[Tiểu Thuyết Kinh Dị] Bóng Hồn 1

Bóng Hồn
Tác giả : Yến Lũy Sinh (TQ)
Thể lọai : Tiểu thuyết kinh dị
Dịch giả : Đại Lộc - NXBVH

Chương 1 : Vết mực

Từ lập đông đến giờ. trời âm u kéo dài đã hai tuần lễ, cứ cách ngày một, ngày hai lại đỗ mưa, mãi đến hôm nay mới thấy hừng nắng.

Ngày mưa - với những ai đa sầu đa cảm, rất có thể sẽ là điều thú vị; không như tôi, một anh chàng độc thân, chỉ thấy vui lên khi trời quang mây tạnh.

Tôi vươn vai đứng dậy bên bàn giấy, đưa mắt nhìn ra ngòai. Nắng chói chang, những dãi nhà cao tầng gài răng lược san sát hai bên đường được nước mưa rửa sạch, ánh lên một vẻ tươi mới. Văn phòng nơi tôi làm việc ở tầng mười hai. Nhìn xuống con đường cái phía dưới, thỉnh thỏang mới thấy xe chạy qua, không gian rất tĩnh lặng vì được bao bọc bởi lớp cửa kính, hầu như không có tiếng động mà chỉ thấy bóng chiếc xe lướt qua rồi mất hút.

Bóng Hồn
Chương 2 - tiếp theo
----------------

Tôi đi đánh răng. Tự nhiên tôi thấy rát họng, có dấu hiệu bị ốm rồi. Rửa ráy xong tôi xuống gác và ra ngòai mua ít đồ ăn sáng, sau đó đáp chuyến xe búyt đến công ty làm việc. Hôm nay mọi người đi làm việc ở bên ngoài đều đã về cả. Văn phòng hôm qua vắng teo, nay bỗng nhiên nhộn nhịp hẳn lên. Tôi ngồi vào bàn vi tính, bật máy duyệt lại bản "Morat" làm hôm qua xem có cần sửa chữa gì không? Bỗng có ai vỗ vai tôi , nói:

- Khang đấy à, hôm qua chuyện trò tình cảm với cô Đĩnh đến đâu rồi?

Đó là một người bạn đồng nghiệp mang bí danh Văn Đán (nghĩa bóng là Quả Bưởi) - Chúng tôi gọi như vậy vì anh có khuôn mặt tròn, làn da bóng và giọng nói chua loét.

- Chưa đi đến đâu cả. vẫn việc ai người nấy làm thôi - Vừa nói tôi vừa chìa ra tập bản bông cho anh ta xem.

- Đừng hòng lừa tôi nhé. Hoa khôi của chúng ta hôm nay không đến công ty, cậu biết tỏng đi rồi, có chuyện gì xảy ra chứ? - Hắn cười, vẻ ranh ma.

- Không đến làm việc là thế nào? - Tôi dừng tay giữa chừng - Có chuyện quái gì đây?

- Vừa nãy cô ấy gọi cho Giám đốc xin nghỉ ốm một ngày - Anh ta lại phá lên cười khoái chí.

- Hôm qua hai người cùng đi với nhau, lẽ nào cậu không nhận ra cô ấy không được khỏe?

"Lý Đĩnh ốm thật ư? Hôm qua cô ấy còn ...tươi tắn lắm mà..." Chỉ một chút nữa là tôi buột miệng nói ra nhưng đã kịp ngăn mình lại. Cứ tình thật mà nói, có khác gì để cho người ta bắt thóp mình. Tôi thì chẳng sao, chỉ e Lý Đĩnh nghi cho tôi tung tin nhảm nhí, thế nên tôi nói luôn:

- Thế có gì là lạ. Ăn ngũ cốc sinh bách bệnh, ai rồi cũng phải có lúc bị trái gió trở trời chứ!

- Gớm chưa, sao lại khéo chọn thế, không sớm không muộn, đúng sau khi đi chơi với anh suốt một ngày thì kêu ốm.

Văn Đán bóng gió, nhưng vẫn cười nhăn nhở. Dáng chừng gã này đang ghen đây. Dẫu chẳng là gì nhưng hắn cũng đang chết mê chết mệt Lý Đĩnh; trong khi đó cô nàng lại tỏ vẻ thờ ơ.

- Vớ vẫn thật đấy! - Tôi đâm ngán ngẫm - Anh biết rồi còn gì, tôi vốn nghèo lại xí trai, Lý Đĩnh trông mong gì ở tôi nào?

Hắn đưa mắt nhìn tôi gật gù:

- Ừ, cậu nói nghe cũng phải lắm

Hắn tỏ vẻ thông cảm, đồng tình nhưng chỉ khiến tôi cảm thấy khó chịu hơn. Lời nói thật lòng mà nghe có nhát dao cắm phập vào người vậy.

Tôi cho in bản bông tập tiểu thuyết rồi lấy một bản chuyển lên phòng Giám đốc, vốn dĩ đây là một tập san nhỏ nên Giám đốc là người cuối cùng chịu tòan bộ trách nhiệm về bản thảo, lỡ để có sai sót gì thì coi chừng sẽ bị ăn trứng thối cả lũ. Lúc tôi đem bản bông lên, ông đang cắm cúi đọc bạn thảo của Lý Đĩnh. Tôi trao bản bông cho ông, khẽ liếc chỗ ngồi của cô nàng. Đúng là Lý Đĩnh nghỉ làm thật.

Lý Đĩnh ốm làm sao được! Chắc vui bạn vui bè quá đà rồi đâm ra ngại việc, tối qua cô ta phải làm thêm giờ. Tôi cứ băn khoăn trong lòng về chuyện Lý Đĩnh. Mà không lo lắng sao được?

Sửa bông xong, tôi thở phào nhẹ nhõm, ngồi thẳng cẳng trtên ghế tựa, mắt lơ đãng nhìn mọi người chung quanh. Mới hôm qua, trong căn phòng này chỉ có mình tôi, mà nay trông nó giống như chiếc hộp đựng đầy ắp đồ chơi và người ra vào nhộn nhịp. Trong họ hệt như những hình nộm luôn tay luôn chân mà rốt cuộc, không ai hiểu mình đang làm gì.

Chính tại nơi đây, tôi chậm rãi mài mòn những góc cạnh của năm tháng, hoặc nói cho đúng hơn, năm tháng đã bào mòn góc cạnh còn xót lại trong tôi. Rồi bỗng nhiên tôi thấy trong lòng xót xa. Vì đâu không biết và xót xa vì nỗi gì tôi cũng chẳng hay!

Đúng ba giờ chiều, ông Hồ phòng thường trực đến đưa báo trong ngày, tờ báo buổi chiều. Văn Đán cầm ngay lấy, giở ra xem. Tôi cũng đứng dậy bước đến gần để xem thời tiết ngày mai. Chưa đến nơi đã thấy hắn kêu toáng lên:

- Chưa đâu vào đâu đã lại có án giết người đây này!

Ở cái thành phố nhỏ chỉ có mấy chục vạn dân này mà cứ cách dăm bảy ngày lại có một vụ án mạng, đấy không còn là chuyện lạ. Chỉ có điều , thời gian này những vụ án giết người có vẻ nhiều hơn lên. Mới hai hôm trước, tờ Tin Tức Xã Hội đăng tin về một vụ giết người ỡ ngoại ô. Một người làm nghề mãi dâm bị chặt làm tám mảnh quẳng xuống sông. Đã bước sang mấy năm đầu của thiên niên kỷ mới nhưng vẫn còn rơi rớt sự cuồng lọan của cuối thế kỷ trước. Dẫu vậy, nếu so với những tin tức liên miên về chiến tranh và nạn đói đăng trên tờ Tin Tức thì những vụ án cỏn con này chẳng là gì cả.

Tôi cầm tờ báo trở lại chỗ ngồi của mình, đọc tiếp những mẫu tin nóng. Trên mặt báo toàn tin tức ca ngợi về cuộc sống tốt đẹp, đạo đức tăng tiến... Không có gì đáng lưu tâm. Tôi lật thêm mấy trang, chán ngán. Chợt có ai đẩy đến cạnh tôi mộ tờ báo khác:

- Này, anh Khang... đổi cho tôi tờ anh đang đọc được không?

Lại vẫn là anh ta. Tôi đưa tờ báo trên tay cho Văn Đán:

- Đọc nhanh thế!

- Quanh đi quẩn lại vẫn chừng ấy tin - hắn ngáp dài - Na ná kiểu bài của Lý Đĩnh, mới liếc qua đã khó tin rồi.

- Phản động đấy! - Tôi cười gằn, chỉ tay vào một cái tin đăng trên báo - Vậy tin này có giống tin của cô ấy không?

Đó là mảng tin được đóng khung. Nôi dung không có gì nhưng lại là lọai đang được các báo săn lùng, kể về các doanh nhân là kiều dân bị mất tích. Đây là một nhà kinh doanh lớn, sản nghiệp của ông ta rải rác ở nhiều địa phương trong nước, trong đó có một hạng mục vừa mới động thổ xây dựng ở ngay giữa thành phố này. Nó được xem là thành tích của thành phố trong việc thu hút đầu tư từ bên ngoài. Mấy hôm trước ông ta đột ngột ngã bệnh khiến lãnh đạo thành phố rối lên như kiến bị rang trong chảo. Văn Đán chỉ liếc mắt nhìn:

- Đây là chuyện của bọn có của, chẳng liên quan gì tới tôi.

- Đúng đấy, vậy cô Đĩnh ốm vì sao nào?

Trên mặt hắn lộ vẽ rầu rĩ:

- Ai mà biết được, quá lắm cũng chỉ đến nước kinh nguyệt không đều là cùng.

Thình lình nghe "phù..." một tiếng và anh đồng nghiệp ngồi ngay bên cạnh cười phì bọt mép:

- Văn Đán ơi, người đâu mà thối mồm thế. Cô Đĩnh mà có ở đây, coi chừng miệng anh đã bị sưng lên rồi đấy!

Mọi người cười rộ, riêng tôi bỗng rùng mình, một cảm giác rờn rợn chạy lan khắp cơ thể, và trong cơn mê hoảng, tựa hồ tôi trông thấy bàn tay có móng vuốt bằng sắt trôi lơ lửng ngay trên đỉnh đầu. Tàn ác và nguy hiểm. Có thể đó chỉ là những ý nghĩ mông lung hỗn loạn trong đầu tôi mà thôi. Căn phòng lúc này mịt mù khói thuốc lá, trần nhà cũng dính đầy bụi bẩn.


Phải chăng chỉ vì tối qua tôi trót đọc những lời kêu cứu của Ôn Kiến Quốc? Ông đã tung ra những tin tức không đầu không đuôi khiến tôi đến giờ vẫn nơm nớp lo sợ. Nhưng kỳ thực, nếu ông ta có trót dính líu đến mại dâm thì sự việc cũng đâu nghiêm trọng đến thế. Tôi bị ám ảnh bởi suy nghĩ ác kỷ vì nghe đồn rằng trong những quán rượu lớn, vẫn có những trang nam nhi tự nguyện bán mình. Riêng với bản thân mình, tôi cho rằng đó là thứ nghề không thể chấp nhận được.

Gần tan tầm Giám đốc mới cho gọi tôi, báo tôi hiệu đỉnh thêm chút nữa bản bông của Lý Đĩnh rồi hãy đưa ra nhà in. Nói đến biên tập ,tôi là kẻ được xem là có tay nghề yếu nhất nên hầu hết những việc linh tinh đều trút lên đầu tôi. Thấy lão Gíam đốc nói vậy, tôi đành phải làm. Tay cầm tập bản bông của Lý Đĩnh rồi hỏi:

- Thưa Giám Đốc tên File của cô ấy thế nào?

- FTP. Cứ như thế nhé! - Nói rồi ông cầm cây bút Parker gài vào túi áo trên, cùng lúc xếp gọn mấy thứ lặt vặt trên bàn làm việc - Cứ sửa thêm đi, bạn đọc phản ảnh mấy số tạp chí vừa rồi có quá nhiều lỗi chính tả.

Số tạp chí ra lần này chủ yếu hướng vào đối tượng dân công và học sinh, nếu như họ có cố công xem xét, ''đào bới" thì cũng chỉ có thể tìm kiếm những lỗi chính tả mà thôi. Thế nên tôi nói:

- Được rồi, sửa xong tôi sẽ nhập vào File FTP

Xong xuyôi mọi việc. Giám đốc với tay lấy tấm áo vét ở bên, khoác lên người, nhưng thóang thấy cái gì đó, ông liền giơ tay chỉ vào góc tường:

- Phải rồi, lát nữa có người quét dọn đến, anh hãy nhắc người ta nhớ chùi sạch cái vết mực kia đi. Văn phòng để bẩn, trông không đẹp mắt đâu.

Các bức tường trong tòa nhà xuất bản đều được quét lên một lớp sơn nhũ bang, có thể dùng vải lau sạch được. Tôi đưa mắt nhìn theo hướng ngón tay chỉ của Giám đốc thì thấy ở góc tường có một đám mực nhỏ chỉ bằng móng tay thôi. Thực ra, Giám đốc là người tinh mắt chứ nếu người khác, chắc gì đã trông thấy. Tôi gật đầu:

- Tôi biết rồi.

- Thật chả ra sao cả. Ai lại vấy mực lên tường, tòa soạn tạp chí để như thế sao được? Tất cả chúng ta ở đây đều là viên chức cổ cồn cơ mà.

Cổ cồn? Nghe không thôi cũng đủ tức cười rồi. Ở thời đại cởi mở này, cứ tưởng mặc sơ mi màu trắng thì có thể xứng danh mình là cổ cồn với chả cổ áo trắng được chăng? Sao không lấy tiền thu nhập hàng tháng ra mà làm tiêu chí đánh giá?

Lão Giám đốc vừa đi vừa làu bàu; ra đến tận ngoài cổng, ông còn tiếp:

- À, còn nữa, cộng tác viên của anh... tên gì nhỉ... à, Ôn Khắc phải không? Sau này nhớ nói với ông ta đừng viết chi tiết quá. Những chi tiết quá đẫm máu, rùng rợn, tuy hay thật nhưng dễ gây phiền hà. Ban tuyên truyền bây giờ đang rất "ke" với chuyện phong kiến, mê tín dị đoan đấy.

Truyện của Ôn Kiến Quớc có tên là "Tổ Ong", mang phong cách quái dị. Trong tiểu thuyết ấy, hai nhân vật - một nam một nữ - đi du lịch tới một ngôi làng nọ, vào đêm trăng tròn, họ phát hiện thấy đám dân làng tụ họp trên khỏang đất trống, ăn thịt sống. Thì ra, có một loài ong ký sinh, rất nhỏ thôi, sống tầm gởi nơi đất người, và toàn bộ dân làng đều bị chúng sống tầm gởi trong não. Họ còn trông thấy từ trong mắt mũi dân làng bay ra những con côn trùng bé xíu, chúng chính là những con nhộng đã nở ra có cánh. Sau đó chúng tiếp tục đẻ trứng và bám vào óc người khác. Dân lành không hề biết nên vẫn quây quần bên nhau, cùng ăn thịt tươi máu chảy ròng ròng. Những tia máu đỏ bắn tung tóe trên môi họ. Cảnh tượng ấy Ôn Khắc miêu tả chi tiết khiến người đọc hãi hùng. Nếu khỏang mười năm về trước, câu chuyện này, chắc chắn sẽ bị gán tội tuyên truyền mê tín, đến bây giờ, nhiều người cũng khó chấp nhận được nó. Tự tay tôi đã phải cắt bớt đi những đọan miêu tả nhẫn tâm và ác độc, vậy mà khi đọc bản bông, Giám đốc vẫn còn cảm thấy rùng rợn. Câu chuyện của Ôn Kiến Quốc sẽ rất câu khách đây.

Tôi trở lại văn phòng, mọi người đã về gần hết. Còn mình Văn Đán đang hí hóay đánh máy chữ, nhác thấy tôi ngồi vào bàn máy, anh ta lên tiếng:

- Thế nào rồi, anh Khang?

- Giám đốc yêu cầu tôi sửa bản bông của Lý Đĩnh thêm một chút nữa.

Văn Đán phì cười, không rõ hắn cười vì cái gì nên tôi tiếp lời:

- Lại có chuyện gì phải không?

- Mới rồi có ai đấy gọi, nói muốn gởi bài cho Lý Đĩnh.

- Nhăng cuội gì nữa đây?

- Hắn nói rằng hắn thấy trên tường có một cái bóng người biết cử động và có cả tiếng nói nữa.

Tôi nghe và bật cười thành tiếng.

Những chuyện tào lao bậy bạ thì ngày nào chả có. Nó hoang đường đế độ " tẩu hỏa nhập ma", dối trá nhưng vụng về không thể tưởng được. Tôi nói:

- Chiếc bóng biết nói, đúng là chuyện hoang đường. Tất cả những chiếc bóng đều cử động được đấy thôi, có chăng chỉ những chiếc bóng của người chết mới bất động, đúng không nào?

- Không phải thế. Hắn nói chiếc bóng này ở ngay trên tường, không có hình dạng và ăn sâu hẳn vào tường cơ mà.

Chương 02 : phần cuối

------------------------

Tôi đã định bật máy tính nhưng dừng ngay lại. Giả thuyết này nghe tuyệt đấy. Một chiếc bóng không có thực thể. Vậy phải chăng nó là một câu chuyện đáng buồn. Tôi vẫn có nhớ " thiên đồng thoại' thời kỳ đầu của Andersen kể rằng: có một cái bóng biết nói năng, chuyện trò và đi đến thỏa thuận với một người: cái bóng đi làm việc và con người hóa thành cái bóng - như đã từng có lúc tôi ước ao mính sẽ là cái bóng; còn việc kiếm sống hàng ngày cứ để cho cái bóng làm. Tôi nằm khuyển ở đó, mắc cho cái bóng kéo lê tôi đi trên mặt đất. Rồi tôi tưởng tượng mình biến thành cai bóng mỏng tang, không có bề dày dán vào mặt đất. Sự thay đổi ấy khiến cảnh vật quen thuộc xung quanh sẽ trở nên lạ lẫm.

Tôi kéo bàn phím ra vừa đánh máy chữ vừa nói:

- Phải chăng hắn đang đọc truyện của Aymer?

- Cái gì? - Văn Đán chưa hiểu tôi đang nói gì hoặc hắn cũng chưa hề đọc tác phẩm của Aymer. Tôi còn nhớ những ngày học ở Đại học, tôi có đọc một tập tiểu thuyết của Aymer. Chương đầu viết về người đi xuyên tường. Về sau con ngưởi này bị phong bế ơ trong tường và người ta thường vẫn nghe tiếng thở dài của y thóat ra từ bên trong ấy. Câu chuyện hoang đường ấy đã gieo vào lòng tôi một nỗi ghê rợn. Tôi hình dung ra tình cảnh con người bị khép kín trong tường, không có khỏang trốngbốn chung quanh là gạch xây kín mít, cảm giác như bị bao bọc bởi một chất keo, tối mịt mùng. sau này, lúc phải đi một mình trong đêm tối, qua lối ngõ không có đèn đường, tôi thường mang theo nỗi lo âu vô cớ, tưởng chừng bức tường dựng đứng hai bên đường đang đổ sập xuống đầu mình và cái đen tối kia đang hóa thành chất keo dính dầy đặc.

- Chẳng có gì sất, nó chỉ là tiểu thuyết của một người ngoại quốc.

Tôi lẩm nhẩm không thành tiếng và cũng chẳng muốn giải thích cho hắn nghe Aymer là ai. Có nói tới các nhà văn Pháp, tôi nghĩ quá lắm hắn chỉ biết đến Bernard, Le Blame, hoặc thêm nữa là những người từng đọat giải Nobel như Sartre, Camus, Mauriac và những tác gia lớn như Zola, Flaubert, Daudet, Maupassant. Còn như với Baudelaire, Mallarme, anh em Concour, Valerie thậm chí Sagan, tôi nghĩ chắc gì hắn đã biết, huống hồ Aymer lại là tác gia không mấy tên tuổi. Và thực ra tôi cũng vậy, may mà đọc được một tập truyện ngắn của Aymer nên tôi mới biết đến tên này.

Văn Đán thấy không còn chuyệ gì để nói nữa, bèn quay ra đánh nốt phần tài liệu còn bỏ dở trên máy tính. Xong rồi hắn tắt máy, cất lời chào trước khi ra về:

- Hết giờ rồi, tôi về đây. Anh chưa xong việc phải không, chào nhé!

- Vâng, chào anh - Tôi thuận miệng đáp lời rồi đem bản bông của LÝ Đĩnh ra để đối chiếu. Hôm qua không biết cô ấy làm thế nào mà vẫn bỏ sót khá nhiều lỗi chính tả, lần này cho qua nữa, bạn đọc sẽ không để chúng tôi yên. Nửa chừng lại nghe chuông điện thoại réo gọi, tôi hơi bực mình khi cầm ống nghe lên. Tại sao thế nhỉ... ? Tôi luôn đoán rằng người ấy không ai khác mà chính là Ôn Kiến Quốc!

- Alô! Tòa soạn báo Truyền Kỳ Đại Quan đó phải không?

- Giọng của một người lạ, nam giới. Tôi đáp lời:

- Vâng, Truyền Kỳ Đại Quan số đặc biệt về Tin tức Kỳ lạ đây.

- Sao các người chưa chịu đến đây? - Tiếng nói nghe lịm dần.

Tôi sững sờ và còn lơ mơ chưa hiểu hắn đang nói gì, rốt cuộc nhớ ra đây chắc là người ban nãy vừa gọi đến cung cấp tin tức cho tòa soạn. Tôi kẹp ống nghe vào một bên cổ, nói tiếp:

- Ông nói cho rõ ràng đi. Nó là tiếng nói gì, ở đâu nào?

- Từ bên trong bức tường, tiếng kêu ri rỉ giống như côn trùng ấy!

Tôi thấy hoang đường. Theo lời văn Đán thì tiếng nói ấy phát ra từ một cái bóng, bây giờ người này kể là phát ra từ trong tường, tình tiết như trong tiểu thuyết của Aymer. Hơn nữa, "tiền hậu bất nhất", rõ là nói dối rồi. Biết vậy tôi gặng hỏi:

- Ông nói từ trong tường mà ra, đúng thế không? Nhưng tôi lại nghe nói là do cái bóng phát ra cơ mà.

Chuyện thật vớ vẫn, nhưng có lẽ hắn chưa kịp hiểu cái ý nói đầy vẻ giễu cợt của tôi nên cứ bám theo lời tôi rồi trả lời bừa:

- Đúng đấy, cái bóng đó đánh "soạt" một cái, chui toạt luôn vào trong tường. các ông nhanh chân lên nào, đến ngay đi. Tin nóng hổi đấy!

Tôi cố gắng nén cơn giậnđang bốc lên ngùn ngụt, rồi ra vẻ thản nhiên, nói:

- Xin lỗi ông, cái bóng là một vật thể che ánh sáng và để lại sau nó cái bóng râm. Làm thế nào nó có thể giống như loài côn trùng nhỏ bé chui vào lỗ hổng ở trên tường được.

- Nhưng trên tường làm gì có lỗ hổng, thưa ông?

Hắn chả hiểu gì về cái ý châm chọc trong câu nói của tôi nên cứ tiếp tục ba hoa. Tôi phát bực mình, nói giọng sỗ sàng:

- Nếu như cái bóng thực sự biết nói thì ông chỉ việc lấy máy ảnh chụp rồi đem bán cho đài truyền hình, sẽ trở thành tin giật gân ngay. Tôi cuộc là rất được giá đấy!

Có lẽ hắn đã đóan ra ý bực bội, khó chịu trong lời tôi nóinên chững lại, im lặng. Tôi tưởng hắn không có gì để nói thêm nữa, đang định gác máy thì bỗng nhiên hắn lại lên tiếng, giọng oang oang:

- Chuyện có thật trăm phần trăm!

Thấy hắn cứ lằng nhằng mãi, tôi đâm cáu:

- Xin lỗi ông, bây giờ tôi đang bận. Nếu như ông thấy nó đáng giá thì cứ việc viết bài gởi tới cho chúng tôi.

Rồi không để hắn dài dòng thêm nữa, tôi gác máy luôn. Thời gian qua, trang tạp chí do Lý Đĩnh phụ trách thiếu bài viết về những chuyện lạ, mới mẽ và hấp dẫn nên Ban Biên tập phải đăng tin trưng cầu bạn đọc cộng tác. Bài viết được sử dụng sẽ có nhuận bút. Tòa sọan cũng công bố số điện thoại liên lạc để bạn đọc có thể gọi đến thông báo tin nóng. Có lẽ vì thế mà gã đàn ông lúc nãy nghĩ rằng tạp chí của chúng tôi cũng giống như tờ tin tức xã hội, có thể thu nhận tất cả các lọai tin tức nhiều kiểu khác nhau.

Bản bông của Lý Đĩnh đã được sửa xong, nhưng tôi chưa thật yên tâm, chỉ e còn có sai sót chưa phát hiện được nên đành phải đọc lại thêm một lượt nữa cho thật chắc ăn. Xong xuôi tôi mới copy vào đĩa mềm và lưu vào File FTPcủa cô, tắt đèn văn phòng, tôi bước ra khỏi cửa.

Tòa sọan có hai phòng làm việc, chỗ ngồi của giám đốc chỉ chiếm một góc, được ngăn cách bởi cửa kính. tôi đã để ý đóng cửa văn phòng cẩn thận nhưng không biết có phải cảm giác của tôi lần lẫn không mà tôi thấy, dù cả hai văn phòng đều đã tắt đèn nhưng phòng làm việc của tôi vẫn sáng hơn so với phòng bên cạnh. Phải chăng đó là ánh sáng từ bên ngòai lọt vào? Ngày hai lần, sáng sớm và chiều tối, bà già giúp việc vặt đều đến quét dọn, làm vệ sinh. Đang đẩy khăn lau nhà phía cuối hành lang, thấy tôi bước ra, bà liền hỏi:

- Ông làm thêm ca sao...?

- Đúng thế, chào bà...

Một thoáng đứng chờ cầu thang máy nơi đầu hành lang. Thang máy mở, tôi vội vàng bước vào, cùng lúc, một cảm giác khoắc khoải, đầy lo âu cũng ùa theo, tựa hồ một làn nước mực đen đặc quánh, thấm đẫm toàn thân tôi.

Không thể thế được. Ngoài chứng bệnh sợ độ cao, lẽ nào bây giờ tôi còn mắc thêm cả chứng sợ nỗi u huyền?

Thang máy đi xuống êm ái, vững chãi, thế mà tôi lại cảm thấy như nó từ từ rơi xuống vực thẩm, không biết đâu là đáy. Thời còn nhỏ, tôi có đọc tập truyện của Nhà xuất bản Tủ sách khoa học phổ thông, kể chuyện những người thời Trung cổ tưởng tượng ra thế giới là một dãi đất liền bằng phẳng. trôi nổi trên biển cả, bốn bề nước mênh mông và biển đổ về một nơi không ai hay biết. Câu chuyện vu vơ ấy đã làm tôi khiếp đảm, dẫu biết chỉ là chuyện hoang đường nhưng tôi vẫn thấp thỏm, không lúc nào yên. Sau này, mỗi lần giở đến tập sách, tôi luôn cố tình lật qua mấy trang đó. Kinh sợ vốn là kết quả của sự thiếu hiểu biết, và vì chưa rõ về nó nên người ta vẫn thường sợ theo bản năng. Còn với tôi đó là sự kinh hòang ở mức tột cùng.

