tiểu luận vĩ mô thứ 5
CHỦ ĐỀ 1. Luận giả mục tiêu của các chính sách kinh tế vĩ mô. Mối quan hệ của các mục tiêu đó.
1 Các mục tiêu kinh tế vĩ mô
Thành tựu kinh tế vĩ mô của một nước thường được đánh giá theo ba dấu hiệu chủ yếu là: Ổn định, tăng trưởng và công bằng xã hội:
- Sự ổn định kinh tế là kết quả của việc giải quyết tốt những vấn đề kinh tế cấp bách trong thời kỳ ngắn hạn như: Lạm phát, suy thoái, thất nghiệp.
- Tăng trưởng kinh tế đỏi hỏi giải quyết tốt những vấn đề dài hạn có liên quan tới việc phát triển kinh tế
- Công bằng trong phân phối vừa là vấn đề xã hội vừa là vấn đề kinh tế
Để đạt được sự ổn định, tăng trưởng và công bằng các chính sách kinh tế vĩ mô phải hướng tới các mục tiêu cụ thể sau:
1. Mục tiêu sản lượng:
- Đạt mức sản lượng cao tương ứng với mức sản lượng tiềm năng. Để đạt được điều này thì nền kinh tế phải tận dụng và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực.
- Tốc độ tăng trưởng cao và vững chắc.
2. Mục tiêu việc làm
- Tạo ra nhiều việc làm tốt.
- Hạ thấp được tỷ lệ thất nghiệp và duy trì tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
3. Mục tiêu ổn định giá cả:
- Hạ thấp được tỷ lệ lạm phát
- Kiểm soát được lạm phát trong điều kiện thị trường tự do.
4. Mục tiêu kinh tế đối ngoại
- Ổn định tỷ giá hối đoái
- Cân bằng cán cân thanh toán.
5. Phân phối công bằng: thông qua chính sách phân phối lần đầu và phân phối lại của nền kinh tế.
Để đạt mục tiêu ổn định, nhà nước cần phải sử dụng các công cụ - đó là chính sách tiền tệ, chính sách tỉ giá hối đoái và chính sách thu nhập.
Để đạt mục tiêu tăng trưởng- Nhà nước thường phải sử dụng các chính sách như: chính sách tiết kiệm, chính sách đầu tư, chính sách công nghệ, chính sách giáo dục và dân số..
Các mục tiêu trên thể hiện một trạng thái lý tưởng, trong đó sản lượng đạt mức sản lượng tiềm năng, mức thất nghiệp bằng thất nghiệp tự nhiên, lạm phát thấp có thể kiểm soát được, cán cân thanh toán cân bằng, tỷ giá hối đoái hầu như không đổi. Trong thực tế, thì các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm tối thiểu hoá các sai lệch thực thế so với trạng thái lý tưởng.
Các mục tiêu thường bổ sung cho nhau, trong chừng mực hướng vào việc bảo đảm việc tăng trưởng kinh tế. Song trong một số trường hợp xuất hiện những xung đột, mâu thuẫn cục bộ, các nhà làm chính sách cần phải lựa chọn thứ tự ưu tiên và đôi khi cần phải chấp nhận hi sinh nào đó trong thời kỳ ngắn hạn.
Trong dài hạn thứ tự ưu tiên để giải quyết các mục tiêu kinh tế vĩ mô trên cũng khác nhau giữa các nước. Với các nước đang phát triển thì mục tiêu tăng trưởng thường được ưu tiên số một. Tuy nhiên nhiều nước đã thành cồn trong việc giải quyết đồng thời các mục tiêu kinh tế nêu trên trong quá trình phát triển của mình.
2.Liên hệ với Việt Nam:
Tại Việt Nam, dựa trên khung lý thuyết về 4 mục tiêu kinh tế vĩ mô để phân tích sơ bộ như trên để có cái nhìn rõ hơn những trạng thái của nền kinh tế mà những con số mang nặng tính chất thống kê không thể biểu cảm hết. Nếu hàng quý, 6 tháng và hàng năm có sự nghiên cứu, phân tích, đánh giá dựa trên phân tích tổng cung – tổng cầu của nền kinh tế; Gắn với nó các chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô của Chính phủ thì mới nhận diện được bản chất của nền kinh tế đang vận động. Nếu không phân tích các yếu tố đang tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế để có cái nhìn tổng thể, mà cứ sử dụng các công cụ điều tiết cục bộ (như các biện pháp kiểm soát lạm phát) thì việc chữa bệnh đôi khi trở thành “tích bệnh”, dồn khó khăn về sau nhiều hơn.
Chủ đề 2: Luận giải cơ chế huy động vốn cho nền kinh tế. liên hệ với VN?
* Tổng quan về hệ thống tài chính:
Hệ thống tài chính và vai trò của hệ thống tài chính
Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế trong phân phối, gắn liền với quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ. Trong thực tế, các quan hệ tài chính diễn ra rất phức tạp và đa dạng, chúng đan xen nhau trong một tập hợp hàng loạt các hoạt động khác nhau của nền kinh tế. Tuy nhiên, đó không phải là một hoạt động hỗn loạn mà ngược lại, chúng tuân thủ những nguyên tắc, những quy luật nhất định, trong đó những quan hệ tài chính có tính chất đặc thù giống nhau nhóm lại thành một bộ phận riêng. Giữa các bộ phận này luôn có mối liên hệ, tác động ràng buộc lẫn nhau và tạo thành hệ thống tài chính. Do vậy, hệ thống tài chính là tổng thể của các bộ phận khác nhau trong một cơ cấu tài chính, mà ở đó các quan hệ tài chính hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau nhưng có mối liên hệ tác động lẫn nhau theo những quy luật nhất định. Các bộ phận trong hệ thống tài chính hoạt động trên các lĩnh vực: tạo ra nguồn lực tài chính, thu hút các nguồn tài chính và chu chuyển các nguồn tài chính (dẫn vốn). Với các lĩnh vực hoạt động này, toàn bộ hệ thống tài chính thực hiện vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân là đảm bảo nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế xã hội.
2. Cấu trúc của hệ thống tài chính.
Cấu trúc của hệ thống tài chính bao gồm các tụ điểm vốn và các bộ phận dẫn vốn bao gồm: Tài chính doanh nghiệp, Ngân sách Nhà nước, thị trường tài chính và các tổ chức tài chính trung gian, tài chính dân cư và các tổ chức xã hội, tài chính đối ngoại.
- Tài chính doanh nghiệp:Chính tại đây nguồn tài chính xuất hiện và đồng thời đây cũng là nơi thu hút trở lại phần quan trọng các nguồn tài chính trong nền kinh tế. trong hệ thống tài chính, tài chính doanh nghiệp được coi như những tế bào có khả năng tái tạo ra các nguồn tài chính. Do vậy nó có khả năng tác
động rất lớn đến đời sống xã hội, đến sự phát triển hay suy thoái của nền sản xuất. Tài chính doanh nghiệp có quan hệ mật thiết với tất cả các bộ phận của hệ thống tài chính trong quá trình hình thành và sử dụng vốn cho các nội dung khác nhau,
- Ngân sách nhà nước: Ngân sách Nhà nước ngắn liền với các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, đồng thời là phương tiện vật chất cần thiết để hệ thống chính quyền nhà nước thực hiện được nhiệm vụ của mình. Trong điều kiện của nền Kinh tế thị trường. Ngân sách Nhà nước còn có vai trò to lớn trong điều tiết vĩ mô của nền kinh tế - xã hội. Đó là vai trò định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội.. Để thực hiện được các vai trò đó, ngân sách nhà nước phải có các nguồn vốn được tập trung từ các tụ điểm vốn thông qua các chính sách thu thích hợp.. Các mối quan hệ kinh tế giữa một tụ điểm vốn quan trọng: Ngân sách Nhà nước với các bộ phận khác của hệ thống tài chính.
