tiêu đề của câu chuyện của bạn
Có Cha
Ông Nhắt héo quắt trên giường đã mấy tháng rồi. Toàn thân ông bất động, duy cặp mắt lờ đờ chầm chậm quét đi quét lại những khuôn mặt tới gần. Tuổi ngót bảy mươi, con trai con gái, dâu rể đủ đầy, chưa đại thọ nhưng chết cũng
đẹp
rồi. Bà Nhắt đã nhờ các vãi chùa tụng hết kinh Kim Cương, Bát Nhã...; chiếc quan tài đỏ hoét đặt cạnh giường ván thiên kênh lên tựa cánh cửa thuyền rồng rộng mở, chỉ chờ ông chui vào là thong dong xuôi Tây Trúc. Nhưng mà ông chưa
đi
đấy, làm gì được ông nào!
Các thầy cúng mấy phen bấm quẻ tính giờ tịch cho ông đều sai bét. Thôi chết rồi! Có thế mà không nghĩ ra! Bà Nhắt đâu, xem còn đứa nào thì gọi hết chúng về. Nghĩa tử là nghĩa tận, đừng nên chấp nhách làm gì! Bà Nhắt hu hu khóc, tiếng khóc ẩn chứa nỗi hờn ghen. Nhưng nước này, không cho gọi mấy đứa con rơi của ông ấy về thì biết bao giờ ông ấy mới chịu
đi
? Nghĩ vậy bà xỉ mũi rèn rẹt nói ráo hoảnh: Chúng mày đi gọi mau lên! Mấy người con nhìn nhau đùn đẩy, chẳng ai chịu chấp hành lệnh mẹ.Ông Nhắt là ai mà nghe có vẻ "hoành tráng" thế?
Nói "hoành tráng" e chưa chuẩn lắm. Phải nói ông Nhắt là một người đàn ông lẫy lừng. Ông nguyên làm y tá làng Bùi. Đêm đêm, chiếc xe đạp không đèn không chuông đi rất thầm lặng làng trên xóm dưới. Tay nghề ông giỏi đến độ được suy tôn là "Hoa Đà tái thế", chữa đâu khỏi đấy. Có người nói ông nổi tiếng là bởi sự liều. Phương châm táo bạo của ông là "đau đâu tiêm đấy". Đau mắt, ông tiêm thẳng vào mi. Ho suyễn kéo dài ông dùng chiếc kim dài nửa gang tay phập ngay vào phổi. Đau bụng thì tiêm vào rốn. Vân vân và vân vân...Nhưng lại có người nói chả phải, ông Nhắt nổi tiếng là nhờ thủ đoạn. Những năm thập niên tám mươi ấy dân tình nheo nhóc, các con bệnh đa phần ốm đói. Thuốc của ông chỉ mấy lọ Penecillin, Steptomicine,
một vốc thuốc
Vitamin các loại, dăm liều thuốc xổ giun...Nhưng thuốc không nặng bằng thang. Cái "thang" mới giữ vai trò quyết định. Sau khi cho thuốc, bao giờ ông cũng phán một câu đại loại: Phải bồi dưỡng bằng một cân thịt nạc, một con gà hầm...Thời buổi con người phải đếm lùi từng hôm trông mau tới ngày giỗ tết để có tí chất nhờn bôi mép thì lời phán của ông giống như ơn trời mưa móc làm mát ruột mát gan con bệnh.
Nhưng nếu chỉ có thế thì chân dung ông Nhắt chưa đủ nét. Ông có tác phong hành nghề độc đáo hào hoa. Trong túi thuốc của ông luôn có một chai rượu nếp. Thứ nếp cấy trên cánh đồng Tốt Động, nơi nghĩa quân Lam Sơn đã chém đầu năm vạn giặc Minh. Địa danh này sáng chói trong Đại cáo bình Ngô nên có một nhà thơ nổi tiếng sành rượu khi nếm thử đã mắt lim dim đầu gật gật phán rằng: Rượu nếp làng Bùi có vị đằm sâu của lịch sử và ngát hương văn hiến! Chả biết nhà thơ nói thật hay nói khoác, chỉ biết rằng ông Nhắt rất mê nghiện thứ rượu này. Khi cần tiêm, ông rót ra một cốc, quẹt diêm. Lửa rượu mạnh múa lượn chập chờn xanh lét, loàng một tí là cái hộp nhôm đựng xơ ranh và kim tiêm đã sôi xèo xèo. Ông tắt lửa, tiêm thuốc cho bệnh nhân xong thì làm tớp rượu đang còn nóng rãy. Một công đôi việc. Tiêm xong vài nhà là hơi thở ông Nhắt đã nồng ngậy vị phong tình. Cái nồng ngậy làm xiêu đổ những tiết hạnh...
Người đầu tiên đến nhận cha là anh Hạo, còn gọi là Hạo sẹo vì mép còn nguyên vết sẹo ông bố hờ lấy dao rạch trong một lần ăn vụng cơm của đứa em khác cha cùng mẹ. Anh đến thẳng chỗ ông Nhắt nằm, chỉ tay vào mặt ông quát lớn: Ông chờ đ. gì mà chờ! Ông tằng tịu với mẹ tôi mà không dám nhận, để lão Dụng hành hạ mẹ con tôi mấy chục năm nay. Mọi người thấy anh Hạo hùng hổ thì khẽ khàng khuyên: Thôi anh ạ, chuyện cũ bỏ qua. Hãy để cho ông ấy vui lòng nhắm mắt. Nghe lời, anh Hạo ngồi uống nước khan, chờ. Cứ như thể ông Nhắt sẽ ra đi ngay lúc đó.
Người thứ hai tìm đến nhận cha là anh Xin.
Anh mang tên Xin bởi ngày bà Sửu mẹ anh mang bầu, bà Nhắt chưa kịp đánh ghen thì bà Sửu đã trầu cau đến nhà cúi mặt vân vê gấu áo đã cao xếch lên: Em xin chị. Em chỉ xin đứa con nuôi cho đỡ quạnh về già, chứ không dám tơ hào tình ngãi... Đàn bà thường cay nghiệt khi ghen nhưng cũng dễ mủi lòng khi đối thủ đã bó gối qui hàng. Nghe nói khi bà Sửu sinh, bà Nhắt còn giấu chồng mang trứng gà đến cho bà Sửu tẩm bổ.
Anh Xin rón rén đến chõng ông Nhắt sẽ sàng ngồi xuống, cầm bàn tay xâu xia của ông bóp bóp. Tình phụ tử trào dâng, mắt anh Xin chớp lịa...
Vậy là hai đứa con rơi đã đến nhận cha. Thế mà ông Nhắt vẫn bền gan đợi. Cái điệu này là vẫn còn sót đứa nào nữa đây. Bà Nhắt, bằng trực giác đàn bà đã chột dạ. Thôi chết rồi! Hay là.
Trong đầu bà Nhắt vụt nhớ hình bóng của một con bé mang tên Bủngchập chờn
. Mẹ Bủng chết ngay khi vừa sinh xong Bủng. Khi ông bà ngoại băng, Bủng vừa bảy tuổi. Bủng được tha hết nhà này sang nhà khác làm nghề bế trẻ. Có người nói Bủng bị thiểu năng trí tuệ bẩm sinh, nhưng cũng có người nói Bủng ngu đần bởi những trận đòn vô cớ. Lũ trẻ làng Bùi tẩy chay đứa con hoang, không cho Bủng chơi cùng. Bủng buồn quá, cứ đứng đằng xa thèm thuồng nhìn đám trẻ chơi đùa. Một lần bọn trẻ chơi trò bịt mắt cốc, Bủng thấy hay hay, xán lại. Bủng nhón tay cốc nhẹ một cái vào đầu đứa đang bị bịt mắt như cách người ta nựng yêu. Thế mà Bủng sợ đến nỗi mặt mày tái xanh tái xám. Chả khó khăn gì đứa kia đoán trúng Bủng liền. Bủng sung sướng quá! Bủng đã được chấp nhận vào cuộc chơi. Một đứa bịt mắt Bủng thật chặt và một trận cốc dập dồn trút xuống đầu Bủng. Bủng thấy trời đất quay cuồng, mắt tóe đóm sáng lòe. Bủng định thần đoán đứa cốc mình. Đứa nào cũng cốc, nhưng chẳng đứa nào chịu nhận. Thế tức là Bủng đoán sai, phải chịu bịt mắt chịu cốc tiếp cho đến khi nào đoán đúng. Ngày nào đầu Bủng cũng như cái đe cho những búa tay thẳng cánh giáng xuống cho đến khi Bủng ôm đầu khuỵu xuống mới thôi... Cứ thế, Bủng ngơ ngẩn lớn lên giữa sự ghẻ lạnh vùi dập của lũ trẻ làng Bùi.
Mặc kệ bộ não đã dừng lại ở tuổi bé con, cái cơ thể sinh học của Bủng cứ hằng ngày phát triển. Người làng Bùi thấy Bủng bắt đầu làm dáng. Cái dáng nghiêng lệch một bên bởi Bủng đã bế không biết bao nhiêu đứa trẻ từ khi Bủng cũng là một đứa trẻ vẹo xiêu. Hàm răng Bủng chả ai quan tâm chỉ bày nên cứ để răng xương chèn răng sữa, thành ra một hàm răng khổng khểnh đẩy tung cặp môi Bủng lên. Nhờ thế mà hoá tươi! Bủng lấy lá duối đánh trắng bộ răng ấy. Bủng không đòi tiền công bế em nữa, mà đòi bằng quần áo. Cô Toan lôi từ đáy rương chiếc váy hoa từ hồi ra chơi với chồng ngoài Hà Nội cho Bủng. Bủng sướng run chi, bế con cho cô Toan trèo trẽo cả ngày không biết mệt. Tối nào Bủng cũng ra sân kho hóng gió. Mái tóc rối lùi được Bủng vuốt mãi, vuốt mãi cho nhanh dài. Người ngợm Bủng nồng nặc mùi xà phòng, chẳng ra thơm, không ra khét, nó cứ ngầy ngật gây gây. Nhìn Bủng đi dép nhựa gót cao giống y chú ếch đi hài quả ớt. Chiếc váy hoa rộng thồng nhầu nhão quét lệt phệt trên đường làng nom vừa tức mắt, vừa buồn cười. Bủng diễu dện qua lại trước mặt đám trai hoi làng Bùi như một con bù nhìn ruộng dưa đong đưa theo gió. Chúng được thể buông lời tròng ghẹo. Chỉ chờ có thế, Bủng dừng phắt ngay lại, vần vè:Chơi cho bằng chạc bằng chà, lớn thì không dám bé hoà không chơi...
Bà mà thèm chơi với lũ chõn con chúng mày à! Người yêu bà là sinh viên đang học trên Hà Nội nhớ. Đẹp trai học giỏi hơn chán vạn lũ nhênh nhàng lêu lổng chúng mày nhớ!... Bọn con trai ré lên cười. Bủng càng chửi tợn. Trêu được Bủng mà dễ à? Còn lâu nhớ, còn mướt nhớ! Bủng rũ váy đánh phật, đi thẳng. Cái váy vải satanh lâu ngày co hếch đằng sau lên trông từa tựa cái lồng úp gà bị kênh, hớ hênh phát ngốt!
Cái gì đến đã đến. Cô Toan cuống cuồng: Giời ơi là giời! Người chả ra người, ngợm không ra ngợm, thế mà còn vác bụng thế này thì sống làm sao! Thằng nào? Mày nói ngay! Thằng nào? Để tao bắt nó phải chịu trách nhiệm. Bủng ngước mắt lên trời, cười. Nào Bủng có biết thằng nào? Cái đêm Bủng ngủ ở sân kho, trăng thanh gió mát, Bủng thấy người yêu Bủng về nằm kề bên cạnh, bảo anh yêu em lắm. Thế là Bủng mắt nhắm mắt mở choàng lấy ngay. Yêu nhau nhanh quá, Bủng chưa kịp tỉnh ngủ thì người yêu Bủng đã vùng dậy. Bủng dụi mắt nhìn chỉ thấy một thằng mặc quần đùi lẩn nhanh vào xóm. Lúc ấy Bủng nghĩ, chắc là mình nằm mơ như mọi hôm. Thế nên mặc cho cô Toan gầm thét mấy Bủng cũng chỉ cười trừ, miệng lúng búng mấy câu vô nghĩa: Quần đùi...quần đùi...
Cô Toan ngấm ngầm làm cuộc điều tra. Đối tượng nghi vấn số một là ông Nhắt. Bà Nhắt mấy phen mát mẻ dò ý chồng, nhưng lại hơi chờn chợn bởi thái độ ông lạ lắm. Ông vò xé chân tay, đầu ngúc ngoắc sang phải sang trái liên hồi, rít rẩm trong cổ họng. Rõ là người có nỗi oan sai không thể thanh minh, không thể giải phóng nên nó bấn bách ép nặng trong lòng...
Mọi chuyện tưởng không ai còn nhớ, nhưng trong giờ phút rối ren này bà Nhắt lại thông minh đột xuất. Bà xâu chuỗi lại những sự kiện trong quá khứ để rồi đi đến một phán đoán cực kì lôgic. Bà tức tưởi chạy đến bên giường ghé sát tai chồng nói gằn từng tiếng: Ông chờ con Bủng chứ gì?
Ông Nhắt đột nhiên đụng cựa, dồn hết sức tàn cho một cái gật đầu. Bà Nhắt bắt đầu lum loa, át cả tiếng ồn ào đám đông: Ông ơi là ông ơi! Sao ông không nhận con ngay từ khi nó còn ở nhà? Bây giờ biết ở đâu mà tìm? Hu...hu...!
Nghe tiếng khóc, làng xóm tưởng ông Nhắt đãvề
rồi nên kéo nhau đến nhà đông nghịt. Thủng chuyện, mọi người bàn tán râm ran. Ra thế! Ra Bủng là con ông Nhắt! Thảo nào ngày trước ông hay quát nạt đứa nào trêu Bủng. Nghe thế, Anh Chiến con cả ông Nhắt quát um lên: Này này, các ông các bà đừng có mà nói lung tung. Bố tôi không có hạng con như thế!
"Bố tôi không có hạng con như thế!", câu phủ nhận cũng là câu khẳng định. Khẳng định rằng bố tôi chỉ có những người con như tôi thôi. Trứng rồng phải nở ra rồng chứ, làm sao một người danh giá như bố tôi có thể đánh rơi một giọt máu lạc loài như con Bủng?
Anh Chiến cũng khởi nghiệp y tá sau khi thi trượt trung cấp y. Nhưng anh không gặp thời như bố, bởi anh phải cạnh tranh vất vả với mấy anh quân y sĩ phục viên khám bệnh bằng tai nghe và có máy đo huyết áp. Thì anh học chuyên tu lên y sĩ. Anh cũng sắm tai nghe và máy đo huyết áp, nhưng dân làng Bùi vẫn cứ chê anh tay nghề kém. Anh giận lũ dân đen ngu dốt quá, bởi anh kế nghiệp cha truyền, cũng kê "thuốc" kèm "thang" như bố chứ có khác gì đâu? Vậy mà mấy con bệnh nhà quê khi được anh kê thang còn nhăn nhó than phiền trách anh bắt họ ăn những thứ mới nhìn đã phát ngấy lên rồi. Đã không biết ơn thì chớ, họ lại còn mang anh ra làm con ngoáo ộp doạ trẻ con. Nín đi, khóc nữa là mẹ cho bác Chiến tiêm đấy nhé! Chỉ mới nghe thế là "tiếng khóc đang ngân bỗng tắt nửa chừng"... Sự thể này kéo dài là không ổn, bởi làng lại có thêm mấy thằng bác sĩ học chính qui bảy tám năm trời về khai phòng mạch. Trong khi anh vẫn kiên trì khám chữa bệnh theo lối cha truyền thì chúng nó đã mua kính hiển vi và máy siêu âm. Tiên nhân cái thời nhốn nháo thị trường! Nó bắt anh phải "chạy đua vũ trang" đến úa bạc cả tâm can. Anh dư sức mua mấy cái máy kia, nhưng trước hết anh phải cóp nhóp bạc tiền tiếp tục hàm thụ lên đại học. Bây giờ anh đã có thể tự tin mà rằng, anh đã thực sự chuyển biến về chất. Ngôi nhà hai tầng mái chóp có quả bóng thông gió quay tít như một cơ sở điều chê hạt nhân ngay đầu làng của anh dùng làm phòng mạch treo tấm biển to đùng BÁC SĨ ĐA KHOA DUY CHIẾN. Trong phòng mạch, anh treo tấm bằng tốt nghiệp đại học y khoa hệ hàm thụ ngay nơi khám bệnh. Cạnh đó là bức ảnh chụp anh bắt tay Bộ trưởng Bộ Y tế. Cái dân nhà quê đúng là dễ lừa. Để có bức ảnh ấy, anh đã phải thuê thằng bạn một chầu thịt chó nó mới chịu cùng anh mai phục suốt một buổi, đợi đến khi Bộ trưởng bước vừa bước vào thăm lớp hàm thụ là anh xông đến xin bắt tay cho thằng kia a- lê- chớp. Dân làng đồn đại bác sĩ Chiến chắc phải giỏi lắm mới được Bộ trưởng bắt tay chứ! Phòng mạch của anh lại bắt đầu đông khách. Người nông thôn tiêu pha tằn tiện nhưng cực thoáng khi đi chữa bệnh. Bác sĩ bảo sao nghe vậy. Tiền hết bao nhiêu trả vậy, cấm ai thèm mặc cả bao giờ. Anh Chiến chả mấy mà giàu. Giàu thì phải tiến lên sang. Anh sơn nhà trắng, cưỡi xe Attila màu bạc. Anh khoác bên ngoài tấm thân vâm váp bằng áo trắng đóng thùng. Để đồng bộ, anh sắm thêm đôi kính cận. Nhưng khổ, tuổi thơ chăn trâu cắt cỏ trong gió đồng khoáng đạt trong lành, lớn lên đọc chưa hết dăm cuốn sách thì cận làm sao? Mới đeo kính được mấy ngày mắt anh đã sưng đã buốt, anh đành phải vít trễ nó xuống sống mũi cốt tạo dáng, còn nhìn thì vẫn phải qua đôi mắt sáng loè thị lực mười trên mười cả hai bên phải trái. Soi vào gương, anh tự thấy mình đã ra dáng trí thức lắm rồi. Thế nhưng bọn thanh niên làng Bùi vẫn nhếch môi cười khẩy khi nghe nhắc tên anh. Chúng dám đặt cho anh cái xú danh "bác sĩ đồ tể" để bôi bác.Xem ra công cuộc làm sang của anh hãy còn gian truân lắm. Bởi vậy, việc anh không nhận một đứa dở hơi làm em là vô cùng sáng suốt!
Nhưng anh Chiến đã rơi vào một phen khó xử.
Bốn mươi chín ngày sau khi ông Nhắt qua đời thì đột nhiên Bủng về.
Bủng cười từ đầu làng đến cuối xóm. Mà cười thành tiếng chứ không phải cười bằng răng. Bủng khoe rầm rĩ là có bố rồi. Dù có chết rồi thì vẫn là bố. Dân làng chửi yêu: Đúng là con
bố chết cũng cười
!Bủng ào vào nhà anh Chiến, không thèm để ý vẻ mặt cau có của mọi người, tự nhiên chạy tới bàn thờ giở khăn tang ra đội, châm nhang khấn bố rõ to: Con vội quá, chả kịp mua gì sất, có bi nhiêu đây cúng bố!
Bủng lộn từ trong áo lấy ba bó tiền đỏ đòng đọc như những cục gạch đặt uỵch lên bàn thờ. Xong, vẫn cái khăn trắng trên đầu Bủng tênh tênh chạy khắp xóm, vẻ mặt vô cùng phớn phở. Bủng ngồi chỗ nào là chỗ ấy hoá đông vui. Anh Chiến cho Bủng để tang bố nhưng không chứa trong nhà. Bủng chả cần. Làng xóm bây giờ quí Bủng lắm. Là vì Bủng có bao nhiêu chuyện lạ. Mỗi tối Bủng được mời đến ngủ một nhà để kể chuyện phương xa.
Cái lần Bủng có thai, cô Toan cương quyết kéo Bủng lên xe đi trạm xá mặc cho Bủng một tay giữ chặt cạp váy, tay kia vằng mạnh, nhưng có thêm một vài người giúp sức, cô Toan đã thắng. Để phòng xa cái chuyện kia có thể tái diễn, cô đuổi Bủng đi. Đi đâu bây giờ? Bủng vạ vật mấy ngày trong xóm nhưng chả ai nhờ Bủng bế con nữa. Một hôm chị Qui lấy chồng bên Trung Quốc về chơi, rủ Bủng. Bủng gật ngay. Chợ người biên giới tấp nập kẻ bán người mua. Bủng chả biết gì, cứ ngước mắt lên cười. Thấy ai hỏi gì Bủng cũng cười nên khách hàng cho là Bủng có duyên lắm lắm. Chị Qui thấy thế hét giá rất cao: năm trăm tệ! Mấy ông già xán vào xỉa tiền ngay. Nhưng Bủng không đồng ý, Bủng chê bọn này già. Bủng đòi phải có tình yêu, phải được... tìm hiểu
Chồng em đẹp trai lắm nhé! Cao này...to này...trắng nữa!
Bủng cứ khoa chân múa tay mãi mà không ai hình dung ra được chồng Bủng là người thế nào. Có người sốt ruột quá, hỏi: Chồng mày giống như ai ở làng mình? Bủng trầm ngâm nghĩ ngợi một hồi rồi bất chợt chỉ phắt vào một ông trung niên: Giống anh ý! Ông trung niên chín dừ mặt mũi, trước lúc lảng đi còn buông một câu: Chỉ được cái bố láo! Bủng vẫn vô tư: Thật đấy, nó giống anh y đúc. Nó yêu em ơi là yêu. Ngày nào đi làm đồng nó cũng bắt em đi cùng. Nó láicông nông
pành pành pành pành...em ngồi bên nó, thích lắm!
Có người hỏi: Thế Bủng có nhớ nhà không?
Bủng ngẩn người trả lời: Em có nhà đâu mà nhớ. Nhớ xóm thôi! ALực nó sợ em trốn, nó bảo đẻ cho nó đứa con thì nó cho về thăm quê. Em bảo không thèm về thăm quê. Nó cười tít. Hôm chị Qui nhận được điện bên nhà đánh sang, nói
em là con bố em
, em sướng quá. Em xin về. ALực không cho. Em bảo bố tao chết mà mày không cho về à? Thế là nó bảo, về bây giờ cũng không kịp, đợibốn chín ngày
đi. Ơ, ở bên đó cũng giống mình lắm nhé. ALựcxé
khăn
cho em này, mua hương cho em này, cho em hai trăm tệ rồi đưa ra tận biên giới đổi tiền, dặn mang về cúng bố. Lại mua vé cho em nữa...Bủng kể đi kể lại về chồng mình cho mọi người nghe với vẻ tự hào. Một người xui: Thôi, ở nhà đừng sang nữa, sống ở nhà có anh có em. Bủng mắm môi lại ra chiều nghĩ ngợi. Rồi Bủng bất ngờ tuyên bố không đi Trung Quốc nữa. Bủng có bố rồi, có anh em rồi, Bủng ở nhà thôi.
Nhưng rồi một chiều Bủng đang ngồi kể chuyện một chị bị mua về làm vợ chung cho hai bố con người Tầu, thì thằng Chiểu nhà bán quán đầu cầu phóng xe vào tìm Bủng kêu: Ra nghe điện thoại, nhanh lên! Họ hẹn nửa tiếng sau gọi lại đấy.
Bủng quýnh quáng chân tay như một con xiếc rối dây. Bủng leo lên xe ngồi tơ hơ sau thằng Chiểu như một cái tượng gỗ. Bủng cầm ống nghe mà tay run bắn lên, lộn đầu nghe xuống đầu nói. Bủng hỏi rõ to: Ai gọi gì Bủng đơ.ơ.ới?
Thằng Chiểu vội sửa lại ống nghe cho Bủng. Thì ra là ALực. Mãi không thấy Bủng sang, ALực bèn tìm đến chị Qui bắt đền. Chị Qui đành phải gọi về số máy này. Nghe Bủng nói chuyện bằng tiếng Quan Thoại với chồng, chẳng ai hiểu gì, chỉ thấy mắt Bủng đỏ hoe, môi dưới Bủng run run nhè nhẹ. Rồi lại thấy Bủng cười.
Bủng ghé tai một bà đang hóng chuyện thầm thì: Chị thấy chửa, ALực nó yêu em ghê lắm nhé. Em giả vờ không sang nữa, thế là nó khóc tu tu như trẻ con í. Thương thế!
Bà này hỏi lại: Ô, thế Bủng lại tiếp tục sang à?
Bủng hạ một câu to và dài, như chuyện sang với chồng là một lẽ đương nhiên: Vơ...ơ..ơng!
Bủng lại nói thầm vào tai tất cả những người xúm quanh: Đừng nói cho ai biết nhớ! Em...chửa rồi đấy! Mới có. ALực nó chưa biết đâu.
Đến lúc này mọi người mới để ý. Cổ Bủng đã hơi ngăng ngẳng, mông hơi xề xệ. Bủng nói rằng, Bủng phải sang thôi. Con của Bủng phải có bố chứ. Rồi Bủng vần vè:
Mẹ đánh mỏi tay không bằng cha day con mắt
, nhể?Thấy chưa! Trong cái hộp sọ u tối của Bủng vẫn có một ngăn dành cho sự sáng láng. Bủng nhảy chân sáo ra về. Thằng Chiểu gọi giật: Ê, không trả tiền à?
Bủng nhíu mày: Tao có vay mày đâu?
Thằng Chiểu tuổi đáng làm con cho Bủng, vậy mà nó dám phặc một câu rất hỗn: Bố mày đi gọi không công à? Năm nghìn, đưa đây!
Bủng ớ người một lúc lâu, rồi lộn khắp túi áo túi quần, tịnh không có đồng nào. Một người thương tình móc tiền chìa cho thằng Chiểu. Nó giật phắt lấy, mắt gườm gườm nhìn Bủng. Nhưng Bủng không thèm nhìn lại. Oắt con, chấp làm gì cho mệt!
Bủng nhanh nhẹn thu dọn áo quần, thăm thú chào hỏi bà con đâu ra đấy khiến ai cũng phải ngạc nhiên. Bủng đã ra một Bủng khác, biết nghĩ trước nghĩ sau.
Bà con dặn dò: Tiền nong thì cất cho cẩn thận nhé, kẻo lên tàu nó móc mất thì khổ. Chỉ để một ít mua vé, còn thì cất vào nịt vú ấy.
Lúc này Bủng mới ớ ra. Phải mua vé nhỉ? Nhưng mà Bủng đâu còn tiền. Hỏi tiền mang về đâu? Bủng bảo cúng bố hết rồi. Mấy người cáu: Cúng là cúng, xong thì lấy lại chứ ông Nhắt ông ấy ăn được tiền à?
Bủng nhe răng cười, chạy ra nhà anh Chiến. Anh gắt: Tôi không biết tiền nào hết. Nhà đám, người ra người vào nườm nượp, biết ai lấy mà hỏi?
Bủng đứng cúi mặt, tay mân mê mãi gấu áo hoang mang. Lúc đó dân làng kéo đến nhà anh Chiến rất đông tiễn Bủng. Ai cũng cố giúi vào tay Bủng một ít tiền. Anh Chiến thấy thế cũng vào buồng mang ra một xấp tiền cho Bủng. Bủng thoắt cười tươi:
Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang mang ra mà đựng.
Câu nói vần vè của Bủng khiến ai cũng phải bật cười. Anh Chiến chợt nghĩ ra điều gì đó, liền chạy vào lấy giấy bút viết mấy dòng rồi giúi vào tay Bủng: Đây là địa chỉ của...nhà. Có gửi gì thì cứ theo cái này mà gửi.
Bủng lại cười, nhét tờ giấy vào vú.
Thôi chào bà con, Bủng đi!
Anh Hạo và anh Xin nhìn em mếu máo dùng dằng, đến nỗi Bủng phải gắt lên: Các anh hay nhể! Em đi mai kia em lại về chứ có đi mất đâu mà các anh cứ khóc!
Ra dáng lắm! Cứ như lời lẽ thì trong đầu Bủng không có khái niệm "biên giới", quả đất này chỉ là một quả cam, chỗ nào có tình yêu thì Bủng ở. Bủng chỉ đi lấy chồng xa hơn mọi cô gái trong làng, đơn giản thế thôi.
*
Bủng đi được độ nửa tháng thì ông bưu tá lao xe xồng xộc vào phòng mạch của anh Chiến. Anh Chiến dừng tay rà đầu siêu âm trên bụng bệnh nhân, đón phong thư rồi bảo bệnh nhân về, tối ra khám lại. Rồi anh đóng cửa phòng mạch. Chắc anh Chiến nhận được giấy báo lĩnh tiền của Bủng gửi về đấy mà. Phen này thì anh vớ bẫm! Nhưng một thoáng đã thấy Chiến bung cửa lập cập nhảy lên chiếc Attila trắng bạc phóng vù ra xã. Anh cau có phân trần: Các cơ quan bây giờ làm ăn tắc trách quá. Thư này đâu phải gửi cho tôi. Không biết cái thằng vớ vỉn nào đã cho địa chỉ để cái thư này nhầm vào nhà tôi nhỉ?
Phong thư đã xé được mở ra: Công an cửa khẩu L. thông báo tìm thấy một nạn nhân trên đường biên, đề nghị người nhà lên làm thủ tục nhận xác. Kèm theo thư có một tấm ảnh. Bủng! Đúng là Bủng, không lẫn vào đâu được. Khuôn mặt bầu bĩnh ngây ngô, đôi mắt nhắm nghiền nhưng miệng vẫn như cười...
Hà Nội tháng 11-2008
Nóc xưa
Sang gỗ sưa: 0983... Nét chữ gạch non nguệch ngoạc trên bức tường vôi trắng đập vào mắt Huân. Hỏi, mẹ Huân nói, có một ông mấy lần đến gạ mua cái nóc nhà. Chiều nay ông ấy lại đến, tăng giá lên 55 triệu. Ông ấy bảo nếu đồng ý bán thì gọi vào cái số í...
A! Ra cái nóc nhà Huân làm bằng gỗ sưa! Thứ gỗ mà dân tình đang xôn xao bàn tán. Trước kia nghe gọi bằng cái tên quê kiểng, tưởng là cây tạp, ai ngờ nó chính là cây đàn hương đã được lưu vào sử sách. Trong tiểu thuyếtĐàn hương hình
, nhà văn Mạc Ngôn đã tả một đao phủ dùng cây kiếm gỗ đàn hương xiên dọc thân tử tội rồi treo đúng một tuần mà vết thương không chảy máu, tử tội không chết. Tinh dầu chiết suất từ gỗ sưa làm nước hoa thì bất cứ chính nhân quân tử hay kẻ phàm nhân ngửi thấy đều xây xẩm ngất ngây; làm thuốc dưỡng da thì quí bà nhăn nheo sáu mươi sẽ trở thành mỡ màng mười tám; gỗ đàn hương làm giường nằm thì đố con muỗi nào dám vo ve, dùng làm đũa ăn thì thanh độc khử trùng, dùng làm... quan tài thì thi hài trăm năm vẫn tươi nguyên như người đang ngủ... Gỗ quí đương nhiên đắt. Một cân gỗ sưa giá mấy chỉ vàng. Hà Nội sinh "sưa tặc". Sểnh ra là một "cụ sưa" lìa đời biến vô tăm tích. Hai cây sưa trước cổng cơ quan Huân cũng sống trong thấp thỏm, bởi luôn bị người ươm ướm, sờ sờ, thẫn thờ, nhâm nhẩm... Hai cây sưa này giá phải trên 4 tỉ.
Tưởng chuyện săn lùng gỗ sưa chỉ xảy ra nơi thành phố, ngờ đâu nó đã lan đến quê Huân. Đến tận nhà Huân.
Nhà Huân, ngôi nhà ông bà để lại gần trăm năm tuổi. Cụ nội Huân là một thầy đồ, sinh được bốn người con trai. Đa đinh đa phúc. Cụ quyết tâm thay ngôi nhà tranh vách đất bằng ngôi nhà khang trang thờ cúng tổ tiên. Cụ sai con cả vốn được ăn học đi hết hàng tổng tham khảo mẫu nhà; sai con thứ hai vào làng đồi đánh đá ong thuê, cơm nuôi ngày ba bữa, mỗi chiều trở về thì hai đầu
thó
gánh hai hòn đá ong thay tiền công; sai con thứ ba đi theo phường gỗ vào rừng, mỗi chuyến mang về một cây làm kèo làm cột; sai con thứ tư đi làm thuê cho chủ lò vôi gạch, mỗi lò lấy công bằng trăm ngói mũi, chục ngói bò, ròng rã năm năm thì tích được hai vạn ngói và ba thùng vôitôi
đầy ắp. Lại sai các con dâu mỗi sáng tinh mơ thể dục bằng chục quảy đất phù sa từ bãi sông về đổ làm nền. Kiến tha lâu đầy tổ, vật liệu cho ngôi nhà đã được mang về bằng các ngả đường như thế.Chọn giờ hoàng đạo, cụ đồ phát lệnh khai móng. Các con trai tự làm thợ ngoã xây tường. Các con dâu đánh hồ, bê đá... Phần mộc, cụ kén một đoàn thợ có tiếng khéo tay tận Nam Định.
Tiếng bay chém đá chí chát. Tiếng rìu đẽo gỗ rộn ràng. Tiếng cưa xẻ miệt mài mê mải. Tiếng bào đục lách cách, râm ran...Suốt bốn tháng trời ròng rã, ngôi nhà năm gian đã thành hình. Lúc này cụ đồ mới chọn một cây gỗ đẹp nhất, kén người thợ còn thanh tân gia công nóc nhà. Người thợ ăn mặc chỉnh tề. Cưa rìu bào đục được rửa bằng rượu trắng... Khi chiếc nóc hoàn thành, cụ đồ tắm gội nước thơm, tự tay mài mực tàu, rửa bút lông. Cụ thắp ba nén nhang thơm, nhắm mắt định thần một hồi rồi vén tay áo kính cẩn viết một dòng chữ đen nhức lên thanh gỗ dài sáu thước. Xong, tự tay cụ buộc hai dải giấy điều vào hai đầu nóc rồi sai gác lên giá nơi cao ráo, cấm chỉ con gái đàn bà lai vãng. Đợi đúng ngày tốt, cụ mặc áo the khăn xếp, sửa lễ vái bốn phương trời đất rồi cất giọng hô trang nghiêm:Lương thời thụ trụ thượng lương đại cát vượng!
Dứt lời, chiếc nóc được ròng lên đỉnh nhà. Những dòng chữ nho lung linh trong nắng chính ngọ chói chang...
Theo phong tục quê Huân, con trưởng được thừa kế ngôi nhà hương hoả. Ông nội Huân, bố Huân, giờ là anh cả Huân.
Buổi chiều, anh cả ướm ý: Có bán không chú?
Anh là trưởng sự, bán hay để là do anh, em có quyền gì đâu... Huân nói mà giọng ngào ngạt nỗi tủi thân. Phận con thứ, bố mẹ nghèo, Huân quyết chí xa quê tự lập từ mười tám tuổi. Huân không có quyền chia chác từ ngôi nhà này.
Huân ngửa mặt lên nóc nhà để ngăn dòng nước đang định rấn ra. Từ tấm bé Huân đã nằm chao trên cánh võng đay giữa hai cột nhà để hút mắt vào những hình chim hoa cá thú đẹp mê man trên các bức mành xung quanh nhà, thả sức cho trí tưởng tượng phiêu bồng. Và ánh mắt Huân bao giờ cũng dừng lại lâu nhất ở cái nóc nhà. Những dòng chữ tượng hình gợi rất nhiều suy đoán ấu thơ.
Làm sao mà tay Sang lại biết cái nóc nhà mình bằng gỗ sưa? Huân hỏi.
Cái đó thì anh chịu. Anh cả nói.
Chả nhẽ những tay buôn gỗ sưa có...máy dò mùi?
A! Huân nhớ rồi.
Huân nhớ một mùa đông rét buốt. Cha Huân năm đó trúng vụ cá kêu thợ sửa nhà. Trong tốp thợ, có một ông thợ hàng ngang tên Phảng. Nghề mộc, thợ hàng ngang thuộc đẳng cấp cao nhất, chuyên đục chạm những hình long hoá mai, long hoá trúc, ngũ phúc, tứ bình... ở các bức mành. Bởi vậy thợ hàng ngang được đãi rất trọng. Ông Phảng ngồi trên chiếu hoa, bên cạnh có một lò lửa sưởi ấm. Bàn tay ông cầm đục tách lượn những đường múa dẻo trên những cụm hoa văn một cách mê say. Thi thoảng ông dừng tay cầm một phoi bào xoắn mỏng màu nâu thả vào lò sưởi. Mùi thơm trầm ấm thoảng trong không khí mùa đông đặc ngọt... Đúng rồi. Chỉ có ông Phảng biết cái nóc nhà Huân bằng gỗ sưa, và những tay buôn gỗ thừa khôn ngoan để tìm đến dò hỏi các ông thợ mộc...
Anh cả gật gù: Anh tính rồi. Nếu bán đi thì chỉ mất khoảng 5 triệu mua cái nóc mới... Nhưng...
Mẹ Huân gạt ngay: Nhưng làng nước người ta chửi cho vào mặt ấy.Con có cha nhà có nóc.
Đã thiếu thốn đến đâu mà phải bán cả nóc để ăn. Rồi không khéo lại lụn bại đủ đường.
Mẹ Huân là người không được học hành, nhưng trong tâm thức bà nóc nhà luôn là một vật thiêng mang nghĩa tâm linh. Cái nóc nhà này đã toả bóng xuống cuộc sống bốn đời chi họ nhà Huân. Là dâu trưởng phải gánh vác những việc đại sự nên ý thức gia tộc của mẹ Huân rất sâu sắc. Bà buông một câu lẫy: Nếu các anh muốn bán thì đợi tôi chết đã. Chỉ vài năm nữa thôi mà! Anh cả cười cười: Nói thế thôi... chứ ai bán.
Huân trở về Hà Nội với một tâm trạng rất vui. Lúc đi qua cổng cơ quan, Huân đứng lại ngắm nhìn hai cây sưa rất lâu. Gốc không có những vết sẹo u nần hầm hố khoe dấu tích thời gian như hàng xà cừ cổ thụ. Tán chẳng rậm dày để ra dáng thâm nghiêm như dãy sấu già. Thân không gân guốc như bằng lăng, cành không thướt tha yểu điệu như sữa, lá không xum xuê mùa hè trơ trụi mùa đông như bàng... Dáng sưa thanh mảnh, lá nhỏ quanh năm mềm mại xanh non, tán vươn thẳng lên đón khí trời thoáng đãng...
*
Một ngày gia đình Huân nhận được cái tin chấn động về thằng em út.
Thằng Hưng, mẹ Huân đẻ nó vào năm đói kém nhất. Huân còn nhớ như tạc vẻ mặt hốt hoảng của mẹ khi phát hiện mình mang thai ở tuổi bốn lăm. Những năm đó mẹ làm nghề hàng xáo, suốt ngày tất bật với xay giã giần sàng để sáng sớm mang hàng lên chợ Bụa. Có lẽ những gánh gạo oằn vai trong ban mai nặng nhọc đã khiến mẹ tụt vòng. Thằng Hưng ra đời sau đứa con thứ hai của anh cả hai năm. Đứa cháu gái dính một cơn sài đẹn li bì, toàn thân nó chỉ còn là một túi da nhăn nheo bọc túm xương lỏng lẻo. Nó yếu như trẻ sơ sinh, không thể ăn cơm cháo. Mỗi buổi sáng nó lẩy bẩy lần bậu cửa đến buồng bà. Cảnh "cháu bú bà" diễn ra trong nhà Huân giống một bức tranh ảm đạm nhưng đẫm đầy tình nghĩa. Huân dám chắc, nếu mẹ không đẻ thằng Hưng thì đứa cháu Huân cũng chết. Anh cả ban đầu đã có ý thẹn với xóm giềng vì việc "mẹ đẻ con đẻ", sau tỏ ra biết ơn bầu sữa san sẻ của bà.
Mặc dù ăn toàn khoai sắn nhưng thằng Hưng vẫn lớn ngoăn ngoẳn, thông minh và nghịch ngợm. Hai tuổi, còn cởi truồng nhưng đã biết cầm sào chỉ huy một bầy ngỗng trăm con đi đều tắp như duyệt binh trên mặt đê trong nắng gió đồng quê bát ngát. Bốn tuổi đã biết cầm vở đánh vần tập hát bằng cái giọng ngọng nghịu
tường sơn tông tường sơn tây, bên tắng tốt bên mưa tầu quay
...Nhưng rồi thằng Hưng cũng không thoát khỏi thân phận trai làng. Hai năm liền nó đăng kí thi vào hai trường nổi tiếng quân đội. Năm thứ nhất, Trường sĩ quan Lục quân I lấy 22.5 điểm, nó được 16. 5. Huân khuyên, chú nên tự lượng sức mình. Nó vặc lại: Tôi phải học cái trường mà khi ra sẽ làm sếp của anh cơ! Ái chà! Năm thứ hai nó thi Học viện Quân y. Được 17.5, trong khi điểm chuẩn là 26.
Chán đời, thằng Hưng theo bạn bè làm thợ hồ, vạ vật khắp các công trình Hà Nội. Thi thoảng nó kéo bạn phu hồ lôi thôi lếch thếch đến cơ quan Huân. Trong giọng nói của nó đã nhuốm hơi bụi đời chợ búa. Thế này là không ổn. Huân phải nghĩ cách. Huân về quê gặp thằng bạn học đang là xã đội trưởng. Thằng Hưng quá bất ngờ khi có giấy báo gọi nhập ngũ. Nó nhảy đến cơ quan Huân thở ra một hơi hằn học: Kịch bản của ông phải không? Huân thú nhận: Chú nên đi lính hai năm cho cứng cáp. Anh hứa sẽ xin cho chú vào một đơn vị nhàn nhã nhất. Nó gật gật đầu: Ông nhớ đấy! Huấn luyện xong ba tháng tân binh thằng Hưng đã gọi điện eo éo: Anh lên xin cho tôi đi học sĩ quan đi! Huân trả lời: Thì chú cứ cố gắng phấn đấu, khi nào có chỉ tiêu đơn vị sẽ xét thôi. Nó cười khẩy: Còn lâu nhé! Chỉ tiêu không đến lượt tôi đâu. Thôi, tôi chả cần học sĩ quan nữa. Ông lên xin cho tôi về văn phòng Bộ Tư lệnh cũng được!
Đến lúc ấy thì Huân đành thú thật. Huân không mong thằng Hưng trở thành lính cảnh. Thôi em ạ. Anh muốn trong thời gian tại ngũ em tranh thủ ôn luyện văn hoá, ra quân thi tiếp. Anh tin là em sẽ đỗ...Thằng Hưng cay cú gào lên: Ông lừa tôi! Ông lừa tôi!...
Ngày ra quân, thằng Hưng vác bộ mặt xưng xỉa đến cơ quan Huân buông một câu gọn lỏn: Tôi đi miền Nam!
Huân đớ ra hỏi vội: Chú đi miền Nam làm gì? Chú phải ở nhà thi đại học!
Nói câu ấy xong, Huân đinh ninh thằng Hưng sẽ nghe lời. Nhưng thật bất ngờ, nó hỏi vặn: Nhưng tôi đỗ thì ai nuôi tôi?
Anh sẽ nuôi em... Câu trả lời buột ra từ vô thức trong khi chính Huân chưa biết sẽ nuôi em bằng cách nào.
Thằng Hưng nhìn Huân ra chiều cảm động. Nhưng nó thở dài buông một câu cám cảnh: Anh lương mỏng con đông vợ không nghề nghiệp... Không nuôi nổi đâu. Tôi đã quyết. Anh đừng cản!
Nó rút vé tàu phất một phát vào mắt Huân như một nhát ba tiêu quạt bay mọi níu kéo. Huân uất ức quát to: Thế thì mày cút! Mày đã quyết định rồi thì còn hỏi ý kiến tao làm gì? Cút ngay!
Thằng Hưng không thèm nói thêm một câu, bỏ về. Huân ngồi một mình mặc cho nước mắt ứa ra. Miền Nam... Miền đất có những khu công nghiệp mới mọc đã hút mất một đứa em ba đứa cháu gái của Huân rồi, giờ sắp thêm thằng Hưng nữa... Tối ấy Huân tức tốc về quê. Thằng Hưng không có nhà. Nó đi chia tay bạn bè. Huân ngồi câm lặng trước mẹ. Một nỗi xấu hổ ê chề không nói nên lời. Ngày cha mất, bảy anh em Huân liêu xiêu gậy tre khăn trắng đưa cha ra đồng. Trời mưa lầy lội. Cỗ đòn tang nghiêng ngã trên vai đội đô tuỳ mấy lần suýt nhào xuống mương khiến anh cả và Huân phải ghé vai vào gánh đỡ. Chỉ có thằng Hưng lúc đó mới 15 tuổi lúc cúc chống gậy một mình. Mẹ nhìn thằng Hưng gào khản cả tiếng: Ới ông ơi, ông chết đi bỏ lại con ông còn thơ dại!... Huân đã động viên mẹ thôi đừng khóc nữa. Anh em con sẽ có trách nhiệm đùm bọc nhau. Vậy mà bây giờ...
Biết Huân khó xử, mẹ ngậm ngùi: Mẹ cũng biết con thương thằng Hưng. Nhưng anh em "kiến giả nhất phận", con cứ để nó đi.
Huân quay ra Hà Nội ngay đêm đấy mà không dám gặp thằng Hưng. Phần mặc cảm vì mình bất tài, phần giận thằng em ngang bướng, Huân đã không liên lạc với nó. Nhưng Huân vẫn theo sát tin tức. Nó xin vào làm bảo vệ ở một công ty may mặc, lương tháng 800 ngàn. Vậy là thằng Hưng đã an kiếp làm thuê, giã từ những hoài bão ngông cuồng tuổi trẻ. Nào ngờ nó điện về báo tin đã thi đỗ Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, khoa Kinh tế...
Bây giờ các anh chị tính thế nào? Mẹ Huân mở lời trong cuộc họp gia đình.
Em nó thi đỗ thì phải học thôi. Huân và anh cả đồng thanh nói.
Nhưng ai nuôi nó? Các anh các chị chỉ biết nói cái miệng thôi. Nó đi học những bốn năm, tính hết cả trăm triệu bạc. Ai cho nó bây giờ? Tôi thì già thế này rồi. Có ai mua thịt tôi tôi sẽ róc ra đem bán lấy tiền cho nó...
Mẹ Huân, hễ cứ nói đến chuyện thằng Hưng, "hòn máu sót" của bà là lại khóc. Nhìn nước mắt mẹ Huân rối cả ruột. Các chị em ngồi quanh cũng cúi mặt, không dám nói gì. Làm sao mà dám nói gì khi một đống con nheo nhóc của họ cũng đang thiếu đói?
Im lặng bao trùm.
Cuối cùng anh cả lên tiếng: Thôi, mẹ không phải lo. Nhà mình còn cái nóc nhà gỗ sưa đây...
Huân giật thót mình. Ôi cái nóc nhà! Cái nóc nhà mà mẹ đã cương quyết không cho bán vì nó là vật thiêng tổ tiên truyền lại. Anh cả gục gặc một hồi rồi bỗng đứng lên nói to: Bán nóc nhà để ăn thì sợ mang tiếng, chứ bán để học thì chắc các cụ cũng rộng lòng tha thứ. 55 triệu, được nửa tiền học cho thằng Hưng rồi. Tay Sang cứ trả giá "quạ" thế thôi, chứ cân lên giá sẽ gấp nhiều lần. Mẹ và các cô các chú không phải nghĩ ngợi nữa.
Lời anh cả quyết đoán và hợp lí khiến tất cả mọi người chỉ còn biết im lặng cúi đầu.
Dãy số điện thoại mà tay buôn gỗ viết lên tường đã được thằng cháu quét vôi trùm lên, may mà vẫn còn mờ mờ. Huân bấm số. Một giọng hồ hởi đáp lại: Tôi sẽ đến ngay!
Huân đứng bần thần nhìn ngôi nhà. Chỉ một lát nữa thôi, những hàng ngói bò sẽ bị cậy lên. Chiếc nóc nhà quện khói hương thờ tự bốn đời nhà Huân sẽ bị hạ xuống... Có một khoảng trống hoác tự trong lòng Huân... Huân bấm một cuộc gọi nữa cho thằng Hưng, giọng gần như khóc: Chú yên tâm... Sẽ có tiền gửi vào cho chú...
Hai chiếc xe máy ngầu ngã ào vào sân. Tay buôn gỗ bê chiếc cân bàn đặt uỵch xuống sân...
*
Thằng Hưng đã học gần xong năm cuối. Nó học giỏi, chưa ra trường nhưng đã có mấy nơi đánh tiếng xin nhận. Đó là chuyện thường bởi ngành học của nó đang có giá trong thời buổi này. Vào một ngày nghỉ, thằng Hưng điện thoại cho Huân: Tôi muốn thông báo với anh một việc, tôi đã có người yêu!
Huân hỏi gấp: Chú yêu ai? Quê quán ở đâu? Gia đình cô ấy thế nào?
Thằng Hưng khủng khỉnh: Tôi yêu con một sếp to của thành phố...
Chết rồi! Những sinh viên tỉnh lẻ thường vẫn có những toan tính qua những cuộc tình thực dụng hòng bám trụ nơi thành phố. Dòng họ nhà Huân xưa nay chưa bao giờ khá giả về tiền bạc, nhưng tài sản lớn nhất mà ông bà truyền lại cho con cháu là đức tính khí khái trước những quyến rũ tầm thường. Chả nhẽ thằng Hưng... Huân lập bập: Chú nên biết thân biết phận một chút. Mình gốc gác quê mùa, nhà nghèo, mẹ già, anh em đông. Chú phải tự lập về mọi mặt mới có thể phụng dưỡng mẹ già, giúp đỡ anh em...Chú phải yêu con nhà lao động mới mong họ thông cảm cho hoàn cảnh nhà mình. Nếu chú yêu người ta chỉ vì cái nhà cái đất của bố cô ấy cho giữa thành phố thì anh nói thật, chú sẽ lại dính thân phận chó chui gầm chạn, chắc anh không bao giờ dám đến thăm nhà chú.
Thằng Hưng gắt lên: Anh chưa gặp cô ấy làm sao anh biết được.
Tao còn lạ gì! Huân gào lên.
Huân vẫn có định kiến không mấy tốt đẹp về những cô gái con nhà VIP thế hệ 8x. Không ẻo lả cớm nắng thì cũng quậy phá đua đòi. Những trò hip hop, đua xe, thuốc lắc...của các cô chiêu cậu ấm nhan nhản hàng ngày trên báo khiến Huân cảm thấy rất lo.
Thằng Hưng hắt ra một hơi thất vọng: Tôi không muốn đối thoại với anh nữa. Tết này tôi sẽ đưa cô ấy về ra mắt. Tôi sẽ "khai hoá" cái nhận thức tù túng của anh!
Khẩu khí ngang tàng nhưng đầy tự tin của thằng Hưng khiến Huân suýt phì cười. Nhưng Huân vẫn giữ giọng nghiêm: Được, rồi xem...
*
Đây là cái Tết đông vui nhất của nhà Huân. Suốt từ mồng Một đến mồng Ba, ông bà, chú bác, anh em... trong họ nườm nượp mang lễ vật về cúng tổ. Bàn thờ đỏ rực câu đối, nến đèn; từng chồng bánh chưng bánh gai chất ngất trong nhang trầm lượn toả. Ngôi nhà cổ đầy ắp tiếng nói cười. Huân nhìn các em các cháu Huân, những con chim tha phương xác xơ về tổ đang đắm mình trong khí Tết quê nhà mà nghe lòng ấm cúng. Người yêu thằng Hưng là tâm điểm được chú ý.
Cô gái tên Hà. Sinh năm 88. Tóc ép nhuộm nâu. Nước da rám nắng, vóc người cân đối khoẻ mạnh. Khuôn mặt khá xinh. Giọng Sài Gòn rất ngọt. Nói năng tự nhiên nhưng lễ phép, rõ được uốn nắn kĩ lưỡng từ gia đình.
Bọn em định bao giờ cưới? Huân hỏi để bắt chuyện với Hà. Nhưng thằng Hưng buông một câu ngủng ngoẳng: Bao giờ cưới tôi báo.
Nói rồi nó bỏ xuống bếp.
Huân lừ mắt lườm yêu thằng Hưng, vuốt theo một câu cốt để nói với Hà: Nó ngang ngạnh thế mà em yêu được thì cũng lạ!
Hà nhìn theo thằng Hưng tỏ ý bênh vực: Tính ảnh thế mà, anh còn lạ chi. Em mến anh Hưng từ ngày mới nhập học. Lúc đó ảnh gày mà đen thui hà. Thấy thương. Nhưng em chỉ thực sự yêu ảnh khi biết chuyện về cái nóc nhà gỗ sưa thôi...
Huân nhướng mắt ngạc nhiên: Ơ, em cũng biết chuyện ấy à?
Em biết chớ! Hà cười cười. Lúc anh điện thoại với ảnh, em đứng cạnh đó mà...
Đúng là mọi chuyện đều có nhân duyên của nó.
Lúc tay buôn gỗ đặt cái cân xuống sân, Huân đã bỏ sang mấy nhà hàng xóm tránh không phải nhìn cảnh mái nhà bị lật tung lên. Nhưng rồi chuông điện thoại của Huân đổ dồn. Thằng Hưng nói gấp trong hơi thở đứt quãng: Anh nói ngay với anh cả hộ tôi, nếu bán cái nóc nhà là tôi bỏ học đấy! Huân phân vân: Nhưng...Thằng Hưng nói luôn: Nhưng nhiếc gì! Các anh khó xử, tôi hiểu. Tôi cho các anh một cơ hội giúp đỡ tôi để khỏi lăn tăn. Mỗi anh cho tôi mượn mấy triệu để tôi mua con Wave Tàu. Có xe, tôi sẽ đi làm ban đêm để lấy tiền ăn học. OK chưa?... Lúc đó Huân đã thầm reo lên trong lòng: Ôi thằng em út xa xôi!...
Em nghe anh Hưng kể nhiều dzề ngôi nhà này lắm! Kể
goài
làm em nghĩ mình được sinh ra nơi này dzậy!Nói xong câu ấy, Hà cười mắc cỡ, vội ngước đôi mắt to đen nhìn lên:
Con ở nhà lầu, đâu có biết cái nóc nhà là cái chi...
Một cụ cao tuổi trong họ nghe vậy bèn giơ tay chỉ: Thanh gỗ dài có hàng chữ nho ở gian giữa đó. Hai mươi mốt chữ, vế đầu là niên đại, vế sau là những chữ
Tử - Vi - Tinh - Chiếu - Trạch
, sao tốt rọi xuống nền đất nhà mình;Càn - Nguyên - Hanh - Lợi - Chinh
, nghĩa của câu này uyên thâm, đúc rút từ Kinh Dịch theo thuyết Âm dương ngũ hành, cụ đồ nhà ta mong ước từ ngôi nhà này, con cháu muôn đời an hoà, hanh thông, hạnh phúc.Hà không giấu được vẻ tò mò thích thú hỏi ngay: Thế còn những thanh nhỏ nhỏ gác dzô cái nóc kia là cái chi ạ?
Cụ già cất giọng cười vui, giảng giải: À, đó làrui
. Các cụ nói
Trăm rui chui vào một nóc.Cái nóc nhà quan trọng thế nên cụ nhà ta mới chọn gỗ sưa để làm...
Hà đang nghe chăm chú, bỗng reo lên: A, con nghe anh Hưng nóigoài
dzề gỗ sưa, con dzô mạng kiếm miết mà hổng ra. Con muốn biết cây sưa quá đi!
Cụ già nghe Hà những từ ngữ mới lạ, không hiểu đứa cháu dâu tương lai muốn nói gì, chỉ gật đầu cười nhẹ. Huân bắt đầu thấy mến vẻ hồn nhiên lí lắc của Hà, thầm trách những lo lắng của mình hơi thái quá...
Mồng 4 Tết, Huân đưa thằng Hưng và Hà ra ga tàu trở lại miền Nam. Huân bảo taxi chạy qua cơ quan để Hà nhìn thấy cây sưa. Và Huân đã ngạc nhiên bởi lần đầu tiên được chứng kiến một hình ảnh rất lạ. Hai cây sưa trổ bừng hoa trắng điểm những búp lá xanh tựa hai mâm xôi đỗ vun đầy giữa trời. Sương bay như mơ. Phố cổ với những mái ngói rêu phong vẫn vương không khí Tết. Ba anh em đứng dưới gốc sưa ngửa mặt nhìn lên. Hoa sưa thơm thanh tao trong thanh minh.
Giấc mơ hình trụ
Ba tôi lủi ngay khi đám rước làng Phù đang lên cơn, hình như người ta đang tính tổ chức múa hát vòng quanh hai cái đầu, đầu bà Mai và đầu con Ba Đốm, Đội trưởng làng Phù gọi là đêm liên hoan làng Phù quét sạch bọn phản động và lũ chó má.
Từ làng Phù băng qua cánh đồng rộng đi về làng Đống, từ
đó men theo các sườn đồi về làng Trung sẽ nhanh hơn và an toàn hơn. Lối này chắc chắn Đội trưởng và trung đội dân quân không tính đến. Ba tôi cởi áo xắn quần vào vai người đi thăm cá hố nhảy hoặc người canh vịt quây trên đồng, ông thủng thẳng đi men theo các bờ ruộng. Đêm đã khuya, ánh trăng cuối tháng xuyên qua sương mù dày đặc tạo thành thứ ánh sáng vàng đục vừa đủ để lần mò trong đêm, người ở cách chừng chục bước chân không nhìn thấy được, thật an toàn.
Lo sợ đã vơi bớt đi nhiều, bây giờ là đói và mệt. Có thể tìm tới một hố nhảy nào đó tìm cá nướng ăn, nhưng diêm đâu, vả làm thế khác nào lạy ông tôi ở bụi này. Có thể tìm đến một chòi canh vịt của ai đấy kiếm cái ăn, nói phét mình đi thăm cá hố nhảy chắc người ta cũng tin, nhưng sương mù bao la biết chòi canh vịt ở góc nào, sắp sáng đến nơi rồi, loanh quanh ở đây rất nguy hiểm. Đi thôi, ba tôi tặc lưỡi bước dấn lên, từ đây đến làng Đống còn ba cây nữa, ở đấy có bãi tha ma, ngày cuối năm người ta hay ra đấy cúng lễ, biết đâu tới đó lại kiếm được cái ăn. Những năm hoạt động bí mật ông vẫn kiếm ăn ở bãi tha ma, có khi làm hầm bí mật ở ngay đó, rất tiện lợi.
Bãi tha ma làng Đống là một trong những nơi ông hay lui tới kiếm ăn, ông có thể nhắm mắt đi một mạch mà không sợ lạc. Làng Đống ở chân những sườn đồi sim, phải đi qua làng mới tới bãi tha ma. Người lạ qua làng lúc nửa đêm về sáng rất nguy hiểm, ba tôi bấm bụng đi ngược lên phía đầu làng rồi vòng trở lại, nửa giờ sau ông lọt vào bãi tha ma.
Vừa đi vài chục bước ba tôi đã ngửi thấy mùi xôi rất gần, lần dò vài ba mộ gần đấy ông tìm đúng nắm xôi đặt trên lá chuối. Ông vui mừng ngồi sụp xuống ngấu nghiến ăn. Rền vang một tiếng thét đồng thanh, cả mấy trăm người núp rình quanh bãi tha ma nhất loạt cầm gậy gộc xông tới. Ba tôi sợ đến nỗi không thể đứng lên được, ông ngồi dúm dó chờ chết. Ba bốn người xông tới trước thi nhau vụt tới tấp, may thay họ vụt rất nhẹ, hò hét rất kinh nhưng hình như họ chỉ vụt chiếu lệ. Một người túm ngực cổ ba tôi lôi dậy, ba bốn cái đèn pin soi thẳng mặt. Người này buông ba tôi ra, nói không phải thằng này rồi đi thẳng. Ba tôi đoán chừng đó là Đội trưởng làng Đống, ông sướng run lên.
Rất đông người xúm lại quanh ba tôi, nói ông là ai, đi mô đây. Ba tôi làm bộ sợ hãi run rẫy, nói dạ tui là ăn mày, vô đây kiếm ăn…. Đám đông thả ba tôi ra ngay, họ gọi nhau bỏ đi, vừa đi vừa nói chuyện. Qua lời bàn tán của họ ba tôi biết họ đang tìm bắt một thằng phản động của làng Đống vừa bỏ trốn hồi hôm, ông hiểu ngay vì sao họ hò hét rất kinh nhưng chỉ vụt chiếu lệ, chắc nhiều người làng Đống nếu không từng mang ơn cũng yêu quí thằng phản động này.
Nắm xôi vẫn còn, may nó không bị văng ra trong khi ba tôi bị đánh đập. Ông không dám ngồi ăn nữa, cần phải trốn ngay, biết đâu Đội trưởng chẳng nghĩ lại và đặt câu hỏi nghi vấn. Khắp nơi bọn phản động chạy trốn, không thể không khả nghi. Năm 1945, năm đói rách nhất đã qua rồi, làm gì có ăn mày nửa đêm mò tới bãi tha ma kiếm ăn. Đương khi để sổng một tên phản động, Đội trưởng làng Đống rất muốn kiếm một tên phản động khác để thế chỗ, không giết đủ chỉ tiêu cũng là một trọng tội. Nghĩ tới đó ba tôi không dám vừa đi vừa bóc xôi ăn nữa, ông ù té chạy, cứ men theo các sườn đồi mà chạy thế nào cũng tới làng Trung.
Ba tôi đoán đúng. Khi ông vửa chạy được chừng một cây số, phía sau xuất hiện một rừng đuốc rùng rùng đuổi theo. Ba tôi cố sức bứt lên. Trăng đã lặn trời tối sầm, đường đồi lỡ lói chân không dép rất khó chạy. Rừng đuốc đang mỗi lúc một tiến lại gần. Chạy, lại chạy cứ chạy. Không thể chết, đã sống đến giờ này mà chết thì phí lắm. Chạy chạy chạy chạy….ba tôi bỗng rơi xuống hố sâu lút đầu, hình như cái giếng cạn thì phải. Tối om, quờ quạng bốn bờ thành giếng đất đá bazan phẳng lì, không tìm được chỗ bám để leo lên, ông loay hoay mãi không biết làm sao.
Khi ông phát hiện ra bờ tường bên kia người ta đục sâu làm sáu bậc có thể leo lên dễ dàng thì rừng đuốc kia đã chạy tới, hò hét ầm ĩ. Có tới bốn năm chục người lần lượt nhảy qua miệng hố không một ai phát hiện ra ông. Chợt có cái gì ném trúng đầu ba tôi, ông chụp lấy, đó là bọc khoai chín. Hình như ai đó ôm bọc khoai theo để giúp thằng phản động của họ nhưng không thấy, bèn ném bọc khoai cho ông, họ thừa biết ông trốn dưới hầm này. Lẫn trong tiếng hò hét ầm ĩ có người hét rất to, nói yên tâm, nếu hắn trốn đây sáng mai răng rồi mình cũng bắt được. Ba tôi hiểu ngay, ông vội leo lên hố ôm bọc khoai nắm xôi len lén tạt sang góc đồi tránh đám đuổi bắt kia và cứ hướng làng Trung cắm cổ chạy.
Làng Trung đã tới, đường rừng bí mật sắp tới nơi. Đám đông đuổi theo không còn nữa, ba tôi bí mật vượt qua làng Trung rồi tụt xuống khe nước nhỏ phía sau làng nghỉ ngơi chút đỉnh trước khi lội bộ hai chục cây số đường rừng về đỉnh Chóp Chài. Tới đây sự sống đã cầm chắc đến chín chục phần trăm, ba tôi bình tĩnh tìm tảng đá to làm chỗ nghỉ ngơi. Ngồi vốc nước uống và rửa ráy, ba tôi thử mở bọc khoai đếm xem có bao nhiêu củ, ông ngạc nhiên thấy có một cái bật lửa. Ba tôi cầm bật lửa lên nhìn chăm chăm, tự nhiên nước mắt hai hàng. Theo cách mạng hơn hai chục năm, lần đầu tiên ông hiểu thế nào là lòng dân.
Ba tôi ăn hết nắm xuôi, ăn luôn cả bọc khoai. Ông chống gối đứng lên, cố gắng chống lại cơn buồn ngủ bỗng dưng ập đến làm ông bỗng mềm nhũn rã rời. Trời sắp sáng rồi không ngủ ở đây được, muốn ngủ phải đi sâu vào rừng chục cây nữa, ngủ đây khác nào biếu không cho trung đội dân quân làng Trung. Ba tôi hít một hơi thật sâu ráng đứng dậy một lần nữa. Đã đứng lên được rồi bỗng có tiếng chim lợn kêu đánh choét, ông giật mình rơi phịch xuống, cứ thế lịm đi trong những chập chờn đen đỏ.
Những chập chờn đen đỏ phút chốc trùm lên ba tôi, đẩy ông lún sâu vào mê man không cách gì cưỡng lại. Ông trôi nổi trong chập chờn đen đỏ khi rực lên phấp phới khi lạnh ngắt hun hút, trong âm u những âm thanh khi dấy lên đồng loạt rào rào như tiếng vỗ tay khi nỉ non như những giọt nước rơi, trong làn gió nhẹ khi thoang thoảng hương lá sả khi ngậy mùi người, thứ mùi người của đám đông đầy mồ hôi và bùn đất.
Ba tôi chìm xuống trong cảm giác nhẹ tênh, một trạng thái rơi tự do nhẹ và hẫng, êm ái và bất an. Ở đâu đó bốn xung quanh, trong ánh sáng lờ mờ màu lá mạ lẫn với màu mực Cửu Long, thi thoảng lại vang lên những tiếng thở hắt ra. Những tiếng thở hắt ra nhẹ và êm, như một tiếng reo khẽ khàng của ai đó đang nơm nớp lo âu bỗng nhận được một tin vui. Ông tụt dần, tụt dần giữa những tiếng thở hắt ra như thế ngày càng nhiều hơn, dày đặc và dồn dập đến nỗi không còn nhận ra đó là những tiếng thở hắt ra, chúng cộng hưởng thành tiếng xì hơi của lốp xe, tiếng xì hơi của nhiều lốp xe. Khi ba tôi lơ lửng giữa khoảng không hình trụ sâu hun hút, khắp nơi vang lên tiếng xì hơi dữ dội của ngàn vạn lốp xe.
Ánh sáng vẫn lờ mờ, đùng đục nhưng màu mực Cửu Long đã biến mất chỉ còn màu lá mạ mỗi lúc một đặc sánh. Không rõ đây là nơi nào…
Khoảng năm trăm mét đầu tiên ba tôi không hề thấy gì, đúng hơn ông chỉ thấy vô số những mảnh vỡ bay dập dềnh quanh ông. Những mảnh vỡ của cái gì không biết. Không cần biết chúng là mảnh vỡ của cái gì, ba tôi khoan khoái dập dềnh cùng với chúng tụt dần xuống đáy một không gian hình trụ có bán kính chừng vài km. Đến chừng km đầu tiên, ba tôi chợt nhận ra không chỉ một mình ông trôi nổi giữa khoảng không hình trụ sâu hun hút, có rất nhiều người, không phải, rất nhiều mặt người, những cái mặt mỏng dính như những mặt nạ giấy bồi, thứ hàng mã vẫn bày bán ở cuối chợ Thị Trấn. Những mặt nạ sống đang dập dềnh quanh ông cùng với vô vàn những mảnh vỡ.
Gọi là mặt nạ sống bởi vì chúng không phải là những mặt nạ, chúng chính là mặt người đang sống, tựa hồ người ta vừa tách phần mặt ra khỏi đầu, giữ nguyên trạng thái sống của chúng, thả cho bay dập dềnh trong khoảng không hình trụ kì quái lần đầu ba tôi mới biết. Phía sau mỗi mặt nạ có đánh số, ghi tên người. Ba tôi biết chắc như vậy vì đột nhiên một mặt nạ bay chờm lên trước mặt ông, cảm tưởng nó sẽ úp sát mặt ông và mắc cứng ở đấy, nhưng không, nó chỉ dừng lại trong chốc lát rồi lật nghiêng, chao đi, lẫn vào muôn ngàn vạn mặt nạ khác. Ba tôi kịp thấy phía sau mặt nạ có đánh số 107 và ghi tên: Mohammed, cái tên Ả Rập nghe rất quen nhưng ông không nhớ đó là ai.
Lại cái mặt khác bay chờm lên trước mặt ông, nó được đánh số 20799, có tên Frăngxoa Rabơle. Tuyệt vời! Đấy là nhà văn Pháp ba tôi cực kì hâm mộ, tuy ông mới đọc được một cuốn trong bộ truyện
Gácgăng chuya và Păngtagruyen
, với vốn Pháp văn mới sạch nước cản, ông cũng nhận ra được giọng điệu trào tiếu đặc sắc của nhà văn này.
Hóa ra tất cả những cái mặt đang dập dềnh quanh ông đều là mặt của ai đó đã từng có ở trên đời, ở khắp hành tinh bỗng tụ về dập dềnh trong khoảng không hình trụ vĩ đại này. Mặt số 1175 là mặt của Trần Tử Ngang. Ôi cám cảnh gặp gỡ thế này sao Trần Bá Ngọc tiên sinh! Mặt số 669001 là mặt của thằng chó chếtFrancisco Franco, thủ lĩnh đảng “súng dài”, tên độc tài sống dai nhất trong lịch sử những tên độc tài. Thằng này còn sống sao thấy mặt nó ở đây nhỉ? Mặt số 7008 là mặt của người đẹp Đát Kỷ, cái mặt không biết cười nhưng dâm đãng và ngu xuẩn hết chỗ nói. Mặt số 559001 là mặt của Ađam Smith, chịu, chẳng biết ông này là ông nào.
Bỗng rào rào, hàng trăm cái mặt tăng tốc độ bay vun vút, tranh nhau đâm bổ xuống phía dưới đáy. Lẫn trong tiếng rào rào, vang lên tiếng kêu của ai đó, nói Trọng Ni! Trọng Ni! Thuyết chính danh của ngài ra sao rồi. Tiếng kêu của ai đó vang lên hai ba lần vẫn không có tiếng đáp lại. Mãi sau mới nghe tiếng đáp trễ nải ngay sát bên trái tai ba tôi, nói ta có biết đâu. Ngươi hỏi Mạnh Kha, Tuân Huống xem sao! Hóa ra cái mặt Khổng Tử ở sát ngay tai trái ba tôi không đầy một cen-ti-met. Ba tôi vội vàng quay mặt sang trái, cơ hội hiếm hoi để ông tỏ mặt con người suốt hai ngàn rưởi năm nay chẳng ai biết tròn hay méo. Nhưng ba tôi không quay sang được, dù đã cố gắng hết sức ông vẫn không sao lật được mặt của mình nghiêng sang trái.
Lúc này ba tôi mới phát hiện ra chính mình cũng chỉ còn trơ lại mỗi cái mặt, một cái mặt cũng đã bóc tách khỏi phần đầu, nằm lật ngửa trôi dập dềnh giữa muôn vàn cái mặt khác. Ba tôi không biết mặt mình được đánh số bao nhiêu và người ta có ghi đúng tên Phạm Vũ không, hay vẫn như dân Thị Trấn cứ một mực gọi ông là thầy Zú.
Thật ra lúc này ba tôi không quan tâm lắm điều đó, ông chỉ muốn lật nghiêng xem cho tường mặt Khổng Tử, bậc đại danh ông suốt đời ngưỡng mộ, lắm lúc ông còn chẳng tin người này lại có thực trên đời. Cơ hội hiếm hoi đang ở bên tai trái ba tôi không đầy một cen-ti-met, thế mà ông không cách nào lật nghiêng được cái mặt của mình. Ba tôi gồng hết sức, cố xoay nghiêng. Bật! Được rồi! A ha ha … Ba tôi cười vang, cố mở to mắt ra nhìn.
Quái lạ!
Trước mắt ba tôi là một cái mặt đàn bà đang khóc. Định thần lại một chút ba tôi nhận ra rành rành là mặt của mạ tôi. Sau mặt mạ tôi là mặt của các con ông, sáu cái mặt trẻ con cả thảy. Chẳng hiểu ra làm sao cả. Ở đâu ra những cái mặt thân quen thế này?
Ba tôi lật ngửa mặt mình, lần này ông thực hiện quá dễ dàng. Ngay lập tức ông còn nhận ra rõ ràng ông còn nguyên xi cả thân thể và mặt ông không hề được bóc tách ra khỏi đầu, không hề trôi dập dềnh trong khoảng không hình trụ như ông tưởng. Ông đang nằm trong nhà mình, xung quanh là vợ con ông, chỉ có vợ con ông, không ai khác. Tất cả đang nước mắt dầm dề.
À không, không phải là nhà ông, chính là cái chuồng bò Đội Trưởng đã thí cho sau khi lôi cổ ông đi cùng với biên bản tịch thu tài sản. Thế này là thế nào? Ba tôi nhớ mang máng hình như ông đang nằm trên tảng đá khe nhỏ cuối làng Trung, hình như ông đang cố vùng lên chạy dọc đường rừng bí mật hướng về đỉnh Chóp Chài trong cuộc tự phóng sinh gian khổ và nguy hiểm.
Đúng rồi! Ba tôi nhớ ra rồi, nhớ hết cả, ông còn biết đích xác mình vừa trải qua một giấc mơ, chỉ là một giấc mơ phù phiếm mà thôi. Dần dần ba tôi nhận ra xung quanh ông không chỉ có gia đình tôi, cả một đám đông chừng vài chục người, đa số là bà con hàng xóm đang đứng chật cứng trong cái chuồng bò mười bốn mét vuông. Họ nhìn ba tôi, những cái nhìn hồ hởi phấn khởi và đang chờ đợi ông thốt lên một lời, lời gì cũng được, miễn là được thốt lên từ cửa miệng ông.
