Các Sách Tiếp Theo Của Ngũ Thư

Sách Gio-sua

***

I. TỔNG QUÁT

Giôsua là trợ tá của Môsê và được chọn để kế tục sự nghiệp của Môsê lãnh đạo Dân Chúa. Trong tiếng Do thái, Giôsua có nghĩa là “Thiên Chúa cứu” hay “Xin Thiên Chúa cứu.”

Vào khoảng năm 1200 trước Công nguyên, Giôsua đưa dân Israel tiến vào Đất Hứa. Sau khi vượt qua sông Giođan và chiếm đất Canaan, họ lấy Gilgal làm bản doanh và Sichem làm nơi thờ phượng. Giôsua đã triệu tập tất cả các chi tộc Israel tại Sichem và lập thoả thuận với họ.

Sách Giôsua như ta có ngày nay là sự thu thập những lời truyền khẩu về Miền Đất Hứa, và chỉ được hoàn thành sau thời lưu đày Babylon. Sách gồm ba phần chính:

– Chinh phục đất Canaan (chương 1 – 12)
– Phân chia đất (chương 13-21)
– Các chi tộc bên kia sông Giođan trở về và diễn từ cuối cùng của Giôsua (chương 22 – 24)

Mục đích chính của sách là chứng minh sự trung tí1Pr2,9-cungxên Chúa với lời Người đã hứa, đặc biệt là lời hứa sẽ ban cho dân miền đất chảy sữa và mật. Niềm tin vào sự trung tín của Thiên Chúa là điểm tựa cho Dân, để dù sống giữa cảnh lưu đày, họ vẫn một niềm tin tưởng vào sự hiện diện và chăm sóc của Thiên Chúa, Đấng sẽ giải thoát họ và đưa họ về miền Đất Hứa.

Đồng thời, Dân Chúa phải ý thức rằng họ sẽ có thể sống mãi trong miền đất Thiên Chúa đã ban cho họ, với điều kiện là họ trung thành tuân giữ tất cả những điều Môsê đã truyền qua Lề Luật: “Anh em phải thật cương quyết tuân giữ và thực hành tất cả những gì ghi trong Sách Luật Môsê, không đi trệch bên phải bên trái” (23,6).

II. QUA SÔNG GIOĐAN (3,1 – 5,12)

1. Chuẩn bị (3,1-13)

Trình thuật này mô tả việc qua sông Giođan như một cuộc rước trọng thể trong phụng vụ. Mục đích là để cho thấy chính Thiên Chúa hằng sống là Chúa của toàn thể cõi đất đã đưa dân Israel vào Đất Hứa. Như thế, dân đang sống cảnh lưu đày vững tin vào quyền năng Chúa là Đấng sẽ giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày.

2. Qua sông (3,14-17)

Trong cuộc rước trọng thể, dân đi theo các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước, và khi nước dừng lại thì dân đi qua sông. Rõ ràng trình thuật này muốn nhắc lại việc dân Israel qua Biển Đỏ; như thế làm nổi bật ý nghĩa: việc vào Đất Hứa chính là sự kết thúc hành động Thiên Chúa giải thoát Dân, đã được bắt đầu từ cuộc xuất hành. Xuất Hành trở thành điểm quy chiếu qua đó thấy được hành động giải thoát của Chúa.

3. Bia kỷ niệm (4,1-9)

Các tấm bia là sự nhắc nhớ cụ thể rằng “nước sông Giođan đã bị chặn lại trước Hòm Bia Giao Ước của Đức Chúa khi Hòm Bia qua sông Giođan.” Như thế, chính Chúa chứ không ai khác, đã đưa dân qua sông.

4. Hoàn tất việc qua sông (4,10-18)

Việc qua sông Giođan vừa khép lại một giai đoạn trong lịch sử Israel vừa mở ra một giai đoạn mới. Trình thuật này mô tả bước chuyển tiếp giữa hai giai đoạn. Trình thuật này được đóng khung bằng hai sự kiện mang tính phụng vụ: Giôsua dựng mười hai tảng đá lấy từ sông Giođan (4,20-24) và việc cử hành lễ Vượt Qua (5, 10-12).

III. DIỄN TỪ CUỐI CÙNG CỦA GIOSUA (chương 23 & 24)

Biết rằng ngày ra đi của mình đã gần kề, Giôsua triệu tập dân lại để nhắc nhở họ về mọi điều đã xảy ra, đồng thời khuyến khích họ trung thành với giao ước. Ông cũng khuyến cáo dân về những hậu quả khôn lường nếu họ bất trung và chống lại Chúa.

IV. Liên quan đến Tân Ước

1. Giôsua, hình bóng của Chúa Kitô, Đấng đưa dân vào Nước Thiên Chúa.

2. Việc qua sông Giođan là hình bóng của bí tích Thánh Tẩy.

3. Đất Hứa là hình bóng của Vương quốc Thiên Chúa.

Sách Thủ lãnh

***

I. THẦN HỌC VỀ LỊCH SỬ

1. Biên soạn sách Thủ Lãnh

Các Thủ Lãnh là những người đã đóng vai trò hướng dẫn Dân Chúa trong suốt 150 năm sau ông Giôsua (1200-1050 trước Công nguyên). Tuy nhiên sách Thủ Lãnh đã chỉ được biên soạn trong thời Lưu đày, nghĩa là sau đó khoảng 400-500 năm. Như thế, sách được biên soạn không chỉ nhằm mục đích ghi lại những sự kiện lịch sử nhưng còn trình bày một cái nhìn thần học về lịch sử.

2. Thần học về lịch sử

Thần học căn bản về lịch sử mà tác giả muốn trình bày là: tội lỗi dẫn đến hình phạt, còn sám hối dẫn đến ơn tha thứ và giải thoát (đọc 6,1-10; 10,6-16). Ý nghĩa thần học này rất quan trọng đối với dân lưu đày: họ đã mất quê hương vì tội lỗi của họ, nhưng nếu họ biết ăn năn hối cải thì Thiên Chúa sẽ tha thứ và giải thoát họ. Người Kitô hữu cũng cần tập nhìn những biến cố lịch sử bằng cặp mắt đức tin để khám phá sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa ngay trong lịch sử.

II. NHỮNG BÀI HỌC LỚN CHO ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN

1. Thiên Chúa là Đấng kiên nhẫn

Dân Israel đã ký kết giao ước với Thiên Chúa; tuy nhiên họ đã không trung thành với giao ước. Họ bỏ Chúa để chạy theo các ngẫu tượng mà dân địa phương tin rằng mang lại sự thịnh vượng như Baal, Asherah, Astarte… Họ còn bắt chước cả những cách tế tự của dân địa phương, vd. giết người để dâng hiến làm của lễ.

Về phía Thiên Chúa, Ngài không bao giờ mất lòng kiên nhẫn. Dù dân có phản bội giao ước, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương họ bằng tình yêu trung tín. Nếu tội lỗi của dân dẫn đến án phạt thì cần nhìn những án phạt này trong viễn tượng của tình yêu trung tín đó, nghĩa là Thiên Chúa trừng phạt dân không phải vì căm thù mà vì tình yêu thương, để sửa dạy dân và kêu gọi họ trở về đường ngay nẻo chính. Vậy người Kitô hữu có thể rút được bài học nào cho chính mình và cho Giáo Hội?

2. Thiên Chúa sử dụng những con đường lạ lùng.

Để thực hiện chương trình cứu độ, Thiên Chúa sử dụng cả những con người yếu đuối và tội lỗi, chẳng hạn những phụ nữ chân yếu tay mềm, hay Samson nặng nề xác thịt… Điều này làm ta liên tưởng đến lời thánh Phaolô: “Những gì thế gian cho là điên dại thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém thì Thiên Chúa đã chọn để hạ gục những kẻ hùng mạnh; những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì hiện có hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người” (1Cor 1,27-29). Đồng thời mỗi Kitô hữu cần nhớ lại lời Thánh Kinh: “Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa” (x. 1Cor 1,31) và “Kho tàng ấy, chúng tôi chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa chứ không phải từ chúng tôi” (2Cor 4,7).

3. Israel giữa dân ngoại: hình ảnh của Giáo Hội ngày nay

So sánh với các dân Canaan và Philitinh, Israel vừa thua kém về dân số vừa thua kém về khả năng. Trong thế giới ngày nay, xem ra càng ngày Giáo Hội càng trở thành cộng đoàn thiểu số, đồng thời bị tấn công về nhiều mặt.

Tuy nhiên, dù sống trong hoàn cảnh nào, Dân Chúa vẫn có trách nhiệm làm muối cho đời và ánh sáng cho trần gian (Mt 5,13). Điều quan trọng là phải xem lại bản thân mình còn chất muối và ánh sáng không; nếu không sẽ trở thành vô dụng và bị quăng ra ngoài cho người ta chà đạp.

III. SÁCH THỦ LÃNH VÀ ĐỜI SỐNG KITÔ HỮU

1. Bạn hãy đọc lại câu chuyện cuộc đời Samson, một vị thủ lãnh nổi tiếng trong lịch sử Israel.

2. Từ câu chuyện này, bạn có thể rút ra điều gì cho đời sống thiêng liêng của mình?

Sách Bà Rút

chương 1 – 4

***

Có nhiều cách giải thích nội dung sách Ruth, ví dụ đề cao những nhân đức trong đời sống gia đình qua hình tượng các nhân vật như ông Booz và bà Ruth, hoặc phê phán những quan niệm thời xưa về hôn nhân… Tuy nhiên nội dung chính yếu cần đề cập tới là dung mạo Thiên Chúa được bày tỏ qua tác phẩm, và đức tin hiểu như sự đáp trả của con người trước tiếng gọi của Thiên Chúa.

I. BÀ NAOMI VÀ CUỘC VẬT LỘN VỚI THIÊN CHÚA

1. Từ một phụ nữ đạo đức bình thường đến tâm trạng cay đắng

“Đừng gọi tôi là Naomi nữa, hãy gọi tôi là Mara” (1,20). Mara có nghĩa là Chúa giáng phạt: “Đấng Toàn năng đã bắt tôi phải chịu quá nhiều cay đắng.” Lý do dẫn bà Ruth đến tâm trạng cay đắng này là vì bà bị mất tất cả: “Tôi ra đi, của cải dư đầy, Đức Chúa đem tôi về, hai bàn tay trắng” (1,21); không những mất của cải mà còn rơi vào tình trạng góa bụa cô đơn.

2. Sự Ac là nguyên nhân lớn dẫn đến tình trạng vô thần và mất niềm tin

Thiên Chúa bị coi là nguyên nhân mọi đau khổ: “Đức Chúa đã làm cho tôi tủi nhục, Đấng Toàn năng đã để tôi đau khổ” (1,21); vì thế không còn thấy được dung nhan Thiên Chúa tình yêu. Nhận xét này mời gọi ta nhìn lại kinh nghiệm cá nhân của mình khi phải đối diện với đau khổ. Ta cũng rất dễ đánh mất niềm tin và cậy trông vào Thiên Chúa khi phải đối diện với những thử thách và đau khổ. Đây thực sự là một vấn nạn lớn, đúng hơn là một mầu nhiệm và ta chỉ tìm được câu trả lời khi chiêm ngắm Chúa Kitô chịu đóng đinh.

II. BÀ RUTH VÀ NHỮNG NHÂN ĐỨC TRONG ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH

1. Gắn bó với gia đình chồng, kể cả trong niềm tin tôn giáo:

Bà Ruth gắn bó với mẹ chồng: “Mẹ đi đâu, con đi đó; mẹ ở đâu, con ở đó, dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con” (1,16). Bà lại là người có lòng nhân hậu, lo cho mẹ già: “Người ta đã kể lại cho ta nghe tất cả những gì con đã làm cho mẹ chồng sau khi chồng con mất… “ (2,12).

2. Thánh Phaolô và đời sống gia đình

Tấm gương của bà Ruth làm ta liên tưởng đến lời nhắn nhủ của thánh Phaolô về đời sống gia đình: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này. Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Eph 6, 1-4).

3. Tấm gương của bà Ruth còn mời gọi ta nhìn lại mối quan hệ của ta với Thiên Chúa: trong đời sống đức tin, liệu ta có gắn bó với Chúa trong mọi hoàn cảnh như bà Ruth gắn bó với gia đình nhà chồng?

III. ĐƯỜNG LỐI CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA

1. Thiên Chúa điều khiển mọi sự

Xem ra chính bà Naomi đã sắp xếp mọi sự và đã đạt được mục đích: chính bà khuyên Ruth đến với ông Booz (3,1-4) và bà đã có người bảo tồn dòng dõi (4,14-15). Tuy nhiên khi đạt kết quả thì chính Thiên Chúa lại được ca tụng: “Chúc tụng Đức Chúa, Đấng hôm nay đã không để cho bà phải thiếu thốn người bảo tồn dòng dõi: tên tuổi con trẻ sẽ được tung hô tại Israel” (4,14). Như thế, tác giả đã nhìn mọi sự từ quan điểm đức tin. Chính Thiên Chúa là Chủ mọi sự. Ngài vận dụng mọi sự nhằm mục đích cứu độ con người, kể cả thông qua những tính toán tự nhiên của con người.

Chúa Kitô thuộc dòng dõi Davit, có tổ tiên là bà Ruth (Đọc Ruth 4, 17-22 // Mt 1,1-5)

Trong gia phả của Chúa Giêsu, có tên của bốn phụ nữ và cả bốn phụ nữ này đều có vấn đề trong đời sống riêng :
* Tama (x. St 38, 15-20)
* Rakhab (x. Josua 2,6. 22-25)
* Ruth (x. Ruth, chương 3)
* Bathsêba (x. 2Samuel, chương 11)

Khi Thiên Chúa làm người, Ngài đã chấp nhận có mặt trong một dòng dõi được ghi dấu bởi tội lỗi; nhờ đó Ngài cứu nhân loại khỏi tội lỗi. Định hướng này được thể hiện rõ nét trong suốt cuộc sống trần thế của Chúa Giêsu: Ngài đồng bàn với những người tội lỗi đến nỗi bị xã hội lên án. Ơn Cứu độ của Thiên Chúa không loại trừ bất cứ ai. Vấn đề là mỗi người có sẵn sàng mở lòng ra để đón nhận Ơn Cứu độ đó không.

Sách Samuel 1

chương 1-15

***

I. TỔNG QUÁT

1. Tác phẩm

Ở nguồn gốc, sách Samuel 1 & 2 chỉ là một nhưng khi dịch Thánh Kinh từ tiếng Do thái sang tiếng Hi Lạp (bản 70) thì sách được chia ra làm hai. Các bản dịch sang tiếng La Tinh và các ngôn ngữ khác cũng theo sự phân chia này.

Sách Samuel là tập hợp các bài tường thuật về lịch sử Israel từ khi dân vào đất Canaan (thế kỷ 12) đến thời lưu đày (587 trước Công nguyên). Sứ điệp chính của tác phẩm là Thiên Chúa đã chọn Israel làm dân riêng, và qua Môsê đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập và đã ký kết giao ước với họ. Lời Thiên Chúa ban qua Môsê vẫn tiếp tục hướng dẫn Dân Chúa cũng như các vị lãnh đạo dân. Nếu dân trung thành với luật giao ước thì sẽ thịnh vượng và bình an; ngược lại, họ sẽ phải chịu hình phạt từ những tai họa thiên nhiên đến sự xâm lăng của quân thù và cả sự lưu đày.

Sách Samuel không phải là sách lịch sử theo nghĩa hiện đại cho bằng trình bày thần học về lịch sử, nghĩa là nói đến mối quan hệ của Thiên Chúa với dân Người.

2. Nhân vật

Ba nhân vật chính trong sách: Samuel và hai vị vua đầu tiên trong lịch sử Israel: Saulê và Davít. Những bài tường thuật về việc sinh hạ Samuel cũng như các nhân vật khác cho thấy Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử để cứu độ dân. Saulê là vị vua đầu tiên trong lịch sử Israel. Ơng được Thiên Chúa tuyển chọn nhưng sau đó lại bị ruồng bỏ vì không trung thành. Sự nghiệp của Saulê kết thúc trong cuộc chiến chống lại người Philitinh (1 Sam 31). Davít được phong vương từ rất sớm (1 Sam 16) nhưng ông phải trải qua nhiều thử thách và đau khổ mới thực sự nắm trọn vương quyền. Ơng được xem như vị minh quân mẫu mực của dân Israel và cuộc đời ông chất chứa nhiều bài học sống động cho đời sống đức tin của ta.

3. Dàn bài tổng quát

Phần I (1 Sam 1-3) : Samuel và nhà Eli
Phần II (1 Sam 4-7) : Hòm bia Giao ước
Phần III (1 Sam 8-15) : Vua Saulê
Phần IV (1 Sam 16-31) : Saulê và Davít
Phần V (2 Sam 1-8) : Chiến đấu giành
vương quốc
Phần VI (2 Sam 9-20): Vua Davít
Phần VII (2 Sam 21-24): Phụ lục

II. SAMUEL

1. Sinh hạ Samuel

Trong lời cầu của bà Hanna (1,9-19a), bà hứa với Chúa là nếu bà sinh con trai, bà sẽ dâng con cho Chúa như một nadia (nazir) (x. Ds 6). Samson (Tl 13-16) cũng có lời khấn nazir nhưng do sứ thần đòi hỏi chứ không do mẹ ông hứa.

Tên của Samuel có nghĩa là “người đến từ Thiên Chúa.” Tên gọi này vừa nói lên sự đáp trả của Thiên Chúa trước lời khấn xin tha thiết của bà mẹ vừa cho thấy sứ mạng của Samuel.

Bài ca tạ ơn của bà Hanna (2,1-10) tương đương với Kinh Ngợi Khen của Mẹ Maria (Lc 1,46-55). Cả hai bài ca đều diễn tả niềm vui khi sinh con, đều chúc tụng quyền năng Thiên Chúa, đều nói đến việc hạ bệ kẻ giàu có và nâng cao người nghèo khó.

2. Ơn gọi của Samuel

Hình ảnh thầy cả Eli với cặp mắt đã mờ (3,2) diễn tả đời sống đức tin của Israel lúc đó: ngọn đèn của Chúa, tức là Lời Chúa, đã bị dập tắt vì lối sống buông thả của hàng tư tế.

Thiên Chúa lên tiếng gọi Samuel nhưng cậu bé chỉ nhận ra tiếng Chúa gọi nhờ sự hướng dẫn của thầy cả Eli. Sự kiện này cho thấy tầm quan trọng của việc phân định thiêng liêng trong đời sống đức tin của ta.

“Này con đây”: lời đáp trả của Samuel gợi nhớ lời đáp trả của Abraham khi Chúa gọi ông hiến dâng Isaac (St 22,1-12). Thái độ sẵn sàng của Samuel tương phản với sự trì trệ của hàng tư tế không muốn lắng nghe Lời Chúa (2,25). Samuel là vị tư tế trung tín, được Chúa chọn để thay thế cho hàng tư tế bất trung.

3. Samuel thi hành sứ vụ

Tại Mizpah, dân Israel cử hành sám hối gồm việc đổ nước, ăn chay, và xưng thú tội lỗi. Samuel chính thức thi hành sứ vụ. Việc Samuel dựng bàn thờ kính Chúa nằm trong truyền thống lâu đời của Nôê (St 8,20), Abraham (St 12,7; 22,9), Isaac (St 26,25), Giacop (St 35,7), Môsê (Xh 17,15)…
Samuel là khuôn mặt duy nhất trong Thánh Kinh vừa là tư tế vừa là tiên tri và thẩm phán (thủ lãnh). Từ sau thời của ông, ơn gọi tiên tri và tư tế bắt đầu tách rời ra.

Sách Samuel 1

chương 16 – 31

***

I. ĐAVÍT ĐƯỢC XỨC DẦU PHONG VƯƠNG (đọc 16, 4-13)

1. Cách thế tuyển chọn của Thiên Chúa

Samuel được Thiên Chúa sai đến xức dầu phong vương cho một người con trai của ông Giesê. Thế nhưng những người mà Samuel nghĩ rằng Chúa sẽ chọn lại không phải là người Chúa muốn. Và Người phán: “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (16,7).

2. Học cách nhìn của Chúa

Ở mọi thời đại, cách riêng trong thời đại ngày nay, người ta chú trọng rất nhiều đến dáng vẻ bên ngoài: trong sản xuất kinh doanh, trong việc đánh giá con người, kể cả trong đường hướng giáo dục, ví dụ chủ nghĩa thành tích dẫn đến bao nhiêu gian dối trong môi trường học đường.

Càng sống trong một môi trường như thế, người Kitô hữu càng cần phải tập sống chiều sâu nội tâm, trau giồi con người bên trong, hơn là chỉ quan tâm đến những hình thức bên ngoài.

II. ĐAVÍT CHIẾN ĐẤU CHỐNG GOLIÁT (đọc 17, 40-47)

Nhìn từ bên ngoài, cuộc chiến giữa Đavít và Goliát quả là cuộc chiến không cân sức. Tương tự như thế là cuộc chiến giữa Giáo Hội và thế gian. Thế nhưng trong cuộc chiến khốc liệt đó, Đavít đã chiến thắng. Vậy bí quyết chiến thắng của Đavít ở đâu? Lời tuyên bố của Đavít đã nói lên tất cả, “Mày mang gươm, mang giáo, cầm lao mà đến với tao. Còn tao, tao đến với mày nhân danh Đức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa các hàng ngũ Israel mà mày thách thức” (17,47).

Cũng thế, trong cuộc chiến đấu với thế gian, khi nào Giáo Hội chỉ tìm nương tựa vào sức mạnh quân sự hay kinh tế của người đời, Giáo Hội sẽ thất bại. Ngược lại, khi Giáo Hội thực sự nương tựa vào Chúa thì Giáo Hội sẽ chiến thắng. Đó không phải là chiến thắng theo nghĩa lợi lộc cá nhân nhưng là chiến thắng của tình yêu và chân lý.

Mỗi Kitô hữu cũng cần ghi nhớ bài học này cho đời sống thiêng liêng của mình, nhất là khi phải chiến đấu chống lại tội lỗi.

III. VUA SAUL VÀ TÍNH GHEN TỊ

1. Sự kiện

Sau khi Đavít chiến thắng tên Philitinh, dân chúng hò reo ca tụng Đavít, và Sách Thánh ghi nhận rằng “Từ ngày đó về sau, vua Saul nhìn Đavít với con mắt ghen tị” (18, 6-9). Sự ghen tị đó đã thúc đẩy Saul nhiều lần tìm cách giết Đavít (x. 18, 10-12; 19,8-10)

2. Ghen tị

Nguồn gốc của sự ghen tị là tính ích kỷ, không nhìn thấy ích chung, chỉ thấy quyền lợi và địa vị của mình. Từ đó, tìm cách hạ thấp thành công của người khác và vui mừng trước thất bại của người khác. Khi không kềm chế được, sự ghen tị còn có thể dẫn người ta đến chỗ phạm nhiều tội ác khác.

Ghen tị là một thói xấu có mặt nơi mỗi người và có thể gây nhiều tác hại cho đời sống chung cũng như công việc chung, kể cả việc tông đồ. Điều quan trọng là phải ý thức và cố gắng vượt qua. Để chữa trị thứ bệnh phổ biến này, cần tập nhìn vào ích chung và chương trình của Chúa hơn là chỉ nghĩ đến quyền lợi và sở thích riêng của mình. Nếu ta thực sự tha thiết với công trình của Chúa và ích lợi chung của mọi người, ta sẽ vui mừng đón nhận và cộng tác với bất cứ ai phục vụ ích lợi chung và công trình của Chúa.

IV. SỰ QUẢNG ĐẠI CỦA ĐAVÍT

Đối lại sự ghen tị của Saul, Sách Thánh làm nổi bật lòng quảng đại của Đavít. Đavít đã sẵn lòng tha thứ cho kẻ làm hại mình (24,1-8). Động lực của lòng quảng đại này không chỉ là những lý do tự nhiên nhưng sâu xa hơn, chính là tầm nhìn đức tin của Đavít. Ông nhìn Saul là người được Chúa xức dầu, và vì thế không thể ra tay sát hại (24,7).

Tấm gương của Đavít làm nổi bật lời nhắn nhủ của Chúa Giêsu: “Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những người ngược đãi anh em” (Mt 5,44). Hãy để Chúa xét xử mỗi người theo việc họ làm. Hãy tập đặt mình vào hoàn cảnh người khác để có thể cảm thông và chia sẻ hơn là lên án và trả thù.

Sách Samuel 2

chương 1-12

***

I. THÁNH THIỆN VÀ TỘI LỖI

Vua Đavít được gọi là vua thánh Đavít nhưng trong thân phận con người, nhà vua cũng đã phạm những lầm lỗi nặng nề. Trình thuật Thánh Kinh về tội của Đavít soi sáng cho ta nhiều điều về ý nghĩa của tội lỗi cũng như đưa ra những cảnh giác cụ thể về mối nguy hiểm của tội.

1. Sự kiện tội lỗi (11,1-5)

Vua Đavít say mê bà Bathsêba, vợ của tướng Uria, và tìm cách chiếm đoạt bà: “Vua sai lính biệt phái đến đón nàng. Nàng đến với vua và vua nằm với nàng; khi ấy nàng mới thanh tẩy sau thời kỳ ô uế. Rồi nàng trở về nhà. Nàng đã thụ thai. Nàng sai người đến báo tin cho vua Đavít rằng: “Tôi có thai.”

2. Sự tàn phá của tội (11,6-26)

Tội này lôi kéo theo tội khác. Khi nghe tin Bathsêba đã có thai, nhà vua phải tìm cách che giấu tội lỗi của mình. Trước hết, vua cho gọi Uria, chồng bà về gặp vua, rồi ra lệnh cho ông về nhà nghỉ ngơi. Nếu Uria về thăm gia đình và sau đó bà Bathsêba có thai, âu cũng là chuyện bình thường. Nhưng “Uria nằm ở cửa đền vua với tất cả các bề tôi của chúa thượng ông, và ông không xuống nhà mình,” và lý do ông đưa ra thật đáng khâm phục, “Hòm Bia cũng như Israel và Giuđa đang ở lều, chủ tướng tôi là ông Gioap và các bề tôi của chúa thượng đang đóng trại ở ngoài đồng trống, mà tôi đây lại về nhà ăn uống và nằm với vợ tôi sao?” (11,11). Nhưng vua Đavít phải tìm mọi cách che giấu tội lỗi của mình nên khi sử dụng trò gian dối không thành, nhà vua phải dùng đến thủ đoạn tàn ác nhất. Ông viết thư cho tướng Goap, căn dặn rằng: “Hãy đặt Uria ở hàng đầu, chỗ mặt trận nặng nhất, rồi rút lui bỏ nó lại, để nó bị trúng thương mà chết” (11,15). Oái ăm thay, chính Uria lại là người cầm bản án tử cho mình để nộp cho Gioap (11,14). Và Đavít đã toại nguyện. Bà Bathsêba làm tang lễ cho chồng, sau đó vua Đavít đón bà về làm vợ mình (11,23-27). 

Như thế, trong trường hợp của vua Đavít, gian dâm dẫn đến gian dối rồi dẫn đến sát nhân. Tội này kéo theo tội khác. Đây cũng là thực tế trong đời sống mỗi người, có điều nhiều khi ta không đủ can đảm và khiêm tốn nhận ra sự thật này. Và vì không thấy đúng sự thật nên không thấy rõ sự tàn phá của tội, cũng không đủ quyết tâm để xa tránh tội.

3. Dịp tội

Khi mô tả tội của Đavít, Sách Thánh ghi nhận, “Vào một buổi chiều, vua Đavít từ trên giường trỗi dậy và đi bách bộ trên sân thượng đền vua. Từ sân thượng, vua thấy một người đàn bà đang tắm. Nàng có nhan sắc tuyệt vời” (11,2). Sau đó nhà vua cho vời người phụ nữ đó vào cung.

Như thế, tội của Đavít khơi nguồn từ chỗ “nhìn thấy người phụ nữ đang tắm.” Giác quan là cánh cửa cho tâm hồn mở ra với thế giới bên ngoài, nhờ đó nhận biết thế giới, thiết lập tương giao, và làm cho đời sống thêm phong phú. Chính vì thế, bị mất đi một giác quan, vd. khiếm thị hay khiếm thính, đều làm cho cuộc sống trở thành nghèo nàn và khó khăn hơn. Tuy nhiên thế giới giác quan cũng có thể trở thành cửa ngõ cho những ham muốn tội lỗi. Vì thế, các nhà đạo đức mới nói đến việc canh chừng ngũ quan. 

Xa hơn, phải nói đến những dịp tội. Không phải vô lý khi trong kinh ăn năn tội, người Công giáo nói đến quyết tâm xa tránh dịp tội, vì bất cứ tội nào ta phạm cũng đều có dịp của nó. Không xa tránh dịp tội, sẽ khó lòng tránh được chính tội lỗi. Một người nghiện rượu sẽ khó tránh được chuyện uống rượu nếu hẹn hò với bạn bè trong quán nhậu. Hai bạn trẻ sẽ khó tránh được quan hệ xác thịt khi hẹn nhau nơi tăm tối và kín đáo. Quyết tâm không chỉ là những ý hướng tốt chung chung, nhưng một quyết tâm chân thành hàm chứa nỗ lực xa tránh dịp tội, nhờ đó có thể giữ mình khỏi tội lỗi.

Vua Đavít được gọi là vua thánh, và quả thật, cuộc đời ông là tấm gương sáng cho các nhà lãnh đạo cũng như cho từng người tín hữu về nhiều phương diện. Thế nhưng con người tốt lành đó cũng đã có những giây phút sa ngã trầm trọng, từ một đam mê nhất thời dẫn đến nhiều hậu quả trầm trọng. Âu cũng là lời nhắc nhớ cho ta về sự thật hiển nhiên mà Chúa Giêsu đã dạy, “Tinh thần thì hăng say nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26,41). Ý thức đó sẽ giúp ta khiêm tốn hơn, nhờ đó biết cảnh giác trước những cám dỗ trong đời sống đức tin.

Sách Samuel 2
(Chương 13-24)

I. SÁM HỐI

1. Biết mình: khởi điểm của hành trình sám hối (12,1-15)

Đavít phạm tội và tìm cách che giấu tội lỗi. Có lẽ ông đã thành công vì âm mưu của ông khéo léo quá và vì ông là vua nên không ai dám đụng tới. Nhưng hành động của ông không thể qua mắt Thiên Chúa (11,27). Ngài sai tiên tri Natan đến để giúp Đavít nhận ra sự thật mà ông đang tìm cách che giấu.

“Bạn hãy biết chính mình.” Người Hi Lạp coi đây là khởi điểm của triết học, và thực sự đây là chân lý căn bản nhất trong đời người nhưng cũng lại là chân lý bị lãng quên nhiều nhất. Đavít cũng không dễ dàng nhận ra sự thật về chính mình. Oâng vẫn tỏ ra là một vị minh quân sáng suốt và đầy tình nhân ái. Vì thế khi nghe tiên tri Natan kể chuyện về một người giàu cóù đã ức hiếp người nghèo đến độ bắt cả con chiên duy nhất của người nghèo mà làm tiệc đãi khách của mình, Đavít đã hùng hồn tuyên bố, “Có Đức Chúa hằng sống! Kẻ nào làm điều ấy, thật đáng chết” (12,5). Nhưng trong khi ông sáng suốt nhận diện sự bất công mà tên nhà giàu gây ra cho đồng loại, thì ông vẫn không nhận ra sự bất công trầm trọng chính ông đã gây ra. Trong khi ông hùng hồn lên án tên nhà giàu, ông không biết rằng ông đang tuyên án chính mình! Chỉ đến khi tiên tri Natan thẳng thắn công bố, “Kẻ đó chính là ngài” (12,7), ông mới ngỡ ngàng.

Đavít đã không thể biết mình khi chỉ dựa trên dư luận. Ơng chỉ nhận ra sự thật khi đối diện với Thiên Chúa và Lời của Ngài. Cũng vậy, người Công giáo có thói quen xét mình để nhận ra sự thật về mình. Nhưng ta sẽ không nhận ra sự thật đó khi xét mình dựa vào dư luận xã hội, dựa vào sự đánh giá của người đời, hoặc tự so sánh mình với người khác. Ta chỉ có thể biết rõ về mình khi đối diện với Thiên Chúa và Lời của Ngài : “Lạy Chúa, trong ánh sáng Chúa, chúng con nhìn thấy ánh sáng.”

2. Đền tội

Khi nghe tiên tri Natan kể về một trường hợp bất công, Đavít đã tuyên án: “Nó phải đền gấp bốn con chiên cái, bởi vì nó đã làm chuyện ấy và đã không có lòng thương xót” (12,6). Lời tuyên án này báo trước chính hình phạt ông phải chịu, tức là mất bốn người con. Đau đớn nhất cho Đavít là ở chỗ những cái chết này lại do chính anh em trong nhà sát hại lẫn nhau:
– 12,18 : con bà Bathsheba chết,
– 13,28 : Amnon chết dưới tay Absalom,
– 18,15 : Absalom chết dưới tay quân sĩ của Đavít,
– 1V 2,24-25 : Adonijah chết dưới tay Salomon.

Theo lẽ công bằng, nếu tội lỗi đã gây ra những bất công trầm trọng cho tha nhân, thì người phạm tội cũng phải chịu hình phạt cho cân xứng. Phải chăng sự trừng phạt của Thiên Chúa cũng chỉ nhẳm tái lập sự công bằng? Chắc chắn là thế nhưng còn hơn thế. Từng bước một, Thiên Chúa giúp Đavít khám phá dung nhan đích thực của Thiên Chúa giàu lòng thương xót.

3. Đỉnh cao: khám phá lòng thương xót

Absalom là đứa con phản loạn. Anh ta đã giết Amnon (13,23-29) cho dù với lý do xem ra chính đáng là để báo thù cho em gái mình đã bị Amnon làm nhục! Sau đó, dù đã được vua Đavít tha thứ, anh ta vẫn tìm cách tạo vây cánh (15,1-5) và làm loạn chống lại chính vua cha (15,7-12) đến độ vua Đavít phải bỏ cả hoàng cung mà chạy trốn. Absalom còn làm những hành vi xúc phạm trầm trọng đến cha già (16,20-22).

Dù con cái ngỗ nghịch như thế, vua Đavít vẫn một niềm tha thứ. Đavít đã chấp nhận cho Absalom trở về sau khi anh ta đã giết Ammon(14,1-21). Hơn thế nữa, dù Absalom làm loạn khiến Đavít phải bỏ cả hoàng cung mà chạy, ông vẫn không muốn giết con. Ơng yêu cầu các tướng sĩ của mình nương tay với Absalom (18,5). Đến khi được tin Absalom tử trận, không những ông không vui mừng mà còn than lan khóc lóc, đòi được chết thay cho con: “Vua Đavít run rẩy, đi lên lầu trên cửa thành và khóc. Vua vừa đi vừa nói: Abasalom con ơi, Abasalom con ơi! Phải chi cha chết thay cho con!” (19,1-5).

Đây quả là đỉnh cao của câu chuyện thương tâm và cũng là đỉnh cao của tình phụ tử. Nhưng cũng chính từ kinh nghiệm làm cha như thế, vua Đavít khám phá dung nhan đích thực của Thiên Chúa là Cha. Trước kia, Đavít có lẽ chỉ thấy được một Thiên Chúa công bằng vì tuy Người tha thứ nhưng vẫn bắt đền tội nặng nề cho xứng với tội nhà vua đã phạm. Thế nhưng kinh nghiệm ông có trước cái chết của Abasalom đã giúp ông khám phá dung mạo đích thực của Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Mặc cho ông ngỗ nghịch đến đâu, mặc cho ông tội lỗi đến đâu, Thiên Chúa vẫn một niềm thương xót. Tình thương của Chúa lớn hơn mọi tội lỗi con người đã phạm.

Và đối với người Kitô hữu, kinh nghiệm này lại chẳng trở thành chân lý sống động nơi thập giá Chúa Giêsu đó sao? Ở đó, Thiên Chúa không chỉ nói, “Con ơi, phải chi Cha chết thay cho con,” nhưng là “Này đây, Cha chấp nhận chết thay cho con.” Bạn có cảm nhận được điều đó khi chiêm ngắm Chúa Giêsu chịu đóng đinh?

Sách Các Vua 1
(chương 1 – 11)

***

I. TỔNG QUÁT

Sách Các Vua 1 & 2 ghi lại những diễn tiến trong lịch sử Israel từ cuối triều đại Đavít đến biến cố Đền thờ Giêrusalem bị phá hủy, tổng cộng khoảng 410 năm. Có thể trình bày lược đồ tổng quát của sách như sau:

1V chương 1-2 : Những ngày cuối đời của vua Đavít
1V chương 3-10 : Thời cực thịnh của vua Salomon
1V chương 11 : Vua Salomon suy tàn
1V chương 12-13 : Đất nước phân chia
1V chương 14-22 :Vương quốc Giuđa (Nam) và Israel (Bắc)

Sách Các Vua ghi lại những sự kiện lịch sử nhưng lại trình bày những sự kiện đó từ quan điểm tôn giáo. Bao lâu dân Israel thờ phượng Thiên Chúa của giao ước thì bấy lâu họ sẽ được hưởng an bình thịnh vượng. Trong thực tế, dân Israel đã gạt bỏ Thiên Chúa sang một bên và chạy theo các ngẫu tượng ngoại giáo, đặc biệt là thần Baal của dân Canaan. Chính vì thế, Thiên Chúa đã thiết lập các tiên tri để họ kêu gọi dân trở về với giao ước đã ký kết với Thiên Chúa.

II. LỜI CẦU XIN CỦA SALOMON

Salomon được xức dầu tấn phong làm vua vào năm 970 trước Công nguyên. Khi lên ngôi vua, ông đã cầu xin Chúa “ban cho ông một tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và biết phân biệt phải trái” (3,9). Lời cầu xin của ông đẹp lòng Thiên Chúa, và Ngài đã ban cho ông sự minh triết khiến ông nổi tiếng là khôn ngoan và được coi như hình mẫu của sự khôn ngoan trong lịch sử dân Israel.

Lời cầu xin của Salomon đẹp lòng Chúa vì ông không cầu xin cho cá nhân ông nhưng chỉ nhằm phục vụ Dân Chúa. Lời cầu xin đó phát xuất từ tâm hồn khiêm tốn, ý thức rằng sẽ không thể chu toàn trách nhiệm lớn lao được trao phó nếu không có ơn Chúa phù trì. Lời cầu xin đó cũng cho thấy tầm quan trọng của sự lắng nghe, lắng nghe tiếng Chúa và lắng nghe tiếng dân, vì nếu không lắng nghe thì sẽ không nhận ra sự thật và không thể đáp trả những nguyện vọng của Dân Chúa.

Điều đáng tiếc là Salomon đã không trung thành mãi với ý nguyện ban đầu. Oâng đã không còn lắng nghe tiếng Chúa, cũng chẳng nghe tiếng than thở của dân (chương 9), càng ngày càng sa đà vào lối sống của dân ngoại, và vì thế đưa đất nước đến chỗ suy vong.

Lời cầu xin của Salomon có giúp bạn nhìn lại việc cầu nguyện của bạn không? Bạn có ý thức rằng việc quan trọng nhất khi cầu nguyện không phải là nói mà là lắng nghe? Bạn có thái độ lắng nghe tâm tư của người khác hay chỉ muốn người khác lắng nghe nỗi lòng của mình?

III. XÂY DỰNG ĐỀN THỜ

Vua Đavít ước mong xây dựng Đền thờ kính Đức Chúa, nhưng ước nguyện này chỉ được hoàn thành dưới triều Salomon. Vào năm thứ tư triều đại của ông, Salomon đã bắt đầu công trình xây dựng đền thờ, và sau bảy năm, công trình được hoàn thành (chương 6). Sau khi hoàn thành, nhà vua đã cho kiệu Hòm Bia của Đức Chúa vào Đền thờ, và vinh quang Đức Chúa tràn ngập Đền thờ. Trong dịp này, vua Salomon đã thưa lên Chúa những lời thật sâu sắc, “Có thật Thiên Chúa cư ngụ dưới đất chăng? Này trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi Ngài, huống chi ngôi nhà con đã xây đây?” (8,29).

Quả thật, Thiên Chúa chẳng lệ thuộc vào một ngôi nhà bằng gạch đá. Ngài chỉ hiện diện ở đó vì tình thương đối với Dân Ngài. Khi dân không còn trung tín nữa thì ngay cả sự hiện diện của Đền thờ cũng không cần thiết! Sách Các Vua đã kết thúc với sự kiện bi đát là Đền thờ bị phá huỷ và dân bị đem đi lưu đày. Chính Chúa đã cảnh báo Salomon từ trước, “Nếu ngươi và con cháu các ngươi tráo trở bỏ đường lối Ta…. Thì Ta sẽ tiêu diệt Israel khỏi phần đất Ta đã ban cho chúng. Còn Đền thờ Ta đã thánh hoá để kính Danh Ta, Ta sẽ loại trừ khỏi nhan Ta, và Israel trở thành bia miệng cho mọi dân tộc đàm tiếu” (9,2).

Những điều này lại chẳng giúp chúng ta suy nghĩ về nhà thờ của ta và về việc thờ phượng ngày nay sao? Những ngôi nhà thờ nguy nga tráng lệ của ta có đi đôi với đời sống thờ phượng chân thành và đời sống luân lý tốt đẹp không?

Sách Các Vua 1

(chương 12-22)

***

I. CHÍNH TRỊ VÀ TÔN GIÁO

Sau cuộc ly khai về chính trị, Giơroboam làm vua toàn Israel, chỉ còn Giuđa theo nhà Davit (12,20). Giơroboam quyết định đặt 2 bò mộng bằng vàng ở Bethel và Dan nhằm mục đích chính trị là để dân khỏi phải lên Giêrusalem để làm việc thờ phượng, và như thế ông giữ dân ở lại với mình (12,26-33). Như thế, tôn giáo đã bị lợi dụng để phục vụ cho ý đồ chính trị.

Đây là điều tái diễn thường xuyên trong lịch sử nhân loại. Hãy thử nhớ lại tôn giáo thờ hoàng đế trong đế quốc Roma. Hãy thử nhớ đến chính sách trong các chế độ độc tài khi người ta tìm cách thần thánh hoá một con người để thay thế Thiên Chúa đích thực, hoặc sử dụng tôn giáo như công cụ cho ý đồ chính trị của mình. Thiên Chúa không còn là Đấng được tôn thờ nhưng chỉ là phương tiện phục vụ những tính toán quyền lực của con người. Đương nhiên Thiên Chúa không thể chấp nhận điều đó (13, 1-5), và Hội Thánh phải luôn luôn cảnh giác trước nguy cơ này.

II. TRUNG THÀNH VỚI LỜI CHÚA

Sách 1V 13,11-32 kể lại một câu chuyện thật khó hiểu. Người của Thiên Chúa đã trung thành với Lời Chúa đến nỗi khước từ lời mời của nhà vua, thế rồi một người khác cũng tự xưng là tiên tri đã đến khuyến dụ và người của Thiên Chúa đã nghe theo. Cũng vì thế mà ông phải chịu hình phạt khủng khiếp là bị sư tử vồ. Tại sao Thiên Chúa lại khó khăn và độc ác như thế? Người ta bị lừa dối chứ đâu phải cố tình làm trái mà bị Thiên Chúa trừng phạt?

Ta có thể nêu lên những câu hỏi tương tự, tuy nhiên bài học cần quan tâm ở đây là sự trung thành tuyệt đối với Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh. Bài học này cần thiết cho các tín hữu ngày nay hơn bao giờ. Ngày nay ta đang đối diện với cơn cám dỗ thoả hiệp với thế gian và sự thoả hiệp này được biện minh bằng những lý do hết sức tốt đẹp. Chẳng hạn, tại sao Giáo Hội không cho phép ly dị, bắt người ta phải sống trong cảnh đau khổ mãi? Tại sao Giáo Hội không cho phép sử dụng những phương tiện ngừa thai để hạn chế sinh sản và bảo vệ hạnh phúc cho nhân loại? Tại sao Giáo Hội lại loại trừ những người đồng tính luyến ái, không biết cảm thông với họ? …

Cũng ở đây, ta mới hiểu tại sao Giáo Hội Công giáo cương quyết trong nhiều lập trường về đức tin và luân lý, là vì Giáo Hội muốn trung thành với Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh, và xác tín rằng chỉ có Lời Chúa mới đem lại sự sống đích thực và vĩnh cửu cho con người.

