẫy tay mời thần chết,” nhưng cũng có thể hiểu về con người tội lỗi nói chung. Những từ “bầu bạn, kết giao” cho thấy sự gắn bó với cái ác và trở thành sở hữu của ma quỷ.
2,1-5 nói đến quan niệm của phường vô đạo về cuộc sống và cái chết. Đối với họ, hiện hữu và cuộc sống này chỉ là do tình cờ ngẫu nhiên chứ không do tình yêu của Thiên Chúa (câu 2-3), và chết là hết, không còn gì khác. Quan niệm này phản ánh một số tư tưởng triết học thời đó, nhưng cũng là suy nghĩ của nhiều người ngày nay.
Quan niệm sống đó dẫn đến lối sống buông thả (2,6-9) được mô tả bằng những từ cụ thể: hưởng lấy của đời này, say rượu quý, truy hoan, dấu vết ăn chơi. Điều nguy hiểm nhất là lối sống đó lại trở thành xác tín “đó chính là phần, là số ta được hưởng” (câu 9). Đây chẳng phải là lối sống của nhiều người ngày nay sao? Họ quên rằng cũng giống như mọi thực tại, khoái lạc phải có giới hạn của nó; nếu không chính nó sẽ hủy diệt con người.
Sự suy đồi của phường vô đạo còn đi xa đến chỗ triệt hạ người công chính (2,10-20). Chúng chống đối người khôn ngoan (gồm cả người già có kinh nghiệm khôn ngoan) và gạt bỏ lề luật của Thiên Chúa đòi hỏi phải chăm sóc người nghèo khổ và kẻ mồ côi. Câu 12-16 cho thấy động lực tâm lý sâu xa của phường vô đạo khi triệt hạ người công chính, đó là triệt hạ tiếng lương tâm, tiếng nói của chân lý, tiếng nói phê phán và tra vấn lối sống tội lỗi của họ. Phải triệt hạ người công chính để có thể an tâm vui hưởng lối sống tội lỗi của mình.
Câu 17-20 nói đến việc quân vô đạo thử thách người công chính xem có đủ kiên trì trung thành với Chúa không. Khi thử thách như thế, chúng tự đặt mình thành đối thủ của Chúa vì chúng lý luận “Nếu tên công chính là con Thiên Chúa, hẳn Người sẽ phù hộ nó và cứu nó khỏi tay địch thù” (2,18). Các Kitô hữu đọc những lời này và nghĩ đến Chúa Kitô trong cuộc khổ nạn của Ngài.
Trong phần cuối (2,21-24), tác giả lên tiếng phê phán quan niệm và lối sống của phường vô đạo. Chúng hành động như thế không chỉ vì ngu dốt mà còn vì đã liên kết với quỷ dữ (1,16). Chúng không biết rằng con người đã được tạo dựng theo hình ảnh Chúa, và vì Thiên Chúa là Đấng bất diệt nên con người cũng được trường tồn bất diệt. Nhưng chỉ vì quỷ dữ ganh tị nên cái chết mới đột nhập vào trần gian. Ở đây tác giả không phân biệt rõ ràng cái chết thể lý và cái chết thiêng liêng.
Những suy tư này được viết cách đây 22 thế kỷ nhưng vẫn mang tính thời sự cụ thể cho con người ngày nay, giúp ta cảnh giác trước những lý lẽ và lối sống được gọi là hiện đại nhưng không thực sự mang lại hạnh phúc và sự sống viên mãn cho con người.
III. TÌM KIẾM KHÔN NGOAN (6,1-21)
Phần mở đầu (câu 1-4) kêu gọi mọi người đang nắm quyền lực trên trái đất. Điều họ phải lắng nghe và thấu hiểu là công việc của họ nằm dưới sự kiểm tra của Thiên Chúa, vì thế họ phải hành xử quyền bính cách công bằng.
Cũng như Thiên Chúa đã ban quyền bính cho Đavít và các vua, tác giả khẳng định rằng chính Chúa là nguồn mọi quyền bính của vua chúa. Tư tưởng này được xây dựng trên niềm xác tín vào Thiên Chúa là Chủ của lịch sử, là quan điểm được nhấn mạnh rất nhiều trong Thánh Kinh. Tác giả nhắc lại điều này để cảnh giác những người ngạo mạn, tự coi mình như độc lập hoàn toàn với Thiên Chúa.
Câu 5-8 mô tả án xử của Thiên Chúa. Người không phân biệt sang hèn. Người phận nhỏ còn được thương tình miễn thứ, còn kẻ quyền thế sẽ bị Chúa tra vấn nghiêm ngặt. Đây là cách nhìn khác hẳn với quan điểm quen thuộc của người đời, chỉ đánh giá con người dựa trên sở hữu (quyền lực, tiền bạc…), và coi khinh những người nghèo khổ, cô thân cô thế.
Chính vì thế, những người nắm quyền bính cần phải học lẽ khôn ngoan, tức là học sống công chính. Đây cũng là điều khá xa lạ với những người có quyền lực trong xã hội ở mọi nơi mọi thời, vì họ thường tìm cách đạt quyền lực nhờ mánh khoé và thủ đoạn, đồng thời duy trì quyền lực cũng bằng những thủ đoạn độc ác. Giáo huấn của Sách Khôn Ngoan vẫn là những bài học mang tính thời sự cho chúng ta.
Các câu 12-21 mô tả những đặc tính của khôn ngoan và hành trình tìm kiếm khôn ngoan.
– Khôn ngoan là điều dễ tìm (câu 12). Như thế nếu kẻ ngu si và vô đạo không gặp được là vì họ không muốn, họ chỉ tìm kiếm những điều độc ác.
– Khôn ngoan sẽ có mặt khi ta tìm kiếm (câu 13-14). Kẻ ngu si và vô đạo đã không gặp được khôn ngoan “ngồi ngay trước cửa nhà” vì họ không chịu tìm kiếm.
– Hành trình tìm kiếm khôn ngoan được tác giả mô tả: ham muốn học hỏi – yêu mến – tuân giữ Lề luật – trường sinh bất tử. Người môn đệ của Chúa Giêsu có thể học được ở đây con đường theo Thầy Chí thánh là “sự khôn ngoan của Thiên Chúa.” Con đường theo Chúa cũng được dệt bằng niềm khao khát, tình yêu, tuân giữ Lời Chúa, và nên đồng hình đồng dạng với Chúa.
IV. SỰ QUAN PHÒNG CỦA THIÊN CHÚA TRONG CUỘC XUẤT HÀNH (11,2 – 19,22)
Đây là phần thứ ba trong sách Khôn Ngoan và mục đích của phần này là muốn chứng minh sự khôn ngoan đã bảo vệ dân Israel như thế nào trong cuộc xuất hành. Tác giả đã làm việc này bằng cách nêu ra những tương phản, cho thấy những sự vật Chúa dùng để phạt quân thù lại là những sự vật mang điều lành đến cho Dân Chúa.
Ví dụ thứ nhất là nước (11,6-14). Thiên Chúa đã trừng phạt người Ai Cập bằng thứ nước ô uế (Xh 7,17-24) và đã nuôi sống dân Israel bằng nước thanh khiết (Xh 17,5-7). Nếu Thiên Chúa có trừng phạt Israel thì đó là sự trừng phạt mang tính giáo dục của người cha dành cho con cái.
Ví dụ thứ hai là các loài vật, được nhắc đến trong ba đoạn khác nhau (Xh 11,15-16; 12,23-27; 15,18 – 16,15). Người Ai cập bị coi là ngu muội vì đã tôn thờ các loài vật vô tri, vì thế Thiên Chúa đã dùng chính các loài vật đó như rắn rết, cóc nhái, mà trừng phạt họ. Trong khi đó các loài vật lại trở thành phúc lành cho dân Israel, ví dụ chim cút đã thành của ăn cho họ trong hành trình sa mạc, rắn đồng chữa lành cho dân chúng. Tuy nhiên tác giả nhấn mạnh họ được cứu không phải do rắn đồng, nhưng “do chính Ngài, Đấng Cứu độ muôn người hết thảy.”
Ví dụ thứ ba là manna (16,16-29). Thiên Chúa trừng phạt Ai cập bằng mưa đá và lửa, tức là hai yếu tố đối nghịch nhau nhưng lại cùng hoạt động theo ý Thiên Chúa (Xh 9,22-26). Trong khi đó, Chúa lại ban manna nuôi dân, và manna được mô tả là “như băng tuyết, chịu được lửa hồng mà không tan chảy.”
Ví dụ thứ tư là bóng tối và cột lửa (17,1 – 18,4). Khi nói đến bóng tối như sự trừng phạt người Ai cập, tác giả nhấn mạnh ý nghĩa luân lý hơn là thể lý (các câu 2-21). Trong khi đó, Thiên Chúa lại ban cho Israel cột lửa làm hướng đạo trên con đường xa lạ, làm vầng ô dịu hiền trong cuộc di dân (18,3).
Ví dụ thứ năm là đêm thảm sầu và đêm giải thoát (18,5 – 19,21). Trong đêm Vượt qua, con đầu lòng trong các gia đình Ai cập bị giết chết nhưng con đầu lòng dân Israel lại được cứu sống. Đêm đó là đêm kinh hoàng cho người Ai cập nhưng lại là đêm giải thoát cho dân Israel (19,1-21).
Tất cả những so sánh trên nhằm tôn vinh sự quan phòng đầy yêu thương của Thiên Chúa dành cho dân Israel. Bài học mà tác giả muốn mọi người quan tâm là hãy đọc lại lịch sử Israel để khám phá sự dẫn dắt khôn ngoan của Chúa và gắn bó với Chúa, đó chính là lối sống khôn ngoan.
Đọc lại lịch sử để khám phá sự hiện diện đầy yêu thương của Thiên Chúa vẫn là một trong những cách thế hữu hiệu giúp ta sống đức tin. Có thể nói đây cũng là một trong những nền tảng cho phương pháp được gọi là Kinh nguyện hồi tưởng. Phương pháp này mời gọi ta cầu nguyện bằng cách nhìn lại chính đời mình để nhớ lại những khoảnh khắc đặc biệt ở đó ta cảm nhận sự hiện diện của Chúa cách rõ nét, nhớ lại những con người đã ghi dấu ấn sâu đậm trong đời ta, nhớ lại những biến cố lớn trong cuộc đời, nhớ lại cả những thương tích in sâu trong tâm hồn. Tất cả nhằm mục đích giúp ta cảm nhận rõ ràng sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa trong cuộc đời mình, nhờ đó ta đến với Chúa không chỉ bằng những suy nghĩ trừu tượng của trí khôn nhưng với cả con người của mình.
V. NHỮNG NGẪU TƯỢNG (13,1 – 15,17)
Xen lẫn những suy tư về sự quan phòng của Thiên Chúa, sách Khôn Ngoan nói khá nhiều về việc thờ ngẫu tượng, đáng cho ta quan tâm. Chủ đề này được chia thành hai phần, một là việc thờ phượng thiên nhiên (13,1-9), và hai là việc thờ ngẫu tượng (13,10 – 15,17).
Trong phần nói về thờ phượng thiên nhiên, tác giả phê phán “những kẻ ngu si” vì họ thờ phượng những sự vật trong thiên nhiên như lửa và gió, tinh tú và bầu trời, sông nước hay mặt trời mặt trăng… mà không khám phá ra chính Đấng đã làm nên vạn sự, “Nếu chúng có đủ khả năng hiểu biết để có thể nghiên cứu các sự vật trên đời, thì sao lại không sớm nhận ra Đấng chủ tể của những sự vật đó” (13,9). Những phê phán này nhắc ta nhớ lại điều thánh Phaolô đã nói trong Rm 1,18-25, và giáo huấn của Hội Thánh về việc lý trí con người có thể nhận ra Đấng Tạo hoá qua những kỳ công Người thực hiện.
Ngoài việc thờ phượng thiên nhiên, còn có thứ thờ phượng tệ hại hơn nhiều, đó là thờ phượng những sản phẩm do chính tay con người làm ra (13,11 – 14,11; 15,7-13). Ông thợ mộc hay anh thợ gốm tạc nặn những tượng thần. Rõ ràng là sản phẩm do tay con người làm ra. Tác giả còn phê phán cách cay độc rằng tượng thần đó được làm từ một mẩu gỗ chẳng còn dùng vào được việc gì vì đầy mấu đầy mắt (13,13)! Thế nhưng sản phẩm đó lại được con người thờ lạy và khấn xin những điều mà ngẫu tượng đó hoàn toàn không thể đáp ứng, “Với vật không hồn, anh xin sự sống; với vật không kinh nghiệm, anh xin sự giúp đỡ; với vật không đi được nửa bước, anh xin thượng lộ bình an” (13,18). Thật là ngu xuẩn và điên rồ.
Cùng với những lời phê phán việc thờ ngẫu tượng, tác giả đưa ra những suy tư và phân tích sâu sắc về nguồn gốc và hậu quả của việc thờ ngẫu tượng (14,12 – 15,6). Tác giả nhắc đến hai nguồn gốc dẫn đến chỗ thờ ngẫu tượng: người cha mất con nên nặn hình tượng con rồi tôn kính như thần thánh và bắt mọi người phải làm theo (14,12-15); tạc hình tượng những nhà cai trị ở xa rồi cổ võ việc thờ kính ông ta (14,17-20). Hậu quả là một hiểu biết hoàn toàn sai lạc về Thiên Chúa (14,22), và một khi không hiểu biết và tôn thờ Thiên Chúa đích thực, con người để cho mình sa vào sự lôi cuốn của dục vọng với đủ thứ tội ác (14,23-26).
Những suy tư này vẫn còn nguyên giá trị cho cuộc sống con người hôm nay. Trong một thời đại phát triển khoa học kỹ thuật cao như ngày nay, con người không còn thần thánh hoá những sự vật trong thiên nhiên (dù vẫn có một số hình thức mê tín đị đoan). Thế nhưng nhiều người ngày nay lại có khuynh hướng thần thánh hoá những con người bằng xương bằng thịt, ví dụ một nhà lãnh đạo nào đó hoặc một siêu sao điện ảnh! Bên cạnh đó người ta tôn thờ quyền lực và tiền bạc, vốn chỉ là sản phẩm do tay con người làm ra, mà bỏ quên Thiên Chúa Tạo Hoá. Rồi người ta kiếm tìm những nghi lễ huyền bí, những cuộc lễ man rợ (14,23) đến độ thờ cả Satan. Nghĩ cho cùng, tất cả cũng đều phát xuất từ chỗ con người không nhận biết và thờ phượng Thiên Chúa đích thực, rơi vào sự trống rỗng trầm trọng về mặt tinh thần, và cố gắng tìm những thứ bên ngoài để lấp đầy.
Cùng với tác giả sách Khôn Ngoan, người Kitô hữu tuyên xưng rằng, “Lạy Thiên Chúa chúng con, Ngài tốt lành, chân thật và kiên nhẫn, lấy lòng thương xót mà cai quản muôn loài…. Nhận biết Chúa tường tận là đạt được công chính hoàn hảo, nhìn nhận quyền năng Chúa là đạt được nguồn ơn bất tử” (15,1-3).
Sách Thánh Vịnh
***
TV imagesI. TỔNG QUÁT
Ở trung tâm của mọi Thánh vịnh là sự hiện diện của Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel. Đối với tác giả Thánh vịnh, Đức Chúa hiện diện trước hết là trong Đền thờ. Được vua Salomon xây trên núi Sion ở Giêrusalem vào thế kỷ 10, và được xây lại vào thế kỷ 6 trước Công nguyên, Đền thờ là điểm quy tụ của ba ngày lễ lớn trong năm: lễ Vượt qua vào đầu mùa Xuân, bảy tuần sau là lễ Ngũ tuần, và lễ Lều vào đầu mùa thu. Trong khuôn viên Đền thánh, dân chúng gặp gỡ Đức Chúa, và qua những nghi thức phụng vụ, họ nhớ lại những thời điểm quan trọng như công trình tạo dựng và cuộc xuất hành.
Tuy nhiên theo tác giả Thánh vịnh, Đền thờ không phải là nơi duy nhất cho dân gặp Đức Chúa. Họ còn có thể gặp gỡ Đức Chúa qua các vua là trung gian giữa Chúa và Dân Người. Một hình thức hiện diện khác của Đức Chúa là qua Lề luật. Với các Kitô hữu, Chúa Kitô và Hội thánh của Người chính là nơi Thiên Chúa hiện diện cách rõ ràng nhất.
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã trình bày thật phong phú và sâu sắc về ý nghĩa và vai trò của Thánh vịnh trong đời sống Dân Chúa:
“Các Thánh vịnh nuôi dưỡng và diễn tả tâm tình cầu nguyện của Dân Chúa là cộng đoàn quy tụ vào các dịp đại lễ tại Giêrusalem và mỗi ngày sabát trong các hội đường. Kinh nguyện này vừa có tính cá nhân vừa có tính cộng đoàn, vừa liên hệ với những người đang cầu nguyện vừa liên hệ đến toàn thể mọi người. Các Thánh vịnh vang lên từ thánh địa và các cộng đoàn Do thái tản mác khắp nơi nhưng lại bao trùm toàn thể thụ tạo; nhắc lại các biến cố cứu độ trong quá khứ và vươn đến ngày hoàn tất lịch sử; nhắc nhớ Thiên Chúa đã thực hiện những lời hứa thế nào, đồng thời chờ đợi Đấng Mêsia đến hoàn tất trọn vẹn. Được Chúa Kitô sử dụng để cầu nguyện và kiện toàn, các Thánh vịnh luôn chiếm vị trí thiết yếu đối với kinh nguyện của Hội Thánh…
Qua các Thánh vịnh, chúng ta gặp thấy những đặc điểm: lời cầu nguyện đơn sơ và tự phát, lòng khao khát Thiên Chúa qua và với tất cả những gì tốt đẹp trong vũ trụ, hoàn cảnh khó khăn của người tín hữu muốn yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự nhưng lại phải đối diện với bao thử thách và địch thù, dù vậy vẫn chờ đợi Thiên Chúa trung tín ra tay hành động; niềm xác tín vào tình yêu Thiên Chúa và phó thác theo Thánh Ý Người” (số 2586 – 2589).
150 Thánh vịnh diễn tả kinh nghiệm của Israel về Đấng Thánh. Những kinh nghiệm này được trình bày qua các hình thức và truyền thống văn chương của thời đại đó. Vì thế để hiểu và lĩnh hội những kinh nghiệm tôn giáo đó, không thể không quan tâm đến cách diễn tả của thời đại đó.
Theo các học giả Thánh Kinh, có thể chia các Thánh vịnh thành ba loại: than vãn (cá nhân hay cộng đoàn), tạ ơn (cá nhân và cộng đoàn), và ngợi khen.
II. THÁNH VỊNH THAN VÃN
1. Đặc điểm
Trong những Thánh vịnh này, có những yếu tố chính như sau:
– tiếng kêu trực tiếp và chân thành hướng lên Đức Chúa.
– than thở: mô tả cụ thể nỗi đau của cộng đoàn như bị mất mùa, bị thua trận, hoặc nỗi đau của cá nhân như bệnh tật, bị lừa đảo, bị oan ức…
– tín thác: dù phải lâm vào cơn khủng hoảng, tác giả Thánh vịnh vẫn một niềm cậy trông vào Chúa. Tâm tình này thường được bắt đầu bằng từ “nhưng” hay “tuy nhiên”…
– khấn xin: tác giả Thánh vịnh xin ơn giải cứu cho dân và xin Chúa hạ gục quân thù.
– lời bảo đảm: lời khẳng định Thiên Chúa nhận lời.
– ngợi khen: ở cuối Thánh vịnh là tâm tình ngợi khen, ngược lại với nỗi âu lo thất vọng được trình bày ở đầu.
Như thế, trong mỗi Thánh vịnh theo thể loại này, có ba nhân vật: tác giả Thánh vịnh (người đọc TV), Thiên Chúa, và kẻ gian ác. Trong lời than thở, tác giả mô tả thật bi thảm nỗi đau của mình và lấy sự vô tội của mình như lý do thúc đẩy Chúa hành động: Chẳng lẽ Chúa là Đấng công chính mà lại để cho kẻ gian ác đàn áp người vô tội như thế sao? Chẳng lẽ Chúa lại để cho Israel là dân của Chúa bị quân thù đè bẹp sao? Lời bảo đảm (như đã phân tích ở trên) được nhìn như phán quyết của Chúa, khẳng định Chúa sẽ không để cho sự ác chiến thắng. Tâm tình ngợi khen ở cuối Thánh vịnh diễn tả niềm hi vọng rằng chắc chắn Đức Chúa sẽ hành động.
2. Một vài Thánh vịnh than vãn
Thánh vịnh 22
Tuy không theo sát lược đồ trên nhưng những yếu tố chính trong thể loại than vãn xuất hiện rất rõ.
– Than thở: hai lời than thở “Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao?… Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi…” (câu 2-12) “Nghe cổ họng khô ran như ngói, lưỡi với hàm dính lại cùng nhau, chốn tử vong Chúa đặt vào… Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn” (câu 13-22).
– Tín thác “Thế nhưng Chúa ngự nơi đền, vinh quang của Israel là Ngài” (câu 4-6) và “Đưa con ra khỏi thai bào, vòng tay mẹ ẵm Chúa trao an toàn…” (câu 10-12).
– Khấn xin “Chúa là sức mạnh con nương, cứu mau lạy Chúa, xin đừng đứng xa” (câu 20-22).
– Ngợi khen “Con nguyện sẽ loan truyền Danh Chúa… Hỡi những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca tụng Ngài đi” (câu 23-32).
Với người Kitô hữu, Thánh vịnh này không thể không làm ta nhớ đến Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn, những lời Ngài kêu lên từ thập giá, “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27,46), và những sự kiện được các thánh sử kể lại, “chúng đóng đinh Người vào thập rồi đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau” (Mc 15,24). Có lẽ khi bị đóng đinh trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện bằng Thánh vịnh này, một Thánh vịnh được bắt đầu bằng những lời than vãn dường như tuyệt vọng nhưng kết thúc với tâm tình trọn vẹn tín thác, cậy trông. Chúng ta lại không thể lấy Thánh vịnh này làm lời cầu nguyện tuyệt vời những khi phải sa cơn thử thách sao?
Thánh vịnh 51 (Thánh vịnh sám hối)
Thánh vịnh có hai phần dài gần như nhau: câu 3-10 và 11-19, và phần kết (20-21). Có thể gặp ở đây những yếu tố cụ thể trong thể loại than vãn.
– Tiếng kêu lên Chúa: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con” (câu 3).
– Than vãn: “Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm… “ Thánh vịnh mô tả tình trạng tội lỗi cách sâu sắc, “Ngài thấy cho, lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai…” (câu 5-7).
– Tín thác: ý thức mình tội lỗi nhưng luôn vững một niềm cậy trông vào Chúa, “nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật, dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan” (câu 8).
– Khẩn cầu: “Xin cho con được nghe tiếng reo mừng hoan hỉ… Xin ngoảnh mặt đừng nhìn bao tội lỗi, và xoá đi hết mọi lỗi lầm” (câu 10-11). Lời khẩn cầu rất sâu xa và phong phú vì không chỉ ngưng lại ở việc xin tha tội nhưng còn xin được ở gần Chúa, sống nhờ quyền năng Chúa (câu 12-13). Nhờ đó có được niềm vui (câu 14) và trở nên chứng nhân cho đường lối Chúa giữa các tội nhân (câu 15-16)
– Ngợi khen: “Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài…” (câu 17-19).
Đây là một trong những Thánh vịnh nổi tiếng nhất và được nhiều người biết đến. Người Kitô hữu thường đọc và suy niệm Thánh vịnh này trong mùa Chay, mùa trở về, mùa sám hối. Suy niệm Thánh vịnh này giúp ta hiểu và sống tâm tình sám hối chân thật, không chỉ ngừng lại ở những dằn vặt về tội lỗi nhưng hướng nhìn lên Chúa là Tình yêu, quyết tâm trở về với Chúa và trở nên nhân chứng tình yêu của Chúa.
Sách Thánh Vịnh
(các Thánh Vịnh tạ ơn)
***
thanh vinhI. THÁNH VỊNH TẠ ƠN
1. Đặc điểm
Trong Thánh Kinh, tạ ơn không có nghĩa là nói câu “cảm ơn” nhưng là công khai loan báo về ơn giải thoát mình đã nhận. Người nghe loan báo sẽ nhận ra quyền năng Chúa và ngợi khen Chúa, vinh quang Chúa sẽ được tỏ hiện. Hiểu như thế, trong các Thánh vịnh này, trước hết tác giả dâng lời tạ ơn rồi ngay sau đó mô tả hành động giải thoát của Chúa: sống trong cảnh cùng quẫn, kêu cầu Chúa trợ giúp, và được cứu thoát.
2. Một vài Thánh vịnh tạ ơn
Thánh vịnh 40
Tác giả Thánh vịnh mô tả ơn giải thoát của Chúa bằng những từ ngữ cụ thể, “Người kéo tôi ra khỏi hố diệt vong, khỏi vũng lầy nhơ nhớp, đặt chân tôi đứng trên tảng đá, làm cho tôi bước đi vững vàng” (câu 3).
Câu 4 xác định rằng ngay cả việc tạ ơn cũng là hồng ân Chúa ban vì “Chúa cho miệng tôi hát bài ca mới, bài ca tụng Thiên Chúa chúng ta.”
Việc ca tụng đó trở thành lời chứng trước mặt mọi người về Thiên Chúa, “Thấy thế, nhiều người sẽ kính sợ và tin tưởng vào Chúa.”
Sau đó, tác giả liên kết ơn giải thoát mà mình được lãnh nhận với những kỳ công Chúa thực hiện trong lịch sử của Dân Chúa: “Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, những kỳ công Ngài đã thực hiện và những điều Ngài dự định cho chúng con, thật nhiều vô kể” (câu 5-6).
Trong câu 7-9, người được giải thoát muốn dâng lễ phẩm cho Chúa nhưng xác định ngay rằng Chúa yêu thích sự vâng phục hơn là của lễ. Khẳng định này nhắc ta nhớ đến lời của Samuel nói với vua Saulê (1Sam 15,22). Của lễ tốt đẹp nhất là hiến dâng chính mình, “Này con xin đến. Trong sách có lời chép về con rằng con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con.”
Như thế, người được giải thoát sẽ vào Đền thánh dâng lời tạ ơn, không phải bằng những lễ tế nhưng bằng bài ca mới và sự tận trung với Lề luật: “Đức công chính của Ngài, con loan truyền giữa lòng đại hội… Lòng thành tín và yêu thương của Ngài sẽ giữ gìn con mãi.”
Tác giả thư Do thái đã nhắc lại những tâm tình trong Thánh vịnh này và cắt nghĩa, “Trước hết Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10, 8-10).
Thánh vịnh 139
Đây là Thánh vịnh tạ ơn, trong đó tác giả kể lại sự chăm sóc Chúa dành cho mình (câu 1-18); kèm theo là một lời than vãn và xin Thiên Chúa trừng phạt tội nhân (câu 19-24).
Tác giả Thánh vịnh nhận biết cách sâu sắc sự hiện diện và ánh nhìn yêu thương của Chúa: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi…” (câu 1-6).
Sự hướng dẫn của Chúa mọi nơi mọi lúc và sự quan phòng của Chúa trên chính bản thân: “Đi mãi đâu cho thoát thần trí Ngài, lẩn nơi nào cho khuất được Thánh Nhan?…”(câu 7-12).
Câu 17-18 tóm kết lại, nói lên nỗi ngỡ ngàng khâm phục: “Lạy Chúa, con thấy tư tưởng Ngài khó hiểu biết bao, tính chung lại, ôi nhiều vô kể. Đếm sao nổi vì nhiều hơn cát, dù có đếm xong, con vẫn ở với Ngài.”
Duy nhất chỉ có một điều có thể làm cho ta xa cách Chúa, đó là tội lỗi. Các câu 19-24 nói về tội lỗi: “Ước gì bọn khát máu đi cho khuất mắt con… Lạy Chúa, kẻ ghét Ngài, làm sao con không ghét? Làm sao con không tởm kẻ đứng lên chống Ngài?”;
Và tác giả cầu xin Chúa, “Lạy Chúa, xin dò xét con để biết rõ lòng con, xin thử con cho biết những điều con cảm nghĩ. Xin Ngài xem con có lạc vào đường gian ác, thì dẫn con theo chính lộ ngàn đời.”
II. THÁNH VỊNH NGỢI KHEN
Những Thánh vịnh này có cấu trúc đơn giản: một lời mời gọi thờ phượng và ngợi khen, ví dụ Tv 117 “Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa. Ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Ngài”. Phần chính của Thánh vịnh trình bày những lý do ca ngợi Chúa, thường bắt đầu bằng từ “vì”; ví dụ “Vì tình Chúa thương ta thật là mãnh liệt, lòng thành tín của Người bền vững muôn năm” (Tv 117).
Một Thánh vịnh quen thuộc: Thánh vịnh 8
Thánh vịnh mở đầu bằng tâm tình ngợi khen: “Lạy Đức Chúa là Chúa chúng con,
lẫy lừng thay Danh Chúa trên khắp cả địa cầu” (c.2).
Lý do dâng lời ngợi khen là vì Chúa đã ban cho con người phẩm giá, trách nhiệm cao quý: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?” (câu 4-5).
Ở đây có thể đối chiếu với Kn 1,1 – 2,3 để cảm nghiệm sâu sắc hơn sự vĩ đại của công trình tạo dựng và địa vị cao cả mà Thiên Chúa ban cho con người: “Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân” (câu 6-7).
Tất cả chỉ để lời ca tụng ngợi khen càng vút cao hơn nữa: “Lạy Đức Chúa là Chúa chúng con, lẫy lừng thay Danh Chúa trên khắp cả địa cầu” (câu kết).
Bài đọc thêm
NHỮNG CHỦ ĐỀ CHÍNH TRONG SÁCH THÁNH VỊNH
I. THIÊN CHÚA
Rõ ràng Thiên Chúa là chủ đề lớn nhất của các Thánh vịnh đến nỗi có thể nói rằng các Thánh vịnh chỉ nói với Chúa và về Chúa. Mọi chủ đề khác cuối cùng cũng hướng về Chúa: thế giới này hiện hữu là do Ngài và phải tôn vinh chúc tụng Ngài; dân Israel là dân được Chúa tuyển chọn, dẫn đưa, yêu thương và trừng phạt trong suốt dòng lịch sử; mỗi tín hữu được Ngài dẫn từng bước đi. Quả thật, Thiên Chúa hiện diện trong từng lời, từng chữ của các Thánh vịnh.
Khi nói về Chúa, các Thánh vịnh có thể sử dụng ngôn ngữ như nhân, diễn tả Thiên Chúa bằng những kinh nghiệm và tình cảm của con người. Tuy nhiên đây chỉ là hình ảnh, còn tự thâm sâu, tác giả Thánh vịnh ý thức rõ ràng Thiên Chúa siêu việt trên mọi thụ tạo của Ngài. Tính siêu việt này gắn với tính độc nhất, nghĩa là chỉ một mình Chúa là Thiên Chúa. Hẳn nhiên có những cách diễn tả như Thiên Chúa siêu việt trên các thần (Tv 136,2-3; 97,7-9), hoặc nói đến những hữu thể thiêng liêng, có khi nói đến những hữu thể thần linh (Tv 8,6), nhưng toàn bộ sách Thánh vịnh cho thấy khẳng định độc thần giáo rất rõ ràng. Còn về ma quỷ, trong văn bản Hip-ri, ma quỷ không bao giờ được gọi tên rõ ràng nhưng chỉ được diễn tả là thù địch của Chúa, là những quyền lực xấu xa đe doạ và bách hại các tín hữu.
Một đàng, Thiên Chúa siêu việt trên các loài thụ tạo; đàng khác, Ngài lại liên hệ gần gũi với thụ tạo của Ngài. Ngài quan phòng lo liệu không những cho thế giới vật chất này có trật tự, mà còn để bảo vệ sự công bằng trên trái đất. Với người công chính, Ngài là Đấng bảo vệ và trả thù thay cho họ; với người tội lỗi có lòng hối cải ăn năn, Ngài là chốn nương thân; với kẻ nghèo hèn khiêm tốn, Ngài là lòng thương xót, từ tâm và nhân hậu.