Ba tôi lần lượt nhìn hết lượt những cái mặt hồn hậu kia, vẫn không hiểu ra làm sao cả. Có chuyện gì nghiêm trọng đến mức hết thảy hàng xóm lại vây đến quanh ông? Có trời mà biết được. Chợt ông chồm dậy, chực vùng té chạy. Nhưng ngay tức khắc ông biết làm thế chỉ tổ vô ích khi cái mặt Đội Trưởng đang rẽ những cái mặt hàng xóm tiến vào, chỉ cách mặt ông không đầy một mét. Phía sau Đội Trưởng, cái mặt chị Hiên đang lấp ló .
Đội Trưởng nhìn ba tôi ngượng ngập rụt rè, nói anh Vũ….
Mặt ba tôi tái mét. Ông ngước lên trân trố nhìn Đội Trưởng, nói tôi còn thiếu nợ Đội Trưởng cái điếu cày. Để tôi làm…
Mọi người cười ồ. Tiếng cười rộ lên rồi im bặt. Tất cả lại im lặng nhìn ông. Mặt Đội Trưởng đờ đẫn dài thuỗn ra. Mặt chị Hiên tái xanh dúm dó. Họ sợ, hình như thế.
Ông Kiểm Hát, công thần số một Thị Trấn, chống nạng rẽ đám đông đi vào. Ông dơ cái nạng chỉ vào mặt ba tôi, nói sửa sai rồi, đụ mạ.
Dứt lời ông chống gậy rẽ đám đông đi ra, không quên ném cái nhìn khinh bỉ vào mặt Đội Trưởng và cố tình thúc cái gậy vào háng chị Hiên. Kiểm Hát tiên sinh, gã say thời đại mới, đã hoàn thành nhiệm vụ mỗi ngày có một câu tỉnh táo, tự tiên sinh ra lệnh cho tiên sinh, trước khi chìm vào nhưng cơn say triền miên không đầu không cuối.
Ba tôi vẫn không hiểu, ông mở to mắt ngơ ngác nhìn mọi người, nói sửa sai là cái chi. Mọi người lại cười ồ. Mạ tôi chồm đến chụp lấy tay ba tôi nấc lên, nói hết chết rồi anh ơi, không ai giết anh nữa mô.
Mạ tôi òa khóc, nói ôi anh ơi anh ơi trời có mắt. Tiếng khóc vỡ òa vào im lặng nghe rờn rợn. Nghe rờn rợn tiếng thút thít của chị Hai, chị Ba tôi. Anh Sáu hai tuổi cũng khóc theo, anh đã nẩy sinh thứ tình cảm a dua ngay từ thủa thiếu thời. Anh Tư không khóc. Anh đứng riêng ra một góc, dựa cột nhà ngửa mặt lên trời, đôi mắt mở to đẫm nước. Anh Năm đứng nhăn răng cười không ra tiếng, nói ba ơi ba, ba có chết nữa không ba.
Ngươi đem về thông báo sửa sai, tức quyết định tha mạng cho ba tôi, là anh Cả. Anh đang đứng khoanh tay nhìn ba tôi, cố cắn răng không khóc. Chỉ có anh Cả là có bộ mặt nghiêm trang, bộ mặt của đội viên đội Cờ đỏ. Được Trần Ngô Đống tiên sinh ngày đêm huấn thị và được ngụp lặn bơi lội tha hồ trong muôn vàn lớp sóng muôn năm và đả đảo, mặt anh vốn là cái mặt không biết đùa đã biến thành mặt ông tuyên giáo từ lúc nào không biết.
Ba tôi ngước nhìn anh Cả chờ đợi ở đứa con cả, niềm tin cậy vô song của ông, nói cho ông nghe rốt cuộc đã xảy ra điều gì trong khoảng thời gian ông rơi vào khoảng không hình trụ. Anh Cả tôi quỳ xuống áp mặt lên ngực ba tôi, nấc lên một tiếng ba ơi. Anh khóc, lúc này anh mới khóc, tiếng khóc thầm da diết, cho biết anh yêu ba biết nhường nào.
Ba tôi vẫn nằm cứng đơ, hình như ông đang cố nghĩ xem mình đã tỉnh hay vẫn còn treo lơ lửng trong giấc mơ hình trụ. Một phút sau anh Cả ngẩng lên, nói ba ơi, tỉnh có lệnh đình chỉ. Ba không có tội gì hết. Ba tôi nằm lặng ngắt trong chín giây, đến giây thứ mười liền vùng dậy, hú lên một tiếng rất dài, nói Cách mạng muôn năm. Rồi ông vụt ra cửa cuống cuồng chạy vòng quanh chuồng bò hết vòng này đến vòng khác, tay vung miệng hét cách mạng muôn năm cách mạng muôn năm, hệt một kẻ lâm bệnh cuồng loạn.
Anh Năm, anh Sáu thích thú nhảy cả tẩng theo ba tôi, hả hê tham gia vào cuộc mừng tái sinh điên dại của ông. Cả xóm Cầu Phôốc vây kín chuồng bò, lặng lẽ đứng nhìn ba tôi cuống cuồng chạy và hô, chạy và hô, ai nấy nước mắt chứa chan.
Mãi khi bác Đông gái gạt nước mắt chen đám đông đi vào kêu to, kêu rất to, to đến nỗi lạc cả giọng, nói anh Vũ ơi anh muôn năm ai, chết hết rồi anh còn muôn năm ai… chẳng ngờ tiếng kêu như xé của bác Thông gái có tác dụng tức thì cắt đứt cơn cuồng loạn của ba tôi. Ông đổ sụp dưới chân mạ tôi khóc rưng rức, tiếng khóc nghẹn kéo dài cho đến lúc cả nhà tôi chìm trong giấc ngủ khuya khoắt, kết thúc một ngày vui đắng ngắt.
Con chó của bà mai
Không phải ba tôi tin ông có thể làm được cái điếu cày trong vòng mười lăm phút, cũng không phải ba tôi tin nếu làm được điếu cày trong vòng mười lăm phút thì ông sẽ được tha bổng. Tha sao được mà tha. Tính mạng của ba tôi gắn bó không rời với tính mạng Đội Trưởng, ông được sống tất Đội Trưởng phải chết, không chết cũng tàn đời.
Ấy là Đội trưởng nghĩ vậy, không đời nào Đội trưởng tin nếu được tha bổng thì ba tôi sẽ đội ơn Đội trưởng suốt đời. Đội trưởng đâu biết ba tôi là người không biết trả thù, không có khả năng trả thù. Ba tôi đủ phẩm hạnh đi theo nhà Phật chứ không đủ bản lĩnh đi theo cách mạng, nơi luôn luôn coi hạnh phúc là đấu tranh. Sai lầm là chỗ đó, khiến ba tôi suốt đời khốn nạn, chưa có lấy một ngày hạnh phúc là chỗ đó.
Nhưng ba tôi biết Đội trưởng nghĩ thế này: Lúc này đây ba tôi đã mất hết quần chúng, có nói gì cũng chẳng ai tin. Một khi ông đã được tha bổng trước sau ông cũng có quần chúng trong tay. Thứ quần chúng chỉ biết hỉ nộ ái ố theo chỉ thị lúc nào cũng có sẵn, ở đâu cũng có sẵn. Bất kì ai ở trường hợp như ông cũng thừa sức đưa Đội Trưởng vào vòng lao lý, đang khi tội hủ hóa là một tội tày đình.
Chuyện này không ai dạy Đội Trưởng cũng biết thừa, mấy chục năm được giáo dục về việc xác định kẻ thù tại sao Đội trưởng lại không biết. Không xác định được kẻ thù là không biết làm cách mạng không nên làm cách mạng, bài học đầu tiên từ ngày Đội trưởng cầm dao phay theo Thủ trưởng lên núi Chóp Chài. Ý thức xác định kẻ thù lâu ngày trở thành một kĩ năng sống giúp Đội trưởng trừ gian diệt ác thành công, thành công luôn cả việc hạ thủ những ai có nguy cơ gây hại cho mình.
Khi Đội trưởng đã xác định xong kẻ thù, tức xác định xong vấn đề có mày không tao, chỉ có trời may ra có thể cứu mạng ba tôi. Vì thế hơn một giờ sấp mặt giữa sân đình ba tôi chỉ có một ý nghĩ duy nhất: Trốn! Chỉ có cách bỏ chạy mới hòng thoát thân, dù tỉ lệ thoát thân chỉ chiếm một phần nghìn. Trốn có thể sống, không trốn chắc chắn chết, thế thì tại sao không trốn. Chạy đi đâu, chạy bằng cách nào? không biết. Nhưng phải bỏ chạy, biệt tích trong vòng một năm, hoặc hai năm hoặc lâu lâu hơn nữa, nhất định có ngày Đội Trưởng biến mất và ông sẽ được trở về với vợ con, với quê hương bản quán.
Chợt hiện ra trong ông con đường đến đỉnh Chóp Chài. Mười lăm năm trước ông đã lần mò đến đấy để gặp gỡ và đi theo những người cùng chí hướng. Nơi ấy bây giờ không còn ai, tất cả đã xuống núi. Ba tôi vẫn nhớ hang đá rộng chừng năm chục mét, gọi là hang treo, nơi hẹn hò bí mật của ông và bà Mai. Hang treo nằm giữa lưng chừng đỉnh Chóp Chài có năm lối thoát bí mật chỉ có ông và bà Mai mới biết. Có thể sống lâu dài ở đấy, có nơi để tắm rửa vệ sinh, có lối mò vào rừng kiếm ăn, có chỗ nấu nướng không có khói. Đặc biệt cái hầm bí mật dưới tảng đá lớn phẳng lì, chỉ cần trưởn qua khe hở hẹp là tụt xuống cái hầm rộng rinh rang, từ đó có lối nhỏ đi ra sông Đăk’ So chảy về đất Lào. Thật tuyệt vời, không nơi ẩn nấp nào tốt hơn .
Sau tiếng dạ reo vang giữa mưa to gió lớn của ba tôi, bốn sợi dây thừng được tháo tung. Không kịp nói lời chia tay với vợ con, ông chạy vụt đi, hướng bụi tre ngà cuối xóm Lù mà lao tới. Đó là nơi ba tôi hay tới để chọn ống điếu, ba tôi phải tỏ cho Đội trưởng biết ông đang chạy về đâu. Ông chạy nhanh đến nỗi Đội trưởng không kịp nghĩ phải cắt cử người đi theo. Trời đã giúp ba tôi gây nên cơn nghiện thuốc lào điên cuồng khiến Đội trưởng lú lấp mất cảnh giác.
Mất chín phút ba tôi tới được bụi tre ngà làng Lù, sáu phút vượt qua bãi phi lao cằn, sấp mặt chạy cật lực mất mười một phút mới tới làng Nổ. Lúc này Đội Trưởng bắt đầu khả nghi, cho người đi tìm. Ba tôi biết đích xác thời gian kể từ khi Đội Trưởng khả nghi sai người đi tìm, người đi tìm trở về báo không tìm thấy, lại sai người đi tìm một lần nữa, lại trở về báo không tìm thấý, Đội Trưởng quyết định huy động một ngàn hai trăm quần chúng càn quét khắp Thị Trấn. Khi biết chắc chắn ba tôi đã bỏ trốn, Đội Trưởng huy động khẩn cấp trung đội dân quân đuổi theo, nhanh lắm cũng phải mất một giờ. Khi đó ba tôi đã vượt qua bàu sen làng Ó chạy về rừng trâm bầu làng Pháp. Phải trốn ở đấy đợi đến tối mới lội qua cánh đồng trống làng Xá tìm đến làng Trung. Từ làng Trung về Chóp Chài chừng hơn hai chục cây số đường rừng, ba tôi có lối đi riêng người Thị trấn không ai biết, trừ ông Kiểm Hát. Đến đây sự sống của ba tôi có thể cầm chắc đến chín chục phần trăm.
Ba tôi chạy về làng Pháp trong khát vọng sống mỗi lúc một rực lên. Ông chạy thục mạng trên trảng cát có hằng hà sa số những bụi cây lúp xúp, vượt qua làng Nổ khá dễ dàng không một ai phát hiện, hay ít ra ông cũng có cảm tưởng không bị ai phát hiện. Cách rừng trâm bầu làng Pháp không đầy hai cây số, ba tôi dừng lại . Ông đứng trên một đụn cát cao, nhìn về phía sau. Không có ai đuổi theo. Gương mặt đầm đìa mồ hôi nhem nhuốc đất cát của ba tôi nở một nụ cười mãn nguyện và tắt ngay lập tức khi ông nhớ ra đây là thời điểm Đội trưởng huy động trung đội dân quân khẩn cấp đuổi theo ông, chắc chắn họ được lệnh đuổi theo tiêu diệt chứ không phải đuổi theo bắt sống.
Lại chạy. Ba tôi vừa chạy vừa cầu trời khấn phật sao cho không một ai trông thấy ông đang chạy về rừng trâm bầu làng Pháp. Bất cứ ai trông thấy một kẻ hớt hải chạy sấp ngửa trên trảng cát, vừa chạy vừa ngoái lại, đều biết kẻ đó đang chạy trốn. Khi cuộc cách mạng long trời lỡ đất bùng nổ, thắng lợi dễ thấy nhất là trộm cắp cướp giật đĩ điếm biến mất tiêu, sạch bách dưới bầu trời cách mạng. Vậy kẻ chạy trốn tất nhiên là bọn phản động lũ Việt gian, không ai khác. Người ta sẽ xông đến chụp cổ ngay lập tức, cơ hội vàng cho họ được báo công. Trong cuộc cách mạng long trời lỡ đất này, báo công là niềm vinh dự lớn lao cho những bần cố nông suốt đời chưa biết thế nào là vinh dự. Sẽ không một ai có thể trốn thoát một khi bị niềm vinh dự ấy tấn công, huống hồ là ba tôi một kẻ cùng đường.
Chỉ còn vài trăm mét nữa là đến bìa rừng trâm bầu làng Pháp, ba tôi cố rướn lên nhưng không thể. Một ngày bỏ ăn một đêm thức trắng, bây giờ phải chạy sáu cây số cát ba tôi đã hoàn toàn kiệt sức. Bước hụt xuống hố cát nhỏ, ông rơi sấp xuống lịm dần đi. Phút sau ba tôi hoảng hốt bừng tỉnh. Nhanh, thật nhanh, nếu không trung đội dân quân sẽ đuổi kịp. Ông chạy, lại bước hụt xuống hố cát nhỏ, lại rơi sấp xuống. Lần này ba tôi không thể đứng lên, gắng gượng mấy lần cũng không thể. Ba tôi bò, cúi gầm
mặtnghiến răng dấn lên từng mét một, kì thực ông không nhìn thấy gì, không biết mình bò được bao nhiêu cho đến khi rơi xuống hố cát rất lớn và bất ngờ chạm phải dòng nước mát lạnh.
Nước đã làm ba tôi hồi sức. Nằm tùm hum vục mặt xuống hố nước uống một hơi dài, thêm một hơi dài nữa ông tỉnh hẳn, mắt sáng dần ra. Rũ sạch đám sương mù trong đáy mắt, ba tôi giật mình thấy một cái bóng đen dưới hố nước, cho thấy ai đó đang ngồi trên miệng hố. Toàn thân ông co cứng, lạnh ngắt. Không dám ngước lên, ba tôi ngồi im chờ đợi một tiếng thét, lạ thay vẫn không có ai lên tiếng.
Ba tôi từ từ nhìn lên miệng hố. Con Ba Đốm, con chó đen to lớn của bà Mai, đang mở to mắt nhìn ông, cái nhìn ướt sũng nước. Ba tôi nhớ nó phần vì nó có ba đốm lông trắng phau ở lưng ở ức và ở trán, phần vì đôi mắt to lớn dị thường của nó với cái nhìn ướt sũng nước. Nó là chú lính gác tuyệt vời cho các trận tình của ông với bà Mai trên trảng cát, bên bờ sông, trong rừng trâm bầu… cả những trận tình bất chợt ở góc đường hẻm phố nhà kho, bất cứ nơi nào ba tôi cao hứng con Ba Đốm đều sẵn sàng làm chú lính gác trung thành và cẩn mật.
Tại sao con Ba Đốm lại tìm ba tôi, bà Mai ở đâu sao không thấy? Ngày thường nó luôn quấn quít bên bà, cả khi bà đi xia nó cũng không rời. Nó ngồi thè lè lưỡi nhìn bà đang ngồi chồm hổm sau bụi cây, bà đi xong là hồ hởi xông tới chén ngon lành, phần thưởng vua ban chắc cũng không ngon đến thế. Đôi khi ba tôi lởn vởn chút nghi ngờ quan hệ của bà Mai và con Ba Đốm, bởi vì nó to lớn và sexy trong khi bà Mai quá tuổi ba mươi vẫn không có chồng. Nhưng rồi ba tôi biết chắc không có gì bất thường, con chó vẫn là con chó, nó trung thành và ngưỡng mộ bà chủ, ngưỡng mộ luôn người đàn ông duy nhất trên bụng bà là ba tôi. Một lần đang ở trên bụng bà Mai, ba tôi bắt gặp cái nhìn ướt nước của nó. Tuyệt không khó chịu hay ghen ghét, đó là cái nhìn chứa chan hạnh phúc. Con Ba Đốm hạnh phúc khi thấy bà chủ của nó đang hạnh phúc, thật tuyệt vời. Thế giới hiếm có con chó nào như nó. Chẳng những thế, xong trận tình nó con tiến tới kính cẩn hồ hởi liếm chân ba tôi, ngôn ngữ biết ơn của con Ba Đốm.
Con Ba Đốm vẫn ngồi trên miệng hố nhìn ba tôi, đôi mắt ướt nước của nó như muốn nói một điều gì. Quá mệt mỏi và lo sợ, ba tôi không quan tâm vì sao nó tìm ông và bà chủ của nó đang ở đâu, nó muốn nói điều gì ông cũng không quan tâm, ông sợ nếu nó cứ bám theo thế này trước sau cũng bị lộ. Ba tôi bò lên miệng hố ra hiệu cho con Ba Đốm chạy đi. Nó ngồi trố mắt nhìn ông chừng như không hiểu. Ba tôi tay chỉ miệng quát, nói Ba Đốm đi đi, đi khỏi đây ngay. Đừng bám theo tau.
Và ba tôi lảo đảo bước đi, ngoảnh lại vẫn thấy nó ngồi nhìn theo chứ không chạy đuổi theo, mừng quá ông ù té chạy. Đến gần bìa rừng trâm bầu làng Pháp, chỉ cần chục bước nữa là chui được vào rừng bỗng có tiếng súng vang lên, ba tôi đứng khựng, mồ hôi lạnh tóa ra, toàn thân bủn rủn. Ông quị xuống và lịm đi trong khi bên tai ông vẫn vang vang lời thúc dục: Chạy đi, chạy nhanh lên, Đội trưởng sắp đến rồi!
Chập chờn trong gíấc mơ mệt nhọc của ba tôi, dưới hố nước ông vừa rơi xuống, người đàn bà đẹp nhất chiến khu Chóp Chài đang khoả thân bơi vòng quanh, thỉnh thoảng vẫy tay gọi ông, không nói gì hết chỉ vẫy tay, bộ ngực tròn căng nhô khỏi mặt nước như mời gọi. Bốn chục mối tình nửa nắng của ba tôi người tình nào cũng đẹp, bà Mai là người tình đẹp nhất, cũng là người yêu ông nhất. Nhưng ba tôi không yêu bà, không một mảy may, ông chỉ thích vậy thôi. Khi bà ở trong vòng tay, mùi đàn bà sực nức bốc lên, ba tôi điên cuồng vùi dập bà hết trận này đến trận khác. Xong rồi thôi, ít khi ông quan tâm đến bà, nhớ nhung chỉ có trên đầu lưỡi, yêu thương da diết lại càng không.
Bà Mai biết ba tôi đã có vợ, đêm đầu tiên khi ngủ với ông trong hang đá treo lưng chừng đỉnh Chóp Chài năm 1947, bà đã nghe ông kể về vợ ông và bốn đứa con hai trai hai gái. Nói chung ba tôi không giấu diếm chuyện vợ con với bốn chục người tình nửa nắng, ông chơi bài ngửa và không hứa hẹn với ai một điều gì. Đối với ông tình là thương nhau và sexy và chấm hết. Ai ra giá với ông về tương lai, người đó trước sau cũng bị loại khỏi cuộc chơi. Một lần bà Mai ôm ông thì thầm, nói em làm vợ hai anh có được không. Ba tôi hôn nhẹ bà, nói em phải có chồng, phải có chồng Mai nha.
Lời khuyên cũng lời kết thúc, kể từ đó ba tôi chấm dứt luôn những hẹn hò. Ông tắc lưỡi cho qua, phớt lờ những lời bà nhắn gửi vu vơ với ai đó, những lá thư bà viết đầy lỗi chính tả, cả những lần bà bất ngờ đứng chắn ông ngang đường, ném cái nhìn hờn dỗi rồi quay ngoắt đi, đôi bờ vai rung lên sau mỗi lần nấc nghẹn. Không là không, trong tình trường chữ không của ba tôi được đổ bê tông, jamais et jamais, kinh!
Từ khi rời Chóp Chài theo các tiểu đoàn chủ lực về xuôi nhổ đồn bốt Tây, hai người thất lạc nhau chừng dăm năm. Ba tôi không biết bà Mai đi đâu, cũng không mấy quan tâm bà đi đâu. Nghe nói bà đã được điều lên làm bác sĩ riêng của Thủ trưởng, dù bà chỉ là một y tá. Người đẹp chiến khu được Thủ trưởng trưng dụng cũng là lẽ thường tình, nếu là ba tôi tất nhiên ông cũng trưng dụng. Ba tôi không xót, ông còn mừng cho bà, được Thủ trưởng rủ lòng thương còn gì bằng. Năm 1950 ba tôi theo tiểu đoàn chủ lực về nhổ ba đồn tây, giải phóng Thị trấn Linh Giang, gặp lại bà Mai trong đội cứu thương, ông đã mừng cho bà được Thủ trưởng rủ lòng thương. Ngay lập tức ba tôi đã bị bà cho một cái tát. Bà ôm mặt khóc rú lên, nói con Mai này đi làm cách mạng chứ không phải đi bán bướm.
Ba tôi ôm lấy bà cười chữa thẹn, nói anh đùa đấy mà. Bà ôm lấy ông nức nở thì thầm, nói chỉ cần anh yêu em, ngoài ra em không đòi hỏi gì hết, không bao giờ em đòi hỏi, em thề. Nguyên tắc jamais et jamais đã bị phá bỏ, ba tôi tiếp rục ngủ với bà, chả phải yêu đương gì, đơn giản ông chỉ ngủ với bà thôi.
Bà Mai không nghĩ thế, bà không hình dung được người ta không yêu nhau lại có thể ngủ với nhau. Nhiều lần Thủ trưởng đã quì mọp dưới chân bà xin bà cởi dây rút, không là không, chữ không của bà cũng được đổ bê tông, bà bỏ đơn vị về làng Phù để bảo toàn cái chữ không ấy và để được gần gũi ba tôi hơn, từ làng Phù về Thị trấn Linh Giang chưa đầy chục cây số. Ba tôi không biết chuyện này, ông tưởng bà cũng được giải ngũ về địa phương giống như ông. Nếu biết, ông đã khuyên bà quay lại đơn vị ngay lập tức, không thể nghĩ đơn giản mình tự nguyện theo cách mạng, không muốn theo nữa thì về, cách mạng không phải trò chơi của con nít.
Vì không biết chuyện này, ba tôi không hiểu sao nhiều lần rên xiết trong vòng tay ông, được ông làm cho sướng điên lên, bà lại ôm ông rỉ rả khóc. Đã có giao hẹn với ba tôi rồi, bà không dám kể cho ông nghe nhiều lần Thủ trưởng cho người về làng Phù thông báo cho bà hay, bà phải quay lại đơn vị ngay, nếu không thì… Ba chữ
nếu không thì đã làm bà mất ngủ nhiều đêm. Tất nhiên bà không sợ việc phải quay lại đơn vị, thậm chí bà rất muốn, nhưng bà biết nếu quay lại đơn vị trước sau gì bà cũng bị điều lên làm bác sĩ riêng cho Thủ trưởng.Trước khi ba tôi bị bắt ba ngày, ông có gặp bà Mai ở đình chợ. Bà luôn luôn về Thị trấn đi chợ phiên, chả phải mua bán gì, chỉ để gặp ba tôi. Bà hớt hãi kéo ông ra góc khuất sau đình chợ ôm chặt lấy ông, nói em phải làm vợ hai Thủ trưởng, nếu không thì… Dứt lời bà bỏ chạy, bà sợ ba tôi mắng cho, rằng đó là việc riêng của em tại sao lại hỏi anh, rằng lời hứa của em để đâu rồi, tại sao lại cứ cố ra giá với anh như thế. Bà chạy nhanh quá ba tôi không kịp mắng, cũng không kịp nghĩ ba chữ
Nếu không thìnghĩa là gì.
Giờ đây trong giấc mơ mệt mỏi của ba tôi, dưới hố nước bà Mai đang khỏa thân bơi lội, con Ba Đốm đang ngồi canh trên miệng hố, cặp mắt ướt nước của nó đang nhìn ông, cái nhìn làm ông sực nhớ ba chữ
Nếu không thì.
Bỗng con Ba Đốm chồm tới trước mặt ông sủa vang vang, tiếng sủa giận dữ và khinh bỉ. Ba tôi bừng tỉnh, ông đã nằm mép rừng trâm bầu từ lúc nào. Ba tôi nhớ trước khi lịm đi ông còn cách mép rừng chừng chục bước, có ai đó đã kéo ông vào dưới tán cây trâm bầu to lớn này, ai vậy ta?Nắng đã tắt từ lúc nào. Một ngày đã trôi qua ba tôi hảy còn sống, Đội trưởng vẫn chưa tóm được ông, niềm vui làm ba tôi khỏe hẳn, ông ngồi dậy ngó xung quanh, cố tìm hiểu xem ai đã kéo mình vào đây. Vừa lúc con Ba Đốm xuất hiện, miệng nó ngậm chùm khoai sống, chắc nó vừa bới được ở đâu đó. Ba tôi hiểu ra con Ba Đốm tới đây để cứu ông, ôi con chó tuyệt vời, chính nó đã ngoạm cổ áo ông lôi ông vào mép rừng và đi bới khoai sống cho ông ăn.
Ba tôi nhai khoai sống rau ráu, vừa ăn vừa vuốt ve con Ba Đốm, ngôn ngữ biết ơn của ba tôi. Có lẽ bà Mai đã biết chuyện của ông liền cử nó đi cứu ông chăng? Thế thì tại sao không chaỵ về nhà bà Mai nghỉ lại đó một đêm trước khi tìm về đỉnh Chóp Chai. Phải rồi, phải tới đó lấy ít lương thực dự trữ và báo cho bà Mai biết ông sẽ trốn ở đâu để bà tiếp tế lương thực cho ông, nếu không lấy gì để mà sống. Hình như con chó đoán được ý nghĩ của ba tôi, nó nhảy lên sung sướng sủa to mấy tiếng.
Trời tối, ba tôi đi theo con Ba Đốm vượt qua rừng trâm bầu làng Pháp về rừng trâm bầu làng Đông, lọ mọ chui qua xóm Bàu, nhanh chóng lọt vào rặng tre đầu làng Phù. Thế là xong. Nhà bà Mai ở đầu xóm, ba tôi biết có lối bí mật chui vào nhà bà để không ai nhìn thấy, ông đã nhiều lần đi theo lối này rồi.
Con Ba Đốm không chịu vào nhà, nó đứng đầu ngõ cố tình cản ba tôi, không cho ông vào. Nhà Bà Mai tối đen, cửa sổ cửa chính đều khép kín. Có chuyện gì chăng? Con Ba Đốm ngoạm ống quần ba tôi khẽ kéo, hình như nó muốn nói đừng vào nhà nguy hiểm, hãy đi theo nó. Ba tôi lom khom chạy theo nó, chạy được một lúc thì nghe tiếng trống, chạy thêm một lúc nữa nghe tiếng hô muôn năm và đả đảo. Thôi chết rồi, có khi bà Mai cũng bị bắt như ba tôi, hiện đang bị xử trảm như ông. Con Ba Đốm tìm ông là vì thế.
Ba tôi quyết định theo con Ba Đốm tới đình làng Phù, mọi cuộc xử trảm dân các làng vẫn hay tới xem, không sợ bị lộ. Đang khi Đội trưởng đang đuổi bắt, chính đó là nơi Đội trưởng không ngờ tới.
Quả nhiên đúng.
Cả một rừng đuốc sáng rực một góc làng, bà Mai đang bị cột chặt giữa sân đình. Chỉ cần nghe dân làng Phù rạo rực hô muôn năm và đả đảo, dăm ba tiếng xì xào bàn tán, ba tôi biết ngay tội của bà Mai. Chẳng những bà là tên đào ngũ mà còn là kẻ đã đỡ đẻ cho vợ một tên Việt gian bán nước và để cho tên này trốn thoát trong đêm. Ba tôi rùng mình hiểu ra tội này có liên quan đến ba chữ
Nếu không thì.Ba tôi lẫn trong đám đông. Con Ba Đốm không chịu, nó cứ ngoạm ống quần cố lôi ông ra ngoài, đôi mắt ướt nước của nó nhìn ông như cầu cứu như van xin. Sợ con Ba Đốm làm dân làng Phù biết ông có liên quan đến bà Mai, ba tôi bèn hất mõm nó và trốn biệt vào đám đông ở cuối sân đình. Con Ba Đốm tìm ông không ra, nó chồm lên sủa vang vang, y chang tiếng sủa ba tôi nghe được trong giấc mơ, tiếng sủa tức giận và khinh bỉ. Mọi người ồ lên. Đội trưởng làng Phù chỉ mặt bà Mai, nói nghe chưa Mai, chó mi cũng căm thù mi đó.
Ở đây người ta xử trảm bằng chém cổ. Đội trưởng làng Phù thích xử trảm bọn phản động bằng dao cùn chém cổ. Cứ một nhát chém là một lần hô đả đảo và muôn năm, hô đến rát họng cổ bà Mai vẫn chưa lìa. Cái cổ ba ngấn tuyệt vời kia chẳng ngờ lại dẻo và dai đến kì lạ. Phải mất non nửa giờ mới có thể làm đứt nó, thậm chí khi đầu bà đã gục hẳn xuống, phế quản đã phơi ra một cái lỗ đen ngòm, máu tươi phun ngược lên trời, xối khắp cơ thể bà, chỉ còn một tí da dính phía dưới ức, người ta chém thêm vài chục nhát nữa cái đầu vẫn bám chặt không chịu rơi.
Đội trưởng làng Phù phải nhảy ra cầm lấy hai tai bà vừa vặn vừa giật đến toát mồ hôi mới nhổ được cái đầu ra khỏi cổ. Cái cổ cao ba ngấn chỉ còn một dúm thịt đỏ lòm, xám ngoét. Đội trưởng làng Phù ném cái đầu xuống đống rơm bò ăn, nói bà con thấy chưa, vì răng cách mạng gọi bọn phản động là bọn đầu bò đầu bướu. Tiếng hô muôn năm và đả đảo vang rền, Đội trưởng làng Phù cười ha hả.
Bỗng đâu con Ba Đốm lao ra, nhảy lên ngoạm cổ Đội trưởng làng Phù. Hơn chục dân quân cầm dao phay xông tới, trong phút chốc con Ba Đốm bị chém làm đôi, lại bị chém làm tư , cái đầu nó đứt lìa. Đội trưởng làng Phù cầm cái đầu chó lên, nói à ha, tau tưởng mi căm thù con gián điệp, té ra chủ nào chó nấy. Dứt lời Đội trưởng làng Phù ném cái đầu chó ra xa, thật lạ nó rơi đúng dưới chân ba tôi, dân làng phù đang mải rạo rực hô muôn năm và đả đảo không ai biết.
Vào khi dân làng Phù đang rạo rực hô muôn năm và đả đảo, ba tôi cúi nhìn cái đầu con Ba Đốm. Đôi mắt nó mở trừng trừng. Con Ba Đốm đang trừng trừng nhìn ông, con chó đang
nhìn ông, cái nhìn khô khốc, giận dữ và khinh bỉ.Cơn giông
Trống làng đã điểm, một ngàn hai trăm quần chúng đã sẵn sàng. Sân đình rợp cờ xí. Chị Hiên mặc bộ đồ màu nồng cốt hiên ngang dẫn trung đội dân quân hàng một đi ra. Đội hành hình mười hai tay súng sắp hàng ngang, dập chân thật đều tỏa ra hai bên làm hàng rào danh dự , mặt mày ai nấy đằng đằng sát khí.
Cả nhà tôi bị điệu ra giữa sân đình. Chị Hiên bắt đầu vung tay hướng dẫn một ngàn hai trăm quần chúng rạo rực hô muôn năm và đả đảo. Khi Đội trưởng xách điếu cày thủng thẳng đi ra bàn danh dự, tiếng hô muôn năm và đả đảo bỗng đột khởi vang rền. Chị Hiên xoạc chân hướng về nhà tôi tay chỉ miệng thét, nói quân phản động, quì xuống!
Cả nhà tôi nhất loạt quì mọp, riêng anh Tư thì không. Anh đứng trơ như thằng câm điếc. Chị Hiên nhảy xổ tới mắt trợn miệng hét, nói thằng ni quì xuống không, nhất định anh Tư không làm theo. Hai tay chắp sau đít, đầu ngẩng ngực ưỡn y hệt tư thế đón nhận cái chết trên sân khấu hằng đêm của ông cu Trí, anh bỏ ngoài tai mọi yêu cầu lúc nhẹ nhàng lúc gắt gỏng của mọi người. Mạ tôi run rẩy ngước lên, khẽ kéo tay. Anh hất tay mạ tôi. Mạ tôi nấc lên, nói mạ lạy con, con ơi. Anh không hề xao động, mặt ngoảnh về Đội Trưởng và chị Hiên đầy vẻ thách thức. Chỉ khi ba tôi ngoảnh lại nhìn anh, cái nhìn van xin tha thiết, anh mới chịu ngồi xuống, ngồi xuống thôi chứ chẳng quì.
Đây là thời điểm nghiêm trọng. Một ngàn hai trăm quần chúng đã sẵn sàng nín thinh nghe Đội Trưởng tuyên án, tức ba giai đoạn hút thuốc lào của Đội Trưởng sắp bắt đầu. Ba tôi cúi gầm mặt, không một lần ngước lên. Không suy sụp đến độ mất hết hồn vía như mạ tôi, ba tôi thừa khả năng ngước lên, thể hiện chút khí phách trước khi gục chết, để lại chút đỉnh tiếng thơm cho con cháu, nhưng ông đã không ngước lên.
Ông cúi gầm mặt nghĩ về sự sống. Vẫn không tin mình có thể chết đơn giản dễ dàng như vậy được, ông chờ đợi một phần mười giây cơ hội để cướp lấy và hy vọng tràn trề trước sau gì nó cũng đến. Chỉ có ba tôi hy vọng như vậy còn tất cả thì không.
Tay cầm điếu cày thứ năm chín, Đội Trưởng thủng thẳng đi tới đứng dạng chân trước mặt ba tôi. Rõ ràng Đội Trưởng muốn tỏ cho mọi người biết Đội Trưởng đã ý thức một cách sâu sắc, rằng kẻ đang quì trước mặt mình là tên gián điệp Quốc dân đảng, rằng hắn phải chết, chính Đội Trưởng sẽ tuyên án tử hình. Cũng có nghĩa là từ đây Đội Trưởng buộc phải chấm dứt tuyên án tử hình bằng cách đập vỡ điếu cày – sáng kiến có một không ai trên khắp thế gian, điều mà Đội Trưởng luôn lấy làm đắc ý. Thật đáng tiếc nhưng biết làm thế nào.
Đội Trưởng dùng điếu cày nẩy cằm hất mặt ba tôi lên. Họ nhìn nhau, những cái nhìn tối nghĩa. Đội Trưởng khẽ nhếch mép cười, cái cười càng tối nghĩa hơn. Phút sau Đội trưởng lẳng lặng quay lưng, đủng đỉnh đi về cái bàn danh dự. Đội Trưởng vừa ngồi xuống ghế, chị Hiên liền vung tay, một ngàn hai trăm quân chúng liền hô rập ràng ba khẩu hiệu: Đả đảo tên tiểu tư sản phản động Phạm Vũ! Đả đảo tên Việt gian phản động Phạm Vũ! Đã đảo tên gián điệp Quốc Dân Đảng Phạm Vũ!…Tiếng hô vang rền thể hiện nguyện vọng và quyết tâm ngút trời của quân chúng, ba tội trời không dung đất không tha cũng do quần chúng vạch mặt, không ai cố tình đổ tội cho Phạm Vũ, không một ai. Thế là xong. Đội trưởng chỉ việc ngồi rung đùi thực hiện nguyện vọng và quyết tâm ngút trời của quần chúng.
Một ngàn hai trăm quần chúng đang hô muôn năm và đả đảo rạo rực một góc trời. Ba tôi từ từ ngước lên nhìn chị Hiên. Chị đang đóng vai trò của ba tôi, hướng dẫn một ngàn hai trăm quần chúng hô muôn năm và đá đảo. Từ vai trò buôn cám lợn đến vai trò cán bộ đầu tàu vào thời buổi lọan xì ngầu thật dễ dàng như trở bàn tay. Hơn ai hết ba tôi coi đó là một lẽ thường tình, cũng như tôi sau này vẫn liên miên gặp những chuyện tương tự đã hồn nhiên coi đó là lẽ thường tình.
Ba tôi gục đầu trước cái bướm không lông, nơm nớp chờ đợi giai đoạn thông nõ của Đội Trưởng. Đội Trưởng ngồi sau chiếc điếu cày thứ năm chín lừ lừ nhìn ba tôi như nhìn một con chó đói ghê tởm, cho biết Đội Trưởng căm thù bọn phản động biết nhường nào, trong khi trong đầu Đội Trưởng chỉ đọng lại duy nhất ý nghĩ về cái điếu cày.
Đôi Trưởng đang tính toán xem nếu đập nốt cái điếu cày độc nhất vô nhị ở xứ này thì liệu có tìm được một cốt cán nào làm điếu cày cho Đội Trưởng nữa không? Nếu không thì phát minh oai hùng của Đội Trưởng về tuyên bố tử hình bọn phản động bằng việc đập vỡ điếu cày, sau ba năm đã nổi tiếng khắp toàn tỉnh, phút chốc sẽ tan thành mây khói.
Đã có lúc Đội Trưởng chợt nghĩ hay là tha cho nó, hay để cho nó sống thêm chục ngày nữa, bắt nó làm thêm vài chục cái điếu cày dự phòng rồi giết thì có sao đâu nhỉ. Quyền lực trong tay Đội Trưởng, Đội Trưởng muốn gì mà chẳng được. Viện ra một lý do để giải thích cho một ngàn hai trăm quần chúng lúc nào cũng háo hức kết thành một khối tuyệt đối trung thành, tuyệt đối tin tưởng thật quá dễ dàng.
Phút cuối cùng, Đội Trưởng không thay đổi, ông quyết định đập vỡ chiếc điếu cày thứ năm chín cũng là chấm dứt luôn sinh mạng tên phản động thối tha Phạm Vũ, hắn còn sống sót ngày nào tất sẽ nguy hiểm cho Đội Trưởng ngày đó. Chuyện này chỉ có ba tôi, chị Hiên và Đội Trưởng biết. Ba mươi mốt năm sau có thêm tôi biết nữa là bốn, ngoài ra không có ai biết hết, kể cả mạ tôi.
Thực ra có người thứ năm biết chuyện này, biết khi nó đang xảy ra chứ không đợi đến ba mươi mốt năm sau mới được biết như tôi, đó là anh Tư. Đơn giản là anh đã nằm sau vách chị Hiên kiên trì xem chị hành lạc với Đội Trưởng hết đêm này sang đêm khác, mặc cho kiến lửa bu bám đầy mình, đốt cho toàn thân anh mưng đỏ.
Thời buổi loạn đã dạy một đứa bé chín tuổi ý thức được tầm mức nguy hiểm cái việc con chim xỏ vào cái bướm như thế nào. Dưới mắt anh tôi, chị Hiên chẳng qua là một con lợn trần truồng, bất kể chị mặc bộ nâu sòng sặc mùi cám lợn hay mặc bộ đồ màu nồng cốt sặc mùi thuốc lào.
Vì thế nên khi chị Hiên thét lớn bắt cả nhà quì xuống nghe Đội Trưởng tuyên án, ai nấy lẹ làng quì sụp, chỉ mình anh Tư bất tuân, anh vụt đứng dậy nhơn nhơn nhìn xói vào háng chị Hiên. Thốt nhiên mặt chị Hiên đỏ rực, hằm hằm nhìn anh Tư, nói thằng mất dạy. Cái mặt anh Tư vẫn nhơn nhơn. Chị Hiên chạy đến đè dí cổ anh Tư xuống. Anh không chịu, vùng đứng bật lên, dơ cái mặt nhơn nhơn nhìn như dán vào háng chị, nơi che giấu cái bướm không lông nhiều lần anh thấy rành rành cả mặt ba tôi lẫn mặt Đội Trưởng úp vào đấy. Một cái tát hắt ngang, anh Tư ngã lăn ra. Chị Hiên chỉ mặt anh Tư thét đến lạc giọng, nói trói thằng ni lại.
Một ngàn hai trăm quần chúng im phăng phắc. Không thấy ai xông vào bắt trói anh. Tất cả đứng ngây như phỗng. Chị Hiên lại vung tay thét lớn, nói bắt lấy thằng liên lạc Quốc dân đảng. Chính thằng ni làm liên lạc cho ba nó. Vẫn không thấy ai xông ra bắt anh Tư, một ngàn hai trăm quần chúng không ai nhúc nhích.
Một cái án tử hình ngẫu hứng thời này không phải là hiếm, một ngàn hai trăm quần chúng sẵn sàng chấp nhận mọi ngẫu hứng của Đội Trưởng và chị Hiên nhưng chẳng ai đành lòng thấy một đứa bé chín tuổi không dưng lãnh lấy cái chết. Chị Hiên thét lên lần thứ ba vẫn không ai nhúc nhích. Mười hai tay súng đội hành hình vẫn bồng súng nghiêm trang sau lưng Đội Trưởng, không ai chịu rời vị trí.
Chị đứng ngẩn ngơ một phút hai mươi sáu giây.
Ngày thường anh Tư vẫn sang nhà chị chơi, vui vẻ làm chân sai vặt cho chị. Anh còn biếu chị khi thì con cá khi thì mớ tôm. Bù lại, chị Hiên cho anh lặn một hơi chui đầu vào háng mỗi lần chị xuống hói tắm tiên. Chị ép nhẹ cặp đùi non vào tai anh, anh dúi đầu ngược lên tận bẹn chị, tay chân đập nước loạn xạ. Hai chị em cười sặc nước, cười rung đêm, ngờm ngợp một điều gì không nói được.
Bây giờ bỗng nhiên anh Tư trở chứng, hiện nguyên hình một thằng khùng, thằng mất dạy. Chị bẽ bàng len lén nhìn mọi người, lúng túng quay mặt nhìn Đội Trưởng. Đội Trưởng cũng không biết ứng xử thế nào cho ra dáng một ông đội trưởng. Khéo không mất mặt với đứa con nít.
Đội Trưởng thở dài quyết định chấm dứt trò trẻ ranh. Vào lúc Đội Trưởng chực nói thôi, tha cho nó thì anh Tư bỗng nhảy ra, tuột quần, chĩa chim trước mặt Đội Trưởng và chị Hiên, nói bắt cái con cặc tau đây nì. Đội Trưởng giật mình, mặt đỏ rực, điên tiết đập cái điếu cày vỡ tan, nói láo, bắn thằng ni trước.
- Khô-ông!
Mạ tôi thét lên một tiếng rợn người, vụt dậy lao đến ôm chặt lấy anh Tư. Tiếng thét to đến mức không còn ai biết đó là tiếng thét, ấy là tiếng lồng ngực vỡ tan, đột khởi dội vang lan truyền tám hướng. Kì lạ thay tiếp liền theo đó là một tiếng sấm vang rền như một phát đại bác. Một ánh chớp xanh lét cắt chéo sân đình, xé rách cả một khối người đen đặc, đâm bổ tới cái bàn Đội Trưởng.
Một trận gió cuốn cuốn cờ hùn hụt tới, xoáy tít giữa một ngàn hai trăm quần chúng, như bốc tung tất cả lên trời. Và mưa. Ngàn vạn hạt mưa đá to như những củ hành đột nhiên rơi xuống ào ào. Tan tác tất cả. Người ta đạp nhau bỏ trốn trận mưa đá cả ngàn năm chưa từng xảy ra ở đây.
Trăm ngàn hòn đá nhỏ, cứng nức ném tha hồ vào đám người vừa nãy còn là một khối kết đoàn tưởng không có gì phá vỡ. Đội Trưởng bị đá ném sưng mặt, ôm mặt chạy cuống cuồng, đâm sầm vào cột đình, té ngửa, xỉu đi chừng nửa phút. Cả nhà tôi xúm lại quanh ba tôi. Cái áo lá tơi mạ tôi mang theo chủ yếu để che nắng cho ba tôi nhanh chóng trở thành chiếc áo giáp hữu hiệu che chắn cho cả nhà.
Trận mưa đá kinh hồn chỉ xảy ra chừng năm phút đã làm vô số người bị thương, trong đó có Đội Trưởng. Đội Trưởng đứng trong hiên đình làng ôm cái mặt sưng húp ngó ra. Sân đình vắng hoe, chỉ còn nguyên gia đình tôi dúm dó dưới chiếc áo tơi. Cơn mưa trút nước dữ dội tiếp theo cơn mưa đá làm một vùng trắng xóa. Nhà tôi như chìm trong nước. Ai nấy bấu víu vào nhau, run rẫy chờ xem Đội Trưởng có thương tình cho vào đình trú tạm mưa không.
Tuyệt nhiên không. Trong đình hảy còn đầy đủ mười hai dân quân lăm lăm súng, đứng nghiêm trang sau lưng Đội Trưởng. Chỉ cần cái phất tay của Đội Trưởng là họ sẵn sàng nhả đạn, đòm một phát cho xong còn về lo việc nhà. Ba năm gia nhập đội hành hình, theo Đội Trưởng giết được bao nhiêu người, chỉ nghe Đội Trưởng hứa hon, chưa hề nhận được một chút gì. Họ thực sự sốt ruột với cái án tử hình không được thực thi. Cơ này có khi mất thêm một buổi cày nữa.
Đội Trưởng chẳng thiết gì đến cái án tử hình số 27 cần phải thi hành. Đội trưởng đang nhạt miệng, nhạt miệng quá, nhạt đến phát điên lên được. Mắt cứng lại, cổ họng đau rát, nước bọt đầy mồm trong khi hai mép khô rang, Đội Trưởng chỉ muốn ăn một cái gì muốn nuốt một cái gì, muốn liếm một cái gì nhưng không rõ là cái gì. Ngực trống rỗng như có ai moi hết buồng phổi, chỉ còn trơ lại cái cuống đang phình to dưới cổ họng đau buốt, Đội Trưởng đứng ngẩn ngơ, mắt mờ tai ù.
Thuốc lào còn nguyên một lạng nhưng điếu cày thì đã vỡ tan. Cái xứ không một thằng chó chết nào hút thuốc lào, đ. mạ! Chị Hiên đứng dựa cột đình, ngước mắt chờ đợi Đội Trưởng. Chị chờ mãi vẫn không thấy Đội Trưởng nói gì, đành hắt ra một tiếng ngán ngẩm, nói thôi, bắn quách đi rồi về anh ạ. Đội Trưởng trừng mắt lên, nói bắn phải có người xem mới bắn chớ. Bắn giờ cho chó xem à? Ẻ vô!
Chó cũng chẳng còn một con, bốn phương tám hướng chỉ thấy mưa trắng xóa. Ai nghiện thuốc lào mới biết, vào lúc mưa gió được một điếu thuốc lào ngon, rít sâu vào tận phổi mới đã làm sao. Đội Trưởng mở gói thuốc lào, bốc một nắm cho vào mồm trệu trạo nhai, nói thôi, giam nó lại, mai nắng ráo rồi bắn.
Dứt lời Đội Trưởng bước ra khỏi đình, mặc kệ mưa gió, cứ thế lầm lũi đi. Rõ là một ngày cứt chó, đã không giết được người lại thèm thuốc lào muốn chết. Đội Trưởng đi qua sân đình, nhác thấy nhà tôi đang dúm dó dưới chiếc áo tơi, chợt nảy ra một ý tuyệt vời.
Không gì tuyệt vời hơn giây phút diệu kì Đội Trưởng tiến đến nhà tôi, lật tung chiếc áo tơi, cúi xuống ghé vào tai ba tôi, nói này, mi làm điếu cày mất mấy giờ? Ngực ba tôi rung lên , ông vội vàng đáp, nói dạ… một giờ.
Một phần mười giây cơ hội đã đến. Ba tôi nhận ra tức thì dấu hiệu sự sống trong vòng sáu giờ qua kể từ khi ông Kiểm Hát đưa tin tuyệt vọng, không một giây phút nào ông nhìn thấy nó. Đội trưởng gật gù, nói nếu mười lăm phút mi làm xong, tau sẽ tha bổng cho mi, nghe chưa. Tất nhiên ba tôi thừa biết đó là lời nói phét, mặc, ba tôi run rẩy ngước lên nhìn Đội Trưởng, nói dạ. Ba tôi đứng vụt dậy, cho thấy ông sẵn sàng chấp hành lệnh của Đội trưởng ngay tức khắc. Đội trưởng nghiêm mặt nhìn ba tôi đầy cảnh giác, cái nhìn dài hơn một phút, nói nếu không xong tau sẽ bắn mi ngay tức thì, không cần có người xem, nghe chưa.
Ba tôi dạ, tiếng dạ reo vang giữa mưa to gió lớn nghe như một tiếng khóc òa.
Đàn kiến
Ba tôi bị dẫn đến Đình Làng nhốt vào kho đựng đồ tế lễ nhà Tả vu. Từ ngày có cuộc cách mạng long trời lỡ đất đấy là nơi giam giữ tử tù, dân chúng vẫn gọi là xà lim. Chính ba tôi chọn cái nhà kho này làm cái xà lim, nó được đổ bê tồng cốt thép, tường dày bốn tấc kín như bưng, voi không thể húc đổ kiến không thể bò qua. Thực tế ba năm qua hai mươi sáu tử tùgiam giữ ở đây không một ai trốn thoát khỏi cái xà lim. Nó cũng là niềm tự hào nho nhỏ của ba tôi, khắp tỉnh không nơi nào có cái xà lim như thế.
Ba tôi bị đẩy vào xà lim. Cửa xà lim lập tức đóng sập, trong phút chốc bóng tối bỗng phủ kín đen đặc đến nỗi ba tôi không dám bước thêm một bước nào. Ông không thể thấy một chút gì trên cơ thể, đưa bàn tay lên sát mắt cũng không thấy. Thứ bóng tối đen đặc mà Balzac nói là có thể xắn được ra từng khúc lần đầu ba tôi mới chứng thực, ông buộc phải đứng yên, có cảm giác nếu động cựa ông sẽ va phải bóng tối. Và im lặng. Sự im lặng tuyệt đối. Im lặng rờn rợn. Im lặng cũng có thể xắn ra từng khúc. Tựa hồ ba tôi đang ở dưới đáy huyệt, người ta đã đem ông chôn sống ở nơi đây.
Ba tôi đứng ngây ra giữa bóng tối và im lặng, không biết phải làm gì với chúng, Ông thử ngồi sụp xuống rồi lại thử đứng lên, cả đứng lên và ngồi xuống không cho ông một cảm giác gì. Ông thử đi vài bước, đi vài bước nữa… đầu óc vẫn rỗng không. Ở cái nơi cuộc sống tuồng như không tồn tại này, có cái gì đó rất vô nghĩa đang bao vây ông hay chính ông là sự vô nghĩa rỗng toếch, ba tôi cũng không biết nữa.
Không biết làm gì hơn ba tôi rơi xuống nền xi măng lạnh toát, nằm bất động, lịm dần đi. Hơn nửa giờ sau ông phát hiện má mình đang áp vào vết rạn nhỏ ai đó rạch trên nền, tạo thành đường hào cho kiến bò. Rất nhiều kiến từ đường hào đó bò lên má ông, chui vào khắp nơi trong ông. Ba tôi vùng dậy phủi kiến, lần theo vết rạch truy diệt lũ kiến. Dần dà ông phát hiện ra đó không phải là vết rạch thẳng, nó lòng vòng như nét chữ ai đó rạch trên nền xà lim. Kiên trì dò lần tới lui, ba tôi đọc được ba chữ
Tôi bị oan
!
Ba tôi vùng dậy. Ông nhớ ngay ra thân phận của mình, thì ông cũng là một tử tù oan khuất, sang sớm mai sẽ bị điệu ra trường bắn, chỉ sáng sớm mai thôi không thể kéo dài hơn. Bao nhiêu lần chỉ đạo xử bắn phạm nhân ông biết quá rõ, không ai muốn giam giữ lâu lắc, người ta chỉ muốn bắn quách đi cho xong. Ba tôi biết chắc bảy giờ ba mươi ông được ăn một bát cháo gà và hai quả chuối, tám giờ ông bị điệu ra sân đình, quì giữa một ngàn hai trăm quần chúng đang rạo rực hô muôn năm và đả đảo. Tại đây Đội trưởng sẽ luận tội với ba giai đoạn điếu cày, xong một giai đoạn chị Hiên sẽ hướng dẫn một ngàn hai trăm quân chúng rạo rực hô muôn năm và đả đảo. Chín giờ ông sẽ bị bịt mắt đứng dựa cột, một loạt đạn vang lên, rạo rực vang lên tiếng hô muôn năm đả đảo, đời ông sẽ kết thúc đúng chín giờ mười lăm phút, chắc chắn.
Nhưng ba tôi không tin ông sẽ chết một cách dễ dàng như vậy được. Ông ngồi thu lu góc phòng cố tính xem liệu ai có thể cứu mình. Từ nay đến sáng mai còn mười lăm giờ, tức chỉ còn chín trăm phút nữa thôi, thời gian quá ít để người bạn chí thiết của ông ở Hà Nội biết tin. Chỉ cần một cú máy của người đó gọi về huyện nói rằng Phạm Vũ không phải là gián điệp Quốc Dân Đảng là ông sẽ được thả ra tức thì. Không, chẳng cần đến một cam kết, chỉ cần người đó nhấc máy hỏi một cách giận dữ, nói tại sao lại bắt Phạm Vũ? Chắc chắn một giờ sau ông cũng sẽ được thả ra.
Vẫn biết hiện thời người đó không chịu mất thời giờ cho bạn bè, thứ bạn bè như ông lại càng không, ba tôi vẫn tin một cú điện thoại không quá mất thời giờ, cũng không nặng nhọc khó khăn gì, nhất là việc cứu người. Đánh thức tính nhân văn trong con người chính trị thật khó như đơm đó ngọn tre nhưng không phải không có những ngoại lệ.
Ba tôi tin người đó vẫn còn nhớ những khoản trợ cấp thương xuyên của ông bác Vĩ và món tiền đút lót khổng lồ cho cả bảy sĩ quan phòng nhì tại Quy Nhơn nhằm giúp cho người đó thoát tù tội, tránh được cái án chung thân. Ông bác Vĩ không biết chuyện này, hoặc vờ như không biết chuyện này, khi ba tôi được tin tưởng giao cho tay hòm chìa khóa đã lén lấy tiền giúp người đó. Người đó ra tù, ôm chặt lấy ba tôi, nói từ nay sống chết có nhau nhé, rồi nhảy tàu đi tít mù cho đến bây giờ.
Không ngu muội đến mức nghĩ rằng người đó sẵn sàng chết vì ông, nhưng ba phút cho một cú máy thì ba tôi tin. Vấn đề là ai sẽ báo cho người đó? Mạ tôi không biết người đó là ai, nếu biết người đó là ai bà cũng không biết gọi về đâu, nếu biết gọi về đâu cũng không ai cho gọi. Ba tôi biết giờ này cả nhà tôi đang bị giam lỏng trong chuồng bò bỏ hoang gần cầu Phôốc, chẳng biết làm gì ngoài việc ôm nhau khóc. Ông chợt nhớ đến anh Cả. Đúng rồi, thằng con cả của ông có thể chạy lên tỉnh chạy lên trung ương kêu cứu. Mười lăm tiếng không kịp chạy lên trung ương nhưng thừa sức chạy lên tỉnh, ở đấy có rất nhiều bạn chiến đấu của ông ở chiến khu Chóp Chài, chỉ cần một người vì ông họ sẽ biết làm gì để cứu ông.
Ba tôi đứng vụt dậy, niềm hy vọng rực cháy trong ông. Có thể giở này thằng con cả đang chạy đi cứu ông, dù nghĩ về đời không quá một bước chân nó cũng thừa sức biết phải chạy về đâu, tìm đến những ai. Ba tôi đi đi lại lại, đi đi lại, giá có thể liên lạc với thằng con cả trong một phút, chỉ cần một phút không hơn, ông có thể nói cho con ông biết làm thế nào để cứu ông trong trường hợp tất cả bạn chiến đấu của ông đều lánh mặt.
Anh Cả phải chạy vào tỉnh gặp bác Đông trai, bạn đồng môn của ba tôi cũng là hàng xóm chí thân của nhà tôi. Hiện thời bác Đông trai là phó ty công an, bác có thể yêu cầu giữ Phạm Vũ lại để khai thác. Gián điệp Quốc Dân Đảng rất nguy hiểm, cần phải khai thác để nắm được các đầu mối tổ chức Quốc Dân Đảng trên địa bàn. Bác Đông có quyền điều tên gián điệp Quốc Dân Đảng vào tỉnh để đấu tranh khai thác. Nếu được vậy thì trời cho ba tôi sống. Ba tôi thừa sức nói cho bác Đông hiểu, bác Đông cũng thừa sức nói cho cấp trên hiểu là ba tôi hoàn toàn vô tội. Đến đây vụ án có thể bị lật ngược, Đội trưởng và chi Hiên nếu không bị dựa cột thay ông cũng bị loại ngay lập tức ra khỏi cuộc cách mạng long trời lỡ đất. Nghĩ đến đấy ba tôi sướng điên, ông nhảy liền hai ba cái hú hét hai ba tiếng.
Chợt có con kiến lửa nhéo ở dái tai đau như bị ong đốt. Ba tôi chụp lấy dái tai cố bóp chết con kiến, vừa lúc một câu hỏi bỗng vang lên, y như con kiến chui tọt vào tai và hét lớn: Nhưng nếu anh cả không gặp được bác Đông thì sao? Ba tôi đứng ngẩn ngơ, ông sợ câu hỏi ấy.
Cả tháng nay bác Đông trai không về nhà. Bác Đông gái cũng không biết bác đi đâu, thời điểm này ít ai dám về nhà hoặc ngồi lì ở văn phòng, hết thảy đều nháo nhào chạy về cơ sở, ở đấy vừa kiếm được cơm rượu vừa khỏi bị chỉ trích quan liêu, thiếu ý chí tiến công cách mạng. Ấy là chưa kể cứ loanh quanh văn phòng đi về quê quán, ngứa mắt người ta khéo không bị chụp cổ. Cuộc cách mạng long trời lở đất đã ba năm, khắp nơi ra sức trừ gian diệt ác nhưng hảy còn thiếu chỉ tiêu. Trung ương không giao chỉ tiêu, tự các cơ sở đua nhau đề ra chỉ tiêu để thể hiện lòng trung thành và tài năng của họ. Địa chủ đã tóm gọn từ lâu, trung nông tiểu tư sản chưa có lệnh giết, muốn đủ chỉ tiêu chỉ còn cách qui hết cho việt gian phản động, bọn này tội trạng vô hình không đo đếm được, rất dễ qui tội. Sở dĩ Đội trưởng tóm gọn ba tôi không ai thắc mắc cũng vì huyện nhà đang quá thiếu chỉ tiêu.
Con kiến quay lại nheo dái tai ba tôi một lần nữa, lần này ông không dám tìm diệt con kiến, để xem nó nói thế nào. Vừa lúc có ai đó thổi vào tai ông từng tiếng một: đừng- ảo tưởng- không-ai- cứu- được- anh- đâu. Tim ba tôi như bị hắt ra khỏi lồng ngực, ông ôm ngực ngồi rũ, lát sau ngẩng lên cười nhạt lầm bầm, nói nghe ai lại nghe mồm con kiến, ngu. Ông kiên trì tìm diệt con kiến, quyết không cho nó làm nản chí ông. Dù thế nào
yes or nokhông phải là xác suất tuyệt vọng. Nhược bằng thằng con Cả của ông không tìm được bác Đông trai là số trời đã định, coi như xong một kiếp người, đếch gì.
Thực ra ba tôi đã tính nhầm, ông không biết anh Cả bị tóng giam chỉ một giờ sau khi ông bị bắt. Nếu được thả rong anh Cả cũng chẳng biết chạy đi đâu để cứu ba tôi. Chân lý bất biến Trần Ngô Đống tiên sinh dạy cho anh và đội
Cờ đỏ
đã thấm vào tận tủy rồi, anh chỉ biết ôm mặt khóc chẳng biết làm gì hơn. Giờ này anh Cả đang đứng khóc trong nhà kho phía sau Ủy ban hành chánh huyện. Suốt tám tiếng đồng hồ đứng khóc triền miên, chưa khi nào anh tự hỏi liệu có cách nào cứu được ba mình không, chân lý bất biến của Trần Ngô Đống tiên sinh đã chặn đứng mọi nẻo tư duy dẫn về câu hỏi ấy.Trong nhà có một người cũng 18 tuổi như anh Cả, có thể thay anh Cả chạy lên tỉnh lên trung ương để cứu ba tôi, đó là anh rể, người vừa cưới chị Hai đầu năm ngoái. Anh rể tinh ranh hơn anh Cả, khi anh Cả chưa hề biết yêu là gì vợ con là thế nào, anh đã biết dụ dỗ chị Hai ra khỏi nhà, đè chị trên bờ đê từ đầu hôm đến rạng sáng. Kết quả chị tôi có chửa lúc chưa đầy 16 tuổi, anh mặc nhiên là chàng rể của nhà tôi không tốn một cắc cưới xin.
Không coi anh rể là đứa con trong gia đình, chưa khi nào ba tôi nhìn sửa mặt anh này, vậy mà khi có ai đó thổi vào tai ông từng tiếng một: đừng- ảo tưởng- không-ai- cứu- được- anh- đâu, thốt nhiên ông đã nghĩ đến phương án phải dùng đến thằng con rể trời đánh này. Cái chết đã không cho phép ba tôi từ chối ai giúp đỡ mình huống hồ là thằng con rể, cha đẻ nó là một trong bảy thành viên quyền thế nhất của
Ban cải cách
tỉnh nhà. Mặc kệ kiến nhéo dái tai ba bốn nhéo liền cùng với ba bốn tiếng hét ngu ngu xói thẳng vào tai, ông vẫn ngồi dựa tường cầu trời khấn phật giờ này thằng con rể đang chạy vào cầu cứu cha đẻ của nó.Ba tôi không biết sáng nay ông bị điệu ra nhà, đàn con sau lưng ông không có anh rể. Chị Hai năn nỉ mãi anh buộc phải sang dự vào đám rước tiễn ba tôi về xà lim đình làng. Vừa mới chui vào đám rước anh đã giật mình dựng tóc gáy khi có ai đó gọi tên anh, nói thằng này là con rể ông Phạm Vũ. Anh lẹ làng dọt khỏi đám rước, lặn một hơi đến giờ phút này vẫn không thấy sủi tăm. Nếu biết chuyện này ba tôi có dập tắt niềm hy vọng về anh rể hay không? Chắc không. Khi cái chết cận kề không ai ngu gạt bỏ bất kì niềm hy vọng nào, kể cả niềm hy vọng chó đẻ.
Bây giờ là 11 giờ trưa. Một luồng sáng đập thẳng vào mắt ba tôi, ông bị lóa trong mười giây, sau đó dần nhận ra ai đó đã mở cái cửa sổ nhỏ bằng cuốn vở học trò nằm ở góc cao trên cùng. Một cái rá nhỏ đựng thức ăn được ròng dây thả xuống, người ta làm vậy để tránh mọi bất trắc khi mở cửa đưa cơm cho tử tù. Ba tôi vụt đứng dậy vội vã lên tiếng, nói ai đó ơi ai đó. Ngoài cửa sổ không có tiếng trả lời, không cần, ba tôi cứ hét lên, nói làm ơn làm phúc nói với thằng Cả tôi chạy vô tỉnh gặp bác Đông trai. Ai đó ơi làm ơn làm phúc…Tịnh không một tiếng đáp. Nửa giờ sau cái rá được kéo lên, không cần biết ba tôi đã ăn hay chưa. Ba tôi lại đứng vụt lên hét thật to, nói ai đó ơi làm ơn làm phúc…Bỗng có tiếng đáp gọn lỏn, nói thằng Cả bị giam lỏng rồi. Ba tôi đứng chết giấc chừng mười giây và bừng tỉnh, ông cuống cuồng hét thật to, nói làm ơn làm phúc nói với thằng con rể, ai đó ơi làm ơn làm phúc… Hét đến khan cổ thì thôi, chẳng ai trả lời, ba tôi đứng khóc lặng lẽ.
Ánh sáng ngập tràn căn phòng mười sáu mét vuông, ba tôi đứng nhìn bốn xung quanh. Căn phòng trống rỗng lạnh lẽo ngổn ngang những nét chữ vạch trên tường, mỗi ba chữ
Tôi bị oankhông có chữ nào khác. Có hai mươi sáu tử tù bị nhốt ở đây, ba tôi là người thứ hai bảy lại có hàng trăm dòng chữTôi bị oan
la liệt trên bốn bức tường và nền nhà. Không biết những ai đã viết, lấy cái gì để viết. Kì lạ nhất là kiến đen bò kín đặc trên tất cả các nét chữ vạch, không sót một chữ nào, cảm giác chính lũ kiến đen đã sắp hàng tạo nên hàng trăm chữTôi bị oan
ấy.Quay lại nhìn bức tường sau lưng, ba tôi ngạc nhiên thấy dòng chữ
Tôi bị oanrất to kéo dài từ đầu bức tường cho đến cuối bức tường, nét chữ đậm bốn, năm centimet. Kiến đen bu đầy trên những nét chữ đó, nổi cộm lên trên tường. Không ai có thể vạch được nét chữ to đậm như vậy, có ai đó đã lấy máu viết. Ba tôi đoán đúng, khi tiến tới gẩy một khúc kiến, ông thấy vệt máu đã khô cứng. Ông trân trố nhìn hàng vạn con kiến đen bu đầy trên những vết máu khô cứng ấy, nhớ đến một câu của G.Flaubert, hình như trong cuốn
Nhật kí người điênthì phải: Em yêu, rồi một ngày em sẽ biết máu người tanh đến thế nào. Thốt nhiên ông buồn rũ ra.
May mắn cửa sổ vẫn mở, có lẽ đó là ân huệ cuối cùng tiểu đội du kích canh gác xà lim dành cho Chủ tịch thị trấn Phạm Vũ. Ba tôi ngồi dựa tường lắng nghe những âm thanh ngoài đời lọt qua cửa sổ. Hình như trời đang mưa. Tiếng ếch nhái nhao nhao cùng tiếng loa phóng thanh ẩm ướt, thứ âm thanh nhàm chán hàng ngày giờ đây thật quá đỗi thiêng liêng.
Lẫn giữa tiếng ếch nhái và tiếng loa phóng thanh là tiếng gì nghe như tiếng người, nhiều âm rè, thỉnh thoảng nhói lên chói tai. Mãi sau ba tôi mới biết đó tiếng hát say bét nhè của ông Kiểm Hát, người đàn ông cụt chân, hàng xóm của nhà tôi, sống bằng nghề đan nơm, hai chục năm trước là người bạn chiến đấu của ba tôi.
Ông Kiểm Hát nói và hát triền miên trong cơn say từ trưa đến giờ vẫn không dứt. Thoạt đầu nghe như tiếng rên, kế đến như tiếng thét, tiếng chửi, tiếng bù lu bù loa về một điều gì đó. Cuối cùng ông kết thúc bằng một câu ca tục tĩu được cất lên khá là du dương : “ Sinh ra cái đạo làm trai / ăn cho no vuốt cặc cho dài”- chân lý mọi thời đại của ông.
Không biết trời xui đất khiến thế nào, hễ cứ đến giờ loa phát thanh là ông say. Giờ say của ông chuẩn như giờ của đài. Hễ say là ông nói và hát rất to, rất triền miên, lời lẽ rất vô nghĩa cứ lặp đi lặp lại. Tiếng ông to đến nỗi át cả tiếng loa phóng thanh, điều tối kị của thời này, nó đồng nghĩa với xấc xược, giở trò đểu với chính quyền.
Công an huyện ba bốn lần gọi ông lên yêu cầu thay đổi giờ say, một yêu cầu rất nghiêm túc, ấy là vì người ta châm chước đến mười tám lần cầm mã tấu đi trừ gian diệt ác của ông. Tất cả những lần giết người của ông đều thành công. Chỉ duy nhất một lần, cũng là lần cuối cùng, ông không giết được người lại bị người chém đứt một cẳng chân.
Dân Thị Trấn không phải ai cũng giỏi giết người, vô số người thèm có được một lần trừ gian diệt ác như ông để ghi vào lý lịch, vinh danh cho con cháu được hưởng lộc mà không được. Ít ai bị công an gọi lên lại được mời ngồi, mời nước chè thuốc lá và khuyến cáo những lời nhã nhặn. Chỉ có công thần số 1 Thị Trấn mới được hưởng đặc ân đó.
Ông không hề lấy đó làm vênh vang, ông thừa biết người ta chẳng coi ông ra gì, còn có ra gì đối với kẻ hết khả năng chạy nhảy, chỉ còn trơ lại mỗi cái mồm. Bịt mồm kẻ cố cùng không phải chuyện dễ, không khéo bịt được cái mồm này lại mở ra trăm ngàn cái mồm khác. Lịch sử bịt mồm thiên hạ cho thấy có quá nhiều ví dụ.
Vả chăng, phàm là kẻ có tội đã biết hết mọi nhẽ ở đời, đối xử nhã nhặn có khi còn khó chịu hơn việc ra đòn hung bạo. Công an vâng vâng dạ dạ rất lễ độ, ông cũng vâng vâng dạ dạ rất lễ độ. Công an rón rén bắt tay ông. Ông cũng rón rén bắt tay công an. Công an kính cẩn chào ông, cung kính tiễn ông về với vẻ thân ái không ai có thể bắt chước được và rủa thầm hai tiếng đụ mạ khi quay vào phòng làm việc. Ông kính cẩn chào công an cũng với một thái độ kính cẩn, cung cúc ra về với một vẻ ăn năn không ai có thể bắt chước được và ném lên trời hai tiếng đụ mạ khi rời khỏi cổng đồn.
Rốt cuộc vẫn đâu vào đấy, giờ phát thanh của đài cũng đồng thời giờ say của ông đã điểm. “ Sinh ra cái đạo làm trai/ ăn cho no vuốt cặc cho dài”. Mỗi câu vớ vẩn đó thôi ông Kiểm Hát đã át hết mười lăm phút xã luận trong nước, ba mươi phút tin chiến thắng trong nước, ba mươi phút ca nhạc trong nước, mười lăm phút xã luận quốc tế, ba mươi phút tin chiến thắng phe xã hội chủ nghĩa, ba mươi phút dân ca nhạc cổ, mất toi cả buổi tối yên tĩnh xóm Cầu Phôốc.
A, tại sao ông Kiểm Hát không say ở nhà lại say ở đây? Tại sao cửa sổ không chịu đóng và ông Kiểm Hát đứng giữa trời mưa hát vọng vào? Khấp khởi trong ba tôi những câu hỏi hy vọng, bất chấp lũ kiến vẫn thi nhau nhéo dái tai ông. Có thể người bạn chiến đấu của ông năm xưa vẫn còn coi ông là người bạn chiến đấu. Hai mươi năm trước ông Kiểm Hát bị chém cụt chân, ba tôi đã đã cõng ông Kiểm Hát chạy từ làng Trung về làng Tô trốn thoát được trung đội dân vệ mấy chục thằng đang đuổi theo, vừa đuổi vừa bắn. Không cảm ơn ba tôi, cũng không ôm chặt ba tôi nói từ nay sống chết có nhau nhé, ông Kiểm Hát chỉ cười cái hậc, nói từ nay hết chiến đấu với nhau rồi, đụ mạ.
Một hòn sỏi bắn qua cửa sổ, hòn sỏi bọc giấy! Ba tôi chộp lấy, chữ ông Kiểm Hát rành rành:
Thằng Tuy đã đi Thanh Hóa từ 5 giờ sáng, thằng bạn mi đang ở đó. Ba tôi muốn bay ra khỏi cừa sổ ôm chầm lấy ông Kiểm Hát, lần đầu tiên ông hiểu được giá trị lớn lao của tình bạn. Người bạn đã bị ông bỏ rơi hơn chục năm nay kể từ khi ông làm chủ tịch Thị trấn, trong thâm tâm ông vẫn coi đó là kẻ đầu bò cần tìm biện pháp xử lý, giờ đây đang tìm cách cứu ông.Ba giờ sáng ba tôi bị bắt, không như hàng xóm xúm lại nhà ông hỏi vì sao, ông Kiểm Hát chống nạng đi lên huyện đánh thức thằng em phó chủ tịch huyện nhằm moi lấy thông tin người bạn chí thiết của ba tôi hiện đang ở đâu. Khi biết chắc người đó đang thăm và làm việc tại Thanh Hóa, 5 giờ sáng ông Kiểm Hát lôi cổ thằng con cả dậy, nói như vầy như vầy và giục nó đi ngay, càng nhanh càng tốt.
Thằng Tuy lái xe tải cho Công ty lương thực tỉnh, chỉ có nó mới đi về nhanh được, mới nói được rành rẽ vì sao ông bị bắt, thế mà ba tôi không nghĩ ra, từ khi bị bắt đến giờ chưa khi nào ba tôi nghĩ tới phương án này! Ông khóc nấc lên, nói trời đã có mắt, ôi ba mạ ơi trời đã có mắt!