III. TẬP TRUNG VÀO TIÊN TRI ELIA

1. Một vài ghi nhận về Elia

Tên gọi của tiên tri Elia có nghĩa: Giavê là Thiên Chúa của tôi. Ta không có đầy đủ những sử liệu về việc sinh hạ và thiếu thời của tiên tri. Tuy nhiên, ta biết chắc rằng tiên tri Elia đã hoạt động dưới thời các vua Ahab, Ahaziah, và Jehoram (873-843 BC). Các vua thời đó thờ phượng Thiên Chúa nhưng cũng chạy theo các thần ngoại (Baal và Ashera) để cầu mưa nhằm làm tươi tốt đất đai. Nhiều tiên tri và tư tế khác cũng chạy theo, nhưng Elia cương quyết đòi hỏi một niềm tin trọn vẹn và tinh tuyền vào Giavê. Hoàng hậu Jezabel là người Phoenician, cũng là người đỡ đầu cho những việc thờ cúng ngoại giáo này, và tiên tri Elia đã gặp nhiều khó khăn với bà hoàng hậu này.

2. Lòng nhiệt thành của Elia

Sách Các Vua kể lại việc tế lễ trên núi Carmel (18, 20-40). Với con người ngày nay, có nhiều chi tiết trong câu chuyện này khó được chấp nhận, ví dụ tiên tri Elia thách đấu với các tư tế Baal, cuối cùng đã ra lệnh bắt và giết họ… Thiết nghĩ cần vượt lên trên những chi tiết trên để nắm bắt ý nghĩa chính của câu chuyện. Dân Chúa lúc đó là những kẻ hai lòng, đi khập khiễng (18,20-21), và tiên tri Elia đã làm mọi cách để lôi kéo mọi người về với niềm tin đích thực là niềm tin vào Thiên Chúa của giao ước. Tất cả làm nổi bật lòng nhiệt thành của vị tiên tri đối với công việc của Chúa (19,4).

Lòng nhiệt thành của tiên tri Elia chất vấn đức tin và lương tâm Kitô giáo của mỗi chúng ta. Tình trạng mà Elia gọi là khập khiễng, hai lòng, nghĩa là không toàn tâm toàn ý với Chúa, không phải là không có trong đời sống đức tin của ta. Ta cũng không dám chiến đấu cho chính nghĩa của Chúa như Elia đã chiến đấu, chủ yếu là vì sợ hãi, sợ mất quyền lợi, địa vị hay một thứ gì khác … trong khi điều đáng sợ nhất là đánh mất chính Chúa thì lại không sợ!

3. Nỗi chán nản của vị tiên tri

Vì nhiệt thành với công việc Nhà Chúa, tiên tri Elia phải đối diện với mối đe doạ đến từ chính bà hoàng Jezabel, và phải chạy trốn (19, 1-3). Trên đường chạy trốn, vì quá mệt mỏi, ông than thở với Chúa, “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi vì con chẳng hơn gì cha ông của con” (19,4). Nỗi chán nản của Elia khiến ta nhớ đến tâm trạng của thánh Gioan Tẩy giả trong ngục thất (x. Lc 7,18-23) và của chính Chúa Giêsu trong Vườn Ghetsemani.

Trong đời sống đức tin, người Kitô hữu cũng có những giây phút mệt mỏi, chán nản, đôi khi ngã lòng và sinh ra nghi nan vì thấy mình phải chịu nhiều thiệt thòi trên đường theo Chúa, và dường như Chúa không hành động gì cả. Trong những giây phút đó, hãy nhớ đến Elia, Gioan Tẩy giả và chính Chúa Giêsu để gặp được ở đó những người bạn đồng hành.

4. Chúa luôn đồng hành với tôi tớ Ngài

Chúa vẫn luôn đồng hành với Elia. Khi vị tiên tri mỏi mệt và chán nản, có thiên sứ đem bánh và nước đến cho ông (19, 5-8) để ông có sức đi tiếp hành trình đến núi của Thiên Chúa. Ở đó vị tiên tri đã gặp gỡ Chúa không phải trong cơn động đất kinh hoàng hay lửa cháy bừng bừng nhưng trong tiếng gió hiu hiu (19,12).

Cũng thế, Chúa không bao giờ bỏ rơi ta trong hành trình đức tin. Người luôn đồng hành với ta và ban sức mạnh cho ta. Bánh Thánh Thể chính là lương thực thần linh cho lữ khách trên đường hành hương, là nguồn sức mạnh cho người chiến sĩ trong cuộc chiến của đức tin. Hình ảnh Elia gặp gỡ Chúa trong tiếng gió hiu hiu cũng là lời mời gọi ta biết trở về trong tĩnh lặng; ở đó ta có thể gặp gỡ Chúa và lắng nghe tiếng gọi thầm kín của Người.

Sách Các Vua 2
(chương 1-13)

I. ƠN GỌI CỦA ÊLISÊ (1V 19, 19-21)

Trong trình thuật về ơn gọi của Elisê, nên quan tâm đến một vài chi tiết: Áo choàng của Elia là biểu tượng quyền năng của vị tiên tri (x.2V 2, 8.14: đập áo choàng rẽ biển). Elisê đã đáp lại lời mời gọi bằng cách giết bò và lấy cày làm củi. Hành động này diễn tả quyết tâm dứt khoát từ bỏ mọi sự để theo thầy.

So sánh với Chúa Giêsu (đọc Lc 9, 57-62), Người còn đòi hỏi nhiều hơn đến độ “để kẻ chết chôn kẻ chết.” Chúa Giêsu không coi nhẹ quan hệ gia đình nhưng Người muốn cho thấy tính tuyệt đối của Nước Trời.

Những trình thuật trên giúp ta thấy rõ hơn đòi hỏi từ bỏ trong đời sống Kitô hữu, không chỉ trong đời tu mà đối với mọi tín hữu, mọi ơn gọi. Sự từ bỏ này không những được thể hiện trong những chọn lựa quan trọng của đời sống mà còn cần được thể hiện ngay trong những chọn lựa hằng ngày.

II. QUYỀN NĂNG CỦA LỜI THIÊN CHÚA

1. Elisê làm nhiều phép lạ

Tiên tri Elisê làm nhiều phép lạ: những phép lạ trên sự vật như chữa lành nước uống, lượng dầu của bà goá nghèo khổ; những phép lạ trên bệnh tật và cả thần chết. Điều cần nhấn mạnh ở đây là quyền năng của Lời Chúa, Lời chữa lành, Lời ban sự sống. Ý nghĩa này được thể hiện cách cụ thể qua phép lạ chữa lành Naaman.

2. Phép lạ chữa lành Naaman (5,1-17)

Vua Israel bất lực trước cơn bệnh của Naaman. Dù thương mến vị tướng này hết sức, nhà vua không thể giúp gì được. Như thế, quyền lực chính trị và quân sự không phải là tất cả. Rộng hơn nữa, mọi thứ quyền lực con người có trong tay đều có những giới hạn của nó. Sự giới hạn này gắn liền với chính thân phận hữu hạn của loài thụ tạo. Không biết nhìn nhận những giới hạn này là không sống đúng với sự thật về con người, và có thể dẫn đến những hành động tai hại.

Thái độ của Naaman: Ông từ chối đi tắm ở sông Giođan theo yêu cầu của tiên tri Elisê vì lập luận rằng có nhiều dòng sông ở quê ông còn tốt hơn. Chính ở đây, độc giả khám phá ý nghĩa của bản văn: vấn đề không phải là dòng sông mà là lời của vị tiên tri dạy, đúng hơn là Lời Thiên Chúa phán qua miệng vị tiên tri. Chính Lời Thiên Chúa làm cho nước sông Giođan có khả năng chữa lành, chính Lời Thiên Chúa chữa lành và ban sự sống.

Những chi tiết trên giúp ta suy nghĩ về đức tin và đời sống Kitô hữu của mình.

Nước sông Giođan là hình ảnh nước rửa tội: Bệnh phong là hình ảnh của tội lỗi (thân phận người phong trong Israel mô tả ý nghĩa của tội lỗi: mất hiệp thông với Thiên Chúa, với cộng đoàn, bị xa cách). Naaman nhờ nước sông Giođan mà được sạch, da thịt trở nên đẹp đẽ như da đứa trẻ. Cũng vậy, nước rửa tội ban cho ta ơn tái sinh, dẫn ta vào sự hiệp thông đã mất.

Ý nghĩa của cử hành bí tích: Trong mọi cử hành bí tích đều có Lời và chất liệu như nước, dầu, bánh… Đây chỉ là những chất liệu bình thường trong cuộc sống nhưng Lời Thiên Chúa (qua thừa tác viên) làm cho chất liệu mang nội dung mới. Cả linh mục cũng như giáo dân đều cần quan tâm đến ý nghĩa này để cử hành bí tích với ý thức đức tin, không biến bí tích thành ma thuật.

Một chi tiết cần lưu ý vì có thể gây thắc mắc là câu chuyện Elisê nguyền rủa đám trẻ con khiến chúng chết. Hành động đó không phát xuất từ sự độc ác của vị tiên tri nhưng để làm nổi bật lời cảnh giác: đừng coi nhẹ lời ngôn sứ.

III. TRUNG TÍN VỚI LỜI CHÚA

Tiên tri là người được Chúa sai đi để công bố Lời Chúa cho dân, vì thế các ngài nhấn mạnh rất nhiều đến việc trung tín với Lời Chúa. Có thể lấy một vài câu chuyện trong Sách Các Vua để minh hoạ.

1. Truyện bà Jezabel

Vì lòng tham, hai vợ chồng vua Achaz sử dụng mọi thủ đoạn tồi tệ nhất để chiếm đoạt vườn nho của Nabot. Nabot bị tố cáo tội phạm thượng đến Thiên Chúa và Đức Vua, và ông bị ném đá chết. Và nhà vua ung dung chiếm đoạt vườn nho của Nabot (1V 21, 4-15). Thế nhưng tiên tri Elia được Chúa sai đến tuyên án lệnh của Thiên Chúa, một án lệnh khủng khiếp: “Ta sẽ giáng tai hoạ xuống trên ngươi, Ta sẽ xoá sạch hậu duệ ngươi… Chó sẽ ăn thịt Jezabel…” 1V 21,23. Và án lệnh đã được thi hành: vì vua Achaz bày tỏ lòng sám hối nên Chúa phán, “Vì nó đã hạ mình trước mặt Ta, nên Ta sẽ không giáng họa trong buổi sinh thời của nó, nhưng đến đời con nó, Ta sẽ giáng họa xuống nhà nó” (21,29). Nhưng bà Jezabel đã phải chịu hình phạt như Lời Chúa phán (2V 9, 30-37).

2. Truyện Vua Ahaziah

Nhà vua đau ốm và sai người đi thỉnh ý thần Baal xem có qua nổi cơn bệnh không (2V 1,2). Quả là một cử chỉ tỏ tường cho thấy nhà vua đã bỏ Chúa để tin theo các thần tượng ngoại giáo. Vì thế Chúa phán qua miệng tiên tri Elia: “Ở Israel không có Thiên Chúa hay sao, mà các anh lại đi thỉnh ý Baal… Vì thế Đức Chúa phán thế này: ngươi sẽ không xuống khỏi giường mà ngươi đã lên nằm, vì thế nào ngươi cũng chết” (2V 1, 3-4). Và án lệnh của Thiên Chúa đã được thi hành (2V 1,17).

Hai câu truyện trên và nhiều sự kiện khác trong sách đều nhằm làm nổi bật đòi hỏi trung tín với Thiên Chúa và với giao ước. Đây không phải là lời đe doạ nhưng là lời mời gọi cho tất cả các tín hữu, để mỗi người cố gắng sống trung tín với ơn gọi đã lãnh nhận: ơn gọi Kitô hữu, ơn gọi gia đình, ơn gọi linh mục tu sĩ. Cuộc sống ta sẽ chỉ có hạnh phúc thật sự sâu xa và bền vững khi sống sự trung tín này.

Tổng kết sách các vua.

Những bài học lớn rút ra từ sách các vua hội thánh cần nương tựa vào chúa

1. Israel, Dân chúa trong cựu ước

Thay vì đặt niềm cậy trông nơi thiên chúa của giao ước, đã không ít lần, các vua cũng như dân chúa lại cậy dựa vào những sức mạnh khác quân lực và vũ khí, các thế lực ngoại bang, các ngẫu thần,... Kết quả là Israel mất miền đất chúa ban, Đền thờ bị thiêu hủy, người lãnh đạo bị bắt. Mọi sự đều tiêu tan.

2. Bài học cho dân chúa ngày nay

Giáo hội là dân thiên chúa , chúa kito triệu tập dân chúng từ dân Israel và từ các dân ngoại, họp thành một khối duy nhất trong thánh thần chứ không theo xác thịt, để họ làm nên dân mới của thiên chúa.... Một dòng giống được tuyển chọn, hàng tư tế vương giả, dân tộc thánh, dân tộc đã được thiên chúa thu phục, trước kia không phải là một dân, nay là dân của thiên chúa (1Pr2,9-10).


Sách Amos
***

* ƠN GỌI TIÊN TRI (7, 10-17)

Tiên tri, ơn gọi chứ không phai nghề nghiệp
Bối cảnh xã hội: đất nước bị phân chia thành hai miền: vương quốc miền Nam (Giuđa) và vương quốc miền Bắc (Israel). Trong vương quốc Israel, vua xây Đền Thờ ở Bêthel để ngăn cản dân, không cho họ xuống Đền Thờ Giêrusalem vốn thuộc vương quốc Giu Đa. Amagia mệnh danh là một tiên tri nhưng ông thi hành sứ vụ tiên tri như một nghề và thường nói những lời bênh vực nhà vua để làm vui lòng nhà vua. Ngược lại, câu trả lời của Amos cho thấy, làm tiên tri không phải là một nghề ông chọn nhưng là tiếng gọi của Chúa, tiếng gọi không thể cưỡng lại: “Tôi không phải là tiên tri, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm tiên tri. Tôi chỉ là người nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Đức Chúa Trời đã bắt lấy tôi … và truyền cho tôi: ‘Hãy đi tuyên sấm cho Israel dân ta’”. Khi đó lời mà tiên tri công bố không còn là lời của loài người nhưng là Lời của Thiên Chúa.

Sống chức năng tiên tri của người Kitô hữu
Mỗi Kitô hữu đều có trách nhiệm làm tiên tri vì được chia sẻ làm chức năng tiên tri của Chúa Kitô khi lãnh nhận bí tích Thánh tẩy. Vậy lời nói của ta nhắm đến điều gì? Làm vui lòng người đời hay trung thành với Lời Chúa? Cách cụ thể, trong đời sống gia đình, trong việc giáo dục con cái, trong những mối quan hệ xã hội, lời nói của ta được sử dụng ra sao?

*  THIÊN CHÚA ĐỨNG VỀ PHÍA NGƯỜI NGHÈO (2, 6-16; 8, 4-8)

Thiên Chúa của kẻ nghèo
Đọc Thánh Kinh, một trong những điều quan trọng là phải tự hỏi: Chúa là ai? Chúa mặc khải Ngài là ai trong đoạn Thánh Kinh mà tôi đọc? Đồng thời phải ý thức rằng Thiên Chúa tự tỏ mình ra (mặc khải) không chỉ qua lời nói mà còn qua những hành động, những kỳ công mà Người thực hiện trong lịch sử. Ở đây, Amos dựa vào hành động quan trọng nhất là việc Chúa giải thoát dân Israel khỏi ách nô lệ Ai Cập: “Chính Ta đã đem các ngươi lên khỏi đất Ai Cập, dẫn các ngươi đi trong sa mạc bốn mươi năm trường, để các các ngươi chiếm hữu đất của người Emori” (2,10). Ngài lấy đó là điểm quy chiếu để khám phán dung nhan Thiên Chúa là Đấng đứng về phái người nghèo, người bị áp bức. từ đó, Ngài lên án tình trạng bóc lột, bất công, gian dối trong xã hội bàng những lời lẽ rất mạnh: “vì tội của Israel đã lên tới cực độ, Ta sẽ không rút lại bản án” (2,6) “Đức Chúa đã lấy thánh danh là niềm hãnh diện của Giacop mà thề: Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi của chúng” (8,7).

Suy niệm
Rất nhiều người xưng mình là người tin Chúa nhưng Chúa là ai? Có khi nào tự uốn nắn hình ảnh Thiên Chúa theo sở thích của mình để biện hộ cho lối sống bất chính của mình? Đã từng có một triết gia phê phán rằng: không phải Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh Ngài, mà chính con người đã dựng nên Thiên Chúa theo hình ảnh họ” (Feuerbach). Dù không đồng ý với nhận định này, ta cũng không thể phủ nhận một phần chân lý hàm chứa trong đó khi nhìn vào thực tế. Vì thế, phải luôn quay về với Kinh Thánh để khám phán dung nhan đích thực của Thiên Chúa, và thờ phượng Thiên Chúa như Ngài là chứ không như ta mong muốn.

Cách cụ thể, dựa trên giáo huấn của tiên tri Amos, nếu Thiên Chúa đứng về phía người nghèo, tôi có thể nhân danh Chúa mà làm những việc gây thiệt hại cho người nghèo? Có quyền khinh bỉ người nghèo?

X  NỀN PHỤNG TỰ ĐÍCH THỰC (5,21-27)

Thế nào là phụng tự mà thiên chúa muốn?
Phụng tự là hành vi căn bản của niềm tin tôn giáo. Nhưng đâu là phụng tự đích thực? Phải chăng chỉ là những nghi lễ bên ngoài? Lời kết án của Amos cho thấy điều gì? Nền phụng tự Chúa mong muốn là phụng tự phải đi đôi với lẽ phải và công lý: “Hãy dẹp bỏ tiếng hát om sòm của ngươi, ta không muốn nghe tiếng đàn của ngươi nữa. Ta chỉ muốn cho lẽ phải như nước tuôn trào, cho công lý như dòng suối không bao giờ cạn” (5,23-24).

Suy niệm
So sánh với nhiều nơi trên thế giới, trong các nghi thức phụng tự người Công giáo Việt Nam tham dự rất đông. Tỷ lệ người Công giáo Việt Nam tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật có lẽ vào hàng cao nhất thế giới. Nhưng liệu có nguy cơ tách ly giữa phụng tự và đời sống không? Có những cử hành nghi lễ thật rầm rộ, đồng thời đời sống thiếu yêu thương, bác ái và công bằng? Những câu hỏi này nêu lên không nhằm xét đoán ai nhưng cho chính mình.

“Sự phân ly giữa các Kitô hữu tuyên xưng với cuộc sống thường nhật của họ phải được kể vào số những sai lầm trầm trọng nhất trong thời đại chúng ta. Trong Cựu Ước, các tiên tri đã mạnh mẽ tố cáo gương xấu này, và trong Tân Ước chính Chúa Giêsu Kitô còn ngăm đe nhiều hơn nữa bằng những hình phạt nặng nề. Do đó không được tạo ra sự đối nghịch giả tạo giữa sinh hoạt nghề nghiệp xã hội và đời sống tôn giáo. Đối với người Kitô hữu, xao lãng bổn phận trần thế là xao lãng bổn phận đối với tha nhân và hơn nữa đối với Thiên Chúa, khiến phần rỗi đời đời của mình bị đe dọa“ ( Hiến chế Mục vụ Vui Mừng và Hy Vọng, số 43).

Sách Hô-sê, chương 1-7

+++

I. Tổng quát

1,1 : Dẫn nhập

Tên gọi Hosea nghĩa là “hành động cứu độ” hay “Đấng Cứu độ”. Sách Hosea mở đầu với lời “Lời Đức Chúa phán với ông Hosea” (khác với Amos: Lời của Amos). Như thế nhấn mạnh tính linh hứng của lời rao giảng.

1,2 – 3,5 : Giavê, Phu quân của Israel

Ba chương đầu tập trung vào cuộc hôn nhân của Hosea, những bất trung của bà vợ Gomer, nghi ngờ về con cái, và áp dụng hoàn cảnh này cho giao ước của Israel với Giavê.

4,1 – 5,7: Tội ác của các nhà lãnh đạo

Tất cả những tội ác chống lại Thiên Chúa và tha nhân đều được gọi là ngoại tình; như thế làm nổi bật mối tình thắm thiết của Giavê với Dân Ngài.

5,8 – 8,14: Ám sát, bất ổn, mất mát.

Các chương này bàn đến những vụ ám sát các vua và hoàng tộc, những chính sách ủng hộ hay chống Assyria, những hứa hẹn to lớn nhưng thực chất nghèo nàn…

II. Kinh nghiệm hôn nhân và lời rao giảng

1. Tiên tri Hosea có kinh nghiệm rất đau buồn về hôn nhân (1,2-8)

Người vợ của Hôsê có nguồn gốc không tốt đẹp, lại là một người vợ bất trung: “hãy đi cưới một người đàn bà làm điếm để sinh những đứa con đàng điếm” (1,2). Cũng vì thế, nhà tiên tri đặt cho con cái mình những cái tên lạ thường: “không-được-thương”, “không-phải-dân-Ta”.

Hơn thế nữa, người vợ của ông lại còn ngoại tình. Thế nhưng vâng lời Chúa, ông đã tha thứ cho vợ và đón nhận vợ trở về: “Một lần nữa, ngươi cứ đi yêu người đàn bà đang có tình nhân và đang ngoại tình” (3,1-5).

2. Rao giảng Lời Chúa từ chính kinh nghiệm bản thân

Kinh nghiệm về hôn nhân đã giúp tiên tri Hôsê cảm nghiệm tình yêu nóng bỏng của Thiên Chúa với Dân Người: tình yêu tha thứ, tình yêu kiên nhẫn, tình yêu đổi mới. Người Kitô hữu cũng được mời gọi để cảm nghiệm Thiên Chúa qua chính kinh nghiệm trong đời sống gia đình của mình, trong tương quan vợ chồng, tương quan cha mẹ và con cái.

Tiên tri Hosê không chỉ rao giảng bằng lời nói nhưng còn bằng hành động và chính cuộc sống của mình. Khi ông đi cưới một người đàn bà làm điếm là để nói với dân rằng “cả xứ đều bỏ Đức Chúa mà đi làm điếm” (1,2). Và khi ông đi cưới một người đàn bà đang ngoại tình, cũng là để nói với dân về “Đức Chúa yêu thương con cái Israel, trong khi chúng lại quay lưng đi theo các thần khác” (3,1). Cũng thế, người Kitô hữu được mời gọi loan báo Tin Mừng không chỉ bằng lời nói nhưng còn bằng chính cuộc sống cụ thể của mình. Vậy cuộc sống hằng ngày của tôi có trở thành lời loan báo Tin Mừng không, hay lại là phản chứng?

3. Hôn nhân và giao ước giữa Thiên Chúa với con người

Thiên Chúa đã ký kết giao ước với Dân Ngài. Theo cách diễn tả của Môsê, giao ước này mang tính lề luật. Với Hosea, giao ước này trở thành giao ước hôn nhân với nền tảng là tình yêu và sự tín nhiệm lẫn nhau. Ở đây, hôn nhân mang ý nghĩa và giá trị đặc biệt vì diễn tả chính tình yêu của Thiên Chúa với loài người, mở đường cho cách nhìn của thánh Phaolô: “Sách Thánh có lời chép rằng: Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ nên một xương thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Eph 5,31-32).

III. Bước vào mối quan hệ cá vị với Thiên Chúa

1. Tiên tri Hosê nói về Thiên Chúa

Khi nói về Thiên Chúa, Hosê không chỉ nói về Thiên Chúa cách chung chung. Ít nhất là 45 lần, ngài sử dụng từ YAHWEH là Danh Thiên Chúa được tỏ cho Môsê (Xh 3, 11-15), nghĩa là Thiên Chúa là Đấng hằng ở với Dân. Khi Hosea dùng từ Elohim hay El để nói về Chúa thì luôn luôn là “Chúa của anh em” hay “Chúa của tôi”:

* Nó sẽ thưa “Thiên Chúa của con” (2,25)

* Con cái Israel sẽ trở lại tìm kiếm Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng (3,5)

Cách diễn tả này nói lên mối quan hệ mật thiết và sống động giữa Thiên Chúa và Dân của Người. Đồng thời cách diễn tả này giúp ta ý thức hơn về đời sống đức tin.

2. Tin là bước vào mối quan hệ cá vị với Thiên Chúa

Tin không chỉ là nhìn nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa hoặc chấp nhận những định tín về Ngài. Nhưng tin là bước vào mối quan hệ cá vị, thân tình, riêng tư với Thiên Chúa như vợ chồng, cha mẹ và con cái, bạn với bạn… Cầu nguyện là cách thế tốt nhất để diễn tả, đồng thời giúp ta sống mối quan hệ này.

Sách Hô-sê
chương 8-14
+++

I. TỔNG QUÁT

9,1 – 13,8 : Những niềm hi vọng giả tạo. Thay vì lắng nghe Lời Chúa qua miệng các ngôn sứ như Amos và Hosê, vua cũng toán chính trị, cuối cùng dẫn đến kết thúc bi thảm.
13,9 – 14,1 :Vương quyền chấm dứt và vương quốc sụp đổ.
14,2-9 : Hoán cải, chữa lành và sự sống mới.

II. ĐÂU LÀ SỨC MẠNH CỦA DÂN CHÚA?

1. Bối cảnh lịch sử: các triều đại

– Jeroboam II (786-746) :tự do và thịnh vượng
– Zechariah (746-745) :thoả hiệp nhưng không hiệu quả (bị ám sát)
– Shallum (745) :chống đế quốc Assyria (bị ám sát)
– Menahem (745-737) :phò đế quốc Assyria
– Pekahiah (737-736):phò đế quốc Assyria (bị ám sát)
– Pekah (736-732) :chống Assyria (bị ám sát)
– Hoshea (732-724) :phò đế quốc, sau đó lại chống (bị bắt và xử tử)

2. Sức mạnh đích thực của dân Chúa ở đâu?

Các triều đại thay đổi chính sách liên tục, lúc thì nghiêng về Ai Cập, lúc lại chạy theo Assyria, để mong tìm bình an và thịnh vượng “ “Ephraim vô tâm vô trí tựa bồ câu khờ dại. Chúng cầu cứu Ai Cập, chạy đến với Assyria” (7, 8-12; 8,11-14). Nhưng kết quả chỉ là điêu tàn và đổ vỡ: “Israel đã quên Đấng tác tạo ra nó và lo xây đền đài; còn Giuđa thì xây thêm những thành kiên cố. Nhưng Ta sẽ phóng lửa xuống những thành này, và lửa sẽ ngốn hết các dinh thự” (8,14).

Dân Chúa cần tìm sức mạnh đích thực ở nơi Chúa, cần trung thành với giao ước tình yêu đã ký kết với Chúa : “Chúng con sẽ không cầu cứu Assyria, sẽ không cậy nhờ vào chiến mã, cũng chẳng gọi là thần những sản phẩm do tay chúng con làm ra, vì chỉ ở nơi Ngài, kẻ mồ côi mới gặp được lòng thương xót” (14, 2-9).

3. Bài học cho Dân Chúa mọi thời

Đừng tìm kiếm sự thành công và phát triển dựa vào những thế lực trần gian như tiền bạc, tính toán chính trị, quyền lực. Lịch sử Giáo Hội làm chứng rằng những thành công và phát triển đó, nếu có, chỉ là những thành công bên ngoài và chóng qua. Chúa Giêsu chịu đóng đinh thập giá và các thánh tử vì đạo là lời nhắc nhớ thường xuyên về sự thành công sâu xa, đích thực của Nước Trời.

Quả thật, “Đường lối Đức Chúa rất mực thẳng ngay. Trên con đường này, người công chính sẽ hiên ngang tiến bước, còn kẻ gian ác sẽ phải té nhào” (14,10).

III. TÌNH YÊU THA THỨ (11, 1-9)

1. Thiên Chúa là tình yêu

Tiên tri Hôsê vận dụng nhiều hình ảnh để diễn tả mối tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Người: hình ảnh vợ chồng (2,4-9), hình ảnh cha con (11,1-4), hình ảnh bạn tình (2,16). Tất cả để làm nổi bật tình yêu Thiên Chúa. Và đặc điểm của tình yêu đó là sự tha thứ: “Ta là Thiên Chúa chứ không phải người phàm. Ở giữa ngươi, Ta là Đấng Thánh, và Ta sẽ không đến trong cơn thịnh nộ” (11,9).

2. Lời mời gọi cho người Kitô hữu

Tin vào tình yêu tha thứ của Thiên Chúa không có nghĩa là an tâm ở lại mãi trong tội lỗi vì không sợ Thiên Chúa trừng phạt. Niềm tin đích thực vào tình yêu này thúc đẩy ta hoán cải không ngừng. Đồng thời một khi cảm nghiệm được tình yêu tha thứ của Chúa, cảm nghiệm đó dẫn ta vào một lối sống mới trong tương quan với tha nhân, lối sống quảng đại và tha thứ (x. Mt 18, 21-35).

IV. SA MẠC

1. Sa mạc trong ngôn ngữ của Hôsê

– “Ta sẽ biến nó thành sa mạc hoang vu,
cho nó trở nên đất khô khan cằn cỗi, và làm cho nó chết khát” (2,5b).
– “Này Ta sẽ quyến rũ nó,
đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình” (2,16)

2. Sa mạc trong đời sống đức tin

Sa mạc là nơi chết chóc vì không có nước là yếu tố căn bản của sự sống, vì cái nắng gay gắt đe doạ sự sống. Không những đe doạ sự sống tự nhiên, sa mạc còn đe doạ sự sống siêu nhiên vì là nơi chốn của cám dỗ. Chính Chúa Giêsu đã bị cám dỗ trong sa mạc.

Thế nhưng sa mạc cũng là miền đất ân sủng. Sa mạc là cõi thinh lặng và cô tịch, vắng mọi ồn ào và tiếng động bên ngoài. Chính trong cõi cô tịch và thinh lặng đó, ta được mời gọi trở về với chiều sâu cuộc sống: sống với Chúa, sống nhờ Chúa, sống cho Chúa. Vì thế, hãy tự tạo nên những khoảnh khắc sa mạc trong đời sống hằng ngày.

SÁCH CÁC VUA 2
(chương 14-23)

+++

Sau khi học hỏi sách tiên tri Amos và Hôsê (hoạt động tại Israel), chúng ta sẽ học hỏi sách ngôn sứ Isaia. Isaia là vị ngôn sứ lớn, hoạt động tại Giuđa. Sách Isaia đóng vai trò quan trọng không những với Do thái giáo nhưng còn với Kitô giáo. Nhưng trước khi đọc sách Isaia, cần hiểu bối cảnh lịch sử thời ngài hoạt động. Vì thế cần đọc Sách Các Vua 2 từ chương 14 đến 23.

I. LƯU ĐÀY

1. Nhìn lại những cuộc lưu đày trong lịch sử Israel

Lịch sử Israel ghi nhận hai cuộc lưu đày: cuộc lưu đày thứ nhất thời vua Jehoiachim (2V 24, 10-17), và cuộc lưu đày lần II thời vua Zedekiah (2V 25, 8-21).

Lưu đày là đánh mất quê hương, phải sống trên đất khách quê người. Sâu xa hơn, lưu đày là mất quyền làm chủ, quyền tự quyết của dân tộc. Đâu là nguyên nhân gây ra tình trạng bí đát này? Thánh Kinh nhiều lần nói đến việc dân làm sự dữ trước mặt Chúa: “Vua đã làm điều dữ trái mắt Đức Chúa, hệt như tổ tiên vua” (23,37; 24,19). Từ quan điểm đức tin, tác giả Thánh Kinh coi đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng lưu đày, ẩn sau những biến cố lịch sử về mặt chính trị, xã hội.

Cũng trong tầm nhìn đức tin, tác giả Thánh Kinh nói đến giá trị tích cực của tình trạng lưu đày. Lưu đày giúp con người ý thức lại tội lỗi của mình mối tương quan với Thiên Chúa của giao ước, từ đó biết sám hối và hoán cải. Vì thế, cũng chính trong cảnh lưu đày mà các tiên tri rao giảng sứ điệp chứa chan hi vọng.

2. Bài học cho người Kitô hữu

Nhìn từ góc độ thiêng liêng, ta cũng có thể rơi vào tình trạng lưu đày, nghĩa là đánh mất chính mình (vong thân, tha hoá) cho dù bên ngoài có vẻ thành công. Cũng có thể đánh mất khả năng làm chủ bản thân, nô lệ hoàn toàn cho những ham muốn và đam mê xấu.

Nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng đó? Con người dễ có khuynh hướng đổ lỗi cho những nguyên nhân bên ngoài, vd. môi trường sống, sự lôi kéo của bạn bè… Tuy nhiên, như gợi ý của tác giả Thánh Kinh về tình trạng lưu đày của dân Israel, cần phải tìm nguyên nhân sâu xa ở bên trong. Đó là sống không phù hợp với ơn gọi làm người và làm con cái Chúa, thiếu tỉnh thức và cầu nguyện.

Một khi khám phá lại con người thật của mình như thế, ta cũng sẽ khám phá Thánh Kinh là nguồn ơn giải thoát vì Lời Chúa công bố dung nhan Thiên Chúa giàu lòng thương xót, đồng thời chỉ vẽ cho ta nẻo đường của sự thật và sự sống.

II. SỐ SÓT (19,4. 31)

1. Số Sót trong Thánh Kinh

Từ Số Sót xuất hiện khá nhiều trong Thánh Kinh:

“Xin ông dâng lời cầu nguyện cho số sót còn lại” (2V 19,4)

“Vì từ Giêrusalem sẽ nẩy sinh số sót còn lại” (2V19,31)

– Dấu hiệu buồn thảm và thất bại (Is 10,19; 17,5-6)

– Đồng thời là hạt mầm của tương lai sáng lạn (Is 10, 20-23)

Vậy Số Sót là ai? Là những người chỉ nương tựa nơi một mình Chúa thay vì nương tựa nơi bất cứ sức mạnh nào khác: “Đức Chúa đã củng cố Sion, và kẻ nghèo khó trong dân Người vào đó ẩn náu” (Is 14,32). Chỉ có Chúa mới là Chúa của họ: “Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến” (Giêrêmia 23,3).

2. Và đời sống Hội Thánh

Tin Mừng Ga 6,60-71 ghi nhận phản ứng của nhiều người sau khi nghe Chúa Giêsu giảng về Bánh hằng sống: “Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi!” Và từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Chúa Giêsu nữa. Nhưng cũng chính lúc ấy, Phêrô tuyên xưng: “Bỏ Thầy, chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”.

Ngày nay, nhiều tín hữu cũng chối từ hoặc xa rời giáo huấn của Tin Mừng và Hội Thánh, với đủ thứ lý lẽ, đôi khi nghe rất hấp dẫn. Đức Gioan Phaolô II nói đến Hội Thánh hôm nay như đàn chiên nhỏ bé của Chúa. Còn nhà thần học Karl Rahner nói đến Hội Thánh trong tình trạng diaspora, nghĩa là những cộng đoàn nhỏ rải rác. Tuy nhiên, chính những nhóm nhỏ trung tín với Chúa Giêsu đang làm nên mùa Xuân mới của Hội Thánh. Còn bạn, bạn chọn thái độ nào? Bạn có muốn tuyên xưng cùng với thánh Phêrô “Bỏ Thầy, con biết theo ai?”

SÁCH ISAIA
(chương 1-7)

I. TỔNG QUÁT

1, 1-31 : Dẫn nhập: Hạch tội dân bội bạc và giả hình (1,2-8).

Lời sấm về sự thờ phượng đích thực (1,10- 16).

Kêu gọi hoán cải (1, 18-20).

Đe doạ hình phạt (1,21-31).

2, 2-5 : Tương lai của núi Sion

2, 6-22 : Ngày của Đức Chúa

3, 1-26 : Cảnh hỗn loạn tại Giêrusalem và hình phạt cho các phụ nữ.

4, 2-6 : Số sót (chồi non của Đức Chúa)

5, 1-7 : Bài ca vườn nho

5, 8-30 : Tố giác những lạm dụng xã hội và những người lãnh đạo.

6, 1-13 : Ơn gọi của ngôn sứ Isaia

7, 1-25 : Lời tiên tri về Emmanuel

II. ƠN GỌI CỦA TIÊN TRI ISAIA

1. Isaia “thấy” Chúa (6,1)

Đây là khẳng định đơn giản nhưng hết sức mạnh mẽ vì trong Thánh Kinh, con người không thể nhìn thấy Thiên Chúa mà có thể sống sót nổi (x. Xh 33,20). Khẳng định này làm nổi bật uy quyền của lời tiên tri, vì lời đó không dựa vào sự khôn ngoan của người đời nhưng trực tiếp đến từ Thiên Chúa (x. 1Cr 2,1-5).

2. Đấng Thánh của Israel

Isaia trình bày Thiên Chúa là Đấng cực thánh (6,3) và con người cần đặt trọn niềm tin vào Ngài: “Nếu các ngươi không vững tin, các ngươi sẽ không đứng vững” (7,9). Đối diện với Thiên Chúa chí thánh, con người cảm nhận sâu sắc thân phận tội lỗi và ô uế của mình (6,4) (đối chiếu Lc 5, 1-10). Vì thế, cần được Thiên Chúa thanh tẩy (6,5).

3. Sự đáp ứng của Isaia

Trước tiếng gọi của Thiên Chúa “Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?” Isaia đáp trả rất nhiệt tình: “Lạy Chúa, này con đây, xin Chúa sai con”(6,8). Thiên Chúa cũng kêu gọi và trao phó sứ mạng cho bạn, bạn đã đáp trả thế nào trước tiếng gọi của Chúa?

III. LỜI TIÊN TRI VỀ EMMANUEL (7, 10-17)

1. Lời tiên tri (7, 13-17)

“Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuel.” Từ almah trong tiếng Hípri có nghĩa là thiếu nữ đến tuổi kết hôn, không nhất thiết phải là trinh nữ. Tuy nhiên bản dịch Hi Lạp đã dùng từ parthenos nghĩa là trinh nữ. Thánh sử Matthêu đã sử dụng từ parthenos này (1, 22-23). Đây là nền tảng cho cách giải thích của Kitô giáo về bản văn này như lời tiên tri về việc Đức Maria thụ thai và sinh hạ Chúa Giêsu Kitô.

2. Ý nghĩa

Trong bối cảnh lịch sử thời vua Achaz, lời tiên tri này là một dấu chỉ hi vọng giữa hoàn cảnh đầy thất vọng, dấu chỉ sự sống giữa những đe doạ và chết chóc. Trong truyền thống Kitô giáo, lời tiên tri này hướng nhân loại đến Chúa Kitô, Đấng đến để xây dựng thế giới mới và nhân loại mới.

IV. BÀI CA VƯỜN NHO (5, 1-7)

1. Vườn nho

Vườn nho là một trong những hình ảnh và chủ đề quen thuộc trong Thánh Kinh (x. Mt 21,33-42; Mc 12,1-10; Lc 20,9-18). Hình ảnh này hàm chứa nhiều ý nghĩa: (1) nghĩa tự nhiên về mặt canh nông; (2) bản tình ca hát cho người bạn đời, vì thế, hình ảnh “nho dại” ám chỉ sự bất trung trong đời sống hôn nhân; (3) vườn nho còn là biểu tượng cho sự giàu có, nhưng theo mạch văn, sự giàu có không nhất thiết dẫn đến một xã hội công bằng và huynh đệ.

2. Hình ảnh vườn nho và đời sống đức tin của người Kitô hữu

Một trong những dụ ngôn nổi tiếng của Chúa Giêsu là dụ ngôn về những người thợ làm vườn nho và là những kẻ sát nhân (Mc 12,1-10). Vườn nho ở đây là Nước Trời, là cộng đoàn Dân Chúa, và cũng có thể hiểu là cuộc đời mỗi chúng ta. Chính Thiên Chúa mới là chủ vườn nho, còn mỗi người trong chúng ta chỉ là thợ làm vườn nho, và phải dâng những hoa lợi vườn nho cho Chúa. Nhưng thay vào đó, có thể ta chỉ thu tích hoa lợi hoàn toàn cho bản thân và những tính toán ích kỷ của mình, khước từ quyền làm chủ của Thiên Chúa trong cuộc đời mình.

Vậy bạn là ai trong dụ ngôn này? Vườn nho đời bạn đem lại những hoa trái nào? Bạn sử dụng những tài năng và ân huệ Thiên Chúa ban cách nào?

Sách Isaia

chương 8-12

+++

I. TỔNG QUÁT

8,1-15 : Những lời tiên tri về Assyria
8,16-20 : Sứ mạng của Isaia
9,1-6 : Vị vua mới và ơn giải thoát
9,7 -10,4 : Các thử thách của vương quốc miền Bắc
10,5-34 : Vai trò của Assyria
11,1-9 : Vị vua lý tưởng
11,10-16 : Tái thống nhất Israel
12,1-6 : Bài ca tạ ơn

II. LỜI TIÊN TRI VỀ VỊ QUÂN VƯƠNG  (8,23 – 9,6)

1. Lời tiên tri trong bối cảnh lịch sử

Đây là lời tiên tri mang tính “mêsia” (cứu thế) vì mô tả vị vua lý tưởng trong tương lai sẽ thiết lập triều đại mới, triều đại hòa bình, công minh và chính trực. Có thể là lời tiên tri về vua Hezekiah, người kế vị Akhaz, sẽ lên ngôi năm 725 hay 715 trước Công nguyên. Tuy nhiên, vị vua này lại được mang những tước hiệu đặc biệt, nhất là “Thần linh dũng mãnh” (Tv 2,7 còn cho rằng vị vua này là Người Con được Thiên Chúa sinh ra, Tv 45,7 còn gọi vị vua này là Elohim “Thiên Chúa”). Vì thế, theo lời tiên tri, vị vua này không chỉ là một con người.

2. Lời tiên tri và phụng vụ Kitô giáo

Hội Thánh Công giáo chọn đọc lời tiên tri này trong Thánh Lễ Đêm Giáng Sinh (bài đọc I: Is 9,1-6; bài Tin Mừng: Lc 2,1-14). Đối chiếu hai bản văn Thánh Kinh trên, ta sẽ thấy cách giải thích của Hội Thánh về lời tiên tri. Đây là lời tiên tri về việc giáng sinh Chúa Giêsu Kitô, Đấng muôn dân mong đợi, Đấng đến thiết lập “vương quốc vững bền, trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời” (Is 9,6). Điều cần ghi nhận là thế giới lý tưởng đó không tùy thuộc vào sức mạnh quân sự nhưng tùy thuộc vào một trẻ thơ không có quyền lực gì cả, nghĩa là một thế giới được xây dựng trên sự công chính và tình thương.

III. TRIỀU ĐẠI CỦA ĐẤNG MÊSIA

1. Lời tiên tri về vị vua lý tưởng (11, 1-9)

Câu 1 cho biết vị vua này xuất thân từ nhà Đavít: “Từ gốc tổ Giessê sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy sẽ mọc lên một mầm non.” Câu 2-5 mô tả những đặc điểm của vị vua này: Thần Linh Thiên Chúa sẽ ngự xuống trên ngài và ngài sẽ thực hiện tất cả công việc của vị vua công chính. Câu 6-9 mô tả thế giới sẽ được biến đổi dưới triều đại của vị vua này. Thế giới được mô tả bằng những hình ảnh lý tưởng như vườn địa đàng: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng.”

Tiên tri Isaia mô tả một thế giới lý tưởng, và thế giới đó sẽ trở thành hiện thực khi “sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển.” Nghĩa là phải khước từ những tham vọng bất chính và thiết tha với sự công chính của Thiên Chúa. Thế giới này vẫn còn ở phía trước và không ngừng vẫy gọi chúng ta đi tới.

