tiet 5

(Tiết 5)

Như chúng ta đã nghiên cứu ở các tiết trước, quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc đã làm cho phong trào cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ theo khuynh hướng vô sản, dẫn đến sự ra đời của các tổ chức cộng sản vào năm 1929. Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản là một bước phát triển mới nhưng đã gây chia rẽ, ảnh hưởng không tốt đến cách mạng Việt Nam. Vì vậy, tháng 2 – 1930, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị hợp nhất, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Hội nghị, Đảng cũng đã đề ra một Cương lĩnh chính trị khoa học và cách mạng, tạo nên bước ngoặt cho cách mạng Việt Nam, đồng thời, đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về đường lối lãnh đạo.

Để tìm hiểu nội dung của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng cũng như là tính khoa học và cách mạng của Cương lĩnh, trong tiết này, chúng ta sẽ tiếp tục nghiên cứu nội dung 2, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

Hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam đã thông qua ba văn kiện quan trọng là Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt. Các văn kiện này hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam.

Trước khi đi vào tìm hiểu nội dung của Cương lĩnh, đồng chí nào có thể giải thích thuật ngữ Cương lĩnh chính trị là gì?

Để có cách hiểu thống nhất, tôi xin đưa ra cách giải thích của Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, được Trung tâm từ điển ngôn ngữ xuất bản năm 1992 như sau: Cương lĩnh là mục đích, đường lối và nhiệm vụ cơ bản của một tổ chức chính trị, một chính đảng.

Theo cách giải thích đó, chúng ta có thể hiểu, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam bao gồm mục đích, đường lối và nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền cách mạng. (Film)

Cương lĩnh đã xác định những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam bao gồm:

Thứ nhất là Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam.

Thứ hai là Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng.

Thứ ba là Lực lượng cách mạng.

Thứ tư là Lãnh đạo cách mạng.

Và thứ năm là Quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới.

Trong năm nội dung của Cương lĩnh, tôi sẽ giới thiệu chi tiết nội dung thứ nhất và thứ hai, còn ba nội dung sau, tôi sẽ giới thiệu khái quát để các đồng chí về tự nghiên cứu.

Bây giờ, chúng ta đi vào nghiên cứu nội dung thứ nhất, Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam.

- Về Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam:

Cương lĩnh đã xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.

Vậy, căn cứ vào đâu để Đảng đề ra phương hướng đó? Cũng như chúng ta hiểu phương hướng đó như thế nào? Như vậy, chúng ta phải đi vào giải quyết hai vấn đề:

* Căn cứ để Đảng đề ra phương hướng.

* Nội dung cụ thể của phương hướng, bao gồm: Các giai đoạn của cách mạng Việt Nam và mối quan hệ của các giai đoạn đó.

Về căn cứ, Đảng xác định phương hướng của cách mạng Việt Nam dựa vào căn cứ là các mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam, mà các mâu thuẫn đó xuất phát từ đặc điểm kinh tế một nước thuộc địa nửa phong kiến.

Cương lĩnh đã chỉ ra như sau, về công nghiệp, thì “Tư bản bản xứ đã thuộc tư bản Pháp, vì tư bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản làm cho công nghệ bản xứ không thể mở mang được”. Còn nông nghiệp, thì “nông nghệ ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều”.

Chúng ta thấy rằng, ở một nước nông nghiệp với hơn 90% dân số là nông dân, nhưng nông nghiệp lại bị đế quốc và phong kiến cấu kết, bóc lột nông dân rất nặng nề, với chế độ sưu cao thuế nặng, cướp đoạt ruộng đất, làm cho đời sống vô cùng khổ cực, bị bần cùng hóa. Chúng ta theo dõi đoạn video clip sau. Đó là tình cảnh của nông dân Việt Nam dưới chế độ thuộc địa, nửa phong kiến. Còn công nghiệp là ngành kinh tế mới phát sinh, nhưng cũng bị lệ thuộc vào tư bản Pháp. Tình hình kinh tế đó dẫn đến xã hội đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn, trong đó có hai mâu thuẫn cơ bản và ngày càng gay gắt, là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam mà chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến. Để giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản đó, nhân dân ta phải tiến hành đấu tranh cách mạng, đánh đổ hai đối tượng của cách mạng là đế quốc Pháp và bọn địa chủ phong kiến, nhằm thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc và thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”, giải quyết yêu cầu ruộng đất của nông dân.