Bây giờ khoảng ba giờ chiều, vốn sống nhiều năm trong hang đá ba tôi nhìn vệt sáng qua cửa sổ áng chừng thời gian. 5 giờ sáng thằng Tuy đi, 12 giờ trưa đến Thanh Hóa, nhiều nhất ba giờ chiều thằng Tuy sẽ gặp được người đó, nhất định giờ này thằng Tuy đã gặp người đó rồi. 4 giờ chiều thằng Tuy sẽ quay về, chậm nhất 9 giờ đêm sẽ có tin, sáu tiếng nữa ba tôi sẽ có tin.
Sáu tiếng đồng hồ dài hơn thế kỉ. Ba tôi đi đi lại lại vài chục vòng, nằm lăn qua lật lại vài trăm lượt, đứng lên ngồi xuống vài chục phút… Sáu tiếng đồng hồ đã trôi qua, 9 giờ tối đã đến. Không thấy tăm hơi ông Kiểm Hát. Ba tôi ngồi im lìm dán mắt lên cửa sổ, bây giờ là khoảng sáng trắng mờ, âm thầm đếm nhịp tim tính thời gian. 75 nhịp tim là một phút, một giờ trôi qua, hai giờ trôi qua, ba giờ trôi qua, bốn giờ trôi qua, năm giờ trôi qua, sáu giờ trôi qua… Ba giờ sáng vẫn không thấy tăm hơi ông Kiểm Hát.
Ba tôi ngồi nơm nớp lo kiến cắn dái tai. Kiến chưa cắn dái tai ông vẫn còn hy vọng. Mười hai giờ trôi qua chưa thấy kiến cắn. Thỉnh thoảng có một hai con bò lên dái tai, ba tôi hồi hộp đến nghẹt thở. Kiến không cắn, a ha kiến không cắn, lồng ngực ông muốn vỡ tung vì sung sướng và hy vọng.
Khoảng sáng mờ cửa sổ bị che khuất, một cái đầu chuồi vào. Ông Kiểm Hát! Ba tôi chạy tới dưới chân cửa sổ, nói gặp không? Ông Kiểm Hát thì thào, nói không gặp được nhưng người ta cho nối máy, thằng Túy kể hết cho ông đó rồi. Ba tôi hấp tấp hỏi, nói sao sao, ông đó nói sao. Ông Kiểm Hát nói thế à. Ba tôi không hiểu, nói là sao, thế à là sao. Ông Kiểm Hát nói ông đó chỉ nói thế à rồi dập máy. Cái đầu ông Kiểm Hát biến mất sau cửa sổ.
Ba tôi rơi xuống nền măng lạnh toát, nằm im như chết. Kiến đen đang ngủ yên trong các vạch chữ ở bốn bức tường và nền nhà bỗng đâu thức dậy, chúng lũ lượt bò tới ba tôi. Trong phút chốc hàng vạn, hàng chục vạn con kiến đen phủ kín lấy người ông
.
Đám rước nhà tôi
Ba tôi đã làm tổng cộng năm mươi chín cái điếu cày trong vòng ba năm phụng sự Đội Trưởng, kể từ ngày Đội Trưởng về Thị Trấn cho đến khi bị chính Đội Trưởng xông vào nhà, ấn mặt bắt phải quì, nghe Đội Trưởng tuyên bố trọng tội làm gián điệp cho Quốc Dân Đảng. Đây là một tổ chức mà Đội trưởng biết chắc chắn chúng rất ghê tởm nhưng không thể biếtchúng là những ai mà ghê tởm, làm những gì mà ghê tởm, ở đâu mà ghê tởm, vì sao mà ghê tởm và ghê tởm từ lúc nào, hiện có còn nữa không mà ghê tởm. Không cần phải nhiêu khê đến vậy, chỉ cần biết chúng là một tổ chức ghê tởm, thế là quá đủ.
Ai làm gián điệp cho chúng tất nhiên là xử bắn, kể cả chủ tịch thị trấn Phạm Vũ, người có thành tích làm năm mươi chín cái điếu cày cho Đội Trưởng.
Chủ tịch thị trấn Phạm Vũ là tên tiểu tư sản phản động, một tên gián điệp, trong xắc cốt của hắn có rất nhiều tài liệu của Quốc Dân Đảng. Dù hắn có làm năm chín cái điếu cày hay năm ngàn chín trăm cái điếu cày thì cũng rứa thôi. Đó là kết luận của Đội cải cách sau mười sáu phút hội ý trong bữa thịt chó thâu đêm tại nhà chị Hiên.
Năm giờ sáng ba tôi bị điệu ra khỏi nhà. Sáu giờ ba mươi nhà tôi bị lục soát tứ tung. Bảy giờ mười có lệnh trục xuất gia đình tôi ra khỏi nhà tới định cư một chuồng bò bỏ hoang, không được mang theo bất cứ thứ gì ngòai một mớ áo quần rách và vài cái nồi đất.
Mạ tôi dắt đàn con đi về cái chuồng bò giữa hai hàng người rạo rực hô vang đả đảo và muôn năm, chủ yếu đả đảo đích danh tên tiểu tư sản phản động Phạm Vũ. Bà đi xiêu vẹo như kẻ mất hồn, mặt bạc phếch, đôi đồng tử trơ cứng như hai hòn sỏi. Rất nhiều lần bà ngã khụy giữa đường, mắt dí chặt lấy đầu ngón chân cái. Chị Ba chị Hai phải xốc nách bà mới đứng lên được. Chân tay bà run lẩy bẩy lại thêm cái bụng chửa vượt mặt khiến bà lúc lúc lại bổ nhào về phía trước.
Tôi ngồi nghiêng ngửa trong cái bụng chửa, cố tìm hiểu tại sao bỗng dưng cái bụng chửa lại đảo điên. Buồn thay bộ não sáu tháng tuổi của tôi là những đám đậu phụ nhão nhoét mới thành hình, những rãnh thông tin
yes or nokhông đủ để giúp tôi hiểu chuyện gì xảy ra ở thế giới bên ngoài cái bụng chửa. Nếu tôi đã ra đời không chắc tôi đã hiểu. Sáu anh chị của tôi không hiểu làm sao tôi có thể hiểu. Không ai hiểu vì sao ba tôi bỗng nhiên thành tên gián điệp của Quốc Dân Đảng để cả nhà phải dắt díu nhau đi trong đám rước kinh hồn này.
Anh Cả tôi không có mặt trong đám rước. Anh ở đội
Cờ đỏ
của huyện, suốt ngày đêm tham gia cuộc cách mạng long trời lỡ đất, rất ít khi ở nhà. Anh không biết ba tôi bị bắt, hoàn toàn không. Sáng nay đột nhiên anh bị loại ra khỏi độiCờ đỏ
, đưa về giam lỏng ở cái nhà kho phía sau Ủy ban huyện. Lúc này đây anh đang đứng cửa sổ nhà kho trông ra chờ ai đó đi qua để hỏi vì sao anh bị tóng giam.
Nếu có mặt ở nhà bảo đảm anh Cả tôi cũng không hiểu. Anh vốn hồn hậu chất phác, hồn hậu chất phác từ lúc mới sinh ra cho đến già vẫn hồn hậu chất phác, chưa khi nào anh nghĩ về đời xa hơn một bước chân. Mãi tới khi người ta kính cẩn đeo trước ngực một thực danh, anh tôi vẫn không nghĩ về đời xa hơn một bước chân. Toàn bộ óc não của anh chỉ để chứa các loại kiến thức về vỏ trái đất khiến anh trở nên một nhà địa mạo học danh tiếng, tuồng như mọi đau thương không hề để lại dấu tích trong bộ não đáng nể kia, kể cả những kí ức cay đắng nhất. Nhiều lần bị người đời giáng cho vỡ mặt, tưởng có thể nhớ đời anh cũng quên luôn. Suốt đời anh chỉ có một niềm yêu, không yêu được thì phục, không phục không yêu thì thân thiện, anh quyết không ghét bỏ ai bao giờ.
Từ thủa thiếu thời cho đến tận bây giờ, tức là thời điểm tôi đang viết những dòng này, anh Cả tôi chỉ có một thần tượng. Không phải là Marx, Engels- họ là thần tượng độc quyền của ba tôi. Không phải là Pele, Maradona- họ là ai mãi đến bây giờ anh tôi vẫn không biết. Không phải Ngô Thừa Ân, Tào Tuyết Cẩn- anh tôi luôn xa lạ với những ai làm ra một thứ phù phiếm gọi là văn. Không phải Bernouilli, Lomonosov- họ chẳng qua cũng là nhà khoa học như anh. Thần tượng duy nhất của anh tôi là Lôi Phong, một ông cha căng chú kiết nào đó chuyên tìm bàn chải đánh răng trong đống rác đem về dùng, được dân Trung Quốc tôn làm đại thánh thời thất bát cao lương dư thừa sĩ diện hão.
Ai nói thế nào mặc lòng, anh tôi đến chết vẫn đinh ninh cuộc sống sở dĩ ngày càng tươi tốt là vì người ta biết tằn tiện, chỉ cần biết tằn tiện thôi anh sẽ có những gì anh muốn. Anh Cả đã có những gì anh muốn có: Một bộ vét bốn mươi sáu năm từ ngày du học ở Trường đại học tổng hợp Lomonosov, một đôi dày da cừu cao cổ hai mươi bảy năm mua với giá một rúp bốn mươi cô pếch từ một anh bạn nát rượu người Mông Cổ, một cái cặp da bò ba mươi chín năm, phần thưởng cho luận văn tốt nghiệp đại học xuất sắc của anh. Tất cả chỉ có thế, anh cũng không cần gì nhiều hơn thế, có chăng là thêm một bà vợ có cùng thần tượng Lôi Phong với anh và vô số niềm tự hào bằng giấy xanh đỏ, bằng sắt đồng nhôm mạ bạc mạ vàng… xếp chật cứng gầm giường. Đối với anh thế là quá đủ, không cần mong ước gì nhiều hơn thế.
Thực ra Lôi Phong là thần tượng trong cuộc sống hằng ngày của anh Cả mà thôi. Thần tượng vô song của anh chính là Cách mạng. Một năm theo đội
Cờ đỏanh đã thấm nhuần lời dạy của Trần Ngô Đống tiên sinh với hai điều thật giản dị: Điều 1 : Cách mạng luôn luôn đúng; Điều 2: Nếu Cách mạng sai hãy xem lại điều 1. Đó là chân lý vĩ đại mà sau này mấy ông chồng sợ vợ đã ăn cắp bản quyền chế tạo nó thành câu chuyện tiếu lâm, với anh tôi dù có tát cạn Biển Đông chân lý đó không hề thay đổi. Từ tuổi mười lăm xông pha đội
Cờ đỏdưới sự lãnh đạo của Trần Ngô Đống tiên sinh tới tuổi năm tám mươi ba mắt bị mù vì bệnh tiểu đường, ngồi ôm cái đài nghe tin thời sự, chỉ nghe mỗi chương trình thời sự mà thôi, anh vẫn không mảy may nghi ngờ chân lý đó.
Một giờ sau anh Cả được Trần Ngô Đống tiên sinh thông báo ba tôi đã bị bắt vì tội làm gián điệp cho Quốc Dân Đảng. Anh đứng há mồm cứng ngắc, hơn mười phút sau mồm không ngậm lại được. Anh không sao không sao cắt nghĩa nổi, ba tôi không thể là kẻ xấu Cách Mạng không thể sai, vậy thì lý do gì ba tôi bị bắt? Anh khóc. Nước mắt dàn dụa chảy ướt áo, anh nức nở kêu rên, nói ba ơi răng rứa, răng rứa ba ơi…
May anh Cả khóc lóc kêu rên trong nhà kho. Nếu đi sau lưng ba tôi giữa hai hàng người trống dong cờ mở, rạo rực hô đả đảo và muôn năm anh vẫn khóc lóc và kêu rên như vậy, nhất định có kẻ mắng cho là ngu, nói đ.mạ thằng anh mười tám tuổi đầu cũng ngu như thằng em hai tuổi.
Thằng em hai tuổi là anh Sáu. Anh túm lấy áo mạ tôi, ngơ ngác ngó ngược ngước xuôi hai hàng người đông nghịt, đang chen lấn nhau phơi bày khí thế. Trí tuệ non nớt của đứa bé hai tuổi không giúp anh hiểu được rành rẽ vì sao ba mình bị trói vày vò như một con chó nhúng nước và người ta đang rạo rực lôi tên ông ra nguyền rủa. Anh sợ, nỗi sợ bị ăn thịt, sợ đến nỗi không dám khóc, nước mũi nước dãi chảy dàn dụa quệt mãi vẫn không hết, gương mặt đẹp như chúa hài đồng bỗng nhem nhuốc bẩn thỉu. Chỉ đôi mắt con gái vẫn sáng long lanh tròn xoe ngơ ngác. Nhiều người đang rạo rực hô muôn năm và đả đảo nhìn thấy anh đã bật khóc. Để không ai trông thấy mình khóc họ đã gào to như điên dại, nhói lên những tiếng thét thất thanh giữa rạo rực tiếng hô muôn năm và đả đảo là vì thế.
Dù sao anh Sáu cũng còn biết sợ, còn mơ hồ cảm được cái chết gần kề của ba tôi, khác hẳn anh Năm đã bốn tuổi đầu vẫn ngơ ngơ như bò đội nón. Anh vừa đi vừa toe toét cười. Thậm chí anh còn nhảy loi choi, vung chân vung tay hò hét theo mọi người.
Trong trí tưởng tượng hoang đường của anh Năm- cơ sở để sau này anh trở thành viên chức hạng bét và thầy bói trứ danh – thì việc ba tôi bị trói vày vò, bị Đội Trưởng lôi đi như lôi một con chó nhúng nước chẳng qua là trò chơi anh chưa từng biết bao giờ. Anh hình dung cả nhà đang đi giữa đám rước vĩ đại, vua, hoàng hậu, thái tử, công chúa và đám tùy tùng đang diễu qua hai hàng thần dân háo hức hô “ Vạn tuế! Vạn vạn tuế!”.
Anh cười toe toét, nhảy cẫng lên. Chị Hai cầm cổ áo anh giật trở lại, tát cho anh một cái nảy đóm đóm. Anh khóc, xông đến đấm đá chị Hai tứ tung, mồm chửi cha chị Hai như hát tuồng, không hề nghĩ cha chị cũng là cha anh hiện như một con chó nhúng nước đang diễu qua một ngàn hai trăm quần chúng hôm qua còn là thần dân của ông, răm rắp làm theo lệnh của ông, nay đang hân hoan tống tiễn ông đến nơi tuyên bố hành hình.
Cậu Dư đứng rúm ró trong đám người hô muôn năm và đả đảo, thấy những gì thằng cháu ruột của mình đang làm, uất lên quên cả sợ hãi xông ra giáng cho anh Năm thêm một cái tát trời giáng. Cậu thét lên một câu xé ruột , nói răng mà ngu rứa con ơi!.
Đến lúc này anh Năm mới chịu cúp mặt lủi thủi đi sau một quãng khá xa, ra cái điều không thèm chơi với mọi người nữa. Cũng có thể anh Năm ngây dại của tôi cho rằng tử hình là một cái chết lẫm liệt không phải ai muốn cũng có được, và người ta chết xong lại sống lại như thường, giống ông cu Trí nhà bên, tối nào cũng lên sân khấu để bị chém ngang đầu, bao nhiêu người than khóc tiếc thương, tóm lại sáng mai đã thấy ông ngồi lù lù ở hàng cháo bánh canh mụ Đồ. Ba tôi sẽ chết như thế, và cũng chỉ chết như thế thôi, giữa một ngàn hai trăm quần chúng rạo rực hô muôn năm và đá đảo, rõ là một cái chết không chê vào đâu được. Thế nên anh không thể hiểu vì sao anh bị giáng liền hai cái tát, suýt nữa bị cái tát thứ ba là của anh Tư đang đi cạnh anh không đầy hai bước.
Anh Tư chín tuổi, thừa sức hiểu ra sự nguy hiểm khủng khiếp khi người ta xông vào nhà bắt sống ba tôi. Anh đứng góc nhà mắt trừng trừng nhìn Đội Trưởng. Anh biết chuyện gì xảy ra trên bốn bao tải cám lợn nhà chị Hiên, vì sao trên bụng chị Hiên lúc đầu là ba tôi sau đó là Đội trưởng, qua khe hở hẹp vách nứa anh đã nhìn thấy rất rõ.
Khi cả nhà tôi đang dúm lại dưới chân Đội Trưởng kêu khóc van xin thì anh Tư đứng tách ra, hai hàm răng nghiến chặt, đôi mắt rực lên một nỗi căm hờn.
Và vẫn hàm răng nghiến chặt, đôi mắt rực lên một nỗi căm hờn như thế, phớt lờ mọi tiếng la hét chửi rủa bốn xung quanh, anh tôi ngẩng cao đầu, mắt nhìn thẳng, hiên ngang đi giữa hai hàng người, cứ như chính anh là anh hùng sa cơ ra pháp trường giữa hai hàng người đang rạo rực hô muôn năm và đả đảo.
Bất chợt những hòn sỏi nhỏ ném trúng đầu anh cùng với tiếng hét giận dữ sặc mùi a dua của lũ trẻ. Chúng là những đứa bé chín mười tuổi, bạn bè của anh Tư. Mới hôm qua anh là thủ lĩnh của chúng nó, cả lũ không đứa nào không thần phục anh. Luôn dẫn đầu trong các trận “ huyết chiến” với tụi trẻ xóm Cống, chưa bao giờ anh chịu đầu hàng dù nhiều khi thất bại thảm hại. Nếu có đứa nào đó bị bắt, anh xả thân cứu thoát cho kì được bất chấp hiểm nguy, đừng hòng anh bỏ bạn khi lâm trận. Nhiều lần cứu bạn anh bị tụi xóm Cống đánh cho tóe máu, nếu bạn chưa chạy thoát thì dù chết anh vẫn không lui. Có lẽ vì thế mà bé nhỏ hơn nhiều đứa khác anh vẫn được lũ trẻ tôn làm thủ lĩnh.
Anh sống với lũ trẻ nhiều hơn sống với anh em trong nhà. Ngày ngày lũ trẻ cùng anh ngụp lặn trong dòng hói tìm bắt những con cua nước lợ và thi nhau lặn một hơi tìm đến những người đàn bà tắm truồng, chui tọt vào giữa háng họ, làm các chị các bà rú lên vưa sợ hãi vừa thích thú. Rồi kéo nhau đi đào hang chuột, đi bới khoai mầm đem về liên hoan cùng với tôm cá đơm bắt được. No rồi chơi ù muỗi, chơi đánh đáo, đánh khăng, đánh du kích… Tối lại cùng nhau nằm trong cái chòi canh nò cá bên bờ hói, kể cho nhau ba mạ đã làm những gì trong đêm và cười rúc rích, chồm lên vọc chim nhau hoặc tuột quần ngồi đọ chim cãi nhau hơn thua chí chóe. Nửa đêm ôm nhau ngủ say sưa cho tới sáng.
Lũ trẻ yêu anh thần phục vì anh là thủ lĩnh can trường, cũng vì anh là con ông chủ tịch thị trấn, anh em trong nhà ai đi học cũng đứng đầu lớp. Mới hôm qua thôi chúng hãy còn yêu anh thần phục anh, hôm nay anh mất hết, mất sạch sành sanh.
Ở trong đội
Nhi đồng tháng tám
, lũ trẻ được các anh chị phụ trách cho hay bọn tư sản phản động và gián điệp Quốc Dân Đảng là kẻ thù của nhân dân không thể không tiêu diệt. Như lũ trẻ, anh cũng biết điều đó. Kẻ thù của nhân dân không thể đội trời chung, bài học đầu tiên khi vào đội
Nhi đồng tháng támanh đã đinh ninh. Nếu đứa nào đó rơi vào trường hợp của anh tất nhiên anh cũng chạy theo chửi rủa và ném đá.
Thế là hết. Anh Tư đi trong nỗi cay đắng tột cùng. Lũ trẻ vẫn chạy theo anh Tư, ném những hòn sỏi nhỏ trúng đầu anh và lêu lêu, nói ê ê con thằng phản động! Ê ê con thằng phản động!
Anh tôi vẫn ngẩng cao đầu nhìn thẳng hiên ngang nhưng đôi mắt không còn rực lên một nỗi căm hơn nữa, đôi mắt ấy đang khóc.
Thế là tôi ra đời
Trong chứng minh nhân dân của tôi, phần
Dấu vết riêng hoặc dị hình
có ghi:Sẹo chấm 0,3cm dưới sau đuôi mắt trái
. Đấy là dấu vết ghi nhận ngày tôi ra đời đau đớn và khó khăn như thế nào. Đơn giản vì đầu tôi quá to. Nó to gần bằng cái nồi ba, lại có ngạnh nhô ra hai bên như hai cái sừng bò, bây giờ người ta mới biết đó là u máu, hồi đó thì chẳng ai biết là cái gì, sợ hãi khôn xiết.
Ca đẻ kéo dài bốn tiếng từ bốn giờ chiều đến tám giờ đêm, mạ tôi đã la hét kiệt sức nằm thở thoi thóp trong khi tôi vẫn không chịu ló đầu ra. Bà đỡ vẫn nhai trầu bỏm bẻm, cười nói như không, kì thực mặt bà đã tái mét. Bà nghi đây là ca đẻ ngược nhưng không dám nói, vẫn cứ nhai trầu bỏm bẻm, thỉnh thoảng ho khan mấy tiếng, nói rặn đi em, Y chang người ta dục con nít đi ỉa. Bà ngồi kể chuyện cười cốt để mạ tôi buồn cười cho phọt tôi ra nhưng chẳng ai cười, mình bà hết he he he lại hơ hơ hơ, vô duyên như mấy màn tấu hài đương đại. Bà đã sốt ruột lắm rồi, chẳng việc gì hơn là têm trầu nhai, thỉnh thoảng ho khan và nói rặn đi em. Lâu lâu bà vuốt mép, nói ua chầu, có chuyên ni hay lắm đây. Ngó liếc chẳng thấy ai hưởng ứng, mặc kệ bà cứ kể, đầu chuyện cười he he he, cuối chuyện cười hơ hơ hơ. Tất cả ngôn ngữ chuyên môn của bà chỉ có thế.
Chừng đã phát chán, bà ngáp dài, vỗ mông mạ tôi cái bốp, nói con ni l. to răng đẻ khó ri hè. Chẳng ai cười, bà cũng không cười, nhả miếng trầu này nhét vào miếng trầu khác, nói rặn đi em, câu cửa miệng đã nhàm tai đến nỗi bà cũng chẳng buồn nói nữa. Bà thuộc trường phái câu liêm, trường phái này dùng câu liêm cắt rốn tồn tại bao đời nay đã bắt đầu nhường chỗ cho trường phái dùng kéo mạ kền cắt rốn, gọi là trường phái kéo mạ kền, chỉ duy nhất bác Đông gái một mình một trường phái, được dân Thị trấn Linh Giang ngưỡng mộ và tin cậy.
Thật không may cho tôi, vào lúc tôi chui ra Đời thì bác Đông gái đang sốt rất cao, uống hết một rổ lá nhọ nồi sắc đặc vẫn không giảm. Bác Đông gái là người hàng xóm tuyệt vời, bác luôn có mặt những lúc nhà tôi cần bà có mặt, hết lòng giúp đỡ gia đình tôi, kể cả những việc đòi hỏi phải có sự hy sinh lớn mới hòng thu được thành công bác cũng sẵn sàng. Bác là bà đỡ vĩ đại nhất mọi thời đại của Thị trấn Linh Giang. Từ năm mười sáu tuổi cho đến khi bà nhắm mắt xuôi tay, gần hai ngàn người đã ra đời dưới tay bà, tỉ lệ tử vong 0%, tôi không thèm nói ngoa một tí nào. Quá nửa trong số hai ngàn người này đến nay vẫn còn sống, số còn lại đã chết vì rất nhiều lí do, sẽ làm chứng cho quả quyết của tôi. Không phải ai được bác Đông gái đỡ đẻ cũng đều trở thành người tử tế. Khoảng 10% những kẻ vô tích sự, 10% bọn lưu manh trộm cướp, 10% những kẻ giả danh và bè lũ đạo đức giả ( bọn này đích thị cũng là lũ lưu manh), nhưng nhờ vào đôi tay thần diệu của bà, thị trấn quê tôi phát triển được như ngày hôm nay, đó quyết không phải là lời tâng bốc quá đáng.
Bác Đông gái được học hành cẩn thận, nghe nói học lớp hộ sinh Pháp dạy ở trong tỉnh, còn bà mụ của tôi thì không. Bà này cực xấu, trên ba chục tuổi vẫn không chưa chồng. Xưa bà bán đúc ở chợ Thị trấn. Một hôm bánh ế, bà ngồi đến tối om, chợ tàn hết rồi vẫn còn nguyên nửa gánh. Chợ chỉ còn ông gác chợ, ông cũng ế vợ, người ta chê ông nghèo không ai thèm lấy. Bà đang soạn gánh ra về thì ông đi đến, tụt quần cười hề hề, nói tui có cái ni em có đổi bánh đúc không? Bà chửi cha ông gác chợ. Ông gác chợ đè bà ra. Bà lại chửi cha ông gác chợ. Ông gác chợ tụt quần bà ra. Bà lại chửi cha ông gác chợ. Rồi bà kêu á á á… ố ố ố. Rồi bà kêu ứ ứ ứ… ừ ừ ừ. Cuối cùng bà chẳng kêu được nữa chỉ hức hức hức… hừ hừ hừ. Ông gác chợ kéo quần lên, đứng lên cười khe khe khe, nói hay không hay không. Bà cũng kéo quần lên, ngồi dậy cười hi hi hi , nói hay hè hay hè . Ông gác chợ vỗ đít bà phát, nói hay thì về nhà tui. Bà gánh bánh đúc về theo ông liền, nói về thì về, sợ chi. Đêm trở dạ bà ôm bụng rên hừ hừ, nói ông ơi đi tìm cho tôi bà mụ. Ông gác chợ say, nói tìm mô ra, mà tiền mô mà tìm. Bà ôm bụng chửi cha ông gác chợ. Ông gác chợ cho bà mấy bợp tai, nói ngu, xoạc háng ra, thò tay vào túm cổ nó mà lôi ra, chi mà kêu. Thế cùng bà làm theo ông, thế mà mẹ tròn con vuông. Bà cười he he he, nói té ra đỡ đẻ dễ không. Từ đó bà trở thành bà mụ.
Lâu nay bà chỉ đỡ đẻ cho bà con quanh Thị trấn, lần đầu bà được gọi đến đỡ đẻ cho vợ ông to trong huyện- ba tôi chỉ là ông phó ban tuyên giáo huyện ủy cũng được gọi là ông to, bà sợ lắm tính không đi nhưng tiếc một đồng hai tiền công bà cũng liều. Bà quá ngạc nhiên khi đứng trước cửa nhà tôi, nó là cái chuồng bò bỏ không. Một ông phó ban tuyên huấn huyện uỷ lại ở cái chuồng bò bỏ không, bà không sao tin nổi. Thực ra ba mạ tôi cũng đã cất được một ngôi nhà ba gian hai chái, nhà tranh vách đất thôi nhưng cũng đủ ấm áp cho sáu anh chị của tôi. Khi ba tôi bị bắt giam vì tội tiểu tư sản phản động cũng là lúc cả nhà tôi bị lùa vào cái chuồng bò bỏ hoang. Ngôi nhà ấy được trưng dụng làm nơi hội họp của cả xóm. Chỉ ba ngày sau, ba tôi được thả ra, được trả lại thành phần, từ bỏ thành phần tiểu tư sản phản động, vinh dự trở về thành phần cùng đinh, nói chữ là thành phần dân nghèo thành thị, thành phần mà bất cứ ai sinh ra và lớn lên ở đây cũng phải mơ ước. Thành phần thì được trả nhưng ngôi nhà thì không. Ngôi nhà ba gian hai chái không hề phản ánh đúng thành phần cùng đinh, nó là nhà của thành phần trung nông. Nếu ba tôi dám từ bỏ thành phần cùng đinh, nhận lấy thành phần trung nông, lập tức chúng tôi sẽ vĩnh biệt cái chuồng bò rách rưới hôi hám, trở về ngôi nhà yêu quí của mình.
Nhưng ba tôi không ngu cũng không điên, ông thà ở cái chuồng bò khốn khổ khốn nạn chứ không bao giờ rời bỏ thành phần cùng đinh, thành phần quí như vàng. Thực tế chứng minh ba tôi hoàn toàn đúng đắn. Nhờ vào thành phần cùng đinh, anh cả tôi là người đầu tiên của tỉnh được đi học Liên Xô- một sự kiện long trời lở đất đối với dân Thị trấn, cho đến tận bây giờ vẫn có người nhắc đến với niềm tự hào lẫn ghen tị. Ròng rã sáu năm trời gia đình tôi phải sống trong cái chuồng bò chật chội, hôi hám. Không một ai tỏ ra ân hận vì sự đánh đổi quá to lớn, có thể nói đó là sự đánh đổi trời cho, không dễ gì có được. Chỉ có tôi là ghê rợn khi biết mình phải sống chung với nó.
Từ trong khe hẹp, tôi mở mắt nhìn ra Đời, tức là cái chuồng bò. Lúc đầu tôi không nhìn thấy gì ngoài cái háng bà đỡ đang dạng ra choán cả tầm mắt. Bà vẫn nhai trầu bỏm bẻm, nói nín thở, rặn mạnh đi em. Mạ tôi tự nhiên thức tỉnh, gào thét điên cuồng, hình như tôi vừa làm gì đó khiến mạ tôi rất đau. Tôi không biết phải làm sao để mạ tôi đỡ đau. Một mớ dây dợ đang cuốn chặt lấy tôi, không cách nào thoát ra khỏi chúng. Tôi đạp chân phải một cái, cốt để rút chân ra khỏi hai sợi dây ruột đang bó quanh cổ chân. Mạ tôi hét một tiếng thất thanh.
Tôi buộc phải dừng lại, mở mắt nhìn ra khe hở hẹp. Vẫn cái háng to bè của bà đỡ, nhìn rõ những sợi chỉ vá đũng quần của bà đã đứt tung rời ra, để lộ một vệt da trắng nhỡn. Tôi không thích cái háng bẩn thỉu ấy một chút nào. Tôi cố đạp một cái nữa và vui mừng khi biết cả hai sợi dây ruột buộc cổ chân đã tuột ra. Bà đỡ cúi xuống săm soi, mắt sáng lên, nói đầu nó ra đây rồi nì. Bà vẫn kiên quyết không chịu xếp háng lại, thậm chí mỗi lúc mỗi dạng ra, cái vệt da trắng nhỡn dường như nứt toác, chạy thẳng xuống bẹn, bóc trần một nhúm lông quăn queo ghê tởm. Tôi biết chắc chắn Đời không phải là cái háng thô bỉ ấy và quyết tâm đưa tầm mắt mình vượt ra khỏi nó, nhưng chịu, tuồng như háng bà mỗi lúc mỗi xoè ra.
Tôi ưỡn ngực rướn lên. May mắn làm sao sợi dây ruột cuốn quanh bụng bỗng bung ra, tuy vẫn đeo chặt lấy rốn, làm cho tôi khoan khoái vô cùng. Bây giờ chỉ cần thoát khỏi sợi dây ruột cuốn quanh cổ là tôi có thể thoải mái chui ra Đời, chí ít cũng thoát khỏi cái háng mông muội ghê rợn án ngữ tầm mắt rất khó chịu. Mạ tôi cũng đã bớt kêu la, bà chỉ thoi thóp thở và rên ư ử, có lẽ bà đã quá mệt. Tôi bình tĩnh xem xét lại tư thế của mình sao cho chỉ cần đạp mạnh một cú nữa là nhào ra Đời.
Chừng tám giờ tối, mạ tôi vặn mình liên tục. Tôi hết đảo bên này lại đảo sang bên kia. Trạng thái rơi tự do làm tôi nôn nao khó chịu. May thay khi tôi hết chịu nổi cũng là lúc hai giây chằng quấn quanh bụng bung ra. Tuyệt vời! Nhẹ nhàng thoải mái quá! Có một niếm phấn khích chui từ hậu môn, vào khoang bụng, qua cổ họng rồi lên đầu. Niềm phấn khích màu đỏ nâu, mát rượi. Ngắm lại lần nữa thành bụng đầy dây nhợ của mạ tôi trước khi vĩnh biệt chúng, tôi cố lật nghiêng người, dùng hết sức bình sinh đạp mạnh. Mạ tôi rú lên, tiếng rú đau đớn và tuyệt vọng, ôi con ơi! Tiếng rú làm tôi giật mình, nhưng không vì thế tôi từ bỏ ý định chui ra, thậm chí còn quyết tâm hơn. Cần phải nhanh chóng thoát khỏi khoang bụng chật hẹp tăm tối, chiếm lấy một phần không gian rộng rãi giữa Đời. Vào lúc này điều đó cũng không quan trọng lắm, tôi không hình dung được và cũng không muốn hình dung mình sẽ được Chúa Trời bố trí ở vị trí nào, cao thấp rộng hẹp ra sao. Tôi nỗ lực ra đời là để mau chóng thoát khỏi cái háng mông muội che khuất tầm nhìn, ít ra phía sau cái háng mông muội kia cũng có cái gì đó hay lắm.
Sau này lớn lên tôi nhận ra suốt cuộc đời tôi luôn luôn bị những cái háng mông muội che lấp tầm nhìn, lúc nào tôi cũng bận rộn với chúng nhưng chưa bao giờ say đắm chúng. Càng ngày tôi nhận ra mối nguy hiếm và giá trị thiêng liêng của những cái háng, tôi ghét chúng nhưng chưa bao giờ đủ can đảm rời bỏ chúng. Chuyện này nói sau.
Mạ tôi kêu la rú rít mỗi lúc mỗi dữ dội hơn, thậm tệ hơn. Bà vừa van xin tôi đừng làm khổ bà nữa vừa kêu rên đời bà thực chẳng ra làm sao. Đặc biệt bà chửi ba tôi như chửi chó. Khi lên cơn kịch phát, mạ tôi mang tên cúng cơm ba tôi ra réo, điều mà ngày thường không bao giờ bà dám hé môi. Không khảo mà xưng, bà nức nở rú rít khai man tội trạng của ba tôi đã làm bà ra nông nổi này, cứ như tôi là kết quả sự hiếp đáp vô lương.
Trong đau đớn cùng cực, mạ tôi vẫn còn nhớ cần kể ra những gì và giấu đi những gì, chủ yếu bà lờ tịt cái việc chính bà luôn luôn gợi ý thúc dục ba tôi, một cách tinh vi ranh mãnh, làm ra “ cái nông nổi này” là tôi đây. Tôi thấy hơi tự ái, có lẽ tủi thân thì đúng hơn. Dù thế nào tôi cũng là kết quả của tình yêu, chí ít cũng là tình vợ chồng, tệ nhất cũng là kết quả một thỏa thuận lâu dài hay tức thời. Chuyện này chỉ ít nữa tôi sẽ kể, bây giờ mọi người hãy cứ tin tôi đi.
Bây giờ là giây phút quyết định, chỉ cần rướn thêm một chút nữa là đầu tôi sẽ tọt hẳn ra ngoài. Tôi thu mình lại chút ít, dùng hai đầu gối tì mạnh vào thành bụng mạ tôi, một hai ba… tôi ẩy mạnh. Chị Ba reo lên, vỗ tay bem bép, nói a em ra rồi em ra rồi mạ ơi! Tiếng reo cô bé mười ba tuổi mới trong trẻo làm sao. Tôi yêu chị tôi ngay từ giây phút đó.
Tôi cảm thấy phấn khởi vô cùng, muốn bay ra ngay lập tức. Niềm phấn khích lại xuất hiện, cuồn cuộn chui vào hậu môn, vào khoang bụng, chui qua cổ rồi lên đầu. Niềm phấn khích màu đỏ nâu mát rượi, nguồn năng lượng cần thiết giúp tôi hoàn tất giai đoạn cuối cùng: vượt qua cửa tử cung chật hẹp, phóng thẳng ra Đời.
Hoàn toàn đúng như vậy nếu tôi không thấy con chuột nhắt, không phải, ba bốn con chuột nhắt từ dưới đống rơm lót nền chuồng bò chui ra. Có lẽ không phải nốt, hình như chúng chui ra từ cái háng mông muội đáng ghét kia.
Những con chuột bé tí, chỉ bằng đầu ngón tay út lại có những đôi mắt rất to, ánh lên vẻ lấc láo xỏ xiên ngay khi chúng vừa sinh ra, đang thao láo nhìn tôi. Tất nhiên tôi không sợ, không việc gì phải sợ lũ súc sinh có trọng lượng nhỏ hơn một ngàn hai trăm lần trọng lượng của tôi.
Trong tôi dâng lên một nỗi căm hờn và khinh bỉ chúng, nỗi căm hờn và khinh bỉ vô lối vì lũ chúng chẳng động gì đến tôi cả, có khi chúng cũng giống chị Ba đang tự nguyện làm cổ động viên cho sự ra đời chính đáng của tôi. Mặc kệ, tôi không thích chúng, thế thôi. Tôi diễn đạt sự chống đối lũ chuột nhắt bằng việc co mình lại tụt sâu vào cái xà lim tăm tối của mình.
Tất cả lập tức phản đối. Mạ tôi rên rỉ , nói ra cho mạ với con ơi. Bà đỡ há hốc mồm, hai tay ôm đầu kêu lên, nói răng lạ ri hè răng lạ ri hè. Bà dớn dác tính tháo lui. Bắt gặp cái nhìn nghiêm trọng của ba tôi, bà bèn bẽn lẽn ngồi xuống cười chữa thẹn, nói thằng ni rồi ghê gớm lắm đây. Buồn cười bà đã gọi tôi bằng thằng khi tôi chưa kịp phơi bày chứng chỉ đàn ông của mình.
Ba tôi ngồi xuống cạnh bà đỡ, nói con tui đứa mô cũng lì rứa đó. Chị cứ yên tâm. Cùng lắm tui thọc tay vào kéo cổ nó ra. Câu này y chang câu chồng bà đã khuyến dụ bà khiến bà tự tin hơn, bà lom lom nhìn vào hõm sâu, nói anh coi nì, mở to ri răng nó vẫn không chịu ra. Chị Ba ngồi tựa cột khóc thút thít, thỉnh thoảng lại bò tới vỗ vỗ nhẹ vào bụng mạ tôi, nói ra đi cho rồi, mạ khổ lắm em nờ.
Một tiếng sấm đanh gọn xoẹt qua nóc chuồng bò, tiếp liền là một trận mưa dữ dội kéo dài hơn một tiếng đồng hồ, mưa như xốí, có lẽ hơn 100 li, Thị trấn hiếm khi có một trân mưa to như thế. Tiếng mưa cùng với tiếng sấm làm cho tôi sợ, mặc kệ mọi người ra sức thúc dục tôi vẫn chẳng dám chui ra.
Bác Đông gái hiền lành phúc hậu hay tin tôi không chịu chui ra Đời cũng phản đối quyết liệt. Từ trên giường bệnh bác phát lệnh truyền khẩu cho bà đỡ là phải bóc – xép khẩn cấp. Bóc – xép là gì? Đó là một từ tiếng Tây, dịch ra tiếng Việt là cưỡng chế các phần tử chống đối ngay trước cửa tử cung. Bác Đông gái trao cho chị Ba một cái kẹp sắt mạ kền có đính miếng cao su hay bọt biển gì đấy ở hai đầu kẹp, đó là vũ khí chuyên chế sinh sản.
Khi có vũ khí trong tay, đáng ra bà đỡ phải biết trước sau tôi cũng phải đầu hàng vô điều kiện, không việc gì phải vội vã, thế mà bà đã hành động điên rồ như một kẻ thua cuộc. Không thèm nhúng nước sôi tiệt trùng, bà xộc vũ khí đầy mồ hôi tay vào âm đạo, kẹp lấy hai thái dương của tôi. Bà kẹp rất mạnh, lôi ra cũng rất mạnh, dù tôi đã hoàn toàn chấp nhận thua cuộc trong cuộc đối đầu “ai thắng ai” giữa tự do một mình và tự do hỗ lốn. Một tiếng “phoạp” vang lên cùng với tiếng reo ồ tất cả những ai đang vây quanh âm hộ đẫm máu của mạ tôi.
Tôi khóc thét. Tiếng khóc đau đớn và tức giận vang lên trong cái chuồng bò mười bốn mét vuông chẳng làm ai động lòng. Người ta tranh nhau đoán trọng lượng của tôi là hai cân chín hay ba cân ba, tranh nhau đoán mặt tôi giống mạ tôi, ba tôi, hay ông bà cụ kị tôi. Rốt cuộc tất cả đều khẳng định mặt tôi giống ba tôi như lột, rõ là thói xu nịnh truyền kiếp.
Chưa hết, người ta còn tranh nhau ca ngợi tiếng khóc vang dội của tôi như một tín hiệu tốt lành về một tương lai cực kì tươi sáng dành cho tôi. Vớ vẩn! Tôi đang đau chết đi được. Hành động khủng bố trắng trợn của bà đỡ nhân danh chuyên chính sinh sản đã làm tôi bị thương, một vết xước 0.3cm dưới sau đuôi mắt trái đang chảy máu.
Chẳng có ai thèm quan tâm, vả, nếu có quan tâm cũng chẳng có ai phân biệt được máu của vết thương dưới sau đuôi mắt trái với máu sinh sản đang tràn ngập cơ thể tôi. Bà đỡ lấy câu liêm đã nung đỏ cắt cái rau cái xoẹt. Cái rau được ba tôi nhanh chóng chôn vào bình rượu bốn lít với đôi mắt sáng ngời. Nhờ nó mà ông có thể chạy bộ trên mười ki lô mét, gánh nặng trên năm mươi cân, ngồi họp trên bốn tiếng đồng hồ, làm tình trên ba mươi phút. Giời ơi, thế mà thơ ca khi nào cũng nức nở về nơi chôn rau cắt rốn của con người.
Tôi đang đói chỉ muốn ăn, thế thôi. Trong tôi hoàn toàn không có cảm xúc chào đời. Mạ tôi đã lịm đi sau bốn tiếng đồng hồ sinh nở. Ba tôi đang đào rãnh nước quanh chuồng bò, ra sức chống cự với đám nước đái bò lúc nào cũng sẵn sàng tràn vào nền chuồng bò. Mưa lớn làm nước từ ngoài đường cái quan tràn xuống chuồng bò. Ba tôi cuốc cuốc đào đào đến kiệt sức, nước từ đường cái quan vẫn không thôi đổ xuống, mối nguy hiểm làm cả nhà tôi lo lắng. Khéo không mạ tôi sẽ bị nhúng trong nước lạnh, điều kiêng kị vô cùng đối với đàn bà vừa qua cơn vượt cạn
Bà đỡ vui mừng thoát qua một ca đẻ khó, nhận một đồng hai tiền công ra về cùng với cái háng mông muội và vĩnh viễn không bao giờ trở lại. Bà đã chết khi lội qua một quãng nước ngập, tụt xuống hố sâu. Khi người ta tìm thấy thì bà đã trắng nhợt, tay cầm chặt khư một đồng hai tiền công, giá phải trả cho sự ra đời của tôi.
Ngày 30-4 của tôi
Có một ngẫu nhiên tuyệt vời, buổi tối tôi bị bóc- xép, tức bị chuyên chính sinh sản, thuộc về ngày 30 tháng 4, “ngày đất nước hòa bình thống nhất, non sông thu về một mối”- câu cảm thán chân thật nhất của giới chính trị mà tôi nghe được.
Tôi sinh ngày 20 tháng 3 năm Bính Thân, tra
Lịch thế kỷthì đúng ngày 30 tháng 4 năm 1956. Lúc đầu tôi có tên là khác sau vì hay đau ốm quá, mạ tôi “ bán”
cho thầy, thầy đặt cho tên là Quang. Ông cu Nầy, thầy nửa nắng quê tôi, chẳng hiểu vì sao người ta gọi ông cu Nầy là thầy, vì ông không làm thầy thuốc cũng chẳng làm thầy cúng. Trẻ con trong Thị trấn đứa nào khó nuôi đều “bán” cho ông, rất lạ đứa nào qua tay ông cũng đều khoẻ mạnh, chưa ai chết dưới năm mươi tuổi.Tôi vẫn gọi ông cu Nầy bằng bọ cho đến năm 18 tuổi, tuy ông không nuôi tôi ngày nào. Hồi tôi mới hai, ba tuổi, ngày nào hễ qua ngõ nhà tôi, ông đều dừng lại vén quần đái, ho mấy tiếng, nói cu Quang mô rồi, con bọ mô rồi? Lập tức tôi lon ton chạy ra. Ông nói ngoan không, tôi nói ngan, ông nói giỏi không, tôi nói chỏi.
Tôi nhón chân rướn cổ xem chim ông, há hốc mồm không hiểu vì sao lại có thứ chim to đen lông lá rậm rì như vậy. Ông cho tôi cầm chim ông, nói ngoan rồi ngày mô bọ cũng cho vọc cu bọ nghe không, tôi dạ và rụt rè cầm chim ông, sung sướng như được nhận phần thưởng lớn lao.
Lớn lên một chút, chừng chín, mười tuổi ông không cho tôi cầm chim ông nữa. Lâu lâu gặp, ông bắt tôi kéo quần ra cho ông xem. Ông ngồi xổm, ngó nghiêng soi rất kĩ, rồi búng một phát, nói chưa được, chả hiểu chưa được cái gì, vì sao chưa được. Nhưng thôi, chuyện đó nói sau. Tôi đang kể ngày 30 tháng tư của tôi.
Vâng, đó là ngày đẹp nhất, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, trong tổng số những ngày tôi sống được giữa đời.
Tiên sinh họ Chế nói rằng những ngày ông sống là những ngày đẹp nhất, ấy là ông nói phét, kì thực đời ông cũng khổ bỏ bà. Tôi bốc phét rất rất nhiều thứ nhưng riêng chuyện này thì không. Với tôi, ngày 30 tháng 4 năm 1975 mãi mãi là ngày đẹp nhất. Vì thế tôi phải dừng lại hơi lâu về ngày này.
Đó là ngày nắng vàng tươi, tôi đinh ninh như vậy vì tất cả các tán lá cây nhãn khu tập thể sinh viên Bách Khoa đều ánh lên một màu vàng tươi rói, đến 4 giờ chiều thì cáí màu vàng tươi rói ấy tràn xuống tận các gốc nhãn, chiếc xe đạp Diamond của Ái Vân dựng ở cạnh gốc nhãn sát nhà B8 cũng toả ánh vàng. Đôi mắt đẹp như mơ của cô đang ngước lên lấp lánh vàng, sáng tươi như mắt tiên nữ.
Lần đầu tiên tôi nhìn thấy Ái Vân ngoài đời, ngôi sao điện ảnh duy nhất tôi hâm mộ đến phát cuồng, bất kì lúc nào hễ nhắm mắt lại là thấy cô đang cúi xuống sửa dép, ngời lên cái gáy trắng ngần trong phim
Chị Nhung. Đêm xem phimChị Nhung
cũng là đêm đánh dấu tôi đã trở thành chàng trai như thế nào. Năm đó tôi tròn 17 tuổi, đêm xem xong phim giấc ngủ của tôi chập chờn hình bóng Ái Vân, cả trong phim lẫn cả những gì tôi tưởng tượng, khi Ái Vân cúi xuống sửa dép, ngời lên cái gáy trắng ngần, tôi rùng mình hai ba lần và phóng phụt trong một niềm cảm khoái vô biên.Bây giờ Ái Vân đang cạnh gốc nhãn, cái cổ cao ba ngấn óng ánh vàng, đôi mắt sáng tươi lấp lánh vàng, cả cái răng khểnh xinh xinh cũng lóng lánh vàng tươi. Tôi đứng nép bên cửa sổ tầng ba nhìn trộm cô, không hiểu sao thấy cô đang đắm đuối nhìn mình. Cô cười rất tươi, nói anh gì ơi, cho em hỏi anh Quang có nhà không ạ.
Lập tức tất cả các cửa sổ nhà B8 các chàng trai đều nhô đầu ra tranh nhau nói anh đây Ái Vân ơi, anh là Quang đây- Xinh quá Ái Vân ơi-Ái Vân ơi chúng mình yêu nhau nhé.- Ái Vân ơi bỏ quách cái thằng Quang đi, thằng đó không ra cái đéo gì đâu. Tôi biết Ái Vân hỏi một anh Quang nào đó ở tầng tư, nhưng điều đó cũng không ngăn được niêm vui sướng trong tôi đang trào vọt.
Tôi đứng nép bên cửa sổ, rưng rưng một điều gì đó không thể phân tích nổi, tự nhiên ước mình hoá thành chim, hoặc con giun con kiến gì cũng được, sà xuống bàn chân nhỏ xíu trắng muốt của Ái Vân, cứ thế bò lên, bò lên mãi…
Thốt nhiên có ai đó nói Ái Vân ơi hoà bình rồi, em còn đi tìm ai. Cả nhà B8 lặng phắc chừng nửa phút rồi vỡ oà chói tai tiếng la hét, tiếng reo hò, tiếng đập bàn ghế soong nồi, ca chén, nói hoà bình rồi! Độc lập rồi! Thống nhất rồi… a ha ha đ.mẹ sướng quá!
Tôi lao xuống cầu thang, chạy như điên, không còn nhớ Ái Vân, không còn nhớ ai hết, cứ thế lao một mạch ra đường.
Chạy đến khu chuyên gia Kim Liên tôi mới đứng sững, ngơ ngẩn không biết mình định chạy đi đâu. Cả bốn dãy nhà 4 tầng khu chuyên gia tây đen tây trắng cầm cờ đỏ sao vàng chạy rật rật khắp tất cả hành lang, vọt lên cả tầng thượng, ngây ngất cầm cờ phất, nói Việt Nam chiến thắng! Việt Nam chiến thắng!
Mười chín tuổi tôi mới biết được hai tiếng Việt Nam quan trọng đến thế nào.
Một ngày tuyệt vời. Ba cánh cửa trường đại học Bách Khoa Hà nội mở toang, kẻ vào người ra đông như hội, hầu hết là sinh viên và bạn bè của họ. Những gương mặt rạng ngời khó có thể tìm thấy ở bất kì ngày nào trong thế kỉ 20. Không phải những gương mặt hóa trang hay buộc phải hóa trang của đám đông khi đối diện với những ngày lễ bắt buộc, đó là những gương mặt rạng ngời chân thật đến phát khóc.
Lần đầu tiên tôi biết thế nào là vị ngọt của hòa bình, bởi vì tôi, bạn bè tôi và vô số những ai có mặt trong ngày này đã tin đến phát cuồng rằng phía sau nó là cánh cửa tự do sẵn sàng mở toang chào đón mọi người. Đây mới là điều hệ trọng, nó quyết định thân phận của tôi sau mười chín năm loay hoay giữa Đời. Nếu không có một sự cố nào làm thay đổi căn bản và mãi mãi cuộc sống hiện thời, tôi dám chắc ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày ngọt ngào nhất mọi thời đại.
Tuyệt không có một ông bảo vệ nào lăm lăm dao kéo cắt quần loe, chẻ guốc mộc của sinh viên. Tất cả được nghỉ ngơi xả láng. Bốn nhà ăn mở cửa đón sinh viên vào ăn uống thả cửa. Không cần phải nhịn tiêu chuẩn hai cái bánh mì một mâm cơm dành cho bốn sinh viên ra quán nước đổi thuốc lá cuộn, đã có thuốc lá Đồ Sơn nhà trường phát không cho hai thằng một gói.
Trai gái được ôm vai hót cổ thoái mái trước mắt bà Đ., người đàn bà suốt đời bền gan tiêu diệt libido của người khác, trừ chồng bà, dĩ nhiên. Tôi được ôm vai hót cổ một thằng Tây, xì xồ với nó bốn năm câu tiếng Nga, ngoại ngữ sang trọng quí phái nhất thời này, tất nhiên sang câu thứ sáu thì tịt ngỏm.
Thậm chí tôi đã cả gan thò tay vọc chim thằng Tây, thứ suốt đời mơ tưởng của tôi, mà không hề sợ các “cơ sở” của bà Đ. báo lại cho bà. Nếu có báo lại chắc chắn bà cũng bỏ ngoài tai. Bà và các “cơ sở” của bà đang lo sốt vó chuẩn bị tám ngàn lá cờ giấy cho sinh viên đi diễu hành. Toàn thể libido được tha bổng. Bảo đảm nếu có người tuột quần chạy rông giữa phố, vừa chạy vừa hô “muôn năm”- tất nhiên nếu “đả đảo” lại là chuyện khác- cũng không ai bắt phạt hoặc kết tội.
Đó là ngày chị vợ anh Cả tôi, người đàn bà suốt đời thờ phụng Lôi Phong, quyết định mua một con cá chép ba cân khao cả nhà. Tiến sĩ Hằng quyết định chiêu đãi cả tầng tư nhà A4 khu tập thể Vĩnh Hồ bữa tiệc một trăm năm mươi con ếch ông nuôi cho sinh viên thực tập.
Tại đây ông đã cao giọng hát chín bài hát hai mươi năm bị cấm. Những bài hát đêm nào ông cũng thầm thì nức nở trong chăn. Mạ tôi nghẹn ngào nhận được tin anh Tư, anh Năm đã thoát qua cuộc chiến bình an vô sự với hai tấm huân chương chiến công hạng ba. Đặc biệt ông Vĩ, ông bác của tôi vẫn sống ở Sài Gòn.
Ông bác tôi vốn giàu có nhất Thị trấn, dinh tê vô Sài Gòn năm 1950, làm ba tôi luôn phải ghi hai chữ “đã chết” trong lí lịch của ông và tám đứa con ông, nay là triệu phú số một Sài Gòn, đón chào Cách Mạng bằng tám yến vàng ròng, bốn nhà bốn tầng, hai nhà máy dệt, sáu xí nghiệp lắp ráp nông cụ kiêm sản xuất hàng rào dây thép gai cho các “Ấp tân sinh”, sáu trăm ngàn dollar chưa kịp gửi ngân hàng Thụy Sĩ, đang náo nức chờ nhà tôi vào để san bớt ít của cải, mua lấy tiếng thơm là bác ruột một gia đình bảy đảng viên cộng sản.
Đến quá nửa đêm tôi mới trở về trường, phố xá tuồng như vẫn như chưa có ai muốn ngủ, vẫn rợp cờ hoa, đông đúc người qua lại, lúc lúc có ai đó hét lên như cuồng. Tôi gặp cô giáo dạy toán xác suất ở chân cầu thang nhà B8, cô ôm lấy tôi, nói ôi trời ơi, cả ngày nay Quang đi đâu. Cô kéo tay tôi chạy ù ù về nhà.
Cô hơn tôi năm tuổi, yêu quí tôi ngay từ nhưng ngày đầu nhập trường, chẳng hiểu vì sao, chỉ thấy cô hay rủ tôi đi ăn chè, đi xem phim. Tôi đạp xe chở cô đi, cô ngồi sau líu lo những chuyện gì tôi không mấy quan tâm. Vốn dĩ xưa nay vẫn được các cô giáo yêu quí, tôi không thấy có gì đặc biệt khi được cô quan tâm chiều chuộng.
Duy nhất một tối mùa đông, ngồi sau xe cô chợt ôm lấy tôi, áp ngực sát lưng tôi, nói lạnh không. Tôi nói không và cảm thấy hơi ấm từ bộ ngực non của cô đang râm ran toả khắp cơ thể. Nhưng chỉ thế thôi, cô nói gì đó, tay từ từ tuột dần xuống dưới, tôi hết vâng rồi vâng, nơm nớp lo con cu tôi đang dựng lên đụng phải tay cô. Một lần đó rồi thôi, chưa có khi nào lặp lại.
Cô kéo tôi vào phòng 8 mét vuông của cô, một đĩa thịt heo quay đầy vun, món nhậu sang trọng bậc nhất thời này, cùng với nồi miến lòng gà đã nguội. Chúng tôi không ăn, đúng hơn chưa kịp ăn, khi cô cúi xuống nhấc lồng bàn, cái gáy trắng muốt của cô đã làm tôi mờ mắt. Ái Vân cúi xuống sửa dép, ngời lên cái gáy trắng ngần. Ái Vân cúi xuống sửa dép, ngời lên cái gáy trắng ngần. Ái Vân cúi xuống sửa dép, ngời lên cái gáy trắng ngần… Như một con gấu hung dữ, tôi bế xốc cô ném lên giường.
Cô vít cổ tôi xuống, áp mặt tôi vào bộ ngực cô đã bóc trần từ lúc nào. Bản năng của giống đực dạy cho tôi cần phải làm gì. Tôi làm tình cô giáo tôi trong niềm hân hoan không phải lần đầu trong đời biết thế nào là làm tình khiến tôi cứ chọc lung tung, sốt ruột cô phải cầm lấy nhét thẳng vào hõm xác suất luôn bằng một, mà vì niềm sung sướng vô biên ngày trọng đại, không biết phải làm gì để giải toả cho hết niềm sung sướng.
Rồi cô kéo tôi vào mâm, lấy chai rượu cam rót ra hai ly, nâng ly lên mắt lóng lánh, nói chúc mừng sinh nhật Quang. Đến bây giờ tôi mới nhớ hôm nay là ngày sinh nhật của tôi.
Cái bóng
au khi tôi chào Đời, nói thế cho oách, trận mưa lớn bỗng biến thành cơn giông đêm bốc đi toàn bộ tranh tre mái chuồng bò mà ba tôi tin theo tập tục ngớ ngẩn đã bứt hết dây lạt cho mạ tôi dễ đẻ.
Gió giật điên cuồng, rơm lót nền chuồng bò bốc lên tha hồ tấp lên tôi và mạ tôi chừng vài giây rồi nhanh chóng bị gió cuốn tan tác. Gió mưa ập đếnnhanh quá, không ai kịp mặc quần cho mạ tôi. Bà trần như nhộng giữa toang hoác.
Chị Ba chồm lên che chở cho tôi. Một cơn gió giật làm chị xô nghiêng. Chị rú lên kinh hãi. Quờ quạng tìm tôi trong rơm rác, chỉ sợ tôi bị gió cuốn lên trời. Đúng vậy. Nếu ba tôi không kịp chạy sang nhà bác Đông mượn tấm bạt trùm lên, có khi tôi đã bị gió mang theo cùng rơm rạ và cứt bò khô.
Mưa đổ xuống như trút nước, có cảm tưởng toàn bộ khối nước khổng lồ của thế gian đổ xuống chuồng bò nhà tôi, sẵn sàng cuốn phăng cái thằng đầu bò có tên Phạm Quang suốt đời chẳng làm nên công cán gì, chỉ nói năng ba láp là giỏi.
Tôi không sợ. Tôi chưa có đủ trí khôn để biết sợ, nếu có đủ trí khôn tôi cũng không sợ, đời tôi rặt những nể nang chứ không có cái gọi là sợ hãi. Nếu biết sợ hãi thì lúc này đây chắc chắn tôi cũng không sợ. Một khi người ta nhận thấy Đời toàn rơm rác, cứt bò khô, ngập ngụa nước và một trời giông gió… ai muốn chung sống với nó nữa mà sợ! ( Hi hi nói phét phát cho sướng mồm, chứ nếu không biết sợ thì làm sao tôi tồn tại đến ngày nay.)
Không ai cho tôi ăn cả. Tôi thiếp đi trong cơn đói chập chờn với giấc mơ đầy thức ăn, giấc mơ thường xuyên đến với tôi trong suốt tuổi ấu thơ. Chị Ba chui vào nằm cạnh tôi từ lúc nào, ôm lấy tôi thút thít khóc, nói tội em quá em nờ. Chị nhắc đi nhắc lại hoài câu đó, nhắc đến trọn đời chị câu đó với tôi mà không thể ra tay giúp đỡ tôi được một việc gì bởi vì chị không thể có bất kì cái gì tôi cần.
Mới mười ba tuổi chị đã phải gánh vác vai trò người chị cả. Anh Cả nhờ thành tích dạy “bình dân học vụ” và nhờ vào lí lịch tuyệt hảo, chủ yếu ba tôi đã kiên cường bám trụ cái chuồng bò, đã được ra Hà Nội học tiếng Nga chuẩn bị đi Liên Xô. Chị Hai,người con thứ, đi lấy chồng cách đây mấy tháng khi chị chưa đầy mười sáu tuổi. Tối nay chị cũng không có mặt. Có thể chị đã biết tin mạ tôi trở dạ nhưng bà mẹ chồng trời đánh đời nào cho chị bước ra khỏi nhà sau bảy giờ tối.
Tôi nằm lắng nghe những âm thanh bát nháo của Đời, lòng không một chút xao xuyến. Tôi đang đói, cơn đói chập chờn trong giấc mơ ngập ngụa thức ăn. Giấc mơ màu sữa tươi bồng bềnh trôi nổi trong tâm thức
yes or nolàm tôi không tài nào ngủ được.
Hình như mưa gió đã tạnh. May mắn làm sao khi tấm bạt bắt đầu thấm nước thì mưa gió đã rời khỏi cái chuồng bò. Tôi nhầm. Mưa gió vẫn đầy trời nhưng ba tôi đã lợp xong hai mái chuồng bò.Tấm bạt được tháo tung, ánh sáng đèn măng- sông bác Đông cho mượn làm tôi chói mắt.
Tôi mở mắt. Xung quanh tôi là những gương mặt thân yêu, rồi đây tôi sẽ gắn bó bền bỉ nhiều năm trời cùng với họ. Ba tôi nhoẻn miệng cười, hàm răng trắng đều tăm tắp, vẫn trắng đều tăm tắp như thế cho đến khi ông từ giã cõi đời .
Chị Ba đang tươi tắn nhìn tôi, gương mặt tuổi dậy thì ửng hồng, cái mũi dọc dừa tuyệt vời và đôi môi tươi rói, dù ai có trang điểm bằng giời cũng không thể có. Chị có khuôn mặt duy nhất giống ba tôi, số còn lại, kể cả tôi, đều đúc từ khuôn mặt mạ tôi, khuôn mặt chẳng có gì phải xấu hổ cũng chẳng có gì đáng tự hào.
Anh Năm sáu tuổi đứng chắp tay sau đít như ông già. Anh có cái đầu loe giống hệt tôi. Mặt mũi cũng đen nhẻm giống hệt tôi. Sau này tôi biết anh giống hệt tôi đủ thứ, chỉ có một khác biệt duy nhất phân định rạch ròi tôi và anh, đó là anh làm thầy bói vườn còn tôi là nhà văn quèn. Không phải, hình như hai thứ này chỉ là một. Cả hai đều nói dối quá khứ và bóc phét tương lai, nó làm ra vẻ là người hướng đạo nhưng vai trò bất quá một kẻ mua vui.
Anh Năm nghiêm trang nhìn tôi như để xem xét có đúng tôi chui ra từ bụng mạ hay là một nơi nào khác.Cuối cùng anh gật gù kết luận , nói thằng ni mới đẻ nhỏ hè. Kết luận hiển nhiên sau nửa giờ soi xét rất nghiêm túc. Đời anh khốn nạn vì những kết luận hiển nhiên như thế, dù đầu óc không hề tăm tối.
Anh Sáu bốn tuổi ngồi xổm cạnh tôi, mặt hiền khô lúc nào cũng chảy đầy nước mũi và nhớt dãi. Anh mân mê hai cái sừng nho nhỏ trên đầu tôi với một bộ mặt nghiêm trọng, thỉnh thoảng nheo mắt suy nghĩ rất lung. Chừng như anh đang tưởng tượng phía trong hai khối u máu bất thường kia có chứa những điều gì rất kì ảo. Lát sau anh rời hai cái sừng, trố mắt nhìn như dán cái bụng cuốn chặt băng của tôi, đôi mắt tròn xoe như mắt con gái đầy lo lắng, rồi ngẩng lên ngẩn ngơ nhìn mọi người, nói răng không cho em ăn. Cột bụng em lại, đói em chừ.
Mạ tôi mỉm cười bế tôi lên, gương mặt trái xoan phủ một lớp da nâu, tái nhợt sau sinh nở. Gương mặt không có một nét nào gọi là đẹp, có chăng chỉ là một chút duyên dáng chân quê con gái Linh Giang ai cũng có, bù lại bà có sức khỏe phi phàm, suốt đời không bao giờ ốm trừ lần cuối cùng ốm để mà chết.
Bà vén vú cho tôi ăn. Tôi cố há miệng thật to hòng nuốt trôi núm vú nhưng không được. Núm vú sau bảy lần sinh nở đã bung ra qua cỡ cái miệng sơ sinh lần đầu tiên tập há. Mạ tôi nắn vú, tia sữa đầu đời bắn vào miệng tôi, sâu vào tận cuống họng, mát rượi và ngọt lịm. Không thể có gì trên đời mát rượi và ngọt lịm như sữa mẹ, phát hiện đầu đời của tôi, mãi đến bây giờ, sau bao nhiêu dâu bể đời người, vẫn còn nguyên giá trị; cho biết vì sao ta có thể mất tất cả chứ không thể mất mẹ.
Tôi uống sữa mạ tôi không biết chán cũng không biết no, chỉ khi mạ tôi quyết định giấu vú đi hoặc khi nào sữa dội ngược trào ra miệng, ướt đầm cổ áo, tôi mới chấp nhận chia lìa với Vú. Chưa bao giờ tôi ngủ trong khi bú, điều khác biệt của tôi với trẻ con toàn thế giới, điều trẻ con toàn thế giới không hiểu tôi, cũng là điều tôi không hiểu trẻ con toàn thế giới.
Tôi bú trong trạng thái hồi hộp lo âu, nơm nớp lo sợ hai bầu vú khổng lồ- niềm tự hào thầm kín của mạ tôi- bỗng dưng biến mất, hoặc chúng vẫn còn đấy nhưng nguồn sữa đã khô kiệt, hoặc nguồn sữa vẫn tràn đầy trong hai bầu vú khổng lồ nhưng chẳng còn mát rượi và ngọt lịm. Vẫn miệng ngậm vú này, tay nắm chặt vú kia, chẳng khác gì trẻ con toàn thế giới, nhưng không phải vì sợ kẻ khác giành mất phần. Tôi hoàn toàn tin tưởng lòng chung thủy vô biên của mạ tôi giành cho chồng con, dù bà cũng chỉ là thứ giống cái tầm thường luôn sống giữa rình rập điên cuồng của giống đực. Đơn giản là tôi sợ mất, cái sự mất bỗng dưng không nguyên cớ. Nỗi lo sợ ấy đè nặng tâm trí tôi không chỉ những ngày tôi sống nhờ vú mẹ, nó đeo lấy tôi dai dẳng suốt cả cuộc đời.
Mạ tôi cúi xuống hôn nhẹ lên trán tôi, nụ hôn thoảng qua, nhẹ đến nỗi tôi chỉ cảm được mùi trầu không chợt tỏa ra chợt biến mất, không hề hay biết đó là nụ hôn đầu đời sau bốn giờ tôi có mặt ở Đời. Mạ tôi giấu vú đi, nói thôi, no rồi con. Tôi tiếc nuối chia lìa Vú. Chợt phát hiện sau lưng mạ tôi có cái gì đen đen đang cựa quậy mỗi khi mạ tôi cựa quậy.
Cái bóng!
Đen và to như con gấu đen dính chặt vào vách là cái bóng của mạ tôi. Một vật sống đen ngòm, không mắt không mũi không mồm nhưng chắc chắn một vật sống, lặp lại y xì hình dáng và hoạt động của mạ tôi. Tôi ngạc nhiên vô cùng. Ở đâu ra cái vật sống luôn luôn dính chặt lấy mạ tôi, kiên trì lặp lại vô duyên những hoạt động chẳng có gì là thú vị của mạ tôi?
Nó là cái gì vậy, cái bóng thì rõ rồi nhưng nó là cái gì? Tôi không thể hiểu, không cách gì hiểu nổi. Chỉ một lát sau, khi mạ tôi đưa tôi cho ba tôi bế thì tôi lờ mờ nhận ra: hình như ai cũng có cái bóng của mình. Cái bóng ba tôi nằm dài trên nền nhà, vươn ra ngoài cửa, thò cái đầu cũng rất dài ra tận đống rơm. Bóng của anh Năm, anh Sáu đang lúi húi quanh nồi khoai, lúc la lúc lắc trông rất buồn cười. Hai cái bóng đang ăn khoai, chúng lấy khoai từ trong nồi, lúi húi bóc vỏ, nhanh chóng nhét vào miệng, một ví trí giả định trong đám đen hình oval dính trên cổ gọi là mặt. Chúng ăn hết miếng này đến miếng khác. Cái bóng ăn khoai, cái bóng ăn cái bóng khoai. A, củ khoai cũng có bóng, thật tuyệt vời!
A, nồi khoai cũng có bóng, những cọng rơm cũng có bóng, cả những con kiến bé tí đang bò lên cột nhà sau trận mưa dầm dề ngập hết hang ổ của chúng cũng có những cái bóng tí hin. Bóng chị Ba đang bó gối chăm chú nhìn hai cái bóng ăn khoai, hầu như nó không cử động, ngồi im phắc hơn nửa tiếng trên vách đất đã lở lói gần hết.
Tất cả đều có bóng, thế còn cái bóng của tôi đâu? Hình như nó nằm dưới lưng tôi, hoặc lọt thỏm vào cái bóng to đùng của ba tôi. A, kìa! Nó kia rồi! Hệt con chó đen nằm ngửa. Tôi thử vung tay lên, nó cũng vung tay lên. Tôi vung chân lên, nó cũng vung chân lên. Được rồi, để tao đái xem mày có đái được không nào.
Tôi đái. Một dòng nước như sợi chỉ trắng vọt ngược lên. Cả nhà ồ lên ca ngợi cái sợi chỉ trắng vọt ngược ấy, biểu hiện năng lượng sống dồi dào một đứa bé sơ sinh. Tôi không quan tâm lắm những lời ngợi ca thái quá có phần ngộ nhận ấy, tôi quan tâm cái bóng của tôi. Nó đái rồi. Cái bóng đái ra tia bóng võng ngược lên trần chuồng bò, rơi xuống đúng bóng nồi khoai, nơi hai cái bóng anh tôi đang hí húi nhặt bóng khoai ăn. Thật chẳng ra làm sao, đến đái ỉa nó cũng háo hức làm theo, hỏi có việc gì trên đời nó không háo hức làm theo, khốn thế!
Tôi nằm im suy nghĩ về cái bóng nhưng không nghĩ được một cái gì cho rành mạch, bán cầu trái cô đơn của tôi lúc này chẳng khác gì một miếng đậu phụ sống, trơ lì và nhạt hoét. Tôi buồn ngủ, hễ khi nào tôi đòi biết những thứ biết cũng chẳng để làm gì là tôi buồn ngủ.
Giấc ngủ chìm đi mê mệt trong vòng tay ba tôi, sau đó trong vòng tay chị Ba tôi, cuối cùng trong vòng tay mạ tôi. Bốn giờ sáng, tôi mở mắt và phát hiện ra mình đang nằm lọt thỏm giữa chị Ba và mạ tôi. Anh Năm, anh Sáu đang quặp cổ nhau nằm phía dưới chân tôi, cạnh nồi khoai ăn dở.Tất cả những cái bóng đều biến mất. Có thể chúng đã ngủ, có thể chúng đã chết, tôi không biết và cũng không quan tâm. Thốt nhiên tôi thấy buồn, nỗi buồn mơ hồ bắt đầu từ đầu ngón chân trườn dần lên đến miệng và dừng lại ở đầu. Tôi thè lưỡi liếm nỗi buồn của tôi, nỗi buồn nhạt hoét, hoi hoi mùi sữa.
Tiếng gà cánh ba bất chợt rộ lên, lúc xa lúc gần từng đợt từng đợt kéo dài đến phát chán rồi đột ngột tắt lịm.Tôi nằm nhìn ra cửa, vệt sáng đèn măng sông kéo dài tận cây rơm, khoảng sáng im lìm cho tôi biết một khoảng Đời đơn điệu và nghèo túng sẽ kéo dài mãi cho đến muôn sau.
Mấy phút sau tôi phát hiện ra cái bóng của ba tôi đã thức dậy từ lúc nào. Nó không còn vươn dài ra sân mà lù lù trên vách, tựa một con bò đen ngồi xổm. Ba tôi thức dậy lúc bốn giờ, không hề phát hiện ra tôi đã thức giấc cùng ông, đang mở to mắt ngắm nghía tấm lưng gầy guộc, bẻ gập xuống của ông. Ông ngồi bó gối im lìm nhìn ra cửa như đang đợi ai đến, đợi một điều gì đến. Người tử tế không ai đến giờ này, phúc lộc tất nhiên giờ này cũng không gõ cửa. Chỉ có những rủi ro đang rình rập, chúng vẫn thường nghiến nát số phận người ta vào những thời khắc yên bình nhất.
Từ khi ra đời đến giờ đã gần bảy tiếng, tôi không nghe ba tôi nói một câu nào, một tiếng cũng không. Ông ngồi bó gối nhìn ra cửa hơn một giờ không động cựa, không rõ ông đang toan tính những gì. Rất lâu sau ông chống gối đứng lên tiến về nồi khoai ăn dở của cả nhà, ngồi xổm hí húi bóc khoai ăn
Ông ăn hết tất cả những mụn khoai đụt nhỏ xíu còn sót lại trong nồi rồi ngồi im nhìn đau đáu vào đám vỏ khoai. Một giọt nước mắt tứa ra từ khóe mắt trái, động thành giọt lăn trên má trái. Một giọt nước mắt khác tứa ra từ khóe mắt phải, động thành giọt lăn trên má phải.
Tuồng như ba tôi không biết ông đang khóc, chỉ mải mốt nhìn đám vỏ khoai, mặc cho nước mắt giọt vắn giọt dài tràn trề trên gương mặt sáng ngời quí phái của ông. Ba mươi mốt năm sau tôi mới biết vì sao ông lại khóc trong đêm đầu tiên tôi có mặt ở đời. Nhưng đấy là chuyện của ba mươi mốt năm sau.
Mạ tôi
Ba tôi không yêu mạ tôi, đó là một sự thật suốt cả cuộc đời không một lần cả hai người hở ra với con cái. Tôi biết được nhờ láu lĩnh và thói quan sát bẩm sinh.
Ba tôi là người đàn ông ở ngoài mơ ước đẹp nhất của mạ tôi. Ông có vẻ đẹp trời phú, một trí nhớ phi phàm, một giọng hát ấm áp, trong vắt và một cái bằng diplome ở vị trí đầu bảng. Đến ông bác Vĩ, người uy vọng nhất Thị trấn, hảy còn nể trọng nói gì đến cô gái nhan sắc tầm thường, một chữ bẻ đôi cũng không biết, chị của 9 đứa em đói rách lầm than là mạ tôi đây.