2. Lời tiên tri và phụng vụ Kitô giáo

Hội Thánh Công giáo chọn đọc lời tiên tri này trong Chúa nhật II Mùa Vọng (bài đọc I: Is 11,1-10; bài Tin Mừng: Mt 3,1-12). Liên kết hai bản văn Thánh Kinh này sẽ giúp ta hiểu cách giải thích của Hội Thánh về lời tiên tri của Isaia: đây là lời tiên tri về Đấng Mêsia, Đấng sẽ làm phép Rửa trong Thánh Thần, sẽ thiết lập Nước Trời. Nước Trời chính là chủ đề lớn bao trùm mọi lời rao giảng của Chúa Giêsu. Nước Trời phải là lý tưởng của mọi Kitô hữu và ta cần cộng tác với Chúa để xây dựng Nước Trời ngay từ hôm nay.

IV. THIÊN CHÚA LÀ CHỦ LỊCH SỬ (10,5-43)

1. Thiên Chúa là Chủ lịch sử

Trong tầm nhìn của Isaia, Assyria là ngọn roi Thiên Chúa dùng để xử phạt dân Ngài (10,5). Tuy nhiên chính Assyria cũng sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt vì nó đã không phụng sự Đức Chúa mà chỉ biết tiêu diệt: “Ta sẽ trừng phạt hậu quả lòng tự đại của vua Assyria và con mắt kiêu căng ngạo nghễ của nó” (câu 6-16). Như thế, nếu nhìn lịch sử trên bề mặt, người ta thấy những biến cố này dẫn đến những biến cố khác, nhưng từ tầm nhìn của đức tin, người tín hữu khám phá sự hiện diện của chính Thiên Chúa là Đấng dẫn dắt lịch sử đi đến cùng đích tối hậu của nó.

2. Sống niềm tin vào Thiên Chúa

An trong mọi biến cố lịch sử và đời người, chính Chúa là đấng hướng dẫn lịch sử đi tới cùng đích tốt đẹp nhất. Cách nhìn này của đức tin thúc đẩy ta luôn sống tâm tình tin tưởng và phó thác, cả trong những hoàn cảnh nghiệt ngã và khó khăn nhất.

Sách Isaia (chương 13 – 23)

+++

I. TỔNG QUÁT: HẠCH TỘI CÁC DÂN (13,1 – 23,8)

Trong truyền thống, các tiên tri nhiều lần loan báo thảm hoạ đổ xuống các dân tộc. Tuy nhiên lời loan báo này lại mang giá trị tích cực cho những tâm hồn biết lắng nghe. Những lời loan báo này xem ra không có liên hệ gì với chúng ta ngày nay nhưng cũng có thể rút ra một số bài học cho đời sống đức tin.

13,1-22 : Babylon bị tàn phá
14,1-32 : Cái chết của vua Babylon. Hạch tội Assyria. Hạch tội người Philitinh.
15,1-9 : Hạch tội Moab
16,1-14 : Dân Moab thỉnh cầu và than vãn
17,1-14 : Hạch tội Damas và Israel
18,1-7 : Hạch tội dân Cút
19,1-25 : Hạch tội Ai Cập và tương lai của Ai Cập
20,1-6 : Ngôn sứ ở trần
21,1-16 : Babylon sụp đổ. Hạch tội người Ả Rập.
22,1-25 : Sự sụp đổ của Giêrusalem. Tranh cãi tại tòa.

II. SỰ SỤP ĐỔ CỦA BABYLON (14,1-22)

1. Ý nghĩa

Bài ca của Isaia về sự sụp đổ của Babylon là bài ca nổi tiếng vì đã so sánh vua Babylon với “Lucifer, con của bình minh” (14,12). Hình ảnh này được rút từ huyền thoại Canaan về các thần Helel và Shahar (Sao Mai và Sao hôm) bị sa xuống từ trời sau cuộc nổi loạn. Trong Kitô giáo, ta nhớ đến sự sa ngã của Lucifer và các thiên thần hầu cận Lucifer (x. Lc 10,18).

Nội dung chính của bài ca này là những kẻ kiêu căng muốn trèo lên thật cao rồi sẽ bị hạ xuống thật thấp. Adam và Eva cũng được liên tưởng đến ở đây, “Ta sẽ vượt ngàn mây, sẽ nên như Đấng Tối cao” (x. 14,14). Hai ông bà đòi nên như Thiên Chúa nhưng cuối cùng bị đuổi khỏi vườn Eden.

2. Trong tương quan với Tân Ước

Am vang bài ca này thể hiện rõ nét trong sách Khải Huyền (chương 17-18). Tác giả dùng những hình ảnh biểu tượng để diễn tả sự trừng phạt dành cho đế quốc Roma vì đã bắt bớ và bách hại các chứng nhân của Chúa Giêsu. Cho đời sống thiêng liêng, bài ca này cũng nhắc nhớ ta về lời Chúa Giêsu, “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lc 18,14).

Nếu bài ca của Isaia lên án lối đi của kẻ kiêu căng thì thư Philip 2,5-11 lại trình bày con đường ngược lại: Chúa Giêsu hủy mình ra không, vì thế Người được Chúa Cha tôn vinh.

III. TIÊN TRI Ở TRẦN (20,1-6)

1. Sư kiện

Trong ba năm, Isaia ở trần và đi chân không (20,3) để nên điềm báo sự sụp đổ của Ai Cập: dân phải đi tù và bị đi đày. Đây là lời cảnh báo cho dân Giuđa và miền duyên hải vì quá cậy dựa vào sự trợ giúp của Ai Cập: “Đâu rồi niềm hi vọng của chúng ta, nơi chúng ta đến ẩn náu để được giúp đỡ hầu thoát khỏi tay vua Assyria?” (20,6).

2. Rao giảng Lời Chúa bằng hành động

Các tiên tri không chỉ rao giảng bằng lời nói nhưng còn bằng những hành động biểu tượng, vd. Hôsê với cuộc hôn nhân kỳ lạ, Ezekiel cũng có nhiều hành động lạ lùng (x. chương 4). Hành động cụ thể có khả năng lôi kéo sự chú ý của người ta và mời gọi họ suy nghĩ.

Kitô hữu cũng phải rao giảng Lời Chúa không chỉ bằng lời nói mà còn bằng cả đời sống. Theo nghĩa thiêng liêng, hình ảnh ở trần và đi chân không có thể giúp ta ý thức đến (1) sự từ bỏ, khó nghèo và khiêm tốn, và (2) sự nương tựa vào một mình Chúa. Đây cũng là những chỉ thị của Chúa Giêsu cho các môn đệ trên đường truyền giáo: “Đừng kiếm vàng bạc hay tiền giắt lưng. Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy” (x. Mt 10,5-10).

Sách Isaia
(chương 24-39)

+++

I. TỔNG QUÁT

24,1 – 27,13 : Khải huyền của Isaia: mặt đất tan
hoang – ngày chung thẩm – tiệc cánh chung – thánh thi tạ ơn – Israel được phục hồi.
28,1 – 33,24 : Những tính toán chính trị và Ơn Cứu độ: Samaria thất thủ – Số sót – Các ngôn sứ giả – Dụ ngôn về Ơn Cứu độ – Lời sấm về Giêrusalem – Lời tiên tri về Ơn Cứu độ – Lời sấm về Assyria – Sion được giải thoát – Vị vua công chính và ơn giải thoát.
34,1 – 35,10 : Những lời sấm sau lưu đày: lời sấm chống Edom – Giêrusalem toàn thắng.
36,1 – 39,8 : Những câu chuyện từ thời vua Hezekiah: cuộc xâm lăng của Sennacherib – Cầu cứu ngôn sứ Isaia – Thánh thi tạ ơn – Phái đoàn Babylon.

II. CUỘC CHUNG THẨM (24,21-23)

1. Ngày của Chúa

“Ngày của Chúa” là chủ đề quen thuộc trong Thánh Kinh. Tuy nhiên ở đây có một điểm đặc biệt: Đức Chúa sẽ trừng trị cả đạo binh thiên quốc (các vì sao được coi như các thiên thần, các thần ngoại giáo (Đnl 4,19; Gier 8,2). Chi tiết này làm nổi bật chiều kích vũ trụ của ngày chung thẩm.

Câu 21 cho thấy mối liên hệ mật thiết giữa “đạo binh thiên quốc” và “vua chúa trần gian”: “Trên trời, Đức Chúa sẽ trừng trị đạo binh thiên quốc; dưới đất, Người trừng trị vua chúa trần gian.” Các vua chúa trần gian có vị bảo trợ cho họ trên trời, nhờ đó họ có sức mạnh, đây là ý tưởng quen thuộc thời xưa. Đỉnh cao trong “Ngày của Chúa” là Đức Chúa sẽ hiển trị trên núi Sion và vinh quang của Ngài tỏ rạng trước muôn dân (24,23).

2. Người Kitô hữu và ngày chung thẩm

Khi Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Ngài sẽ đưa ra phán quyết chung thẩm dành cho người công chính cũng như kẻ bất lương, “Tôi đặt nơi Thiên Chúa niềm hi vọng này, như chính họ cũng hi vọng, là người lành và kẻ dữ sẽ sống lại” (Cv 24,15), rồi được hạnh phúc vĩnh hằng hay bị kết án muôn đời.

Ngày chung thẩm xảy ra lúc nào, chỉ một mình Thiên Chúa biết. Sau cuộc chung thẩm, vũ trụ được giải thoát khỏi cảnh hư nát và được chia sẻ vinh quang với Chúa Kitô, bắt đầu Trời Mới Đất Mới (2Pet 3,13). Vương quốc Thiên Chúa sẽ được hoàn thành và Thiên Chúa nắm toàn quyền trên muôn loài (1Cor 15,28). Niềm tin đó phải hướng dẫn đời sống của ta ngay từ bây giờ, “Trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải cố gắng sao cho Người thấy anh em tinh tuyền, không chi đáng trách, và sống bình an” (2Pet 3,14).

III. TIỆC CÁNH CHUNG (25,6-8)

1. Ý nghĩa

Bữa tiệc là chủ đề quen thuộc trong Thánh Kinh cũng như trong nhiều truyền thuyết của các dân tộc. Ở đây, bữa tiệc là tiệc mừng sau khi chiến thắng. Tuy nhiên Isaia trình bày một số nét đặc biệt: đây là tiệc mừng cho mọi dân tộc, “Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc” – Thiên Chúa sẽ tiêu diệt sự chết đến muôn đời, “Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ mọi dân” – Thiên Chúa sẽ cất bỏ mọi nỗi đe doạ trên nhân loại, “Người sẽ xoá sạch nỗi ô nhục của dân Người.”

Gắn với lời loan báo về tiệc cánh chung là thánh thi tạ ơn (26,1-19). Thiên Chúa sẽ trả thù cho người nghèo nhưng sống công chính. Hơn nữa, “các vong nhân sẽ sống lại, xác họ sẽ đứng lên; những kẻ nằm trong bụi đất, hãy trỗi dậy, hãy reo mừng” (26,19). Một vài học giả cho rằng câu này là lời khẳng định sớm nhất trong Thánh Kinh về niềm tin vào sự sống lại. Tuy nhiên nhiều nhà chú giải lại cho rằng câu này có ý nói đến sự phục sinh một dân tộc chứ không phải sự phục sinh của những người đã chết. Dù sao, ý tưởng này cũng dọn đường cho niềm tin vào sự phục sinh kẻ chết.

2. Trong Tân Ước

Trong Kitô giáo, “miền đất không còn nước mắt” được hiểu là thiên đàng, Nước Trời: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4). Trong sách Khải Huyền 19,6-10, Khải hoàn ca trên thiên quốc được diễn tả bằng hình ảnh tiệc cưới: “Nay đã tới ngày cử hành hôn lễ Con Chiên, và Hiền Thê của Người đã trang điểm sẵn sàng … Hạnh phúc thay kẻ được mời đến dự tiệc cưới Con Chiên.” Hình ảnh tiệc cưới cũng là hình ảnh quen thuộc trong giáo huấn của Chúa Giêsu về Nước Trời, “Nước Trời giống như chuyện một vị vua mở tiệc cưới cho con mình…” (x. Mt 22,2-14; Lc 14,16-24).

Ghi chú: Sách Isaia được chia ra làm ba phần: Isaia đệ nhất (chương 1-39), Isaia đệ nhị (chương 40-55) và Isaia đệ tam (chương 56-66). Isaia đệ nhị và đệ tam được viết vào cuối thế kỷ VI trước Chúa Giáng sinh, nghĩa là sau thời ngôn sứ Isaia đến hai trăm năm. Vì thế, chúng ta ngưng đọc sách Isaia ở đây để sang các ngôn sứ khác, rồi sau này sẽ tiếp tục đọc Isaia đệ nhị và đệ tam.

Sách Mica

+++

I. BELEM EPHRATA (5,1-14)

1. Lời tiên tri

“Phần ngươi, hỡi Belem Ephrata…” Ephrata là tên của một địa điểm ở phía bắc Giêrusalem, gần Rama là nơi bà Rachel qua đời (x. 1 Sam 10,2; Gier 31,15). Đây cũng là tên một bộ tộc là dòng dõi của Ephrata, vợ thứ hai của Caleb (x. 1 Ks 2,18-19, 50-55 nhắc đến Bethgader và Belem).

“Nguồn gốc của Người có từ thuở trước, từ thuở xa xưa” (5,1): bản văn Hípri dùng từ “nguồn gốc” ở số nhiều, có ý nhắc đến lịch sử ba trăm năm của triều đại Đavít. Nhưng người Kitô hữu quy chiếu bản văn này về Chúa Kitô, và đọc bản văn này như nói về nguồn gốc vĩnh cửu của Ngôi Hai Thiên Chúa.

“… cho đến thời một phụ nữ sinh con” (5,2): Giống như Isaia (7,14), Mica làm nổi bật khuôn mặt người mẹ của vị vua tương lai. Trong Cựu Ước, hoàng hậu chiếm vị trí quan trọng tại triều đình (x. 1 V. 1,11-37). Bản văn không nói gì đến người cha của vị vua tương lai. Các Kitô hữu đầu tiên đã coi đây như lời ám chỉ về việc thụ thai đồng trinh của Mẹ Maria.

“Chính Người sẽ đem lại hoà bình” (5,4): Truyền thống Kitô giáo nối kết câu này với phần trên nói đến vị vua tương lai (x. Bài đọc I, Chúa nhật IV Mùa Vọng, năm C)

2. Lời tiên tri và phụng vụ Công giáo

Vào Chúa nhật IV Mùa Vọng năm C, Hội Thánh đọc Mk 5,1-4a cùng với bài Tin Mừng Lc 1,39-45. Sự chọn lựa này làm nổi bật những điểm chính yếu:

(1) Mica đã nói tiên tri về việc giáng sinh của Chúa Giêsu,

(2) Hài nhi trong lòng Mẹ Maria là Thiên Chúa “nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa”,

(3) Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?”Các bài Thánh Kinh trong Chúa Nhật IV Mùa Vọng có mục đích giúp ta chuẩn bị tâm hồn cử hành lễ Giáng Sinh. Trong thực tế, người Công giáo ngày nay cử hành lễ Giáng Sinh thế nào? Có còn đầy đủ ý thức đức tin không hay chỉ còn là dịp vui chơi và mua sắm?

II. ĐỨC CHÚA KIỆN CÁO DÂN NGƯỜI (6,1-8)

1. Đọc bản văn

Mica dùng từ “vụ kiện” nên bản văn cũng được trình bày như diễn tiến một vụ kiện ở toà án:

– Triệu tập phiên toà (6,1-2): cả vũ trụ trở thành toà án, chứng nhân là “các núi và nền tảng vững bền của cõi đất,” còn nguyên cáo là chính Đức Chúa.

– 6,3-4 : những câu hỏi liên tiếp được đặt ra, không những nhắc lại những việc tốt lành Thiên Chúa đã làm cho Dân Người, mà còn diễn tả nỗi đau đớn của Thiên Chúa khi chứng kiến sự vô đạo của dân.

– 6,5 : nhắc đến câu chuyện vua Balak triệu Balaam đến để nguyền rủa Israel nhưng thay cho lời nguyền rủa, Balaam lại chúc phúc (x. Ds 22-24). Shittim là giai đoạn cuối trong hành trình từ Ai Cập đến phía đông sông Jordan. Gilgal là thánh điện nổi tiếng gần Jericho (Amos 4,4). Như thế câu này nhắc lại toàn bộ lịch sử Israel từ khi ra khỏi Ai Cập đến khi vào Đất Hứa. Tất cả để làm nổi bật những việc tốt lành Chúa đã làm.

– 6,7-8 : Dân tìm biện hộ cho mình bằng những nghi thức tế tự: lễ toàn thiêu, dâng bê một tuổi, dâng ngàn dê đực, dâng vạn suối dầu, dâng cả con trai đầu lòng… tưởng rằng có thể làm nguôi cơn giận của Đức Chúa trước tội ác của họ. Thế nhưng điều Thiên Chúa muốn là “thực thi công bằng, quý yêu nhân nghĩa, và khiêm tốn bước đi với Chúa.”

2. Liên kết với cử hành phụng vụ

Mica 6,1-2 đã gợi hứng cho thánh thi Improperia (Những lời trách cứ) được hát trong Nghi thức Thứ Sáu Tuần Thánh, trong khi cộng đoàn hôn kính Thánh Giá Chúa Giêsu.

Bạn hãy sống lại bầu khí của Thứ Sáu Tuần Thánh, đặt mình đối diện với Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thánh Giá, và lắng nghe lại những lời này:
“Dân Ta ơi, Ta đã làm gì cho ngươi?

Ta đã làm chi khiến ngươi phiền lòng?

Hãy trả lời Ta đi?”

Chúa đã làm gì cho bạn, và bạn đã làm gì cho Chúa?

Sách Nahum, Sophonia, Habakuc

+++

I. CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA TIÊN TRI HABAKUC VÀ THIÊN CHÚA (1,2 – 2,5a)

Cuộc đối thoại gồm hai phần, trong mỗi phần vị tiên tri đặt câu hỏi với Chúa và than khóc (1,2-4; 1,12-17), sau đó là lời đáp trả của Thiên Chúa.

Vị tiên tri đặt ra những câu hỏi thật đau đớn, cũng là những câu hỏi của người tín hữu khi lâm vào tình trạng khổ đau: “Tại sao Ngài bắt con phải chứng kiến tội ác hoài, còn Ngài cứ đứng nhìn cảnh khổ đau?” “Tại sao Ngài cứ đứng nhìn quân phản bội, sao Ngài lặng thinh khi kẻ gian ác nuốt trửng người chính trực hơn mình?” (1,3.13)

Câu trả lời của Thiên Chúa được đúc kết trong 2,4: “Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính, nhờ đức tin, sẽ được sống.” “Đức tin” ở đây là sự thành tín (Xh 34,5-8). Đây cũng là từ chìa khoá trong thần học của thánh Phaolô về sự công chính hoá bởi đức tin: “Trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mạc khải, nhờ đức tin để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Rm 1,17). Thư Do Thái nối kết đức tin với sự kiên nhẫn: “Người công chính của Ta nhờ đức tin sẽ được sống, nhưng nếu người ấy bỏ cuộc thì Ta không hài lòng về người ấy” (Dt 10,38).

II. SỐNG TRONG HI VỌNG (Sophonia 3,9-20)

1. Số Sót

“Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ, chúng sẽ tìm nương ẩn nơi Danh Đức Chúa” (3,12). Từ anawim trong tiếng Hipri nói đến những người nghèo hèn nhưng còn hàm chứa ý nghĩa thần học về sự khiêm tốn, nghèo khó, thấp hèn. Đó là những người không cậy dựa vào thế lực người đời nhưng hoàn toàn cậy dựa nơi Thiên Chúa. Thánh Matthêu đặt vào môi miệng Chúa Giêsu lời mời gọi: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 21,29).

2. Thánh thi ngợi khen (3,14-18a)

Đối chiếu thánh thi này với trình thuật Truyền tin cho Đức Mẹ (Lc 1,26-38) sẽ thấy nhiều điểm tương đồng:

– Reo vui lên (câu 14)
– Đừng sợ (câu 16)
– Thiên Chúa ở giữa ngươi (câu 17)
– Vị Cứu tinh hùng mạnh (câu 17)

Việc đối chiếu này giúp ta hiểu rõ hơn ý nghĩa của trình thuật Truyền Tin cũng như ý nghĩa của kinh Kính Mừng và chuỗi Mân Côi. Mẹ Maria đang mang Chúa Giêsu trong lòng dạ, Mẹ được giới thiệu như là Giêrusalem mới, và là mẫu mực cho những người nghèo của Thiên Chúa, những người đặt trọn niềm tín thác và cậy trông nơi Thiên Chúa.

III. THIÊN CHÚA KHÔNG DUNG THA SỰ BẤT CÔNG (Nahum 3,1-7)

Chủ đề thần học của sách Nahum là Thiên Chúa sẽ không dung tha mãi mãi cho sự bất công. Chủ đề này xuất hiện rõ nét trong lời sấm về Ninivê (thủ đô của Assyria) sụp đổ. Lời sấm này cảnh báo rằng đế quốc Assyria ở bất cứ thời đại nào và nơi chốn nào, kể cả tên bạo chúa đang ngự trị trong lòng người, sẽ đều bị Thiên Chúa trừng phạt.

Theo luật của Assyria, người nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình sẽ bị tước lột quần áo và thành phương tiện thoả mãn cho bất cứ ai. Nahum dùng những sự kiện này để mô tả về án phạt cho Ninivê (3,5-6). Ở đây cũng có thể liên tưởng đến sách Khải Huyền, chương 17, nói về sự trừng phạt Babylon. “Ai còn cảm thương nó?” (3,7) Tên của Nahum có nghĩa là “người được an ủi,” còn ở đây Nahum đảo ngược ý nghĩa “Ai còn cảm thương nó” để mô tả án phạt giáng xuống trên Ninivê.

“Halleluia! Thiên Chúa ta thờ là Đấng Cứu độ, Đấng vinh hiển uy quyền… Người đã xét xử con điếm khét tiếng từng dùng chuyện gian dâm mà làm cho mặt đất ra hư hỏng, và Người đã bắt nó phải đền nợ máu các tôi tớ của Người mà chính tay nó đã giết…

Halleluia! Nào ta hãy vui mừng hoan hỷ dâng Chúa lời tôn vinh, vì nay đã tới ngày cử hành hôn lễ Con Chiên, và Hiền Thê của Người đã trang điểm sẵn sàng, nàng đã được mặc áo vải gai sáng chói và tinh tuyền” (Kh 19,1-2.6-8).

SÁCH GIÊRÊMIA
(Chương 1 – 12)

***

I. TỔNG QUÁT VỀ SÁCH GIÊRÊMIA

Năm 604 trước Công nguyên, Giêrêmia đọc cho Baruch là thư ký của ông viết lại những gì ông đã rao giảng trong 23 năm qua (x. chương 36 và 25,1-14). Khi nhà vua đốt đi cuộn sách của Giêrêmia (36,21-23), Giêrêmia lại giao cho Baruch viết một cuộn khác (36,32). Các học giả tin rằng phần lớn cuộn sách thứ hai này đã được giữ lại trong các chương 1-20 và chương 25 như ta có ngày nay. Các câu 1-14 trong chương 25 có vẻ như là phần kết của cuộn sách đã viết năm 604. Phần còn lại của sách Giêrêmia (chương 26-52) gồm những chất liệu mang tính tự thuật về Giêrêmia (26-44), một tuyển tập những lời sấm chống các dân ngoại (45-51) và chương cuối cùng 2V 25.

Một trong những khó khăn khi đọc sách Giêrêmia là cuốn sách không được viết theo thứ tự thời gian. Ví dụ, chương 21 nhắc đến cuộc vây hãm Giêrusalem năm 588-587, nhưng đến chương 25, người đọc lại bị lôi về năm 604. Và điều này xảy ra thường xuyên. Phải lý giải thế nào về tình trạng này? Theo các học giả Thánh Kinh, có nhiều tuyển tập về lời giảng của Giêrêmia, những câu chuyện về cuộc đời vị tiên tri cũng như những bài tường thuật lịch sử về những ngày cuối cùng của vương quốc Giuđa. Khi biên soạn những tài liệu này, thay vì sắp xếp các tư liệu theo thứ tự thời gian, vốn là công việc hết sức khó khăn, người biên soạn cứ xếp tư liệu này nối tiếp tư liệu khác, do đó tạo cảm giác không rõ ràng về thứ tự thời gian.

Có thể phân chia sách Giêrêmia như sau:

Phần I : Ơn gọi của Giêrêmia (1,1-19)
Phần II : Lời rao giảng của Giêrêmia từ năm 626 đến 604 (2,1 – 20,18)
Phần III : Những lời tiên tri chống lại các vua và các tiên tri giả (21,1 – 25,38)
Phần IV : Những tư liệu mang tính tự thuật và giao ước mới (26,1 – 33,26)
Phần V : Bất trung và sự tàn phá (34,1 – 39,18)
Phần VI : Bất trung đến cùng (40,1 – 45,5)
Phần VII : Những lời sấm chống lại các dân và kết luận (46,1 – 52,34)

II. ƠN GỌI CỦA GIÊRÊMIA (1,1-19)

1. Bài tường thuật về ơn gọi (1,4-10)

“Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi… Ta đặt ngươi làm tiên tri cho chư dân”: Giêrêmia sử dụng ngôn ngữ tượng hình để nhấn mạnh sứ mạng Thiên Chúa trao cho ông không những trong lịch sử Israel mà cả trong lịch sử các dân tộc.

“Lạy Đức Chúa là Chúa thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói”: lời này nhắc ta nhớ đến Môsê tìm cách thoái thác những khó khăn của sứ vụ tiên tri (x. Xh 4,10-13). Giêrêmia biết rằng các tiên tri phải sống cuộc đời đơn độc, phải chấp nhận bị người ta chế giễu và kể cả bách hại; vì thế ông tìm cách tránh né.

“Đừng nói ngươi còn trẻ…Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi”: Sự nâng đỡ duy nhất mà Giêrêmia nhận được là lời hứa của Chúa “Ta ở với ngươi”. Đây cũng là lời hứa Chúa dành cho những người Chúa sai đi thi hành sứ mạng Người trao phó (x. Xh 4,12; Gios 1,5; Tp 6,16; 1Sam 3,19; 16,13).

Chúa giơ tay chạm vào miệng Giêrêmia (câu 9): câu này muốn khẳng định rằng những lời Giêrêmia rao giảng không phải là lời của loài người mà là Lời của Thiên Chúa (so sánh với Is 6,6-7; Ez 3,1-4.10-11).

Câu 10 cho thấy sứ mạng của Giêrêmia không chỉ dành cho dân Israel nhưng còn cho các dân khác, và lời rao giảng của ông có cả hai mặt tiêu cực và tích cực, “Hôm nay Ta đặt ngươi đứng đầu các dân các nước, để nhổ để lật, để huỷ để phá, để xây để trồng.” Một đàng, ông loan báo sự chấm dứt giao ước cũ và triều đại hiện hữu của Đavít, nhưng đàng khác ông loan báo giao ước mới và Davít mới (x. chương 30-33).

Trình thuật ơn gọi này soi sáng cho bạn điều gì cho ơn gọi của mình (ơn gọi Kitô hữu, ơn gọi gia đình, ơn gọi tu trì)?

2. Hai thị kiến (1,11-16)

Thị kiến về “cây canh thức”: những cây này nở hoa vào đầu tháng hai. Điều được nhấn mạnh ở đây là chính Chúa đang canh thức để làm cho Lời của Người được hoàn thành. Thị kiến “cái nồi đang sôi… và mặt nồi từ phía Bắc nghiêng xuống” ám chỉ hướng mà quân xâm lăng Babylon sẽ tấn công Giêrusalem.

Bài tường thuật về hai thị kiến được xếp vào phần nói về ơn gọi của Giêrêmia vì những thị kiến này báo trước việc thực hiện những lời tiên tri của Giêrêmia về Giêrusalem thất thủ.

3. Thiên Chúa khích lệ Giêrêmia (1,17-19)

Những câu này kết thúc trình thuật về ơn gọi của Giêrêmia. Thiên Chúa nhấn mạnh với vị tiên tri: ông không ở một mình khi đối diện với quân thù (câu 17), chính Chúa sẽ làm cho ông mạnh sức (câu 18) và cuối cùng ông sẽ chiến thắng vì Chúa ở với ông (câu 19).

Giêrêmia rất cần sự khích lệ của Chúa, nhất là trong những lúc chán nản và thất vọng như ta sẽ thấy sau này. Bạn có dám tin vào quyền năng che chở của Chúa trên cuộc đời mình không?

Sách Giêrêmia, chương 13 – 23

***

I. TỔNG QUÁT

Các chương từ 11,1 – 20,18 tiếp tục trình bày những lời tiên tri Giêrêmia tố cáo và lên án Giuđa. Tuy nhiên những lời tố cáo và lên án này được trình bày bằng nhiều hình thức khác nhằm lôi kéo sự chú ý của Dân Chúa hơn. Cách cụ thể, lời tố cáo và lên án của Giêrêmia được trình bày qua những bài giảng (các chương 11, 16, 17, 19, 20), một số dụ ngôn (các chương (13, 18, 19), và năm lời tự thú rất nổi tiếng của vị tiên tri.

II. NHỮNG LỜI TỰ THÚ

Tiên tri Giêrêmia có năm lời tự thú (11,18 – 12,6; 15,10-21; 17,12-18; 18,18-23; 20,7-18). Đây là những tâm tình sâu kín vị tiên tri bày tỏ với Chúa về ơn gọi, về sứ mạng, về những đau khổ phải gánh chịu cũng như những giằng co nội tâm của mình. Những đoạn văn này có chiều sâu nội tâm và giá trị giáo huấn đặc biệt.

Hãy thử tập trung vào lời tự thú thứ năm (20,7-18). Hầu như tuyệt vọng, vị tiên tri than trách Chúa rằng chính Chúa đã “quyến rũ” ông chấp nhận một sứ mạng vốn chỉ đem đến toàn là tai hoạ và đau khổ, “suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con.” Vì thế, vị tiên tri chán nản đến độ nguyền rủa chính ngày sinh của mình, “tại sao tôi đã không chết ngay trong lòng mẹ, để mẹ tôi nên nấm mồ chôn tôi?”… và toan tính rũ bỏ sứ mạng, “Có lần con tự nhủ: tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa.” Thế nhưng chính lúc ấy ông lại cảm thấy Lời Chúa như ngọn lửa thiêu đốt tận xương tủy khiến ông không chịu nổi, “Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim.” Dẫu biết rằng sứ mạng tiên tri mang đến quá nhiều đau khổ, Giêrêmia tin rằng Chúa ở với ông và kẻ thù của ông sẽ không thể chiến thắng. Và với niềm tín thác vào Chúa, ông kêu cầu Chúa trả thù thay cho mình.

Bạn hãy đọc lại những lời tự thú của Giêrêmia và tâm niệm rằng con đường theo Chúa và làm chứng cho Chúa không phải là con đường dễ dãi. Ai nghĩ rằng đó là con đường dễ dãi, người ấy cần nhìn lại xem mình đang đi trên nẻo đường Phúc âm hay một con đường nào khác! Tuy nhiên, dù khó khăn và đau khổ, ta không cô đơn trên con đường này vì có Chúa đồng hành, và có rất nhiều anh chị em cũng phải kinh qua những khổ đau và thử thách đó như Giêrêmia, và họ đang đồng hành với ta.

III. CÁC DỤ NGÔN

Giống như Chúa Giêsu, tiên tri Giêrêmia hay sử dụng các dụ ngôn khi rao giảng. Hầu hết các dụ ngôn là những câu chuyện được sáng tác, vd. Người Samari nhân hậu, Người con hoang đàng, Người giàu cóù và Ladarô. Một vài dụ ngôn được thể hiện bằng hành động, vd. Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ. Khác với tỷ ngôn mang tính so sánh từng chi tiết, mỗi dụ ngôn có một trọng điểm và ta cần khám phá ý nghĩa đó.

– Đai lưng tốt đã trở thành vô dụng (13,1-11): Lưu ý các từ “huỷ diệt” (13,9) và “thắt chặt” (13,11).
– Người thợ gốm (18,1-12: Lưu ý câu “Ta lại không thể làm được như người thợ gốm này hay sao?” (18,6).
– Cái bình vỡ (19,1 – 20,6): Lưu ý hành động Giêrêmia đập vỡ bình và những lời kèm theo.

IV. GIÊRÊMIA VÀ CHÚA GIÊSU

Trong lịch sử Israel, không có vị tiên tri nào giống Chúa Giêsu cho bằng Giêrêmia:

– Giảng dạy bằng dụ ngôn,
– Bị chính dân mình ruồng bỏ
– Khóc cho dân
– Bị tù tội, đánh đập và giết chết.
– Thảm kịch của Giêrusalem thời Chúa Giêsu cũng tương tự thảm kịch Giêrusalem thời tiên tri Giêrêmia.
– Cả Chúa Giêsu và tiên tri Giêrêmia đã tiên báo sự sụp đổ của Giêrusalem và đền thờ, và cả hai lời tiên tri đều đã ứng nghiệm.

Vì tiên tri Giêrêmia giống Chúa Giêsu như thế nên nhiều người Do Thái thời Chúa Giêsu đã tự hỏi không biết ông này có phải là Giêrêmia trở về từ cõi chết không (x. Mt 16,14).

Sách Giêrêmia

(chương 24-39)

***

1. TIÊN TRI GIÊRÊMIA VÀ GIAO ƯỚC MỚI (30,1 – 33,26)

Gier 31,1-40 cho thấy Giêrêmia chịu ảnh hưởng của tiên tri Hôsê về mặt thần học cũng như về ngôn ngữ và văn phong. Cả hai đều sử dụng ngôn ngữ hình tượng để nhấn mạnh đến tình yêu Thiên Chúa dành cho Israel, đồng thời loan báo giao ước mới và vĩnh cửu hoặc cuộc hôn nhân mới và vĩnh cửu (Gier 31,31-34 và Hôsê 2,18-25).

– Câu 1-6 : loan báo dân sẽ được thoát cảnh lưu đày, nhấn mạnh tình yêu của Chúa: “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở”

– Câu 7-14 : niềm vui của những người bị lưu đày nay được trở về: “Reo vui lên mừng Giacóp, hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân”

– Câu 15-20 : kêu gọi dân đừng than khóc nữa (qua nhân vật Rakhel). Thánh Matthêu cũng dùng hình ảnh này (Mt 2,18). Dân sẽ được thoát cảnh lưu đày, sẽ hối cải, và được Thiên Chúa thứ tha.

2. Giao ước mới (31,31-34)

“Ta sẽ lập với nhà Israel và nhà Giuđa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai Cập… Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta…”

Đây là lời tiên tri nổi tiếng, làm nền cho giáo huấn thần học của Tân Ước về Giao Ước Mới được thực hiện trong Chúa Giêsu Kitô: “Anh em là bức thư của Đức Kitô được giao cho chúng tôi viết, không phải viết bằng mực đen nhưng bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống, không phải ghi trên những tấm bia bằng đá nhưng trên những tấm bia bằng thịt, tức là lòng người… Khả năng của chúng tôi là do ơn Thiên Chúa, Đấng ban cho chúng tôi khả năng phục vụ Giao Ước Mới, không phải Giao Ước căn cứ trên chữ viết nhưng dựa vào Thần Khí. Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống” (2Cor 3,3-6).

Cái “Mới” ở đây là hoa trái của giao ước và phương thế mang lại hoa trái đó: chính Chúa và chỉ một mình Chúa đặt vào tâm hồn con người năng lực đáp trả tình yêu của Ngài. Chúng ta gọi là ân sủng. An sủng đó được ban cho ta cùng với ơn tha thứ tội lỗi, khi ta đặt niềm tin vào Chúa Giêsu là Đấng đã chết vì yêu thương ta.

3. TIÊN TRI THẬT VÀ TIÊN TRI GIẢ (27,1 – 29,32)

Chương 27 trình bày bối cảnh cuộc xung đột giữa tiên tri Giêrêmia và Hananiah (Kha-nan-gia). Năm 593 trước Công nguyên, vua Zedekiah của Giuđa âm mưu chống lại Nabuchodonosor bằng cách mời đại diện các nước Edom, Moab, Ammon, Tyre và Sidon đến Giêrusalem. Dùng một cái ách làm tượng trưng (dụ ngôn bằng hành động), Giêrêmia loan báo cho vua cũng như các vị đại sứ rằng họ sẽ không thành công nhưng sẽ phải chịu cái ách thống trị của Babylon.

Trong bối cảnh trên, chương 28 trình bày cuộc đối đầu giữa Giêrêmia (tiên tri thật của Chúa) và Hananiah (tiên tri giả). Hananiah loan báo thành công (28,1-4). Giêrêmia tố cáo Hananiah nói sai (28,5-9). Hananiah tháo cái gông ra khỏi cổ của Giêrêmia mà ném xuống đất và lập lại lời loan báo về sự thành công (28,10-11). Cuối cùng Giêrêmia nói tiên tri về cái chết của Hananiah trong vòng một năm vì “Đức Chúa chẳng hề sai ông, thế mà ông lại làm cho dân này tin vào điều dối trá.”

Chương 29 tiếp tục trình bày cuộc chiến đấu của Giêrêmia chống lại các tiên tri giả. Trong cảnh lưu đày Babylon, các tiên tri giả quả quyết với dân rằng họ sẽ sớm được hồi hương nhưng Giêrêmia phi bác lời tiên tri đó bằng cách gửi cho dân một lá thư. Ngài khuyên dân chấp nhận định cư ở đó (câu 4-6), cầu nguyện cho sự thịnh vượng của Babylon (câu 7), đừng để các tiên tri giả lường gạt (câu 8-9). Sau đó (câu 10-14) Giêrêmia đoan quyết với dân rằng sau 70 năm, Chúa sẽ đảo ngược số phận của họ và đem họ về quê hương xứ sở của họ.

4. Làm thế nào để phân biệt tiên tri thật và tiên tri giả?

Hãy đọc Gier 28,7-9 và 29,8-9 và tìm ra một vài dấu hiệu nhận diện tiên tri giả.

“Các tiên tri có trước tôi và ông từ ngàn xưa đã tuyên sấm về nhiều xứ sở và vương quốc hùng mạnh, là sẽ có chiến tranh, tai ương và ôn dịch; còn tiên tri nào tuyên sấm có bình an, thì chỉ khi nào lời tiên tri ấy ứng nghiệm, ông ta mới được nhìn nhận là tiên tri Đức Chúa sai đến thực sự” (28,8-9)

“Các ngươi chớ để cho mình bị lầm lạc vì các tiên tri đang ở giữa các ngươi cũng như vì các tay bói toán; đừng tin theo mộng mị các ngươi mơ thấy, bởi vì chúng chỉ nhân danh Ta mà tuyên sấm điều dối trá cho các ngươi. Ta chẳng hề sai chúng đi” (29,8-9).

Sách Giêrêmia
chương 40 – 52
***

I. PHẦN KẾT SÁCH GIÊRÊMIA (52,1-34)

1. Giêrusalem sụp đổ (52,1-16)

Cuộc vây hãm bắt đầu vào tháng giêng năm 588 trước Công nguyên và kết thúc vào tháng 7 năm 587. Binh lính bỏ chạy, bị bắt, vua Zedekiah bị đâm mù mắt… những điều này đã được nói đến ở chương 39,5-7. Một tháng sau, Nebuzaradan, quan chỉ huy thị vệ của vua Babylon, đến để giám sát việc phá hủy thành phố và đưa dân đi đày.

2. Lưu đày (52,24-30)

Đem dân thua trận đi lưu đày là cách thế hiệu quả nhất để ngăn chặn những cuộc nổi loạn có thể bùng phát. Assyria đã từng làm như thế (x. 2V 17). Lưu đày không có nghĩa là đưa toàn bộ dân chúng sở tại đi, nhưng chỉ đưa những người có thế lực và ảnh hưởng đi vì sự hiện diện của họ có thể khơi dậy các cuộc phản kháng và chống đối. Câu 28-30 đưa ra những con số dân lưu đày thuộc 3 nhóm: năm 597, 587, và năm 582.

3. Vua Jehoiachim được tha (52,31-34)

Năm 598, Ông vua trẻ này lên nối nghiệp cha mới được 3 tháng thì bị đày sang Babylon làm con tin. Ông được trả về năm 561. Nhiều người Do thái đang bị lưu đày cũng như đã được về quê hương nhìn vị vua này là vị vua chính thức (chứ không phải vua Zedekiah). Vì thế việc ông ra khỏi tù được coi là dấu chỉ hi vọng cho tương lai. Cách đối xử đặc biệt mà vua Babylon dành cho vị vua này cũng nhằm nói lên ý nghĩa này: nhắc nhớ cho dân Israel lời tiên tri của Giêrêmia rằng thời lưu đày sẽ chấm dứt và họ sẽ được trở về miền đất quê hương.

II. TẦM ẢNH HƯỞNG CỦA TIÊN TRI GIÊRÊMIA

Giống như Môsê và Chúa Giêsu, Giêrêmia sống vào thời điểm bước ngoặt của lịch sử, và đóng vai trò cầu nối giữa giai đoạn cũ và giai đoạn mới. Trong thị kiến mở đầu, sứ vụ tiên tri của ngài được mô tả là “để nhổ, để lật, để hủy, để phá, để xây, để trồng” (1,10). Trong thực tế, ngài đã làm đúng từng chữ như thế. Ngài đã thấy đế quốc Assyria biến mất khỏi vũ đài lịch sử, và Babylon bước lên thay thế. Ngài đã loan báo sự sụp đổ của vương quốc Giuđa và giao ước Sinai, đồng thời tiên báo việc thiết lập Giao Ước Mới. Ngài đã tuyên bố rằng các vua dòng dõi Davít bị ruồng bỏ, đồng thời loan báo một Đavít mới.

Có thể nói về Giêrêmia rằng không có ai đóng góp nhiều cho dân tộc mình bằng ngài nhưng lại là người bị đối xử tệ hại nhất. Tuy nhiên điều quan trọng không phải là những đau khổ ngài phải chịu, mà là sự phục sinh của một dân tộc. Sự phục sinh này là một trong những kỳ công vĩ đại của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa lại làm việc qua con người, và Giêrêmia là người đóng góp tích cực nhất.

Khi ngài bắt đầu xuất hiện vào năm 626 trước Công nguyên, khó có người Israel nào có thể hình dung Giêrusalem sẽ bị vây hãm và Đền thờ bị phá huỷ. Ai cũng nghĩ rằng Thiên Chúa đã tuyển chọn các vua dòng dõi Đavít và đã gắn bó với Giêrusalem, nên Giêrusalem bất khả xâm phạm. Việc họ đánh bại Sennacherib thời Isaia lại càng làm cho họ vững tin hơn. Đây là lý do giải thích tại sao họ chống lại Babylon và đến phút cuối, vẫn hi vọng Chúa sẽ can thiệp và hạ gục vua Babylon.

Giêrêmia đã cố gắng chống lại quan điểm tôn giáo sai lầm này. Ngài nhắc cho dân chúng nhớ rằng Thiên Chúa có thể hủy diệt Giêrusalem và ruồng bỏ hàng vua chúa thuộc dòng dõi Đavít. Điều ngài nhấn mạnh là việc Giêrusalem thất thủ không phải là do đế quốc Babylon nhưng là công việc của Chúa, và Chúa dùng Babylon như khí cụ. Thế là ngài bị chế giễu, khinh khi, nguyền rủa. Các tiên tri giả chiến thắng!

Thế nhưng khi Ngày của Đức Chúa đến, khi Giêrusalem bị tàn phá, khi vua chúa bị lưu đày… người ta nhớ lại lời của Giêrêmia. Và lời rao giảng của ngài, những dụ ngôn (bằng lời và hành động) của ngài được nhìn trong ánh sáng mới. Dân Chúa học được bài học đó đã là đáng quý nhưng phải trả giá quá đắt.