II. ƠN CỨU ĐỘ
Thiên Chúa hứa ban Ơn Cứu độ cho con người, nghĩa là một ngày nào đó Ngài sẽ can thiệp để bảo đảm sự chiến thắng của người công chính trên kẻ bất lương, và khai mạc triều đại của Ngài trong một thế giới mới. Lời hứa này chưa rõ nét trong những bản văn xa xưa, nhưng ngày càng rõ ràng hơn. Ơn Cứu độ sẽ đến tại Sion, núi thánh của Chúa. Ơn Cứu độ sẽ đến từ dòng dõi Đavít. Rõ hơn nữa, ngày nào đó, một người thuộc dòng dõi Đavít sẽ là Đấng Mêsia, vừa là Vua vừa là Tư tế, và sẽ thực hiện nơi chính bản thân mình tất cả mọi lời tiên tri. Đấng Mêsia đó sẽ bị bách hại nhưng Người sẽ chiến thắng. Người sẽ là vị vua hoà bình, mang nơi mình mọi nhân đức của vị vua lý tưởng, với trách nhiệm chăn dắt và xét xử toàn thế giới. Những mô tả về thời đại Đấng Mêsia cho ta thoáng thấy một triều đại mới, khi các dân tộc tuôn đổ về Sion và phủ phục trước Thiên Chúa của Israel.
III. CON NGƯỜI
Trước nhan Thiên Chúa, con người thật nghèo nàn và đáng thương. Trong rất nhiều Thánh vịnh, con người cất tiếng than van về nỗi khốn cùng của mình. Nhưng con người không bị bỏ rơi trong tuyệt vọng. Nhờ cầu nguyện, họ đón nhận phúc lành và sự đỡ nâng của Đấng Tạo hoá. Thiên Chúa giải thoát họ và họ dâng lời chúc tụng tạ ơn Ngài.
Đời sống luân lý hệ tại việc thực thi công chính, tuân giữ Lề luật, và tham dự việc thờ phượng. Những việc này không đối kháng nhau; đúng hơn đó là những mặt khác nhau của cùng một lý tưởng. Đền thờ được nhắc đến trong những Thánh vịnh cổ xưa cũng như những Thánh vịnh sau này. Vào thời sau này của Do thái giáo, việc nghiên cứu và suy niệm lề luật chiếm vị trí quan trọng trong đời sống người công chính, nhưng đây cũng không phải là điều gì hoàn toàn mới mẻ; đúng hơn, chỉ là nhấn mạnh một khía cạnh trong tôn giáo của các tổ phụ.
IV. THƯỞNG PHẠT
Vấn đề thưởng phạt là chủ đề rất quan trọng trong toàn bộ lịch sử tôn giáo của Israel, do đó không nên ngạc nhiên khi thấy chủ đề này có mặt trong hầu hết các Thánh vịnh. Phần lớn các Thánh vịnh phản ánh quan niệm truyền thống của dân Israel, cho rằng lòng đạo và hạnh phúc đi đôi với nhau, còn đau khổ dứt khoát là hình phạt cho sự ác. Thế nhưng kinh nghiệm thực tế xem ra lại không như thế, và tác giả Thánh vịnh có thể có nhiều thái độ khác nhau: có khi tác giả khẳng định rằng sự thất bại của người công chính chỉ là thất bại bên ngoài thôi, ngược lại thành công của kẻ tội lỗi chỉ là thành công thoáng qua; có khi chứng kiến sự bất công thì tác giả cảm thấy bất nhẫn và than thở với Chúa, xin Ngài can thiệp; có khi tác giả nói đến sự thưởng phạt của Chúa trong tương lai xa.
Tuy nhiên ta nên cẩn trọng khi nói đến niềm tin vào đời sống tương lai được diễn tả trong các Thánh vịnh. Thật vậy, tác giả Thánh vịnh vẫn giữ những ý tưởng truyền thống về chủ đề này, nghĩa là nói đến sheol như nơi chốn bị lãng quên, xa cách thánh nhan Chúa, chứ không phải là sự phục sinh như ta hiểu ngày nay.
Trên đây là một vài chủ đề lớn trong sách Thánh vịnh, cũng là những mối quan tâm lớn trong đời sống Kitô hữu. Chính vì thế, Thánh vịnh luôn có mặt trong kinh nguyện của Hội Thánh, đồng thời thích hợp cho mọi người ở mọi nơi và mọi thời.
Tin Mừng theo Thánh Marco
(chương 1-8)
***
St-MarkI. TỔNG QUÁT
1. Tin Mừng Marco: một trong bốn bức chân dung của Chúa Giêsu
Đa số các học giả Tân Ước ngày nay nhìn nhận rằng Tin Mừng Marcô là sách Tin Mừng đầu tiên, và là nguồn được thánh Matthêu và Luca sử dụng khi biên soạn sách Tin Mừng của các ngài. Còn Tin Mừng Gioan xem ra không biết đến ba sách Tin Mừng trên. Khi linh hứng cho bốn thánh sử viết sách Tin Mừng, ý định của Chúa không chỉ là để các ngài ghi lại những sự kiện có tính lịch sử, nhưng còn nhằm đáp trả những nhu cầu thiêng liêng khác nhau trong cộng đồng Dân Chúa vào thời kỳ mới thành lập. Ngày nay cộng đoàn tín hữu cũng có những nhu cầu thiêng liêng khác nhau, và đức tin của ta được nuôi dưỡng nhờ cả bốn sách Tin Mừng. Khi đọc Tin Mừng Marco, ta sẽ gặp được chân dung đơn giản nhất của Chúa Giêsu nhưng cũng rất đòi hỏi vì Marco tập trung vào ý nghĩa đau khổ và sự chết của Chúa. Cùng với thánh Marco, ta được mời gọi khám phá ý nghĩa của sự sống và sự chết bằng cách tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa và hết lòng phục vụ tha nhân.
2. Một cái nhìn tổng thể về Tin Mừng Marco
Tin Mừng Marco phát triển tuần tự theo ba giai đoạn. Trong giai đoạn thứ nhất (chương 1 – 8), Chúa Giêsu được giới thiệu như nhà rao giảng vĩ đại và đấng chữa lành đầy quyền năng. Nhưng xem ra người ta không hiểu được căn tính đích thực của Chúa, kể cả các môn đệ cũng không hiểu. Rồi bất ngờ, căn tính đó được bày tỏ : “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều…” (8,31), và người theo Chúa cũng thấy được đâu là đường phải đi : “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình …” (8,34).
Trong giai đoạn thứ hai (chương 9-15), đời sống môn đệ đích thực của Chúa được trình bày từ từ, và đỉnh cao là “Con Người không đến để được người ta phục vụ nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người” (10,45). Ý nghĩa này được thể hiện trọn vẹn trong cuộc thương khó và cái chết của Chúa (chương 14-15).
Thế nhưng cái chết của Chúa không phải là điểm kết thúc. Giai đoạn thứ ba bắt đầu bằng việc loan báo Chúa phục sinh và việc Ngài đến Galilê trước các môn đệ (16,6-7). Giai đoạn này vẫn đang tiếp tục trong đời sống của Hội Thánh cho đến khi Chúa quang lâm.
3. Những chủ đề chính trong Tin Mừng Marco
Nhân tính của Chúa Giêsu
Trong bốn sách Tin Mừng, thánh Marco là người nhấn mạnh đến khía cạnh con người nơi Chúa Giêsu nhiều nhất : Ngài quát mắng (1,25), giận dữ buồn phiền (3,5), bực bội khó chịu (10,14). Chỉ có Marco ghi nhận chi tiết trong việc Chúa Giêsu cho một bé gái sống lại, “ngài bảo họ cho con bé ăn” (5,43). Chỉ có Marco ghi nhận Chúa đưa mắt nhìn anh thanh niên giầu có và đem lòng yêu mến (10,21) trước khi đòi hỏi anh phải từ bỏ nếu muốn theo Chúa. Thánh Marco còn cho thấy Chúa Giêsu bực bội khó chịu vì sự tối dạ của các môn đệ (4,13; 8,14-21). Vì thế khi đọc Marco, một đàng ta thấy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa quyền năng, đàng khác ta lại thấy Chúa rất “người.” Do đó cảm thấy dễ đến gần Chúa vì Ngài cũng có những kinh nghiệm về cuộc sống như ta với những hỉ nộ ái ố của con người!
Lòng tín thác
Theo thánh Marco, dấu chỉ đích thực của người môn đệ là sự tín thác (tin tưởng, phó thác). Xem ra các môn đệ chỉ nhìn Chúa Giêsu như Đấng Cứu Thế ban cho họ có bánh ăn (6,34-44; 8,1-10) chứ không thấy được Ngài là Người Tôi tớ đau khổ, Đấng ban cho họ sự sống nhờ cái chết của Ngài (10,35-45). Chúa Giêsu có thể chữa lành cho người mù về phần xác (8,22-26; 10,46-52) nhưng xem ra Chúa không chữa được sự mù loà tâm trí của các môn đệ! Đây là điều thánh Marco nhấn mạnh trong Tin Mừng của ngài, với hi vọng rằng người đọc sẽ biết đặt trọn niềm tín thác vào Chúa Giêsu là Đấng đã dùng sự chết để ban tặng ý nghĩa cho đời sống và những đau khổ của con người.
Phục vụ tha nhân, phương thế vác thập giá hằng ngày
Nhấn mạnh đến lời mời gọi bỏ mình, vác thập giá theo Chúa, thánh Marco cũng cho thấy cách thế thể hiện trong đời sống hằng ngày : phục vụ tha nhân thay vì để người ta phải phục vụ mình (10,44). Tinh thần đó phải là định hướng cho mọi chọn lựa và hành động của người môn đệ Chúa Giêsu.
4. Tin Mừng Marco trong phụng vụ
Trước Công đồng Vaticano II, hầu hết các bài đọc Tin Mừng trong phụng vụ Thánh Lễ được rút ra từ Tin Mừng Matthêu. Sau Vaticano II, Sách Các Bài Đọc cho ta được tiếp cận nhiều hơn với các bản văn khác. Tin Mừng Marco được chọn đọc trong hầu hết các Chúa nhật Năm B (chu kỳ ba năm). Ta cũng được nghe đọc Tin Mừng Marco trong các lễ ngày trong tuần (8 tuần trước khi vào mùa Chay).
II. LỜI MỞ (1,1)
Tin Mừng Marco mở đầu bằng một khẳng định quan trọng : “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa.” Với khẳng định này, thánh Marco tuyên xưng Đức Giêsu, Đấng đã sống giữa mọi người trong 30 năm, chữa lành các bệnh nhân và dạy dỗ mọi người về Thiên Chúa, Đấng đã bị người ta liệt vào hàng trộm cướp và bị giết chết, Đấng ấy chính là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và Đấng ấy là Chúa Kitô Phục Sinh vẫn đang sống giữa mọi người.
Như thế lời mở của Tin Mừng Marco loan báo nhận vật trung tâm của sách Tin Mừng là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Đó cũng là chìa khoá mở cánh cửa hiểu biết 16 chương tiếp theo. Trong Tin Mừng Marco, ngoài lời mở này, chỉ có một chỗ khác Đức Giêsu được tuyên xưng là Con Thiên Chúa, đó là lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng thi hành án tử đóng đinh Chúa Giêsu (15,39). Như thế Marco muốn nhấn mạnh rằng nhận biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa chính là tin rằng Ngài là Đấng Mêsia chịu đau khổ, chịu chết trên thập giá, và nay đang sống giữa chúng ta. Và Chúa Giêsu mời gọi ta đi theo Ngài trên con đường đó, con đường yêu thương phục vụ cho đến chết.
III. LỜI RAO GIẢNG VÀ QUYỀN NĂNG CỦA CHÚA GIÊSU (1,21-28)
Điều đặc biệt là thánh Marco không kể cho ta nghe Chúa Giêsu giảng dạy điều gì nhưng chỉ ghi nhận, “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người vì Người giảng dạy như Đấng có thẩm quyền chứ không như các kinh sư” (1,21). Marco lập lại hai lần “Đấng có thẩm quyền” (câu 21 khi kể về lời giảng dạy và câu 27 khi kể về phép lạ). Như thế lời nói và hành động của Chúa được liên kết mật thiết với nhau : lời nói diễn tả hành động và hành động thực hiện lời nói. Chúa Giêsu vẫn tiếp tục hành động như thế trong cử hành bí tích của Hội Thánh, và nhiều khi ta không ý thức nội dung phong phú đó.
Nên biết rằng với thánh Marco cũng như với các Kitô hữu ở thế kỷ I, “thần ô uế” (1,23) cũng như các thần khác (1,32; 3,11; 15,22) là đại diện cho quyền lực sự dữ, thù nghịch với Thiên Chúa và những sự tốt lành. Những quỷ thần này rất nhạy bén đến nỗi chúng có thể nhận ra ai là đại diện của Thiên Chúa. Ở đây thần ô uế la lên khi thấy Chúa Giêsu, “Ơng là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (1,24) và cố gắng ngăn cản sứ vụ của Chúa. Nhưng Chúa Giêsu cương quyết trục xuất nó ra khỏi người bị ám.
Lời rao giảng và quyền năng chữa lành của Chúa Giêsu khiến mọi người kinh ngạc và tự đặt câu hỏi “Thế nghĩa là gì?” Câu hỏi về ý nghĩa hành động và về căn tính của Chúa Giêsu phải là câu hỏi ta đặt ra cho mình khi đọc sách Tin Mừng này. Thánh Marco ghi nhận thêm rằng “danh tiếng Người đồn ra khắp nơi.” Đúng như thế. Nhưng vì danh tiếng Người vang xa lan rộng nên các thế lực thù nghịch rắp tâm tìm cách tiêu diệt Chúa Giêsu (x. 6,14-29). Như thế ngay từ đây, thánh Marco đã đặt cho ta câu hỏi : Bạn kinh ngạc và ca tụng khi nghe Chúa Giêsu giảng dạy và thấy Chúa làm phép lạ, vậy liệu khi nghe Chúa loan báo rằng Con Người phải chịu nhiều đau khổ và bị người ta giết chết (8,31), bạn có ngỡ ngàng và ca tụng nữa không? Liệu bạn có nhận ra Chúa khi Người bị đóng đinh trên thập giá và bị mọi người bỏ rơi không? Bạn sẽ trả lời ra sao?
IV. CHÚA GIÊSU THÀNH LẬP NHÓM MƯỜI HAI (3,13-19)
Vào thời thánh Marco viết sách Tin Mừng (năm 70), hầu hết các môn đệ trực tiếp của Chúa Giêsu đã qua đời. Thánh Marco ghi lại việc Chúa Giêsu thành lập nhóm Mười Hai để nhấn mạnh hai điểm căn bản cho đời sống người môn đệ Chúa, đó là “ở với Chúa” và “được Chúa đặt tên.”
Trước hết là ở với Chúa (3,14). Là môn đệ tức là học trò, và muốn học thì phải ở với Thầy. Cũng vì thế Chúa Giêsu luôn để Nhóm Mười Hai ở sát với Người. Họ học từ Chúa những mầu nhiệm Nước Trời (qua các dụ ngôn 4,1-34), khám phá những khó khăn trên đường theo Chúa (chương 8-16). Sự kiện Chúa Giêsu thành lập Nhóm Mười Hai khi ở trên núi cũng nhắc nhớ những biến cố khác diễn ra trên núi như Chúa biến hình (9,2-10), Chúa hấp hối trên Núi Cây Dầu (14,26-42). Như thế người môn đệ không chỉ học với Chúa trong vinh quang mà cả trong đau khổ.
Yếu tố thứ hai là được Chúa đặt tên (3,16). Trong sách Sáng Thế, vì Thiên Chúa đã “đặt tên” cho trời đất và mọi loài thụ tạo nên chúng là sở hữu riêng của Người (St 3,1-10). Khi Thiên Chúa cho Adam quyền đặt tên cho các loài vật, thì Adam cũng được chia sẻ quyền năng của Chúa (St 2,20). Như thế, được Chúa đặt tên có nghĩa là thuộc về quyền sở hữu của Người, đồng thời được chia sẻ quyền năng của Người (3,14-15)
Là Kitô hữu, là người chịu Phép Rửa nhân danh Chúa Giêsu, là môn đệ của Người, thánh Marco nhắc nhớ ta những điều kiện căn bản của đời môn đệ : ở với Chúa, học với Chúa, và chia sẻ sứ mạng của Người.
Tin Mừng theo Thánh Marco
(chương 9-16)
+++
marco images (1)I. MẠC KHẢI CON ĐƯỜNG CỦA ĐẤNG MÊSIA (8,27 – 9,1)
Từ đầu sách Tin Mừng đến lúc này, thánh Marco trình bày Chúa Giêsu là ai qua những kỳ công Người thực hiện. Đồng thời Marco cũng ghi nhận rằng Chúa Giêsu không muốn người ta tin vào Người chỉ vì thấy những phép lạ, do đó Chúa Giêsu thường xuyên căn dặn phải giữ “bí mật Mêsia” (8,26; 7,36; 5,43…). Với bản văn kể về lời tuyên xưng đức tin của Phêrô tại Caesarea Philippi, Chúa Giêsu bắt đầu nói rõ cho các môn đệ biết đường của Đấng Mêsia là đường thánh giá.
Cả ba thánh sử Marco, Matthêu và Luca đều kể lại sự kiện quan trọng này; tuy nhiên có những điểm nhấn khác nhau. Nếu trong Tin Mừng Matthêu, lời tuyên xưng của Phêrô đã được tưởng thưởng bằng “chìa khoá Nước Trời” (Mt 16,9), thì Marco chỉ nói đơn giản là Chúa Giêsu cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người (câu 30). Lý do là vì Marco biết rõ khi Phêrô tuyên xưng Thầy là Đấng Kitô (Mêsia) thì ông chỉ hiểu Mêsia theo nghĩa sức mạnh trần thế, đang khi Chúa Giêsu lại hiểu khác: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều…” (câu 31).
Câu chuyện tiếp tục cho thấy Phêrô và các môn đệ chưa sẵn sàng đón nhận mạc khải này. Họ muốn một Đấng Mêsia giải thoát họ khỏi khổ đau chứ không phải Đấng Mêsia phải chịu đau khổ và chịu chết. Cho nên Phêrô mới lên tiếng trách Chúa Giêsu (câu 32), làm Chúa nổi giận đến độ đuổi Phêrô và gọi ông là Satan (câu 33)! Sau đó Marco mô tả là Chúa Giêsu nói với đám đông: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (câu 34). Nghĩa là không phải chỉ các môn đệ ngày xưa nhưng tất cả những ai muốn theo Chúa ở bất cứ thời đại nào cũng phải chấp nhận thực tế đầy khó khăn đó.
Lời mời gọi của Chúa Giêsu đặt ra cho Giáo Hội hôm nay cũng như cho từng người chúng ta những câu hỏi thật quyết liệt: Trong môi trường xã hội ngày nay vốn chịu ảnh hưởng của lối sống hưởng thụ và duy vật chất, làm thế nào để sống lời mời gọi của Chúa cách triệt để nhất? Ta phải làm chứng cho những giá trị Tin Mừng như thế nào trong bối cảnh sống hiện tại?
II. CẦU XIN VINH QUANG, ĐƯỢC BAN THÁNH GIÁ (10,35-45)
Thật khó có thể tin rằng hai anh em Gioan và Giacôbê dám xin được ngồi bên hữu bên tả Chúa Giêsu trong vinh quang, khi mà Chúa đã nói rõ về con đường của Đấng Mêsia là con đường đau khổ. Matthêu làm nhẹ đi bằng cách cho biết bà mẹ của hai anh em đưa ra lời khẩn cầu này (Mt 20,20).
Đáp lại lời khẩn cầu này, Chúa Giêsu đưa ra lời thách đố: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép Rửa Thầy sắp chịu không?” (câu 38). Chén và Phép Rửa có ý ám chỉ cơn hấp hối và cái chết của Chúa. Khi họ trả lời là có thể, Chúa Giêsu xác định: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép Rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được” (câu 39-40). Chúa Giêsu không trả lời “có” hay “không” nhưng Người đưa ra lời thách thức: Có lẽ Chúa Cha sẽ ban vinh dự đó cho các anh nếu các anh sẵn lòng vác thập giá của Thầy, uống chén của Thầy, chịu phép Rửa của Thầy! Bạn nghĩ sao nếu đó là lời Chúa nói với bạn?
Sau đó Marco chuyển sang một chủ đề khác. Có lẽ ta cũng giống như các môn đệ khác, cảm thấy bực bội khi thấy hai anh em Giacôbê và Gioan tính toán ích kỷ. Nhưng từ đó, Chúa Giêsu dạy cho mọi người trong Hội Thánh bài học quan trọng: bất cứ ai muốn theo Chúa đều phải giã từ lối nghĩ và lối sống ăn trên ngồi trước, đè đầu đè cổ người khác. Làm môn đệ Chúa Giêsu là phải sống tinh thần phục vụ, đó chính là đường dẫn đến vinh quang. Đồng thời Chúa Giêsu cũng đưa ra cung cách lãnh đạo hoàn toàn mới mẻ và ngược lại quan niệm quen thuộc của người đời, đó là lãnh đạo trong tinh thần người tôi tớ. Đây là điều mà những ai được trao quyền lãnh đạo trong Giáo Hội phải không ngừng ghi nhớ để đối chiếu và xem xét lại cách hành xử quyền bính của mình.
III. KHÁM PHÁ CON THIÊN CHÚA NƠI ĐẤNG CHỊU ĐÓNG ĐINH (15,33-41)
Chính trong giây phút tưởng như đen tối nhất đời Chúa Giêsu, tức là lúc Người tắt thở trên thánh giá, ánh sáng lại bừng lên (câu 33). Người ta nghe Đấng chịu đóng đinh kêu lên: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” Đây không phải là lời tuyệt vọng như những kẻ bàng quan hiểu (câu 35-36) nhưng là hành vi tự hiến và tín thác đến tận cùng. Ta sẽ hiểu điều đó nếu biết rằng đây là lời mở đầu của Thánh vịnh 22. Thánh vịnh này mở đầu với lời kêu than như thế nhưng rồi diễn tả niềm xác tín rằng Thiên Chúa sẽ lắng nghe và sẽ ban tặng sự sống vì Chúa Giêsu đã chấp nhận đau khổ vì lòng yêu mến và sự vâng phục. Ai có thể tin rằng sự sống lại phát sinh từ cái chết? Nhưng Marco muốn cho mọi người tin chắc như thế, không những với Chúa Giêsu mà còn cho tất cả những ai theo bước chân Chúa.
Và thật bất ngờ, ai có thể tin rằng chính viên đại đội trưởng, một người ngoại giáo và là người chỉ huy việc thi hành án, lại là người đầu tiên tuyên xưng: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (câu 39). Các môn đệ và bao nhiêu người đã chứng kiến những phép lạ Chúa làm mà vẫn “mù loà,” không nhận ra căn tính đích thực của Chúa. Còn viên đại đội trưởng này lại khám phá ra Đấng chịu đóng đinh là Con Thiên Chúa. Quả thật, chân dung của Con Thiên Chúa hằng sống chỉ được bày tỏ cách thuyết phục nhất nơi tình yêu, tình yêu phục vụ, tình yêu đi đến tận cùng cho đến chết trên thập giá. Bạn và tôi có dám tuyên xưng như thế không?
***
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo…” (Mc 16,15)
Thư Thessalonica I và II
***
ngay CHua quang lam imagesI. THESSALONICA I
Ngày nay các học giả Thánh Kinh quan tâm đến thư Thessalonica I nhiều hơn vì hai lý do:
(1) đây là một trong những văn bản Tân Ước sớm nhất ta có được (khoảng năm 51),
(2) trước kia người ta thường đọc Thessalonica I dựa vào sách Công Vụ nhưng bây giờ phải làm ngược lại, nghĩa là nhờ Thessalonica I mà ta hiểu sách Công Vụ tốt hơn, vì sách Công Vụ được viết sau Thessalonica 30-35 năm, và khi đó thánh Phaolô đã qua đời.
Chủ đề lớn của Thessalonica I là Ngày quang lâm của Chúa. Thánh Phaolô khuyên nhủ cộng đoàn giữ vững đức tin khi Ngày của Chúa gần kề, và họ phải sống cuộc sống thường ngày của mình cách bình tĩnh, có trách nhiệm và đầy tình yêu thương.
II. THESSALONICA II
Thư Thessalonica II là thư mục vụ bàn đến một số vấn đề nẩy sinh từ lời loan báo rằng Ngày Chúa đến đã gần kề. Một số người trong cộng đoàn đã phản ứng cách tiêu cực: sợ hãi, bỏ công ăn việc làm, gây phiền hà cho mình cũng như cho cộng đoàn.
Theo các học giả Thánh Kinh, lá thư này không do thánh Phaolô viết nhưng được viết dưới uy thế của thánh Phaolô. Dựa vào thế giá của thánh nhân, tác giả bàn đến cơn khủng hoảng đang xảy ra trong cộng đoàn của mình. Tác giả cũng tỏ ra rất quen với ngôn ngữ, ý tưởng và cách diễn tả của thư Thessalonica I.
III. NGÀY CỦA CHÚA
1. Ngày của Chúa và niềm an ủi cho các tín hữu đã qua đời (đọc 1 Thes 4,13-18)
Thánh Phaolô nói đến điều sẽ xảy ra cho các tín hữu đã qua đời trước Ngày Chúa quang lâm. Ngài khẳng định rằng những người này sẽ không bị gạt ra bên ngoài khi Chúa đến. Vì thế người Kitô hữu cũng buồn phiền khi mất người thân nhưng họ không thất vọng như những người không có đức tin. Nền tảng cho niềm hi vọng Kitô giáo là “chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và đã sống lại.” Như thế những gì đã xảy ra cho Chúa thì cũng xảy đến cho người tin Chúa, nghĩa là họ được Thiên Chúa đưa về cùng với Đức Giêsu. Để diễn tả chân lý này, thánh Phaolô vận dụng ngôn ngữ khải huyền với tiếng loa, tiếng tổng lãnh thiên thần vang lên… Chúa từ trời ngự xuống (x. Mc 13; 1Cor 15,24-28). Điều quan trọng là mọi tín hữu, dù sống hay chết, đều được ở cùng Chúa mãi mãi.
2. Ngày của Chúa và niềm an ủi cho những người còn sống (1 Thes 5,1-11)
Vì Ngày của Chúa là biến cố cứu độ nên các Kitô hữu còn sống không phải sợ hãi và lo lắng về việc Ngày đó sẽ đến lúc nào và cách nào. Dù Chúa đến cách bất ngờ như kẻ trộm trong đêm tối (5,2), người Kitô hữu cũng không sợ hãi vì họ là con cái ánh sáng (5,5). Lý do sâu xa của niềm hi vọng đầy lạc quan này là hành động cứu độ của Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã không định cho chúng ta phải chịu cơn thịnh nộ, nhưng được hưởng ơn cứu độ nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã chết vì ta, để dù thức hay ngủ, chúng ta cũng sống với Người” (5,9). Thức hay ngủ về mặt thể lý không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng là thái độ tỉnh thức bên trong, được thể hiện qua lối sống “tiết độ, mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hi vọng” (5,8).
3. Ngày Chúa quang lâm và những điềm báo trước (2 Thes 2,1-12)
Tác giả trấn an những Kitô hữu bị dao động vì những lời tiên báo Ngày Chúa đến đã gần kề. Vào thời đó, có những lời tiên tri tự xưng là do Thánh Thần hoặc do những nhân vật quan trọng nói, khiến nhiều người bị dao động. Tác giả khuyến khích họ phải cố gắng tìm hiểu đâu là những thông tin chính xác và đáng tin. Lại chẳng phải là lời cảnh giác cho chính các Kitô hữu ngày nay sao, vì đôi khi chính chúng ta cũng bị dao động khi nghe những lời tiên báo về ngày tận thế. Đừng quên rằng đây cũng là một trong những lý do thúc đẩy Hội Thánh phải ấn định Kinh Bộ, tức là những sách được Hội Thánh nhìn nhận là do Chúa Thánh Thần linh hứng.
Cùng với lời trấn an, tác giả nói đến một vài biến cố sẽ xảy ra trước Ngày Chúa đến. Ở đây cần lưu ý là tác giả sử dụng truyền thống khải huyền để mô tả. Trước hết là hiện tượng chối đạo hàng loạt. Điều này khó xảy ra vào thời thánh Phaolô vì còn rất ít Kitô hữu, nhưng có thể phù hợp vào những thời cấm cách bách hại tôn giáo. Rồi sẽ có sự xuất hiện của “tên gian ác”, tên này không phải là Satan nhưng là một con người dưới sự thống trị của Satan, có quyền năng làm đủ thứ điềm thiêng dấu lạ để lường gạt con người. Tác giả nhấn mạnh đến “lòng yêu mến chân lý” như thái độ cần thiết để được cứu độ (câu 10). Đây cũng là lời cảnh giác cụ thể cho người Kitô hữu trong thời đại bùng nổ thông tin ngày nay, để ta không dễ dàng chạy theo những lý thuyết hấp dẫn nhưng sai lạc mà đánh mất chân lý cứu độ.
Thư Ga-lát
***
saint paul preachingI. TỔNG QUÁT
1. Nội dung
Đối tượng của thư Ga-lát là những Kitô hữu gốc ngoại giáo (x. 4,8; 5,2-3; 6,12-13). Thánh Phaolô đã giúp họ tin vào Chúa Kitô nhưng không bao lâu sau khi ngài rời Ga-lát, các Kitô hữu gốc Do thái đến và nói với họ rằng muốn làm người Kitô hữu tốt thì trước hết phải là người Do thái tốt bằng cách chịu phép cắt bì và tuân giữ luật Tora. Lập luận này chạm đến điều cốt lõi trong đức tin Kitô giáo và làm cho các Kitô hữu hoang mang. Nghe tin về nỗi hoang mang này, thánh Phaolô đã viết thư để trấn an và khẳng định chân lý đức tin : “Không có Tin Mừng nào khác đâu nhưng chỉ có một vài kẻ phá rối anh em và muốn làm xáo trộn Tin Mừng của Đức Kitô đó thôi. Nhưng nếu có ai, kể cả chúng tôi hoặc một thiên thần nào từ trời xuống, loan báo cho anh em Tin Mừng khác với Tin Mừng anh em đã lãnh nhận, thì xin Thiên Chúa loại trừ kẻ ấy đi!”
2. Lược đồ tổng quát
1,1-10 Lời chào và dẫn nhập
1,11 – 2,21 Phaolô, Tin Mừng của ngài, và Phêrô
3,1 – 4,31 Giáo thuyết
5,1 – 6,10 Khuyên nhủ
6,11-18 Kết luận
II. THÁNH PHAOLÔ VÀ TIN MỪNG NGÀI RAO GIẢNG
1. Thánh Phaolô đã đón nhận Tin Mừng như thế nào? (1,11-17)
Thánh Phaolô nhắc lại gốc gác Do thái cũng như lối sống của ngài trước khi có kinh nghiệm trên đường đi Damas. Ngài là người nhiệt thành với các truyền thống của cha ông và hăng say bắt bớ, tiêu diệt Hội Thánh của Chúa. Thế nhưng cũng như trong trường hợp của tiên tri Gieremia (1,5) và Isaia (42,1), Thiên Chúa đã chọn Phaolô và trao cho ngài một nhiệm vụ đặc biệt. Chúa đã tỏ cho Phaolô biết Đức Giêsu – Con của Người để Phaolô đi rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Ngay sau đó, Phaolô đã sang Ả Rập để giảng đạo.
Thánh Phaolô khẳng định rằng “Tôi là Phaolô, Tông đồ không phải do loài người, cũng không phải nhờ một người nào, nhưng bởi Đức Giêsu Kitô và Thiên Chúa là Cha, Đấng đã cho Người từ cõi chết trỗi dậy… Không có ai trong loài người đã truyền lại hay dạy cho tôi Tin Mừng ấy nhưng là chính Đức Giêsu Kitô đã mạc khải” (1,1.12). Đối chiếu với những đoạn thư khác, vd. 1Cor 15,3, nên hiểu rằng Phaolô không có ý phủ nhận vai trò của truyền thống và huấn quyền trong Giáo Hội, nhưng muốn nhấn mạnh đến mạc khải mà Thiên Chúa ban cho ngài và giúp các tín hữu xác tín vào lời ngài rao giảng.