Nhà ông ngoại ở xóm Dừa, xóm nghèo nhất Thị trấn. Nếu trai gái trong xóm không lấy nhau thì họ đành chịu ế, chẳng ma nào xóm khác muốn bạ men. Cái thời trai gái 16, 17 tuổi là đến tuổi dựng vợ gả chồng trong khi mạ tôi đã 25 tuổi đầu vẫn chưa có nhà nào trong xóm đánh tiếng hỏi han, đủ biết bà không có khả năng quyến rũ bất kì chàng trai nào trong xóm.
Người ta vẫn khen mạ tôi khỏe mạnh hiền lành nhưng ai cũng sợ đoàn tàu há mồm chín đứa em có thể nuốt chửng hai chục lon gạo một ngày. Mạ tôi thủ phận gái ế, ngày đêm sấp mặt kiếm ăn cho cả nhà. Cái từ sấp mặt rất đúng đối với bà cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Sáng đội chồng nón ra chợ bán buôn, chồng nón ba chục cái đè cổ bà cúi gập. Chiều ra đồng cày cuốc, lưng bà hất lên gập xuống trên cánh đồng chua mặn của xóm Dừa, cánh đồng chẳng có gì tươi tốt ngoài cỏ lác cỏ năn và cá lia thia. Tối gò lưng gập mặt lợp nón khâu nón đến nửa đêm, vùi mặt trong đống lá nón dưới chân đàn em ngủ như chết. Ba giờ sáng bò dậy nấu nước cho cha, hâm cháo cho em, dọn nhà quét sân giặt dũ áo quần … Sáu giờ sáng lại đội chồng nón ra chợ. Một ngày của mạ tôi là vậy, chưa một lần bà ngước lên tự hỏi rồi đời mình sẽ ra sao, chồng con rồi sẽ thế nào.
Một lần đang bữa cơm ông ngoại chợt nhìn mạ tôi chăm chăm, nói mi biết thằng Vũ con ông cu Cuông không Thu? Mạ tôi lườm ông ngoại rồi thở hắt, nói thôi đi bọ ơi, hỏi chi hỏi lắm. Câu hỏi đã quá nhàm khiến mạ tôi phát chán, từ năm 17 tuổi bà đã nghe ông ngoại hỏi vậy rồi, từ bấy đến khi bà 25 tuổi ông ngoại đã hỏi đi hỏi lại hàng trăm lần. Có lẽ đó không phải là câu hỏi, đó là sự tiếc nuối.
Ông cu Cuông là ông nội tôi, người bạn nối khố chí thân của ông ngoại tôi. Ông bà nội tôi thuộc dân xóm Dừa, nghèo hèn chẳng khác gì ông bà ngoại. Họ đã hẹn với nhau trong cả đống con cái của hai nhà nhất định phải có một đôi thành vợ thành chồng, đó là thẳng Vũ( ba tôi) và con Thu ( mạ tôi). Hẹn hò chưa được bao lâu thì ông bà nội tôi bị chết bom, bốn đứa con được người anh ruột là ông bác Vĩ, nhà tư sản số một tỉnh, đem về nuôi cho ăn học rất tử tế, nhanh chóng biến họ thành công tử, tiểu thư giàu sang phú quí, dập tắt luôn niềm hy vọng mong manh cuả ông ngoại tôi. Thỉnh thoảng ông ngọai tôi vẫn kể lại lời hứa hẹn năm xưa, mạ tôi không buồn nghe, thưởng bỏ ra sau nhà khóc, bà thấy nhục hơn là nuối tiếc.
Cơm xong mạ tôi bưng mâm đi ra giếng, vừa ra tới cửa ông ngoại tôi gọi giật, nói Thu, đứng lại bọ nói. Mạ tôi ngạc nhiên nhìn ông ngọai. Ông ngoại làm bộ như không có gì quan trọng, nói chiều ni ông Vĩ tới nhà, té ra trước khi chết ông Cuông có nhắn lại cho ông Vĩ lời hẹn của tụi tao, rứa mới hay chơ!
Mạ mình suýt đánh rơi cái mâm nhưng bà trấn tĩnh lại được, bà lườm ông ngoại, nói thôi đi bọ, tin chi ba chuyện tầm vơ. Mạ tôi bưng mâm quay ngoắt, nhưng kể từ đó bà đi không vững nữa, đất trời quanh bà chao đảo ngả nghiêng.
Tới gần giếng mạ tôi ngồi sụp xuống, bà ngồi ngửa mặt trông trăng cả tiếng đồng hồ. Và bà đi, cứ ngửa mặt trông trăng như thế bà đi như kẻ mộng du ra đến tận bờ sông Linh. Lần đầu tiên mạ tôi khỏa thân dưới trăng, bà ngập vào sông Linh bơi lội tha hồ cho tới khuya. Trăng 11 đã tàn từ lâu mạ tôi vẫn không về, bà ngồi thu lu trên bờ đê nhìn trời đang rựng sáng. Bà sợ phải về nhà, hai ông bà già ốm yếu già nua và 9 đứa em đang nằm ngổn ngang trên sạp nứa sẽ làm tắt ngúm giấc mơ đẹp nhất của đời bà, giấc mơ chàng công tử đẹp trai với nàng nhà quê đói rách rốt cuộc vẫn chỉ là giấc mơ hão .
Thế rồi một ngày ba tôi xuất hiện trước ngõ với tư cách chàng rễ đón mạ tôi về nhà chồng giữa năm trăm cây đèn lồng, một ngàn chiếc chiếu hoa do ông bác Vĩ bỏ tiền ra rải dọc lối vào ngôi nhà tranh rách nát mười hai miếng ăn ông bà ngoại của tôi. Sự kiện này làm rúng động Thị trấn bốn ngàn nóc nhà, duy nhất chỉ có hai nhà lầu, đó là nhà ông bác Vĩ và nhà ông Hiệp Phú cũng là ông bác tôi nốt. Một giàn kèn đồng Tây bốn mươi người thuê tận Thị xã Hoa Hồng đồng loạt cất tiếng vang rền khi ba tôi bước vào ngõ làm ngất ngây hết lượt dân Thị trấn.
Cả nhà ông bà ngoại tôi đứng ngẩn ngơ nhìn ra như là chuyện của ai đó chứ không phải của nhà mình. Ông ngoại tôi véo đùi hai ba lần, nói oa chà, mơ hay thiệt ri bay! Dù đã được báo trước mạ tôi cũng không khỏi bàng hoàng. Những gì đang diễn ra trước mắt khiến bà choáng ngợp đến nỗi không đứng vững được nữa. Mạ tôi ngã khụy xuống sân nhà, lấm hết bộ quần áo lụa màu mỡ gà ông ngoại tôi phải bán đi một con bò con mới mua được.
Trời, Phật tới nhà cũng đến thế mà thôi.
Mạ tôi ngây ngất đến độ coi sự dửng dưng của ba tôi trong đám cưới cũng như trong suốt ba mươi đêm bà vò võ đợi ông trên chiếc giường gỗ lát bốn chân quì rộng rinh rang, chạm trổ tinh vi trong căn buồng thơm nức mùi gỗ pơ- mu, không một lần ông bước vào, cũng chỉ là một thử thách thánh thần trước khi ban cho bà thứ ân huệ vĩnh hằng.
Đêm thứ ba mươi mốt ba tôi mới chịu vào buồng, khi không còn tìm được bất kì lí do chính đáng nào để từ chối hợp cẩn với người đàn bà hơn mình hai tuổi, vì những thề thốt nặng lời của cha mẹ hai bên, buộc phải coi nhau là vợ chồng. Ông vén tấm màn che cửa uể oải bước vào, uể oải ngồi xuống cạnh mạ tôi. Và ông ngáp, cái ngáp kiêu ngạo đáng ghét.
Mạ tôi giấu hân hoan vào bộ ngực đầy, giấu luôn đôi mắt mắt long lanh chứa chan hy vọng. Bà ráng làm mặt giận, cố hắt ra một câu suốt ba mươi đêm vò võ một mình bà đã nhẩm thuộc làu, nói răng không đi luôn đi, vô đây mần chi. Nhưng bà đã không nói được. Khi ba tôi cầm nhẹ tay bà, nói giận anh không, bà đã khóc òa.
Sau một canh giờ ba tôi ngạc nhiên nhận ra tòa thiên nhiên trong vòng tay ông không phải là thứ bỏ đi, còn hơn hẳn tất cả những người đàn bà quyền quí đã từng rủ rê ông qua đêm không cần ở ông một điều gì, kể cả một lời hứa suông. Thật không ngờ, khuôn mặt rám nắng đã không có gì hấp dẫn lại còn lẫn một chút đần độn quê mùa của mạ tôi lại che giấu một thân hình tuyệt hảo với làn da trắng lịm tươi hồng và cặp tuyết lê nở căng, vống ngược lên tràn trề vòm ngực. Đặc biệt bộ đùi non thon đều đến tận gót chân, mãi khi bà đến tuổi năm mươi chúng vẫn là niềm mơ ước của các cô gái tân thời.
Nhưng đấy không phải là tất cả, đấy chẳng qua là những dụ dỗ ban đầu của ái ân. Điều khiến ba tôi đi hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác là khả năng sẵn sàng đáp ứng vô điều kiện của mạ tôi trước những gì ba tôi đòi hỏi với niềm háo hức dâng hiến đến kiệt cùng. Từ đêm hợp cẩn đầu tiên cho đến đêm cuối cùng trước khi ba tôi lìa đời, ngay cả khi mệt mỏi ốm đau, ngay cả khi lâm vào tình trạng khô kiệt tuổi mãn kinh cũng không vì thế mạ tôi làm ba tôi phải thất vọng.
Với năng khiếu ân ái thiên bẩm, mạ tôi là người đàn bà duy nhất tạo cho ba tôi có được niềm kiêu hãnh của đàn ông bất kì lúc nào ông lâm trận. Mỗi lần ngập vào mạ tôi, ba tôi tựa hồ đang bơi lội trong bể tình không bến bờ nhiều bất ngờ thú vị. Dường như sau mỗi lần sinh nở, bể tình ấy lại đầy thêm, phủ một lớp sương mù bí ẩn và gợi cảm, sực nức mùi giống cái khê nồng, rủ rê mời gọi ba tôi chìm đắm vào đê mê.
Đến chết ba tôi cũng không yêu mạ tôi, bằng chứng hiển nhiên là ông không hề nhớ bà trong liên miên những lần xa nhà đi công tác. Mặc dù vậy, mỗi lần rơi vào vòng tay ân ái của mạ tôi là ba tôi lấy lại được tức thì cảm giác đây là người đàn bà có một không hai, may mắn thay đó là vợ mình. Một kết luận chính xác sau rất nhiều dan díu với đủ hạng đàn bà.
Mạ tôi suốt đời không biết người đàn ông nào khác ngoài ba tôi. Không phải vì thứ đức hạnh truyền kiếp của đàn bà chân quê, chính là vì bà tự biết mình được hưởng phúc quá lớn, hơn vạn đêm được “quân tử nằm kề”, con số chính xác có trừ đi khoảng bốn ngàn đêm ba tôi vắng nhà đi công tác hoặc qua đêm với một ai đó trong bốn chục người tình nửa nắng của ông. Điều duy nhất mạ tôi quan tâm là làm sao ông không chán bà chứ không bao giờ dám nghĩ điều ngược lại. Việc ba tôi liên miên chìm đắm vào tình ái với những người đàn bà khác, kì lạ thay không hề làm mạ tôi mếch lòng, trái lại bà đã đinh ninh ông xứng đáng được như vậy. Thế gian hiếm ai có được niềm kiêu hãnh hồn hậu chất phác như bà. Vì thế mới xảy chuyện ngược đời là tất cả các tình nhân của ba tôi lại ghen lồng ghen lộn với mạ tôi, gây cho bà không biết bao nhiêu phiền toái, suýt nữa đẩy ba tôi vào cái chết kề cổ mà tôi sắp kể ra đây.
Mạ tôi không cần đếm xỉa đến bao nhiêu lần ba tôi ôm ấp người tình, bà chỉ cần biết thời khắc ông riết bà vào lòng, đẩy bà vào rên xiết ái ân, dù không ít lần ông là kẻ chiến bại, bẽ bàng nằm trơ trong hừng hực lửa tình chính ông đã đốt cháy lên, phải vất vả lắm bà mới làm nó nguội đi được. Thế cũng đủ cho mạ tôi hạnh phúc.
Hạnh phúc của mạ tôi giản đơn như cây cỏ, cứ ba năm hai lần vác cái bụng vượt mặt đi lại vênh vang giữa chợ phiên và hả hê chửi ba tôi như chửi chó mỗi lần vượt cạn.
Anh tư
Tôi nằm ngắm cái bóng ba tôi đang ăn khoai, một vài ba cử động lặp đi lặp lại đơn điệu nhàm chán làm tôi thiếp đi lúc nào không biết. Khi mở mắt trời đã mờ mờ sáng, ba tôi đang ngồi sát bên tôi, hình như ông ngồi ngắm tôi như thế đã lâu lắm. Ông bế tôi lên, nói con tui dậy rồi nì. Rồi ông nói liên miên vừa nói vừa nựng, nói nhà mình đây con nì, ba đây nì,
mạ đây nì, chị Ba đây nì, anh Năm đây nì, anh Sáu đây nì. Anh Cả đi Liên Xô rồi, chị Hai lấy chồng bên Xóm Cống tề, mai mốt răng rồi chị cũng tới thăm con. Còn anh Tư nữa, anh Tư đang đi bắt cá chưa về…Đúng rồi, còn một người nữa tôi chưa kể, hiện không có mặt nhưng không thể không nói tới, đó là anh Tư , đứa con thứ tư trong gia đình. Thực ra anh là người trong gia đình tôi biết sớm nhất kể từ khi tôi thức tỉnh sau chín tháng ngủ li bì, chuẩn bị ra đời.
Khoảng sáu giờ chiều, mạ tôi đi chợ về. Tôi ngồi thu lu trong bụng bà miên man chìm trong những giấc mơ màu nâu đỏ, kể từ tháng thứ tám những giấc mơ
yes or no
ngày một dày lên, đôi khi làm tôi tỉnh giấc. Lần này cũng thế, tiếng trống tiếng thanh la tiếng hò hét làm tôi tỉnh giấc. Những lần trước tôi chỉ tỉnh lơ mơ, lần này tôi tỉnh hẳn. Thì ra mạ tôi mang tôi đi qua một đám rước hay mét tinh gì đó.Thị trấn của tôi rất thích tổ chức những đám rước và mét tinh. Thường thì các đám rước dần tụ lại thành mét tinh hoặc từ mét tinh sẽ tỏa ra thành các đám rước mà những nhà chính trị vốn dĩ rất khôn ngoan lại dùng một từ rất lộ liễu là đi – cổ – động. Đám rước mạ tôi đang đi qua là đám rước của trẻ con, đội Nhi đồng Tháng Tám của Thị Trấn, tập thể của lũ đứa trẻ hỉ chưa sạch mũi, trong đó có anh Tư của tôi.
Đám rước của anh Tư, gọi vậy cho nhanh, chia làm ba khúc mỗi khúc chừng ba chục mét, gõ trống khua thanh la ầm ĩ. Anh Tư được chọn làm người dẫn đầu khúc cuối của đám rước. Đấy là niềm vinh dự vô biên của bất kì đứa trẻ nào sống ở thời này. Mặt vác lên trời mặt mày nghiêm trọng, anh Tư vung cao nắm đấm, hô đả đảo Ngô Đình Diệm phá hoại hiệp thương! Lũ trẻ đứa vung tay đứa nhảy lên, tranh nhau hô đả đảo đả đảo đả đảo! Tiếng hô nhao nhao nghe như cãi lộn nhau. Anh Tư trừng mắt quát đ. mạ hô cho đều vào, rồi lại vung cao nắm đấm hô Hồ Chủ Tịch muôn năm! Lũ trẻ lại nhao nhao muôn năm muôn năm muôn năm! Anh Tư lại trừng mắt quát đ. mạ hô cho đều vào!
Đám rước nào cũng có hai phần rất rõ rệt: phần đả đảo và phần muôn năm. Đây là đám rước của trẻ con, chúng luôn luôn hưởng ứng những cuộc đi chơi hồ hởi phấn khởi như thế này, muôn năm đả đảo gì cũng được tuốt. Bảo đảm có ai đó túm lấy lũ trẻ, nói muôn năm là chi đả đảo là chi, chúng sẽ nhăn răng cười, nói biết chết liền.
Chỉ sau năm phút nghiêm ngắn trước những cái nhìn nghiệm trọng của các anh chị phụ trách, chúng đã làm rối loạn đám rước bằng việc xô đẩy, cấu chí nhau, và nói chuyện, nói chuyên râm ran suốt cả hành trình. Chẳng đứa nào biết hiệp thương là cái gì, Ngô Đình Diệm là thằng cha căng chú kiết nào, chúng chỉ xem chừng người phụ trách hô “muôn năm” hay “đả đảo” để hưởng ứng cho kịp thời mà thôi. Khoảng năm trăm mét đầu tiên của hành trình, tất cả đều nhịp nhàng, kẻ hô người hưởng ứng cứ răm rắp, hoàn toàn toát lên khí thế hào hùng, khí thế mà Thị trấn quê tôi từ trẻ đến gìa luôn luôn muốn chứng tỏ. Sau đó tóa hỏa tam tinh, đầu đoàn hô “muôn năm”, cuối đoàn hô “đả đảo” nhặng xị cả lên.
Các anh chị phụ trách sau một nửa chặng đường hồ hởi phấn khởi điều khiển đám rước, đã đến lúc thấy mệt và chán. Nửa chẳng đường còn lại chỉ độc mỗi nhà dân, các trụ sở công cộng – địa điểm ghi nhận nỗ lực hồ hởi phấn khởi của họ- đã cách một quãng khá xa. Không ai còn thấy hứng thú điều khiển đám rước nữa, họ thây kệ lũ trẻ muốn hô thế nào thì hô. Hai đứa phụ trách khúc đầu và khúc giữa cũng đã chán. Sau hơn một giờ hô hét rã họng mỏi mồm, chẳng còn thiết tha gì với niềm “ vinh dự vô biên”, chúng nhảy vào đoàn đấm đá cấu chí với lũ trẻ. Lâu lâu chúng lại nhảy ra hô độc mỗi “muôn năm” hoặc “đả đảo”, thứ ngôn ngữ vừa đủ để hướng dẫn đám rước đi đến đích cuối cùng, tức thành công rực rỡ.
Anh Tư tôi thì không, trời phú cho anh một tinh thần trách nhiệm phi thường. Việc nhà cũng như việc công chưa khi nào anh từ chối khi được giao việc, cũng chưa khi nào được giao việc mà anh không hết mình. Gần một trăm bằng khen giấy khen trong ba chục năm anh làm công nhân cầu đường đã chứng minh điều đó.
Mặc cho hai thằng đầu đàn khúc đầu và khúc giữa đã bỏ cuộc, anh vẫn đi đều, vẫn vung nắm đấm hô vang khẩu hiệu. Khi anh đang hướng dẫn cho khúc cuối hô muôn năm thì ở khúc đầu bỗng nhiên hô đả đảo. Anh chạy vọt lên khúc đầu tay chỉ miệng quát, nói phải hô muôn năm không được hô đả đảo. Lũ trẻ khúc đầu hưởng ứng tức thì, chúng rập ràng hô muôn năm. Ở khúc cuối chẳng hiểu làm sao cả lũ trẻ bỗng rộ lên hô đả đảo, anh lại vọt về khúc cuối tay chỉ miệng quát, nói phải hô muôn năm không được hô đả đảo. Lũ trẻ nhao nhao phản đối, nói tụi tao muốn hô chi thì hô, mi cấm được à. Anh hét lên một tiếng kinh hồn, nhảy vào đấm đá điên cuồng. May anh phụ trách chạy đến can thiệp kịp thời không thì tan đám rước.
Tôi rất phấn khích. Tiếng trống, tiếng thanh la, tiếng hô rập ràng làm tôi rạo rực. Cả tiếng cấu chí, tiếng hò hét đuổi bắt nhau và cuộc đánh nhau bất tử của anh Tư với lũ trẻ cũng làm tôi phấn khích.
Bỗng lũ trẻ cất tiếng hát, rõ ràng là tiếng hát cuối đám rước đã bị đầu đám rước bỏ rơi chừng nửa cây số. Đầu đám rước vẫn say sưa hô “muôn năm” và “đả đảo”, thây kệ đuôi đám rước có đuổi kịp hay không. Thành công rực rỡ đang đến gần, mắc mớ gì phải đợi chờ kẻ khác. Đuôi đám rước sau một hồi nghe theo thúc dục của anh Tư vừa chạy vừa hô vẫn không đuổi kịp, bắt đầu tìm đến thành công rực rỡ theo cách của mình. Lúc đầu chỉ một vài đứa đầu têu réo lên vài câu hát vu vơ rời rạc. Dần dần cả cái đuôi đám rước bị bỏ rơi đồng loạt cất lên nhịp nhàng nhằm báo cho đầu đám rước biết : chúng mày bỏ rơi chúng tao thì chúng tao không thèm hô nữa.
Anh Tư hốt hoảng nhảy ra đầu khúc cuối tay khua miệng hét, nói ê ê không hát không hát, phải hô khẩu hiệu. Thây kệ anh Tư hò hét lũ trẻ vẫn vỗ tay đập nhịp hát rập ràng. Anh Tư bật khóc vì bất lực, đành im lặng để cho lũ trẻ muốn làm gì thì làm, cuối cùng anh cũng vỗ tay đập nhịp hát theo lũ trẻ.
“ Hà Nội lắm ô tô, Liên Xô lắm máy cày, Trung Quốc thì nhiều máy bay, đánh cho giặc Mỹ bươu đầu…”. Bài hát đưa ra một loạt đồ chơi đến Chúa cũng phải thèm. Tôi sướng lịm sườn, thốt nhiên có quyết định tức thì: Cần phải ra Đời ngay lập tức, mặc kệ nguyên tắc tiền sử tôi phải ở trong bụng mẹ tôi cho đủ chín tháng mười ngày.
Tôi đạp mạnh vào thành bụng mạ tôi. Mạ tôi thét một tiếng rùng rợn, tựa tiếng thét của người bị dao cùn đâm trúng ngực. Bà ngã lăn ra đường quằn quại. Tôi ân hận quá, hậu quả của việc vi phạm nguyên tắc tiền sử đã dáng xuống đầu mạ tôi. Tôi lặng lẽ đưa chân về đúng vị trí bắt buộc của nguyên tắc tiền sử. Mạ tôi vẫn không thôi quằn quại, bà rên rỉ như người sắp chết…
Anh Tư tôi chạy tới đỡ mạ tôi dậy, nói mạ sắp đẻ rồi! Mới 11 tuổi đầu không thể cõng được mạ, anh loay hoay tính tìm người lớn giúp đỡ nhưng bản tính không muốn nhờ cậy khiến anh chần chừ, kể cả việc chạy lên huyện ủy gọi ba anh cũng chần chừ. Khi có thể tự mình giải quyết được, dù có khó khăn gian khổ bằng giời anh cũng nói không với mọi đề nghị giúp đỡ. Mạ tôi biết tính anh, khi ba bốn người đàn bà đi chợ về lật đật chạy tới dìu bà, nói để tụi tui đưa chị về trạm xá, mạ tôi đã nhăn nhó nói thôi, cứ để thằng cu nó lo. Mấy bà không chịu cứ xúm lại tính dìu mạ tôi đi. Anh Tư trợn mắt lên nhảy bổ tới, nói để mạ tui đó cho tui. Anh chạy vào nhà ai đó cạnh đường, lát sao kéo ra chiếc xe ba gác, nói mạ chịu khó ngồi lên đây. Mọi người xúm lại đỡ mạ tôi lên xe. Anh ráng hết sức kéo mạ tôi băng băng đi qua trước mắt mấy bà đi chợ. Họ lắc đầu thè lưỡi, nói khiếp chưa ông Trương Phi nhà ông cu Vũ. Thế là anh Tư có thêm một biệt danh.
Tất nhiên anh Tư không dại dột đưa mạ tôi về trạm xá Thị Trấn. Rất ít người đưa bệnh nhân đến đó, nơi chỉ có hai người đàn bà dở hơi chỉ biết hỏi : “Đau chi?” và quát : “ Làm chi mà đưa đến chậm rứa? ”. Ngoài hỏi và quát họ không còn biết làm gì, thực tình cũng chẳng làm được cái gì ở một trạm y tế luôn lấy rỗng không làm căn bản. Anh đưa mạ tôi về chuồng bò vào đúng giờ ăn cơm tối, chính xác là ăn khoai tối của nhà tôi.
Chị Ba cuống quit chạy ra, nói mạ răng rứa mạ răng rứa. Anh nói mạ đẻ chơ răng. Anh Năm, anh Sáu- hai người anh hỉ chưa sạch mũi của tôi- sướng phát điên lên, ôm nhau nhảy cà tẩng , nói a mạ đẻ mạ đẻ! Niềm vui sướng của họ ná ná việc họ nhìn thấy con mèo cái nhà ai chui tọt vào chuồng bò nhà tôi, đẻ một loạt sáu chú mèo con, họ sướng ngây ngất, ôm nhau nhảy cà tẩng , nói a, mèo đẻ mèo đẻ!. Anh Tư tay chỉ miệng quát, nói cút đi cho mạ đẻ! Và lùa họ sang nhà bác Đông ăn nhờ ở nhờ. Biết bác Đông gái bị ốm, anh ba chân bốn cẳng chạy đi gọi bà đỡ khác, rồi lại ba chân bốn cẳng lên huyện ủy gọi ba tôi .
Thế là xong, anh túc tắc xách nò ra hói đơm cá, không cần biết mạ tôi đẻ đái ra sao. Anh chẳng coi việc tôi sắp ra đời là quan trọng, tất nhiên càng không phải là niềm vui, nó chỉ báo cho anh biết nhà sắp phải chia thêm một bát cơm, ba mạ phải kiếm thêm một ngày ba hào, anh phải kiếm thêm một cân tôm hoặc một oi cá bất luận nắng hay mưa, mang ra chợ bán nhằm bổ sung vào túi tiền luôn thiếu hụt của nhà tôi.
Khó nhọc đã đè nặng lên chú bé mười một tuổi khiến anh không bao giờ cười. Gương mặt cau có, ưu tư luôn thảng thốt về một điều gì chưa kịp làm. Vào lúc mưa gió ầm ầm, anh chạy về nhà lần thứ hai. Không cần biết cả nhà đang táo tác vì hai mái chuồng bò đã bị gió bốc lên trời, tôi vừa ra đời và đang ngập ngụa trong nước, anh điên khùng bới tìm cái rớ rách. Cái rớ rách mới là điều quan trọng chứ không phải là tôi. Anh vừa bới vừa kêu ca rầm rĩ việc cả nhà luộm thuộm đã vứt cái rớ rách của anh đi đâu, trong khi anh đã phát hiện ra luồng cá bống hàng ngàn con theo nước nguồn bơi về đen đặc giữa hói nước lợ.
Chị Ba vén cái bạt lên chỉ tôi cho anh, nói Tư, em đây nì. Mặc kệ, anh không thèm để ý, anh đang tìm cái rớ rách, đấy mới là điều cốt tử, cá bóng kho cho người đẻ mới là điều cốt tử. Mãi khi anh tìm được cái rớ rách, hóa ra nó nằm dưới lưng mạ tôi, anh mới chui vào bạt, thò bàn tay lạnh ngắt cầm lấy cổ chân tôi lắc lắc, nói lạnh em hè! Mi rồi cũng khổ thôi. Dứt lời, anh lao như tên bắn ra con hói có hàng ngàn con cá bóng đang về, nguồn dinh dưỡng tuyệt hảo cho người đẻ. Mạ tôi đang rất cần những con cá bóng, anh chỉ đinh ninh mỗi điều đó, tất cả đều không quan trọng.
Quá nửa đêm anh Tư vẫn chưa về, còn lâu anh mới về giờ này, đây là giờ anh đi thăm các bẫy lươn. Ba mươi lăm cái trúm ngậy mùi giun đất xào với lá ổi tươi được găm rải dọc bờ hói, nhử những chú lươn ngờ nghệch háu ăn. Một con lươn to là hai hào, mười con là hai đồng. Vì hai đồng anh sẵn sàng bỏ nhà thức trắng đêm bên bờ hói.
Đêm nay anh Tư gặp may, bắt được hơn chục con lươn to và hai oi ( hom giỏ) to đầy cá bóng. Cái chòi rơm tạm bợ bên bờ hói đã bị cơn lốc hồi hôm đánh cho tơi tả. Không ngủ lại đấy như mọi đêm, anh mang về nhà đổ tất cả vào cái vại sứt trước cửa chuồng bò rồi ngồi tựa vào vách chuồng bò cứ thế mê mệt ngủ, vào lúc ba tôi ngồi nhìn đống vỏ khoai nước mắt hai hàng.
Đội trưởng
Bây giờ mạ tôi đang chìm trong giấc ngủ thỏa thuê sau bốn giờ vất vả kéo cổ tôi ra đời. Ba tôi không thế, ông tỏ ra lo lắng nhiều hơn. Từ ngày ông bác Vĩ “dinh tê” vào Sài Gòn ba tôi mất hẳn mọi nguồn tiếp tế, sáu mươi bảy đồng năm hào lương của một anh phó ban tuyên huấn huyện ủy không gánh nổi một gia đình sáu đứa con vừa có thêm tôi là bảy.
Ba tôi không thể làm thêm gì, đảng viên không được chân trong chân ngoài, đó là điều cấm kị số một. Vả, dầu có được phép làm thêm ông cũng chẳng có việc gì để làm. Ruộng đất vườn tược đã sung vào hợp tác, đống chữ nghĩa ông có từ thời Pháp thuộc chẳng những không dùng được để kiếm sống mà còn có nguy cơ gây hại ông bất cứ lúc nào. Ba tôi đang cố công tẩy não cho bằng hết đống chữ nghĩa kia, khốn thay cái trời phú cho ông đã làm hại ông, chữ nghĩa đã lọt vào đầu ông hầu như không có lối thoát.
Một ngày ở ban tuyên giáo huyện bằng ngàn thu ở ngoài. Buổi sáng đúng bảy giờ không sai một phút cả năm cái bàn đủ người, ai nấy sấp mặt vào đống tài liệu “nghiên cứu” say sưa nhưng ba tôi biết chắc chẳng ai thèm đọc, bởi vì ông cũng thế. Đọc cái gì khi chưa đọc người ta cũng đã biết trong đó nói gì. Một lô sáo ngữ và khẩu hiệu lặp đi lặp lại ngày này qua tháng khác đến nỗi ai nấy đã thuộc làu. Đến tám giờ ông trưởng ban báo ông đi họp chỗ nọ chỗ kia, hai anh chuyên viên báo về cơ sở chỗ nọ chỗ kia, cô văn thư báo đưa công văn đến chỗ nọ chỗ kia. Một mình ba tôi trơ khấc cùng với năm cái bàn trống.
Không phải ba tôi không biết nói dối, ông thừa sức bịa chuyện nhằm thoát khỏi căn phòng ám khói, nơi chứa đựng hai thứ duy nhất là nghị quyết và khẩu hiệu. Nếu bỏ chạy lăng nhăng chẳng kiếm được xu nào thì thà ngồi một chỗ đọc báo sướng hơn.
Ba tôi đọc báo
Nhân dântừ chữ đầu tiên cho đến chữ cuối cùng là giá báo, lại đọc ngược từ chữ giá báo lên đến chữ đầu tiên vừa đọc vừa dò lỗ chính tả, lại đọc từ chữ đầu tiên đến chữ giá báo vừa đọc vừa gạch đít và đánh dấu những chỗ quan trọng, lại đọc ngược từ chữ giá báo lên đến chữ đầu tiên vừa đọc vừa phân loại bài, lại đọc từ chữ đầu tiên đến chữ giá báo vừa rút ra những gì cho công tác tuyên giáo. Ba tôi nổi tiếng khắp tỉnh vì thành tích luôn luôn thuộc làu báo
Nhân dân. Với trí nhớ trời cho ông có thể nhắm mắt đọc ngược từ chữ giá báo đến chữ đầu tiên không vấp một chữ nào, khiến cán bộ đảng viên khắp tỉnh phải kinh sợ.Chẳng qua ba tôi đọc báo
Nhân dânđể khỏi phải chạy lăng nhăng, ông kiên quyết không để một xu nào rơi rụng trong tổng số sáu mươi bảy đồng năm hào, món tiền duy nhất trong tháng ông có. Ba tôi hy vọng đọc báo
Nhân dâncũng là cách hữu hiệu để tẩy cho sạch món “ văn hóa lai căng”, “văn hóa độc hại” ông lỡ thu nạp thuở học trò. Không ai ép ba tôi phải tẩy não cả, ông tự nguyện làm việc đó chỉ vì ông tin chúng lai căng thật, độc hại thật. Trước đó thì không, không bao giờ ba tôi tin tưởng ngớ ngẩn như vậy. Vốn tri thức ba tôi có thực ra cũng chẳng có gì ghê gớm, nhưng ở cái thời quá nửa số dân không biết chữ chúng là niềm kiêu hãnh và hy vọng của ông. Kiêu hãnh vì hơn người hy vọng để giúp đời, trước khi bản án tử hình giáng xuống đời ông đó là niềm tin bất hủ.
Chỉ sau khi thoát khỏi bản án tử hình ông đã giật mình nhận ra tất cả những gì ông học được chẳng những vô ích vô nghĩa vô tích sự mà còn vô cùng nguy hiểm. Ba tôi nhúng niềm tin bất hủ ấy xuống bùn đen, ông biết nếu không khẩn trương tẩy não cho sạch sẽ thì bản án tử hình sẽ quay lại với ông bất cứ lúc nào. Thực tế đã diễn ra đúng như vậy, chuyện bắt đầu trước ngày tôi ra đời 120 ngày, ngày cuối cùng năm 1955.
Năm đó ba tôi đương kim chủ tịch Thị trấn. Ông làm chủ tịch Thị trấn được tám năm, từ cuộc cách mạng long trời lỡ đất năm 1945 đến cuộc cách mạng long trời lỡ đất năm 1953. Nói thế cũng không chuẩn, thực ra trong cải cách ruộng đất chủ tịch thị trấn Phạm Vũ chỉ làm chân điếu đóm cho Đội trưởng, theo đúng nghĩa đen của từ này. Đội Trưởng mới thực là người có uy quyền số một Thị Trấn, chủ tịch Thị Trấn Phạm Vũ chỉ là người giúp việc và kẻ phát ngôn cho ông, nói vậy cho nhanh. Từ ngày đội cải cách về công tác, ba tôi chỉ làm đúng hai việc, một là lo đủ cơm rượu cho đội cải cách, hai là làm điếu cày và kiếm thuốc lào cho Đội Trưởng.
Đội trưởng là ai?
Cao một mét tư, vòm ngực rộng chân tay vạm vỡ gân guốc, Đội trưởng vốn là lực điền số 1 làng Trung, chuyên cày thuê cuốc mướn cho cả làng, tay chân thân tín của lý trưởng làng Trung, phụ trách việc cầm dao phay đi đòi nợ, đòi thuế điền thổ và thuế thân cho Lý trưởng. Nợ và thuế là hai thứ ở đâu dân chúng cũng cù nhầy lần lữa, nếu không có đội trưởng xách dao phay đến tận nhà khó lòng lý trưởng làng Trung tận thu được hết. Là chỗ thân tín, Đội trưởng được vào ra nhà Lý trưởng thoải mái bất kể ngày đêm, cơ hội để Đội trưởng ngủ hết lượt ba bà vợ trẻ của lý trưởng. Cả ba bà chưa có ai có con với Lý trưởng bỗng thình lình có chửa đồng loạt khiến Lý trưởng không thể không nghi ngờ.
Lý trưởng vờ báo đi đánh tổ tôm suốt đêm không về rồi quay lại rình, dĩ nhiên Lý trưởng bắt được quả tang, điều ấy chẳng có gì đáng kể. Điều đáng kể nhất, cũng là điều Lý trưởng khâm phục nhất, là những gì Lý trưởng chứng kiến trong đêm núp rình đó. Đầu hôm Lý trưởng thấy Đội trưởng ngủ với bà Ba ở cây rơm, giờ sau Lý trưởng thấy Đội trưởng ngủ với bà Hai ở nhà ngang , giờ sau nữa Lý Trưởng thấy Đội trưởng ngủ với bà Cả ở nhà chính. Đến nửa đêm Lý trưởng tưởng thế là xong, nhưng không, Lý trưởng lại thấy Đội trưởng lại ngủ với bà Hai ở cây rơm, ngủ với bà Cả ở nhà ngang, ngủ với bà Ba ở nhà chính. Đến canh ba Lý trưởng tưởng thế là xong, nhưng không, Lý trưởng lại thấy Đội trưởng ngủ một lúc cả ba bà trong nhà chính, vừa ngủ vừa hú hét kinh người.
Lý trưởng không ghen, Lý trưởng chỉ muốn biết thực hư thế nào để có cớ thảy ca ba bà ra khỏi nhà, tậu về ba bà khác, Lý trưởng tính làm vậy lâu rồi nhưng chưa tìm được nguyên cớ. Đêm núp rình đã cho Lý trưởng biết, đêm đêm khi Lý trưởng ngủ với bà Cả ở nhà ngang Đội trưởng ngủ với bà Ba ở cây rơm, khi Lý Trưởng ngủ với bà Hai ở cây rơm Đội trưởng ngủ với bà Cả ở nhà Chính, khi Lý trưởng ngủ với bà Ba ở nhà chính Đội trưởng ngủ với bà Hai ở nhà ngang. Còn khi Lý trưởng đi vắng dĩ nhiên Đội trưởng ngủ một lúc cả ba bà ở chỗ nào họ thấy thích. Đó là nguyên lý hủ hóa hình tam giác của Đội trưởng, lần đầu tiên Lý trưởng chứng kiến, khẳng định Đội trưởng là thiên tài hủ hóa.
Lý trưởng thủng thẳng bước vào nhà chính, vỗ vỗ mông Đội trưởng, nói thằng ni khá thiệt, nhất mi đó. Lời khen thành thực đã bị Đội trưởng đáp lại bằng cú đạp thẳng vào ngực, Lý trưởng ngã bật ngửa đập đầu vào cối đá, vỡ sọ chết ngay lập tức. Cũng ngay lập tức Đội trưởng chạy ra khỏi nhà, chạy thẳng lên chiến khu Chóp Chài , căn cứ địa của Việt Minh, mau chóng gia nhập vào đội ngũ diệt ác trừ gian, tiếp tục cầm giao phay giết ác trừ gian khắp huyện, kể từ đó Đội trưởng nổi tiếng khắp chiến khu. Nếu không nghiện gái như nghiện thuốc phiện chắc Đội trưởng đã làm to lắm rồi, đâu chỉ là anh Đội trưởng đội cải cách.
Phải nói Đội trưởng nghiện gái như nghiện thuốc lào mới đúng. Đội Trưởng nghiện thuốc lào rất nặng, cảm tưởng nếu không có thuốc lào Đội trưởng sẽ chết bất đắc kì tử. Luôn luôn trong tay Đội Trưởng là cái điếu cày, kể cả khi đi
xia. Gần hai năm Đội trưởng về Thị trấn thực hiện cuộc cải cách, tức cuộc cách mạng long trời lỡ đất, dân chúng đã biết Đội trưởng nghiện thuốc lào như thế nào. Đội trưởng đã cho ba tôi và hơn một vạn dân Thị trấn biết, Đội trưởng không nghiện để mà nghiện, nếu cái ghế là phương tiện ngôn ngữ của ông trưởng giả trong kịch của Molière thì thuốc lào là phương tiện ngôn ngữ của Đội trưởng.Một phát biểu của Đội Trưởng luôn luôn được chia làm ba giai đoạn, luôn luôn như thế mỗi khi Đội Trưởng nói với quần chúng.
Đầu tiên là giai đoạn thông nõ. Đội Trưởng ngồi xoi nõ rất kĩ, vừa nói vừa xoi, làm người ta chú ý bằng đôi ba câu vu vơ thỉnh thoảng cất lên rồi im bặt, thay vào đó là cái nhìn lừ lừ vào cử tọa, cho biết cái điều Đội trưởng muốn nói chưa được nói ra đâu. Đội trưởng gằm mặt xoi nõ, xoi đi rồi xoi lại, mặt không một lần ngẩng lên. Im lặng đến ngạt thở kéo dài chừng năm phút, khi đó Đội Trưởng mới ngẩng lên, giai đoạn thông nõ kết thúc.
Kế đến là giai đoạn châm đóm. Giai đoạn này lắm khi diễn ra rất lâu. Đội Trưởng cứ cầm cái đóm nói miết, nói cho đến khi lửa tắt, lại châm đóm, lại nói, lại lửa tắt, lại châm đóm, lại nói, lại lửa tắt, lại châm đóm, lại nói, lại lửa tắt, lại châm đóm, lại nói, lại lửa tắt, lại châm đóm, lại nói… có khi hơn nửa giờ.
Cuối cùng là giai đoạn rít. Giai đoạn này mở đầu bằng tiếng rít điếu cày vang lên như một tràng liên thanh, Đội trưởng ngửa cổ khoan khoái để cho khói thuốc cuồn cuồn tuôn ra cho bằng hêt, súc ngụm nước, nhổ cái toẹt, nói rứa đo. Tiếng rứa đo chua lòm kết thúc ba giai đoạn thuốc lào của Đội trưởng.
Khắp Thị Trấn không ai hút thuốc lào, đấy là thứ thuốc dành cho dân nghiện xứ Bắc, cả tỉnh chỉ độc nhất một hàng thuốc lào ở Thị xã Hoa Hồng, cách Thị Trấn quê tôi bốn chục cây số. Cứ hai ngày ba tôi lại đạp xe vượt bốn chục cây số đường trường mua cho Đội Trưởng hai lạng thuốc. Chỉ mua đúng hai lạng không hơn, nếu quá đi sẽ bị Đội Trưởng phê cho là làm lãng phí của cải của nhân dân. Chẳng có nhân dân nào cả, tiền túi của ba tôi, ấy là Đội Trưởng thích hành ba tôi. Đội Trưởng giải thích với anh em trong đội cải cách, nói đó là biện pháp thử thách tinh thần cách mạng của Chủ tịch thị trấn Phạm Vũ, một kẻ xuất thân không lấy gì tốt đẹp cho lắm.
Trong các cuộc họp đội thường kì, đêm nào cũng phải họp gọi là thường kì, dĩ nhiên ba tôi không được dự, Đội Trưởng hay kể cách đây 23 năm chính cha Đội Trưởng là một trong sáu phu kiệu è cổ khiêng kẻ đỗ đầu diplome của thực dân Pháp bẩn thỉu đi bộ bốn chục cây số đường trường, từ thị xã Hoa Hồng về thị trấn Linh Giang, hai bên đường đầy những bọn ngu xuẩn chào đón.
Có lẽ vì thế mà Đội Trưởng muốn đích thân Chủ tịch thị trấn Phạm Vũ phải đi mua thuốc lào cho Đội Trưởng, không được nhờ bất kì ai mua hộ, dù Chủ tịch thị trấn Phạm Vũ có hơn một vạn quần chúng trong tay. Nếu Đội Trưởng bắt được Chủ tịch thị trấn Phạm Vũ nhờ ai đó mua thuốc lào thay mình, ông sẽ bị Đội Trưởng cảnh cáo là lợi dụng quần chúng để tư lợi. Nếu Chủ tịch thị trấn Phạm Vũ giở trò tháu cáy mua sẵn cả ba lô thuốc lào rồi đưa từng hai lạng một cho Đội Trưởng thì nguy cơ dao kề cổ là cái chắc, vào mùa đấu tố tội thiếu trung thực có thể ngang với tội phản quốc.
Ba tôi biết rất rõ điều đó, theo cách mạng từ năm 19 tuổi ông biết quá rõ lực lượng cầm dao phay theo cách mạng, không thể đùa với đám này được. Để yên tâm ăn ngon ngủ yên với lực lượng cầm dao phay theo cách mạng tốt nhất răm rắp làm theo họ, hai lạng thuốc lào là hai lạng thuốc lào, cấm cãi. Vốn dĩ là người cẩn thận, ông đã cân đi cân lại với các loại cân khác nhau để biết chắc là đúng hai lạng trước khi mang về cho Đội Trưởng. Chưa khi nào Đội Trưởng cân lại, ông chỉ cầm gói thuốc lào tung nhẹ, nhìn như soi vào mắt ba tôi, nói ri có đúng hai lạng không hè. Thế cũng đủ cho tóc gáy ba tôi dựng ngược.
Việc thứ hai còn khốn nạn hơn việc thứ nhất, là việc ba tôi phải liên miên làm điếu cày cho Đội Trưởng. Kĩ nghệ làm điếu cày ba tôi học được từ thủa ở chiến khu Chóp Chài khi ông may mắn sống cùng lán với các cán bộ miền Bắc, đã được Đội Trưởng phát hiện và tận dụng triệt để. Nếu ba tôi không khoe với Đội Trưởng về khả năng chế tạo điếu cày có một không hai của mình, đặc biệt kĩ nghệ làm nõ điếu bằng gỗ cây mưng đượm khói và kêu cực to, thì Đội Trưởng sẽ không một vài ngày đập vỡ một điếu cày, thậm chí có ngày Đội Trưởng điên tiết đập vỡ hai ba cái liền, nhất là thời kì xử bắn liên miên những tên phản động.
Đội Trưởng đã phát minh ra lệnh xử bắn bằng cách đập vỡ điếu cày, từ thời trung cổ đến giờ tuyệt không ai nghĩ ra.
Chiếc bàn đã kê sẵn, trên đó tất nhiên có sẵn cái điếu cày, bó đóm và gói thuốc lào Vĩnh Bảo. Tên phản động đã quỳ sẵn trước cái bàn kê sẵn giữa một ngàn quần chúng lúc nào cũng có sẵn. Đội Trưởng thong thả bước ra giữa rạo rực tiếng hô muôn năm và đả đảo của một ngàn quần chúng nhiệt tình cách mạng lẫn với nhiệt tình tò mò.
Đội Trưởng ngồi xuống thong thả thực hiện ba giai đoạn thuốc lào của mình. Giai đoạn thông nõ. Đội Trưởng lầm bầm đôi ba câu vu vơ chẳng ai nghe được. Thực tế Đội Trưởng cũng chẳng cần ai nghe, nhưng cái nhìn lừ lừ vào tên phản động và một ngàn quần chúng của Đội trưởng thì ai cũng phải nhìn thấy. Cái nhìn kết thúc giai đoạn thông nõ thật đáng sợ, bởi vì nó báo trước một cái chết sắp bắt đầu.
Giai đoạn châm đóm. Tất nhiên giai đoạn này diễn ra rất lâu. Đội Trưởng châm đóm và nói, đầu tiên nói với tên phản động về tội trạng của hắn, sau đó nói với một ngàn quần chúng về tội trạng của hắn, rồi lại nói với người ghi biên bản về tội trạng của hắn, cuối cùng tuyên bố với quần chúng về tội trạng của hắn. Tóm lại tội trạng của hắn thế nào thì một ngàn quần chúng nghe thế thôi chứ không cần biết, chỉ cần biết hắn là tên phản động và hắn đáng tội xử bắn. Thế là qua đủ.
Đội Trưởng cầm cái đóm nói miết, đóm tắt, Đội trưởng ngước lên, ba tôi vung tay hướng dẫn một ngàn trăm quần chúng hô muôn năm và đả đảo. Đội Trưởng thong thả châm đóm, lại nói, lại đóm tắt. Đội trưởng ngước lên, ba tôi vung tay lên hô muôn năm và đả đảo. Đội trưởng lại châm đóm, lại nói, lại đóm tắt. Đội trưởng lại ngước lên, ba tôi vung tay lên hô muôn năm và đả đảo. Đội trưởng lại châm đóm, lại nói, lại đóm tắt. Đội trưởng ngước lên, ba tôi vung tay lên hô muôn năm và đả đảo…Cuộc hành hình nhờ vậy thật rạo rực khí thế cách mạng, khó nơi nào sánh được.
Tiếng rít điếu cày vang lên như một tràng liên thanh báo hiệu giai đoạn cuối cùng sắp hoàn thành. Đội Trưởng ngửa cổ khoan khoái để cho khói thuốc cuồn cuồn tuôn ra cho bằng hêt. Đội trưởng thong thả súc ngụm nước, nhổ cái toẹt, nói rứa đo. Đội Trưởng dướn lên, mở to mắt nhìn tên phản động, tay nắm lấy cái điếu cày. Chậm rãi và khoan thai, Đội trưởng từ từ đưa cái điếu cày lên cao rồi đột ngột giáng cực mạnh xuống bàn, quát một tiếng như sấm, nói tử hình! Cái điếu cày vỡ tan.
Thế là xong. Việc còn lại là của ba tôi: chôn cất tử thi và cạy cục làm điếu cày khác cho Đội Trưởng. Việc nào cũng khẩn cấp. Chôn cất thật nhanh để chấm dứt ngay tiếng kêu la, khóc lóc của đám quần chúng chậm tiến, tức người nhà của kẻ vừa bị hành hình. Làm điếu cày cũng thật nhanh vì Đội Trưởng không thể vắng nó quá nửa tiếng đồng hồ.
Chi6 hiên
Ba tôi không thiếu gì người tình, theo nghĩa là những người đàn bà thèm muốn ông, lúc nào cũng sẵn sàng “ xả thân” vì ông, bởi vì ông là thứ quân tử hiếm hoi trong vòng bán kính năm cây số. Chị Hiên không phải là ngoại lệ.
Chị Hiên là con ông thông ông phán chi đó, chính chị cũng không biết ông nào.
Mạ chị ra Hà Nội hát ả đào ở mấy phố Hàng Buồm, Hàng Than, Hàng Đào… hát được ba năm bà có chửa đẻ ra chị. Bà đem chị về gửi cho bà ngoại rồi lại ra Hà Nội hát ả đào, cho đến bây giờ vẫn không thấy về, nghe nói bà đã theo ông quan hai Pháp bỏ chạy về Pháp ngày bộ đội trở về tiếp quản Thủ đô. Chị sống với bà ngoại từ lúc mới lọt lòng đến khi chị mười sáu tuổi thì bà ngoại chị mất, để lại cho chị một nghìn ba trăm đồng và nghề buôn cám heo, một mình chị nuôi chị khá nhàn nhã, chưa bao giờ chị phải tất bật lo kiếm miếng ăn như nhà tôi.Chị đẹp. Tám tuổi đẹp mũm mĩm, nhờ có giọng hát trời cho chị trở thành con chim sơn ca của cách mạng . Ở bất cứ nơi đâu có văn nghệ là có chị. Chị nổi tiếng khắp huyện, quan khách ở xa về Thị trấn chỉ muốn gặp chị hơn là muốn gặp ba tôi, họ nhớ tên cô bé Lệ Thu hơn là tên ông chủ tịch Thị trấn Phạm Vũ. Mười tám tuổi đẹp thướt tha, giọng hát trời cho của chị vang xa khắp tỉnh, trai tráng trong tỉnh nức nở xốn xang. Họ kháo nhau, nói về Linh Giang không thấy Lệ Thu coi như chưa về Linh Giang.
Văn công tỉnh năm lần bảy lượt mời mọc dụ dỗ chị nhưng bà ngoại chị không cho, bà bảo đó là chốn hư danh chỉ có lũ ngu si mới ham hố. Trai tráng dập dìu trước ngõ bị bà ngoại chị cấm cửa, bà cấm chị giao du với lũ đẹp mặt rỗng hầu bao, tình cho không biếu không là thứ cháu bà không được phép. Dân Thị trấn vẫn kháo nhau, trên vách buồng nhà chị có vẽ con bướm do bà cụ cố của chị để lại. Hai cánh bướm màu hồng tươi, cánh này đề chữ T màu vàng, cánh kia đề chữ Q màu đỏ, tức quyền và tiền, nguyên lý khép mở của cái bướm dòng họ nhà chị. Con bướm không có nhưng nguyên lý khép mở của cái bướm thì có thực, bà cụ cố, bà ngoại và mẹ chị đã áp dụng và thu được nhiều thành công rực rỡ. Bây giờ đến lượt chị, bà ngoại chị dứt khoát phải buộc chị tuân theo.
Bà ngoại đã lo lắng thái quá, chị Hiên đã phát huy truyền thống cái bướm dòng họ nhà bà từ lúc mười lăm tuổi, chị biết thừa nguyên lý đó không cần ai dạy dỗ. Chị đắm đuối ba tôi, người đàn ông hơn chị gần hai chục tuổi đã có vợ và một đàn con, không phải vì ba tôi đẹp trai, thứ đó vẫn dập dìu đầy ngõ nhà chị, cái chính là ba tôi là ông chủ tịch Thị trấn Phạm Vũ, người mà hơn một vạn dân Thị trấn ai ai cũng phải kính cẩn, cho dù số người kính cẩn thật lòng không tới 30%.
Nhưng đấy cũng không phải lý do chính. Theo bà ngoại chị nói lại, chủ tịch Thị trấn Phạm Vũ là bạn chí thân của một người hiện đang trong tứ trụ triều đình tại Hà Nội, đấy mới là lý do để chị biến ba tôi thành con mồi số một. Chị Hiên khát khao ra Hà Nội như mẹ chị nhưng không phải ra đó để hát ả đào, chị muốn làm một quan bà tại Thủ đô, khát vọng lớn lao dòng họ nhà chị không ai dám nghĩ tới.
Chị để ý ba tôi từ thủa mười lăm, vẫn thường nhìn trộm ba tôi đứng đái ở hồi nhà, sát vách nhà chị. Đến tuổi mười tám chị rình rập ba tôi riết róng hơn, khi ném hòn sỏi vào lưng ba rồi bỏ chạy, vừa chạy vừa cười; khi làm như vô tình va phải ông, kêu lên ui ui, vừa kêu vừa lườm yêu. Ba tôi đánh bài lờ vì nhà chị quá sát nhà tôi và vì chị dù sao cũng có họ xa với ba tôi. Chị vẫn gọi ba tôi bằng cậu, ngày giỗ chạp vẫn theo ba tôi tới đình thờ họ Phạm.
Rốt cuộc ba tôi vẫn không thoát khỏi lối dụ mồi thô sơ nhưng hiệu quả của chị bằng những đêm tắm trăng, gọi nhờ ông lấy cái này cái nọ. Cái nhà tắm nóc trần thưng lá mía cạnh giếng làm sao che giấu được chị, kì thực chị có muốn che giấu đâu, lúc lúc chị lại đứng lên gọi ông, nói cậu ơi lấy cho cái áo- Cậu ơi lấy cho cái khăn. Bộ ngực non trắng ngần phơi ra dưới ánh trăng đốt cháy mắt ba tôi.
Ba tôi xông vào nhà tắm, cái cách xông vào tấn công giống cái thì quân tử cũng giống tiện nhân. Chỉ sau hai chục giây ông đã làm chủ được tình hình, thích thú phát hiện ra một cái bướm không lông dày dặn múp máp như cái bánh ú đang khéo léo bành ra trong khi hai tay chị đang cố đẩy ngực ông cùng với tiếng kêu ui ui đừng đừng ngọt mềm quyến rũ.
Ba tôi chẳng lạ gì cái thứ ui ui đừng đừng kia, lối bày tỏ đức hạnh láu cá ma lanh ông đã quá quen tai. Ba tôi khoan thai dựng đứng ngọc hành ( của quí quân tử thì phải dùng từ này chăng?) cho nó dần lún sâu vào. Chị Hiên gần như ngất đi. Chị cắn chặt răng tránh tiếng kêu mèo hoang của mình trong một phút bốn mươi giây, sau đó chị không chịu đựng được nữa , cứ thế rú lên, rú to lên mãi.
Ba tôi hoảng hốt bịt chặt mồm chị, bế xốc hông chị lên, ngọc hành không rời khỏi bánh ú, lật đật đưa chị chạy vào nhà, lật đật đặt chị lên bốn cái bao tải cám lợn, cứ thế xoi cho sạch sành sanh hốc trinh nữ tuổi mười tám. Tiếng kêu như mèo được dịp tung hoành trong mười chín phút bốn giây, thời gian đủ cho chị lịm đi trong mệt mỏi lâng lâng, cũng là thời gian đủ cho ba tôi trút xong phóng đãng, khoan khoái kéo quần lên túc tắc ra về.
Ra đến cửa ông quay lại, vẫn thấy cái bánh ú chưa chịu xếp lại, cơ hồ muốn bày thêm trận nữa. Biết mình không kham nổi, ông tắc lưỡi bỏ đi thẳng. Tối hôm sau, tối hôm sau nữa, tối nào cũng vang lên tiếng mèo kêu như xé, bất chấp hàng xóm có nghe thấy hay không và mạ tôi có phản ứng thế nào.
Tóm lại chẳng có chuyện gì sất, hàng xóm khôn ngoan đời nào có ý kiến với ông Chủ tịch thị trấn. Mạ tôi vẫn tươi tỉnh trước những trò lén lút của chồng, bà vẫn luôn tự an ủi bằng niềm kiêu hãnh vô biên với mười ngàn đêm vinh hạnh được quân tử nằm kề. Tuy vậy đêm đêm mạ tôi vẫn khóc thầm. Bà không mất một giọt nước mắt khi ba tôi cặp kè với ai đó trong số bốn mươi người tình nửa nắng của ông. Với chị Hiên lại khác. Chị bằng tuổi con ông, là cháu họ xa với ông, tệ hơn nữa đó là kẻ kiên trì với nguyên lý khép mở của cái bướm, đó là mối hiểm nguy mạ tôi không thể không lo lắng.
Đêm thứ mười hai, từ trên bụng chị Hiên ba tôi nhìn thấy một con mắt đang dán vào vách nứa, con mắt nhỏ xíu đang tóe lửa. Ông giật mình thảng thốt, ngọc hành tự nhiên rũ rượi lặng lẽ rút lui khỏi bánh ú. Ba tôi chạy ra sau hồi, không có ai nhưng ba tôi biết đó là ai. Ông trở về nhà, anh Tư đang ngồi dựa vách trân trố nhìn ông. Ba tôi nói răng không vô nhà ngủ, ngồi đó làm chi con. Anh Tư không đáp, cứ trố mắt nhìn ông. Rất lâu sau anh đứng bật dậy, nói răng ba không về nhà mình mà ngủ, ngủ nhà ngươi ta làm chi rứa. Dứt lời anh Tư hất mặt lên đi thẳng ra hói. Ba tôi đứng trơ, mặt đực như ngỗng ỉa.
Trong nhà mạ tôi trào nước mắt, những giọt nước mắt sung sướng, cuối cùng con bà đã giúp bà ngăn chặn một hiểm họa. Kể từ đó ba tôi không bạ men nhà chị Hiên nữa, ông không sợ vợ nhưng sợ con, bất kì cái gì làm con phật ý ông đều rất sợ, chuyện này ông càng sợ. Chị Hiên không buông tha ông, vẫn chặn đường ném cho ông cái nhìn giận dỗi. Đêm nào chị cũng hát, tiếng hát mời gọi rủ rê cứ chín mười giờ đêm lại vang lên làm ba tôi khó ngủ, ông bấm bụng nằm yên, tính chuyện dời nhà đi chỗ khác.
Ông đã gặp may. Một cuộc họp xóm, Đội trưởng tình cờ phát hiện ra cái liếc xéo và cúi mặt chớp chớp của chị Hiên, đã nhanh chóng chọn biện pháp
ba cùng
nơi nhà chị. Ba tôi chấp hành ngay lập tức, kính cẩn đưa Đội trưởng về trú tại nhà chị Hiên.“ Đồng chí rất tốt. Tôi tin tưởng đồng chí!” – Đội trưởng ban cho chị Hiên chín tiếng tuyệt vời. Chị Hiên sướng đỏ mặt. Chị chờ đợi chín tiếng ấy từ lâu, nghĩ sẽ còn lâu mới có được chúng, chẳng ngờ chị đã có ngay khi chị ném ra cái liếc xéo đầu tiên.Chị Hiên sướng đến độ không cách gì giấu được bộ ngực phập phồng và cặp tai đỏ nhừ. Chị ngước lên nói dà, cảm ơn Đội trưởng. và dán đôi mắt ướt rượt vào mắt Đội trưởng.
Ba tôi đã khéo léo rút lui, nhanh chóng nhường suất mèo kêu cho Đội trưởng.
Đêm định mệnh
Ba tôi uống một cốc rượu to, thêm một cốc rượu to nữa, tự rủa thầm mình không dưng dính vào cái bướm không lông, rồi đây rủi ro rình rập khôn lường, sống chết, nhục vinh chỉ trong nháy mắt. Rượu càng ngấm ba tôi càng tỉnh, ông tưởng tượng rạng sáng hôm sau người ta phát hiện ra rành rành một mớ giấy lộn nhét chật cứng xắc cốt của ba tôi, bằng chứng hùng hồn của chị Hiên,
cho phép Đội trưởng lôi cổ ba tôi ra trường bắn.Ghê gớm cái bướm không lông, hiện thời nằm khuất phía trong trong bộ đồ màu nồng cốt, đang khép mở giữa một ngàn hai trăm quần chúng. Không ai biết nó là cái bướm không lông, người ta đang hau háu nhìn bộ mặt đanh thép của chị, sẵn sàng đáp ứng tức thì muôn năm và đả đảo. Sau đó háo hức chờ đợi mười một phát đạn xuyên trúng ngực tên gián điệp Quốc dân đảng, tức tên tiểu tư sản phản động Phạm Vũ.
Nhưng đêm đó trôi qua yên bình, tịnh không một tiếng động. Sáng ra đầu ngõ gặp nụ cười tươi tỉnh của chị Hiên, nói cậu dậy chi sớm rứa. Nụ cười chiếu cố vỗ về, ba tôi dịch ra là tối qua cậu khó ngủ phải không, không có chi mô cậu. Trưa đến ở sân đình họ Nguyễn, nơi Đội cải cách vẫn nhóm họp hay nhậu nhẹt gặp nụ cười ấm áp tình đồng chí Đội trường. Đội trưởng xiết tay ba tôi, cái xiết tay cũng ấm áp tình đồng chí, nói thuốc lào bữa qua ngon lắm anh Vũ à. Hai lạng thuốc hôm qua mới đúng là thuốc Vĩnh Bảo thứ thiệt. Ba tôi gắng mỉm cười, nói được Đội trưởng khen tôi cũng mừng, hôm qua đến giờ tôi cứ lo lo. Đội trưởng cười to, nói lo chi rứa hè. Tiếng cười sảng khoái chí tình, ba tôi dịch ra là xí xóa chuyện hôm qua nhé, coi như anh không thấy tui cũng không hay. Đội trưởng vỗ vai ba tôi đánh bốp, nói anh em mình hiểu nhau mà. Cái vỗ vai ấm áp tình đồng chí, ba tôi dịch ra là anh em mình phải bảo vệ nhau nhé.
Ba tôi như trút được một gánh nặng. Ông tự trách mình đã thần hồn nát thần tính suy diễn lung tung, nghĩ về chị Hiên và Đội trưởng chẳng ra làm sao, mất hết tình anh em tình đồng chí. Vả chăng, ba tôi nghĩ, làm sao có thể lôi cổ ông ra trường bắn chỉ vì một chuyện vớ vẩn. Ba tôi có ba chục năm theo cách mạng, ông bác Vĩ cũng có chừng đó năm đóng góp cho cách mạng. Chưa tính số lúa gạo ông bác Vĩ chuyển lên chiến khu Chóp Chài ba chục năm qua chất cao bằng đỉnh Chóp Chài, riêng trong 7 ngày
Tuần lễ vàngnăm 1946 trong số 20 triệu tiền Đông Dương và 370kg vàng đồng bào cả nước đã quyên góp, tiền vàng của ông bác Vĩ góp vào là không nhỏ. (Không rõ là bao nhiêu, chỉ nghe ông bác Vĩ nói số tiền vàng ấy có thể nuôi một vạn dân Thị trấn trong vòng một năm). Chính phủ có thể không nhớ ông bác Vĩ đóng góp là bao nhiêu nhưng người bạn chí thiết của ba tôi hiện đang trong tứ trụ triều đình tại Hà Nội thì biết, ông bác Vĩ đã đưa tận tay cho người này nhân chuyến công cán vào miền Trung.
A, người bạn chí thiết của ba tôi, xuýt nữa thì ba tôi quên mất. Còn người này thì ông không thể bị bắt tội. Đánh chó phải nể chủ, Đội trưởng dù có ba đầu sáu tay cũng không dám đụng đến một cái lông chân của ông. Thủ trưởng cũng chẳng dám nói gì đến Đội trưởng. Ôi người bạn chí thiết của ba tôi, bóng Người đang trùm khắp thiên hạ, dù Người chẳng đời nào chịu mất thời giờ vì ba tôi nhưng cái bóng ấy vẫn đủ cho kẻ khác phải kiêng dè khi muốn động đến ông.
Phát hiện vừa rồi làm ba tôi vững tin trở lại, hết khóm róm rụt rè ông nói cười như không. Vừa lúc chị Hiên xách ba con vịt đến, nói tiết canh vịt chỉ có cậu Vũ làm là nhất. Mọi người quên cả chuyện họp hành rôm rả nói chuyện tiết canh. Đội trưởng vung tay ca ngợi thiên tài tiết canh của ba tôi. Ba tôi sướng rêm. Ông vui vẻ rỉ tai chị Hiên, nói răng Hiên biết tui tiết canh là nhất. Chị Hiên lườm yêu cái thì thầm, nói em biết anh tiết canh em rồi mà, nhất anh đó. Chị véo ba tôi cái, cái véo hờn rõ đau. Ba tôi cười tít mắt, ông sung sướng vứt cái xắc cốt lên bàn hăng hái xắn tay làm tiết canh hầu Đội trưởng.
Ba tôi làm tiết canh ở chái sau không nhớ hề nhớ cái xắc cốt, vật bất li thân của ông, đang ở nhà chính. Niềm vui được Đội trưởng tin tưởng ban cho bốn chữ “thiên tài tiết canh” và cái lườm yêu cái véo hờn của chị Hiên đã làm ba tôi quên sạch. Cả khi tiết canh được bưng lên, ba tôi ngồi vào chiếu rượu, cụng ly lia lịa với mọi người, uống cho đến say ông vẫn không nhớ cái xắc cốt nằm ở đâu.
Bữa rượu no say, ba tôi uống và uống. Ông hát róng mấy bài hát bằng tiếng Pháp, thứ ca khúc kiêng kị của thời này. Đội trưởng không hề chê trách, cứ vỗ tay thật nhiệt tình cổ vũ ba tôi uống hết mình, hát hết mình. Đến chiều tối ba tôi loạng choạng bước ra đình thờ họ Nguyễn, suýt nữa ông quên mất cái xắc cốt, vật bất li thân của ông. Đội trưởng quàng dây xắc cột qua đầu ba tôi và ôm ông chặt cứng, nói đồng chí rất tốt, tôi tin tưởng đồng chí.
Chín tiếng tuyệt vời vang lên trong cơn say làm ba tôi ngây ngất, ông ngã vào lòng mạ tôi và chìm đi trong giấc ngủ miên man niềm hy vọng cho đến ba giờ sáng.
Đúng là ba giờ sáng ngày 21 tháng 12 năm 1955. Khi đó ba tôi đang ngủ say. Mạ tôi trở mình ôm quàng lấy ông, áp má mình vào ngực ông thiêm thiếp ngủ trong trạng thái chờ đợi. Ba tôi vẫn ngủ say, không một biểu hiện gì cho thấy ông đã nhận được tín hiệu mời gọi của bà. Bàn tay mạ tôi vuốt nhẹ lên ngực trần của ông, dần trượt xuống bụng dưới của ông và nằm yên nơi mạ tôi đang muốn nó thức dậy. Bà lật nghiêng người, co chân gác nhẹ lên bắp vế ông, cố tình ấn nhẹ vào nơi ấy. Ông bắt đầu lờ mờ nhận ra hơi ấm của bà phả ra tràn trề lên ngực mình.
Râm ran tiếng gà gáy canh ba- đồng hồ báo thức ái ân của những gia đình đông con nhà chật. Ba tôi từ từ mở mắt, những sợi tóc thơm lừng hương sả của mạ tôi vắt qua ngực ông cùng với hơi thở nồng nàn của bà gây cho ông có được cảm khoái bất chợt, ông biết bà đã thức dậy từ lâu và đang đợi.
Ba tôi quay người hôn nhẹ lên trán mạ tôi. Ngay lập tức mạ tôi mở mắt vừa như ngái ngủ vừa nũng nịu nhìn ba tôi và mỉm cười hôn nhẹ lên ngực ông, bà vờ thiếp đi trong nách ông, bàn tay mềm từ từ nắm lấy cái cần nắm. Cái nắm trong thiêm thiếp, khéo đến nỗi chỉ gợi lên một trạng thái yêu thương chứ không hề phô bày thèm muốn.
Điều đó dĩ nhiên càng kích thích ba tôi hơn. Ông đã tỉnh hẳn, nhẹ nhàng kéo mạ tôi áp sát vào lòng. Và hôn. Những chiếc hôn nhẹ và sâu dần tràn lên cơ thể bà. Mạ tôi thừa biết đấy không phải là những chiếc hôn tình yêu, chúng thuần túy là những chiếc hôn gợi dục nhưng bà chỉ cần có thể, thực lòng bà không dám được nhiều hơn.
Mạ tôi lập tức hân hoan đón nhận những chiếc hôn của ba tôi, coi đó là những chiếc hôn nồng nàn tình yêu, rồi đáp lại bằng những nụ hôn dè dặt, e ấp vừa muốn lẩn tránh vừa muốn dấn tới, vừa tạo ra vẻ ngượng ngùng nữ tính vừa râm ran thông báo niềm vui sướng sắp được dâng hiến. Rực lên trong ba tôi một niềm yêu.
Ba tôi chồm dậy hệt con thú đè nghiến mạ tôi trong cơn khát chiếm đoạt. Thoáng chốc ông đã ngập vào bà, điên dại quấy đảo như say như mê sảng. Mắt mạ tôi mờ đi, một cái gì đó hực lên, bộ ngực khổng lồ đột khởi nở căng, bà mê đi. Gần như mất trí, bà điên dại túm tóc ba tôi giật nảy liên hồi.
Một tiếng gọi chậm rải, khô khốc vang lên ngay cửa sổ buồng ngủ, gần đến nổi có cảm tưởng ai đó đang dí mõm vào tai, nhả ra từng tiếng lạnh lùng, nói Phạm Vũ mô rồi, mở cửa ra. Mạ tôi giật mình đẩy vội ba tôi.
Ba tôi vẫn giữ nguyên hiện trường, ngồi yên trên bụng mạ tôi, không chịu rút khỏi vị trí tác chiến, hất mặt ra ngoaì cửa sổ, nói ai đó, chi rứa?
Câu hỏi khó chịu lẫn một chút quyền lực của ông chủ tịch Thị Trấn chẳng hề làm đám người ngoài cửa sổ xao động. Một tiếng hắng giọng rõ to, nói Phạm Vũ, mở cửa mau. Tiếng thét quen thuộc của Đội trưởng, người vừa xiết chặt ba tôi cùng với chín tiếng tuyệt vời. Hơn chục người đạp cửa xông vào, xách cổ ba tôi lôi xềnh xệch. Ba tôi hoảng hốt la to, nói các đồng chí… các đồng chí… cho tui mặc quần cái đã.
Đội trưởng chắp tay sau đít đủng đỉnh đi tới. Đội trưởng nhìn ba tôi cười cười rồi bất ngờ đá đít ba tôi một cú cực mạnh, nói đồng chí cái lồn mạ mi. Mặt ba tôi trắng bạch. Mạ tôi và sáu đứa con quây quanh ông, mặt mày ai nấy cũng trắng bạch. Họ bị lùa vào buồng, buộc ngồi yên ở đấy, cấm có kêu la.
Một tốp thanh niên lùng sục khắp nhà, lôi ra đủ thứ giấy má sách vở, đồ học tập các anh chị của tôi chất đống giữa nhà.. Cái xắc cốt của ba tôi cũng được ném lên đấy. Đội trưởng lấy cây gậy khều đống giấy tờ sách vở ngó ngó nghía nghía, bất chợt chỉ vào cái xắc cốt, nói xổ cái xắc ni ra coi. Xắc cốt được xổ ra, một mớ tài liệu đánh máy ba tôi chưa nhìn thấy bao giờ lần lượt rơi ra trước mặt ông. Đội trưởng cười cái hậc, nói thấy chưa Phạm Vũ! Toàn tài liệu Quốc Dân Đảng như ri, hỏi răng không phản động. Ba tôi chết điếng, ông rũ ra như cây chuối héo.
Người ta lôi cổ ba tôi đi. Cả nhà tôi ùa ra cửa. Mạ tôi khóc òa, cả đàn con khóc òa theo. Đội trưởng thủng thẳng đến sát mạ tôi, thò tay véo vú mạ tôi, cười hề hề, nói vợ thằng phản động bụ to rứa bay. Rồi mắt trợn tay chỉ Đội trưởng quát to đanh thép, nói tịt thu nhà ni, đưa vợ con nó về chuồng bò gần cầu Phôốc! Đội trưởng thủng thẳng quay vào cửa, lại thò tay véo vú mạ tôi, lại cười hề hề, nói công nhận con ni bụ to.
Chết dở tục quê
Mình không sành cà phê, ngon dở không thành vấn đề, chỉ thích ngồi một mình không phải nói chuyện với ai, càng không gặp người quen càng tốt. Cho nên chung cư mình cũng có quán cà phê nhưng mình không thích ngồi ở đó, vẫn thường ra ngồi mấy quán vỉa hè, quán càng vắng càng thích. Sát ngay cổng phụ chung cư có cái quán cóc của hai mẹ con cái Thảo, một cái bạt rách bốn cái cọc tre là thành cái quán.