Điều đáng mừng là lời tiên tri của Giêrêmia không dừng ở đó. Bên cạnh thúng vả xấu, còn có thúng vả tốt (24,1-10); bên cạnh lời loan báo hủy diệt, còn có lời hứa hi vọng: “Khi mãn 70 năm, Ta sẽ viếng thăm để trừng phạt Babylon và dân ấy vì tội lỗi của chúng…” (25,12) và “Người ta sẽ còn tậu nhà cửa, ruộng nương, vườn tược trong xứ này” (32,15). Và những lời loan báo về giao ước mới (31,31-34; 32,40) cũng như lời hứa về một Đavít mới (33,14-26).

Trong cảnh tang thương, người ta nhớ lại lời tiên tri Giêrêmia và hiểu ra rằng tương lai của dân tộc tùy thuộc vào việc người ta trung thành hay bất trung với giao ước đã ký kết với Thiên Chúa. Trong ánh sáng đức tin, người ta hiểu được ý nghĩa những biến cố xảy ra. Và đức tin ấy tiếp tục được thắp lên giữa tăm tối của thời lưu đày, trở thành gạch nối giữa một Israel đau khổ của lưu đày và một Israel được hồi sinh từ nấm mồ lưu đày để bước vào một trang mới của lịch sử Dân Chúa. Giêrêmia là người đã đóng góp phần tích cực nhất cho lịch sử đó.

Sách Ai Ca – Barúc – Thư Giêrêmia

***

I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ TÔN GIÁO

1. Lưu đày

Trong những năm sau khi Giêrusalem bị tàn phá (587 trước Công nguyên), một số người Do thái bị lưu đày sang Babylon, số khác chạy trốn sang Ai Cập, số khác nữa vẫn ở lại quê nhà.

Vào năm 539, vua Ba Tư là Kyrô đánh bại Babylon và thiết lập đế quốc Ba Tư. Một trong những sắc chỉ đầu tiên của ông là cho phép các dân lưu đày được trở về quê hương của họ.

2. Người Do thái sau lưu đày

Nhiều người đã trở về quê hương nhưng số đông hơn vẫn ở lại trên đất lưu đày (nay đã thành quen thuộc với họ). Những người ở lại tạo thành cộng đoàn tản mác (diaspora), đông nhất là ở vùng Mesopotamia và Ai Cập. Dĩ nhiên có nhiều người đã đánh mất niềm tin truyền thống của cha ông nhưng số đông hơn vẫn trung thành với tôn giáo truyền thống. Trong những năm kế tiếp đó, cộng đoàn Do thái tản mác này đã phát triển mạnh cả về mặt vật chất lẫn đời sống tôn giáo. May mắn cho tương lai tôn giáo của Israel là nhiều người lưu đày lại xuất thân từ những gia đình trí thức và có ảnh hường (các tư tế, ký lục và ngôn sứ) nên dân lưu đày vẫn tiếp tục được hướng dẫn nhờ thành phần ưu tú này. Sống trong cảnh lưu đày, họ phải xa đền thờ, do đó đời sống tôn giáo tập trung vào các hội đường và những văn bản được linh hứng. Họ tụ họp trong các hội đường, đọc và nghiên cứu Lề Luật và các tiên tri, rồi cũng trong giai đoạn này xuất hiện các sách như Ai Ca, Tôbia, Esther, Judith, Khôn ngoan, và Baruch.

II. SÁCH BARUCH

1. Tác giả

Baruch là thư ký của Giêrêmia (x. Gier 36). Có lẽ ông đã đi theo tiên tri Giêrêmia trong cảnh lưu đày, và ông rất quen với những thư Giêrêmia gửi cho dân lưu đày (chương 29 – 33).
Thời xưa, có những tác giả vô danh viết sách nhưng lại đề tên tác giả là những vị nổi tiếng của thời trước. Chính vì thế có nhiều Thánh vịnh được gán cho vua Đavít và những sách khôn ngoan được gán cho vua Salomon. Tương tự như thế, có thể có sách được gán cho Baruch là người thư ký nổi tiếng của Giêrêmia.

2. Một cái nhìn tổng quát về sách Baruch

Nhập đề (1,1-14)
Lời kinh sám hối (1,15 – 3,8)
Bài thơ ca tụng sự khôn ngoan (3,9 – 4,4)
Giêrusalem than van và hi vọng (4,5 – 5,9)
Thư của Giêrêmia (6,1-72)

I. AI CA

1. Tác giả và thời gian biên soạn

Sách được gọi là “Than vãn của Giêrêmia” khi tiên tri nhìn thấy sự sụp đổ của Giêrusalem năm 587 trước Công nguyên. Ngài nhìn thấy làn khói bốc lên từ thành phố, nghe thấy tiếng kêu than của phụ nữ, nhìn thấy xác người nằm ngổn ngang trong cảnh hoang tàn. Tuy nhiên không chắc vị tiên tri là tác giả của tất cả các lời than trong sách. Có thể hai bài thơ đầu là của thị chứng nhân, còn những bài khác được biên soạn trong nhiều năm sau này. Điều chắc chắn là sách Ai Ca như ta có hiện nay đã được hoàn thành khoảng năm 538 trước Công nguyên. Để tưởng niệm biến cố Giêrusalem bị tàn phá (587 trước Công nguyên và 70 sau CN), người Do thái đọc sách này trong các hội đường.

2. Nội dung

Sách Ai Ca gồm 5 bài ca:
(1) Giêrusalem bị bỏ rơi và thất sủng (1,1-22)
(2) Cơn giận của Chúa chống lại Sion (2,1-22)
(3) Những đau khổ của vị tiên tri và dân Chúa (3,1-66)
(4) Nỗi tang thương của thành bị chiếm đóng (4,1-22)
(5) Lời than thở và khẩn cầu của vị tiên tri (5,1-22)

Nội dung chính: vừa suy nghĩ về ý nghĩa và giá trị của đau khổ vừa nói lên niềm hi vọng và cậy trông vào Thiên Chúa.

Sách Êzêkiel

(chương 1-12)

***

250px-EzekielI. TỔNG QUÁT

1. Nội dung

Sách Ezekiel gồm 5 phần chính:

– Chương 1-3 : Ơn gọi của Ezekiel
– Chương 4-24 : Những lời tiên tri về vận mệnh
Giêrusalem
– Chương 25-32 : Những lời tiên tri chống lại các
nước khác
– Chương 33-39 : Niềm hi vọng hồi sinh sau khi
Giêrusalem thất thủ
– Chương 40-48 : Thị kiến về Đền thờ mới và sự
phục hồi đời sống chính trị cũng
như tôn giáo của Israel.

2. Văn loại

Sách Ezekiel được xếp vào thể văn tiên tri. Cũng như các tiên tri khác, Ezekiel là phát ngôn viên của Chúa. Khi cộng đoàn phải đối diện với những khủng hoảng tôn giáo và chính trị, Ezekiel nhân danh Chúa đưa ra những lời lên án hoặc khích lệ họ. Đối tượng mà Ezekiel nhắm tới là cộng đoàn Do thái ở Giuđa và Babylon vào thế kỷ VI trước Công nguyên. Ezekiel nói tiên tri bằng nhiều hình thức: thị kiến, những hành động biểu tượng, những ngụ ngôn, diễn từ.

II. ƠN GỌI CỦA EZEKIEL (1,1 – 3,27)

1. Sự thánh thiện của Thiên Chúa và tội lỗi của con người

Bài tường thuật về ơn gọi của Ezekiel khá giống với những bài tường thuật về ơn gọi của Isaia và Giêrêmia. Tác giả làm nổi bật sự tương phản giữa vinh quang Thiên Chúa và sự thấp hèn của con người, giữa sự thánh thiện của Thiên Chúa và tội lỗi con người: “Đó là một cái gì trông tựa vinh quang của Đức Chúa. Vừa thấy thế, tôi liền sấp mặt xuống” (1,28).
Cảm nghiệm này giúp cho các tiên tri – và mỗi Kitô hữu – ra đi công bố Lời Chúa với lòng khiêm tốn, đồng thời giữ vững niềm tin tưởng cậy trông: “Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Israel… Đừng sợ chúng, cũng đừng sợ những lời chúng nói… Người cứ nói với chúng những lời của Ta” (2, 3-6).

2. Ăn cuộn sách (2,1 – 3,15)

Đức Chúa phán với Ezekiel: “Hãy ăn cuộn sách này rồi đi nói với nhà Israel” (3,1). Ezekiel đã ăn và cảm nhận cuộn sách thật ngọt ngào (3,3). Lời Chúa là mật ngọt cho tâm hồn. Có nhiều thứ mật ngọt. Có những loại mật ngọt dẫn đến hư vong, chỉ có Lời Chúa mới mang lại hương vị hạnh phúc, bình an và niềm vui sâu xa, bền vững. Tiên tri đích thực không rao giảng lời lẽ và sự khôn ngoan của riêng mình nhưng là Lời của Chúa (x. 1Cor 2,4). Muốn thế, bản thân tiên tri phải được thấm nhuần Lời Chúa, phải “ăn và nuốt” lấy Lời Chúa.

3. Nhiệm vụ người canh gác (3,17-21)

Đức Chúa giao cho Ezekiel nhiệm vụ “canh gác nhà Israel.” Tiên tri thi hành nhiệm vụ này bằng cách nghe Lời Chúa rồi thay mặt Chúa loan báo cho dân. Phải loan báo cách trung thành, dù là những lời người ta không muốn nghe; nếu không, bản thân tiên tri sẽ bị trừng phạt: “nếu Ta phán với kẻ gian ác rằng ‘Chắc chắn ngươi sẽ phải chết,’ và nếu ngươi không báo cho kẻ gian ác đó biết… thì chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết vì tội lỗi của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó” (3,18).

Được chia sẻ chức năng tiên tri của Chúa Kitô, bạn đã thi hành nhiệm vụ canh gác này với ai? Bằng cách nào?

III. NHữNG HÀNH ĐỘNG BIỂU TƯỢNG

1. Bốn hành động biểu tượng trong Ez 3,16 – 5,17

– Vẽ trên gạch hình ảnh Giêrusalem bị vây hãm
– Nằm nghiêng bên trái rồi bên phải trong một số ngày để loan báo số năm dân Israel và Giuđa bị lưu đày.
– Phần lương thực
– Cắt tóc cạo râu và phân chia râu tóc

2. Ý nghĩa

Những hành động biểu tượng không nhằm mục đích thỏa mãn tính tò mò của người xem nhưng nhằm loan báo Lời Chúa bằng những hành động cụ thể. Các bí tích và cử hành phụng vụ cũng là những hành động diễn tả và chuyển thông ân sủng của Thiên Chúa nhưng nhiều khi ta không quan tâm vì đã quá quen. Đức Bênêđitô XVI nhấn mạnh: “Giáo lý nhiệm huấn cũng phải quan tâm đến việc trình bày ý nghĩa của các dấu chỉ chứa đựng trong các nghi lễ. Điều này đặc biệt quan trọng cho thời đại kỹ thuật cao như thời đại của chúng ta, một thời đại có nguy cơ đánh mất khả năng nhận biết các dấu chỉ và biểu tượng” (Tông huấn Bí Tích Tình Yêu, số 64).

Trong thời đại thế tục hoá ngày nay, cuộc sống chân chính của Kitô hữu cũng có thể là những hành động biểu tượng loan báo Tin Mừng.

Sách Êzêkiel

(chương 13-24)

***

Ezekiel-iconI. CÁC TIÊN TRI GIẢ (13,1-23)

1. Tổng quát

Chương 13 được chia thành hai phần đối xứng nhau: lên án các tiên tri nam (câu 2-16) và các nữ tiên tri (câu 17-23). Một số học giả cho rằng trong Thánh Kinh Cựu Ước, danh hiệu tiên tri chỉ được dành cho một số ít phụ nữ (Miriam trong Xh 15,21; Deborah trong Tp 4,4; vợ của Isaia trong Is 8,3). Vì thế các nữ tiên tri ở đây thực ra là những phù thủy vì họ sử dụng pháp thuật (x. 1Sam 28,7 tt). Nhưng những học giả khác lại cho thấy sự giống nhau giữa các tiên tri giả này, dù là nam hay nữ, cho nên có thể gọi tất cả họ là phù thủy hoặc tiên tri.

2. Nhận diện các tiên tri giả

Tiên tri giả là những người chỉ nói theo ý riêng của mình (13,2. 17). Tiên tri giả là những người công bố những thị kiến hão huyền và lời sấm dối trá mà lại dám mạo nhận là lời sấm của Chúa: “Ta sẽ ra tay trừng phạt hạng tiên tri thấy thị kiến hão huyền và nói lời sấm dối trá” (13, 6-9. 23). Tiên tri giả là những người nói tiên tri để tìm tư lợi cho mình, đồng thời phỉnh gạt dân chúng: “Các ngươi đã xúc phạm đến Ta … chỉ vì những nắm lúa mạch, những mẩu bánh, đến nỗi các ngươi giết chết những người đáng lẽ không phải chết, và cho sống những người không đáng sống” (13,19).

3. Cảnh giác trước các tiên tri giả

Thánh Phaolô nhắn nhủ môn đệ của ngài, cũng là nhắn nhủ các Kitô hữu ở mọi thời đại, “Sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ làm cho họ vui tai. Họ sẽ ngoảnh đi không nghe lời chân lý nhưng hướng về những chuyện hoang đường. Phần anh, hãy thận trọng trong mọi sự, hãy chịu đựng đau khổ, hãy làm công việc của người loan báo Tin Mừng và chu toàn chức vụ của anh” (2Tm 4,3-5).

II. TRÁCH NHIỆM CÁ NHÂN (14,12-23, 18,1-32)

1. Mỗi người phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình

Tiên tri Ezechiel tuyên bố rằng ngay cả những nhân vật nổi tiếng đạo đức trong quá khứ như Noah, Daniel và Job cũng không thể ngăn nổi cơn giận của Chúa đối với dân tội lỗi. Sự công chính cứu thoát cá nhân người công chính chứ không thể cứu người khác: “Chúng cũng chẳng cứu nổi con trai con gái mình, chỉ mình chúng được cứu thoát vì đã sống công minh chính trực” (14,20). Không thể chỉ cậy dựa vào những việc lành trong quá khứ để an tâm trong lối sống tội lỗi hiện tại: “Nếu kẻ công chính từ bỏ lẽ công chính của mình mà theo đòi kẻ gian ác làm mọi điều ghê tởm, nó làm thế mà được sống sao?” (18,24). Phải sống công chính ngay trong hiện tại, phải trở về với Chúa mỗi ngày: “Nếu kẻ gian ác từ bỏ mọi tội lỗi nó đã phạm mà tuân giữ lề luật của Ta…chắc chắn nó sẽ sống chứ không phải chết” (18,21).

2. Sống tinh thần trách nhiệm trước mặt Chúa

Thiên Chúa không vui thích vì con người phải chết (18,23.32), đồng thời không ai có thể trách cứ Thiên Chúa về án xử công minh của Người (14,23). Không thể dựa vào câu ngạn ngữ “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước” để đổ lỗi cho người khác và trốn tránh trách nhiệm của mình (18,2-4). Điều quan trọng là chu toàn trách nhiệm của mình và sống ngay thẳng trước mặt Chúa: “Hãy trở lại và hãy sống” (18,32).

III. NGƯỜI VỢ BẤT TRUNG (16,1-63)

1. Ngôn ngữ ẩn dụ và lịch sử Israel

Ezekiel được coi là một trong những bậc thầy về việc sử dụng ngôn ngữ ẩn dụ, nghĩa là kể chuyện rồi áp dụng vào hoàn cảnh hiện tại. Tài năng đó được thể hiện cụ thể trong chương 16 và các chương khác (15,17,19,23,31,34).

– Câu 1-14 mô tả Giêrusalem như một đứa trẻ mồ côi, được sinh ra từ dân Amorites và Hittites, nhưng lại bị ném ra bên ngoài, không ai chăm sóc. Chính Chúa đã chăm sóc đứa trẻ đó thành một thiếu nữ xinh đẹp. Rồi Chúa quay lại và lập giao ước với Giêrusalem. Giêrusalem trở thành thiếu nữ nổi tiếng vì nhan sắc, vì phẩm giá cao quý và những ân huệ tuyệt vời.

– Câu 15-34 lại mô tả Giêruslaem trở thành sa đoạ vì chính nhan sắc mỹ miều của nó: hoang dâm với mọi khách qua đường, đàng điếm trên các tế đàn, biến con cái mình thành của lễ dâng các ngẫu tượng, hoang dâm với Ai Cập, Assyria, Babylonia đến nỗi “người đàng điếm không phải là kẻ chạy theo ngươi mà là chính ngươi. Người trả tiền là ngươi chứ không phải chúng” (16,34).

– Câu 35-43 loan báo án phạt mà Giêrusalem phải chịu: bị lột trần và xử phạt như đối với những kẻ sát nhân và ngoại tình (câu 37-38, x. Dnl 22,22; Lev 20,10). Giêrusalem sẽ bị xử phạt trước mặt các phụ nữ khác (các dân khác). Rồi cơn giận của Chúa sẽ nguôi ngoai (câu 42).

– Câu 44-58 so sánh Giêrusalem với các chị em là Samaria và Sodoma. Giêrusalem là phụ nữ tội lỗi nhất và bị trừng phạt nặng nề.

– Phần kết (câu 59-63) lại mở ra một viễn tượng lạ lùng: Thiên Chúa khôi phục mọi sự cho Giêrusalem, nhắc nhớ giao ước cũ, và tuyên bố sẽ thiết lập giao ước vĩnh cửu

2. Nhìn lại giao ước yêu thương với Thiên Chúa

Giao ước này được thiết lập từ tình thương vô điều kiện của Thiên Chúa, tình thương vượt trên mọi yếu hèn, phản trắc và sa ngã của ta. Hãy sống Đạo như một giao ước tình yêu và không ngừng làm mới lại giao ước đó mỗi ngày.

Sách Êzêkiel

(chương 25-36)

***

lehiI. TIÊN TRI, NGƯỜI CANH GÁC (33,1-9; 3,17-21)

Tiên tri có nhiệm vụ trung chuyển Lời Chúa cho dân, bảo vệ dân, canh giữ dân, lôi kéo kẻ gian ác khỏi đường tội lỗi và khích lệ người công chính trên đường công chính. Thiên Chúa đòi hỏi tiên tri phải loan báo cho kẻ gian ác biết án xử của Thiên Chúa; nếu không, không những kẻ gian ác bị trừng phạt nhưng chính tiên tri cũng bị trừng phạt: “Nếu người canh gác thấy gươm đến mà không thổi kèn, khiến dân không được báo, và gươm đến làm cho người nào phải thiệt mạng, thì kẻ ấy chết vì tội lỗi của mình, nhưng máu người ấy, Ta sẽ đòi người canh phải trả” (33,6).

Nhiệm vụ của người canh gác đòi hỏi phải tỉnh thức và cảnh giác để có thể nhận ra những âm mưu và nguy hiểm đang đe doạ dân trong thành. Về mặt thiêng liêng, hình ảnh này gợi về sứ điệp Tin Mừng: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (Lc 21,36), tỉnh thức trước những cám dỗ tinh vi của ma quỷ, tỉnh thức trước tiếng gọi thầm kín của Chúa, tỉnh thức cho mình và cho những người Chúa đã trao phó cho ta.

Tỉnh thức giữa lúc mọi người đang ngủ là điều không dễ, nhất là khi phải tỉnh thức thường xuyên. Vì thế cần cầu nguyện. Nguồn sức mạnh của tỉnh thức là tình yêu, như người mẹ tỉnh thức trước tiếng khóc của đứa con. Tình yêu đó là đức Ái mục tử mà cha mẹ phải có đối với con cái, linh mục phải có đối với cộng đoàn đã được trao phó cho mình.

II. DỤ NGÔN VỀ CÁC MỤC TỬ (34,1-16)

Các mục tử trong quá khứ đã không chu toàn nhiệm vụ đối với đoàn chiên, nhất là những con chiên bệnh tật, bị thương tích, lạc đường… (câu 2-6) Vì thế Thiên Chúa sẽ trừng phạt các mục tử và giải thoát đoàn chiên: “Ta sẽ đòi lại chiên của Ta; Ta sẽ không để chúng chăn dắt chiên, và các mục tử sẽ không còn lo cho mình. Ta sẽ giải thoát các chiên Ta khỏi miệng chúng, để chiên của Ta không còn làm mồi cho chúng nữa” (34,10).

Chính Chúa sẽ đảm nhận trách nhiệm mục tử: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc đoàn chiên của Ta và thân hành kiểm điểm” (34,11). Chúa sẽ là mục tử tốt lành, chăm sóc đoàn chiên, quy tụ chiên tản mác, kiếm tìm chiên lạc, băng bó chiên bị thương tích, dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi và dòng suối mát.

Người Kitô hữu đọc đoạn văn này không thể không nhớ đến Ga 10,1-18, ở đó Chúa Giêsu khẳng định, “Tôi chính là Mục tử nhân lành.” Đặc điểm của vị mục tử nhân lành là Ngài biết chiên và hi sinh cho đoàn chiên: “Tôi biết chiên của Tôi và chiên Tôi biết Tôi, như Chúa Cha biết Tôi và Tôi biết Chúa Cha, và Tôi hi sinh mạng sống cho đoàn chiên” (Ga 10,15).

Đây cũng là điều mọi Kitô hữu phải quan tâm suy nghĩ vì đã được chia sẻ chức năng mục tử của Chúa Kitô qua bí tích Thánh Tẩy.

III. TÁCH BIỆT ĐOÀN CHIÊN (34,17-31)

Ở đây, chủ đề được chuyển từ việc lên án các mục tử không chăm sóc đoàn chiên sang những con chiên lạm dụng quyền lợi của mình. Những con chiên khỏe mạnh, béo tốt nhưng chỉ biết nghĩ đến mình và gây thiệt hại cho những con chiên gầy gò đau yếu. Chúng sẽ bị xét xử: “Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên” (34,22). Những lời này giúp các Kitô hữu ý thức về đời sống trong cộng đoàn Giáo Hội, không chỉ là mối tương quan giữa giáo dân và chủ chăn, nhưng còn là mối tương quan giữa giáo dân với nhau. Làm sao để xây dựng một tương quan huynh đệ, liên đới, chia sẻ và đồng cảm với nhau; đó là một trong những đòi hỏi mục vụ hàng đầu phải quan tâm tới.

Các câu 23-24 chuyển sang một chủ đề mới là loan báo vị mục tử mới, một hoàng tử mêsia. Đavít sẽ là mục tử/hoàng tử được hứa ban và Đức Chúa là Thiên Chúa của chúng: “Ta sẽ cho xuất hiện một mục tử để chăn dắt chúng; nó sẽ chăn dắt chúng, đó là Đavít, tôi tớ của Ta: chính nó sẽ chăn dắt chúng, chính nó sẽ là mục tử của chúng… Đavít, tôi tớ của Ta, sẽ là ông hoàng ở giữa chúng” (34,23).

Sang đến câu 25-27, không còn hình ảnh mục tử nữa; thay vào đó Ezekiel nói đến giao ước bình an giữa Thiên Chúa và dân Người: “Ta sẽ thiết lập với chúng một giao ước bình an” (34,25). Chính Chúa sẽ đem bình an và thịnh vượng đến cho Dân Người.

Vị hoàng tử bình an và mục tử lý tưởng mà Ezekiel loan báo chính là Chúa Giêsu, Thiên Chúa xuống thế làm người, và ở giữa loài người. Ngài đến để đem bình an cho nhân loại, thiết lập giao ước mới và vĩnh cửu bằng máu Ngài đổ ra trên thập giá.

Sách Êzêkiel, chương 37-48

***

prophet_1I. THỊ KIẾN VỀ NHỮNG BỘ XƯƠNG KHÔ (37,1-14)

Thị kiến này là một trong những trình thuật được biết đến nhiều nhất trong sách Ezekiel. Trình thuật gồm hai phần: thị kiến (câu 1-10) và giải thích (câu 11-14). Cơ hội để vị tiên tri công bố thị kiến này là lúc dân lưu đày đã mất hết hi vọng vào tương lai. Họ đã từng nghĩ rằng Giêrusalem là bất khả xâm phạm nhưng thực tế chứng minh đó chỉ là niềm hi vọng hão huyền, và bây giờ chỉ còn lại niềm tuyệt vọng: “Xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan, chúng tôi đã rồi đời” (câu 11).

Trong bối cảnh tuyệt vọng đó, tiên tri công bố thị kiến tràn ngập hi vọng. Trong một thung lũng tràn ngập những bộ xương khô, nghĩa là những dấu chứng của chết chóc và tuyệt vọng, Lời Chúa tra vấn vị tiên tri, “Liệu các xương khô này có hồi sinh được không?” Vị tiên tri trả lời hết sức dè dặt, “Chỉ một mình Người mới biết được!” Thế rồi Chúa sai vị tiên tri tuyên sấm trên những bộ xương khô để một linh khí mới cùng với da thịt, các đường gân sẽ làm cho nó hồi sinh (câu 4-6). Lần thứ hai, Chúa lại sai tiên tri gọi linh khí từ bốn phương đến, và linh khí đã làm cho cả cánh đồng xương khô thành một đạo quân hùng mạnh (câu 9-10).

Trong phần giải thích tiếp theo, Thiên Chúa tuyên bố rằng những con người tuyệt vọng sẽ được hồi sinh và có đời sống mới tại Israel. Tuy nhiên hình ảnh được vận dụng ở đây lại là hình ảnh những huyệt mộ được mở ra (câu 12) chứ không phải là cả cánh đồng xương khô. Đồng thời câu 13 và 14 không chỉ nhấn mạnh đến miền đất mà dân sẽ được định cư nhưng còn nhấn mạnh đến việc hiểu biết Chúa, “các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa.” Thị kiến này không nhằm trình bày niềm tin vào sự phục sinh cá nhân cho bằng sự hồi sinh của một dân tộc về mặt xã hội.

Thánh Phaolô dạy, “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng” (Dt 11,1). Như thế, đức tin gắn liền với hi vọng, và sống đức tin là sống trong hi vọng. Niềm hi vọng Kitô giáo có những nét đặc thù. Đó là niềm hi vọng cậy dựa vào một mình Chúa là Thiên Chúa của sự sống và là Cha yêu thương, chứ không dựa vào sức mạnh người đời. Đó là niềm hi vọng vượt qua cả biên cương sự chết chứ không chỉ dừng lại ở những thành công trần thế. Chính niềm hi vọng đó ban sức mạnh cho ta trong mọi nghịch cảnh. Tôi phải tự hỏi mình: tôi hi vọng điều gì? Tôi hi vọng vào ai?

II. DÒNG NƯỚC TỪ ĐỀN THỜ (47,1-12)

Phần cuối trong sách Ezekiel (40,1 – 48,35) gồm có một phác thảo kiến trúc về Đền thờ (40,1 – 42,20), mô tả việc thờ phượng trong Đền thờ (43,1 – 44,3), những lề luật về Đền thờ (44,4 – 47,12) và những ranh giới phân chia đất đai (47,13-48,35). Ở đây chỉ tập trung vào thị kiến về dòng nước chảy ra từ Đền thờ.

Tiên tri Ezekiel và người hướng dẫn trở lại phía cửa Đền thờ và thấy có nước vọt ra từ ngưỡng cửa và chảy về phía đông. Càng đi xa về phía đông, tiên tri thấy dòng nước càng dâng cao. Người hướng dẫn lấy thước đo bốn lần và mỗi lần nước lại dâng cao hơn, cuối cùng thành dòng thác (câu 3-5). Ezekiel thấy nhiều cây cối hai bên bờ, và được giải thích rằng dòng nước ban sự sống phát xuất từ ngai Thiên Chúa sẽ làm cho nước mặn chát của Biển Chết thành nước trong lành, làm cho cây cỏ tốt tươi trổ sinh hoa trái, và lá không bao giờ tàn tạ. Hình ảnh này phát xuất từ huyền thoại cổ xưa về thành phố trên đồi, từ đó phát sinh những dòng sông trên trái đất (x. St 2,10-14). Hình ảnh này cũng được vận dụng trong văn chương khải huyền (x. Kh 22).

Thị kiến của tiên tri Ezekiel loan báo việc thờ phượng sẽ được hồi sinh trong Đền thờ được tái thiết. Tuy nhiên người Kitô hữu lại khám phá nơi thị kiến này những tầng ý nghĩa khác. Trong trình thuật về cuộc thương khó của Chúa Giêsu, thánh Gioan ghi nhận rằng, “một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì máu cùng nước chảy ra” (19,34). Chúa Giêsu chính là Đền thờ sống động (x. Ga 2,21), và dòng nước cùng máu chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu của Người chính là nguồn nước ban sự sống, được thông ban qua các bí tích, cho tất cả những ai tin vào Người. Chính vì thế trong Đêm Vọng Phục Sinh, chủ tế cử hành nghi thức làm phép nước để rửa tội cho các dự tòng và rẩy trên dân chúng, khi đó cộng đoàn cùng hát lên, “Tôi đã thấy nước từ bên phải Đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến những ai thì tất cả đều được cứu rỗi và reo lên: Alleluia, Alleluia.”

Trong cuộc sống ngày nay, có quá nhiều “biển chết,” những vùng biển nhìn thật hấp dẫn và đẹp mắt nhưng chỉ toàn cung cấp thứ nước mặn chát và chết chóc. Chỉ có nguồn nước mà Chúa Giêsu ban cho mới đem đến sự sống dồi dào như Người đã hứa: “Ai khát, hãy đến với Tôi, ai tin vào Tôi, hãy đến mà uống. Như Kinh Thánh đã nói: từ lòng Người sẽ tuôn chảy dòng nước hằng sống” (Ga 7,38). Liệu chúng ta có dám tin vào lời mời gọi của Chúa Giêsu không? Nếu tin, ta đã đáp lại lời mời gọi đó như thế nào?

Sách Isaia II, chương 40-48

***

tuan51Câu hỏi đặt ra là tại sao đã đọc sách Isaia từ trước, bây giờ lại quay lại? Bắt đầu từ Isaia 40,1 chúng ta được đưa vào bối cảnh mới là thời điểm chấm dứt cuộc lưu đày Babylon (539 trước Công nguyên), và những lời sấm được trình bày trong những chương sau này mang một cung giọng khác với các chương 1-39. Vì thế những chương sau này được gọi là Isaia II hay Sách an ủi. Các chương sau này có thể được chia thành hai phần chính: phần thứ nhất (40-48) chủ yếu nói đến cuộc giải thoát khỏi cảnh lưu đày Babylon, phần thứ hai (49-55) nói về việc khôi phục Sion. Một số chủ đề lớn sẽ được đề cập tới ở đây.

I. LOAN BÁO NGÀY GIẢI THOÁT (40,1-11)

Chủ đề chính ở đây là sự giải thoát Israel khỏi cảnh lưu đày. Trong Ezra 1, biến cố giải thoát này được gán cho Kyrô vua Ba Tư vì ông đã ra chiếu chỉ cho phép dân hồi hương. Nhưng ở đây tiên tri Isaia làm nổi bật nguyên do sâu xa của ơn giải thoát là chính Thiên Chúa, Đấng tuyên bố rằng “Thời phục dịch của Giêrusalem đã mãn, tội của Thành đã đền xong” (câu 1). Vì thế, cuộc giải thoát này làm nổi bật quyền năng và vinh quang Đức Chúa. Ai cũng nghĩ Babylon hùng mạnh lắm nhưng thực ra cũng không hơn gì hoa cỏ ngoài đồng, chỉ có lời Thiên Chúa đời đời bền vững, “Cỏ héo, hoa tàn khi thần khí Đức Chúa thổi qua… nhưng lời của Thiên Chúa chúng ta đời đời bền vững” (câu 7-8).

Trong Tân ước, thánh Matthêu và Gioan trích dẫn Is 40,3 “có tiếng hô trong sa mạc” để áp dụng cho thánh Gioan Tẩy giả (Mt 3,3 và Ga 1,23). Cách trích dẫn này giúp ta hiểu vai trò của Gioan Tẩy giả là loan báo và chuẩn bị cho hành động cứu độ mà Thiên Chúa sẽ thực hiện cho nhân loại nơi Chúa Giêsu Kitô.

II. CUỘC XUẤT HÀNH MỚI (43,14-44,5)

Is 43,15-21 là lời sấm về việc dân Israel sẽ được giải thoát khỏi cảnh lưu đày bên Babylon, và lời sấm này được xây dựng dựa trên biến cố Xuất Hành:

“Đây là Lời Đức Chúa,
Đấng đã vạch một con đường giữa đại dương,
Một lối đi giữa sóng nước oai hùng,
Đấng đã cho xuất trận
Nào chiến xa chiến mã, nào tướng mạnh binh hùng:
Tất cả đã nằm xuống và không còn trỗi dậy,
Đã bị dập đi, tắt ngấm như tim đèn” (43,16- 17)

Xuất hành là biến cố trung tâm của lịch sử Israel, cũng là tâm điểm niềm tin của Israel. Qua cuộc Xuất hành, Thiên Chúa tạo dựng dân Israel. Nhưng trong lời sấm của tiên tri Isaia, dân Israel được nhắc nhớ: “đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước” vì “Này Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy sao?” (43,17).

Như thế, Xuất hành không chỉ là biến cố của quá khứ mà là biến cố của hôm nay. Xuất hành trở thành mẫu mực cho hành động của Thiên Chúa trong lịch sử và trong từng giây phút hiện tại. Điều quan trọng không phải là những gì Thiên Chúa đã làm thời Môsê mà là những gì Thiên Chúa làm hôm nay. Vì vậy Isaia khuyến khích ta đọc lại câu chuyện Xuất Hành để áp dụng cho chính hoàn cảnh hiện tại.

III. CUỘC XUẤT HÀNH VÀ ĐỜI SỐNG KITÔ HỮU

Phụng Vụ Chúa nhật V Mùa Chay (năm C) chọn lời sấm trên đây của tiên tri Isaia làm bài đọc I và trình thuật về người nữ ngoại tình (Ga 8,1-11) làm bài Tin Mừng. Việc kết hợp hai bài đọc cho ta một cái nhìn mới về câu chuyện Tin Mừng. Thiên Chúa là Đấng luôn mở cho con người cánh cửa đi về phía tương lai. Ngài đã mở cánh cửa hi vọng cho dân lưu đày, và Ngài cũng mở cánh cửa hi vọng cho người nữ ngoại tình, “Tôi không lên án chị đâu! Hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11). Niềm tin vào Thiên Chúa của hi vọng, Thiên Chúa của tương lai không cho phép ta tuyệt vọng trong bất cứ hoàn cảnh nào, không cho phép ta khoá chặt mình trong những mặc cảm tội lỗi, nhưng luôn mời gọi ta đứng dậy và đi về phía đằng trước. Hơn ai hết, thánh Phaolô đã cảm nghiệm sâu sắc chân lý này khi ngài viết, “Tôi chỉ chú ý đến một điều là quên đi chặng đường đã qua để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích để chiếm được phần thuởng từ trời cao Thiên Chúa đã dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu” (Phil 3,13-14). Đồng thời, trong mối quan hệ với người khác, ta cần học với Chúa cách ứng xử này, là không bao giờ khóa chặt anh em mình trong những định kiến về họ hoặc những lỗi lầm của họ, nhưng phải mở cho họ một cánh cửa đi về phía tương lai. Cuộc sống sẽ đẹp biết bao nếu con người biết đối xử với nhau như thế.

Cuộc xuất hành mới mà tiên tri Isaia loan báo cho dân lưu đày còn giúp người Kitô hữu ý thức về cuộc xuất hành nội tâm của chính mình. Dân Israel đã được giải thoát khỏi cảnh nô lệ bên Ai Cập nhưng rồi họ lại tiếp tục rơi vào tình trạng nô lệ khác khi họ rời bỏ Thiên Chúa của giao ước để chạy theo các thần ngoại lai. Vì thế họ cần một cuộc xuất hành mới, ban tặng tự do mới, tự do đích thực. Mỗi Kitô hữu cũng có kinh nghiệm tương tự trong đời sống. Đã được trở nên tạo vật mới trong bí tích Thánh Tẩy nhưng ta lại tiếp tục làm nô lệ cho những đam mê và dục vọng xấu. Vì thế ta cần phải tham dự vào cuộc xuất hành mới được hoàn thành trong Chúa Giêsu chịu đóng đinh, cuộc xuất hành ban tặng cho ta sự tự do nội tâm đích thực. Mùa Chay là thời gian đặc biệt hằng năm để ta ý thức và sống lời mời gọi này.

Những hiểu biết về Đức Giêsu

***

precious-in-his-sight-greg-olsen

Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa Nhập Thể, nghĩa là Người vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Đó là niềm xác tín của Kinh Tin Kính Kitô giáo.

Nhân thân Đức Giêsu

Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa Nhập Thể, nghĩa là Người vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Đó là niềm xác tín của Kinh Tin Kính Kitô giáo. Nhưng đã là người thật, thì Đức Giêsu cũng phải chịu những điều kiện của phạm trù thời gian và không gian như bao phàm nhân khác. Vì thế, Đức Giêsu cũng có cha có mẹ, đã được sinh, mang một tên gọi riêng, có một tổ quốc, có một quê hương, v.v…!

Thánh danh „Jesus“ – „Giêsu“ Tên „Jesus“ được la-tinh hóa từ tiếng Hy-lạp cổ Ἰησοῦς. Đó cũng là hình thức viết tắt từ „Jeschua“ (hay Jeschu) trong tiếng Arménien, được phiên dịch từ tiếng Do-thái „Jehoschua“, tên gọi của người Do-thái thuộc nam giới. Còn từ „Jehoschua“ được ghép lại bởi hai từ khác là „Jeho“ – tên Thiên Chúa JHWH – và động từ „jascha“ trong tiếng Do-thái và có nghĩa là giúp đỡ hay cứu vớt.(1)

Như vậy, tên „Jesus“ trong tiếng La-tinh hay được phiên âm ra thành „Giêsu“ trong tiếng Việt có nghĩa „Thiên Chúa là sự cứu rỗi“ hay „Thiên Chúa trợ giúp“ (x. Mt 1,21; Cv 4,12). Trong truyền thống Do-thái cổ, hình thức tên gọi như thế là một điều bình thường, chứ không cần phải bổ túc thêm bằng cách đặt thêm một tên gọi khác bằng tiếng Hy-lạp hay La-tinh hay đặt thêm một tên mới khác.(2)

Một vài chỗ khác trong Phúc Âm thay vì xưng tên „Giêsu“ người ta gọi Người là „Con ông Giuse“ (x. Lc 3,23; 4,22) hay „Con bà Maria“ (Mc 6,3; Mt 13,55), hay gọi Người là „người thành Na-da-rét“ để nói lên nơi Người xuất thân. (x. Mc 1,9; Mt 2,23). Phúc Âm ghi rõ:

„Ông (Giuse) đến ở tại một thành kia gọi là Na-da-rét, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng ngôn sứ rằng: Người sẽ được gọi là người Na-da-rét.“(Mt 2,23).

Ngày sinh nhật và cuộc tử nạn của Đức Giêsu

Các Kitô hữu tiên khởi không hề đặt ra vấn đề về ngày tháng và năm sinh của Đức Giêsu. Việc hai thánh sử Mát-thêu (2,1tt) và Luca (1,5) trình thuật Đức Giêsu được sinh ra dưới thời Hê-rô-đê đại đế còn trị vì là một điều khả tín. Vì thế, Đức Giêsu rất có thể được sinh ra vào giữa các năm thứ 7 và 4 trước Công Nguyên (TCN).(3)

Những nỗ lực tìm cách xác định ngày tháng năm sinh của Đức Giêsu một cách chính xác dựa theo những trình thuật trong Phúc Âm hay theo khoa thiên văn học, thì nếu xét về mặt khoa học không phải là một bảo đảm chắc chắn.(4) Vì thế, việc tính năm sinh của Đức Giêsu theo niên lịch Kitô giáo, tức lấy năm sinh của Đức Giêsu làm năm thứ nhất của niên lịch như hiện nay là một sự nhầm lẫn.

Ví dụ: Phúc Âm thánh Luca (2,2) ghi „đây là cuộc kiểm tra dân số, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Syria.“ Nhưng theo các nguồn sử liệu của Rôma, cuộc kiểm tra dân số chỉ được thực hiện vào năm thứ 6 hay thứ 7 sau Công Nguyên (SCN), còn một cuộc kiểm tra dân số sớm hơn là một điều không thể chứng minh được.(5) Vì thế, đa số cho rằng đoạn văn trình thuật của thánh sử Luca ở trên (2,2) là một sự ghi nhận niên biểu sai lầm, vì chỉ muốn khẳng định Bét-lê-hem là nơi Chúa sinh ra.(6)

Các bản Phúc Âm thường chỉ trình thuật từ năm thứ nhất cho tới ba năm cuối cùng của Đức Giêsu. Theo Phúc Âm thánh Luca (3,1), ông Gioan Tẩy Giả xuất hiện „vào năm thứ 15 dưới triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô.“ Theo sự dẫn chứng chính xác duy nhất về niên biểu trong Tân Ước, Đức Giêsu khởi đầu cuộc sống công khai của Người sớm nhất vào năm thứ 28, ngay sau khi ông Gioan Tẩy Giả bị cầm tù (x Mc 1,14). Và người ta cho rằng Đức Giêsu vào lúc bấy giờ vào khoảng 30 tuổi (Lc 3,23)(7)

Theo Kinh Thánh Tân Ước, dưới áp lực của các Thượng Tế và tầng lớp lãnh đạo Do-thái vào lúc bấy giờ, Pontiô Phi-la-tô, tổng trấn xứ Giu-đê-a từ năm 26 đến năm 36, đã ra lệnh xử tử Đức Giêsu vào ngày thứ sáu, một ngày trước ngày Sabbat trong thời gian mừng Lễ Vượt Qua của người Do-thái. Đối với các Thánh Sử của Phúc Âm Nhất Lãm, biến cố xảy ra vào chính Ngày Lễ, sau buổi chiều trước Lễ Vượt Qua, tức vào ngày 15 tháng Nisan trong niên lịch Do-thái; còn theo Phúc Âm thánh Gioan, ngược lại biến cố xảy ra vào buổi chiều trước Lễ Vượt Qua, tức vào ngày 14 tháng Nisan. Vậy, nếu tính theo niên lịch và thiên văn học thì ngày 15 tháng Nisan thuộc các năm 31 và 34 SCN, còn ngày 14 tháng Nisan là một ngày thứ sáu thuộc các năm 30 và 33. Ngày nay nhiều nhà nghiên cứu Kinh Thánh cho rằng xét về mặt lịch sử, niên biểu trong Phúc Âm thánh Gioan là khả tín.(8) Đa số cho rằng có lẽ năm 30 là năm Chúa chịu chết, vì thánh Phaolô thành Tarsus trở lại đạo vào giữa các năm 32 và 35 SCN.(9) Và cũng theo đó, Đức Giêsu vào trạc tuổi giữa 30 và 40.

Nơi sinh của Đức Giêsu

Dưới cái nhìn khoa học, thì những trình thuật về biến cố giáng sinh của Đức Giêsu trong Tân Ước (Mt 1-2; Lc 1-2) mang tính chất truyền kỳ, có nhiều điểm khác biệt nhau và chứa đựng nhiều đặc tính thuộc thần bí học, những điều mà người ta không tìm thấy trong Phúc Âm thánh Mác-cô.(10)

Trong những trình thuật ấy, các tác giả còn đề cập tới gia phả tổ tiên của Đức Giêsu (Mt 1; Lc 3), Thiên Thần loan báo biến cố giáng sinh (Lc 1,26), sự thụ thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, sự đồng trinh của Đức Mẹ khi sinh con (Mt 1,18; Lc 1,35), sự kính viếng của các đạo sĩ phương đông (Mt 2,1) và ngôi sao lạ đã dẫn đường cho các ngài đến nơi con trẻ được sinh ra (Mt 2,2), việc Hê-rô-đê tàn sát các hài nhi (Mt 2,13; x. Xh 1,22) và cuối cùng là biến cố Thánh Gia Thất trốn sang Ai-cập. (Mt 2,16tt.)