2. Ba lần gặp gỡ thánh Phêrô
Lần gặp gỡ thứ nhất (1,18-24): Khoảng ba năm sau khi trở lại với Chúa, Phaolô đã lên Giêrusalem để gặp Kêpha (Phêrô). Nhiệm vụ lớn nhất của Phaolô trong chuyến đi này là thuyết phục thánh Phêrô rằng ngài đã thực sự trở lại với Chúa Kitô và đang hăng say loan báo Tin Mừng của Chúa.
Lần gặp gỡ thứ hai (2,1-10): 14 năm sau cuộc viếng thăm lần thứ nhất, Phaolô lại lên Giêrusalem cùng với Barnaba và Titô. Kết quả của cuộc gặp gỡ này là các vị lãnh đạo đã bắt tay Phaolô và Barnaba để tỏ dấu hiệp thông; đồng thời có sự phân chia công việc: Phaolô lo cho dân ngoại, còn Phêrô và các vị lãnh đạo tại Giêrusalem lo cho những người được cắt bì.
Lần gặp gỡ thứ ba (2,11-21): Sau lần gặp gở thứ hai (sau năm 50) và trước khi viết thư Ga-lát (khoảng năm 55), thánh Phaolô còn gặp thánh Phêrô vào một dịp khác. Phêrô đến Antiochia và dùng bữa với những Kitô hữu gốc dân ngoại, nhưng khi có những Kitô hữu Do thái từ Giêrusalem đến thì ngài lại tránh né. Thái độ này đã có ảnh hưởng xấu đến nhiều người khác. Vì thế Phaolô đã lên tiếng phê phán. Các câu 2,15-21 trình bày nội dung chính yếu mà thư Ga-lát muốn nhấn mạnh: chúng ta được nên công chính nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô chứ không phải nhờ tuân giữ Lề luật.
III. TỰ DO ĐÍCH THỰC
Đức Giêsu Kitô làm cho ta trở thành những con người tự do (2,4), nhưng tự do không có nghĩa là buông thả nhưng là “lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau” (5,13). Lập luận của Phaolô là: trước khi Chúa Kitô đến, tất cả chúng ta đều là nô lệ cho thế gian và những đòi hỏi của Lề luật (4,21-31). Nhưng khi Đức Giêsu chấp nhận cái chết mà chính Lề luật lên án và sau đó ngài được Thiên Chúa cho sống lại, thì hiển nhiên Đức Giêsu là người làm đẹp lòng Thiên Chúa nhất. Nói cách khác, khi cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, Thiên Chúa đã hủy bỏ Lề luật và ban cho ta sự tự do mới. Trong Đức Kitô, điều quan trọng không phải là cắt bì hay không cắt bì nhưng là “đức tin hành động nhờ đức ái” (5,6) và “lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau” (5,13).
Trong thực tế, làm thế nào để phục vụ? Thánh Phaolô dùng hình ảnh “xác thịt” và Thần Khí” để giải thích: “Hãy sống theo Thần Khí và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn những đam mê của tính xác thịt nữa” (5,16). Để cụ thể hoá, Phaolô liệt kê những hành động phải tránh (5,19-21) và những hành động phải làm (5,22-23). Đây là những chỉ dẫn cụ thể không chỉ cho các tín hữu Ga-lát nhưng còn cho các Kitô hữu ở mọi thời đại.
Thư thứ nhất Côrintô
(chương 1 – 7)
***
images_2I. ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG CỘNG ĐOÀN GIÁO HỘI (1,10 – 6,20)
1. Những chia rẽ trong cộng đoàn (1,10 – 4,21)
Đời sống Kitô hữu được đặt nền trên sứ điệp của thập giá. Sứ điệp này hàm chứa trong Tin Mừng mà thánh Phaolô rao giảng, và Tin Mừng đó nối kết mọi người thay vì gây chia rẽ. Chính vì thế, sự kiện có những chia rẽ trong cộng đoàn Côrintô là điều không thể chấp nhận. Trong phần này, thánh Phaolô than phiền về những chia rẽ trong cộng đoàn (1,10-17), trình bày nghịch lý của thập giá như là sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1,18 – 2,5), và giúp cộng đoàn Côrintô nhận diện sự khôn ngoan của thập giá khác với sự khôn ngoan thế gian.
Trước hết, thánh Phaolô than phiền về tình trạng chia rẽ trong cộng đoàn (1,10-17). Một số người cho mình là môn đệ của Phaolô, một số người khác lại tự hào mình là môn đệ của Apollo hay Kêpha…. Thế nhưng mọi người đều đã chịu Phép Rửa nghĩa là đã trở nên những chi thể trong cùng một thân mình Chúa Kitô (12,12-30). Chúa Kitô không chỉ là một mẫu mực cho ta noi theo trong đời sống luân lý nhưng Người là Đấng làm cho ta nên một lòng, một trí (x. Phil 2,1-2). Như thế, việc chia rẽ là điều không thể chấp nhận.
Thánh Phaolô nhấn mạnh: “Chúa Kitô đã không sai tôi đi làm Phép Rửa nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng” (1,17) và Tin Mừng đó là thập giá Chúa Kitô. Thập giá phân chia nhân loại thành hai khối: những người khước từ thập giá và như thế đi trên đường dẫn đến hư vong, còn những ai đón nhận sứ điệp thập giá sẽ cảm nghiệm quyền năng cứu độ của Thiên Chúa. Như thế thập giá chính là sự xét xử của Thiên Chúa. Người Do thái mong đợi những dấu lạ và người Hi Lạp kiếm tìm sự khôn ngoan thế gian; vì thế họ coi thập giá là điên rồ và ngu xuẩn. Thế nhưng trong ánh sáng Tin Mừng, sự khôn ngoan thế gian trở thành điên rồ “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất” (Mc 8,35). Ngược lại, chính thập giá mà thế gian cho là điên rồ và yếu đuối lại là nguồn ơn cứu độ, vì sự điên rồ và nỗi yếu đuối của Thiên Chúa hơn hẳn mọi khôn ngoan và sức mạnh thế gian. Bản thân thánh Phaolô kinh nghiệm điều này khi ngài xin Chúa cất cái dằm khỏi thân xác ngài, và Chúa trả lời, “Ơn Cha đủ cho con” (2 Cr 12,9). Người Kitô hữu phải xác tín vào chân lý này: “Đối với loài người thì không thể, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể” (Mt 19,26).
Để cụ thể hoá, thánh Phaolô mời gọi các tín hữu Côrintô nhìn lại chính hoàn cảnh của họ (1,26-31). Thế gian ca tụng những người giàu sang, quyền thế, quý phái. Nhưng các tín hữu Côrintô đâu thuộc hạng người này. Cho nên khi Thiên Chúa chọn họ, Ngài không chọn vì họ là những người quyền quý cao sang; đúng hơn, Chúa chọn họ để hạ nhục những kẻ hùng mạnh và quyền thế, để không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Chúa.
2. Những tội lỗi khác trong cộng đoàn (5,1 – 6,20)
Trường hợp loạn luân (5,1-13): Điều đáng quan tâm ở đây là tính kiêu ngạo đã làm mờ mắt một số người. Họ nghĩ rằng mình có sự hiểu biết vượt trên những lề luật luân lý và những cấm đoán liên quan đến đời sống gia đình. Vì thế họ phạm tội loạn luân mà lại còn tự hào tự đắc (5,2). Thánh Phaolô phản ứng rất mạnh trước trường hợp này: phải loại trừ kẻ làm điều ấy ra khỏi cộng đoàn… phải nộp con người đó cho Satan (5,2.5). Đồng thời ngài dùng hình ảnh men và bánh để nói về đời sống Kitô hữu. Cũng như người Do thái loại mọi thứ men ra khỏi nhà để cử hành lễ Vượt Qua, thì các Kitô hữu cũng phải loại trừ khỏi cộng đoàn mọi thứ gian tà và độc ác, để sống trong tinh tuyền và chân thật (5,8).
Kiện nhau ở toà đời (6,1-11): Thật đáng xấu hổ khi các Kitô hữu kiện cáo nhau ở toà đời. Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng khi có những tranh chấp xảy ra, cần phải giải quyết ngay trong cộng đoàn (6,1-6). Nền tảng của đời sống Kitô hữu là bí tích Thánh tẩy. Ân sủng Thiên Chúa ban trong bí tích Thánh tẩy giúp cho các Kitô hữu đối xử với nhau cách thân ái như chính Chúa đối xử với họ (x. Mt 5,45). Vì thế, người Kitô hữu thà bị lừa gạt hơn là trả thù người khác (x. Mt 5,21-26, 38-42; Rm 12,14, 19-21).
Tội tà dâm (6,12-20): Trước hết, thánh Phaolô cảnh giác các tín hữu về việc lạm dụng tự do. Giáo huấn của thánh Phaolô về tự do xem ra đã bị hiểu sai, và người ta nhân danh tự do để biện minh cho những hành động tội lỗi, cụ thể là tội tà dâm. Để thuyết phục tín hữu về việc tránh xa tội tà dâm, thánh Phaolô nhấn mạnh ba nền tảng: (1) thân xác chúng ta sẽ được phục sinh, (2) qua bí tích Thánh tẩy, chúng ta trở nên phần thân thể của Đức Kitô, (3) thân xác con người là đền thờ Chúa Thánh Thần.
II. TRẢ LỜI CHO NHỮNG VẤN NẠN CỦA CÁC TÍN HỮU CÔRINTÔ (7,1 – 11,1)
1. Những lời khuyên về đời sống hôn nhân và độc thân (7,1-16)
Kitô hữu phải đón nhận luật yêu thương của Chúa Giêsu như luật tối thượng. Mọi chọn lựa và quyết định của Kitô hữu phải được đặt nền trên tình yêu và trách nhiệm. Trong ý hướng đó, ta mới hiểu đúng những lời khuyên của thánh Phaolô về đời sống vợ chồng. Vợ chồng có bổn phận đối với nhau, thuộc về nhau (câu 3-5). Bổn phận ở đây không chỉ mang tính lề luật và tiêu cực nhưng là cách thể hiện tình yêu và giúp nhau sống trung tín với giao ước hôn nhân.
1 Cr 7,15 được coi như nền tảng cho điều mà ta gọi là đặc ân thánh Phaolô (cho phép ly dị trong một vài trường hợp có khác biệt và bất đồng tôn giáo). Tuy nhiên, cần hiểu cho đúng ý hướng của thánh Phaolô. Vào thời đó, thói quen trong xã hội đòi hỏi những người vợ và nô lệ phải theo tôn giáo của chồng và của chủ. Điều này khiến cho những người vợ Kitô hữu có chồng là ngoại giáo lâm vào hoàn cảnh khó khăn. Thánh Phaolô đưa ra hướng giải quyết là: bao lâu người chồng ngoại giáo chấp nhận cho người vợ Kitô hữu giữ đạo thì đời sống hôn nhân cứ tiếp tục. Nhưng nếu người chồng ngoại giáo không muốn sống với người vợ là Kitô hữu thì đôi bạn có thể tách ly, vì đối với Kitô hữu, cam kết trong bí tích Thánh tẩy là cam kết quan trọng nhất và không thể để cho lời cam kết này bị đe doạ.
Về đời sống độc thân, xem ra thánh Phaolô đánh giá cao hơn (câu 25,26). Lý do là ngài xác tín rằng các Kitô hữu đã bắt đầu ngay từ bây giờ cuộc sống trên thiên quốc, mà trên thiên quốc sẽ không còn đời sống hôn nhân, nên hôn nhân không hẳn là cần thiết cho các Kitô hữu. Tuy nhiên có một số tín hữu đã đi đến chỗ quá khích đến nỗi xem hôn nhân là tội lỗi (x. 1 Tim 4,1-5). Thánh Phaolô khẳng định ngược lại rằng hôn nhân không phải là tội lỗi, và đó là bậc sống của phần lớn nhân loại. Vì thế thà kết hôn còn hơn là lờ đi những nhu cầu tự nhiên của thân xác và có nguy cơ “bị thiêu đốt” (câu 9). Dù sống đời hôn nhân hay độc thân, đều phải trung thành và tỉnh thức. Ở đây cần phải nhớ lại giáo huấn của Chúa Giêsu về độc thân như một ơn ban chứ không chỉ là nỗ lực của con người (x. Mt 19,11-12).
2.Vấn đề thịt cúng và đức ái mục tử (8,1-11,1)
Trong các vấn đề tạo nên sự chia rẽ giữa các tín hữu Côrintô, có vấn đề ăn của cúng, tức là ăn những thức ăn được dâng cho các thần ngoại giáo. Những người tự cho mình là hiểu biết lý luận rằng: vì chỉ có một Thiên Chúa và không có thần nào khác, cho nên ăn của cúng chẳng có tai hại gì. Thế nhưng họ đã vô tình hay cố ý gây tổn thương cho những người không hiểu biết được như thế.
Chính ở đây, thánh Phaolô đưa ra những lời khuyên rất tinh tế. Theo ngài, tuyên xưng rằng chỉ có một Thiên Chúa là Cha và Đức Giêsu là Chúa vẫn chưa đủ; còn cần phải nhạy bén trước những nhu cầu của người khác. Thánh Phaolô nhắc nhớ cộng đoàn Côrintô rằng có nhiều người trong cộng đoàn mới trở lại, và trước đây họ vẫn dâng của cúng cho các thần ngoại giáo. Sự hiểu biết của họ còn giới hạn, tinh thần đức tin còn yếu, do đó phải tránh những gì gây xúc phạm cho họ. Đây là điều ta cần quan tâm không chỉ trong vấn đề ăn của cúng mà còn trong mọi lãnh vực khác của đời sống.
Từ đó thánh Phaolô đưa ra những nguyên tắc cho đời sống Kitô hữu (9,1-10,22). Những nguyên tắc này được rút ra từ chính ơn gọi tông đồ của thánh nhân và từ mẫu gương của Israel được ghi lại trong Thánh Kinh. Trong 9,1-27, thánh Phaolô đưa ra những suy tư về đời sống tông đồ, lấy chính cách sống của ngài làm gương cho những người tự hào mình hiểu biết mà gây xúc phạm cho người khác: “Tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người” (câu 19). Đồng thời, thánh nhân nhắc lại kinh nghiệm của dân Israel trong Thánh Kinh để cảnh giác các Kitô hữu.
Thư thứ nhất Côrintô
(chương 8 – 12)
***
images (1)_3I. CỬ HÀNH BỮA TỐI CỦA CHÚA (11,17-34)
Sự kiện: những lạm dụng trong cộng đoàn khi cử hành Thánh Thể (11,17-22). Các tín hữu Côrintô không tụ họp để cử hành bữa tối của Chúa cho đúng nghĩa. Cụ thể là có sự chia rẽ trong cộng đoàn (câu 18). Đồng thời, đức ái bị vi phạm trầm trọng khi mỗi người chỉ lo ăn bữa riêng của mình, hậu quả là người thì đói, kẻ lại say sưa (câu 21).
Nền tảng giáo thuyết: bài tường thuật việc Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể (11,23-27). Trước khi tường thuật việc Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể, thánh Phaolô nhấn mạnh đây là điều ngài đã nhận lãnh và bây giờ ngài truyền lại (câu 23). Khẳng định này nói lên tầm quan trọng của truyền thống trong Giáo Hội. Tiếp đó, khi vào bài tường thuật, cũng như Tin Mừng nhất lãm, thánh Phaolô nhấn mạnh đến sự phản bội của các môn đệ. Sự phản bội này cùng với những yếu đuối của con người đã dẫn đến việc Chúa Giêsu bị nộp (câu 23). Phải chăng những lạm dụng của cộng đoàn Côrintô cũng là một thứ phản bội mệnh lệnh của Chúa?
Trong phần chính của bài tường thuật, thánh Phaolô nhấn mạnh cụm từ “vì anh em” (câu 24), và như thế, làm nổi bật ý nghĩa đích thực của cử hành Thánh Thể. Bất cứ khi nào các tín hữu họp nhau để cử hành bữa tối của Chúa, là họ thi hành mệnh lệnh của Chúa “hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (câu 24 & 25). Và khi làm như thế, họ vừa nhớ lại cái chết của Người, đồng thời trông mong Người ngự đến trong vinh quang. Ba chiều kích thời gian hoà chung với nhau: quá khứ (bữa Tiệc Ly và sự chết của Chúa), hiện tại (cộng đoàn cử hành) và tương lai (Ngày Chúa quang lâm). Chính vì thế, các tín hữu phải lo chuẩn bị để cử hành Thánh Thể cách xứng đáng.
II. CÁC ĐẶC SỦNG VÀ ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN (12,1 – 14,40)
Thánh Phaolô nhấn mạnh, tuy có nhiều ân huệ thiêng liêng nhưng chỉ có một nguồn gốc là Thánh Thần và một mục đích là phục vụ ích chung: “Có nhiều hoạt động khác nhau nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thánh Thần tỏ mình ra nơi mỗi người một cách là vì ích chung” (câu 6 & 7). Đây là tiền đề dẫn thánh Phaolô đến chỗ so sánh cộng đoàn như một thân thể (12,12-31).
Hình ảnh thân thể vừa diễn tả tính duy nhất vừa trình bày tính đa dạng của cộng đoàn. Thân thể cần đến sự đa dạng của các chi thể, đồng thời mỗi chi thể lại tuỳ thuộc vào sự phối hợp của các chi thể khác, có thế toàn bộ thân mình mới hoạt động được. Hình ảnh này được thánh Phaolô vận dụng để trình bày về Hội Thánh:“Anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận” (câu 27). Ân huệ Thiên Chúa ban xuống trên Giáo Hội rất đa dạng, từ ơn làm tông đồ cho đến ơn nói tiếng lạ, nhưng tất cả các ân huệ đều phải phối hợp với nhau nhằm phục vụ ích chung. Lưu ý một điều là trong khi các tín hữu Côrintô đề cao ơn nói tiếng lạ và coi đó như ân huệ quan trọng nhất, thì thánh Phaolô lại xếp ơn này vào hàng cuối cùng!
Từ đó, thánh Phaolô viết đoạn văn nổi tiếng: Bài ca đức ái (13,1-13). Cần nhớ rằng thánh Phaolô mô tả đức ái như ân huệ của cộng đoàn, và là con đường nền tảng, tuyệt hảo. Ngài đã viết trong thư Rôma, “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Ngài ban cho chúng ta” (5,5). Đó là ân huệ căn bản và lớn lao nhất. Không có tình yêu, mọi ân huệ khác đều vô nghĩa. Để cụ thể hoá, thánh Phaolô nói đến ba ân huệ: nói được các thứ tiếng, nói tiên tri, làm việc bác ái, nhưng nếu không có đức ái thì tất cả đều vô ích (câu 1-3):
“Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, nhưng nếu không có đức ái, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri và biết được hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được đức tin mạnh mẽ đến chuyển núi dời non, nhưng nếu không có đức ái, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, nhưng nếu không có đức ái, thì cũng chẳng ích gì cho tôi”.
Sau đó ngài mô tả những đặc tính của tình yêu đích thực (câu 4-7):
“Đức ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hi vọng tất cả, chịu đựng tất cả”.
và sự bền vững của đức ái (câu 8-12):
“Đức ái không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn. Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói tiên tri cũng có hạn. Khi cái hoàn hảo tới thì cái có ngần có hạn sẽ biến đi… Hiện nay, đức tin, đức cậy, đức ái, cả ba đều tồn tại nhưng cao trọng hơn cả là đức ái”.
Đức ái là ân huệ thiết yếu làm cho cộng đoàn xứng với danh nghĩa là Kitô hữu. Đức ái là chuẩn mực để đánh giá những ân huệ khác, vì mọi ân huệ được ban cho là nhằm xây dựng cộng đoàn (14,1-5). Từ đó thánh Phaolô áp dụng vào đời sống cụ thể của cộng đoàn (14,6-19) và đưa ra những quy luật thực tiễn (câu 26-39).
Thư thứ nhất Côrintô
(chương 13 – 16)
***
tải xuống_9SỰ PHỤC SINH (15,1-58)
1. Sự phục sinh của Chúa Kitô (15,1-11)
Một lần nữa, thánh Phaolô nhấn mạnh truyền thống đức tin Kitô giáo, “Tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận” (câu 3). Truyền thống đó được Phaolô trình bày trong 15,3b-5, với bốn yếu tố chính : Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, Người đã được mai táng (nhấn mạnh Chúa Giêsu đã chết thực sự), Người đã sống lại, Người đã hiện ra (chứ không phải là ảo giác của con người, vì thế Phaolô liệt kê một số lần hiện ra của Đấng Phục Sinh).
2. Sự phục sinh kẻ chết (15,12-34)
Trong 15,12-19 thánh Phaolô phê phán những người phủ nhận sự phục sinh kẻ chết, và như thế cũng chối bỏ sự phục sinh của Chúa Kitô. Ngài nhấn mạnh rằng sự phục sinh của các tín hữu đặt nền tảng trên sự phục sinh của Chúa Kitô, và nếu Chúa Kitô không sống lại thì quả thật, các tín hữu là những người đáng thương nhất (câu 14-19).
Tiếp theo, trong 15,20-28 thánh Phaolô trình bày xác tín của ngài. Chúa Kitô đã sống lại rồi, và sự sống lại của Người mở đường cho tất cả những ai đã qua đời. Nếu tội lỗi của Adam đã đem sự chết vào thế giới, thì sự phục sinh của Chúa Kitô đem sự sống đến cho nhân loại.
Để tiếp tục phản bác những người phủ nhận sự sống lại, thánh Phaolô dựa vào một tập quán của dân Côrintô lúc đó mà lý luận (15,29-34). Lúc đó người ta có tập quán chịu phép Rửa thay cho kẻ chết. Thánh Phaolô dựa vào tập quán này để chứng minh rằng họ đã tin có sự sống lại nên mới làm như thế. Như vậy, Phaolô chỉ dựa vào tập quán có sẵn mà biện luận chứ không phải ngài truyền dạy chúng ta phải rao giảng Tin Mừng và làm phép Rửa cho các âm hồn như một vài người lầm tưởng.
3. Cách thức sống lại (15,35-58)
Những người theo phái hoài nghi tiếp tục đưa ra vấn nạn: nếu có phục sinh thì những người đã chết lấy thân xác nào mà sống lại? Để trả lời vấn nạn này, thánh Phaolô mượn hình ảnh đơn sơ trong đời sống nông nghiệp để nhấn mạnh rằng “Ngươi gieo cái gì, cái ấy phải chết mới được sống” (15,36); từ đó, ngài đưa ra những suy tư sâu sắc về sự phục sinh. Thân xác được chôn táng là thân xác bị hư hoại, còn thân xác phục sinh là thân xác bất hoại, thân xác thiêng liêng, thân thể có thần khí.
Thực ra, mầu nhiệm phục sinh được xây nền trên đức tin hơn là những dữ kiện thường nghiệm. Vì thế thánh Phaolô nói, “Tôi nói cho anh em biết mầu nhiệm này: không phải tất cả chúng ta sẽ chết, nhưng tất cả chúng ta sẽ được biến đổi… Vì tiếng kèn sẽ vang lên, và những kẻ chết sẽ trỗi dậy mà không còn hư nát; còn chúng ta, chúng ta sẽ được biến đổi” (15,50.52).
Thư thứ hai Côrintô
(chương 1 – 7)
***
saint paul CorinthI. CHÚC TỤNG CHÚA NGAY TRONG ĐAU KHỔ (1,3-11)
Theo thói quen ngày xưa, người viết thư thường bắt đầu bằng việc dâng lời tạ ơn vì Chúa đã ban sức khoẻ cho mình. Thế nhưng thánh Phaolô lại nhắc đến những đau khổ phải chịu, “chúng tôi đã phải chịu đựng quá mức, quá sức chúng tôi, đến nỗi chúng tôi không còn hi vọng sống nổi” (câu 8-9). Tuy nhiên chính những đau khổ này lại thúc đẩy thánh nhân lên tiếng chúc tụng Chúa là Đấng “hằng sẵn sàng nâng đỡ, ủi an” (câu 3). Tâm tình này của thánh Phaolô soi chiếu một luồng sáng mới cho đời sống đức tin của ta.
Người môn đệ Chúa Giêsu xác tín rằng những đau khổ phải chịu chính là cơ hội thông hiệp vào cuộc khổ nạn của Thầy chí thánh, và nhờ thông hiệp với Người trong đau khổ, ta cũng được thông hiệp với Người trong vinh quang : “Cũng như chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau của Đức Kitô, thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi” (câu 5). Đồng thời, khi được thông hiệp vào cuộc khổ nạn của Chúa, những đau khổ ta phải chịu sẽ mang giá trị cứu độ : “Chúng tôi có phải chịu gian nan thì đó là để anh em được an ủi và được cứu độ.” (câu 6).
Niềm xác tín vào sự an ủi đỡ nâng của Chúa sẽ giúp ta vững bước trên đường phục vụ. Đồng thời xác tín đó cũng thúc đẩy ta trở thành người mang sự nâng đỡ và an ủi đến cho anh chị em mình : “Thiên Chúa luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó” (câu 4); “Chúng tôi có được an ủi thì cũng là để anh em được an ủi, khiến anh em có sức kiên trì chịu đựng cùng những nỗi thống khổ mà chính chúng tôi phải chịu” (câu 6).
II. BÍ QUYẾT CỦA NGƯỜI TÔNG ĐỒ (4,7 – 5,10)
1. Mang trong mình cuộc thương khó của Chúa Kitô
Nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa chứ không phải từ chúng tôi” (câu 7). Sau khi chứng minh sự ưu việt của Giao ước mới so với Giao ước cũ (3,1-18) và tự hào rằng mình là người phục vụ Giao ước mới, thánh Phaolô đã khẳng định như thế. Khẳng định này toát lên tâm tình khiêm tốn, cậy trông.
Tất cả được khơi nguồn từ mầu nhiệm Chúa Kitô chịu đóng đinh thập giá. Chúa Giêsu là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, và Người đã mạc khải quyền năng cùng sự khôn ngoan của Thiên Chúa không phải bằng thứ quyền lực thế gian mong đợi, nhưng là qua thập giá. Thập giá bị người Do thái và dân ngoại coi là điên rồ và ngu xuẩn, nhưng lại là sức mạnh cứu độ cho những kẻ tin (1Co 1,18).
Khởi đi từ mầu nhiệm này, thánh Phaolô chia sẻ xác tín của ngài về đời tông đồ. Có thể đã có những lời phê bình chỉ trích nhắm vào ngài (vd. 2Co 10,10 : Trong thư thì nghiêm khắc và hùng hổ, nhưng khi có mặt thì nhu nhược, nói chẳng ra hồn). Thánh Phaolô không bực bội vì những lời chỉ trích đó, trái lại ngài vận dụng lời chỉ trích đó để chứng minh quyền năng Thiên Chúa hoạt động nơi những yếu đuối của con người tự nhiên. Đồng thời ngài kể ra những đau khổ phải chịu trong đời tông đồ (câu 8-9), không phải để than trách nhưng để làm nổi bật bí quyết của người tông đồ : “Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Chúa Giêsu, để sự sống của Chúa Giêsu được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (câu 10), và “Dù con người bên ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới” (câu 16).
2. Mang trong mình niềm hi vọng bất diệt
“Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời” (4,17). Sở dĩ thánh Phaolô nói được như thế là vì ngài xác tín vào sự sống vĩnh cửu : “Quả thật, chúng ta biết rằng : nếu ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này, bị phá huỷ, thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu trên trời, không do tay người thế làm ra (5,1). Xác tín đó mạnh mẽ đến nỗi Phaolô kêu lên rằng, “Ở lại trong thân xác này là lưu lạc xa Chúa… Điều chúng tôi thích hơn là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa” (5,6-8).
Niềm hi vọng vào đời sống vĩnh cửu ban tặng cho người môn đệ Chúa một tầm nhìn mới và một lối sống mới. Đó là không bám víu vào những thực tại sẽ qua đi nhưng biết gắn bó với những thực tại vĩnh hằng : “Vì thế, chúng ta mới không chú tâm đến những sự vật hữu hình nhưng đến những thực tại vô hình. Quả vậy, những sự vật hữu hình thì chỉ tạm thời, còn những thực tại vô hình mới tồn tại vĩnh viễn” (4,18). Đồng thời, niềm hi vọng đó thúc đẩy ta sống cuộc sống hiện tại với tinh thần trách nhiệm, vì “tất cả chúng ta đều phải được đưa ra ánh sáng, trước toà Đức Kitô, để mỗi người lãnh nhận những gì tương xứng với các việc tốt hay xấu đã làm, khi còn ở trong thân xác” (5,10). Làm sao để trong mọi hoàn cảnh và mọi công việc, mục đích chính của ta phải là làm đẹp lòng Chúa : “Dù còn ở trong thân xác hoặc đã lìa bỏ thân xác, chúng tôi chỉ có một tham vọng là làm đẹp lòng Người” (5,9). Đó là cách sống tốt đẹp nhất và sẽ dẫn ta đến kết thúc tốt đẹp nhất.
Thư thứ hai Côrintô
(chương 8 -13)
***
1 bac ai kito giaoI. LẠC QUYÊN CỨU TRỢ THEO TINH THẦN KITÔ GIÁO (8-9)
Cứu trợ, giúp đỡ những người đang lâm cảnh hoạn nạn là việc tốt lành được khuyến khích ngay trên bình diện tự nhiên như người Việt Nam thường nói, “Lá lành đùm lá rách.” Đương nhiên người Kitô hữu được khuyến khích thực hiện công việc tốt lành này, và trong thực tế, đây là một trong những nét nổi bật của Giáo hội suốt dòng lịch sử. Vậy đâu là động lực, thái độ cần có khi làm việc bác ái này?
1. Động lực
Động lực sâu xa nhất là niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng “vốn giàu sang phú quý nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2Co 8,9). Đó là lô-gích của tình yêu đích thực, tình yêu cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, tình yêu hiến dâng mạng sống trên thập giá. Niềm tin vào Chúa Kitô thúc đẩy các Kitô hữu sống tình yêu đó ngay trong cộng đoàn, và tình yêu đó làm nên sự hiệp thông, chia sẻ, bình đẳng trong cộng đoàn tín hữu: “Trong hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu, để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em lúc anh em lâm cảnh túng thiếu” (8,14).
2. Thái độ
Nếu niềm tin vào Chúa Kitô là động lực thúc đẩy thì niềm tin đó cũng định hướng cho cung cách thi hành việc bác ái: hăng hái, vui vẻ, quảng đại. Thánh Phaolô nhấn mạnh: “Khi người ta hăng hái dâng cái mình có thì Thiên Chúa chấp nhận, còn nếu không có thì thôi” (8,12); “Mỗi người hãy cho tuỳ theo quyết định của lòng mình, không buồn phiền, cũng không miễn cưỡng, vì ai vui vẻ dâng hiến thì được Thiên Chúa yêu thương” (9,7).
3. Hiệu quả
Những việc bác ái được thực hiện trong tinh thần trên sẽ đem lại những hiệu quả phong phú, không những đáp ứng nhu cầu của những người đang lâm cảnh túng thiếu, mà còn là cách thế tôn vinh Chúa: “Việc phục vụ cho công ích này không những đáp ứng nhu cầu của các người trong dân thánh, mà hơn thế nữa, còn là nguồn phát sinh bao lời cảm tạ dâng lên Thiên Chúa. Việc phục vụ này là một bằng cớ cho họ tôn vinh Thiên Chúa, vì thấy anh em vâng phục và tuyên xưng Tin Mừng của Đức Kitô, và vì thấy anh em có lòng quảng đại, sẵn sàng chia sẻ với họ và với mọi người” (9,12-13).
Giáo huấn của thánh Phaolô về việc bác ái soi sáng cho ta điều gì khi thực hiện các việc bác ái? Còn cần phải chấn chỉnh và sửa đổi những gì?