Từ sự phân tích khoa học đó, Cương lĩnh đã xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy, Đảng đã căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể để xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.

Còn về nội dung của Phương hướng. Theo Cương lĩnh, cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng. Giai đoạn thứ hai là làm cách mạng xã hội chủ nghĩa để đi tới chủ nghĩa cộng sản.

Theo cương lĩnh, cách mạng tư sản dân quyền có nhiệm vụ chống đế quốc, còn cách mạng ruộng đất có nhiệm vụ chống phong kiến. Đây chính là nội dung của cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới. Về lý luận, cách mạng dân chủ tư sản có nhiệm vụ đánh đổ chế độ phong kiến, nhưng xuất phát từ đặc điểm là một nước thuộc địa, nên cách mạng dân chủ tư sản có nhiệm vụ quan trọng là đánh đổ sự thống trị của thực dân Pháp. Còn tính chất kiểu mới tức là do giai cấp công nhân lãnh đạo. Về sau, thuật ngữ này được Đảng ta hoàn thiện và gọi là Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, được nêu ra lần đầu tiên tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần II của Đảng Lao động Việt Nam, năm 1951.

Giành độc lập dân tộc rồi đi lên xã hội cộng sản là phương hướng tiến lên của cách mạng Việt Nam. Sau khi giành được độc lập dân tộc, chúng ta sẽ bỏ qua giai đoạn phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa để làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; đi theo con đường tiến bộ của cả nhân loại. Có như vậy chúng ta mới không phải hi sinh nhiều lần để làm cách mạng. Cho nên, đó là con đường cách mạng triệt để nhất của Hồ Chí Minh để đi đến giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Đồng thời việc Cương lĩnh xác định phương hướng tiến lên của cách mạng Việt Nam là xã hội cộng sản, Đảng đã đặt cách mạng Việt Nam vào phạm trù cách mạng vô sản thế giới, đó là cơ sở để ta tập hợp được sức mạnh đoàn kết quốc tế. Và sự thực đã chứng minh sinh động trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân ta với sự giúp đỡ to lớn về chỉ đạo đường lối, về vật chất và tinh thần của Quốc tế cộng sản, của Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa, của phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc, và của nhân dân tiến bộ các nước trên thế giới.

Cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn, vậy mối quan hệ của hai giai đoạn như thế nào? Cương lĩnh xác định, “Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” là một quá trình nối tiếp nhau của hai chiến lược cách mạng khác nhau, có mối quan hệ mật thiết tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, cách mạng giải phóng dân tộc là tiền đề, là điều kiện cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Còn chủ nghĩa xã hội là mục tiêu hướng tới của cách mạng giải phóng dân tộc, đồng thời, chủ nghĩa xã hội là cơ sở vật chất và tinh thần để bảo vệ độc lập dân tộc. Vì vậy, giữa hai giai đoạn chiến lược cách mạng không có bức tường ngăn cách, tức là kết thúc giai đoạn thứ nhất là bước mở đầu cho giai đoạn cách mạng thứ hai. Nên giải quyết nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng thứ nhất càng triệt để bao nhiêu thì càng tạo điều kiện thuận lợi cho giai đoạn thứ hai bấy nhiêu. Đây chính là loại hình cách mạng vô sản được Nguyễn Ái Quốc đề ra ở một nước thuộc địa trên cơ sở vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng không ngừng của Lênin. Và điều đó cũng cho thấy rằng, ngay từ Cương lĩnh đầu tiên, Đảng đã kết hợp việc giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Vậy thì phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam được được thực hiện như thế nào? Chúng ta đi vào nghiên cứu nội dung thứ hai của Cương lĩnh, nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng.

- Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng.

Như chúng ta đã nghiên cứu ở trên, thì nhiệm vụ chiến lược của tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng là đánh đổ đế quốc Pháp, giành độc lập cho dân tộc và chống phong kiến, đem lại ruộng đất, dân chủ cho nhân dân lao động. Vậy, hai nhiệm vụ chiến lược đó có vị trí và mối quan hệ như thế nào trong cách mạng Việt Nam? Để làm rõ điều đó, chúng ta phải nhận thức đúng về tình hình các mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam.

Vậy, đồng chí nào có thể xác định các mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam, và theo đồng chí, mâu thuẫn nào là mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam?

Xin cảm ơn đồng chí. Như vậy, đồng chí …  đã xác định đúng hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam. Và theo đồng chí … thì mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam mà chủ yếu là nông dân với địa chủ phong kiến. Vậy, mâu thuẫn này có phải là mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam hay không? Để xác định đúng vấn đề này, Nguyễn Ái Quốc đã căn cứ vào đặc điểm dân tộc và tình hình giai cấp của Việt Nam.

Về đặc điểm dân tộc, xuất phát từ đặc điểm: dân tộc Việt Nam vốn là một quốc gia dân tộc hình thành từ sớm, có tinh thần cộng đồng, cố kết dân tộc và có truyền thống dựng nước và chống ngoại xâm bảo vệ đất nước. Lịch sử dân tộc từ thuở dựng nước đã có rất nhiều anh hùng dân tộc, dù đó là những thiếu niên như Thánh Gióng, hay những người phụ nữ như Bà Triệu, Bà Trưng…. Truyền thống yêu nước và đoàn kết dân tộc đã sớm hình thành, kết tinh trong mỗi cá nhân, chủ nghĩa yêu nước và tinh thần đoàn kết dân tộc là hai giá trị đứng đầu trong bảng vàng văn hóa Việt Nam, là dòng chủ lưu xuyên suốt trong lịch sử dân tộc. Vì vậy, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, cũng như sau khi hoàn toàn xâm chiếm, mở rộng ách thống trị, bóc lột, biến Việt Nam trở thành thuộc địa của chúng, thì phong trào chống Pháp của nhân dân ta nổ ra thường xuyên, liên tục, lúc sôi nổi, lúc ngấm ngầm theo những con đường khác nhau. Điều đó cho ta thấy rằng: khát vọng, ý chí, bức xúc nổi lên hàng đầu của toàn dân Việt Nam là đánh đổ đế quốc Pháp và tay sai, giành độc lập tự do cho dân tộc. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ như sau: “Bị khuất phục bằng vũ lực, bắt buộc phải chịu bao nhiêu điều nhục nhã, bị áp bức, bóc lột, dân Đông Dương không thể chịu ngồi yên mà không phá gông xiềng của chủ nghĩa đế quốc Pháp” và Người cũng chỉ ra rằng: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những người culi biết phản đối, nó làm cho những người “nhà quê” phản đối ngấm ngầm trước thuế tạp dịch và thuế muối. Cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranh với người Pháp và người Trung Quốc; nó đã thúc giục thanh niên bãi khóa, làm cho những nhà cách mạng trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1917”. Do đó, trong hai mâu thuẫn cơ bản, thì mâu thuẫn chủ yếu, nổi lên hàng đầu là mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp. Khát vọng độc lập, tự do, khát vọng giải phóng dân tộc đang nung nấu trong tâm khảm mỗi con người Việt Nam, không kể đó là tư sản hay vô sản, địa chủ hay nông dân, hay tầng lớp tiểu tư sản, trí thức.