Xuống đến tầng lầu, thấy bên ngoài trời đã tối. Mùa đông, đêm đến sớm hơn, mới sáu giớ mà trời đã tối mịt. Gió rít từng cơn sốc tới, chà sát vào da thịt, giá buốt như kim châm vậy. Với riêng tôi, nó còn đem tới cảm giác bi thương và sự bất an.

Bản thân cái thành phố này cũng vậy, nó giống như một kẻ xa lạ, tính khí kỳ quặc, tuy sống hàng ngày với nhau mà chẳng một ai nhận ra nó thế nào. Tại những ngõ hẻm rối rắm, bộn bề, tràn ngập những sạp, những quầy hàng rởm, hàng thứ phẩm hoặc những con phố lớn trang hoàng hoa lệ, những người đàn bà phấn son lòe loẹt vụng trộm bán mình trong bóng đêm, với tôi, tất cả chỉ là một thế giới khác lạ, không ăn nhập gì cả. Tôi thấy mình giống cái bóng - một cái bóng dính trên tường.

Chính tôi không hiểu nổi tại sao mình lại có những ý nghĩ kỳ quặc đến thế. Cái bóng của tôi được ngọn đèn phác lên trên đường phố một hình thù quái dị nhưng lại hòa hợp làm một với môi trường chung quanh. theo động tác tôi đi trên đường, cái bóng cũng cử động y hệt như thế. từ khi nghe cuộc điện thoại vu vơ ở cơ quan, tôi luôn để ý đến cái bóng của mình và cảm thấy nó như mộ người sống, cũng biết vui buồn, giận dữ và đau khổ.

Và nó giống như trong chuyện cổ tích của Andersen.

Bước vào hàng ăn, tôi ngồi vào bàn và gọi một bát mì. Sực nhớ mình quên chưa nhắc bà giúp việc lau sạch vết mực mà Giám đốc dặn. Giờ này quay trở lại, chắc bà già đã về. Nghĩ đến trời rét mướt, tôi ngần ngại.

Tôi nghĩ bụng, để sớm mai mình sẽ nhắc.

Chương ba : Người lạ lúc nửa đêm

Băn khuăn về vết mực trên tường ở chỗ ngồi làm việc của Giám đốc, sáng hôm sau, tôi trở dậy rất sớm để kịp đến văn phòng. Đến nơi, tôi chưa thấy một ai ngòai bà giúp việc đang lúi húi lau sàn nhà. Tôi vội nói:

- Bà này... Nhờ bà lau dùm vết mực góc nhà bên nhé!

- Vâng... Ông cứ mở cửa ra và chỉ cho tôi thấy đã . - Nói rồi bà gác cái chổi sang một bên.

Chìa khóa của cả hai phòng tôi đều có trong tay, nên tôi mở cửa văn phòng của Giám đốc trước, luôn thể bật đèn sáng rồi chỉ tay vào góc phòng:

- Ở đấy, đúng chỗ ấy.

Tôi giật mình thảng thốt, góc tường nhà sạch bong, thậm chí không thất cả mạng nhện. Chẳng lẽ đêm qua tôi bị hoa mắt, không ý thức được đều mình làm; vừa lúc bà giúp việc cầm giẻ lau đi tới:

- Lau chỗ nào, thưa ông?

- Chà, không thấy đâu cả, thôi vậy.

Tôi tắt đèn, quay trở lại bàn làm việctrong lòng nghi nghi, hoặc hoặc... mới hôm qua, tận mắt mình còn nhìn thấy một vết mực đen sờ sờ ra đấy, giờ chẳng thấy đâu nữa là thế nào. Ngay cả Giám đốc, đời nào ông ấy cũng hoa mắt như mình?

Hôm nay đến hạn đưa bài cho nhà in. Tiểu thuyết của Ôn Kiến Quốc là "con át chủ bài" của tạp chí kỳ này; nó chiếm một lượng lớn số trang của tạp chí. Sắp hết năm, công việc nhiều, mọi người tối mắt, tôi mãi lo nội dung của số tạp chí số tiếp theo. May mà gặp dịp dân công nô nức lên đường đến công trường. Đường xa, ngồi một vài ngày trên những toa tàu hạng hai, có tờ tạp chí này, họ có thể đọc giải trí hoặc nhân tiện, có giấy lót trên những chiếc ghế gỗ không đệm của xe lửa. Chính vì thế lượng phát hành của hai số tạp chí kỳ này tăng vọt. Tháng cuối năm sẽ có tiền thưởng nên mọi người lao vào công việc không một lời kêu ca oán thán.

Tôi bận soát lại bản bông để sẵn trên bàn, Văn Đán cầm tập bản thảo đi về chỗ, miệng lầm rầm điều gì không rõ. Bây giờ, mọi người đều làm việc trên máy tính, số quen viết tay chỉ còn sót lại rất ít, muốn sử dụng bản thảo của những người này phải mất rất nhiều thời gian để đánh máy lại. Văn Đán đặt xếp giấy lên chiếc giá cạnh máy tính, lấy tư thế ngồi ngắn chuẩn bị gõ máy, bất chợt hắn ngoảnh đầu lại:

- Này anh Khang, Lý Đĩnh đến rồi đấy.

Tôi rời tay khỏi tập bông:

- Anh nhiễu sự lắm, lẽ ra anh phải làm việc ở ủy ban dân số mới phải.

Hắn làm như không nghe thấy câu nói máy móc của tôi, chỉ cười nhăn nhở:

- Bỏ mặt người ta mặt mũi héo hon, trông tiều tụy thế sao đành!

- Con cáo không được ăn nho lại chê nho chua.

Anh bạn đồng nghiệp ngồi một bên nói xen vào:

- To đầu như anh Văn Đán đây cũng nên một vừa hai phải thôi, chua chát lắm điều như thế để làm gì chứ?

Chúng tôi cười ồ, cả Văn đán cũng cười, nhưng chưa hết khích bác:

- Tôi đang nói thật đây mà?

Nhưng chả ai buổn nghe thêm nữa. Cho dù hắn có bóng gió gì thì cũng không ngoài mươi mẫu chuyện pha trò nhảm nhí về Lý Đĩnh đêm qua..., dài dòng với hắn chỉ mệt thêm mà thôi.

Văn phòng bây giờ rộn lên tiếng đánh máy, nghe rào rào như mưa và tiếng sột sọat của giấy lật sang trang. Trong chuỗi âm thanh đều đều của tắc kè đèn ống, những tiếng động vốn nhỏ nhẹ ấy bỗng vang lên, chát chúa như tiếng súng nổ, làm tôi đứng ngồi không yên. Nội dung những trang bản thảo trước mắt như cố tình trêu ngươi, trở nên huyễn hoặc, khiến tôi rùng mình ớn lạnh. Tôi đành phải bỏ đống bản thảo, định ra khỏi phòng để hít thỏ không khí trong lành. giữa lúic ấy, điện thọai đổ chuông.

- Không biết chừng vẫn lại là hắn - kẻ báo tin cái bóng biết cử động - tay tôi nhắc ống nghe lên.

- Alô, Tạp chí Truyền kỳ, số đặc biệt về chuyện lạ đây!

- Xin hỏi ông Ôn Kiến Quốc có ở đấy không? - Nghe giọng nói là một phụ nữ. Tôi không dè lại có người gọi điện đến tận đây để hỏi Ôn Kiến Quốc.

- Ông ấy không đến tòa soạn. - Đầu dây bên kia im lặng hồi lâu nhưng không gác máy. Tôi gọi tiếp "alô", không thấy ai đáp lại, đã toan bỏ máy thì bất chợt, người phụ nữ lên tiếng:

- Làm thế nào đây? Tôi biết làm sao bây giờ?

Biết đâu Ôn Kiến Quốc đánh lừa cô ta rồi cũng nên? Các bạn trẻ yêu văn học vốn thật thà, chắc không thể ngờ Ôn Kiến Quốc lại có ý lợi dụng. Chẳng trách ông ta đã trát phấn lên mặt mình - Tôi nghĩ thầm, rồi hỏi cô gái kia:

- Vậy cô có số điện thoại của cô ấy không?

- Tôi có gọi đến nhà nhưng không ai nhắc máy. Thật tình ông không biết ông ấy đang ở đâu sao?

- Đành phải xin lỗi cô thôi. Tôi không biết thật. - Suýt nữa tôi buột miệng: " Nếu trót lỡ thì đành cho nạo thôi...".

Chợt cô gái bật khóc:

- Chắc là ông ấy chết rồi. Chết rồi, còn đâu nữa!

Tôi giật mình đứng sững:

- Chết như thế nào?

- Ông ấy... - Tôi nghe tiếng bên kia gác máy, mặc cho tôi gọi mà không có ai trả lời.

Ôn Kiến Quốc chết rồi ư? Tôi thấy lạnh cả người, chợt nhớ tới câu nói cụt lủn không đầu không đuôi của ông ta vào đêm hôm trước. Có thể nó là một vụ ám sát?

Càng nghĩ tôi càng thấy lo, vội thu dọn gọn gàng giấy tờ trên bàn, nói với người ngồi cạnh là mình có việc phải đi ra ngoài một lát. Sau đó, vội vàng bước ra cửa.

Thời tiết ngoài trời lúc đó khoảng dưới mười độ. Vừa ra khỏi văn phòng, một luồng gió thốc vào mặt, lạnh buốt. tôi thọc hai tay vào túi áo, ngoảnh đầu nhìn lại tòa nhà một lượt, nó được che phủ dưới một lớp sơn màu vàng nhạt, trông tẻ ngắt, tựa hồ một con bệnh ốm đã lâu chưa khỏi. Không gian gợi cho tôi một cảm giác không vui.

Tôi lên xe buýt đi thẳng đế nhà Ôn Kiến Quốc. Trước cửa nhà, tôi thoáng thấy một người phụ nữ ăn mặc ấm áp đang lấy tay đập cửa, miệng gọi không ngớt:

- Kiến Quốc... Ông Kiến Quốc ơi!

Tôi tiến đến gần và lên tiếng:

- Xin lỗi, cô đang tìm gặp ông Ôn Khắc phải không?

Cô gái nghoảnh lại nhìn tôi. Hôm ấy trời không lạnh lắm mà cô lại mặc một chiếc áo khoác to đùng, quàng khăn che mặt, tay đeo găng như phải đi dưới trời băng tuyết vậy. Hai mắt cô thâm quầng và dù không nhìn rõ mặt, tôi vẫn thấy làn da mặt của cô tái mét như người ốm. Quay mặt nhìn tôi, cô hỏi ngay:

- Vậy ông là...

Tôi thò tay vào túi lấy ra tấm danh thiếp đưa cho cô:

- Tôi là biên tập viên của Tạp chí Truyền kỳ số đặc biệt về chuyện lạ, tôi có cộng tác với Ôn Khắc. Ông ấy đi vắng sao?

Cô gái cầm tấm danh thiếp, đưa mắt đọc và không kìm được nước mắt:

- Tôi đã đập cửa tới năm lần bảy lượt rồi mà không thấy ông ấy đâu cả. Tôi còn biết làm gì nữa đây?

Tôi bước tới, giơ tay đập mạnh vào cửa. Cánh cửa sắt kêu "oang oang..." nhưng không thấy hồi âm gì. Tôi đoán:

- Chắc là ông ấy đi vắng rồi.

- Tôi phải làm gì bây giờ? - Giọng nói của cô pha lẫn nước mắt - Không thể tìm đâu cho thấy được ông ấy nữa rồi... Vậy tôi...

Không rõ chuyện gì nhưng tôi thấy tội nghiệp cho cô quá. Nghĩ vậy, tôi lại nói:

- Không biết chừng ông ấy chỉ đi dạo chơi quanh đâu đó thôi. Ta cứ tìm chỗ nào ngồi uống nước, chờ thêm một lúc nữa xem sao.

Gần ngay đấy có một quán trà rất hay mà giá cả lại hợp lý. Cô gái thẩn thờ lần bước theo, cứ như người mất hồn, thỉnh thỏang lại sụt sịt khóc thầm. Chúng tôi chọn một chỗ ngồi bên cửa sổ, gọi nước trà:

- Cô uống thêm một thứ gì nóng nhé.

- Thôi. Ông miễn cho. Tôi chả muốn uống gì hết.

Tôi bật cười thành tiếng:

- Đã vào đây rồi không uống sao được. nên uống một cốc gì cho ấm bụng chứ!

Cầm cốc chè nónh hôi hổi, tôi mới gợi chuyện:

- Cô đi tìm ông Ôn Khắc để làm gì vậy?

- Tôi à? Tôi là bạn gái của ông ấy.

Đang lúc nhấp giọng, nghe nói vậy, tôi ngước mắt nhìn cô chăm chú:

- Sao không nghe ông ấy đả động gì đến...

- Tôi với ông ấy chuyện trò với nhau trên mạng khá nhiều, cốt để ông cung cấp bài viết cho tôi. Nào đâu có chuyện trao đổi thân tình gì cho cam. - Ôm cốc trà trong lòng bàn tay rồi với giọng nhỏ nhẹ , cô nói tiếp: "Tên tôi là lâm Bồ Lam; cách đây một năm, tôi gặp Ôn Khắc lần đầu tiên trong hội nghị của Hội liên hiệp Văn nghệ."

Đây đúng là một cô gái trẻ yêu thích văn nghệ. Tôi cười thầm, câu chuyện tiếp theo, không cần phải đóan cũng đã rõ rồi. Chắc hẳn y đã lừa được cô gái vào tròng. Đầu tiên thì ngọt ngào, quyến luyến, rồi đột ngột rời bỏ. Chuyện như thế vẫn diễn ra như cơm bữa, mọi người đã quen rồi nên chẳng ai trách gì được Ôn Khắc cả.

Lâm Bồ Lam lại nói tiếp với giọng đều đều, không thay đổi:

- Mới tháng trước , tôi cùng ông ấy đi du lịch ở Hồ Nam. Hôm ấy chúng tôi đi xa quá, lỡ mất chuyến xe quay trở về khách sạn, phải trọ lạ một đêm ở trong làng.

- Đúng vào cái đêm "khỏa thân trần truồng" ấy rồi - Tôi nhếch mép cười. Hóa ra câu chuiyện hoang đường, phi lý của Ôn Khắc cũng có một phần sự thật; hắn đưa bạn gái đi chơi, kỳ thực cũng có mục đích.

- Ngay ngoài cửa nhà mà hai người trọ có một tổ Ong, đúng không?

Cô gái ngước mắt nhìn lên với vẻ mặt sững sờ:

- Không có, cửa nhà ấy tối như bưng nhưng được cái nó sạch sẽ.

- Xem ra không phải tất cả những gì ông ấy viết ra đều lấy căn cứ từ thực tế. - Tôi cười mỉa. Rồi sao nữa?

Cho đến lúc ấy, Cô ta vẫn chưa kịp tháo bỏ chiếc khăn quàng trên cổ nhưng trong ánh mắt của cô đã lộ vẻ thèn thẹn và cô hơi đỏ mặt khi nói:

- Hôm ấy đúng vào ngày rằm, về đêm, trăng sáng vằng vặc. Bỗng nhiên, chúng tôi nghe thấy tiếng bước chân sát gần ngoài cửa. Tôi giật thót người lại, mặc cho ông Ôn Khắc bước ra ngòai xem có phải dân nhà quê đang ngấp nghé xem trộm chăng?

Tôi tỏ vẻ không hài lòng.

- Cô đang nghĩ xấu về người ta đó. Thế nào là dân nhà quê? Ít học đâu phải là lưu manh, chỉ bọn trí thức mới thiếu đạo đức cbứ nông dân thì cao thượng hơn đấy. Chuyện sao đó thế nào?

- Chúng tôi nghểnh cổ nhìn qua cửa sổ.

- Hai người trông thấy gì?

Ánh mắt cô bỗng lộ vẻ hỏang hốt:

- Tôi trông thấy một người mình trần như nhộng.

- Đàn ông hay đàn bà, độ bao nhiêu tuổi?

- Một ông lã. - Cô đảo mắt, ngước nhìn lên khoảng trống phía trên đầu tôi. - Ông lão trần truồng, mình mẩy chẳng khác gì con ngựa vằn, mảng đen mảng trắng xen lẫn nhau. Lão lê bước chậm chạp trên nẻo đất khô cằn, nứt nẻ... y như một xác người cứng đơ.

Khi nói đến hai chữ " xác người" , vẻ như cô phải cố gắng lắm mới nói nên lời và cảm thấy như có một luồng khí lạnh tràn qua khiến tôi rùng mình.

- Các người không biết đi và nó chỉ nhảy được thôi, đúng thế chứ! - Tôi nói với giọng không dứt khoát. - Xác người chỉ có trong truyền thuyết dân gian mà thôi, bản thân tôi cũng chưa đọc nhưng trong dân gian đều lưu truyền rằng thi hài chỉ nhảy thôi và nó không biết đi.

- Tôi không rõ nhưng chỉ thấy thân hình đó gầy đét y như một tấm ván dùng làm bàn giặt ấy. Chỗ sẫm đen như được quét lên một lớp mực, còn các chỗ khác hiện rõ là màu nâu, không có vẻ gì của một người còn sống cả. Trời rét ghê gớm nhưng nó dường như không biết rét là gì nữa. Nó bước đi, đầu ngẩng cao, miệng há hoác, hú lên một tiếng kéo dài như tiếng của sói rừng, nhưng âm thanh yếu ớt phát ra từ đáy họng.

Tôi sững sờ nghe cô kể, cảnh tượng ấy y hệt câu chuyện Ôn Kiến Quốc viết trong "Tổ Ong" khi ông miêu tả một người trần truồng bước đi trong đêm, nhưng khác ở chỗ, đó là một thiếu nữ có làn da trắng ngần, nét mặt cứng đơ vô cảm, trên thân người có những cái lỗ nhỏ nên toàn thân trông giống như một cái tổ Ong. Tác giả khắc họa rất tỉ mĩ: Trên làn da thiếu nữ, ở mỗi cái lỗ đều có một con nhộng đang cựa quậy. Tình cảnh ấy, cho dù được thể hiện bằng ngôn ngữ sinh động nhưng cũng chưa thật hợp lý, bởi lẽ lúc ấy là đêm tối, nhìn từ xa không thề nào thấy rõ ràng chi tiết như thế được. Nó đủ khiến tôi cảm thấy gai lạnh khắp cả người.

Vậy phải chăng trên thân thể con người kia cũng mang vô số những lỗ nhỏ lỗ chỗ như tổ Ong?
Giả sử có một bàn tay giơ ra, trên mu bàn tay đầy lỗ nhỏ và những con sâu ngọ nguậy ở bên trong, cảnh tượng đó sẽ khiến người ta hãi hùng. Vậy mà Lâm Bồ Lam lại ra vẻ bình tĩnh nói:

- Không, mặc dù thân thể ông lão lồm đốm những vệt đen trắng xen nhau và người gầy gò, da bọc xương nhưng không có vết thương nào cả.

Tôi thở phào. Không sao hết, những gì Ôn kiến Quốc kể chỉ là sự gia giảm, thêm thắt về mặt nghệ thuật chứ không phải sự thật. Rồi nhấp thêm một ngụm trả tôi hỏi:

- Sao nữa thế nào?

- Ông lão lại gần bờ giếng, rồi đột nhiên như người hết hơi, lão ngã sấp, hai tay ôm lấy thành giếng, nằm im không cựa quậy. Chúng tôi hỏang hốt, mặc vội quần áo rồi chạy tới. Ôn Kiến Quốc đỡ lão dậy:

- Ủa bác... làm sao đến nỗi này?

Quả đúng là một cô gái yêu văn học và có tài nữa. Chỉ cần viết lại y nguyên những lời kể trên, cũng đủ làm nên một câu chuyện rùng rợn gởi đến chỗ tôi rồi. Nghĩ vậy, tôi lấy làm hài lòng; chuyến đi lần này của mình, hóa ra lại rất được việc. Chợt cô kể tiếp:

- Bất thình lình, thân hình lão nứt tóat ra...

- Gì thế? - Chả là tôi đang lơ đãng, chưa kịp nghe ra điều cô vừa nói.

- Lão nứt toát người ra! - Giọng Lâm Bồ Lam run rẩy, vẻ khiếp sợ hiện lên trên nét mặt - Trông lão như cái vỏ trứng bị vỡ nát và từ thân lão rỉ ra một chất gì đó màu đen kịt.

- Cái gì? cô nói gì thế? - Tôi không hiểu, chẳng lẽ sau khi thân thể lão nứt ra thì bên trong rỗng không.

- Không có gì hết. Mới rồi lão còn là một con người hẳn hoi, rồi bất ngờ cổ lão tách làm đôi, từ bên trong, nước mực ục ra ngoài và một chất màu đen kịt chảy thành dòng. Toàn thân lão cứ như một tảng băng bị ném vào lò, tan biến ngay trong phút chốc.

Tôi chau mày:

- Liệu có thật như thế không?

Rồi nghe tiếng thở hào hển của Lâm Bồ Lam:

- Tôi như gặp ác mộng, nhưng bữa ấy trăng sáng vằng vặc và ông lão tựa hồ một cây nến cháy ngùn ngụt, phút chốc chỉ còn lại một đoạn ngắn, một chất nước màu đen trào ra. Ngưởi ta nghe tiếng kêu thất thanh của Ôn Kiến Quốc và ông ta đưa tay lên bịt chặt lấy miệng. Tôi cũng chạy quá thêm mươi bước chân nữa, chăm chú nhìn ông lão. Ông nằm bò trên bờ giếng, giờ chỉ còn sót lại nửa thân người. Cảnh tượng quá hãi hùng!

Chương ba : Người lạ lúc nửa đêm(tiếp theo)

-------------------------

Cô ta điên mất rồi? Hoặc cô đang móc ngoặc với Ôn Kiến Quốc hòng lừa bịp tôi. Chỉ mỗi điều là tôi với Ôn Kiến Quốc qua lại với nhau lâu thế, ông không thể chơi xỏ tôi được! Tôi hớp ngụm trà nữa mong khỏa lấp sự sợ hãi trong lòng:

- Thế cái chất nước rỉ ra ấy, nó là gì vậy?

- Tôi cho là nước nhưng rõ ràng không phải. Nếu là nước, nó sẽ chảy xuống chỗ trũng, song cái chất màu đen này lại mỏng tang đến độ không có tí bề dày nào và nó chảy ngược lên. À không phải nó chảy ra mà bò từ từ, sau khi bắt lên miệng giếng thì vỡ òa xuống dưới ấy, tựa hồ ở nơi sâu thẳm có một lực hấp dẫn rất mạnh hút nó xuống vậy.

- Khoan đã... Rốt cuộc nó phải là một thực thể gì chứ?

Bồ Lam hít vào rất sâu như muốn tĩnh tâm lại rồi mới nói:

- Là... cái bóng, một cái bóng còn sống.

Tôi cũng thở gấp, không nín được cười:

- Tôi đến phải nhờ cô Lâm thôi, sau này cô viết truyện cho tạp chí nhé. Bút danh của cô nghe được lắm!

Cô chau mày:

- Ông không tin lời tôi nói hay sao?

- Khó có ai tin được. Cái bóng chỉ là một mặt phẳng hai chiều, nó không có bề dày và cho dù nó to hơn nữa thì chỉ là một vật không có thể tích. Cón người ta sao có thể biến thành cái bóng được. Cái khối nặng trên năm mươi ki lô gram ấy, nó biến đi đâu được nào?

- Điều ấy tôi không rõ. - Cô nghĩ rất lâu rồi mới thốt ra được. - Tôi chỉ biết mình rất sợ mà thôi.

- Đúng thế!

Tôi cũng đâm hoảng, rồi búng ngón tay gọi cô hầu bàn:

- Tính tiền nào!

Bồ Lam đứng phắt dậy:

- Vậy ông giúp tôi được chứ?

- Giúp cách nào đây! - Tôi nói cũng vừa lúc thò tay vào túi áo lấy tiền trả cho cô hầu bàn đang bước lại gần.

- Tôi đang tính đi Hồ Nam một chuyến nữa, quay trở lại cái làng đó.

Tôi đưa ta lên gãi đầu, vẽ nghĩ ngợi rồi nói:

- Cô định mời cả tôi nữa phải không?

Ngó bộ cô như muốn khóc khi nói:

- Tôi chẳng còn biết làm gì hơn nữa. Vậy xin ông, ông hãy cùng đi với tôi được không ạ?

Cô gái trẻ yêu văn học tỏ ra khẩn khiết thật đấy. Tôi ngập ngừng giây lát rồi nói:

- Ngộ nhỡ ông Ôn Khắc biết tôi và cô, hai người cùng đi với nhau, ông ra đòn đánh tôi thì sao? Hơn nữa tôi hết ngày nghỉ phép rồi.

Tôi đẩy cánh cửa kính chờ cho cô ra trước. Bước ra ngoài rồi mà giọng cô vẫn chưa hết run rẩy:

- Có thật ông không muốn đi với tôi không?

- Thật sự xin lỗi cô.

- Chẳng lẽ ông không thể tin một lời nào của tôi sao?

- Cô đúng là con bệnh nan y chạy khắp mọi nơi lo tìm thầy tìm thuốc. May gặp tôi không phải hạng người xấu, chứ nếu cô yêu cầu một người khác đi cùng cô đến Hồ Nam ngay từ lần đầu mới gặp thì chắc hẳn cô sẽ mắc lừa thôi.

- Mắc lừa có gì là lạ, nam cũng như nữ đều thế cả thôi. Trong xã hội này, tôi nào dám hé răng, dầu chỉ là nửa lời với những người tôi gặp. Ngay cả chuyện này cũng vậy, tôi phải kín mồm kín miệng đấy chứ.

Đến đây Bồ Lam im bặt. Tôi đi dấn thêm mấy bước rồi dừng lại, khuyên cô:

- Hay là cố gắng đợi thêm lát nữa, chưa biết chừng ông ấy sẽ quay trở lại cũng nên.

Cô dừng chân đứng lại ngay trước cửa ra vào, người run rẩy như bị lạnh. Bất thần cô cất tiếng , giọng lạnh băng:

- Ông ấy không thể nào về đây được nữa. Không bao giờ!

Cảm nhận được ám thị trong câu nói, tôi ngoảnh lại nhìn cô chằm chằm:

- Hẳn cô còn biết gì khác nữa, cô lâm. Rốt cuộc cô đã biết được những gì nào?

Cô lặng lẽ dùng tay phải tháo chiếc găng ở bàn tay trái ra. Cô làm rất chậm, chiếc găng được lột ra từ từ. Cô không biết cô định làm gì nữa, nhưng cứ đứng lại nhìn, vẻ sốt ruột.

Cởi được găng ra rồi, Bồ Lam giơ cánh tay trái lên cao nói:

- Ông xem đây này!

Tôi bước lên mấy bước để nhìn cho rõ, có lẽ nào nó cũng giống như điều Ôn Kiến Quốc đã từng viết. Xem chừng bàn tay cô cũng lỗ chỗ những lỗ hổng, trong đó có những con sâu ngọ ngoậy. Tuy tự nhủ rằng đó chỉ là chuyện hoang đường nhưng tôi vẫn thấy lạnh cả sống lưng.

Bước lại gần hơn, tôi thấy làn da trên tay cô có vẻ như thiếu máu, nhưng nó sẫm hơn và không có gì đáng ngờ. Nước da trắng, trong như ngọc Hán thạch được lau bóng. Tôi vội hỏi:

- Nào, Cô Lâm muốn chỉ cho tôi xem gì đây?

Cô kéo tay áo lên, miệng cười nhạt:

- Ông không thấy lạ sao?

Bồ Lam nín lặng cho đến khi bàn tay tôi chạm vào da thịt trên cổ tay cô và bất chợt, tôi thấy mình thở sâu, gấp gáp, như có một luồng khí lạnh chạy lan khắp cơ thể.