II. TỰ HÀO VÀ KHIÊM TỐN CỦA NGƯỜI TÔNG ĐỒ (12,1-10)
Để trả lời cho những người cáo buộc và lên án ngài, thánh Phaolô nhắc lại mạc khải và thị kiến ngài đã có khoảng năm 42-45. Ngài nói về mình nhưng dùng ngôi thứ ba, “Tôi biết có một người môn đệ Đức Kitô…” (12,2) như để nhấn mạnh rằng bản thân ngài hoàn toàn không xứng đáng với ân huệ đó. Sau đó thánh nhân kể lại kinh nghiệm thần bí ngài đã trải qua: ngài đã được Thiên Chúa chiếm lấy đến độ ngài không còn ý thức về chính mình và về thân xác của mình: “có ở trong thân xác không, tôi không biết; có ở ngoài thân xác không, tôi cũng không biết” (12,2). Và thánh Phaolô nhấn mạnh, “Về một người như thế, tôi sẽ tự hào; còn về bản thân tôi, tôi chỉ tự hào về những yếu đuối của tôi” (12,5).
Cũng vì thế, cùng với việc nhắc lại thị kiến cao cả đã lãnh nhận, thánh Phaolô cũng nhắc đến cái dằm trong thân xác (2Co 12,7; x. Phil 1,29). Ta không biết chắc chắn cái dằm này là gì, nhưng điều chắc chắn là ý thức về cái dằm đó làm cho Phaolô khiêm tốn. Cái dằm đó như khí giới của Satan và sự hiện diện của nó giúp Phaolô ý thức sự yếu đuối của mình. Đã ba lần ngài khẩn khoản nài xin Chúa cất cái dằm đó đi (như Chúa Giêsu cầu nguyện ba lần trong vườn Cây Dầu, x. Mt 26,39.42.44), nhưng Chúa trả lời, “Ơn của Thầy đã đủ cho anh vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (12,9).
Từ kinh nghiệm thiêng liêng đó, Phaolô reo lên, “Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (12,10). Kinh nghiệm này của thánh Phaolô nói với ta điều gì?
***
Ghi chú
“Tôi đã không trở nên gánh nặng cho anh em; nhưng vốn là người xảo quyệt, tôi đã dùng mưu mà lừa gạt anh em” (2Co 12,16) (CGKPV)
Thư Rôma
(chương 1 – 6)
***
ConNguoiCoKhaNangNhanBietTCI. TỔNG QUÁT
Vào đầu hành trình truyền giáo lần thứ ba, thánh Phaolô đã viết Thư gửi tín hữu Galata. Bây giờ, vào cuối giai đoạn này, trong thời gian ba tháng lưu lại tỉnh Achaia, ngài viết Thư gửi tín hữu Roma, khoảng từ cuối năm 56 đến đầu năm 58.
Dĩ nhiên thánh Phaolô không phải là người thiết lập Giáo hội tại Roma. Có lẽ Giáo hội này đã được cộng đoàn Kitô hữu gốc Do thái thiết lập từ trước, khi họ đến Roma. Nhưng vào năm 49, hoàng đế Claudius đã ra lệnh trục xuất người Do thái ra khỏi Roma. Sau khi Claudius băng hà vào năm 54, các Kitô hữu Do thái trở lại Roma, và họ ngạc nhiên khi thấy có nhiều Kitô hữu gốc ngoại giáo. Những cuộc trở lại gia tăng rất nhanh. Vì thế, cộng đoàn mà thánh Phaolô viết thư này là cộng đoàn có số đông các Kitô hữu gốc ngoại giáo.
Trong hoạt động truyền giáo của mình, thánh Phaolô đã khuyến khích các Kitô hữu gốc ngoại giáo lạc quyên giúp đỡ người nghèo ở Giêrusalem, và ngài đích thân đem đến cho họ (Rm 15,25-27) nhân dịp đến Giêrusalem, đồng thời có dự định thăm Roma trên đường đi Tây ban nha (15,28). Ngài cũng dự trù những chống đối có thể xẩy ra nên ngài gửi thư trước khi đi. Như thế, lá thư này có thể là cơ hội thánh Phaolô giới thiệu bản thân ngài với một cộng đoàn hầu hết chưa biết ngài. Đồng thời, ngài tóm tắt trong thư những gì dự định sẽ trình bày ở Giêrusalem. Ngoài ra, ngài rất quan tâm đến thiểu số Kitô hữu Do thái ở Roma, được thể hiện qua các chương 9-11 và 14-15.
Có thể trình bày lược đồ tổng quát của Thư Roma như sau :
1,1-17 Lời chào và phần mở đầu
I. Tóm tắt Tin Mừng mà Phaolô rao giảng (1,18 – 11,36)
1,18 – 3,20 Thân phận con người không có Chúa Kitô
3,21 – 4,25 Cứu độ nhờ đức tin vào Chúa Kitô
5,1 – 8,39 Đời sống Kitô hữu
9,1 – 11,36 Hi vọng của Israel
II. Khuyên nhủ và khích lệ (12,1 – 15,13)
Kết (15,14 – 16,27)
II. CON NGƯỜI CÓ KHẢ NĂNG NHẬN BIẾT THIÊN CHÚA
“Quả vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người” (R, 1,20). Dựa vào những lời này của thánh Phaolô và nhiều văn bản Thánh Kinh khác (Cv 14,15.17; 17,27-28; St 13,1-9), Hội Thánh Công giáo khẳng định rằng căn cứ vào vận hành và biến hoá của thế giới, tính vô thường, trật tự và vẻ đẹp của thế giới, người ta có thể nhận biết Thiên Chúa như là nguyên thuỷ và cùng đích của vũ trụ (x. GLHTCG số 32).
Trong thực tế, con người vẫn khó nhận biết Thiên Chúa nếu chỉ dựa vào ánh sáng của lý trí tự nhiên, vì có nhiều trở ngại ngăn cản lý trí vận dụng hữu hiệu năng lực tự nhiên của nó : (1) những chân lý liên quan đến Thiên Chúa vượt hẳn lãnh vực khả giác, (2) muốn hành động và sống theo chân lý, con người phải xả thân và quên mình, (3) tác động của những ham muốn xấu do nguyên tội gây ra. Vì thế chúng ta cần đến mạc khải soi sáng và hướng dẫn.
III. CÔNG CHÍNH HOÁ BỞI ĐỨC TIN
“Quả thế, Thiên Chúa làm cho người ta nên công chính nếu họ tin vào Đức Giêsu Kitô. Tất cả những ai tin đều được như thế, bất kể là người Do thái hay dân ngoại. Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban cách nhưng không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Giêsu Kitô” (Rm 3,22-24). Dựa vào những lời này của thánh Phaolô, Hội Thánh cho thấy những điểm căn bản về ơn công chính hoá:
– Ơn công chính hoá mở đầu cho sự cộng tác giữa ân sủng Thiên Chúa và sự tự do của con người. Về phía con người, ơn công chính hoá được biểu lộ qua sự ưng thuận tin vào Lời Thiên Chúa mời gọi hoán cải, và cộng tác với ơn Chúa Thánh Thần.
– Ơn công chính hoá là công trình tuyệt hảo của tình yêu Thiên Chúa. Ơn này phát xuất từ sáng kiến của Thiên Chúa giầu lòng thương xót và hằng tha thứ; được biểu lộ trong Đức Giêsu Kitô, Đấng “đã đổ máu mình ra làm hy lễ đem lại ơn tha thứ cho những ai tin” (Rm 3,25); và được Chúa Thánh Thần ban tặng.
– Chúng ta lãnh nhận ơn công chính hoá nhờ bí tích Thánh tẩy, bí tích đức tin. Nhờ đó, ta được giải thoát và tâm hồn được thanh luyện khỏi những tội lỗi nghịch lại với tình yêu Thiên Chúa. Ơn công chính hoá giúp ta sống phù hợp với sự công chính của Thiên Chúa, Đấng dùng quyền năng của lòng thương xót biến đổi nội tâm ta nên công chính.
Tổ phụ Abraham được coi như mẫu mực cho mọi tín hữu (Rm 4,1-25). Thánh Phaolô vận dụng hai bản văn để làm nổi bật đức tin của Abraham : St 15,6 tường thuật rằng Abraham “tin vào Đức Chúa và vì thế, Đức Chúa coi ông là người công chính”, Tv 32,1-2 lập lại ý tưởng này : hạnh phúc cho người được Chúa kể là công chính, chứ không phải nhờ chu toàn Lề luật.
IV. AĐAM VÀ CHÚA KITÔ (5,12-19)
Rm 5,12-19 là bản văn quan trọng vẫn được Hội Thánh Công giáo dựa vào để giải thích về tội nguyên tổ. Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng mọi người đều liên luỵ với tội của Ađam : “Do một người bất tuân, muôn người đã mang tội” (5,19); “Vì một người duy nhất mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi đã gây nên sự chết. Như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (5,12). Tuy nhiên thánh Phaolô nhấn mạnh tính phổ quát của tội lỗi và sự chết là để làm nổi bật tính phổ quát của ơn cứu độ được ban tặng cho ta trong Chúa Kitô: “Cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được làm cho nên công chính, nghĩa là được sống” (5,18). Và ơn cứu độ được ban trong Chúa Kitô cao quý hơn nhiều : “Nếu chỉ vì một người, một người duy nhất sa ngã, mà sự chết đã thống trị, thì điều Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, lại còn lớn lao hơn biết mấy. Quả vậy, những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, sẽ được sống và được thống trị” (5,17-18). Và thánh Phaolô reo lên, “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (5,20).
Để giải thích sự liên đới trong tội lỗi cũng như trong ơn cứu độ, giáo lý Công giáo nhấn mạnh đến tính thống nhất của nhân loại như thánh Toma Aquino nói, “toàn thể nhân loại ở trong Ađam, như một thân thể duy nhất của con người duy nhất.” Chính vì tính thống nhất này mà mọi người đều liên luỵ với tội Ađam cũng như đồng hưởng sự công chính của Chúa Kitô. Thực ra việc lưu truyền tội nguyên tổ là một mầu nhiệm mà ta không thể hiểu thấu trọn vẹn. Chỉ nhờ mạc khải ta mới biết rằng Ađam đã được hưởng sự thánh thiện và công chính không phải cho riêng mình nhưng cho cả bản tính nhân loại. Vì thế, khi Ađam và Eva phạm tội, họ phạm tội với tính cá nhân nhưng tội đó ảnh hưởng đến cả bản tính con người, và bản tính bị suy yếu đó được truyền lại cho nhân loại. Cũng vì bản tính nhân loại đã bị suy yếu và nghiêng chiều về sự dữ, nên con người phải chiến đấu liên lỉ.
Thư Rôma (chương 6 – 11)
***
Thanh tayI. PHÉP RỬA (6,1-11)
Trong Rm 6,1-11, thánh Phaolô trình bày tầm nhìn sâu sắc về bí tích Thánh Tẩy. Nhờ bí tích Thánh tẩy, người tín hữu cùng chết với Chúa Kitô, được mai táng và phục sinh với Người : “Khi chúng ta được dìm vào nước Thánh tẩy để nên một với Đức Kitô Giêsu, chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (6,3-5). Như thế, chịu Phép Rửa không chỉ là cử hành một nghi thức bên ngoài, cho dù long trọng đến đâu đi nữa, nhưng là được liên kết mật thiết với Chúa Kitô và vận mệnh của Người.
Đời sống của người đã được thánh tẩy thể hiện qua hai nhịp căn bản là chết cho tội lỗi và sống cho Thiên Chúa. Chết cho tội lỗi vì con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, để ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa (6,6). Do đó, chết cho tội lỗi là không nghe theo những dục vọng của xác thịt, không dùng thân xác này làm khí cụ cho tội lỗi và sự bất chính (6,12-13). Sống cho Thiên Chúa là dâng hiến toàn thân cho Thiên Chúa, và dùng thân xác này như khí cụ để làm điều công chính và phục vụ Thiên Chúa (6,13).
Mỗi chúng ta đều đã được chịu Phép Rửa nhưng ta hiểu về Phép Rửa ra sao, và đã sống Phép Rửa đó như thế nào?
II. CUỘC CHIẾN NỘI TÂM (7,14-24)
Ngày nay, khi nói đến tội, ta thường nghĩ đến một hành động hay hành vi xấu; nhưng trong viễn tượng của Do thái, tội được nhìn như một sức mạnh nội tại nơi con người. Truyền thống Do thái dạy rằng nơi con người có hai lực đẩy, một tốt và một xấu, và hai sức mạnh này thường xuyên xung đột với nhau. Lề luật phát xuất từ Thiên Chúa đương nhiên là lực đẩy tốt, giúp con người làm điều tốt. Thế nhưng kinh nghiệm cho thấy rằng lực đẩy xấu là cái tôi tự nhiên và xác thịt này xem ra thắng thế. Cho nên thánh Phaolô kêu lên, “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi” (7,19-20). Như thế, một cuộc chiến cam go không ngừng diễn ra nơi con người, cuộc chiến giữa con người nội tâm và con người xác thịt, giữa luật của Thiên Chúa và luật của sự tội.
Đây cũng là kinh nghiệm bản thân của mỗi người chúng ta cũng như kinh nghiệm của cả lịch sử nhân loại : “Một cuộc chiến cam go chống lại quyền lực bóng tối tiếp diễn suốt trong lịch sử nhân loại, khởi đầu từ lúc khai nguyên vũ trụ và sẽ kéo dài đến ngày cuối cùng” (x. Hiến chế Vui Mừng và Hi Vọng, số 37). Đức Bênêđitô XVI cũng nhấn mạnh, “Bởi vì con người luôn có tự do và vì tự do của con người lại luôn mỏng giòn, nên triều đại của sự thiện bền vững không bao giờ được thiết lập cách chung cuộc trên trần gian này. Bất cứ ai hứa hẹn một thế giới tốt đẹp hơn và bảo đảm thế giới ấy sẽ tồn tại mãi, đều là kẻ hứa hão; người ấy chẳng biết gì về tự do của con người. Tự do phải luôn được chinh phục cho sự thiện” (Thông điệp Spe Salvi, số 24). Nói cách khác, phải sử dụng tự do để phục vụ sự thiện, và đó chính là một cuộc chiến cam go.
Chính vì thế, “dấn thân vào cuộc chiến này, con người phải luôn luôn chiến đấu để gắn bó với sự thiện, và chỉ đạt được sự thống nhất nội tâm sau khi cố gắng hết sức với sự trợ giúp của ơn Chúa” (Hiến chế Vui Mừng và Hi Vọng, số 37).
Bạn kinh nghiệm thế nào về cuộc chiến nội tâm này? Và bạn đã làm gì để có thể chiến thắng?
III. SỐNG THEO THÁNH THẦN (8,1-39)
Chương 8 là đỉnh cao của thư Roma. Chương này nhằm trả lời cho câu hỏi đã được nêu lên ở 7,24 : “Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này?” Đấng giải thoát chính là Chúa Kitô phục sinh, Người ban Thánh Thần là quyền năng và sức mạnh của Người cho ta. Người tín hữu đón nhận được sức mạnh này khi kết hợp với Chúa Kitô, bắt đầu từ bí tích Thánh tẩy.
Sự đối kháng giữa Thánh thần và xác thịt được trình bày trong 8,4-13. Xác thịt ở đây mô tả con người chỉ sống nhờ sức riêng của mình, còn sống theo Thánh Thần là để cho quyền năng ban sự sống của Thánh Thần hướng dẫn. Con người tự kiêu tự mãn chỉ dựa vào sức mình sẽ chỉ đi đến cái chết, nghĩa là xa cách Thiên Chúa. Còn Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng đã làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, sẽ làm cho thân xác chúng ta được tham dự sự sống mới : “Nếu Thánh Thần ngự trong anh em, Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thánh Thần của Ngài đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh được sự sống mới” (8,11).
Kết quả quan trọng của việc sống theo Thánh Thần là được trở nên con cái Thiên Chúa: “Phàm ai được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa” (8,14). Đây là lần đầu tiên ý niệm này xuất hiện trong thư Roma (8,14-17). Thánh Thần mà ta lãnh nhận không làm cho ta trở thành nô lệ và sợ sệt, nhưng làm cho ta nên con cái Thiên Chúa, nhờ đó ta kêu lên “Abba, Cha ơi”, và được đồng thừa kế với Chúa Kitô. Tuy nhiên thánh Phaolô nhắc nhớ ta rằng phải chấp nhận cùng chịu đau khổ với Chúa Kitô thì mới được vinh quang với Người.
Như thế, Kitô hữu là người nhờ Thánh Thần cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa bày tỏ nơi Đức Giêsu Kitô, “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (8,32). Cảm nghiệm đó dẫn ta sống Đạo như sống mối quan hệ yêu thương cha-con với Thiên Chúa thay cho mối quan hệ chủ-nô, sống niềm tín thác thay cho sống trong sợ hãi. Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người, chính là khuôn mẫu cho ta sống mối quan hệ yêu thương và tín thác đó. Vì thế, điều quan trọng trong đời sống đức tin là ta chiêm ngắm và kết hợp với Chúa Kitô để sống niềm xác tín rằng, “cho dù là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (8,38-39).
Thư Rôma
(chương 12 – 16)
***
KT 100 tuanYÊU THƯƠNG LÀ CHU TOÀN LỀ LUẬT
“Anh em đừng mắc nợ gì ai ngoài món nợ tương thân tương ái” (Rm 13,8) vì tất cả mọi lề luật đều quy về điều răn yêu thương. Chính vì thế, đức ái phải là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đời sống Kitô hữu, và là linh hồn của mọi việc tông đồ.
Tình yêu đó trước hết phải được thể hiện ngay trong đời sống cộng đoàn : “Cũng như trong một thân thể, chúng ta có nhiều bộ phận, mà các bộ phận không có cùng một chức năng, thì chúng ta cũng vậy, tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Kitô” (13,4-5). Đã là những chi thể trong cùng một thân mình thì phải liên đới với nhau mới làm cho thân thể được mạnh mẽ, và bản thân mình cũng được hạnh phúc.
Ngoài ra, tình yêu đó còn được thể hiện trong tương quan với mọi người, kể cả những kẻ thù địch : “Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa… đừng lấy ác báo ác… Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được để sống hoà thuận với mọi người… Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (13,14-18).
Thánh Phaolô nhấn mạnh, “Lòng bác ái không được giả hình, giả bộ” (13,9). Lòng bác ái chân thật được biểu lộ qua sự khiêm tốn, “Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan” (13,16), “Đừng đi quá mức khi đánh giá mình nhưng hãy đánh giá mình cho đúng mức, mỗi người tuỳ theo lượng đức tin Thiên Chúa đã phân phát cho” (13,3).
Người sống đức ái chân thật cũng không vội vã xét đoán người khác : “Bạn là ai mà xét đoán người nhà của kẻ khác? Nó đứng hay nó ngã, đó là việc của chủ nó. Nhưng nó sẽ đứng vì Chúa có khả năng làm cho nó đứng” (14,4). Đấng xét xử ta chính là Chúa, và mỗi người đều phải ra trước toà Chúa để trả lời về chính mình trước mặt Chúa. Vì thế, thay vì xét đoán người khác, hãy tập đặt mình đối diện với sự xét xử của Thiên Chúa. Chính thái độ này sẽ giúp ta nhận diện những lầm lỗi của bản thân, nhờ đó biết khiêm tốn với tha nhân, và tránh được những hành vi kiêu căng tự mãn.
Cuối cùng, người sống đức ái chân thật là người không chiều theo sở thích của cá nhân mình, nhưng phải quan tâm đến lợi ích của người khác và tìm cách nâng đỡ họ khi cần thiết : “Bổn phận của chúng ta, những người có đức tin vững mạnh, là phải nâng đỡ những người yếu đuối, không có đức tin vững mạnh, chứ không phải chiều theo sở thích của mình” (15,1).
Thư Philipphê và thư Philêmon
***
philipheI. TỔNG QUÁT VỀ THƯ PHILIPPHÊ
Vào thời điểm thánh Phaolô viết thư này cho cộng đoàn, Philipphê là một thành phố thuộc Roma nằm dọc theo Via Egnatia là con đường thương mãi và quân sự của đế quốc Roma, chỉ cách Neapolis khoảng 15 cây số. Dù là thành phố của Roma nhưng dân cư ở đây lại thuộc nhiều dân tộc như tên gọi của một số người được nhắc đến trong thư cho thấy, vd. Clemente là tên Roma, còn Epaphroditus và Synteche là tên Hi lạp.
Vào thời điểm đó, cộng đoàn tín hữu tại Philipphê có một số khó khăn. Một đàng là những người láng giềng thù nghịch với đức tin Kitô giáo, đàng khác là những nhà truyền giáo đến rao giảng Tin Mừng nhưng lại trình bày một sứ điệp khác với sứ điệp thánh Phaolô trình bày. Ngoài ra chính trong cộng đoàn cũng có những bất đồng và bất hoà. Bối cảnh này giúp ta hiểu rõ hơn những giáo huấn của thánh Phaolô trong thư Philipphê.
Theo các học giả Thánh Kinh, thư Philipphê không phải là một tài liệu xuyên suốt từ đầu đến cuối. Đúng hơn, đây là tập hợp ba lá thư được phân chia như sau :
– Thư A (4,10-20): thư cảm ơn về việc cộng đoàn Philipphê trợ giúp tiền bạc cho Phaolô hai lần, lần thứ nhất khi ngài ở Thessalonica (4,16), và lần này khi ngài đang lâm cảnh khốn khó (4,14), có lẽ ám chỉ cảnh tù tội sẽ được bàn đến dài hơn trong Thư B.
– Thư B (1,1 – 3,1a; 4,4-7. 21-23): phần dài nhất. Thánh Phaolô đã phải ngồi tù ít lâu và đang mong ngóng xem kết quả ra sao. Thế nhưng chính trong cảnh khó khăn, ngài lại cảm nhận niềm vui trong Chúa, và ngài muốn chia sẻ niềm vui đó với các tín hữu cũng như khuyến khích họ chia sẻ với nhau. Ngài cũng quan tâm đến việc có những nhà truyền giáo khác đến với cộng đoàn, và ngài khuyến khích cộng đoàn duy trì sự hiệp nhất.
– Thư C (3,1b – 4,3. 8-9): được viết sau khi ra khỏi tù. Trong thư này, thánh Phaolô quan tâm đặc biệt đến hai việc, một là chống lại những thầy dạy giả hiệu đã xâm nhập cộng đoàn và gây xáo trộn, hai là giàn xếp sự bất hoà giữa hai phụ nữ có vai trò hướng dẫn trong cộng đoàn.
Cả ba lá thư này được viết trong khoảng thời gian tương đối gần nhau. Nếu Ephêsô là nơi thánh Phaolô bị giam giữ, thì những thư này được viết trong khoảng năm 55 – 57. Trong phần tìm hiểu kế tiếp, ta có thể chọn từng đoạn trong ba phần trên để chia sẻ với nhau.
II. LÒNG QUẢNG ĐẠI CỦA CÁC TÍN HỮU PHILIPPHÊ (4,15-19)
Kể từ khi Tin Mừng được rao giảng ở Macedonia, trong số các Hội Thánh đã đón nhận Tin Mừng, chỉ có các tín hữu Philipphê đã chia sẻ với thánh Phaolô khi ngài gặp cơn quẫn bách. Thật vậy, sau khi đón nhận Tin Mừng, các tín hữu Philipphê đã hai lần gửi tiền bạc trợ giúp thánh Phaolô khi ngài ở Thessalonica (1Thes 2,9). Ngài viết thư cảm ơn không phải để mong có thêm quà tặng nhưng mong rằng lòng quảng đại sẽ đem lại hoa trái dồi dào cho họ. Thánh nhân nhấn mạnh, “Quà anh em tặng cho tôi đó chẳng khác nào hương thơm, lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Người chấp nhận” (4,18), và Thiên Chúa “sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Đức Kitô Giêsu” (4,19).
Các tín hữu Philipphê đã đóng góp tích cực cho công cuộc truyền giáo của thánh Phaolô, không chỉ bằng lời cầu nguyện mà còn bằng chia sẻ vật chất. Khi Phaolô cho biết cộng đoàn Philipphê là cộng đoàn duy nhất đã giúp đỡ ngài như thế, nhận xét này thật đáng buồn vì cho thấy phần đông các tín hữu chưa quan tâm đủ đến việc truyền giáo. Liệu đó có phải là thực trạng của hôm nay? Khi nói đến quà tặng của các tín hữu, thánh Phaolô sử dụng ngôn ngữ trong đời sống thờ phượng, coi đó là “lễ vật” và “hương thơm” dâng lên Chúa. Cách nói này giúp ta có cách nhìn mới về ý nghĩa và giá trị của những việc bác ái trong đời sống hằng ngày.
III. ĐỜI SỐNG KITÔ HỮU (1,27 – 2,18)
Thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu phải “ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng Đức Kitô” (1,27). Sống Tin Mừng không phải là điều dễ dãi, đúng hơn đó là một cuộc chiến đấu. Nhưng Phaolô lại nhìn những gian truân vất vả trong cuộc chiến đó là một phúc lành chứ không phải hình phạt, “Quả thế, nhờ Đức Kitô, anh em đã được phúc chẳng những là tin vào Người mà còn được chịu đau khổ vì Người” (1,29). Ngài nói điều này không như một bài giáo huấn lý thuyết nhưng trước hết như kinh nghiệm bản thân.
Cách cụ thể, thánh Phaolô nói đến một số nét đặc trưng của đời sống Kitô hữu: sự an ủi trong Đức Kitô, sự khích lệ của tình bác ái, sự hiệp thông trong Thánh Thần, biết cảm thông và thương xót (2,1). Nếu các tín hữu sống được như thế, họ sẽ “có cùng một cảm nghĩ, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau” (2,2). Họ sẽ đối xử với nhau không theo tính kiêu căng ích kỷ nhưng với lòng khiêm tốn, coi người khác hơn mình và biết quan tâm đến nhu cầu của người khác hơn là chỉ biết đến nhu cầu của bản thân.
Ở đây thánh Phaolô đưa ra mẫu mực tuyệt đối là chính Chúa Giêsu Kitô, “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu” (2,5), sau đó ngài trích dẫn một thánh thi về Chúa Kitô (2,6-11).
Đức Kitô Giêsu đã không ích kỷ bám vào địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Ngài hoàn toàn trái nghịch với Adam là người đã sa vào cơn cám dỗ muốn nên như Thiên Chúa, ngang hàng với Thiên Chúa (x. Kn 3,5). Đức Giêsu đã tự nguyện trút bỏ vinh quang để mặc lấy thân nô lệ mà Adam đã để lại cho nhân loại. Và Đức Giêsu đã đi đến cùng con đường “huỷ mình ra không” này khi hạ mình vâng phục cho đến chết, và chết trên thập giá (2,8). Trong các bản văn cổ nhất về thánh thi này, chỉ nói đến cái chết chứ không nhắc đến thập giá. Nhưng đối với Phaolô, thập giá chính là biểu tượng vinh quang (1Cor 1,18) nên ngài nhấn mạnh rằng Đức Giêsu đã chết trên thập giá.
Nếu con đường kiêu căng tự mãn của Adam, muốn “nên như Thiên Chúa,” đã dẫn đến thất bại và huỷ diệt, thì ngược lại, Đức Giêsu đã được Thiên Chúa tôn vinh và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu (2,9) đến nỗi “vừa nghe Danh Thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa” (2,10-11).
Có lẽ Phaolô vận dụng thánh thi này để đáp ứng những gì ngài muốn các tín hữu Philipphê quan tâm, tức là sự khiêm tốn, huỷ mình ra không đến nỗi chấp nhận cả cái chết. Cũng như Thiên Chúa đã tôn vinh Đức Giêsu, thì những Kitô hữu nào chấp nhận đau khổ và chết vì đức tin cũng sẽ được ban tặng sự sống mới khi Chúa trở lại (1Thes 4,13-18).
IV. THƯ PHILÊMON
Đức Bênêđictô XVI giải thích ý nghĩa của thư Philêmon như sau: “Đây là một bức thư cá nhân mà thánh Phaolô đã viết trong tù và giao cho người nô lệ chạy trốn (Onêsimô) gửi đến cho chủ của anh là Philêmon. Thực vậy, Phaolo đã trả người nô lệ này cho chủ, về nơi anh ta đã bỏ trốn, và ngài không truyền lệnh nhưng nài van: “Tôi van xin anh cho đứa con của tôi, đứa con tôi đã sinh ra trong cảnh xiềng xích… tôi xin gửi nó về cho anh; xin anh hãy đón nhận nó như người ruột thịt của tôi… Nó đã xa anh một thời gian, có lẽ chính là để anh được lại nó cách vĩnh viễn, không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì là một người anh em rất thân mến” (1,10-16). Những con người vốn quan hệ với nhau như chủ nhân và nô lệ, trong điều kiện xã hội của họ, nhưng nay trong tư cách là thành viên của Giáo Hội duy nhất, họ đã trở nên anh chị em với nhau, đó là cách mà các Kitô hữu xưng hô với nhau. Họ được tái sinh nhờ bí tích Thánh Tẩy, được uống cùng một Thánh Thần, và cùng nhau lãnh nhận Mình Thánh Chúa. Dù cho cơ cấu bên ngoài vẫn y nguyên, việc này đã thay đổi xã hội từ bên trong. Nếu Thư Do Thái nói rằng những Kitô hữu không có nơi định cư vĩnh viễn trên trần gian này, nhưng tìm kiếm một chốn định cư tương lai (11,13-16), thì điều này không chỉ đơn giản là hướng về viễn cảnh tương lai: người Kitô hữu xem xã hội hiện tại như một xã hội bất toàn; họ thuộc về một xã hội mới, xã hội đó là cùng đích hành trình của họ, và cũng là điều mà họ cảm nghiệm trước ngay trong cuộc lữ hành này.” (Thông điệp Spe Salvi, số 4)
Thư Côlôsê và thư Êphêsô
***
THƯ CÔLÔSSÊ
I. THÁNH THI VỀ CHÚA KITÔ (1,15-20)
Cũng như thánh thi trong thư Philipphê 2,6-11, thánh thi này là một trong những tư liệu thần học quan trọng nhất trong Tân Ước về Chúa Kitô.
Chúa Kitô được xưng tụng là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, nghĩa là Người biểu tỏ Thiên Chúa nơi chính bản thân Người. Người được gọi là trưởng tử mọi loài thụ tạo vì mọi sự đều được tạo thành qua trung gian của Người. Tác giả thư Côlôssê thêm vào một vài câu để làm nổi bật tầm vóc vũ trụ của công trình tạo dựng : trên trời và dưới đất, hữu hình và vô hình, dũng lực thần thiêng và quyền năng thượng giới. Tất cả mọi sự được tạo dựng không những trong Người và qua Người mà còn cho Người. Tất cả mọi sự đều tuỳ thuộc vào Người, và chính qua quyền năng sáng tạo của Người mà toàn thể tạo thành tiếp tục đi tới. Như thế, không có gì là do may rủi cả nhưng mọi sự đều ở dưới quyền kiểm soát của Chúa Kitô. Chúa Kitô cũng là đầu của thân thể Người, tức là Hội Thánh. Đây là sự phát triển suy tư thần học của thánh Phaolô nhưng đi xa hơn. Hội Thánh được hiểu ở đây không chỉ là Hội Thánh địa phương như thánh Phaolô thường nói trong các thư khác, nhưng là Hội Thánh hoàn vũ.
Phần thứ hai của thánh thi nói về Chúa Kitô như khởi nguyên của ơn cứu độ. Người là Đấng đầu tiên kinh nghiệm sự sống phục sinh, do đó là trưởng tử trong số những người chết sống lại. Lại một lần nữa, thánh thi nhấn mạnh tính ưu việt của Chúa Kitô và tầm vóc vũ trụ của ơn cứu độ mà Người mang đến : Người đứng hàng đầu, Người làm cho mọi sự viên mãn. Sự hoà giải Chúa Kitô đem đến nhờ việc đổ máu trên thập giá cũng mang tầm vóc vũ trụ, vì sự hoà giải này được áp dụng cho mọi sự, trên trời cũng như dưới đất.
Cùng với thánh thi này, thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu Côlôssê hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha vì Người cho ta được chung hưởng phần gia nghiệp của dân thánh, giải thoát ta khỏi quyền lực tối tăm (1,12-13). Đồng thời ngài khuyến khích ta sống như Chúa đòi hỏi và làm đẹp lòng Chúa về mọi phương diện (1,10-11).