Bên cạnh đó, còn xuất phát từ tình hình giai cấp của Việt Nam. Chúng ta thấy rằng, Việt Nam là một nước nông nghiệp, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển cho nên sự phân hóa và mâu thuẫn giai cấp chưa biểu hiện gay gắt, sâu sắc như ở phương Tây. Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra như sau: “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây. Về phía người lao động, đó là sự không giác ngộ, sự nhẫn nhục và vô tổ chức. Về phía bọn chủ, không có máy móc, ruộng đồng thuộc sở hữu của những địa chủ hạng trung và hạng nhỏ và những kẻ mà ở đó được coi là đại địa chủ thì chỉ là những tên lùn tịt bên cạnh những người trùng tên với họ ở châu Âu và châu Mỹ…. Sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu”.

Để nắm rõ hơn về tình hình giai cấp Việt Nam, các đồng chí về nghiên cứu vấn đề Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam trong Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ trang 24 đến 27. Đồng thời, các đồng chí chuẩn bị trước câu hỏi thảo luận trong Kế hoạch dạy học để chúng ta tiếp tục làm rõ trong giờ thảo luận.

Như vậy, từ tình hình giai cấp trong xã hội Việt Nam chúng ta thấy rằng, mâu thuẫn giai cấp chưa gay gắt nên nhiệm vụ giai cấp là nhiệm vụ chiến lược nhưng cần giải quyết từng bước, phục vụ cho nhiệm vụ chống đế quốc. Còn nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ chiến lược hàng đầu, giải quyết nhiệm vụ này là giải quyết được mâu thuẫn vừa cơ bản, vừa chủ yếu trong xã hội, giải quyết được nhu cầu bức thiết của toàn dân tộc, đồng thời, nó tạo điều kiện thực hiện nhiệm vụ giải phóng giai cấp. Mà từ thực tế cách mạng Việt Nam, khi chúng ta giải phóng dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân, thì chúng ta đã thực hiện được nhiệm vụ giai cấp, đó là, lật đổ chính quyền phong kiến tay sai, tịch thu ruộng đất của đế quốc và bọn phong kiến tay sai làm của công chia cho dân cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo. Sau đó, chính quyền nhân dân sẽ tiếp tục tiến hành những biện pháp cải cách kinh tế, xã hội triệt để hơn đi đến thực hiện triệt để nhiệm vụ giai cấp.

Như vậy, Đảng đã nhận thức đúng vị trí và mối quan hệ của hai nhiệm vụ chiến lược trong cách mạng Việt Nam. Điều này là sự vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin của Nguyễn Ái Quốc về cách mạng vô sản ở nước thuộc địa. Bởi vì, theo chỉ đạo của Quốc tế cộng sản, “cách mạng Việt Nam là kiểu cách mạng tư sản dân quyền theo công nông chuyên chính, có hai nhiệm vụ cơ bản tiến hành đồng thời, song song là cách mạng ruộng đất, giải phóng nông dân khỏi mọi bóc lột và nô lệ và chống đế quốc, giải phóng dân tộc, lật đổ chính quyền bóc lột, thành lập Xôviết công nông binh, tổ chức hồng quân, củng cố quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản”. Chấp hành Nghị quyết của Quốc tế cộng sản về kiểu cách mạng, Cương lĩnh đã nêu “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng”, tức là thực hiện nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ dân chủ. Nhưng trên cơ sở phân tích mâu thuẫn và xác định tính chất xã hội Việt Nam và trên cơ sở nhận thức và phân tích sâu sắc, toàn diện lực lượng cách mạng và mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, Hồ Chí Minh đã đưa nhiệm vụ dân tộc lên hàng đầu. Điều này hoàn toàn phù hợp với điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, đó là một đóng góp quan trọng cho lý luận Mác - Lênin về cách mạng vô sản ở thuộc địa.

Thực hiện hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, trong đó, đưa nhiệm vụ dân tộc lên hàng đầu sẽ quyết định nhiệm vụ cụ thể của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng. Cụ thể, Cương lĩnh xác định như sau:

Về chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập; dựng ra Chính phủ công nông binh; tổ chức ra quân đội công nông.