Cổ tay cô... liệu còn có thể gọi đó là cổ tay hay không? Trên đó có những vòng tròn màu đen, không phải ở ngoài da mà hiện lên từ bên dưới, trông hệt như những lưỡi dao cạo râu phủ dưới một lớp màng mỏng trong suốt. Bề mặt tuy không có gì khác lạ nhưng những sợi màu đen đó như muốn phá bung lớp da để vọt ra bên ngoài. Dẫu cho nó không thật ghê gớm, hãi hùng như tổ Ong mà Ôn Khắc đã viết, song cảnh tượng này thật quái dị?

Tôi chết lịm đi:

- Cái gì đây?

- Tôi không biết - Đoạn cô thả tay áo xuống và đeo găng vào như cũ - Giờ đây, khắp mình tôi, chỗ nào cũng rải khắp những lưỡi dao bào đó và bất kỳ lúc nào chúng cũng có thể thái lát thân thể tôi tê tả thành vô số những miếng thịt mỏng manh. Vậy nên tôi cầu xin ông hãy cứu vớt tôi. Tôi cúi xin ông đấy!

Lúc này trong người tôi chẳng còn cảm thấy gì khác ngoài sự lạnh giá:

- Vậy đã có lần nào cô đi khám bác sĩ chưa?

- Bác sĩ bảo đó là trầm tích của sắc tố, khó mà nói cho rõ được.

- Thế Ôn Khắc, trên người ông ấy có gì khác không?

- Hẳn là có rồi. Ông ta bị trực tiếp, còn tôi thì bị lây từ ông ấy

Trách gì ông ta luôn phải trát phấn lên mặt, hóa ra là để che lấp những đường chỉ màu đen ấy. Chúng cứ như dấu vết còn lại của những đường cắt ngang trên da thịt ông, chúng ăn sâu vào từng thớ thịt và sau đó lại từ bên trong cắt phá ra ngòai.

- Nhưng cô có cảm giác đau đớn hoặc gì khác không?

Cô lắc đầu:

- Chả có cảm giác gì cả, chỉ thấy ghê lạnh thôi. Tôi rât sợ. Tôi sợ lắm!

- Đành phải đi khám bác sĩ thôi. Biết đâu cô đang mắc một chứng bệnh gì?

Trời nắng đẹp nhưng trong người tôi lại phát rét từng cơn một. Không phải vì nhiệt độ bên ngoài, nhưng còn lí do gì thì tôi thật sự không biết.

Tôi đi giật lùi mươi bước chân, gượng gạo cười:

- Mau thu xếp đi khám thôi. Sớm được ngày nào hay ngày nấy.

Ánh mắt cô lộ vẻ thất vọng. Cô nhìn tôi mà không nói. Khuôn mặt cô khuất sau tấm khăn quàng cổ nên tôi không biết sắc mặt cô lúc này ra sao, nhưng có thể đóan chắc rằng những đường chỉ đen sẽ lại xuất hiện trên gương mặt ấy, dọc ngang, ngang dọc phân môi trên với môi dưới, chia tách nhân trung và mũi làm mấy tầng cho đến khóe miệng. Tôi không dám nhìn cô thêm nữa, quay lưng rảo bước, mới được mươi bước đã ngoái cổ lại, Lâm Bồ Lam vẫn còn đứng đó. Dưới tia nắng mặt trời mà sao trông cô cứ như đứng giữa bóng đêm vậy.

Sau khi chia tay với cô, tôi trở về văn phòng như một người đang chạy trốn. Vừa kịp giờ ăn trưa, tôi lấy suất cơm hộp rồi bước vào phòng. Chỗ làm việc có hai biên tập viên nhà gần đó nên đã đi về. Văn Đán thì đang mãi gặm chiếc chân giò. Vừa thấy bóng tôi, hắn gọi to:

- Khang đấy phải không? Sao giờ mới tới, mình tưởng cậu không quay về đây nữa.

Mãi đến lúc ấy, tôi vẫn còn bồi hồi chưa yên vì nỗi kinh hoàng Lâm Bồ Lam vừa mới gieo vào lòng mình, vì vậy khi nghe lời hỏi thăm của Văn Đán, tôi thấy trong người ấm áp trở lại giữa cái thế giới quen thuộc thường ngày. tôi cất tiếng cười vang :

- Cả anh nữa, cũng hết việc rồi chứ?

- Xong đâu đấy cả rồi. Bây giờ lo bông của số tới. Cậu có tin gì hay không, làm cho mình một bài nhé!

- Mình vừa chớp được một câu chuyện. Ôi chà... hay quá đi mất, chỉ phải cái chưa viết ra được thôi.

Tôi ngáp vì mệt mõi nhưng sâu trong tâm trí vẫn còn phảng phất nỗi sợ hãi. Một nỗi hỏang sợ, cảm thấy giá buốt và u buồn nhưng dường như chính cái thế giới chưa ai biết đế ấy lại có sức quyến rũ lạ kỳ.

Buổi chiều tôi tiếp tục đọc bản bông. Tiếng là đọc song đầu óc tôi vẫn bị ám ảnh bởi lời nói của Lâm Bồ Lam. " Cô ấy nói thế nhằm ý gì nhỉ, liệu mọi việc có thật như thế không?" Và tôi sẽ phải nói gì đây, cứ xét theo lý lẽ thông thường thì tất cả những chuyện đó là phi lý, không thể nào có được. Nhưng cái lý thông thường đó liệu có thể cắt nghĩa được hết thảy mọi chuyện hay không?".

Giữa lúc ấy tôi chòang tỉnh khi nghe tiếng Văn Đán nhắc :

- Anh Khang, nghĩ gì mà bần thần ra thế, quên cả ăn cơ à?

Tôi gượng cười:

- Phải rồi, anh Văn Đán, theo anh thì liệu chiếc bóng có thể là một loài sinh vật hay không?

- Sao có thể như vậy được- Văn Đán bĩu môi - Mà nếu thật thế thì chiếc bóng ăn gì để sống nào?

- Cũng phải thôi- Tôi vẫn cười, vẻ gượng ép- cuối thế kỷ XIX, ở nước Anh từng có một nhà văn viết cuốn tiểu thuyết trào lộng nhan đề "Nước mặt phẳng". Ông vẽ nên một thế giới hai chiều, nơi có những con người chỉ là người mặt phẳng.

- Tất cả mọi thứ đều xuất xứ từ những ý nghĩ ba lăng nhăng mà nên- Văn Đán chỉ tay vào cỗ máy vi tính đặt bên cạnh tôi. - Giống như những chuyện đăng trên tạp chí của chúng mình ấy, chúng giống nhau hàng loạt.

Cứ cho rằng những suy tưởng loạn tùng bậy đó cũng có một phần giá trị nào đó trong nghệ thuật song dẫu sao cũng chỉ là sản phẩm của bộ não con người. Như bản thân tôi đây chẳng hạn, tôi làm sao biết được, rốt cuộc thì Lâm Bồ Lam là người thế nào, có chăng chỉ biết hiện giờ cô đã mang cái dáng dấp của một kẻ điên loạn. Mà những người viết bài trên mạng thì hoặc ít hoặc nhiều, điều có sẵn cái chất điên cuồng ở trong người rồi.

Ngày ngày chúng ta ngồi ém mình trong những chuyện điên loạn như thế, trách sao khỏi cũng hóa điên ít nhiều.

Văn Đán cười phởn ra mặt:

- Cái thế giới này vốn dĩ là điên cuồng, và trong con mắt của kẻ điên thì không điên mới đúng là điên, phải không nào?

Ai ngờ Văn Đán lại có thể đưa ra một chân lý làm tôi phải ngạc nhiên đến thế:

- Anh bạn làm tôi bị bất ngờ đấy, không ngờ anh hùng biện hay đến vậy, cứ là phải mở to mắt để nhìn anh mới xong.

- Thôi đi nào, cậu đâu phải là Lý Đĩnh, với tôi thì cậu nói hay mấy đi nữa cũng bằng thừa.

Tôi phì cười:

- Người ta là hoa thơm đã có chủ rồi, anh còn chờn vờn làm gì nữa?

Trò chuyện với Văn Đán, chẳng bao giờ phải giữ mẻ cả, hoặc ít hoặc nhiều, nó đều đem lại cho tôi cảm giác vui vẻ và dễ chịu, rằng thế giới này vẫn yên tĩnh. Vì hàng ngày tôi cứ đắm mình trong những chuyện ly kỳ rùng rợn, hay có dở có, nên tôi mới nghĩ rằng, không biết chừng mình cũng hơi bị điên. Và những người mình gặp, xem ra, hầu hết là những kẻ điên loạn.
Chương ba : Người lạ lúc nửa đêm (phần cuối)

------------------

Hết giờ làm việc, Văn Đán đến gần bên tôi hỏi:

- Hình như hôm nay cậu không phải làm thêm giờ?

- Ừ, nhưng cậu cần gì?

- Rét thế này, bọn mình đi nhậu lẫu nào, thêm chất cay, 50/50 được không?

Tôi vốn không thích rượu và cũng không mê đàn đúm; khốn nỗi hôm nay Ôn Kiến QUốc bị mất tích. lại thêm câu chuyện quái gỡ vừa nghe kể từ miệng của Lâm Bồ Lam làm tôi phát sốt , phát rét lên được. Tố nhất nên đến chỗ đông người nhộn nhạo, mù mịt khói thuốc và hơi rượu, họa may mới lấy lại được tinh thần. Nghĩ vậy tôi gật đầu:

- Được lắm, cứ đúng công thức 50/50 là xong hết.

Dân nhậu nhẹt quanh đây, phần nhiều là những gã độc thân làm trong nhà xuất bản. Họ ba hoa bốc phét và nốc bia như uống nước lã. Khi tan hội về tôi đã chuếch chóang say. Những ngày này không đế nỗi lạnh như hồi đầu đông, nhưng về đêm cũng giá rét chẳng kém. Vừa bước ra khỏi cửa hàng lẫu, gió từ bên ngoài đã thốc tới như những lưỡi dao khứa vào mặt tôi tê buốt.

Tửu lượng của tôi thuộc loại kém, chưa hết hai chai bia mà đã thấy nóng đầu, ù tai, chân bước loạng choạng. Đang dịp cuối năm, chẳng bói đâu ra một chiếc taxi, ngồi chờ ở đây thêm một lát nữa, chỉ e tiêu tán hết chút ít ngân lượng còn lại nhờ chầu rượu vừa rồi. Thế nên tôi cứ men theo lề đường mà đi, vừa đi vừa để ý nhìn sang bên đường, thấy xe thì gọi luôn.

Năm nay không đủ điện, mới chớm đông đã có chủ trương hạn chế dùng điện. Dãy phố nơi tôi đang đi thuộc khu vực bị hạn chế. Đèn đường chỉ thấp sáng được một bên phố và có nhiều cửa hàng ngay bên mặt đường phải đóng cửa. Cả đọan dài vằng tanh, vắng ngắt. Tôi thủng thẳng bước đi, hai tay đút túi áo, tự nhiên thấy buồn vơ vẫn.

Đi hết một phố vẫn chưa gặp được chiếc taxi nào. Dạo này tình hình trị an không ổn lắm, báo chí có đăng nhiều tin tức xung quanh nhiều vụ cướp taxi, phải chăng cũng vì thế mà các bác tài đâm hoảng? Tôi đưa tay lên bẻ lại cổ áo, che kín cổ cho đỡ rét mà gió lạnh vẫn lùa vào từng cơn buốt thơn thớt.

Đén đường chiếu ánh sáng mờ đục và chiếc bóng của tôi hắt xuống, lòa nhòa khơng rõ. Nó cử động theo tôi, lúc giăng dài ra, lúc thu ngắn lại, tựa hồ đang sống thật. Nó làm tôi nhớ lại câu chuyện có phần điên loạn của Lâm Bồ Lam mà giật mình, đó đã không còn là câu chuyện hoang đường khó tin nữa.

Đi đến đầu lối ngõ rồi mà tịnh không thấy bóng một chiếc taxi nào. Gần đấy có một cửa hàng tạp hóa còn mở cửa. Một ông lão thẩn thờ ngồi trông hàng phía trước một cây đèn hơi đang thắp sáng. Tôi đứng lại ngoài cửa, ghé miệnh hà hơi vào hai lòng bàn tay rồi mới nói:

- Tôi mua bao thuốc.

Ông lão, vẻ như không ngờ lại có một người như tôi xuất hiện ở cửa, nên tòan thân run rẩy khi nghe tôi nói. Lão ngẩng đầu lên, khuôn mặt nhăn nheo ấy đầy những đốm đồi mồi:

- Nhãn gì hở ông?

Tôi chỉ vào một bao, lão cầm lấy trao tay cho tôi:

- Dạo này ông lão có đắt hàng không ạ?

Đó là câu hỏi để gợi chuyện; trong cái đêm mùa đông lạnh lẽo với cảnh sắc kỳ dị và quái đản như nơi này mà được trao đổi một đôi lời với ai đó, đúng là có thể sởi ấm được lòng mình. Ông lão sẵng giọng trả lời:

- Hàng với họ gì, ngay cả ma quỉ cũng chẳng dám mò đến nữa là. Lão đành phải đóng cửa thôi.

Bị lão bóp chát thẳng thừng mà tôi không hề cụt hứng:

- Thời buổi này ai cũng khó cả, thưa lão.

Mua thuốc rồi tôi bước tiếp, vừa đi vừa đưa tay rút một điếu, châm lửa. Vừa rời tay châm lửa thì thình lình, như có một dòng điện chạy dọc theo người, tôi đứng sững tại chỗ.

Từ phía trước mặt, thỏang nghe như có tiếng bước chân vọng lại, khoan nhặt nhẹ nhàng nhưng rất chậm, dường như của một người chân đi giày đang tiến lại gần.

Đêm hôm khuya khắt thế này, ai còn ra phố làm gì nhỉ? hay là xúc cảm của tôi đã sai lạc rồi. Tôi nghi nghi hơặc hoặc nhìn về phí atrưốc, nhưng nỗi lo sợ tựa như một thứ dầu đen thấm vào tờ giấy, nó đã thấm đẫm toàn thân tôi từ lúc nào không biết. Các khớp xương trên người như khô cứng lại, tôi không còn làm chủ được bảnt hân mình nữa, chân cứ dấn bước về phía trước. Dường như bước chân kia bị nhiễm ma lực kì dị của nam châm. Rồi nó ru tôi vào cơn ác mộng- Toàn bộ cơ thể, chỉ trừ mỗi cái đầu, đều không chịu sự sai khiến của tôi nữa.

Tiếng bước chân mỗi lúc một gần hơn. Ai đó cất bước rất chậm và tiếng bước chân vọng lại, nghe thoang thóang, hệt như giọng nói mơ hồ, không rõ rệt của một ai đó, chỉ mỗi tiếng đưa chân chạm đất là như có thể trông thấy được. Đến nỗi tôi gần như đã kịp hòa nhịp, bước đều cùng người đó. Cảm giác này đến với tôi thật lạ lùng! rõ ràng mình biết hết tất cả và mọi vật hiện ra trước mắt y như cũ nhưng sao tôi cứ ngỡ là mình đang mơ. Mỗi khi tôi bước thêm một bước, nhất là lúc bàn chân chạm đất và khí lạnh của đất truyền qua đế giày thì dường như tôi cũng nghe thấy tiếng bước chân của người đó. Phải chăng đã có một sợi dây vô hình cột chặt tôi với hắn.

'' Đành phải dừng lại thôi...Mình đi nữa để làm gì nhỉ?"

Ngờ đâu, nỗi kinh hoàng cũng như một chất keo dính chắc, cho dù tôi đã cố hết sức để đứng lại bằng được nhưng rủi thay, đôi chân lại cứ bước đều đều, nhịp nhàng, từng bước một, chân sau tiếp nối chân trước, dẫu chậm chạp nhưng kiên quyết tiến về phía trước.

" Không chừng mình đang chiêm bao thấy một cơn ác mộng?" - Tôi nghĩ lung lắm, quên cả những ngón tay mình đã tê dại, mất hết cảm giác. Đúng lúc tôi tiến đến khúc rẽ ngoặt thì chỉ thiếu mươi bước nữa là đụng phải một người chạy bổ từ trong ngõ ra. Với vẻ tuyệt vọng, tôi đảo mắttrông về [hía trước , sao nó phảng phất giống như một tảng băng xốp trong suốt bị thân thể tôi lao vào phá vỡ, tạo ra một lỗ hổng lớn, không khí bốn chung quanh bị dồn nén ùa vào hình thành một cơn lốc xóay dữ dội.

Trời ơi... Ngón tay tôi đau buốt dữ dội như bị kim châm, kéo theo là cơn đau đang nhanh chóng lan truyền khắp cơ thể, cả trí não tôi cũng oằn oại, nhức nhối, chân bước lảo đảo, ngã vật vào tường.

Không dè đó chỉ là điếu thuốc cháy đến đầu ngón tay, cái bóng vì thế không lấy gì làm lớn so với nỗi kinh hoàng trong lòng tôi đang lan tỏa, mờ mịt như sương mù. Tôi ngoảnh đầu nhìn lại cửa hàng lúc nãy giờ đã lùi xa tít tắp cùng với ông lão đang khuân những tấm ván cửa lo đóng kín mặt tiền. "P61p...Pốp" Tiếng va đập của ván cửa âm vang, xuyên qua không gian làm người tôi tê dại đi như một khúc gỗ. Và ánh sáng trắng nhờ của cây đèn hơi cũng bị che khuất dần bởi những tấm ván cửa lần lượt được lắp kín đầy khung cửa.

"... Mình quay trở lại, có lẽ tốt hơn?" Nhưng biết ăn nói thế nào với ông lão, không chừng ông nghĩ mình là quân trộm cắp bất lương thìsao? Còn đi nữa thì xin chịu vì không thể biết được ai đang rình rập mình ở sâu trong ngõ kia?

Đang lúc ngập ngừng bỗng nghe đánh "phập" một tiếng và cả một bên đèn đường tắt ngấm. Trời tối đen mịt mùng, tôi tưởng mình bị một tàng đá lớn từ trên trời rơi xuống đè sập. Trong khoảnh khắc ấy, tôi trông thấy đôi bàn tay lơ lửng ló ra nơi đầu ngõ hẻm.

Biết đâu nó chỉ là cảm giác sai lạc? Mắt tôi vẫn chưa quen được với bóng tối vừa bất thần đổ xuống; trông về phía trước, không thấy gì hết ngoài những đốm trắng nhập nhòe lúc xa lúc gần... và tôi lại càng không thể tin là mình đã sai. Hai bàn tay ấy, năm ngón tay cong queo lấp ló chìa ra từ bên trong ngõ. Bởi rồi, giả thử tôi không bị bỏng nơi đầu ngón tay, dễ thường tôi đã kịp đặt chân tới đầu ngõ, và có thể hai bàn tay này đã chạm lên một bên vai tôi rồi.

- Ai đấy?

- Là ông đấy ư?

Tôi sửng sốt trước âm thanh đập vào tai tôi, lạ hoắc, khô khốc, lạnh lùng song giọng nói nghe quen như đã từng gặp ở đâu:

- Vậy ông là... - Tôi nói lúng búng trong miệng.

Tôi bỗng thấy sợ gặp người này. Nỗi sợ tự nhiên len lên từ trong lòng, hệt như trẻ con sợ rắn và rết vậy. Tôi sợ hãi vì không trông thấy hắn. Song nghe trong giọng nói của hắn thì dường như là hắn có biết tôi, thế nhưng tôi không thể nhận ra đó là tiếng nói của ai. Hắn hạ thấp giọng, khẽ cười, vẻ gượng ép như tiếng một hòn sỏi lăn, ráo hỏanh. Rồi cũng đột ngột như như lúc tiếng bước chân từ đâu dội lại, song lần này, âm thanh thóang nhẹ, nhỏ dần và mỗi lúc một xa hơn, có tiếng rung của một quả chuông nhỏ ngân dài và vọng xa, hồi lâu mới lắng xuống. Gắng gượng vượt lên nỗi sợ hãi, tôi len lén men theo vách tường, thò đầu ngó vào trong ngõ. Không có đèn đường, suốt dọc ngõ sâu chìm trong bóng đêm, chẳng khác nào một đường ống dài dặc, đen ngòm. Cảm giác dường như nó cũng có trọng lượng chèn nặng vào phía giữa. Và tôi chỉ kịp nhìn thấy, vút qua nơi đầu mút của khoảng tối, một chiếc bóng đen, không biết nó rẽ vào góc nào!

Là ai không biết? - Tôi thở sâu cho bớt sợ. Giá như mình rượt lên được, chưa biết chừng có thể đuổi kịp hắn...Vô tình tôi bước một bàn chân vào lối ngõ. Gan bàn chân mát lạnh rồi nhoi nhói như bị kim châm khiến tôi rụt chân về, quay trở lại nơi dưới ánh đèn đường ở bên ngoài. Nhờ đấy tôi thấy người ấm trở lại, vẫn biết rằng tự tôi đang đánh lừa chính bản thân mình.

Dưới đất lộ ra một vật gì đen đen, ban nãy tôi vừa giẫm phải nó. Một lần nữa tôi lại liếc mắt nhìn xéo vào trong ngõ, từ chỗ sáng đèn trông vào, ngõ sâu càng trở nên thâm u, đặc quánh. Tôi không dám nhìn thêm nữa và cúi xuống nhặt vật ở dưới chân mình, đưa ra trước mắt, tôi thảng thốt, bàng hoàng cả người. Đó là chiếc nhẫn đeo ở ngón tay cái, bằng đồng, trên mặt có những đốm loang lỗ là vết tích bị bào mòn. Bốn bề vắng tanh không một bóng người, tôi xòe hai bàn tay quờ quạng rờ tìm trong không khì cái mùi hôi tanh khó chịu. Khôngh phải mùi tanh của cá, cũng không phải mùi xú uế, rửa nát mà là mùi tanh tưởi như của gỉ sắt. Và giữa khỏang không trước mắt dường như vẫn còn lưu lại cái bóng thân hình của hắn, nó lạnh ngắt như một cơn ác mộng không bao giờ tỉnh thức được nữa.

Tôi rùng mình trong cơn giá lạnh ghê người. Khí rét đêm khuya như bệnh tật thấm sâu vào vào mọi vật xung quanh. Tôi không còn lấy đâu ra hơi sức để chống đỡ với sự rét buốt, và nỗi kinh hoàng dường như không bao giờ tan biến khỏi chốn này. Cứ thế, tôi lao mình về phía trước. Sau mươi bước chân đến được đầu ngõ, lúc ấy tôi mới đi chậm, ngoài cổ trông lại khúc đường rẽ ngoặt tưởng chừng nó là một cửa hoang của lòai dã thú ngày nằm phục, đêm mò ra tìm mồi. Quanh quất nơi đây chỉ có khí lạnh âm u khiến tôi không còn muốn nấn ná thêm nữa. Đút chiếc nhẫn đeo ngón tay cái vào túi áo, tôi bước tiếp.

Một đường phố chạy ngang ngay phía trước mặt. Khác với dãy phố bị hạn chế dùng điện vừa rồi, đường phố này sàng trưngvà có sự ấm áp của hơi người. Sau khi đặt chân lên đường phố, tôi khom người, hai tay đặt lên đầu gối, thở bằng miệng từng hơi dài một.

Đi trên đường, cái mùi nồng nặc của mồ hôi người mà chỉ những lúc đêm về khuya mới cảm nhận rõ, dường như muốn báo cho tôi biết, xung quanh đây đều là những con người giống như tôi. Ngoảnh mặt về phía sau nhìn lại quãng đường vừa đi qua, tôi thấy ngôi làng ấy vẫn thấp thoáng ánh điện nhưng vì xuyên qua một lớp kính mờ nên trông không rõ. Còn cả dãy phố thì tối om như bị ma ám.

Tôi bước lên một chiếc taxi đã chật cứng người, không ai muốn nhường nhịn ai hết. Vậy mà trong cái không gian nhỏ hẹp này, tôi lại thấy nó yên ổn hơn không biết bao nhiêu lần so với nơi đường phố rộng thênh thang ngoaì kia.

- Ông đi đâu đấy?

Thấy tôi vẫn nín thinh suốt từ lúc lên xe tới giờ, ông tài tỏ vẻ sốt ruột, biết đâu ông còn nghi ngại liệu tôi có phải là một tên cướp đường hay không? Sau khi tôi cho biết địa chỉ, người lái bật sáng đèn ngầm và cho xe chạy tiếp. Về đêm, ít xe cộ qua lại nên ông chạy với tốc độ nhanh. Đoạn đường kia, thoáng cái đã bị bỏ lại phía sau. Tôi ngồi dựa lưng trên ghế, bỗng nhiên thấy ươn ướt hai khóe mắt.

Dĩ nhiên đây không phải nước mắt xúc động mà là nước mắt sợ hãi.

" Con người ấy, rốt cuộc hắn là ai"

Tôi cứ nghĩ hoài. Bất chợt, một ý nghĩ vụt thoáng qua qua đầu, tựa như tia sáng của sao đổi ngôi.

- Là ông ấy rồi? - Tôi hét lên.

" Chát", tiếng xe rít phanh đứng lại. Tôi mất thăng bằng, suýt nữa bị hắt ra ngoài cửa xe, hai tay bám vội vào thành ghế. Ông lái nhìn tôi trừng trừng, ánh mắt lộ vẻ nghi hoặc:

- Ông vừa trông thấy ai thế?

- Khôing sao hết, tôi đãng trí đấy thôi. - Tôi cười vẻ gượng gạo.

- Không việc gì thì đừng làm ồn lên nữa. - Ông tài gắt gỏng nhắc nhở - Đêm hôm khuya khoắt thế này mà ông còn làm người ta hết hồn.

- Tôi xin lỗi. - Đang lúc ngồi trên xe chẳng biết làm gì hơn ngoài câu xin lỗi suông nhưng tôi vẫn cố vớt vát - Sau này tôi không thế nữa.

Bóng Hồn
Chương 04 : Ác mộng


Về đến nhà, lúc thu tiền vé, có lẽ ông tài đã tính gộp cả lệ phí " hao tổn tinh thần" vào đó, nhưng tôi chẳng còn bụng dạ nào mà tranh cãi, cứ lặng thinh bước từng bước một lên gác, mang theo cả nỗi sợ hãi trong lòng và ngẫm nghĩ mãi về cái người chỉ nói với tôi một câu ở khúc rẽ ngoặt vào lối ngõ.

Tiếng nói ấy xem chừng đã khác trước nhưng ngẫm kỹ thì đúng là giọng của Ôn Kiến Quốc rồi. Đấy là chưa kể đến chiếc nhẫn đeo ngón tay cái mà tôi từng trông thấy trên ngón tay của ông ta.

Đêm hôm khuya khoắt mà hắn chặn cổ người ta ngay trong ngõ hẻm? Tôi rùng mình, mặc dù đã mặc rất ấm nhưng người tôi vẫn run lên vì rét.

Một số người có bệnh trong tâm tưởng thường biến đổi thành hai con người khác nhau vào ban ngày và ban đêm, như Stevenson từng tả về JekyII và M. Hyde là một thí dụ. Vậy phải chăng ở Ôn Kiến Quốc cũng là trường hợp bị phân liệt về mặt nhân cách?