Quán cái Thảo rất vắng khách, năm thì mười họa mới có khách vào, chủ yếu Thảo chạy đưa cà phê cho các bảo vệ mấy chung cư gần đấy, chả biết một ngày có bán được năm chục ly hay không. Rất ít khi thấy Thảo đứng bán cà phê nghiêm chỉnh, nó bỏ quán trốngsuốt ngày, ai vào quán ới một tiếng, nó ở túp lều bên kia tường dạ dạ to rồi lật đật chạy ra, pha cà phê xong lại lật đật chạy vào. Chẳng biết nó làm gì mà khi nào cũng thấy tất bật.
Con gái Thảo đang học đại học, mặt cô bé hiền ngoan nhưng buồn, mấy tháng mình uống cà phê ở đấy chưa khi nào thấy nó cười tươi. Hỏi ra mới biết mẹ nó ôm nó trốn nhà chồng, trốn luôn cả bố nó từ Quảng Trị vô Nam từ khi nó vừa một tuổi, từ bấy đến nay đã gần hai chục năm rồi. Mình hỏi sao trốn, nó cười như khóc, nói cháu không biết. Thấy cái lều tạm hai mẹ con ở trông nhếch nhác quá, cũng một tấm bạt rách và bốn cái cọc tre, mình nói đất nhà cháu rộng thế sao không bán đi một nửa lấy tiền làm cái nhà. Nó thở hắt, nói đất đâu của nhà cháu hả ông, là mẹ cháu cắm lều tạm lên đó ở, chừng nào người ta đuổi lại chạy.
Mình nói chuyện với cái Thảo mới biết nó vốn là giáo viên dạy cấp 1, nhà ở Thị xã Quảng Trị cũng không đến nỗi nghèo khó lắm. Kẹt nỗi lấy chồng nông thôn, nó phải về sống ở nhà chồng. Kể từ đó nó khóc hết nước mắt vì tục quê ở nhà chồng, cực nhất là khi nó sinh con, nội chuyện kiêng khem cũng đủ làm nó chịu hết nỗi. Mình hỏi sao đến nỗi thế. Nó cười buồn, nói kể ra dài dòng sợ mất thời giờ chú, nói thật lắm khi cháu muốn đập đầu vào tường chết quách cho xong.
Mình nói ngày nay nhiều chị em sinh xong chẳng thấy kiêng khem gì, vừa sinh đã ra gió, ăn uống lung tung, tắm rửa cũng giống người thường. Như thế cũng chẳng hay. Nhất thời thì thấy tiện lợi, khỏe khoắn nhưng về lâu dài có thể đó là mối họa khôn lường. Người ta nói chị em ngày nay sinh nở vài lứa đã thấy già khú, mau hư người cũng duyên do không chịu giữ gìn các kì vượt cạn. Thảo nói vâng, cháu biết chứ. Sinh nở không thể không kiêng khem nhưng kiêng khem như nhà chồng cháu thì thật đáng sợ.
Thảo thở hắt ra, ngồi im hồi lâu rồi thủng thẳng kể.
Quê chồng cháu sinh nở không ra bệnh viện. Cháu sinh tại nhà, bố mẹ chồng thưng cái buồng nhỏ, kín mít, không còn một khe hở nào, y chang cái xà lim, thiếu sáng thiếu khí. Và nóng, nóng kinh khủng. Nắng Quảng Trị chú biết rồi, vào mùa hạ chẳng khác gì cái nồi rang. Cháu xin mở hé cái cửa sổ, không cho. Xin mắc cái quạt, không cho. Cháu khẩn khoản xin mẹ chồng, nói con có thể chịu được nhưng con bé nó sắp chín đây rồi mạ ơi. Mẹ chồng lườm cháu, nói máy ở thành thị, quen thói tiểu tư sản, mới nóng tí đã kêu.
Lại thêm cái tục nằm than, xông muối. Suốt tháng ở cữ, dưới gầm giường luôn có nồi than to, quạt lửa đỏ rực. Lửa than than bốc lên cháy sém cả chiếu vẫn bắt mẹ con cháu cứ nằm cho trọn tháng. Cháu sợ con gái cháu chết cháy mất, cứ ngồi ôm nó suốt ngày đêm, không dám đặt xuống gường. Cả tháng cữ cháu chỉ ngủ ngồi, cứ gật gà gật gù như thế cả tháng trời, chưa khi nào được trọn giấc.
Đến đoạn xông muối thì cháu hết chịu nổi. Ngày nào cũng một lần xông muối, hơi nước nóng cộng hơi muối bốc lên ngột ngạt vô cùng. Cháu ngồi trong chịu không nổi, vừa nhấc đầu lên mẹ chồng đã vội vàng dúi đầu xuống. Một lần chịu không nổi cháu ngất luôn. Tưởng nhờ thế bố mẹ chồng tha cho cháu, nhưng không, bố chồng cháu ra lệnh, nói như rứa là con ni máu xấu, phải xông muối lâu gấp đôi gấp ba mới được.
Nghe thế cháu rùng mình, sợ quá nửa đêm ẵm con trốn về nhà mình, cứ băng đồng mà đi, đến sang mới tới đường quốc lộ, bắt xe ôm về Thị xã Quảng Trị. Về tới nhà thì chồng con đã đứng chờ ở cổng. Lại phải quay về nhà chồng. Sau bữa đó cháu ôm liệt giường gần một tháng.
Mình hỏi thế bố mẹ đẻ cháu không nói gì à? Thảo thở dài, nói bố mẹ đẻ cháu cũng lạc hậu lắm, một hai đuổi cháu về nhà chồng, nói xuất giá tòng phu không oong đơ chi hết. Mình hỏi thế thằng chồng thì thế nào. Thảo lắc đầu cười nhạt, nói chú đừng hỏi ông đó mà rầu lắm. Nhậu nhẹt tối ngày, về tới nhà lăn ra ngủ. Cháu có kể khổ thì ổng gạt đi, nói chà, có chừng đó đã kêu, thiên hạ đều làm vậy cả có ai chết đâu. Nước mắt Thảo chảy ròng ròng.
Mình không hỏi nữa nhưng Thảo cứ kể, nói tục quê sợ lắm chú ạ. Qua được tháng ở cữ lại đến đoạn con đau ốm mới chết dở với tục quê. Cháu vẫn biết dân gian có những bài thuốc chữa bệnh con nít rất hay. Ví dụ khi con đầy bụng, bắt một con gián, nướng hoặc rang rồi giã bột, hòa với dầu hỏa bôi rốn con, bụng trẻ xẹp liền. Hay con nít tưa miệng thì lấy lá cây hoa cúc đất rửa sạch giã lấy nước, lấy chút hàn the cho lên thìa cà phê nướng chảy hòa với nước hoa lá hoa cúc đất. Lấy cái lông gà đã tiệt trùng, chấm nước đó quét miệng con, vài ba lần sạch biến. Hay lắm. Nhưng quê chồng cháu quá nhiều bài chữa mẹo vô lý đùng đùng, lắm khi nguy hiểm chết người mà không biết. Cháu nói rã mồm chẳng ai chịu nghe, cực ơi là cực, để cháu kể chú nghe.
Con gái cháu nổi mận ngứa, tây y thì bảo là dị ứng, dân ta thì gọi là mề đay, hay mận tịt. Cái này dễ chữa không, nhưng mẹ chồng cháu dứt khoát bắt cháu lấy cái nón mê đặt chín miếng trầu đem ra để ngã ba đường cúng ông Cầu bà Quán. Trong nhà con ngứa khóc, ngoài đường mẹ sì sụp cúng vái. Cháu là giáo viên cứ sì sụp khấn vái giữa ngã ba không ra làm sao, nhưng không làm vậy thì chồng đấm bố mẹ chồng mắng, chú thấy có cực không?
Một hôm cháu dạy về, thấy con bé đau bụng khóc ngặt nghẽo. Đoán ở nhà bà nội cho nó ăn gì bị rối loạn tiêu hóa, cháu ôm con đi trạm y tế xã, mẹ chồng cháu ngăn lại, nói khỏi phải đi đâu hết, tao vừa hỏi mấy người bên xóm, có cách chữa mẹo hay lắm. Cháu hỏi cách chi mạ, mẹ chồng cháu nói chỉ cần mượn người nhổ bão, nhổ cục tóc trên đầu mày là khỏi. Cháu cười, nói mạ đừng có nghe tào lao, có nhổ trọc đầu đầu con cũng chẳng khỏi đâu. Thằng chồng cháu uống rượu đâu về, liền cho cháu bợp tai, nói cô hỗn láo với mạ tôi từ bao giờ thế. Rồi hắn đè cổ cháu xuống, gọi người hàng xóm nhổ tóc chỏm đầu cháu, nhổ trắng cả chỏm đầu con bé vẫn khóc ngặt nghẽo, khi đó mới cho cháu bồng con đi trạm y tế.
Chuyện đó vẫn chưa hãi hùng đâu chú ạ. Con bé cháu bị viêm phế quản, bú vào là trớ ra. Cháu bảo chồng đi mua thuốc kháng sinh, bố chồng cháu ngăn lại, nói con nít bị trớ sao lại uống thuốc kháng sinh, ngu. Để con nhỏ đó cho tau. Tưởng ông làm gì, té ra ông ra bến múc nước lòng đò cho con bé uống, nói thần dược đây, cả làng này đều trị tật trớ con nít như ri cả.
Cháu hãi quá, lạy lục phúc bái, nói ông ơi nước lòng đò trâu bò uống còn chết, ông không nghe người ta nói vậy sao. Bố chồng cháu không chịu, nói tau nuôi năm sáu đứa con, mày còn dạy khôn tau.
Cháu ôm chặt lấy con dứt khoát không cho uống, bố chồng cháu giật con bé ra, cháu giật lại, nói không, các người tính giết con tôi à, ác lắm!. Thằng chồng cháu nhảy ra hét lên, nói a con này dám chửi cả cha tau. Nó đánh cháu một trận nhừ tử, cho đến khi con ngất đi nó mới thôi.
Tối đó cháu viết cái đơn ly dị để lại rồi ôm con bỏ đi. Lúc đầu vô Huế, sau vô Đà Nẵng, lần mò mãi vô tận Sài Gòn, gần hai mươi năm rồi chú.
Thảo ngước lên, khuôn mặt đầm nước mắt, nói hai mươi năm chưa một lần cháu dám về quê. Thằng chồng cháu bắn tin, nếu mẹ con cháu về quê nó giết cả mẹ lẫn con. Chú ơi, năm ngoái nghe tin ba cháu mất cháu cũng không dám về … Thảo bỗng khóc òa nức nở.
Rượu tết củ người đẹp
Đàn bà không biết uống rượu thì thôi đã uống được rượu thì uống rất ghê, đàn ông ít ai bì kịp. Người đẹp xứ Huế cùng chung cư 24 Lê Lợi với mình là một ví dụ, để mình kể trận say vì rượu tết của người đẹp. Nhưng trước hết phải nói qua chung cư nơi mình sống thì mọingười mới tin chuyện mình sắp kể.
Chung cư này vốn là biệt thự cũ thời Pháp, hình như chủ nhà là quan to hay đại gia chi đó đã bỏ chạy từ năm 1975. Người ta ngăn lại thành vài chục phòng, mỗi phòng hơn chục mét vuông cho cán bộ sở văn hóa Bình Trị Thiên, mọi người cứ gọi phứa đi là căn hộ cho oách, mình cũng được phân một căn hộ kiểu vậy.
Chung cư kiểu này có đầy ở thời bao cấp, cả chung cư chung nhau một vòi nước một nhà vệ sinh, lấy nước phải sắp hàng, đi vệ sinh cũng phải sắp hàng. Vào mùa mưa thật gian nan, mưa Huế dai dẳng từ sáng tới tối, mỗi lần đi vệ sinh thật gian khổ vô cùng. Nhà vệ sinh bị dột, ngồi trong cũng như ngồi ngoài trời. Ai đã từng đội áo mưa đi vệ sinh mới hiểu cái cảnh người ngồi trong lom khom áo mưa nón lá, hai ba người đứng ngoài chờ nón lá áo mưa. Rõ cám cảnh
Mưa lâm thâm ướt dầm lá hẹ/ Anh thương nàng đi ẻ trời mưa.
Vì thế mỗi nhà nghĩ ra một sáng kiến riêng giải quyết bế tắc. Anh Bính Văn, họa sĩ chuyên vẽ bìa sách và câu đối, ở độc thân vợ con không có, tính lại nhác, không muốn sắp hàng đứng đợi giữa trời mưa. Anh lấy cái thùng đựng gạo làm nơi giải quyết bế tắc, cứ tương vào đấy, đậy kín nắp khi đầy mới đem đi đổ. Anh Đình Nô, họa sĩ chuyên vẽ tranh cổ động, ba lần ăn giải về tranh cổ động về tuyên truyền vệ sinh công cộng, lại có sáng kiến khác. Phòng anh ở sát vườn nhà bên cạnh. Anh đục tường tuồn cái ống nước qua đấy rồi lắp cái phễu đầu ống, khi mót tiểu cứ tương vào phễu, thế là xong, rất tiện.
Nhà mình ở khu trên, căn phòng có 4 mét vuông, về sau mở rộng hơn chục mét vuông, kẹp sát với ba phòng, chung nhau cái sảnh khoảng 6 mét vuông, dùng làm nơi nấu nướng và để xe đạp của cả ba nhà. Cái sảnh thật bi thương, chỉ 6 mét vuông thôi phải chứa 3 cái bếp, 3 cái chạn, ba đống củi, 6 chiếc xe đạp của cả ba nhà. Cửa sổ của ba phòng đều hướng ra sảnh, mỗi lần 3 cái bếp “ nổi lửa lên em” là ba phòng chẳng khác gì ba cái hang chuột bị hun khói. Phòng nào cũng chỉ mỗi cửa sổ, trời nóng quạt cóc chạy gật gù nếu đóng cửa sổ coi như bị thui luôn. Cửa sổ mở toang, nhà này làm gì nhà kia đều biết cả, đứng ở sảnh thấy cả ba nhà không sót một thứ gì. Chuyện vợ chồng phải nhịn đến tận khuya nhưng cũng không thoát được bị “ đột kích”. Thôi thì kệ mẹ, ai làm cứ làm ai nhìn cứ nhìn, chẳng biết làm thế nào.
Một lần mình dậy sớm ra ga đón người nhà, ra sảnh nhìn vào nhà anh Hoành thấy anh đang nằm trên bụng vợ. Anh đang ngậm ti chợt nhìn thấy mình, miệng vẫn ngậm ti không chịu nhả anh hất mặt lên mắt nháy nháy ý bảo biến đi biến đi. Lần khác, nửa đêm mình đang yêu vợ giai đoạn cuối, ngẩng lên thấy mặt thằng Minh con anh Trung đang áp sát cửa sổ. Nó nhăn răng cười, nói mần chi lâu rứa hè, mau cho cháu mượn bật lửa, thèm thuốc chết được. Hu hu.
Bây giờ mới đến chuyện rượu tết của người đẹp.
Tết nào chung cư cũng vắng hoe, người ta đua nhau về quê ăn tết chỉ còn lại dăm ba nhà. Tết năm 1987 vợ mới sinh nhà mình phải ở lại ăn tết ở chung cư. Sáng mồng 1 thắp hương bàn thờ, húp bát cháo gà giao thừa còn sót lại rồi ngồi ngoảnh mặt ra cửa sổ chờ khách. Thoáng thấy cô gái cực xinh đi vào phòng chị Hòa, cô tự mở khóa vào phòng, biết là em gái chị Hòa về đây coi phòng cho chị về quê ăn tết. Cô tên Hương hay Phương chi đó làm ở công ty du lịch. Thời này ai làm ở công ty du lịch coi như chuột sa chĩnh gạo, muốn đói nghèo cũng chả được. Cô bé ăn mặc đúng mốt chải chuốt đúng điệu nhìn mãi không chán. Từ khi cô vào phòng mình không rời mắt khỏi cửa sổ nhà cô, bây giờ mới phát hiện trên bàn cô có chục chai rượu Nàng Hương và một đóng quà tết chưa kịp dọn. Mình lác mắt luôn, rượu Nàng Hương lúc đó giống rượu Chivas 18 bây giờ, dân nghèo như mình đến tết mới có một chai để bàn thờ, cô có cả chục chai, nể! Đang nghĩ cô này con gái độc thân sao sắm rượu nhiều thế không biết thì cô tụt váy thay đồ. Sáng mồng một được show khỏa thân không mất tiền thật đã.
Xong show khỏa thân mình tót sang phòng Đình Nô, thấy Bính Văn đã ngồi sẵn đấy rồi. Anh Nô pha trà, nói uống trà cho ấm bụng, sáng ra uống rượu hại gan lắm. Anh Bính Văn lườm Đình Nô, nói thôi đi mi, có chai rượu để bàn thờ sáng mồng một chưa dám lấy xuống uống thì nói cha cho rồi, hại gan hại ghéo. Đình Nô cười khì, nói thằng Lập sắm được mấy chai, thừa chai mô không? Mình nói em có một chai đang để bàn thờ, lấy xuống bây giờ vợ nó xé xác. Bính Văn thở hắt chép miệng, nói tụi bay còn khá, tao có mỗi xị rượu sắn mua chịu mụ Phước để bàn thờ. Cả ba thằng ngồi im nhìn mặt nhau. Đình Nô thở dài, nói ba thằng mình nổi tiếng như ri tết không có chén rượu, nhục rứa bay. Mình vỗ vai Đình Nô, nói chỉ có đi chúc tết hàng xóm mới kiếm được rượu ngon. Em phát hiện nhà chị Hòa có cả chục chai Nàng Hương. Đình Nô Bính Văn mắt sáng như sao, nhổm đít đi liền.
Ba thằng vào phòng, Đình Nô tính làm màn giới thiệu thật hoành tráng chẳng dè cô bé biết tên tuổi ca ba, rối rít chào mời rất quí trọng, mừng húm. Cô bé bóc chai rượu rót hết ra hai li cối đầy, nói em có chút việc phải đi. Em uống với các anh mỗi người li chúc mừng năm mới rồi các anh cứ ngồi đây thoải mái khui rượu uống, đừng ngại. Cô bé đưa li cối cho Bính Văn, anh trợn mắt lên, nói một hơi hết li cối này a? Cô bé cười, nói chứ sao. Bính Văn nhắm mắt uống ba hơi mới hết, cô bé uống nhẹ nhàng như không, như uống nước chè vậy. Mình và Đình Nô trợn mắt nhìn nhau, phen này không chết cũng bị thương. Cô bé bóc chai khác uống với Đình Nô, bóc chai khác uống với mình. Từ bé đến giờ chưa bao giờ mình nốc một hơi cạn li cối như vậy, sợ quá.
Uống xong ba li cối hơn một lít rượu cô bé vẫn tỉnh như sáo, thong dong cắp nón dắt xe ra đi trong khi ba thằng đã ngà ngà say, ngật ngà ngật ngưởng. Rựợu càng ngấm càng say, càng say càng tham uống, ba thằng khui tiếp hai chai nữa uống cho đến khi say bí tí, ôm nhau khóc cười như ba thằng điên. Mình còn bò được về phòng, Bính Văn Đình Nô chết ngay tại trận, ngủ lăn trên sàn nhà. Khi say như mê sảng chỉ làm theo thói quen, Bính Văn mót tiểu loạng quạng bò dậy mở nắp thùng gạo trút hết vào đấy. Đình Nô mắt nhắm mắt mở tìm được cái phễu cắm trên can nước mắm dí ngay vào bắn hết vào can nước mắm ba lít. Kinh.
Ba giờ chiều ba thằng mới tỉnh rượu, cô bé vẫn chưa về. Mình sang phòng chị Hòa, nói các anh về đi, để em khóa cửa cho. Chợt mình phát hiện thùng gạo và can nước mắm của chị Hòa đã bị Bính Văn Đình Nô hủy diệt. Hai anh nhìn nhau mặt mày tái nhợt. Cần phải phi tang khẩn cấp trước khi cô bé về. Có bao nhiêu gạo, nước mắm của nhà hai anh trút hết sang nhà chị Hòa. Xong rồi ngồi đực mặt nhìn nhau. Đình Nô gãi đầu bứt tai, nói biết lấy chi ăn cho qua ba ngày tết đây bay ơi. Bính Văn cười cái hậc, nói ráng uống nước tiểu qua ngày chớ răng nữa. Họ nhìn nhau cười nhăn nhó.
Hi hi đến chết mình cũng không quên hai cái mặt đực như ngỗng ỉa đang nhăn nhó cười của hai họa sĩ trứ danh xứ Huế sáng mồng một tết 25 năm về trước.
Nuôi bố mẹ già
Nói thật mình chẳng lo gì chỉ lo già yếu lẩm cẩm, sống mà phải lụy đến người khác là cái sống buồn chán nhất. Đã từng trải qua hai năm nằm liệt giường, ăn có người đút ỉa có người chùi nên nghĩ đến khi đó mình lại cứ rùng mình. Người già thường hay lẩm cẩm, trái tính trái nết rất khó chiều. Thành ra nuôi bố mẹ già khổ gấp ba con trẻ. Ăn uống chẳng đáng bao nhiêu nhưng chiều ông bà giàthật cực gấp ba mươi lần chiều con trẻ, đừng nói gấp ba. Chẳng có bố mẹ nào muốn làm khổ con cái nhưng trời đày đến cảnh ấy chẳng biết làm sao.
Ba mình mất sớm, mất khi ông hảy còn tỉnh táo. Đi như ông thật sướng, trời thương lắm mới cho đi như thế. Mạ mình mất năm 83 tuổi, đi cũng nhẹ nhàng, cả đời không đau ốm gì, trừ lần cuối cùng ốm để mà chết. Nhưng đến tuổi 80 bà bắt đầu lẩn, ăn rồi bảo chưa ăn, ra khỏi nhà là đi lạc lung tung. Lắm lúc phải huy động cả trung đội cháu tỏa ra khắp làng mới tìm được. Rồi ngồi trách, vừa khóc vừa trách, nói ăn cũng không cho ăn, đi chơi cũng không cho đi chơi… hi hi đến khổ.
Riêng cái đoạn tắm táp thật khổ vô biên. Cứ một tháng đôi lần các chị gái chị dâu nhà mình xúm đến năn nỉ bà tắm, lúc nào cũng vậy bà chối đây đẩy, nói tao tắm rồi mới tắm hôm qua. Các chị ra sức nịnh nọt năn nỉ cả buổi cuối cùng bà cũng chấp nhận. Hỏi bà tắm nước lá gì, bà khóc, nói con cái không biết xưa nay mạ tắm nước lá gì, lại còn hỏi. Đến khi bưng nồi nước lá bưởi ra, thứ nước bà vẫn hay tắm, thì bà lại kêu lên, nói tao không tắm nước lá bưởi, tao tắm nước lá hương nhu. Các chị đi hái lá hương nhu, nấu nước xong bà nhất định không tắm, nói tao đâu là gái trẻ mà tắm nước lá hương nhu, nấu nước lá tre cho tao. Khổ ơi là khổ.
Bạn văn quen biết có ba người nuôi bố mẹ già khiến mình rất nể phục, đó là Tâm Chánh, Tô Nhuận Vĩ và Phạm Ngọc Tiến. Tâm Chánh giỏi nấu ăn, những ngày bà cụ đổ bệnh chỉ có Tâm Chánh nấu bà mới ăn. Chánh phải đưa bà từ Bến Tre lên Sài Gòn để có điều kiện nấu ăn cho bà. Anh con trai chưa vợ, hai vai hai gánh nặng cơ quan, một
Sài Gòn Mediamột báo
Sài Gòn tiếp thị, bận mù mắt vẫn phải đi chợ ngày ba buổi nấu nướng cho mẹ già. Mẹ Tô Nhuận Vĩ không thích cho con dâu tắm, tự anh phải tắm rửa cho bà, đến khi bà mất cũng tự anh tắm rửa khâm liệm cho bà. Phạm Ngọc Tiến còn khổ nữa, bố nằm liệt giường 15 năm, mẹ già vừa lẩn vừa liệt giường gần hai chục năm nay một tay anh lo cả. Tiến không phải tự tay nấu nướng tắm táp cho bố mẹ như Tâm Chánh và Tô Nhuận Vĩ, đã có vợ anh con lo rồi, nhưng chịu đựng một cách vui vẻ và hạnh phúc gánh nặng bố mẹ già yếu bệnh tật hai chục năm trời, đến nay vẫn chưa dứt, thì cũng xưa nay hiếm.Ấy là khi bố mẹ ốm yếu, chăm sóc bố mẹ dù vất vả nhưng dù sao đó cũng là niềm vui của con cái được báo hiếu. Chiều chuộng mấy ông bà già lẩn thẩn, dở tính mới cực. Nhiều cụ hay dỗi, động tý là dỗi. Nhà có ông bà già con cái không dám mắng, sợ ông bà già cho là mượn con mắng mình, rất cực. Nhiều cụ về già trở lại tính con nít, đòi ăn đòi chơi y chang con nít. Đang nửa đêm đòi đi thăm người nọ người kia, đòi ăn cái nọ cái kia cho bằng được.
Ở Nam Định mình có ông bạn học thời đại học, hôm liên hoan phim mình có về dự, nhân tiện đến nhà bạn chơi. Xem xong phim hơn mười giờ mình mới tạt qua, không thấy nó đâu chỉ cô vợ ở nhà. Cô vợ nói anh chịu khó ngồi đợi chút, em lên nghĩa địa gọi nhà em về. Mình giật mình, nói giờ này còn làm gì ở nghĩa địa? Cô vợ thở ra, nói ông bố em dở tính, đêm nào cũng cũng đòi lên nghĩa địa chơi với mấy người bạn đã chết của ông. Tụi em phải thay phiên nhau canh chừng ông, cực lắm anh à.
Ở Thanh Hóa mình cũng có một người bạn thời ở lính. Cứ mỗi lần mình về Thanh Hóa là nó đến chơi với mình rồi ngủ lại khách sạn với mình luôn. Lúc đầu không biết, mình tưởng nó thích ngủ với mình trò chuyện cho vui. Một hôm mình đi chơi quá nửa đêm mới về khách sạn thấy nó ngồi chồm hổm trước cửa. Mình hơi ngạc nhiên, nói sao vẫn ngồi đây chờ tao à. Nó nói ừ, chờ mày về ngủ nhờ. Mình cười, nói bị vợ đuổi phải không. Nó nói không. Bố vợ tao đuổi. Rồi nó kể, nói tao lấy vợ đã ba mặt con, ở với ông bà già vợ xưa nay không việc gì. Đến khi bà mẹ vợ chết, ông bố vợ trên bảy mươi đâm ghét tao như xúc đất đổ đi. Ngày không sao, cứ đêm đến là ông đuổi tao ra khỏi nhà, nói tao cấm mi ngủ với con gái tao. Mình không đi ông ngồi nói ra rả suốt đêm không cho ai ngủ ngáy gì cả. Thành ra đêm nào tao cũng phải sơ tán sang nhà khác, ba bốn giờ sáng mới mò về. Hi hi cực thân ông con rể.
Lại có cụ thích khi ăn phải được sờ ti như con nít đang bú, vừa bú vừa sờ ti. Chuyện này hơi bị hiếm nhưng có, mình có quen một người như thế. Hi hi. Chuyện này có thể nhiều người biết rồi, nhưng chắc chỉ nghĩ là giai thoại bịa đặt cho vui thôi, không ai biết là chuyện thật 100%. Đấy là chuyện ông bố nhà thơ X. ở khu phố cạnh khu chung cư của mình.
Bố nhà thơ X, nay đã mất rồi, sống rất thọ, đến 96 tuổi rồi vẫn tỉnh táo. Tuy không còn đi lại được, nằm một chỗ thôi, ăn uống phải đút nhưng hảy còn tỉnh táo lắm. Cụ ngày nào cũng làm một bài thơ, bài nào bài nấy dài ngoẵng. Làm xong thì bắt cả nhà đến cả nhà nghe cụ đọc thơ. Nếu là buổi tối thì không sao, nhiều hôm vừa sáng bảnh mắt, cả nhà đang lo cho con ăn, chở con đi học cụ lại réo đến nghe cụ đọc thơ thật khổ hết nổi. Đang đọc thơ hễ có đứa nào nói chuyện là cụ giận, cứ nằm úp mặt vào tường suốt ngày, không chịu ăn uống gì cả.
Thỉnh thoảng cụ lại réo con cái, nói tụi bay lo đi hỏi vợ cho tao. Con cái cười thì ông dỗi, bỏ ăn. Nhà thơ X chắp tay lạy cụ, nói nói bố ơi bố già yếu thế này, hỏi vợ làm gì nữa. Ông nói tao chả làm gì, tao chỉ sờ ti thôi. Cả nhà cười bò, nói ối giời ơi bố ơi là bố. Ông giận quát ầm lên, nói đồ con cái bất hiếu, có mỗi cái ti cũng tiếc tiền không cho bố sờ. Và ông bỏ ăn, cứ nằm úp mặt vào tường mấy ngày liền.
Vợ chồng nhà thơ X sợ quá bèn năn nỉ ông ăn, nói bố ăn đi, nhất định con tìm ngườiu cho bố sờ ti. Ông ăn, nhưng chỉ đúng một ngày ông lại réo, người sờ ti của tao đâu. Bí quá nhà thơ X. mới tìm mấy em cave nói như vầy như vầy, chưa nói xong nhà thơ đã bị ăn một cái tát. Ăn hết ba cái tát vẫn không tìm được người, bố anh lại giận lại dỗi lại bỏ ăn, nhà thơ lại cất công đi tìm.
May gặp cô điếm già đã giải nghệ từ lâu, cô này to béo phốp pháp rất đúng yêu cầu của ông bố. Nhà thơ mời về với giá gấp sáu công người giúp việc bình thường anh cũng cắn răng chấp nhận. Việc cô này rất đơn giản, cho cụ ăn ngày ba bữa, ngoài ra không làm gì hết. Đến bữa, cô đặt đầu cụ lên đùi cô đút cơm cho cụ. Cụ vừa ăn vừa sờ ti cô cho đến khi nào ngủ say thì thôi. Từ đó gia đình yên ổn, cụ hết giận dỗi, quát mắng con cháu, hi hi.
Nhờ vừa ăn vừa được sờ ti nên cụ ăn khỏe, sống đến trăm tuổi mới mất. Trước khi chết cụ ra hiệu muốn nói, mọi người xúm lại lắng nghe. Tưởng cụ trăn trối điều gì, nhưng không, cụ phều phào, nói ti tao đâu ti tao đâu.
Nhà văn nhà hàng
Mình thường không thích đến nhậu ở các nhà hàng của các văn nghệ sĩ. Đến đấy thường gặp người quen, nội mỗi chuyện chào hỏi cũng đủ mệt. Nhưng như người ta nói ghét của nào trời trao của ấy, muốn tránh cũng chẳng được. Bạn vào đấy ngồi rồi hú mình, vô lẽ vì cái quán ấy là của văn nghệ sĩ mà mình không tới. Vả, nhiều quán là anh em bạn bè thân thiết nhất thiết phải tới để ủng hộ anh em, chẳng hy vọng có mặt mình quán có thêm khách nhưng tới để anh em chúng nó vui.
Mình nhớ hồi trước có lần ngồi nhậu với Trịnh Công Sơn, được vài ly anh liền nhổm dậy, nói mấy ông ngồi đây nha, tôi viếng qua nhà hàng mấy đứa em chút rồi tôi quay lại ngay. Cuốibuổi anh quay lại đã say mềm, nói khổ rứa đó, mấy đứa em mới mở nhà hàng mình phải tới đó ngồi chào khách. Đi quán này không đi quán kia em út chúng nó trách, thành thử phải đi hết cả ba quán. Một quán vài ba khách, năm bảy khách, đi hết ba nhà hàng đã cả lít vào bụng rồi. Kiểu này e rồi mình cũng chết non.
Cái khổ nhất của các quán văn nghệ sĩ là chỗ đó, vì cái name mà mở nhà hàng, hy vọng vì cái name mà đông khách, rõ ràng đông khách thật nhưng cũng vì cái name mà chết khổ. Bỗng nhiên mình biến thành cái hũ rượu để thiên hạ đổ rượu vào, hi hi thế có khổ không.
Mình nhớ đâu như năm 1996, Nguyễn Huy Thiệp kết hợp với ai đó mở nhà hàng
Hoa banở bên kia cầu mới ( chả nhớ là cầu gì) phía Gia Lâm. Thiệp thì tiền bạc có đâu, chắc là góp vốn bằng cái name. Mấy ngày đầu nhà hàng đông khách nghìn nghịt, ngồi chật kín cả nhà sàn, tràn cả xuống dưới đất. Thiệp không biết uống rượu nhưng ngày nào cũng phải đến, ngồi bàn này mấy phút lại nhảy sang bàn kia ngồi mấy phút, đang ngồi bàn này người của bàn kia tới kéo cổ áo lại phải đứng lên, đang nói cười với người này người kia đến bắt tay lại phải nói cười với người kia, loanh quanh như thế từ sáng đến tối, mệt bã người.
Khách đến tìm Thiệp để bắt tay để chào hỏi để chụp ảnh không nói làm gì, có làm phiền cũng chỉ dăm bảy phút, sợ nhất là mấy ông khách muốn chứng tỏ, thích lấy le với người khác. Giữa cái quán ồn như vỡ chợ mấy ông cứ nhất định nói chuyện văn chương cho kì được, khen truyện này mấy câu chê truyện kia mấy câu ra cái vẻ ta đây nếu không thầy Thiệp cũng đàn anh của Thiệp. Lắm ông bốc máy gọi vợ gọi con, nói em à.. con à… Em nói chuyện với thằng Thiệp bạn anh nhé… con nói chuyện với chú Thiệp bạn bố nhé. Nếu là mình thì mình chối phắt ngay lập tức nhưng Thiệp không chối được, lại cầm máy à ơi vài ba câu nhạt nhẽo, chán mớ đời.
Lắm hôm mình thấy bộ mặt thất thần của Thiệp mà thương, hết người này kéo áo người kia túm tay, nó nói cười ngơ ngẩn, tuồng như nó chẳng biết cười gì nói gì. Mình vỗ vai nó, nói đã khiếp nhà hàng chưa. Nó lắc đầu cười cái hậc, nói sai lầm sai lầm.
May nhà hàng
Hoa ban
chơi độc, ra giá cực cao, món nào món nấy đắt điếc tai, hình như họ tưởng thiên hạ vô đây nhậu là vì có Nguyễn Huy Thiệp, thấy được Nguyễn Huy Thiệp là sung sướng lắm rồi, đắt rẻ không xá. Nguyễn Huy Thiệp có truyện ngắnKiếm sắc
, ít lâu cái quán
Hoa ban
có tên làquán Kiếm sắc
, thiên hạ đến quán ít dần đi, Thiệp cũng mệt mỏi bỏ rơi cái quán. Quán
Hoa banđóng cửa từ đó. Mình nói may là vì nếu
Hoa bancòn đến bây giờ và Thiệp vẫn đánh đu với cái quán thì rất có thể nó đã bị hóa vàng từ lâu rồi.
Mình cũng đã từng mở nhà hàng. Hồi làm báo
Cửa Việt
ở Quảng Trị, đói quá mình mới làm cái nhà sàn trước cửa tòa soạn, gọi làDiêu bông quán
, chuyên thịt cầy bảy món, giúp cho anh em trong tòa soạn có thêm tiền ăn trưa. Mở được ba tháng, khách đông phết, chị Dạ ( Lâm Mỹ Dạ) từ Huế hớt hãi chạy ra, nói em ơi không được mô không được mô. Mình hỏi sao, chị Dạ nói thầy Chiêm nói đất ấy còn nhiều xương cốt, mở quán thịt chó dễ hại đến gia chủ.
Thầy Chiêm ở Đà Lạt là thấy bói tử vi nổi tiếng miền Nam, nghe nói ông Thiệu muốn đi đâu làm gì nhất nhất đều vời thầy vào bắt quẻ. Thầy rất thân anh Nguyễn Quang Hà, anh Hà kể nhiều chuyện bói toán của thầy làm mình phục sát đất. Mình là thằng vô thần chẳng coi bói toán là cái gì nhưng nghe anh Hà kể thì hãi lắm, có dịp mình sẽ kể sau.
Nghe chị Dạ yêu cầu khẩn thiết quá, dù rất tiếc nhưng mình đành phải dẹp bỏ món thịt cầy bảy món, chuyển sang quán nhậu bình thường. Từ khi bỏ món thịt cầy chẳng ma nào đến nữa, được một hai tháng nữa thì dẹp. Mấy năm sau anh Tường ( Hoàng Phủ Ngọc Tường, chủ bút tờ
Cửa Việt) bị tai biến, liệt cứng toàn thân đến nay chỉ ngồi một chỗ, mình bị tai nạn chấn thương sọ não liệt nửa người. Nhớ đến chuyện chị Dạ nhắc mình thấy sợ và ân hận quá.Không rõ còn nhà văn nào mở quán nữa không, riêng mình thấy có hai quán nhậu nhà văn tồn tại được rất lâu, đến bây giờ vẫn còn đông khách, đó là quán
Đo đocủa Nguyễn Nhật Ánh và quán
Ruốccủa Mường Mán. Cả hai quán đều là quán bình dân, các món nhậu là đặc sản miền Trung vừa ngon vừa rẻ. Quán lại không ồn ào, khách đông mấy cũng không ồn ào. Dân có chữ thường hay chọn quán này, các em chân dài cũng hay đến. Chân dài hay viếng qua thế nào đại gia cũng mò tới. Đại gia bây giờ chỉ thích mấy món tép xào, bánh tráng đập, cá lẹp kẹp lá mưng vậy thôi, các món cao sang họ đã ngấy đến tận cổ, thành thử hai quán này đâm trúng mánh, hi hi.
Hai ông chủ quán rất ít khi xuất hiện. Mường Mán thấy người quen tới bắt tay rồi lui ngay, ai thân quen lắm mới ngồi lại một chút, chỉ ngồi một chỗ chứ không chạy lăng xăng bàn này bàn nọ. Nguyễn Nhật Ánh thì định ra bàn số 13, cứ mỗi tuần một lần vào tối thứ tư lại mò đến tiếp bạn bè. Ánh có quầy sách
Kính vạn hoa
cạnh nhà hàng, các cháu cứ đúng tối thứ tư là đến mua sách và xin chữ kí của Ánh, rất tiện. Nhà hàngĐo đo
đã nuôi cả nhà Nguyễn Nhật Ánh gần chục năm nay rồi, thật sướng.Nhưng mấy ai may mắn được như Mường Mán và Nguyễn Nhật Ánh. Có thể nói mười người mở nhà hàng may ra được một, hai người trụ lại được. Dân nghệ sĩ chuyện buôn bán lại càng ú ớ, có đến vài trăm người mở nhà hàng, rốt lại chỉ được vài ba người, năm bảy người trụ lại được.
Bây giờ nói chuyện nhà hàng
Ziều đỏ
của Đỗ Trung Quân. Gọi là nhà hàng của Đỗ Trung Quân thực ra giống Nguyễn Huy Thiệp nó cũng chỉ góp vốn bằng cái name. Cu Fil vốn kinh doanh dược phẩm một hôm rủ Quân mở nhà hàng, Quân rửng mỡ lên, nói ừ làm ông nhà thơ chán rồi, thử làm ông doanh nhân cái chơi. Quân và cu Fil bỏ hết việc lao vào mở cái nhà hàngZiều đỏ
thật hoành tráng. Hôm khai trương đông nghìn nghịt, Quân sướng rêm, nói cứ thế này có khi mình thành triệu phú he he.He he được chục hôm, sau đó thì hè hè, cuối cùng thì hẹ hẹ. Cả cu Fil và Quân đều mệt bở hơi tai. Tiền lời chưa thấy đâu, cu Fil thì huy động cả nhà trực suốt ngày đêm, không làm ăn gì được cả. Quân thì kiệt sức vì phải hầu khách ngày ba buổi. Cũng giống Nguyễn Huy Thiệp nó nhảy choi choi bàn này sang bàn khác, từ lầu 1 lên lầu 2, từ sáng sớm đến khuya.
Ngồi chưa nóng chỗ bàn này đã nghe bàn kia réo Quân đâu. Vừa lên lầu 2 ngồi chưa kịp thở đã nghe lầu 1 réo Quân đâu. Xuống lầu 1 vừa nâng ly bia lầu 2 đã réo Quân đâu. Mệt quá nhảy về nhà ngủ chút lấy sức, lại nghe điện thoại réo Quân đâu. Đúng là voi cũng phải đổ đừng nói cái ông 37 cân hơi cả áo quần dày dép như Đỗ Trung Quân.
Được ba tháng Quân đổ bệnh, bây giờ chỉ còn 34 cân hơi, dắt cái xe máy không nổi, mỗi ngày phải truyền một hai bình đạm. Anh em thân thiết đều hò hét nó, nói dẹp quán ngay dẹp quán ngay, thà chết ở sa trường chớ có chết nơi quán nhậu. Cu Fil thấy thế hãi quá, nó đóng cửa
Ziều đỏ
cái rụp.Mình đến thăm Quân. Nó đang truyền đạm, mắt lờ đờ miệng phều phào, nói tôi phát hiện ra chân lý rồi… nhà thơ không phải nhà hàng… không phải đâu, đừng có mà tưởng bở.
Người sợ chó
Nó tên Bảo, hình như Lê Văn Bảo thì phải. Mình quen nó từ hồi mới vào lính. Ngày đó tụi mình đóng quân ở Sơn Tây, tiểu đoàn lính vừa tốt nghiệp đại học, gọi là tiểu đoàn sĩ quan dự bị, ở làng tên gì quên mất rồi, chỉ nhớ làng này cách làng Đường Lâm khoảng ba cây số. Tiểu đội chín thằng ở hết vào nhà mẹ Cà. Dù nhà ngói sân gạch rộng rãi nhưng chừng
đó người nhét vào một nhà đã có sáu nhân khẩu là quá tải, tụi mình áy náy lắm nhưng chẳng biết làm sao, lính tráng làm theo lệnh, không phải muốn ở đâu thì ở.Một hôm đang bữa cơm thấy trung đội trưởng đi vào gặp mẹ Cà, nói mẹ ơi, con biết nhà mẹ chật lắm rồi nhưng con xin mẹ cho con gửi thêm một đồng chí nữa. Mẹ Cà cười nhạt, nói đó, các anh ở được thì ở, đông thì vui chứ có gì đâu. Nghe vậy cả tiểu đội mình nhao nhao phản đối. Lính sĩ quan dự bị coi ông chuẩn úy trung đội trưởng không là cái đinh, đứa nào cũng gân cổ lên cãi. Đứa nói chín thằng đã quá chật, mẹ Cà phải ngủ dưới bếp anh có biết không? Đứa nói mỗi tiểu đội sinh hoạt khác nhau, nhét thằng khác tiểu đội vào đây thì sinh hoạt làm sao? Đứa nói tiểu đoàn ra lệnh mỗi tiểu đội mỗi nhà, tại sao nhét thằng khác tiểu đội vào đây, chúng tôi sẽ kiện lên tiểu đoàn.
Trung đội trưởng nhăn nhó, nói khổ quá, tôi biết rồi, các ông không phải nói. Nhưng cái thằng Bảo quái thai này nó sợ chó, nhà nào có chó là nó không chịu ở. Nó dọa nếu không bố trí nó ở nhà không có chó là nó đào ngũ. Một thằng nhảy ra cãi, nói tôi biết thằng Bảo tiểu đội 3 ở nhà ông Kỷ, nhà đó làm gì có chó. Trung đội trưởng thở hắt, nói khổ quá, tôi nói phét với các ông làm gì. Nhà ông Kỷ có con chó gỗ y như thật, cái thằng quái thai này điên lắm, chỉ cần nhìn con chó gỗ là nó không ăn được, không ngủ được.
Cả tiểu đội cười ầm lên, nói phét phét, bốc phét vừa vừa thủ trưởng ơi. Trung đội trưởng tức, nói tôi éo nói chuyện với các ông nữa. Tôi sẽ báo lên đại đội chuyển một thằng ở đây sang tiểu đội 3, cho thằng Bảo sang đây. Quả nhiên chiều tối thằng Trí được lệnh điều đi, thằng Bảo xách ba lô sang nhà mẹ Cà.
Thằng Bảo cao to đẹp trai, mặt mày rất gấu, nó lẳng lặng xách ba lô đi vào chẳng chào hỏi ai. Ném ba lô vào góc phòng nó hất mặt lên, nói thằng nào tiểu đội trưởng đây. Thằng Đào trợn mắt lên, nói mày hỏi ai đấy. Nó cũng trợn mắt lên, nói tao hỏi cả lũ chúng mày. Ba bốn thằng thấy thế liền xông đến. Nó cười khẩy phẩy tay, nói cút mẹ chúng mày đi. Đừng tưởng tao sợ chó thì sợ chúng mày. Cút đi không tao bẻ giò từng đứa một.
Sau màn chào hỏi kiểu trại tù, thằng Bảo tỏ ra biết điều dễ thương, qua một đêm tụi mình quí nhau liền. Mình hỏi nó, nói nghe nói mày sợ cả con chó gỗ, có đúng không. Nó gật đầu, nói tao có bệnh, bệnh sợ chó. Mình hơi lạ, nói bệnh gì lại bệnh sợ chó, kì khôi thế. Nó cười nhạt phẩy tay, nói tao là bác sĩ khoa tâm thần cũng éo biết bệnh gì, thầy tao cũng éo biết.
Tan buổi tập, nghỉ giải lao nó kéo mình vào quán uống nước chè cách bãi tập vài trăm mét. Mình nói sao đi xa thế, ở đây cũng có quán mà. Nó bảo tao nghiên cứu rồi, quán đấy không có chó vãng lai. Mình nói ông sợ cho khiếp thế à. Nó cười hiền lành, nói ừ, khiếp lắm. Nói ra chẳng ai tin. Tao là con một không phải đi bộ đội nhưng tao viết đơn bằng máu đòi đi cho bằng được. Mẹ khỉ, đơn bằng máu cũng bị trả lại với lời phê “ viết đơn thiếu nghiêm túc.” Mình hỏi sao. Nó bảo tại tao ghi trong đơn: “ Sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu không có chó”. Mình cười rũ. Nó kể tao phải cầm đơn lên quận giải thích mãi họ vẫn không chịu, bắt tao về phường xác nhận. May chủ tịch phường là chú họ tao, ông xác nhận liền: “ Xác nhận đồng chí Lê Văn Bảo sợ chó là hoàn toàn đúng sự thật”. Mình lại ôm bụng cười rũ.
Ở với thằng Bảo cũng có cái hay. Buổi tối cả tiểu đội chạy rong đi tán gái, mình nó ở nhà trông nhà, ngày lễ tết cũng vậy, thằng Bảo nằm co ở nhà chẳng đi đâu. Mình vỗ vai nó, nói kiểu này có khi mày ế vợ. Hay là để tao xách gái về nhà tán mày. Thằng Bảo mỉm cười lắc đầu, nói tao có bồ rồi. Mình hỏi xinh không. Nó bảo cũng tạm, mới xinh nhất Đại học y khoa thôi, chưa phải hoa hậu Hà Thành. Mình hỏi nàng có biết mày sợ chó không, nó bảo không, tao có nói nó cũng không tin. Nó thấy tao một mình tẩn bốn thằng đầu gấu phố Kim Liên, anh hùng như thế làm sao mà sợ chó.
Cuối tuần bồ thằng Bảo từ Hà Nội lên, cả tiểu đội mắt tròn mắt dẹt vì cô bé xinh quá là xinh. Thằng Đào rỉ tai mình, nói đ. mẹ con bé xinh thế lại yêu thằng sợ chó, có phí không chứ. Mình dặn thằng Đào, nói mày đừng để lộ chuyện thằng Bảo sợ chó ra nhé, nó bẻ giò mày thật đấy. Thằng Đào cười khì, nói được rồi chúng mày để tao trị nó cho. Tối nay có phim Liên Xô, phim này tao xem rồi, toàn chó săn con nào con nấy to bằng con bò, cho thằng Bảo chết khiếp, hi hi.
Chiều tối cô bé đòi về Hà Nội, cả tiểu đội xúm lại bảo cô gái ở lại, cô bé em chã em chã chút xíu rồi cũng ở lại. Thằng Đào nói với thằng Bảo, nói tối nay có phim chiến đấu Liên Xô hay lắm. Thằng Bảo ngần ngừ, cô bé reo lên, nói a em thích phim chiến đấu Liên Xô lắm. Thằng Đào chỉ thằng Bảo, nói đấy thấy chưa, mày không đi phí một đời trai đấy. Cô bé nũng nịu nì nèo, thằng Bảo tắc lưỡi đồng ý.
Phim gì mình cũng quên rồi, hình như phim tình báo thì phải, mở màn đánh đầm tùm lum, toàn võ thuật thượng đẳng, thằng Bảo thích lắm. Đến đoạn sau tụi lính Đức dắt chó săn chạy ào ra, thằng Bảo mặt mày tái mét, nó ngồi sụp xuống, lủi rất nhanh.. Cô bé đứng cạnh nó mải xem không biết, lát sau quay lại không thấy thằng Bảo đâu nữa. Cả tiểu đội giả vờ táo tác đi tìm rồi bảo cô bé, nói nó đau bụng chạy về nhà rồi, yên tâm, tý nữa tụi anh đưa em về.
Tan phim cả hội đi về, cô bé đi trước líu lo chuyện trò với thằng Đào, hai đứa nói chuyện chó say sưa. Thằng Đào nói anh có con chó Nhật xinh lắm, anh đi bộ đội rồi chả ai nuôi. Nếu em thích anh tặng em. Cô bé nhảy lên, nói ui ui em thích em thích. Thằng Đào thích chí rỉ tai mình, nói mày thấy tao đểu không. Mình nói cẩn thận không thằng Bảo bẻ giò mày. Nó cười khì, nói ừ, nhưng mà con bé xinh quá.
Chủ nhật tuần sau nghỉ lễ tết dương lịch được 3 ngày, mấy đứa ở Hà Nội đều về cả, thằng Bảo thằng Đào cũng về. Mình chạy loanh quanh mấy xã quanh đấy, hết ba ngày mới về nhà mẹ Cà. Chưa có ai lên, chỉ có thằng Bảo. Mình hỏi sao mày lên sớm thế. Nó ném cho mình gói thuốc, nói tao bỏ con bé rồi. Mình biết rồi nhưng vẫn làm bộ ngơ ngác, nói sao bỏ. Nó thủng thẳng kể, nói chả biết thằng chó đẻ nào cho nó con chó Nhật. Tao bảo nó vứt đi, nó không chịu. Thế cùng tao phải khai thật bệnh của tao. Nó hứa sẽ bỏ con chó. Tối qua tao lên trường vào phòng nữ của nó, không thấy con chó thật. Tao với nó đang bóc cam ăn chuyện trò tình cảm lắm. Chợt có ai liếm chân tao, cúi xuống thấy con chó Nhật. Tao rú lên một tiếng kinh hoàng, khủng khiếp đến nỗi cả dãy phòng nữ nhào tới. Tao giáng cho con bé một tát và tuyên bố stop here. Xong, tao dong thẳng lên đây.
Tối đó thằng Đào lên, nó ôm mình cười khúc khích, nói tao cầm tay được con bé rồi, tuần sau về Hà Nội là tau bin. Mình nói mày câm mẹ mồm đi đừng có ba hoa, thằng Bảo nó giết mày. Thằng Đào nói giết cu tao, ai bảo sợ chó, ngu thế cho chết.
Tuần sau thằng Đào hí hửng chuẩn bị về Hà Nội, nó lại rỉ tai mình, nói lần nay tao chỉ bin một phát thôi, phải để con bé nó thèm mình nó mới bám chặt mình được. Mình nói cứt, mày đừng có mà ba hoa. Thằng Đào nói không bin được con bé tao ăn cứt mày. Nó vừa dứt lời thì cô bé xuất hiện ở cổng, cô chạy ào vào ôm lấy thằng Bảo khóc nấc lên, nói anh ơi em không yêu chó nữa, em chỉ yêu anh thôi. Mắt cô bé sau vai thằng Bảo đang nhìn xói về phía thằng Đào.
Thằng Đào cụp mặt không dám nói gì. Hi hi.
Anh cu Đo
Làng Đông có vè:
Hay cãi cu Luật, hay đập cu Hinh, đánh rắm thối inh là anh cu Khả…
Lại có vè:Cu Luật hay cãi, cu Thái hay lo, cu Đo hay cấm, cu Chấm hay thơ, cu Bơ hay lẹo…..
Mấy anh cu Bơ, cu Hinh, cu Thái,cu Khả, cu Chấm… mình không biết. Hồi ở làng Đông mình không thấy họ, có thể họ đã đi bộ đội hay đi kinh tế mới lâu rồi. Anh cu Luật mình đã kể rồi, giờ kể nốt chuyện anh cu Đo.
Anh cu Đo lúc đầu ở trước nhà thằng Tâm con ông cu Thành,sau chuyển về ở sau nhà chị Xuân con ông Mẹt Nhiệt, sau chuyển về ở cạnh nhà anh cu Tý con ông cu Nhuế, rốt lại mình chẳng nhớ anh cu Đo ở đâu nữa. Gần chục năm sống ở làng Đông mình thấy anh cu Đo nhổ nhà chỗ này cắm nhà chỗ kia loạn cả lên. May anh có của nả ông bà để lại nếu không anh cũng sẽ sạt nghiệp theo chuyển nhà.
To cao trắng trẻo đẹp trai hát hay, anh cu Đo thuộc loại hot boy trong làng. Chị Lê vợ anh cũng xinh và hiền, hiền vô kể, ai nói gì cũng cười, ít khi thấy chị cãi nhau với ai bao giờ. Nhác qua thấy họ hạnh phúc, nhưng không, chị Lê hết nước mắt với anh cu Đo.
Cũng chẳng có gì to tát, chỉ vì với việc làng anh nhiệt tình năng nổ xông xáo quá đáng. Anh chẳng có chức sắc gì, một chân tổ trưởng cũng không. Bất kì một cuộc bầu bán nào anh cũng hăng hái ứng cử nhưng chẳng ma nào bầu cho anh. Người làng Đông vốn ghét đa sự, ghét luôn mấy kẻ thích quan trọng hóa, máu quan quyền. Cứ thấy anh nào thích quan trọng hóa, máu quan quyền không bao giờ họ bầu dù kẻ đó có giỏi bằng giời. Khốn thay cả hai thứ đó thứ nào anh cu Đo cũng đầy ắp, hi hi.
Anh cu Đo tự thấy mình phải có trách nhiệm ở khắp mọi nơi, bất kì việc gì xảy ra trong làng anh cũng ra sức đôn đốc giải quyết. Nội mỗi chuyện họp đội không thôi cũng đủ mệt với anh. Đã qui định rồi, kẻng đội đánh một hồi sáu tiếng là đi họp nhưng anh luôn lo người ta bỏ họp, phải đôn đốc tới nơi tới chốn. Buổi chiều đi cày về anh thả cày vọt đến nhà này, nói tối nay họp đội nghe chưa; lại vọt đến nhà kia nói đến nhà nói tối nay họp đội nghe chưa… cứ thế anh hết đi hết cả trăm hộ trong đội.
Ăn cơm xong anh lại lượn một vòng đủ trăm hộ, đến nhà này nói mau ra họp đội nha, đến nhà kia nói mau ra họp đội nha. Nghe lắm nhàm tai chẳng ai thèm trả lời anh, anh cũng chẳng cần ai trả lời. Nhưng nhà nào đi chậm hoặc bỏ họp là anh vọt đến ngay, tay chỉ miệng quát, nói à ha, giờ ni không ra họp à bay- À ha có ra họp không đó hả. Đa số đều ngọt nhạt trình bày lý do để anh đi cho khuất mắt, cũng có nhà điên lên, nói tau không đi họp đó, mi mần c. chi tau. Thế là cãi nhau ầm ầm, có khi còn đánh nhau nữa.
Bốn vách kho đội 1 đều treo biển cấm của anh cu Đo:
Cấm nói chuyện riêng trong khi họp, cấm đan lát thêu thùa trong khi họp, cấm ngủ gật trong khi họp.Tự anh treo lên chứ chẳng ai bảo. Giá ông đội trưởng nhắc anh bỏ đi, nói thôi em ạ, mấy thứ đó mình nhắc nhở thôi, cấm đoán làm chi, tự khắc anh cu Đo sẽ tháo luôn mấy cái biển cấm. Đằng này chẳng có ai bảo, người nghĩ nó treo biển thế cũng chẳng sai, người nghĩ thôi kệ cha nó muốn treo gì thì treo, việc mình mình làm.
Anh cu Đo không nghĩ vậy, anh đinh ninh mấy cái biển anh treo lên đó là luật rồi, nhất nhất mọi người phải tuân theo. Hễ ai làm việc riêng nói chuyện riêng trong khi họp là anh nhảy lên tay chỉ miệng quát, nói này, à ha không thấy cái biển đó à, có mù không đó- À ha không chịu chấp hành, gan to hè. Mọi người cũng chỉ cười xòa, không chấp. Lâu ngày thành quen, anh cu Đo lấn ra ngoài làng, khắp nơi có biển cấm của anh:
Cấm ỉa bậy đái bậy, Cấm chặt cây rừng trâm bầu, Cấm ăn cắp đất cày của hợp tác, Cấm khạc nhổ lung tung, cấm đ. bậy…
Người gật gù khen, nói cu Đo có tinh thần trách nhiệm hè; người cười khẩy văng tục, nói đ.mạ cu Đo hết việc rồi à bay, thăng ni e điên.Nhiều người tìm đến Chủ nhiệm thắc mắc, nói cu Đo quyền hành chi mà cấm lung tung? Chủ nhiệm cười cười, nói ừ nhưng mà nó cấm có sai đâu. Được lời anh cu Đo càng hăng hái cấm. Một hôm khắp đường làng bỗng xuất hiện biển cấm của anh:
Cấm trâu bò ỉa trên đường làng.Mọi người rũ, nói vơ cu Đo nời, lệ làng có rồi, trâu bò nhà ai ỉa nhà đó dọn, răng mi còn cấm. Anh cu Đo đầu lắc tay xua, nói phải cấm không được cho trâu bò ỉa, ỉa rồi dọn nói làm chi. Mọi người phải có trách nhiệm huấn luyện cho trâu bò không được ỉa trên đường làng. Mọi người cười rũ. Có người dắt bò đến trước mặt anh, nói đây, bò tau đây. Mi huấn luyện răng cho nó không ỉa trên đường làng tau cho mi cả con bò. Anh cu Đo không nói, cắm cái biển cấm cái phập, nói chấp hành đi, không oong đơ chi hết!Anh cấm cứ cấm, trâu bò ỉa cứ ỉa. Cứ mỗi lần phát hiện trâu bò ỉa chỗ nào trên đường làng là anh lại làm thêm cái biển cấm cắm ngay ở đó. Đường làng hơn cây số có đến trăm cái biển cấm của anh cu Đo. Suốt ngày anh loay hoay làm biển cấm, bỏ hết việc nhà việc Hợp tác. Ai cười chê mặc anh cứ làm, biển cấm này bị nhổ bỏ đi anh lại làm biển khác, không biết chán nản mệt mỏi là gì. Chị Lê vốn hiền lành nhu mì cũng phát rồ với anh, nói anh cấm chi cấm lắm, cấm được người ta anh sướng lắm à. Anh trừng mắt lên, nói em là vợ anh, không được nói năng vô trách nhiệm.
Một chiều anh cu Đo đang loay làm thêm mấy cái biển cấm thì chị Lê với hơn chục chị đi vào, ai nấy đầy một ôm biển cấm trên đường làng,. Anh ngạc nhiên hỏi chi rứa. Mọi người xổ chục ôm biển cấm ra cả một đống, biển nào biển nấy ghi đúng một dòng:
Cấm Đo Lê ỉa trên đường làng
. Anh cu Đo gầm lên, nói đ. mạ bọn phản động. Anh hì hụi xóa chữ
Đo Lêthay bằng chữtrâu bò,
mặc chị Lê lăn lóc rên rĩ van xin anh vẫn ngồi sửa hết cả trăm cái biển cấm. Rồi anh lại vác trăm cái biển cấm ra đường làng cắm cho đến sáng hôm sau mới xong. Tối hôm đó nghe nói chị Lê ra giếng làng tự vẫn, may có người cứu được.Chuyện anh cu Đo mấy chục năm rồi mình vẫn nhớ như in, riêng việc vì sao anh chuyển nhà cả chục lần là mình không biết. Năm ngoái anh cu Tý con ông cu Nhuế vào Sài Gòn cưới chồng cho con, ông chồng là cháu ruột vợ mình. Anh em gặp nhau hàn huyên làng Đông, mình có hỏi vì sao anh cu Đo hay chuyển nhà, Anh cu Tý mắt trợn miệng há, nói oa chà thằng ni không biết à bay. Rồi anh kể, vừa cười vừa kể, nói ông Cu Đo mắc bệnh khó ngủ, nghe tiếng con nít khóc tiếng hát ru ông càng khó ngủ. Cu Đo mới làm biển:
Cấm con nít khóc sau chín giờ đêm, cắm trước ngõ những nhà có con nít mới đẻ quanh xóm ông. Chẳng những ông không cấm được mà còn bị người ta chửi cho, rứa là ông đành phải nhổ nhà đi cắm chỗ khác. Anh cu Tý vỗ đùi đánh bốp, nói mi biết không, hay ở chỗ là thà nhổ nhà đi cắm chỗ khác, nhổ nhổ cắm cắm cả chục lần ông cu Đo vẫn kiên quyết không bãi bỏ lệnhCấm con nít khóc sau chín giờ đêm
… ha,tức cười chết được.
Mình cười hì hì, nói anh cu Đo còn sống không? Anh cu Tý nói còn, bây giờ già yếu hom hem, sống một mình vợ con không có, tội lắm. Mình nói chị Lê bỏ anh Cu Đo rồi à. Anh cu Tý cười, nói a thằng ni không biết à bay, bỏ nhau từ thời mi còn ở làng Đông mà. Chuyển nhà đến lần thứ năm thì chị Lê đâm đơn ly dị, may hai người chưa có con bỏ để cũng nhẹ nhàng. Anh cu Tý bỗng vỗ vai mình đánh bốp, nói hay mi về làng Đông với tau một chuyến? Mi không về mau ông cu Đo chết rồi lại tiếc. Mình nghe bùi tai, đi liền.
Về làng Đông tất nhiên mình đến thăm anh Cu Đo. Ngôi nhà toang hoác, anh đang ngồi khóm róm ở ngạch cửa trông ra ngõ. Xưa anh to khỏe đẹp trai là thế, bây giờ sụm xuống hệt một cây chuối héo rũ rượi xơ xác. Mình chào anh, anh trố mắt nhìn, nói ai rứa hè. Mình xưng tên mình, tên ba mạ mình anh vẫn trố mắt nhìn rồi cười cái hậc, nói quên cha cả rồi còn mô, và lại ngồi im ngoảnh mặt trông ra ngõ.
Tuồng như không nhớ nhà đang có khách, anh cứ ngồi khóm róm trông ra ngõ, dáng như chó đói chờ ăn. Sau lưng anh có biển cấm to đùng treo trên vách:
Cấm li dị.
Con bò của thằng thọt
Tối nay xem ti vi thấy bà S. trả lời phỏng vấn. Bà đã hơn bảy mươi mà mặt mày hãy còn vượng lắm, trắng trẻo và sang trọng. Hơn ba chục năm mình vẫn nhận ra bà vì cái giọng chua loét không lẫn với ai được. Thời con nít tối tối chơi ở sân kho Hợp tác, khi nào họp hành có bà phát biểu là mình tót vào nhà kho đứng nghe liền.Bà nói rất hay, Đảng thế này nhà nước thế kia, chế độ thế này xã hội thế kia, đất nước thế này dân tộc thế kia… hay như đài nói. Mỗi tội giọng bà chua loét như đài kẹt volume nghe xói vào tận óc, rất kinh. Anh Mẹt Vân nói nghe con mụ S. nói hết buồn ngủ luôn, đố ai ngủ gật được. Hết buồn ngủ nhưng buồn ỉa, nghe con mụ S. nói khi mô mình cũng buồn ỉa, tức gớm bay. Hi hi.
Mình không có ý định kể về bà S., chỉ vì thấy bà mình lại nhớ con bò của thằng Thọt.
Thằng Thọt tên Tuấn, Ngô hay Phạm Anh Tuấn chi đó, nhưng cả làng đều gọi nó là thằng Thọt. Nó bị thọt từ năm hai tuổi do viêm não hay xuất huyết não mình cũng không nhớ nữa. Chân phải nó teo rút bằng bắp tay người lớn, không tự co duỗi được. Khi đi nó phải dùng tay tóm lấy đầu gối nhấc lên đặt xuống. Trông nó đi rất mệt, người cụt chân nhảy lò cò hay đi nạng còn thấy đỡ mệt hơn.
Thằng Thọt không có cha. Mạ nó lùn có một mẩu chẳng ai lấy, đến năm bốn chục tuổi bỗng nhiên có chửa đẻ ra nó. Mạ nó mừng hết lớn, mặc kệ thiên hạ dè bỉu bà vẫn khoe khắp làng, nói trời thương tui, cho tui thằng con sau này còn nhờ cậy. Từ ngày nó bị thọt mạ nó khóc hết nước mắt, cả làng gọi nó là thằng Thọt bà vẫn một mực gọi là Anh Tuấn. Mình ở sát nhà nó suốt ngày nghe mạ nó gọi nó hết Anh Tuấn ơi đến ơi Anh Tuấn, nghe như hát cải lương. Càng ra đến chỗ đông người mạ nó càng cố tình gọi anh Tuấn ơi.. ơi Anh Tuấn. Sốt ruột quá nó nhăn nhó quát mạ nó, nói mạ cứ gọi thằng Thọt cha đi cho xong, Anh Tuấn với Anh Téo, gọi rứa tụi có hết thọt được không. Mạ nó khóc, từ đó không gọi nó là Anh Tuấn nữa, chỉ gọi là thằng cu.
Thằng Thọt không có bạn, trong xóm chẳng đứa nào ghét nó, chỉ vì nó không chạy nhảy cùng với lũ trẻ đánh du kích chơi ù mọi, bắt chôông chôông mò tôm cá, tự nó thấy lạc lõng với bạn bè nên rút lui, thủi thủi chơi một mình. Thỉnh thoảng nó sang nhà mình chơi, ngồi chán rồi về, ít khi nó muốn nói chuyện với mình. Mình cũng ít khi nói chuyện với nó, cũng chẳng có chuyện gì để nói trừ một lần năm lớp ba bỗng nhiên nó hỏi mình, nói lớn lên mi làm chi? Mình nói tau làm lái xe, mi làm chi? Nó chìa cái chân thọt ra, nói mi nói tau làm được cái chi? Rồi nó nói tau mơ có con bò, mi lái xe tau lái bò. Nó nhăn răng cười thích thú.
Nó học giỏi, đại khái con nít nông thôn được 5, 6 điểm không phải ở lại lớp là giỏi rồi. Nhưng đến lớp ba nó bỏ học, khóc đứng khóc ngồi đòi mạ nó mua cho con bò để nó giữ (quê mình chăn bò gọi là giữ bò). Hồi đó con bò là cả tài sản lớn, việc nó đòi mạ nó mua bò khác nào đơm đó ngọn tre. Mẹ nó khóc tủi, nói bán mạ đây không mua được cái đuôi bò mô con. Khóc lóc cả tháng trời, khóc chán rồi cũng thôi, thằng Thọt chẳng biết làm thế nào. Hàng ngày nó một mình đi ra tận Cồn Rươi ngồi xem bò ăn cỏ, xem say sưa như xem tàu hỏa máy bay. Nó ngồi vậy từ trưa đến chiều tối, con nít lùa bò về chuồng hết rồi nó mới lủi thủi về.
Chiều hôm đó thằng Thọt cũng ở Cồn Rươi. Khoảng 5 giờ chiều thì pháo từ Hạm đội 7 bắn vào. Bình thường khoảng 8 giờ đêm hoặc 4, 5 giờ sáng pháo từ Hạm đội 7 bắn vào, chẳng hiểu sao mới 5 giờ chiều chúng đã nã pháo, lại nhằm đúng Côn Rươi mà nã. Cồn Rươi tan tác, bò chạy đằng bò, người chạy đằng người. Thằng Thọt không chạy đâu được, nó nằm bẹp trong cái hố trâu đằm. Nửa giờ sau pháo tan, nó bò lên khỏi hố bỗng thấy con bê non mới sinh đang đứng run lẩy bẩy. Có lẽ bò ai đó mới sinh, vừa lúc pháo bắn bò mẹ bỏ con mà chạy.
May cho thằng Thọt, có gánh phân bò của ai đó vứt ngay gần đấy. Nó đổ phân bò, lấy cái rổ rồi kì cạch bế con bê đặt nằm trong cái rổ, kì cạch kiếm dây thừng cột vào rổ rồi quàng dây vào cổ nó, kì cạch kéo con bê đi. Nó bước một bước lại tóm đầu gối nhấc lên một bước, cứ bước đi bước nhấc như thế nó kéo rê con bê quá nửa đêm mới về đến nhà.
Mạ nó mừng húm, giấu kín con bê trong nhà cho đến khi con bê đi lại được, ăn cỏ được mới đánh tiếng với hàng xóm, nói tui mới mua con bê cho thằng cu. Nói chung không ai biết trừ mình, hi hi. Tình cờ thôi, mạ mình sai mình sang nhà nó mượn cái thang. Vừa vào ngõ mình thấy thằng Thọt bưng cái thau nhỏ chạy nhanh vào buồng. Thấy lạ mình rón rén vào nhà nó, đứng sát vách nứa buồng nhà nó nhìn vào. Nó đang cho con bê non uống nước cơm hòa mật mía. Mình nhảy vào buồng, nói răng mi nuôi bò trong buồng? Thằng Thọt tái mặt, nó kéo mình ngồi sụp xuống, nói mi câm mồm rồi tau kể cho nghe. Nhờ vậy mình mới biết vì sao nó có con bò.
Khỏi phải nói thằng Thọt yêu con bò biết nhường nào. Con bò là bạn đời duy nhất của nó. Suốt ngày nó quấn quit bên con bò, đêm ngủ nó cũng thức dậy hai ba lần chạy ra chuồng bò, đốt rơm đuổi muỗi hoặc sưởi ấm cho bò. Khi con bò lớn, nó làm cái lục lạc bằng vỏ đuya ra của máy bay đeo vào cổ bò. Cái lục lạc hình cầu, kêu leng keng rất hay. Nó huấn luyện cho con bò biết đứng lên nằm xuống theo lệnh. Nó vỗ mấy cái vào mông bò, nói nằm, nằm! Con bò nằm xuống liền, nó leo lên lưng bò, thúc bò đi tới Cồn Rươi. Thằng Thọt ngồi trên lưng bò hát nghêu ngao, cái lục lạc kêu leng keng, đời nó gọi là hết ý. Lắm lúc mình cũng thèm được như nó, ngồi trên lưng bò hát nghêu ngao cùng với cái lục lạc kêu leng keng.
Nhà nó khá lên nhờ con bò. Người làng thuê bò cày, cứ mỗi buổi cày hai, ba cân thóc, một năm hai mùa thu được hơn tạ thóc, nhà nó gọi là no cơm ấm cật. Ai thuế bò cày đều trả công đàng hoàng, chỉ bà S. là không. Khi nào thuê bò bà cũng hứa với mạ nó, nói chị cứ ghi sổ đến mùa em trả cho, tóm lại 4,5 mùa không chịu trả. Đòi không được mạ thằng Thọt đến nhà chửi, bà S. chửi trả, rồi xông vào cấu xé nhau. Bà S, là cán bộ thôn không việc gì, mạ thằng Thọt bị dân quân bắt giam nhà kho, họp kiểm điểm chán chê rồi bị đuổi ra khỏi Hợp tác. Mạ thằng thọt không sợ, bà ở nhà tập trung xây dưng cái vườn nhà bà, trồng ớt, trồng hành, trồng ca chua mỗi mùa thu được năm, bảy trăm đồng. Cùng với hơn tạ thóc con bò thằng Thọt đưa lại, nhà nó có của ăn của để. Mạ mình sang chơi, nói chị ra Hợp tác lại sung sướng hè. Mạ thằng Thọt cười he he, nói biết rứa tui ra Hợp tác lâu rồi, ngu rứa không biết.
Bà S. vẫn không trả thóc cho nhà thằng Thọt, mạ nó chửi thế nào cũng không trả. Nhưng nhờ việc mạ thằng Thọt chửi bà S. quanh năm, người làng ai cũng biết, đến kì đại hội xã viên chẳng ai bầu bà vào ban chủ nhiệm hợp tác nữa. Bà S. thù nhà thằng Thọt từ đó.
Một hôm đi học về, mình thấy thằng Thọt đứng ở ngõ khóc thút thít. Mình hỏi sao, nó nói bò tau sắp chết rồi. Mình chạy vào, con bò thằng Thọt bụng phình to quá cỡ, nằm thở khò khè, nước dãi chảy ròng ròng, hai mắt bò mở to trắng dã. Mạ nó chạy khắp xã nhờ người cứu giúp, hai, ba ông thú y đến rồi cũng lắc đầu bỏ đi. Người ta nghi bò bị bỏ thuốc độc, chỉ nghi thế thôi, không biết ai bỏ thuốc độc, vì sao bỏ lại bỏ thuốc độc cho bò. Chuyện này tư xưa nay hiếm.
Đến nửa đêm bò thằng Thọt chết. Mạ thằng Thọt nhờ đàn ông trong xóm làm thịt nhằm gỡ gạc chút đỉnh. Người ta vừa xách dao đến thì bà S, cũng vừa đến. Bà đọc lệnh chôn bò, cấm không được mổ thịt. Lệnh của Chủ nhiệm Hợp tác có dấu đỏ hẳn hoi, mạ con thằng Thọt phải chấp hành.
Con bò được chon ở trảng cát sau làng, trong rừng trâm bầu, chôn ngay trong đêm. Chôn xong mọi người về cả, thằng Thọt không về. Nó cứ ngồi lì trước nấm mộ, mạ nó nói thế nào nó cũng không chịu về. Mạ nó chạy về nhà mình, thức mình dậy, nói Lập ơi thím lạy con, con ra nói thằng cu về cho thím với. Mình chạy ra, nói thôi về đi, nhà mi bây giờ có tiền rồi, mạ mi mua con khác, lo chi. Nó nói nhưng tau thương nó lắm, nó chết tau biết sống ra răng. Thằng Thọt ôm lấy mình khóc nức nở.