Lưu truyền cho rằng Đức Giêsu giáng sinh tại Bê-lem (Mt 2,1tt; Lc 2,4), vì dựa theo lời tiên báo được ngôn sứ Mi-kha (5,1) ghi lại, thì Đức Giêsu „Con vua Đa-vít“ phải được sinh ra tại chính quê hương của vua Đa-vít là Bê-lem (1Sm 20,6.).(11) Đó là niềm xác tín của các Kitô hữu tiên khởi và qua đó họ khẳng định rằng Đức Giêsu quả thật là Đấng Mê-si-a, là Đấng Cứu Thế.(Rm 1,3)(12)

Còn các nhà sử học thường cho rằng Đức Giêsu được sinh hạ tại thành Na-da-rét và địa danh này cũng được coi là sinh quán của cha Người và cũng là trú quán của cả gia đình Người (x. Mc 6,1tt; Mt 13,54; Lc 2,39), đồng thời chính ở đây Người đã lớn lên và trưởng thành. (Lk 4,16.22) (13)

Theo khám phá mới nhất của khoa khảo cổ học về các nhà cửa và các đồ gia dụng, địa danh Na-da-rét với dân số tối đa khoảng chừng 400 người vào thời Đức Giêsu là một điều minh nhiên.(14)

Gia đình Đức Giêsu

Theo trình thuật của Phúc Âm thánh Mác-cô (6,3), Đức Giêsu là “Con đầu lòng của bà Maria.” Thánh Giuse không hề được đề cập tới trong bản Phúc Âm Mác-cô. Trong khi đó, bản gia phả của Người (Mt 1,16; Lc 3,23) đã nhấn mạnh đến dòng dõi phụ hệ nguyên thủy của Người và cho rằng Người là “Con ông Giuse.” Chính Mẹ Người và những cư dân xứ Ga-li-lê-a cũng gọi Người tương tự như thế. (Lc 2,48; Ga 6,42.). Phúc Âm thánh Luca (Lc 2,21) cũng trình thuật Đức Giêsu chiếu theo luật Tora được cắt bì vào ngày thức tám và theo truyền thống Do-thái Người cũng sẽ được đặt tên theo tên gọi của cha Người, tức „Jeschua ben Josef“, như Phúc Âm Luca (4,22) đã chứng thực. Nhưng sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa của ông Gioan Tẩy Giả ở sông Gióc-đan, các Thánh Sử của Phúc Âm Nhất Lãm không còn nói đến ông Giuse nữa.

Hiện tượng im lặng này đã gây ra nhiều suy diễn khác nhau. Học giả Bruce Schilton, một nhà chuyên môn về Kitô giáo và Do-thái giáo, đã dựa theo Phúc Âm thánh Mát-thêu 1,18 để cho rằng Đức Giêsu đã được thụ thai trước khi hôn nhân giữa Maria và Giuse chính thức thành sự và ông Giuse đã qua đời sớm. Bởi vậy, trước mắt những người đồng hương của Người ở Na-da-rét, Đức Giêsu bị coi là con ngoại hôn (tiếng Do-thái: ממזר, mamzer‎) và không được quyền thừa hưởng gia tài (x. Ga 8,41). Hơn nữa, ông Giuse qua đời sớm, nên không một ai có quyền chứng thực quyền làm cha của ông.(15)

Về phía người Do-thái cũng đã từng có những châm biếm chống lại giáo huấn của Giáo Hội về việc Đức Giêsu được sinh ra bởi mẹ đồng trinh. Trong tác phẩm minh giáo „Contra Celsum“ của ông, Origenes gay gắt chống lại triết gia thời cổ đại Aulus Cornelius Celsus, người luôn lên tiếng phê bình và thóa mạ Kitô giáo một cách vô bằng cứ(16) và cho rằng Đức Giêsu là con ngoại hôn của người yêu của Mẹ Người có tên là „Panthera“.(17)

Trong khi đó, nhiều nhà chú giải chân chính về Tân Ước cho rằng cương vị làm cha của ông Giuse là điều tất yếu và ngài vốn xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít.(18)

Theo Phúc Âm thánh Mác-cô 6,3, Đức Giêsu có bốn người anh em – Gia-cô-bê, Gio-xết, Giu-đa và Si-mon – và một vài người chị em gái không được nêu tên. Tên của những người anh em của Chúa được gọi theo tên của một vài người trong mười hai người con của ông Gia-cóp và việc Đức Giêsu với tư cách là con trai đầu lòng đã được dâng hiến cho Thiên Chúa trong Đền Thờ đúng theo luật Tora (Lc 2,23) đã nói lên rằng gia đình của Người là một gia đình Do-thái đạo hạnh. Còn cụm từ „anh em“ hay „chị em“ được dùng ở đây không hẳn là anh chị em ruột, nhưng theo cách thức sử dụng ngôn ngữ của Kinh Thánh, thì cụm từ „anh em“ hay „chị em“ cũng được hiểu là anh chị em họ.(xem Google „Geschwister Jesu.“ Lối giải thích này biện minh cho tín điều „Đức Maria trọn đời đồng trinh“ của Giáo Hội Công Giáo Rôma và của Giáo Hội Chính Thống.(19)

Theo tất cả bốn bản Phúc Âm, cuộc sống hoạt động công khai của Đức Giêsu đã gây ra bất bình giữa Người với anh em bà con của Người, vì họ cho rằng Người đã không chu toàn Điều Răn Thứ Bốn của Thập Giới Điều của Thiên Chúa „Ngươi hãy thờ cha kính mẹ“ (Xh 20,12; Đnl 5,16) đối với Mẹ Người và dòng họ Người, vì Người đã bỏ gia đình để đi giảng đạo khắp mọi nơi trong nước. Sự diễn giải và hiểu biết Kinh Thánh thời bấy giờ cho rằng những đứa con trai đầu lòng là phải ở nhà lo cho cha mẹ và dòng tộc của mình, chứ không được tự do đi xa gia đình làng xóm. (20) Vì thế, những người bà con họ hàng của Người đã tìm cách giữ Người ở lại trong gia đình và khi dự định của họ bất thành thì họ cho rằng Người bị điên khùng (Mc 3,21).

Nhưng một trong những điều kiện theo Chúa là phải từ giã gia đình và những người thân thuộc của mình (Mt 10,37; Lc 14,26). Đây là điều kiện mà người ta cho rằng chính những người sống trong cộng đoàn Qumran (tương tự một Dòng Tu) vào thời bấy giờ cũng thực hành. Và cũng như họ, Đức Giêsu đã công khai đòi hỏi những người muốn sống theo lý tưởng của Người cũng phải sống „vô gia đình“, không lập gia đình riêng. Bằng cứ là các Môn đệ đầu tiên của Người bỏ lại cha mình cùng những người làm công cho họ để đi theo Người (Mc 1,20).(21) Điều kiện ấy vẫn tiếp tục được áp dụng trong Giáo Hội Công Giáo cho tới ngày nay: Tất cả những ai muốn sống đời Tu Dòng hay vào hàng Giáo Sĩ đều buộc phải sống độc thân với ba lời khấn. Đức Giêsu muốn các Môn đệ của Người phải từ bỏ gia đình và sự ràng buộc máu mủ tự nhiên để lập nên một gia đình mới, gia đình „siêu nhiên“ hay cũng được gọi là „linh tông“, gồm những kẻ chỉ tìm kiếm Nước Trời và sống theo Phúc Âm, như Người đã giải thích cho họ: „Ai thực thi thánh ý Thiên Chúa là anh, là chị và là mẹ của tôi“ (Mc 3,35), chứ không phải để loại bỏ hay giảm thiểu giá trị thể chế gia đình

Trong khi đó, các thầy Kinh sư Do-thái cũng đòi hỏi sự tuân phục đối với luật Tora, tức tuân phục đối với cha mẹ mình, nhưng họ lại không đòi hỏi phải hoàn toàn tách rời khỏi gia đình. (22) Chúng ta cũng đừng vội lầm tưởng rằng Đức Giêsu loại bỏ Điều Răn Thứ Bốn. Không bao giờ. Chẳng những Người không loại bỏ mà còn đòi buộc người ta phải chu toàn luật thảo hiếu đối với cha mẹ mình một cách đúng đắn (Mc 7,8-12), chứ không vì bất cứ lý do gì, kể cả những lời thề hứa này nọ để có thể miễn trừ khỏi phải thảo hiếu với cha mẹ mình được.(23)

Vì các người đồng hương Na-da-rét hoàn toàn chối từ các giáo huấn của Người và tẩy chay Người (Mc 6,1-6), nên Đức Giêsu không còn trở lại đó nữa. Nhưng bù lại, có những phụ nữ đạo đức quen biết lo lắng giúp đỡ Người và các Môn đệ của Người, và họ còn trung thành tin tưởng vào Người ngay cả sau cuộc khổ nạn của Người. (x. Mc 1,31; 15,41). Còn đối với Mẹ Người, Người luôn kính yêu và cả ngay khi còn hấp hối trên thập giá Người vẫn tìm cách lo lắng cho Mẹ Người trong những năm tháng kế tiếp (x. Ga 19,26tt). Riêng các anh em họ hàng của Người, tuy „họ không tin vào Người“ (Ga 7,5), nhưng sau khi Người qua đời, một số trong họ đã cùng với Mẹ Người hợp tác với các Tông đồ để lập nên giáo đoàn tiên khởi. (Cv 1,14; 1 Kor 9,5; Gal 1,19). Và về sau, chính ông Gia-cô-bê, người đã được chứng kiến Đức Giêsu phục sinh (1 Cr 15,7), đã trở thành người điều khiển giáo đoàn tiên khởi Giê-ru-sa-lem này (Gl 2,9).

Trong một trích dẫn của nhà giáo sử Eusebius từ các sử liệu của thánh Hegesippus (100-180), một nhà giáo sử thời danh thuộc thế hệ các Kitô hữu tiên khởi ở Giê-ru-sa-lem, trong cuộc bắt đạo và tàn sát các Kitô hữu của ông ta vào năm 90 SCN, hoàng đế Domitian đã ra lệnh giam cầm cả những người cháu chắt của Chúa Cứu Thế và tra khảo họ. Và trong cuộc khảo cung này, có lẽ những người bà con của Chúa đã khai ra họ là hậu duệ của dòng tộc vua Đa-vít, nhưng có lẽ vì những tham vọng chính trị của ông cũng như nhìn thấy tình trạng cuộc sống nông dân nghèo nàn của những người này, hoàng đế Domitian đã phủ nhận điều họ khai và ông đã ra lệnh thả tự do cho họ. Sau đó, chính những người bà con cháu chắt này của Chúa đã trở thành những thành phần nòng cốt của giáo đoàn tiên khởi. Điều đó cũng muốn nói rằng sự khẳng định Đức Giêsu là hậu duệ của vương triều Đa-vít là một điều khả tín.(24)

Ngôn ngữ và nghề nghiệp của Đức Giêsu

Là người Do-thái sống ở xứ Ga-li-lê-a, tất nhiên ngôn ngữ thông dụng hằng ngày của Đức Giêsu vào lúc bấy giờ là tiếng Arménienne hay Aramäisch thuộc phía tây. Điều này được phần Kinh Thánh Tân Ước chứng thực qua một vài trích dẫn những lời phát biểu bằng tiếng Aramäisch của Đức Giêsu. Mặc dầu người ta có thể chuyển ngữ những kiểu nói và phát biểu trong tiếng Hy-lạp sang tiếng Aramäisch, nhưng qua những khám phá của Joachim Jeremias, nhà thần học Tin Lành và là nhà chuyên môn về đông phương học, từng đã sống và làm việc tại Giê-ru-sa-lem, người ta có được tiêu chuẩn quan trọng để phân biệt được „sự chính xác“ giữa những lời phát biểu của Đức Giêsu và những diễn giải của các Kitô hữu tiên khởi. (25)

Một điều chúng ta cũng không nên quên là ở Palestina vào thời Đức Giêsu người ta hầu như không còn nói thứ tiếng Do-thái như được sử dụng trong Kinh Thánh nữa. Tuy nhiên Đức Giêsu vẫn có thể đọc và hiểu được tiếng Do-thái cổ ấy, dẫn chứng là Người đã từng đọc Kinh Thánh Tanach (tiếng Do-thái: ‏תנ״ך ‎ TNK) bằng thứ tiếng ấy trong các Hội đường Do-thái ở Ga-li-lê-a và còn diễn giải cho những người có mặt trong Hội đường nghe nữa. Hơn thế nữa, Người còn có thể đọc được những bản văn Kinh Thánh từ những bản dịch từ tiếng Aramäisch (Targumim).(26) Còn câu hỏi là liệu Đức Giêsu có nói được tiếng Koine, một loại tiếng Hy-lạp mà các dân cư xưa kia ở phía Đông đế quốc Rôma sử dụng hằng ngày, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những giả thiết khác nhau, vì thiếu dẫn chứng trong Tân Ước. Vì thế, có người cho là rất có thể, (27) có người lại cho là không thể.(28)

Về thủa thiếu thời của Đức Giêsu thì Kinh Thánh Tân Ước chỉ ghi lại biến cố khi Người mới 12 tuổi đã ngồi diễn giải Kinh Thánh cho các Luật Sĩ trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và đã khiến cho các nhà thông luật này phải kinh ngạc trước sự thông minh phi thường của Người (Lc 2,46tt.). Nhưng nhiều nhà chuyên môn cho rằng biến cố này mang tính cách truyền kỳ, với mục đích là muốn khẳng định sự thông biết Kinh Thánh của Đức Giêsu.(29) Vào thời bấy giờ hầu như tất cả các con cái của những gia đình Do-thái nghèo cũng đều có thể biết đọc và biết viết, hầu chúng có thể đọc được Kinh Thánh. Trường hợp vì nhà nghèo nên không có các cuộn sách Kinh Thánh ở nhà thì chúng học ở các trường Tora hay ở các Hội đường.

Theo Phúc Âm thánh Luca 4,16, Đức Giêsu đọc Sách Thánh Tora trong Hội đường Do-thái ở Na-da-rét trước khi Người cắt nghĩa đoạn Kinh Thánh cho các người hiện diện. Còn theo Phúc Âm thánh Mác-cô 6,2, các người hiện diện trong Hội đường đã quá ngạc nhiên về bài giảng của Người và nhận thấy cách thức diễn giải Kinh Thánh của Người khác với lối diễn giải truyền thống quen thuộc. Trong khi đó theo Phúc Âm thánh Gioan 7,15, những người có mặt trong Hội đường đã tự hỏi nhau: „Ông này không hề học Kinh Thánh, tại sao nay ông ta lại có thể thông thạo được như vậy?“ Còn khi đối thoại hay tranh luận với các người Do-thái, Đức Giêsu thường lặp lại: „Các ông chưa đọc…sao?“ (Mc 2,25; 12,10.26; Mt 12,5; 19,4 ) và lại tiếp tục trích dẫn Kinh Thánh. Còn trước câu hỏi là liệu Đức Giêsu có thể viết được hay không, câu trả lời là không chắc chắn. Phúc Âm thánh Gioan 8,6.8 có trình thuật một lần kia Đức Giêsu đã dùng ngón tay viết hay vẽ trên mặt đất, chỉ có thế thôi.

Còn hình thức giảng dạy hay lý luận của Đức Giêsu còn chịu ảnh hưởng phương pháp của các giáo sĩ Do-thái giáo (Halacha và Midraschim). Vì thế các Môn đệ đầu tiên của Người thường gọi Người là „Rabbi“ („Thầy“, Giáo sĩ Do-thái) (Mc 9,5; 11,21; 14,45; Ga 1,38.49; 3,2; 4,31) hay „Rabbuni“ („Sư Phụ „): Mk 10,51; Joh 20,16). Cách xưng hô trong tiếng Aramäisch như thế tương đương với tiếng Hy-lạp διδάσκαλος và có nghĩa là „Thầy giáo.“ Các Môn đệ xưng hô với Đức Giêsu như thế là tỏ ý tôn kính Người và coi Người cùng cấp bậc với các Kinh Sư và các Thầy Pha-ri-sêu, những người tự coi mình là người diễn giải và cắt nghĩa Luật Mô-sê. (Mt 13,52; 23,2.7 tt.) Do cách thức cắt nghĩa luật Tora trong Sách Thánh Do-thái Tanach của Đức Giêsu hoàn toàn tương tự như cách thức của các Rabbi xưa kia sử dụng, giáo sư Pinchas Lapide (1922-1997), người Đức gốc Do-thái, đã cho rằng chắc chắn Đức Giêsu đã từng theo học tại trường Tora.(30)

Còn nghề nghiệp thì theo Phúc Âm Mác-cô 6,3 và Mát-thêu 13,55 gọi Người là „bác thợ“, tức nghề thủ công bằng chân tay của thánh Giuse, (tiếng Hy-lạp: τέκτων) và người ta thường nhầm lẫn dịch là „nghề thợ mộc.“(31) Từ τέκτων được cho là một nghề có liên quan đến những chất liệu rất cứng như gỗ hay đá, v.v…và nói chung là nghề thủ công, chứ không hẳn là nghề thợ mộc. Người ta phỏng đoán là Đức Giêsu cũng như đa số các thanh thiếu niên Do-thái đã học nghề của cha mình. Mặc dù nghề thủ công xưa kia đối với một Rabbi là một điều bình thường, Kinh Thánh Tân Ước không hề đề cập tới.(32) Sự hiểu biết về nghề thủ công của Đức Giêsu đã biểu lộ qua các dụ ngôn Người nêu lên, như trong Luca 6,47-49 và Mác-cô 12,10. Theo nhiều nhà chuyên môn khi cắt nghĩa các phát biểu của Người (như Luca 5,1-7; Gioan 21,4-6) đã cho rằng Đức Giêsu rất có thể làm nghề chăn chiên, canh nông hay chài lưới.(33)

Thành Na-da-rét nằm cách thành Sepphoris vào khoảng 7 cây số, là nơi vua Hê-rô-đê An-ti-pát đã cho xây dinh thự của ông ta và là nơi có rất nhiều đại điền chủ ở. Vì thế, Sepphoris có thể đã thu hút nhiều dân cư ở các làng kế cận đến sinh nhai kiếm sống. tuy nhiên Kinh Thánh Tân Ước không nhắc đến thành phố này và cho rằng Đức Giêsu đã không được sai đến với các dân ngoại.(34)

Đời sống hoạt động công khai của Đức Giêsu

Theo trình thuật của Tân Ước, sau khi nghe tin ông Gioan Tẩy Giả bị cầm tù, Đức Giêsu đã đi đến miền Ga-li-lê-a và từ đây Người bắt đầu các hoạt động công khai, loan báo Tin Mừng Cứu Sống của Nước Trời, Người kều gọi: „Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.“(x. Mt 4,12.17).

Các Môn đệ Đức Giêsu

Ngay từ lúc khởi đầu cuộc sống công khai của Người, Đức Giêsu đã kêu mời một số người tham gia cộng tác với Người trong công cuộc rao giảng Tin Mừng (Mc 1,14-20). Họ quả thực là những người Môn đệ của Chúa, – ít nhất là bảy mươi hai người (Lc 10,1) –, những người đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng, đặc biệt trong Giáo Hội buổi sơ khai. Và để thực hiện sứ mệnh tông đồ ấy, các Môn đệ cũng cần phải bắt chước Người là rời bỏ gia đình, nghề nghiệp và gia sản của cải (Mc 10,28-31) và cả vũ khí hay các phương tiện khác họ cũng không được mang theo khi đi rao giảng Nước Trời. Cũng như Người, các Môn đệ phải sống hòa đồng với hết mọi người dân thường, đặc biệt với những người nghèo khổ, những người cô thế cô thân và những người bị bỏ rơi,v.v… để an ủi và giúp đỡ họ; chữa lành những người bệnh tật, xua đuổi ma quỷ ra khỏi những người bị chúng hãm hại dày vò và chúc lành cho mọi người. Khi vào thăm bất cứ nhà nào họ đều cầu chúc ơn trợ giúp của Thiên Chúa cho cả gia đình ấy qua lời chúc bình an „Shalom!“

Khi vâng lệnh Chúa đi rao giảng Nước Trời cho mọi người khắp nơi mà không hề mang theo tiền bạc của cải cũng như vũ khí trong người, lại chỉ cư xử nhã nhặn thân thiện với hết mọi người và chúc „Shalom“, chúc bình an cho họ như thế, các Môn đệ đã nhận được cảm tình và sự giúp đỡ về mặt vật chất của dân chúng.(35)

Theo nhà thần học và đông phương học Geza Vermes,(36) Đức Giêsu và các Môn đệ đã bị ảnh hưởng rất nhiều bởi „phong trào đặc sủng“ vào thời bấy giờ tại Ga-li-lê-a với những nhà „ngoại cảm“ rất đặc biệt. Chính ông Chanina Ben Dosa (khoảng 40-75), một người thuộc phong trào Chasisidismus, một phong trào thuộc Do-thái giáo, chủ trương tuân giữ các luật lệ Tora một cách nghiêm nhặt, đã từng tổ chức việc săn sóc những người già cả neo đơn và những người vô gia cư nghèo khổ cũng như chữa bệnh một cách ngoại thường bằng sự cầu nguyện và công bố Kinh Thánh.(37)

Nhưng trong số các Môn đệ đã tự nguyện theo Người, Đức Giêsu đã trạch tuyển riêng ra mười hai vị để các ngài ngày đêm luôn sống sát cánh bên Người, đồng hành và chia sẻ với Người mọi vui buồn, mọi thao thức, mọi nhọc nhằn âu lo và nhất là mọi tin tưởng hy vọng vào sự an bài của Thiên Chúa trong sứ mệnh được giao phó. Người gọi nhóm Mười Hai này là Tông đồ. Người cho việc tuyển chọn này là một vấn đề vô cùng quan trọng, vì đây là mười hai cột trụ, là mười hai tảng đá góc tường cho tòa nhà Giáo Hội, mà Người sẽ xây dựng lên. Vì thế, Người đã thức cầu nguyện suốt cả đêm để thỉnh ý Chúa Cha trước khi quyết định. Tên các ngài gồm có: Ông Si-môn mà Người gọi là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là các ông Gia-cô-bê, Gio-an, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-môn biệt danh là Quá Khích, Giu-đa con ông Gia-cô-bê, và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, người đã trở thành kẻ phản bội.”(Lc 6,12-16.)

Theo ý kiến James H. Charlesworth, Mục sư Tin Lành thuộc giáo phái Mê-thô-đít và là giáo sư về ngôn ngữ Kinh Thánh, việc Đức Giêsu chọn nhóm mười hai Tông Đồ là muốn nhấn mạnh đến những đòi hỏi cải tổ chính trị và xã hội bất bạo động của Người trong xã hội Do-thái, những đòi hỏi mà vào lúc bấy giờ người ta thường gọi là „Thời đại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem thứ hai“, không tách biệt khỏi các mục đích tôn giáo của người Do-thái. Vì theo Di Chúc của các Tổ Phụ và các sử liệu khác, việc Đức Giêsu lựa chọn mười hai trong số các Môn đệ làm Tông đồ là muốn nhắc đến mười hai Chi tộc Ít-ra-en. Những chi tộc đó sẽ thống trị trái đất, một khi Thiên Chúa tái thiết nền độc lập của con cái Ít-ra-en.(38)

Trong thực tế, ý kiến này không sai, nếu được hiểu theo quan điểm thần học, tức mười hai vị Tông đồ, đại diện cho mười hai Chi tộc con cái Ít-ra-en, đã được Chúa Thánh Thần thánh hóa và sai đi khắp thế giới để rao giảng Tin Mừng Cứu Rỗi của Thầy Chí Thánh hầu thiết lập một nước Ít-ra-en mới, tức Giáo Hội, bao gồm mọi dân tộc trên toàn thế giới. Vâng, Giáo Hội của Chúa, nước Ít-ra-en mới, đã, đang và sẽ “thống trị” toàn thế giới, nhưng không bằng con đường chính trị đầy tham vọng theo cách thức trần thế, mà là bằng con đường dấn thân phục vụ vô vị lợi cho hết mọi người, không phân biệt, với tất cả sự công bình, tình yêu thương và lòng khoan dung của Nước Trời.

Tương quan với Gioan Tẩy Giả

Sự kiện Đức Giêsu được Gioan tẩy Giả làm phép rửa tại sông Gióc-đan là biến cố lịch sử, vì qua biến cố đó Người khởi đầu cuộc các hoạt động công khai rao giảng Nước Trời. Dựa theo trình thuật của Phúc Âm Thánh Mát-thêu (3,7-12) và Phúc Âm thánh Luca (3,7tt) người ta có thể cho rằng ông Gioan Tẩy Giả, vốn xuất thân từ một gia đình Tư Tế (Lc 1,5), là vị Ngôn sứ của những cảnh báo nghiêm khắc, của ngày thế mạt.

Chính bản thân ngài, Gioan Tẩy Giả cũng sống một đời khổ hạnh bất thường trong một nơi hoang địa (Lc 1,80), kiêng khem tất cả, không thịt thà, không uống các thứ nước có chất men, và cả đến râu tóc cũng không hề cắt xén.(39) Ngài rao giảng và làm phép rửa cho dân chúng để họ được tha tội, nhưng với điều kiện là họ phải xưng thú tội lỗi mình và cải thiện cuộc sống. Sử gia Josephus đánh giá phép rửa của Gioan Tẩy Giả mang tính cách nghi thức tẩy rửa quen thuộc của người Do-thái.(40)

Dựa theo trình thuật của Phúc Âm thánh Mác-cô (1,14tt) chúng ta biết được Đức Giêsu đã khởi sự công việc rao giảng Tin Mừng của Người sau khi ông Gioan Tẩy Giả bị bạo vương Hê-rô-đê cầm tù. Tuy Đức Giêsu hoàn toàn độc lập với ông Gioan Tẩy Giả, chứ không phài là người kế vị hay Môn đệ của ông này, nhưng nội dung Tin Mừng mà Người rao giảng cũng gần tương tự như sứ điệp thánh Gioan đã rao truyền trước đó. Người cũng kêu mời dân chúng hãy ăn năn, cải thiện cuộc sống, trở lại đường ngay lẽ phải,(41) cảnh cáo họ trước án phạt nặng nề sẽ dành cho những ai cố chấp sống trong tội lỗi, chứ không chịu phục thiện, cải tà quy chánh (Lc 12,49; Mt 3,10).(42) Nhưng khác với ông Gioan Tẩy Giả, Đức Giêsu không luôn luôn đòi hỏi các Môn đệ của Người nhất thiết phải sống đời chay tịnh và khổ chế một cách quá khắt khe; trái lại, Người thường ngồi chung bàn với cả những người Do-thái mà theo Luật Tora là tầng lớp „dơ bẩn“, không được hưởng ơn cứu rỗi.(Mc 2,16-19). Người cũng không sống trong hoang địa như ông Gioan Tẩy Giả, nhưng Người rảo khắp mọi nơi, đi đến với tất cả những người Do-thái cũng như ngoại kiều bị khinh bỉ, bị bỏ rơi, bị gạt ra ngoài lề xã hội và nói cho họ biết Thiên Chúa luôn yêu thương họ và luôn mở rộng vòng tay đón tiếp và cứu rỗi họ.(43)

Đức Giêsu đồng hóa Gioan Tẩy Giả với Ngôn sứ Ê-li-a (Mc 9,13), mà người Do-thái luôn mong đợi sự trở lại của vị đại Ngôn sứ này trước ngày phán xét chung, một cuộc phán xét đáng kinh sợ mà các vị Ngôn sứ của Chúa đã loan báo (Ml 3,1; Lc 7,24-28). Vì thế, Người cũng đồng ý là phép rửa của Gioan Tẩy Giả có tác dụng cứu vớt con người trước cuộc phán xét sau cùng ấy.44 (Jens Schröter: Jesus von Nazaret. Leipzig 2006, trang 133–140.)

Có lẽ Đức Giêsu cũng hay biết việc bạo vương Hê-rô-đê ra lệnh xử tử ông Gioan Tẩy Giả (Mc 6,17tt). Hơn nữa, theo truyền thống Kinh Thánh, thì một vị Ngôn sứ bị sát hại bởi các bạo quyền và kẻ ác là một điều hầu như không thể tránh, vì „nói thật mất lòng“ hay „trung ngôn nghịch nhỉ.“(45) Đây là một điều mà Đức Giêsu đã biết rất rõ. Vâng, Người biết rằng khi Người rao giảng Tin Mừng của tình yêu thương và sự thật Nước Trời, đồng thời gay gắt kết án sự bất công, giả dối và bạo lực, v.v… Người cũng sẽ không tránh được hậu quả tồi tệ như vị Tiền Hô của Người hay các vị Ngôn sứ khác đã phải trải qua (Lc 13,32-35; Lc 20,9-19)(46) Theo trình thuật của Phúc Âm thánh Mác-cô (Mc 11,27-33) thì sau đó không lâu, để khẳng định trước những đối thủ của Người ở Giê-ru-sa-lem là Người có toàn quyền tha tội cũng như việc Người xua đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu đã liên kết với phép rửa của ông Gioan Tẩy Giả như một điều kiện để họ nhận được câu trả lời của Người. Đồng thời qua đó, Người cũng muốn khẳng định giá trị phép rửa cũng như vai trò Ngôn sứ của Gioan Tẩy Giả.(47)

Tương quan với nhóm Biệt Phái

Các nhóm Biệt Phái và Luật sĩ được đề cập tới trong các bản Phúc Âm thường được coi là những người ưa moi móc và phê bình chỉ trích quan điểm của Đức Giêsu và của các Môn đệ của Người. Họ bất bình trước việc Người tự quyền tha tội cho kẻ khác (Mc 2,7), họ phản đối việc Người ngồi ăn chung bàn với những người họ cho là „dơ bẩn“ mà họ cô lập khỏi các sinh hoạt xã hội, như những người làm nghề thu thuế và những người tội lỗi (Mc 2,16) và cả việc các Môn đệ Người ăn uống bình thường, chứ không ăn chay như họ (Mc 2,18). Do đó, họ tỏ thái độ coi khinh Người và ghép người vào thành phần „ăn nhậu.“ (Lc 7,31-35.)

Họ đã đặc biệt tức giận khi thấy Đức Giêsu chữa lành các kẻ tật nguyền đau ốm vào cả Ngày Sabbat, ngày Lễ Nghỉ của người Do-thái, và cho đó là một xúc phạm đến Ngày Thánh Sabbat của Thiên Chúa (Mc 3,1-4). Theo lệnh Chúa truyền cho ông Mô-sê, tội xúc phạm Ngày Sabbat sẽ bị xử ném đá. (Xh 31,14tt; Ds 15,32-35.) Vì thế, họ đã âm mưu với các đồ đệ của bạo vương Hê-rô-đê để ám hại Người. (Mc 3,6). Nhóm họ cũng đã từng tìm cách ném đá Đức Giêsu, khi nghe Người tự cho mình đứng trên cả ông Áp-ra-ham và ông Mô-sê, những vị Tổ phụ cao cả của họ. (Ga 8,59 và 10,31.39).

Nhưng nhiều nhà chú giải Kinh Thánh cho rằng những trình thuật này thiếu tính cách lịch sử, vì trong thực tế nhóm Biệt Phái không bao giờ hòa hợp hay giao tiếp thân thiện với nhóm các Luật sĩ hay với các đồ đệ của Hê-rô-đê. Những bản văn trình thuật cuộc thương khó của Chúa cũng không hề nhắc đến những xung đột giữa Người và nhóm Biệt Phái về vấn đề Ngày Sabbat. Vì thế, họ cho rằng những trình thuật này có lẽ chỉ có liên quan đến những biến cố xảy ra tại Ga-li-lê-a, khi những đối thủ của Đức Giêsu ở Giê-ru-sa-lem âm mưu sát hại Người. (Mc 11,18; 12,13; x. Ga 11,47; 18,3)(48)

Trong khi đó, những trình thuật khác của Tân Ước lại rất gần gũi với lịch sử, ví dụ trong Phúc Âm thánh Mác-cô (2,23tt) Đức Giêsu đã biện minh cho hành động các Môn đệ Người bứt lúa ăn vào Ngày Sabbat khi họ đi dọc đường và đói, vì trong trường hợp người ta quá đói thì việc làm đó được phép và không bị coi là lỗi Ngày Sabbat, vì theo Người việc cứu mạng sống con người quan trọng hơn việc giữ luật.

Nhưng chúng ta cũng đừng quên rằng không phải tất cả nhóm Biệt Phái luôn chống báng và tẩy chay Đức Giêsu. Nhiều người trong họ rất kính trọng và có cảm tình với các giáo huấn của Người, nên đã từng mời Người đến nhà mình dùng cơm. (Lc 7,36; 11,37.) Một Luật sĩ ở Giê-ru-sa-lem còn nhất trí với Người và cho rằng tất cả mọi Giới Răn Thiên Chúa được tóm tắt lại trong hai Giới Răn trọng yếu duy nhất là „mến Chúa và yêu người.“ Sự tóm lược này hoàn toàn phù hợp với truyền thống Do-thái. Cả việc mong đợi Nước Thiên Chúa và niềm xác tín về sự sống lại của những người đã qua đời đều trùng hợp với quan điểm giáo lý của nhóm Biệt Phái. Hơn thế nữa, họ còn tìm cách cứu Đức Giêsu thoát khỏi sự lùng bắt của bạo vương Hê-rô-đê, (Lc 13,31-32) và nhất là một người trong họ đã lo việc táng xác Người. (Ga 19,39).

Theo nhiều nhà khảo cứu Kinh Thánh ngày nay cho rằng trên thực tế Đức Giêsu gần gũi với nhóm Biệt Phái nhiều hơn tất cả những đơn vị người Do-thái khác vào lúc bấy giờ. Tuy thế, họ vẫn được coi là những đối thủ của Đức Giêsu, và vấn đề được giải mã sau biến cố Đền Thờ Giê-ru-sa-lem bị quân Rôma phá hủy vào năm 70 SCN, vì sau đó nhóm Biệt Phái chính là những người giữ vai trò lãnh đạo trong Do-thái giáo. Người Do-thái và các Kitô hữu phân biệt lẫn nhau và cùng nhìn nhận điều đó qua những văn thư hay sách vở của họ trong quá khứ, chứ ngày nay cả hai phía cùng tiến gần và sát cánh với nhau đặc biệt trong các công trình nghiên cứu Kinh Thánh. Đó là một điểm son mà chắc chắn sẽ được Trời Cao chúc phúc.(49)

Tương quan với nhóm Xa-đốc

Những đối thủ nặng ký nhất của Đức Giêsu ở Giê-ru-sa-lem là nhóm Xa-đốc, vốn được đào tạo theo văn hóa Hy-lạp và là tầng lớp giàu có. Với cương vị là những người thừa kế chức Tư Tế của Chi tộc Lê-vi, họ phụ trách việc trông coi Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Như đã trình bày trong phần I về lịch sử Ít-ra-en, Chi tộc Lê-vi là Chi tộc duy nhất trong mười hai Chi tộc Ít-ra-en không được chia đất đai, nên việc dâng cúng vào Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, mà tất cả mọi người Do-thái đều phải tuân giữ, là nguồn thu nhập chính thức và hợp pháp của họ, và đồng thời là yếu tố kinh tế quan trọng cho toàn xứ Pa-lét-ti-na lúc bấy giờ.(50) Nhóm Xa-đốc đề cử vị Thượng Tế, tức người nắm giữ vai trò tối cao trong các quyết định thuộc lãnh vực tế tự trong Đền Thờ Thiên Chúa. (Đnl 17,8-13).

Nhưng từ thế kỷ VI SCN, vai trò những vị Thượng Tế đều do nhà cầm quyền Rôma đề cử, chỉ định hay truất phế. Vị Thượng Tế có trách nhiệm phải giúp đỡ nhà cầm quyền Rôma giữ gìn an ninh trong toàn xứ Giu-đê-a và Sy-ri-a. Bù lại họ được phép thu thuế Đền Thờ mà tất cả mọi người Do-thái đều phải nộp, quản trị việc tế tự trong Đền Thờ, được phép lập một đội quân canh giữ Đền Thờ có trang bị khí giới và được phép kết án những sai phạm trong vấn đề tế tự thuộc phạm vi Đền Thờ, nhưng không được phép kết án tử cho bất cứ ai, vì vấn đề này hoàn toàn thuộc nhà cầm quyền Rôma mà thôi.(51) Và tuy ảnh hưởng của họ trong xã hội Do-thái lúc bấy giờ tương đối khiêm tốn, nhưng họ cũng duy trì ổn định được vấn đề thu thuế cho Đền Thờ và các luật lệ tế tự.

Đối với Đức Giêsu, trên nguyên tắc Người không hề phủ nhận vai trò các vị Tư Tế trong Đền Thờ, trái lại Người luôn tôn trọng quyền bính của họ. Bằng chứng là khi chữa lành một bệnh nhân tại Ga-li-lê-a, Người đã sai người đó đến trình diện các vị Tư Tế theo luật dạy, để các ngài chứng thực người ấy đã lành bệnh và cho anh ta được tái hòa nhập vào cuộc sống xã hội.(Mc 1,44). Người cũng nhìn nhận công cuộc dâng cúng của dân chúng vào Đền Thờ qua việc Người đã khen ngợi hành động dâng cúng của một bà góa vượt trội hơn những gì mà các người giàu có đã làm cho Đền Thờ Thiên Chúa. (Mc 12,41). Tuy nhiên, đối với Đức Giêsu, việc tha thứ và sống hài hòa với những người khác trong cuộc sống hằng ngày còn quan trọng hơn cả việc dâng cúng của lễ vào Đền Thờ. (Mt 5,23-24.)

Tương quan với nhóm Xê-lốt

Đức Giêsu bước vào cuộc sống công khai trong một tình trạng xã hội đầy căng thẳng cả về mặt tôn giáo lẫn chính trị của đất nước vào lúc bấy giờ. Ở Ga-li-lê-a, cựu vương quốc Ít-ra-en phía bắc trước kia, đã từ bao thế hệ qua luôn có những nhóm giải phóng quân lập chiến khu chống lại chính quyền bảo hộ ngoại bang. Kể từ thế kỷ thứ VI sau Công Nguyên (SCN) khi nhóm Giu-đa Ga-li-le-út nổi lên chống việc nộp thuế cho chính quyền bảo hộ bị đánh dẹp, lại liên tiếp có nhiều nhóm dân quân giải phóng khác nổi dậy chống lại sự đô hộ của quân Rôma bằng tất cả mọi phương tiện. Họ căm thù chính quyền đô hộ và tìm cách phá bỏ cả những hình ảnh của hoàng đế Rôma, những biểu tượng của quân lính và của các quan chức đô hộ. Nhiều cảm tử quân còn dùng dao ám sát các quan chức Rôma. Ngày nay người ta gọi nhóm này là Xê-lốt (Zeloten) và có nghĩa là „những người nhiệt thành“, hay „những người quá khích“, còn xưa kia quân Rôma và nhà sử học thân Rôma Josephus lại khinh bỉ gọi họ là những „tên cướp“ hay những „kẻ sát nhân.“(52)

Giữa một bầu không khí ngột ngạt và đầy bạo động như thế, Đức Giêsu công bố cho tất cả mọi người Do-thái sứ điệp cánh chung về Nước Thiên Chúa đang đến gần. Qua đó, Người đã công khai kêu mời chấm dứt sự thống trị của bạo lực. Mọi hoạt động của Người đều nhằm thiết lập Nước Thiên Chúa, nhằm mang lại sự bình an cho tất cả mọi tâm hồn. Qua việc chữa lành các thứ bệnh tật cho dân chúng và việc truyền bá tinh thần bất bạo động cũng như việc thiết lập sự an bình trong cuộc sống xã hội, Đức Giêsu muốn hoán cải cả những bạo quyền chỉ biết áp bức và bóc lột dân (Mc 10,42).

Vì thế, cũng như nhóm Xê-lốt, Người đã gọi ông vua bù nhìn Hê-rô-đê An-ti-pát là „cáo già.“ Trong lần chữa lành một người bị quỷ ám tại thành phố Ghê-ra-sa, nơi có căn cứ quân sự vĩ đại của chính quyền đô hộ đồn trú, ma quỷ đã tự xưng mình là „binh đoàn“ và xin phép Người được nhập vào đàn heo đang lúc nhúc gần đó, nếu Người trục xuất nó ra khỏi người đang bị nó nhập, và rồi cả đàn heo đều nhảy xuống biển chết hết (Mc 5,1-20). Qua sự kiện đó, có lẽ Đức Giêsu muốn ám chỉ và cảnh cáo quân lính đô hộ Rôma rồi đây cũng sẽ bị tước đoạt mọi quyền lực.(53) Bởi vì, người Do-thái vốn coi loài heo là con vật dơ bẩn, còn người Rôma cùng thời lại sử dụng thịt heo để dâng cúng các vị thần linh của họ và họ cũng sử dụng hình ảnh con heo làm biểu tượng cho đạo binh của họ nữa.

Tiếp đến, tuy Đức Giêsu rao giảng sự bất bạo động, nhưng Người không phủ nhận quyền tự vệ chính đáng của mỗi người. Do đó, trước khi Người và các Môn đệ lên đường tiến về Giê-ru-sa-lem và phải vượt qua hàng trăm cây số đường bộ với bao nguy hiểm đang rình rập, nên chẳng những Người cho phép các Môn đệ được sắm sửa một số khí giới tùy thân tối thiểu, mà Người còn bảo họ: „Ai chưa có gươm thì bán áo đi mà mua.“ (Lc 22,36.)(54)

Qua bài ca Ngợi khen Magnificat của Đức Maria (Lc 1,46-55.) và sự tung hô chào mừng của khách hành hương thập phương dành cho Đức Giêsu khi Người long trọng tiến vào thành Giê-ru-sa-lem (Mc 11,9-10), nhiều nhà nghiên cứu Kinh Thánh đã cho rằng sự kiện đó mang một chiều kích chính trị tượng trưng hay gián tiếp của công cuộc rao giảng Nước Trời của Người.(55) Bởi vậy, một vài người trong số các Môn đệ của Người trước kia từng thuộc nhóm Xê-lốt, như Si-mon Xê-lốt (Lc 6,15).(56)

Nhưng hoàn toàn khác với nhóm Xê-lốt, Đức Giêsu kêu mời cả những người thu thuế, những người phục vụ cho chính quyền đô hộ Rôma, mà quan niệm người Do-thái lúc bấy giờ vẫn cho là những người „dơ bẩn“, làm Môn đệ của Người và Người cũng thường là khách mời của những người này. (Mc 2,14tt.) Dĩ nhiên với mục đích là để biến đổi cuộc sống cũng như thái độ của họ đối với những người nghèo khổ. (Lc 19,1-10).

Đồng thời cũng khác với những người chỉ muốn kết án những kẻ không đồng quan điểm với họ bằng bạo lực, Đức Giêsu lại mời gọi mọi người hãy thương yêu kẻ thù và cứu giúp cả những người làm hại mình. (Mt, 5,38-48.) Đây là điểm son của Tin Mừng Đức Giêsu, của tôn chỉ và giáo lý Kitô giáo, mà không một tôn giáo nào khác có được.

Đối với nhóm Xê-lốt, những đồng tiền đang lưu hành được chạm khắc hình hoàng đế Rôma là một xúc phạm đến luật cấm của Kinh Thánh trong việc vẽ, đúc hay tạc các tượng ảnh.(Xh 20,4tt.) Đó là lý do khiến họ từ chối việc nộp thuế cho Rôma. Trong khi đó, Đức Giêsu lại hành động rất hợp lý trong vấn đề thuế má. Người hoàn toàn chống lại tất cả mọi bất công và áp bức, nhưng Người lại luôn tôn trọng trật tự hiện hành của xã hội trần thế. Quan điểm của Đức Giêsu về vấn đề này được thể hiện trong một câu phát biểu vô cùng sâu sắc, hợp lý và thời danh của Người: „Của Xê-da hãy trả cho Xê-da; của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa.“ Mc 12,17.)