Sau khi ngồi vào chỗ bên bàn máy tính, tôi lấy chiếc nhẫn đeo ngón tay cái ra xem. Một chiếc nhẫn rất cổ, nó gần giiống như những chiếc nhẫn cò từ thời nhà Thương, nhà Chu nay bày ở viện Bác Cổ. Bằng chứng là trên nhẫn có khắc hình con "Thao thiết", và một cái mặt quỉ nanh ác, hai bên là hoa văn con rồng. Tôi được biết trong sách cổ người ta gọi nó là con "Phì di". Nhẫn như làm từ đồng xanh, nhưng không thấy có gỉ sắt. Tôi thử đeo vào đầu ngón tay cái nhưng không được vì chiếc nhẫn này thuộc cỡ nhỏ hơn.

Nhưng đã có chuyện gì xảy ra với ông ta? Tôi cố sắp xếp lại cho mạch lạc những gì xảy ra, cả những lời Lâm Bồ Lam đã kể, dù không thật đáng tin vì bản thân cô cũng dở điên dở khùng. Nhưng nếu hai người đều điên cả thì nguyên nhân vì sao?

Đầu óc tôi rối bời không làm sao lần ra được đầu mối. Đem về khuya, nhiệt độ tụt xuống không độ và không khí gần như ngưng tụ, đóng băng. Toàn thân tôi lún sâu trong chiếc ghế tựa, nó giá lạnh như một khối băng khiến tôi nhấp nhỏm, ngồi không yên chỗ. Chiếc nhẫn tôi cầm trong tay mỗi lúc một lạnh, tựa hồ một mảnh băng. Đầu ngón tay tôi tê dại hẳn đi, không còn cảm giác nữa. Những chỗ tiếp xúc với chiêc nhẫn bỗng nhói lên như vô vàn mũi kim đâm vào da thịt...

Bất ngờ, tôi quăng luôn chiếc nhẫn xuống mặt bàn, nó nảy lên liên tiếp, kêu đánh "keng" rồi nằm im một chỗ. Nỗi khiếp sợ vượt quá mức chịu đựng của tôi; cố lấy những ngón tay tê buốt rút từ trong bao ra một điếu thuốc, chật vật lắm tôi mới đốt lửa được. Tôi rít sâu để hơi khói nồng nặc tràn đầy hai lá phổi.

" Hút thuốc là một thói xấu, hút thuốc có hại cho sức khỏe". những kẻ buôn thuốc lá làm bộ " vừa ăn cướp vừa la làng" đã cố tình cho in dòng chữ này lên vỏ hộp. Nhưng phần đông mọi người vẫn nhắm mắt làm ngơ, đắm chìm với chất Nicotin; trong đó có tôi. Tôi nhắm mắt tận hưởng cảm giác đê mê, cho đến lúc không nín thở được nữa mới nhả cho hơi bay ra.

Tôi mở to mắt.

Trong phút chốc, một cảnh tượng kỳ lạ bày ra ngay trước mắt. Bộ máy tính quen thuộc không cánh mà bay, thay vào đó là một khu rừng đen ngòm.

Cây rừng ken dày san sát, trời về đêm nên mọi vật tối đen. Khi có gió thổi qua, tất cả đều lay động, không màu sắc, trông giống như tảo biển bồng bềnh. Sự vật lặng im như đón đợi hiểm nguy đang rình rập.

" Phải chăng đây là một giấc mộng?" - Tôi tự nhủ. Dẫu biết thế, nên tôi vẫn không tài nào tự giải thoát khỏi nỗi sợ hãi đang nhen nhòm trong lòng. Với cặp mắt rầu rĩ, tôi đứng dậy nhìn xuống dưới chân. Sàn nhà không còn là bê tông nữa, nó chuyển thành đất bùn nhão nhoét có màu đen bám lấy gót chân. Vừa rồi tôi đã ngồi lên một tảng đá hình thù quái lạ.

Tôi đã đến đây lần nào chưa? Cảnh mộng là sự phản ảnh của hiện thực nhưng tôi không tài nào nhớ nơi này. Giấc mơ, cuối cùng vẫn chỉ là giấc mơ. Tôi trông về phía trước, cánh rừng tựa như một vật sống, nó lay động trong không gian tĩnh lặng, nguy hiểm nhưng quyến rũ lạ kỳ.

Ngay nơi bìa rừng, có một người giơ tay vẫy tôi:

- Đấy đây nào?

Rồi người đó như thốt lên:

- Đến đây, nhanh chân lên nào!

Tôi tiến thêm một bước. Đất bùn dưới chân như cơ thể của một con vật. Tôi hoảng hốt đi tiếp, trông rõ bóng người trước mắt tôi mỗi lúc một to hơn.

- Rốt cuộc mày cũng đến.

Hắn nói, không hề phát ra âm thanh. Bóng đen mang hình người. Tôi trông thấy lờ mờ chiếc mặt nạ và thấp thoáng dáng hình thân thể một con người, dường như nó còn đen thẫm hơn cả xung quanh. Đúng thực là một cái bóng.

Tôi bước đi như người không hồn, hắn quay người lại, và hình như lúc ấy, trên khuôn mặt xuất hiện nụ cười. Nhưng trời tối đến nỗi tôi không làm sao xác định cho được. Gió vẫn thốc tới, thốc qua tay áo; cổ áo, xống áo tôi không còn dính sát vào người nữa. Tất cả diễn ra trong lặng im và tịch mịch.

Có phải là một giấc mơ không lời? Tôi nghển cổ nhìn lên trời. Không thấy trăng. Bầu trời đen ngòm, chỉ mơ hồ tưởng tượng ra những đường nét bao quanh. Tôi đi theo người đó vào trong cánh rừng.

Một con đường. Một lối mòn uốn lượn quanh co. Cỏ dại như lửa đỏ, vùi lấp lên khắp mặt đường đi. " Giữa rừng có hai nẻo đường". - Đó chính là câu mở đầu trong bài thơ nổi tiếng của Robert Frost. Nhưng với tôi, bây giờ chỉ có mỗi một con đường và tôi bị buộc phải đi theo hắn.

- Có trông thấy gì không?

Hắn vụt đứng lại, chỉ tay về phía trước. Với ánh mắt đầy vẻ trầm tư, tôi nhìn theo hướng hắn vừa chỉ. Đó là một đống lúa sau vụ gặt hái với cái ụ nhô cao nơi đầu bờ.

Là một miệng giếng, ngay bên bờ có một người quỳ sụp ở đó.

- Đây mới là sứ mệnh của ông.

Hắn nói một cách vô thanh và như hoà điệu với lời hắn nói, người đang quỳ nơi bờ giếng kia, tức thì cúi đầu, khom nửa người xuống dưới miệng giếng, cùng lúc, toàn thân y giãy giụa như đang bị điện giật.

Tôi hoảng hồn vì nhận ra con người xấu số kia đang muốn chết, dẫu chỉ là một giấc mộng, nhưng tôi vẫn không thể không lao tới, đưa tay túm chặt hai vai gã.

Dù chỉ là trong mơ nhưng chắc không ai trông thấy chết mà có thể làm ngơ được. Khi hai cánh tay tôi đưa ra, bất thần tôi thấy mình đã lầm to, tưởng đâu đó là con người lao đầu qua miệng giếng, ai ngờ cơ thể hắn đang bị tiêu tan tựa hồ một cây nến sản xuất thủ công đang tan chảy, chỉ mỗi một điều lạ là không thấy tâm bấc của ngọn lửa. Ở đấy, một dòng nước đen ngòm chảy ra.

Không đúng, không phải là dòng nước đen mà nó là một cái bóng đang rập rình hình thành.

Tôi không sao hiểu nỗi những gì vừa trông thấy; ngẩng cao đầu lên, tôi đưa mắt nhìn chằm chằm vào người đã dẫn tôi đến đây. Hắn đứng ở chỗ chỉ cách xa tôi chừng năm, sáu mét đường. Đã có chút ánh sáng chiếu vào khuôn mặt hắn nên có thể nhìn thấy rõ hơn ngũ quan của hắn. Tuy nhiên, dường như ngũ quan của hắn cũng đang tan vào trong đêm tối nên tôi đã phải nhọc lòng mà chẳng được gì.

- Chuyện dâm dục đều kết thúc như thế cả thôi!

Hắn nói không có tiếng, còn làm bộ cười nữa. Người tôi nổi gai ốc khi thấy hắn ngẩng đầu lên với khuôn mặt phơi ra dưới ánh sáng vàng vọt.

Là Ôn Kiến Quốc - Con người đã ám ảnh tôi trong giấc mộng. Đúng ông ta rồi, chỉ có điều là trên mặt ông ta giờ đây hằn ngang những vạch đen, như những vết rạch cắt sâu, ngọt xớt của lưỡi dao bào rất sắc.

A! Cuối cùng tôi cũng gào lên được một tiếng, không cần giữ ý tứ, hơn nữa cũng vì ngón tay tôi bỏng rát không chịu nổi. Bất thình lình, tôi nghe thấy tiếng mình nói, bầu không khí trong lành xung quanh thoắt cái đã trở nên vẫn đục và nóng ngột ngạt. Khoảnh khắc ấy tôi mới chợt nhận ra mình vẫn ngồi y nguyên trước bàn máy tính. Trên màn hình xuất hiện những biểu tượng của Microsoft.

Giấc mộng ấy, tôi nghĩ... bàn tay tôi gí chuột, màn hình thoắt cái sáng lên và xuất hiện trang chủ tôi đọc dở trước lúc ngủ quên. " Bạn có muốn du chơi nơi thế giới cảm giác muôn màu muôn sắc hay không? Chần chừ gì nữa, hãy kích chuột đi thôi" - Quảng cáo Games trên mạng đang quyến rũ tôi đây.

Tôi xem xét kỹ ngón tay mình, điếu thuốc mới rồi châm vào giữa ngón trỏ và ngón giữa, vết tích còn nguyên. Những ngón tay bị khói thuốc hun lâu ngày, có chỗ đã bám màu nâu sẫm. Hút thuốc lá có hại cho sức khỏe. Có lẽ đó là câu nói thật duy nhất của những người kinh doanh thuốc lá. Nhưng tôi chỉ e rằng cho đến lúc lá phổi tôi tích đầy chất Nicotin và mắc bệnh nan y thì ngón tay tôi đã bị thiêu rụi mất rồi còn đâu nữa? Như bữa nay chẳng hạn, ít nhất thì tôi đã bị bỏng tới hai lần rồi.

Vết bỏng trên ngón tay tôi vấy đỏ, lên cơn giật đến nỗi tôi nghe thấy cả nhịp đập của mạch máu. Mỗi lần chiêm bao thấy ác mộng, tôi những tưởng mình đã bước sang thế giới bên kia, không thể tin rằng mình vẫn còn sống sót!

Dưới mặt đất, điếu thuốc hút dở tôi vừa vứt xuống, chốc chốc lại lóe sáng đốm lửa tàn. Tôi nhặt nó lên bỏ vào cái gạt tàn và dụi tắt lửa. Chiếc gạt tàn đã lâu rồi không có người đem đi đổ, lúc này chứa đầy những đầu mẫu và tàn thuốc bốc lên một mùi cay xè, khét lẹt, rất khó chịu. Thoắt cái, tôi lại nghĩ tới cơn ác mộng ngắn ngủi nhưng cũng đủ làm tôi hoảng hồn. Cảnh tượng tôi thấy trong mộng giống hệt lời kể của Lâm Bồ Lam. Vậy cớ sao tôi không mơ thấy cô ta mà một lần nữa lại là Ôn Kiến Quốc xuất hiện và len lõi vào trong giấc mơ của tôi.

Đêm khuya, nhiệt độ hạ thấp dần. Ở giữa cái thành phố không có lấy một ai là người thân này lại càng cảm thấy rét đậm hơn; tôi thầm nghĩ vậy và bỗng thấy buồn nôn nao. Tôi muốn khóc.

Tôi tắt máy tính định sẽ đi tắm, nhưng nước nóng đã hết mất rồi. Tôi lấy ít nước lạnh để rửa chân. Sau đó cởi quần áo rồi chui luôn vào trong chăn. Cung cách ăn ở của những tay chưa vợ đều như thế cả. Chỗ tôi được xem là sạch sẽ và ngăn nắp hơn cả, vậy mà mép chăn đắp cũng loang lỗ những vệt bẩn lẫn dầu mỡ và bốc lên mùi hôi chua loét. Lâu dần, những thứ mùi đó trở nên thân quen, nó gieo vào lòng tôi cảm giác ấm áp. Nằm lơ mơ một lát, tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
Chương 4 - tiếp theo


Lúc tỉnh dậy, trời đã sáng rõ, tôi hối hả đến ngay tòa soạn mà vẫn muộn giờ, đoán trước sẽ phải nghe Giám đốc lên lớp một hồi. Đúng lúc tôi ngồi vào bàn làm việc thì anh chàng Văn Đán không biết từ đâu bước tới, hỏi han vồn vã:

- Chào Khang nhé, hôm qua cậu say rồi phải không?

- Anh làm tôi phải nhắm mắt uống liều.

- A ha, ai ngờ tửu lượng của cậu lại kém như thế. Hôm qua, bọn này còn thấy một gã say mềm bước đi chân nam đá chân chiêu, cứ ngỡ là Khang ta đi lạc đường cơ đấy.

Dứt lời văn Đán ngáp dài, ngồi sang một bên lo công việc của mình. Tôi cũng ngồi vào chỗ sửa soạn đọc bản thảo của số tạp chí tiếp theo. Lúc mới ngồi xuống, người tôi vẫn đau như dần, may nhờ hơi men vẫn còn hiệu lực đã giúp tôi đọc loáng thoáng những dòng chữ trên màn hình.

Đọc qua một lượt, tôi thấy chưa có bài nào đạt yêu cầu; tôi mở hòm thư thử xem trong những bài gởi tới có bài nào dùng được không. Hòm thư mở ra, có tới mấy chục bài viết nhưng hầu hết là đoản văn và những bài có dung lượng một đến hai KB. Tôi chọn lấy một bài có độ dài mười mấy KB, nội dung kể chuyện một xác chết giết người, cải biên dựa theo tập bút ký của người Thanh. Giọng văn không có gì đặc sắc, cho thấy sức tưởng tượng của người viết còn kém.

Giữa lúc ấy, bỗng nghe tiếng cười to của Văn Đán rồi thấy tiếng của một người bạn đồng nghiệp:

- Anh Văn Đán có chuyện gì mà phởn thế?

- Thì đây, lại có thêm một người nữa nói hắn trông thấy một chiếc bóng biết tự cử động. A ha... Hóa ra bây giờ mọi người đều chuộng loại chuyện này.

- Chưa biết chừng họ bị ảnh hưởng vì xem phim Xfile, trong đó có một tập nói về chiếc bóng giết người... - Riêng tôi chưa xem Xfile nên chưa kịp hiểu hết câu chuyện họ đang bàn cãi với nhau thì đã nghe Văn Đán lên giọng hùng hồn:

- Đúng rồi, tôi xem bộ phim ấy rồi. Chiếc bóng đó có thể lách qua khe cửa đi vào trong. Người bóng vừa dán lên cánh cửa, thoắt cái đã biến mất, như luồn qua vậy. Thì ra người Mỹ họ có trí tưởng tượng tài tình thật, tôi e rằng người Trung Quốc không thể có nổi những bộ phim như thế.

Tôi nói xen vào:

- Chuyện bịa đấy mà. Chiếc bóng chẳng qua là tia sáng do có vật cản trước mặt mà nên, còn như bị ngăn cách bởi cánh cửa thì làm thế nào hình thành chiếc bóng cho được?

- Nhưng đây không phải chiếc bóng, nó là một loài sinh vật cơ mà. Một thứ sinh vật hai chiều.

Tôi bật cười:

- Đúng là một lũ dối trá. Chiếc bóng, nếu là sinh vật thì nó lấy gì để ăn nào?

Câu nói này vốn do Văn Đán sực nhớ ra nên nhe răng cười:

- Tôi biết cậu Khang có trí nhớ khá lắm, đã là câu chuyện thì sao cố phải cố làm cho nó thật minh bạch làm gì chứ. Cũng như ta lấy khoa học để giải thích phim kinh dị, liệu có giải thích nổi không?

- Anh nói phải lắm, tất cả các phim kinh dị rùng rợn đều giống nhau cả. Nếu không có ma quỉ thì coi như bộ phim kinh dị đó đã tự làm mất đi tính chất hoang đường, huyễn hoặc của nó. Còn nếu có yếu tố ma quỉ thì bộ phim đó lại không phù hợp với logic cuộc sống. Về cơ bản là như thế. Hết.

Tôi xếp chuyện dài này vào một hồ sơ riêng phòng trường hợp không có bài hay hơn thì sẽ dùng nó cho số tạp chí kỳ tới. Sau đó tôi còn đọc thêm một số truyện nữa, phần nhiều vẫn là những truyện rất ngắn. Trăm chuyện như một, đều rập khuôn theo một công thức sẵn có: khơi mào câu chuyện rồi phát hiện có ma, nếu thay đổi họ tên nhân vật trong truyện thì sẽ thấy chúng được viết na ná như nhau. Cách sử dụng từ ngữ, tu từ rất vụng, rõ ràng chỉ thuộc trình độ học sinh trung học. Thậm chí có một bài viết với trìch độ của học sinh tiểu học bởi vì có mấy chữ tác giả không viết được bằng chữ phổ thông nên đảnh phải viết bằng phiên âm la tinh.

Đọc xong mười chuyện, tình cờ tôi phát hiện được một hộp thư khá quen thuộc.

Nó là của Ôn Kiến Quốc.

Một lá thư rất ngắn, chỉ có hơn hai mươi bộ, nghĩa là khoảng hơn mười từ đơn, chắc hẳn không phải là bài gởi đăng báo. Tôi mở bức thư để đọc và không khỏi giật mình:

Ông ta viết:

- Ông đấy à? Cứu tôi với, tôi chết đến nơi rồi.

Cuối câu lẽ ra phải có dấu chấm than song ông ta bỏ, không đánh dấu. Xưa nay Ôn Kiến Quốc viết rất đúng văn phạm, trau chuốt từng từ từng câu. Như đoạn vào đầu chẳng hạn, bao giờ ông ta cũng để cách hai khoảng, các dấu chính tả không bao giờ có sai sót. Tôi đâm nghi ngờ, hình như không phải tự tay ông ta viết ra.

"Không có lẽ đây lại là trò đùa?" Tôi đâm sốt ruột. Ôn Kiến Quốc chỉ là cộng tác viên của tôi, hai chúng tôi không thân thiết đến mức có thể trêu chọc nhau được. Vậy rốt cuộc ông ta định giở trò gì đây?

Tiếp nữa, tôi đọc thêm một số văn bản khác và một số truyện ngắn, Trong đó, có một truyện dài hơn một ngàn chữ viết rất kỹ, lời văn điêu luyện, tên ký hình như của một phụ nữ. Truyện này có thể đăng tạp chí được nên tôi copy một bản và viết thư thông báo cho tác giả biết bài viết sẽ được sử dụng. Số văn bản còn lại tôi quăng tất vào sọt rác. Đúng lúc định nhấn phím Delete thì bàn tay đang cầm chuột của tôi chợt chững lại:

" Là ông đấy ư?" Mấy chữ này trong lá thư của Ôn Kiến Quốc có nghĩa gì?

Tôi thấy lạnh cả người, mặc dù trong phòng vẫn chạy máy điều hòa. Tôi choàng nhớ lại con người tôi gặp đêm hôm qua.

Tôi chỉ trông thấy người ấy từ phía sau với cả chiêc nhẫn trên ngón tay cái của hắn ta nữa...Liệu có đúng là Ôn Kiến Quốc không?

Sở dĩ Lâm Bồ Lam nói Ôn Kiến Quốc bị mất tích là vì cô ta không cách gì tìm thấy ông ta được . Nếu như Ôn Kiến Quốc vẫn còn sống ở thành phố này thì đêm đêm, chờ lúc khuya, ông ta sẽ lại xuất hiện quanh quẩn nơi đường phố lạnh lẽo hoặc trong ngõ hẻm dọc ngang quanh co như mê cung ấy; đó mới chỉ là một khả năng; còn thật đến đâu thì chưa ai biết!

Lâu nau Ôn Kiến Quốc được mọi người biết đến với tư cách là một tác gia viết khá nhiều tiểu thuyết kinh dị song ông ta vẫn là một con người bình thường, chứ không phải như tin đồn là những ai viết nhiều tiểu thuyết rùng rợn đều có dáng điên điên, khó hiểu. Vậy giả sử con người ấy đúng là Ôn Kiến Quốc thì tối hôm đó, vào lúc đêm khuya, ông ta lởn vởn ở đầu phố để làm gì chứ? Đi tìm cảm hứng sao? Thói xấu ấy tệ hại lắm phải không?

Tiếng máy điều hòa nghe âm âm, tai tôi ù đi, chỉ thấy nơi của thông gió, khói bốc lên, tỏa ra những gợn sóng oi nồng. giữa lúc đó, tôi có cảm giác mình bị rơi tõm xuống vực, hai bên tai vang lên tiếng ong ong của bầy ong vỡ tổ. Ngoài ra, tôi không còn nghe thấy gì hết.

Đêm qua, con người đó cũng nói đúng ba chữ ấy.
Chương 4 (tiếp theo )

-----------

Tôi giật nảy mình, con chuột nắm trong lòng bàn tay cạch một cái rồi văng ngay xuống đất khiến cả ba người trong phòng cùng đổ dồn mắt nhin tôi chằm chằm. Trong lúc tôi cố gượng cười và cúi xuống nhặt nó lên, trên khóe miệng vẫn còn nét rung rung, tưởng đâu mình vừa bị rơi xuống một hang đá bị băng tuyết bao phủ, rét cắt da cắt thịt.

Sau đó tôi sắp xếp đống giấy tờ trên bàn cho gọn gàng rồi kéo máy điện thoại lại gần, bấm số của Ôn Kiến Quốc. Nghe hồi chuông đáp và ai đó nhắc máy:

- Ông Ôn Khắc đó phải không? - Tôi hỏi

Không có tiếng trả lời. Sự im lặng kéo dài, nặng nề; khoảng ba mươi giây sau mới nghe thấy tiếng buông máy.

Tôi đứng phắt ngay dậy. Văn Đán nhìn tôi, ánh mắt lộ vẻ ngờ vực:

- Sao thế bạn thân mến?

- Tôi phải đi gặp cộng tác viên đây.

Nói rồi tôi vội vã đi ra cửa, phía sau nghe Văn Đán vừa cười vừa nói:

- Chắc lại là người đẹp, không thì cậu ta chẳng đến nỗi phải hấp tấp, vội vàng như thế!

Dẫu sao tôi phải gặp bằng được Ôn Kiến Quốc chứ không đành lòng để dằng dai mãi tình trạng rối tinh rối mù như thế này. Nếu quả thật là trò đùa thì tôi sẽ bảo ông ta thôi ngay đi, tiện thể trả lại cho ông ta chiếc nhẫn đeo ngón tay cái luôn. Vật tuy nhỏ song dẫu sao nó vẫn là đồ cổ, có thể được giá đấy.

Xuống xe taxi vừa tầm giờ Ngọ, lại là dịp giáp tết, người qua lại đi sắm tết, bọc to bọc nhỏ, nhộn nhịp khác thường. Tiếng là trung tâm thành phố song ở đây không có mấy cửa hàng to đẹp. Hầu hết những công trình năm tầng xây theo kiểu Liên Xô cũ đều vuông thành sắc cạnh với dáng thâm nghiêm lạnh lẽo. Ngôi nhà của Ôn Kiến Quốc nằm lọt thỏm ở giữa, chẳng khác gì quả trứng chim kề bên khối đá to đùng, bị đè bẹp gí lúc nào không hay.

Đứng lại trước cổng nhà Ôn Kiến Quốc, tôi đưa tay đập cửa. Cánh cổng cũ vang ầm, nghe như bên trong là một khoảng trống rộng rãi, dội lại hồi âm văng vẳng. Cửa sổ xung quanh đã đóng chặt, bên trong có dán giấy báo kín mít không cho gió lọt vào. Tôi lại đập cửa, vừa đập vừa lớn tiếng gọi:

- Ông Ôn Khắc, là tôi đây. Ông có nhà không?

Chợt có bà cụ già đi ngang qua. Cụ đưa mắt nhìn tôi đầy ngờ vực. Với các cụ bà tuổi cao lại thêm tính đa nghi, tôi biết rất rõ các cụ là chúa nhút nhát chưa biết chừng đến một lúc nào đó là cụ gọi ngay cho số 110 báo động chứ không vừa đâu. Nghĩ vậy song tôi vẫn chưa chịu thôi đập tay vào cánh cổng:

- Ông có ở nhà không, ông Ôn Khắc?

Chắc chắn ông ta phải có ở nhà chứ.

Bà cụ tuy đã bỏ đi rồi nhưng mà đầu vẫn ngoái lại, mắt nhìn tôi không chớp làm tôi gai hết cả người. Tôi thở một hơi dài, nghĩ bụng đành ra về vậy. Khi tôi chuẩn bị rời khỏi đây thì từ phía trong ngôi nhà bỗng có tiếng hỏi vọng ra:

- Là ông đấy ư?

Tôi sợ toát mồ hôi. Đúng tiếng của người tối hôm qua nhưng sao nó không thật giống tiếng của Ôn Kiến Quốc. Tiếng nói này nghe như phát ra từ một nơi rất sâu.

Thoắt cái tôi xông tới gần sát cánh cổng đưa tay đập mạnh:

- Ông Ôn Khắc đấy phải không?

Đúng là tiếng Ôn Kiến Quốc rồi; chẳng qua là do hôm trước tôi chuếch choáng say, với lại giọng nói của ông ấy cũng có phần thay đổi nên tôi không kịp nhận ra ngay. Tiếng nói khô lạnh như băng, nhưng ở cái giọng tưởng đâu là một ngưởi xa lạ ấy lại có nét rất giống với Ôn Kiến Quốc.

Ông ta dừng lại chốc lát rồi mới nói tiếp:

- Rốt cuộc ông đã có mặt ở đây... Muộn quá rồi!

" Muộn quá rồi!" - Ba từ cuối ông ta nói nhỏ nhẹ như tiếng thì thầm, nghe không rõ... Tôi không dừng được nữa, nói như gắt:

- Ông bị làm sao thế, ông Ôn Khắc? Hôm qua tôi có gặp bạn gái ông, cô ấy đang lo lắng tìm ông. Lúc ấy, ông ở đâu?

Ông ta nín thinh. Chờ giây lát không thấy ông ta nói gì, tôi lại đưa tay đập cổng:

- Mở cửa ra nào, ông Ôn Khắc, tôi còn phải đặt ông viết bài cơ mà .

Đặt bài, đó chỉ là cái cớ thôi, và trong tình huống cụ thể như thế này, tôi cũng không nghĩ ra điều gỉ hơn thế. Đột nhiên ông ta bật khóc, tiếng nghe nhỏ như bị nén lại, gắng gượng:

- Làm thế nào bây giờ. Muộn quá mất rồi!

- Nhưng ông bị làm sao nào? Ốm thì đi khám bác sĩ, bệnh nan y thì chịu chạy chữa rồi cũng khỏi cơ mà.

Bất thần ông ta kêu lên:

- Nhưng nó không phải là bệnh

- Vậy nó là gì chứ, có phải trên người ông phát ra những đường vân không?

Dĩ nhiên, tôi không đời nào tin lời kể của Lâm Bồ Lam, nào là ông già ấy bị nứt toát ra rồi chiếc bóng đen ngòm trồi dần ra từ bên trong... Nhưng chưa biết chừng vào cái đêm ấy, Ôn Kiến Quốc và Lâm Bồ Lam đã bị nhiễm virus bệnh kỳ quái tại cái làng nhỏ, hẻo lánh ấy cũng nên. AIDS - ban đầu người ta cũng hoang mang không biết nó là gì, về sau nó mới trở thành đại dịch tràn lan khắp toàn cầu.