Là Kitô hữu, bạn có ý thức về vị trí tối thượng của Chúa Kitô? Chúa Kitô chiếm vị trí nào trong cuộc đời bạn? Bạn sống niềm tin của mình ra sao?
II. ĐỜI SỐNG TÔNG ĐỒ ĐÍCH THỰC (1,24 – 2,3)
Theo truyền thống tông đồ, các thừa tác viên trong Hội Thánh là những người được Chúa sai đi, và họ phải rao giảng Lời Chúa cho trọn vẹn (1,25). Lời này là mầu nhiệm được mạc khải cho dân thánh, nhưng trước đây được giữ kín. Mầu nhiệm đó chính là Đức Kitô, “Đấng đang ở giữa anh em và ban cho anh em niềm hi vọng đạt tới vinh quang” (1,27). Chính Chúa Kitô là Đấng mà các thừa tác viên trong Hội Thánh phải rao giảng, với mục đích duy nhất là giúp mọi người nên hoàn thiện trong Chúa Kitô. Những lời này trong thư Côlôssê khiến chúng ta – những người muốn tham dự vào sứ mạng tông đồ – phải luôn luôn tự hỏi : khi làm việc tông đồ, có thật sự là tôi rao giảng Chúa Kitô hay chỉ rao giảng sự khôn ngoan thế gian? Mục đích của những việc tông đồ tôi làm là gì? Là giúp người khác nên hoàn thiện trong Chúa Kitô hay nhằm mục đích nào khác?
Tác giả thư Côlôssê còn nhấn mạnh một điều mà ta dễ quên: “Giờ đây tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (1,24). Như thế người tông đồ tiếp tục kinh nghiệm nơi thân xác mình những khổ đau mà chính Chúa Kitô đã trải qua trước phục sinh, và đón chịu những khổ đau đó để sinh ích lợi cho Hội Thánh. Xác quyết này giúp ta khám phá giá trị tích cực của những đau khổ phải chịu trong đời sống tông đồ, và phải nói thêm rằng chỉ khi ta chấp nhận những đau khổ đó thì công việc tông đồ mới đem lại hoa trái dồi dào.
III. ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH (3,18 – 4,1)
Ngày nay, có thể không ít người trong chúng ta cảm thấy khó chấp nhận những lời khuyên trong thư Côlôssê về đời sống gia đình. Cần phải đặt lá thư này trong bối cảnh lịch sử cụ thể của nó. Bối cảnh đó là xã hội phụ hệ, trong đó người vợ phải phục tùng chồng; do đó tác giả cũng khuyên cộng đoàn làm như thế, và coi đó như bổn phận trong Chúa. Tương tự như thế, tác giả khuyên những người nô lệ phải vâng phục chủ trong mọi sự. Tuy nhiên tác giả không chỉ nói đến bổn phận phục tùng của các bà vợ mà đồng thời nhấn mạnh “người làm chồng hãy yêu thương vợ chứ đừng cay nghiệt với vợ” và “những bậc cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng.” Một người chồng thật sự yêu thương vợ con, tình yêu thương được thể hiện qua việc chu toàn trách nhiệm làm chồng và làm cha… chắc chắn sẽ không gây đau khổ cho vợ con và cũng đáng được vâng phục.
Thời đại ngày nay nhấn mạnh sự bình đẳng, và giáo huấn của thư Côlôssê cần được đọc trong bối cảnh mới. Sự vâng phục và tình yêu ở đây cần được nhìn từ góc độ hỗ tương: vâng phục lẫn nhau, yêu thương lẫn nhau, tránh gây đau khổ và bực tức cho nhau. Hiểu như thế, giáo huấn của thư Côlôssê về đời sống gia đình vẫn luôn mang tính thời sự.
—–o0o—–
THƯ ÊPHÊSÔ
A. TỔNG QUÁT
Thư Êphêsô được coi là lá thư thánh Phaolô viết trong tù, nhưng các học giả ngày nay đều nhận xét đây không phải là thư của Phaolô cho bằng của một người chịu ảnh hưởng của Phaolô, được viết khoảng năm 80. Mặc dù tác giả chịu ảnh hưởng của Phaolô nhưng chỉ cần đọc thoáng qua cũng có thể thấy những khác biệt về văn phong, từ ngữ, cách diễn tả.
Lá thư bắt đầu bằng lời chào (1,1-2), chúc lành (1,3-14), và tạ ơn (1,15-23). Tiếp đó là một suy tư thần học (2,1 – 3,21) về những lý do dâng lời chúc tụng và tạ ơn: ơn cứu độ trong Chúa Kitô, sự hiệp nhất trong Thân Mình Chúa Kitô, và kế hoạch của Thiên Chúa muốn đem người Do thái và dân ngoại xích lại gần nhau trong Chúa Kitô. Phần cuối (4,1 – 6,9) là lời khuyến dụ về sự hiệp nhất trong Hội Thánh, sống như một nhân loại mới, sự tương phản giữa đời sống cũ và đời sống mới… Phần này kết thúc với lời kêu gọi đứng vững trong cuộc chiến tâm linh (6,10-20) và một ghi chú (6,21-24).
I. NHỮNG SUY TƯ THẦN HỌC VỀ GIÁO HỘI
Thư Eâphêsô có những đóng góp quan trọng vào việc đào sâu mầu nhiệm Giáo Hội. Có thể nói đến năm ý tưởng chính:
– Giáo Hội là nơi biểu lộ sức mạnh và quyền bính của Chúa Kitô (1,20-23): “Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô, và đã đặt Người làm Đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người”
– Giáo Hội là Thân Mình Chúa Kitô và là Dân Thiên Chúa (2,11-22): sự chết và phục sinh của Chúa Kitô đã phá vỡ bức tường ngăn cách, làm cho người Do thái và dân ngoại trở thành một Dân, thành Thân Mình duy nhất của Chúa Kitô: “Nhờ Người, cả đôi bên chúng ta được liên kết trong một Thánh Thần duy nhất mà đến cùng Chúa Cha.”
– Các tông đồ là nền móng của Giáo Hội (3,1-13): Giáo Hội là phương thế nhờ đó Tin Mừng được rao giảng cho toàn thể vũ trụ. Và Giáo Hội là “tông truyền” theo nghĩa Giáo Hội được xây dựng trên nền móng các tông đồ, và tiếp tục sứ mạng của các tông đồ, tức là sứ mạng rao giảng Tin Mừng.
– Vai trò của các đặc sủng trong Giáo Hội (4,7-16): Chúa Kitô là nguồn mọi đặc sủng, và các đặc sủng trong Giáo Hội nhằm mục đích xây dựng Giáo Hội thành Thân Mình Chúa Kitô.
– Mối tương quan giữa Chúa Kitô và Giáo Hội (5,21-33): đây là mối tương quan hết sức mật thiết đến nỗi tác giả vận dụng tương quan vợ-chồng để diễn tả, đồng thời chính ở đây mà tương quan vợ chồng tín hữu mang một ý nghĩa mới.
II. ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH ((5,21-33)
Liên quan đến đời sống gia đình, tác giả thư Ephêsô cũng có những lời khuyên giống như trong thư Côlôssê (3,18), tức là khuyên nhủ người vợ phải phục tùng chồng. Tuy nhiên tác giả đặt sự phục tùng này trong sự so sánh mối tương quan chồng-vợ với mối tương quan giữa Chúa Kitô và Hội Thánh. Cũng như Chúa Kitô là đầu của Hội Thánh thì người chồng cũng là đầu của vợ; và xét như thân mình của Chúa, Hội Thánh phục tùng Chúa Kitô thì người vợ cũng phục tùng chồng. Cách trình bày này có thể bị hiểu lầm là mang tính gia trưởng, nhất là đối với con người ngày nay. Để hiểu cho đúng ý hướng của tác giả, cần phải đọc những lời khuyên này trong toàn bộ văn mạch chương 5, trong đó tác giả nói đến sự tùng phục lẫn nhau, “Vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau” (5,21), và nhấn mạnh bổn phận người chồng phải chu toàn (5,25-33).
Cũng như trong Col 3,19, người chồng được khuyên nhủ phải yêu thương vợ mình, nhưng khác với thư Côlôssê, tác giả thư Ephêsô trình bày bổn phận yêu thương này bằng cách so sánh với tình yêu Chúa Kitô đối với Hội Thánh. Cũng như Chúa Kitô yêu thương Hội Thánh đến nỗi hiến mình cho Hội Thánh, thì người chồng cũng phải yêu thương vợ hết mình. Nhờ sự tự hiến, Chúa Kitô đã làm cho Hội Thánh nên thánh thiện, thanh tẩy Hội Thánh bằng nước thánh tẩy và Lời hằng sống, để Hội Thánh trở nên Hội Thánh vinh quang, tinh tuyền, không tì ố. Theo đó, cũng như Chúa Kitô yêu thương thân mình Người là Hội Thánh, thì người chồng cũng phải yêu thương vợ như yêu chính thân thể mình. Khi người chồng yêu thương vợ là họ yêu thương chính mình: “Yêu vợ là yêu chính mình. Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh.”
Tác giả thư Ephêsô trích dẫn St 2,24 để nhấn mạnh sự hợp nhất vợ chồng: “Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt.” Ngay sau đó, tác giả nói thêm, “Mầu nhiệm này thật cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (5,32). Đây là một trong những nền tảng giúp ta hiểu hôn nhân là một bí tích, nghĩa là dấu chỉ diễn tả mối tương quan giữa Chúa và Hội Thánh, đồng thời ban ơn cho các đôi hôn phối để họ có thể sống và diễn đạt tình yêu cao cả đó trong cuộc đời mình: “Tình yêu vợ chồng đích thực được kết nhập trong tình yêu Thiên Chúa, được hướng dẫn và thêm phong phú nhờ quyền năng cứu chuộc của Chúa Kitô và hoạt động cứu rỗi của Giáo Hội, để hai vợ chồng được dẫn dắt cách hữu hiệu đến cùng Thiên Chúa, cũng như được nâng đỡ và kiện cường trong nhiệm vụ cao cả là làm cha mẹ” (GS 48).
Tin Mừng theo Thánh Matthêu
(Chương 1-6)
***
thanh kinh 100 tuanI. TỔNG QUÁT
Truyền thống vẫn xem Matthêu, người thu thuế (9,9) đã trở thành tông đồ (10,3), là tác giả sách Tin Mừng này. Dựa vào những chỉ dẫn trong sách Tin Mừng, vd. biến cố tàn phá Giêrusalem vào năm 70 (x. 22,7; 21,41; 27,25), các học giả cho rằng Tin Mừng Matthêu được hoàn thành vào khoảng năm 85, có lẽ tại Antiochia thuộc Syria.
Cộng đoàn của Matthêu là cộng đoàn có đa số là các Kitô hữu gốc Do thái. Cho đến năm 85, rõ ràng không phải mọi người Do thái đều tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Mêsia họ mong đợi, vì thế đây là cánh đồng truyền giáo phải vươn tới. Thánh Matthêu giúp các Kitô hữu gốc Do thái khám phá ra rằng họ chính là những người thừa hưởng lời Thiên Chúa đã hứa với Israel. Đồng thời Matthêu cũng thúc đẩy họ truyền giáo cho cả dân ngoại.
Cũng vì nhắm đến đối tượng là người Do thái nên Matthêu thường xuyên minh chứng những biến cố trong đời Chúa Giêsu là sự thể hiện lời các tiên tri đã loan báo trong Cựu Ước. Tuy nhiên, ở một số điểm, xem ra Chúa Giêsu hủy bỏ hay đối nghịch lại những lề luật Cựu Ước (x. 5,21-48). Người làm như thế vì Người là Con Thiên Chúa, là Đấng có thẩm quyền giải thích truyền thống và đưa truyền thống đó đến chỗ thành toàn.
Khi biên soạn sách Tin Mừng, chắc chắn thánh Matthêu đã dựa vào Tin Mừng Marcô và những nguồn khác. Tuy nhiên, ngài cũng có những nét riêng của ngài khi đối chiếu với Marcô:
– Marcô bắt đầu sách Tin Mừng với sứ vụ công khai của Chúa Giêsu, còn Matthêu lại bắt đầu từ thời thơ ấu của Chúa (chương 1-2).
– Marcô kết thúc Tin Mừng với cái chết của Chúa, sau đó là sự kiện ngôi mộ trống; còn Matthêu lại thêm vào sự kiện Chúa hiện ra với 11 môn đệ ở Galilê (28,16-20).
Ngoài ra, Matthêu còn ghi lại 5 bài giảng lớn của Chúa Giêsu. Chắc chắn đây không phải là những bài giảng được Chúa Giêsu giảng trực tiếp trong 5 dịp khác nhau; đúng hơn, Matthêu đã biên soạn lại dựa vào những chất liệu thu thập được.
Có thể nhìn vào Tin Mừng Matthêu cách tổng quát như sau:
1,1 – 2,23 Gia phả và thời thơ ấu của Chúa Giêsu
3,1 – 4,25 Khởi đầu sứ vụ công khai
5,1 – 7,29 Bài giảng trên núi
8,1 – 9,38 Những phép lạ
10,1-42 Bài giảng về truyền giáo
11,1 – 12,50
13,1-53 Các dụ ngôn về Nước Trời
13,54 – 16,4 Các phép lạ và những cuộc tranh luận
16,5 – 17,27 Đường dẫn đến cuộc khổ nạn
18,1-35 Giáo huấn cho đời sống cộng đoàn
19,1 – 23,39 Sự chống đối gia tăng
24,1 – 25,46
26,1 – 28,20 Sự chết và phục sinh của Chúa
II. GIA PHẢ (1,1-17)
Bản gia phả đặt Chúa Giêsu trong truyền thống Do thái. Người là con của Abraham và của Đavít cũng như là sự tiếp nối dòng dõi Đavít sau cuộc lưu đầy năm 587 trước Công nguyên. Trong bản gia phả này, lịch sử Israel được vẽ lại từ khởi đầu là Abraham (câu 2) đến đỉnh cao với vua Đavít (câu 6) rồi xuống thấp với cuộc lưu đầy ở Babylon (câu 11) và được kiện toàn nơi Chúa Giêsu (câu 16). Trong Tin Mừng thứ ba, thánh Luca nhấn mạnh tầm vóc phổ quát của Chúa Giêsu bằng cách đưa ngược bản gia phả lên đến Adam (3,23-38), còn thánh Matthêu lại quan tâm đến việc đặt Chúa Giêsu trong truyền thống của dân được tuyển chọn.
Bản gia phả của Matthêu có những nét lạ thường. Cụ thể là sự có mặt của 4 phụ nữ. Việc đưa tên phụ nữ vào gia phả là chuyện bất thường đối với người Do thái. Hơn thế nữa, 4 phụ nữ này lại là những nhân vật có thành tích đặc biệt. Tamar (câu 3) đóng vai gái điếm để ăn nằm với bố chồng nhằm có con nối dõi tông đường (x. St 38). Rahab (câu 5) là gái điếm ở thành Jericho, nhờ cộng tác với Joshua mà được sống khi quân Israel chiếm đóng thành (x. Joshua 2,6). Ruth (câu 5) là phụ nữ xứ Moab nhưng gắn bó với dân Israel qua gia đình nhà chồng. Vợ của Uria (câu 6) là bà Batsheba, người phụ nữ mà vua Đavít phải lòng và đã tìm cách giết chồng bà để chiếm đoạt (2Sam 11).
Như thế bản gia phả trong Matthêu vừa nhấn mạnh tính liên tục giữa Chúa Giêsu và các nhân vật lớn trong lịch sử Israel, vừa cho thấy tính độc đáo khác thường. Thật vậy, Chúa Giêsu xuất thân từ dòng dõi Đavít, đúng như lời các tiên tri loan báo về Đấng Mêsia. Đồng thời, Chúa Giêsu vượt xa những nhân vật này vì Người là Đấng cứu dân khỏi tội và là Emmanuel (x. 1,18-25).
III. BÀI GIẢNG TRÊN NÚI (5,1 – 7,29)
So sánh với bài giảng trên đồng bằng trong Luca 6,20-49, bài giảng trên núi trong Matthêu dài gấp 3 lần. Thánh Matthêu đã thu thập nhiều lời giảng dạy của Chúa Giêsu và tập trung lại trong bài giảng quan trọng này. Chủ đề chính ở đây là “Nếu sự công chính của anh em không vượt trên sự công chính của các luật sĩ và Pharisêu, thì anh em không vào được Nước Trời” (5,20).
Cấu trúc của bài giảng gồm:
– Phần mở đầu (5,1-20): Tám mối phúc (câu 3-12), vai trò của các môn đệ (câu 13-16), vai trò của Chúa Giêsu (câu 17-10)
– Phần thứ hai (5,21-48): Tương phản giữa sự công chính của các luật sĩ và sự công chính Chúa Giêsu dạy
– Phần thứ ba (6,1-18): Cảnh cáo lối sống đạo hình thức
– Phần thứ tư (6,19 – 7,29): Những lời nhắn nhủ các môn đệ
Bài giảng trên núi là một kho tàng vô cùng phong phú và đã được giải thích từ nhiều góc độ. Có người xem đây là những nguyên tắc đạo đức Kitô giáo. Có người lại coi đây là những lời khuyên đưa đến sự trọn lành và chỉ dành cho một số ít người. Điều hiển nhiên là thánh Matthêu muốn đề cao Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, là Con Thiên Chúa, và thẩm quyền của Người vượt xa các luật sĩ. Người không chỉ là kẻ giải thích lề luật như các luật sĩ mà là Đấng ban bố Lề luật: “Anh em đã nghe dạy người xưa rằng, còn Thầy, Thầy bảo anh em…”. Bài giảng trên núi là những chỉ thị của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ, những chỉ thị đó trình bày những đòi hỏi căn bản cho những ai muốn theo Chúa, đồng thời diễn tả những giá trị cao quý của Kitô giáo.
“Bài giảng trên núi không huỷ bỏ hay làm giảm giá trị các quy định luân lý của Luật cũ, nhưng khai thông những khả năng tiềm ẩn và làm nổi bật những đòi hỏi mới của các quy định ấy… Luật mới không thêm vào luật cũ những điều luật mới ở bên ngoài, nhưng canh tân tâm hồn là nơi phát xuất mọi hành vi, nơi con người chọn lựa giữa thanh khiết và ô uế, nơi hình thành đức tin, cậy, mến, và các nhân đức khác. Như thế, Tin Mừng (bài giảng trên núi) đưa luật cũ tới chỗ viên mãn khi dạy chúng ta nên hoàn thiện như Cha trên trời, tha thứ cho kẻ thù, cầu nguyện cho những người bách hại theo gương lòng cao thượng của Thiên Chúa. Luật mới dạy con người thực hành các hành vi tôn giáo như bố thí, cầu nguyện và chay tịnh, nhưng quy hướng về Cha là “Đấng thấu suốt những gì kín đáo” chứ không chỉ làm để vinh danh chính mình” (GLHTCG số 1968-1969).
TIN MỪNG MATTHÊU
(Chương 1-6)
images dangI. TỔNG QUÁT
Trong Bài giảng trên núi, thánh Matthêu đã trình bày Chúa Giêsu như Vị Tôn Sư giảng dạy với uy quyền của Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa. Tiếp theo, trong chương 8 và 9, Matthêu lại trình bày Chúa Giêsu như Đấng quyền năng, thể hiện qua những hành động phi thường. Ngài sắp xếp các trình thuật thành 3 nhóm, mỗi nhóm gồm 3 hành động phi thường của Chúa Giêsu, và mỗi nhóm được tách ra bằng lời giáo huấn về đời sống môn đệ Chúa.
Cách cụ thể, cấu trúc trong phần này được sắp xếp như sau :
– Nhóm 1: Quyền năng trên bệnh phong (8,1-4), trên bệnh bại liệt (8,5-13), trên cơn sốt và bệnh tật (8,14-17). Chuyển tiếp: Đòi hỏi của đời sống môn đệ (8,18-22)
– Nhóm 2: Quyền năng trên biển cả (8,23-27), trên ma quỷ (8,28-34), trên tội lỗi (9,1-8). Chuyển tiếp: Ơn gọi của Matthêu (9,9-17)
– Nhóm 3: Quyền năng trên sự chết (9,18-26), sự mù loà (9,27-31), câm điếc (9,32-34). Chuyển tiếp: Sứ mạng của các môn đệ (9,35-38)
Cái nhìn tổng quát trên giúp ta khám phá ý hướng của Matthêu. Ngài muốn đề cao Chúa Giêsu là Đấng có quyền trên thiên nhiên, bệnh tật, ma quỷ. Đồng thời Matthêu cũng làm nổi bật sứ mạng của Chúa Giêsu là sứ mạng chống lại cái ác đang khống chế con người về nhiều mặt mà sâu xa nhất là tội lỗi. Đối diện với Chúa Giêsu, người môn đệ phải có chọn lựa dứt khoát và triệt để đến mức độ khó chấp nhận, chẳng hạn mệnh lệnh: “Ai đã cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau thì không xứng đáng với Ta,” và “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết” (8, 22). Chọn lựa này không chỉ xuất hiện trong những quyết định lớn mà còn được thể hiện qua những phản ứng trước các biến cố trong đời sống, những chọn lựa nho nhỏ hằng ngày và những thái độ trong cách ứng xử của ta với mọi người.
CHỈ THỊ TRUYỀN GIÁO (10,1-42)
Trong Tin Mừng Matthêu, đây là diễn từ lớn thứ hai của Chúa Giêsu. Thánh Matthêu đã thu thập nhiều lời nói của Chúa Giêsu trong nhiều dịp khác nhau, rồi ngài sắp xếp lại thành diễn từ dài. Trong diễn từ đó, Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải hành xử ra sao (10,5-15) và họ có thể được phần thưởng gì (10,16-42). Chủ đề chính của diễn từ là: “Môn đệ không hơn Thầy, tôi tớ không hơn chủ. Môn đệ được như Thầy, tôi tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi” (10,24). Cũng như các môn đệ được chia sẻ quyền năng với Thầy, thì họ cũng phải chia sẻ cách sống và cả đau khổ với Người.
Ở phần mở đầu (10,1-5), Chúa Giêsu gọi mười hai môn đệ đến, ban cho các ông quyền trên các thần ô uế và bệnh tật. Trong danh sách mười hai tông đồ, Matthêu đề cao vai trò của Phêrô: “đứng đầu là ông Simon, cũng gọi là Phêrô” (10,2) và xác định Matthêu là người thu thuế (10,3). Cũng có ông Tađêô mà trong Tin Mừng Luca gọi là Giuđa con ông Giacôbê (Lc 6,16).
Sứ vụ của các môn đệ được giới hạn cho dân Isarel và họ phải tránh không vào những làng mạc của dân ngoại và người Samari. Chỉ sau khi Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết thì sứ vụ mới mở ra cho những nhóm người này (Mt 28,19). Sứ vụ của các môn đệ tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu là rao giảng Nước Trời và chữa lành các bệnh nhân (Mt 4,23; 10,7-8). Sứ vụ ấy, họ đã đón nhận như một quà tặng, thì cũng hãy cho đi như một quà tặng.
Vào thời Chúa Giêsu, những nhà giảng thuyết thuộc các tôn giáo và triết thuyết khác nhau vẫn đi khắp nơi rao giảng. Các môn đệ Chúa Giêsu cũng thế. Người căn dặn các môn đệ đừng lo lắng về tiền bạc hay hành trang và nơi ăn chốn ở, nhưng cứ tùy theo lòng hảo tâm của người nghe (10,9-13). Thái độ đó cho phép họ tập trung vào sứ vụ, đồng thời nói lên sự tín thác của họ nơi Thiên Chúa. Nếu họ bị người ta khước từ hay xua đuổi thì đừng phản ứng bằng vũ lực nhưng chỉ “giũ bụi chân lại” như cử chỉ biểu tượng. Trong mọi hoàn cảnh, họ phải trung thành với sứ vụ và tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ xét xử mọi sự (10,15).
Chúa Giêsu không giấu giếm các môn đệ về sự thù nghịch họ phải đối diện (10,16-25). Họ được sai đi như “chiên đi vào giữa bầy sói”, cho nên phải “khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu” (10,16). Nếu họ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền, thì đó là họ được chia sẻ cuộc khổ nạn với Thầy (10,17-18; 22,57-68). Những khó khăn thử thách đang chờ đợi các môn đệ là: lo lắng không biết nói gì và nói làm sao (10,19), sự chia rẽ ngay trong gia đình (10,21), sự thù ghét của mọi người (10,22) và sự bách hại (10,23). Tuy nhiên Chúa Giêsu trấn an các môn đệ: “Anh em chưa đi hết các thành của Israel thì Con Người đã đến” (10,23). Trong viễn tượng của Matthêu, “Con Người đến” có nghĩa là “Nước Chúa đến”. Điều này được bắt đầu bằng mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu, và sẽ kết thúc ở tận cùng thời gian.
Tiếp theo, Chúa Giêsu khuyến khích các môn đệ hãy can đảm tuyên xưng đức tin dù phải đối diện những chống đối. Mỗi lời bắt đầu bằng câu “Đừng sợ”: “Đừng sợ người ta” (10,26); “Đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn” (10,28); “Đừng sợ, anh em còn quý giá hơn chim sẻ muôn vàn” (10,31).
Trong xã hội Do thái nói riêng và văn hóa phương Đông nói chung, mối giây liên kết giữa các thành viên trong gia đình rất chặt chẽ, nhất là so sánh với thời đại ngày nay. Tuy nhiên để trung thành với Chúa, người môn đệ có thể phải chấp nhận hi sinh cả mối liên hệ gia đình. Người không có ý tấn công đời sống gia đình, nhưng muốn nhấn mạnh đến sự trung thành của người môn đệ với sứ vụ đã lãnh nhận. Để theo Chúa, phải chấp nhận “vác thập giá” và “từ bỏ chính mình”.
Phần kết luận nhắc lại điểm căn bản của diễn từ: các môn đệ là đại diện của Chúa Giêsu. Đón nhận các môn đệ là đón nhận không những Chúa Giêsu mà cả Cha trên trời (10,40). Phần thưởng xứng đáng sẽ được ban cho những ai đón nhận “một trong những người bé mọn… vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy” (10,42).
Tin mừng theo Thánh Matthêu
(Chương 13-19)
***
CÁC DỤ NGÔN VỀ NƯỚC TRỜI (13,1-53)
Bài giảng lớn thứ ba của Chúa Giêsu là những dụ ngôn về Nước Trời. Dụ ngôn là một hình ảnh mang tính ẩn dụ được rút ra từ thiên nhiên hoặc từ cuộc sống hằng ngày. Hình ảnh sống động ấy thu hút sự quan tâm của người nghe, đồng thời mời gọi họ tìm kiếm ý nghĩa chính xác của dụ ngôn. Chúa Giêsu đã vận dụng nhiều hình ảnh để rao giảng về Nước Trời, những hình ảnh đơn sơ cụ thể nhưng hàm chứa nội dung sâu sắc đến nỗi qua nhiều thế kỷ, người ta vẫn tiếp tục suy tư tìm kiếm và ngỡ ngàng trước sự phong phú ấy.
Chương 13 trong Tin Mừng Matthêu ghi lại nhiều dụ ngôn: Người gieo giống (13,3-9); Cỏ lùng (13,24-30); Hạt cải (13,31-32); Men trong bột (13,34-35); Kho báu và ngọc quý (13,44-46); Chiếc lưới (13,47-50).
Để giúp cho việc tìm hiểu các dụ ngôn, xin ghi lại đây những chỉ dẫn của Giáo Hội: “Chúa Giêsu kêu gọi người ta vào Nước Trời bằng cách dùng các dụ ngôn, là nét đặc trưng trong cách giảng dạy của Người. Qua các dụ ngôn, Người mời mọi người vào dự tiệc Nước Trời, nhưng Người cũng đòi phải có một lựa chọn triệt để: để đạt tới Nước Trời, phải cho đi mọi sự; lời nói suông không đủ, cần phải có việc làm. Các dụ ngôn như những tấm gương đối với con người: họ đón nhận Lời Chúa chỉ như mảnh đất khô khan hay mảnh đất màu mỡ? Họ làm gì với những nén bạc đã nhận? Chúa Giêsu và sự hiện diện của Nước Trời trong trần gian, một cách kín đáo, nằm ở trung tâm của các dụ ngôn. Cần phải tiến vào Nước Trời, nghĩa là phải trở nên môn đệ Đức Kitô, mới “hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời” (Mt 13,11). Còn đối với những kẻ “ở ngoài” (Mc 4,11), mọi sự đều bí ẩn” (GLHTCG, số 546).
Để trả lời cho câu hỏi của các môn đệ: “Tại sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ?” Chúa Giêsu trả lời: “Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không” (13,10-11). Câu trả lời hàm nghĩa rằng để hiểu được ý nghĩa các dụ ngôn về Nước Trời, người ta cần có dự trạng thiêng liêng, thái độ tinh thần thích hợp; nếu không, chỉ thấy được bề mặt mà không hiểu nội dung, nhất là dấn thân theo tiếng gọi của Nước Trời.
ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN (18,1-35)
Trong năm bài giảng lớn của Chúa Giêsu, bài thứ tư là những chỉ dẫn về đời sống cộng đoàn. Thánh Matthêu nhìn thấy những vấn đề trong cộng đoàn như khuynh hướng kiếm tìm địa vị, gương xấu, lối sống buông thả. Ngài vận dụng những lời nói của Chúa Giêsu từ nhiều nguồn khác nhau, rồi tập trung và sắp xếp lại thành bài giảng.
Ai là người lớn nhất trong Nước Trời (18,1-4). Các môn đệ đặt câu hỏi: “Ai là người lớn nhất trong Nước Trời?” Câu hỏi này xuất hiện trong bối cảnh xã hội Do thái lúc bấy giờ, vì người ta quan tâm đến vị trí của mỗi người trong Nước Thiên Chúa. Những thủ bản tìm được ở Biển Chết còn cho biết có sự sắp xếp vị trí trong những bữa ăn của cộng đoàn, và sự sắp xếp này được hiểu như phản ánh điều sẽ xảy đến trong Nước Thiên Chúa.
Để trả lời cho câu hỏi của các môn đệ, Chúa Giêsu gọi một em nhỏ đến và nói với các ông hãy nên như trẻ nhỏ (18,3). Trong xã hội Do thái ngày xưa, trẻ nhỏ không có quyền về mặt pháp lý và hoàn toàn phụ thuộc vào cha mẹ. Đứa trẻ đón nhận mọi sự như quà tặng. Cũng vậy, không ai trong cộng đoàn, dù có địa vị cao thấp ra sao, có quyền đòi hỏi gì trong Nước Trời. Chỉ những ai biết đón nhận Nước Trời như một quà tặng thì mới được vào. Trẻ nhỏ được trình bày ở đây không phải để làm mẫu mực cho sự khiêm tốn hay ngây thơ, nhưng để nhấn mạnh rằng chúng ta không có quyền đòi hỏi vị trí trong Nước Trời, nhưng phải biết đón nhận như một quà tặng.
Đừng làm cớ cho người ta sa ngã (18,5-11). Trong đoạn văn này, “trẻ nhỏ” là hình ảnh của những thành viên đơn sơ mộc mạc trong cộng đoàn, họ có thể lạc xa Chúa vì gương xấu của người khác. Chúa Giêsu cảnh báo những người làm gương xấu :
– Thà chết còn tốt hơn là gây gương xấu cho người bé mọn;
– Trách nhiệm cá nhân của người gây gương xấu;
– Không có gì, dù phải chặt tay chặt chân, tồi tệ hơn là gây gương xấu.
Chiên lạc đàn (18,12-14). Điều gì xảy ra nếu một trong những người bé mọn này bị lạc lối? Chúa Giêsu mô tả Thiên Chúa như người chăn chiên “để 99 con trên núi mà đi tìm con chiên lạc”. Không nhất thiết sự tìm kiếm sẽ thành công: “Nếu may mà tìm được…”. Thiên Chúa không muốn cho kẻ bé mọn nào phải hư mất. Nên ghi nhận sự khác biệt giữa “lạc đường” và “hư mất”.