-Tài chính dân cư và các tổ chức xã hội:Đây là một tụ điểm vốn quan trọng trong hệ thống tài chính. Hoạt động tài chính của các nước có nền kinh tế phát triển và hoạt động tài chính ở nước ta những năm gần đây đã chỉ ra rằng: nếu có những biện pháp thích hợp, chúng ta có thể huy động được một khối lượng vốn đáng kể từ các hộ gia đình để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, đồng thời còn góp phần to lớn vào việc thực hiện các chính sách về định hướng
tích lũy và tiêu dùng của nhà nước.
-Tài chính đối ngoại: Trong nền kinh tế thị trường, khi các quan hệ kinh tế đã quốc tế hoá thì hệ thống tài chính cũng là một hệ thống mở với những quan hệ tài chính đối ngoại hết sức phong phú. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù và vị trí đặc biệt quan trọng của quan hệ tài chính đối ngoại cho nên người ta thừa nhận nó hình thành một bộ phận tài chính có tính chất độc lập tương đối. Với những kênh vận động của tài chính như viện trợ, thanh toán xuất nhập khẩu... nếu chỉ đứng trên góc độ của từng tụ điểm vốn ở trong nước để xem xét thì hoạt động tài chính đối ngoại được xem như là một trong số các biện pháp để huy động nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước (qua viện trợ, vay nợ từ nước ngoài), huy động vốn của các doanh nghiệp (qua liên doanh, góp vốn cổ phần)... đối với hoạt động tài chính đối ngoại phải đứng trên góc độ tổng hợp, toàn cục để xem xét, nghiên cứu.
-Thị trường tài chính và các tổ chức tài chính trung gian ;Trong hệ thống tài chính, các trung gian tài chính thực hiện việcdẫn vốn thông qua hoạt động tài chính gián tiếp. Trước hết các trung giantài chính huy động vốn từ những người có vốn (người tiết kiệm) bằngnhiều hình thức để tạo thành vốn kinh doanh của mình. Sau đó, sử dụngvốn kinh doanh này để cho người cần vốn vay lại hoặc thực hiện các hình thức đầu tư khác. Bằng cách này, các trung gian tài chính đã tập trung được các nguồn vốn nhỏ, từ các hộ gia đình các tổ chức kinh tế thành một lượng vốn lớn, đáp ứng nhu cầu của người cần vốn từ những khối lượng vay nhỏ đến những khối lượng vay lớn, từ những cá nhân chưa từng aibiết đến tới những công ty lớn có tiếng trên thị trường.
Mỗi giai đoạn phát triển của xã hội, hệ thống tài chính được nhìn nhận ở một góc độ khác nhau phù hợp với hiện trạng của giai đoạn đó. Nhưng nhìn chung hệ thống tài chính ngày càng phát triển và mở rộng không ngừng nhằm đáp ứng như cầu ngày cacngf cao của xã hội đặc biệt là nhu cầu kích thích tăng trưởng kinh tế, tìm kiếm lợi nhuận . Việc nhìn nhận về HTTC cũng có nhiều quan niệm:
- Quan niệm thứ nhất : HTTC là tổng thể các hoạt động tài chính trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân nhưng có quan hệ hữu cơ với nhau trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể kinh tế - xã hội.Với quan niệm này, HTTC đã đề cập đến tổng thể các hoạt động của một tập lớp các định chế tài chính có mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ nhằm thúc đẩy quá trình luân chuyển vốn cũng như đảm bảo tính hiệu quả trong việc phân bổ nguồn lực tài chính theo những mục đích nhất định. Tuy nhiên cách thức này chủ yếu theo hướng xác định các định chế tài chính rồi từ đó hình thành nên cấu trúc của hệ thống, mà cấu trúc của hệ thống lại thay đổi theo quy mô và tính phức tạp của nền kinh tế trong từng thời kì.Vì vậy HTTC theo mô hình này có thể phù hợp với thời kỳ này nhưng lại không phù hợp với thời kì khác.
- Quan niệm thứ hai: hệ thống tài chính được chia thành 2 mô hình
+ Hệ thống tài chính được kiểm soát: lãi suất ngân hàng được ấn định, kiểm soát chặt và gần như cố định, không tồn tại yếu tố cạnh tranh.
+ Hệ thống tài chính tự do: các định chế tài chính giữ vị trí quan trọng việc phân bổ nguồn lực tài chính và chịu sức ép cạnh tranh của các thị trường tài chính trong quá trình huy động vốn.
Theo quan niệm này thì HTTC đã nhấn mạnh đến vai trò kiểm soát của nhà nước đặc biệt là kiểm soát đối với lãi suất. Thực tế đã chứng minh rằng việc đề cao hay xem nhẹ quá mức vai trờ kiểm soát của nhà nước đối với HTTC đều gây ra những tác động khôn lường đối với nên kinh tế.
-Quan niệm thứ ba ;HTTC được xem xét theo cách thức cung ứng vốn cho nền kinh tế.Hệ thống tài chính là một tổng thể bao gồm các thị trường tài chính, các định chế tài chính trung gian, cơ sở hạ tầng pháp lý-kỹ thuật và các tổ chức quản lý giám sát và điều hành HTTC để tổ chức phân bổ nguồn lực tài chính nhằm đạt được mục tiêu của các chủ thể trong nền kinh tế.Với cách tiếp cậ như vậy HTTC theo quan điểm thứ ba mang tính bao quát hơn vì đã đề cập dến sự vận động của dòng vốn không chỉ thông qua các định chế tài chính mà còn thông qua thị trường tài chính-kênh huy động vốn hấp dẫn với các doanh nghiệp hiện nay.
Hiện nay, nguồn vốn đầu tư đóng góp khoảng 50% - 55% tăng trưởng kinh tế hằng năm. Bởi vậy, huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội là một khâu cốt yếu của toàn bộ hệ thống các ngân hàng nước ta. Vì vậy chúng ta cần tìm hiểu một cách chi tiết về các kênh huy động vốn thực tế và tiềm tàng, đồng thời cũng chỉ ra các vấn đề tồn tại trong huy động vốn để có giải pháp kịp thời, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.
1 - Huy động vốn qua hệ thống ngân hàng
Trong điều kiện vốn ngân sách nhà nước có hạn, vốn tự có của doanh nghiệp và người sản xuất còn ít ỏi, thì vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa vào vốn tín dụng ngân hàng. Để có vốn cho vay, các ngân hàng thương mại (NHTM) đã huy động vốn trong xã hội, vốn trong dân, vốn nước ngoài. Hệ thống ngân hàng huy động vốn cho đầu tư phát triển bằng đa dạng các phương thức, như: giải tỏa vốn đọng trong số nợ xấu, phát hành cổ phiếu và trái phiếu tăng vốn điều lệ, thu hút tiền gửi tiết kiệm và phát triển dịch vụ ngân hàng.
Bên cạnh việc phát hành cổ phiếu huy động của các cá nhân và tổ chức ở trong nước, thì còn có khối lượng lớn vốn của người Việt Nam ở nước ngoài chuyển về cho người thân trong nước mua cổ phiếu ngân hàng. Việc phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ chẳng những nâng cao năng lực tài chính, mà còn là điều kiện để tăng cường huy động vốn trên thị trường để đáp ứng nhu cầu vay vốn của các thành phần kinh tế.
Các ngân hàng thương mại mở rộng huy động vốn bằng nhiều hình thức khác nhau như: - Mở rộng mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch toàn quốc bảo đảm cho huy động vốn. - Hiện đại hóa công nghệ gắn liền với đổi mới phong cách giao dịch của nhân viên, tạo sự tôn trọng của ngân hàng đối với người gửi tiền. - Đẩy mạnh các hoạt động ma-két-tinh, tiếp thị, quảng cáo khuyến mại trong huy động vốn, tạo thông tin minh bạch. - Đa dạng hóa các sản phẩm gửi tiền tiết kiệm, các hình thức huy động vốn đáp ứng nhu cầu của nhân dân.