Ôn Kiến Quốc cười sằng sặc ở trong nhà:

- Tôi nói anh nghe, nó không phải bệnh mà là một chiếc bóng sống.

Bóng sống ư? Lâm Bồ lam cũng từng nói thế. Tôi lắc đầu như muốn xua đuổi cái ý liên tưởng ấy ra khỏi đầu mình rồi mới hỏi:

- Chiếc bóng sao mà sống được hả ông Ôn Khắc? Ông cả nghĩ quá rồi đấy. Nếu như ông thấy trong người khó ở thì nên đi khám bác sĩ là tốt nhất.

Ông ta lại cười, tiếng cười nghèn nghẹn, lạnh và khô khốc. bấy giờ đang lúc giữa trưa, trời ấm áp và nắng chan hòa, vậy mà tự nhiên tôi thấy xung quanh tối sầm lại; trong phút chốc, mây đen kéo đến đầy trời và gió rét từ đâu thổi về. Tôi run lên, nói:

- Vậy cuối cùng ông bị làm sao hả ông Ôn Khắc?

Bỗng nhiên, từ trong họng ông phát ra tiếng kêu "ùng ục" nghe khác lạ, không phải của người mà tựa hồ như của loài thú. À, không phải, tiếng của con thú khỏe hơn, đầy sinh khí, còn tiếng kêu này giống như tiếng nước bục ra từ đường ồng bị vỡ và đúng hơn, nó giống hệt tiếng mút nước của một vật nặng chìm ngập trong bãi lầy lạnh lẽo và ẩm thấp.

Tôi phát hoảng lên dang tay đập cổng, lớn tiếng gọi:

- Ông Ôn Khắc... Ông Ôn Khắc!

Im lặng ...

Hoặc là cảm giác của tôi sai mất rồi. Thoắt cái cánh cổng đã lạnh như đá, cái lạnh của sự chết chóc. Chất gỗ vốn ít truyền nhiệtnhưng tôi vẫn cảm thấy hơi lạnh thấm qua cánh cổng.

Tôi đã toan giơ tay đập cổng lần nữa thì nghe tiếng kêu vang lên từ bên trong.

Một tiếng kêu thê thảm.

Tôi chưa kịp hoảng hốt thì có xe cảnh sát phóng vội đến nơi.

Quả thật bà lão có tinh thần cảnh giác đã kịp báo cảnh sát, và lúc này, tổ chức 110 tỏ ra rất được việc. Tôi vội né người sang một bên để nhường lối cho hai người cảnh sát bước từ trên xe xuống.

Hai người này tiến thẳng đến nhà Ôn Kiến Quốc. Họ dừng lại trước cổng, một người đưa mắt nhìn tôi giây lát, cất tiếng hỏi một cách nhã nhặn:

- Xin hỏi ông là ai vậy?

- Tôi đưa tay vào túi áo lấy danh thiếp, trao tay cho mỗi người một tấm, miệng nói:

- Tôi là biên tập viên của tạp chí Truyền Kỳ Đại Quan.

Viên cảnh sát đưa mắt đọc lướt qua rồi bỏ nó vào túi áo, cất tiếng hỏi:

- Vậy ông với ông Ôn Khắc là chỗ quen biết?

- Ông ấy là cộng tác viên của tôi, thưa ông cảnh sát. Tôi chả bận việc gì, bữa nay đến đây cốt là để đặt bài với ông ấy thôi.

Hai người đưa mắt nhìn nhau rất ý nhị, một người khẽ nhắc tôi:

- Phiền ông đứng né sang bên một chút - rồi ông ta đi đến trước nhà đưa tay gõ cổng, gọi ầm ầm:

- Cảnh sát đây, ông Ôn Kiến Quốc, xin mời ông đi cùng chúng tôi lên trụ sở cục.

Không có tiếng đáp lại, viên cảnh sát bực tức ra mặt, lớn tiếng quát:

- Đừng vờ nữa, chúng tôi biết ông ở nhà, nếu quả thật ông không can gì thì cứ việc đến đấy trình bày.

Ôn Kiến Quốc vẫn nín lặng. Viên cảnh sát vừa nói dứt lời giờ nổi nóng văng tục:

- Lũ cầm bút như các người là chúa hay gây những chuyện như thế này. Cái đồ biến tướng họ Ôn kia, có gan làm thì cũng phải có gan đứng ra nhận chứ!

Ông ta vẫn không chịu lên tiếng. Trong nhà im ắng. Hai viên cảnh sát đành phải bó tay, nói gì với nhau trong chốc lát, rồi một người lấy ra một tờ giấy in sẵn có đóng dấu, viết lên đó mấy chữ đem dán lên cổng. Đó là giấy gọi trình diện. Xong đâu đấy, viên cảnh sát còn nói thêm:

- Xin ông nhớ cho, ông Ôn Kiến Quốc, đến lúc đó, nếu ông cố tình vắng mặt thì chúng tôi sẽ phải cưỡng chế đó!

Tôi cảm thấy lo lắng, chờ lúc họ lên xe mới đuổi theo hỏi:

- Vậy đã có chuyện gì thế, thưa ông cảnh sát?

Viên cảnh sát đã chuẩn bị cho xe nổ máy quay mặt về phía tôi rồi nói:

- Đêm qua có người bị giết chết và ông ấy bị tình nghi. Ông chẳng dính líu gì, tránh đi là hơn. Nếu không, chúng tôi nghi cả cho ông thì khốn.

Có người bị chết sao?

Cảnh sát đã nổ máy, xe sắp sửa lăn bánh, tôi cố hỏi thêm:

- Người chết là ai cơ?

Viên cảnh sát tỏ vẻ sốt ruột, nói cho qua chuyện:

- Ông cứ đọc tờ Tin tức Buổi Trưa, chắc đã đăng tin này rồi. Chậm nhất là trên tờ Tin Tức Buổi Tối. thôi nhé!

Tin Tức Buổi Trưa chưa có tin này. Buổi tối, sau khi về đến nhà, tôi bật vi tính xách tay, vừa ăn mì ăn liền vửa xem tin. Nội dung tin tức chả có gì mới, kể cả tin trong nước cũng như tin thế giới. Sau chót là tin thành phố, đến lúc này tôi chẳng còn nhớ gì ở trong đầu nữa, vội vàng và nốt mấy sợi mì ở trong bát thì nghe tiếng nữ phát thanh viên đọc:" Tối qua phát hiện thấy một xác chết trôi sông ở cuối thành phố. Nạn nhân là một phụ nữ còn trẻ, qua xác minh được biết tên là lâm Bồ Lam, 25 tuổi ".

Lâm Bồ Lam chết rồi sao?

Tôi đặt bát xuống, hai mắt nhìn trân trân vào màn hình. Mới hôm qua người phụ nữ này còn van nài tôi cùng đi với cô tới Hồ Nam, thế mà hôm nay đã chết rồi. Lúc ấy, hình như tôi đang uống rượu thì phải...

Cái bát đựng mì trên bàn bỗng tiếng kêu lách cách. Có lẽ vì tay tôi run rẩy. Hình ảnh trên tivi cho thấy thi thể Lâm Bồ Lam được vớt lên; nước sông ngầu bọt, váy áo trên người cô thấm đẫm nước, căng phồng thành một cái bị to đùng. Người đến xem vây kím xung quanh, nô nức và vui vẻ. Theo quan niệm, ngày tết sắp đến, những ai trông thấy người chết sẽ gặp được nhiều may mắn. Có hai người tay đeo găng cao su khiêng xác chết từ dưới sông lên. Lâm Bồ Lam được đặt nằm, ngửa mặt lên trời, hai cánh tay duỗi thẳng, thân thể cứng như một cây gỗ.

Qua màn hình tivi, tôi thấy khuôn mặt cô vẫn bình thường. Dẫu độ nét màn hình máy vi tính của tôi không thuộc loại tốt nhưng vẫn thấy rõ gương mặt Bồ Lam trắng bợt như tờ giấy, chỉ có ít chút cỏ rác dưới sông vương trên mái tóc bết lại. Trên làn da không thấy có vết gì khác thường. Tôi có ý muốn được xem kỹ lại hai cánh tay cô, hiếm một nỗi, phần cánh tay để hở ra ngoài rất ít nên không thể phát hiện ra điều gì.

Vậy phải nói như thế nào đây? Có thật Lâm Bồ Lam cố tình đánh lừa tôi không? Với cô, tôi không phải chỗ quen biết. Hãy cứ cho là cô ta định giở trò trêu tức tôi đi, vậy sao cô ta vẫn chết? Thế là thế nào?

Tôi tắt vi tính, đến bên cửa sổ nhìn ra ngoài. Khuôn của có chấn song cắt vụn khung cảnh ngoài trời làm nhiều mảnh, khiến người ta cảm thấy tức mắt và trong tiếng động huyên náo từ xung quanh dội lại, tôi chỉ thấy hiện lên trước mắt mình hình thù hai cánh tay duỗi thẳng của Lâm Bồ Lam. Vẻ như cô đang van xin? Vải áo ướt đẫm nước dính xát vào cánh tay, hở ra mỗi một đoạn ngắn có nước da trắng xanh nhưng rắn chắc, tựa hồ được tạc bằng đá cẩm thạch.

Đúng là màu của sự chết chóc. Tôi vẫn còn nhớ lúc trông thấy thi hài của ông bác tôi; dưới ánh sáng của hai ngọn nến trắng, bác tôi được đặt nằm trên chõng tre và nước da ông cũng có màu trắng xám giống như nước da tôi vừa trông thấy của Lâm Bồ Lam. Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy người chết mà không biết sợ là gì. Khác hẳn bây giờ, trong tôi nhen nhóm sợ hãi khi trông thấy thi thể Lâm Bồ Lam, dẫu tôi biết mình chỉ nhìn thấy những hình ảnh ấy trên màn hình mà thôi.

Ai là người đã giết hại cô ấy? Tuy phát thanh viên không nói đó là vụ án giết người nhưng tôi biết chắc chắn cô đã bị ám sát.

Trời bỗng nhiên tối sầm, mây đen ùn ùn kéo đến như sắp đổ mưa. Tôi chạy vội ra cất quần áo phơi ở ngoài vào. Sau đó đóng của sổ và ngồi vào bàn vi tính. Trong nhà không bật sáng đèn nên còn tối hơn ở ngoài trời. Những chiếc bóng vì thế trở nên sinh động hơn và bắt đầu hắt hình xen lẫn vào nhau, tựa hồ vô số quái vật đang há hoác miệng chờ đợi. Tôi nhấn nút khởi động máy tính, nghe ổ đĩa cứng chuyển động đánh "tịch" một tiếng và màn hình hiển thị.

Ngày đông năm nay trời không đến nỗi rét, song vì cơ thể vốn nhạy cảm mỗi khi thời tiết thay đổi nên tôi rất dễ bị cảm. Mấy bữa nay lại bị sổ mũi, tôi đưa tay ra xé giấy đặt cạnh bàn để lau mũi. Cùng lúc máy tính khởi động vừa xong, tôi nháy chuột vào chương trình QQ. Không dè nước mũi chảy ròng ròng, tôi lại phải xé giấy lau. Lúc ấy tôi thò tay vào túi áo và thấy mát lạnh nơi đầu ngón tay, sực nhớ ra chiếc nhẫn đeo ngón tay cái tôi bỏ đó, định trong ngày hôm nay đem trả cho Ôn Kiến Quốc. Không ngờ ông ta đóng chặt cửa không để tôi vào nhà nên tôi quên bẵng nó đi. Tôi thử đeo vào ngón tay cái của mình. Lạ thật, lần này nó rất vừa. Không biết có phải vì tôi gầy đi chăng? Nhìn chiếc nhẫn trên ngón tay cái, tôi lại không thấy có gì quái gở nữa. Thật lạ!

Tôi vừa lau mũi vừa mãi mê đọc những trang trên chương trình QQ. Ban ngày tôi ít kết nối mạng nên những tin nhắn gởi cho tôi được lưu ở hộp thư khá nhiều. Tôi đọc lần lượt từng lá thư một.

Thư đầu tiên là của một tác giả báo cho tôi biết bài viết xong rồi và ông đã gởi nó vào hộp thư của tôi. Những bài viết của tác giả này thường khá hay, chỉ phải cái ông ta viết rất chậm, hiếm khi viết một mạch là xong. Riêng lần này, không hiểu sao ông rất đúng hẹn nên tôi lấy làm mừng. Tôi thôi không đọc mục nhắn tin nữa và chuyển sang đọc nội dung bài viết.

Tôi click vào boxmail. Trên màn hình hiển thị ba chữ rõ ràng:

- Là ông đấy ư?

Nhìn ba chữ ấy, tôi cứ như giẫm phải con rắn độc, và nỗi kinh hoàng lại dâng lên. Dấu ấn của nó đã hằn sâu trong tôi đến nỗi tay cầm chuột cứ run lên bần bật.

Đó là nội dung tin nhắn của Ôn Kiến Quốc gởi đến tối hôm qua, sau khi tôi đã về nhà. Đêm qua, sau cơn kinh hoàng trên đường phố, về đến nhà, tôi không còn bụng dạ nào kết nối mạng nữa. Máy ở văn phòng lại không có phần mềm chương trình QQ nên mãi đến bây giờ tôi mới đọc được nó. Sau câu trên, ông ta bắt đầu kể lể một đoạn dài khoảng vài trăm chữ. Không rõ ông ta đã gởi đi bao nhiêu đoạn như thế, chỉ biết rằng trên trang Web dày dặc những dòng chữ. Ngôn từ không được chau truốt, trôi chảy như trong những tiểu thuyết Kiến Quốc thường viết. Thông tin ông ta viết lần này lộn xộn, lủng củng không ai có thể nghĩ đó là của một người cầm bút chuyên nghiệp? Phía dưới câu chữ, lời văn rối rắm, lộn xộn, thể hiện một tâm trạng hoảng hốt không yên.

Chương 05 : Cái giếng

" Nơi tôi đến cùng với Lâm Bồ Lam là làng Xạ Công".

Bài viết của Ôn Kiến Quốc mở đầu như thế. Ông ta viết tiếp: 'Xạ Công, trong sách cổ là tên gọi một con quái vật, không rõ vì sao người ta lại lấy nó để đặt tên cho làng này. Đất làng thuộc tỉnh Hồ Nam, xung quanh là núi. Phía trước làng trải rộng những thửa ruộng vỡ đất làm mùa. Những tảng đất đen nhánh màu kim loại được cày lật lên để phơi ải. Đất khô rắn vì chưa có tuyết đầu mùa. Tôi và Lâm Bồ Lam cùng đi trên đường, lo tìm chỗ ngỉ trọ qua đêm. Làng không lấy gì làm lớn, nó chỉ có hơn hai mươi hộ gia đình và chúng tôi cảm thấy hầu hết mọi người ở đây đều có dáng dấp kỳ dị."

Tôi đã từng thấy cảnh tượng này trong tiểu thuyết của Ôn Kiến Quốc. Chỉ có điều là khi đăng tin trên mạng thì nên sử dụng một số chữ hạn chế, do vậy tác giả đã chia tác phẩm ra làm nhiều đoạn. Tuy trong đó có nhiều lỗi chính tả và viết sai về mặt chữ đồng âm nhưng sự gắn kết guiữa các đoạn rất mạch lạc, rõ ràng chứng tỏ không thể xem thường năng lực viết của tác giả được một bài viết hoàn chỉnh mà tác giả gởi đến cho tôi. Đến đây, tôi tự rót cho mình một chén trà, uống rồi mới đọc tiếp.

Ngôi làng dựa vào thế núi, phần nào như "Thế ngoại đào viên" , đi trên đường làng cảm thấy rất dễ chịu. Hai người vừa đi vừa ngắm cảnh, luôn tay chụp ảnh bằng máy ảnh kỹ thuật số. Không khí êm ả, mãi chụp ảnh, hai người không để tâm đến nét mặt thờ ơ, lạnh nhạt của những người làm ruộng khi trông thấy họ.

"Kìa, Kiến Quốc, anh lên đây đi ! "

Lúc ấy ông ta đang chụp cảnh trời chiều và ánh hoàng hôn lúc mặt trời gác bên đầu núi. Không khí mát lành và bầu trời trong veo, ráng chiều phô bài màu sắc vàng tươi... Ôn Kiến Quốc đang mãi mê chọn cảnh bỗng nghe thấy Lâm Bồ Lam gọi mình. Ngước nhìn lên, ông thấy cô đứng trên bệ đá, giơ tay vẫy.

Đi gần đến nơi ông ta mới kịp nhận ra đó không phải bệ đá mà là cái miệng giếng, trên mặt có phiến đá lớn đậy kín. Ôn kiến Quốc bước nhanh đến bên Bồ Lam và nói:

- Chỉ là cái giếng bị bỏ đi có gì mà phải xem?

- Anh thử coi lại đi nào, chưa chi đã vội khinh thường - Dứt lời, cô cúi xuống ngồi xổm, thò tay vào trong bọc lấy ra một tờ giấy ăn lau chùi bùn đất bàm trên mặt phiến đá. Nó được cột bằng một sợi dây xích đầy gỉ sét. Dây xích cỡ bằng cổ tay đứa trẻ, áng chừng khá nặng. Thoạt đầu, bùn đất bám đầy trên mặt phiến đá không thấy rõ được, chờ khi Bồ Lam lấy giấy lau sạch, lộ ra một khoảng rộng và Ôn Kiến Quốc nhận biết trên mặt phiến đá có khắc họa đồ " Thái cực bát quái"

Nguyên bản bức phù điêu khi làm ra tương đối thô, còn họa đồ "thái cưa bát quái" này được chạm trổ rất tinh tế, nhất là những nét khắc ở phần âm dương gây cảm giác hình khối lập thể rõ rệt. Tuy mặt đá không có màu nhưng nhìn vào tấm họa đồ, người ta vẫn cảm nhận được sự khác biệt về trình độ tinh vi của điêu khắc. Ôn Kiến Quốc như bị mê đi. Ông ta cúi xuống xem, vẻ rất chăm chú:

- Chà, đẹp quá!

Thấy Ôn Kiến Quốc thích những họa tiết khắc trên đá đó, Bồ Lam lấy làm hài lòng lắm mới hỏi:

- Vậy người ta khắc hình vẽ lên đá để làm gì vậy Ôn Khắc?

- Mê tín. - Ôn Khắc đáp bừa, người ngày xưa đều mê tín như vậy cả. Rồi ông ta đưa máy ảnh kỹ thuật số lên để chụp, tức thì nghe Bồ Lam hỏi:

- Nhưng phiến đá đó có đáng tiền không?

Ngày hôm qua hai người cũng đã đến thăm một ngôi nhà cũ, ở đó, các khuôn cửa sổ trong nhà đều được chạm trổ hình hoa là và cả hai mái vòm cũng khắc tranh " bát tiên". Hướng dẫn viên du lịch cho biết, ở miền tây tỉnh Hồ Nam bây giờ vẫn còn nhiều kiến trúc cổ kiểu như thế này, nhất là ở sâu trong những xóm làng hẻo lánh, người ta lưu giữ rất nhiều đồ cổ. Thậm chí, nhiều nhà còn có những đồ của thời Minh. Một khuôn cửa sổ hoặc một cái tủ chạm khắc hoa lá đem bán đấu giá trên thị trường cũng hái ra khối tiền đấy! Bồ Lam nghe nói vậy thì thích mê đi; giờ lại nghe cô ta hỏi đến tiền, Ôn Kiến Quốc thực không thể nào nhịn cười được nữa:

- Chẳng lẽ cô định đánh cắp phiến đá này đem đi hay sao? Coi chừng nặng lắm đấy!

" Nếu bây giờ mà gặp được ai trong làng muốn bán lại đồ cổ cho mình thì mình cũng mua... " Ôn Kiến Quốc nghĩ thầm trong bụng. Chợt nghe Bồ Lam gọi:

- Kiến Quốc, chụp cho em kiểu ảnh này đi !

Cô ngồi ngay ngắn trên phiến đá, hai chân bắt chéo, lấy tư thế hơi xoay người sang bên trái. Chả là lâu nay cô vẫn có nghĩ chụp lấy phần nửa gương mặt bên phải bao giờ cũng đẹp hơn, thế rồi các tấm ảnh của cô, hoặc íy, hoặc nhiều, tuy có khác nhau nhưng đều chụp với tư thế hơi xoay người về bên trái. Ôn Kiến Quốc thấy tức cười nhưng cũng lùi lại chừng hai bước chân rồi đưa máy lên hướng về phía cô, miệng nhắc:

- Nào, ngẩng đầu lên chứ... được đấy, ngoảnh mặt lại một chút nào...

- Các người làm gì thế?

Giọng nói nhưlệnh vỡ làm cho Ôn Kiến Quốc giật nảy mình. Ông ta quay lại nhìn, hóa ra là một nông dân vai vác cuốc. Ông ta có dáng vẻ của người có học, nói được tiếng phổ thông, tuy giọng hơi trọ trẹ nhưng hiểu được. Kiến Quốc vội đặt máy ảnh xuống và nói với vẻ mặt tươi cười:

- À... chúng tôi đang chụp mấy kiểu ảnh làm kỷ niệm, có phiền gì không hả bác?

Nét mặt của người làm ruộng lộ vẻ hoảng hốt như thấy Kiến Quốc đã làm điều gì đó quá quắt lắm vậy. Cứ vậy, ông ta giữ nguyên cái cuốc trên vai, lao bổ tới cái giếng, thấy không sao cả thì mới thở phào nhẹ nhõm:

- May mà các người không đụng chạm gì đến nó!

Sau khi bỏ cuốc xuống, ông nhìn hai người với ánh mắt dò xét hồi lâu rồi mới hỏi:

- Sai hai người lại tìm đến đây?

Từ đầu đến giờ, chỉ vì không nói được thổ ngữ trong vùng, cả hai người cứ thế mà đi, đến đâu hay đó, giờ mới gặp người có thể trò chuyện được nên họ thấy nhẹ cả người:

- Chúng tôi bị lạc đường, bác ạ. Đang muốn trở ra, không biết phải đi lối nào?

- Hai người cuốc bộ khá xa rồi đấy, những mười mấy cây số cơ mà.

Đoạn ông cúi đầu xuống, vẻ như ngẫm nghĩ điều gì rồi chợt nhớ ra:

- Phải rồi, tiện thể ngày mai đội sản xuất có xe vào làng lấy lúa giống sẽ chở cả hai người củng đi. Giờ nếu hai người không chê thì cứ nghỉ tạm ở nhà tôi một tối, không sao cả.

Ôn Kiến Quốc mừng rơn, nắm tay người nông dân và nói:

- Quả thật tôi không còn biết nói gì hơn nữa, cần trả bao nhiêu tiền chúng tôi cũng xin chịu. - Lúc cầm tay người nông dân, ông ta cảm thấy đau nhói nơi gan bàn tay vì đụng phải một vật sắc cạnh, khi cúi xuống nhìn thì thấy nơi ngòn tay cái của người dân quê có đeo một chiếc nhẫn bằng đồng, hình thù quái dị; ông ta sững lại.

- Tiền nong đối với người nhà quê chúng tôi có là gì đâu, tôi có lấy cũng bằng thừa thôi.

Ông ta tỏ ra xới lới, nói chưa hết lời đã vội đi ngay, chân hơi tập tễnh song đi rất nhanh. Ôn Kiến Quốc phải vất vả lắm mới theo kịp, còn Bồ Lam gần như phải chạy bộ theo sau. Khi tiến sát đến lưng người nông dân, Ôn Kiến Quốc lại hỏi:

- Này bác, chúng tôi phải gọi bác như thế nào nhỉ?

Gã nông dân không đứng lại, vừa đi vừa nói:

- Tôi họ Liễu, tên là Văn Uyên.

Họ tên người này lại khiến Ôn Kiến Quốc phải trầm trồ. Gã nhà quê này, dáng vẻ bề ngoài trông thô kệch, vụng về nhưng tên gọi nghe ra rất văn hoa và tao nhã, thậm chí còn có vẻ "tri thức" hơn cả cái tên "Kiến Quốc" của ông ta nữa? Nghĩ vậy, Kiến Quốc bật kêu to:

- Xin chào Liễu đại ca, rất cám ơn anh.

Nhà Liễu văn Uyên ở gần ngay đấy, cách cái giếng không đến mấy chục mét. Đó là một khuôn viên rộng rãi, chính giữa là sân. Ông ta dẫn hai người khách sang phòng bên đầu hồi, nói trong lúc không ngửng đầu lên:

- Hôm nay ngày rằm, hai người nhớ đừng đi lại lung tung, nhé !

- Vâng - Ôn Khắc chưa kịp hiểu vì sao, chỉ đằng hắng được mỗi một tiếng "hừm" giữa lúc Văn Uyên nghểnh cổ nhìn lên trời nói:

- Hôm nay chắc đẹp trời, vậy hai người nên nghỉ sớm đi !

Dứt lời ông ta cầm cây cuốc lên để dựa vào đằng sau tường, gọi với vào bên trong nhà:

- Mẹ nó nhớ thổi thêm cơm cho khách nhé! - tiếp đó ông quay mặt về phía hai người khách mỉm cười:

- Hai người cứ nghỉ đi chốc lát, cơm chín rồi ta cùng ăn.

Chờ cho văn Uyên đi khỏi, Bồ Lam, với nét mặt lộ vẻ lo ngại đưa tay kéo Ôn Kiến Quốc giữa lúc ông ta đang mãi quét bụi trên giường. Ôn Kiến Quốc ngoái cổ lại:

- Sao thế, Bồ Lam?

- Em thấy có điều đáng ngại

- Ngại nỗi gì nào, thi thoảng về sống ổ thôn quê cũng hay lắm chứ!

Dọn dẹp giường ngủ đâu vào đấy, nét mặt Ôn kiến Quốc tươi hằn lên, nói giọng nhả nhớt:

- Bồ Lam, em vẫn chưa qua kì kinh sao?

- Cái gì cơ? - Bồ Lam giơ tay đập vào người ông ta, mặt đỏ lên - Sao đầu óc anh chỉ toàn nghĩ ...

- Sắc tình khiến người ta si mê. Khổng phu tử nói thế còn sai vào đâu được?

Bồ Lam tức tối ra mặt:

- Thôi đi, đó là Mạnh Tử nói.

Rồi cô bước thẳng tới cửa sổ, nhìn ra ngoài. Khuôn cửa xây theo kiểu cổ với cánh cửa bằng gỗ mộc, khi đóng lại, trong nhà tối om. Cô nói:

- Cửa sổ này, họ làm khéo thật đấy.

Ôn Kiến Quốc vừa dọn dẹp xong, đang lúc rảnh rang, nghe Bồ Lam nói vậy cũng hùa theo:

- Đúng vậy, cái gã Liễu Văn Uyên này, trước kia có lẽ là con nhà giàu. Tôi thấy chiếc nhẫn ở ngón tay cái của ông ta dễ thường là đồ cổ. Không biết ông ta còn thứ gì khác quý giá hơn nữa không?

- Thế anh định mua đồ cổ chăng? - Bồ Lam chợt hạ thấp giọng nói nhỏ:

- Suỵt... Có ai đến kìa?

Người đó dừng bước, đưa tay gõ cửa. Ôn Kiến Quốc thuận tay đẩy cánh cửa ra và ông chủ nhà xuất hiện nơi ngưỡng cửa với một ôm chăn gối trước bụng. Ông bỏ đống chăn gối xuống giường rồi nói, giọng thành thật:

- Chỗ nhà quê, số chăn gối này vừa mới giặt cả đấy, hai người dùng tạm.