Chuyện rồi cũng qua, mạ thằng Thọt mua cho nó con bê. Nó lại quấn quit bên con bê như ngày xưa nó đã từng quấn quít với con bò đã chết. Sẽ không có gì đáng kể nữa nếu thằng Thọt không bắt gặp thằng cu ba tuổi của mụ S. đang cầm cái lục lạc đi chơi. Đúng là cái lục lạc bò thằng Thọt, cái lục lạc đã chôn cùng con bò. Thằng Thọt giật lấy cái lục lạc vùng chạy về kho Hợp tác. Ở đó người lớn đang họp, bà S. đang nói. Xưa này bà S. chỉ có một bài, Đảng thế này nhà nước thế kia, chế độ thế này xã hội thế kia, đất nước thế này dân tộc thế kia…
Thằng Thọt nhảy tới trước mặt bà S. giơ cái lục lạc rung rung, nói ê ê đồ nói láo, ê ê đồ nói láo! Bà S. túm cổ thằng Thọt chực cho nó một bợp tai, gặp cái nhìn nghiêm trọng của mọi người bà thả nó ra, lủi thẳng một mạch. Sau đó nhà bà cũng lủi khỏi làng Đông. Hơn ba chục năm nay chẳng ai biết bà đi đâu, bây giờ mình mới thấy bà trên ti vi
.Mẹ con chị đào
Năm 1981 mình đóng quân ở đảo Cái Bầu (Quảng Ninh). Đảo Cái Bầu to đùng gọi là huyện đảo, chẳng thấy đâu “sóng biển dập dìu”chỉ thấy rừng là rừng. Cuốc bộ 25 cây số mới tới nơi đóng quân, đấy là sáu quả đồi nằm giữa âm u rừng già, buồn ơi là buồn. Sống đấy chỉ giải khuây bằng việc mang gạo vào nhà dân đổi chó đem về mổ thịt nhậu chơi. Mình với thằng Quí kết với nhau đi đổi chó mười mấy bản quanh khu vực đóng quân.
Thằng Quí ở đại đội bệ, to cao phốp pháp như Tây, nó là giống tây lai dù bố mẹ nó đều người Việt. Nó kể ông nội nó là lính lê dương, hiếp bà nội nó đẻ ra bố nó. Bố nó rất thuần Việt, chẳng lai tây chút nào nhưng đến thế hệ F2 là nó lại lai tây. Hồi nầy Tây có nghĩa là Liên Xô, các đơn vị tên lửa thường có chuyên gia Liên Xô về làm việc nên bất cứ ai nhìn thấy nó đều đinh ninh là chuyên gia Liên Xô.
Cứ chiều thứ bảy nó đeo giày Kur Sơ Gin ( hay là giày gì đó không nhớ, cũng chẳng nhớ nó kiếm đâu ra giày sĩ quan Liên Xô rất xịn đó), khoác cái áo bay Liên Xô cùng mình vác một, hai yến gao đi về mấy bản gần đấy. Nói là gần chứ cũng phải đi chừng năm bảy cây số mới tới nơi. Tất nhiên mình vác gạo, nó đi không. Chuyên gia Liên Xô ai lại đi vác gạo, hi hi.
Nhác thấy nhà nào có con chó nào thịt được, hai thằng rẽ vào. Nó cười rất tươi, cúi chào rất lễ độ, nói rốp rít xốp xít. Tiếng Nga nửa tiếng nó chẳng biết, cứ rốp rít xốp xít loạn cả lên. Mình cũng “dịch” loạn cả lên, miệng mồm như tép nhảy, nói đồng chí chuyên gia Liên Xô kính chào bố mẹ, chúc bố mẹ sức khỏe. Nó đế thêm cái tiếng Việt ngọng của Tây, nói án khang thính vướng. Bố mẹ thích lắm, đón tiếp rất niềm nở, có gì ăn được trong nhà đem ra mời hết.
Thằng Quí nhìn con chó rất âu yếm nói một tràng rốp rít xốp xít. Mình dịch ngon trớt, nói đồng chí chuyên gia rất thích con chó này. Nó đế thêm, nói cón chò đép làm. Mình nói người nước ngoài coi chó như bạn, sang đây không có bạn, đồng chí chuyên gia buồn lắm. Nó đế thêm, nói buốn làm buốn làm. Mình nói đồng chí chuyên gia rất muốn mua con chó này nhưng đồng chí chuyên gia chỉ có tiền Liên Xô không có tiền Việt, không biết bố mẹ có đồng ý đổi gạo không. Bố mẹ nghe nói vậy thì ok liền, nói đồng ý đồng ý, ưu tiên đồng chí chuyên gia Liên Xô. Nó liền bắt tay bố mẹ, nói càm ớn bò mè càm ớn bò mè.
Xong việc, “đồng chí chuyên gia” tay không túc tắc đi về, “đồng chí phiên dịch” phải vác bao tải chó lúc cúc chạy theo sau, mệt bỏ mẹ nhưng chẳng dám kêu một tiếng. Hi hi. Nói chung khi “đồng chí chuyên gia” đã ngỏ lời đổi gạo lấy chó, nhà nào cũng vui vẻ ok. Có nhà tặng luôn con chó cho đồng chí chuyên gia không lấy một cân gạo. Duy nhất có một nhà bóc mẻ được thằng Quí là ông Liên Xô dởm, ấy là nhà chị Đào.
Năm đó chị Đào hai sáu tuổi, hơn tụi mình hai tuổi, xinh nhất bản ( bản gì cũng quên mất rồi). Tụi mình vào nói chuyện với bố mẹ, chị đứng nép vách buồng nghe lén, thỉnh thoảng nhóng cổ ra cười khúc khích, lúm đồng tiền sâu hoắm, tròn vo. “Đồng chí chuyên gia” thấy người đẹp thì ngẩn ngơ, mặt đực như ngỗng ia, mình phái hích cùi chõ mấy lần nhắc nhở. Đến đoạn mình nói “đồng chí chuyên gia rất muốn mua con chó này nhưng đồng chí chuyên gia chỉ có tiền Liên Xô không có tiền Việt, không biết bố mẹ có đồng ý đổi gạo không” thì chị cười ré lên, nói tiền Liên Xô cũng được, đem tiền Liên Xô đây. Thằng Quí mặt tái như đít nhái. Mình giả bộ rốp rít xốp xít với thằng Quí rồi quay lại “dịch” cho chị , nói vì không nghĩ bố mẹ cần tiền Liên Xô nên đồng chí chuyên gia không mang tiền theo. Thằng Quí mừng quá, nói đùng rói đùng rói. Chị Đào cười ngất, nói thôi đi chú Quí chú Lập ơi. Chị biết các chú là ai rồi.
Té ra chị Đào là vợ anh Chiến lái xe cùng sư đoàn. Hôm liên hoan văn nghệ sư đoàn, tụi mình lên sân khấu hát hò chị có đến xem. Thằng Quí còn diễn kịch, thủ vai phi công Mỹ, làm sao chị không nhớ. May quá. Bố mẹ chị biết hai thằng cùng đơn vị anh Chiến nên cười xòa, cho luôn con chó, còn mời hai thằng ở lại ăn cơm. Bây giờ mới biết chị Đào là con dâu, quê chị ở Thái bình theo anh Chiến về đây đã sáu năm. Thằng Quí tiếc ngẩn ngơ, giá chị chưa chồng thế nào nó cũng sẵn sàng “ chết” với chị. Nó là giống tây lai muốn “chết” với cô nào mà chẳng được, hi hi.
Đang bữa cơm chợt nghe mấy tiếng è è ó ó. Chưa kịp định thần là tiếng gì thì chị Đào chạy vào buồng bế ra chú bé 4 tuổi. Hai thằng nhìn chú bé hết muốn ăn, sợ chết được. Chú bé bị liệt, hai chân mềm nhũn như là không có xương. Mặt như người bị down mắt ếch miệng cá ngão. Cái cổ nhỏ như cổ tay trong khi cái đầu to đùng, trán dô tai tóp. Chị Đào nhìn tụi mình tươi tỉnh, nói các chú cứ ăn đi, đừng sợ. Bố cháu bị nhiếm chất độc da cam hồi ở rừng Trường Sơn, sinh cháu ra đã thế này rồi. Bác sĩ khuyên nên bỏ đi nhưng chị không chịu, dù sao cũng là con mình, nó ra giống gì vẫn là con mình, có phải không các chú?
Chị lấy chào đút cho thằng bé, cứ đút thìa nào là nó phun ngược ra thìa đó, mặt chị dính đầy cháo. Thằng Quí há hốc mồm, nói sao thế, cháu nó ăn kiểu gì thế? Chị cười, nói cháu ăn cơm không được, nó không biết nhai, có khi phải đút cháo cả đời. Nhưng đấy là chuyện nhỏ, cái chính là cháu lẫn lộn giữa nuốt vào và phun ra. Cho cháu ăn một bát cháo có khi mất cả chục bát. Xong bữa mẹ con như trâu lấm. Cứ tưởng chị kể xong là òa khóc hóa ra không, chị cười rất tươi như vừa kể một chuyện gì vui lắm. Bố mẹ chồng nghẹn ngào, nước mắt dàn dụa, chị thì cười rất tươi, đôi mắt đen nhánh lóng lánh, đôi lúm đồng tiền tròn vo. Lạ quá.
Sau bữa cơm nhà chị Đào mình không gặp chị lần nào nữa. Tháng sau mình được quân chủng điều về Đà Nẵng, từ đó đến nay di chuyển chỗ ở ba bốn nơi, chẵn ba mươi năm thỉnh thoảng vẫn tính về thăm lại đảo Cái Bầu nhưng chưa một lần thực hiện.
Năm ngoái thằng Sơn (Nguyễn Thanh Sơn) rủ bạn bè về Đà Nẵng chơi, gọi là kỉ niệm hai năm ngày cưới nó với Hồng Ánh. Hai năm chỉ vỡ có ba chồng bát với hai cái mobile gọi là thành công rực rỡ, hi hi. Đà Nẵng là chốn cũ, mình đã ở đây 4 năm. Nhậu nhẹt tưng bừng xong mình bỏ đám bạn gọi taxi đi lòng vòng quanh thành phố.
Mình về phố Ông Ích Khiêm, nơi có quán mì Quảng rất ngon và một quán cà phê nhỏ nhỏ dưới gốc bàng, mình và anh em văn nghệ Đất Quảng vẫn hay ngồi ở đó. Quán mì Quảng không còn, quán cà phê đã cơi nới rất hoành tráng, nhạc nhót ầm ĩ, đèn đóm lập lòe. Biết đó không còn chỗ của mình nữa, mình đành bỏ đi.
Bất chợt mình thấy một người đàn bà bán số bên kia đường. rất lạ: Chị nhỏ thó teo tóp lại gùi một người đàn ông to đùng. Chị Đào! Mình chạy đến chào chị, nói em là Lập đây, Lập phiên dịch cho chuyên gia Liên Xô đây, chị có nhớ em không. Chị nhìn mình hồi lâu rồi a lên một tiếng, chụp lấy tay mình, nói chú Lập, ui chao chú còn nhớ chị. Mình nhìn người đàn ông sau lưng chị, biết ngay là con trai chị, chú bé ba chục năm về trước bây giờ đã hơn ba chục tuổi rồi.
Chị em vào quán ngồi, nghe chị kể mới biết anh Chiến bị ung thư máu chết cách đấy mấy năm, bố mẹ chồng bố mẹ đẻ đều về trời hết cả. Chẳng còn ai nương tựa, chị đành gùi con đi bán vé số. Mình đưa chị ít tiền, chị kiên quyết không lấy, mình đành mua hết mấy chục vé còn lại trên tay chị. Chị nói cười rổn rảng, nói ôi chao bữa nay may quá là may. Chợt thằng bé kêu è è ó ó. Chị vỗ vỗ thằng bé, nói thằng này nó biết đấy. Hễ chị bán được vé số là nó mừng lắm, kêu è è ó ó là nó đang hát đấy. Gương mặt nhầu nhĩ già nua của chị bỗng sáng trưng.
Mình nói ngày nào chị cũng gùi thằng bé hơn năm chục cân, chịu sao thấu? Chị cười, nói không chịu cũng phải chịu chứ sao. Mình nói sao chị không kiếm cái xe lăn đẩy nó đi? Chị nói chị kiếm rồi nhưng cháu không ngồi được, cột dây ngang ngực nó khó thở, cột ngang bụng thì nó gập người xuồng, chúc đầu xuống đất. Thôi thì gùi vậy. Mình nói đến khi chị già yếu không gùi được nữa thì sao? Chị cười, nói ối dào, đến đó rồi hẵng hay.
Thằng bé lại è è ó ó. Mắt chị lại sáng lên, nói đấy đấy nó lại hát đấy. Khi nào nó hát là nó vui lắm đấy. Chị cười rất tươi, tươi đến nối làm mình rùng mình nổi cả da gà.
Chuyện tình cu Đom
Thuở bé đến giờ mình mới biết có người tên xấu như anh Đom. Mình hỏi anh, nói răng anh tên Đom. Anh kể nhà anh đã có 5 con trai, ba mạ anh ráng đẻ thêm một đứa nữa, hy vọng con gái. Ngày mạ anh có chửa, chả biết mấy cô y tá hộ sinh ở trạm xá khám xét thế nào, khẳng định là con gái. Ba mạ anh mừng lắm, mổ heo ăn mừng. Đến ngày sinh, ba anh chầu chực suốt đêm bên cửa sổ. Nghe tiếng trẻ khóc ông nhóng cổ thò mồm qua cửa sổ, nói trai hay gái? Nghe bảo con trai ông cười cái hậc, nói đom! Từ đó anh có tên là cu Đom.
Khi mình lên thung lũng Chớp Ri thì anh cu Đom đã học xong lớp 7, chuẩn bị vào học lớp sư phạm 7+ 2, tức lớp 7 cộng hai năm trung cấp sư phạm là ra trường đi dạy, dốt dạy cấp một giỏi dạy cấp hai. Thời chiến tranh giáo viên thiếu kinh khủng, có lẽ giáo viên nhập ngũ quá nhiều mới có tình trạng đào tạo cấp tốc kiểu đó. Có đợt còn đào tạo sư phạm 10+3, tốt nghiệp lớp 10 học thêm ba tháng là thành cô thầy giáo cấp 2. Kinh.
Anh cu Đom ở xóm Cá, sát ngay xóm của mình, anh chọn học sư phạm 7+2 vì Trường trung cấp sư phạm Quảng Bình sơ tán lên thung lũng Chớp Ri, đóng sát ngay sau nhà anh. Nếu học tiếp lên cấp 3 anh phải vượt đèo Cao Mại ra phố huyện cách nhà hơn hai chục cây số. Anh học sư phạm như học phổ thông, khi nào cũng một cuốn vở cuộn tròn nhét túi, chẳng thấy túi, cặp gì. Học đựợc nửa buổi anh bỏ lớp tót về nhà chơi với tụi mình, lắm khi anh bỏ học hai ba ngày không tới lớp. Phần vì anh ham chơi, đi học chẳng qua vì đỡ phải đi làm chứ anh chẳng thiết tha gì việc học hành, phần vì anh mê cô Lý.
Cô Lý là cô giáo 7+2 thực tập lớp trường mình. Cô ở cùng xóm với mình, xưa gọi bằng chị nay gọi bằng cô. Gọi bằng cô cho cô mừng thôi chứ cô chẳng dạy dỗ gì mình. Cô Lý hiền lành nhu mì nhưng xấu chết, đen thui từ đầu đến đuôi. Chả hiểu sao anh Đom mê cô Lý. Anh đẹp trai, đánh bóng chuyền giỏi lại biết thổi kèn armonica. Học sau cô Lý nhưng anh Đom còn hơn cô Lý một tuổi vì anh đúp mấy năm liền mới qua được lớp 7.
Một hôm thấy anh Đom đứng đái, mình chạy lại đái gần anh, tranh thủ chiêm ngưỡng con cu rất hoành tráng của anh. Anh nói nhìn cái chi, lên lớp 7 là bằng cu tau thôi mà. Mình nói anh yêu cô Lý à? Anh nói yêu chớ sợ chi không yêu. Mình nói răng anh yêu cô Lý, anh nói con nớ bụ to. Chợt anh vỗ vai mình đánh bốp, nói a nhớ rồi, mi biết mần thơ phải không, duyệt tao bài thơ. Anh lôi ra bài thơ vừa sáng tác tặng cô Lý. “Ôi cái tên Minh Lý/ Tên em đẹp hết ý/ Lý ơi yêu anh tí/ Đêm nào anh cũng bí.” Mình ôm bụng cười rũ, nói anh mần thơ như ẻ. Anh trợn mắt lên, nói thằng ni nói chi rứa bay, thơ tau gieo vần êm như nhíp.
Mình nói anh không biết mần thơ để tui mần cho. Anh ôm lấy mình ra sức nịnh nọt, nói mần giúp anh nghe, anh sẵn sàng cho mi tập giấy năm hào hai mới cứng. Mình nói anh đừng nịnh cô Lý, cô Lý ghét nịnh, phải dọa cô mới sợ. Anh hỏi dọa răng. Mình đọc ngay tức thì, nói nếu mà Lý chẳng yêu Đom/ thì Đế Quốc Mỹ thả bom xuống liền. Anh vỗ tay đánh bốp, nói oa chà hay chi hay ác! Anh chép ngay bài thơ. Hôm sau đưa mình tập giấy năm hào hai, nói cảm ơn mi, nhờ thơ mi tau sờ được bụ con Lý rồi.
Cô Lý ở gần nhà mình, chỉ cách một ngõ nhỏ. Mình vọt về kiểm tra xem anh Đom có nói láo hay không. Cô đang thái rau heo, mình chạy vào hỏi cô, nói cô đang yêu à. Cô cười, nói ừ. Mình hỏi cô yêu ai. Cô ngừng thái rau, mắt mơ màng, nói yêu một người đáng yêu. Mình nhăn răng cười, nói em biết cô yêu ai rồi. Nghe vậy cô Lý tái mặt vội vàng ôm lấy mình, nói em đừng nói với ai cả nghe chưa. Ba cô ghét anh Đom lắm. Mình lại vọt đi tìm anh Đom, nói ba cô Lý ghét anh lắm đó.. Anh cười cái hậc, nói è he, mần cặc chi tau.
Mình đeo lấy anh Đom, đòi anh kể chuyện anh yêu cô. Anh kể hấp dẫn như các chú bộ đội kể chuyện đánh giáp la cà. Anh nói tau hun cái nghe chưa, hắn cho tau một tát nghe chưa, tau không sợ nghe chưa, tau đè hắn ra nghe chưa, hắn cho tau một đạp nghe chưa, tao xé đứt lai quần hắn rồi ngoạm hắn nghe chưa, hắn mềm dần như bún, he he rứa là xong om. Mình nói ngạm chỗ mô, anh nói chỗ hắn đi đái đó, thằng ngu. Mình nhăn răng cười, nói tởm tởm, anh ni tởm gớm bay. Anh đá đít mình, nói ngu, mi đúng là đồ con nít. Từ đó hễ gặp cô mình đều tưởng tượng anh Đom ngoạm cô thế nào. Nghĩ mãi không ra tại sao anh Đom ngoạm thì cô mềm dần như bún. Hi hi.
Một hôm đi học về thấy cô Lý ngồi bó gối dựa tường gạch, nước mắt hai hàng. Chắc ba cô vừa đánh cô. Hôm trước ba cô cầm dao rượt đuổi anh Đom, anh bỏ chạy vào rừng, chạy vòng vèo khiến ba cô đuổi đứt hơi. Anh lừa ba cô chạy vào khu rừng người ta hay bẫy heo. Ba cô sập bẫy, treo lủng lẳng suốt ngày trong rừng. May có người nghe tiếng kêu cứu không ông chết không ai biết.
Mình hỏi anh Đom, nói răng ba cô Lý ghét anh. Anh cốc đầu mình phát, nói thằng ni tò mò tọc mạch gớm. Mình túm áo anh, nói kể đi kể đi. Anh nói cả nhà con Lý căm thù nhà tau như căm thù Đế Quốc Mỹ, nghe chưa. Mình hỏi răng căm thù. Anh nói xưa ba con Lý tố cáo ba tau tham ô ba tạ thóc, ba tau trả thù bằng cách rặp cho được vợ ông ta, nghe chưa. Nay ông ta lên trường sư phạm tố cáo tố cáo ăn cắp mít nhà ông, tao trả thù bằng cách rặp cho được con gái ông ta, nghe chưa. Anh ngửa cổ cười he he he, nói rứa đo rứa đo.
Tất nhiên mình không dám kể chuyện này với cô Lý. Thấy cô khóc, mình cũng thương nhưng chẳng biết nói gì, không lẽ bảo cô bỏ quách anh Đom cho xong. Bỗng cô vùng dậy lao đầu đập tường liên tục, đập đến tóe máu đầu, vừa đập vừa hét chết đi cho rồi! Chết đi cho rồi! Mình sợ quá ôm lấy cô, khóc nói cô ơi đừng chết! Cô ơi đừng chết! Cô ôm đầu hét rất to. nói không, cô phải chết thôi, không ai cho cô sống đâu!
Mình nói với anh Đom, nói anh thôi yêu cô Lý đi cho rồi, tội cô lắm. Anh Đom cười, nói tại hắn yêu tau chớ, tau rặp được rồi, hắn bỏ càng khỏe xác tau. Tối mình về tìm cách đọc trộm nhật kí cô, cô viết dài hàng chục trang. Bây giờ chẳng nhớ gì, chỉ nhớ câu: Đom ơi em không thể sống thiếu anh! Đom ơi là Đom ơi. Đ
om Đom Đ
om Đom…Mình chạy tìm anh Đom, nói cô Lý nói không thể sống thiếu anh. Anh cười cái hậc, nói đàn bà con mô nỏ rứa, lẹo phát là dính như keo.. Mình không hiểu lắm, chỉ biết cô Lý coi anh Đom như người tình lý tưởng trong khi anh chẳng mấy quan tâm, chỉ kể chuyện làm tình với cô, đè cô ra sao, ngoạm cô thế nào và cười he he he.
Cô Lý thức trắng mấy đêm liền, rồi bỏ trốn, rủ cả anh Đom cùng đi. Thầy hiệu trưởng nói nhất định trốn vô rừng và huy động cả trường đi tìm. Mình vừa đi vừa gọi, nói anh Đom ơi anh Đom trốn mô ra đi, tụi em đói lắm rồi. Ba cô Lý cầm dao lùng sục khắp rừng, nói cha tổ mi vơ Đom, bắt được tau chặt mi ra ba khúc. Chuyện này ầm ĩ khắp thung lũng.
Cuối cùng cô Lý và anh Đom cũng trở về. Cô Lý xanh như que củi, nằm ốm cả tháng trời, chỉ còn da bọc xương. Hết ốm thì bị chuyển trường, không đuổi dạy, chỉ chuyển trường thực tập thôi. Mình hỏi anh Đom, nói cô Lý với anh trốn mô, sao tự nhiên bỏ về? Anh Đom nói chui vô hang Dơi chớ mô, ăn hết đồ ăn mang theo thì về chớ răng. Anh nói cô Lý mang theo bánh bích qui, thịt heo rừng nướng, xôi cả bọc to, ăn đã thôi. Anh khoa chân múa tay, nói chưa khi mô tau được ăn no như rứa, ngày sáu bữa, cơm no bò cưỡi ngày sáu phát, sướng cực, sướng cực. Anh lại ngửa cổ cười he he.
Bỗng cái miệng anh dần ngậm lại, cô Lý như mọc dưới đất lên, nói anh vừa nói chi, nói lại nghe coi. Anh cười nhăn nhở, nói chi mô nói chi mô. Cô cho anh một tát nảy đom đóm rồi bỏ đi, đi mãi không thấy cô trở lại. Người ta bảo cô Lý ra suối Tranh tự vẫn nhưng không ai tìm ra xác.
Hết lớp 5 mình rời thung lũng Chớp Ri về làng Đông, ở đấy cho đến khi học hết lớp 10. Chuyện cô Lý, anh cu Đom lâu ngày rồi cũng quên. Thực thì vẫn nhớ nhưng không còn quan tâm nữa. Mối quan tâm duy nhất của mình là cô em xinh nhất lớp, da trắng như trứng gà bóc, tóc dài quá gót. Suốt cả mùa hè trước khi vào đại học mình chỉ quan tâm mỗi em đó.
Vẫn gọi nhau bằng mày tao, tán tỉnh chỉ đúng một trò là rủ nhau đi xem phim bãi. Hẹn nhau ở cổng, mua vé cho nhau vào xem, hết phim thì về, ra đến cổng là bye bye chứ chẳng dám đưa em đến tận nhà. Đêm nào cũng giống đêm nào, nhiều khi suốt buổi chiếu chẳng nói với nhau được một câu. Thế mà sướng rêm, ngày nào có chiếu phim thì xốn xang suốt ngày đó, mong sau trời tối để vọt đến bãi chiếu, chồn chân đứng đợi em.
Tối hôm đó mình cũng chồn chân đứng đợi em, người đi xem đông quá chẳng thấy em đâu. Em thấy mình nhưng không dám đến gần, sợ người ta trông thấy, không dám gọi tên chỉ kêu to một tiếng: nời! Mình nghe tiếng nời của em nhưng không rõ ở góc nào, cứ loay hoay ngược xuôi giữa đám đông. Vào lúc mình thoáng thấy em thì có người đá đít mình một phát, nói ê cu Lập. Mình quay lại, đó là anh cu Đom. Anh đang đứng nhăn răng cười. Mình kêu lên, nói a anh cu Đom. Anh tái mặt bịt miệng mình, nói đom đom cái mả cha mi. Tao tên Đàm, Nguyễn Ngọc Đàm nghe chưa.
Mình nói anh đi mô đây. Anh cười khì khì, nói tau cũng giống mi, hẹn một con tới đây troắt một phát mà không thấy. Con của mi mô, chỉ tao coi. Tất nhiên mình không chỉ, nói tui có em mô. Anh lại đá đít mình một phát, nói đừng có giấu tao. Nó vừa kêu mi răng tao không biết. Rồi anh kéo mình thì thầm, nói đù mạ con đó ngon cực, mi kiếm mô ra con ngon rứa. Sốt ruột quá, sợ em phải chờ lâu mình bỏ chạy, nói xong phim anh em mình nói chuyện. Anh không chịu kéo tay mình giật lại, nói troắt chưa troắt chưa, mi đã troắt chưa? Mình cười, nói tụi em đang yêu, troắt triếc chi. Anh lại đá đít mình, nói yêu là troắt đó ngu ơi!
Mình vọt đi. Suốt buổi xem phim cứ thấp thỏm không yên, vừa sợ anh cu Đom trông thấy mình chạy tới phá đám vừa thắc mắc không hiểu sao anh có mặt ở đây, cô Lý chết sống thế nào, cuộc tình của anh với cô Lý đã chấm dứt hay là vẫn còn dan díu? Em thấy mình xem phim không tập trung, mặt mày nhớn nhác thì nghi nghi, chắc em nghĩ mình đang quan tâm đến một em khác đang ngồi trong bãi chiếu, có biết đâu mình đang nghĩ tới anh cu Đom. Hi hi.
Tan buổi chiếu anh cu Đom đứng chắn trước cổng chờ mình. Bây giờ anh mới nhìn rõ mặt em, cái mặt anh cu Đom nhìn em cứ đực như ngỗng ỉa. Em đi rồi anh mới kéo mình xuýt xoa, nói ngon cực ngon cực, em ni đáng giá sáu bao gạo. Mình chẳng hiểu anh nói gì, nói sáu bao gạo là răng? Anh cười ha ha ha, nói quên quên, tao quên kể mày tao lái xe tải, không làm giáo viên nữa. Từ Hà Nội vô đây thấy em mô ngon tao ném cho một bao gạo là xong liền, khó lắm cũng chỉ ba bốn bao. Nhưng em của mi phải sáu bao, sáu bao mới troắt được, mi đừng có tưởng bở.
Mình đấm bụng anh, nói anh đừng có mà nói bậy. Cô Lý ra sao rồi? Anh nói vẫn sống nhăn chứ sao. Lấy chồng rồi, vừa đẻ đứa thứ hai. Hôm rồi tao đánh xe qua nhà ném cho bao gạo, hai vợ chồng cười tươi như Liên Xô. Anh lôi mình lên xe tải chạy đến Quảng Thanh, vào quán bánh ướt thịt heo mụ Loan đập phá tha hồ. Từ bé đến lúc đó mình mới biết thế nào là một bữa no. Xong bữa anh Đom không trả tiền, cứ thế đi ra xe, mụ Loan cũng không nói năng chi. Mình hơi ngạc nhiên, nói lái xe mà cũng kí nợ à bay? Anh vênh mặt lên vỗ vai mình phát, nói tao là thượng khách. Không có tao gạo mô ra cho mụ Loan làm bánh ướt.
Lái xe tải hồi này là hotboy mình đã kể rồi, thôi không kể nữa. Chuyện mấy ông lái xe tải ăn cắp của nhà nước lấy gạo đổi tình mình nghe cũng đã nhiều, bây giờ mới mục sở thị chính là anh cu Đom. Chả biết anh kể thật hay ba hoa, sáu năm lái xe tải tổng số gạo đổi tình của anh cu Đom chừng trăm bao chứ không ít. Kinh.
Xe chạy được nửa đường anh đột ngột dừng xe, cho hai pha đèn rọi thẳng vào quán may vá bên đường, nói đó đó… mi biết con nớ không? Mình biết. Đó là chị Tình, người đẹp xóm Cồn, mình thỉnh thoảng vẫn tới đó nhờ vá áo quần. Chị đang ngồi trước bàn máy may. Thấy pha đèn xe tải rọi vào mặt, chị ngước lên cười cái lườm cái rồi cúi mặt đạp máy. Anh cu Đom vỗ vai mình, nói ngon chưa. Không trắng bằng con của mi nhưng bụ to hơn. Tao mất ba bao rồi vẫn chưa troắt được, đù mạ tức quá. Mình cười không nói gì, chuyện cánh lái xe tải mất hàng chục bao gạo với mẹ con nhà chị Tình vẫn không sao đem chị Tình ra khỏi nhà cả xóm Cồn ai cũng biết.
Anh rủ mình xuống xe, vác bao gao dấm sẵn trên thùng xe đi thẳng vào nhà. Anh ném bao gạo cái bịch xuống sân chui vào quán, nói con chào mạ. Mạ chị Tình chạy ra cười cái xoẹt, nói ua chầu chầu Đàm hả con, lâu ngày quá rồi hè. Cái miệng móm của bà xòe ra trông rất buồn cười. Thấy chị Tình vẫn ngồi yên bên bàn máy bà giục xắng lên, nói con Tình mô rồi, răng ngồi đó con. Mau lấy nước mời anh Đàm đi con. Chị Tình làm bộ nũng nịu đứng dậy lấy tích nước rót nước, chị cúi xuống để khuôn ngực hở cho vừa tầm mắt anh cu Đom. Anh cu Đom nhìn như nuốt lấy bộ ngực của chị Tình, nói em khỏe không. Chị Tình cười cái lườm cái, nói dà…dạ. Anh cu Đom nói em vui không. Chị Tình cười cái lườm cái, nói dà…dạ. Rồi chị đi thẳng vào buồng.
Mẹ chị Tình làm bộ sốt sắng, nói con Tình mô rồi, ra nói chuyện với anh đi con. Chị Tình không đáp cứ ngồi im trong buồng. Mẹ chị Tình thở hắt chớp chép miệng, nói ôi tề, hay chưa tề, con cái hay thiệt đo. Bà nhìn anh cu Đom cười cái xoẹt, nói mạ có quả bom nổ chậm, tụi bay mần răng na ra khỏi nhà cho mạ. Anh cu Đom nói thiệt không mạ. Bà thở hắt, nói răng không thiệt, con hỏi chi lạ rứa Đàm ơi.
Nói cười nhàn nhạt một lúc anh cu Đom bấm mình chuồn. Vừa nhảy lên xe anh đã chửi um lên, nói đù mạ tại mụ móm sắp đặt hết, tao mất không bốn bao gao rồi. Mình cười khì, nói có người mất cả chục bao, anh ăn thua chi. Anh cười gằn, nói thêm một bao nữa nếu không được tao cho mụ móm ăn một bao cứt.
Tưởng nói chơi té ra anh làm thật. Tháng sau anh đỗ xe trước cửa nhà mình, nói đi mau. Tao cho mi coi tao cho mạ con mụ móm ăn cứt. Mình nói bao thứ năm vẫn không được à. Anh nói sáu bao chứ không phải năm, đù mạ tao mất ba tạ gạo tiếc đứt ruột. Anh kéo mình lên xe chỉ hai bao, nói đây là bao gạo tao tặng nhà con Hóa Quảng Thuận. Tao sờ bụ được rồi, thêm bao ni nữa là troắt được thôi. Còn đây là bao cứt tao cho mạ con nhà mụ móm. Mi thấy tao làm bao cứt giống bao gạo không. Anh cười hê hê hê, nói mạ con mụ Móm tha hồ ăn cứt cu Đom.
Xe chạy về nhà chị Hóa, anh vác bao gạo vào nhà xong là leo lên xe chạy về nhà chị Tình, nói mi cứ ngồi yên trên xe đừng ló mặt, để mình tao chiến đấu với lũ tham nghe chưa. Anh vác bao gạo vào nhà, nói năng chi đó đôi câu rồi đi ra. Hai anh em ngồi trong cabin hồi hộp nhìn vào. Trong nhà, hai mẹ con chị Tình khiêng cái bao vào. Họ mở bao kiểm tra, không có vẻ gì là họ đang thấy cứt. Chị Tình còn thò tay vốc một nắm đưa lên mũi ngửi ngửi.
Anh cu Đom tái mặt, nói cha tổ lộn rồi. Anh nổ máy lao xe như điên về nhà chị Hóa, nói lạy trời nhà con Hóa chưa mở bao cứt, để tao còn đổi bao khác, không bọ con Hóa chém tao ba khúc. Anh đỗ xịch xe lao vào nhà. Mình hồi hộp xem có cãi lộn có đánh nhau không. Thấy im ắng mình cũng mừng, chắc là nhà chị Hóa chưa kịp mở bao. Mấy phút sau anh cu Đom lủi thủi đi ra. Mình nhảy xuống, nói bao cứt mô rồi bao cứt mô rồi? Anh ngẩng lên, trời ơi là trời mặt anh đầy cứt. Thì ra bọ chị Hóa đã túm tóc anh cu Đom cứ thế dúi mặt anh vào bao cứt.
Anh cu Đom nhảy lên xe nổ máy vù đi. Cabin thối inh anh cũng mặc kệ. Anh cười nhăn nhở, nói đáng kiếp tao. Gậy ông đập lưng ông. Tình yêu cu Đom tất nhiên phải thối như cứt…. đù mạ!
Dầu tràm và phân bò
Mình nhận được email của một người anh học cùng Trường cấp 3 Bắc Quảng Trạch, trước mình mấy khóa, viết: “Những chuyện Lập kể trong
Thầy trò một thuởthật cảm động. Lập nói đúng đấy, chúng ta có niềm tự hào ứa nước mắt. Bây giờ nghĩ lại không hiểu vì sao khổ như thế. Khổ vì bom đạn thì đã đành, nhưng có những cái khổ không đáng khổ, ví dụ cái thời vừa học vừa làm của anh em mình, thời “phân bò và dầu tràm” ấy mà.
Nào có ai bắt mình phải vửa học vừa làm đâu nhỉ? Anh nhớ là không ai bắt chúng ta cả, đúng không?”Mình chẳng biết nói sao với anh ấy cả. Mỗi thời có lý lẽ riêng của nó. Thời đó học và hành được hiểu là học tập và lao động, học sinh cấp 3 mà không biết lao động, lười lao động là quân tiểu tư sản, thuộc tầng lớp ăn bám xã hội. Hơn nữa khi đó Bắc Nam chia cắt, khẩu hiệu “ Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước” đốt cháy hết thảy tâm can mọi người, từ con nít đến người lớn. Có ai hô hào làm việc gì đó để “góp phần giải phóng miền Nam” là háo hức làm ngay.
Năm mình học lớp 4, thầy hiệu trưởng phát động phong trào “Hũ gạo chống Mỹ”, mỗi ngày bớt một nắm gạo gửi vào chiến trường cho bộ đội ăn no thắng Mỹ. Tất cả học sinh đều tự giác thực hiện rất nghiêm túc. Nhà mình còn có một nắm gạo bỏ vào hũ chứ nhà thằng Xuân chỉ có một nắm gạo nấu cháo cho cả nhà, nó vẫn bỏ nắm gạo ấy vào hũ. Cả nhà nó chấp nhận ăn khoai sắn để dành gạo gửi ra chiến trường”. Cứ cuối tháng học sinh lại ôm hũ gạo ấy đến trường, khoe gạo của nhau, cãi nhau ỏm tỏi, nói gạo tao ngon hơn- Gạo mi mà ngon- Gạo mậu dịch không ngon thì gạo mô ngon- Ê ê ngu ngu, gạo mậu dịch mà ngon.
Mặc kệ chúng nó nói, mình vẫn tin gạo mậu dịch của mình là ngon nhất. Hũ gạo của mình ghi dòng chữ bằng vôi trắng:
Hũ gạo chống Mỹ của em Nguyễn Quang Lập, học sinh lớp 4c…Mình tưởng tượng các chú bộ đội ôm hũ gạo của mình đổ vào nồi, tấm tắc khen gạo của em Nguyễn Quang Lập lớp 4c rất ngon, tự nhiên mình sướng rêm, tự hào kinh khủng. He he.Bây giờ nhớ lại mới giật mình đặt câu hỏi: chẳng biết “Hũ gạo chống Mỹ” của tụi mình có ra được chiến trường không, hay là ở lại trong kho ông chủ nhiệm hợp tác? Là nghĩ vậy thôi chứ tụi mình không hề ân hận gì về những việc đã làm. Dù gạo có chạy đi lối nào thì niềm tự hào ấy vẫn không thay đổi, chỉ cần mình hoàn thành nghĩa vụ của một người yêu nước là quá đủ, không cần phải nghĩ ngợi gì nhiều.
Dài dòng như vậy để nói không phải thầy trò trường mình điên khùng, tự dưng ách giữa đàng muốn quàng vô cổ, không ai bắt sản xuất cũng lao đầu vào sản xuất. Chỉ vì khẩu hiệu “
Tất cả vì miền Nam ruột thịt” lúc đó quá đỗi thiêng liêng, được góp phần cho bộ đội ăn no thắng Mỹ là công việc quá lớn lao, không thể thoái thác.Ngày đó trường mình chia làm ba đội: đội trồng trọt, đội chăn nuôi và đội công nghiệp. Lớp mình lúc đầu thuộc đội trồng trọt, sau chuyển sang đội công nghiệp. Gọi công nghiệp cho oách, kì thực là nấu dầu tràm. Không biết ai đã sáng chế ra cái nồi nấu dầu tràm to cao như đống rơm, chắc là các thầy bên tổ tự nhiên. Nấu dầu tràm na ná như nấu rượu. Đại khái bứt lá tràm về cho vào nồi, đun thật sôi, hơi dầu bốc lên đi qua ống lọc dẫn đến bể làm lạnh, dầu hóa lỏng chảy vào chai, xong. Một nồi tràm to đùng thế kia cũng chỉ thu được đôi ba chai dầu thôi, nhưng mà háo hức lắm. Mỗi tháng được chừng 50 chục chai dầu tinh lọc, mỗi chai rót vào hai chục lọ nhỏ, vậy là có cả nghìn lọ dầu gửi ra chiến trường, sướng rêm.
Các lớp thay nhau nấu suốt ngày đêm, mỗi ngày đêm nấu được 3 nồi, mỗi nồi mất chừng hơn ba tạ lá tràm, cả tấn lá tràm một ngày đêm, một tháng ngốn chừng 30 tấn lá tràm. Bãi tràm sau trường bát ngát mênh mông là thế, chỉ vài tháng bị cắt sạch. Lúc đầu qui định mỗi đứa một tuần 30 cân lá tràm thấy nhẹ hều. Ra bãi tràm cắt chừng một giờ là đầy gánh. Sau, khi bãi tràm sau trường bị cắt sạch, tụi mình phải đi xa hơn, có khi đi ra tận Quảng Tùng, Quảng Xuân, suốt ngày kiếm không đủ một gánh tràm. Khi đó lũ “nhất quỉ nhì ma” tha hồ trổ tài tháu cáy nhằm tăng cân gánh tràm. Đứa nhúng nước, đứa ngâm bùn, đứa lót gạch vào giữa gánh, hết thảy đều bị lật tẩy. Đứa nào đứa nấy méo mặt, đi học chẳng lo thiếu điểm, chỉ lo gánh tràm thiếu cân.
Một hôm mình phát hiện ra một bãi tràm rất tốt chừng ba bốn chục gánh, mừng như cha chết sống lại. Sợ chúng nó phát hiện được cắt hết, mình liền làm cái biển gỗ: “
Khu vực có bom từ trường, cấm vào
”, đóng cọc cắm lên đấy. Từ đó cứ đến ngày thứ 5 ( phiên nộp lá tràm của lớp mình) mình túc tắc quảy gánh ra, cắt một gánh đầy, khỏe re. Chúng nó thấy mình cắt được tràm tốt, đi về rất nhanh, ngạc nhiên lắm, phục mình sát đất. Nhiều đứa năn nỉ hỏi mình cắt ở đâu. Tất nhiên mặt mình vênh lên, nói thiên cơ bất khả lộ. Được vài tuần, một hôm mình quảy gánh đi ra thì bãi tràm đã bị cắt sạch. Cái biển của mình bị xóa đi, đứa nào đó viết đè lên: “
Tổ bọ thằng Lập!”Tức chết được hi hi.
Kiếm lá tràm còn dễ hơn kiếm phân trâu bò ( gọi tắt phân bò cho nó gọn). Ở đội trồng trọt, cày cuốc cấy gặt không sợ, sợ nhất là việc nhặt phân bò. Qui định mỗi tuần một đứa phải nôp 30 cân thôi, nhưng trâu bò ba xã quanh trường chắc không đủ ngàn con mà ngày nào cũng có cả ngàn đứa quảy gánh ra đồng nhặt phân bò, kiếm đâu ra? Khắp cánh đồng ba xã ngày ấy, ở đâu cũng thấy học sinh cấp 3 quảy gánh lượn lờ quanh các đàn trâu bò. Hễ thấy con nào cong đuôi, cả chục đứa bưng rổ chạy đến tranh nhau hứng, cãi nhau chí chóe, nói tau thấy trước tau thấy trước- Ê ê đừng có gian, tau thấy trước không phải mi. Lắm khi mất bạn mất bè vì một bãi phân bò.
Nhưng tình yêu cũng nảy nở từ phân bò, hi hi. Con trai thường tinh nhanh hơn con gái, nhiều đứa nhặt phân bò nhanh như chớp, chỉ cần hy sinh một bãi phân bò đôi khi cũng lấy được cảm tình của các “ em”. Các “em” cũng khôn lắm, thấy chú nào hăm hở xăm xăm đi tới nơi có phân là các “ em” đã kêu to, nói ê ê của em của em, em thấy trước. Chú cười cái xoẹt, vội tránh ra cho người đẹp dù biết thừa người đẹp chẳng hề thấy cái “ của em” nằm ở đâu. Có chú đã nhặt phân bỏ vào gánh rồi, nghe các “em” nũng nịu, nói của em… của em mừ, đành ngậm bồ hòn “ nôn” ra cho người đẹp.
Mất bãi phân bò nhưng được các “ em” nhoẻn miệng cười, ném cho cái liếc, thật sướng củ tỉ. Có chú còn nói: các “ em” bảo ăn hết bãi phân bò tao cũng ăn ngay, nói chi việc nhường nhau một bãi phân. Hy sinh phân bò cho các “em”, được các “em” ném cho mấy nụ cười, mấy cái liếc thế là quá hạnh phúc rồi, không dám mơ tưởng gì thêm nữa.
Thằng Cảnh mê gái đẹp nhất hạng, trong lớp chục “em” nó mê 5 em, lại còn mê tràn sang các “em” lớp khác, mê nhất là “em” Thuận lớp 8E xinh nhất trường. Nó làm thơ tặng các em trong lớp:
Ước gì anh hóa phân bò/ để em nhặt lấy nộp cho thầy Hiền. Mình chê dở, sửa lại thơ cho nó:Ước gì anh hóa phân bò/ để em nhặt lấy ủ cho thật nồng
. Thằng Cảnh gật gù khen hay, nó chép lại tặng cho con Thuận. Chẳng dè con Thuận khóc như cha chết, nói anh Cảnh khinh em, coi em không bằng cục cứt. Thằng Cảnh hãi quá, cầu cứu mình. Mình bèn trổ tài đấu hót, nỉ non với con Thuận về “giá trị thiêng liêng của phân bò” suốt buổi chiều nó mới hết giận. Từ đó nảy nòi ra “thơ ca trường phái phân bò”, đứa làm thơ, đứa “ phổ nhạc” loạn cả lên. Sáng sáng chủ nhật, đàn con trai quảy gánh ra đồng, vừa đi vừa hát rống lên bài hát nhại theo bài “ Cung đàn mùa xuân
”: Em ơi tới đây nhặt phân bò. Kìa bò đã cong đuôi, trâu cày đang dạng háng ơ hơ
…
Thằng Thái Bình lớp 8A mê con Châu lớp mình, một hôm nó đứng cửa sổ ném thơ cho con Châu, chẳng may trúng đầu mình. Mình giở ra đọc oang oang: “
Châu ơi giấc mơ học trò/ đêm nào cũng thấy phân bò và em
”.
Anh cu Bịp
Mình biết anh cu Bịp từ năm 1967, anh hơn mình gần chục tuổi, năm đó mình 11 tuổi, anh đã 19, 20 tuổi rồi. Vào khoảng tháng 8 năm đó nhà mình được tin anh Huy chết trôi ở huyện Tuyên. Anh Huy là anh thứ tư của mình, nhà nghèo quá học hết lớp 7 anh bỏ học đi làm công nhân đường bộ cho gia đình đỡ một miệng ăn. Anh Huy đi làm được 7 tháng nhà mình mới nhận được thư, mạ mình mừng quá cầm thư anh khoe khắp làng. Thư về đúng ba ngày thì tin anh Huy chết trôi ở huyện Tuyên ồn khắp làng. Cũng chẳng biết ai đưa tin đầu tiên, ai cũng bảo nghe người ta nói. Năm đó lũ lụt to lắm, huyện Tuyên cứ đến mùa lũ lụt thế nào cũng có nhà trôi người chết, nghe vậy ai cũng tin. Mạ mình khóc lăn khóc lóc suốt ngày đêm, không chịu ăn uống gì cả.
Sốt ruột quá, dù đang lũ lụt ba mình vẫn quyết định lên huyện Tuyên xem sao. Ba mình đi buổi sáng, buổi chiều anh cu Bịp mò đến nhà mình liền.
Anh khoác ba lô vào nhà, nói con ở đơn vị với thằng Huy. Mạ mình rú lên túm tay anh hỏi dồn dập. Anh nói cười xởi lởi, nói đồn đại tào lao đó, thằng Huy vẫn bình thường mà. Mình mới 11 tuổi chẳng biết nói gì cứ ôm cột nhà nhìn vết sẹo mảnh vắt ngang cổ anh, hình như có ai đó đã định chém đứt cổ anh nhưng không thành. Bé tí có biết gì đâu nhưng nhìn anh mình vẫn thấy nghi nghi. Có lẽ anh cu Bịp hôi quá, hễ anh mở miệng là hôi rình. Bộ đội, TNXP mình gặp đã nhiều, không ai hôi và nói nhiều như anh.
Anh ngồi kể chuyện lia xia, nói thằng Huy thế này thằng Huy thế kia. Mạ mình sướng lắm cười hể hả, mình lại thấy những gì anh kể chả giống anh Huy gì cả. Mình cắt ngang lời anh, nói răng anh Huy không viết thư? Anh cười to, nói quên quên, cháu chưa kể, cháu ra tận cổng đơn vị rồi thằng Huy mới biết cháu về phép. Nó chạy đuổi theo dặn có mấy câu chứ không kịp thư từ gì cả. Tất nhiên mạ mình tin sái cổ, bà giữ anh lại nhà ăn cơm, đãi đằng đủ món. Bà chạy mượn đâu được hai chục đồng đưa cho anh cu Bịp, nói nhờ cháu nói với thằng Huy cố gắng ăn uống bồi bổ vào. Rồi bà vui vẻ kể, nói thằng Huy nhà bác tằn tiện lắm. Hắn đi vô Đồng Hới, bác cho hắn một đồng, đến chiều quay về trả lại bác nguyên xi một đồng. Anh cu Bịp cười ha ha, nói được rồi được rồi, bác để cháu trị thằng Huy cho. Nhất định cháu phải bắt hắn ăn uống bồi bổ. Nghe thế mạ mình cười tít mắt.
Anh cu Bịp ra đi ôm theo hai chục đồng với một bọc to quà cáp mạ mình gửi cho anh Huy. May cho anh, anh đi chừng nửa giờ thì ba mình từ huyện Tuyên trở về, nói thằng Huy không chết, nó chuyển quân sang Cự Nẫm, không ở huyện Tuyên nữa. Mạ mình ôm mặt rú lên, nói ôi cha trời ơi, tui mất hai chục đồng rồi. Ba mình nghe thế tức lắm, đời ông ghét nhất bọn lừa đảo bịp bợm. Ông cố đuổi theo, lùng sục khắp nơi không thấy anh cu Bịp đâu cả, đến làng nào cũng nghe một trường hợp bị lừa như nhà mình. Anh cu Bịp tung tin ai đó bị chết rồi giả đò đóng vai người cùng đơn vị với người đó về gia đình báo cho gia đình biết người đó còn sống. Thế là chuột sa chĩnh gạo, anh được ăn uống đãi đằng và ôm một mớ tiền đóng quà của người nhà gửi cho người đó rồi biến thẳng. Chẳng ai biết anh ở đâu tên gì, người ta gọi đại là thằng cu Bịp.
Tưởng chuyện anh cu Bịp đến đó là hết, chẳng hiểu trời xui đất khiến thế nào mình lại gặp anh khá nhiều lần, lần nào cũng biết anh bịp mình hẳn hoi nhưng chẳng làm được gì tốt.
Mười năm sau, năm 1977 mình đang học năm thứ ba Bách Khoa Hà Nội. Cứ thứ bảy mình lại ra bến xe Kim Mã nhảy xe bus đi Sơn Tây thăm cô bồ. Hôm đó mình vừa mua vé xong thì gặp ngay anh Cu Bịp. Anh đứng ngay trước mặt mình nước mắt lưng tròng mếu mếu máo máo, nói anh ơi con gái tui bị tai nạn nằm ở bệnh viện Việt Đức…Mình nhận ra anh ngay nhờ vết sẹo mảnh vắt ngang cổ và nhờ cái miệng hôi rình của anh. Mình chộp lấy tay anh, nói anh cu Bịp nhớ tui không? Sắc mặt anh không hề thay đổi, vẫn nước mắt lưng tròng vẫn mếu mếu máo, nói xin anh nhón tay làm phúc. Mình nghiến răng vặn tay anh, nói đ. mẹ ông trả ngay hai chục đồng của mạ tui, trả ngay! Anh khóc rú lên, nói ối anh ơi, mạ anh cho tui hai chục đồng để tui cứu con tui, răng rồi cũng có ngày tui trả lại, chừ tui chỉ xin anh một hai đồng thôi, một hai đồng thôi, cắn cỏ xin anh, lạy anh trăm ngàn mớ lạy. Anh bù lu bù loa khóc to nói to, nói mạ anh là dì ruột tui, dì tui cho tui hai chục đồng răng anh đòi lại. Tui xin anh tiền anh đã không cho còn đòi tiền dì ruột tui cho tui. Mọi người quay lại nhìn mình, những cái nhìn khó chịu và khinh bỉ. Chẳng biết nói thế nào mình đành buông tay anh bỏ đi. Được thể anh chạy theo níu áo mình, nói chỗ con cậu con dì, xin anh một hai đồng thôi, một hai đồng thôi. Đúng là chưa bao giờ mình bị rơi vào tình trạng này, vừa điên tiết vừa xấu hổ. Hai mốt tuổi đầu chẳng biết làm sao, chỉ biết đấm anh ta một phát rồi bỏ chạy.
Mười năm sau (lại mười năm sau, khỉ thế!), năm 1987 mình đang làm báo
Văn hóa đời sốngở Huế, anh Văn Lợi cử mình về Hương Điền viết cái kí. Tình cờ mình gặp cô bé xưa cùng hát hò kịch cót với nhau ở đội văn nghệ sư đoàn 375.( Viết đến đây tự nhiên quên biến mất tên cô bé). Cô bé đưa mình về nhà cô chơi. Nhà cô cách phố huyện chừng chục cây số. Về tới nhà không có ai, cô bé nói anh chờ em tí để em đi tìm mạ em. Lát sau cô quay về kéo mình đi ngay, nói anh ra đình mà xem, cả làng em đang ở đó, mạ em cũng đang ở đó không chịu về. Mình hỏi chuyện chi, cô bé mắt trợn miệng há, nói ua chầu hay lắm, thánh về làng em, thánh chữa bách bệnh, bệnh chi cũng khỏi. Mình cười, không nói gì lẳng lặng theo cô bé xem ông thánh này là thánh thật hay là lang băm.
Mình tới đình làng sững sốt thấy cả mấy trăm người, không, có khi cả ngàn người, ngồi chật kín sân đình, trong khi phía ngoài mọi người đang lũ lượt kéo tới. Cô bé nói không chỉ người làng em mô, nhiều người các làng khác cũng tới. Thánh là thiên sứ nhà trời chỉ về đây đúng một ngày đêm, mạ em nói rứa. Nhác trông mọi người ai nấy mặt mày nghiêm trọng, thành kính ngồi thành hàng lối chờ đến lượt thánh gọi vào, tuyệt không ai gọi to nói lớn, hết thảy đều thầm thầm thì thì, rất kinh. Mình thấy lạ là trong tay ai cũng cầm sẵn bát nước lạnh, hỏi vì sao, cô bé bảo bát nước để thánh làm phép xong thì uống. Đó là bát nước thánh, uống vào bệnh gì cũng lành.
Máu tò mò khiến mình cố bươn lên phía trước xem thánh là ai, là thế nào. Nhờ có cái thẻ nhà báo nên bà con đều nhường lối cho mình.Vào sâu trong đình vẫn không thấy thánh đâu, cô bé bám theo mình nói thánh ngồi ở hậu cung.
Phải ngồi đây chờ khi thánh gọi mới được vào, dù anh là gì đi nữa nếu thánh không gọi cũng không được vào. Mặc kệ, mình cứ cố chen lên. Đến hậu cung gặp ngay hai ông già đứng canh kiên quyết không cho mình vào. Mình năn nỉ mãi, nói cháu chỉ xem mặt thánh cái là ra ngay. Vừa lúc một người trong hậu cung đi ra, người khác bưng bát nước đi vào. Qua hai lần vén màn cho người vào, ra mình thấy rành rành cái ông thánh chính là anh cu Bịp.
Mình liều nhảy đại vào, nói này anh cu Bịp, anh còn dám bịp cả mấy trò này à? Tưởng anh cu Bịp giật mình nhảy tót ra khỏi hậu cung. Ai dè anh vẫn mắt nhắm nghiền, tay cầm nén nhang, miệng lẩm nhẩm khấn như không hề có chuyện gì xảy ra. Hai ông già lôi cổ mình ra. Mình nói cháu là nhà báo, cháu sẽ vạch trần. Hai ông già chỉ mặt mình mắng át đi, nói tỉnh trưởng, bộ trưởng đến đây xúc phạm thánh tôi cũng tóng cổ, đừng nói nhà báo với nhà béo. Mình cự lại, cố nói to cho mọi người nghe. Hai ông già bịt miệng mình lôi ra khỏi hậu cung.
Bỗng có người nói thánh gọi thánh gọi, ngoảnh lại thấy anh cu Bịp đang tươi cười vẫy vẫy, nói vào đây con vào đây con. Mình đi tới, hai ông già ấn mình quì xuống, đặt vào tay mình bát nước lạnh, nói ngửa mặt nhắm mắt nghe thánh truyền. Mình cũng ngửa mặt nhắm mắt xem anh cu Bịp giở trò gì. Chẳng biết anh nói gì, làm gì, khoảng một phút sau anh ghé tai mình rít lên khe khẽ, nói cút cha mày đi cho tau làm ăn, không tao bảo dân xé xác mày ra. Mình mở mắt, anh cu Bịp đang cầm nhang tay khua miệng khấn, dáng điệu uy nghi như thánh nhập trần.
Ngay sau đó mình bị tóng cổ ra khỏi hậu cung, không dám ho he nữa, sợ lắm. Đến anh cu Bịp còn có dân, hỏi sao không sợ? Hi hi.
Thằng cu Bợp
Nó tên Thỉ, hình như Ngô Thỉ thì phải. Năm 1967 mình theo ba mình lên làng Dói thuộc thung lũng Chớp Ri được mấy ngày, mẹ nó cũng ôm bọc áo quần dắt nó về làng Dói. Nhà nó ở Quảng Trường, ba nó làm nghề chụp ảnh kiếm được nhiều tiền, mẹ nó xinh gái hát hay, gọi là gia đình hạnh phúc. Không ngờ ba nó theo một cô ở Quảng Tùng, cô này xấu oẳng lại lắm mồm, suốt ngày nhảy về Quảng Trường đánh ghen với mẹ nó. Uất quá mẹ nó li dị chồng, dắt nó về làng Dói.
Là mình nghe lỏm người lớn kháo nhau thế chứ nó không hề nói gì. Thằng này ít nói kì lạ, như thằng câm. Nó lủi thủi đến lớp lủi thủi về nhà, không chơi với bất kì đứa nào trong lớp.Trừ khi cô giáo hỏi bài hoặc gọi nó đọc bài mới nghe tiếng nó,còn thì nó tuyệt không mở mồm nói với ai một câu gì.
Nó giao lưu bằng mắt, nhìn mọi người rất thân thiện, lúc nào cũng lấp lánh một nụ cười. Nhưng chỉ thế thôi không gần gũi hơn, ai hỏi gì cũng gật và lắc. Môi chúm chím gật và lắc, mắt cười rất tươi gật và lắc, y chang con gái dậy thì giữa đám đông.
Tụi mình nghi thằng này giả trai, nghi lắm. Rình nó đi đái không được, cả bọn hè nhau đè nó tụt quần.
Thằng này quá khỏe, nó đánh bật cả đám, xách quần bỏ chạy. Tức khí thằng Bính nhè lúc nó sơ hở nhảy vào chụp hạ bộ nó kêu to, nói a cu cu, thằng ni có cu bay ơi! Thằng Thỉ khóc òa, nhảy vào đấm đá túi bụi thằng Bính. Hình như đối với thằng Thỉ việc có cu là xấu xa ghê tởm lắm hay sao ấy, hi hi.
Đấy không phải là chuyện lạ. Chuyện thằng Thỉ có biệt danh thằng cu Bợp mới thực sự là chuyện lạ lùng.
Một hôm con Hiếu mất năm hào, nó khóc như cha chết. Con Lý xông vào lục lọi túi sách của cả bàn, nó chỉ mặt con Tâm, nói con ni ăn cắp. Con Tâm nhảy chồm chồm, nói láo láo, mi nói láo. Con Lý chụp tay con Tâm vặn ngược, nói đưa năm hào ra mau! Con Tâm khóc ngất, nói cha tổ mi vơ Lý nời, đừng có vu oan giáng họa. Con Lý nghiến răng vặn tay con Tâm. nói kẻ cắp già mồm. Đau quá con Tâm bèn vặn lưng quần chìa ra năm hào cho con Lý, nói năm hào mạ tao cho tao đây. Con Lý cười hé hé, nói cha tổ con ăn cắp. Cả lớp xúm vào lêu lêu con Tâm, nói ê ê đồ ăn cắp. Con tâm khóc rú, xách cặp bỏ chạy về nhà. Con Lý nhìn theo cười hé hé, nói Tâm ơi chết cha mi chưa! Bỗng đâu thằng Thỉ nhảy tới trước mặt con Lý cho nó một bợp tai. Con Lý tru lên chửi, thằng Thỉ lại cho một bợp tai nữa. Nó túm lấy lưng quần con Lý lôi ra năm hào chìa ra trước mặt con Hiếu, nói phải tiền mi đây không? Con Hiếu mừng rỡ chụp lấy, nói đúng rồi, tiền tao rách đôi tao vừa dán lại đây nì. Con Lý đứng đực mặt, nó xấu hổ quá cũng xách cặp bỏ chạy về nhà luôn.
Kể từ đó cả lớp đứa nào cũng biết biệt tài của thằng Thỉ, gọi nó là thằng cu Bợp. Bốc phét chơi vui nó không để ý, hễ nói láo có hại đến đứa khác là nó nhảy tới cho một bợp tai liền. Nó chỉ bợp tai chứ không đôi co, nếu cãi lại nó cho thêm một bợp tai nữa, thế thôi, rồi bỏ đi. Hi hi cứ như cái bợp tai của nó là chân lý, không cần phải bàn cãi.
Ít lâu sau làng Đông biết tài của thằng Thỉ. Nhà chị Nga mất con gà chọi. Anh Quyết chồng chị Nga mua cả trăm đồng, hơn một chỉ vàng thời đó. Anh nhốt trong chuồng suốt ngày thế mà mất, mất ngay giữa ban ngày. Chị Nga vác mồm chửi hàng xóm. Lúc đầu chửi xa xa, sau cứ nhè nhà mệ Liệu nhà trước mà chửi. Khổ thân mệ Liệu già yếu khọm rọm, mắt mũi kèm nhèm phải ngồi đực mặt nghe chị Nga chửi. Vừa lúc thằng Thỉ đi học về ngang qua ngõ nhà chị Nga. Nó nhảy vào cho chị Nga một bợp tai. Anh Quyết chạy ra túm cổ thằng Thỉ tính cho nó tan xác. Tụi mình xúm vào ôm lấy thằng Thỉ, nói ê ê đừng tin chị Nga, chị nói láo đó. Thằng Thỉ chỉ bợp tai ai nói láo thôi. Lúc đầu anh Quyết chẳng hiểu mô tê gì cả, sau anh hiểu ra. Anh chạy vào nhà lục hết nồi niêu đem ra ngửi, không ngửi được gì nhưng anh phát hiện một cái lông gà nhỏ dính mép cái nồi bảy. Anh túm tóc chị Nga quật đầu chị xuống sân. Đau quá chị Nga khai chị có nghén thèm thịt gà nhịn không nổi mới lén mổ thịt con gà chọi. Sợ chồng xé xác chị mời bày chuyện đổ hô cho hàng xóm.
Ngay lập tức tiếng tăm thằng cu Bợp loang khắp làng Dọi. Bây giờ mới nghe mạ nó kể cái tài của nó có từ bé. Ngay khi nó mới ba tuổi nói còn chưa sõi, bà bồ Quảng Tùng của ba nó đến gây sự, dựng đứng đổ điêu cho mẹ nó, nó đã nhảy tới bợp tai bà này. Nó bợp tai ai đó không phải bởi vì nó muốn bợp tai, như là trời xui đất khiến, tự nhiên có ai đó đẩy nó xông vào nhảy tới bợp tai người ta. Nó chỉ bợp tai kẻ nói láo, chỉ kẻ nói láo làm hại người khác. Ở đâu cần vạch mặt kẻ ăn không nói có là người ta nhớ đến thằng cu Bợp, bất kì một cú bợp tai nào của nó liền ngay sau đó đều được xác minh chính xác trăm phần trăm. Kinh. Chả hiểu vì sao.
Nhiều người coi nó như thánh, như thiên sứ nhà trời, khúm núm gọi nó bằng cậu, hễ gặp nó là một cậu hai cậu. Tụi mình cũng chẳng dám gọi nó bằng thằng, cô thầy cũng kiềng nể nó ra mặt, rất ít khi kiểm tra bài tập, hỏi bài nó. Khi cần phải gọi nó lên bảng hay đứng dậy trả lời, hết thảy cô thầy đều xuống giọng mềm như lụa, nói mời cậu Thỉ. Nó đến lớp như ông thánh con đến dự giờ vậy, sướng kinh. Hi hi.
Rồi chuyện không may đã đổ xuống nhà nó. Mình nhớ cuối hè năm 1967, còn chừng chục ngày nữa là tựu trường, tối tối tụi mình tụ tập ở sân kho hợp tác chơi nốt những ngày hè cuối cùng. Trong nhà kho người lớn đang họp kiểm điểm anh cu Đán đội trưởng đội 1. Kho hợp tác do đội 1 quản lý vừa mất năm tạ gạo Nhà nước cứu trợ người nghèo. Anh cu Đán bị kiểm điểm lên kiểm điểm xuống cả chục buổi tối rồi vẫn chưa xong. Tối đó có ông L. chủ nhiệm HTX làng Dọi tới dự. Khi ông L. đứng dậy chém tay nói rất hăng, chẳng nghe ông nói gì, chỉ nghe “Bắt, phải bắt, tóng cổ vào nhà giam !” thằng cu Bợp bỏ cuộc chơi lao vào nhà kho nhảy lên cho ông L. một bợp tai. Mọi người ồ lên, nói rồi, thánh truyền! Thánh truyền rồi! Ngay sau đó đội dân quân đến nhà ông L. lục soát và tìm được 5 tạ gạo giấu sau chuồng lợn.
Ông L. mất chức chủ nhiệm htx. Kể từ đó nhà nó luôn bị quấy phá. Đêm nào cũng bị kẻ nào đó ném đá vào nhà. Có hôm nó đi học về, mở cửa ra thấy nhà nó đầy cứt. Một đêm nó mở cửa ra ngoài đi đái, bỗng ai đó nhảy vào chém một phát vào tay. May nó nhảy lùi kịp thời, dao sợt qua văng một miếng thịt đỏ lòm. Mẹ nó sợ quá vội bán nhà dắt nó bỏ chạy khỏi làng Dói.
Từ đó đến nay đã 35 năm mình không hề gặp lại nó, tin tức về nó cũng không. Thỉnh thoảng vẫn kể chuyện này cho bạn bè nghe, chẳng đứa nào tin. Trưa hôm qua nhậu say bét nhè. Mình lên taxi là ngủ, tắc đường cả giờ vẫn không biết. Bỗng có tiếng đập cửa thình thình, mình bừng tỉnh. Xe đang kẹt cứng giữa đường, một người đang dí mặt vào cửa kính nhăn răng cười. Thật không tin vào mắt mình nữa, đó là thằng cu Bợp.
Mình nhảy ra khỏi xe, vừa chực bắt tay thì thấy tay nó bị cụt ngang cổ tay. Mình nói sao thế này, ai chém? Nó cười, nói tôi. Mình trố mắt nhìn nó, nói sao thế? Nó cười buồn, nuốt nước bọt hai ba lần, ngước lên nhìn mình rầu rầu, nói phải hy sinh bàn tay tôi mới sống được đến giờ. Nó im lặng hồi lâu rồi thở hắt ra mấy tiếng đắng ngắt, nói khó sống quá Lập ạ.
Nhúm lông
Mình về quê hội trường, vừa chui từ quán cà phê ra thì thấy một người đàn bà ngồi trên trên ô tô, tay vẫy miệng gọi, nói Lập ơi! Phải Lập đó không? Thì ra chị L., bạn học lớp 5 thời mình theo ba mình sơ tán lên ở thung lũng Chớp Ri. Chị L. bây giờ xinh xắn trắng trẻo còn hơn cả thời chị 19 tuổi, thật không ngờ. Chị rất ra dáng đại gia, tay đeo vòng
ngọc, cổ quàng dây chuyền mỏ neo chừng hai cây vàng ròng, đi con Mẹc mới cứng, oách kinh.
Chị vẫn ngồi trong xe bên tay lái, nói Lập lên xe đi. Thấy mình chần chừ không hiểu chị định đưa mình đi đâu, chị lườm cái cười cái, nói lên xe đi, chị không ăn thịt mày đâu mà lo. Chị nói giọng Bắc ngon xớt, cười có lúm đồng tiền tròn vo làm mình cứ chờn chợn không biết có đúng chị L. thật không hay mình đã lầm. Mình nhớ như in xưa chị không có lúm đồng tiền, nói giọng Cao Lao tiếng nào tiếng nấy méo xệch. Bản tính tò mò, mình leo đại lên xe xem chị đưa mình đi đâu, nói chuyện gì với mình.
Chị đưa mình ra bãi biển Quảng Tùng, tới một nhà hàng khá sang, sát rặng phi lao ven bãi biển. Bà chủ nhà hàng chạy ra, ngực rung bần bật, kéo miệng cười rộng tới mang tai, nói ôi chị, lâu lắm rồi chị mới tới. Xem cung cách biết bà chủ quí hóa chị L. lắm. Nhìn vào nhà hàng thấy nhân viên táo tác hẳn lên, chạy đi chạy lại mặt mày nghiêm trọng cứ y như quan to đến nhà, tự nhiên mình thấy vui vui.
Chị L. học lớp 5 với mình khi chị 19 tuổi, không phải chị đi học muộn, tại chị đúp nhiều quá. Bạn học cùng vào lớp 5 với chị đã tốt nghiệp cấp ba, vào đại học mà chị vẫn đang học lớp 5. Chị đọc thông viết thạo, cộng trừ nhân chia cũng tốt nhưng không sao giải được toán đố và toán nhà lầu, loại toán giản ước của lớp 5. Ngoài ra bất kì môn nào chị cũng không thuộc bài, kiểm tra toàn dưới điểm trung bình. Hồi đó không có chuyện xin điểm mua điểm, bù lại được đúp thoải mái, Chị L. đúp lớp 5 đến sáu năm vẫn được học như thường.
Cô giáo chủ nhiệm phân mình và thằng Quí cùng tổ học tập với chị L. để hai thằng kèm cặp chị cho qua được lớp 5. Chị L. nói chị phải cố học cho xong lớp 5 mới được đi bán cửa hàng hợp tác xã. Ở thung lũng Chớp Ri không có mậu dịch quốc doanh, chỉ có cửa hàng hợp tác xã. Khắp thũng lũng có sáu cửa hàng hợp tác xã, chủ yếu bán vải vóc đường sữa, nước mắm ruốc. Nhân viên bán cửa hàng phải học hết lớp 5, cậu chị làm chủ nhiệm hợp tác xã đã hứa với chị rồi, chừng nào chị học xong lớp 5 sẽ chị cho chị bán cửa hàng. Làm nhân viên cửa hàng khác nào chuột sa chĩnh gạo, chị L. mê lắm, khốn thay chị học mãi không xong lớp 5.
Học với chị L. sướng nhất trần đời, luôn luôn chị cho ăn uống no nê. Hồi đó chẳng có gì, chỉ hai món khoai xéo, sắn lùi thôi, được ăn no là sướng rồi chẳng mong gì hơn. Thực ra chẳng phải kèm cặp chị. Buổi tối mình và thằng Quí xách cặp đến nhà, chị giao cho hai đứa cái cặp sách của chị và một rá khoai xéo hoặc sắn lùi, nói học giúp chị nha, chị đi đây. Nói rồi chị tót ra khỏi nhà. Tụi mình vừa ăn vừa giải toán, làm bài tập sinh sử địa, soạn văn cho chị xong rồi về, thế thôi, tối nào cũng giống tối nào.
Mình hỏi thằng Quí, nói chị L. đi mô mà tối mô cũng đi rứa hè. Thằng Quí cười khì, nói thằng ni ngu, đi yêu chứ đi mô. Mình hỏi yêu ai, thằng Quí trợn mắt lên, nói oa chà nhiều lắm. Thằng Quí cùng 11 tuổi như mình nhưng khôn hơn rận. Trong khi mình vẫn đinh ninh mẹ đẻ em ở rốn thì nó đã biết người ta đúc em ở đâu, làm thế nào để không có thai. Nó lẻn vào buồng chị L., lấy ra một cái lá to hơn cái quạt mo, nói chị L. đi yêu khi mô cũng mang theo lá ni. Chị lót dưới lưng, rứa là mần chắc thoải mái, không đời mô có nghén. Thằng Quí có nói tên lá nhưng lâu ngày mình quên mất. Sau này vào lính lên Sơn La gặp một ông người Thái, mình có hỏi ông cái lá ấy, ông xác nhận là có. Mình hỏi tên lá, ông giả bộ lắc đầu không biết, nói lá ấy chỉ đàn bà biết thôi, đàn ông không được biết.
Mình rủ thằng Quí đi rình chị L. xem chị yêu ra sao, thằng Quí nhảy lên, nói đúng đúng, có rứa mà quên mất. Tối đó chị ra khỏi nhà là tụi mình bám theo liền. Chị L. đi vòng vèo men rìa thung lũng, lội quá suối Roóc, chui vào hang đá vôi. Hang này rất rộng, nhiều ngõ ngách, tụi mình mò mãi mới tìm được chỗ chị yêu. Hang tối mò chẳng thấy gì, chị nghe chị hức hức và kêu to, ôi sướng quá bọ ơi. Lát sau người đàn ông đi ra, tụi mình ba chân bốn cẳng chạy về nhà làm bài cho chị. Làm xong rồi vẫn không thấy chị về, thằng Quí rủ mình chạy vào hang đá xem sao. Tới nơi, lại nghe tiếng chị hức hức, lại ôi sướng quá bọ ơi. Nhưng kì lạ, không phải hai cái bóng mà ba cái bóng. Rõ ràng có hai người đàn ông đang yêu chị.
Mình ghé tai thằng Quí, nói răng chị L. yêu một lúc hai người. Thằng Quí chặc lưỡi, nói biết được. Bỗng có tiếng cãi nhau. Chị L. kêu to, nói hai người sáu chục ( đồng), răng lại bốn chục. Người đàn ông nói tụi anh chỉ có chừng đó, em thông cảm. Chị L. rú lên, nói đưa ngay thêm hai chục, đưa ngay. Hai người đàn ông bỏ chạy. Chi L. tru tréo chửi, nói vơ cha tổ tụi bay nời, ăn không l. tao nha. Mình với thằng Quí nhảy ra, nói ê ê tụi em biết chị làm chi rồi nha. Chị L. sững lại, từ từ khụy xuống trước mặt hai đứa mình, nói chị phải làm rứa để nuôi cả nhà, chị lạy hai em đừng nói với ai hết. Chị chắp tay vái tụi mình như tế sao, vừa vái vừa khóc.
Bây giờ chị L. đang ngồi trước mặt mình mặt mày tươi rói, nói nửa thế kỉ rồi Lập hè, mau thiệt. Chị bỏ giọng Bắc nói nguyên xi tiếng bọ. Mình cười, nói em sợ nhận nhầm chị vì hai cái lúm đồng tiền. Mắt chị sáng lên, nói hai tỉ bạc đó, phải sang tận Ing Liềng mới làm được. Mình cười, nói chị bây giờ còn nói được tiếng Anh, ghê quá. Chị cười to, nói thằng ni khinh chị rứa bay. Tau bây chừ tuyền quan hệ với ông to bà nậy, phải đổi giọng bọ ra giọng Bắc cho nó sang, thỉnh thoảng nhả ra mấy tiếng Ing Liềng cho người ta nể.
Mình nói học hết lớp 5 em về quê, không biết chị làm những gì mà giàu thế. Chị nói chị bán cửa hàng hợp tác xã được 13 năm kiếm được một ít, sau người ta bỏ cửa hàng chị đi buôn trầm, rồi buôn vàng, rồi buôn bán bất động sản. Vốn liếng chừng năm bảy chục tỉ, so với người ta là con tép nhưng chị mãn nguyện lắm rồi. Khởi nghiệp bằng một nhúm lông bây giờ được gọi là bà tỉ phú còn đòi chi nữa.
Chị bóc tôm hùm cho mình ăn, nói nhớ lại chuyện xưa chị cảm ơn em với thằng Quí quá. Hồi đó tụi bay nói ra thì đời chị tàn, không ngóc đầu lên được mô, thiệt đo. Thốt nhiên chị dừng ăn, nhìn mình chằm chằm, nói mi có quen ông Hiệu Minh không. Mình nói có, cũng có gặp anh ấy đôi ba lần. Chị nói hay là mi kể chuyện đó cho ông nớ. Vừa dứt lời chị à một tiếng, nói mà mi biết răng được. Chuyện đó xảy ra mấy năm gần đây. Mình hỏi chuyện gì. Chị cười to, nói chuyện chị tắm với con cháu 10 tuổi. Nó thấy chị có nhúm lông, nói răng dì có mà con không có. Chị nói lớn lên rồi con cũng có. Nhờ nhúm lông ni mà dì nuôi sống cả nhà đó con. Con cháu liền reo lên, nói a rứa thì con muốn lông mọc đầy cả người con luôn. Kể xong chị lại cười, nói cha tổ cái ông Hiệu Minh, cứ như là ổng núp rình sau nhà tắm chị vậy đó. Xong chị lại cười, đôi gò má đỏ ửng, cặp tuyết lê khép khép mở mở, hai lúm đồng tiền tròn vo rung rung giật giật. Tuổi sáu mươi vẫn còn duyên, tiếng cười vẫn có thể làm đàn ông điêu đứng, thật phục chị quá.
Tối qua Trần Tién gọi mình đến quán Ziều đỏ nhậu chơi. Mình tới nơi bỗng gặp thằng Quí, té ra nó cũng quen Trần Tiến. Mình kể với nó chuyện mình gặp chị L., nói tỉ phú đó nghe đừng có mà đùa, hai đứa mình bây giờ xách dép cho bả không đáng. Thằng Quí nói mày nghe bả nói làm gì mà giàu? Mình nói bả buôn trầm, buôn vàng mà giàu, sau này buôn bán bất động sản càng giàu to. Thằng Quí cười cái hậc, nói đom! Mày lại nghe mồm bả. Mình trợn mắt lên, nói thằng này không tin à bay, bây giờ trong tay bả có mấy dự án, bả quan hệ toàn ông to bà nậy, kinh lắm. Thằng Quí xua tay nhọn mồm, nói đom đom đom! Rồi nó kéo banh tai mình ra, nói nhúm lông nhúm long đấy… ngu ơi!
Chú Lình
Mình có ông chú ruột không làm chức tước gì nhưng mình rất tự hào, ấy là chú Lình, con út của ông nội, em trai của ba mình. Xưa chú nổi tiếng nấu ăn ngon nhất tỉnh Quảng Bình. Chú đã từng nấu cơm cho Bác Hồ trong tuần Bác vào thăm Quảng Bình vào năm 59-60 chi đó thế kỉ trước.
Hồi ở lính mình được coi là đứa nấu nướng vụng nhất Ban kĩ thuật trung đoàn, cứ mỗi lần anh em trong ban tổ chức nấu nướng nhậu nhẹt thể nào mình cũng được phân công bửa củi và xách nước. Hai việc đó nặng nhất nhưng mình lại thích, thà làm ào ào xong rồi nghỉ hơn là ngồi khom lưng nhặt một mớ rau. Anh Thành đại úy thường vẫn sai mình làm việc vặt, khi thì nhổ lông vịt lông gà khi thì đâm ớt tỏi làm nước mắm, việc nào mình cũng làm anh ngứa mắt. Lần nào anh cũng xòe cái răng vàng ra cười cười, nói mày như thằng tiểu tư sản, chẳng làm cái đéo gì ra hồn. Mình nhăn răng cười, nói em ăn giỏi hơn anh, được chưa? Rồi mình khoe chú Lình nấu ăn giỏi, đã từng nấu cơm cho Bác. Chẳng ai tin, cho là mình bốc phét. Anh Phúc trung úy cười cái hậc, nói thằng này hơi bị ngu, khoe gì lại khoe có ông chú nấu ăn cho Bác. Cả nước không còn ai biết nấu ăn cho Bác, phải cậy đến chú mày à.
Hi hi tức chết đi được, chuyện nào mình bốc phét thì mấy ông tin sái cổ, chuyện mình nói thật thì chẳng ai tin. Hồi đó mình có lên sân khấu trung đoàn đọc bài thơ do mình sáng tác ( xưa mình đọc thơ trên nền nhạc hơi bị được, he he), không nhớ bài gì nữa, chỉ nhớ mỗi câu: “
Đêm tôi đi qua dãy phố nhà em/ tiếng dương cầm níu chân tôi dừng bước.
” Mấy anh trong Ban phục mình lắm, nói thằng Lập tài, cưa được gái Hà Nội, mấy em biết chơi đàn dương cầm là chảnh lắm thế mà nó cưa được. Hi hi .
Thủa chú Lình còn bé, ông bà nội mình chết bom, ông bác Vĩnh Tường ( ông bác ruột) đem ba con trai của ông bà nội về nuôi, đó là ba mình, bác Trang và chú Lình. Ông Vĩnh Tường hồi đó thuộc hàng giàu có nhất tỉnh, năm 1953 vô Sài Gòn, chẳng mấy chốc thuộc hàng giàu có nhất Sài Gòn. Nhắc đến tên ông, nhiều người sống ở Sài Gòn từ 1955-1975 vẫn còn nhớ. Vì giàu có mà ông Vĩnh Tường nuôi ba anh em ăn học, không phải làm gì. Nhưng chỉ ba mình là ham học, bác Trang thì mải chơi, chú Lình học giỏi nhưng chỉ thích nấu ăn không chịu học.
Thấy ba mình ham học, ông Vĩnh Tường quí lắm, ông không có con trai nên chọn ba mình làm con nuôi, được hưởng tập ấm. Ông Vĩnh Tường vô Nam, chú Lình và ba mình theo cách mạng ở lại Bắc, chỉ bác Trang đi theo. Mình nghe ba mình kể, nói bác Trang ham chơi lắm, ông Vĩnh Tường giao cho một xí nghiệp để làm ăn, bác cũng bán nốt lấy tiền tiêu xài chơi bời, chơi cho đến già, khi chết không vợ con gì.
Ba mình kể chú Lình rất ham nấu ăn. Ở trong lớp tiếng Pháp, cô giáo người Pháp hỏi học trò, nói học tiếng Pháp để làm gì. Ai cũng trả lời học để giúp dân giúp nước, chú Lình trả lời thẳng tưng, nói học để đọc sách dạy nấu ăn bằng tiếng Pháp. Nhà ông Vĩnh Tường nhiều đồ ăn, tha hồ chế biến. Chú Lình suốt ngày chui vào bếp, không đi chơi cũng chẳng đi học. Sợ mang tiếng bắt cháu chắt làm việc, ông Vĩnh Tường đuổi chú ra khỏi bếp, bắt đi học. Đuổi hôm trước, hôm sau chú lại lẻn vào bếp. Ông Vĩnh Tường bắt được, quát nạt doạ đánh. Chú khóc, nói con chỉ muốn nấu ăn thôi, nấu ăn cũng là nghề. Ông Vĩnh Tường nghe nói thế thì ngạc nhiên lắm, trợn mắt nhìn chú, nói mi nói thiệt chơi? Chú nói thiệt. Ông nói mi định lập nghiệp bằng nấu ăn à, chú nói dạ.
Ông Vĩnh Tường ok liền, giao cả cái bếp cho chú. Từ đó chú Lình trở thành đầu bếp số 1 của nhà ông Vĩnh Tường. Khách của ông Vĩnh Tường toàn khách sang, ăn uống rất sành, hết thảy đều nức nở khen ngon, nói cu Lình còn nấu ngon hơn mấy ông ba Tàu ở Chợ Lớn. Nghe nói quan đầu tỉnh ở Đồng Hới ( tên gì quên mất rồi) vẫn thường ra Ba Đồn chơi, lần nào cũng vào thăm ông Vĩnh Tường, lần nào ông Vĩnh Tường cũng bày tiệc, sai chú nấu nướng. Ăn lâu quen mồm, nhậu ở đâu ngài cũng đem chú Lình ra so sánh, nói món ni ngon như cu Lình, món kia không bằng cu Lình, lâu ngày có tên là món cu Lình (Món gì cũng quên mất rồi). Sau đó chú rời nhà ông Vĩnh Tường theo Việt Minh, hòa bình lập lại, chú vào làm cho Giao tế tỉnh ( Giống như sở ngoại vụ bây giờ), chú nhanh chóng nổi tiếng khắp tỉnh về tài nấu nướng.
Mình đã được mục sở thị tài nấu nướng của chú Lình. Ấy là ngày giỗ đầu ba mình, nhà làm 60 mâm, mời chừng 300 người là họ hàng và bạn bè, đồng chí của ba mình. Một mình chú Linh đứng bếp, có bốn năm chị em phục vụ nhưng chú chỉ cho rửa ráy rau thịt và sắp món chứ không ai được đứng bếp cùng chú. Chỉ duy nhất với một cái chảo, chú xoay trở đảo điên làm ra 6, 7 món cho ba trăm người, 8 giờ sáng vào bếp, đúng 11 giờ là dọn ra tăm tắp không mâm nào thiếu một món gì, ai cũng xuýt xoa khen ngon. Chỉ cần ngửi hơi là chú biết mặn hay nhạt, nhìn hơi chú biết loãng hay đặc, chín nhừ hay chín vừa, rất tài.
Xưa đại tướng Nguyễn Chí Thanh về gây dựng phong trào
Gió Đại Phong
ở Quảng Bình, đi đâu cũng mang chú đi để chú nấu ăn cho. Đại tướng rất thích đi săn, kiếm được con gì ngon là Đại tướng nhất định chờ chú tới nấu, không cho ai nấu. Một khi nghe điện thoại của Đại tướng, nói đồng chí cu Lình đâu rồi, cấp cứu cấp cứu… là chú biết Đại tướng vừa săn được con gì đó ngon, đang chờ chú đến chế biến, nấu nướng.
Bác Hồ về thăm tỉnh Quảng Bình 1 tuần, cả tuần ăn uống của Bác đều do chú lo. Một bữa ăn của Bác chỉ có 6 đồng ( Khoảng 600 ngàn đồng bây giờ), bữa nào Bác cũng mời chừng 4,5 người khách nhưng với tài chế biến của chú, mâm cơm của Bác rất nhiều món, món nào cũng ngon. Bác Hồ rất thích, có hôm Bác gật gù xuýt xoa khen, nói đến cà pháo chú Lình làm cũng khác người, ăn cứ ngậm mà nghe.
Ra Hà Nội, Bác Hồ viết thư về tỉnh, Bác nhắc nhiều chuyện trong đó có câu: “
Một tuần Bác ở Đồng Hới, chú Lình nấu ăn cho Bác rất ngon”
. Năm 1992 mình đọc một bài báo tỉnh Quảng Bình kể chuyện chú Lình nấu cơm cho Bác, có “cải chính” không những viết thư khen, Bác còn tự tay vẽ một tờ giấy khen gửi về cho chú. Mình hỏi chú có không, chú cười lắc đầu, nói có mô. Nhưng mình nghi chú giấu, chú sợ lộ ra thể nào bảo tàng tỉnh cũng tới xin, không cho không được mà cho thì tiếc lắm, hi hi.
Tết,tình và ao làng
Mình quen M. trên một chuyến xe bus từ Hà Nội lên Sơn Tây giáp tết năm 1980, những ngày đầu nhập ngũ. Xe chật quá mà thân nhau. Hôm ấy xe chật như nêm, mình đứng úp thìa ép sát M. Chẳng có cảm giác gì, chỉ thấy nóng. Xe thì chạy chậm như rùa, lâu lâu lại dừng lại bắt khách, lại ép chặt vào nhau, nóng kinh khủng. Bỗng M. cào nhẹ vào sườn mình. Lúc đầu mình tưởng chị chàng gợi tình, nghĩ bụng con bé này ghê thật, nóng thế mà nó còn máu được.
M. lại cào nhẹ sườn mình, lúc này mình mới nhận ra có tay ai đó đang thọc vào quần M. Chắc không phải sờ soạng, nó đang ăn cắp tiền. M. sợ không dám lên tiếng. Mình chụp lấy cái tay vặn một cái, nói tay thằng nào đây. Cái tay cố rụt khỏi tay mình, nó càng rụt mình càng vặn. Thì ra tay của thằng cu con 15 tuổi, một thằng ăn cắp! Thằng cu con kêu oai oái, khẩn khoản xin. Khi mọi người ồn lên, nói gì đấy gì đấy, ăn cắp à, ăn cắp phải không, cũng là lúc xe dừng đón khách. Mình thả tay thằng cu cho nó chạy thoát, sợ người ta đánh hội đồng chết nó tội.
Từ đó M. coi mình như Lục Văn Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga, đòi trả ơn cho bằng được, nói nhờ anh nên anh trai em mới có vợ. Thì ra trong quần cô lúc đó có ba ngàn đồng, tiền bố cô gửi về cho anh trai cưới vợ. Lâu lâu M. lại đến chỗ mình trú quân, chẳng nói gì chỉ nói chuyện ơn nghĩa. M. nói nhiều quá mình đâm ngượng, mỗi lần thấy bóng cô là mình chuồn thẳng.
Một chiều M. chặn mình giữa đường đồi, mở to mắt nhìn mình, nói sao anh trốn em, em xấu xí vô duyên lắm ạ. Dứt lời M. bỏ chạy, vừa chạy vừa khóc. Lúc đó mình mới biêt M. yêu mình, chuyện ơn nghĩa là cái cớ. Hi hi thì yêu. Đắm say được một tuần, 28 tết M. rủ mình về quê cô ăn tết. Nghĩ bụng tết đơn vị chỉ cho nghỉ có 4 ngày, quê mình ở xa không thể về được, ở lại một mình thì chán lắm, mình tắc lưỡi đi liền.
Dọc đường về, M. líu lo kể đủ chuyện về quê cô, mình ngồi nghe tai đực tai cái, đại khái Nam Hà quê có ao làng, một tụ điểm văn hóa làng, nơi hò hẹn của trai gái, nơi nghỉ ngơi của người già, chỗ đùa nghịch của trẻ con, vân vân và vân vân. Tóm lại ao làng như là đặc sản văn hóa của quê cô, chỉ có quê cô có thôi, thích lắm. Nghe M. nói mình rất phấn khởi, ít nhất chuyện đi này cũng tận hưởng được cái ao làng cả đời mình chưa hề biêt. Nhìn tranh ảnh, đọc văn chương thấy cái ao làng thật đáng yêu. Đêm trăng, nàng giặt áo cầu ao, chàng trên bờ thổi sáo. Cầu ao bên này mấy nàng đi lấy nước ríu ra ríu rít, cầu ao bên kia các cô gái tắm tiên, té nước đùa nghịch nhau rúc ra rúc rích, quá thích chứ còn gì nữa.
Về nhà, mình lâm vào màn chào hỏi liên miên mệt bã người, té ra M báo trước cho cả nhà chuẩn bị đón chàng rể tương lai ( chết, bỏ mẹ thằng cu, hi hi). Mình nháy M. ra thăm ao làng, cốt để tránh màn chào hỏi, họ hàng nhà M. đang lũ lượt kéo tới. M. kéo mình đi.
Công nhận ao làng quê M. đẹp thật, nó rộng chừng ba sào, nằm lọt thỏm giữa bốn bờ tre xanh, chỗ ấy mà tự tình thì hết ý. Cái ao được chia làm bốn, gọi là chia nhưng thực thì chỉ qui ước bằng bốn cái cầu ao. Có đóng biển nơi tắm, nơi lấy nước ăn, nơi giặt dũ, nơi cho trâu bò tắm. Mình hơi bị ngạc nhiên, nói tưởng cái ao chỉ để nuôi cá thôi chứ, nó là cái ao tù, tắm táp giặt dũ đã ghê, lại còn trâu bò tắm chung với người, lấy nước ăn cũng ở đây là sao, dân làng không thấy ghê à? M. lườm mình, nói ghê cái gì, xưa nay dân làng đều dùng vậy cả, có sao đâu. Anh không thấy người ta qui định rạch ròi thế à. Mình cười khì khì, nói chất thải chỗ người giặt dũ, trâu bò tắm sợ không dám mò đến chỗ lấy nước uống à? M. cười hồn nhiên, nói ao rộng thế không sao đâu. Hi hi kinh!
Bỗng mình thấy một cái đầu nho nhỏ đen đen nổi vật vờ nơi cầu ao lấy nước uống, giống như đầu trẻ con. Hai đứa chạy tới, đúng là đầu trẻ con, nhìn thấy cả cái tai nó nữa. M. tái mặt hét ầm lên, mình nhảy ùm xuống ao, cố làm Lục Vân Tiên một lần nữa. Vừa lội tới nơi, nghe mùi thối inh, muốn ọe. Mình nhắm mắt nhắm mũi nhấc cái đầu lên, hóa ra con mèo chết, nó chết lâu ngày phình to, lông lá rã ra từng đám. Mình ném con mèo lên bờ, nói phải thông báo cho dân làng đừng lấy nước ở đây nữa. M. cười hồn nhiên, nói không lấy đây thì lấy ở đâu, cả làng có mỗi cái ao. Vừa lúc em gái M. ra lấy nước, mình hét toáng lên, nói đừng đừng, đừng lấy nước ở đó. Con bé cười toe toét, nói tháng trước có người tự vẫn ở đây đấy, cũng trương phình lên như con mèo kia. Nó ngồi xuồng cầu ào, thò chân khoắng nước, kì cọ chân tay cẩn thận rồi thò thùng múc nước, gánh về, nhẹ nhàng như không.
Đó là chiều ba mươi, nhà M. làm cỗ khá to. Mình không sao ăn được, nghĩ đến con mèo chết ở ao làng mà toát mồ hôi, cứ đưa thức ăn vào miệng là chực nôn. Ông bà già M. ngồi kẹp lấy mình, ra sức gắp gắp chan chan, nói ăn đi con, ăn đi con. Mỗi lần ông bà giục ăn mình lại giật mình thon thót. Thấy mình ngồi đực như ngỗng ỉa, ông già M. cười khà khà, nói thằng này giống tao, hồi mới về nhà vợ tao cũng không ăn được miếng nào. Câu nói ông già thức tỉnh mình, nghĩ bụng nếu làm rễ làng này, suốt đời ăn uống nước ao làng thì chết bỏ bu, nát một đời trai hu hu.
Sáng mồng một mình viện cớ đơn vị triệu tập về trực chiến rồi biến, lặn một hơi không sủi tăm, bye bye mối tình bảy ngày, xa M. cho đến tận bây giờ. Sau này nghĩ lại thấy mình nông nỗi, rất thương M. Thương thì thương nhưng mỗi lần nghĩ đến con mèo chết ở ao làng đều rùng mình, nổi cả da gà. Sợ lắm, hi hi.
Quán rượu chị Phước
Hè vừa rồi mình về Huế chơi, tìm về góc phố có quán rượu chị Phước, góc đường Trương
Định,
cạnh quán xôi thịt hoong. Quán xôi thịt hoong vẫn còn, vẫn y chang như ngày nào, lụp xụp nhếch nhác nhưng rất đông khách. Quán rượu chị Phước không còn nữa, hình như người ta đã dẹp các quán vỉa hè, dẹp luôn quán chị. Mình đứng tựa gốc cây hồi lâu, tự nhiên thấy bồi hồi.
Bao nhiêu bạn bè của mình đã từng ngồi đây giờ đâu hết rồi?
Một cái quán che bằng tấm áo mưa cũ, chống ba bốn cọc tre nhỏ, cái thùng gỗ đựng rượu nem thuốc lá, chỉ ba thứ ấy thôi, không có hề có thêm thứ khác, năm sáu cái đòn ngồi cái méo xệch, cái gãy chân… Thế mà không khi nào vắng các nhân vật nổi tiếng, từ Trịnh Công Sơn đến Nguyễn Khoa Điềm, từ Xuân Đàm, Kim Quý, Lê Anh… đến Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Minh, Nguyễn Trọng Tạo….Từ đó anh tài khắp nước lần lượt vào quán này, đủ hết không sót một ai.
Những năm 80 thế kỷ trước, anh em văn nghệ Huế mỗi khi rủ nhau đi uống rượu thường chỉ đến hai nơi, một là quán chị Hiếu, hai là quán chị Phước. Quán chị Hiếu rượu ngon, chị tự nấu lấy, rượu gạo trăm phần trăm, đối với anh em văn nghệ chị bán giá gốc rất rẻ. Nhưng quán chị Hiếu hơi xa, ở tận dốc Phú Cam, hơi trái đường nên anh em vẫn tụ bạ ở quán chị Phước, sát ngay 26 Lê Lợi là trụ sở Hội văn nghệ. Nhà mình gần ngay đấy, ở 24 Lê Lợi, thành thử mình thường trú nửa phần đời tại quán chị Phước.
Chẳng biết chị Phước mấy tuổi, ở đâu. Nghe nói chị vốn dân Quảng Nam ra đây làm ăn, người bảo có chồng con, người bảo không. Lại có người nói chị là vợ ông Đại úy cộng hòa. Năm 1980, ông này vượt biên sang Mỹ, chị không đi, ở lại nuôi con. Chẳng biết thế nào nhưng nhìn tướng chị mình biết chị có học hành tử tế, con nhà dòng dõi, thế cuộc đổi thay chị mới chịu ra vỉa hè bán rượu mà thôi.
Rượu chị Phước thua rượu chị Hiếu nhưng chị cho nợ thoải mái, chẳng ghi sổ, chẳng hỏi nợ, ai nhớ thì trả, không thì thôi, chẳng bao giờ chị càm ràm. Ngồi ở quán chị nói năng thoải mái, không sợ chị nghe được đi kể lại với người khác. Anh em cãi nhau, chửi nhau, nói xấu nhau… chị đều bỏ ngoài tai hết, không hề để bụng. Ngồi ở quán chị như ngồi nhà mình, chỉ có ba thứ: rượu, thuốc lá và nem, ai muốn lấy gì thì lấy. Nhiều lần bận việc chị thả quán cho khách tự tung tự tác. Uống xong, có tiền nhét tiền dưới cục gạch chị đã làm dấu, không tiền thì cứ thế phủi đít về, chẳng sao.
Ngồi nhiều nhất, lâu nhất vẫn là đám nhà thơ. Buổi sáng đến công sở, uống trà nói phét chừng một tiếng, vờ vào bàn làm việc chừng một tiếng, đến 10 giờ chẳng ai bảo ai đều viện cớ đi chỗ này chỗ nọ, gặp người này người nọ, rồi vọt ra quán chị Phước cả lũ.
Vài ba chén đầu còn tâm sự hỏi han, đến chén thứ tư bắt đầu màn đọc thơ. Nếu thơ được khen tất nhiên còn đọc nữa, tranh nhau đọc cho tới chiều. Nhưng nếu ai đó chê thơ ai đó thì thể nào cũng có cãi nhau, có rượu vào chuyện bé xé ra to, văng đủ thứ, thề độc không bao giờ nhìn mặt nhau, tóm lại sáng sau lại có mặt cả lũ, không sót một ai, hi hi.
Một hôm mình ngồi với anh Tạo ( Nguyễn Trọng Tạo), anh Ngô Minh. Anh Tạo nói tình hình nghiện đọc thơ đã trở thành quốc nạn. Khéo không chị Phước nghe đọc thơ nhiều quá, điên lên chị nhổ quán bỏ đi thì bỏ mẹ. Từ nay thằng nào đọc thơ phải “ nôn” tiền ra gọi là nhuận nghe. Không ai tốn rượu mất thời giờ nghe thơ chúng mày. Vừa nói xong thì Lý Hoài Xuân lò dò tới, nói tôi mới có bài thơ, đọc cho anh em nghe. Anh Tạo nói vừa ra nghị quyết rồi, thằng nào muốn đọc thơ phải bỏ tiền ra, mỗi bài ba ngàn. Lý Hoài Xuân lẳng lặng móc túi bỏ ra ba ngàn. Đọc xong, ai cũng khen, Lý Hoài Xuân lại lẳng lặng móc túi bỏ ra sáu ngàn. Nói tôi đọc thêm hai bài nữa. Hi hi.
Anh Phùng Quán vào Huế ngày trước ngày sau đã biến quán chị Phước thành “ cơ quan thường trú” của anh. Anh Quán ngồi đâu ở đó có thơ. Anh đọc thơ không tiếc tiền, mỗi bài ba ngàn, anh đọc cả trăm bài trong mấy tháng anh ở lại Huế. Thực ra anh lấy cớ để ủng hộ chị Phước. Anh nói tụi mình uống chịu nhiều rứa, cụt vốn chị Phước, tội nghiệp. Bày ra cái luật nhuận nghe rất chi là hay, tụi mình có rượu uống mà chị Phước không bị cụt vốn. Có hôm xong cuộc uống rượu đọc thơ, cộng lại được 90 ngàn, còn thiếu của chị Phước 6 ngàn, anh Quán xung phong đọc thêm hai bài. Phải cái bài
Trăng hoàng cung
của anh dài quá, mọi người nhao nhao, nói bài ni dài bằng 6 bài. Anh vuốt râu cười kha kha kha, nói sáu bài thì sáu bài, rồi bỏ ra đúng 30 chục ngàn. Lại thừa tiền, lại uống, rất vui.
Chị Phước ít nói đến nỗi ai không quen cứ tưởng chị bị câm. Ai cũng như ai, hễ vào quán chị là mắt chị ánh lên một nụ cười. Chỉ cười vậy thôi chứ chẳng nói gì, cũng không vồn vã chào mời. Khách tự kéo đòn ngồi, gọi rượu gọi nem, chị lẳng lặng đưa. Có lần mình đưa vợ chồng Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ vào quán thấy chị suốt buổi không nói một tiếng nào, gọi gì đưa nấy chứ tuyệt chị không một lần lên tiếng. Hai người ngạc nhiên lắm, kéo tay mình thì thầm, nói bà này câm sao tai thính thế nhỉ? Hi hi. Lúc đầu mình tưởng tụi con nít vô danh như tụi mình chị mới không thèm nói. Chẳng ngờ Trịnh Công Sơn, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Phủ Ngọc Tường vào quán chị cũng thế, Lưu Quang Vũ hồi này khét tiếng ba miền chị cũng thế, chị chỉ có cười bằng mắt. Mãi rồi mới biết chị coi anh em văn nghệ Huế như người nhà, chẳng cần phải chào hỏi xã giao gì, vào quán tự kiếm lấy chỗ ngồi, muốn uống rượu thì tự rót, thế thôi.
Duy nhất có Văn Cao là khác. Thấy Văn Cao chống gậy đi tới, chị hơi sững lại. Hình như chị không ngờ có ngày Văn Cao vào quán chị, thật quá hạnh phúc, mặt chị tái đi. Chị lật đật sang quán xôi hoong cạnh đấy mượn cái ghế nhựa nhỏ, cái mâm gỗ về bày ra, lật đật đỡ tay anh Văn Cao, nói mời chú ngồi đây. Anh Văn Cao nói gì, hỏi gì chị đều dạ rất to. Đôi câu anh nói chị không nghe, chị sợ không dám hỏi lại, đưa mắt cầu cứu mình, nhờ mình nhắc lại. Mình cười chỉ Văn Cao, nói chị biết ông ni là ai, răng sợ rứa. Mắt chị cười tươi, nói thuở nhỏ đến chừ chỉ mơ được gặp Văn Cao, đúng là trời thương, mơ được ước thấy. Đó là câu nói duy nhất mình nghe chị Phước nói trong vòng 6 năm ngày nào cũng ngồi quán chị.
Trước Văn Cao nhiều danh sĩ Nam Bắc cũng đã tới quán chị rồi, Trần Dần, Hữu Loan, Lê Đạt, Hoàng Cầm thì quá quen thuộc quán chị, cứ về Huế là tìm về quán chị, coi đây là một địa chỉ văn hóa của làng văn. Hôm anh Văn Cao vào Huế bị ôm phải đưa viện. Ngày ra viện anh đi một mạch từ viện Trung ướng Huế tới quán rượu chị Phước, chị Băng ( vợ anh) bảo anh đi đâu anh cũng không đi, cứ ngồi vậy cho đến lúc say.
Sau này mỗi lần mình ra Hà Nội gặp Văn Cao, lần nào anh cũng hỏi đúng có hai câu: anh Tường khỏe không và quán chị Phước có còn không? Anh Trịnh Công Sơn cũng vậy, anh rời Huế từ năm 1983, năm lần mình gặp anh ở Sài Gòn thì cả 5 lần anh chỉ hỏi đúng một câu, nói anh em có còn ngồi quán chị Phước không?
Sau chia tỉnh anh em văn nghệ tản mát chín phương trời, quán chị Phước cũng không còn. Hình như vì vậy mà văn nghệ Huế dạo này nhạt hẳn, không còn đằm thắm sôi nổi như xưa nữa.
Mình ngồi tựa gốc cây nhớ những người đã từng say ở đây, mỗi người mỗi nét rất vui. Phùng Quán say thì nhúng râu vào rượu, Trần Dần say thì ngồi thổi chén rượu phù phù như thổi cháo nóng, Mai Văn Hoan say thì khóc, Ngô Minh say thì chạy đi đóng cửa sổ, Nguyễn trọng Tạo say thì đập chén,Trần Vàng Sao say thì hát, Trịnh Công Sơn say thì đọc thơ… trong số đó quá nửa đã về trời, nửa còn lại đã sức tàn lực kiệt, tim đập chân run, hồn xiêu phách lạc…
Tết của người bạn mù
Thằng Tý ở làng Đông với mình. Nó bị mù hai mắt, mù bẩm sinh, mắt nó toàn lòng trắng như hai quả trứng chim cút. Năm 1966 nhà mình từ Ba Đồn sơ tán lên làng Đông thì mẹ nó cũng đem nó về làng. Không rõ mẹ nó ở đâu về, chỉ thấy một mẹ một con, nhà ở ven đường cuối làng, cạnh cây cừa cực to.
Nó suốt ngày ngồi ở gốc cây cừa trước nhà thổi sáo. Thổi rền rĩ bài này sang bài khác, đến khi kiệt sức thì nó ngủ. Nó ngồi tựa gốc cây cừa cứ thế ngủ. Nó ngủ không nhắm mắt, đôi mắt trăng nhỡn của nó mở to trông ra cánh đồng. Tuồng như nó không đi đâu, cứ ngồi thế, ăn ngủ ở đấy luôn, mạ nó van lạy thế nào nó cũng chịu vào nhà, trừ khi mưa gió.
Mình qua lại rất nhiều lần, vẫn biết nó là thằng Tý nhưng chưa khi nào chào nó. Một hôm mình đi qua, thấy nó thổi sáo hay quá bèn đứng lại nghe, chỉ đứng im sau lưng nó, không hề lên tiếng. Nó ngừng thổi, nói Lập à, ngồi xuống đây chơi. Mình quá ngạc nhiên, chẳng những nó biết có người sau lưng, còn biết người đó là ai. Mà mình cũng chỉ mới tới làng chừng một tháng, đã quen biết gì nhau đâu, chả hiểu vì sao nó nhận ra hơi hướng của mình, quá tài. Mình ngồi xuống, nói răng mi biết tau, tài rứa. Nó cười hiền lành, thò trong túi lấy củ khoai bẻ đôi đưa cho mình một nửa, nói ăn đi, ngon lắm.
Từ đó thân nhau, mình chơi đâu cũng đem nó đi theo. Đánh du kích, mình luôn cùng phe với nó, chẳng khi nào thua. Nó biết đứa nào đang núp đâu, làm gì, dù có bí mật đằng giời nó cũng nhận ra, thành thử trăm trận trăm thắng, he he.
Thằng Tý câu cá kì tài, không thấy phao động cựa, chỉ cần “ nghe” cần câu rung là nó biết cá đang cắn câu hay đang rỉa mồi, mỗi lần nó giật cần câu, trăm phát như một đều có cá. Cũng chả cần động tới cá, chỉ cần “ nghe” cần câu rung nặng nhẹ là nó biết cá gì mắc câu. Lâu lâu nó giật một phát, reo to a a a cá rô… a a a cá diếc… a a a cá tràu ( cá lóc). Mình ngồi câu cùng nó cả buổi may lắm chỉ được đôi con, nó thì cá đầy oi ( giỏ đựng cá). Có hôm thấy nó giật được lắm cá mà mình chẳng được con nào, mình ngồi lặng nước mắt giân giấn. Thế mà nó biết mình khóc, liền thả cần câu đi lại ôm lấy mình, nói tau với mi câu chung mà, cá của tau cũng là cá của mi. Mình nói không phải rứa, chỉ tại cá không cắn câu thì buồn thôi. Nó nói buồn chi hè, trời không cho tau mắt thì cho tau cá, rứa thôi.
Nhưng nó buồn nhiều hơn mình. Nhiều khi đang hò hét tưng bừng nó bỗng khựng lại, lặng thinh, hai mắt toàn lòng trắng của nó sũng nước. Một hôm mình với nó đang ngồi câu cá trên bờ mương, một đàn cò trắng mấy trăm con không biết từ đâu sà xuống đậu trắng bờ mương bên kia. Mình reo lên, nói a cò trắng cò trắng. Nó cũng reo lên, nói a cò trắng cò trắng. Rồi nó hỏi cò trắng ra răng. Mình nói cò trắng là cò trắng chơ răng. Nói nói nhưng mà màu trắng ra rằng. Mình nói như cát trắng, như giấy trắng đó mi không biết à. Nó nhăn răng cười, chợt nó im lặng, bật khóc. Mình đứng ngẩn ngơ không biết nói với nó sao. Nó bỗng gạt nước mắt nhảy lên reo hò, chạy đi chạy lại reo hò như người cuồng, nói a tau biết rồi, cò trắng giấy trắng cát trắng… a tau biết rồi, cò trắng giấy trắng cát trắng. Rồi nó rơi sấp xuống bờ mương nằm chết giấc, rất lâu sau nó lật ngửa người lẩm bẩm, nói tau biết trắng là răng rồi, cò trắng cát trắng giấy trắng. Mặt nó đầm đìa nước mắt.
Nhiều hôm máy bay bỏ bom, ai nấy bỏ chạy tan tác, nó mặc kệ, cứ ngồi yên một chỗ. Vừa hết bom mình chui ra khỏi hầm đã nghe tiếng sáo của nó rồi. Một lần vừa dứt bom mình chạy đến chỗ nó, nói mi không vô hầm à. Nó ngồi im, sau nó thở hắt, nói răng bom thả nhiều rứa mà tao không chết hè. Mình trợn mắt lên, nói mi thích chết à, điên à. Nó nhăn răng cười, lặng lẽ cầm tay mình, nói ừ, chết mần chi, tau chết mạ tau buồn lắm.
Nhớ nhất là những ngày tết. Năm nào cũng thế, cứ chiều ba mươi mình cầm tay nó chạy từ đầu làng đến cuối làng. Nhà nào cũng dừng lại trước ngõ thi nhau ngửi ngửi, nói a nhà ni nấu xôi… a nhà ni kho cá… a nhà ni chiên thịt gà. Nhà ông cu Hối chiều ba mươi nào cũng làm thịt chó giải xui. Mùi thịt chó nấu với riềng sả thơm nức, hai đứa thi nhau ngửi, vừa ngửi vừa nuốt nước bọt ừng ực, nói ngon hè ngon hè. Mình nói nhà mi có chi, nó nói có xôi. Mình nói có chi nữa, nó nói có thịt lợn luộc. Mình nói có chi nữa, nó nghĩ mãi không ra, nhăn răng cười, nói rứa thôi. Những khi như thế đôi mắt đầy lòng trắng của nó lại ướt sũng nước.
Ngày mồng một tết là ngày thắng Tý vui nhất. Bà con qua lại ai cũng cho tiền mừng tuổi nó, ít thì năm xu nhiều thì hai hào. Nó ngồi giữa nhà lần từng xu từng hào, mân mê không biết chán, nói năm xu nha… một hào nha… hai hào nha… a sắp được ba đồng rồi. Nó ngửi áo mới, nói áo tao đẹp không. Mình nói đẹp. Nó nói áo mi đẹp không. Mình nói đẹp. Nó nói áo mạ tao đẹp không. Mình nói đẹp. Nó cười hì hì, nói mi nói láo, mạ tao không có áo mới. Mình nói răng mi biết. Nó nói tao biết mùi áo mới. Rồi nó nhăn răng cười, nói nhưng tao nỏ biết đẹp là răng. Cứ mỗi lần nhớ đến câu này của nó là mình ứa nước mắt.
Hơn ba chục năm sau, tết năm ngoái mình lại về làng Đông. Làng xóm bây giờ không còn như xưa nữa, hình như nó teo lại bé tí, trống hoác và xơ xác. Vẫn có nhiều nhà giàu lên, nhà cửa to cao nghễu nghện nhưng vẫn không giấu được vẻ tiều tuỵ của ngôi làng. Cánh đồng trước làng bạc phếch, rừng trâm bầu sau làng biến mất tăm, chỉ còn trơ lại đôi ba gốc cây còi cọc. Đường vào làng không một bóng cây, cây cừa trước nhà thằng Tý ai đã chặt đi mất, cả cái đìa cá nhà nó cũng khô rang, toen hoẻn như hố trâu đằm.
Thằng Tý đã già, người nhỏ quắt lại, tóc bạc trắng để dài xoả kín lưng. Nó vẫn ngồi nơi gốc cây cừa ngày xưa thổi sáo, đôi mắt trắng nhỡn của nó vẫn mở to nhìn ra cánh đồng. Mình rón rén đi đến đứng sau lưng nó. Lúc đầu mải thổi sáo nó không biết, sau, nó đột nhiên dừng lại quờ tay rờ hai chân mình, nói Lập phải không.. Lập phải không… a thằng Lập, cha tổ mi.
Mình ôm lấy nó, nói tau đây, mi răng rồi, tóc bạc trắng cả rồi nì. Nó nhăn răng cười, nói ừ, tau biết rồi, cò trắng giấy trắng cát trắng, giờ thì tóc trắng. Nó nói xong câu đó thì im lặng, đôi mắt đầy lòng trắng của nó ướt sũng nước. Rất lâu sau nó mới cất tiếng, nói tau vẫn chưa chết, mạ tau chết lâu rồi mà tau vẫn chưa chết…
Ác giả ác báo
Thừa nhận hồi trẻ mình được nhiều con gái thích. Tính mình vui vẻ, hay nói cười đùa cợt chọc ghẹo, lại thêm tí tài văn nghệ văn gừng nên được các nàng hay để ý. Thời đó đều đói nghèo như nhau cả, giàu nghèo chỉ phân biệt áo rách hay áo lành, đủ bữa hay đứt bữa vậy thôi. Hơn nữa đang còn con nít cũng ít đứa quan tâm đến chuyện giàu nghèo. Thời phổ thông, hot boy là đẹp trai học giỏi.Lên đến đại học mới bổ sung vào tiêu chuẩn hot boy là đẹp trai học giỏi con nhà giàu. Nói chung chẳng cần nhà giàu, cũng chả cần học giỏi, chỉ cần đẹp trai là thành hot boy.
Một buổi tối hồi học lớp 10, thằng Hiển đạp xe đến tận nhà trọ của mình, mặt mày quan trọng gọi mình ra, nói tao nghe mấy em bình bầu, khối 10 đẹp trai nhất là thằng Ngô Phi Hải, thứ nhì là mày. Mình sướng rêm. Từ bé đến lúc đó chưa bao giờ nghĩ là mình đẹp trai, cũng chưa có ai khen mình đẹp trai. Thấy con gái hay cảm tình thì cũng chỉ nghĩ chắc chúng nó muốn làm thân để hỏi bài, thế thôi. Lần đầu nghe thằng Hiển thông báo mới biết chẳng những mình đẹp trai mà còn đẹp trai thứ nhì, sướng muốn chết, cả đêm lâng lâng lăn qua lăn lại không ngủ được, vừa bảnh mắt đã nhảy ra cái chum nước soi mặt ngay, thấy cái mặt mình sao mà đẹp thế không biết. He he.
Bây giờ mới để ý đến vì sao con gái thích mình. Thời học trò thì chỉ ý đến nhau, thích nhau chứ chả yêu đương gì đâu, thế cũng sướng củ tỉ rồi. Một hôm mình ngồi nói chuyện ăn với bọn con trai, nói mình thích nhất món cơm rượu ( chả biết món này nơi khác gọi là gì, chỉ biết đó là món cơm nguội ủ men rượu, ăn ngòn ngọt cay cay chua chua rất ngon, quê mình gọi là cơm rượu). Sáng sau có ba nàng trong lớp gọi mình ra riêng, nàng nào cũng dúi cho mình một gói cơm rượu. Hôm đó mình được bữa no cơm rượu còn ba nàng thì cãi nhau, vì nàng này thấy nàng kia lén cho mình cơm rượu, các nàng hằm hè nhau suốt học kì, hi hi.
Trường cấp 3 Bắc Quảng Trạch hồi đó khoá nào cũng có nhiều nàng rất xinh, khóa mình có nàng Th. xinh nổi tiếng. Các chú bộ đội hồi đó kháo nhau, nói về Quảng Bình mà không thấy con Th. coi như chưa về Quảng Bình. Nàng Th. học lớp 10 E, mình cũng không để ý lắm, đánh đu với mấy nàng lớp 10B cũng đủ mệt rồi, chả thiết tha gì đến nàng. Hơn nữa thấy nàng nào mới nứt mắt đã phong nhũ phì đồn thì chê là xấu, không thích. Nhưng nàng Th. lại để ý đến mình, chào cờ sáng thứ hai nào hễ tập trung toàn trường là nàng cũng cố tình va vào mình, va xong thì kêu ui, lườm cái cười cái, nói vô duyên chưa tề, rồi ngoảy đít bỏ chạy. Bây giờ nhớ lại mới biết như thế là người ta thích mình nhưng hồi đó chả biết gì, cũng chả quan tâm.
Thằng Hiển khôn sớm, tí tuổi đầu đã biết làm đỏm, thấy con gái đẹp là mê tít, nó rỉ tai mình, nói con Th. nó thích mày đấy. Mình chả tin, té ra thật, nàng tìm đến nhà trọ của mình xin ở trọ, quá ngạc nhiên. Mình ở trọ với thằng Trung, thấy con gái đến ở chung mừng lắm, đỡ phải nấu cơm rửa bát giặt áo quần. Nhưng nàng Th. chỉ rửa bát giặt áo quần cho mình thôi, không bao giờ làm việc đó với thằng Trung. Khi nàng nấu cơm bao giờ cũng gọi thằng Trung sai vặt. Thằng Trung tức điên, nói răng mi không sai thằng Lập, toàn sai tau? Hi hi nó còn rủ thằng Khoa núp chuồng lợn rình xem mình với nàng có làm gì không. Khổ, làm gì, biết gì mà làm, cầm cái tay cũng chẳng dám còn bảo làm gì.
Khổ thân gái đẹp, nàng Th. chẳng học hành gì được, suốt ngày lo trốn bộ đội với các thầy đến cưa cẩm. Mình và thằng Trung thích lắm, vì bao giờ các đồng chí tán gái đến chơi cũng có quà khi thì bánh ngọt khi thì hoa quả. Nàng không bao giờ đụng đến mấy thứ đó, chỉ béo mình với thằng Trung, chỉ cần chờ các đồng chí ra về là hai thằng tranh nhau ăn no. Có hôm đói bụng, hai thằng nằm gác chân lên nhau thở vào thở ra, nói răng bữa ni không có đồng chí mô đến thăm em Th. rứa hè. Nàng Th. nghe thế thì chạy xộc đến mắt trợn tay chỉ, nói này, đừng có điên nha đừng có điên nha. Hai thằng cười, trêu nàng. Điên tiết nàng vác đòn gánh đuổi hai thằng chạy chí chết.
Th. vốn hiền lành nhu mì, chỉ vì người ta đến cưa cẩm đông quá đâm kiêu, coi đàn ông như rác, mấy thầy hay cưa nàng cũng coi như rác.Trong trường có thầy M. dạy toán mới ra trường thích nàng lắm, đến thăm nàng luôn luôn. Cứ khi nào thầy M. đến chơi là nàng trốn. Một hôm nàng quên cái nón ở lớp, thầy M. cầm nón đến nhà, trong nón đầy ổi chín với khế ngọt. Thằng Trung mừng húm lăng xăng chạy ra đỡ lấy nón, thầy không cho, nói chúng mày bảo cái Th. ra lấy nón. Mình chạy vào buồng năn nỉ với nàng, nói mãi rồi nàng cũng ra, nàng vừa đỡ lấy nón, vừa cảm ơn thầy, chợt thấy cái thư thầy lót dưới mấy quả ổi, điên lên nó hắt cả nón ra sân, bỏ chạy. Thầy M. cũng giận bỏ về. Hai thằng thi nhau lúi húi nhặt ổi khế vương vãi, vừa nhặt vừa ăn nhuồm nhoàm, đã đời. Lại còn bóc cái thư ra đọc, ngâm nga như ca cải lương, ôi Th. ơi… thầy thương em nắm nắm… em là tất cả của ơ ơ ơ… thầy… ầy! Nàng Th. lại vác đòn gánh đuổi hai thằng chạy chí chết, hi hi.
Thầy M. vẫn kiên trì tán tỉnh nàng Th. Một hôm thầy nhờ mình đưa cái thư cho nàng. Mình cầm về đưa cho nàng. Nàng giật cái thư ném đi, nhìn mình cái nhìn dỗi hờn, nói ngu lắm. Mình nói răng ngu. Nàng vừa đấm ngực mình vừa nói ngu ngu ngu ngu. Rồi nàng ôm cây cau đứng khóc. Mình chẳng hiểu gì, cứ đứng trương mắt nhìn, hi hi ngu thế không biết, nhiều khi nhớ đến chuyện đó cứ tiếc rẻ mãi.
Vào đến Bách Khoa thì hết ngu, lại được mấy anh Hà Nội bồi dưỡng “ Nâng cao nghiệp vụ tán gái”, mình đánh đu với các em xinh đẹp không biết mệt mỏi. Không biết thời này thế nào chứ thời đó trai Bách Khoa rất được ưa chuộng. Đã trai Bách Khoa lại Khoa vô tuyến điện thì hết chê, càng được ưa chuộng, hầu như đánh đâu thắng đó. Gái Bách Khoa được có một nhúm, ở chưa hết gác 1 nhà B3, “quỉ Bác Khoa ma Tổng Hợp” mình chẳng màng, cứ xông thẳng đến trường Y trường Sư Phạm, hai nơi đó nguồn gái đẹp vô biên. Mình đã có một em dấm sẵn rồi, gọi là nàng Sơn Tây, nàng bán căntin ở trường Sĩ quan phòng không, nhưng hễ thấy gái đẹp là lập tức mắt sáng lên hình viên đạn, kiên quyết tiêu diệt đến cùng, hi hi. Cứ chiều thứ 7 mình nhảy xe ca lên Sơn Tây, cơm no bò cưỡi đến chiều chủ nhật mò về. Mỗi lần ra về nàng Sơn Tây đều gói cho bốn tút thuốc Tam Đảo, về đến Hà Nội là mình bán liền, chấp nhận hút thuốc lá cuộn, dành tiền cho “ công cuộc tán gái đi đến thắng lợi cuối cùng”.
Xe đạp mượn thằng Đông, dép nhựa Tiền Phong mượn anh Thu, thiếu tiền thì nhảy sang khoa Kĩ sư kinh tế mượn thằng Viết. Thằng Viết này hay lắm. Con trai đa phần chỉ ghét con gái hồi cấp 2, sang đến cấp 3 thì mê tít, nó lên tận đại học rồi vẫn còn ghét con gái. Mình đi chơi với thằng Viết, thấy em nào đẹp là mình tay chỉ miệng nói em này ngon cực, em kia ngon cực. Lần nào cũng vậy, mặt nó hất lên, nói vô nghĩa. Đến năm cuối đại học rồi mà gặp gái đẹp mặt nó vẫn hất lên, nói vô nghĩa. Hi hi.
Hồi đó tán gái chỉ một bài, gặp gái đẹp là làm thơ đọc thơ tặng thơ. Phòng nữ sinh viên có đến mười hai cô, mình mặt trơ cứ sà vào chỗ nàng mình ưa đọc thơ liên tù tì hết bài này sang bài khác, mặc kệ các cô khác. Có cô mải học bài, nghe mình đọc thơ khó chịu lắm, mình cũng mặc. Hi hi thế mới gọi là nhất đẹp trai nhì chai mặt. Thỉnh thoảng có bài đăng báo thì làm như vô tình để lộ ra cho nàng biết, nàng tròn xoe mắt nhìn mình, vô cùng ngưỡng mộ, he he. Mấy bài thơ vừa dở vừa sến đó thôi mà thu hoạch cũng kha khá, đi tàu xe hễ ngồi gần gái đẹp là mình đều dở cái bài tán thơ ra, nghĩ lại xấu hổ chết được, sao hồi đó hâm thế không biết.
Cô nàng Sơn Tây của mình bắt được quả tang mình đang ôm gái đẹp mấy lần, lần nào mình cũng năn nỉ nói dối như hát hay, khất khổ mãi rồi cũng qua. Nhưng rồi mưa dầm thấm đất, cuộc tình 6 năm của mình rồi cũng tan. Vào lúc mình ra trường, háo hức chuẩn bị cưới nàng, quyết định cắt hết đuôi hết vệ tinh để làm một “chàng trai chân chính” với nàng thì nàng bỏ mình theo một ông
Phun thuốc sâu
( Phó tiến sĩ) ở Hung về. Nhớ mãi cái đêm mình đứng chờ nàng ở cổng trường đến 11h đêm thì thấy nàng đang ngồi sau xe ông
Phun thuốc sâu
, hai tay nàng ôm chặt eo ông, xong om!
Bạn bè ai biết chuyện cũng tìm đến chia sẻ động viên, chỉ có anh Đạt là không. Anh nhấc điếu cày rít một hơi, ngửa cổ nhả khói, cười khờ khờ khờ, nói đáng kiếp cái thân mày, ác giả ác báo.
Cơm bách khoa
Nghĩ lại ngày xưa đi học đại học sướng hơn bây giờ. Con cái vào được đại học, bố mẹ chỉ lo giấy bút và tiền tiêu vặt thôi, còn lại Nhà nước lo tất. Mấy đứa con em miền Nam tập kết còn được học bổng mỗi tháng 22 đồng, dân Quảng Bình- Vĩnh Linh tụi mình cũng được 4 đồng một tháng. Vì thế mà con nhà nghèo rớt mồng tơi như mình mới được học hành tử tế. Đặt hoàn cảnh của mình rơi vào ngay nay thì tốt nghiệp phổ thông xong là chấm hết, chẳng mơ chi đại học với đại heo, tiền đâu mà đi học?
Tiêu chuẩn sinh viên các trường Đại học đều như nhau nhưng không hiểu vì sao sinh viên Bách Khoa ăn ở vẫn tốt hơn, có lẽ công tác quản lý ở trường này tốt hơn. Sinh viên các trường khác nhìn vào trường Bách Khoa đều lác mắt. Khu giảng đường do Liên Xô xây dựng rất hoành tráng, bốn nhà ăn Bách Khoa thuộc loại sạch đẹp nhất Bộ đại học. Sinh viên Bách Khoa được ăn ngày ba bữa. Buổi sáng được phát một cái bánh mì ngọt, hai bữa trưa chiều chỉ việc xách miệng đi ăn, không phải mang theo bát đũa gì. Đến nhà ăn cứ bốn thằng một mâm, chìa phiếu ra lấy cơm ăn, ăn xong cứ thả mâm bát đấy ra về, mọi việc có nhân viên nhà ăn lo hết. Giống y chang sinh viên Liên Xô hi hi.
Mình đã đi chơi các trường khác rồi, chỉ có trường Kinh Tế là kha khá một chút, còn lại đều rất tệ, tệ nhất là trường Xây Dựng, sinh viên kêu la rầm trời. Trường Sư Phạm khu nội trú còn ở nhà lá, có năm chập điện cháy trụi cả khu nội trú. Trường Tổng Hợp bị nạn thiếu nước trầm trọng, các vòi nước ở các khu nội trú chảy như nước đái thằn lằn, rất khổ. Vì thế nên các anh chị ở các trường khác khi làm tốt nghiệp thường sang cư trú ở Bách Khoa để có chỗ ăn ở tốt hơn, thư viện, phòng thí nghiệm cũng tốt hơn.
Các chị phục vụ nhà ăn Bách Khoa đối đãi với sinh viên rất vui vẻ, thân thiện, ngược hẳn với các đồng chí mậu dịch viên ở các cửa hàng ăn uống Nhà nước. Các đồng chí mậu dịch viên này thì kinh lắm, cứ làm như khách hàng đến ăn không của nhà họ, mặt mày ai nấy như đâm lê, đố thấy có nụ cười trên môi họ. Bảo đảm khi họ mỉm cười với khách hàng thì trời sập cái đoàng ngay tức khắc, thật đấy.
Bất kì khi nào mình đến cửa hàng ăn uống mậu dịch mình cũng gặp một điều khó chịu, chuyện khách hàng cãi nhau với nhân viên xảy ra như cơm bữa, trong khi suốt 5 năm Bách Khoa mình chưa gặp bất kì một điều khó chịu nào, cũng chưa khi nào thấy sinh viên cãi cọ với nhân viên hay nhân viên quát nạt sinh viên. Thực là như vậy. Cũng có thể có mà mình không biết, riêng mình thấy nhân viên nhà ăn Bách Khoa thật tuyệt vời. Rất nhiều lần mình đến nhà ăn muộn, vào lúc nhà ăn đã dọn dẹp chùi rửa, vẫn được ăn uống như thường. Chỉ cần cửa chưa đóng, nếu lọt vào được thế nào cũng được ăn. Lúc đầu các chị nói hết giờ lâu rồi em ơi, nhưng mình vờ nhăn nhó gãi đầu bứt tai nói vì thế này vì thế kia thì rốt cuộc các chị đều cho ăn cả, đôi khi còn được một mình ăn trọn cả mâm bốn người. Mình nhớ một lần mình đi ăn muộn, nhà ăn hết sạch cơm canh, mình ra về thì chị M. cầm cái bánh mì kẹp thịt lật đật chạy đuổi theo dúi vào tay mình, nói thôi ăn tạm, lần sau đừng có đi muộn quá nha em. Thật cảm động, chị có quen biết thân thiết gì mình đâu. Thế mà có thằng còn viết trên bảng tin nhà ăn một dòng to đùng:
Đề nghị đuổi chị M. ra khỏi nhà ăn số 4 vì xấu quá.
Khổ thân, nghe nói chị M. khóc suốt một tuần.
Bữa cơm Bách Khoa hồi đó chẳng có gì, mỗi bữa chỉ được hai bát cơm một nửa cái bánh mì, một hai miếng thịt hoặc đậu phụ và vài ba muỗng canh, thế thôi. Chỉ có điều sạch sẽ và ngon chứ không như các trường khác, cơm khi khê khi cháy, canh khi mặn khi nhạt, dở òm. Cũng lạ cái thời cả nước phải ăn độn sắn ngô khoai bo bo thì sinh viên Bách Khoa vẫn được ăn cơm không độn. Mình không biết có trường nào phải ăn độn không chứ Bách Khoa thì hoàn toàn không. Thời kì đau khổ nhất là người ta thay hai ổ bánh mì nưóng bằng hai nắm bánh mì hấp, chứ không hề độn khoai sắn hay bo bo như dân ăn gạo đong cả nước. Chỉ vậy thôi mà sinh viên Bách Khoa đã kêu ca như cha chết, có đứa còn làm
Văn tế mì ổ
rất vui.:
Nhớ linh xưa… mì ổ nóng dòn, thịt kho đậu phụ, canh cá mè nấu chua ngon thật là ngon
… lâu ngày quá không nhớ nữa.
Mình ở quê quanh năm ăn đói, bữa cơm Bách Khoa đối với mình như thế là no đủ lắm rồi. Nhưng nhiều đứa khoẻ ăn thì đói lắm. Ngồi cùng mâm với mấy thằng khoẻ ăn, ăn tham được coi như một đại hoạ. Thấy nó xới cơm mới kinh, xới lên môi nào là dặt dặt nén nén môi đó, cố ních cho chặt bát cơm, một bát cơm của nó bằng hai bát người khác. Đã thế nó còn ăn nhanh kinh hoàng, mình vừa ăn dăm ba miếng nó đã lùa sạch bát cơm. Lại xới bát khác, lại dặt dặt nén nén… sợ kinh.
Tụi mình gọi mấy đứa ăn khoẻ ăn tham này là bè lũ Đế quốc thực dân, gặp một lần là khiếp đến già, chẳng bao giờ dám ngồi chung mâm với chúng nó. Gặp khi nó gọi góp phiếu ăn chung mâm đều tìm cách chối, nói cậu ăn trước đi, mình còn chờ mấy đứa bạn. Nói rồi lặn mất tăm, không để nó cầm tay kéo vào. Mình đã làm
Hịch chọn bạn cùng mâm
đọc oang oang giữa nhà ăn:
Hỡi đồng bào! Giờ ăn muộn có thể kéo dài năm phút mười phút hoặc lâu hơn nữa. Nhà ăn số 1, nhà ăn số 2 và một số nhà ăn khác có thể bị đóng cửa. Nhưng nhân dân ta quyết không sợ, quyết không chịu làm nô lệ cho bè lũ Đế quốc thực dân
,
dù chết cũng không chung mâm đụng đũa với chúng
. He he.
Nhớ
Cơm Bách Khoa
thì trăm thằng nhớ đến việc sửa phiếu ăn cả trăm, chẳng đứa nào quên, vì tuồng như đứa nào cũng ít nhất một lần làm việc này. Phiếu ăn in ronéo, đóng dấu đỏ, trong đó đề bữa ăn ngày ăn. Sửa chữ khó, dễ lộ, chỉ sửa ngày ăn là dễ nhất. Đứa nào làm mất phiếu ăn hoặc có bạn đến chơi muốn mời nó đi ăn đều phải lấy phiếu cũ hoặc phiếu ăn ngày sau sửa lại cho đúng ngày đó. Chỉ cần lấy lưỡi lam cạo con số đi rồi lấy mực nho hoặc bút chì kĩ thuật viết đè lên thế là xong. Mấy đứa khoa Chế tạo Máy, khoa Đông Lực sửa phiếu ăn kì tài. Chúng nó đa phần khéo tay, lại vẽ kĩ thuật thường xuyên nên làm mấy cái trò này dễ như trở bàn tay. Chẳng những sửa số, chữ nghĩa trên đó nếu cần chúng nó cũng làm bay. Mình vốn tay chân hậu đậu, khi nào cần sửa phiếu ăn đều phải chạy sang nhờ thằng Nghĩa khoa Chế Tạo Máy hay thằng Đức khoa Đông Lực nhờ chúng nó sửa cho.
Có phiếu ăn sửa rồi nhưng phải khéo đưa mới lọt được, vì các chị nhà ăn đã quá quen cái trò tháu cáy này của sinh viên, rất khó lọt qua mắt các chị. Chỉ cần thấm nước vào số ngày, nếu chữ số bị nhoè là biết ngay phiếu dỏm. Thường khi phát hiện ra phiếu dỏm các chị cũng chẳng mắng mỏ gì, chỉ lườm cái rồi trả lại phiếu. Muốn đưa phiếu dỏm trót lọt phải chọn khi đông người, lại đặt cái phiếu dỏm thứ 3 trong bốn phiếu, hoặc đưa một lúc ba bốn mâm ( từ 12- 16 phiếu), các chị lo kiểm số phiếu không để ý. Lại chọn thằng đẹp trai, chưa có “ tiền án tiền sự”, vừa đưa phiếu vừa tán lia xia, nói giời ơi chị mới làm tóc à, xinh thế, trẻ ra bao nhiêu- Chị ơi chị có em gái không cho em ở rể- Bữa nay trông mắt chị long lanh dễ sợ, vừa được yêu phải không…. Đại loại thế, làm cho các chị mất tập trung, hoặc thấy phiếu dỏm cũng lờ đi cho. Trường hợp các chị phát hiện ra phiếu dỏm, dúi phiếu trở lại thì nhăn nhó gãi đầu bứt tai, nói chị ơi thương em đi, bữa nay em có khách, em biết chị thương em mà. Các chị cười cái lườm cái, nói cậu này mồm miệng ghê lắm, chỉ lần này thôi nha. Lập tức cười toe toét, nói ôi cảm ơn chị quá, em yêu chị vô cùng. Hi hi thế là xuôi chèo mát mái.
Cơm Bách Khoa
rất nổi tiếng trong giới sinh viên Hà Nội, bạn bè đến chơi nếu mời đi ăn là chúng nó đi liền. Mình có vài thằng bạn ở các trường khác chiều thứ bảy nào cũng đến “thăm” mình để kiếm bữa cơm Bách Khoa, thành thử thứ bảy nào mình cũng phải lo một vài ba phiếu dỏm. Cho chúng nó ăn uống no nê, chẳng được khen lại còn bị ghen tị, nói è he, tao mà được ăn cơm Bách Khoa thì tao học giỏi bằng mười mày. He he có lý.
Nhá quê ra tỉnh
Hôm qua mình cùng Tâm Chánh đi nhậu ở nhà Võ Đắc Danh. Nhân nói chuyện các nhà văn xưa đa phần đều không có bằng đại học, Tâm Chánh hỏi rất chân thành, nói anh Lập có đi học đại học không. Tự nhiên nhớ cái thời sinh viên, cái thời khốn khó nhưng vui cực. Ngẫm lại chẳng có thời nào vui như thời này.
Mình và thằng Viết ( Nguyễn Xô Viết) có giấy báo trúng tuyển Bách Khoa Hà Nội cùng một ngày. Mình nhớ khi đó mình đang đi nhặt phân bò ngoài đồng, con Vị hàng xóm tất tả chạy ra đồng hai tay vẫy vẫy, nói vơ anh Lập nời, anh trúng Đại học rồi.
Mình vất cả gánh phân bò chạy về nhà. Con Vị chạy theo mình vừa thở vừa hỏi, nói Bách Khoa là răng, là trăm khoa à, anh phải học hết cả trăm khoa à. Mình chẳng biết trả lời sao, nào có biết Bách Khoa là gì, thấy bạn bè tranh nhau thi vào Bách Khoa mình cũng thi, đứa nào cũng đăng kí Khoa vô tuyến điện mình cũng đăng kí, cũng chả biết vô tuyến điện là cái gì.
Chiều đó mạ mình chạy ra chợ mua 2 đồng mực tươi, loại mực cơm nhỏ bằng ngón tay cái. Món này mình rất thích, bây giờ vẫn thích, đây là món duy nhất mình ăn không biết chán. Suốt bữa cơm bà cứ gắp hết con này đến con khác cho mình, nói ăn đi con, ra Hà Nội không có mực tươi mô con. Rồi bà khóc tủi, chắc là bà cảm phận nghèo mà khóc, con cái đỗ vào đại học mà không thể làm mâm cỗ để ăn mừng. Ba mình đi vay hàng xóm được ba chục đồng cho mình, anh chị em bà con kẻ cho ba đồng người cho năm đồng, cộng lại đúng 108 đồng, đó là món tiền duy nhất mình nhận được từ gia đình. Từ đó cho đến khi ra trường mình đều tự kiếm sống lấy, không phải xin gia đình nữa, vì nếu có hỏi xin thì ba mình cũng chỉ có một cách duy nhất là chạy đi vay mượn.
Nhà thằng Viết làm thợ may, khá hơn nhà mình nhiều, nghĩa là không bao giờ bị đứt bữa. Ba mạ nó còn mổ gà làm mâm cỗ ăn mừng, cho nó 200 đồng, bà con tới mừng thêm 100 đồng là 300 đồng. Thấy nó khoe có ba trăm đồng, mình lác mắt. Thằng Viết ra Hà Nội năm đầu chẳng biết tiêu gì còn gửi tiền về cho nhà, có lẽ cả nước chẳng có đứa nào đi học lại gửi tiền về nhà như nó. Đa phần chưa hết tháng đã tiêu sạch bách, viết thư về nhà chữ nghĩa du dương lắm, con thương con nhớ con yêu… Quan trọng nhất vẫn là
tái bút
với
nhân tiện
,
à quên
… là cái đoạn xin tiền, hi hi.
Buồn cười bà con đến thăm chẳng có ai dặn dò phấn đấu, tu dưỡng, học giỏi như thời này, toàn dặn dò đề phòng bị ăn cắp, bị trấn lột. Tâm lý nhà quê cứ ra phố là sợ, nhất là phố Hà Nội lại càng sợ. Chẳng ai ở Hà Nội cả, thậm chí có người chẳng biết Hà Nội ở hướng nào, nhưng kể chuyện trộm cắp ở Hà Nội cứ vanh vách, nói oa chà, Hà Nội trộm cắp như rươi, một mét vuông tám thằng ăn cắp. Ai nấy nghe thế thì hết hồn. Có một nhúm tiền mà mạ mình may cái túi nhỏ phía trong lưng quần, găm ba bốn cái kim băng, dặn đi dặn lại cách thức lấy tiền, giữ tiền cứ y như đang mang theo bảo bối.
Hai thằng đi nhờ xe tải ra Vinh, từ đó nhảy lên tàu chợ ra Hà Nội. Tàu chợ chật như nêm, hôi rình, ghế chẳng có, phải trải nilon giữa sàn tàu mà ngồi, thế mà hai thằng sướng rêm. Suốt đêm hai thằng nằm áp tai xuống sàn tàu nghe tàu chạy say sưa. Thủa bé đến lúc đó có biết tàu hoả là gì đâu, xem phim, mà chỉ phim Liên Xô mới có, thấy nó dài loằng ngoằng lao sầm sập thật đã quá trời, nghĩ bụng tàu bè máy bay chỉ là thứ để ngắm chứ không bao giờ được hưởng, chẳng ngờ có ngày được ngồi tàu, thật sướng củ tỉ. Tiếng xình xịch của tàu nghe cũng đã, tiếng còi tàu thỉnh thoảng hú lên, nghe sao mà sang trọng thế không biết, hi hi.
Ấn tượng đầu tiên bước chân đến Hà Nội là người và xe nườm nượp, đông hơn cả ở quê khi có hội hè. Thằng Viết cứ túm áo mình nhìn ra đường phố ngơ ngơ ngác ngác, nói oa chà họ đi mô rứa hè, họ đi mô rứa hè. Suốt cả ngày hôm đó hai thằng nghĩ mãi không ra người ta ra đường làm gì mà đông đến thế. Đến khi đến trường mới choáng, cả mấy ngàn chiếc xe đạp xếp đầy bãi giữ xe. Ở quê vào phiên chợ, nhiều lắm cũng chỉ có vài chục chiếc, còn ở đây cả mấy ngàn chiếc, lại toàn xe sang, xe Phượng hoàng, xe Favorite, xe Diamond… đủ cả. Hai đứa há hốc mồm trước sự giàu sang của học trò Hà Nội.
Lần đầu tiên biết thế nào là cầu thang, là lan can. Đứng ở tầng 4 nhà C1 nhìn xuống sân trường thấy ngờm ngợp. Không dám tựa lan can, sợ chẳng may lan can gãy một phát ngã lộn cổ xuống đất thì tan xương nát thịt. Vào toilet khu giảng đường mới kinh hoàng, gạch men láng coóng, vòi hoa sen I nôx sáng choang, nhìn cứ ngất ngây. Thằng Viết lần đầu vào toilet đi ngoài, đi xong nó chạy ra mắt trợn mồm há, nói ua chầu chầu lập ơi, hố xí sạch đẹp vô cùng, ngồi ăn cơm trong nớ cũng được. Không bằng mình, toilet ở phòng thí nghiệm có xí bệt không phải xí ngồi, có lẽ thời này chỉ có phòng thí nghiệm mới có xí bệt thôi chứ chẳng nơi nào có. Mình đau bụng nhảy vào, thấy cái xí bệt cứ ngơ ra, không biết đặt hai chân vào đâu, loay hoay mãi không biết làm thế nào trong khi đau bụng quăn quại. Mình chạy ra gọi thằng Lân, nó vào toilet thấy xí bệt thì ôm bụng cười rũ. Mình tức, nói mày chỉ mau lên không tao tương ra cả quần bây giờ. Nó bảo tụt quần ra đặt đít vào, thế thôi, ngu! Bây giờ nhớ lại cứ cười mãi, đúng là ngu thật.
Mình nhớ lần đầu nhập phòng nội trú vừa lúc mất điện, anh Tước bảo với mình, nói Lập Lập, cậu kiểm tra cái cầu chì xem thế nào. Mình cứ đứng trơ ra, đực mặt như ngỗng ỉa. Ở quê có điện đâu mà biết cầu chì, học vật lý điểm 9 điểm 10 đỏ choét, bảo vẽ kí hiệu cầu chì thì nửa giây là xong ngay nhưng cái cầu chì tròn méo thế nào thì chịu. Mang tiếng sinh viên khoa vô tuyến điện mà cái cầu chì lại không biết, đến nhục. Nhục nhất vào văn phòng khoa, có điện thoại mình nhấc lên, bên kia đầu dây nói cho tôi gặp cô Dung, mình dạ rồi đặt ống nghe vào tổ hợp. Cô Dung chạy lại đã thấy điện thoại đặt vào tổ hợp mất rồi. Cô nhìn mình như nhìn người ngoài hành tinh, nói em sinh viên năm mấy rồi mà điện thoại không biết dùng. Xấu hổ chết được.
Đám học trò ở quê ra như mình với thằng Viết ngày mới đến trường đều đứng ngồi khép nép, nhìn đám học trò Hà Nội đi lại ngênh ngang nói cười tự nhiên như chỗ không người thì phục lắm, sợ nữa. Đứa nào mình cũng gọi anh xưng em, không dám ho he gì với chúng nó cả. Nghe chúng nó xổ ra mấy câu tiếng Nga lại càng sợ , lo ngay ngáy không biết mình có học hành theo kịp chúng nó không. Con gái Hà Nội thì mê li, rất ngưỡng mộ. Hầu hết đều biết ăn diện, biết đánh phấn bôi son, các nàng lướt qua khi nào cũng nghe thơm nức. Lại gọi nhau tíu tít, nói ấy ơi, gì ơi, mình ơi… nghe ngọt lịm sườn. Nghe các nàng nói, thấy điệu bộ các nàng, cái cách ăn mặc của các nàng tự nhiên thấy mình quê một cục.
Mình với thằng Viết mới cố tẩy rửa quê mùa đi cho ra vẻ người Hà Nội. Đầu tiên là tập tọng nói giọng Bắc, giọng Bắc chả nói được cứ cố vặn lưỡi ra nói cái giọng Bác ngọng, nói chời ôi, xao thế nhẩy, xung xướng nắm thay… chết cười. Nói thế nào cũng lòi ra cái ông bọ, thấy cái nhà đẹp thì đua nhau nói ôi giời nhà đẹp nhỉ, hè? Đấy kìa, nhà đầu kia, tề! Nhỉ, hè!
Mình với thằng Viết đi qua quán bia hơi, thấy thanh niên ngồi vắt chân chữ ngũ rung đùi bên vại bia, nhấm nháp lạc rang, thỉnh thoảng nhấp ngụm bia rất là tay chơi. Thằng Viết hăng hái sắp hàng mua hai vại bia làm tay chơi. Hai thằng cũng vắt chân chữ ngũ cũng rung đùi ra vẻ đây dân phố. Nhưng khi nhấp vào một ngụm bia, hai thằng lập tức bụm mồm, mặt nhăn như bị, nói đ. Mạ, như nước đái bò. Không dám nhổ toẹt, sợ bị chê là quê, cố nuốt cho trôi. Bỏ hai vại bia không uống thì sợ bị chê là quê, hai thằng bèn mua bánh ngọt nhai đầy mồm rồi rót bia vào mồm, cố nuốt trôi hai vại nước đái bò, hi hi đến khổ.
Thằng Viết bây giờ làm giám đốc sở điện, vừa được điều đi chỉ huy một dự án điện lực Miền Trung rất to, chả biết tiền bạc có kiếm được không nhưng rượu bia thì bảo đảm bét nhè. Không biết nó có nhớ hai vại nước đái bò thủa mới từ nhà quê ra tỉnh nữa không, hi hi.
Chuyện 1 người say
Mình gọi điện hỏi thằng Vinh (Nguyễn Quang Vinh), nói anh cu Cá còn ở Ba Đồn không? Nó nói chết rồi. Trời đất, thế mà định bụng hè này về gặp anh cái.
Anh cu Cá cao tuổi hơn mình nhiều, bình thường phải gọi bằng chú, bác nhưng bà con, chi trên chi dưới chi đó, anh em trong nhà đều gọi anh cu C á cả, mình cũng gọi anh cu Cá. Mình ít khi gặp anh, nếu gặp cũng thấy anh trong tình trạng say, anh nát rượu sớm, 4 chục tuổi đã nát rồi. Những năm gần đây khi nào cũng thấy anh vặt vẹo, đi đứng loạng quạng, run rẩy, cứ được chục bước lại ôm cây đứng thở. Vậy mà vẫn cứ say, say ngả say nghiêng. Lần nào gặp, anh cũng nói mới về hả mi? Mình dạ rồi đi, anh kéo tay lại, nói cho anh năm nghìn. Buổi sáng gặp xong, chiều gặp lại anh lại nói mới về hả mi, cho anh năm nghìn.