Như vậy, Đảng đã xác định nhiệm vụ chính trị một cách toàn diện, từ trước mắt đến lâu dài. Nhưng nổi bật lên là việc xác định đối tượng cách mạng là đế quốc Pháp và bọn phong kiến. Trong đó, Cương lĩnh cũng nêu rõ: “Tư bản bản xứ không có thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa”. Như vậy, cùng với việc xác định đế quốc Pháp là đối tượng phải đánh đổ, Cương lĩnh đã chia địa chủ phong kiến ra làm ba loại: đại địa chủ, trung địa chủ, tiểu địa chủ để xác định đối tượng cần tập trung đánh đổ là đại địa chủ và đối tượng cần lôi kéo hoặc làm trung lập là trung địa chủ và tiểu địa chủ. Điều này là sự nắm vững một đặc điểm trong chính sách cai trị của chủ nghĩa thực dân Pháp là chúng duy trì chế độ bóc lột phong kiến và Chính phủ Nam triều làm công cụ áp đặt chế độ thống trị, bóc lột thuộc địa. Mà Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: “Quan lại, địa chủ: Họ tuy hai mà một, một mà hai. Quan lại lớn đồng thời là địa chủ lớn…. Bọn này cùng với đế quốc Pháp sống dựa vào nhau…”. Còn bọn “Vương công: như hoàng đế An Nam, quốc vương Cao Miên,… tất nhiên họ là những rường cột phản động. Người Pháp lợi dụng họ làm bù nhìn để thi hành những luật pháp thời trung cổ…”. Như vậy, từ hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, Cương lĩnh đã xác định đối tượng của cách mạng là đế quốc Pháp và bè lũ phong kiến tay sai, mà trước hết  là bọn đại địa chủ. Việc xác định đúng đối tượng của cách mạng như trên là một thành công lớn của Cương lĩnh, vì đó là vấn đề thuộc chiến lược của cách mạng. Từ đó, sẽ đề ra những sách lược để phân hóa, cô lập kẻ thù, tập trung mũi nhọn vào kẻ thù chính và xây dựng lực lượng cách mạng.

Về kinh tế: Cương lĩnh chủ trương: thủ tiêu các thứ quốc trái; thâu tóm hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, …) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý; thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm tám giờ.

Qua nhiệm vụ về kinh tế, ta tấy nổi bật lên hai vấn đề. Thứ nhất là vấn đề địa chủ. Xuất phát từ việc đặt nhiệm vụ dân tộc lên hàng đầu, Cương lĩnh chưa đề ra ngay vấn đề đánh đổ toàn bộ giai cấp địa chủ phong kiến, tịch thu toàn bộ ruộng đất của địa chủ phong kiến. Địa chủ phong kiến, một bộ phận câu kết với thực dân Pháp, nhưng bộ phận chủ yếu vẫn còn lừng chừng, trung lập và một bộ phận đấu tranh chống Pháp, ủng hộ cách mạng. Vì vậy, đặt ra nhiệm vụ kinh tế như trên là một cơ sở để mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, tạo sức mạnh vật chất và tinh thần cho cách mạng Việt Nam.

Thứ hai là vấn đề ruộng đất. Ở nước ta, nông dân chiếm 90% dân số, nên vấn đề dân chủ là vấn đề “người cày có ruộng”. Vì vậy, Cương lĩnh xác định rõ thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo. Giải quyết vấn đề ruộng đất như trên là cơ sở quan trọng để Đảng lôi kéo lực lượng đông đảo của xã hội là giai cấp nông dân đi theo cách mạng, xây dựng liên minh công nông, động lực của cách mạng.

Về văn hóa – xã hội: Cương lĩnh đã nêu những vấn đề cơ bản về văn hóa – xã hội, phác thảo những đặc điểm cơ bản của xã hội mới: dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền,…; phổ thông giáo dục theo công nông hóa. Mặc dù chỉ phác họa những nét cơ bản nhất nhưng đã thấy rõ được tính ưu việt của một xã hội mới với những yếu tố quan trọng: công bằng, dân chủ và văn minh.