Chăn gối tuy không phải là mới nhưng được giặt giũ sạch sẽ. Ôn Kiến Quốc tỏ vẻ ái náy:

- Thật tình, Liễu đại ca làm tôi khó xử quá, biết lấy gì để tạ ơn đại ca đây?

- Có gì đâu mà phải lo như thế, lập thu rồi, trời trở rét, không đắp chăn để chịu chết rét à? - Đưa chăn gối xong đâu vào đấy, ông ta quay ra, mới đi đến ngưỡng cửa thì bất chợt ngoảnh mặt lại, dặn dò hai người khách:

- À phải rồi, nếu có gặp bà nhà tôi thì đừng sợ nghe chưa? Bà ấy cũng dễ dãi, không có gì đáng phải ngại đâu...

- Hai người cuốc bộ khá xa rồi đấy, những mười mấy cây số cơ mà.

Đoạn ông cúi đầu xuống, vẻ như ngẫm nghĩ điều gì rồi chợt nhớ ra:

- Phải rồi, tiện thể ngày mai đội sản xuất có xe vào làng lấy lúa giống sẽ chở cả hai người củng đi. Giờ nếu hai người không chê thì cứ nghỉ tạm ở nhà tôi một tối, không sao cả.

Ôn Kiến Quốc mừng rơn, nắm tay người nông dân và nói:

- Quả thật tôi không còn biết nói gì hơn nữa, cần trả bao nhiêu tiền chúng tôi cũng xin chịu. - Lúc cầm tay người nông dân, ông ta cảm thấy đau nhói nơi gan bàn tay vì đụng phải một vật sắc cạnh, khi cúi xuống nhìn thì thấy nơi ngòn tay cái của người dân quê có đeo một chiếc nhẫn bằng đồng, hình thù quái dị; ông ta sững lại.

- Tiền nong đối với người nhà quê chúng tôi có là gì đâu, tôi có lấy cũng bằng thừa thôi.

Ông ta tỏ ra xới lới, nói chưa hết lời đã vội đi ngay, chân hơi tập tễnh song đi rất nhanh. Ôn Kiến Quốc phải vất vả lắm mới theo kịp, còn Bồ Lam gần như phải chạy bộ theo sau. Khi tiến sát đến lưng người nông dân, Ôn Kiến Quốc lại hỏi:

- Này bác, chúng tôi phải gọi bác như thế nào nhỉ?

Gã nông dân không đứng lại, vừa đi vừa nói:

- Tôi họ Liễu, tên là Văn Uyên.

Họ tên người này lại khiến Ôn Kiến Quốc phải trầm trồ. Gã nhà quê này, dáng vẻ bề ngoài trông thô kệch, vụng về nhưng tên gọi nghe ra rất văn hoa và tao nhã, thậm chí còn có vẻ "tri thức" hơn cả cái tên "Kiến Quốc" của ông ta nữa? Nghĩ vậy, Kiến Quốc bật kêu to:

- Xin chào Liễu đại ca, rất cám ơn anh.

Nhà Liễu văn Uyên ở gần ngay đấy, cách cái giếng không đến mấy chục mét. Đó là một khuôn viên rộng rãi, chính giữa là sân. Ông ta dẫn hai người khách sang phòng bên đầu hồi, nói trong lúc không ngửng đầu lên:

- Hôm nay ngày rằm, hai người nhớ đừng đi lại lung tung, nhé !

- Vâng - Ôn Khắc chưa kịp hiểu vì sao, chỉ đằng hắng được mỗi một tiếng "hừm" giữa lúc Văn Uyên nghểnh cổ nhìn lên trời nói:

- Hôm nay chắc đẹp trời, vậy hai người nên nghỉ sớm đi !

Dứt lời ông ta cầm cây cuốc lên để dựa vào đằng sau tường, gọi với vào bên trong nhà:

- Mẹ nó nhớ thổi thêm cơm cho khách nhé! - tiếp đó ông quay mặt về phía hai người khách mỉm cười:

- Hai người cứ nghỉ đi chốc lát, cơm chín rồi ta cùng ăn.

Chờ cho văn Uyên đi khỏi, Bồ Lam, với nét mặt lộ vẻ lo ngại đưa tay kéo Ôn Kiến Quốc giữa lúc ông ta đang mãi quét bụi trên giường. Ôn Kiến Quốc ngoái cổ lại:

- Sao thế, Bồ Lam?

- Em thấy có điều đáng ngại

- Ngại nỗi gì nào, thi thoảng về sống ổ thôn quê cũng hay lắm chứ!

Dọn dẹp giường ngủ đâu vào đấy, nét mặt Ôn kiến Quốc tươi hằn lên, nói giọng nhả nhớt:

- Bồ Lam, em vẫn chưa qua kì kinh sao?

- Cái gì cơ? - Bồ Lam giơ tay đập vào người ông ta, mặt đỏ lên - Sao đầu óc anh chỉ toàn nghĩ ...

- Sắc tình khiến người ta si mê. Khổng phu tử nói thế còn sai vào đâu được?

Bồ Lam tức tối ra mặt:

- Thôi đi, đó là Mạnh Tử nói.

Rồi cô bước thẳng tới cửa sổ, nhìn ra ngoài. Khuôn cửa xây theo kiểu cổ với cánh cửa bằng gỗ mộc, khi đóng lại, trong nhà tối om. Cô nói:

- Cửa sổ này, họ làm khéo thật đấy.

Ôn Kiến Quốc vừa dọn dẹp xong, đang lúc rảnh rang, nghe Bồ Lam nói vậy cũng hùa theo:

- Đúng vậy, cái gã Liễu Văn Uyên này, trước kia có lẽ là con nhà giàu. Tôi thấy chiếc nhẫn ở ngón tay cái của ông ta dễ thường là đồ cổ. Không biết ông ta còn thứ gì khác quý giá hơn nữa không?

- Thế anh định mua đồ cổ chăng? - Bồ Lam chợt hạ thấp giọng nói nhỏ:

- Suỵt... Có ai đến kìa?

Người đó dừng bước, đưa tay gõ cửa. Ôn Kiến Quốc thuận tay đẩy cánh cửa ra và ông chủ nhà xuất hiện nơi ngưỡng cửa với một ôm chăn gối trước bụng. Ông bỏ đống chăn gối xuống giường rồi nói, giọng thành thật:

- Chỗ nhà quê, số chăn gối này vừa mới giặt cả đấy, hai người dùng tạm.

Chăn gối tuy không phải là mới nhưng được giặt giũ sạch sẽ. Ôn Kiến Quốc tỏ vẻ ái náy:

- Thật tình, Liễu đại ca làm tôi khó xử quá, biết lấy gì để tạ ơn đại ca đây?

- Có gì đâu mà phải lo như thế, lập thu rồi, trời trở rét, không đắp chăn để chịu chết rét à? - Đưa chăn gối xong đâu vào đấy, ông ta quay ra, mới đi đến ngưỡng cửa thì bất chợt ngoảnh mặt lại, dặn dò hai người khách:

- À phải rồi, nếu có gặp bà nhà tôi thì đừng sợ nghe chưa? Bà ấy cũng dễ dãi, không có gì đáng phải ngại đâu...

Chương 06 : Đêm tối

Không một bóng người. Tôi suy ngẫm. Chân không giày đi trên nền đất gồ ghề, cứng quèo, nghĩ bụng đã là đất thì nó phải xốp mềm chứ! Hơi lạnh thấm qua gan bàn chân, dâng lên

trong người, nó không làm tôi khó chịu, ngược lại, tôi thấy rất khoan khoái.

Một giấc mơ kỳ lạ. Tôi đưa mắt nhìn xung quanh. Do đi chân không nên mu bàn chân bị nhuốm bùn rất bẩn. Vả chăng chuyện trong mơ thường vẫn mâu thuẫn như vậy đó, nó có thể

không đúng như hiện thực nên tôi cảm thấy đất khô rắn và cũng có thể tôi đã nhận ra rất rõ ràng: hai bàn chân mình bị dính đất.

Xung quanh đây mọc lên những thứ cây khác lạ, kiểu như loại cây mọc thành bụi được cắt tỉa gọn gàng thường có ở công viên phương tây, chúng cao tới hơn hai mét. Thấp thoáng

xuyên qua các kẽ hở của bụi cây, tôi trông thấy những kiến trúc với cách tạo hình rất lạ và có điều đáng phải để ý, chúng giống hệt những kiến trúc mảng bẹt không có khối mà tôi đã

thấy trong các bức tranh vẽ từ thời còn nhỏ tuổi. Nói cho đúng hơn, chúng giống như những hình cắt bằng giấy bìa dán trên phong cảnh trời chiều.

Thật đúng là một giấc mộng kỳ cục, biết đâu hôm nay mình được thấy lại ông lão hóa thành làn nước đen ngòm ấy cũng nên! Rồi tự dưng, tôi thấy mọi thứ thật phù phiếm.

Đi trong mơ, chung quanh vắng tanh không một bóng người, tôi còn nhớ lần đầu tiên tôi đã hoảng sợ, song đến lần thứ hai, tôi thấy mình ung dung thoải mái, tai nghe tiếng lạo xạo

của những viên sỏi dưới bàn chân mà không có cảm giác đau nhói, mặt đất băng giá đã biến thành tấm thảm êm dày.

Tôi bước đi thong thả, vừa đi vừa ngắm những bụi cây di chuyển theo mình. Trong mơ, tôi ăn vận phong phanh mà không thấy lạnh. Tôi cứ bước dọc theo con đường, trong lòng thư

thái nghĩ rằng ở phía trước mặt hình như có ai đang đợi mình. Và chỉ có tôi biết người đó là ai?

Phía trước. Đúng thế, ở phía trước mặt.

Lúc đó tôi nghe như có một âm thanh nhỏ nhẹ, tựa hồ tiếng khóc thổn thức, ai oán như tiếng mèo kêu não nề giữa đem đông đón gọi xuân về. Tôi hoang mang đưa mắt nhìn ra bốn

phía, muốn biết trong mơ liệu sẽ có chuyện gì xảy ra nữa, tuồng như Elis đuổi theo chú thỏ trắng chui vào hang sâu.

- Ai đấy?

Một tiếng kêu ghê rợn của người đàn bà dội lên trong đem tối. Tiếng kêu quá đột ngột và dường như không thật. Vì thế, tôi không buồn đáp lại và thản nhiên nhìn thẳng về phía trước.

Trời tối đen không trông thấy gì và thật tình, tôi không biết phía trước còn gì chờ chực nữa. Tôi cố giương to mắt, không biết giãn rộng thêm con ngươi mắt trong mơ có khiến mọi thứ

khả dĩ không?

Trước mặt vẫn như có một lớp sương mù bao phủ, tôi cố gắng để nhìn rõ mọi thứ thì bỗng nhiên xuất hiện một chiếc bóng lọt vào tầm nhìn của tôi.

Một người đàn bà. Mãi cho đến lúc đó tôi mới vỡ lẽ tiếng kêu mà mình nghe thấy trước đó là của người đàn bà này. Cách ăn mặc của bà cũng phong phanh, không hợp với thời tiết,

kiểu như của tôi ấy. Như vậy, phải chăng ở trong mộng người ta không mấy để ý đến thời tiết? Tuy nhiên, trong đêm tối, khuôn mặt bà hiện ra khá rõ và tôi không biết mình đã trông

thấy khuôn mặt phấn son lòe loẹt này ở đâu chưa? Tôi những muốn nói mà không sao thốt nên lời, đành há hốc miệng chờ đó.

- Vậy bà là ai?

Người đàn bà run rẩy. Lẽ nào trong mộng, ngoại hình của tôi khiến người ta khiếp sợ. Thế nên tôi làm bộ hé răng cười, dẫu biết chắc bà không nhìn thấy được.

- Ối, xin đừng... Đừng dọa tôi nữa... Xin ông tránh xa tôi ra.

Bà cầu xin, nhưng giọng lại có vẻ răn đe, người run rẩy như một chiếc bóng từ trong tối đi ra. Váy áo mang trên mình chẳng nhiều hơn tôi là mấy, trên bả vai áo còn có một miếng

rách.

Giấc mơ khiến tôi nghĩ đến một bộ phim kinh dị. Nội dung phim là cuộc chạm chán giữa nhân vật nữ chính với một con quỉ dữ. Bộ phim đó tồi lắm, cả đến lời thoại nghe cũng phát

chán lên được.

Chẳng nói chẳng rằng, tôi đưa tay sờ soạn phía trước mặt, hy vọng sẽ đụng tay vào không khí mát lạnh ngoài trời hoặc sẽ sờ trúng được chiếc gối đầu hay tấm mền chăn, không dè

đó lại là thân thể nồng ấm của người đàn bà. Tôi khiếp đảm, bật dậy, vừa nói vừa run:

- Bà... bà là ai vậy? - Giọng nói như méo hẳn đi. Bất thình lình, người đàn bà rú lên một tiếng "ối!", bà đánh thẳng vào cườm tay tôi rồi vùng chạy, sạt ngang qua người tôi, để lại đằng

sau một thứ mùi hăng hắc cùng luồng khí phất phơ. Cái mùi lạ ấy quyện vào không khí, lởn vởn xung quanh người tôi.


Quái lạ, tôi thấy nóng ran như bị bỏng nơi mu bàn tay, hay là vết xước do người đàn bà đó cào cấu? Quay mặt lại, tôi thấy ngưới đàn bà bước xiêu vẹo, hướng đến chỗ có ánh đèn

đường phố. Từ trên cao, ánh sáng tỏa xuống tựa hồ những bông tuyết buông rơi lả tả trên người, cảnh sắc xung quanh không phải là thật nữa.

Trời ơi! Tôi nghĩ... Trời ơi.

Phải chăng đó là cơn ác mộng. Tôi xòe tay ra, mắt chăm chằm nhìn vào bàn tay mình không chớp. Lạ thật, mình thấy đau rát, nhưng trên mu bàn tay sao chỉ có mấy vết trăng trắng và

sạch bong, không có tí máu nào. Vậy là người đàn bà đó đã không thể cào xước da tôi được, cho dù bà ta có những móng tay nhọn hoắt.

Biết đâu bà ta cũng sợ tôi chứ? Sợ đến nỗi như một con mèo, bà đã cào cấu tôi bị thương. Chính tôi dõi theo lúc bà chạy trốn mà bàng hoàng cả người. Tự hỏi giấc mộng này sao

phi lý đến thế?

Có lẽ mình cứ phải tiếp tục đi nữa xem sao?

Trông xa về phía trước, tôi thấy con đường vắng tanh, trải dài quá thêm một đoạn nữa thì mất hút. Liệu nơi đó có gì lạ không?. Trong mộng, dẫu xảy ra chuyện gì đi nữa thì đó cũng

không phải là điều bất ngờ, nhưng tôi vẫn thấy sợ.

Thật vậy. Sự sợ hãi đối với một thế giới mình chưa biết đến, đơn giản cũng như nỗi sợ của một đứa trẻ bị lạc đường. Nó thấy sợ ngay cả đối với một ngõ hẻm xa lạ.

Tôi riếp tục đi lên, thận trọng với từng bước chân. Chân đi đất, dấn bước trên mặt đường lạnh tanh mà cảm giác mình đang đi trên lớp băng rạn. Mùa này đã hết mưa song nhiệt độ

thấp, khí lạnh như những mũi kim châm đâm vào da thịt. Nhưng người tôi đã tê cóng không còn cảm giác gì nữa.

Biết đâu đây lại là một đặc trưng nữa của cảnh mộng? Nghĩ vậy, tôi cất bước thong thả. Đột nhiên, một âm thanh lạ lọt vào tay tôi. Nghe rất nhỏ, như thể tiếng thổn thức của ai đó. Tôi

lên chân từng tí một, chậm chạp đúng như của một người đang trong cơn ác mộng. Thấp thoáng trong đêm tối, tôi trông thấy một chiếc bóng, lúc ẩn lúc hiện, thẫm màu hơn cả bóng

tối.

Nào ai biết được đó là dã thú hay một con người! Vả chăng, trong bóng tồi, dù mọi thứ có khác nhau đến mấy thì tôi vẫn nghĩ nó giống như một con ngựa vằn. Bởi vì trên thân hình

chiếc bóng đó mang đầy những mảng vằn vện có thể thấy được lờ mờ trong khoảng tranh tối tranh sáng.

Chắc hẳn đó là con vật trong sở thú sổng chuồng thoát được ra ngoài. Tôi đần người trông theo nó. Trời lặng gió. Bốn bề êm ắng không một tiếng động và khí lạnh dâng lên đột ngột

tựa hồ hai bàn chân không giày đã dẫm lên một tảng băng. Nhưng vì chuíng đã tê dại nên không còn cảm giác.

Không chừng nó là con thú dữ như ta đã thấy trong cảnh quay của một bộ phim kinh dị rùng rợn. Giữa lúc tôi đang loay hoay nghĩ cách làm sao nhìn được rõ hơn thì bỗng nhiên, từ

trong klhoảng tối đen nhảy vọt ra một con thú dị dạng, hình thù quái gở... Tuy vậy, tôi vẫn lấn thêm được một bước nữa.

Và tiếng khóc thổn thức nhỏ hẳn đi, nghe như giọt nước từ mái gianh nhỏ xuống lưa thưa , lúc có lúc không.

- Ủa, ông đấy ư?

Trong bóng đêm, bất thình lình một tiếng nói thốt lên. Tiếng nói của con người, dẫu đã biến dạng song vẫn nghe rõ.

- Vây ông là ai?

Cuối cùng tôi cũng lên tiếng, tuy giọng nói nghe trống rỗng như thoát ra từ dưới đáy giếng sâu vậy.

- Hóa ra đúng là ông.

Giọng nói như lùi ra xa hơn, vẻ ngóng chờ. Tôi cố nghĩ xem có thể là ai nhưng vô ích.

- Ông biết tôi sao?

- Dè đâu ông với tôi cũng thế cả.

Giọng nói bỗng bật cười thành tiếng, làm tôi khó chịu:

- Vậy thực ra ông là ai?

Trong mộng, ai đời lại vặn vẹo truy hỏi như thế, hắn ta có thể là ngườimình quen biết hoặc cũng có thể mình không hề biết gì. Truy đuổi một người trong mơ chẳng mang lại lợi ích gì.

Tiếng soạt soạt phát ra từ trong bụi cây lúc này nghe nhỏ dần và chắc hẳn, hắn cũng đang lùi ra xa hơn. Tôi lại bước tiếp vì nghĩ bụng, trong mơ thì không có gì cản trở mình. Một cành

cây quệt vào người làm tôi đau điếng. Bất chợt tôi đứng lại, kêu lên:

- Rốt cuộc thì ông là ai chứ?

- Ha ha... Hắn cười gằn từng tiếng, giọng mỉa mai.

- Đến cả ông mà cũng không biết mình là ai nữa là...

Lẽ nào trong mộng người ta cũng thích triết lý? " Tôi là ai vậy?" Ngay từ lúc còn bé tôi đã thấm thía điều này. Bác tôi mất vào mùa thu, năm ấy tôi còn là học sinh tiểu học. Sau khi đưa

tang, về đến nhà, tôi được chứng kiến cảnh tượng bề bộn bày ra trước mắt. Đứng trước tấm gương lớn dùng thay quần áo, tôi đã thấy được chiếc bóng của mình và nghĩ ngay đến

"vấn đề" ấy. Con người gọi là "tôi" đó, rốt cuộc là ai? Cái người mang tên Tần Thành Khang lúc bấy giờ đang là một học trò nhỏ trong trường tiểu học. Rồi nó sẽ lớn lên, trải qua sinh

lão bệnh tử và cuối cùng về với đất để yên nghĩ. Cái người ấy quan hệ gì đến tôi chứ?. Giả sử Tần Thành Khang là tôi thì cái người đang phải suy nghĩ trăn trở đó rốt cuộc là ai vậy?

Vấn đề này tựa hồ một cái hố đen, quây lộn đầu óc đơn sơ của tôi lâu nay. Mãi cho đến bây giờ tôi vẫn còn nghi ngờ, phải chăng ta chưa bao giờ tồn tại. Biết đâu chính Tần Thành

Khang mới là người, còn tôi chỉ là một kẻ ngoài cuộc, đứng nhìn hắn học tiểu học, trung học và đại học rồi giã từ quê nhà ra đi làm việc ở một nơi khác. Lo chuyện làm ăn của hắn.

Còn bảnt hân tôi, rốt cuộc tôi là gì?

Tôi nín lặng chẳng nói chẳng rằng và cái người ấy cũng câm lặng. Trong đêm tối tôi lại nghe thấy tiếng khóc nức nở.

- Cả mày nữa, mày cũng đang khóc sao?

Tôi đánh liều, cuối cùng cũng thốt được nên lời. Trong ác mộng, nên nhớ rằng chỉ khi nào mình nói ra được thì mới hết lo đánh mất mình. Tôi vừa dứt lời thì tiếng thổn thức ngưng bặt,

thay vào đó là một tiếng cười nhạt.

Còn tôi chỉ muốn khóc.

Giờ hắn đang nói rỉ rả. Đêm tối, tôi thấy từ trong bụi cây xuất hiện một khuôn mặt màu đen. Khuôn mặt đó gần như hóa làm một với bóng đen chung quanh, nên đường nét của nó

không còn rõ nữa, tựa hồ tảng băng màu đen đang tan chảy. Tuy nhiên tôi vẫn ra được ở cái bóng khuôn mặt có nét quen quen.

- Ôi, Ôn Kiến Quốc! - Tôi buộc miệng kêu lên. Thật không thể nào tin vào mắt mình nữa. Ôn Kiến Quốc đã bao lần xuất hoện trong giấc mơ của tôi, nhưng không giống như cái hình thù

dị dạng quái đản đang đứng trước mắt tôi.

Đó không phải là người. Gương mặt nó đen tuyền, vằn vện những đường ngang dọc trên. Tôi bất giác rùng mình, bước giật lùi, hỏi dồn dập:

- Ôn Kiến Quốc, có đúng ông đấy không?

Cái bóng đứng dậy, trang phục trên người đúng là của Ôn Kiến Quốc, nhưng hình dáng lại khiến liên tưởng đến loại "amip" biến dạng.

- Ơi trời đất! sao ông đến nông nỗi này hả ông Kiến Quốc? Nói rồi hai chân tôi bỗng nhiên bủn rủn.

Cái bóng cười nhưng nét mặt vẻ như muốn khóc :

- Nào ai biết được!

- Thế còn Lâm Bồ Lam, ông giết chết cô ta rồi phải không?

Nói xong, tôi thấy mình lỡ lời. Đem những chuyện như thế ra hỏi người trong mộng thì khác gì mình đang nói mê? Hỏi nữa cũng bằng thừa thôi. Không dè cái bóng thụp ngay xuống,

khóc nức nở.

- Đúng đấy, tôi đã giết cô ta.

- Vì sao nào? - Dù biết nó chả có nghĩa lý gì nhưng tôi vẫn cứ hỏi.

- Vì Dạ Vương.

Nó nín thinh một lúc lâu, tôi những tưởng không đời nào nó nói nữa thì bất chợt, nó thốt lên câu đó và tôi gặng hỏi:

- Vì chuyện gì?

- Vì dạ Vương, hắn...

Rồi cái bóng chợt đứng phắt dậy, quay lưng chạy vụt đi. Tuy chân hơi bị khập khiểng nhưng nó chạy rất nhanh. tôi đã tính đuổi theo nhưng không kịp vì nó chạy nhanh quá, y như một

làn khói đen. Thoắt cái tan biến vào chốn xa xăm.

Đúng là một giấc mơ quái lạ, nó làm tôi buồn nên đành dừng chân đứng lại. Vả lại tôi chẳng thể nào đuổi kịp nó được. Nhìn xuống chân, mặt đất cứng quèo và giá lạnh, lúc ấy tôi chợt

nhận ra mình đã vượt quá ra ngoài những bụi cây lúp xúp và đặt chân đến một nơi lạ. Chân tôi giẫm phải một vật gì đó, cùng lúc, mũi tôi cũng ngửi thấy mùi thơm dịu ngọt lan ra

thoang thoảng quanh đây.

Lại cái gì nữa đây? Tôi nhìn xéo xuống dưới chân với ánh mắt ngờ vực. Trong mộng, mọi vật đều nhạt nhòa như được bao bọc dưới một lớp kính đầy hơi nước nên tôi không nhìn

thấy vật vướng phải là gì. Tôi cúi xuống nhặt nó lên, tưởng chỉ là một cành cây, nhưng không. Vật này nặng khoảng hai mươi đến ba mươi kilogram. Tôi cố thu nó lên, trải ra trước

mặt để nhìn cho rõ. Thình lình, một khuôm mặt nanh ác hiện ra.

Hàm răng của nó nhe ra lạnh ngắt. Trước cảnh tượng quá đỗi bất ngờ đó, ai mà chẳng hoảng sợ. Tôi tự trấn an mình, đó chỉ là một giấc mơ.

Đúng thế, đó là một giấc mơ.

Chuông báo thức đổ từng hồi. Tôi nhỏm dậy, đưa hai tay lên vuốt ngực. Tim tôi vẫn đập đều, mới rồi ở trong mộng, khi trông thấy khuôn mặt nanh ác của con thú, tôi đã tỏ ra không

sợ sệt.

Trời chưa rạng sáng, tôi ngồi ngay tại giường lấy tay dụi mắt cho quen với mọi thứ xung quanh. Hàng ngày, cứ vào khoảng giờ này, tôi đã trở dậy sửa soạn để đi làm mà vẫn còn

thèm ngủ, hôm nào cũng cập rập vội vàng ... Chân tôi kéo lê đôi giày, với tay bật đèn.

Dưới ánh sáng đèn sáng lóa, tôi đâm hoảng khi thấy có vết máu trên tay mình. Trống ngực tôi đập thình thịch và tôi như bị nghẹt thở, cố hả miệng thở sâu. Lát sau mới lấy hết can

đảm, chậm rãi đưa bàn tay lên gần mặt để xem lại cho kỹ.

Những ngón tay tôi dính máu, không nhiều và đã khô.

Tôi đã bị đứt tay ư? Tôi kiểm tra lại nhưng chẳng tìm thấy một vết đứt. Tức thì toàn thân tôi như bị ngộp trong nỗi kinh hoàng, cảm giác một lớp keo dính bám riết lấy mình. Khi còn ở

trong mộng, tay tôi nắm vào con vật đã chết, cảm thấy nó dính nhơm nhớp. Có lẽ đó là một con chó rừng nanh ác. Nhưng làm sao chuyện trong mộng lại hóa thành thiện thực được,

nếu thế thì...

Rồi như người phát khùng, tôi ngồi phịch ngay xuống, lật ngửa bàn chân lên xem và bất thần, người tôi muốn xỉu đi.

Nơi đầu ngón chân tôi cũng bị dây máu và gan bàn chân nhuốm đầy đất cát. Có mấy vết xước nhỏ, bằng chứng cho thấy tôi đã vượt qua một chặng đường khá xa bằng chân đất.

Tôi lặng lẽ quay lại nhìn giường ngũ của mình với đống chăn gối lộn xộn. Tôi lật tung tấm chăn ra.

Tấm ga lâu ngày không giặt đã bẩn, bây giờ trát đầy bụi đất, còn vương mấy sợi lông ngắn và thô. Thứ lông của động vật, chính xác là lông chó.

Tôi ngồi chết lặng trên ghế, mắt không dám nhìn vào giường nữa!