Các ngân hàng và tổ chức tín dụng mạnh dạn đầu tư số vốn lớn để hiện đại hóa công nghệ và phát triển dịch vụ. Công nghệ ngân hàng hiện đại và dịch vụ ngân hàng tiện ích chẳng những tăng tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế, giảm thời gian vốn đọng trong thanh toán, mà còn thu hút được vốn của người Việt Nam ở nước ngoài chuyển về.
Các NHTM mở rộng huy động vốn bằng nhiều hình thức và giải pháp khác nhau. Trước hết, mở rộng mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch toàn quốc, bảo đảm thuận tiện cho huy động vốn. Thứ hai, hiện đại hóa công nghệ gắn liền với đổi mới phong cách giao dịch của nhân viên, tạo sự tôn trọng của ngân hàng đối với người gửi tiền. Thứ ba, đẩy mạnh các hoạt động ma-két-tinh, tiếp thị, quảng cáo, khuyến mại trong huy động vốn, tạo thông tin minh bạch, công bố thông tin rộng rãi cho người dân chủ động lựa chọn các hình thức gửi tiền với lãi suất, kỳ hạn khác nhau. Thứ tư, đa dạng hóa các sản phẩm gửi tiền tiết kiệm, các hình thức huy động vốn đáp ứng nhu cầu của nhân dân.
Có thể khẳng định, hệ thống ngân hàng đóng vai trò chủ lực đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Đáng chú ý là các NHTM nhà nước chiếm trên 70% thị phần huy động vốn; thị phần của các NHTM cổ phần tuy còn khiêm tốn, nhưng đang có xu hướng tăng nhanh. Bên cạnh các kênh huy động vốn nói trên hệ thống ngân hàng còn là đầu mối đàm phán và ký kết, tổ chức tiếp nhận vốn và cho vay nhiều dự án của câc ngân hàng về điện lực, giao thông nông thôn, cải thiện môi trường, xóa đói giảm nghèo.
2 - Huy động vốn qua các kênh khác trên thị trường
Huy động vốn của ngân sách chủ yếu bằng hình thức phát hành tín phiếu Kho bạc nhà nước qua đấu thầu tại Ngân hàng Nhà nước, với sự tham gia của các ngân hàng, tổ chức bảo hiểm, quỹ đầu tư...; phát hành trái phiếu Chính phủ trong và ngoài nước.
Để giảm sự phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng và được phép của Chính phủ, một số loại trái phiếu doanh nghiệp cũng được phát hành để huy động vốn trong xã hội. Trong đó một kênh huy động vốn quan trọng khác là cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước theo hình thức bán đấu giá và bán cổ phần của Nhà nước trong các doanh nghiệp cổ phần hóa mà cổ phiếu có tính thanh khoản cao, lợi nhuận hấp dẫn đã thu được hàng nghìn tỉ đồng cho ngân sách nhà nước. Đó là chưa kể hàng chục ngàn tỉ đồng đã được huy động trong doanh nghiệp tư nhân.
3 - Một số tồn tại trong huy động vốn ở Việt Nam:
Một là, công nghệ ngân hàng hiện đại và dịch vụ tuy đã có bước phát triển, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Đồng thời sự phối hợp của một số cơ quan, tổ chức có số thu và chi bằng tiền mặt lớn, ổn định, như: thuế, hải quan, kho bạc, điện lực, xăng dầu, bưu chính viễn thông,... với các NHTM và tổ chức tín dụng thiếu chặt chẽ. Do đó, việc thanh toán và cất trữ tiền mặt trong nền kinh tế và trong dân cư còn lớn.
Hai là, chỉ số giá hàng tiêu dùng (CPI) còn ở mức cao, giá vàng biến động lớn, tỷ giá đô la Mỹ trên thị trường nhìn chung ổn định, nhưng cá biệt trên thị trường tự do có thời điểm biến động lớn, Cơ chế điều hành một số công cụ chính sách tiền tệ chưa linh hoạt. Cụ thể là, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi ngoại tệ của các NHTM và tổ chức tín dụng tại Ngân hàng Nhà nước còn cao, nên lãi suất huy động vốn ngoại tệ chưa thật sự hấp dẫn người dân.
Ba là, việc phối hợp giữa kênh huy động vốn của hệ thống ngân hàng và kênh huy động vốn của ngân sách chưa đồng bộ, nên không những hiệu quả huy động vốn chưa cao, mà hiệu quả sử dụng vốn ngân hàng huy động được cũng còn hạn chế. Điều đó thể hiện rõ qua phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ ở nước ngoài.
Bốn là, thị trường chứng khoán Việt Nam đang trên đà phát triển mới từ đầu năm 2006 đến nay, nhưng so với trình độ chung của các nước thì mới ở giai đoạn đầu. Hơn nữa, thị trường chứng khoán mới chủ yếu là các hoạt động mua đi, bán lại, đầu cơ chứng khoán, cổ phiếu trên thị trường thứ cấp. Các hoạt động trên thị trường sơ cấp, phát hành cổ phiếu, chứng khoán lần đầu để huy động vốn của doanh nghiệp vẫn chưa phát triển.
Năm là, vốn đầu tư qua kênh ngân sách bị thất thoát, lãng phí, tình trạng tham ô, tham nhũng đáng lo ngại. Đặc biệt nguồn vốn ODA chuyển qua kênh ngân sách đang tạo ra sự lo ngại của dư luận, của các nhà tài trợ quốc tế về tình trạng tham nhũng, thất thoát về nguồn vốn này.
4 - Các giải pháp huy động vốn đối với nền kinh tế Việt Nam:
Để nâng cao hiệu quả huy động vốn, cần tập trung vào các giải pháp sau đây:
- Tiếp tục thực hiện chủ trương, chính sách đa dạng hóa và đa phương hóa các giải pháp huy động vốn cho đầu tư phát triển. Trong kênh huy động vốn của ngân sách nhà nước, cần tính toán chi tiết hiệu quả sử dụng vốn. Kho bạc Nhà nước không trực tiếp bán lẻ tín phiếu hay trái phiếu Chính phủ, hay công trái quốc gia mà để tổ chức đấu thầu từng đợt qua Ngân hàng Nhà nước hay trên thị trường chứng khoán dựa trên nhu cầu vốn.
Việc nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, chống thất thoát và tham nhũng trong các dự án cần tránh đầu tư dàn trải là giải pháp rất quan trọng. Yêu cầu này cần được thực hiện chặt chẽ đối với ngân sách trung ương. Các tỉnh, thành phố cũng cần tránh tình trạng nôn nóng, hay đầu tư theo kiểu phong trào, đầu tư chủ quan duy ý chí.
Rà soát, bổ sung và hoàn thiện các quy định về quản lý và sử dụng vốn ODA, trong đó phân định rõ trách nhiệm của từng bộ, ngành trong quản lý nguồn vốn tài trợ này.
- Đẩy mạnh việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển, khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho các công ty cổ phần niêm yết cổ phiếu và huy động vốn trên thị trường chứng khoán.
- Tiếp tục đổi mới lĩnh vực thanh toán, mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Thực hiện mục tiêu này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị trong ngành tài chính, như: thực hiện thu thuế và lệ phí, bảo hiểm,... bằng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Thực hiện giải pháp này không những huy động được khối lượng vốn rất lớn trong xã hội vào hệ thống ngân hàng mà còn tiết kiệm các khoản chi khổng lồ cho các hoạt động tiền mặt, góp phần hạn chế tham nhũng, tiêu cực trong xã hội.
- Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước. Việc tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, thông thoáng và lành mạnh cho các NHTM và tổ chức tín dụng hoạt động sẽ cho phép huy động khối lượng vốn rất lớn và nâng cao hiệu quả cho vay đầu tư. Đặc biệt là các NHTM cổ phần cũng nâng cao khả năng quản trị kinh doanh vốn, nên thị trường liên ngân hàng, đầu tư vốn trên thị trường tiền gửi của các tổ chức tín dụng phát triển mạnh mẽ hơn. - Tiếp tục đổi mới xây dựng và điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ. Đổi mới các hoạt động khác của Ngân hàng Nhà nước, như: điều hành thị trường mở, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc, đổi mới thanh toán và mở rộng thanh toán điện tử liên ngân hàng, các hoạt động khác có liên quan trực tiếp đến sự phát triển của thị trường vốn.
Kết luận:
Trong thực tế hiện nay đòi hỏi phải thực hiện những chiến lược và chính sách đúng đắn trong từng thời kỳ nhằm đẩy mạnh tốc độ phát triển. Vốn là nguồn lực đầu tiên và cơ bản của sự phát triển và hiện đại hoá đất nước. Những chính sách huy động và sử dụng vốn thích ứng có hiệu quả là động lực cơ bản để phát triển và hiện đại hoá nhanh chóng đất nước.
Chủ đề 3: Thế nào là nền kinh tế mở. để điều hành nền kinh tế mở nhà nước cần thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô gì?
Việt Nam hiện vẫn đang là một nền kinh tế quy mô nhỏ với tỷ trọng kim ngạch xuất, nhập khẩu cao nên có thể coi là nền kinh tế mở .Từ thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu giai đoạn 2007-2009 đến nay, thực tiễn kinh tế vĩ mô của Việt Nam đã đặt ra yêu cầu phải phối hợp chặt chẽ các chính sách kinh tế vĩ mô để ổn định đất nước. Sự phối hợp giữa các chính sách những năm qua đã đạt được kết quả là chuyển hướng chính sách kịp thời và linh hoạt, giữ cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam luôn đạt cao kể cả khi kinh tế thế giới có suy thoái, đồng thời không có sự đổ vỡ hệ thống tài chính-ngân hàng. Vậy để điều hành nền kinh tế mở Nhà nước cần thực hành cao các chính sách kinh tế vĩ mô gì?
1. Nền kinh tế mở:
Trước hết cần hiểu thế nào là nền kinh tế mở. Nền kinh tế mở là nền kinh tế tương tác tự do với các nền kinh tế khác trên thế giới. Thự hiện mua và bán hàng hóa và dịch vụ trong các thị trường thế giới, mua và bán tài sản tài chính trong các thị trường tài chính thế giới..
2. Các chính sách kinh tế vĩ mô
Trong nền kinh tế mở, Nhà nước chủ yếu thực hành cao các chính sách kinh tế vĩ mô như :chính sách tài khóa, cs tiền tệ hay chính sách phá giá. Tuy nhiên khó có thể nói tới một cơ chế chung thống nhất cho tất cả các nước trên thế giới vì mỗi nước có một thể chế kinh tế riêng biệt. Tác động của các chính sách kinh tế vĩ mô đến sản lượng, giá cả và việc làm của một nước như thế nào còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố đó là:
- Vai trò của nước đó trong thị trường tài chính quốc tế.
- Hệ thống tỉ giá được áp dụng là cố định hay linh hoạt.
- Nước đó có những hạn chế về chu chuyển tư bản(vốn) ra vào đất nước hay ko?
Trong trường hợp một nền kinh tế nhỏ, lãi suất của đồng nội tệ không ảnh hưởng đến lãi xuất của thế giới, tỉ giá hối đoái linh hoạt, tư bản( vốn) vận động hoàn toàn tự do thì chính sách tài khóa tỏ ra kém hiệu lực. Lý do là mọi sự cố gắng, chẳng hạn chi tiêu chính phủ, sẽ làm tăng lãi suất và dòng vốn chảy vào dẫn đến tăng giá trị của đồng nội tệ (e) và do đó làm giảm suất khẩu, tăng nhập khảu. kết quả là sản lượng giảm đi là triệt tiêu tác động của việc tăng sản lượng nhờ chính sách tài khóa mở rộng. Ngược lại, chính sách tiền tệ lại có tác động mạnh trong nền kinh tế mở, tỉ giá linh hoạt, vốn chuyển động tự do hoàn toàn.Thật vậy, một chính sách tiền tệ mở rộng sẽ làm tăng cung tiền, giảm lãi suất. điều này làm tăng đầu tư trong nước, tăng sản lượng và giá cả. hơn thế nữa việc giảm lãi suất hạn chế dòng vốn chảy vào sẽ làm giảm giá đồng nội tệ, do dó làm tăng xuất khẩu và tăng sản lượng. Nhưng tác động đó bị hạn chế trong dài hạn, lúc mà giá cả tăng lên, sản lượng lại trở lại mức bình thường song tiền công thực tế và tỉ giá hối đoái đã tăng cùng tốc độ tăng của giá cả.
Còn trong trường hợp nền kinh tế mở với hệ thống tỉ giá cố định, tư bản vận động hoàn toàn tự do, chính sách tài khóa có thể hạn chế tháo lui đầu tư, như lẽ phải xẩy ra trong nền kinh tế đóng, khuyến khích tăng sản lượng. Ngược lại thì chính sách tiền tệ lại tỏ ra kém hiệu quả hơn. ở đây tác động của sự mở rộng tiền tệ đã bị triệt tiêu bởi luồng vận động của tư bản ra nước ngoài do lãi suất giảm đi, mặc dù đầu tư tư nhân trong nước có tăng lên.
Như vậy trong điều kiện nền kinh tế mở vốn vận động tự do. Chính sách tài khóa có hiệu quả hơn trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định, còn chính sách tiền tệ lại có hiệu quả hơn trong chế dộ tỷ giá thả nổi (linh hoạt).
Chính sách tài khoá với thuế và chi tiêu của Chính phủ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới đầu tư tiêu dùng, xuất nhập khẩu hay tác động đến tổng cầu. Chính sách tiền tệ với các quyết định về mức cung tiền và lãi suất, tác động trực tiếp tới thị trường tiền tệ và qua đó tác động trở lại tới các thành phần của tổng cầu làm tổng cầu thay đổi. Cả hai chính sách đều tác động đến quy mô của tổng cầu, nhưng mỗi chính sách lãi gây ra sự thay đổi khác nhau về các thành phần của tổng cầu. Có thể nói việc vận dụng tốt cả hai chính sách có khả năng quản lý, kiểm soát được sự thay đổi của tổng cầu và sản lượng, từ đó có thể điều chỉnh được tổng cầu và sản lượng theo mong muốn. Như vậy, trên giác độ nền kinh tế vĩ mô cần có một mục tiêu chung cho cả hai loại chính sách tài khoá và tiền tệ. Và phải có sự phối hợp giữa hai chính sách khi thực thi các chính sách này, có như vậy, tác động của các chính sách mới cùng chiều, tránh các tác động ngược chiều gây tổn hại cho nền kinh tế.