Qua câu nói của Người trong Phúc Âm thánh Mát-thêu: „Không ai có thể làm tôi hai chủ được, hoặc ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được“ (6,24), Đức Giêsu đòi hỏi toàn diện con người – linh hồn, thể xác, tư tưởng, lời nói và hành động, v.v… – phải hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Một số người cho rằng sự đòi hỏi này có thể được hiểu là sự từ chối nộp thuế cho hoàng đế, nhưng sự quyết định là của người nghe. Tuy nhiên, các Thánh Sử đã bác bỏ sự diễn giải câu nói của Chúa một cách tùy tiện như thế.(Lc 23,2tt.)(57)

Những hoạt động của Đức Giêsu có tạo ra những phản ứng mang tính cách chính trị hay không, thì chính cuộc tử nạn thập giá của Người vào một Ngày Đại Lễ của người Do-thái là câu trả lời cho sự thắc mắc đó. Một số nghiên cứu gần đây về các hoạt động của Đức Giêsu, thì cho rằng Người có tham dự một phần nào đó vào phong trào nổi dậy của nhóm Xê-lốt người Do-thái và qua đó họ cho rằng sự kết cục đầy đau thương của Người là một hậu quả tất yếu không thể tránh được cho các hành động của Người.(58) Nhưng đa số các nhà chuyên môn về Kinh Thánh Tân Ước người Đức kỳ cựu, thì quả quyết rằng những hoạt động của Đức Giêsu hoàn toàn không dính dáng gì đến chính trị. Việc xử tử Người với tội danh „tự cho mình là vua Do-thái“ là cả một bất công, một sự sai lầm lịch sử.(59)

Sách Isaia II
chương 49-55

***

isaiahI. NGƯỜI TÔI TỚ ĐAU KHỔ (Isaia 52,13 – 53,12)

Đây là bài ca thứ tư về Người Tôi tớ đau khổ trong sách Isaia. Vậy Người Tôi tớ này là ai? Phải chăng là tiên tri Giêrêmia vì tiên tri Giêrêmia được mô tả như con chiên bị đem đến lò sát sinh (Gier 12,19), và người tôi tớ đau khổ cũng vậy (Is 53,7). Kinh nghiệm của Giêrêmia cho thấy một tiên tri phải chấp nhận đau khổ mới có thể chu toàn sứ mạng.

Phải chăng Người Tôi tớ là dân Israel? Người tôi tớ đau khổ bị giết chết (Is 53,8-9) nhưng rồi sẽ được trường tồn và được thấy hậu duệ của mình. Israel cũng thế, coi như đã chết trong cảnh lưu đày nhưng sẽ trỗi dậy như trong thị kiến của Ezekiel về cánh đồng xương khô cũng như trong Is. 26.

Truyền thống Kitô giáo vẫn đọc bài ca về Người Tôi Tớ Đau Khổ như lời tiên tri về cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Chính vì thế, cùng với trình thuật về cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, bài ca này được chọn làm bài đọc I trong Phụng Vụ Thứ Sáu Tuần Thánh. Những chi tiết trong bài ca về Người Tôi Tớ được tái diễn nơi Chúa Kitô trong cuộc khổ nạn của Người một cách cụ thể. Hãy đọc kỹ bài ca này và chiêm ngắm Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá để khám phá mầu nhiệm cứu độ.

Chúa Kitô chịu đau khổ vì chúng ta và thay cho ta, nhờ đó ta được chữa lành: “Chính Người đã mang lấy bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng Người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, bị nhục nhã ê chề” (53,4)

“Chính Người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm, người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho ta được chữa lành” (53,5)

Bài ca về Người Tôi tớ đau khổ còn trình bày một cách nhìn mới về đau khổ. Truyền thống lâu dài trong Kinh Thánh vẫn coi đau khổ là hình phạt tội lỗi. Thiên Chúa thuởng phạt nhãn tiền tùy theo đời sống tốt lành hay xấu xa của mỗi người. Quan niệm này vẫn là quan niệm quen thuộc vào thời Chúa Giêsu, được thể hiện qua thái độ của những người Pharisêu, kể cả các môn đệ của Chúa (x. Ga 9,2).

Nhưng trong bài ca về Người Tôi Tớ, Người Tôi Tớ phải chịu đau khổ không do tội lỗi của mình mà do Ngài gánh chịu đau khổ của chúng ta (Is 53,4). Như thế, đau khổ có giá trị cứu độ: “Vì đã nếm mùi đau khổ, người tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính, và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53,11).

Cách nhìn này cũng soi sáng cho linh đạo Kitô giáo về đau khổ. Người Kitô hữu được mời gọi kết hợp với Chúa Kitô trong đau khổ: “Điều quan trọng là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người” (Phil 3,10). Đồng thời, đón nhận đau khổ là cách thế để ta cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa: “Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Col 1,24).

II. CHAY TỊNH (58,1-14)

Sau khi Giêrusalem bị thất thủ năm 586 trước Công nguyên, dân Israel có thói quen giữ bốn ngày chay vào các tháng tư, năm, bảy và mười. (x. Zacaria 8,18). Tiên tri Isaia cho rằng việc giữ chay này không có giá trị nội tâm nào. Ngài không chống đối nghi thức giữ chay nhưng cho rằng chay tịnh đích thực phải liên kết với công bằng xã hội. Câu 6-7 đưa ra những nét chính yếu của tôn giáo đích thực: giải thoát người bị áp bức, nuôi dưỡng kẻ đói nghèo, cho người vô gia cư nương nhờ… Những điều được nói đến ở đây làm ta liên tưởng đến dụ ngôn Ngày Phán Xét Chung (Mt 25,31-46).

Giáo huấn của tiên tri Isaia cũng giúp người Kitô hữu nhìn lại việc giữ chay, vốn là đòi hỏi được nhấn mạnh trong mùa Chay. Chay tịnh đích thực phải bắt nguồn từ trong tâm hồn như Chúa Giêsu dạy, “Khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay, ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi bí ẩn” (Mt 6,17). Hơn thế nữa, trong ánh sáng của mầu nhiệm thập giá, ta hiểu rằng chay tịnh là sự tập luyện sống mầu nhiệm hủy mình ra không của Chúa Giêsu (x. Phil 2,5-11) để tình yêu được triển nở trong ta. Chính vì thế, trong mùa Chay, việc giữ chay thường được gắn liền với việc cầu nguyện và làm việc bác ái. Hiểu như thế, chay tịnh không chỉ là một nghi thức phải giữ hay một lề luật phải chu toàn nhưng là phương thế huấn luyện đời sống Kitô hữu, không chỉ giới hạn trong mùa Chay nhưng cần trải dài trong suốt hành trình ơn gọi làm người và làm môn đệ Chúa Giêsu.

Sách Ezra và Nehemia

***

513IKPNyj9LI. LỊCH SỬ

Bối cảnh của sách Ezra và Nehemia là thời kỳ 200 năm của đế quốc Ba Tư. Thời kỳ này bắt đầu từ năm 539 trước Công nguyên khi Kyrô đại đế của Ba Tư nắm quyền kiểm soát toàn vùng Cận Đông, cho đến năm 333 trước Công nguyên là lúc Alexander đại đế của Hi Lạp giành quyền thống trị. Sách Ezra và Nehemia tập trung vào hai giai đoạn: (1) giai đoạn thứ nhất (538-515) khi những người lưu đày đầu tiên trở về Giuđa dưới quyền lãnh đạo của Sheshbazzar và tái thiết Đền thờ dưới sự lãnh đạo của Zerubbabel và Jeshua, và (2) giai đoạn thứ hai (445-398) với việc xây dựng tường thành Giêrusalem và cải tổ tôn giáo dưới quyền lãnh đạo của Nehemia.

1. Hồi hương và tái thiết Đền thờ (538-515 trước Công nguyên)

Trong năm đầu tiên của triều đại vua Kyro (538), nhà vua ra chiếu chỉ cho phép dân Do Thái lưu đày được trở về quê hương. Nhưng không phải mọi người dân lưu đày đều trở về. Một số người cảm thấy thoải mái với cuộc sống trên miền đất lưu đày, có người lại làm ăn phát đạt, đang khi đó quê hương họ (Giuđa) vẫn còn là miền đất nghèo khổ và bị tàn phá. Do đó lúc ban đầu chỉ có một số ít người trở về, sau này sẽ đông hơn.

Sau khi vua Kyro qua đời (530), Cambyses lên ngôi và đã có công chinh phục được Ai Cập. Tuy nhiên ông bị lật đổ và Darius I lên ngôi trị vì từ 522-485 trước Công nguyên. Trong thời Darius, cộng đồng Do thái ở Giuđa đã phát triển rất nhanh. Dưới sự lãnh đạo của Zerubbabel (một nhà lãnh đạo dân sự) và Jeshua (một tư tế), Đền thờ đã được tái thiết và được cung hiến bằng một nghi lễ trọng thể năm 515. Đây là ngôi Đền thờ thứ hai sau Đền thờ do vua Salomon xây và đã bị tàn phá. Ngôi Đền thờ này đã trở thành trung tâm đời sống của người Do Thái cho đến khi bị quân Roma tàn phá vào năm 70 sau Công nguyên. Việc tái thiết Đền thờ là công trình lớn lao đầu tiên mà dân thực hiện, và được coi là đá nền cho việc tái thiết cộng đồng.

2. Tái thiết tường thành Giêrusalem và cải cách tôn giáo (445-398 trước Công nguyên)

Sách Ezra và Nehemia hầu như không nói gì đến giai đoạn 70 năm từ khi tái thiết Đền thờ đến khi bắt đầu sứ vụ của Nehemia (515-445). Sau khi vua Darius qua đời, Xerxes lên ngôi trị vì từ 485-465, kế đó là Artaxerxes I (465-425). Chính trong triều đại của Artaxerxes, cộng đồng Do Thái lại một lần nữa phát triển rất mạnh.

Trong thời lưu đày, Nehemia đã trở thành một viên chức cao cấp trong triều đình nhà vua. Năm 445 ông được Artaxerxes sai đến Giuđa lãnh đạo cộng đồng Do Thái (Neh 2,1). Trong nhiệm kỳ đầu làm người lãnh đạo Giuđa, Nehemia đã tiến hành việc xây dựng tường thành chung quanh Giêrusalem mặc dù bị một số người chống đối. Khi hoàn thành công việc này, ông đã trở lại Ba Tư năm 443 nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, ông quay lại Giuđa. Trong nhiệm kỳ thứ hai, ông tiến hành nhiều cuộc cải cách nhằm củng cố và tăng cường sức mạnh của cộng đồng Do Thái, không chỉ vì cộng đồng này mà còn vì ích lợi của Ba Tư.

Ezra là hậu duệ của Aaron và là một ký lục. Khi cuộc hồi hương bắt đầu, ông được nhà vua trao trách nhiệm hoà giải người Giuđa và người Samari. Là một ký lục, ông đã thu thâp những bản thảo Thánh Kinh và Truyền Thống để làm thành một tổng thể dễ hiểu. Ông chủ trương tách biệt người Do Thái với người nước ngoài, và cố gắng kêu gọi dân chúng tuân theo những nguyên tắc sống của Do Thái giáo.

II. NỘI DUNG THẦN HỌC

1. Lịch sử và những sách viết về lịch sử

Trong toàn bộ Thánh Kinh Do Thái, có ba khối sử liệu trình bày về những biến cố lớn trong lịch sử Israel: (1) Bốn sách đầu tiên của Thánh Kinh trình bày giai đoạn từ khi hình thành nhân loại đến khi con cái Israel chuẩn bị đặt chân vào Đất Hứa, (2) từ sách Đệ nhị luật cho đến sách Các Vua II trình bày giai đoạn từ khi dân vào Đất Hứa rồi qua thời quân chủ cho đến khi lưu đày bên Babylon, và (3) sách Biên Niên Sử và sách Ezra, Nehemia trình bày giai đoạn từ khi vua Đavít nổi lên cho đến khi tái thiết Đền thờ thời hậu lưu đày.

Tất cả những sử liệu này không chỉ mang tính biên niên sử nhưng còn nhắm mục đích trình bày ý nghĩa thần học. Đối với sách Ezra và Nehemia cũng vậy. Tuy hai sách này cung cấp nhiều thông tin về mặt lịch sử nhưng mục đích chính vẫn là tuyển chọn và sắp xếp các tư liệu cho phù hợp với mối quan tâm thần học của tác giả.

Hãy thử nhìn lại cách sắp xếp trong hai sách này:

Phần I (Ezra 1-6) : Tái thiết Đền thờ
Phần II (Ezra 7-10) : Củng cố việc thờ phượng của cộng đoàn
Phần III (Neh 1-7) : Tái thiết Đền thờ Giêrusalem
Phần IV (Neh 8-13) : Củng cố cộng đoàn chung quanh lề luật

Nền tảng của Do thái giáo thời hậu lưu đày là Đền thờ và việc thờ phượng. Do đó phần I tập trung vào việc tái thiết Đền thờ cho dù cả Ezra và Nehemia đều không phải là những người dấn thân vào việc này từ đầu. Việc thờ phượng tại Đền thờ đòi hỏi dân Chúa phải thanh sạch, phải là dân được tách riêng ra cho Chúa. Vì thế phần II nhấn mạnh đến cuộc cải cách do Ezra khởi xướng nhằm bảo vệ dân khỏi những ảnh hưởng ngoại lai. Giêrusalem được gọi là thành thánh vì có Chúa hiện diện, mà như thế thành phải có sức mạnh và được bảo đảm. Do đó phần III nói đến việc xây dựng tường thành dưới quyền lãnh đạo của Nehemia. Tất cả những công việc trên đều nhằm mục đích củng cố cộng đồng Dân Chúa sống theo Lề luật, và đó là trọng tâm của phần IV. Nhìn như thế, ta sẽ thấy rõ ý hướng thần học của tác giả khi sắp xếp các sử liệu trong sách.

2. Những ý tưởng thần học chính

Công trình của Thiên Chúa và sự trợ giúp của người Ba Tư: Giống như các tác giả thời trước, những người biên soạn sách Ezra và Nehemia cho rằng chính Giavê, Thiên Chúa của Israel, điều khiển lịch sử thế giới. Kể cả sự sụp đổ của dân tộc và tình trạng lưu đày cũng là việc Chúa làm. Bây giờ cũng chính Thiên Chúa đem dân lưu đày trở về. Sự trợ giúp của chính quyền Ba Tư trong việc tái thiết đất nước được trình bày như là do Chúa sắp xếp.

Đền thờ và việc phụng tự: Sách Ezra và Nehemia chú trọng đặc biệt đến Đền thờ và việc thờ phượng, do đó việc tái thiết Đền thờ được trình bày như mục tiêu chính yếu của dân lưu đày. Đồng thời những chi tiết về tế lễ cũng như tư tế được quan tâm đặc biệt trong sách này.

Một dân được tách riêng ra cho Chúa: Trước thời lưu đày, dân Israel có căn tính rất rõ ràng. Họ là một dân độc lập, có lãnh thổ riêng với thủ đô là Giêrusalem, có các vua của mình từ Đavít cho đến các vua khác, có Đền thờ là nơi Chúa ngự. Thế nhưng họ đã đánh mất tất cả khi bị đem đi lưu đày. Bây giờ khi được trở về, họ cố gắng xây dựng lại căn tính của dân tộc trong hoàn cảnh mới bằng cách bảo vệ tính riêng biệt của mình so với các dân khác. Từ đó ta hiểu được tại sao có những quy định khắt khe, vd. không được kết hôn với người nước ngoài. Tất cả nhằm bảo vệ căn tính của dân tộc mình. Ngày nay khi đọc sách Ezra và Nehemia, cần đặt mình trong bối cảnh trên để hiểu được tâm tư ý hướng của tác giả.

Tính liên tục: Sách Ezra và Nehemia tìm cách khẳng định rằng dân Do Thái giáo sau lưu đày và Israel trước lưu đày chỉ là một. Israel ngày xưa được làm thành từ 12 chi tộc, bây giờ hầu hết những người từ lưu đày trở về cũng định cư ở những vùng đất tổ tiên họ đã ở. Đền thờ cũng được xây trên nền cũ. Việc tế tự cũng được trao cho hâu duệ của những vị tư tế ngày xưa. Sinh hoạt phụng tự cũng lấy lại những nghi thức cũ, và lề luật hướng dẫn cộng đồng là luật Môsê. Tất cả đều nhấn mạnh tính liên tục giữa cộng đoàn sau lưu đày và Israel trước thời lưu đày.

III. NHỮNG BÀI HỌC QUAN TRỌNG

Có thể rút ra nhiều bài học cần thiết cho đời sống đức tin khi đọc sách Ezra và Nehemia. Ở đây chỉ xin nêu ra hai bài học lớn:

1. Củng cố căn tính tôn giáo

Dân Israel từ miền đất lưu đày trở về đã cô gắng củng cố căn tính tôn giáo của dân tộc họ là dân được tách riêng ra để dành cho một mình Chúa. Để thực hiện công việc này, họ được mời gọi:
– trung thành với việc cử hành các ngày lễ tôn giáo ( lễ Vượt Qua, lễ Lều, lễ Ngũ Tuần…)
– quy tụ mỗi ngày sabat để nghe Lời Chúa và giữ luật sabat
– cầu nguyện hằng ngày

Trong thời đại tục hoá ngày nay, căn tính Kitô giáo nơi nhiều Kitô hữu đang bị đe doạ. Liệu người Kitô hữu có quan tâm đến việc bảo vệ căn tính của mình không, và nếu quan tâm, ta có thể rút ra được những bài học nào khi đọc sách Ezra và Nehemia?

2. Gia đình, môi trường chuyển giao đức tin

Ngoài việc tuân giữ những lề luật tôn giáo như đã trình bày, sách Ezra và Nehemia cho thấy tầm quan trọng của gia đình trong việc chuyển giao đức tin từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chính vì thế, cộng đoàn sau lưu đày chủ trương không kết hôn với người nước ngoài bởi vì nếu người mẹ không cùng tôn giáo, làm sao bà có thể giúp con cái duy trì và phát triển đời sống đức tin? Chủ trương này có thể không còn phù hợp với hoàn cảnh ngày nay, tuy nhiên vẫn hàm chứa một sứ điệp quan trọng về tầm quan trọng của gia đình trong việc giáo dục đức tin, nhất là trong hoàn cảnh ngày nay khi đời sống gia đình bị tan rã rất nhiều. Hơn bao giờ hết, các gia đình công giáo – nhất là những gia đình trẻ – cần ý thức điều này, và các lớp chuẩn bị hôn nhân cần xem đây là một chủ đề phải được nhấn mạnh.

Sách Haggai và Zacaria I

***

w3by_haggaiI. SÁCH HAGGAI

Tên gọi “Haggai” có nghĩa là lễ hội. Tên gọi này có thể chỉ về ngày sinh của vị tiên tri là một lễ hội. Tên gọi này cũng có thể nói về nhiệm vụ của ông là tái thiết Đền thờ để phục vụ các cử hành tôn giáo, những lễ hội. Tiên tri Haggai bắt đầu công bố các sấm ngôn bắt đầu từ năm 520 trước Công nguyên. Đối tượng ông nhắm đến là những người Do Thái từ lưu đày trở về lần II dưới sự lãnh đạo của Zerubbabel và Jeshua (khoảng năm 522).

Sách tiên tri Haggai có thể được phân chia như sau:

Phần I : Tái thiết Đền thờ (1,1-15a)
1,1 -11 : Lời sấm thứ nhất: Cổ võ việc xây lại Đền thờ
1,12-15a : Lời sấm thứ hai: Đáp ứng của dân và lời bảo đảm của Chúa

Phần II : Vinh quang tương lai của Đền thờ (1,15b– 2,23)
1,15b – 2,9 : Lời sấm thứ ba: Lời hứa của Chúa
2,10-19 : Lời sấm thứ tư : Những quyết định và phúc lành tương lai
2,20-23 : Lời sấm thứ năm: Tương lai của Zerubbabel

II. SÁCH ZACARIA I

Phần mở đầu của sách giới thiệu “tiên tri Zacaria, con ông Berekia, ông này là con ông Iddo.” Tên gọi Zacaria có nghĩa là “Thiên Chúa đã nhớ đến.” Ơng Iddo, ông nội của Zacaria là một trong các tư tế đã từ cảnh lưu đày Babylon trở về, do đó nhiều người nhấn mạnh đến nguồn gốc tư tế của tiên tri Zacaria.

Dựa vào những chỉ dẫn về thời gian trong sách, người ta chia sách Zacaria thành hai phần: phần thứ nhất (chương 1-8) và phần thứ hai (chương 9-14). Hai phần này trình bày hai giai đoạn khác nhau trong lịch sử tôn giáo và chính trị của Israel.

Sách Zacaria I gồm những phần chính như sau:

Phần I Dẫn vào sách Zechariah I (1,1-6)
Phần II Những thị kiến (8 thị kiến và lời đáp trả của Chúa) (1,7 – 6,15)
Phần III Những lời sấm về chay tịnh và tương lai (7,1- 8,23)'

Đọc Zacaria 2,10-17

Đoạn này gồm hai phần. Phần thứ nhất (2,10-13) là những mệnh lệnh cho dân lưu đày và lời cảnh cáo cho các dân đã cai trị họ. Dân lưu đày được khuyến cáo hãy trốn khỏi đất “phương Bắc” trước khi Chúa phân tán dân Babylon đi bốn phương trời (câu 10). Babylon ở đây không chỉ một miền đất về mặt địa lý nhưng ám chỉ tất cả những kẻ áp bức Israel. Hình phạt giáng xuống trên chúng là “chúng trở thành chiến lợi phẩm cho những kẻ đã làm tôi chúng” (câu 13). Tại sao Thiên Chúa lại phản ứng mạnh mẽ như thế? Vì “kẻ nào động đến các ngươi là động đến con ngươi mắt Ta” (câu 12). Hình ảnh này diễn tả tấm lòng thương yêu đặc biệt Chúa dành cho dân lưu đày và cho thấy họ có tầm quan trọng như thế nào đối với Chúa. Thiên Chúa luôn luôn dành tình thương đặc biệt cho những người cô thân cô thế, những kẻ bị áp bức. Dựa trên chân lý này, Hội Thánh nhấn mạnh đến tình thương ưu tiên cho người nghèo.

Phần thứ hai (câu 14-17) trình bày một mạc khải mới bằng ngôn ngữ truyền thống: “Hỡi con gái Sion, hãy vui sướng reo hò, vì này Ta đang đến để ở lại giữa ngươi, sấm ngôn của Đức Chúa” (x. Sophonia 3,14-15). Trong Chúa nhật III Mùa Vọng (năm C), Hội Thánh diễn tả tâm tình này trong bài đọc I để nói lên niềm vui vì ngày giáng sinh của Đấng Mêsia đã gần đến: “Phần tôi, tôi làm phép Rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép Rửa cho anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa” (bài Tin Mừng CN III Vọng, năm C).

Sách Malaki và Gioel

I. SÁCH MALAKI

1. Bối cảnh

Tiên tri Malaki hoạt động vào khoảng năm 450 trước Công nguyên. Khi đó, Đền thờ đã được tái thiết và các sinh hoạt tôn giáo đang được khôi phục. Tuy nhiên có những dấu hiệu tiêu cực trong đời sống đạo của dân chúng. Một số người hoài nghi về quyền năng Thiên Chúa, cho rằng Chúa không đem lại sự thịnh vượng mà các tiên tri loan báo; một số khác tuy vẫn giữ những nghi thức tế tự nhưng chỉ là hình thức bên ngoài. Trong bối cảnh đó, tác giả sách Malaki nhấn mạnh đến tinh thần của giao ước Thiên Chúa đã ký kết với Môsê. Sự trung thành với giao ước phải phát xuất tự tấm lòng và đặt nền trên sự kính trọng yêu thương chứ không phải trên việc tuân giữ các lề luật cách hình thức.

2. Giáo huấn

Tiên tri Malaki trình bày Thiên Chúa như một vị vua vĩ đại và toàn năng, “Từ Đông sang Tây, Danh Ta thật cao cả giữa chư dân” (1,11), nhưng cũng là Đấng chan chứa tình yêu đối với dân: “Ta đã yêu thương các ngươi. Thế mà các ngươi nói: Ngài yêu thương chúng con ở chỗ nào?” (1,2). Có lẽ vì thế mà một số người quan niệm rằng, “Phụng thờ Thiên Chúa thật là viển vông, tuân giữ các lệnh truyền của Đức Chúa và bước đi ủ rũ trước nhan Người, nào có lợi chi?” (3,14). Hoặc vẫn làm việc thờ phượng nhưng chỉ là hình thức bên ngoài đến nỗi Thiên Chúa trách mắng dân vì cung cách thờ phượng của họ: “Khi các ngươi tiến dâng một con vật mù để làm lễ tế, đó chẳng phải là xấu sao? Và khi các ngươi dâng một con vật què hay bệnh tật, đó chẳng phải là xấu sao? Hãy dâng con vật ấy cho tổng đốc của ngươi, liệu nó có bằng lòng với ngươi chăng?” (1,8).

Giáo huấn của tiên tri Malaki vẫn rất cần thiết cho đời sống đức tin của ta ngày nay. Trong đời sống thờ phượng, lễ vật tiến dâng là cách biểu hiện lòng tôn kính của ta đối với Thiên Chúa, vì thế lễ dâng phải là những lễ vật có giá trị. Chúa Giêsu giúp ta hiểu giá trị ở đây không chỉ là giá trị vật chất nhưng là chiều sâu tâm hồn của người hiến dâng. Ngoài ra tiên tri Malaki nhấn mạnh đến việc nộp thuế cho Đền thờ. Đây cũng không chỉ là chuyện đóng góp của cải vật chất nhưng là phương thế giúp ta ý thức mình thuộc về một cộng đồng hiệp nhất, và có trách nhiệm góp phần xây dựng cộng đồng. Vì thế cùng với việc dâng lễ tế là đời sống tốt lành theo ý Thiên Chúa và lề luật của Người, “Hãy trở lại với Ta và Ta sẽ quay lại với các ngươi” (3,7).

II. SÁCH GIOEL

1. Bối cảnh

Không thể xác định rõ tác phẩm này đã được viết vào năm nào. Tuy nhiên phần lớn các nhà nghiên cứu cho rằng sách đã được viết vào khoảng năm 400 trước Công nguyên, sau khi dân Israel hồi hương trở về Giêrusalem.

2. Giáo huấn

Sách Gioel được mở đầu bằng câu chuyện về nạn châu chấu tấn công và con người hoàn toàn bó tay (1,1-4). Câu chuyện này khiến ta liên tưởng đến những khó khăn và thử thách gặp phải trong cuộc đời. Đương nhiên những khó khăn đó gây đau khổ cho con người, nhưng đồng thời cũng có mặt tích cực của nó vì giúp ta ý thức thân phận giới hạn của mình, và biết tìm kiếm sự trợ giúp từ nơi Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu: “Hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm bất bình và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng họa” (2,13).

Tiên tri Gioel cũng nhấn mạnh đến quyền năng Thánh Thần. Trong ngày lễ Hiện Xuống, dưới tác động của Thánh Thần, các tông đồ đã rao giảng Lời Chúa bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Khi có người cho rằng các tông đồ say rượu, thánh Phêrô đã lấy lời của tiên tri Gioel để nói với họ rằng các ngài không say vì mới là giờ thứ ba trong ngày (9 giờ sáng), nhưng đúng hơn, đây là điều tiên tri Gioel đã nói: “Ta sẽ đổ Thánh Thần của Ta trên hết thảy người phàm, con trai con gái các ngươi sẽ trở thành tiên tri, thanh niên sẽ thấy thị kiến, bô lão sẽ được báo mộng.” Quyền năng của Thánh Thần đã được thể hiện tỏ tường nơi các tông đồ, và quyền năng ấy sẽ tiếp tục tỏ hiện trong đời sống Kitô hữu nếu ta mở rộng cánh cửa tâm hồn đón nhận Ngài.

Sách Isaia III
(chương 56-66)

TỔNG QUÁT

isaiah_0Chương 40-55 được viết tại Babylon khi dân Do thái sắp được hồi hương, còn các chương 56-66 được viết sau đó, phản ánh những vấn đề của cộng đồng Do thái thời hậu lưu đày. Vào thời kỳ này, cộng đồng Do thái bao gồm những người từ nơi lưu đày trở về, lại có những người không bị lưu đày và vẫn ở lại quê hương, và cả những người ở lại Babylon chứ không trở về quê nhà. Tình hình xã hội bất ổn và phức tạp, đời sống khó khăn… tất cả đều ảnh hưởng đến đời sống đức tin của dân, nhiều người không còn trung thành với niềm tin truyền thống của cha ông, và việc thờ cúng ngẫu tượng có cơ hội phát triển mạnh.

Có lẽ tác giả của những chương này là các môn đệ của Isaia đệ nhị. Các môn đệ này tạo thành một nhóm đặc biệt trong cộng đoàn thời hậu lưu đày, và họ cho rằng mình có trách nhiệm thực hiện sứ mạng của Người Tôi tớ được nhấn mạnh nhiều trong Isaia đệ nhị.

TIN MỪNG CHO NGƯỜI NGHÈO (61,1-11)

Chương 61 được coi là chương trọng tâm trong Isaia đệ tam. Những câu mở đầu rất giống những bài ca về Người Tôi tớ trong Isaia chương 42 và 49: “Thần Khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi…” Nhà tiên tri xem mình là người thi hành sứ mạng của Người Tôi tớ. Các tù nhân ở đây là những người bị lưu đày bên Babylon. Năm hồng ân là năm sabát, theo truyền thống là năm tha nợ và giải thoát nô lệ (x. Đnl 15, so sánh với Lêvi 25). Việc xức dầu ở đây có lẽ mang tính hình tượng, vì thông thường các tiên tri không được xức dầu, dù 1V 19,16 kể rằng Elia đã xức dầu cho Elisê.

Trong văn mạch của Isaia đệ tam, bản văn này làm nổi bật mối quan tâm đối với người nghèo, mối quan tâm đã được nhấn mạnh trong chương 58 và 59. Tuy nhiên tầm quan trọng của bản văn này vượt qua khung cảnh lịch sử, và được coi như bản tóm tắt về sứ mạng của mọi môn đệ trong mọi thời đại. Trong Phụng vụ Lễ Dầu vào Thứ Năm Tuần Thánh, cùng với bản văn này, Hội Thánh công bố Tin Mừng Luca 4,17-19, kể lại việc Chúa Giêsu vào hội đường Nadarét, đọc bản văn này trước cộng đoàn và công bố, “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh anh chị em vừa nghe.”

Mỗi người Kitô hữu cũng có thể đọc và suy niệm bản văn này từ hai góc độ: góc độ của người nghèo đón nhận Tin Mừng, và góc độ của sứ giả loan báo Tin Mừng. Từ góc độ của người nghèo, chỉ khi nào ta đủ khiêm tốn để nhận ra tình trạng nghèo nàn của mình trong đời sống tâm linh, bị giam cầm trong ngục tù tội lỗi, và tâm hồn tan nát vì khổ đau… lúc ấy ta mới khám phá Lời Chúa thực sự là Tin Mừng cho chính mình. Từ góc độ sứ giả loan báo Tin Mừng, bản văn này giúp ta ý thức lại sứ mạng của người Kitô hữu, sứ mạng tiên tri, sứ mạng công bố ơn tha thứ và ơn hoà giải của Thiên Chúa cho mọi người chúng ta gặp gỡ.

TỐ CÁO HÀNG NGŨ LÃNH ĐẠO
(56,9 – 57,21)

Các nhà chú giải không hoàn toàn nhất trí về nguồn gốc và ý nghĩa của bản văn này. Một số học giả cho rằng bản văn này đã có từ trước lưu đày vì giống những lời sấm trước lưu đày chống lại việc thờ ngẫu tượng. Nhưng những học giả khác lại cho rằng bản văn nhắm đến hàng ngũ lãnh đạo thời sau lưu đày.

Rõ ràng bản văn lên án những người lãnh đạo lúc đó bằng những từ hết sức mạnh mẽ như “đui mù,” “chó câm,” “chó đói”: “Những người canh gác Israel đui mù hết, chẳng hiểu biết gì; cả bọn chúng là lũ chó câm, không biết sủa… lũ chó đói, ăn chẳng biết no… Thế mà chúng lại là mục tử, mục tử chẳng biết phân biệt gì.” Những từ ngữ trên mang tính cực đoan nhằm diễn tả tình trạng tồi tệ lúc đó. Những hình ảnh mà bản văn sử dụng để nói về các nhà lãnh đạo như “người canh gác” (Ez 3,17; 33,1-9), “mục tử” (Ez 34), giúp người đọc đối chiếu trách nhiệm của người lãnh đạo tôn giáo và thực trạng đang diễn ra.

Bản văn này không chỉ là lời tố cáo hàng ngũ lãnh đạo đương thời nhưng còn là lời cảnh giác đối với tất cả những ai có trách nhiệm lãnh đạo trong Giáo Hội. Nhà lãnh đạo phải là người canh gác cho dân để phát hiện những mối nguy hiểm đang rình rập và gây nguy hại cho đời sống tinh thần của dân. Nhà lãnh đạo phải là người dám nói lên tiếng nói của sự thật và lên án những gian dối; nếu không, họ sẽ bị kết án là “chó câm”! Nhà lãnh đạo phải là người biết quên mình để phục vụ hạnh phúc của dân chứ không thể lợi dụng dân mà thoả mãn bản thân; bằng không họ chỉ là “chó đói.”

Sách Dacaria II

***

Prophet_Isaiah-797x945I. TỔNG QUÁT

Sách Zacaria không cho biết tên tác giả. Mặc dù những phát hiện tại Qumran cho thấy không có sự phân chia giữa Zacaria 1-8 và 9-14 (tức là Zacaria I & II), các học giả ngày nay vẫn cho rằng đây là hai phần tách biệt dựa vào những khác biệt về nội dung, văn phong, và từ vựng. Về nội dung, Zacaria I quan tâm đến việc tái thiết đền thờ, các khuôn mặt lịch sử, và các lời sấm được xác định về thời gian; còn Zacaria II lại quan tâm đến án xử của Thiên Chúa và những lời hứa mang tính cánh chung. Về văn phong, Zacaria là tuyển tập chín thị kiến và những lời giải thích được viết như thơ; còn Zacaria II là một chuỗi những lời sấm quy chiếu về các tiên tri thời trước. Về từ vựng, Zacaria I bắt đầu bằng công thức truyền thống của các tiên tri, còn Zacaria lại bắt đầu hai phần lớn trong sách bằng câu “Lời sấm: Lời của Đức Chúa…” (9,1; 12,1).

Chúng ta cũng không có được những chi tiết xác định thời gian tác phẩm được biên soạn. Tuy nhiên các học giả dựa vào một số điểm để xác định thời gian biên soạn: (1) việc sử dụng các lời tiên tri trước và trong thời lưu đày (Isaia, Hôsê, Giêrêmia, Ezekiel, Gioel); (2) một vài ám chỉ đến những biến cố xảy ra sau năm 333 trước Công nguyên (x. chương 9); (3) văn phong và nội dung mang tính cánh chung, đặc biệt chương 14, gợi ý về thời kỳ sau khi mới từ lưu đày trở về. Dựa vào những chi tiết trên, các học giả cho rằng sách Zacaria II đã được biên soạn sau cuộc chinh phục của Alexander đại đế (năm 333 trước CN) và trước năm 200 trước Công nguyên.

Zacaria II được chia thành hai phần chính:
– Phần I: Án xử của Thiên Chúa (9,1 11,17)
– Phần II: Phục hưng (12,1 – 14,21)

II. CHÂN DUNG ĐẤNG MÊSIA

Từ Mêsia trong tiếng Do thái được dịch sang tiếng Hi Lạp là Christos (tiếng Việt là Kitô), có nghĩa là Đấng-được-xức-dầu. Sách Zacaria II trình bày dung mạo Đấng Mêsia đích thực, và chân dung này sẽ được thể hiện trọn vẹn nơi Chúa Giêsu.

Đấng Mêsia là Đức Vua nhưng không phải vị vua theo quan niệm quen thuộc của người đời. Người là vị vua khiêm tốn, khó nghèo: “Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng chính trực, Đấng toàn thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (9,9). Chính vị vua khiêm tốn và nghèo khó đó sẽ “công bố hoà bình cho muôn dân, thống trị từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng cõi đất” (9,10).

Thế nhưng Đấng Mêsia lại bị dân Chúa ruồng bỏ và giết hại như hình ảnh Người Tôi tớ trong sách Isaia, để rồi họ khám phá ra chính Người là nguồn Ơn Cứu độ: “Chúng sẽ ngước nhìn lên Ta. Chúng sẽ khóc than Đấng chúng đã đâm thâu, như người ta khóc than đứa con một. Chúng sẽ thương tiếc như người ta thương tiếc đứa con đầu lòng…. Ngày ấy, một dòng suối sẽ vọt ra cho nhà Đavít và dân cư Giêrusalem để tẩy trừ tội lỗi và ô uế” (12,10 – 13,1).

III. SÁCH ZACARIA II TRONG CỬ HÀNH PHỤNG VỤ

Trong Phụng vụ Mùa Vọng, vào Chúa nhật Hồng giữa mùa Tím, Hội Thánh mượn lời của Zacaria II mà hát lên niềm vui của mình: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi” (9,9). Lễ Giáng sinh đang đến gần, Chúa Kitô sắp được sinh ra, lấp đầy những khát vọng sâu xa nhất của lòng người.

Trong Phụng vụ Mùa Chay, vào ngày Lễ Lá, khi tưởng niệm việc Chúa Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem và được mọi người tung hô chào đón, Hội Thánh lại lấy lời của Zacaria II mà nhắc nhớ: “Đức Vua khiêm tốn, ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (9,10). Quả là một hình ảnh khiêm tốn, và hình ảnh ấy là luồng ánh sáng soi chiếu suốt hành trình Tuần Thánh, ở đó chúng ta chiêm ngắm Vua Giêsu hấp hối trong vườn Dầu, bị bắt bớ và đánh đập dã man, bị kết án và vác thập giá lên đồi Canvê, cuối cùng bị đóng đinh vào thập giá, một hình khổ chỉ dành cho quân trộm cướp và phản loạn vào thời đó. Nhưng chính Vua Giêsu đó là Đấng mà người ta phải ngước nhìn và than khóc (12,10). Cũng từ cạnh sườn vua Giêsu ấy, một dòng nước và máu sẽ chảy ra, dòng nước thanh tẩy mọi tội lỗi và ô uế, dòng nước ban tràn đầy ân sủng. Thánh Gioan đã ghi lại thật vắn tắt nhưng cũng thật phong phú ý nghĩa: “Một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì máu cùng nước chảy ra. Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin… Có lời Kinh Thánh chép rằng: Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19,34-37).

Sách sử biên niên I & II
***

King3I. TỔNG QUÁT

Các học giả cho rằng sách Sử biên niên I & II là sách viết lại lịch sử Israel từ quan điểm của các tư tế thời hậu lưu đày. Các học giả cũng đồng ý rằng hai sách này được viết lịch sử trong sách Đệ nhị luật, và có lẽ được biên soạn sau khi những người lưu đày đã trở về Giuđa. Nói chung, sách bàn đến những vấn đề liên quan đặc biệt đến các tư tế, bao gồm việc giữ ngày sabát, những chỉ dẫn về nghi lễ, những vật dụng dùng trong Đền thờ và những điều tương tự. Tại sao sách lại nhấn mạnh những điều này?

Dân được Chúa tuyển chọn, dân có Chúa là vua và là chiến binh (x. Xh 15,3,18), dân đã được lãnh nhận lời hứa về đất đai và sự sung túc mầu mỡ… dân ấy hiện nay ra sao? Thưa là một dân đã mất chủ quyền dân tộc. Những lời hứa tốt đẹp đã thuộc về quá khứ, còn hiện tại chỉ là sự thống trị của đế quốc Ba Tư. Vậy nếu có cái gì đó để dựa vào mà hi vọng cho tương lai, thì cái gì đó chỉ có thể là chính căn tính của Israel xét như là dân của Chúa. Chính vì thế, cần nhấn mạnh đến sự hiện diện của Chúa ở giữa dân. Chính vì thế, cần nhấn mạnh đến Đền thờ cũng như các tư tế của Chúa. Hiểu như thế, sách Sử biên niên là lời an ủi và khích lệ dành cho dân: mọi sự không phải đã mất hết. Họ vẫn là dân của Chúa, và chính ở đó mà tương lai rộng mở.

Mặc dù được viết theo lịch sử trong sách Đệ nhị luật, tác giả sách Sử biên niên có những điểm nhấn khác, đặc biệt là khi nói đến các vua của Giuđa. Đavít và Salomon được đề cao tối đa. Khi kể về Đavít, tác giả không nói đến chuyện gian dâm với bà Bathsêba, không có lời tiên tri kết án vua, không có chuyện con trai phản nghịch vua cha, cũng không có âm mưu ám hại vua. Nghĩa là tác giả muốn trình bày Đavít như một vị vua lý tưởng. Về Salomon cũng thế. Không thấy tác giả nói đến việc Salomon có 700 bà vợ ngoại giáo, từ đó dẫn đến việc thờ các thần ngoại giáo. Cũng giống như vua cha, Salomon được trình bày như một tín hữu tuyệt đối trung thành với Thiên Chúa. Lý do là vì tác giả muốn trình bày một quá khứ thật tốt đẹp, và đó là nền tảng cho hi vọng vào tương lai. Những người dân thời hậu lưu đày cần nhìn lại quá khứ để học bài học trung tín với Thiên Chúa của giao ước.

Vì chỉ đọc sách Sử biên niên I & II trong một tuần, nên cần có cái nhìn tổng quát về nội dung :

SỬ BIÊN NIÊN I

Phần I Các bản gia phả ((1,1 – 9,34)
Phần II Lịch sử vua Đavít (9,35 – 29,29)

SỬ BIÊN NIÊN II

Phần I Triều đại của Salomon (1,1 – 9,31)
Phần II Thời quân chủ trước vua Hezekia (10,1 – 27,9)
Phần III Cuộc cải cách của Hezakia và Giosia (28,1 – 36,1)
Phần IV Chấm dứt vương quốc (36,2-23)

II. GIÁO HUẤN

Tác giả viết lại lịch sử Israel từ quan điểm tôn giáo: đòi hỏi phải trung thành với Giavê, với những lề luật của giao ước, với Lời Chúa được các tiên tri loan báo. Bất trung sẽ dẫn đến án phạt, và cuối cùng là Đền thờ bị phá huỷ, mất quê hương và lưu đày. Không có vị vua nào là tối cao cả. Chính Giavê là vua. Vua Đavít cũng như các vị vua kế vị ông sau này chỉ là những đại diện của Thiên Chúa mà thôi chứ không là gì khác, và một vị vua nhân loại chỉ trung thành với Chúa khi tuân giữ giao ước và lời Chúa phán qua các tiên tri. Cũng vì thế, sách nhấn mạnh đến Đền thờ hơn là nhà vua, và cho rằng vua có trách nhiệm phải sửa sang Đền thờ và canh tân đời sống thờ phượng vì Thiên Chúa ở trong Đền thờ mang thánh danh Người.

Theo tác giả, nếu không biết lịch sử, sẽ lại vướng vào những sai lầm của quá khứ. Vì thế ông viết lại lịch sử để những người sống trong hiện tại và tương lai có thể rút ra được những bài học hữu ích từ đó. Cũng vì thế, những gì tác giả trình bày là những sự kiện, nhưng cũng là những “giải thích thần học” về sự kiện. Nếu dân không muốn một tương lai u ám, bị kết án và lưu đày, thì phải tôn thờ Chúa cho nghiêm túc, cụ thể là vâng phục và trung thành với giao ước.

Những bài học lịch sử này không chỉ cần thiết cho dân Chúa sau thời lưu đày, nhưng còn là dịp cho dân Chúa ngày nay suy nghĩ về đời sống Giáo Hội.