Là người được ăn học, tôi chẳng tin một tí nào vào cái gọi là siêu nhân, làm sao biến những điều trong mơ thành hiện thực được? Tôi không giải thích nổi chuyện đã xảy ra. Những

cuốn sách tôi từng đọc có nói tới chuyện mộng du, rằng những người mộng du sau khi tỉnh dậy thì chẳng còn nhớ mình đã làm gì trong mộng. Và nếu đúng thế thật, có lẽ tôi đã mộng

du... Tôi đã gặp một Ôn Kiến Quốc với bộ dạng của một con quỉ.

Không biết tôi ngồi đần ở đó bao lâu, đồng hồ đã chỉ 8 giờ sáng, tôi giật nảy mình. Bữa trước, trót đến chậm giờ, tôi đã bị lão Giám đốc xạc cho một trận, lần này chắc cũng không

thoát. Tôi rửa chân quấy quá rồi vội vàng đi làm. Tối qua bị mộng du, tôi ăn vận phong phanh rồi bị cảm, bây giờ đầu váng vất, chân bước thấp cao. Qua cổng tòa soạn, tôi thấy ngại,

chuẩn bị sẵn tinh thần bị trách mắng. Lên đến tầng lầu văn phòng thì đụng ngay phải Văn Đản, hắn khẽ chào hỏi:

- Kìa Khang, cậu đến rồi à?

Lúc ấy hắn đứng ngay trước cửa buồng toalet. Tôi đưa tay lên gãi đầu, mặt nhăn nhó:

- Mình lại muộn giờ mất, xui quá đấy!

Lí do đến chậm thì nhiều lắm song hậu quả là bị trừ vào lương. Họ trừ hết lần này đến lần khác, dễ thường rồi miếng cơm cũng không có dủ mà ăn.

Văn Đán vẫn làm bộ nghiêm túc bảo khẽ tôi:

- Cảnh sát người ta vừa mới đến đấy, đòi gặp cậu ngay. Lại sinh chuyện gì rồi phải không? Trông mặt cậu tái đi kìa.

- Tìm gặp tôi làm gì? - Tôi giật thót mình. Nghĩ cho kỹ, ngoài việc nhổ bậy ra, tôi chẳng làm gì nên tội. Đang định nói tôi chả gây nên chuyện gì sất thì bất thần Giám đốc ló đầu ra gọi to:

- Anh Khang đến rồi, may quá. Có đồng chí công an đang muốn gặp anh đây này.




-----------

Tôi ngần ngại, lo rằng với bộ mặt tbiểu não như bây giờ của mình, biết đâu họ sẽ nghĩ mình có chuyện gì khuất tất? Giữa lúc đó, anh công an từ trong phòng bước ra, mắt nhớn nhát tìm tôi và nói:

- Xin chào, anh là Tần Khang phải không?

Với vẻ mặt lo ngại, tôi đáp:

- Phải. Vậy có chuyện gì thế hả anh?

- À, cũng có vài điều muốn biết ý kiến của anh, mời anh đi với tôi chốc lát.

Tòa lầu này lấy làm tòa soạn, kể ra cũng khá hỗn tạp; nó có phòng họp riêng dành cho Giám Đốc. Lúc tôi đi theo sau anh công an trong bộ đồng phục vũ trang thì đã có khá đông người đứng xúm xít quanh cửa phòng họp. Ai nấy đều tỏ ra thông cảm với tôi vì nghĩ rằng, rất có thể tôi sẽ bị bắt. Thậm chí có người thấy tội nghiệp cho tôi. "Thường ngày cậu ta hiền lành như thế, ai ngờ lại là thanh niên hư đốn" Một người nữa nói, ra vẻ am hiểu luật pháp lắm: " Ít ra cũng phải mười năm tù, chính tôi đã đọc luật hình sự rồi". Giám đốc bỗng bực mình, gắt um lên:

- Thôi, mọi người vể chỗ cả đi. Phải làm việc chứ! - Rồi quay sang anh công an, ông nói:

- Đồng chí Trần, đồng chí cứ nhẩn nha mà làm việc.

Cánh cửa vừa khép lại, tôi liền hỏi ngay:

- Xin lỗi, tôi muốn hỏi đồng chí Trần, tôi phạm luật sao?

- Phạm luật à? - Anh công an đang lấy giấy bút ra, nghe nói vội ngẩng đầu. ngạc nhiên vừa cười vừa nói - cứ cho là anh phạm luật đi nhưng không đến nỗi làm loạn, có gì mà phải lo. Tôi chỉ hỏi chuyện theo thông lệ thôi.

Người thừa hành chức trách này xem chừng không giống như các đội viên liên phòng khác vốn quen thói hống hách, không văng tục thì chửi đổng nên tôi vui vẻ ngồi xuống ngay:

- Vậy anh có chuyện gì muốn hỏi?

- Anh quen biết Ôn Kiến Quốc chứ?

Tôi sững sờ:

- Tôi có biế. Ông ta là cộng tác viên của tôi. Ông ấy viết tiểu thuyết, có chuyện gì sao?

- Lần cuối cùng anh gặp ông ấy là vào lúc nào?

Suýt nữa thì tôi buột miệng " chỉ mới hôm qua" nhưng nghĩ lại, tôi nói:

- Cách đây mấy hôm rồi, tôi không nhớ rõ. Nhưng tối hôm qua tôi đã nói chuyện với ông ấy mà không trông thấy mặt.

- Hừm - Anh công an hắng giọng trong lúc hí hoáy ghi chép.

Tôi nói:

- Vậy tôi xin hỏi thật anh, có phải người ta nghi cho tôi không?

Anh mỉm cười:

- Anh cả nghĩ quá ông Thành Khang ạ. Sáng sớm nay đội liên phòng đã tóm được Ôn Kiến Quốc rồi. Ông ta thừa nhận đã giết Lâm Bồ Lam, bây giờ chúng tôi hỏi chuyện anh chẳng qua là làm theo thông lê thôi.

Rồi như có điều gì làm người thừa hành công vụ băn khoăn, anh lại hỏi:

- À này anh Thành Khang, gần đây khi làm việc qua lại với Ôn Kiến Quốc, anh có nhân thấy ở ông ta có triệu gì không được bình thường chăng?

Trống ngực tôi đập dồn dập:

- Ý anh định hỏi về mặt nào chứ?

- Chẳng hạn như tâm trạng của Ôn Kiến Quốc dạo này - Anh công an nuốt nước miệng rồi đáp - Chả là đội liên phòng phát hiện được ông ta trong lúc tuần tra vùng bờ sông. Lúc ấy ông ta đang uống nước sông ừng ực. Trời thì rét và nước sông bẩn đến như thế, giặt giũ không thể được, nói gì uống.

Lâm Bồ Lam cũng phải chết dưới dòng sông đó, tôi nghĩ thầm trong bụng. Thấy tôi làm thinh, anh công an hỏi:

- Anh vừa nghĩ thêm được điều gì phải không?

Tôi ngước mắt nhìn lên:

- Sau chuyến đi chơi ở Hồ Nam về, ông ta trở nên kỳ cục như thoa phấn lên mặt chẳng hạn. Lạ lắm.

- Thoa phấn cơ à? - Anh ngẩng đầu lên nhìn tôi với ánh măt nghi ngờ - Thoa lên mặt sao?

- Chứ còn gì!

- Ông ta thích làm đẹp đến thế sao? - Anh công an xoay tròn cây bút trên đầu ngón tay và nói tiếp:

- Phải rồi. Ông ta còn có họ hàng người thân nào khác không?

- Cái đó tôi không rõ. Ông ta chỉ là tác giả làm việc với tôi và tôi không bận tâm đến các chuyện khác của ông ấy.

Anh ta lại lật giở những trang ghi chép trong cuốn sổ, tay vẫn mâm mê cây bút chì, ra chiều suy nghĩ lung lắm rồi đột nhiên hỏi:

- Mà này anh Thành Khang, anh cũng là người Hồ Nam phải không?

Tôi thấy ngạc nhiên mới nói:

- Vậy thì sao nào?

- Nhân tiện thì hỏi thôi. Anh không phải bận tâm.

Anh ta nói cho vui chuyện, song tôi biết tỏng đây không phải lúc hàn huyên chuyện trò. Tôi vẫn làm bộ gật gù:

- Đúng thế, song có điều cha mẹ tôi mất sớm. Tôi lớn lên, học xong đại học, rồi từ đó đến giờ chưa trở về lần nào.

- Kể ra cũng vất vả, phải xa quê hương. Anh ta nói với giọng cảm thông. Tôi mới hỏi:

- Vậy Ôn Kiến Quốc có đá động gì đến việc vì sao ông ta giết bạn gái của mình không?

Người thừa hành công vụ xuýt xoa. Tuồng như anh ta bị đau răng, nói:

- Ông ta không hé răng. Anh hỏi để làm gì?

Nghe thế, tôi biết anh ta có ý giấu diếm:

- Thưa anh, tôi biết Ôn Kiến Quốc lâu nay nhút nhất và tôi không tin ông ta lại đi giết người! Vậy ông ta có nói ra điều gì lạ lùng không?

Anh đưa mắt nhìn tôi trong lúc hai hàm răng cắn vào nhau, nói:

- Sau khi bị bắt, hắn nói lung tung, không đầu không đuôi, nào là "đóng dấu niêm phong", nào là " Dạ Vương" gì gì ấy và chúng tôi nghĩ rằng, đằng sau đó không chừng có tổ chức tà giáo?

Tôi sững sốt:

- Gì thế? Trong tiểu thuyết của ông ta chưa bao giờ có nội dung gì dính dáng đến tôn giáo mê tín cơ mà.

Anh công an đưa mắt nhìn xung quanh, nói:

- Hay lắm, nhân thể anh có mang theo tập tiểu thuyết nào của ông ta không, cho chúng tôi mượn đọc được chứ?

- Vừa may số tạp chí kỳ này có đăng một thiên tiểu thuyết của ông ta. bản "morat" cũng vừa gởi tới, tiện thể tôi sẽ đi lấy một bạn đưa anh đọc trước.

Trong phòng làm việc, tiếng bàn luận sôi nổi, tôi vừa đẩy cửa bước vào thì tiếng trao đổi im bặt. Cảm thấy những ánh mắt nhìn tôi soi mói, tuồng như tôi dây mơ rễ má nào đó với các phần tử phi pháp. Nhưng tôi cũng chẳng buồn để ý, vội vã đi đến bên bàn giấy, lấy bản 'morat" của số tạp chí kỳ tới còn thơm mùi mực mới in. Đã định quay ra thì Văn Đán lại gần hỏi han:

- Anh công an đi rồi chứ?

- Chưa.

Tôi cũng không muốn dài dòng song Văn Đán chạy theo lẵng nhẵng hỏi:

- Này anh Khang, anh có phạm vào điều gì không? Liệu có dính dáng đến tôi không hả anh?

Tôi cười thành tiếng:

- Anh làm chuyện gì khuất tất mới sợ tôi tố giác phải không nào?

Hắn cũng cười vẻ như gượng ép:

- Tôi sợ cóc khô gì. - Ngừng giây lát hắn mới ghé gần vào tai tôi nói nhỏ - Anh cẩn thận đấy, chớ nói lung tung, cánh công an là giỏi bắt thóp người ta lắm đấy.

Tôi cầm bản 'morat" quay lại phòng họp. Anh công an còn đứng đó, tay chắp sau lưng, đọc các biểu ngữ treo trên tường. Giám đốc trước kia có thời làm công tác tuyên huấn ở nhà máy quốc doanh nên ông ta đã cho treo khá nhiều lời trích của các nhân vật nổi tiếng, trong đó có cả câu của Edison.

- Xin gởi anh bản "morat" số tạp chí mới của chúng tôi! - Nói rồi tôi trao tờ tạp chí cho anh ta.

- Hấp dẫn lắm phải không?

Tôi gượng cười:

- Cũng bình thường thôi. Toàn ảnh người đẹp. Các tạp chí ăn khách đều thế cả.

- Chắc hẳn bán cũng khá lắm chứ?

- Cũng tạm được. - Nói rồi tôi lật đến trang in mục lục - Đây, bài này. Ôn Khắc là bút danh của Ôn Kiến Quốc đấy.

Anh ta lần giở các trang của tạp chí, hỏi :

- Vậy tôi có thể cầm bản này về được không?

- Anh cứ tự nhiên. - Tôi cười vui vẻ.

Anh ta kẹp tờ tạp chí vào trong cặp, đứng dậy bắt tay tôi, nói:

- Chào anh Thành Khang, việc coi như xong. Nếu còn gì cần thiết, có thể tôi sẽ đến nhờ anh giúp cho đấy.

Tôi thở phào nhẹ nhõm. Xem chừng Ôn Kiến Quốc cũng không đến nỗi thú nhận bừa bãi. Tôi bắt tay anh công an và nói nhỏ với hắn:

- Tiện thể anh có thể ghé qua chỗ hành lang nói vài lời với mọi người được chứ?

Anh ta sững lại:

- Sao phải thế?

- Không thì các đồng nghiệp của tôi sẽ đồn ầm lên rằng tôi là thanh niên sa ngã, phải chịu án hình sự từ sáu đến mười năm gì đó...

Anh ta cười rõ, vẻ thoải mái:

- Hay thật đấy.

Ra đến ngoài cửa anh ta mới cất giọng oang oang:

- Đồng chí Tần Thành Khang, xin cám ơn đồng chí đã phối hợp với chúng tôi, chào đồng chí!

Đi đến cửa thang máy, tôi mới sực nhớ, vội quay sang anh công an hỏi:

- Suýt quên, Ôn Kiến Quốc bây giờ bị giam ở đâu vậy?

Anh ta ngẩng đầu lên hỏi lại:

- Để làm gì?

- Chả là tôi định đến thăm, chẳng gì thì ông ta cũng là một tác giả cộng tác với tôi.

Thoáng suy nghĩ rồi ông ta mới nói:

- Được thôi. - chững lại giây lát và nói một cách chậm rãi. - Ông ta ở viện 7

Viện 7 là bệnh viện tâm thần nên tôi sững sốt:

- Ông ta bị điên rồi sao?

Anh ta gật đầu :

- Tâm trí ông ta bị rối loạn, không còn nhớ gì sất. Anh đến thăm ông ta cũng tốt biết đâu lại giúp ích cho công việc điều tra cũng nên.

Sau khi tiễn anh ta ra về, tôi mới kịp nhận ra lưng mình đẫm mồ hôi, thấm ướt ra cả áo sơ mi. Đi ngang qua cửa văn phòng, bỗng nghe tiếng Văn Đán gọi chào "See you again", hắn vẫn bận tâm đến việc của tôi. Khi tôi đẩy cửa bước vào thì hắn im bặt. đồng nghiệp chung quanh vờ như đang bận việc và thản nhiên như không thấy.

Vừa ngồi xuống thì có tiếng kẹt, cửa văn phòng mở hé ra và lão Giám đốc thò cổ vào nhìn quanh, nói:

- Anh công an về rồi à?

Tôi mới đứng dậy nói;

- Về rồi.

- Vậy anh gặp tôi một lát.

Đặt chân vào văn phòng Giám đốc, tôi để ý thấy Lý Đĩnh không có mặt ở đó. Lão ta lên giọng nặng lời với tôi rồi bảo tôi quay về phòng mà lo công việc. Lúc ấy tôi thấy mình như lên cơn sốt. Ngồi trước mặt Giám đốc mà hai chân tôi bồng bềnh như đang giẫm trên một đống bông vậy.

Sau đó, mọi chuyện diễn ra như thế nào, tôi cũng không nhớ nữa. Sáng sớm hôm sau, cả đến chuông báo thức cũng không sao gọi tôi dậy được. Khi tôi trở dậy thì đã chín giờ rưỡi. Tôi cố bò dậy, lê thân mình đến bệnh viện gần nhất khám bác sĩ. Tôi sốt ba mươi chín độ. May mà dịch SARS vừa mới qua, nếu không họ đã dồn tôi vào buồng cách ly rồi.

Kê đơn thuốc xong, nhân lúc chờ tiêm thuốc, tôi đã kịp gọi điện báo tin cho Giám đốc biết. Cứ nghe giọng cũng đoán được là ông ta đang trách tôi sao lại ốm đúng vào lúc công việc bận rộn thế này. Nhưng làm sao khác được. Tiêm thuốc xong, gần như tôi phải bò về đến nhà, lăn luôn lên giường. Người xa quê lại độc thân, sợ nhất là lúc ốm đau. Có cảm giác muốn buông xuôi tất cả. Tôi thấy đầu mình nặng trìch trịch, nhìn xung quanh thấy quang cảnh giống như trong một cuốn phim cũ lâu năm với hình ảnh đen trắng đảo ngược.

Tôi nằm trên giường, mắt nhìn lên trần nhà không chớp. Trần nhà vấy bẩn, ở một góc nhà có đám màng nhện và một con nhện con bò ra bò vào, giăng những sợi tơ vương đầy bụi. Dạo này, trời đang trở rét nên muỗi biến đâu hết. Mắt tôi dõi theo cái điểm đen nho nhỏ di chuyển loanh quanh trong một đường tròn, bất giác tưởng mình như con nhện, quanh năm suốt tháng ngừng lại trong sự tưởng tượng. Khi mùa hè đã qua đi, nó vẫn cứ bận rộn một cách vô ích, đến nổi coi sự cần mẫn chăm chỉ ấy mới là công việc hàng ngày của mình. Mãi cho đến lúc này tôi mới nghĩ đến tuổi già. Hiện tôi không có của để dành, mà cũng không có tài sản, nhà đất. Nếu mất việc làm, chắc tôi sẽ chết đói.

Đầu óc cứ vẫn vơ nghĩ những chuyện ấy, tự nhiên tôi thấy Giám đốc tuy ngang ngạnh, lắm lúc vô lý nhưng lão cũng có cái đáng yêu. Chẳng hạn lão cho tôi những tờ giấy vẽ hoa văn do ngân hàng phát hành... Suy nghĩ được một lúc, người tôi nặng như chì và tôi dần dần chìm vào trong giấc mộng lúc nào không biết.

Tôi thấy mình đứng ở nơi đầu đường phố vắng tanh. Gió thổi tới, giấy vụn và bụi đất tung bay mù mịt. Cảnh tượng đó đã trở thành quen mắt với tôi kể từ khi tôi còn nhỏ tuổi. Hồi ấy, tôi sống ở một thị trấn nhỏ của Hồ Nam, vì ít bạn nên tôi thường dạo chơi lung tung trên các đường phố ngập trong cát bụi. Vào thời ấy, trên các bức tường của đường phố, người ta dán đầy những tờ giấy to màu trắng và đỏ, trên đó dầy dặc những chữ viết bằng mực đen. Chúng bị mưa ướt sũng rồi được gió hong khô thành những mảnh giấy cứng quèo, bị gió thổi rớt xuống phát ra tiếng kêu khô khỏng. Buổi ấy, cái thằng tôi năm sáu tuổi đầu thích chơi trò qua cầu, lao mình qua lại trên những ngõ hẻm chạy ngang dọc như một chốn mê cung. Tôi thích nhất được ngắm xem những tranh vẽ hình người kỳ dị dán khắp nơi trên tường. Còn những chữ viết kín mít trên trang giấy với văn phong kiểu "humor' đen, đọc không hiểu được cũng chẳng làm sao, vì lúc ấy tôi chỉ mê có mỗi tranh biếm họa vẽ phác thôi.

Cách đây đã bao nhiêu năm, lúc ấy tôi lên mấy nhỉ? Quên mất rồi. Những việc xa xưa ấy, bây giờ tôi đã quên sạch sành sanh, chỉ còn lưu lại những ảo ảnh nhòe nhoẹt. Tôi trông thấy mình đứng trên chop một bức tường, khuôn mặt đỏ hồng lên vì sung sướng khi thấy người ta trương ra một bức biếm họa có tên gọi là "cười ra nước mắt" và tôi cò cảm tưởng trống ngực tôi đập thình thịch dưới lần áo rộng quá khổ.

Bất thình lình, tôi thấy đằng sau mình, những chiếc bóng đen tụ lại với nhau thành làn nước đen dâng cao dần lên. Những bóng đen ấy có ở khắp mọi nơi, lan tràn không bờ bến, tựa như một khối lượng khổng lồ mực đen đang đổ xuống, nhiều như nước sông tràn bờ mênh mông. Làn nước đen kịt chảy đến đâu, cỏ cây khô héo đến đó. Vậy mà lúc ấy, tôi đứng ở chân tường cười lên sằng sặc vì vui thích trước bức tranh vẽ người đàn bà luống tuổi đã biến dạng. Những bóng đen đang lan ra một cách lặng im, không một tiếng động, hệt như vết mực loang trên một tờ giấy hút mực thượng hạng.

Bóng đen đã nuốt chững đầu cầu và với khí thế không gì cản lại được, nó đang di chuyển đến nơi những cậy cột điện... Những bóng đen giống như loải thực vật "Shumi", nó có sức sinh trưởng nhanh ghê gớm. lặng lẽ, êm như ru, nó nhuộm đen cây cột điện bằng gỗ. Rồi nó men theo bức tường, từ chân tường đền đầu tường và tràn qua... Cứ như vào buổi trưa hè, người ta đốt một tờ giấy trắng dưới ánh nắng gay gắt và bạn sẽ không trông thấy ngọn lửa mà chỉ thấy tờ giấy trắng đen dần từng tí một cùng với một đường thẳng uốn cong rồi bị gió thổi bay đi.

Chạy trốn đi!

Tôi tự bảo mình nhưng đứa trẻ trong tôi vẫn đứng yên một chỗ, mãi mê xem tranh vẽ trên tường. Rõ ràng nó không biết gì về những điều đang diễn ra ở xung quanh. Còn tôi, cho dù kêu gào đến khản giọng, nhưng tiếng kêu không thành tiếng, như chính tôi đã không hề tồn tại.

Nó có phải là tôi không?

Tôi nghe thấy mình thở hổn hển, không khí từ đường mũi đi vào phổi rồi từ phổi trở lại với không khí và phát ra từng hồi hơi thở nghe thô và nặng. vậy mà cậu bé là tôi không hề nghe thấy gì. Tôi đã tính lao người tới để nói với chính mình song khoảng cách tấc gang ấy, sao nó xa vời đến hàng ngan2 dặm, dẫu bằng cách gì đi nữa, tôi vẫn không sao lại gần bên mình được.

Chạy đi nào!

Tôi nói và bản thân không hề nghe tiếng. Tôi đã trông thấy khí thế dữ dội "cháy rừng" của những chiếc bóng ào ạt đổ về phía trước, dẫu không đứng ở điểm cao mà tôi vẫn thấy được cả một vùng đất. Nó có hình một chậu nước và người ta nhỏ vào đó một giọt mực đen, thoáng cái, nó đã loang khắp chậu nước.

Chạy đi thôi!

Tôi gào lên một cách tuyệt vọng. Những chiếc bóng giờ đây đã tràn đến nơi chân trời, nuốt chững hết thảy. Bên cạnh cậu bé là tôi, còn sót lại một quãng ánh sáng hình tròn, tựa hồ nó đang đứng trên một cái giếng cạn. Có điều khủng khiếp hơn nữa là tuy thế giới đã đổi khác hoàn toàn nhưng bản thân tôi vẫn không hề cảm thấy gì. Nó vẫn mãi mê ngắm hình vẽ trên tờ giấy đỏ với một nụ cưới ngây thơ nở trên môi.

Mau chạy đi kìa!

Tôi lẩm bẩm, xung quanh không một tiếng động. Tôi ngẩng đầu. Màn trời tối đen như đêm đã khuya, có vẻ như mọi vật đã bị tấm vải đen dày trùm kín, không thể nhìn thấy trăng sao, chỉ còn một màu đen sâu thăm thẫm.

Cuối cùng, tôi hét lên rất to. Tiếng thét đó làm tôi nhận ra tất cả chỉ là mộng mị. Khi mở mắt ra, tôi cứ tưởng là mình vẫn đang trong cơn mê, xung quanh vẫn tối đen. Nhưng rồi tôi cũng nhận ra là trời đã tối thật chứ không phải là vẫn chìm đắm trong giấc mơ dài không thoát ra được.

Cơn sốt đã hạ, cổ họng khô rát như cháy, mồm miệng nhạt thếch chẳng muốn ăn gì. Tôi lê dép đến bên cửa sổ, dường như vừa thấy cái bóng của chính mình lướt qua trước mắt. Hình như đó chính là tôi trong bộ đồ rộng thùng thình đang ngây ngô cười, đọc những băng khẩu hiệu màu đỏ, chữ to với những từ 'Đả đảo' , "Đập tan".

Những chuyện này xảy ra từ bao lâu rồi nhỉ?

Nhiều năm tháng đã trôi qua, mọi thứ đã nhạt nhòa như phim ảnh cũ kỹ đã hết nét, ranh giới đen trắng đã nhạt phai và trở thành một mảng mờ mờ xám xịt.

Tôi không biết mình đã đứng trước cửa sổ bao lâu rồi, chỉ kịp nhận ra nước mắt chảy ròng ròng trên mặt. Tôi đã khóc vào lúc nào, mà vì sao chứ? Tất cả không còn quan trọng nữa và tôi cũng không nhớ gì hết. Với tôi, cái thế giới bên ngoài tối đen kia giống như người khách lạ. Một người khách lòng dạ khôn lường.

Vĩnh viễn...

Chương 01 - Phần cuối
--------------------

Tôi cũng cười và đổi giọng chợt nhả :

- Xem ảnh mà làm gì chứ, cứ nhìn cô đây chẳng hơn sao! Ảnh có đẹp mấy đi nữa cũng chẳng bì kịp với cô.

Chuyện thường tình thôi, đã là con gái, thì ai chả thích người khác khen mình đẹp, vả chăng cô cũng đẹp thật. Lý Đĩnh đang mãi giở tập bản bông, mười đầu ngón tay như bay nhảy trên giấy, cô đặt bút sửa hết chỗ này đến chỗ khác. Tôi đứng một bên cảm thấy ngượng nghịu:

- Cô Đĩnh, hay là tôi đi lấy cho cô cốc nước nhé?

- Anh gọi tên tôi thân mật như thế, không sợ bạn trai tôi ghen à? - Cô bụm miệng cười.

Tôi đang giơ tay rút ra một cái cốc giấy dùng một lần, nghe thế không khỏi bị chạnh lòng nhưng chỉ cười:

- Có thế mà đã ghen thì đem anh ta ngâm vào chum dấm cho xong chuyện? cô uống trà được chứ?

- Cám ơn anh, nước trắng cũng được.

Tôi bước đến bên phích nước đun sôi tự động, mở chốt vòi, mắt nhìn dòng nước tuôn chảy mà tủi lòng.

Mình là cái thá gì chứ? Tuổi hai mười qua lâu rồi, bây giờ tuổi ba mươi đang sầm sập đuổi tới sau lưng. Tiếng là tốt nghiệp đại học ra nhưng làm ăn long đong lận đận; đổi hết việc này đến việc khác, nay đây mai đó vẫn chỉ hòai công. Tiền của túng bấn, tướng mạo cũng thua kém chẳng bằng ai. Những muốn làm một viên đá lót đường song chỉ có thể là viên đá trơn nhẵn không có hoa văn, đến nỗi thân con trai mà chẳng có lấy một người bạn gái nào.

Tôi đưa mắt lên nhìn Lý Đĩnh. Cô ngồi đó, cắm cúi đánh máy chữ. Cô để tóc chấm vai, đuôi tóc được kẹp bằng chiếc cặp màu xanh hình con bướm và chiếc áo len màu đỏ ôm sát mình , tôn lên đường nét uyển chuyển của thân người.

Giá như mình được làm bạn với cô thì may mắn biết mấy, tiếc rằng chuyện đó không bao giờ là thật. Nghe đâu bạn trai của cô là một viên chức cao cấp trong một doanh nghiệp nước ngòai, tiền lương mỗi năm lê tới hai ba chục vạn. Cơm bữa có cá tươi, đi đâu có xe đưa xe đón. Chỉ những chàng trai cỡ ấy mới xứng đội với cô mà thôi. Chứ như tôi... có mà...