Về mặt lý thuyết, có thể xây dựng thành các cặp chính sách tài khoá tiền tệ có cùng mục tiêu. - Khi cho rằng tổng cầu ở mức quá thấp, có thể dùng cặp chính sách tài khoá mở rộng và chính sách tiền tệ nới lỏng, khi đó đường IS và đường LM sẽ dịch chuyển sang bên phải và tổng cầu và sản lượng sẽ tăng. - Nếu tổng cầu ở mức quá cao cần phải cần phải giảm sản lượng xuống, thì có thể dùng cặp chính sách tài khoá chặt và chính sách tiền tệ chặt. Như vậy, tổng cầu sẽ giảm và sản lượng sẽ giảm mạnh. - Khi tổng cầu ở mức vừa phải, sản lượng ở mức tương đối ổn định và ở mức dự kiến. Thì có thể dùng cặp chính sách tài khoá chặt, tiền tệ nới lỏng hoặc chính sách tài khoá nới lỏng và chính sách tiền tệ chặt. Như thế tổng cầu hầu như không thay đổi, sản lượng tương đối ổn định, nền kinh tế sẽ có sự ổn định.
Ngoài chính sách tài khóa và tiền tệ, trong nền kinh tế mở, nhà nước thông qua nh trung ương còn có thể thực hiện chính sáchphas giá dồng nội tệ.Khi ngân hàng Trung ương quyết định phá giá tiền tệ (nghĩa là tăng E, giảm e) thì quyết định đó sẽ ảnh hưởng đến cán cân thương mại. Hàng xuất khẩu trở nên rẻ một cách tương đối trong thị trưòng nước chủ nhà. Xuất khẩu do đó tăng lên và nhập khẩu giảm đi, vì hàng hoá của nước thực hiện chính sách phá giá trở nên có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. giữ cho nền kt tăng trưởng nhanh. Tuy nhiên, về mặt dài hạn, cũng như trong trường hợp chính sách tài khóa mở rộng, tác dộng của chính sách phá giá dồng tiền sẽ bị hạn chế, do tổng cầu tăng lên, kéo theo giá cả cũng tăng theo. Mặt khác nếu một nước trong khu vực thực hiện chính sách phá giá dồng tiền, điều không tránh khỏi là gay tác động xấú đến nước láng giêng. Rất có khả năng là nước này sữ phải gánh chịu hậu quả của một phản ứng mang tính chất trả đũa của nước lân cận. Vì vậy, ý tưởng về một chính sách phá giá dẫn ta đến suy nghĩ rằng, nếu chính phủ theo đuổi một chính sách phá giá đồng tiền quá cao sẽ gây tác hại xấu cho xuất khẩu ròng và do đó đến sản lượng, giá cả và việc làm trong nước. Do vậy cần thực hiện chính sách này một cách thận trọng mới đạt được kết quả mong muốn.
Kết luận
Việt Nam hiện vẫn đang là một nền kinh tế quy mô nhỏ với tỷ trọng kim ngạch xuất, nhập khẩu cao nên có thể coi là nền kinh tế mở. Chính sách tiền tệ (CSTT) và chính sách tài khóa (CSTK) được coi là hai chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng nhất của quốc gia. Tại Việt Nam, sự phối hợp giữa CSTT và CSTK đã được thống nhất và văn bản hóa tại các văn bản pháp luật mà điển hình là Luật Ngân hàng Nhà nước VN và Luật Ngân sách Nhà nước. Chính phủ cần sử dụng các CSTK và CSTT như là những công cụ phân bổ lại các nguồn lực của nền kinh tế có chủ đích, khôi phục niềm tin của người dân vào hệ thống tài chính và kinh tế của đất nước. Để làm được như vậy, còn nhiều vấn đề ở Việt Nam cần phải thay đổi về tư duy và nền tảng điều hành chính sách vĩ mô trong việc thể chế hóa các nội dung và kênh phối hợp giữa CSTT và CSTK để sự phối hợp này chặt chẽ, hiệu quả hơn hỗ trợ tốt hơn mục tiêu chung của nền kinh tế.
Chủ đề 4: Chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực kì quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng lớn đến các biến số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm phát… Để đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ thì việc sử dụng các công cụ của nó có vai trò cơ bản, quyết định.
Ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ đặc biệt là các công cụ của nó đang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát huy tác dụng đối với nền kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn các công cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể của nền kinh tế luôn là một vấn đề thường xuyên phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các nhà hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà nghiên cứu kinh tế. Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế như hiện nay thì việc nghiên cứu về chính sách tiền tệ cụ thể là các công cụ của chính sách tiền tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
1) Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ:
a. Khái niệm chính sách tiền tệ :
Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung ương khởi thảo và thực thi, thông qua các công cụ , biện pháp của mình nhằm đạt các mục tiêu :ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm ,tăng trưởng kinh tế .
Chúng ta có thể hiểu, chính sách tiền tệ là tổng hòa các phương thức mà NHNN VN (NHTW) thông qua các hoạt động của mình tác động đến khối lượng tiền tệ trong lưu thông, nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế -xã hội của đất nước trong một thời kì nhất định. Mặt khác, nó là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế - tài chính vĩ mô của chính phủ.
Tuỳ điều kiện các nước, chính sách tiền tệ có thể được xác lập theo hai hướng: chính sách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền ,giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất kinh doanh ,giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng -chính sách tiền tệ chống thất nghiệp) hoặc chính sách tiền tệ thắt chặt (giảm cung tiền , tăng lãi suất làm giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát nhưng thất nghiệp tăng-chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng tiền).
b. Vị trí chính sách tiền tệ :
Trong hệ thống các công cụ đIều tiết vĩ mô của Nhà nước thì chính sách tiền tệ là một trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền tệ .Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài khoá,chính sách thu nhập,chính sách kinh tế đối ngoại.
Đối với Ngân hàng trung ương ,việc hoạch định và thực thi chính sách chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản nhất ,mọi hoạt động của nó đều nhằm làm cho chính sách tiền tệ quốc gia được thực hiện có hiệu quả hơn.
2) Mục tiêu của chính sách tiền tệ :
a. Ổn định giá trị đồng tiền :
NHTW thông qua CSTT có thể tác động đến sự tăng hay giảm giá trị đồng tiền của nước mình. Giá trị đồng tiền ổn định được xem xét trên hai mặt: Sức mua đối nội của đồng tiền(chỉ số giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nước)và sức mua đối ngoại (tỷ giá của đồng tiền nước mình so với ngoại tệ). Tuy vậy, CSTT hướng tới ổn định giá trị đồng tiền không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát =0 vì như vậy nền kinh tế không thể phát triển được,để có một tỷ lệ lạm phát giảm phảI chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp tăng lên.
b. Tăng công ăn việc làm:
CSTT mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử dụng có hiệu qủa các nguồn lực xã hội,quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất nghịêp giảm thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát tăng lên. Mặt khác, khi tăng trưởng kinh tế đạt được do kết quả của cuộc cải tiến kĩ thuật thì việc làm có thể không tăng mà còn giảm. Theo nhà kinh tế học Arthur Okun thì khi GNP thực tế giảm 2% so với GNP tiềm năng, ythif mức thất nghiệp tăng 1%.
Từ những điều trên cho thấy, vai trò của NHTW khi thực hiện mục tiêu này : tăng cường đầu tư mở rộng sản xuất – kinh doanh, chống suy thoái kinh tế theo chu kỳ, tăng trưởng kinh tế ổn định, khống chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt quá tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
c. Tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi chính phủ trong việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp độ tăng trưởng đó ổn định, đặc biệt việc ổn định giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng ,nó thể hiện lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ.
Mục tiêu này chỉ đạt được khi kết quả hai mục tiêu trên đạt được một cách hài hoà.
Mối quan hệ giữa các mục tiêu : Có mối quan hệ chặt chẽ,hỗ trợ nhau, không tách rời. Nhưng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu thuẫn với nhau thậm chí triệt tiêu lẫn nhau. Vậyđể đạt được các mục tiêu trên một cách hài hoà thì NHTW trong khi thực hiện CSTT cần phải có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Mặt khác để biết các mục tiêu cuối cùng trên có thực hiện được không, thì các NHTW phải chờ thời gian dài ( một năm –khi kết thúc năm tài chính).