Sách Châm Ngôn, chương 1-15
***

proverbsI. TỔNG QUÁT

1. Văn loại

Sách Châm ngôn sử dụng hai thể văn: châm ngôn và giáo huấn. Đặc tính của thể văn châm ngôn là (1) ngắn gọn, (2) khôn ngoan, (3) dễ nhớ, (4) phát xuất từ kinh nghiệm, (5) trình bày chân lý phổ quát, (6) nhằm mục đích thực hành, (7) có giá trị lâu dài. Các châm ngôn thường được trình bày do những tác giả khuyết danh, như những bài học thế hệ trước để lại cho thế hệ sau. Thể văn giáo huấn (các chương 1-9; 22,17 – 24,23): được trình bày như di sản người cha để lại cho con cái, với những huấn lệnh và những lý do giải thích tại sao phải vâng theo.

2. Mục đích

Sách Châm Ngôn nhấn mạnh đến cả hai mặt: tri thức và đạo đức. Văn hoá của Israel cổ xưa xem “tâm” như là nguồn của suy nghĩ, lý luận và quyết định; do đó những giáo huấn trong sách Châm Ngôn nhắm đến “tâm” chứ không chỉ là trí theo quan niệm ngày nay. Nếu sách Châm Ngôn nhấn mạnh suy nghĩ như là chìa khoá của hiểu biết, thì suy nghĩ ở đây không chỉ được nhìn thuần túy là tư tưởng trừu tượng nhưng phải được thể hiện và đánh giá trong đời sống cụ thể. Vì thế, khía cạnh tri thức luôn song hành với khía cạnh đạo đức. Cách nhìn này khá gần gũi với truyền thống văn hoá Việt Nam.

3. Thần học của sách Châm Ngôn

Những tư tưởng trọng tâm trong sách Châm ngôn là lý tưởng về đời sống gia đình và lòng hiếu thảo, sự chân thật và ngay chính, quan tâm đến người nghèo, tự chủ và kềm hãm các đam mê. Nguồn gốc và tóm kết của tất cả các nhân đức này là sự khôn ngoan, hiểu như sự kính sợ Chúa và tin tưởng nơi một mình Chúa. Aån bên trong những lời khuyên này là niềm xác tín rằng sự ác không thể được dung thứ trong trật tự của Thiên Chúa. Chương 1-9 đồng hoá đức khôn ngoan với chính quyền bính của Thiên Chúa. Vì thế, những người trung tín sẽ được chúc phúc và những kẻ bất tín sẽ bị nguyền rủa.

4. Các phần chính trong sách Châm Ngôn

– Phần I: Những giáo huấn về khôn ngoan
(1,1– 9,18)
– Phần II : Các châm ngôn của Salomon
(10,1– 22,16)
– Phần III: Ba mươi lời của hiền nhân (22,17 – 24,22)
– Phần IV: Sưu tập của Hezekiah (25,1 – 29,27)
– Phần V: Các lời của Agur và Lemuel (30,1 – 31,31)

II. ĐỨC KHÔN NGOAN

1. Giá trị của đức khôn ngoan

Mọi hiểu biết và phúc lành đều từ Thiên Chúa mà đến. Khôn ngoan là quà tặng của Thiên Chúa chứ không chỉ là sản phẩm của trí khôn nhân loại. Nói như thế không có nghĩa là khinh thường những nỗ lực tìm kiếm và nghiên cứu nhưng để thấy đâu là điều chính yếu (2,1-11).

Đức Khôn Ngoan được nhân cách hoá (8,12-16) và đã hiện diện trước nhan Thiên Chúa như mẫu mực trong ngày Chúa tạo dựng thế giới. Trong Tân Ước, Chúa Giêsu được coi là sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa (x. Mt 11,19tt; Lc 11,49; 1Cor 1,24-30).

Khởi điểm của sự khôn ngoan là lòng kính sợ Chúa (1,7) và trung thành với Chúa (9,1-18). “Đừng khinh thường sự sửa trị của Giavê và đừng nhàm chán lời Người quở mắng. Bởi Giavê quở mắng kẻ Người thương mến, như người cha quở mắng đứa con ông yêu dấu” (3,12).

2. Những lời cảnh giác

– Cảnh giác trước đường lối của kẻ vô đạo (2,12-15) từ tư tưởng đến lời nói:
“Con sẽ bước đi trong đường kẻ lành,
con sẽ giữ nẻo người công chính.
Người ngay chính sẽ ở trong xứ sở…
còn phường gian ác sẽ bị tiễu trừ khỏi xứ sở.”
– Cảnh giác trước những phụ nữ lăng loàn (5,1-18):
“Môi miệng vợ người khác tiết ra mật ngọt,
và lời của nó trơn tru hơn dầu;
nhưng rốt cuộc nó đắng hơn khổ ngải, và sắc như gươm hai lưỡi.
Chân nó bước vào cõi chết, và bước đi đạt thấu âm phủ;
nó chẳng màng tới đường sự sống, lạc đường lạc lối nó nào có hay.”

Sách Châm Ngôn

(chương 16-31)

—o0o—

king-solomon-800px-Sheba_deminI. CHÂM NGÔN CỦA SALOMON (10,1 – 22,16)

1. Tổng quát

Đây là phần dài nhất trong sách Châm Ngôn, gồm 375 câu châm ngôn nói về mọi mặt của đời sống. Những câu châm ngôn này được gán cho vua Salomon. Những câu châm ngôn liên quan đến cùng một đề tài không được sắp xếp thành một phần riêng nhưng rải rác nhiều nơi. Tuy nhiên cũng có một số phần khá rõ: chương 10-15 chủ yếu là những châm ngôn bàn về sự đối kháng giữa người công chính và kẻ tội lỗi. Chương 16-22 có nhiều lời khuyên cụ thể về sự thành công. Những gợi ý tiếp theo sẽ tập trung vào một vài đề tài đáng được quan tâm.

2. Thiên Chúa và sự khôn ngoan của con người (16,1-15)

Những châm ngôn của Salomon được ghi lại từ chương 10-22, nhưng 15 câu đầu trong chương 16 (16,1-15) là trung tâm điểm. Những câu này bàn đến mối tương quan giữa sự khôn ngoan nhân loại và Thiên Chúa. Thiên Chúa điều khiển mọi khía cạnh của đời sống cũng như những tính toán của con người.

– Câu 1 xác quyết chính Thiên Chúa đóng vai trò quyết định:

“Những mưu tính lòng dạ là của con người,
nhưng câu trả lời đến từ Giavê.”

– Câu 2 và 3 khai triển xác quyết trên: chỉ khi nào để cho Thiên Chúa điều khiển thì dự định của con người mới thành công:

“Hãy phú cho Giavê mọi công trình của ngươi,
và mọi dự tính của ngươi sẽ được thực hiện.”

– Câu 5-8 liệt kê những thái độ phải có: khiêm tốn thay vì kiêu ngạo, sống trung tín và tín nghĩa, lánh xa sự dữ dù phải chịu thiệt thòi.

– Câu 9 tóm kết xác tín:

“Lòng người suy tính về đường mình đi,
nhưng chính Giavê cho bước chân nên mạnh.”

Những câu châm ngôn này có ý nghĩa gì cho kinh nghiệm sống đức tin của tôi?

3. Tầm quan trọng của lời nói (18,1-24)

Trong truyền thống trí thức của vùng Cận Đông, lời nói đóng vai trò hết sức quan trọng. Lời nói vừa là khí cụ xây dựng lại vừa là phương thế hủy diệt.. Trong phần Châm Ngôn của Salomon, có khá nhiều câu bàn về lời nói:

– Tai hại của những lời nói “ngu xuẩn”:

“Môi miệng người ngu xuẩn đưa đến kiện tụng
và miệng nó kêu gọi roi vọt” (18,6)

“Miệng người ngu là sự đổ vỡ của nó
và môi miệng nó là cạm bẫy cho mạng sống của nó” (18,7)

“Kẻ trả lời trước khi nghe,
chuốc lấy điên dại và thẹn thùng” (18,13)

Chết và sống đều do cái lưỡi
Những kẻ yêu mến nó sẽ được ăn hoa quả của nó” (18,21)

– Khi được sử dụng đúng cách, lời nói là sức mạnh của người khôn ngoan:

Lời có thể thay đổi con người:

“Người vứt bỏ lời sửa trị tự coi nhẹ mình,
người nghe lời quở mắng tích lũy thêm hiểu biết” (15,32)

Lời có thể chữa lành:

“Lời nói không suy xét đâm thủng như lưỡi kiếm,
những lưỡi người khôn ngoan làm lành vết thương” (12,18)

Phải biết tự chế trong lời nói:

“Kẻ giữ miệng, giữ được sự sống,
người môi toác hoác đến chỗ diệt vong” (13,3)

“Kẻ biết giữ miệng là người hiểu biết,
người bình tĩnh là người thông hiểu” (17,28)

– Thánh Giacôbê Tông đồ cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng đặc biệt của lời nói: “Ai không sa ngã trong lời nói, ấy là người hoàn hảo, có khả năng kềm chế toàn thân…Ta dùng lưỡi mà chúc tụng Chúa là Cha chúng ta, ta cũng dùng lưỡi mà nguyền rũa những con người đã được làm ra theo hình ảnh Thiên Chúa. Từ cùng một cái miệng, phát xuất lời chúc tụng và lời nguyền rủa. Thưa anh em, như vậy thì không được” (3,2-10).

Kết luận:

Sách Châm Ngôn được gán cho vua Salomon. Chắc chắn có nhiều câu châm ngôn trong sách phát xuất từ vị vua nổi tiếng khôn ngoan này; tuy nhiên sách này đúng ra là một sưu tập nhiều giáo huấn và châm ngôn từ nhiều thời đại. Như thế sách này chứa đựng kho tàng minh triết của nhân loại. Điều quan trọng là không chỉ đọc thoáng qua nhưng nên tập trung vào một lời nào đó, rồi suy nghĩ và đối chiếu với kinh nghiệm đời sống của mình. Có như thế, giáo huấn của sách này mới thực sự mang lại ích lợi cho ta, không những về mặt thiêng liêng mà ngay cả về mặt nhân bản cũng như trong những quan hệ xã hội hằng ngày.

SÁCH GIÓP
(chương 1-21)

***

JobI. TỔNG QUÁT

Tại sao người công chính và vô tội lại phải chịu đau khổ? Thiên Chúa có công bằng không khi để xảy ra nghịch lý đó? Con người ở thời đại nào cũng phải đối diện với vấn nạn này, thường được gọi là vấn nạn về sự dữ, và đây cũng là chủ đề chính của sách Gióp.

1. Bối cảnh

Sách Gióp được viết cách đây khoảng 2500 năm trong bối cảnh tôn giáo và văn hoá đặc thù của dân Israel. Nền văn hoá lúc đó là văn hoá bộ tộc. Trong nền văn hoá này, người ta nhấn mạnh đến sự phát triển dòng tộc cũng như đất đai của cải, đồng thời hi vọng sẽ tiếp tục tồn tại nơi con cháu của mình (chưa có khái niệm về đời sống sau khi chết). Đồng thời người ta xem trọng vinh dự về mặt xã hội: “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp.” Về mặt tôn giáo, sách Gióp thuộc thể loại văn chương Khôn Ngoan, tin tưởng chắc chắn rằng sống công chính và khôn ngoan sẽ đem đến phúc lộc dồi dào, cụ thể nhất là con đàn cháu đống và làm ăn thịnh vượng.

2. Nội dung tổng quát

I. Phần mở đầu (1,1 – 2,13):
Ông Gióp mất tất cả. Ba người bạn đến khuyên nhủ.

II. Đối thoại (3,1 – 31,40):
Sau khi nghe ông Gióp than thở về số phận hẩm hiu của mình, ba người bạn lên tiếng biện hộ cho Chúa. Họ tranh luận với nhau qua ba diễn từ cho đến khi ông Gióp kết thúc bằng lời thề nguyền vô tội.

III. Diễn từ của Elihu (32,1 – 37,24):
Một người trẻ với những lời lẽ mới mẻ và nâng đỡ.

IV. Diễn từ của Đức Chúa (38,1 – 42,6):
Thiên Chúa lên tiếng qua hai diễn từ dài và dồn ông Gióp vào thế thinh lặng.

V. Phần Kết (42,7-17):
Cơ nghiệp của ông Gióp được phục hồi và sống hạnh phúc mãi mãi.

II. PHẦN MỞ ĐẦU (1,1 – 2,13)

1. Cảnh I (dưới đất) (1,1-5)

Tên ông Gióp có nghĩa là “Chúa của tôi ở đâu?” Ông là mẫu người đạo đức và công chính, kính sợ Chúa. Trong văn chương khôn ngoan, kính sợ Chúa được coi là khởi điểm và cốt lõi của khôn ngoan (Cn 1,7; 9,10). Vì thế ông được chúc phúc, con cái đề huề, của cải sung túc.

2. Cảnh II (trên trời) (1,6-12)

Đức Chúa được mô tả như một vị vua ở phương Đông, với “con cái” vây quanh. Trong các thần thoại ngoại giáo, “con cái” là những vị thần cấp thấp hơn, nhưng trong Thánh Kinh, chúng được coi là những tôi tớ hầu cận Đức Chúa (x. 1V 22,19-23). Satan cũng có mặt ở đó. Satan cho rằng Gióp sống đạo đức chỉ vì được lợi lộc. Nếu Gióp mất hết của cải thì hắn sẽ nói gì về Thiên Chúa? Sau đó, Satan được phép đi thử thách Gióp.

3. Cảnh III (dưới đất) (1,13-22)

Toàn bộ cơ nghiệp, của cải và cả con cái của ông Gióp bị tiêu tan trong giây lát. Những sức mạnh hủy diệt ở đây có cả thiên tai (lửa, cuồng phong) và nhân tai (dân Sabean và Chaldean). Tuy nhiên Satan phải thất vọng vì dù mất tất cả, ông Gióp vẫn một niềm tin tưởng, chúc tụng tôn vinh Danh Chúa (1,20-21).

4. Cảnh IV (trên trời) (2,1-6)

Câu 3b quan trọng nhất vì xác định không có mối liên hệ nào giữa đời sống đạo đức của Gióp và những đau khổ ông phải chịu. Satan vẫn chưa chịu đầu hàng. Nó đòi hỏi tiếp tục thử thách Gióp.

5. Cảnh V (dưới đất) (2,7-13)

Gióp phải chịu thứ ung nhọt khủng khiếp. Bây giờ không còn là những đau khổ bên ngoài nhưng ngay trong chính thân xác ông. Thêm vào đó, vợ của ông vào cuộc, lên tiếng nguyền rủa ông. Nhưng ông Gióp vẫn kiên vững trong đường lối của mình. Ba người bạn của ông Gióp xuất hiện để an ủi và nâng đỡ ông, và “họ ngồi xuống đất, bên cạnh ông, suốt bảy ngày đêm, chẳng nói với ông một lời, vì họ thấy rằng nỗi đau khổ của ông quá lớn” (2,13).

III. LỜI THAN VAN CỦA ÔNG GIÓP (3,1-26)

Than van là tiếng kêu đau đớn phát xuất cách tự nhiên từ trái tim con người khi cuộc đời bị tràn ngập khổ đau và đổ vỡ.

1. Nguyền rủa cả ngày và đêm (3,3-10)

Gióp không nguyền rủa Thiên Chúa nhưng nguyền rủa “ngày chào đời” và đêm báo thụ thai.” Tiên tri Giêrêmia từng mang tâm trạng như thế (20,14-18).

2. Mong được chết (3,11-19)

“Sao tôi không chết đi lúc vừa mới chào đời?” “Mong chết mà không được, tìm cái chết hơn tìm kho báu”. Trong những lời than vãn của ông Gióp, lưu ý hai đặc điểm: sử dụng nhiều lần từ “tại sao” (đây là tiếng kêu đau khổ hơn là tìm kiếm trí thức) và “tôi” (nhấn mạnh kinh nghiệm cá nhân).

3. Mong được giải thoát khỏi Chúa (3,20-26)

Gióp mô tả bản thân ông là người “bị Thiên Chúa giam hãm tư bề.” Với dân Israel, Thiên Chúa là Đấng giải thoát họ khỏi sự chết, còn ở đây Gióp lại cầu mong cái chết giải thoát ông khỏi bàn tay của Chúa! Thật là oái oăm nhưng ở đó diễn tả nỗi đau cùng cực của người mà “bánh ăn chỉ là tiếng nức nở, và tiếng gào thét tựa nước lũ ngập tràn.”

IV. ĐỘC THOẠI CỦA ÔNG GIÓP (29,1 – 31,37)

Trong những chương trước, bạn bè của ông Gióp cho rằng ông có tội nên mới bị trừng phạt, và ông Gióp phủ nhận lời kết án đó. Tuy nhiên những lời kết án cũng như phản ứng của ông Gióp chỉ được trình bày cách chung chung, còn trong 29,1 – 31,37, ông Gióp trả lời đầy đủ hơn, qua đó thấy được nỗi lòng của ông, một người vô tội mà phải chịu đau khổ.

1. Nhớ lại những ngày xưa tháng cũ (29,1-25)

Gióp nhắc lại những tháng ngày tràn ngập phúc lành của Chúa: mùa màng tươi tốt, con cái quây quần. Đặc biệt là ông được mọi người kính trọng: “Họ nghe tôi nói và chờ đợi, chăm chú theo dõi ý kiến của tôi” (câu 21), “Tôi vẽ đường chỉ lối và hướng dẫn họ, sống với họ như vua ở giữa ba quân, như người ủi an giữa những kẻ ưu sầu” (câu 25). Đời sống đạo đức của ông được thể hiện qua cách đối xử của ông với mọi người: người nghèo khổ, kẻ mồ côi goá bụa, người lâm cơn hấp hối…

2. Than thở nỗi khốn cùng hiện tại (30,1-31)

Thay cho sự giàu sang danh giá khi xưa là sự khinh miệt của người đời (1-15). Gióp quay ra than phiền Chúa: “Con kêu lên Ngài nhưng Ngài không đáp, con trình diện Ngài nhưng Ngài chẳng lưu tâm” (câu 20). Điều trớ trêu là khi người khác lâm cảnh khốn cùng thì ông Gióp đưa tay nâng đỡ, còn bây giờ khi ông lâm cảnh khổ đau, có ai nâng đỡ? (câu 24-31).

3. Lời thề vô tội (31,1-40):

Ông Gióp liệt kê chín điểm trong đời sống luân lý để tự biện cho sự vô tội của ông. Chín điểm này bao trùm mọi mối quan hệ trong cuộc sống con người: với Thiên Chúa, với chính mình, với tha nhân, với cả môi trường thiên nhiên.
– Không đồng hành cùng gian dối (câu 5-8)
– Không khai thác đất đai quá mức (38-40)
– Không gian dâm ngoại tình (9-12)
– Không chà đạp quyền lợi của người tôi tớ (13-15)
– Không cứng lòng trước người đau khổ (16-23)
– Không chạy theo các ngẫu tượng (24-28)
– Không thù ghét địch thù (29-30): một thái độ rất đáng phục
– Lòng hiếu khách (31-32)
– Ngay thẳng và chính trực.

Sách Gióp

chương 22 – 42
***

job (1)I. THIÊN CHÚA LÊN TIẾNG (38,1 – 42,6)

Thiên Chúa trả lời những vấn nạn của ông Gióp qua hai diễn từ :

1. Diễn từ thứ nhất (38,1 – 40,2)

Thiên Chúa tra vấn Gióp về những kỳ công của công trình tạo dựng, biểu lộ sự khôn ngoan và quyền năng của Ngài: đặt nền móng cho trái đất (câu 4-7), vạch ranh giới cho đại dương (8-11), điều hành ánh sáng cho vũ trụ (12-15). Tiếp đó Thiên Chúa nói đến những điều kỳ diệu trong vũ trụ, cụ thể là hiện tượng thời tiết (22-30) và thế giới động vật (38,39 – 39,30). Tất cả chứng tỏ rằng Thiên Chúa không chỉ tạo dựng vũ trụ mà còn tiếp tục bảo tồn vũ trụ bằng sự quan phòng của Người. Diễn từ này nhằm trả lời vấn nạn của Gióp cho rằng không hề có kế hoạch, định hướng hay sự quan phòng nào trong thế giới này (38,2).

2. Diễn từ thứ hai (40,6 – 41,26)

Xem ra ông Gióp đã muốn lên án Thiên Chúa để biện hộ cho sự vô tội của mình. Nhưng có thực sự cần phải làm như thế không (40,8)? Diễn từ nhắc tới hai con thú Behemoth và Leviathan. Các học giả cho rằng đây là hà mã và giao long. Tuy nhiên điều quan trọng hơn là hai con thú này tượng trưng cho sự hỗn mang thuở đầu tạo dựng. Thiên Chúa hỏi Gióp xem liệu ông có chế ngự được sự hỗn mang đó không? Những lời chất vấn của Thiên Chúa đưa ông ra khỏi nỗi đau của bản thân để mở rộng tầm nhìn đến toàn thể vũ trụ, khám phá sự khôn ngoan và quyền năng Thiên Chúa bao trùm tất cả.

II. ĐOẠN KẾT (42,7-17)

Chúa trách mắng những người bạn của ông Gióp vì đã nói về Ngài không đúng. Họ chỉ nói về Thiên Chúa từ nhãn quan chật hẹp của họ. Đồng thời Chúa khôi phục tài sản cho ông Gióp và phúc lành của Người chan chứa trên ông.

III. Ý NGHĨA CỦA SÁCH GIÓP

1. Vấn đề người vô tội phải chịu đau khổ

Đau khổ là chủ đề chính trong những cuộc tranh luận giữa ông Gióp và bạn hữu ông. Họ khẳng định rằng đau khổ là hình phạt của tội (x. 4,7-9; 8,20; 11,4-6). Khi Gióp phủ nhận khẳng định này trong trường hợp của ông thì họ trả lời: “Trước nhan Thiên Chúa, phàm nhân cho mình là công chính thế nào được! Và đứa con do người phụ nữ sinh ra, làm sao dám coi mình là thanh sạch?” (25,4-6; 14,1-4; 15,14). Tóm lại là không thể có chuyện người vô tội phải chịu đau khổ. Thế nhưng thực tế phức tạp hơn nhiều, và đã có những câu trả lời khác trong sách Gióp. Đau khổ là một huyền nhiệm và chúng ta là ai mà có thể hiểu được đường lối của Thiên Chúa (11,7-10; 15,8-9; 42,3). Đau khổ là phương thế Chúa dùng để giáo huấn ta và làm cho ta nên tốt hơn (5,17-18; 36,15). Thiên Chúa cho phép đau khổ xảy ra để thử thách đức độ của người công chính (chương 1-2). Những câu trả lời trên làm nổi bật hai điều: một bên là sự vô tội của con người và một bên là sự công chính của Thiên Chúa. Bạn hữu của ông Gióp cũng như chính ông đều nhấn mạnh đến sự công chính của Thiên Chúa. Bạn hữu ông nhấn mạnh điều này vì đó là cách giải thích truyền thống. Còn ông Gióp nhấn mạnh điều này vì đó là nền tảng để ông dựa vào mà kêu xin Thiên Chúa lắng nghe và phán xử cho ông.

Cho dù đau khổ được xem như chủ đề lớn của sách Gióp, thực ra đây không phải là vấn đề chính. Bởi lẽ người đọc đã biết ngay từ đầu rằng đau khổ mà ông Gióp phải chịu là để thử thách chứ không phải hình phạt: “Có phải Gióp kính sợ Thiên Chúa mà không cầu lợi chăng?” (1,9). Đàng khác nếu coi đau khổ là chủ đề chính thì xem ra vấn đề vẫn không được giải quyết, kể cả câu trả lời của Chúa xem ra cũng chẳng soi sáng gì hơn.

2. Huyền nhiệm đau khổ và mối tương quan với Thiên Chúa

Đau khổ là một huyền nhiệm hơn là một vấn đề. Vấn đề (hay bài toán) là cái gì ở trước mắt ta và ta giải quyết một lần là xong, dù khó khăn đến mấy. Còn huyền nhiệm là một thực tại ta bị nhận chìm trong đó, suy nghĩ về nó nhưng đồng thời hít thở trong nó, đau khổ và hạnh phúc trong nó. Tình yêu, đau khổ và sự chết là những huyền nhiệm lớn trong đời. Như thế cần nhìn huyền nhiệm đau khổ trong những tương quan sống.

Đối với ông Gióp, nỗi đau khổ lớn nhất là ở chỗ ông cảm thấy mơ hồ về mối tương quan giữa ông và Thiên Chúa. Trước đây Chúa sống với ông như người bạn (chương 29), còn bây giờ lại như thù địch (13,24). Đặt mình trong bối cảnh đó, sẽ thấy câu trả lời của Chúa đã soi sáng cho ông Gióp, không phải vì diễn từ đó đưa ra một câu trả lời rõ ràng về mặt lý luận, nhưng vì diễn từ đó khẳng định rằng Thiên Chúa vẫn luôn ở đó khi Gióp đau khổ và luôn lắng nghe lời than thở của ông. Nghĩa là Thiên Chúa khẳng định mối quan hệ tốt đẹp giữa Ngài và ông Gióp, và như thế Gióp khám phá ra rằng ông không cô độc trong đau khổ, Chúa vẫn ở đó với ông. Đó chính là sức mạnh cho phép ông vượt qua mọi khó khăn thử thách. Hiểu như thế, sách Gióp không nhằm bàn luận một vấn đề thần học cho bằng là một tiếp cận mầu nhiệm đức tin, mầu nhiệm về mối tương quan của ta với Thiên Chúa.

Trong ý hướng trên, ta khám phá những thay đổi nơi bản thân ông Gióp. Trước kia Gióp là người rất đạo đức nhưng xem ra không thực tế cho lắm. Rồi thử thách xảy ra liên tiếp, ông phải suy nghĩ về những gì ông trải nghiệm xuyên qua những lần tranh luận với bạn hữu. Cuối cùng ông nhìn nhận rằng trước kia ông chỉ biết Chúa nhờ người ta nói lại, nhưng bây giờ chính mắt ông chứng kiến. Vì thế “điều đã nói ra, con xin rút lại, trên tro bụi, con sấp mình thống hối ăn năn” (42,6). Gióp đã trở thành con người khác với một sự thay đổi sâu xa xuyên qua những kinh nghiệm đời sống.

3. Đâu là dung nhan đích thực của Thiên Chúa?

Các bạn hữu của ông Gióp đã nói rất nhiều về Chúa và nhân danh sự công chính của Chúa mà lên án ông. Nhưng cuối cùng chính Chúa lên tiếng: “Các ngươi đã không nói đúng đắn về Ta như Gióp, tôi tớ của Ta” (42,7-8). Gióp đã nói đúng đắn về Chúa. Có thể hiểu “đúng đắn” theo hai nghĩa: Gióp đã nói “cách đúng đắn” và Gióp đã nói “những điều đúng đắn.”

Gióp đã nói cách đúng đắn vì ông nói thật với lòng mình. Ông không ngần ngại nói lên nỗi đau của mình, cả những mối hoài nghi và hoang mang của mình. Mối quan hệ đích thực với Thiên Chúa phải được xây dựng trên sự thật. Không phải ông không biết những cách giải thích truyền thống, những lập luận thần học về Thiên Chúa mà bạn bè ông nêu ra, nhưng ông không cảm thấy thoả mãn với những lập luận đó, và ông nói thật những suy tư, những cảm nghiệm của mình. Nói về Chúa, dù hay cách mấy mà không có sự chân thật, vẫn chỉ là giả dối.

Đồng thời Gióp đã nói “những điều đúng đắn” về Chúa. Các bạn hữu của ông Gióp nghĩ rằng họ biết về Chúa nhưng thục ra họ đã đóng khung Thiên Chúa trong khuôn khổ chật hẹp của những khái niệm và lý luận chật hẹp của con người. Trong khi đó Thiên Chúa là mầu nhiệm không thể dò thấu, Người vượt trên tất cả và những khái niệm của con người trở thành ngu xuẩn trước thực tại vô cùng huyền nhiệm này (42,8). Chính Thiên Chúa nhắc nhớ cho các bạn hữu của Gióp như thế và cũng nhắc nhớ cho tất cả chúng ta.

Sách Diễm Ca
***

MariaMadeleineI. TỔNG QUÁT

1. Tại sao sách Diễm Ca lại có mặt trong bộ Thánh Kinh?

Không giống với những sách khác trong Thánh Kinh Cựu Ước, xem ra sách Diễm Ca không liên quan gì đến lịch sử thánh, lề luật, giao ước hay các tiên tri. Thậm chí không nhắc đến Thiên Chúa nữa. Chúng ta cũng không biết sách Diễm Ca được viết khi nào, ai viết, và với mục đích gì! Vậy tại sao sách này lại có mặt trong bộ Thánh Kinh? Ngay cả Do thái giáo cũng tranh luận nhiều về vấn đề này. Đến năm 90 trước Công nguyên, mọi sự được ấn định khi rabbi Akiba đưa ra lý do: sách này diễn tả cuộc hôn nhân giữa Đức Chúa và Dân Người tuyển chọn. Đồng thời sách này được trích đọc trong lễ Vượt Qua hằng năm. Kitô giáo cũng chấp nhận như thế, tuy nhiên ít sử dụng trong cử hành Phụng Vụ. Sau này một số đoạn được chọn để đọc vào các dịp lễ kính Đức Maria.

2. Ý nghĩa sách Diễm Ca

Trong nhiều thế kỷ, cả Do Thái giáo và Kitô giáo đều giải thích nội dung sách này theo nghĩa biểu tượng chứ không theo nghĩa thể lý và cảm xúc bình thường. Cuộc hôn nhân giữa Đức Chúa và Israel hoặc giữa Chúa Kitô và Hội Thánh được coi là chủ đề chính của sách. Đôi khi trong phụng vụ Kitô giáo, hình ảnh người thiếu nữ trong sách được hiểu về Đức Trinh nữ Maria. Trong các văn bản của các nhà thần bí, mỗi linh hồn cũng khát khao được kết hợp với Chúa Kitô là người yêu của họ. Giải thích theo nghĩa biểu tượng thế nào còn tùy cách hiểu các bài thơ trong sách như tỷ ngôn (allegory) hay dụ ngôn (parable). Giải thích theo tỷ ngôn thì từng câu từng chi tiết đều phải mang một ý nghĩa thiêng liêng nào đó. Một số nhà phê bình đề nghị giải thích như một dụ ngôn, nghĩa là toàn bộ câu chuyện (chứ không phải từng câu) mang một ý nghĩa thiêng liêng cho đời sống của ta về mặt cá nhân cũng như cộng đoàn.

II. SÁCH DIỄM CA TRONG CỬ HÀNH PHỤNG VỤ

Đọc hai bản văn sau đây:
– Dc 2,8-14
– Lc 1,39-45

Nếu chỉ đọc Dc 2,8-14, ta chỉ gặp được ở đây một áng thơ tình vào loại tuyệt tác, với những từ ngữ đầy tình tứ như bạn tình, người đẹp, linh dương, bồ câu; với ngôn ngữ hình ảnh sống động “tiết đông giá lạnh đã qua, mùa mưa đã dứt đã xa lắm rồi…” Nhưng nếu đọc bản văn Diễm ca cùng với trình thuật Luca về việc Mẹ Maria đi thăm bà Elisabeth, ta sẽ khám phá một tầng ý nghĩa mới thật sâu sắc và phong phú về Ơn Cứu độ.

“Hồi ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa” (Lc 1,39). Sự việc này xảy ra ngay sau biến cố Truyền tin; vì thế “Mẹ Maria vội vã lên đường” là chính Thiên Chúa nhập thể trong cung lòng thanh khiết của Mẹ đang vội vã lên đường. Thiên Chúa lên đường đến thăm và đem Ơn Cứu độ đến cho nhân loại mà ở đây Gioan tẩy giả trong lòng bà Elisabeth là đại diện. Thế nên bước chân Thiên Chúa quả là bước chân “chàng đang tới, nhẩy nhót trên đồi, tung tăng trên núi” (Dc 2,8). Và tiếng gọi của Thiên Chúa Cứu độ vang lên, “Dậy đi em, bạn tình của anh; người đẹp của anh, hãy ra đây nào” (Dc 2,10); tiếng gọi làm oà vỡ niềm vui khiến Gioan “nhẩy lên” trong bụng mẹ (Lc 1,41). Ơn Cứu độ đã đến, “tiết đông giá lạnh đã qua, mùa mưa đã dứt đã xa lắm rồi. Sơn hà nở rộ hoa tươi, và mùa ca hát vang trời về đây” (Dc 2,11-12).

Trong ánh sáng của trình thuật Thăm Viếng, bản văn Dc 2,8-14 trở thành bài thơ diễn tả nội dung thần học và kinh nghiệm thần bí, mở đường cho các nhà thần bí như Gioan Thánh Giá sử dụng ngôn ngữ thi ca và hình ảnh của tình yêu hôn nhân để diễn tả kinh nghiệm linh hồn kết hợp với Thiên Chúa. Đồng thời, trình thuật Thăm Viếng không chỉ đơn thuần là bài giảng về bác ái và phục vụ, dù là bài học rất tốt đẹp và cần thiết, nhưng chuyển tải Tin Mừng Cứu độ muôn dân chờ đợi.

Sách Giảng Viên
***

1_46I. TỔNG QUÁT

Trong bản dịch Hi Lạp, sách này được gọi là sách Giáo sĩ (Ecclesiastes do từ Hi Lạp có nghĩa là Giáo hội), còn bản Hípri gọi là sách Qoheleth và được dịch là Giảng Viên trong tiếng Việt, vì Qoheleth có nghĩa là người nói với cộng đoàn. Tác giả sống vào khoảng năm 300-200 trước Công nguyên. Oâng là một giáo sư và tác phẩm được coi như suy tư của một triết gia về cuộc sống với những hiểu biết và kinh nghiệm từng trải của chính bản thân tác giả.

Xem ra tác phẩm không có cấu trúc rõ rệt. Để có tầm nhìn tổng quát, có thể chia ra thành những phần chính :
– Phần đầu (1,1 – 3,15): những suy tư về cuộc sống như sự theo đuổi các mục tiêu để cuối cùng khám phá thất vọng.
– Phần giữa (3,16 – 11,8): những ghi nhận về nhiều đề tài khác nhau, trong đó có nhiều câu châm ngôn.
– Phần cuối (11,9 – 12,8): mang một cung giọng mới. Tác giả khuyến khích người trẻ vui sống. Nhưng cuối cùng, ta sẽ đi tới đâu? Câu hỏi muôn thuở của trái tim con người.
– Phụ trương (12,9-12)

II. GIÁO HUẤN

Qoheleth thời trẻ xem ra nuôi lý tưởng rất cao về công bằng và chính trực, thế nhưng kinh nghiệm cuộc sống làm cho ông thất vọng: “Tôi lại còn thấy dưới ánh mặt trời: có sự gian ác ngay tại chốn pháp đình, sự gian ác ngay tại nơi xét xử” (3,16). Tệ hơn nữa, càng lên bậc cao trong xã hội, lại càng tệ hại hơn: “Nếu trong một miền nào, bạn thấy người nghèo bị áp bức, luật pháp và công lý bị chà đạp, thì chớ ngạc nhiên, bởi vì một người làm lớn còn có người lớn hơn canh chừng, và cả hai lại có người lớn hơn nữa” (5,7).

Qoheleth nhìn thấy những bất công trong xã hội nhưng ông lại không phải là một tiên tri dám tố cáo bất công cho dù phải chết. Ngược lại ông có vẻ xu thời để sống: “Trong cuộc đời phù du của tôi, tôi đã thấy hết cả: có người công chính bị tiêu vong dù đã sống công chính, có kẻ gian ác lại được sống lâu dù làm điều gian ác. Đừng sống quá công chính, cũng chớ quá khôn ngoan. Tại sao bạn lại huỷ diệt chính mình?” (7,15-16). Tuy nhiên ông không tệ hại đến độ tìm mọi cách chỉ để tồn tại, mà khiêm tốn nhận ra sự thật về thân phận hữu hạn của con người: “Sau khi đã chú tâm tìm hiểu lẽ khôn ngoan, và quan sát công việc mà con người thực hiện cả ngày lẫn đêm không chớp mắt trên mặt đất này, tôi nhận ra tất cả là công việc Thiên Chúa làm. Quả thật, con người không thể khám phá những gì được thực hiện dưới ánh mặt trời, cho dù có ra công tìm kiếm cũng không khám phá nổi, cho dù người khôn ngoan có nói là đã biết được, thì người ấy cũng không thể khám phá ra” (8,16-17).

Nếu so sánh với sách Gióp, sách Giảng Viên có một cung giọng khác. Oâng Gióp cố gắng sống đời tốt lành, và cứ theo giáo huấn truyền thống thì ông phải được hưởng đời sống sung túc với gia đình êm ấm và mọi người kính trọng, nhưng thực tế lại hoàn toàn trái ngược, và ông lên tiếng hỏi “tại sao?” Còn Qoheleth lại đau khổ từ một góc độ khác. Oâng đã đạt được mọi sự mà người đời mơ ước để rồi khám phá “tất cả chỉ là phù vân” (1,2). Dòng đời xem ra vẫn chảy theo nhịp của nó dù con người có làm gì chăng nữa. Sống và chết, chiến tranh và hoà bình, yêu thương và thù hận, mọi sự vẫn diễn ra như những điều không thể tránh được. Vậy cái gì ẩn sau những diễn biến này. Vấn đề căn bản là chúng ta nhận rằng những diễn biến này phải có một ý nghĩa, nhưng lại không tìm ra được ý nghĩa: “Làm lụng vất vả thì được lợi lộc gì? Tôi nhìn thấy công việc mà Thiên Chúa giao cho con người phải gắng sức làm. Thiên Chúa đã làm mọi sự hợp thời đúng lúc. Thiên Chúa cũng ban cho con người biết nhận thức về vũ trụ, tuy thế con người cũng không thể nào hiểu hết được ý nghĩa công trình Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử” (3,9-11).

Nói như thế không có nghĩa là không nên sống vì “chỉ những ai còn sống trong cõi dương gian mới có hi vọng mà thôi, vì con chó sống thì hơn con sư tử chết” (9,4). Vì thế, “Cứ ăn cho vui vẻ, uống cho thoả thích, vì Thiên Chúa đã vui nhận những việc bạn làm. Lúc nào cũng hãy ăn mặc cho sang, mái tóc luôn xức dầu thơm phức” (9,7-8). Dẫu sao, tác phẩm vẫn kết thúc bằng cung giọng bi quan: “Và bụi đất lại trở về với đất, khi phàm nhân trả lại cho Thiên Chúa hơi thở Người đã ban cho mình… Phù vân quả là phù vân. Tất cả mọi sự đều là phù vân” (12,7-8). Tác giả không có câu trả lời về thế giới sau cuộc đời này. Chỉ nơi Con Thiên Chúa làm người, ta mới gặp được lời đáp trả.

Sách Giôna
***

gionaI. BỐI CẢNH

Sách Giôna được biên soạn tại Palestina khoảng thế kỷ V trước Công nguyên, khi người Do Thái vẫn đang ở trong thời kỳ hồi phục sau cuộc hồi hương từ Babylon. Trong suốt thế kỷ VIII và IX trước đó, nhiều thế lực ngoại bang đã tác động trên lịch sử Israel. Năm 722, đế quốc Assyria đã chiếm vương quốc Israel, đưa những thanh phần ưu tú của dân lưu đày, và đưa những nhóm dân khác đến đây định cư. Còn tại vương quốc Giuđa, quyền lực của Assyria phải nhường lại cho Babylon, và dân Israel lại chịu sự thống trị của một đế quốc khác.

Năm 587 vua Nabuchodonosor và quân đội của ông phá hủy thành Giêrusalem và lưu đày dân cư sang Babylon. 50 năm sau tức là năm 538, vua Kyrô của Ba Tư đánh bại Babylon, ra sắc lệnh cho người Do Thái hồi hương và xây lại Đền thờ. Có sự đấu tranh giữa những người hồi hương và những người vẫn ở lại từ trước, thêm vào đó là sự nghèo khổ và lao động vất vả để tái thiết đất nước. Tất cả những điều đó làm nên bối cảnh trong đó sách Giôna được biên soạn.

II. NỘI DUNG

1. Tổng quát

– Cuộc gặp gỡ giữa Giôna và Đức Chúa (1,1-16)

– Lời nguyện của Giôna (2,1-11)

– Giôna ở Ninivê (3,1-10)

– Thiên Chúa trả lời Giôna (4,1-11)

2. Ý nghĩa

Những người Do thái hồi hương xác tín rằng sở dĩ họ phải chịu đau khổ là vì họ đã bất trung với Thiên Chúa. Do đó họ chủ trương phải tuân giữ lề luật thật khắt khe, và phải xa tránh bất cứ điều gì có thể làm họ xa rời Chúa, cụ thể là theo những tập tục ngoại giáo và kết hôn với người ngoại giáo (x. Ezra 9,1-13; 10,10-15; Neh 13,23-30).

Sách Giôna được viết ra để chống lại thái độ loại trừ này, thái độ cho rằng phải xa lánh mọi người thì mới có thể trung thành với Chúa. Trong câu chuyện, Chúa gọi Giôna đi nói tiên tri không phải cho dân Người mà là cho dân Ninivê, thủ đô đáng ghét của Assyria. Và Giôna đã tìm mọi cách để trốn tránh tiếng gọi của Chúa, vì ông biết rằng Chúa là Đấng nhân từ, và ông sợ rằng nếu ông rao giảng và dân Ninivê ăn năn sám hối thì Chúa sẽ tha thứ cho họ. Ông thích một Thiên Chúa trừng phạt dân Ninivê hơn là một Thiên Chúa tha thứ. Câu chuyện của Giôna trình bày một chân lý làm dân Do thái sửng sốt, đó là cả các dân tộc khác cũng được Thiên Chúa yêu thương.

III. ƠN GỌI CỦA GIÔNA (1,1-16)

1. Chúa gọi Giôna

Trong Thánh Kinh, những trình thuật ơn gọi thường có những yếu tố sau: (1) Gặp gỡ, (2) Thiên Chúa ngỏ lời, (3) sai đi, (4) người được sai thoái thác, (5) Chúa trấn an với lời hứa ‘Ta ở với ngươi’ (6) hứa ban một dấu chỉ.

Trình thuật ơn gọi Giôna cũng theo thứ tự đó nhưng có vài điểm đặc biệt: Lời Chúa đến với ông (1,1) và sai ông đi giảng cho dân Ninivê (1,2). Giôna không những chống lại mệnh lệnh này mà còn tìm cách chạy trốn (1,3). Chúa đã không chỉ trấn an Giôna nhưng còn theo sát ông và dùng quyền năng của Người lôi ông trở về với sứ mạng tiên tri (1,4 – 2,10). Rồi trình thuật bắt đầu lại: “Lời Chúa đến với Giôna lần thứ hai” (3,1).

2. Rao giảng cho dân Ninivê

Ninivê là thủ đô của Assyria, một đế quốc hùng mạnh ở vùng Mesopotamia vào thế kỷ VIII trước Công nguyên. Assyria đã đánh bại Israel vào năm 722 và bắt họ đem đi lưu đày, vì thế dân Israel căm ghét Assyria. Giôna không muốn đi Ninivê không phải vì muốn trốn tránh tiếng gọi của Chúa cho bằng vì căm ghét Assyria, không muốn đem Lời Chúa đến cho dân đó.

3. Thiên Chúa hành động

Giôna mô tả Thiên Chúa là Đấng “làm ra biển khơi và đất liền” (1,9), Đấng chế ngự biển khơi và mọi loài trong đó. Hình ảnh được làm nổi bật ở đây là sự toàn năng của Đấng Tạo hoá, Đấng đã trao phó sứ mạng cho Giôna và thúc đẩy ông chu toàn sứ mạng. Điều buồn cười là nếu Giôna biết Chúa toàn năng như thế, tại sao ông lại nghĩ ông có thể chạy trốn khỏi bàn tay Chúa? Và mỗi người chúng ta cũng nghĩ rằng mình có thể chạy trốn được Chúa? (hãy đọc Thánh vịnh 139)

IV. THIÊN CHÚA TRẢ LỜI CHO GIÔNA (3,1-10)

1. Tại sao Giôna chạy trốn?

Vì ông biết rằng Chúa là Đấng “từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, và hối tiếc vì đã giáng họa” (4,2). Ông nổi giận vì biết rằng Chúa không phải là vị thẩm phán thích trừng phạt tội ác nhưng là vị Thiên Chúa giàu lòng thương xót và hối hận vì đã thịnh nộ.