- Anh tặc lưỡi kiểu gì lạ thế?

Cô dừng tay đánh máy, đưa hai tay lên đầu sửa sang mái tóc, kẹp lại cái cặp và liếc nhìn tôi.

- Xong hết rồi... Nước vừa mới rót vào cốc- Tôi vừa nói vừa cười.

Có lẽ vì quá bối rối nên tôi rót nước tràn qua cả miệng cốc, nước bỏng giẫy ngấm đẫm cốc làm bằng giấy bìa mềm oặt, khó lòng cầm lên được. Tôi luống cuống tay chân, đang toan đổ bớt nước trong cốc đi thì bỗng nghe một tiếng "ối" từ phía Lý Đĩnh.

Tiếng kêu hốt hoảng của cô khiến tôi thảng thốt bỏ luôn cốc nước ở đấy, vội vàng chạy tới.

- Việc gì thế? lại có chuyện gì phải không?

- Bàn phím của anh có chiếc đinh ghim!

- Đinh ghim làm sao? Tôi giật mình thêm một lần nữa, tim như thót lại. Không biết vì sao hôm nay có nhiều chuyện lạ như thế ?

- Đinh ghim ư? Nó đâu nào?

Đinh ghim rơi tọt vào trong bàn phím, nó có thễ gây nên đoản mạch, đốt cháy bàn phím. tôi đưa tay cầm lấy bàn phím và lật sấp, vỗ mạnh lên thân nó nhưng chỉ dốc ra được chút ít cát bụi bên trong mà không thấy có đinh ghim.

- Lạ chưa? Ngay mới rồi tay tôi vừa chạm vào bàn phím thì ngón giữa nhói lên đau buốt cơ mà?

vừa nói cô vừa chìa ngón giữa tay phải ra xem, tôi thấy buồn cười quá:

- Hãy khoan, để tôi chụp cho cô tấm ảnh này!

Bàn tay phải của cô, chỉ trừ mỗi ngón giữa, cón bốn ngón kia đều cụp vào lòng bàn tay, đưa ra một dấu hiệu không được đẹp mắt và nó là của người Mỹ dùng trong trường hợp chửi đổng. Lý Đĩnh cũng bất chợt nhận ra điều đó và nắm chặt bàn tay lại:

- Thôi, tôi chẳng thèm nói gì với anh nữa. anh làm sao ấy!

- Thôi được rồi. Cùng bỏ qua nhé! - Tôi cố nhịn cười - Xem nào, có vết kim châm hay không?

Cô lại chìa tay ra, lần này thì cô xòe cả bàn tay năm ngón, mắt nhìn chăm chú rồi lắc đầu:

- Quái lạ thật, cả vết kim châm cũng biến đâu mất.

Năm ngón tay của cô trông thon dài, trắng muốt như ruột cây hành đã bóc vỏ, rất đẹp. Tôi sáp lại gần:

- Đúng thế, không nhìn thấy được. Cô chờ đấy để tôi đi lấy kính lúp.

Trong ngăn bàn của tôi luôn có sẵn kính lúp. Có nó, tôi cầm lấy bàn tay cô đưa lên xem:

- Chà...không thấy vết thương, chẵng lẽ đó cũng là cảm giác nhầm lẫn?

Cô rút ngón tay ra khỏi lòng bàn tay tôi, mặt đỏ lên:

- Thôi nhé. bây giồ cũng hết đau rồi. Cứ để mặc tôi làm cho xong công việc.

Nghe giọng nói, tôi biết cô cũng đã lấy lại được khẩu khí lạnh lùng vốn có của mình nên tôi làm bộ tươi cười cất kính lúp vào chỗ của nó rồi nói:

- Đầu ngón tay là nơi tập trung nhiều đầu dây thần kinh, lắm khi chỉ một vết xước nhỏ trên bàn phím cũng có thể làm cho bàn tay đau buốt, phát sốt lên được đấy.

Thật vậy, nói đến đầu dây thần kinh ở đầu ngón tay, bạn có thể tự kiểm nghiệm bằng cách lấy hai đầu mũi kéo đâm nhẹ lên mu bàn tay và chỉ bằng xúc giác không thôi, bạn sẽ không thể nào có cảm nhận rõ ràng xem đó là một hay là hai mũi kéo. Nhưng nếu bạn chọc mũi kéo vào đầu ngón tay thì cảm giác bạn nhận được sẽ không sai vào đâu được. Cũng như với bàn tay của Lý Đĩnh nếu nó được cô chăm chút tỉ mĩ như thế, chắc hẳn nó nhạy cảm hơn hẳn bàn tay tôi rồi. Nhưng tôi vẫn chưa hết phân vân: Phải chăng đấy đúng là vết xước trên bề mặt bàn phím?

Không hiểu sao đầu óc tôi cứ mãi trăn trở không thể dứt ra khỏi ý nghĩ về cái vết xước ấy.

Lý Đĩnh làm thẳng một mạch trên máy tính của tôi tất cả các việc như: sắo đặt lại câu chuyện bát nháo của cô, sửa hết những câu văn nghe chừng còn trúc trắc, "load" hết vào đĩa mềm rồi mới đứng lên:

- May quá, xong cả rồi!

- Lần này cô biên tập những nội dung quái quỉ gì vậy?

- Bí mật đấy? - Cô nhếch mép cười.

Nụ cười của cô mới đẹp đẽ và đáng yêu làm sao, tôi đâm ra mủi lòng xen lẫn sự ganh tỵ:

- Ủa, cô mới nhổ răng đấy ư, cô Lý Đĩnh?

Chả là ban nãy, lúc cô cười, tình cờ tôi thấy hình như cô mất một chiếc răng hàm bên má trái.

- Đâu có. - Cô nói vẻ ngạc nhiên.

Tôi giơ tay chỉ vào một bên má trái:

- Có đấy, tôi nhác thấy ở chỗ này cô bị hụt mất một chiếc răng.

- Đúng thế không? Răng sâu chứ gì? Cô giật mình và thò tay vào trong ví đầm để bên mình, lấy ra chiếc gương soi nhỏ, há to miệng, ghé mặt gần vào để soi. Tuy vậy, muốn nhìn cho rõ chiếc răng hàm ở sâu trong miệng đâu phải chuyện dễ. Lý Đĩnh càng há to miệng, tôi lại thấy cô càng đẹp hơn lúc thường.

- A ha...- Tôi tức cười không sao nhịn được nữa. Tiếng cười của tôi làm cô phát cáu:

- Đồ tồi, định lừa tôi hay sao? Tôi đã tưởng anh là người ngay thật, ai ngờ ...

- Tồi ở chỗ nào?... Tôi nhịn cười - Đàn ông hiền lành thì phụ nữ không yêu. Tôi nói thật tình, cô nghe nhé, cô Đĩnh. Giả sử cô tẩy chay anh bạn trai thì cứ đến với tôi là hơn đó.

- Phì... - Cô làm bộ nhổ toẹt - Đến với anh sao, rõ là đồ mỏ quạ. Mặc xác anh!

Cô xô chiếc ghế tựa sang bên rồi vùng vằn bỏ đi. Tôi gọi với theo:

- Cô Đĩnh... cô còn quên chưa uống nước.

Nhưng lần này thì cô tỉnh bơ. Ta khỏi cửa rồi cô còn kịp kéo sập cánh của lại.

Chờ cô đi khỏi tôi mới ngồi xuống. Hơi ấm của cô vẫn còn vương trên ghế, bên bàn máy tính, xen lẫn mùi thơm của hoa linh lan - thứ nước hoa cô thường dùng. Ngồi trước máy tính, lòng tôi bâng khuâng khó tả, cảm giác ấy đưa tôi trở về với một thời dĩ vãng.

Ngày ấy đã xa rồi... Trong lối ngõ heo hút...mưa rơi mịt mù. Tay giương chiếc dù lợp giấy dầu to quá khổ so với thân hình, tôi mãi miết đi. Lúc ấy đang tầm giữa trưa mà dọc đường vắng tanh, không một bóng người. Ngõ hẻm chạy dài tít tắp ở giữa, vách tường cao chất ngất hai bên đường cứ như muốn khép lại, áp sát người đi trên đường. Vào thời ấy, tường đất đều xây bằng đất, lớp vôi trát ngòai nhiều chỗ tróc lỡ, để lộ thân gạch xám xanh. Nền đất lát đá tảng loang lỗ những vũng đọng nước mưa chảy thành dòng, cuốn theo những tàu lá rụng từ sân vườn hai bên ngõ chảy xuôi.

Thời thơ ấu của tôi đó...

Nhưng tôi không còn nhớ gì hết ngòai cảnh tượng trên đây, nó luôn tái hiện trước mắt tôi. Một lối ngõ chạy dài tít tắp, không biết đâu là cùng. Từ đầu này đến đầu kia không một bóng người. Chân bước dưới cây dù che, tôi bỗng thấy mình cô đơn khôn xiết.

Vâng... cô đơn như bây giờ.

Trong không khí có mùi hôi thối của da thuộc. Tôi giống như một con chuột bị sập bẫy, ngồi thu lu trong chiếc ghế tựa nhỏ, chợ cảm thấy rét thấu xương.

Cô ấy đi rồi, máy tính của tôi lại không bị hỏng hóc nên tôi có thể làm thêm ca, đem bản bông tiểu thuyết của Ôn Kiến Quốc ra để sửa các lỗi chính tả. Khác với những cuốn sách trước, tập tiểu thuyết này của anh ta viết rất quái đản, phần cuối viết rất lộn xộn, không theo một trật tự nào cả. Như người ta nói, sau này, gần như anh ta bị tẩu hỏa nhập ma, may mà thóat nạn không mắc tội tuyên truyền cho phong kiến và mê tín. Dẫu sao đi nữa thì anh ta vẫn là một cây bút từng trải, biết tránh xa những vấn đề được cho là kị húy khi làm tạp chí.

Đối chiếu được một lượt thì trời vừa tối. câu chuyện làm tôi phát rét lên được và nghe khó chịu trong người, chốc chốc lại rộ lên từng cơn một. Rồi tôi tắt vi tính, chuẩn bị nghỉ ca.

Xong xuôi mọi việc, mấy hôm trước ngày phát hành tạp chí sẽ là thời gian thảnh thơi. Tối nay, tôi hí hửng ra ngòai định bụng tự đãi mình một bữa ra trò. Bước khỏi cửa vẫn thấy phòng bên cạnh còn sáng đèn. "Cô ấy còn ở đây sao?" - Tôi bước đến gần đưa tay gõ cửa.

- Cô Đĩnh, cô vẫn chưa về à?

Đây chỉ là cái cớ cho tôi tiếp cận mà thôi và thực như thế, tôi đã nghe giọng nói của cô lạnh nhạt:

- À, tôi còn dở tí việc.

Đàn bà là thế, họ chỉ vồn vã khi cần nhờ vã điều gì đó thôi. Còn tôi, những muốn nhân dịp này được gần gũi hơn, biết đâu có thể tạo tình thân giữa hai bên mà không được. Tôi đành lẳng lặng xuống gác một mình.

Thang máy đang dừng ở tầng trệt. Tôi bấm nút điện, đứng chờ. Vừa bước vào, tôi giật mình hoảng sợ.

Chương 02: Bóng sống

Trong buồng thang máy đèn sáng trưng, mọi thứ đều sạch sẽ nhưng trống trơn, tuồng như nếu bạn đi quá ra ngòai, chỉ một bước chân thôi là rơi ngay xuống một vực sâu thâm thẩm. Trước đây tôi từng trải qua một cơn ác mộng... tôi mơ thấy mình đang đi trên đường, chợt bị hụt chân và cả người rơi tõm xuống tầng sâu hun hút tưởng chừng sẽ không bao giờ chạm tới đáy. Giấc mơ vẫn cứ bám riết lấy tôi, dai dẳng, chẳng khác gì một lớp nhựa bao bọc quanh người mình thành cái tổ kén không sao thoát ra được nữa. Giấc mơ này tôi đã mơ đi mơ lại nhiều lần rồi, không biết có phải vì từ thuở nhỏ tôi đã mắc chứng sợ hãi độ cao mà di chứng của nó còn tới bây giờ?

Tôi đưa tay lên gãi đầu, xua tan cơn buồn ngũ rồi bước vào.

Thang máy chạy xuống từ từ, phát ra những tiếng 'lục cục" khô khỏng của kim loại. Mới đưa vào sử dụng mấy năm mà đã kêu lọc xọc như vậy, chắc nó không phải loại tốt. Cánh cửa tự động khép lại và người đứng ở trong này cứ như bị tách biệt khỏi hiện thực ngoài đời. Trong thế giới bị bao quanh bởi khung thép vẻn vẹn hai mét vuông, còn lại mỗi mình tôi.

Thang máy tiếp tục xuống thấp. Lúc nó mới khởi động đi lên tôi đã có cảm giác mình bị mất trọng lượng, thấy chóng mặt khó chịu. Nếu không vì ngại cầu thang tối mù mù và dài dằng dặc thì tôi thà cứ đi bộ một mạch xuống dưới kia còn hơn là đi thang máy. Thú thật rằng tuy đã lớn tuổi rồi nhưng tôi vẫn rất sợ bóng tối, sợ bỗng nhiên bị bỏ lại ở chỗ tối một mình. Và không hiểu sao, hôm nay, nỗi sợ trong lòng tôi cứ dâng lên dày dẵc như sương mù trong đêm. Vì sống một mình nên tối nào đi ngũ tôi cũng để đèn và trước đó tôi thường đọc sách cho đến khi chìm vào giấc mộng lúc nào không hay.

May mà thang máy vận hành suôn sẽ, ít ra thì trong đọan đường đi ngắn ngủi này cũng không có chuyện gì xảy ra với tôi. Đúng lúc cửa thang máy mở ra, tôi thấy như mình vừa sống lại và phóng vội ra khỏi cửa giống một kẻ đang chạy trốn. Bên ngòai đông đúc và náo nhiệt, khách bộ hành và xe cộ qua lại như mắc cửi nhưng bầu không khí thì giá rét và ngột ngạt mùi xăng dầu. Siêu thị mở ngay ở tầng trệt của tòa lầu. Nhà xuất bản dịp này đang bận sửa sang để đón Noel. Người ta dựng lên ở phía trước cửa hàng hai cậy thông treo đèn kết hoa, trang trí màu sắc rực rỡ, có cả cánh hoa bông làm giả những bông tuyết. Ở Trung Quốc, tuy số người theo đạo Cơ đốc không nhiều, nhưng đã là thương nhân thì ai cũng mong lấy ngày lễ ngày tết làm dịp kinh doanh kiếm lời.

Tôi vài siêu thị mua hai bọc mì ăn liền; vào giờ này đã hết xe tuyến nên gọi taxi về nhà. Ngồi vào xe rồi tôi vẫn còn kịp ngỏanh lại, để ý thấy nhiều phòng của tòa nhà xuất bản vẫn còn sáng đèn. Chả là những đơn vị thuê nhà ở đây gồm nhiều công ty, có cả những công ty tôi không biết tên, song ngoài Lý Đĩnh ra, tôi biết chắc có một vài công ty khác nữa cũng đang mãi làm theo ca.

" Biết đâu chẳng có một chàng trai nào đó đến đón cô ấy về" - Nghĩ vậy, tôi thấy chua miệng. Cá đi với cá, trôm hợp với tôm và ếch sẽ phối với ễnh ương. Nếu đem Lý Đĩnh sánh với tôi thì tôi chẳng qua chỉ là một gã đồng nghiệp quèn, không cần tính đến.

Về đến nhà, tôi đun nước sôi để đun mì. Thường thì tôi hay ra quán fastfood ăn qua quýt cho xong bữa. Họa hoằn lắm mới mua chút đồ ăn về tự nấu lấy. tuy vậy, gặp phải hôm rét mướt như thế này, tôi thà ăn một bát gọi là láo nháo nhưng nóng hôi hổi như thế này còn hơn.

Chờ nước đun sôi, tôi bật vi tính định sẽ kết nối mạng. Chả là với các chàng độc thân kiểu như tôi vốn có rất ít trò giải trí. Tiền lương tháng, ngoài để nuôi miệng, trả tiền thuê nhà và gởi chút ít về quê cho cha mẹ ra, số còn lại chỉ vừa vặn để nuôi thân. Chưa kể nếu tính chuyện mua nhà thì sẽ phải xoay xở làm sao đuổi kịp giá nhà đất không ngừng tăng. Vậy nên tôi thà theo hầu người tiên để tu đạo, sống nơi khe sâu còn hơn.

Sau khi nối mạng, tôi mở chương trình QQ. Chờ đấy, tôi sẽ phải sưu tầm một số tư liệu để viết truyện ngắn, gọi là đủ chi phí cho thuốc lá và nhân đó tập viết luôn, chứ không phải chỉ nhằm mục đích kiếm thêm tiền.

Chương trình QQ vẫn chớp lập lòe, đợi đăng nhập. Bữa nay không biết việc kết nối có trục trặc gì không mà sao khó đăng nhập thế. Nhưng cũng chẳng hề gì, tôi chỉ làm theo thói quen thường ngày. Vả lại dạo này tôi không màng đến chuyện thư đi thư lại với các bạn bè, ngoài một số tác giả là cộng tác viên gần gũi với tôi.

Tôi mở phần truyện ngắn đang viết dở, định ngày hôm nay viết thêm đọan nữa. Đột nhiên QQ nổ một hồi chuông "pip...pip" báo hiệu đăng nhập đã xong và trên màn hình xuất hiện danh sách cửa sổ thư đến, gồm số thư lưu của bạn trên mạng gửi đến cho tôi. Và lần này số thư gởi nhiểu hơn so với tất cả các lần thư gởi trước đây. Chưa kể tòan bộ số thư này đều của cùng một người gởi đến, và tôi chưa biết đó là ai. Lúc này tôi bắt đầu mở cửa sổ thông tin.

Bức thư của Ôn Kiến Quốc gởi đến với tấm ảng Icon, Avatar mà anh ta sử dụng là một chàng trai có gương mặt thông minh sáng sủa, khác hẳn với dung mạo ngoài đời của ông ta. Tôi không biết ông ta có việc gì khẩn cấp đây? Dòng chữ đầu tiên tôi đọc được là:

- Ông có ở nhà đấy chứ?

Tôi điểm tiếp thư sau. Hàng chữ hiển thị rõ ràng: "Cứu tôi với" - không có dấu chấm than. Lạ thay - Ôn Kiến Quốc viết gì cũng rất chau chuốt và cẩn thận cơ mà. Không biết vì sao tự nhiên ông ta lại đổ đốn ra thế. Có lẽ nào vì anh ta viết quá nhiều tiểu thuyết kinh dị nên dẫn đến suy nhược tâm thần như vậy.

Những dòng thông tin tiếp theo, hầu hết là những thư lưuvới nội dung na ná như nhau, cả thảy có tới bảy, tám bức mà chỉ có duy nhất một người đứng tên gởi mang triệu chứng "Hyste'rie" bị kích động dữ dội tới mức hoảng loạn ngông cuồng. Đọc đế đây tôi thấy lo lắng, hay Ôn Kiến Quốc gặp chuyện chẳng lành? nhưng cũng đã quá muộn và chúng tôi chẳng phải diện thân tình, nê7n không thể lần mò tới tận nhà anh ta giữa đêm hôm khuya khắt như thế này được. "Ông đang gặp chuyện gì thế?" - Tôi gởi thư trả lời. Đoán biết ông ta không có trên mạng nên tôi nghĩ mình chưa thể nhận được câu trả lời ngay lúc này. Tôi víet, chẳng qua để tỏ ra mình cũng chí tình và chu đáo, nào ngờ thư vừa gởi đi thì trên chương trình QQ chợt xuất hiện Icon đại diện và tiếng kêu cứu: " Cứu tôi với, mau cứu tôi đi! Chúng nó tìm thấy tôi rồi!"

Tiếng kêu cứu thảm thiết khiến tôi càng thêm hoang mang.

"Kẻ nào săn lùng ông vậy?"

Giữa tôi với Ôn Kiến Quốc tuy không phải chỗ thân tình sâu đậm nhưng cũng là mối quan hệ biên tập với tác giả lâu năm. Tôi hiểu rất rõ, xưa nay, không bao giờ ông ta tỏ ra nhiễu sự cả, hầu như lúc nào cũng ung dung bình thản. Hơn nữa ông ta không có thói chơi bời hoang phí. vậy kẻ thù cũa Ôn Kiến Quốc là ai? Chuyện này thật khó hiểu.

"Chúng nó là ai đây? Rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra?"

Mặc kệ những tin nhắn mà tôi dồn dập gởi đi, Ôn Kiến Quốc vẫn không một lời đáp trả. Và bỗng nhiên, biểu tượng Nickname của ông ta vụt tắt. Hoặc là ông ta không còn Online nữa, hoặc ông ta đang đăng nhập theo cách giấu mặt. Tôi đóan chừng Ôn Kiến Quốc đã bị bệnh gì nặng lắm, chỉ còn đủ khả năng gởi đi một câu cầu khẩn không đầu không đuôi. Nghĩ thế, tôi gởi thêm cho ông ta một Email nữa song chờ đến mõi mắt vẫn không có hồi âm gì.

Đành cứ thây kệ anh ta. Kiểu người như ông ta, không ai hiểu được. Biết đâu vì viết truyện hoang đường nhiều nên ông ta bị tẩu hỏa nhập ma rồi? Có điều tôi tự hỏi là dạo này, không ngày nào tôi không nằm mơ thấy Ôn Kiến Quốc. Phải chăng vì cuốn tiểu thuyết tôi đặt hàng với ông ta vẫn còn dở dang đã khiến tôi phải bận tâm và hay nghĩ đến. Đang mãi suy nghĩ, chiếc ấm điện bỗng kéo còi báo nước sôi. Tôi đổ nước ngâm mì cho chín, hai gói liền. Rồi tôi bưng bát mì đan gbốc hơi nghi ngút trở lại bàn máy tính. Đây vốn là mì hương có hạng, tuy chỉ thuộc loại thực phẩm bình dân nhưng nhìn bát mì nóng hôi hổi, tỏa hương thơm lừng cũng đủ khiến tôi thấy đói cồn cào. Tôi bật Tivi, chương trình phim địa phương đang chiếu một bộ phim thuộc thể loại náo kịch của Hồng Kông.

Xem được một lúc, bát mì trên tay nguội dần. Tôi thong thả ăn từng gắp một... Dù bao bì gói mì ăn liền muôn màu muôn vẻ nhưng bên trong chúng đều có một hương vị giống hệt nhau. Gia vị mặn đến độ có thể đem muối dưa được, tất nhiên là phải gia giảm thêm chút ít rau xanh, củ cải khô và vụn thịt băm nữa. Vậy mà người sản xuất không biết dơ đã làm bao bì đủ màu sặc sỡ và hoa văn bắt mắt để thu hút khách hàng, còn gọi đó là mì ăn liền hải vị tươi sống nữa. Biết vậy đấy, nên dù ăn không thật ngon miệng mà có được bát mì rẻ tiền lót dạ thì cũng ít nhiều tăng thêm được lượng calo trong người, rồi bạn sẽ thấy khoan khoái dễ chịu ngay. Ăn xong bát mì cũng là lúc bộ phim náo kịch bắt đầu nhàm chán, tôi đứng lên, ấn nút tắt video, đổ chút nước nóng còn sót lại ra chậu để rửa chân trước khi đi ngủ.

Ngồi rửa chân, tôi mãi nhìn các vách tườngđã cũ nát vì phai màu năm tháng. Trong tôi nhói lên một nỗi xót xa. Tôi đã thuê ngôi nhà này với giá bốn trăm tệ một tháng, kể cũng phù hợp với số thu nhập ít ỏi của tôi. Bỗng nhiên tôi nhớ lại hồi mình còn nhỏ, lúc nào cũng thích thể hiện, huênh hoang và nói những lời khoe khoang rỗng tếch. Dẫu sao, thời ấy cũng qua rồi.

Tôi đem nước rửa chân đổ xuống hố xí máy. Tiếng nước hút mạnh nghe "ùng ục", tưởng như ở phía dưới có con quái vật gì to lắm.

Tôi đi ngũ. Trong giấc ngũ, tôi gặp toàn những cơn ác mộng. Tôi đứng cho vơ trên bậc thềm đồ sộ và Ôn Kiến Quốc, một lần nữa lại có mặt trong giấc ngũ của tôi. Còn tôi, ngay cả trong chiêm bao cũng ý thức được mình đang mơ. Không mơ về những người đàn bà có thân hình gợi cảm, uyển chuyển, điều này làm tôi mất hứng. Ôn Kiến Quốc đứng ở bậc thềm trên cao đang cố nói cho tôi nghe một điều gì đó, giống như trong một bộ phim câm vậy, mọi cử chỉ và động tác của ông ta thật rõ ràng, sôi nổi nhưng chẳng có một tiếng động hoặc âm thanh nào vọng lại. Tôi trông thấy Ôn Kiến Quốc hoa tay múa chân như điên như dại rồi tòan thân ông ta bị ngập sâu dần trong bình mực đen ngòm và tan biến. Chỉ còn lại mình tôi, không cảm giác.

Tôi tỉnh giấc bởi tiếng chuông đồng hồ báo thức. Mới sáu giờ rưỡi, từ đây đến chỗ làm việc phải mất nửa giờ đường đi nên tôi thường dậy sớm. Mùa đông trời sáng rất muộn, sáu giờ rưỡi trời còn tối và bầu trời như được láng lên một lớp keo pha lẫn mực đen. Ngẫng đầu nhìn lên trời, bất giác tôi lại nghĩ tới giấc mộng về Ôn Kiến Quốc đêm qua.

Khi mơ, dù ly kỳ đến mấy đi nữa thì mọi người cũng chỉ coi như những câu chuyện thóang qua. Nhưng với tôi, mỗi lần nhớ lại giấc mơ về Ôn Kiến Quốc thì lại thấy vô cùng khủng khiếp. Trong mơ, ông ta đâu còn là một con người, tòan thân như được làm bằng sáp, thương tích mở miệng lỗ chỗ như những tổ ong, chứng tỏ ông ta từng bị cắn xé rất nhiều. Thế nên trong mơ, tôi thấy ông ta giống con ác quỷ trong sách cổ, bị trời phạt giam xuống địa ngục để chịu tội. Thân làm đàn ông như tôi mà nằm mơ thấy Ôn Kiến Quốc, chắc chắn có điềm gở, vả lại tôi đâu có khuynh hướng đồng tính. Chẳng hạn đi trên đường, nếu tôi gặp một chàng điển trai và một cô gái đẹp thì hai mắt tôi chắc chắn sẽ bám riết lấy cô gái không thể rời. Vậy mà không hiểu sao tôi cứ mơ hoài đến con người ấy và hắn gần như hóa thành một nỗi ám ảnh trong tôi. Tôi vẫn còn nhớ, trước kia mình đã đọc một cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng. Trong đó kể rằng có một người có khả năng đi vào giấc mơ của người khác để lấy cắp thế giới nội tâm của họ. Nhưng Ôn Kiến Quốc lấy đâu ra bản lĩnh ấy? Thế mà sao tôi vẫn có cảm giác như ông ta đang tìm cách đánh cắp nội tâm của mình vậy? Chẳng khác nào một người đi bộ trong đêm tối bất chợt phát hiện có người rình mò, đứng ngấp nghé ở chỗ rẽ đầu ngõ, lẳng lặng theo dõi mình.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #kien#pr0