Như vậy, qua nghiên cứu về nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng, cũng như là phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam, chúng ta thấy rằng, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức đúng đắn về đặc điểm xã hội Việt Nam và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin từ đó giải quyết hài hòa vấn đề dân tộc và vấn đề dân chủ của cách mạng vô sản ở nước thuộc địa. Khẳng định điều này, ta xét trên hai khía cạnh lớn, thứ nhất, thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, nhân dân ta bị mất nước, mất nền độc lập tự do, quyền được sống làm người. Do đó, đánh đổ đế quốc Pháp và bọn tay sai giành độc lập dân tộc là nguyện vọng thiết tha nhất của mọi người dân Việt Nam yêu nước. Thứ  hai, sự cấu kết chặt chẽ giữa đế quốc và phong kiến là đặc trưng của chế độ thuộc địa, do đó nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến không thể tách rời nhau, cách mạng giải phóng dân tộc nhất thiết phải bao hàm nội dung dân chủ. Hơn nữa, nước ta là một nước nông nghiệp, nông dân chiếm 90% dân số, đế quốc Pháp dựa vào chế độ phong kiến để bóc lột nhân dân ta, thực chất là bóc lột nông dân. Vì vậy, giải phóng dân tộc trước hết và căn bản phải là giải phóng nông dân, nhiệm vụ dân chủ trước hết và căn bản cũng là dân chủ cho nông dân. Nắm vững và giải quyết hài hòa vấn đề đó với hai khẩu hiệu chiến lược “dân tộc độc lập” và “người cày có ruộng”, trên thực tế Đảng đã lôi cuốn lực lượng đông đảo của xã hội là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân đi theo cách mạng, đồng thời, còn động viên được tất cả các giai cấp, tầng lớp khác cùng công nông thực hiện nhiệm vụ dân tộc và dân chủ.

Vậy, Đảng đã chủ trương tập hợp lực lượng cách mạng như thế nào? Chúng ta tiếp tục đi vào nghiên cứu nội dung thứ ba của Cương lĩnh, về Lực lượng cách mạng.

- Về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh xác định: Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản phải thu phục cho được đại bộ phận của giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng. Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông… để kéo họ đi về phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến…) thì phải đánh đổ.

Qua việc xác định lực lượng cách mạng của Cương lĩnh, đồng chí nào có thể xác định, Đảng đã tập hợp lực lượng cách mạng bao gồm các giai cấp, tầng lớp nào?

Xin mời đồng chí…

Xin cảm ơn đồng chí! Theo đồng chí…,  Cương lĩnh đã xác định lực lượng cách mạng là công nhân, nông dân, tiểu tư sản, trí thức.

Qua chủ trương của Đảng, chúng ta thấy rằng, Cương lĩnh đã xác định lực lượng cách mạng là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp tiểu tư sản, trí thức. Đảng cũng chủ trương đoàn kết và lôi kéo trung, tiểu địa chủ và tư sản dân tộc vào mặt trận dân tộc thống nhất. Và dĩ nhiên, bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ. Đó là các giai cấp, tầng lớp được Đảng chủ trương tập hợp. Trong các giai cấp, tầng lớp này, Cương lĩnh xác định, giai cấp công nhân và nông dân là hai giai cấp cơ bản chiếm “đại bộ phận”, lại bị đế quốc và tay sai áp bức nặng nề hơn cả. Nên họ vừa có tính kiên quyết cách mạng, vừa có thể quyết định đến kết quả của tiến trình cách mạng. Nên, Cương lĩnh xác định giai cấp công nhân và giai cấp nông dân là động lực của cách mạng.

Đó là toàn bộ chủ trương tập hợp lực lượng cách mạng của Đảng. Vậy qua chủ trương này, theo các đồng chí, Nguyễn Ái Quốc đã dựa vào yếu tố chủ yếu nào để tập hợp lực lượng cách mạng? Vấn đề này các đồng chí về tự nghiên cứu và bút ký vào vở tự học.