Hòa giải và tha thứ (18,15-35). Chúa Giêsu chỉ dẫn từng bước phải thực hiện để đưa một người anh em lỗi lầm: gặp gỡ cá nhân, với sự hiện diện của người làm chứng, đưa ra cộng đoàn. Ở cả ba bước, mục đích lớn nhất vẫn là đưa người anh em về với cộng đoàn. Kể cả trong trường hợp phải áp dụng “sự tuyệt thông” thì cũng vẫn là một biện pháp “trị liệu mạnh” (gây sốc!) nhằm giúp người anh em tỉnh ngộ.
Sau khi nói đến trường hợp không thể sửa chữa và hình phạt cuối cùng là tuyệt thông, bài giảng nhấn mạnh sự tha thứ trong đời sống cộng đoàn. Một lần nữa, Phêrô xuất hiện như phát ngôn viên của nhóm khi đặt câu hỏi: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần?” (18,21). Và ông hình dung ‘bảy lần’ là nhiều lắm! Nhưng Chúa Giêsu trả lời: “bảy mươi lần bảy”. Vấn đề không phải ở con số nhưng là vô giới hạn. Lý do và động lực của sự tha thứ vô giới hạn được trình bày trong dụ ngôn kế tiếp (18,23-25). Ong vua trong dụ ngôn là hình ảnh của Thiên Chúa: Ngài đòi thanh toán sổ sách (câu 23), đầy tớ phải sấp mình mà thưa: “Thưa Ngài” (câu 26), và Ngài hết sức độ lượng (câu 27). Thế nhưng tên đầy tớ lại không học được bài học quảng đại của ông vua. Anh ta cư xử quá độc ác với người khác. Vì thế, ông vua rút lại ơn tha thứ đã ban cho anh ta (câu 28-34). Dụ ngôn cảnh cáo người Kitô hữu rằng Thiên Chúa không tha thứ cho họ nếu họ không biết tha thứ cho anh chị em mình. Như thế ở đây, Matthêu trình bày lại lời cầu trong kinh Lạy Cha dưới hình thức một dụ ngôn: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12).
Tin Mừng theo Thánh Matthêu
(Chương 20-25)
***
SỰ CHỐNG ĐỐI GIA TĂNG (19,1 – 23,39)
Thánh Matthêu ghi nhận: “Khi Chúa Giêsu giảng dạy những điều ấy xong, Người rời khỏi miền Galilê và đi đến miền Giuđêa, bên kia sông Giođan” (19,1). Với Matthêu cũng như với Marcô, Galilê là nơi chốn của mạc khải: “Khi Chúa Giêsu nghe tin ông Gioan đã bị nộp, Người lánh qua miền Galilê… Từ lúc đó, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến” (Mt 4,12-17). Còn Giuđêa là nơi chốn của khước từ và chết chóc.
Sau khi trình bày một số giáo huấn của Chúa: về việc ly dị (19,1-12), đời sống khiết tịnh (19,13-15), mối nguy hiểm của của cải (19,16-26), thánh Matthêu nói đến việc Chúa Giêsu loan báo cuộc thương khó của Người lần thứ ba (20,17-19). Tiếp theo đó, Matthêu kể lại việc Chúa vào thành Giêrusalem trong tư cách Mêsia (21,1-11).
Trong trình thuật này, thánh Matthêu vận dụng sách tiên tri Isaia và Dacaria. Ngài kể lại: “Khi thầy trò đến gần thành Giêrusalem và tới làng Bếtphagiê, phía núi Oliu” (21,1). Câu này gọi về Dac 14,4-9: “Ngày ấy, Người sẽ dừng chân trên núi Oliu, đối diện với Giêrusalem, về phía đông… Ngày ấy, Đức Chúa sẽ là Chúa duy nhất và Danh Người là Danh duy nhất”. Sự kiện Chúa Giêsu ngồi trên lưng lừa, tiến vào thành Giêrusalem, cũng tương ứng với Dac 9,9 và Isaia 62,11: “Nào thiếu nữ Sion, hãy mừng vui hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Sion, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng chính trực, Đấng toàn thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ”. Dân chúng đón tiếp Chúa Giêsu và hò reo vang dậy bằng những lời Thánh vịnh 118,25-26: “Hoan hô Con Vua Đavít! Chúa tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Hoan hô Chúa trên các tầng trời”.
Như thế, Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong tư cách Đấng Mêsia, hoàn toàn hợp với những điều các tiên tri loan báo và dân chúng trông chờ. Tuy nhiên, Người không vào thành Giêrusalem như một nhà lãnh đạo quân sự hay một chính khách, mà như vị vua khiêm tốn. Hình ảnh ấy mở đường cho những gì sẽ xẩy ra trong suốt cuộc khổ nạn của Chúa Cứu Thế.
Hành động đầu tiên của Đấng Mêsia tại Thành thánh là thanh tẩy Đền thờ: “Người đuổi tất cả những người đang mua bán trong Đền thờ, lật bàn của những người đổi bạc và xô ghế của những kẻ bán bồ câu” (21,12). Hành động này cũng được trình bày như sự ứng nghiệm lời các tiên tri. Theo Isaia 56,7, Đền thờ phải là Nhà cầu nguyện; còn theo Giêrêmia 7,11 thì những kẻ buôn bán đã biến Đền thờ thành hang trộm cướp.
Ngoài việc thanh tẩy Đền thờ, Chúa Giêsu còn chữa lành những kẻ mù lòa, què quặt (21,14). Cho đến thời điểm này, nhóm Pharisêu là những người chống đối Chúa Giêsu nhiều nhất. Tuy nhiên, ở đây và trong những chương còn lại, các thượng tế và trưởng lão mới là những địch thù chính. Sự bực bội của họ thể hiện qua câu hỏi Chúa Giêsu: “Ông có nghe chúng nói gì không?” Sự tức tối không chỉ ngưng ở đây nhưng mở màn cho sự gia tăng chống đối, dẫn đến mưu toan triệt hạ Chúa Giêsu.
BÀI GIẢNG VỀ THỜI CÁNH CHUNG (24,1 – 25,46)
Bài giảng thứ năm cũng là bài giảng cuối cùng của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Matthêu được gọi là bài giảng cánh chung với ba phần chính:
– Phần 1 (24,1-36) mô tả những biến cố xảy ra trước thời điểm tận cùng. Phần này chủ yếu dựa vào Mc 13,1-37;
– Phần 2 (24,37 – 25,30) gồm những dụ ngôn và những tư liệu khác với mục đích kêu gọi tỉnh thức;
– Phần kết (25,31-46) trình bày khung cảnh ngày phán xét chung.
Phần 1 (24,1-36)
Bối cảnh của bài giảng được giới thiệu ngay trong phần mở đầu. Chúa Giêsu đã vào khu vực Đền thờ (21,23) và Người đã báo trước rằng “Nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang” (23,38). Ở đây, khi Người từ trong Đền thờ đi ra, các môn đệ chỉ cho Người xem công trình kiến trúc Đền thờ thì Người tiên báo: “Tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào, tất cả đều sẽ bị phá đổ” (24,1-3). Đối với cộng đoàn của Matthêu sau năm 70, thì lời tiên báo này đã thành hiện thực. Sau đó, các môn đệ đặt câu hỏi liên quan đến hai việc: (1) khi nào Đền thờ bị phá hủy? và (2) khi nào là ngày tận thế và ngày Chúa quang lâm?
Vào thời Chúa Giêsu, người Do thái tin rằng sẽ có những đau khổ lớn trước khi Nước Thiên Chúa đến. Trong câu trả lời cho các môn đệ, trước hết Chúa Giêsu cảnh giác các môn đệ: “Đừng để ai lừa gạt anh em, vì sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng ‘Chính Ta đây là Đấng Kitô’… Anh em sẽ nghe có giặc giã và tin đồn giặc giã; coi chừng, đừng khiếp sợ vì những việc đó phải xảy ra, nhưng chưa phải là tận cùng” (24,4-6).
Cộng đoàn Kitô hữu sẽ bị thử thách từ bên ngoài như bị người đời thù ghét, bắt bớ, giết chết (24,9-10) và cả từ bên trong: lạc đạo, tiên tri giả, sự nguội lạnh (24,10-12). Thái độ đúng đắn mà các Kitô hữu phải có là sự kiên trì, bền đỗ: “Kẻ nào bền chí đến cùng, sẽ được cứu thoát” (24,13). Chúa Giêsu đoan quyết với họ rằng thời tận cùng sẽ không đến cho tới khi Tin Mừng được loan báo trên toàn thế giới (24,14). Cộng đoàn của Matthêu lúc đó đã thấy những dấu hiệu được nói đến trên đây, nhưng Tin Mừng Matthêu cho biết chưa phải là thời tận cùng, và kêu gọi cộng đoàn phải rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu cho mọi dân tộc (x. Mt 28,19).
Cơn gian nan khốn khó sẽ đến “khi anh em thấy đặt trong nơi thánh Đồ Ghê Tởm Khốc Hại” (24,15). Câu này nhắc lại sự kiện vua Syria là Antiôkô IV Epiphanê muốn dựng một bàn thờ thần Baal Shamen trong Đền thờ Giêrusalem năm 167 trước Công nguyên. Được sử dụng ở đây để ám chỉ hoàng đế Caligula muốn dựng tượng của ông trong Đền thờ năm 40 sau Công nguyên. Có lẽ thánh Matthêu muốn đồng hóa sự kiện này với việc quân Rôma xúc phạm và phá hủy Đền thờ vào năm 70.
Dù thế nào đi nữa, giáo huấn của Chúa Giêsu trong 24,16-18 là hãy tránh cơn gian nan bằng cách đi tìm nơi ẩn náu: trốn lên núi, đừng xuống lấy đồ đạc, đừng trở lại phía sau lấy áo choàng. Trong câu 19-20, Người tỏ lòng cảm thương những bà mẹ đang mang thai hoặc cho con bú, và hi vọng rằng cơn gian nan sẽ không xảy ra trong mùa Đông mưa gió hoặc ngày sabát.
Đây là cơn gian nan khốn khó “đến mức từ thưở khai thiên lập địa cho đến bây giờ chưa khi nào xảy ra, và sẽ không bao giờ xảy ra như vậy nữa” (24,21). Nhưng vì những thành viên kiên trì trong cộng đoàn Kitô hữu, Thiên Chúa sẽ rút ngắn thời kỳ thử thách; nếu không, không ai có thể sống sót (24,22).
Sau đó, Chúa Giêsu nói đến Ngày Quang Lâm của Con Người (24,39-41). Việc mô tả Ngày Quang Lâm được đặt ở giữa hai lời cảnh giác (24,23-28 và 24,32-36). Các môn đệ Chúa Giêsu đừng để mình bị đánh lừa bởi các Kitô giả và các tiên tri giả, dù họ có làm phép lạ đi nữa (24,23-26). Ngày Con Người ngự đến sẽ rất bất ngờ như tia chớp, với những dấu chỉ rõ ràng, cũng như “xác chết nằm đâu, diều hâu tụ đó”.
Trong phần mô tả Ngày Quang Lâm (24,29-31), hầu như từng câu đều có thể tìm thấy những đoạn tương tự trong Cựu Ước khi nói về Vương quốc Thiên Chúa. Sau những chuyển động lớn trong vũ trụ, Con Người sẽ ngự đến trong đám mây (x. Daniel 7,13-14). Các chi tộc trên trái đất sẽ đấm ngực (x. Zacaria 12,10), tiếng loa cất lên bắt đầu cuộc phán xét (x. Isaia 27,13) “tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương, từ chân trời này đến chân trời kia” (24,31).
Về thời điểm xảy ra Ngày Quang Lâm, Chúa Giêsu khẳng định: “Còn về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả Người Con cũng không; chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi” (24,36).
Phần 2 (24,37 – 25,30)
Trong phần này, thánh Matthêu ghi lại một số dụ ngôn: Người đầy tớ trung tín (24,45-51), Mười trinh nữ (25,1-13), Những yến bạc (25,14-30). Chủ đề chung của những dụ ngôn này là sự tỉnh thức: “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (24,44).
Phần kết (25,31-46)
Bài giảng về cánh chung đạt đến cao điểm là quang cảnh Ngày Phán Xét Chung. Cho dù trình thuật so sánh Con Người với hình ảnh mục tử, nhiều nhà chú giải cho rằng không thể coi trình thuật này là một dụ ngôn, vì cuộc phán xét được trình bày cách trực tiếp và thẳng thắn chứ không qua những hình ảnh ẩn dụ.
Khi Con Người ngự đến trong vinh quang (x. 24,29-31), Người sẽ phân chia các dân thành hai nhóm (25,31-33). Những ai đã làm điều tốt cho “một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây” (câu 40) sẽ được chúc phúc. Còn những ai không làm điều tốt cho “những người bé mọn này” sẽ bị kết án. Những việc tốt là cho kẻ đói ăn, cho kẻ rách rưới ăn mặc, cho khách đỗ nhà, an ủi người đau yếu, thăm viếng tù nhân. Những việc tốt lành này đem lại phần thưởng cho họ, vì Con Người tự đồng hóa mình với “người bé mọn”: “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta” (25, 40).
“Các dân” ở đây là ai? (câu 32) và “người bé mọn” là ai (câu 40, 45)? Cách giải thích quen thuộc là mọi dân tộc, toàn thể nhân loại, và người bé mọn là những người túng thiếu, nghèo khổ. Theo đó, vào Ngày Phán Xét chung, toàn thể nhân loại sẽ bị xét xử dựa vào những việc tốt lành họ đã làm hay không làm cho người nghèo và người đau khổ.
Tuy nhiên, các nhà chú giải đặt vấn đề: Có thực sự đây là điều thánh Matthêu muốn trình bày? Trong Tin Mừng Matthêu, “các dân” hoặc “tất cả các dân” thường được hiểu về những dân ngoài Israel (xem 4,15; 6,32; 10,5; 18,12; 20,19). Đồng thời, trong nhiều đoạn văn, “người bé mọn” được về các Kitô hữu (xem 10, 40-42; 18,6.14). Nếu áp dụng nội dung này vào trình thuật về cuộc phán xét chung, thì “các dân” ở đây có thể hiểu là những ai không thuộc Do thái giáo hoặc Kitô giáo; còn “người bé mọn” là các Kitô hữu mà dân ngoại đã gặp. Theo cách giải thích này, dân ngoại sẽ bị xét xử tùy theo thái độ của họ đối với các Kitô hữu: “Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (10,42).
Tin Mừng theo Thánh Matthêu
(Chương 26-28)
***
Chua Giesu tren thanh giaChương 26 – 28 là trình thuật về sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Trình thuật của Matthêu giống trình thuật của Marcô đến 80% cả về nội dung lẫn từ ngữ. Tuy nhiên Matthêu có thêm vào một số tư liệu để triển khai những gì đã nói trong Tin Mừng Marcô. Chúa Giêsu xem ra đóng vai trò chủ động hơn trong mọi biến cố, và tất cả mọi sự đều diễn ra theo thánh ý Thiên Chúa như được mạc khải trong Cựu Ước.
LỄ VƯỢT QUA VÀ VIỆC THIẾT LẬP BÍ TÍCH THÁNH THỂ (26, 17-29)
Trình thuật của Matthêu về việc chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua nhấn mạnh vai trò chỉ đạo của Chúa Giêsu. Chính Người đưa ra những chỉ thị và các môn đệ làm y như vậy (26, 17-19). Trong bữa ăn, Chúa Giêsu báo trước: “một người trong anh em sẽ nộp Thầy” (câu 21), và Matthêu cho thấy Chúa Giêsu biết rõ người đó là Giuđa (câu 25). Các môn đệ khác gọi Chúa Giêsu là “Thưa Ngài”, còn Giuđa thì gọi “Rabbi” (câu 22 và 25). Điều đau đớn trong sự phản bội này là: “Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy”. Cho dù “Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người” (câu 24), nghĩa là chu toàn kế hoạch của Thiên Chúa, nhưng điều đó không có nghĩa là Giuđa không có trách nhiệm trong cái chết của Chúa Giêsu: “Khốn cho kẻ nào nộp Con Người, thà nó đừng sinh ra thì hơn” (26, 24).
Cũng trong bữa ăn, Chúa Giêsu thiết lập bí tích Thánh Thể. Hành động và lời nói của Chúa vừa báo trước vừa giải thích ý nghĩa cái chết sắp đến của Người. Những gì Người làm với tấm bánh (cầm lấy, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ) sẽ diễn ra với thân thể Người: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy” (câu 26). Những gì Người làm với chén rượu cũng diễn ra như thế với máu của Người: “Đây là Máu Thầy, Máu Giao Ước, đổ ra cho nhiều người được tha tội” (câu 27).
“Máu giao ước” làm chúng ta liên tưởng đến việc Môsê ký kết giao ước bằng cách lấy máu rẩy trên dân (Xh 24,8). “Cho nhiều người được tha tội” gợi ý mối liên hệ với những đau khổ của Người Tôi Tớ trong Isaia 53,12: những đau khổ có giá trị đền tội. Theo câu 29, bữa tiệc của Chúa Giêsu với các môn đệ báo trước bữa tiệc thiên quốc: “cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy”.
Như thế, việc cử hành Thánh Thể trong Giáo Hội chứa đựng nhiều ý nghĩa: tiệc Vượt Qua, tưởng niệm sự chết của Chúa Giêsu, giao ước, hiến tế, và loan báo trước Vương quốc sẽ đến.
CHÚA GIÊSU SINH THÌ TRÊN THÁNH GIÁ (27, 45-54)
Cái chết của Chúa Giêsu được trình bày như cái chết của người công chính phải chịu đau khổ trong Thánh vịnh 22. Những lời cuối cùng của Chúa: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ con!” (27,46) là câu trích nguyên văn từ Tv 22,1.
“Tối tăm bao trùm mặt đất” (câu 45) nhắc lại lời trong sách Amos: “Trong ngày ấy, Ta sẽ truyền cho mặt trời lặn giữa trưa, và khiến cho mặt đất tối sầm giữa lúc ngày đang sáng” (Amos 8,9).
Việc Chúa Giêsu dùng Thánh Vịnh 22 khi bị đóng đinh trên thập giá diễn tả nỗi đau không chỉ của thân xác nhưng còn là đau khổ nội tâm. Thật vậy, Thánh vịnh này diễn tả cảm nhận bị bỏ rơi, nhất là bị Thiên Chúa bỏ rơi, nhưng không kết thúc bằng sự thất vọng mà bằng sự tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa.
Khi nghe Chúa Giêsu kêu lớn tiếng “Eli, Eli…”, một vài người cho rằng Người gọi tiên tri Elia (câu 47). Sự lẫn lộn này có lẽ phản ánh truyền thống Do thái về vai trò của tiên tri Elia như người dọn đường cho Đấng Mêsia và là người trợ giúp những ai gặp khó khăn. Thánh Matthêu mô tả cái chết của Chúa Giêsu rất ngắn gọn, chỉ trong một câu: “Chúa Giêsu lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn” (27,50).
Cái chết của Chúa được tiếp nối bằng nhiều dấu chỉ nói lên ý nghĩa và giá trị của cái chết đó. Trước hết, bức màn trong Đền thờ Giêrusalem bị xé ra làm hai (câu 51), cho thấy sự ngăn cách giữa Thiên Chúa và loài người đã chấm dứt, hoặc sự kết thúc giao ước cũ. Rồi các câu kế tiếp kể ra những dấu hiệu khác, chỉ có trong Matthêu, là những dấu chỉ xảy ra khi Nước Thiên Chúa đến: đất rung đá vỡ, mồ mả bật tung, xác nhiều vị thánh trỗi dậy (27, 51-53). Những dấu chỉ này được tìm thấy trong sách Ezekiel 37, làm nổi bật ý nghĩa về cái chết của Chúa Giêsu như sự khai mở một giai đoạn mới trong lịch sử. Cuối cùng, viên đại đội trưởng và thuộc hạ của ông, vốn không phải là người Do thái, đã tuyên xưng: “Quả thật, ông này là Con Thiên Chúa” (27, 54). Lời tuyên xưng này trở thành mẫu mực cho dân ngoại đón nhận và tin vào Chúa Giêsu.
MỆNH LỆNH TRUYỀN GIÁO (28, 16-20)
Trình thuật Chúa Kitô phục sinh hiện ra với các môn đệ trên núi ở Galilê là một cảnh quan trọng trong toàn bộ bố cục của Tin Mừng Matthêu. Núi (xem Mt 5,1; 17,1) và Galilê (xem Mt 4,12-16) là những nơi chốn đặc biệt của mạc khải. Mười một môn đệ ở đây chính là Nhóm Mười Hai, nay không còn Giuđa. Theo phản ứng tự nhiên của con người, khi thấy Chúa hiện đến, một vài môn đệ hoài nghi (28,17) như tự hỏi không biết đây có phải là sự thật không. Tuy nhiên, sự hoài nghi ấy nhanh chóng tan biến như trong trường hợp các phụ nữ (28,9), và các ông bái lạy Người.
Mệnh lệnh của Chúa Giêsu (28, 18b-20) bao gồm ba điều:
(1) khẳng định quyền bính của Đấng Phục sinh: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất”;
(2) sai các môn đệ ra đi: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”;
(3) lời hứa của Đấng Phục sinh: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Theo đó, mệnh lệnh này tóm tắt ba chủ đề lớn trong Tin Mừng Matthêu.
Thứ nhất là quyền bính tối cao và phổ quát Chúa Cha đã ban cho Chúa Giêsu. Do đó Chúa Giêsu vượt trên mọi bậc thầy trong thiên hạ và Người xứng đáng mọi danh hiệu cao cả nhất.
Thứ hai là các môn đệ phải chia sẻ hồng ân họ đã lãnh nhận cho tất cả mọi người chứ không chỉ cho người Do thái. Cộng đoàn của Matthêu là cộng đoàn có số đông người Do thái và ngài khuyến khích họ phải đến với “muôn dân”, dạy cho họ giáo huấn của Chúa Giêsu và làm phép Rửa cho họ.
Thứ ba là niềm tin chắc chắn vào sự hiện diện và đồng hành của Chúa Giêsu. Ngay từ trang đầu của Tin Mừng Matthêu, Chúa Giêsu đã được gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở cùng-chúng-ta (1,23). Giờ đây, ở những dòng cuối cùng của Tin Mừng, lời hứa của Chúa Giêsu đưa nội dung tên gọi ấy đến mức hoàn thành: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Lời hứa này cũng giả thiết “thời kỳ của Giáo Hội”, tức là thời kỳ ở giữa thời điểm khai mạc Nước Trời nơi Chúa Giêsu và thời điểm tận cùng của lịch sử nhân loại. Trong “thời kỳ của Giáo Hội”, chính Thánh Thần của Đấng Phục sinh sẽ hướng dẫn và bảo vệ Giáo Hội. Người môn đệ Chúa vững tin lên đường thi hành sứ vụ ngay giữa những gian truân thử thách của cuộc đời.
CHÚA GIÊSU TRONG TIN MỪNG MATTHÊU
Tin Mừng Matthêu nhấn mạnh một số nét nổi bật trong chân dung Chúa Giêsu.
1. Matthêu gọi Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Vua Đavít, Con Người. Những danh hiệu này đều bắt rễ sâu trong Thánh Kinh và truyền thống Do thái, và ta có thể đọc được ở đây phản ánh về cuộc đối thoại giữa các Kitô hữu và người Do thái về niềm tin vào Đấng Mêsia. Đừng quên cộng đoàn Matthêu là cộng đoàn bao gồm các Kitô hữu gốc Do thái và Kitô hữu gốc dân ngoại, đồng thời sống giữa môi trường Do thái. Tuy nhiên cách diễn tả mạnh mẽ nhất trong Matthêu về Chúa Giêsu là “Con Thiên Chúa”. Có thể nói đây là đỉnh cao và là kinh Tin Kính của Matthêu, mặc cho người Do thái lúc đó cho là xúc phạm.
2. Matthêu thường xuyên trích dẫn các tiên tri. Đối với Matthêu, Chúa Giêsu không huỷ bỏ Cựu Ước nhưng làm cho trọn bằng cách đem lại một ý nghĩa mới, sâu xa và bất ngờ. Con Thiên Chúa vừa là người thừa kế di sản Cựu Ước vừa là đấng có thẩm quyền giải thích Thánh Kinh đúng đắn nhất.
3. Cũng vì thế, Tin Mừng Matthêu làm nổi bật chân dung Chúa Giêsu như Đấng giảng dạy và là vị thầy duy nhất của Giáo Hội. Theo đó, Matthêu đã tập hợp giáo huấn của Chúa Giêsu thành năm bài giảng để dạy dỗ Giáo Hội lúc đó cũng như bây giờ:
bài giảng trên núi (5,1 – 7,27),
bài giảng về sứ vụ truyền giáo (10,5-42),
bài giảng bằng dụ ngôn (13,1-52),
bài giảng về Giáo Hội (18,1-35),
bài giảng về cánh chung (24,1 – 25,46).
4. Chúa Giêsu đã lãnh nhận sứ mạng công bố Nước Trời. Trong hành trình trần thế, Nước Trời bao hàm lãnh vực hữu hình là Giáo Hội và Giáo Hội ấy vẫn có cỏ lùng xen lẫn; đồng thời Nước Trời cũng bao hàm lãnh vực vô hình gồm những người tuy không nhận biết Thiên Chúa nhưng đã cố gắng sống những giá trị Thiên Chúa yêu mến. Vượt lên trên lịch sử trần thế này, Nước Trời ôm lấy tất cả vũ trụ trong quyền năng yêu thương của Thiên Chúa.
5. Trong viễn tượng vĩ đại đó, Thiên Chúa ban cho Con của Người mọi quyền năng. Chính vì thế, Tin Mừng Matthêu trình bày Chúa Giêsu với dung mạo vị thẩm phán: Chúa Giêsu xét xử những cơ chế chống lại sứ vụ của Ngài, xét xử các môn đệ khi các ông chỉ muốn dành đặc quyền đặc lợi cho riêng mình, cuối cùng xét xử mọi người trong ngày phán xét chung (25,31-46). Đừng quên rằng dụ ngôn về Ngày phán xét chung là phần kết thúc về sứ mạng của Chúa Giêsu trước khi đi vào cuộc thương khó và khổ nạn.
6. Nếu Chúa Giêsu được hưởng những quyền năng lớn lao đó, chính là vì Ngài đã chọn vâng phục Chúa Cha trong mọi sự đến nỗi đổ máu mình ra, và vì Ngài đã trở thành anh em của mọi người, hiền lành và khiêm nhường (11,29), khước từ mọi hình thái bạo lực. Ước mơ của người Do thái (và cả Kitô hữu?) về Đấng Mêsia dũng mãnh xem ra bị khước từ và Chúa Giêsu muốn ta hiểu điều đó.
7. Khi đối diện với chân dung Chúa Giêsu như Matthêu mô tả, tôi có thể học được điều gì cho đời sống cá nhân của mình cũng như cho Giáo Hội ngày nay?
Thư Do Thái
(Chương 01-07)
***
TK 100t (1)TỔNG QUÁT
Các học giả ngày nay cho rằng tác phẩm mà ta gọi là Thư Do Thái thật ra không phải là một lá thư, cũng không phải do thánh Phaolô viết, và cũng chẳng gửi cho tín hữu Do thái. Thế nhưng những khẳng định đó vẫn không làm mất đi tầm quan trọng của tác phẩm này. Thật vậy, có thể xem tác phẩm này là một bài giảng được biên soạn công phu, và là một trong những bài giảng cổ xưa còn giữ lại được.
Tác phẩm này quan trọng vì hai lý do. Trước hết, tác phẩm chứa đựng nền thần học phong phú về ơn cứu độ trong Chúa Kitô, tập trung vào sự chết của Chúa Kitô như hành động cứu độ. Kế đến, hơn bất cứ tác phẩm nào khác, thư Do thái cho thấy việc giải thích Thánh Kinh Cựu Ước quan trọng như thế nào trong đời sống Giáo hội thời sơ khai.
Cách cụ thể hơn, có thể tóm lược nội dung giáo lý của Thư Do thái trong ba điểm chính:
(1) Chúa Kitô được trình bày như Lời tối hậu của Thiên Chúa, Lời đó được thể hiện trong cuộc sống và cái chết của một con người có tên là Giêsu và cũng chính là Con Thiên Chúa; (2) Chúa Kitô được trình bày như vị thượng tế duy nhất và vĩnh cửu, và cái chết tự hiến của Người đã chuộc mọi tội lỗi, khai mở giao ước mới và mở đường cho ta đến với Thiên Chúa; (3) Chúa Kitô là mẫu mực mà các Kitô hữu phải noi theo trong đức tin và hi vọng.
Có thể chia Thư Do Thái thành 4 phần chính:
– Thiên Chúa ngỏ lời nơi Con của Ngài (1,1 – 4,13)
– Cậy trông vào hiến tế của Chúa Giêsu (4,14 – 10,31)
– Quyền năng của đức tin (10,32 – 12,29)
– Những chỉ thị cuối cùng và kết luận (13,1-25)
LỜI TỰA (1,1-4)
Giống như Tin Mừng Gioan và Thư thứ nhất của Gioan, Thư Do thái mở đầu bằng Lời tựa, nhấn mạnh đến ý tưởng về Lời (x. Ga 1,1-18; 1Ga 1,1-4). Tuy nhiên, điểm nhấn của mỗi tác phẩm có thể khác nhau. Thư Do thái nhấn mạnh việc làm sao để nghe và đáp lại mạc khải của Thiên Chúa. Thưở xưa, Thiên Chúa đã ngỏ lời bằng những cách khác nhau trong Thánh Kinh, nhưng đến thời sau hết này, Ngài trao ban một sứ điệp mới nơi Con của Ngài là Chúa Giêsu. Đây là khẳng định vô cùng quan trọng đối với các Kitô hữu vì ta xác tín rằng chỉ nơi Chúa Giêsu, nhân loại mới gặp được Lời sự thật và sự sống. Xác tín này giúp ta vững tâm tiến bước theo những giá trị của Tin Mừng cho dù chung quanh ta luôn có những lời mời mọc đầy hấp dẫn của đủ thứ chủ thuyết và lối sống được gọi là hiện đại, tân thời.
Đấng Thiên Chúa đã ngỏ lời trong Cựu Ước và cuối cùng ngỏ lời nơi Chúa Con chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Cũng vì thế, có thể vận dụng Thánh Kinh Cựu Ước để giải thích về con người và công trình của Chúa Giêsu, và ta sẽ thấy điều này rất rõ trong Thư Do thái. Người Kitô hữu tôn kính Sách Thánh gồm cả Cựu Ước và Tân Ước. Phương pháp Học Thánh Kinh trong 100 tuần mời gọi chúng ta đọc toàn bộ Thánh Kinh, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Học hỏi Cựu Ước không những không làm ta xa cách Chúa Giêsu nhưng trái lại, giúp ta hiểu Tân Ước hơn và đến gần Chúa Giêsu hơn.
Câu 2 và 3 làm ta liên tưởng đến những thánh thi thời Giáo hội sơ khai (Phil 2,6-11; Col 1,15-20), nhấn mạnh mối liên hệ thiết thân của Chúa Giêsu và Chúa Cha, kể cả sự tiền hữu của Chúa Con và vai trò của Người trong công trình tạo dựng: “Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa… Người dùng lời quyền năng mà duy trì vạn vật.”
Phần cuối của câu 3 nói đến hoạt động cứu độ của Chúa Con, hy tế chuộc tội, sự tôn vinh… tất cả sẽ là chủ đề của phần II trong Thư Do thái. Câu 4 giới thiệu chủ đề sẽ được khai triển tiếp theo là sự cao trọng của Con Thiên Chúa.
NHÂN TÍNH CỦA CHÚA GIÊSU (2,5-18)
Tác giả Thư Do thái nhấn mạnh rằng Chúa Kitô cao trọng hơn các thiên thần, và ông nhấn mạnh điều này từ hai góc độ. Trong chương 1, Chúa Kitô cao trọng hơn các thiên thần vì Người là Con Thiên Chúa. Trong chương 2, tác giả tiếp tục nhấn mạnh sự cao trọng này nhưng từ góc độ con người. Tác giả trích dẫn Thánh vịnh 8 để nói đến sự cao cả của con người, nhưng ông có cách giải thích độc đáo. Trước hết, tác giả hiểu Thánh vịnh này không phải nói về nhân loại cách chung nhưng nói về con người Giêsu: “Con người đó chính là Đức Giêsu” (2,9). Kế đến, tác giả giải thích cách khác ý nghĩa nguyên thuỷ của Thánh vịnh. Thánh vịnh viết: “Chúa đã làm cho con người thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn.” Tác giả giải thích về Chúa Giêsu rằng con người Giêsu cao trọng hơn các thiên thần nhưng đã phải thua kém các thiên thần trong thời gian ngắn, tức là khi Người chịu khổ hình (2,9) nhưng rồi được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên (2,10).
Điều đáng quan tâm nhất là tác giả nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu phải chia sẻ nhân tính của loài người cách trọn vẹn: “Vì con cái thì đều chung một huyết nhục, nên Đức Giêsu đã cùng mang lấy huyết nhục đó” (2,14) và Người nên giống anh em mình về mọi phương diện (2,17). Thế nhưng chính nhờ đó mà sự chết của Người mới đem lại ơn cứu độ cho mọi người, giải thoát họ khỏi vòng nô lệ tội lỗi.
ĐỨC KITÔ THƯỢNG TẾ (4,14-16; 5,1-10)
Chủ đề của phần thứ hai trong Thư Do thái (4,14-10,31) là vai trò và hoạt động của Đức Kitô xét như vị thượng tế. Người đã hiến dâng chính mình làm hy lễ, một lần thay cho tất cả, mang lại ơn tha thứ tội lỗi, và như thế, Người đã hoàn tất điều mà các nghi lễ trong Cựu Ước không thể làm được. Riêng trong đoạn văn ta tìm hiểu (4,14-16; 5,1-10), tác giả nhấn mạnh đến lòng thương xót của Thượng tế Giêsu. Lòng thương xót này được thể hiện cách trọn vẹn trong việc Người chia sẻ bản tính nhân loại với ta: “chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội.”
Để trình bày về Đức Kitô thượng tế, trước hết tác giả định nghĩa vị thượng tế bằng cách đưa ra ba đặc điểm:
(1) được chọn giữa loài người và đại diện cho họ để dâng lễ đền tội;
(2) vị thượng tế có thể chu toàn nhiệm vụ làm đại diện vì ông chia sẻ những yếu đuối của phận người;
(3) vị thượng tế được Thiên Chúa tuyển chọn chứ không do ông tự chọn.
Sau đó, tác giả áp dụng cho Chúa Giêsu:
(1) Người không tự tôn mình làm thượng tế nhưng Người đón nhận từ Thiên Chúa;
(2) Người chia sẻ kiếp phàm nhân với nhân loại, phải trải qua nhiều đau khổ;
(3) Người trở nên đại diện của dân và dâng lễ đền tội cho họ.
Sự can thiệp của Người mạnh mẽ và hiệu quả đến độ Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.
Niềm tin vào Đức Kitô thượng tế thúc đẩy ta “giữ vững lời tuyên xưng đức tin” (4,14) và “mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (4,16).
Thư Do Thái
Chương 7-13)
***
JohnPaulMỘT THƯỢNG TẾ GIỐNG NHƯ MELKISÊĐÊ (7,1-28)
Chương 7 bàn đến ba chức tư tế. Trước hết là chức tư tế của Melkisêđê, một khuôn mặt xa xưa từ thời tổ phụ Abraham và đầy vẻ huyền nhiệm. Kế đến là chức tư tế thuộc chi tộc Lêvi trong dân Israel. Cuối cùng là chức tư tế của Đức Kitô, mang đặc tính vĩnh cửu như Melkisêđê, đồng thời thi hành những chức năng của tư tế Lêvi.
Tác giả so sánh Đức Kitô với Melkisêđê bằng cách ba lần vận dụng Thánh vịnh 110,4 : “Con là tư tế đời đời theo phẩm hàm Melkisêđê.” Chúng ta không biết đến các tư tế theo phẩm hàm Melkisêđê, cho nên chỉ cần hiểu câu này là “tư tế đời đời giống như Melkisêđê.” Tại sao tác giả lại so sánh Đức Kitô với Melkisêđê? Vì ông muốn trình bày Đức Kitô là tư tế vĩnh hằng chứ không giống như những tư tế Lêvi cũng là những con người phải chết. Thêm vào đó, Melkisêđê vẫn được xem như một nhân vật thuộc thượng giới, cho nên cũng là hình ảnh để nói về Đức Kitô được tôn vinh, thuộc thượng giới.
Ngoài Thánh vịnh 110, tác giả còn vận dụng sách Sáng thế 14,17-20. Từ bản văn này, tác giả trình bày một số nét về Đức Kitô thượng tế:
(1) tên gọi Melkisêđê làm nổi bật vương quốc Đức Kitô là vương quốc của công chính và hoà bình;
(2) vì sách Sáng thế không nói gì đến chi tiết cá nhân cuộc đời của Melkisêđê, kể cả ngày sinh và cái chết của ông, nên ông được coi là tư tế vĩnh hằng, và Đức Kitô cũng thế;
(3) Melkisêđê có vị trí trổi vượt Abraham nên Abraham phải dâng 1/10 chiến lợi phẩm, các tư tế từ dòng dõi Abraham đương nhiên cũng ở dưới Melkisêđê, và tác giả vận dụng chi tiết này để làm nổi bật sự cao trọng của chức tư tế nơi Đức Kitô.
Từ những lý lẽ trên, Thư Do thái đi đến kết luận : vì chức tư tế trong Cựu Ước chưa hoàn thiện nên Thiên Chúa mới đặt một vị tư tế khác giống như Melkisêđê (7,11). Đức Kitô lại không phải là tư tế thuộc chi tộc Lêvi vì Người thuộc chi tộc Giuđa (7,13-14); do đó Đức Kitô là tư tế vĩnh hằng như Melkisêđê, không phải theo dòng dõi tự nhiên (Ds. 18) nhưng theo Lời Chúa phán : “Con là thượng tế muôn đời theo phẩm hàm Melkisêđê.”
Vì Đức Kitô là thượng tế vĩnh hằng nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi, Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho chúng ta, Người hằng sống để chuyển cầu cho ta. Không giống như các thượng tế khác, Đức Kitô đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ (7,27). Hy lễ cứu độ của Đức Kitô là hy lễ duy nhất, hoàn tất một lần thay cho tất cả; tuy nhiên hy lễ duy nhất này được hiện tại hoá qua hy lễ của Giáo Hội. Cũng vậy, chức tư tế của Đức Kitô là chức tư tế duy nhất, nhưng chức tư tế duy nhất này được hiện tại hoá qua chức tư tế thừa tác trong Giáo Hội. Do đó, chỉ một mình Đức Kitô là tư tế đích thực, những người khác chỉ là thừa tác viên của Ngài (x. Giáo lý HTCG số 1545).
Như thế, chương 7 đã làm nổi bật sự tương phản giữa chức tư tế trong Cựu Ước và chức tư tế của Đức Kitô. Ba chương kế tiếp trong Thư Do Thái sẽ khai triển sự tương phản này ở từng khía cạnh:
– Thừa tác vụ cũ và mới (8,1-6) : các tư tế Cựu Ước lo việc phụng tự trong thánh điện, nhưng thánh điện này chỉ là hình ảnh lu mờ của thánh điện trên trời. Đức Kitô mới là Thượng tế cao cả, lo việc tế tự trong thánh điện trên trời.
– Giao ước cũ và mới (8,7-13) : Giao ước cũ đã lỗi thời và cũ kỹ. Thiên Chúa hứa thiết lập giao ước mới, và Đức Kitô chính là Đấng trung gian của giao ước mới.
– Cung thánh cũ và mới (9,1-10) : Trong Cựu Ước, mỗi năm một lần, vị thượng tế vào Nơi cực thánh đem theo máu chiên bò để dâng lễ đền tội. Hy lễ đó chỉ có hiệu lực bên ngoài, không làm cho lương tâm người cử hành trở nên hoàn thiện. Còn Đức Giêsu Kitô đã vào cung thánh không phải với máu chiên bò mà là với chính Máu của Người. Máu ấy thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống.
– Hy tế cũ và mới (10,1-18) : Đức Kitô bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ.
QUYỀN NĂNG CỦA ĐỨC TIN (11,1 – 12,2)
Ghi nhận đầu tiên là cách dịch câu 11,1, cũng là vấn đề được tranh cãi trong nhiều thế kỷ. Cách dịch dễ hiểu và quen thuộc là : “Đức tin là kiên vững trong điều ta hi vọng, là vững tin vào điều ta không thấy.” Kiên vững và vững tin diễn tả thái độ chủ quan của kẻ tin. Thế nhưng nguyên bản trong tiếng Hi Lạp không nhấn mạnh khía cạnh chủ quan cho bằng khía cạnh khách quan, và thánh Giêrônimô đã dịch sang tiếng La tinh bằng từ bản thể và bằng chứng. Nói cho dễ hiểu hơn, đức tin là thực tại của những điều ta hi vọng, là bằng chứng của những điều ta không thấy. Như thế, đức tin là nền tảng cho niềm hi vọng; nếu không, niềm hi vọng của ta chỉ là hão huyền. Đồng thời, đức tin là động lực nâng đỡ hi vọng khi những điều ta hi vọng xem ra vẫn xa vời. Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI rất quan tâm đến cách dịch này, vì thế ngài đã phân tích cách sâu sắc về điều này trong thông điệp Spe Salvi (xem số 8-10).
Tiếp theo câu mở đầu, tác giả Thư Do Thái đã liệt kê rất nhiều nhân vật trong suốt lịch sử Dân Chúa. Mỗi nhân vật được nhắc tới đều là chứng nhân đức tin, và tìm hiểu về các ngài trong hoàn cảnh cụ thể của thời đại cũng như những thử thách các ngài phải chịu sẽ là cơ hội tốt cho mỗi Kitô hữu hâm nóng đức tin của mình : “Phần chúng ta, được ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh, chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (12,1-2). Đức Kitô không chỉ là đích tới của đức tin mà còn là gương mẫu tuyệt hảo của đức tin vì “chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình mà cam chịu khổ hình thập tự, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (12,2).
Tin Mừng theo Thánh Luca
(Chương 1-6)
***
stLukeTỔNG QUÁT
Ngay từ đầu sách Tin Mừng, thánh Luca đã nhìn nhận những tác phẩm đã viết trước. Ngài không muốn viết sách Tin Mừng để thay thế cho Tin Mừng Marcô đã có trước, nhưng ngài nhận ra nhu cầu cần có một tác phẩm khác cho thế hệ mới với những hoàn cảnh sống mới. Lúc đó, số Kitô hữu gốc dân ngoại đã gia tăng đáng kể, Giáo Hội cũng không chỉ đóng khung trong đất nước Palestina nữa nhưng có mặt ở nhiều nơi khắp đế quốc Roma. Ngôn ngữ thông dụng cũng không còn là tiếng Do thái mà là tiếng Hi Lạp. Thánh Luca muốn cho thấy tính liên tục giữa cộng đoàn mới mẻ này và cộng đoàn Do thái ban đầu. Ngài muốn các đọc giả của ngài hiểu rằng Thiên Chúa đã yêu thương họ ngay từ thưở ban đầu cho dù về mặt lịch sử, người Do thái là những người đầu tiên được đón nhận sứ điệp cứu độ, nhưng họ đón nhận là để loan báo cho mọi người khác. Vì thế ngài dựa vào Tin Mừng Marcô cũng như những nguồn tư liệu khác để biên soạn sách Tin Mừng thứ ba và sách Công vụ. Sách Tin Mừng mô tả những bước đầu tiên của lịch sử Kitô giáo, từ lời loan báo đầu tiên cho đến lúc hoàn thành trong cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Còn sách Công vụ trình bày về sự phát triển của Giáo Hội, cho thấy những quyết định quan trọng và những bước ngoặt của Giáo Hội trong nỗ lực rao giảng Tin Mừng.
Có bốn sách Tin Mừng và cả bốn sách đều kể cùng một câu truyện về Chúa Giêsu. Tuy nhiên mỗi tác giả lại sử dụng cách tiếp cận khác nhau, dựa vào mối quan hệ cá vị của các ngài với Chúa Giêsu, vào khả năng riêng của mỗi người, vào kinh nghiệm của cộng đoàn mà mình có mặt cũng như vào những nguồn tư liệu có được. Vì thế mỗi sách Tin Mừng lại có những nét độc đáo riêng. Theo đó, sách Tin Mừng Luca có một số đặc điểm sau:
1. Ơn cứu độ cho mọi người
Ngay từ đầu, dân Israel đã ý thức rằng Thiên Chúa muốn cứu độ mọi người (St 13,2). Mọi dân tộc trên địa cầu đều được đón nhận phúc lành của Thiên Chúa qua dân Do thái. Các Kitô hữu Do thái cũng ý thức điều đó nhưng họ tự hỏi: Nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho mọi người cách trực tiếp hay họ phải gia nhập Do thái giáo? Vào thời điểm các sách Tin Mừng được viết, câu trả lời đã rõ ràng, cho nên chủ đề này có mặt trong tất cả các sách Tin Mừng. Tuy nhiên thánh Luca là người nhấn mạnh đặc biệt đến chủ đề này vì ngài viết sách Tin Mừng cho những Kitô hữu gốc dân ngoại.
2. Lòng thương xót và ơn tha thứ
Đây là nét độc đáo nổi bật trong chân dung của Luca về Chúa Giêsu. Trong sách Tin Mừng thứ ba, Chúa Giêsu thường xuyên quan tâm đến người nghèo, các tội nhân, những người bị gạt ra bên lề xã hội. Không phải các đạo sĩ nhưng chính những người chăn chiên mới là người đến máng cỏ đầu tiên (2,8-18); Chúa đón tiếp người phụ nữ tội lỗi nhưng có lòng thống hối (7,36-50); Chúa nói những điều tốt lành về người Samaria (10,30-37); Chúa đến thăm người thu thuế (19,1-10); Chúa kể những dụ ngôn tuyệt vời về lòng thương xót (chương 15). Các phụ nữ cũng chiếm vị trí đặc biệt trong Tin Mừng Luca. Vào thời đó, phụ nữ chỉ là công dân hạng hai và bị coi thường, nhưng Chúa Giêsu lại trân trọng họ (10,38-42), đón nhận sự giúp đỡ của họ (8,1-3), và cho thấy đức tin kiên cường của các bà trong những giai đoạn thử thách nhất (23,49; 24,1; Cv 1,14).
3. Niềm vui
Tin Mừng Luca ánh lên niềm vui cứu độ, niềm vui thể hiện trong giáo huấn của Chúa Giêsu, niềm vui khơi nguồn từ xác tín vào tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngày sinh của Chúa Giêsu và Gioan Tẩy giả được loan báo như niềm vui lớn lao (1,14; 2,10). Sự hoán cải của tội nhân là nguồn niềm vui cho cả thiên đàng (15,7-10). Sách Tin Mừng thứ ba kết thúc bằng hình ảnh các môn đệ trở về Giêrusalem, lòng tràn ngập vui mừng sau khi Chúa Giêsu lên trời (24,52).
4. Hành trình
Cả ba Tin Mừng nhất lãm đều tường thuật sứ vụ công khai của Chúa Giêsu bắt đầu với lời rao giảng của Gioan Tẩy giả: “Hãy dọn đường cho Chúa…” Sứ vụ của Chúa Giêsu được trình bày như sự tiếp nối “đường của Chúa” và dẫn đến hoàn thành. Con đường đó đã bắt đầu khi Abraham rời bỏ quê hương xứ sở mà đi theo tiếng gọi của Chúa, rồi đến dân Israel lên đường đưới sự lãnh đạo của Môsê để rời bỏ Ai Cập, sau này lại lên đường ra khỏi đất lưu đầy. Thánh Luca đã tập trung vào chủ đề “con đường” và “hành trình” này khi trình bày hành trình của Chúa Giêsu từ Galilê lên Giêrusalem ((9,51 – 19,44).
5. Chúa Thánh Thần
Đôi khi thánh sử Luca được gọi là người viết Tin Mừng về Chúa Thánh Thần và về cầu nguyện. Lý do là vì ngài nhấn mạnh đến vai trò của Chúa Thánh Thần : trước khi Chúa Giêsu sinh ra ((1,35.67), khi Chúa vào hoang địa (4,1), sau đó được giới thiệu là Đấng mà Thánh Thần ngự đến (4,18). Vai trò của Chúa Thánh Thần còn được nhấn mạnh và đề cao trong sách Công vụ : chính Thánh Thần ban sức mạnh cho các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng (2,1-17). Chính Thánh Thần hướng dẫn Giáo Hội trong những quyết định quan trọng và trong sứ vụ truyền giáo (15,28; 16,6-7). Cũng thế, thánh Luca đề cao việc cầu nguyện : Chúa Giêsu cầu nguyện trước khi chọn 12 tông đồ (6,12), trước khi biến hình trên núi cao (9,29), và khi các môn đệ xin Ngài dạy họ cầu nguyện (11,1). Quả thật, cầu nguyện phải là đặc điểm của cộng đoàn môn đệ Chúa Kitô (Cv 1,24; 2,42; 3,1).
5. Hoàn thành lời tiên tri
Dù không nhiều bằng Matthêu nhưng thánh Luca cũng nhiều lần sử dụng các trích dẫn Cựu Ước để cho độc giả hiểu rằng những gì xẩy ra trong cuộc đời Chúa Giêsu đã được loan báo từ xa xưa. Chính vì thế, không ít lần ngài dùng cụm từ “phải xẩy ra như thế…” (2,49; 4,43; 9,22).
6. Thăng thiên
Biến cố Chúa Giêsu lên trời được thánh Luca trình bày trong bối cảnh phục sinh. Đó là hành động tôn vinh, nhờ đó Chúa Giêsu ngự bên hữu Chúa Cha. Thăng thiên có ý nghĩa đặc biệt trong công trình cứu độ vì qua sự tôn vinh này, Thánh Thần được ban cho Giáo Hội (Cv 2,33) và ơn cứu độ được ban cho tất cả mọi người.
Lược đồ tổng quát
1,1-4 Dẫn nhập
1,5 – 2,52 Phần I : khởi đầu
3,1 – 4,13 Phần II : Đấng Mêsia được chuẩn bị
4,14 – 9,50 Phần III : Sứ vụ tại Galilê
9,51 – 19,44 Phần IV : Hành trình lên Giêrusalem
19,45 – 24,53 Phần V : Đau khổ và chiến thắng
DẪN NHẬP (1, 1-4)
Phần Dẫn nhập mô tả nội dung tác phẩm và trình bày lý do biên soạn. Tác phẩm ở đây không chỉ là Tin Mừng thứ ba mà còn cả sách Công Vụ. Dĩ nhiên sách Công Vụ cũng có phần dẫn nhập, cũng được gửi cho Theophilus và trình bày mối quan hệ với sách Tin Mừng (Cv 1,1-3).
Khi trình bày tác phẩm và lý do biên soạn, thánh Luca cũng cho ta biết khá nhiều về chính bản thân ngài cũng như về độc giả ngài nhắm tới. Luca nhìn nhận rằng ngài không phải là một trong những chứng nhân đã trực tiếp chứng kiến các việc Chúa Giêsu làm, nhưng cũng như các đọc giả của ngài, Luca thuộc vào thế hệ thứ hai. Cách trình bày cho thấy Luca là một Kitô hữu có học vấn và viết cho những người giống như ngài đang sống rải rác khắp đế quốc Roma. Lúc đó, câu chuyện về Chúa Giêsu đã được biết đến nhiều qua các nhà rao giảng và cũng có những văn bản. Tuy nhiên chúng ta chỉ còn giữ lại được một văn bản trọn vẹn là Tin Mừng Marcô, và đây cũng là tác phẩm chính mà Luca dựa vào để biên soạn.
Nếu thính giả đã quen với câu chuyện về Chúa Giêsu, thì tại sao phải kể lại câu chuyện ấy? Phải chăng tác giả có những thông tin mới, những câu chuyện mới và những cách giải thích mới? Luca không muốn đánh lừa độc giả bằng những lời hứa như thế. Ngài chỉ nhấn mạnh vào tính đáng tin cậy của những thông tin ngài có được, và ngài cố gắng sắp xếp lại theo thứ tự để xua tan mọi nghi ngờ. Luca muốn giúp anh chị em mình là những Kitô hữu gốc dân ngoại tìm về cội nguồn của niềm tin Kitô giáo là Đức Giêsu lịch sử, và dõi theo tiến trình phát triển của Kitô giáo từ Giêrusalem cho đến Tiểu Á và Roma.
KHỞI ĐẦU (1,5 – 2,52)
Những trình thuật của Luca về truyền tin, giáng sinh và thời thơ ấu của Chúa Giêsu là những sáng tạo độc đáo của Luca. Các sách Tin Mừng khác không có những trình thuật tương tự. Tin Mừng Matthêu cũng có trình thuật về thời thơ ấu nhưng xem ra không trùng hợp với Luca. Vì thế đây là sáng tạo riêng của Luca trong một thời đại mà Kitô hữu không chỉ quan tâm đến sứ vụ công khai của Chúa Cứu thế, nhưng còn muốn tìm về cội nguồn đời sống của ngài.
Lời rao giảng truyền thống về Chúa Giêsu thường bắt đầu bằng biến cố Chúa chịu phép Rửa (x. các bài giảng của Phêrô và Phaolô trong sách Công Vụ, hoặc trong dàn bài của Tin Mừng Marco). Luca đã thêm vào lược đồ truyền thống đó những trình thuật về thời thơ ấu của Chúa, được coi như phần mở đầu để dẫn vào chính truyện. Cả Matthêu và Luca đều nhấn mạnh rằng những gì xẩy ra trong thời thơ ấu của Chúa Giêsu là để ứng nghiệm lời tiên tri. Tuy nhiên có sự khác biệt là Matthêu nhấn mạnh bằng cách trích dẫn (vd. 1,22-23; 2,15.17-18), còn Luca lại sử dụng những ám chỉ và hàm ngậm. Nét độc đáo khác của Luca là ngài đã sắp xếp trình thuật thời thơ ấu bằng cách tạo một song đối giữa Gioan Tẩy giả và Chúa Giêsu:
– Loan báo việc thụ thai Gioan Tẩy giả (1,5-25)
– Loan báo việc thụ thai Chúa Giêsu (1,26-38)
– Sự kiện nối kết : Thăm viếng bà Elisabeth (1,39-56)
– Sinh hạ Gioan Tẩy giả (1,57-80)
– Sinh hạ Chúa Giêsu (2,1-7)
Việc thụ thai của cả hai nhân vật đều được sứ thần Gabriel loan báo và gây ngỡ ngàng cho các bậc cha mẹ. Cả hai đều được cắt bì vào ngày thứ tám theo luật Do thái nhưng tên gọi của cả hai lại được sứ thần ấn định. Và cha mẹ của cả hai đều giải thích biến cố bằng một thánh thi. Tuy nhiên khi so sánh hai con trẻ, Luca đã làm nổi bật vị trí ưu việt của Chúa Giêsu. Ngoài ra, khi biên soạn trình thuật truyền tin, Luca đã vận dụng những trình thuật mẫu từ Cựu Ước (vd. Isaac, x. St 17; Samson, x. Tp 13). Theo đó, trình thuật truyền tin được biên soạn theo thứ tự:
– Thiên thần xuất hiện
– Người được truyền tin tỏ ra sợ hãi
– Thiên thần trấn an rồi loan báo việc thụ thai và hạ sinh
– Người được truyền tin lên tiếng chất vấn
– Thiên thần cho một dấu chỉ.
GIOAN TẨY GIẢ DỌN ĐƯỜNG CHO ĐẤNG MÊSIA (3,1-4,3)
Khi tường thuật biến cố Chúa Giêsu giáng sinh, thánh Luca đã mô tả bối cảnh lịch sử khá chi tiết. Cũng thế, khi nói đến sứ vụ của thánh Gioan Tẩy giả, ngài cung cấp nhiều chi tiết lịch sử. Sau khi Hêrôđê đại đế qua đời, đất nước của ông được chia cho các con là những tiểu vương. Vào thời đó, vì Arkêlao, con vua Hêrôđe,â gây rối loạn, nên hoàng đế Rôma đã đặt một tổng trấn ở Giuđêa. Còn Hêrôđê được nhắc đến ở đây là Hêrôđê Antipas, cũng là con của Hêrôđê đại đế. Về các tư tế, chỉ có một thượng tế là Caipha, nhưng Anna được nhắc đến ở đây vì ông đã từng là thượng tế và vẫn đang có tầm ảnh hưởng dù đã về hưu.
Trình thuật về ơn gọi của Gioan Tẩy giả được xây dựng theo trình thuật ơn gọi của các tiên tri trong Cựu Ước (vd. Gier 1,2). Thánh Gioan là vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước và là nhịp cầu bắc sang Tân Ước. Ngài dọn đường cho Chúa, con đường đã dẫn dân từ Ai Cập đến Israel, và nay, nhờ Chúa Giêsu, con đường ấy dẫn dân đi vào vương quốc mêsia. Phép Rửa của Gioan là một hành động có tính nghi thức để diễn tả ước muốn canh tân. Phép Rửa ấy đòi hỏi một thái độ nội tâm thích hợp là lòng sám hối, nếu không, không thể đón nhận ơn tha thứ.
Thánh sử Marcô và Matthêu đều trích dẫn lời tiên tri Isaia, nhưng thánh Luca trích dẫn dài hơn, đặc biệt là câu: “Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (3,5-6). Trích dẫn dài như thế để nói đến lời hứa về ơn cứu độ phổ quát (cho mọi người) vốn là sứ điệp quan trọng Luca muốn gửi đến các đọc giả dân ngoại. Sự khẳng định về ơn cứu độ phổ quát xuất hiện ở ngay đầu Tin Mừng Luca cũng sẽ được nhấn mạnh khi kết thúc tác phẩm thứ hai của Luca là sách Công Vụ: ơn cứu độ đã thực sự đến với dân ngoại (Cv 28,28).
SỨ VỤ CỦA CHÚA GIÊSU Ở GALILÊ (4,14 – 9,50)
Phần này trình bày hoạt động của Chúa Giêsu ở vùng đất quê hương, trước khi quyết định đi lên Giêrusalem (9,51), sau đó là cuộc khổ nạn, sự chết và sự phục sinh của Chúa.
Ở đây chỉ tập trung vào trình thuật về Chúa Giêsu tại Nadarét, được coi như Tin Mừng thu nhỏ (4,14-30). Khởi đầu, Chúa Giêsu được đón tiếp và ca tụng, nhưng sau đó vì ghen tị và nghi ngờ, sự ca tụng ban đầu trở thành thù ghét đến mức độ người ta tìm cách giết Người.
Là người Do thái sùng đạo, Chúa Giêsu thường đến hội đường làm việc thờ phượng. Trong buổi hội họp ngày sabát, có hai bài đọc, một bài trích từ Ngũ Thư (năm cuốn sách đầu tiên trong Kinh Thánh Cựu Ước), bài thứ hai từ các tiên tri. Chúa Giêsu đọc bài thứ hai là sách Isaia 61,1-2 về lời hứa khôi phục Israel. Chúa Giêsu tự giới thiệu mình như vị tiên tri và Đấng Mêsia khai mở thời đại tự do và ân sủng: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. “Hôm nay” là ngày khai mở năm hồng ân của Thiên Chúa. Ngày “hôm nay” ấy tiếp tục được triển khai cho đến khi Chúa Giêsu được tôn vinh (thăng thiên).
Dân chúng rất ấn tượng về lời giảng dạy của Chúa Giêsu, nhưng rồi họ đặt vấn đề: “Oâng này không phải là con ông Giuse đó sao?” Để trả lời, Chúa Giêsu đã so sánh Người với hai vị tiên tri lớn trong Cựu Ước là Elia và Elisê: các ngài đã phục vụ những người không phải dân Israel vì dân đã không đón nhận các ngài. Điều đó hàm nghĩa rằng vì dân không đón nhận Người nên Chúa Giêsu sẽ rao giảng cho người ngoại.
Câu trả lời của Chúa Giêsu khiến người ta phẫn nộ. Sau này, theo lời kể của Luca, thánh Phaolô cũng gặp đe dọa như thế (Cv 22,21). Thế nhưng sự thù nghịch của họ không thể hủy diệt Chúa Giêsu. Người vẫn còn một sứ mệnh phải hoàn thành theo chương trình của Thiên Chúa. Vào thời điểm kết thúc sứ mệnh, Chúa Giêsu xem như bị tiêu diệt nhưng thực ra Người vẫn chiến thắng: “Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24,26).
Tin Mừng theo Thánh Luca
(Chương 7-13)
***
images (3)HÀNH TRÌNH LÊN GIÊRUSALEM (9,51 – 19,44)
Chúa Giêsu quyết định đi lên Giêrusalem để hoàn tất cuộc xuất hành (exodus) (9,31), và thánh sử Luca mở đầu trình thuật về hành trình này bằng một câu rất lạ: “Khi đã tới ngày Chúa Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giêrusalem” (9,51). Chủ đề về hành trình cuối cùng này đã có trong Tin Mừng Marcô rồi (Mc 10,1.32) nhưng Luca khai triển rộng hơn để cho thấy Chúa Giêsu tha thiết gắn bó với chương trình của Chúa Cha (9,62; 13,33). Luca cũng thường xuyên nhắc đọc giả về chủ đề này (Lc 13,22; 17,11) và đưa vào trình thuật nhiều câu truyện, nhiều lời nói của Chúa Giêsu.
Hành trình Chúa Giêsu lên Giêrusalem cũng được coi như khuôn mẫu cho sự phát triển của Hội Thánh trong lịch sử. Như Chúa Giêsu nhấn mạnh nhiều lần, con đường đi đến vinh quang phải ngang qua thập giá. Cộng đoàn Hội Thánh và từng người môn đệ Chúa Giêsu phải chấp nhận đồng hành với Thầy trên đường thập giá. Vì thế, ngay ở phần mở đầu trình thuật này, Luca đã ghi lại những đòi hỏi quyết liệt của Chúa Giêsu: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (9,58); “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết, còn anh, hãy đi loan báo Triều đại Thiên Chúa” (9,60); “Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngoái lại đằng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa (9,62).
SỨ VỤ CỦA 72 MÔN ĐỆ (10,1-20)
Luca đã ghi lại việc Chúa Giêsu sai 12 tông đồ đi giảng (9,1-5), ngoài ra ngài lại còn nói đến việc Chúa sai 72 môn đệ khác (10,1-20) và chỉ có Luca mới nói đến việc này. Có lẽ ngài muốn đặc biệt nhấn mạnh sứ vụ truyền giáo của Gíao Hội sau khi Chúa Giêsu về trời. Theo giáo huấn của các rabbi do thái, trên thế giới có 72 dân tộc (dựa vào sách Sáng Thế, chương 10 trong bản Thất thập). Các môn đệ phải “đi trước Chúa” nghĩa là không phải để loan báo bản thân họ và sứ điệp của họ nhưng để dọn đường cho Chúa Giêsu. Người ra lệnh cho họ đi từng hai người một để có thể chính thức làm chứng về Chúa Giêsu và triều đại Thiên Chúa (x. Mt 18,16). Theo thói quen thời đó, lời chứng của hai người mới có giá trị. Đồng thời, Người thúc giục các môn đệ cầu nguyện cho có thêm thợ gặt. Dĩ nhiên Chủ mùa gặt quan tâm đến ruộng lúa của ngài, nhưng sự đáp ứng của ông chủ cách nào đó cũng tuỳ thuộc vào sự tha thiết của các môn đệ. Điều này giúp các Kitô hữu ý thức tầm quan trọng của việc cầu nguyện trong sứ mạng truyền giáo của Gíao Hội.
Khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu không hề che giấu những khó khăn họ sẽ gặp phải. Họ sẽ như “chiên ở giữa bầy sói”, “không mang theo túi tiền, bao bị, giày dép”… tất cả diễn tả sự nghèo khó, yếu đuối, và vì thế, phải hoàn toàn cậy dựa vào sức mạnh của chính Thiên Chúa. Sứ điệp này vẫn luôn luôn là lời cảnh giác quý báu cho chúng ta, vì ta rất dễ bị cám dỗ nghĩ rằng thành công của việc truyền giáo tuỳ thuộc vào sự khôn ngoan kiểu thế gian và những phương thế nhân loại. Cùng với mệnh lệnh trên, Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ “đừng chào hỏi ai dọc đường.” Mệnh lệnh này không nhằm khuyến khích lối sống bất nhã nhưng muốn nhấn mạnh tính khẩn thiết của sứ mạng loan báo Tin Mừng đến độ phải cố gắng thi hành sớm nhất có thể.