2. Thiên Chúa giáo huấn Giôna

Thiên Chúa không trừng phạt Giôna vì tội chạy trốn và đào ngũ và vì ông thiếu lòng thương xót, nhưng Chúa tìm cách giáo huấn ông bằng hành động cụ thể (x. 4,4-10)… và kết luận : “Còn Ta, chẳng lẽ Ta lại không thương Ninivê sao? (4,11). Giôna và mỗi người chúng ta tin Chúa như Chúa là hay chúng ta bắt Chúa phải hành xử theo tính toán nhỏ nhen và chật hẹp của mình.

Sách Tobia

***

tobiaI. TỔNG QUÁT

Sách Tobia được viết khoảng đầu thế kỷ II trước Công nguyên. Lúc đó quyền lực của Alexandre đại đế trải rộng khắp vùng Cận Đông, và Palestine nằm dưới sự thống trị của ông từ năm 332. Khi Alexandre đại đế qua đời vào năm 323, đế quốc của ông bị phân quyền: Syria dưới quyền Seleucids và Ai Cập dưới quyền Ptolemies. Palestine nằm giữa hai quyền lực này, lúc đầu do Ptolemies kiểm soát, sau đó dưới quyền Seleucids từ năm 198.

Thời kỳ này đánh dấu tiến trình Hi Lạp hoá. Ngôn ngữ cũng như tập quán của người Hi Lạp càng lúc càng trở nên thông dụng trong dân Do thái. Đứng trước sự đe doạ của văn hóa Hi Lạp, người Do thái có những phản ứng khác nhau. Có nhóm chống đối quyết liệt và có nhóm tìm cách thích nghi, dùng ngôn ngữ cũng như triết học Hi Lạp phục vụ cho Do thái giáo. Sách Tobia được viết ra trong bối cảnh này nhằm trả lời vấn nạn làm sao trung thành với Thiên Chúa giữa những áp lực văn hoá ngoại lai.

Tác giả sách Tobia đưa ra câu trả lời qua một câu chuyện mô tả sự trung tín của Chúa cũng như lòng can đảm của các tín hữu. Tobia cũng như Sara trong truyện đều chạy đến với Chúa trong cơn khốn quẫn, và lời cầu nguyện của họ đã được nhận lời khi Chúa sai thiên thần đến để chữa lành. Thế nhưng chính họ lại không biết điều đó và vẫn phải lầm lũi bước đi trong đêm tối của đức tin. Chính ở đây lại nổi bật lên niềm tin tín thác của Tobia và Sara, tin rằng Thiên Chúa là Đấng trung tín và giàu lòng thương xót, đồng thời thể hiện niềm tin đó qua lối sống đạo đức và bác ái.

Có thể thấy bố cục của sách Tobia như sau :

Phần I : Nỗi đau khổ của Tobia và Sara (1,1 – 3,17)

Phần II : Hành trình (4,1 – 6,18)

Phần III : Tobia và Sara được chữa lành (7,1 – 11,18)

Phần kết : Khám phá ý định của Thiên Chúa (12,1– 4,15)

II. SỨC MẠNH CỦA LỜI CẦU NGUYỆN (2,1 – 3,17)

1. Lời cầu nguyện của Tobia và Sara

Lời cầu của Tobia (2,1 – 3,6): một đời làm việc lành phúc đức nhưng lại bị tai hoạ ập xuống, đến cả người thân cũng trách móc, “Các việc bố thí của ông ở đâu? Các việc nghĩa của ông đâu cả rồi? Đó, ai cũng biết là ông được bù đắp như thế nào rồi!” (2,14). Tobia xin Chúa cho được chết, “Quả thật, chết đối với con còn hơn sống, vì con đã nghe những lời nhục mạ dối gian, khiến con phải buồn phiền quá đỗi” (3,1-6).

Lời cầu của Sara (3,7-15): đối diện với thảm họa trong đời, Sara cầu xin Chúa hoặc cho cô chết đi, “Xin Chúa phán, thì con sẽ được biến khỏi mặt đất và không còn phải nghe những lời nhục mạ nữa” (3,13), hoặc cho cô một phương thế giải thoát khỏi bế tắc, “Nếu Chúa không ưng làm cho con chết, thì lạy Chúa, xin đoái nghe con kể lể nỗi nhục nhằn” (3,15).

2. Cầu nguyện, hơi thở của đời sống đức tin

Đừng ngại trình bày với Chúa những tâm tư ước nguyện của mình, kể cả những suy nghĩ có vẻ tiêu cực! Cả Tobia và Sara đều xin Chúa cho được chết vì chết còn hơn là sống mà phải chịu quá nhiều đau khổ và nhục nhã.

Đồng thời hãy phó thác trọn vẹn nơi Chúa vì tin rằng Chúa là Cha toàn năng, nhân từ và giàu lòng thương xót. Dù bị nhận chìm trong đau khổ, cả Tobia và Sara đều ngước nhìn lên Chúa, và lời cầu nguyện của họ tràn đầy tín thác: “Lạy Chúa, Ngài là Đấng công chính, mọi việc Ngài làm đều chính trực” (3,2), “Chúc tụng Danh Chúa đến muôn đời, và mọi công trình của Ngài phải chúc tụng Ngài muôn muôn thuở” (3,11).

III. GIÁO DỤC CON CÁI (4,1-18)

Lời căn dặn của Tobia dành cho con trai trước khi lên đường hàm chứa những định hướng căn bản trong việc giáo dục con cái. Ông dạy con sống lòng hiếu thảo: “Hãy thảo kính mẹ con và đừng bỏ rơi người bao lâu người còn sống. Con hãy ăn ở đẹp lòng người và đừng làm điều chi phiền lòng người” (4,3). Ông cũng dạy con sống theo lề luật của Chúa, “Hãy tưởng nhớ Chúa mọi ngày, đừng phạm tội và làm trái mệnh lệnh của Người” (4,5). Sống theo lề luật Chúa là sống theo sự thật và sẽ thành công (4,6), sống tình bác ái và như thế là tích lũy kho tàng vững chắc (4,7-11.16-17), xa tránh thói dâm ô (4,12-13), sống khiêm tốn và lắng nghe lời khôn ngoan (4,18).

IV. THIÊN THẦN, NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH (12,1-22)

Thiên sứ Raphael tỏ mình ra cho cha con Tobia và nói, “Phần tôi, tôi đã ở với các ngươi không do lòng tốt của tôi, mà do ý muốn của Thiên Chúa. Vậy ngày ngày các ngươi hãy chúc tụng Thiên Chúa, hãy ngợi khen Người” (12,18).

Bạn có tin rằng Chúa vẫn không ngừng che chở hướng dẫn bạn như thế không? Có bao giờ bạn cảm nghiệm được sự hướng dẫn chở che đó chưa?

Sách Giuditha và sách Esther

***

SÁCH GIUĐITHA

I. TỔNG QUÁT

Sách Giuđitha được viết vào thế kỷ II nhằm trả lời cho cuộc khủng hoảng đe dọa các tín hữu Do Thái ở Palestine. Năm 175 trước Công nguyên, Antiochus IV Epiphanes chiếm đóng Syria và Palestine. Ông ép buộc người Do thái không những phải chấp nhận văn hoá và phụng tự theo Hi Lạp, mà còn phải bỏ những thực hành truyền thống của họ như cắt bì và những luật lệ về chay tịnh.

Ở đỉnh cao của cuộc bách hại này (năm 167), ông Mattathias là một người Do thái can đảm, khi bị ép buộc phải dâng lễ tế trên bàn thờ ngoại giáo, đã giết sứ giả của nhà vua rồi cùng với 5 đứa con chạy trốn lên núi. Những người Do thái khác đã đi theo ông, bắt đầu phong trào chống đối của nhà Macabê (tên gọi Macabê bắt nguồn từ biệt danh của Giuđa, con ông Mattathias). Nhà Macabê đã chiếm lại Đền thờ và thánh hiến lại năm 164. Sau thời gian chiến tranh, cuối cùng người Do thái được hưởng nền độc lập tương đối dưới quyền nhà Hasmorean là hậu duệ của Mattathias.

Sách Giuđitha được viết trong thời kỳ chống Hi Lạp của nhà Macabê. Câu truyện kể về một thành Israel bị Holofernes chiếm đóng. Ông này là chỉ huy trưởng quân đội Assyria. Các vị lãnh đạo của thành này thất vọng vì không thấy Chúa trợ giúp nên quyết định sẽ đầu hàng nếu trong 5 ngày mà Chúa không giải thoát họ. Khi nghe biết quyết định này, một người Do thái đạo đức và cũng là một goá phụ có nhan sắc đã lên án những nhà lãnh đạo là thiếu đức tin. Bà cầu nguyện và phó thác mọi sự cho Chúa. Cuối cùng bà quyết định dùng chính nhan sắc của bà làm khí giới chống lại quân thù. Bà đã chặt đầu tướng Holofernes và giải thoát cho toàn dân.

Câu truyện muốn đề cao sứ điệp: chiến thắng không do sức mạnh loài người nhưng do quyền năng Thiên Chúa. Cho dù đường lối Chúa xem ra thật khó hiểu và người tin Chúa có thể bị coi là điên rồ, nhưng chính những kẻ không dám phó thác vào Chúa mới là kẻ điên rồ. 

II. GIUĐITHA, NGƯỜI TÍN HỮU MẪU MỰC

1. Giuđitha, người đại diện của Chúa (8,1-8)

Cuộc chiến bùng nổ giữa Đức Chúa và Nabuchodonosor (tự coi mình như thần linh). Đại diện của ông là Holefernes, còn đại diện của Đức Chúa là bà Giuđitha. Trong tiểu sử của bà có bản gia phả 16 đời, nhằm mục đích chứng minh bà thực sự thuộc dòng dõi Abraham.
Bà Giuđitha được coi là người tín hữu mẫu mực. Theo tập tục, bà kết hôn trong dòng tộc, sống đạo đức (chay tịnh, mặc áo nhặm, kính sợ Chúa). Nhan sắc của bà, theo Kinh Thánh, là sự phản ánh nhân đức (St 29,17; 39,6). Bà lại là người goá bụa, và trong Kinh Thánh, người goá bụa nương tựa hoàn toàn nơi Chúa. Nhiều bà goá đóng vai trò quan trọng trong lịch sử Dân Chúa, vd. Tamar (St 38), hoặc bà Ruth.

2. Bà Giuđitha và các trưởng lão (8,9-36)

Trong cuộc trao đổi với các trưởng lão, bà Giuđitha nhấn mạnh hai điều: (1) Dân thiếu đức tin vào Chúa nên dám thử thách Chúa (8, 12), và (2) Dân không tự tin vào chính mình nên thất vọng chán nản (8,18-20). Từ đó, bà nói với mọi người: Thiên Chúa hoàn toàn tự do, không phải hành động theo đường lối của loài người; và dân phải tuyệt đối tin cậy vào Chúa.

3. Bà Giuđitha chuẩn bị cuộc chiến

a) Chuẩn bị bằng cầu nguyện (9,1-14)

Thái độ cầu nguyện: cầu nguyện vào giờ dâng hương trong đền thờ, như thế bà nối kết lời cầu nguyện của mình với lời cầu của Dân Chúa. Bà cầu nguyện với lòng khiêm tốn (phủ phục) và sám hối (rắc tro). Lời cầu nguyện của bà Giuđitha phản ánh những xác tín căn bản: (1) phó thác nơi Chúa chứ không tin tưởng vào sức mạnh người đời, (2) quyền năng của Chúa vượt trên quyền năng con người, (3) chiến thắng thuộc về những người khiêm hạ vì họ chỉ nương tựa một mình Chúa. Khi đối đầu trực tiếp với Holefernes, bà Giuđitha thường xuyên cầu nguyện (x. 12,4-6).

Mỗi người Kitô hữu cần tự hỏi: Trong cuộc chiến đấu chống lại các cơn cám dỗ, tôi có thường xuyên cầu nguyện?

b) Chuẩn bị bằng trang điểm nhan sắc (10,1-10)

10,1-4 nói đến việc bà Giuđitha trang điểm rất kỹ trước khi đến gặp Holefernes. Bà hiểu rằng nhan sắc là do Chúa ban và là điều tốt đẹp. Bà cũng biết rằng nhan sắc bên ngoài cần đi đôi với vẻ đẹp bên trong mới làm nên giá trị và sức mạnh thực sự. Nhan sắc Chúa ban là để phục vụ Chúa; ở đây Chúa dùng nhan sắc của bà để giải thoát dân Người.

Ngày nay, bạn quan niệm thế nào về nhan sắc và dùng nhan sắc để làm gì?

SÁCH ESTHER

I. NỘI DUNG

1. Bản văn tiếng Hípri

Câu chuyện kể về ông Mordecai, một người Do thái phục vụ trong triều vua Ahasuerus. Ông đã báo cho nhà vua biết một âm mưu sát hại nhà vua, nhờ đó vua thoát nạn; nhưng vua quên ban phần thuởng cho ông. Sự kiện kế tiếp là vua chọn một hoàng hậu mới. Ông Mordecai có cơ hội tiến cử Esther là cháu ông và cô đã được chọn làm hoàng hậu. Esther được biết về một âm mưu của Haman nhằm tiêu diệt dân Do thái vì ông ghét người Do thái, cách riêng là Mordecai. Một đêm kia, vua nhớ lại Mordecai và công trạng của ông, và vua gọi Haman vào, yêu cầu ông tôn vinh người đã cứu nhà vua thoát chết (đúng lúc Haman chuẩn bị sẵn giá treo cổ cho Mordecai).

Esther đã có cơ hội trình bày với nhà vua về âm mưu của Haman nhằm tiêu diệt dân Do thái. Haman phải đến năn nỉ Esther nhưng chính lúc ấy nhà vua bước vào, cho rằng Haman tìm cách xâm phạm hoàng hậu nên đã quyết định treo cổ ông ta bằng chính giá treo ông đã dọn sẵn cho người khác. Nhà vua ban sắc chỉ phục hồi quyền của người Do thái và ngày này đã trở thành ngày hội lớn của toàn dân.

2. Bản văn tiếng Hi Lạp

Bản Hi Lạp thêm vào một số đoạn. Những đoạn này được đánh dấu theo thứ tự từ A đến F. Bản dịch tiếng Việt của Nhóm PVCGK đánh dấu theo các chương và thêm mẫu tự alphabet.
Những phần thêm vào ở chương đầu và chương cuối nói về giấc mơ, một loại văn chương Khải Huyền. Các phần thêm khác là những lời cầu nguyện.

II. ĐỌC VÀ SUY NIỆM MỘT SỐ ĐOẠN VĂN

1. Sắc chỉ tru diệt người Do thái (3,7-9.13b-13g)

Những lời lên án trong sắc chỉ về lối sống của người Do thái khiến ta nhớ đến những cuộc bách hại trong lịch sử Giáo Hội:

– Đế quốc Roma: những thú vui chơi như nhà tắm công cộng, hí trường Colisê. Người Kitô hữu xa lánh những nơi và những kiểu vui chơi đó, thì lại bị lên án.

– Tại Việt Nam: nhớ đến cuốn Gia Tô Bí Lục lên án Đạo Chúa (móc mắt, gian dâm… và đủ thứ tội). Lý do sâu xa là sự ghen ghét và thù nghịch với Tin Mừng Chúa Kitô.

– Nhớ đến Lời Chúa: “Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại, và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở vì phần thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao” (Mt 5,11-12). Và lời thánh Phêrô: “Anh em hãy ăn ở ngay lành giữa dân ngoại, để ngay cả khi họ vu khống, coi anh em là người gian ác, họ cũng thấy các việc lành anh em làm mà tôn vinh Thiên Chúa trong ngày Ngài đến viếng thăm” (2Phero 2,12).

2. Lời cầu nguyện của ông Mordecai (4,17a-17h)

Lý do ông Mordecai không chịu cúi đầu trước vua: “Không phải vì xấc xược, kiêu kỳ hoặc háo danh mà con làm thế… nhưng con đã làm thế để khỏi đặt cái vinh của người phàm trên vinh quang Thiên Chúa.” Các Kitô hữu trong đế quốc Roma cũng thế, họ không chịu thờ hoàng đế vì hoàng đế cũng chỉ là con người nhưng lại xưng mình là “Đấng cứu thế” và bắt mọi người phải thờ phượng như thần thánh. Các Kitô hữu tại Việt Nam cũng vậy, họ không chấp nhận bỏ Đạo dù là lệnh vua ban xuống, và dù phải chấp nhận tù tội, gông cùm, kể cả cái chết.

Lịch sử để lại cho ta bài học này: khi con người phủ nhận Thiên Chúa, họ lại có khuynh hướng tôn sùng một cá nhân hay cái gì đó thay cho Thiên Chúa. Vào thời quân chủ hoặc trong những chế độ độc tài, người ta tôn thờ vua chúa hoặc suy tôn lãnh tụ. Trong thời đại ngày nay, người ta lại tôn thờ tiền bạc, hưởng thụ… Tất cả những loại ngẫu tượng đó chỉ làm cho con người vong thân và tha hoá vì thay thế Thiên Chúa vinh quang bất tử bằng hình tượng người phàm là những loài phải chết (x. Rm 1,23).

3. Giấc chiêm bao của ông Mordecai (1,1d-1k; 10,3a-3k)

Trình thuật về giấc chiêm bao vận dụng văn chương khải huyền là thể loại sử dụng ngôn ngữ hình tượng để diễn tả đức tin. Chúng ta có thể gặp thứ ngôn ngữ này trong lời rao giảng của các tiên tri, trong những diễn từ cánh chung của Chúa Giêsu, nhất là trong sách Khải huyền. Có cả trong Phúc âm.

Cách giải thích của Mordecai nhấn mạnh đến quyền năng của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa mới là Chủ của lịch sử: “Thấy mình sắp bị tiêu diệt, họ kêu lên cùng Thiên Chúa. Từ tiếng kêu cứu đó, người ta thấy như từ dòng suối nhỏ phát ra một con sông lớn, nước đầy tràn. Mặt trời mọc lên, toả lan ánh sáng. Kẻ thấp hèn được cất nhắc lên và nuốt sống người cao sang quyền thế.”

Sách Macabê 1

***

images_1I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ

1. Hi Lạp hoá

Sách Macabê mô tả cuộc xung đột giữa truyền thống tôn giáo Do thái và văn hoá Hi Lạp. Nền văn hóa này có tầm ảnh hưởng rất lớn tại Cận Đông kể từ khi Alexander đại đế qua đời năm 323 trước Công nguyên. Sau khi ông qua đời, đế quốc của ông bị phân chia thành hai: nhà Ptolemies ở Ai Cập và nhà Seleucides ở Syria. Dưới sự cai trị của nhà Seleucides, văn hoá Hi Lạp bành trướng rất mạnh.

Ngay giữa dân Do thái cũng có hai khuynh hướng khác nhau. Một số người ủng hộ tiến trình Hi lạp hoá này, còn một số khác chống đối quyết liệt vì thấy nguy cơ Do thái giáo bị tiêu diệt; từ đó dẫn đến cuộc nội chiến. Cuộc xung đột này leo thang dưới thời vua Antiochus IV (175-164 trước Công nguyên). Năm 169, ông cướp đoạt những đồ quý giá trong Đền thờ Giêrusalem. Sau đó ông còn cấm những thực hành Do thái giáo và dựng bàn thờ kính Zeus ngay trong đền thờ.

2. Anh em nhà Macabê

Sách Macabê 1 kể lại câu chuyện của một gia đình cương quyết chống lại ảnh hưởng của Hi Lạp. Họ chủ trương lấy bạo lực đáp trả bạo lực. Cuộc chiến đấu này diễn ra dưới sự lãnh đạo của người cha trong gia đình là ông Mattathias và sau đó là ba người con của ông. Khi Mattathias qua đời, Giuđa tiếp tục lãnh đạo cuộc chiến đấu.

Giuđa đã giành được một số chiến thắng, thanh tẩy lại Đền thờ năm 164. Tuy nhiên ông gặp phải nhiều khó khăn do những âm mưu của thượng tế Alcimus. Cuối cùng ông qua đời trong một trận chiến và người anh em lên kế vị là Jonathan (160-142).

Dưới thời Jonathan, những nỗ lực quân sự bắt đầu được thay thế bằng những tính toán chính trị. Jonathan đã từ từ lấy lại được một phần đất thuộc vương quốc của Đavít và Salomon ngày xưa, nhưng cuối cùng ông bị giết dưới tay tướng Trypho của nhà Seleucuds.

Người thứ ba kế tục sự nghiệp nhà Macabê là Simon (142-134). Ơng cũng theo đường lối chính trị của người đi trước, dần dần mở rộng bờ cõi, nhưng cuối cùng bị chính người con rể ám sát. Kẻ sát nhân lại bị người con thứ hai của Simon là Gioan Hồng yrcanus giết chết, và ông này tiếp tục sự nghiệp của cha (134-105).

Gioan Hrycanus I nổi tiếng là nhà quân sự tài ba. Năm 109 trước Công nguyên, ông đã chiếm Samaria, phá hủy Đền thờ trên núi Garizim và ép buộc dân Samari phải thờ phượng Chúa ở Giêrusalem. Những người Sađucê là hàng tư tế quý tộc ủng hộ ông, trong khi những người Hasideans (tiền thân của Pharisêu) lại bất bình. Tuy không mang danh hiệu là vua nhưng Hồng yrcanus tự xem mình như người tái lập vương quốc Đavít nhờ chính sách bành trướng của ông.

Sau khi Hồng yrcanus qua đời, người con lớn của ông là Aristobulus I lên cầm quyền vào năm 104 trước Công nguyên. Ơng này nổi tiếng tàn ác vì đã bắt giam cả mẹ và anh em ruột, thậm chí để mẹ chết đói trong tù. Ơng lấy danh hiệu là vua nhưng ngay sau đó lại chết bất ngờ, và người kế nghiệp là Alexander Jannaeus (103-76), người hết lòng ủng hộ Hi Lạp.

II. THẦN HỌC CỦA SÁCH MACABÊ

1. Sách Macabê 1

Có thể nói thần học trong sách này là thần học về giao ước: dân được yêu cầu tuân giữ Lề luật, và khi họ không tuân giữ thì Thiên Chúa trừng phạt họ. Như thế những người không tuân giữ Lề luật bị coi là những thủ phạm dẫn đến những đau khổ và mất mát mà dân phải chịu dưới sự thống trị của Hi Lạp. Đồng thời sách Macabê 1 nhấn mạnh những chính sách tàn ác của Hi Lạp nhằm xâm chiếm đất đai và ngăn cấm người Do thái thực hành niềm tin tôn giáo của họ.

Một trong những đóng góp lớn của nhà Macabê là việc tái lập Đền thờ, và biến cố này vẫn được tưởng niệm hằng năm trong ngày lễ Hanukkah. Nhà Macabê được coi là những người trung thành với Lề luật tuy có nhiều khi họ cũng chọn một thái độ uyển chuyển cho phù hợp với hoàn cảnh. Tuy nhiên tác giả viết sách muốn làm nổi bật ý tưởng rằng mọi chiến thắng và thành công là do ơn Chúa chứ không do con người.

Ngoài ra trong giáo huấn của các tiên tri, có một chủ đề quan trọng được nhấn mạnh là chủ đề về Số Sót. Nhà Macabê được giới thiệu như lãnh đạo số sót này, những người trong cộng đồng cương quyết trung thành với Lề luật cho dù phải chịu bắt bớ và bách hại. Cuối cùng, cho dù anh em nhà Macabê bị giết chết nhưng dân được hưởng tự do tương đối để sống theo Lề luật và truyền thống cha ông. Một lần nữa, Thiên Chúa bày tỏ sự trung tín với dân của Người.

2. Sách Macabê 2

Sách này tập trung vào Đền thờ Giêrusalem và kể lại những biến cố đã xảy ra cho Đền thờ: bị xúc phạm, được thanh tẩy và tái thiết, rồi lại bị tấn công dưới thời Antiochus IV và con trai ông. Những gì xảy ra cho Đền thờ cũng là những gì xảy ra cho dân tộc: chịu bách hại, được giải thoát và tái thiết.

Sách Macabê 2 chủ yếu nhắm vào chính cộng đoàn Do thái. Những cá nhân trong đó có cả các thượng tế đã đưa văn hoá ngoại giáo là Hi Lạp vào đất nước, vào Giêrusalem và vào cả Đền thờ. Đây là điều không thể phù hợp với việc thực hành Do thái giáo chân chính. Chính những tội lỗi này đã dẫn đến sự trừng phạt của Chúa. Như thế, tư tưởng mà tác giả muốn đề cao là: tội lỗi sẽ dẫn đến hình phạt, còn hoán cải dẫn đến ơn cứu độ. Điểm yếu của cách nhìn này là không thể giải thích được nỗi đau của người vô tội (xem sách Gióp), đồng thời khiến người ta có cái nhìn tiêu cực rằng mọi đau khổ đều là hình phạt của tội.

III. KHỞI ĐẦU CUỘC KHÁNG CHIẾN CỦA GIA ĐÌNH MACABÊ

1. Biến cố tại Modein (2,15-28)

Bối cảnh: Mattathias và gia đình thuộc dòng dõi tư tế. Đứng trước chính sách Hi Lạp hoá của vua Antiochus cũng như tình trạng người Do thái hợp tác với quân thù, phản ứng đầu tiên của họ chỉ là than khóc và buồn phiền (2,1-14). Tuy nhiên biến cố tại Modein đã khơi mào cho một phản ứng khác.

Tại Modein, các đại diện của nhà vua đã thúc bách người Do thái, kể cả Mattathias và các con ông, phải chối đạo. Vì Mattathias là người có thế giá trong cộng đoàn nên ông được mời làm người đầu tiên thực hành chỉ dụ của vua là tế thần ngoại giáo. Dù được hứa hẹn nhiều điều, Mattathias đã cương quyết khước từ những gì đi ngược với Lề luật và truyền thống của cha ông.

Không phải mọi người Do thái đều theo gương của ông. Đã có người tiến lên tế thần và Mattathias đã giết chết người đó. Ở đây tác giả nhắc lại hành động tương tự của Phinehas (Ds 25,6-15) và như thế biện hộ cho hành động của Mattathias. Sau đó Mattathias và gia đình phải trốn lên núi để bảo vệ bản thân và chuẩn bị cuộc kháng chiến.

2. Suy nghĩ cho đời sống Kitô hữu

Ở bất cứ thời đại nào, luôn luôn có những sức mạnh đối kháng với đức tin Kitô giáo, và lôi cuốn ta xa rời đức tin bằng hai cách: (1) Cám dỗ: “Ơng và các con sẽ được kể vào số bạn hữu của đức vua, sẽ được danh giá, được nhiều vàng bạc và bổng lộc” (2,18); (2) Đe doạ: “Ai không tuân lệnh vua thì phải chết” (1,50).

Thái độ của Mattathias và gia đình ông có thể soi sáng điều gì cho chúng ta ngày nay? Phải trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh, hay cố gắng tìm cách thoả hiệp để bảo vệ sự sống thân xác hoặc những lợi lộc mà thế gian hứa ban?

Bản văn cũng nhấn mạnh đến lòng nhiệt thành của Mattathias và so sánh với lòng nhiệt thành của Phinehas. Thánh Gioan tông đồ cũng nói đến lòng nhiệt thành của Chúa Giêsu (x. Ga 2,1-10). Tôi có lòng nhiệt thành trong đời sống đạo hay không?

Sách Macabê 2
***

macabeI. ĐỀN TỘI CHO NGƯỜI ĐÃ CHẾT (2 Mc 12,38-46)

1. Đọc bản văn

– 12,38-41: Sau ngày Sabát, Giuđa và các bạn chuẩn bị an táng cho những người đã chết trong cuộc chiến. Tuy nhiên trong áo trận của mỗi tử thi, người ta đều tìm thấy những đồ vật được dâng cúng cho các thần ngoại. Có thể vì họ tin rằng mang những đồ vật đó sẽ đem lại may mắn. Thế nhưng đó lại là điều Lề luật cấm. Do đó người ta hiểu rằng những người này chết là vì tội lỗi đã phạm (xem thêm Joshua chương 7).

– 12,42: Những người còn sống được nhắc nhở để đừng phạm những tội trên, đồng thời họ cầu nguyện xin Chúa tẩy sạch tội lỗi đã phạm.

– 12,43-45: Ông Giuđa quyên góp tiền bạc để gửi về Giêrusalem xin dâng hy lễ tạ tội. Tác giả nhấn mạnh lý do của hành động này là niềm tin và hi vọng vào sự phục sinh.

2. Cầu nguyện cho người quá cố

Giáo huấn của Thánh Gregorio Cả : “Đối với một số tội nhẹ, phải tin là trước phán xét chung có lửa thanh luyện. Chúa Giêsu xác nhận: nếu ai nói phạm đến Chúa Thánh Thần, người ấy sẽ chẳng được tha cả đời này lẫn đời sau (Mt12,31). Qua khẳng định này, chúng ta có thể hiểu là một số tội có thể được tha ở đời này, nhưng một số tội khác thì phải đợi tới đời sau.”

Sự kiện ông Giuđa Macabê xin dâng hy lễ cầu nguyện cho những người đã chết là nền tảng Kinh Thánh cho tập quán cầu nguyện cho những người đã chết. Hội Thánh Công giáo khuyên con cái mình dâng Thánh Lễ, làm các việc bác ái, hãm mình, và nhường các ân xá cho những người đã qua đời: “Chúng ta hãy giúp họ và hãy nhớ đến họ. Nếu các con của ông Gióp đã được thanh luyện nhờ việc hiến lễ của cha (x.G 1,5), tại sao chúng ta còn nghi ngờ là những lễ tế chúng ta dâng lên Thiên Chúa lại không đem đến cho những người đã chết một phần an ủi nào? Đừng do dự giúp đỡ và cầu nguyện cho những người đã qua đời” (Thánh Gioan Kim Khẩu).

II. CUỘC TỬ ĐẠO CỦA BẢY ANH EM (2 Mc 7,1-42)

Đây là trình thuật được biên soạn công phu. Trong truyền thống Do thái, số 7 tượng trưng cho sự hoàn hảo, vì thế trình thuật này là câu truyện về một gia đình hoàn hảo. Toàn bộ trình thuật làm nổi bật ý tưởng then chốt này là việc tuân giữ Lề luật còn quan trọng hơn chính sự sống. Những câu trả lời của bảy anh em hàm chứa những lý luận thần học biện minh cho việc tuân giữ Lề luật của Chúa:

– Thà chết còn hơn là vi phạm Lề luật (câu 2)

– Nhà vua có thể tước đoạt mạng sống nhưng chính Thiên Chúa sẽ làm cho kẻ tin sống lại để hưởng sự sống đời đời (câu 9)

– Nhà vua có thể cắt đi các phần thân thể nhưng Thiên Chúa sẽ ban lại (câu 11)

– Chết vì niềm tin sẽ đem lại phục sinh, còn nhà vua sẽ không được hưởng sự sống đời đời (câu 14)

– Thiên Chúa sẽ không bỏ rơi dân Người và sẽ trừng phạt kẻ gian ác (câu 17)

– Chấp nhận cực hình như hình phạt của tội (câu 18)

Cách riêng, hình ảnh bà mẹ làm ta xúc động, không những vì sự can đảm của bà mà nhất là vì những tâm tình bà nói với các con, khuyến khích các con can đảm đón nhận mọi hình khổ. Những lời khuyên của bà phản ánh niềm tin mãnh liệt vào Thiên Chúa là cội nguồn và cùng đích của sự sống: “Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con thần khí và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo mọi sự. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con thần khí và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Lề luật của Người hơn bản thân mình” (7,22-23). Khi chỉ còn lại người con út và mạng sống người con đó cũng đang bị đe doạ, bà vẫn can đảm thuyết phục con vừa bằng tình thương mẫu tử “Con hãy thương mẹ, chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm,” lại vừa bằng những lý lẽ của đức tin: “Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy. Con đừng sợ tên đao phủ này, nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ” (7,28-29).

Bao lâu còn có những người mẹ như thế, đức tin sống động vẫn được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bao lâu còn có những người mẹ như thế, thì mới hi vọng những giá trị Tin Mừng được thấm nhập vào đời sống xã hội. Người mẹ tuyệt vời này lại chẳng phải là mẫu mực cho đời sống gia đình Công giáo hay sao?

Sách Daniel
chương 1 – 6
***

l_635248739850949789PHẦN I. DANIEL VÀ CÁC VUA BABYLON (chương 1-6)

I. NỘI DUNG

Phần đầu của sách Daniel là một tuyển tập sáu câu chuyện ngắn về Daniel và các bạn của ngài. Theo các câu chuyện này, từ khi còn trẻ, Daniel đã bị đem đi lưu đày bên Babylon năm 606 trước Công nguyên (1,1), ở đó cậu sống đạo đức và được Chúa ban cho khả năng giải thích các giấc mộng và thị kiến. Những câu chuyện được trình bày thuộc hai loại: những truyện kể về lòng trung thành (chương 1,3,6) và những truyện kể về sự khôn ngoan (chương 2,4,5). Những truyện này làm nổi bật giáo huấn: nhờ vâng phục lề luật, người tín hữu sẽ chiến thắng địch thù và làm chứng cho quyền năng Thiên Chúa.

1. Những truyện kể về lòng trung thành

a) Thử thách về thực phẩm (1,1-21)
Truyện kể đầu tiên này giới thiệu Daniel và các bạn của ngài cũng như việc huấn luyện họ trong triều đình vua Nabuchodonosor, đồng thời nói đến những thử thách và cám dỗ nhằm đồng hoá họ với văn hoá ngoại giáo, cụ thể là dùng những thực phẩm mà Lề luật Do thái cho là ô uế.

b) Lò lửa (3,1-97)
Truyện này đề cao dung nhan Thiên Chúa đích thực, Đấng mà Shadrach, Meshach và Abednego thờ phượng. Họ sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, kể cả cái chết, còn hơn là phải thờ phượng thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa của Israel.

c) Hầm sư tử (6,2-29)
Truyện kể về sự ghen tị của các quan chức trong triều đình đối với Daniel. Họ tìm cách tố cáo ngài với vua Darius. Họ đã thành công khi Daniel bị ném vào hầm sư tử, nhưng thành công đó đã trở thành án phạt cho họ khi Daniel được Chúa gìn giữ và cứu thoát.

2. Những truyện kể về sự khôn ngoan của Daniel

a) Daniel giải mộng cho nhà vua (2,1-49)
Thiên Chúa mạc khải cho Daniel những mầu nhiệm mà các pháp sư của nhà vua không biết được, nhờ đó nhà vua nhìn nhận sự siêu việt của Thiên Chúa mà Daniel tôn thờ.

b) Thị kiến về một thân cây vĩ đại (3,98-4,34)
Vua Nabuchodonosor có giấc chiêm bao về một cây vĩ đại, ngọn cây chạm tới trời (4,7-14) nhưng không ai giải thích thị kiến này được. Chỉ một mình Daniel có thể giải thích, và cuối cùng những lời giải thích của ngài đã thành hiện thực.

c) Những dòng chữ trên tường (5,1 – 6,1)
Truyện kể về sự phạm thánh của vua Belshazzar khi ông lấy những chén vàng và bạc đã lấy từ Đền thờ Giêrusalem về để uống rượu vui chơi. Ngay lập tức, những dòng chữ xuất hiện trên tường… và Daniel đã giải thích ý nghĩa của những dòng chữ đó, loan báo hình phạt dành cho nhà vua.

II. NHỮNG BÀI HỌC CHO ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN

1. Thiên Chúa là nguồn sức mạnh và sự khôn ngoan

Dù không dùng những thực phẩm cao lương mỹ vị, dù bị ném vào lò lửa hay hang sư tử, Daniel và các bạn của ngài vẫn sống vì Thiên Chúa bảo vệ, chở che họ. Thánh Phaolô nói thật hùng hồn: “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?… Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô?…Trong mọi thử thách, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8,31-37).

Nhờ ơn soi sáng của Chúa, Daniel còn lĩnh hội được sự khôn ngoan vượt trên mọi người, có thể giải thích được những điều bí nhiệm và đọc được ý nghĩa của lịch sử. Chúa Giêsu đoan quyết với các môn đệ: “Chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn ngoan, khiến tất cả địch thù của anh em không tài nào chống chọi hay cãi lại được” (Lc 21,15).

Người tin Chúa đón nhận được sức mạnh và sự khôn ngoan này nhờ cầu nguyện. Nhờ cầu nguyện, Daniel đón nhận được ơn soi sáng của Chúa (x. 2,14-24). Ngay giữa lò lửa, các bạn của Daniel cất lời ngợi khen Chúa (3,24-90).

2. Trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh

Sách Daniel được viết trong bối cảnh Dân Chúa đang chịu áp lực nặng nề của văn hoá ngoại giáo, và những câu truyện trong sách khuyến khích mọi người trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh, cụ thể là trung thành với Lề Luật. Cho dù trong thời điểm hiện tại, có thể thấy những lề luật đó không còn phù hợp, nhưng điều quan trọng là sự thể hiện lòng trung thành.

Trong bối cảnh thời đại ngày nay, người Kitô hữu cũng cần trung thành với Lời Chúa. Đó là cách thể hiện cụ thể đức tin và lòng trung thành của ta với Chúa.

Sách Daniel

PHẦN II. NHỮNG THỊ KIẾN CỦA DANIEL (chương 7-12)

index_0Trong những chương này, sách Daniel trình bày những thị kiến mang tính khải huyền. Khải huyền là một thể văn phát triển mạnh từ năm 200 – 100 trước Công nguyên (x. Is 24-27; Ezekiel 38-39; Daniel 7-12). Những tác phẩm khải huyền mạc khải những điều mà trí khôn bình thường của con người không hiểu được. Những mạc khải này được trình bày qua trung gian của các thiên sứ, thị kiến và biểu tượng. Trong sách Daniel, những chương 7-12 khuyến khích những người đang phải chịu bách hại dưới thời Antiochus IV hãy vững tâm vì thời đau khổ đã sắp hết. Những chương này trình bày 4 thị kiến.

1. Thị kiến về bốn con thú (7,1-28)

Cảnh thứ nhất (7,2-8): gió bốn phương trời khuấy động biển cả và bốn con thú từ biển xuất hiện với những hình dạng đáng sợ (x. Kn 7,11), đặc biệt con thú mười sừng: sừng nhỏ xuất hiện, có mắt người và miệng nói những lời ngạo mạn.

Cảnh thứ hai (7,9-12): cảnh xử án trên trời, với Đấng Lão thành ngự trên ngai lửa và hàng ngàn tôi tớ hầu hạ (x.1Ks 22,19). Khi các cuốn sách được mở ra, bốn con thú bị đem ra xử, và con thú thứ tư bị phân thây, làm mồi cho lửa. Những con thú còn lại bị tước quyền thống trị nhưng còn được sống một thời hạn.

Tiếp đó, Daniel thấy một vị giống như Con Người, ngự trên đám mây mà đến. Vị này được Đấng Lão thành trao cho quyền thống trị, vinh quang và vương vị.

Sau khi chứng kiến, Daniel được giải thích. Bốn con thú tượng trưng cho bốn vương quốc (Babylon, Median, Ba Tư, Hi Lạp) mà Dân thánh của Chúa sẽ chiến thắng. Mười sừng của con thú thứ tư tượng trưng cho vương quốc Hi Lạp bị chia cắt, và cái sừng nhỏ phạm thượng tượng trưng cho Antiochus IV Epiphanes là người đã bách hại dân Do thái ở Giêrusalem (x. 1 Macabê 1,20-63). Thiên thần bảo đảm với Daniel rằng mặc dù cái sừng nhỏ này chống lại Dân Chúa nhưng quyền lực của nó chỉ tạm thời (câu 24-26). Con Người ở đây là hình ảnh của Dân Chúa sẽ được trao quyền thống trị trong tương lai.

2. Thị kiến về cừu đực và dê đực (8,1-27)

Thị kiến kể lại cuộc chiến giữa con cừu hai sừng (Median và Ba Tư) và con dê đực (Alexander đại đế). Tuy dùng những hình ảnh khác, nhưng thị kiến này cũng nói đến diễn tiến lịch sử như trong chương 7. Con dê đực hạ gục con cừu hai sừng cách dễ dàng, ám chỉ việc Alexander đại đế đánh hạ Ba Tư trong các cuộc chiến từ năm 334-331 trước Công nguyên. Tuy nhiên khi nó đang sung sức thì cái sừng lớn bị gãy, ám chỉ cái chết yểu mệnh của Alexander năm 323, và bốn sừng khác mọc lên, có ý nói về vương quốc của Alexander bị chia thành bốn: Macedonia, Tiểu Á, Syria-Babylonia, và Ai Cập. Từ một trong các sừng lại xuất hiện cái sừng nhỏ, ám chỉ Antiochus IV Epiphanes, là ông vua dám xúc phạm đến Đền thánh.
Được thiên sứ Gabriel giải thích, Daniel hiểu rằng cơn giận của Thiên Chúa sắp nổ ra và Antiochus sẽ bị lật đổ. Câu “cho đến hai ngàn ba trăm chiều và sáng” được hiểu là 1150 ngày, tức là 3 năm và 70 ngày. Thời gian này tương ứng với thời gian từ khi Đền thánh bị xúc phạm năm 167 đến khi được thánh hiến lại năm 164 (x. 1 Macabê 4,52-59 và 10,3).

3. Thị kiến thứ ba: Gabriel và 70 tuần (9,1-27)

Thị kiến thứ ba là mạc khải trực tiếp cho Daniel qua trung gian thiên sứ Gabriel. Chương này được chia thành hai phần: lời cầu của Daniel (9,3-19) và Thiên Chúa trả lời (9,20-27).

Lời cầu nguyện của Daniel phát xuất từ việc suy niệm lời của tiên tri Giêrêmia (x. Gier 25,11-12; 29,10): 70 năm phải trôi qua trước khi Giêrusalem mãn thời kỳ điêu tàn.

Sau đó, Gabriel được Chúa sai đến để giải thích cho Daniel về lời tiên tri của Giêrêmia. 70 năm ở đây là 70 tuần năm, nghĩa là 490 năm. 70 tuần năm này được chia thành ba thời kỳ:

(1) bảy tuần (49 năm) cho đến khi vị lãnh đạo được xức dầu xuất hiện (nghĩa là từ năm 587 trước Công nguyên (lưu đày lần II) đến năm 538 (Kyrô xuất hiện).

(2) 62 tuần (434 năm) đến khi một vị xức dầu bị thủ tiêu: từ khi chấm dứt lưu đày năm 538 đến khi khi thượng tế Onias III bị ám sát năm 170. Như thế phải tính là 368 năm chứ không phải 434 năm. Tuy nhiên các nhà chú giải cho rằng sai sót này có thể hiểu được tác giả sách Daniel không nắm rõ thời kỳ cai trị của Ba Tư.

(3) một tuần (7 năm) từ 170 – 163 trước Công nguyên: thời bách hại của Antiochus IV Epiphanes trong vòng nửa tuần, sau đó bị tiêu diệt.

4. Thị kiến về các cuộc chiến tranh Hi Lạp (10,1 – 12,13)

Thị kiến thứ tư này được chia làm ba phần:

– Dẫn nhập dài mô tả sự xuất hiện của sứ giả và
cuộc trò chuyện với Daniel (10)

– Cho biết về những cuộc chiến giữa nhà Ptolemies
tại Ai Cập và nhà Seleucides tại Syria, và kết thúc
là cái chết của Antiochus (11-12,4)

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #bunbo