Chúng ta đi vào nghiên cứu nội dung thứ tư của Cương lĩnh, về lãnh đạo cách mạng.

Cương lĩnh xác định, giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng.

Giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng - đội tiên phong của giai cấp vô sản. Nói Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, tức là bao gồm những cá nhân giác ngộ nhất, đấu tranh kiên quyết nhất vì lợi ích của quần chúng công nông và là đại diện cho tương lai của phong trào cách mạng.

Cũng xuất phát từ việc đề cao lợi ích của quần chúng công nông, Cương lĩnh chỉ rõ: Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp.

Đó chủ trương của Đảng về lãnh đạo cách mạng. Vậy qua nghiên cứu nội dung này, theo các đồng chí, vì sao Đảng xác định giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng? Và giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng phải thông qua Đảng Cộng sản? Vấn đề này các đồng chí cũng về tự nghiên cứu và bút ký vào vở tự học. Chúng ta tiếp tục nghiên cứu nội dung cuối cùng của Cương lĩnh:

- Về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới: Cương lĩnh đã xác định rõ cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới, và nêu rõ “Đảng liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới”. Khách quan mà xét, trước khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, ở nước ta chưa có tổ chức chính trị nào đề ra vấn đề kết hợp việc: “tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp”. Rõ ràng đường lối quốc tế này đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và thời đại, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, đưa cách mạng nước ta đi vào dòng chính của thời đại: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhờ đó, ta có thể tập hợp được sức mạnh quốc tế cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Để hiểu thêm về vấn đề này, các đồng chí xem đoạn phim sau.

Như vậy, chúng ta đã nghiên cứu toàn bộ nội dung của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, cũng như là tính cách mạng và khoa học của Cương lĩnh. Vậy thì, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và có một Cương lĩnh chính trị cách mạng và khoa học có ý nghĩa như thế nào đối với cách mạng Việt Nam? Chúng ta tiếp tục đi vào nghiên cứu nội dung:

3. Ý nghĩa lịch sử sự ra đời Đảng cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và có một Cương lĩnh khoa học và cách mạng có bảy ý nghĩa.

Thứ nhất, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và có một cương lĩnh chính trị đúng đắn, đã tạo nên sự thống nhất về tổ chức, tư tưởng, chính trị và hành động của cách mạng Việt Nam, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp. Điều đó có nghĩa là Đảng Cộng sản Việt Nam không phải là sản phẩm của sự mong muốn hay là kết quả hoạt động của một người, một nhóm người nào đó. Mà đó là kết quả của quá trình đấu tranh dân tộc và giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác - Lênin đối với cách mạng Việt Nam.

Thứ ba, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một bước ngoặt lịch sử đối với cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá về sự kiện Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là “một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ giai cấp vô sản nước ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”. Khẳng định điều này, ta xét trên hai vấn đề. Thứ nhất, giai cấp công nhân Việt Nam đã có đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản; với chủ trương, đường lối đúng đắn, đưa cuộc đấu tranh của giai cấp mình đi từ “tự nó” thành “vì nó”. Thứ hai, ngay sau khi ra đời, Đảng đã phát động một cao trào cách mạng rộng lớn, trong đó có việc lật đổ chính quyền của Pháp ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, lập chính quyền Xôviết, tuyên bố độc lập và thi hành tự do dân chủ.

Thứ tư, về quy luật ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa ln với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết Ba mươi năm hoạt động của Đảng đã khái quát: “Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”. Đây là quy luật ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quy luật ra đời của Đảng cộng sản là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Đó là quy luật chung có tính phổ biến đối với sự ra đời của các đảng cộng sản. Tuy nhiên, vận dụng nguyên lý này còn xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước, đặc biệt là những nước lạc hậu, giai cấp công nhân chưa phát triển.