Cơ sở của chính sách tiền tệ:
Cơ sở khoa học về mối liên hệ sản lượng, thu nhập và sản lượng cung ứng đã được nhà kinh tế học Milton Friedman rút ra từ thực tiễn khảo sát hơn 80 năm của kinh tế Hoa Kỳ. Milton đã khẳng định: “Sự thay đổi cung ứng tiền có tác động mạnh mẽ đến sản lượng, thu nhập và giá cả trong khoảng thời gian dài hàng năm. Và nó đã tác động nhanh chóng đến lãi suất, tổng cầu (AD) và sản lượng trong thời gian ngắn 1 năm trở lại”.
3. Liên Hệ Thực tế vnam
năm 2012, ở Việt Nam, chính sách tiền tệ cần thực hiện mục tiêu là kiểm soát được lạm phát ở mức một con số và không để tăng trưởng kinh tế dưới 6%, đồng thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và thúc đẩy sản xuất, kinh doanh để ngăn chặn kịp thời tình trạng số lượng doanh nghiệp phá sản đang ngày càng tăng.
Trong điều kiện Việt Nam, áp lực đối với ngân sách nhà nước tồn tại thường xuyên và có xu hướng tăng, cơ cấu và hiệu quả cũng như khả năng kiểm soát chi tiêu ngân sách nhà nước thể hiện các dấu hiệu thiếu bền vững do các khoản chi tiêu ngân sách không tạo ra nguồn thu trong tương lai, thậm chí gây sức ép cho chuỗi bội chi mới. Gói kích cầu trong thời gian qua đã có tác dụng loại trừ nguy cơ đổ vỡ dây chuyền trong khu vực doanh nghiệp và nền kinh tế không bị rơi vào suy thoái trầm trọng, nhưng xu hướng mở rộng chi tiêu công và các biện pháp nới lỏng kiểm soát tiền tệ kéo dài đang gặp phải cản trở lớn là hiệu quả đầu tư quá thấp với bằng chứng là chỉ số ICOR năm 2008 đã lên con số 8. Trên thực tế, nền kinh tế đứng trước nguy cơ của vòng xoáy lạm phát, nếu cứ tiếp tục kích cầu và thực hiện gói kích cầu thứ hai mà không có giải pháp dài hạn để đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, đảm bảo nguồn trả nợ trong tương lai.
Kiến nghị:
Để đảm bảo hiệu quả của CSTT, cần có sự thống nhất trong các chính sách nhằm đảm bảo mục tiêu chung, đồng thời cân nhắc tác động trái chiều của các chính sách, tăng cường trao đổi thông tin giữa Bộ Tài chính và NHNN để làm cơ sở xây dựng và thực thi các biện pháp chính sách một cách có hiệu quả và kịp thời. Cải cách cơ chế cấp phát ngân sách và kiểm soát chặt chẽ các khoản chi tiêu, có biện pháp giảm thất thoát trong chi tiêu đối với các dự án và công trình lớn nhưng không hiệu quả, đảm bảo yêu cầu kiểm soát chi tiêu hiệu quả hơn là chỉ nhằm mục tiêu kiểm soát việc chấp hành chế độ.
V.KẾT LUẬN
Như vậy, chính sách tiền tệ, đặc biệt là các công cụ của nó có vài trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Việc sử dụng các công cụ đó như thế nào sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của nền kinh tế ở từng thời điểm cụ thể.
Ở Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thì việc áp dụng các công cụ của CSTT luôn đòi hỏi phải có sự phù hợp, hiệu quả. Từ đó đòi hỏi chúng ta phải có những định hướng và giải pháp đúng trong việc hoàn thiện các công cụ đó. Để có được điều này, bên cạnh sự định hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước, cần phải có sự phát triển đồng bộ về năng lực NHNN, hệ thống NHTM… và nhiều sự phối hợp đồng bộ khác.
Do đó, việc nghiên cứu tìm hiểu về các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam phải được coi là cả một quá trình lâu dài và cần được tiếp tục phát triển về sau.
Chủ đề 5: nội dung, mục tiêu và cơ sở khoa học của chính sách tài khóa?
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, chính sách tài khóa là mối quan tâm lớn của Chính phủ nhằm góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, ngăn chặn suy giảm, kiểm soát lạm phát và bảo đảm tăng trưởng bền vững trong bối cảnh Việt Nam chịu tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Theo đó, chính sách tài khóa được hoàn thiện theo hướng bảo đảm thống nhất, minh bạch và công bằng, chính sách thuế được điều chỉnh theo hướng giảm dần và ổn định về thuế suất để nuôi dưỡng nguồn thu; đầu tư từ ngân sách được tập trung cho phát triển kết cấu hạ tầng, nông nghiệp, nông thôn, xóa đói giảm nghèo. Nhờ đó, mặc dù bị tác động của khủng hoảng, tăng trưởng kinh tế nước ta vẫn đạt bình quân mức tương đối cao.
1. Nội dung Chính sách tài khoá
Chính sách tài khoá nhằm điều chỉnh thu nhập và chi tiêu của Chính phủ nhằm hướng nền kinh tế vào một mức sản lượng và việc làm mong muốn. Chính sách tài khoá có hai công cụ chủ yếu đó là chi tiêu của Chính phủ và thuế.
- Chi tiêu của Chính phủ có ảnh hưởng trực tiếp đến chi tiêu công cộng, do đó nó tác động trực tiếp đến tổng cầu và sản lượng.
- Thuế làm giảm các khoản thu nhập, do đó làm giảm chi tiêu của khu vực tư nhân, từ đó cũng tác động đến tổng cầu và sản lượng. Thuế cũng có thể tác động đến đầu tư và sản lượng về mặt dài hạn.
Trong ngắn hạn 1 đến 2 năm chính sách tài khoá có tác động đến sản lượng thực tế và lạm phát phù hợp với các mục tiêu ổn định nền kinh tế. Về mặt dài hạn chính sách tài khoá có thể có tác dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế giúp cho sự tăng trưởng và phát triển lâu dài.
Chính sách tài khoá trong lý thuyết:
Chính sách tài khoá là việc Chính phủ sử dụng thuế khoá và chi tiêu để điều tiết mức chi tiêu chung của nền kinh tế, khi sản lượng thực tế của nền kinh tế ở quá xa bên phải hoặc bên trái mức sản lượng tiềm năng, thì lúc đó cần tác động của chính sách tài khoá hoặc tiền tệ để đưa nền kinh tế lại gần với mức sản lượng tiềm năng. Theo cách tiếp cận của Keynes, thì vai trò trung tâm của Chính phủ là chính sách tài khoá. Chính phủ sẽ sử dụng chính sách tài khoá với các công cụ khác nhau ứng với từng điều kiện cụ thể của nền kinh tế. Giả sử nền kinh tế đang lâm vào tình trạng suy thoái và thất nghiệp. Các hãng tư nhân không muốn đầu tư thêm, còn người tiêu dùng không muốn chi tiêu cho tiêu dùng. Tổng cầu ở mức rất thấp. Lúc này để mở rộng tổng cầu Chính phủ phải tăng chi tiêu hoặc giảm thuế để tăng mức chi tiêu của nền kinh tế. Trong mô hình số nhân đầy đủ, việc Chính phủ tăng chi tiêu và giảm thuế sẽ khiến sản lượng thực tế tăng lên và mức việc làm đầy đủ có thể khôi phục.
Ngược lại, khi nền kinh tế đang ở trạng thái phát đạt quá mức, tăng trưởng cao, lạm phát tăng lên, Chính phủ có thể giảm chi tiêu và tăng thuế và nhờ đó tổng cầu sẽ giảm sản lượng thực tế cũng giảm theo và lạm phát giảm. Tuy nhiên, trên thực tế chính sách tài khoá không đủ sức mạnh như vậy nhất là trong điều kiện nền kinh tế hiện nay.
Chính sách tài khoa trong thực tế
Trước khi thực thi chính sách tài khoá trong thực thế, thì Chính phủ cần phải nghiên cứu kỹ các vấn đề sau: Mức thâm hụt sản lượng thực tế và mục tiêu đạt ra cho nền kinh tế Cơ chế tự điều chỉnh của nền kinh tế khi chưa cần tác động của chính sách tài khoá.
Trong thực tế chính sách tài khoá bị hạn chế bởi nhiều lý do:
(1) Khó xác định một cách chính xác mức độ cần thiết phải tác động + Có sự khác nhau về quan điểm, cách đánh giá các sự kiện kinh tế + Có sự không chắc chắn cố hữu trong các quan hệ kinh tế
(2) Chính sách tài khoá có độ trễ khá lớn về mặt thời gian + Độ trễ bên trong: thời gian thu thập, xử lý thông tin và ra quyết định. + Đội trễ bên ngoài: bao gồm quá trình phổ biến, thực hiện và phát huy tác dụng của chính sách. Cả hai độ trễ trên khá dài phụ thuộc vào các yếu tố chính trị, thể chế, cơ cấu tổ chức bộ máy. Các chính sách đưa ra không đúng lúc sẽ làm rối loạn thêm nền kinh tế thay vì ổn định nó.
(3) Chính sách tài khoá thường được thực hiện thông qua các dự án công cộng, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển việc làm, trợ cấp xã hội. Mà đa số các dự án này trong thực tế là kém hiệu quả, tham nhũng nhiều, thời gian phát huy tác dụng thường khá dài.
Chính sách tài khóa và vấn đề thâm hụt ngân sách:
CSTK thường thể hiện trong quá trình lập,phê chuẩn và thực hiện ngân sách nhà nước. Ngân sách của các quốc gia luôn phải đương đầu với vấn đè thâm hụt ngân sách. Có 3 khái niệm thâm hụt ngân sách:
- thâm hụt ngân sách thực tế: đó là thâm hut khi số chỉ thực tế vượt số thu thực tế trong một thời kì nhất định.
- thâm hụt ngân sách cơ cấu: đó là thâm hụt ngân sách tính toán trong trường hợp nếu nền kinh tế hoạt động ở mức sản lượng tiềm năng.
- thâm hụt ngân sách chu kỳ: đó là thâm hụt ngân sách bị động do tình trạng của chu kì kinh doanh.
Trong 3 loại thâm hụt trên, thâm hụt cơ cấu phản ánh kết quả hoạt động chủ quan của cstk như: định ra mức thuế suất, phúc lợi, bảo hiểm.vì vậy để đánh giá kết quả phải sử dụng thâm hụt cơ cấu.
Chính sách tài khóa cùng chiều và chính sách tài khóa ngược chiều
Chính sách tài khoá cùng chiều: nếu mục tiêu của Chính phủ là luôn đạt được ngân sách cân bằng dù sản lượng có thể thay đổi thế nào cũng được, thì chính sách đó gọi là chính sách tài khoá cùng chiều.
Chính sách tài khoá ngược chiều: nếu mục tiêu của chính phủ là giữ cho nền kinh tế luôn ở mức sản lượng tiềm năng với mức việc làm đầy đủ cho dù ngân sách thâm hụt hay thăng dư.
Việc chính phủ theo đuổi chính sách cùng chiều hay ngược chiều phụ thuộc rất nhiều vào chu kì chính trị, vào các tình huống kinh tế cụ thể của mỗi nước ở các giai đoạn lịch sử khác nhau.
Các biện pháp của chính sách tài khoá chủ động của Chính phủ gây nên thâm hụt cơ cấu và kéo theo hiện tượng tháo lui đầu tư.
Cơ chế tháo lui đầu tư như sau: khi tăng chi tiêu hoặc giảm thuế thì GDP sẽ tăng lên theo hệ số nhân, nhu cầu về tiền cũng sẽ tăng. Với mức cung tiền vẫn chưa thay đổi, lãi suất sẽ tăng lên, làm cho đầu tư giảm xuống. Kết quả là một phần GDP tăng lên có thể bị mất đi thâm hụt cao, keo theo đầu tư giảm. Vì vậy, tác dụng của chính sách tài khoá sẽ giảm.
4 – Việt nam:
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia:chính sách tài khóa ở nước ta thời gian qua cũng như hiện nay vẫn còn đang yếu, chính sách tài khóa những năm gần đây không thể tận dụng ưu thế tác động trực tiếp, có trọng tâm của mình, mà phân bổ dàn trải. chính sách tài khóa, đặc biệt là các công cụ của nó có vài trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Việc sử dụng các công cụ đó như thế nào sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của nền kinh tế ở từng thời điểm cụ thể.
Ở Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thì việc áp dụng các công cụ của CSTk luôn đòi hỏi phải có sự phù hợp, hiệu quả. Từ đó đòi hỏi chúng ta phải có những định hướng và giải pháp đúng trong việc hoàn thiện các công cụ đó. Để có được điều này, bên cạnh sự định hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước, cần phải có nhiều sự phối hợp đồng bộ khác.
Do đó, việc nghiên cứu tìm hiểu về các công cụ của chính sách tài khóa ở Việt Nam phải được coi là cả một quá trình lâu dài và cần được tiếp tục phát triển về sau.
Chủ đề 6: Đặc điểm của biến động kinh tế? Tại sao biến động kinh tế không thể đoán trước?
Hoạt động kinh tế biến động từ năm này qua năm khác. Nhìn chung, sản lượng hàng hoá và dịch vụ liên tục tăng lên theo thời gian. Do có sự gia tăng của lực lượng lao động, tư bản và tiến bộ công nghệ, nền kinh tế ngày càng có thể sản xuất nhiều hơn. Sự tăng trưởng này cho phép mọi người hưởng thụ mức sống cao hơn. Tuy nhiên, trong một số năm, sự tăng trưởng bình thường này đã không xảy ra. Các doanh nghiệp không bán được hết hàng hoá và dịch vụ và quyết định cắt giảm mức sản xuất. Nhiều công nhân bị sa thải, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao và nhiều nhà máy bị bỏ không. Khi nền kinh tế sản xuất hàng hoá và dịch vụ ít hơn, GDP thực tế và các đại lượng phản ánh thu nhập khác giảm đi. Những thời kỳ thu nhập giảm trong khi thất nghiệp tăng cao được gọi là suy thoái nếu tình hình không nghiêm trọng, và được gọi là khủng hoảng nếu vấn đề thực sự nghiêm trọng. Vậy điều gì đã gây ra biến động của hoạt động kinh tế trong ngắn hạn?
1.BA ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN VỀ BIẾN ĐỘNG KINH TẾ
Những biến động trong ngắn hạn của các hoạt động kinh tế diễn ra ở tất cả các nước và mọi thời đại trong suốt chiều dài lịch sử. Để có điểm khởi đầu cho việc tìm hiểu những biến động từ năm này sang năm khác, chúng ta hãy trình bày một vài tính chất quan trọng nhất của chúng.
- Đặc điểm 1: Các biến động kinh tế diễn ra bất thường và không thể dự báo
Biến động của nền kinh tế thường được gọi là chu kỳ kinh doanh. Như thuật ngữ này cho thấy, biến động kinh tế gắn liền với những thay đổi trong điều kiện kinh doanh. Khi GDP tăng trưởng nhanh, hoạt động kinh doanh phát đạt. Các doanh nghiệp có nhiều khách hàng và lợi nhuận ngày càng tăng. Ngược lại, khi GDP thực tế giảm, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Trong thời kỳ hoạt động kinh tế suy giảm, hầu hết các doanh nghiệpbán được ít hàng hơn và kiếm được ít lợi nhuận hơn.