Ai biết ngày xưa, thời chiến tranh, dân thị trấn coi anh như anh hùng.
Ngày đầu tiên máy bay Mỹ bắn phá, 5/8/1964, dân thị trấn sợ xanh mặt. Mạ mình với chị Viên ngồi trong hầm tay vái miêng rên lạy trời lạy phật! Có lẽ khi đó cả Thị Trấn chỉ có anh cu Cá là gan nhất. Anh 17, 18 tuổi chi đó, vác khẩu súng trường K44 chạy đuổi theo máy bay vừa bắn vừa chửi. Anh chửi đ. mạ đế quốc Mỹ rồi bắn phát, lại chửi đ, mạ đế quốc Mỹ lại bắn một phát.
Sau thấy đuổi theo máy bay không ăn thua, anh trèo lên nốc nhà cho gần máy bay, cũng vừa bắn vừa chửi. Bắn hết đạn thì tụt quần vỗ háng hét vang lên, nói vơ Đế quốc Mỹ nời…cu tau đây nì ! Mình mới 8 tuổi, chưa thấy sợ, chỉ thích nhào ra khỏi hầm xem máy bay, mạ mình vừa hét vừa đánh cho nát đít. Mình nhìn ra cưả hầm thấy anh cu Cá leo lên chạc ba cây xoan đầu hồi nhà mình bắn máy bay, vừa bắn vừa chửi. Mạ mình kêu to, nói đi chỗ khác chửi em ơi, không đế quốc Mỹ nó tưởng mự chửi nó thì chết thôi.
Sau này mọi ngườì đều hiểu máy bay không phải như ô tô, nó bay cao đến đâu, tốc độ siêu âm là như thế nào, nhưng hồi đầu đúng là ấu trĩ như thế.
Cứ sau một đợt máy bay oanh tạc, thế nào anh cu Cá cũng được Thị đội tuyên dương. Anh cu Cá cho mình một mớ ca- tút để chơi, sướng rêm. Một hôm mình đi học về, chị Nghĩa nói anh cu Cá bắt đựơc phi công, mình vứt xắc chạy đến nhà anh liền. Anh đang ăn khoai, mình hỏi phi công mô rồi, anh nói nộp huyện đội rồi. Mình tiếc ngơ ngẩn, hỏi phi công ra răng, anh nói to cao chơ răng. Mình mếu máo, nói răng anh không giữ lại cho tui coi với. Anh đưa mình củ khoai, nói được rồi lần sau bắt được tau cho coi.
Những chuyện anh đi báo cáo thành tích mình không biết, chỉ nghe kể lại. Người ta viết sẵn cho anh một bản báo cáo dài tám trang, đại khái gia đình chịu nhiều đau khổ, quê hương lầm than, tội ác trời không dung đất không tha, lòng căm thù chất cao, rực lửa căm thù… vân vân. Anh đánh vần mãi chưa được nửa trang, vứt tờ giấy vung tay hô đá đảo Đế quốc Mỹ, rồi nói báo cáo hội nghị cho em nghỉ. Những lần sau hễ thấy ai gọi anh đi báo cáo là anh trốn. Có hôm chạy sang nhà mình, trốn trong hầm. Mạ mình nói thằng ni dại, được thành tích lại không đi báo cáo, anh nói ẻ vô mự, cực lắm.
Hai năm sau có luật ai bắt được phi công Mỹ huyện sẽ thưởng một con bò. Anh chạy lên huỷện đòi thưởng bò, huyện không cho, nói chỉ giải quyết từ nay về sau, trước đó không tính. Anh không thắc mắc gì, nhưng hễ uống rượu say lại chạy lên uỷ ban huyện hét ầm lên: Vơ ủy ban… bò tui mô! Lúc đầu còn hét, sau vừa hét vừa chửi đ. mạ uỷ ban… bò tau mô!
Người ta gọi vào giải thích, hỏi hiểu chưa, anh nói hiểu rồi, hỏi thắc mắc chi không, anh nói không, hỏi đã vui vẻ chưa, anh nói vui vẻ rồi. Nhưng hễ uống rượu say anh lại mò lên uỷ ban hét, nói vơ uỷ ban nời, bò tau mô!
Chiến tranh qua lâu rồi, chẳng ai nhớ đến anh nữa, chừng bốn, năm chục tuổi, anh bắt đầu nát rượu.Anh chẳng làm gì ngoài việc đi liệm xác. Trong vùng, hễ có ai chết là gọi anh cu Cá, chưa khi nào anh từ chối, kể cả lúc nửa đêm, phải đi xa năm mười cây số anh cũng không từ.
Người chết có đủ loại, người khoẻ mạnh, sạch sẽ không nói làm gì; người bẩn thỉu, bệnh tật, lại bệnh truyền nhiễm mà chết thì đến ruột cật cũng chẳng ai dám mó tay vào. Anh Cá ok hết. Anh ngậm rượu phun toẹt cái nói một câu, lại ngậm rượu phun toẹt cái nói một câu. Cứ như anh đang nói với người sống chứ không phải người chết.
Hôm chị Qui mình chết anh cũng tới liệm. Khi đó anh Huy đang làm cầu Thăng Long, không về kịp. Mình con trai ngồi ngoài, không cho vào nhưng nghe anh nói đủ cả. Anh nói con ni mặt đen nhưng người ngợm trắng gớm hè, rồi phun rượu cái toẹt. Anh nói mới 28 tuổi chết tội hè, không biết thằng Huy làm được chi không mà chết tội hè .Mạ mình khóc hét lên mi nói cái chi rứa Cá ơi là Cá. Anh phun rượu cái toẹt nói mự hay, tui nói thiệt đó, mấy con bụ to hay chết non, tội lắm.
Vào lúc tang tóc anh lại nói bậy bạ nhiều ngươì tức lắm, có người còn dọa đánh, nhưng đụng sự không thể không mời anh.Anh làm cẩn thận, sạch sẽ, tiền công chẳng đáng bao nhiêu.Thực ra ngậm rượu phun vậy, đến khi xong việc đã say nhừ, ai nhét vào túi anh bao nhiêu anh cũng chẳng thèm để ý.Anh chân nam đá chân chiêu vừa đi vừa hát, vấp ngã đâu là nằm đó ngủ cho tới sáng, nhiều khi con cái đi tìm toát mồ hôi.
Một điều lạ, khắp thị trấn anh không sợ ai, chỉ sợ con. Vợ anh chết sớm, anh sống với ba cô con gái và thằng Minh, con trai cả. Con gái anh không sợ, anh chỉ sợ mỗi thằng Minh.
Anh đi suốt ngày, chiều tối mới ngật ngưỡng về nhà, lật cái nắp soong cơm lên, nếu không có thằng Minh, bất kể cơm còn ít hay nhiều, anh đều dập mạnh cái nắp, trợn mắt hét đ. mạ, bay để cơm cho bọ bay ri đa! Anh vừa ăn vừa chửi, nói công tao giáo dưỡng sinh thành mà đến đọi cơm tụi bay còn tiếc. Tao chết coi thử tụi bay có bốc cứt mà ăn không. Nhưng khi thằng Minh bước vào, nghiêm giọng hỏi chi rứa bọ, lập tức ông im ngay, cười cái xoẹt nói có chi mô con. Rồi ông ngước mặt nhìn mấy cô con gái ngọt ngào răng tụi bây phần cho bọ nhiều ri, đứa mô ngoan hái cho bọ trái ớt.
Đám tang mẹ Tiểu Hoa, nghệ sĩ kịch đoàn kịch Bình Trị Thiên, ở sát nhà ông. Liệm xong ông còn ở lại, lăng xăng làm cái này làm cái nọ suốt đêm. Tiểu Hoa thì ngồi khóc vùi, chẳng biết ông làm gì, sáng mai chỉ gửi ông tiền công liệm. Ông trợn mắt hỏi mi trả tau từng ni tiền a. Vừa dứt lời thì thằng Minh vào hỏi chi rứa bọ. Ông cười cái xoẹt đưa tiền cho Tiểu Hoa, nói Hoa ơi, dượng nói rứa chớ dượng không lấy mô con. Bất kì ai đụng sự là ông chửi, khoa chân múa tay giống anh hùng hảo hán, nhưng hễ gặp thằng Minh là ông nhũn như con chi chi, khi say mềm y chang thằng con nít ba bốn tuổi.
Ba ngày mở cửa mả chị Qui, mạ mình đưa gói xôi thịt cho mình nói đưa sang cho anh cu Cá. Bà còn dặn thêm nhớ đưa tận tay anh, không anh đến nhà chửi cha mình đó. Mình sang, không có anh, ngồi đợi. Thằng Minh ngồi tiếp mình một lát thì anh về, chân nam đá chân chiêu. Thằng Minh trừng mắt, nói bọ uống mô về say rồi. Ông dựa vách len lén nhìn thằng Minh, len lén đi vào, lập cập nói không không… bọ mới uống có.. hai chén thôi con. Thằng Minh rút cái roi mây chỉ mặt ông, nói vô phản nằm xuống!
Mình ngạc nhiên quá trời.
Anh len lén leo lên phản nằm sấp, cái mông chổng cao, sợ hãi nói bọ mới uống có hai chén thôi con. Thằng Minh quất cái roi cực mạnh xuống phản, nói bọ hứa tui răng. Anh giật mình đánh thót, nói bọ mới uống hai chén thôi mà, tha cho bọ đi con. Thằng Minh dứ dứ cái roi, nói bọ nợ mấy roi rồi. Ông nói 14 roi con, thằng Minh hét răng lại 14, ông lập cập nói ngay 20, 20…, thằng Minh hét tui không đùa với bọ mô nghe. Ông mếu máo nói ba chục roi rồi, nhưng bữa ni cho bọ nợ con ơi. Thằng Minh nói rứa là cả thảy 33 roi nghe chưa. Anh nói ừ, 33 roi…, bọ nhớ rồi con. Thằng Minh quát vô ăn cơm, ông len lén đi vào bếp.
Thằng Minh dắt cái roi lên vách nháy mắt với mình cười, nói doạ cho ông sợ chứ ông hư lắm. Hôm anh Cá tới thăm ba mình ốm, ba mình nói nghe thằng Lập nói mày bị thằng Minh doạ đánh à? Anh nói mô có cậu, tại con dạy nó lâu ngày quên, chừ nó dạy lại cho nhớ thôi, có chi. Chuyện này mình kể cả trăm lần, ai cũng cười nhưng chẳng có ai tin, hi hi
Củ khoai khổng lồ
Mấy hôm nay đi đâu cũng nghe nói chuyện Ngô Bảo Châu, dân tình nô nức bàn tán, không ai không mừng vui. Mừng là đương nhiên, mấy trăm năm mới có một tài năng tóan học được như Ngô Bảo Châu còn mừng hơn bắt được vàng. không mừng mới là chuyện lạ. Lại nghe tin Nhà nước quyết định đầu tư sáu bảy trăm tỉ để nâng cấp ngành toán, đặng đến năm 2020 toán học nước ta xếp thứ 40 thế giới. Tự nhiên nhớ chuyện củ khoai khổng lồ ở quê mình cách đây gần năm chục năm.
Đó là năm 1965- 1966 chi đó, Thị trấn
Ba Đồn quê mình bị bom Mỹ san phẳng, có thể nói là phẳng lì, không có một bức tường nào nhô lên khỏi mặt đất. Mọi người kéo nhau chạy ra bãi cát phía sau Thị trấn trú ngụ ở đó. Nhà mình ở gần nhà ông cu Khoai. Ông tên gì lâu quá rồi không nhớ nữa, chỉ biết con trai ông tên là Khoai nên mọi người gọi ông là ông cu Khoai.
Anh Khoai là con một nhưng nhất quyết xung phong đi bộ đội, viết đơn bằng mực không được đi anh viết đơn bằng máu. Ông cu Khoai sợ lắm, chắp tay lạy anh Khoai, nói con ơi bọ lạy con, khoai không đọ được với súng đạn mô con. Anh Khoai không nghe, vẫn một hai nằng nặc xin đi bộ đội cho bằng được. Hồi đó thanh niên náo nức đi bộ đội lắm. Anh Thắng mình có giấy gọi đi học nước ngoài nhưng anh giấu ba mình, năn nỉ ba mình lên huyện đội xin nhập ngũ. Kể vậy để biết thời chiến người lính là mẫu người hùng, hấp dẫn thanh niên kinh khủng.
Ngày anh Khoai có giấy gọi nhập ngũ, ông cu Khoai mổ con heo ba chục cân mời cả xóm. Bữa đó ông không ăn miếng nào, cứ chạy đi chạy lại hết mời người này sang mời người khác chứ không ăn. Lúc lúc ông chạy ra sau hồi khóc oà một tiếng, nói con ơi, rồi quệt nước mắt lật đật chạy vào nhà chào mời bà con. Hôm tiễn anh Khoai lên đường, ông cu Khoai được mời lên phát biểu, ông nói thưa bà con, thằng Khoai nhà tui lên đường cứu nước, gia đình tui vô cùng vinh dự. Vừa nói đến tiếng vinh ông cu Khoai lăn đùng ra ngất xỉu.
Anh Khoai đi rồi, ông cu Khoai ôm về một ôm dây khoai giống, châm kín cả hai mái hầm trú ẩn. Mọi người vẫn trồng khoai lên hầm vừa để giữ cát vừa để nguỵ trang. Nhưng ông Khoai khác, ông coi khoai là con ông, ông trồng lên để biết số phận của con ông như thế nào. Châm xong ôm dây khoai, ông thắp hương đứng trước hầm vái ba vái, nói xin ông bà phù hộ độ trì cho con tui tai qua nạn khỏi, làm gì trúng nấy, đánh mô thắng đó. Rồi ông hét lên bơ Khoai, chân cứng đá mềm nghe con.
Mình học lớp hai ngày nào cũng sang nhà ông cu Khoai chơi. Ông suốt ngày tha thẩn trên hầm xem xét dây khoai, thấy vài lá vàng ông nói thằng Khoai bị cảm rồi, gặp dây khoai héo ông nói chết cha, thằng con tui sốt rét. Mình đừng nhăn răng cười, nghĩ bụng ông thương con quá hoá cuồng chứ anh Khoai chẳng liên quan gì đến đám dây khoai ông trồng trên hầm cả. Té ra không.
Một hôm mình thấy ông cu Khoai lúi húi trên hầm, vẻ săm soi, mặt mày nghiêm trọng. Mình hỏi chi rứa ông, ông vẫy vẫy tay, nói lên đây lên đây. Mình chạy lên hầm, ông bới cát cho mình xem một củ khoai to bằng nắm đấm. Mình nói rứa là răng ông. Ông cười hỉ hả, nói rứa là anh Khoai mi lên chức rồi, tiểu đội trưởng. Mình há mồm ngạc nhiên, nói rứa a ông. ông nói ừ, bí mật nghe con, tuyệt đối không được nói với ai hết.
Rất lạ cả hầm khoai của ông chỉ độc một củ khoai, nó lớn cực nhanh. Vài tuần sau nó đã to bằng bắp chân, ông cu Khoai rung đùi nói thằng Khoai vượt cấp lên đại đội trưởng rồi. Tháng sau củ khoai to bằng quả dưa hấu, ông cu Khoai rỉ tai mình nói trung đoàn trưởng nghe con. Mình chả tin anh Khoai lên chức lên quyền nhưng quá ngạc nhiên thấy củ khoai lớn như thổi. Chỉ tháng sau nó trồi lên cát, nằm chềnh ềnh to như con lợn con.
Khi đó ai ai cũng biết, đạp nhau đến xem đông nghìn nghịt. ông cu Khoai sợ lắm, không cho ai xem, lấy cây rấp lại, đứng canh như canh báu vật. Ông sợ có kẻ tham ăn cắp củ khoai nhưng chủ yếu ông sợ người ta quở nhiều quá anh Khoai sinh đau ốm. Cho đến một ngày dây khoai đứt, củ Khoai cứ thế lăn từ hầm vào nhà ông. Ông ôm củ Khoai giấu biến, chỉ thỉnh thoảng lôi ra cho mình xem. Ông đo củ khoai, đường kính đầu lớn 37cm, đầu bé 20 cm, dài 46 cm, cân đúng 6 cân. Kinh khủng. Khoai này không hàng đầu cũng hàng 40 thế giới, hi hi.
Đêm đêm ông ôm củ khoai vuốt ve, nói thằng con tui giỏi hè, mới đi bộ đội đã lên sư đoàn trưởng, cả tổng cả huyện không có ai như con mô. Nhất con đó. Cứ tưởng ông cu Khoai nói chơi té ra thật. Năm 1975 một chiếc xe con đỗ xịch trước nhà ông cu Khoai, một anh thiếu tá bước ra, đó là anh Khoai. Khi đó anh mới nhậm chức trung đoàn trưởng, phải bảy năm sau anh mới lên đại tá sư trưởng, nhưng như thế cũng đã kinh lắm rồi. Mình không thể ngờ những lời mộng mị của ông cu Khóai lại đúng đến như vậy.
Anh Khoai cưới chị Cúc đẹp nhất xóm Long Hoà, vợ chồng con cái đề huề, của ăn của để dư dả, ông cu Khoai sướng ngây ngất. Chuyện anh Khoai đến đó là xong. Số phận củ khoai còn vui hơn. Chuyện này mình hồi đó còn nhỏ không biết, chỉ nghe kể lại.
Ông cu Khoai không giấu được củ khoai, một đồn mười, mười đồn trăm, tiếng đồn lan ra khắp huyện. Người ta đồn củ khoai to bằng cái thùng phuy, Liên xô đòi mua cả triệu rúp nhưng ông cu Khoai không bán vì củ khoai là con ông, bán đi hoá ra ông bán con ông à. Kì thực củ khoai đã được đưa lên phòng nông nghiệp huyện nghiên cứu, rồi đi triễn lãm hết cuộc này sang cuộc khác, nghe nói còn đem lên tỉnh lên trung ương triển lãm nữa. Ông cu Khoai được đưa đi báo cáo thành tích, ông chẳng biết báo cáo gì thì đã có người viết sẵn cho ông, cứ thế mà đọc. Thời này báo cáo chỉ toàn sáo ngữ, dưới sự chỉ đạo, trong không khí thi đua, phấn khởi tự hào… Nói đi nói lại mỏi mồm, ông cu Khoai chán quá ôm củ Khoai đòi về. Người ta cho ông về nhưng củ khoai thì bị giữ lại.
Phong trào trồng khoai khổng lồ đựơc phát động, nhân giống từ củ khoai của ông cu Khoai. Người ta nói ông cu Khoai kỹ thuật còn non, nếu biết trồng cho có khoa học thì nhất định củ khoai sẽ to bằng cái bồ, chí ít cũng bằng thùng đựng nước. Dự án trồng khoai không lồ được duyệt, kinh phí không biết bao nhiêu chỉ nghe nói nhiều lắm. Rồi thì tìm đất nhân giống, rồi thì tập huấn kĩ thuật trồng khoai, rồi thì phát động thi đua ầm ầm ào ào, vui hơn tết.
Chỉ riêng phân chuồng để trồng khoai khổng lồ cũng phải chuẩn bị rất chu đáo. Người ta huy động hơn một trăm trâu bò khoẻ mạnh nhằm lấy phân tốt, lập thành một trại gọi là trại phân chuồng chất lượng cao. Bao nhiêu bác sĩ thú y về ăn nằm tại chỗ chăm sóc cái trại này. Phân của đám trâu bò cũng được nghiên cứu kĩ lưỡng, phân nhão bị loại ngay lập tức. Con trâu bò nào vừa cho ra phân nhão liền được cho ra ở riêng, điều trị kịp thời.
Hơn trăm kĩ sư, trung cấp, sơ cấp kỹ thuật canh nông được điều về để trồng trọt, chăm sóc hơn một mẫu đất trồng khoai khổng lồ. Báo cáo hàng ngày hàng tuần hàng tháng được gửi lên huyện nghiêm ngắn vô cùng. Tất nhiên là báo cáo bịa, cái thời nó thế, cứ báo cáo thật thì chẳng ai tin. Thỉnh thoảng có những đoàn xe con từ trên về, mấy ông to chắp tay sau đít đi đi lại lại, ngắm ngắm nghía nghía, gật gật gù gù… ra chiều đắc ý lắm.
Đến ngày thu hoạch người ta chuẩn bị băng rôn khẩu hiệu cờ quạt, làm cả sân khấu to đùng sát vườn khoai. Dân chúng náo nức lắm, đoàn đoàn lũ lũ đến xem. Đến nơi thấy vắng hoe, cờ quạt cũng đã thu gom đâu cả, sân khấu chỏng chơ mấy cái cột gỗ. Có người nói hoãn mét tinh chào mừng khoai khổng lồ rồi. Hỏi sao thì người ta bảo đêm trước có người ra bới thử, toàn khoai đụt, chán, người ta bỏ về hết cả. Mọi người tranh nhau ra bới, đúng là toàn khoai đụt.
Hi hi chẳng biết chuyện này hư thực đến đâu, chỉ thấy buồn cười.
Đêm giao thừa nhớ mẹ
Thật hạnh phúc cho những ai ngoài tuổi tri thiên mệnh vẫn còn có mẹ, để ngày tết còn niềm nương tựa và an ủi lớn nhất trong đời. Mẹ ngồi đó, tóc bạc như hoa mơ hoa mận, bên nồi bánh chưng quây quần con cháu. Trong mắt mẹ, tôi dù bao nhiêu tuổi vẫn cứ là trẻ thơ, vẫn còn nằm trong tã lót của tình mẹ thuở lọt lòng. Và đêm giao thừa, trước ngọn lửa, mẹ đồng nghĩa với tuổi thơ tôi. Ôi những ngày thơ bé, những tết nghèo thơm nức ổ rơm, chiều ba mươi tết tôi như con chó con ngồi bên mẹ, cùng mấy đứa em xem mẹ làm bếp, ngồi chờ ăn tóp mỡ. Ngoài trời, mưa bụi bay như sương, thi thoảng gió xuân mang hơi lạnh mùa đông còn sót lại sột soạt ngoài đầu hè, tiếng lá chuối khô cọ vào nhau nghe như tiếng đồng tiếng sắt. Tôi mê những ngày tết có rét, có mưa bụi bay, có hoa cải vàng ngoài vườn và bướm trắng dẫn đường con trẻ chạy.
Có khi sáng ba mươi tết mẹ còn ra đồng cấy nốt đám ruộng xa để cho cây lúa cũng được ăn tết như người. Tôi dẫn ba đứa em, cuốn áo bông vào rụt rịt như những khúc giò vừa bó, thập thò như cua cáy ngoài ngõ chờ mẹ về chuẩn bị tết nhất. Tôi chạy ra sông, sông trốn vào sương mà lưng lửng nước. Tôi chạy ra đồng, gió bấc tưởng tôi là lá khô, cứ thổi như thằng bé chín tuổi không còn trọng lượng. Tôi sợ, chạy về nhà, úp mặt vào ổ rơm mà gọi mẹ. Tiếng lợn bị chọc tiết hú như còi đâu đó trong làng làm mấy anh em càng sốt ruột. Mẹ vẫn còn khuất sau màn mưa phùn gió rét ngoài đồng, cấy vội đám lúa kịp mùa xuân. Thế rồi trưa ba mươi tết mẹ từ ngoài đồng về, vừa đi vừa chạy như gió bấc, môi tím ngắt, rét run cầm cập, chưa kịp rửa đôi chân lấm bùn đã chạy vội sang hàng xóm chia phần thịt lợn. Tôi chạy ra vườn lôi thanh củi ướt vào cho mẹ nhóm bếp. Bếp lửa là tâm điểm của ngày tết. Khói cuốn lấy mấy mẹ con như dây buộc. Lửa ấm làm mặt mẹ hồng hào rạng rỡ. Bếp lửa và niềm vui con cái trả lại tuổi trẻ cho mẹ.
Ngoài vườn, trước bờ ao, hoa đào đang tự sưởi ấm mình bằng những chấm hoa vừa hé đỏ như than hồng. Bướm ong rét quá tìm đến đốm lửa hoa mà sưởi. Tôi ngồi bên mẹ canh nồi bánh chưng mà vơ vẩn thương gió bấc không có mẹ nên phải tha phương cầu thực đầu đường xó chợ. Tự nhiên ngủ gật, tôi mơ thấy mẹ bị gió bấc cuốn mất, hoảng hốt tỉnh dậy, dùng hai tay trẻ con ôm chặt lấy mẹ như hai sợi lạt buộc ghì bó lúa. Mẹ vẫn ngồi đó, lửa ấm làm má người đỏ hồng thì con gái, tóc buông phủ bờ vai như một miếng bóng đêm vừa đặc lại đen nhánh. Tôi rúc đầu vào nách mẹ như chú gà con, làm mẹ bị nhột bật cười. Các em tôi lăn ra ổ rơm bên cạnh ngủ như lợn con. Thỉnh thoảng, gió rét đập cửa như có ý xin vào sưởi ấm.
Mẹ tôi mười bảy tuổi đã phải về làm dâu với muôn vàn cơ cực. Mẹ bị bà nội bắt nạt, sai khiến còn hơn con ở. Mỗi lần cực quá, mẹ chạy ra vườn, núp vào khóm chuối khóc thút thít, tự lấy nước mắt mình an ủi mình. Mẹ bảo vì khi có mang tôi, mẹ hay khóc, sợ con sau buồn nên lúc tủi thân, lúc đau khổ cứ phải tự mình đóng kịch, đóng vai người suốt ngày chỉ biết tươi như hoa, giả lả cười, giả lả nói, giả lả vui. Riết rồi lộng giả thành chân, mẹ cứ tưởng đời mình chưa hề buồn khổ, chưa hề bị hành hạ. Đến nỗi khi bụng mẹ chửa kềnh càng, còn bị mẹ chồng nọc ra sân dùng roi đánh, đau quắn mông nhưng vẫn phải lễ phép xin lỗi và cám ơn mẹ chồng vì mình được ăn roi. Rằng con xin ăn thêm năm đến mười roi nữa mới xứng tội ạ…Đời con gái mẹ qua đi với những trận đòn, với những lần chửa đẻ chẳng hề biết thế nào là hạnh phúc. May mà có đám cào cào châu chấu là chúng mày an ủi mẹ, thương mẹ.
Có những khuya cả nhà ngủ cả, mẹ bảo nhỏ vào tai tôi như thế. Có lúc, mẹ tủi thân, lặng đi, đoạn ôm lấy bốn đứa con còn bé dại hỏi : chúng mày có thương mẹ không ? Lũ lợn con chúng tôi cùng hét to : thương ! Mẹ sung sướng hôn chúng tôi rồi cười ứa nước mắt. Cả lũ tí teo thấy mẹ khóc, sợ quá cùng khóc theo.
Tôi thấy mẹ khác nào mưa gió, suốt ngày cong như con tôm trên đồng cầy cấy, mò cá, vạt tép, bắt cua, mót lúa…Tối về lại xay thóc, giã gạo, có khi không dầu đèn, mẹ vừa đốt thanh củi nhặt thóc trong rá gạo vừa ru đứa em năm tháng tuổi ngủ. Tiếng mẹ ru buồn cả đêm mưa, buồn lây cả tiếng tàu chuối khuya ngoài vườn. Những đêm quê hương xưa nỗi buồn không ngủ. Nỗi buồn đi ngoài đường như ma. Nỗi buồn len lén như sương ngoài ngõ. Nỗi buồn trong trời đất sâu xa như lặn vào hết tâm hồn tôi qua lời ru của mẹ, qua tiếng thở dài của đêm tối ngoài vườn chuối mẹ thường ra núp thở than.
Tôi lớn lên, đi học. Một gánh mồng tơi bầm tím vai mẹ ra chợ chưa đổi được thếp giấy. Tôi đòi cây bút máy. Mẹ phải đi mò cá hàng chục đêm tôi mới có cây bút máy Hồng Hà. Rồi tôi đi lính. Nửa đêm về sáng tiễn tôi ra bến xe lên đường đi vào cõi…tử, mẹ cố không khóc. Nhưng ra đầu ngõ, mẹ không bước được nữa. Mẹ ngã gục vào gốc cây bàng. Tôi ngoái nhìn thấy mẹ ôm chặt gốc bàng như thể muốn tôi thành một gốc cây đầu ngõ vậy. Tôi ù té chạy, sợ quay lại sẽ không thể đi khỏi cái xã quê hương mình, nơi cán bộ xã đầy đọa tôi vì lý lịch, không cho đi đại học, bắt ở nhà làm tổ trưởng gánh phân bắc ( phân người), phải đút lót mười con gà mới được gọi nhập ngũ… Tôi đi mà lòng luôn ở bên Mẹ. Tôi không dám đôn mẹ mình lên thành quê hương, thành đất nước. Mẹ chỉ là mẹ tôi thôi, như khoai lúa người cho tôi ăn, như nguồn sữa vật chất và tinh thần người nuôi tôi mãi mãi…
Đấy là chuyện của mấy mươi mươi năm xưa. Giờ đây, tôi ngồi thắp nén hương trước ảnh mẹ. Khói nhang như tóc mẹ từ thế giới hư vô còn rụng về đôi ba sợi cho tôi tưởng vọng. Mẹ trên tấm ảnh chừng vẫn rét, vẫn cứ đội khăn len và mặc áo len. Trong Sài Gòn này tết đổ mồ hôi. Mẹ ngồi trên bàn thờ vẫn rét, vẫn cứ là không gian của bờ bãi sông Hồng ngày tết. Con đâu kiếm được mưa phùn quấn quít, bọc lấy ngọn gió xuân như quê ta mà dâng mẹ lúc này. Mẹ tuy già nhưng tươi tắn nhìn tôi như sắp mỉm cười, như muốn nói với tôi rằng mẹ vẫn hiện hữu trên đời bằng chính thân xác và tâm hồn tôi, vẫn sống trong hoài niệm, trong ký ức con cái, xóm giềng.
Rằng mấy đứa con chính là di tượng của mẹ còn sống động, còn bay nhảy trên mặt đất. Tôi không hề ngủ gật và nằm mơ như thuở xưa. Nhưng gió bấc đã đến và thổi bay mẹ tôi đi về cõi khác mất rồi. Người Việt mình có câu :” Sinh dữ, tử lành”. Ngày tết, trước giao thừa, là dịp chúng ta tưởng nhớ đến cha mẹ, ông bà đã khuất. Mẹ đã hóa thành nấm cỏ xanh ngoài đồng vắng sau làng. Cỏ ấy ngày xưa mẹ từng dạy tôi cầm liềm cắt về nuôi trâu ăn lấy sức kéo cày. Nay mẹ lại biến thành nấm đất nuôi cỏ xanh. Chỉ có đội kèn dế là ở mãi bên mẹ để cử hết bản nhạc này đến bản nhạc khác, những bài ca Requiem, kinh cầu hồn của tạo vật.
Bây giờ mẹ thở bằng nhịp triều lên xuống của con sông chảy qua làng, toả kênh mương mà nối với nơi mẹ nằm. Cua cáy lại đến nhờ nấm đất mẹ mà trú ngụ. Ngày xưa còn trẻ, suốt ngày mẹ ở ngoài đồng, ngoài bãi, ngoài sông tìm cái sống dưới bùn đất nuôi chúng tôi. Giờ nằm xuống, mẹ lại ở ngoài đồng cả đêm ngày, ở mãi mãi, chung nhà với cua cáy, cá tôm. Tôi từng làm đóm mạ chạy ra đồng, xách giỏ cua đỡ mẹ. Con cua cắp để lại càng trên tay, lên bờ, lặng người, rứt càng cua ra khỏi tay rồi mẹ mới ngồi đau. Đôi bàn tay búp măng của mẹ lúc nào cũng đầy vết cua cắp, vết ngạnh cá trê đâm, vết gai từ các chà cá cào xước. Những móng tay, móng chân mẹ nào có được sơn son đỏ như phụ nữ đô thị bây giờ. Tôi thương nhớ màu phù sa quánh phèn sơn trên móng chân, móng tay mẹ từ thuở còn thiếu nữ cho đến lúc về với đất. Mẹ tôi đã hóa phù sa, hóa mưa phùn, hóa bếp lửa, hóa ngồng cải vàng hoa lấm tấm bướm, hóa gió xuân ưng ửng cành đào, hóa thăm thẳm mù tăm…
Dù tôi có đưa tay ra ngoài nghìn dặm cũng không với tới mẹ nữa. Tóc bạc rồi tôi vẫn là đứa trẻ mồ côi. Mồ côi cả gió bấc, mưa phùn, cả nén hương trên bàn thờ viếng mẹ dù xúm xít đứng chung cả cụm vẫn cứ mồ côi. Và tôi lại trở thành con trẻ, đang đi một mình giữa làng, chợt thình lình gọi mẹ. Và tôi, lại trở thành anh lính trẻ xa nhà lần đầu, mười tám tuổi rồi mà nửa đêm còn nhớ mẹ ứa nước mắt. Và tôi, lại trở về nằm trên võng dưới hầm mùa mưa Bà Rá đêm tránh bom B.52, sốt rét ác tính quật tưởng chết, vừa thở hắt ra vừa gọi mẹ để giã từ…Và tôi, sẽ mãi là cậu bé con lấm lem đất cát ngồi đầu ngõ đợi mẹ đi chợ về để được chia quà. Mẹ đi chuyến chợ vô biên này, tôi ngồi chờ hết năm này qua năm khác, mà mẹ ơi sao mẹ chẳng về ăn tết ?
Giao thừa đến rồi đó mẹ. Ở phía bên kia của cuộc sống, mẹ không cần ai mừng tuổi đâu. Mẹ từng bảo chúng con rằng, trước khi các con chào đời, các con ở đâu vậy, chả đứa nào có tuổi, chả đứa nào biết mình sẽ là thằng Hảo, con Hinh…Vâng, sau này, chắc chắn tôi lại về nơi ấy, nơi trước khi sinh ra, tôi đã chết hàng tỉ tỉ năm rồi vậy. Mẹ đã đưa tôi từ cái chấm mờ trong hỗn độn sự chết mà xuất hiện thành hình hài của nỗi sống. Giờ mẹ lại về nơi từng vớt tôi lên từ bể hư vô. Nơi con người bước vào cuộc đời, vất vả cực nhọc kiếm sống, hạnh phúc, khổ đau rồi lại trở về, như những đứa con về với mẹ vĩnh hằng.
Cõi ấy không có nồi bánh chưng chụm bằng gộc tre già đượm lửa. Cõi ấy không có những đứa trẻ xúng xính trong bộ quần áo mới, bám vạt áo mẹ đi chúc tết bà con hòng kiếm tiền mừng tuổi. Sợ cõi ấy chỉ có Niết Bàn, chỉ có Thiên Đường vui hơn tết, không kiếm đâu cho mẹ một chút khổ đau, một chút buồn tủi mà nhớ đến chúng con, nhớ đến kiếp người, nhớ đến thời con gái mẹ phải ngậm bồ hòn làm ngọt, ăn toàn nỗi đau mà sinh nở hạnh phúc cho kẻ khác.
Thằng mô
Hắn say thật rồi! Nốc như thế gì mà không say! Hết bia lại rượu Tây, hết rượu Tây lại rượu đế. Mắt hắn lờ đờ, giọng thì lè nhè, tay khờ khọang, chân đi không vững. Cái cravat hắn đã kéo rộng ra để dễ thở và giúp cho rượu trôi xuống dạ dày nhanh hơn. Hắn nhìn chằm chằm vào ly rượu, làm cho cái mặt hơi chúi xuống một tý. Mắt nhìn về phía trước, lòng đen của con ngươi bị mi mắt trên che hết một phần, phần còn lại nằm trong cái lòng trắng vằn lên mấy tia máu đo đỏ. Trông hắn dữ hơn mọi ngày. Giọng nói méo mó cất lên, ngắt quãng:
-“Bạn hiền” đâu… đâu… hết rồi? Sao còn ít… ít thế này?
Thế là hắn điểm danh:
-Thằng Ba củ kiệu đâu?
-Dạ! Có em.
-Thằng Hùng cóc?
-Có đệ tử!
-Còn thằng Long?
-Thưa thủ trưởng. Em đây!
Hắn điểm danh từng người một. Hắn muốn cho mọi người biết hắn có tình nghĩa với anh em, hắn không bỏ ai thì đừng ai bỏ hắn. Bạn của hắn có mười người, đếm chỉ được chín, còn thiếu một. Bỗng hắn chửi: “Đ.má! Còn thằng nữa trốn đâu rồi?”
Mọi người cười ầm lên, có tiếng nói xen vào: “Còn một người nữa là sư huynh đấy!”. Hắn nghĩ ra, hắn cười lại thấy hiền. Vì được bạn bè tôn trọng mình qua cách xưng hô, hắn tỏ vẻ hài lòng. Hắn đứng lên, đến vỗ vào vai tôi:
-Giới thiệu với anh em. Đây là anh Tư, người cùng làng, anh làm vệ sỹ cho Mô từ ngày còn ngồi trên ghế nhà trường. Cũng nhờ anh Tư, Mô đã được đề bạt làm phó giám đốc, anh đang bảo vệ cho công ty và làm vệ sỹ cho Mô nữa.
Hắn lại nhìn tôi, với một giọng trịch thượng: “Em giao nhiệm vụ cho anh, thằng nào bỏ về, anh cứ bắn bỏ”.
Nói xong, hắn nhếch một bên mép lên một tý như cười. Ý Mô muốn nói với mọi người là hắn rất tình cảm, gắn bó với anh em, đừng ai về sớm, phải chơi tới cùng.
Hắn cầm ly rượu giơ lên, đưa đi đưa lại hai, ba vòng:
-Em với anh có duyên đấy. Đây là ly rượu tình, rượu nghĩa, mời anh 50%.
Quả thật, khi nghe giọng nói bất nhã, tôi đã định đứng lên cho hắn quả đấm vào mồm, để chừa cái thói láo toét. Nhưng lại nghĩ: “Giờ nó là lãnh đạo một công ty, đang giữ túi cơm, manh áo và cuộc sống của gia đình mình. Thôi! Nhịn cho xong. Vả lại, giờ nó đang xỉn, không chấp nữa!
Hắn cầm chai rượu, rót đầy ly mang đến mời từng đứa bạn của hắn, hắn nói về những kỷ niệm, mà hắn cho là đáng ghi nhớ, nghe rất tình nghĩa, thuỷ chung, họ đều là những người bạn tri kỷ. Mặc cho hắn nói, họ có mất gì đâu, những bữa xả láng như thế này, là do hắn bao. Hắn lại khề khà:
-Thưa chiến hữu! Nay là ngày sinh thứ ba mươi của Mô, anh em hãy vui hết mình! Xong tăng này, mình sẽ đi tăng hai, tăng ba. Nếu anh em muốn! Còn bây giờ, xin mời! Không say, không về!
Mọi người reo hò tán thưởng.
Rồi hắn vừa hát, vừa bắt nhịp bài: “Em ơi! Chiều nay, một trăm phần trăm. Em ơi! Chiều nay, một trăm phần trăm…”
Thấy vậy, người lấy đũa, người thì lấy thìa, chén bát làm nhạc cụ đệm. Bỗng thấy hắn ho, hình như hắn muốn ói, bụng hắn như cuộn lên. Những thứ mà hắn đã nuốt vào bao tử như đang trào ra miệng, làm hắn phải phồng má giữ lại không cho nó phụt ra mâm. Hắn phải lấy tay bịt mồm, rồi hắn cũng kịp nuốt nó vào. Tôi thấy nước mắt hắn chảy ra. Không phải hắn cảm động vì “bạn hiền” hưởng ứng, tung hô. Mà do cơ má, cơ mồm đã ép vào tuyến nước mắt, làm cho nước chảy ra vài giọt.
Thấy mọi người đã say, tôi đứng lên nói:
-Xin mạn phép Mô và các bạn. Cuộc vui nào cũng có lúc tàn, anh em đều mệt, ta có thể dừng tiệc rượu tại đây, hẹn dịp khác gặp lại. Xin ý kiến mọi người!
Mô ngước mắt lên nhìn tôi, tỏ vẻ không hài lòng:
-Không được! Bữa nay, tôi chủ xị. Tôi chưa cho phép ai về. Thằng nào về thì hãy bước qua xác Mô!
Hắn nói mạnh, dứt khoát và cương quyết. Hắn với lấy chai rượu rót đầy vào cái cốc to, rồi giơ lên:
-Thưa “bạn hiền!” Mình vui, sướng có nhau, cốc rượu này mình sẽ chia đều cho cả bàn, mỗi người một miếng. Anh Tư uống trước, vì anh còn phải lái xe nên nhấm môi cũng được. Chúng ta phải chia đều ly rượu này!
Thế là cốc rượu được chuyển đi theo vòng tròn, ai uống ít thì phải uống thêm cho công bằng.
Bỗng thấy tiếng chuông điện thoại reo. Hắn có vẻ khó chịu. Ai lại cắt ngang cuộc vui của hắn? Hắn bấm máy, nói giọng hách dịch:
-Ai đấy! Gọi gì?
Hắn nghe chăm chú. Thấy cái mặt ngây ra, dại đi. Rồi hắn nói, giọng chùng xuống: “Rồi!... Rồi! Rồi…”.
Nghe xong, hắn nhìn mọi người, miệng hơi nhách ra một chút, cười gượng:
-“Sư tử Hà Đông” gọi về… hừ, hừ…, nó nói gì nhỉ? À! Nó bảo có việc của công ty.
Như vậy, hắn cũng biết sợ. Hắn đứng dậy, hai bàn tay nắm lại với nhau rồi giơ lên giống như võ sinh chào sư phụ trong phim kiếm hiệp:
-Xin cáo lỗi anh em, Mô có việc khẩn phải về. Tiệc rượu dừng lại đây, xin hẹn lần sau. Thôi! Chào.
Hai bàn tay hắn lại xoè ra, lòng bàn tay hướng về mọi người như muốn nhắc: “Hãy trật tự”. Rồi hắn đọc hai câu thơ:
Chén vui nhớ bữa hôm nay
Chén mừng xin đợi ngày này sang năm.
Mọi người vỗ tay tán thưởng. Họ lố nhố đứng lên như chào hắn. Có người nói như nịnh: “Thơ hay, hay quá. Thủ trưởng lại biết làm thơ nữa. Vận dụng đúng vào hoàn cảnh hôm nay! Chúng em tạm biệt thủ trưởng.
Tôi dìu hắn ra xe. Xe nổ máy đi được một quãng, hình như hơi xăng, làm cho Mô khó chịu. Nó ậc ậc lên mấy tiếng, chẳng kịp mở kiếng xe, thế là hắn nôn thốc nôn tháo đầy ra ghế và sàn xe. Rượu lẫn trong thức ăn, lại từ bao tử tuôn ra. Cái mùi nồng nặc, chua chua… thật khó chịu. Nhưng xe đang chạy, không dừng lại được. Hắn lại oẹ, hắn ộc ra mấy lần nữa, rồi hắn khạc, hắn nhổ. Kệ hắn, cứ để cho hắn ói ra xe nhà hắn. Hắn từ từ đưa tay lên vuốt rớt rãi chùi xuống nệm xe, rồi nằm ngả lưng xuống ghế, hắn ngủ.
Lúc này tôi mới có dịp nghĩ về cuộc đời hắn.
Mô với tôi cùng làng, hắn học sau tôi hai lớp. Hắn rất hiền, phải nói là quá hiền, hay bị bạn bè bắt nạt. Cả cái thằng ít hơn hai, ba tuổi nó chọc ghẹo mà Mô cũng không có phản ứng gì. Một hôm, tôi sang nhà Mô chơi, mẹ Mô mừng lắm, bà vào nhà, lấy khoai cho tôi ăn, tôi vừa cắn miếng khoai, chưa kịp nuốt thì đã nghe bà nói như năn nỉ:
-Thằng Mô nhà cô còn khờ dại, cô nhờ cháu rủ nó đi học, lúc về hãy cho nó đi cùng để bọn trẻ không đánh em, có quà cô sẽ cho cháu…
Vì tôi đang ăn, nên chỉ gật đầu đồng ý. Tôi cũng hiểu rằng, nếu tôi bảo vệ được Mô, tôi sẽ được ăn khoai, được bà cho quả chuối, có thể được nắm xôi khi bà đi đám giỗ về.
Tôi lên cấp ba, không đi học cùng Mô nữa. Thế là hắn nghỉ học.
Học hết phổ thông, tôi vào bộ đội. Xong nghĩa vụ, tôi được xuất ngũ, đi học lớp vệ sỹ rồi về làm ở một công ty.
Còn Mô, nay đã là một chàng trai khôi ngô tuấn tú, to cao lực lưỡng, trắng trẻo, đẹp trai, mái tóc rẽ ngôi bổ đôi, trông rất đĩnh đạc.
Mô nhìn tôi mặc quần áo vệ sỹ thấy oai, nên bảo mẹ sang nhờ tôi xin cho đi làm ở công ty. Mẹ Mô nói với tôi như phân trần: “Nó lớn xác nhưng không có khôn. Ngu ngu ngơ ngơ, lại muốn đi làm chỗ cháu, nhờ cháu chỉ bảo, xem nó có khôn ra được tý nào không? Cháu hãy giúp nó nhé!”
Mô làm xong hồ sơ, tôi đưa nó đến công ty, khi về nhà, nó khoe với mẹ: “Chỗ anh Tư có rất nhiều tivi, mỗi người một cái, đánh được cả chữ vào trong ấy!”
Sau đó tôi giới thiệu Mô đi học lớp vệ sỹ, ra trường hắn về làm cùng công ty với tôi.
Một hôm, gặp được bà chủ tịch hội đồng quản trị, tôi giới thiệu với bà về Mô, bà có vẻ thích hắn, bà đưa về làm bảo vệ văn phòng.
Mấy tháng sau, Mô nói chuyện với tôi:
-Bà chủ rất tốt, thỉnh thoảng bà sai em về nhà lấy mấy thứ cho bà, nhà bà giàu, có lần chỉ mình em coi nhà, thấy một xấp tiền rơi ở gầm ghế, lần khác lại thấy chiếc nhẫn vàng rơi ở giường, em nhặt được đều trả lại. Bà có cô con gái, đang học đại học năm thứ hai, nhưng nay bỏ học rồi, nó hay rủ em vào phòng riêng chơi, nước hoa thơm phức, phòng nó cũng có vi tính, nhưng cái máy này hiện đại hơn máy ở công ty, chiếu được cả phim nữa. Thích thật.
Tôi nói đùa: “Hay là nó thích mày đấy”
-Không dám! Nhà nó giàu, lại có học, còn em thì nghèo, ít chữ. Em với nó chẳng hợp nhau đâu!
Mấy ngày hôm sau, tôi gặp bà Loan, bà có ý muốn hỏi Mô cho con gái bà.
Tôi dè dặt: “Sợ con bà không chịu…” Tôi chưa kịp nói hết câu, bà đã nói luôn:
-Tôi thấy nó ngoan, khoẻ mạnh, hiền lành và thật thà. Nhà tôi không có con trai, muốn có người về trông coi. Cái Phượng, con gái tôi nó sướng quen rồi, đi học không chịu được khổ, nên về nhà, tôi muốn chúng nó lấy nhau, sau này còn thay tôi lo liệu việc công ty. Vậy nhờ anh giúp nhé!
Bà Loan khen nó thật thà. Tôi chợt nhớ tới mấy lần nó nhặt được tiền và vàng... Bà là người nhanh nhẹn, tháo vát. Là người lãnh đạo có khác, dám nghĩ, dám làm, gặp thời cơ, thấy được là bà quyết luôn.
Thằng Mô nghiễm nhiên trở thành ông chủ kế cận sau này.
Khi Mô là con rể, bà cũng thấy nó có nhiều yếu kém, nhất là giao tiếp. Bà nhờ tôi dạy hắn từ cách nói năng, tư thế đi lại, cách uống rượu, uống bia, mời chào lượt đi và lượt về... Tôi nói gì hắn cũng nghe. Mấy năm đầu, mỗi lần đi giao tiếp, Mô nói với mẹ vợ cho tôi đi cùng để giúp Mô. Vài năm gần đây không thấy Mô rủ tôi đi nữa.
Mẹ vợ cho hắn học lái xe, rồi hắn cũng biết lái xe đưa vợ đi chơi và đưa bà đến công ty.
Bà đã cho Mô làm phó Giám đốc phụ trách đời sống. Giờ hắn oai lắm, đi làm mặc quần tây, bỏ áo trong thùng, thắt caravat, giầy đen bóng lộn. Thấy hắn, họ chào, hắn gật đầu. Sau này, chỉ có việc gật đầu khi được người ta chào mà hắn cũng quên, không để ý đến họ, hay là hắn đang mải nghĩ công việc. Tôi đã chứng kiến trong một bữa tiệc, hắn cầm ly bia đến chào bàn, miệng thì cứ nói chuyện với người quen, tay thì cầm ly để cho họ cụng, chứ không nhìn xem ai chạm cốc với mình.
Còn khi bắt tay, gặp người cấp trên, cái lưng, cái đầu hơi cúi xuống một tý, đưa hai bàn tay lên phía trước đón lấy tay họ ra vẻ cung kính. Đối với người khác, hắn giơ một tay ra để cho họ nắm lấy tay hắn, họ vừa cầm tay, hắn đã gỡ ra và đưa tay đến cho người khác bắt. Hắn cũng chẳng cần nhìn người nắm tay mình là ai. Thật là mất lịch sự, ngạo mạn, thiếu sự tôn trọng. Có thể Mô thấy vị trí của mình giờ là người lãnh đạo, có khối người còn phải quỵ luỵ hắn, hay là phép lịch sự này hắn chưa được học. Tự nhiên tôi thấy mình còn trách nhiệm dạy bảo hắn. Tôi mỉm cười khi nghe thấy hắn chê mấy đứa sinh viên mới ra trường làm việc không hiệu quả.
Sao lại vậy? Năng lực làm việc của hắn thì tự hắn phải biết chứ ! Hắn đã bị ông giám đốc cảnh cáo mấy lần về gian lận khi mua sắm. Ông giao cho hắn những việc rất nhẹ nhàng, lại còn cử người giúp và làm thay cho hắn. Nhưng ông không hài lòng về những việc mà hắn phụ trách. Vì sự sống còn của công ty, nếu hắn không cố gắng thì ông sẽ có ý kiến với bà Loan.
Ấy thế mà hắn còn huyênh hoang, dạy đời, tự cho mình hiểu biết, và luôn tỏ ra là người có quyền lực.
Mô từ một đứa hiền lành, nhu mỳ, thật thà, chất phác. Ấy vậy mà qua mấy năm đựơc va chạm với công việc, giao tiếp trong xã hội. Mô đã thành con người khác...
Đang mải nghĩ, thì đã về đến nhà. Vợ Mô chạy ra mở cửa xe, thấy hắn đang nằm ngửa trên ghế, đầu nghẹo về một bên, cái mồm há ra một chút, rớt rãi đang chảy ra bên mép. Nó vừa thò đầu vào để gọi chồng, lại nhìn thấy những thứ mà Mô ói mửa, trông thật là bẩn thỉu và kinh tởm, bị cái mùi vị khó chịu ấy sộc vào mũi. Nó vội rút đầu lại, văng ra mấy câu:
-Rõ đồ khốn!
NGÀY GIỖ
Nguyễn Đình phi
Mai là lần giỗ thứ mười kể từ ngày bà Tư mất. Ông Tư bưng đĩa trái cây lên lầu một, vào bàn thờ bà Tư. Ông đốt nén nhang thơm nhìn hình bà, ông lẩm bẩm mấy câu, tự nhiên nước mắt ông chảy ra làm nhoà đi tất cả, ông không nói được nữa, ông ngồi thụp xuống nền nhà, rồi vịn ghế đứng lên, ông lại đến bên bàn thờ đứng nhìn khói nhang đang cuộn tròn thành những đường ngoằn nghèo rồi lan toả bay ra cửa sổ.
Ông nhớ lại cái thuở hàn vi từ khi hai người lấy nhau, biết bao nhiêu khổ ải, bà gánh chịu, cả một đời thương chồng, lo cho tương lai của con, đến lúc được hưởng sự an nhàn thì bà không còn nữa.
Hồi mới lấy nhau đất nhiều lắm, được bố mẹ chia cho một mẫu ruộng, cỏ mọc um tùm, đất chỗ cao, chỗ thấp, những đống gò mối cao bằng đầu người, thế mà vợ chồng ông đã san phẳng thành ruộng lúa, thành nương rẫy và đào được hai sào ao thả cá. Cuộc sống của gia đình cũng đủ ăn đủ mặc và nuôi ba đứa con đi học.
Chiều hôm ấy, hai ông bà đang cho đàn gà ăn ngoài sân, bỗng thấy thằng Hà phóng xe đạp về, không kịp dựng xe, nó vất xe chổng trơ ra sân, thở hổn hển:
- Có tin mừng, có tin mừng! Ba má bắt gà giết thịt rồi con nói!
Ông Tư thấy lạ, cất tiếng hỏi:
- Gì mà mừng vậy mày?
- Ba má đồng ý giết gà không?
- Nếu là tin mừng thì dù to hay nhỏ má cũng giết gà cho các con ăn!
- Con trúng đại học rồi, vào ngành kinh tế, thừa ba điểm.
Bà Tư vỗ tay cái đét: “Tôi đoán không sai, tôi đã đi họp phụ huynh nên tôi biết mà, cái Minh, thằng Sơn đâu, anh mày trúng đại học nè!”.
Hai đứa đang ở sau nhà, nghe thấy bà Tư nói chúng chạy về, thích quá, nó nhảy cẫng lên:
- Giấy báo đâu?
Thằng Hà mới sực nhớ cái giấy báo còn ở trong túi, vừa mang ra, cái Minh giật lấy xem, rồi thốt lên: “Ba má ơi! anh Hà là người đầu tiên của họ mình vào đại học đấy”.
Thằng Sơn đọc đi đọc lại ba bốn lần giấy báo, nó hét toáng lên làm cho không khí ồn ào nhưng rất vui vẻ .
Hai ông bà nhìn con vừa mừng lại vừa lo. Mừng là con trúng tuyển vào trường Đại học, lo là lấy gì cho con ăn học trong năm năm.
Trong bữa ăn, thằng Hà gắp cái đùi gà cho ba và má: “Đây là công của má! Đây là công của ba”.
Nó lại gắp thịt cho cái Minh và thằng Sơn: “Miếng này anh mừng cho em Minh đạt HSG lớp 10, miếng này anh mừng cho em Sơn đạt HSG lớp tám”.
Bà ấy nhà tôi thấy vậy gắp một miếng cho thằng Hà:
- Đây là miếng thịt má mừng cho con vào Đại học.
Tôi cũng gắp một miếng cho thằng Hà, mừng cho nó thừa điểm vào đại học.
Trong bữa cơm liên hoan nho nhỏ mà ấm cúng, đầy tình cảm và khích lệ.
Nhà tôi hứng lên: “Cái Minh, thằng Sơn phải noi gương anh, ba má sẽ nuôi các con học xong đại học”.
Ba đứa đều giơ tay lên reo hò.
Đêm hôm ấy tôi không ngủ được, ra bờ ao ngồi, lúc sau nghe tiếng động, tôi giật mình quay lai, thấy nhà tôi ngồi xuống bên cạnh:
- Nay sao mình hăng hái thế, lấy tiền đâu mà cho con đi học?
- Tôi thì nói, còn tiền thì ông lo, được chưa?
- Trời ơi! mình đánh đố tôi sao! Bằng ấy năm nhà mình chỉ đủ ăn, tiền đóng học phí cho chúng nó có khi còn phải đi vay, thằng Hà vào đại học nào là tiền ăn, tiền ở hàng tháng, tiền đi lại,… tháng cũng phải chi sáu bảy trăm là ít, chưa kể tiền học phí.
- Ông hãy bình tĩnh lại. Khi thằng Hà làm hồ sơ thi Đại học tôi đã tính rồi, chưa kịp nói với ông thôi, mình có việc chú Vân mới giúp, chú âý hứa cho vay 20 triệu không lấy lãi, nay tôi bàn với ông, xem ý kiến ông thế nào? Tôi tính thế này: “Nhà mình xa khu dân cư, nuôi heo sẽ ít bị bệnh, phân heo thì nuôi cá, ruộng thì cấy lúa, rẫy thì trồng bắp, trồng mì để nuôi heo, cô Hồng đã hứa với tôi là cho thiếu tiền cám, khi nào bán được heo thì trả tiền”.
- Nhưng mình thì yếu, tôi thì đi công tác. Công việc nhiều như thế làm sao được? Hay là tôi nghỉ việc để ở nhà giúp mình.
- Không được! Ông vẫn phải đi làm cho nó vui, ngày nào nghỉ ông về giúp tôi!
Thấy bà cương quyết như vậy, tôi đành phải làm theo.
Tôi cũng bị cuốn hút vào công việc. Ngày nào cũng dậy sớm, phụ nhà tôi quét dọn chuồng heo, cuốc đất trồng rau, cho cá ăn…
Mấy tháng sau xuất hơn hai tấn heo, bà ấy còn chọn những con đẹp để làm nái, heo đẻ ra nhà tôi để nuôi tất, còn mua thêm mấy bầy về nuôi, trời cũng phù hộ, trong mấy năm liền heo không bị bệnh, nếu bệnh sơ sơ thì nhà tôi mua thuốc tự trích lấy, con nào bỏ ăn, hay ăn ít nhà tôi đều biết cả, tôi được nhà tôi nói về kỹ thật nuôi heo nghe như một bác sỹ thú y thực thụ.
Mỗi năm, nhà tôi xuất gần mười tấn heo, và bán được vài tấn cá.
Một hôm tôi vừa về đến nhà, bà ấy bảo tôi sáng mai cùng chú Hãn ra xã làm giấy mua thêm hai ha đất bên cạnh. Tôi giật mình:
- Bà này liều thật, đất của mình làm chưa hết, còn mua làm gì! Lấy tiền đâu mà mua?
- Ơ ông này hay nhỉ! Ông có phải trả tiền đâu! Tôi trả cơ mà!
- Bà có vốn riêng hả?
- Vốn riêng kia kìa!
Vừa nói nhà tôi vừa chỉ vào dãy chuồng heo, chỉ vào ao cá, vườn mì. Tôi hiểu. Thôi thì làm theo bà ấy vậy.
Tối đến cả nhà ăn cơm, nhà tôi nói chuyện làm ăn, nghe như bản báo cáo việc làm trong ngày và tính việc ngày mai cho chồng và con. Nhìn hai đứa con nhà tôi nói giọng chắc nịch: “Cái Minh và thằng Sơn các con phải tự giác học tập, ba má không cần nhắc, các con đã hứa với ba má rồi, ba má cũng đã hứa với các con rồi, ba má đang làm để nuôi anh và các con ăn học đấy!
Trước đây, tôi có thấy nhà tôi mạnh mẽ như thế này đâu, từ ngày thằng Hà thi đỗ đại học, bà ấy có suy nghĩ táo bạo và làm được nhiều việc, có hiệu quả, thể hiện tính quyết đoán. Điều hành công việc như môt giám đốc, như một nhà chỉ huy. Khi cần thì bà ấy thuê người về làm. Có ngày nhà tôi như một công trường. Nhìn khu đất cũng thấy thích mắt.
Thằng Hà đã học xong đại học, tìm được việc làm, nhà tôi giao cho nó nuôi cái Minh ăn học, còn thằng Sơn bà ấy cung phụng, hàng tháng nhà tôi bắt chúng nó phải về đầy đủ, yêu cầu từng đứa báo cáo việc học hành, về mối quan hệ bạn bè, về chi tiêu… sau đó bà phán xét khen chê và giao nhiệm vụ, tôi cảm giác như thủ trưởng một đơn vị trong một buổi họp giao ban.
Mấy năm sau, nhà tôi nói nhỏ: “Mình ạ! Tự nhiên tôi có cái mụn nhỏ ở sau mang tai, nắn không thấy đau, trong cổ họng thấy vương vướng. Người rất mệt!”.
Đi khám thì bác sỹ nói nhà tôi bị ung thư vòm họng giai đoạn 3, tôi và các con chạy chữa hết tây y rồi sang đông y nhưng không khỏi, nhà tôi “ra đi” ở cái tuổi năm ba trong vòng tay của tôi và các con. Cả cuộc đời vất vả vì chồng con, chưa được hưởng thụ cái gì!
Ba lần tổ chức đám cưới cho các con. Khi thắp nén nhang cho bà ấy, tôi không cầm được nước mắt: “Vì sao mình không sống để thấy hạnh phúc của các con!”
Cách đây năm năm khu công nghiệp mở ra, nhà tôi có gần hai ha trong vùng quy hoạch, được tiền nhà nước đền bù và số tiền tiết kiệm bấy lâu nay, các con tôi quyết định xây một căn nhà để cho tôi ở, và lấy chỗ đi lại của anh em chúng nó, dành một phòng nhỏ làm chỗ thờ cúng tổ tiên và má chúng, còn lại ít tiền gửi tiết kiệm để tôi an dưỡng tuổi già.
Ông Tư từ từ đi ra cửa sổ, nhìn thấy mấy dãy chuồng heo của bà còn đó, cái ao cá còn đây, ông nhớ lại những hình ảnh của bà ngày nào : “Chân đi ủng trong trang trại, đang chỉ chỉ, chỏ chỏ cho họ đào ao, bắt cá… Còn cái nhà kia bây giờ là cái kho, đã gắn bó với gia đình ông cả cuộc đời, nơi ấy đã để lại những kỷ niệm không thể nào quên, vợ ông đã có công không nhỏ trong việc xây dựng gia đình và nuôi dạy các con khôn lớn trưởng thành…”
Ông lại quay vào bàn thờ thắp thêm cho bà nén nhang nữa, hình như bà đang mỉm cười nhìn ông mưốn nói:
- Ông à! Thôi ông đừng buồn nữa! Tôi xa ông, nhưng ông còn có các con bên cạnh. Tôi rất vui vì các con rất ngoan và có hiếu. Tôi cũng rất tự hào vì chúng nó đều tốt nghiệp đại học và có việc làm. Tôi cũng rất mãn nguyện khi các con đều có gia đình riêng và sống hạnh phúc. Mai các con, các cháu về sum họp, ông hãy chuẩn bị cơm nước chu đáo cho chúng nó ông nhá!
ĐỨA
CON CẦU TỰ
Nguyễn Đình Phi
Sáng nay, trời hơi lạnh, ông Nhất dậy sớm hơn mọi ngày. Ngồi trên chiếc trường kỷ, ông rít hai điếu thuốc lào một lúc. Thuốc ngấm, ông ngồi nhắm nghiền mắt lại, đầu gật gù rồi lắc lư như người lên đồng. Lúc sau, ông khoác áo bông đi ra mở cửa vào từ đường, lấy khăn lau chùi bát hương, rồi lấy cái chổi rơm nhỏ chỉ bằng hai bàn tay, ông quét bụi trên bàn thờ, ông đốt mấy cây nhang lầm rầm khấn vái…
Ông là Ngành trưởng. Ông coi từ đường của dòng họ, ông được hưởng lộc sau những lần anh em, con cháu đến cúng giỗ. Người thì biếu đĩa xôi, nải chuối. Gia đình khá giả biếu ông cả con gà, hay miếng thịt. Ngày giỗ tổ, ông chỉ cần báo Ngành thứ đến họp, ông triển khai nội dung, và phân công công việc, mọi người răm rắp thực hiện. Những đứa con, đứa cháu trong họ, đứa nào thành đạt, ông đều vận động góp tiền vào việc Họ. Ông đã gây được quỹ có tới trăm triệu. Hàng năm ông tổ chức lễ phát thưởng vào trung tuần tháng 8 cho những đứa đạt học sinh giỏi huyện, tỉnh, quốc gia, thi đậu vào đại học và những đứa tốt nghiệp Đại học, thạc sỹ, tiến sỹ ông tổ chức lễ phát thưởng và tuyên dương ngay trước cửa từ đường. Bài phát biểu của ông có sức thuyết phục, tự hào về dòng họ và giáo dục con cháu. Ông cũng chọn một đứa có thành tích nhất trong đợt phát thưởng này phát biểu, hứa hẹn với anh em và tổ tiên. Phải nói ông rất chu đáo, có trách niệm về việc Họ. Lễ phát thưởng ông đã tổ chức nhiều năm, được xã và huyện khen thưởng về dòng họ hiếu học.
Ông cũng thường được mời đi đánh chén. Ông đến nhà ai cũng cũng được đón tiếp trọng vọng và mọi người gọi ông là “ông trẻ”.
Hồi này ông có vẻ buồn, ông buồn ra mặt. Vì thằng Mão con trai ông lấy vợ đã gần chục năm rồi mà chưa có con. Vợ nó thì béo phây phây, còn thằng chồng gầy giơ xương ra. Chúng nó đã đi hết bệnh viện này đến đến bệnh viện kia nhưng vẫn chưa có cháu cho ông bế. Ông cần một đứa cháu đích tôn, nó sẽ kế tiếp con ông trông coi việc họ, còn hương khói sau này.
Ông ở trong từ đường bước ra, bên ngoài mặt trời đã lên vài tầm sào, vợ chồng thằng Mão đều đi làm cả. Ông lại lên nhà lấy cái điếu bát, lau chùi cẩn thận, vo vo điếu thuốc lào dét vào nõ điếu, nhưng ông không hút, ông thu hai chân lên chiếc ghế, hắng giọng:
- Bà nó đâu?
- Có tôi!
- Bà lên đây cho tôi bảo!
Bà từ dưới bếp lên, ngồi đối diện với ông, nhưng chẳng thấy ông nói gì, thấy ông có biểu hiện khác mọi ngày, bà không dám hỏi. Lát sau, ông mới nói từng tiếng một, giọng khàn khàn đượm buồn:
- Bà à! Tôi là trưởng họ, tôi là con một, nhà mình chỉ có thằng Mão là con trai. Chúng nó lấy nhau đã lâu mà chẳng có con. Chẳng hiểu như thế nào nữa. Hay là…hay là…rằm tháng giêng này, bà dẫn vợ chồng nó lên chùa Hương “xin” đứa con. Nếu nó không có con trai thì lấy ai nối dõi sau này.
Tối nay, bà thì thầm với vợ chồng thằng Mão. Bà lên kế hoạch tết Nguyên Tiêu này bà phải trực tiếp đưa chúng nó đi chùa Hương. Bà dặn vợ chồng nó lòng phải thanh tịnh, ăn ở sạch sẽ. Bà chuẩn bị nhiều lễ vật, nào là hương nhang, vàng mã, hoa quả, trầu cau, xôi, oản. Đến điện thờ Quan âm, trong chùa có một hang đá thạch nhũ mọc lổm chổm hai bên, tục gọi là núi
Cô,
núi
Cậu
. Khi cầu khấn xong, bà bảo vợ chồng nó cùng đưa tay sờ hòn đá có hình dáng đầu trẻ con rồi “mời” nó trở về cùng. Đi đò, bà để một cục đá bên cạnh mình như giữ chỗ cho nó. Trên đường về, gặp hàng bánh kẹo, đồ chơi, bà dừng lại mua một ít cho đứa bé trong tưởng tượng... Khi ăn, bà cũng gọi thêm phần cho nó.
Hơn một tháng sau, bà lại hỏi con dâu đã có báo hiệu gì chưa. Chị Mão lắc đầu. Bà cho là chuyến đi vừa rồi có cái gì sai sót, có thể chúng đã làm điều gì bất kính chăng. Bây giờ mới trung tuần tháng hai, còn hơn một tháng nữa mới hết hội chùa Hương kia mà. Thế là bà lại chuẩn bị cho vợ chồng thằng Mão đi chuyến nữa.
Lần này, bà được cô con dâu cho biết là có dấu hiệu báo tin mừng. Chị Mão mang bầu được sự quan tâm, chăm sóc đặc biệt từ đi lại, ăn uống… Còn ông bà làm những thủ tục lễ lạy trên chùa và ở từ đường của họ đủ tuần, đủ tiết.
Đúng chín tháng mười ngày, chị sinh được đứa con trai. Tuy không đẻ năm Thìn, tháng Thìn, giờ Thìn. Nhưng ông đặt tên khai sinh cho nó là Thìn, Phạm Mạnh Thìn. Vì ông cho Thìn là rồng, rồng tượng trưng cho quyền lực. Ông mong cho cháu ông sau này nó sẽ thay trời hành đạo. Hàng ngày ông lại bắt mọi người gọi tên nó là Thớt, vì ông bảo gọi tên xấu thì nó mới khoẻ và không bị ma bắt.
Đứa em gái đến thăm, khi về chị nói với chồng:
- Vợ chồng anh Mão ngày đêm mong muốn có một đứa con trai, nên đi cầu, đi cúng, anh chị hàng tháng không ngủ chung với nhau, nay đi chùa cầu tự về. Nói về tư tưởng thì anh chị thoải mái, tạo được niềm tin, có hưng phấn và được kích thích. Có con cũng là cơ sở khoa học, chứ chẳng phải con trời con phật gì đâu. Được đứa con trai, cũng mừng cho anh chị ấy. Nhưng những đứa con cầu tự thường được nuông chiều, chiều nó quá, không khéo sau này lại sinh hư.
Thằng Thớt, ăn khoẻ, chóng lớn. Ông bảo nó con trời, con phật, không phải người thường đâu. Nó đòi cái gì thì bố mẹ và ông bà phải chiều. Nó càng lớn, càng đòi hỏi những yêu sách vô lý mà chỉ người gia đình ông mới đáp ứng được. Trong ăn uống, có thứ này thì nó đòi thứ khác, nó thích là nó ăn, mọi người trong gia đình chỉ được hưởng những thứ mà nó ăn không hết.
Trong vui chơi, thấy con nhà ai có đồ chơi, nó đòi cho bằng được. Nếu không thoả mãn thì lại lăn ra khóc.
Một lần, tôi và thằng Thớt đi học về, nó bước vào vũng nước bị trượt ngã. Thế là nó khóc. Nó đổ tại cho vũng nước nên nó mới ngã. Tôi đến cầm tay dắt nó đứng lên. Nó lại bị trượt và ngã tiếp. Thế là nó lại đổ vấy cho tôi:
- Tại mày nên tao mới ngã đấy!
Năm cuối cấp hai, gần lúc thi tốt nghiệp thì thấy Thớt bỏ học. Ông bà, bố mẹ khuyên nhủ như thế nào cũng chẳng được. Một hôm mẹ Thớt sang nhà nói chuyện với mẹ tôi:
- Chị ạ! Tôi buồn lắm, sinh được đứa con trai, ai cũng mừng, cũng đến chúc tụng. Ông bà kì vọng về nó, gửi gắm niềm tin vào nó. Trong sinh hoạt hàng ngày nó được chiều chuộng, nên đã trở thành một đứa con ích kỷ. Ông làm việc Họ thì giỏi giang. Vậy mà đứa cháu đích tôn dạy bảo không được, ông rất buồn, không nói thì nó ở nhà, chửi thì nó bỏ nhà nó đi. Thỉnh thoảng nó cãi tay đôi với nhà tôi. Tôi khuyên nhủ, nó bảo mẹ biết gì mà nói. Đến trường thì không nghe lời thầy cô. Đi học mà không nghe lời thầy cô thì học cái gì? Mấy hôm trước cô giáo đến nhà vận động nó đi học, cô cho biết nó là đứa trẻ thông minh, nhưng khó bảo, có lẽ nó bỏ học mất. Tuổi này ở nhà chỉ lêu lổng, không khéo lại làm bạn với con nhà mất dạy, hút, chích vào thì khổ mọi người. Chị ạ! Nó hư cũng là hậu quả của việc nuông chiều và giáo dục không đúng cách đó thôi!
Mẹ Thớt nói xong, trông bà có vẻ lo lắng, buồn bã, mắt ngân ngấn nước. Mẹ tôi thấy vậy an ủi:
- Cháu còn nhỏ mà, đời nó còn dài, gia đình nên thống nhất cách dạy dỗ. Trước mắt vận động nó đi học, đến trường, đến lớp có thầy, có bạn. Có điều kiện chúng học lẫn nhau, nó sẽ chuyển biến chị ạ!
Năm sau, gia đình tôi chuyển sang ngoại ở. Nên không có điều kiện gặp Thớt nữa.
Tôi học xong phổ thông rồi đi học chuyên nghiệp, ra trường được về làm ở một công ty.
Sáng nay, trên đường đi làm, vì đoạn đường này có nhiều người và xe máy từ các ngả đổ về Tôi đang tập trung đi, thì thấy một thanh niên mặc áo công nhân, phóng xe lạng lách qua đầu xe tôi, rồi cho xe lao vụt lên phía trước. Tôi nhìn rõ nửa mặt anh ta, thấy quen quen, hình như đã gặp anh này ở đâu. Xe anh vượt bên phải cô gái đi phía trước, đụng mạnh vào tay lái, làm cho xe cô này loạng choạng, mất thăng bằng lao về bên trái, lại va vào chỗ lồi lõm của đường. Thế là cô ta bị hất văng ra, mấy chiếc xe phía sau không tránh kịp, nên đã trườn qua người làm cô bất tỉnh. Mọi người kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu. Hiện trường thì được công an đến giải quyết.
Còn anh này, sau khi gây tai nạn, anh ngoái nhìn lại rồi phóng xe biến mất trong làn xe dày đặc.
Vừa đến cổng công ty thì thấy mọi người đang vây quanh ai đó. Tôi kiễng chân lên nhìn. Thấy một người ăn mặc giống người lúc nãy đã gây tai nạn. Thằng Thớt! Đúng thằng Thớt rồi! Trông nó hồi này khắc khổ, chắc gia đình có biến cố gì đây, nên mới phải đi làm công nhân. Nó đang nói về một vụ tai nạn xe, đang phân bua với mọi người. Có lúc tay vung lên, rồi nắm tay lại, lúc thì xoè ra, chém vào không khí. Trông như một người đang diễn thuyết. Nó đang nói về vụ tai nạn của cô gái đi đường, nó chống chế, bao biện cho lỗi lầm của mình:
- Một tai nạn thật đáng tiếc. Xét cho cùng tại đoạn đường này hẹp, đường mới đổ nhựa chưa được một năm mà đất đá đã bật tung lên. Mà cũng tại chị ta đi xe không vững tay lái, nên mới bị như vậy.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top