Sứ điệp đầu tiên và căn bản mà các môn đệ công bố là “Bình an cho nhà này.” Theo quan điểm Thánh Kinh, Lời Chúa không chỉ là một sứ điệp được công bố mà còn bao hàm cả quyền năng và như hiện thân của chính Chúa. Vì thế, trao ban sứ điệp bình an không chỉ là gửi đến người khác lời chào chúc xã giao mà là đem cho họ chính ân huệ của Thiên Chúa. Người đem ân huệ thiêng liêng đến cho người khác cũng xứng đáng đón nhận sự giúp đỡ vật chất từ người khác. Cho nên, “hãy ở lại nhà ấy và người ta cho ăn uống thức gì thì anh em dùng thức đó, vì thợ đáng được trả công.” Ngược lại, những ai khép kín cửa lòng trước lời loan báo Tin Mừng, họ sẽ phải chấp nhận những hậu quả nặng nề : “Thầy nói cho anh em hay, trong ngày ấy, thành Sôđôma còn được xử khoan dung hơn thành đó.”
Trong phần kết luận, Chúa Giêsu cho thấy trong việc truyền giáo, có mối liên kết hết sức sâu xa giữa người môn đệ với Chúa Giêsu và với Chúa Cha : “Ai nghe anh em là nghe Thầy, và ai khước từ anh em là khước từ Thầy, mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy” (10,16). Cho nên, thi hành sứ vụ truyền giáo không chỉ là để loan truyền một hệ tư tưởng hay gầy dựng thế lực, nhưng là dẫn đưa tha nhân vào mối hiệp thông sự sống với chính Thiên Chúa. Cũng vì thế, phần thưởng lớn nhất dành cho người môn đệ không phải là vinh quang trần thế qua việc biểu dương quyền lực, mà là vinh quang thiên quốc khi ta bước theo Chúa Giêsu đến đồi Canvê : “Chớ mừng vì quỷ thần phải chịu anh em khuất phục, nhưng hãy mừng vì tên của anh em đã được ghi trên trời” (10,20).
THỜ PHƯỢNG CHÚA VÀ YÊU MẾN THA NHÂN (10,25-42)
Dụ ngôn Người Samari nhân hậu (10,25-37) và trình thuật về hai chị em Matta và Maria (10,38-42) thường được đọc như hai câu chuyện biệt lập. Tuy nhiên, liên kết hai trình thuật này sẽ giúp ta có được tầm nhìn toàn diện hơn về đời sống người môn đệ Chúa.
Hãy bắt đầu với dụ ngôn về người Samaria nhân hậu. Để trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu, người thông luật đã trích dẫn kinh Shema (Đnl 6,4-5) và nối kết kinh này với một câu trong sách Lêvi 19,18. Ong ta hiểu rằng phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và phải yêu mến người thân cận như chính mình. Nhưng đối với ông và nhiều người khác trong thời đại ông, câu hỏi được đặt ra là “Ai là người thân cận của tôi?” Trong sách Lêvi, người thân cận là người thuộc dân Israel cùng với mình.
Trong bối cảnh đó, dụ ngôn Chúa Giêsu kể nhằm mục đích chất vấn lối nhìn và lối sống quen thuộc, đồng thời làm nổi bật giá trị của Nước Trời. Trong dụ ngôn, nhân vật biểu tượng cho tinh thần yêu thương phục vụ lại là một người xứ Samaria, vốn bị dân Do Thái coi thường và khinh bỉ. Chắc chắn nhiều người Do Thái không thể chấp nhận chuyện này, nhưng chính trong thế đối kháng cao độ đó, chân trời của điều răn yêu thương mới được bày tỏ trọn vẹn. Đặt câu hỏi “Ai là người thân cận của tôi?” là đã hàm nghĩa có ai đó không phải là người thân cận với mình. Dụ ngôn Chúa Giêsu kể lại khẳng định chân lý ngược lại : bất cứ ai cũng là người thân cận của ta. “Người thân cận” không phải là khái niệm dựa trên quan hệ máu huyết, dân tộc hay tôn giáo, nhưng tuỳ thuộc vào chính thái độ sống của mình. Thầy tư tế và thầy Lêvi trong dụ ngôn chắc chắn là người thân cận với nạn nhân nằm bên lề đường vì họ đều là Do Thái cả. Thế nhưng trong thực tế, họ lại không đối xử với nhau như “người thân cận”. Còn người Samaria, vốn bị coi như kẻ ngoại giáo, lại chính là người thân cận của nạn nhân khi ông quan tâm chăm sóc và giúp đỡ người bị nạn. Thân cận hay không, điều đó tuỳ thuộc vào chính thái độ sống của mình. Vì thế, thay vì ngồi đó mà hỏi “Ai là người thân cận của tôi?” thì “hãy đi và làm như vậy” (10,37) nghĩa là phải tự hỏi : “Tôi phải làm gì để trở nên người thân cận của kẻ khác?” Và cách hỏi đó sẽ dẫn lối cho cách nhìn mới và cách sống mới, trở nên người thân cận với mọi người.
Tiếp sang câu chuyện về hai chị em Matta và Maria (10,38-42), nếu đọc câu chuyện này theo tầm nhìn của dụ ngôn nói trên thì phải nói rằng Matta mới chính là nhân vật đáng được tán dương vì bà hết lòng phục vụ Chúa Giêsu. Thế nhưng Chúa Giêsu lại nói với bà: “Chị băn khoăn lo lắng về nhiều chuyện quá. Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi” (câu 41). Chúa Giêsu không lên án cũng không trách mắng. Người chỉ muốn Matta xác định lại đâu là ưu tiên hàng đầu trong cuộc sống.
Kết nối dụ ngôn về người Samaria nhân hậu với câu chuyện hai chị em Matta và Maria sẽ giúp ta có tầm nhìn đúng đắn và toàn diện về đời sống người môn đệ. Cho dù phục vụ tha nhân là đòi hỏi hết sức quan trọng, nhưng Tin Mừng không chỉ là như thế. Để làm môn đệ Chúa Giêsu, điều quan trọng trước hết và trên hết phải là sự gắn bó với chính Thầy Giêsu, cho nên phải dành thời gian để lắng nghe Người (câu 39), gặp gỡ Người. Nếu không, ta sẽ dễ rơi vào mối nguy hiểm là lao vào đủ thứ công việc được gọi là yêu thương và phục vụ, nhưng thật ra chỉ làm theo ý mình chứ không phải ý Chúa, chỉ đi tìm bản thân mình chứ không kiếm tìm lợi ích thật sự cho người khác.
Tin Mừng theo Thánh Luca
(chương 14-19)
***
nguoi cha nhan hauLÒNG THƯƠNG XÓT VÀ NIỀM VUI CỦA THIÊN CHÚA (chương 15)
Chương 15 của Luca là một trong những chương sách đẹp nhất của toàn bộ Thánh Kinh Tân ước. Cả chương sách bừng lên niềm vui chan chứa, niềm vui của tình yêu mà những ai sống trong quỹ đạo của ích kỷ không cảm nếm được. Bối cảnh là những người thu thuế và tội lỗi đến với Chúa Giêsu để nghe Người giảng, làm cho người Pharisêu và các kinh sư khó chịu. Bối cảnh đó làm nổi bật lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân và là lời cảnh giác cho những kẻ tự hào mình là người công chính.
Dụ ngôn “Tìm chiên lạc” (câu 4-7) mô tả Thiên Chúa như người mục tử bỏ 99 con chiên lại để đi tìm chiên lạc, và niềm vui tràn bờ khi Ngài tìm lại được con chiên lạc, đến nỗi vác nó lên vai đem về, và mời mọi người đến chung vui vì đã tìm lại được con chiên bị mất. Trong mắt của Chúa, mỗi một con người, bất kể yếu đuối và tội lỗi đến đâu, đều là một nhân vị độc đáo và không thể thay thế. Vì thế, Ngài chăm sóc từng con chiên và đau đáu đi tìm khi nó lạc bầy. Chính vì thế, không ai có quyền thất vọng về tình thương của Chúa vì tình thương ấy dứt khoát lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Điều duy nhất cần thiết là sám hối ăn năn, nghĩa là thay đổi cách nhìn, cách nghĩ và cách sống của mình.
Tương tự như thế, Thiên Chúa được mô tả như người đàn bà nghèo có 10 đồng mà lại đánh mất một đồng, thế là lục tung cả nhà để tìm cho bằng được (câu 8-10). Và khi tìm lại được, niềm vui quá lớn đến độ phải mời mọi người đến để chia sẻ. Thật khác xa với hình ảnh một vị Thiên Chúa chỉ soi mói để tìm ra tội lỗi và trừng phạt, một hình ảnh không hẳn đã hoàn toàn biến mất khỏi tâm trí ta, khiến ta sống đạo trong sợ hãi hơn là trong niềm vui cứu độ. Điều đáng buồn duy nhất là đồng bạc bị mất chỉ nằm yên một chỗ nên nếu bà chủ quét đúng chỗ là tìm được; còn con người có tự do và đã sử dụng tự do đó để tìm mọi cách trốn thoát sự kiếm tìm của Chúa!
Trong chùm dụ ngôn về lòng thương xót, dụ ngôn “Người con hoang đàng” vẫn là dụ ngôn nổi tiếng nhất, cả về văn chương lẫn nội dung (15,11-32). Không phải vô lý mà có tác giả đã đề nghị đặt tên cho dụ ngôn này là “Người cha phung phí” thay vì “Đứa con hoang đàng”. Bởi lẽ trọng tâm của dụ ngôn không phải là sự phung phí của cải vật chất của đứa con thứ, mà chính là lòng thương xót của người cha dành cho cả hai đứa con, lòng thương xót vô bờ đến độ không thể hiểu nổi… cho nên được gọi là ‘phung phí’ tình yêu.
Theo luật Do thái, con đầu lòng được hưởng gấp đôi phần gia sản (Đnl 21,17). Theo đó, người con út trong dụ ngôn được chia một phần ba sản nghiệp. Thông thường, việc phân chia tài sản phải đợi đến khi người cha qua đời, và trong luật cũng đã có những điều khoản về hình phạt trong trường hợp việc chia gia tài tiến hành trước thời gian. Tuy nhiên điều quan trọng không nằm ở khía cạnh lề luật cho bằng về mặt tinh thần. Khi đòi hỏi chia gia tài rồi bỏ nhà đi, người con út đã đoạn tuyệt với gia đình, không thương tiếc. Anh ta đem mọi sự theo mình và không có hi vọng gì sẽ trở lại. Dĩ nhiên đây là sự mất mát lớn đối với gia đình, cách riêng với người cha.
Cuộc sống phóng đãng và phung phí dẫn người con út đến kết cục hết sức bi thảm, đến mức phải đi chăn heo. Đối với người Do thái, chăn heo gợi lên ý tưởng ô uế, “lạc đạo” và như thế, người con út đã đánh mất tư cách là thành viên trong gia đình cũng như trong Dân Chúa. Trong dụ ngôn, người con út thậm chí còn tệ hơn cả heo, vì “ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng nhưng chẳng ai cho”.
Cuối cùng, nỗi cơ cực đã giúp người con út hồi tâm. Anh ta muốn trở về nhà trong tư cách kẻ làm thuê. Anh chuẩn bị kỹ lưỡng những gì phải thưa thốt với cha mình, và lường trước sẽ bị mọi người tiếp nhận bằng cái nhìn soi mói và nghi ngờ. Thế nhưng cha anh vẫn thương anh. Ông vẫn ngày đêm trông ngóng, và khi thấy con ở đàng xa, “ông chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” (câu 20) đến độ người con không kịp nói hết bài diễn văn đã soạn sẵn! Cuộc đoàn tụ này rất giống với cuộc đoàn tụ của Esau và Giacóp (St 33,4). Giacóp nhớ đến tội ác mình đã phạm chống lại anh, nhưng giống như người cha trong dụ ngôn này, Esau chỉ nghĩ đến hoà giải. Người cha ra lệnh cho gia nhân chăm sóc mọi sự cho đứa con của mình, nào là áo, nào là nhẫn, nào là bê béo… tất cả diễn tả sự nhìn nhận đây là đứa con của chủ nhà chứ không phải tôi tớ. Không có chuyện hỏi tội, không có chuyện tra khảo, cũng không có chuyện bàn bạc xem thằng con hư hỏng này có xứng đáng được tha tội không… chỉ có điều quan trọng duy nhất là: “con ta đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (câu 24).
Tưởng như câu chuyện đã hạ màn với cảnh đẹp tuyệt vời như thế, không ngờ lại thêm cảnh khác xen vào. Ấy là cơn giận dữ của anh con cả. Anh đã cố gắng sống công chính đến thế: “Đã bao năm con hầu hạ cha và chẳng khi nào trái lệnh” (câu 29), thế mà “chưa bao giờ cha cho lấy một con dê con để ăn mừng với chúng bạn”. Và nhân danh sự công chính đó, anh khước từ việc chia sẻ niềm vui với gia đình khi “thằng con của cha” (chứ không phải đứa em của tôi) trở về. Lại một lần nữa, tình yêu và lòng thương xót của người cha bừng sáng và xua tan mọi hận thù ghen ghét. Ông đã bước ra đón đứa con hoang đàng thì ông cũng bước ra đón người con cả, vì ông mong muốn cả hai đứa con đều được hạnh phúc. Anh con cả chỉ nhìn thấy gia tài và nỗ lực làm việc của bản thân anh. Người cha không từ chối điều đó, nhưng những điều đó đều không quan trọng bằng điều này là: một đứa con và một người anh em đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Vì thế, mọi chuyện khác đều phải dẹp sang một bên để “chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ” (câu 32). Lại một lần nữa, tâm trí ta nhớ đến câu chuyện Giacóp. Giống như Esau, đến giai đoạn cuối đời, Giacóp khám phá ý nghĩa và tầm quan trọng của đoàn tụ, nên khi nghe tin Giuse vẫn còn sống, ông quên hết những tội ác mà chính những anh em trong nhà đã gây ra cho Giuse, và chỉ nhớ một điều: “Thế là đủ. Giuse con ta vẫn còn sống” (St 45,28).
Mỗi nhân vật trong dụ ngôn đều là tấm gương soi cho ta tìm bóng chính mình, để tự vấn, để lắng nghe, để tiến lên. Cho niềm vui tràn ngập trong đời mình và trong cộng đồng Dân Chúa.
CHỮA LÀNH NGƯỜI MÙ Ở GIÊRIKÔ (18,35-43)
“Khi Chúa Giêsu gần đến Giêrikô…” (18,35), ghi chú này cho thấy đây là giai đoạn cuối cùng của Chúa Giêsu trong hành trình lên Giêrusalem. Ở đây cũng như trong trình thuật về các trẻ em, các môn đệ cố gắng ngăn cản “kẻ bé mọn” đến gần, sợ họ làm phiền Chúa: “Người ta còn đem cả trẻ thơ đến với Chúa Giêsu để Người đặt tay trên chúng. Thấy vậy, các môn đệ la rầy chúng”; “Những người đi đầu quát nạt, bảo anh ta im đi” (18,39). Ghi chú “những người đi đầu” có ý nhắc nhở các vị lãnh đạo trong Hội Thánh đừng xem thường, bỏ qua nhu cầu của những người bé mọn trong cộng đoàn. Trong cả hai trường hợp, Chúa Giêsu đều can thiệp: “Hãy để trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cản chúng”; “Chúa Giêsu dừng lại, truyền dẫn người mù đến”. Người đã đến trần gian để mang ơn giải thoát cho tất cả mọi người, cách riêng những người thấp cổ bé miệng trong xã hội.
“Khi Chúa Giêsu gần đến Giêrikô…” (18,35), ghi chú này cho thấy đây là giai đoạn cuối cùng của Chúa Giêsu trong hành trình lên Giêrusalem. Ở đây cũng như trong trình thuật về các trẻ em, các môn đệ cố gắng ngăn cản “kẻ bé mọn” đến gần, sợ họ làm phiền Chúa: “Người ta còn đem cả trẻ thơ đến với Chúa Giêsu để Người đặt tay trên chúng. Thấy vậy, các môn đệ la rầy chúng”; “Những người đi đầu quát nạt, bảo anh ta im đi” (18,39). Ghi chú “những người đi đầu” có ý nhắc nhở các vị lãnh đạo trong Hội Thánh đừng xem thường, bỏ qua nhu cầu của những người bé mọn trong cộng đoàn. Trong cả hai trường hợp, Chúa Giêsu đều can thiệp: “Hãy để trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cản chúng”; “Chúa Giêsu dừng lại, truyền dẫn người mù đến”. Người đã đến trần gian để mang ơn giải thoát cho tất cả mọi người, cách riêng những người thấp cổ bé miệng trong xã hội.
Trong Tin Mừng Marcô, tên của người mù được nói rõ là Bartimê (Mc 10,46). Khao khát được thấy, anh kêu lên: “Lạy ông Giêsu, Con Vua Đavít” (18,38). Hai lần, anh gọi Chúa Giêsu bằng danh hiệu Mêsia “Con Vua Đavít”. Khi Chúa Giêsu dừng lại và hỏi “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” thì anh thưa: “Lạy Ngài, xin cho tôi được thấy” (18,41). Và Luca ghi nhận: “Lập tức, anh ta nhìn thấy được và theo Người, vừa đi vừa tôn vinh Thiên Chúa” (18,43).
Đặt trình thuật chữa lành người mù vào trong chủ đề về hành trình lên Giêrusalem, độc giả có thể khám phá một tầng ý nghĩa khác. Ở đây không chỉ đơn thuần là chữa lành sự mù lòa thể lý nhưng còn là sự mù lòa đức tin, không nhìn thấy con đường cứu độ ngang qua thập giá của Chúa Giêsu. Hiểu như thế, ngay cả các môn đệ đang đồng hành với Chúa cũng bị mù lòa, vì họ vẫn chưa “thấy” được con đường cứu độ này, cho nên khi Chúa Giêsu bước vào cuộc khổ nạn, hầu hết các môn đệ bỏ Thầy mà chạy trốn.
Vẫn mãi như thế trong lịch sử Hội Thánh và trong cuộc đời mỗi Kitô hữu. Vì thế cần đặt mình vào nhân vật người mù và khiêm tốn kêu xin: “Lạy Ngài, xin cho con được thấy”. Không chỉ thấy, nhưng còn “đi theo Thầy”.
Tin Mừng theo Thánh Luca
(chương 19 – 24)
***
CHÚA GIÊSU VÀ ĐỀN THỜ GIÊRUSALEM (19,45 – 20,8)
Với sự kiện Chúa Giêsu đến Giêrusalem, thảm kịch thập giá bắt đầu và diễn tiến rất nhanh cho đến cao điểm. Chúa Giêsu vào Đền thờ, thanh tẩy Đền thờ rồi giảng dạy tại đó. Trong bối cảnh này, cuộc xung đột với hàng lãnh đạo Do thái được đẩy lên cao trào (chương 20). Chúa nói đến ngày tận cùng của Giêrusalem và của thế giới (chương 21). Rồi đến những ngày khổ nạn của Chúa (chương 22-23) và cuối cùng là sự chiến thắng của cuộc xuất hành mới do Chúa Giêsu thực hiện (chương 24).
Trình thuật thanh tẩy Đền thờ không những được thánh sử Gioan mà cả Tin Mừng nhất lãm cũng ghi lại; trong đó, bài tường thuật của Luca ngắn nhất. Luca không mô tả những hoạt động mua bán và đổi tiền ở Đền thờ, cũng giảm nhẹ bầu khí xung đột. Ngài chỉ trích dẫn Isaia 56,7 và Giêrêmia 7,11 như lý do đủ để nói lên phản ứng của Chúa Giêsu: “Nhà Ta là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành hang trộm cướp”.
Thanh tẩy Đền thờ là sự chuẩn bị nơi cho vị Thầy đích thực giảng dạy. Đền thờ trở thành trung tâm thi hành sứ vụ của Chúa Giêsu. Ngay ở đầu chương 20, thánh Luca ghi nhận sự thách thức của hàng lãnh đạo Do thái về quyền bính của Chúa: “Ong lấy quyền nào mà làm các điều ấy?” (20,2). Điều đó cho thấy Chúa Giêsu thi hành sứ vụ giảng dạy trong một bầu khí xung đột, không ngừng bị các đối thủ tấn công – nhóm Sađucê, Pharisêu, kỳ lão – và tìm cách triệt hạ.
Ở câu cuối của phần này, Luca cho biết: “Ban ngày, Chúa Giêsu giảng dạy trong Đền thờ, nhưng đến tối, Người đi ra và qua đêm tại núi gọi là núi Oliu” (21,37), hàm nghĩa Chúa Giêsu ở đó cầu nguyện trong mối hiệp thông sâu xa với Chúa Cha. Đây quả là mẫu mực cho đời sống của tất cả những ai dấn thân vào các hoạt động tông đồ.
TIỆC VƯỢT QUA (22,7-20)
Cũng như Marcô và Matthêu, Luca trình bày bữa Tiệc Ly như là tiệc Vượt Qua. Còn trong Tin Mừng Gioan, bữa Tiệc Ly diễn ra vào đêm trước lễ Vượt Qua, và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá xảy ra vào thời điểm người ta sát tế Chiên Vượt Qua.
Phêrô và Gioan được sai đi chuẩn bị mọi sự: nơi chốn, thức ăn, những thứ khác. Có lẽ Chúa Giêsu không nói rõ địa điểm vì muốn đề phòng Giuđa nghe được. Người cho Phêrô và Gioan một dấu hiệu: gặp một người đàn ông mang vò nước. Thông thường phụ nữ mới mang vò nước, còn đàn ông thì xách thùng.
Chúa Giêsu biết rằng “giờ đã đến” (22,14). Hành động của Người diễn tả sự tự hiến làm Chiên Vượt Qua mới. Người sẽ không ăn lễ Vượt Qua nữa “cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa” (22,16). Hội Thánh hiểu những lời này nói về bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu sắp thiết lập (22,19-20), và về bàn tiệc Nước Trời: “để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương quốc của Thầy” (22,30).
Trong bữa tiệc Vượt Qua, người ta thay nhiều đĩa và chén, kèm theo những lời nguyện và nghi thức. Chúa Giêsu cắt ngang nghi thức quen thuộc đó để hiến dâng chính mình cho các môn đệ dưới hình bánh rượu: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em… Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, đổ ra vì anh em” (22,19-20). Hành động này cho thấy Chúa Giêsu thiết lập Giao Ước mới. Trong giao ước cũ, sự kết hợp giữa Thiên Chúa và Dân được biểu tượng hóa bằng việc rẩy máu của một con vật (Xh 24,5-8). Ở đây, sự kết hợp được nên trọn vẹn nhờ máu của Đấng là Thiên Chúa và là con người. Các môn đệ được nhắn nhủ : “hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (22,19). “Làm việc này” bao hàm cả hai ý nghĩa: làm lại cử chỉ Chúa đã làm, và thực hành sự tự hiến thân mình.
CHÚA GIÊSU TỰ HIẾN TRÊN THÁNH GIÁ (22,32-49)
Thánh sử Luca không dùng từ “Golgotha” trong tiếng Aram, nhưng chỉ gọi đơn sơ là “Đồi Sọ” ((23,33), nơi Chúa Giêsu bị hành hình. Người bị đóng đinh cùng với hai tên gian phi, như Chúa đã báo trước: “Cần phải ứng nghiệm nơi bản thân Thầy lời Kinh Thánh đã chép: Người bị liệt vào hàng phạm nhân” (Lc 22,37; Is 53,12). Khi mọi người nghĩ rằng trong cơn đau đớn cùng cực, Chúa Giêsu sẽ thốt lên những lời nguyền rủa và thóa mạ, thì Người lại cất lời cầu xin ơn tha thứ cho những kẻ làm khổ mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (23,34). Lời cầu nguyện này trở thành mẫu mực và điểm son ghi dấu các vị tử đạo trong Kitô giáo, cụ thể là thánh Têphanô (Cv 7,60). Chi tiết “họ lấy áo của Người chia ra mà bắt thăm” (23,34) gọi về lời Thánh vịnh 22,19 “Ao mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn”.
Trong cái chết của Chúa Giêsu, thánh Luca nhấn mạnh sự thù nghịch và ghen tị của hàng ngũ lãnh đạo Do thái: “Họ buông lời cười nhạo: Hắn đã cứu người khác thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn” (23,35). Luca không dùng từ “Vua Israel” như Marcô và Matthêu (Mc 15,32; Mt 27,42) nhưng dùng từ “người được tuyển chọn” là từ đã dùng trong trình thuật Chúa Giêsu biến hình (Lc 9,35). Lính tráng đưa giấm cho Người uống, một cử chỉ có thể được xem là tử tế dành cho phạm nhân bị đóng đinh và đang khát cháy cổ, nhưng cử chỉ này trở thành sự cười nhạo khi cùng với việc đưa giấm cho Người uống, họ nói: “Nếu ông là vua dân Do thái, thì hãy cứu mình đi” (23,37).
Trình thuật về người gian phi sám hối là trình thuật riêng của thánh Luca. Người gian phi trách mắng tên gian phi khác vì cười nhạo Chúa Giêsu, và anh ta nài xin Chúa Giêsu: “Khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi” (23,42). Lời cầu xin này diễn tả vương quốc mêsia mà người Do thái trông mong, nay đã đến. Trong thần học của Luca, lời cầu này còn muốn nói đến Chúa Giêsu được tôn vinh qua sự phục sinh và thăng thiên. Đáp lại, Chúa Giêsu hứa cho anh được ở với Người, ngay hôm nay, trên Thiên Đàng; vì cái chết của Chúa là sự khởi đầu cuộc xuất hành mới (Lc 9,31).
Khi Chúa Giêsu sắp trút hơi thở cuối cùng, thì tăm tối bao trùm, màn trong Đền thờ bị xé ngay chính giữa (23,45). Đó là bức màn ở giữa Nơi Thánh và Nơi Cực Thánh; như thế, bằng cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã mở một con đường mới dẫn đến ngai Thiên Chúa. Người trút hơi thở cuối cùng với tâm tình hoàn toàn phó thác nơi Thiên Chúa: “Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con” (Tv 31,6; Lc 23,46).
Chứng kiến những gì xẩy ra, viên đại đội trưởng khẳng định Chúa Giêsu vô tội: “Ông này đích thực là người công chính” (23,47). Luca dùng từ “người công chính” thay vì “Con Thiên Chúa” như trong Mc 15,39 và Mt 27,54. Dân chúng “đấm ngực trở về” (23,48) hàm nghĩa vừa buồn phiền khi chứng kiến một người vô tội phải chết, vừa hối hận vì sự sai trái của mình. Thánh Luca không kể lại việc các môn đệ chạy trốn (Mc 14,50; Mt 26,56), ngài chỉ ghi nhận họ “đứng đàng xa” quan sát và theo dõi sự kiện. Lại chẳng phải là điều đáng cho mỗi Kitô hữu suy nghĩ sao, vì sự bàng quan, vô cảm, đứng đàng xa, của chúng ta khi chứng kiến những khổ đau mà Hội Thánh Chúa và bao nhiêu người vô tội đang phải chịu?
TRÊN ĐƯỜNG EMMAUS (24,13-35)
Hai môn đệ Emmaus đã cùng có mặt với Nhóm Mười Một vào sáng ngày thứ nhất trong tuần, “cùng ngày hôm ấy” (24,13), nghĩa là họ đã nghe câu chuyện của các phụ nữ và của Phêrô. Thánh Luca biên soạn trình thuật này theo cùng một lược đồ như câu chuyện về viên thái giám người Ethiopia được Philip rửa tội: trên đường đi, giải thích Kinh Thánh, hành động đặc biệt, sự biến mất lạ lùng (Cv 8,26-40).
Chúa Giêsu xuất hiện như một khách hành hương từ Giêrusalem về. Hai môn đệ không nhân ra Người. Mắt họ “còn bị ngăn cản” (24,16). Đây là thuật ngữ diễn tả sự mù lòa thiêng liêng. Nhiều trình thuật về Chúa Kitô phục sinh cho biết Người nhìn rất khác (Mc 16,12; Ga 20,14; 21,4). Chắc chắn thân xác của Đấng Phục sinh đã được biến đổi, nhưng điểm chính yếu ở đây là cần phải có cặp mắt mới, cặp mắt của đức tin, mới nhận ra Người. Thật vậy, dù chúng ta có những chứng từ đáng tin cậy về sự gặp gỡ Chúa Phục sinh, nhưng cần phải hiểu rằng việc gặp Chúa, thấy Chúa, không phải là do cặp mắt tự nhiên, nhưng do đức tin.
Hai môn đệ buồn rầu vì cái chết của Chúa Giêsu và lấy làm lạ là tại sao một sự kiện kinh thiên động địa như thế mà ông khách bộ hành lại không biết (24,18). Trong số hai môn đệ, có một người được nêu tên là Cleopas; có lẽ sau này Cleopas nắm một vai trò quan trọng trong cộng đoàn Kitô hữu. Họ mô tả Chúa Giêsu là vị tiên tri đầy uy thế, vị tiên tri được mong chờ đã lâu ((Lc 24,19; Đnl 18,15; Cv 7,22). Họ còn hi vọng Người không chỉ là vị tiên tri mà còn là “Đấng sẽ giải thoát Israel” (24,21). Thế mà “các thượng tế và thủ lãnh đã nộp Người…” (24,20). Trách nhiệm của hàng lãnh đạo lại được nhấn mạnh.
Hai môn đệ cũng đã nghe kể về ngôi mộ trống, nhưng sự kiện ấy chỉ làm họ kinh ngạc chứ không làm cho họ tin rằng Chúa đã sống lại (24,22-24). Thật ra, sự phục sinh mà người Do thái trông mong là chiến thắng phổ quát của người công chính vào thời điểm tận cùng lịch sử, chứ không phải là sự phục sinh cá nhân trong thời gian của lịch sử.
Chúa Giêsu trách mắng hai môn đệ: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các tiên tri” (24,25). Họ đã đọc sách các tiên tri nhưng lại không nhận ra rằng trong chương trình của Thiên Chúa, phải đi qua thập giá mới đạt đến vinh quang. Cho nên Đấng phục sinh “giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (24,27).
Các môn đệ ngỡ ngàng khi nghe Chúa Giêsu giải thích Kinh Thánh và họ nài xin Chúa “ở lại” với họ (24,29). Động từ “ở lại” mang ý nghĩa rất phong phú, vd. trong Tin Mừng Gioan (Ga 14,17; 15,4-10). Khi dùng bữa với họ, Chúa Giêsu “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ” (24,30). Cử chỉ này nhắc đến phép lạ hóa bánh ra nhiều (Lc 9,16) và Bữa Tiệc Ly (22,19). Chính trong “việc bẻ bánh” (tên gọi ban đầu của cử hành Thánh Thể – Cv 2,42,46) mà hai môn đệ nhận ra Chúa, nhưng Người biến mất khỏi tầm nhìn tự nhiên của họ. Họ nhớ lại lòng mình đã bừng cháy khi nghe Chúa giải thích Kinh Thánh (24,32) mà không biết tại sao. Bây giờ họ hiểu được là mình đã gặp gỡ Đấng Phục sinh. Cũng vậy, người Kitô hữu gặp được Đấng Phục sinh khi cử hành Thánh Thể và đọc Sách Thánh.
Kinh nghiệm gặp gỡ Đấng Phục sinh không thể giấu kín, nhưng phải được chia sẻ và loan báo (Cv 4,20). Khi hai môn đệ về đến Giêrusalem thì Tin Mừng Phục sinh đã được công bố: “Chúa sống lại thật rồi và đã hiện ra với ông Simon” (24,33). Thánh Luca không kể lại việc này, nhưng kết thúc trình thuật bằng việc nhấn mạnh đến bí tích Thánh Thể: “Hai ông huật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh” (24,35).
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top