Tuy nhiên, thuật ngữ chu kỳ kinh doanh có thể dẫn tới sự hiểu lầm, vì nó có vẻ hàm ý rằng biến động kinh tế diễn ra theo một quy luật và có thể dự báo được. Trên thực tế, chu kỳ kinh doanh không hề có tính chất định kỳ và không thể dự báo với độ chính xác cao.
- Đặc điểm 2: Hầu hết các biến số kinh tế vĩ mô cùng biến động
GDP thực tế là chỉ tiêu được sử dụng rộng rãi nhất để theo dõi những thay đổi trong ngắn hạn của nền kinh tế vì nó là chỉ tiêu toàn diện nhất về hoạt động kinh tế. GDP thực tế phản ánh giá trị hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong một thời kỳ nhất định. Nó
cũng phản ánh tổng thu nhập (đã loại trừ lạm phát) của mọi người trong nền kinh tế.
Nhưng thực ra khi theo dõi biến động kinh tế ngắn hạn, việc sử dụng chỉ tiêu nào để phản ánh hoạt động kinh tế mà chúng ta theo dõi không quan trọng. Phần lớn các biến số kinh tế vĩ mô đo lường thu nhập, chi tiêu hay mức sản xuất, cùng biến động. Khi GDP giảm trong thời kỳ suy thoái, thì thu nhập cá nhân, lợi nhuận công ty, tiêu dùng, đầu tư, sản lượng công nghiệp, doanh số bán lẻ, quy mô mua bán nhà cửa và ô tô cũng giảm xuống. Do suy thoái là một hiện tượng xảy ra trong toàn nền kinh tế, nên nó biểu thị trong nhiều nguồn số liệu vĩ mô khác nhau.
Mặc dù các biến số kinh tế vĩ mô cùng biến động, song chúng biến động với quy mô khác nhau. Nói cách khác, khi các điều kiện kinh tế xấu đi, phần lớn mức suy giảm đều bắt nguồn từ sự giảm sút chi tiêu để xây dựng nhà máy, nhà ở và bổ sung thêm hàng tồn kho mới.
- Đặc điểm 3: Khi sản lượng giảm thì thất nghiệp tăng
Những thay đổi trong sản lượng hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế gắn chặt với những thay đổi trong việc sử dụng lực lượng lao động của nền kinh tế. Nói cách khác, khi GDP thực tế giảm thì tỷ lệ thất nghiệp tăng. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên: khi các doanh nghiệp sản xuất ít hàng hoá và dịch vụ hơn, họ sa thải bớt công nhân và số người thất nghiệp tăng.
Mô hình cơ bản về biến động kinh tế
Mô hình của chúng ta về các biến động kinh tế ngắn hạn tập trung vào hành vi của hai biến số.. Biến thứ nhất là sản lượng hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế tính bằng GDP thực tế. Biến thứ hai là mức giá chung tính bằng CPI hoặc chỉ số điều chỉnh GDP. Cần chú ý rằng sản lượng là biến thực tế trong khi mức giá là biến danh nghĩa. Do đó, bằng cách tập trung vào mối quan hệ giữa hai biến số này, có nghĩa chúng ta thừa nhận không có sự phân đôi cổ điển.
Hình 2. Tổng cầu và tổng cung. Các nhà kinh tế sử dụng mô hình tổng cầu và tổng cung để phân tích các biến động kinh tế. Trên trục tung là mức giá chung. Trên trục hoành là tổng Sản lượng cân bằng lượng hàng hoá và dịch vụ được nền kinh tế sản xuất ra. Sản lượng và mức giá điều chỉnh đến điểm mà tại đó đường tổng cầu và tổng cung cắt nhau.
Chúng ta phân tích biến động của cả nền kinh tế với tư cách một tổng thể bằng mô hình tổng cầu và tổng cung được minh họa trong hình 2. Trên trục tung là mức giá chung trong nền kinh tế. Trên trục hoành là tổng sản lượng hàng hoá và dịch vụ. Đường tổng cầu cho biết lượng hàng hoá và dịch vụ mà các hộ gia đình, doanh nghiệp và chính phủ muốn mua tại mỗi mức giá. Đường tổng cung cho biết lượng hàng hoá và dịch vụ mà các doanh nghiệp muốn bán ra tại mỗi mức giá. Theo mô hình này, mức giá và sản lượng điều chỉnh để cân bằng tổng cầu và tổng cung.
Nền kinh tế liên tục chịu tác động của những sự kiện không thể lường trước. Giá dầu bất ngờ tăng, Ngân hàng Trung Ương thay đổi lãi suất, hay tiêu dùng đột ngột giảm. Những sự kiện không lường trước ấy thường được gọi là những “cú sốc”. Nền kinh tế cũng chịu tác động của những thay đổi dài hạn hơn, ví dụ như thay đổi chính sách tiền tệ theo hướng kiềm chế lạm phát hay thay đổi chính sách tài khóa theo hướng thắt chắt ngân sách.Một trong những nhiệm vụ chính của nghiên cứu kinh tế vĩ mô là tìm hiểu xem những cú sốc và những thay đổi chính sách mang tính hệ thống ấy ảnh hưởng ra sao tới các biến số vĩ mô trong cả ngắn và dài hạn.
liên hệ VN
môi trường kinh tế thế giới đang biến động khó lường, nguy cơ một cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu mới đang ngày càng rõ nét. Những vấn đề của các nước phát triển đã lan rộng sang các nước đang phát triển. Hiện tại, các nước đang phát triển dễ bị tổn thương hơn so năm 2008. Đối với Việt Nam, tình hình kinh tế vĩ mô cũng biến động cùng chiều với các biến động của kinh tế thế giới. Tuy nhiên, theo các chuyên gia kinh tế, nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự bất ổn kinh tế vĩ mô ở Việt Nam là do cấu trúc của nền kinh tế.
Nhiều khuyến nghị chính sách, giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam đã được các nhà khoa học, chuyên gia kinh tế đưa ra tại hội thảo. Đây là thời điểm quan trọng để Việt Nam thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế. Dư địa sử dụng chính sách, nhất là chính sách tiền tệ và tài khóa hiện không còn nhiều nên Chính phủ cần có những bước đi mạnh mẽ để tăng cường hiệu quả của các chính sách. Bên cạnh đó, Việt Nam cần tập trung quản lý đầu tư công hiện đại theo hướng giám sát chặt chẽ các dự án đầu tư của Chính phủ. Cải cách doanh nghiệp nhà nước (DNNN) bằng cách nâng cao khả năng quản trị của DNNN, giám sát chủ động và đánh giá thường xuyên hoạt động của các doanh nghiệp này... Ngoài ra, cũng cần tập trung tăng cường năng lực và lành mạnh hóa khu vực tài chính; đẩy mạnh minh bạch hóa ngân sách nhà nước...
tình hình kinh tế Việt Nam còn nhiều khó khăn, thách thức do tác động cả từ bên ngoài lẫn yếu tố nội tại. Việc triển khai thực hiện Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ tuy đạt được một số kết quả nhưng tình hình lạm phát còn cao, nhập siêu đã giảm nhưng vẫn lớn, tỷ giá chưa ổn định, dự trữ ngoại hối còn mỏng, sản xuất, kinh doanh của nhiều doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn...
Chính phủ đặt trọng tâm tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, trong đó ba lĩnh vực quan trọng nhất là tái cơ cấu đầu tư; tái cơ cấu DNNN và tái cơ cấu hệ thống tài chính, ngân hàng. Phó Thủ tướng khẳng định, Chính phủ Việt Nam luôn lắng nghe, tiếp thu ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước để góp phần hoàn thiện các cơ chế, chính sách cho nền kinh tế, đặc biệt trong giai đoạn bốn năm tới.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top