Cụ thể ở Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Sở dĩ có yếu tố thứ ba trong quy luật ra đời  của Đảng, là do sự nhận thức sâu sắc của Nguyễn Ái Quốc về truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc và đặc điểm xã hội, giai cấp ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, trong đó đặc biệt là chủ nghĩa yêu nước – nhân tố trường tồn trong tiến trình lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Chính vì vậy, ngay từ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc nhận định: Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước…. Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế cộng sản… nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế. Thực tế cho thấy, kể từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, phong trào yêu nước chống Pháp đã bùng lên ngày càng mạnh mẽ, là nền tảng để từ đó phát triển các phong trào theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau. Khi giai cấp công nhân Việt Nam ra đời, phong trào công nhân xuất hiện thì phong trào yêu nước và phong trào công nhân đã từng bước phối hợp được với nhau và dần dần, phong trào yêu nước chịu ảnh hưởng lập trường của phong trào công nhân vì cùng chung mục tiêu là đánh đuổi đế quốc thực dân xâm lược giành độc lập dân tộc, mở đường cho quốc gia phát triển.

Cạnh đó, vào thời điểm Nguyễn Ái Quốc xúc tiến chuẩn bị các điều kiện để xây dựng Đảng cộng sản thì ở Việt Nam, chế độ phong kiến không còn đại diện cho lợi ích dân tộc; giai cấp tư sản Việt Nam lại có địa vị kinh tế, chính trị yếu ớt…; giai cấp công nhân Việt Nam đã hình thành nhưng chưa đủ thực lực để lãnh đạo cách mạng đi đến thắng lợi. Đây là lý do trực tiếp đòi hỏi Nguyễn Ái Quốc phải sáng tạo trong xây dựng Đảng cộng sản ở Việt Nam.

Vì vậy, quá trình  xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam , Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về xây dựng Đảng trong điều kiện một nước phương Đông thuộc địa, nửa phong kiến tiến hành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ theo con đường cách mạng vô sản.

Thứ tư, qua việc nghiên cứu về quá trình ra đời của Đảng, nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, cũng như thực tế lịch sử còn cho thấy, trong quá trình chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc không chỉ vận dụng sáng tạo, mà còn bổ sung, phát triển học thuyết Mác - Lênin về Đảng cộng sản. Và vai trò to lớn của Nguyễn Ái Quốc không chỉ trong việc chuẩn bị chính trị, tư tưởng, tổ chức và trực tiếp sáng lập ra Đảng, mà những quan điểm, tư tưởng của Người về cách mạng Việt Nam và Đảng cộng sản đã trực tiếp cấu thành Đảng cộng sản Việt Nam. Vì vậy, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Đảng đã trân trọng đưa vào Nghị quyết: “lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”.

Thứ năm, nghiên cứu về sự kiện thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, chúng ta còn nhận thấy một giá trị to lớn nữa là, ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh xác định đúng đắn con đường cách mạng – giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, đây chính là cơ sở để Đảng cộng sản Việt Nam sớm nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX; mở ra con đường và phương hướng phát triển đúng đắn cho đất nước Việt Nam. Sở dĩ có được những thuận lợi trên đây, trước hết là do cách mạng Việt Nam có được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh; tiếp đến là cách mạng Việt Nam có Đường cách mệnh trước khi thành lập Đảng. Đây là điều khác nhau căn bản so với nhiều Đảng cộng sản khác.

Và ý nghĩa cuối cùng, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương: cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của quốc tế, kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nền tảng những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ.

Như vậy, qua nghiên cứu Chương I, chúng ta đã tìm hiểu toàn bộ hoàn cảnh, quá trình ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Qua đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là cột mốc đầu tiên của thời đại Hồ Chí Minh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã đi đến những thắng lợi vô cùng to lớn, trước tiên, là thành công của Cách mạng Tháng Tám, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, sau đó là hai thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ, đưa đất nước vào kỷ nguyên mới: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: