tiet 2
(Tiết 2)
2. Hoàn cảnh trong nước
a) Xã hội Việt Nam dưới sự thống trị của thực dân Pháp
- Chính sách cai trị của thực dân Pháp
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Mặc dù nhân dân ta đã anh dũng đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, nhưng các phong trào yêu nước đều lần lượt bị thất bại. Đến năm 1894, sau khi tạm thời dập tắt được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, người Pháp bắt đầu thực hiện chương trình khai thác thuộc địa ở Đông Dương, mà chủ yếu ở Việt Nam với mục đích tối thượng là biến gấp Đông Dương thành một thuộc địa khai khẩn bậc nhất, bảo đảm siêu lợi nhuận cao nhất cho đế quốc Pháp. Ta có thể thấy cụ thể như sau:
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên chế về chính trị, tức là dùng lối cai trị trực tiếp, thâu tóm hết quyền hành vào tay người Pháp và thẳng tay đàn áp, tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Về cai trị trực tiếp, người Pháp nắm giữ các chức vụ quan trọng, chủ chốt trong bộ máy chính quyền từ trên xuống dưới. Mọi quyền hành đều nằm trong tay các viên quan lại người Pháp từ toàn quyền đến thống sứ, khâm sứ, thống đốc, công sứ… Về chính sách cai trị này của thực dân Pháp, có sự khác biệt với các nước đế quốc khác. Ví dụ như ở Ấn Độ, lúc ấy dân số hơn 300 triệu người thì chỉ có 4.898 viên chức người Anh, còn ở Việt Nam, dân số khoảng 20 triệu người mà viên chức người Pháp đã có 4.300 người. Hệ thống viên chức thuộc địa đó là loại người ăn bám, đè nặng lên người dân thuộc địa.
Với lối cai trị trực tiếp đó, chúng đã tước đoạt quyền đối nội và đối ngoại của nhân dân ta. Triều đình phong kiến nhà Nguyễn vẫn tồn tại nhưng chỉ là bộ máy bù nhìn, tay sai. Thực dân Pháp sử dụng bộ máy cai trị phong kiến thành hệ thống tay sai giúp chúng bóc lột và đàn áp, chứ thực ra, thực dân Pháp không chia cho chúng lợi nhuận tối da thuộc địa của mình, trừ những quyền lợi nhỏ nhặt. Thậm chí, khi gặp khó khăn, chúng tước đoạt luôn cả quyền lợi của chính những kẻ đã can tâm làm tay sai cho chúng.
Thực hiện chính sách chuyên chế về chính trị, thực dân Pháp bóp nghẹt quyền tự do dân chủ của nhân dân. Chính sách của chúng cực đoan đến mức chủ nghĩa cải lương cũng không cho phép tồn tại. Những người có chủ trương cải cách đều bị bắt, tù đày, điển hình như cụ Phan Chu Trinh. Hội họp từ hai người trở lên bị coi là không hợp pháp.
Thực hiện chính sách chuyên chế về chính trị, thực dân Pháp chú ý tới hai yếu tố chính trị là “chia để trị” và “dùng người Việt trị người Việt”. Một mặt, chúng tìm mọi cách chia cắt đất nước, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc Việt Nam hòng phân tán lực lượng để dễ bề cai trị. Nhưng mặt khác, chúng lại quan tâm đến sự thống nhất của bộ máy thuộc địa toàn Đông Dương. Đó là sự phức tạp trong tính chất hai mặt của một chính sách thâm độc.
Theo đó, thực dân Pháp thành lập Liên bang Đông Dương gồm năm kỳ: Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Campuchia và Lào. Trong đó, Việt Nam bị chia cắt làm ba kỳ: Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ với ba chế độ cai trị khác nhau. Bắc kỳ và Trung kỳ là hai xứ bảo hộ vẫn còn giữ lại chính quyền phong kiến về hình thức; Nam kỳ là đất thuộc địa hoàn toàn do Pháp nắm. Với thủ đoạn này, chúng xóa bỏ tên Việt Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ thế giới.
Đứng đầu liên bang Đông Dương có Toàn quyền, là người thay mặt chính phủ Pháp cai trị Đông Dương về mọi mặt. Dưới Toàn quyền là Thống đốc Nam kỳ, Khâm sứ Trung kỳ và Thống sứ ở Bắc kỳ. Đối với chính quyền cấp tỉnh thì đứng đầu các tỉnh ở Nam kỳ là chủ tỉnh; đứng đầu các tỉnh ở Trung kỳ và Bắc kỳ là công sứ. Các quan cai trị đều là người Pháp và thâu tóm mọi quyền hành chính trị. Về hình thức, triều đình nhà Nguyễn trị vì ở Trung kỳ, nhưng thực chất đã bị tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại, quyền hành hoàn toàn nằm trong tay khâm sứ người Pháp.
Cùng với việc phân chia Việt Nam thành ba kỳ với chế độ cai trị riêng ở mỗi kỳ, thực dân Pháp còn thi hành những thủ đoạn nhằm chia rẽ các dân tộc, các tôn giáo, các địa phương, thậm chí các dòng họ; giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương…. Với tất cả các thủ đoạn đó, thực dân Pháp đã thực hiện triệt để chính sách “chia để trị” nhằm phá hoại khối đoàn kết của dân tộc Việt Nam.
Kết hợp với chính sách “chia để trị”, thực dân Pháp thực hiện chính sách “dùng người Việt trị người Việt”, chúng vẫn duy trì và tăng cường bộ máy quan lại thuộc giai cấp địa chủ phong kiến từ cấp phủ, quận, tổng trở xuống đến làng, xã; biến giai cấp này thành tay sai đắc lực trong việc vơ vét, bóc lột về kinh tế, áp bức về chính trị đối với nhân dân Việt Nam phục vụ cho bộ máy thực dân. Việt Nam từ xã hội phong kiến độc lập trở thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến.
Để thực hiện chính sách cai trị thâm hiểm đó, thực dân Pháp đưa ra chiêu bài chính trị lừa bịp: “hợp tác”, “Pháp - Việt đề huề” để che đậy sự cấu kết giữa bộ máy thống trị thực dân với bọn phong kiến tay sai để ra sức áp bức, bóc lột nhân dân ta. Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ, dựa vào sức mạnh quân sự để thẳng tay khủng bố, đàn áp các phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc trong biển máu.
Thực dân Pháp thực hiện chính sách chính trị như trên là nhằm đảm bảo cho việc thực hiện công cuộc khai thác thuộc địa, đem lại lợi nhuận tối đa cho chính quốc. Ta tiếp tục đi vào làm rõ chính sách về kinh tế của thực dân Pháp.
Về kinh tế, chính sách khai thác thuộc địa Đông Dương được Pháp thực hiện với tinh thần cơ bản là: thuộc địa Đông Dương phải được đặc biệt giành riêng cho thị trường Pháp. Nền sản xuất ở thuộc địa này chỉ được thu gọn trong việc cung cấp cho chính quốc nguyên liệu hay những vật phẩm gì mà nước Pháp không có. Công nghiệp nếu cần được khuyến khích thì cũng chỉ trong giới hạn nhằm bổ sung cho công nghiệp chính quốc, không làm hại đến công nghiệp chính quốc.
Vì vậy, Pháp đã thực hiện một chính sách kinh tế thực dân rất bảo thủ và phản động là độc quyền về kinh tế và duy trì phương thức sản xuất phong kiến kết hợp với việc du nhập hạn chế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Nhằm thu được lợi nhuận tối đa, thực dân Pháp thi hành thủ đoạn độc quyền về kinh tế, tức là thâu tóm các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong tay tư bản Pháp. Cụ thể, Pháp thực hiện độc quyền kinh doanh một số ngành công nghiệp nặng, độc quyền nắm phương tiện giao thông vận tải, độc quyền khai thác các mỏ có trữ lượng lớn, độc quyền chiếm đất lập đồn điền, độc quyền xuất nhập khẩu cho đến độc quyền muối, độc quyền thuốc phiện, rượu…
Trong nông nghiệp, thực dân Pháp tiến hành cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền trồng cây công nghiệp, lúa, nhiều nhất là cao su. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu Pháp, đến năm 1930, thực dân Pháp đã chiếm hơn 800.000 ha ruộng của nông dân trên cả ba miền bắc, trung, nam, bằng khoảng 1/6 tổng số diện tích đất đai trồng trọt của Việt Nam lúc bấy giờ.
Trong lĩnh vực công nghiệp, chúng độc quyền khai thác các mỏ khoáng sản dồi dào của Việt Nam: mỏ than, mỏ thiếc, mỏ kẽm… ở Hòn Gai, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Cao Bằng...
Thực dân Pháp nắm độc quyền về ngoại thương: hàng hóa nước khác vào Việt Nam chịu thuế như vào nước Pháp, hàng hóa Pháp vào Việt Nam cũng như hàng Việt Nam sang Pháp được miễn thuế hoặc chịu thuế rất thấp.
Trong lĩnh vực tài chính, chúng thiết lập hệ thống ngân hàng, độc quyền phát hành giấy bạc và cho vay lãi nặng. Ngân hàng Đông Dương là một tập đoàn tài chính có thế lực nhất, chi phối mọi hoạt động kinh tế ở Đông Dương. Thực dân Pháp độc chiếm nguồn thuế, nâng cao mức thuế cũ, đặt thêm thuế mới (thuế rượu, thuế muối và thuế thuốc phiện). Tính bình quân, mỗi người dân Việt Nam trong một năm phải đóng thuế cho chính quyền thực dân số tiền ngang với số tiền công lao động của họ từ 2 đến 3 tháng. Hệ thống thuế má nặng nề do thực dân Pháp đặt ra ngày càng gia tăng làm cho đời sống nhân dân vô cùng khổ cực, bị bần cùng hóa, điển hình như cảnh chị Dậu phải bán chó, bán cả con để có tiền đóng thuế nhưng cũng không có đủ tiền, được Ngô Tát Tố mô tả trong tác phẩm Tắt đèn.
Cùng với việc thực hiện độc quyền về kinh tế, thực dân Pháp thi hành một chính sách rất bảo thủ và phản động: duy trì phương thức sản xuất phong kiến kết hợp với việc du nhập hạn chế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chính sách này của Pháp thể hiện sự phản động ở chỗ, làm cho nền kinh tế Việt Nam không phát triển lên chủ nghĩa tư bản được, cũng không phát triển lên được, mà rơi vào cảnh lạc hậu, phụ thuộc. Cụ thể, đối với thuộc địa Đông Dương, chúng chỉ vơ vét tài nguyên thiên nhiên và bóc lột nguồn nhân công rẻ mạt để đem lại lợi nhuận tối đa cho chính quốc, phục vụ cho sản xuất công nghiệp ở chính quốc, như là trồng cao su để lấy mủ về Pháp phục vụ cho ngành sản xuất cao su, khai thác các mỏ khoáng sản dồi dào như sắt, thiếc, kẽm, than đá,… phục vụ cho công nghiệp của chính quốc. Còn công nghiệp ở thuộc địa chỉ phát triển những ngành phục vụ cho khai thác thuộc địa như điện, nước, hệ thống đường bộ, đường thủy, bến cảng…., chứ không đầu tư phát triển công nghiệp chế biến để dẫn đến cạnh tranh, ảnh hưởng đến công nghiệp chính quốc. Công nghiệp ở thuộc địa chỉ được phép bổ sung, phụ thuộc vào công nghiệp chính quốc. Cho nên, nền kinh tế Việt Nam lúc bấy giờ, xuất sang Pháp và một số nước khác những nguyên liệu như than đá, khoáng sản…, trong khi phải nhập từ cái kim khâu, chiếc đinh đóng guốc đến máy móc, đường ray, toa xe, đầu máy… từ Pháp sang Việt Nam.
Như vậy, toàn bộ chính sách kinh tế của Pháp dẫn đến kết quả tất yếu là kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu, không thể phát triển toàn diện được, và mất độc lập, bị phụ thuộc vào kinh tế chính quốc. Nhân dân Việt Nam bị bần cùng hóa, nông dân, thợ thủ công phá sản, kể cả những nhà tư sản bản xứ cũng bị chèn ép và phá sản. Tuy nhiên, quá trình khai thác thuộc địa của Pháp ở Việt Nam lại dẫn tới một kết quả trái với ý muốn của chúng. Nền kinh tế Việt Nam đầu thế kỷ XX đã có những chuyển biến mới, từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu và đơn điệu đã có một cơ cấu nhiều ngành nghề, gồm cả công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, thương mại, giao thông vận tải. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời ở Việt Nam trong tất cả các lĩnh vực đó. Tuy nhiên, trong khuôn khổ thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Pháp, các thành phần kinh tế dân tộc khó trỗi dậy và luôn bị tư bản nước ngoài chèn ép, kìm hãm. Kinh tế Việt Nam bị cuốn vào cơn lốc của kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhưng bị trói buộc chặt chẽ, lệ thuộc vào tư bản Pháp, bị kìm hãm trong vòng lạc hậu, phát triển què quặt.
Về văn hóa, thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa nô dịch hay văn hóa thực dân, tức là, chính sách văn hóa phải phục vụ cho sự thống trị, cho công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Cụ thể,
Trong giáo dục, thực dân Pháp không chú trọng làm cho nền giáo dục phát triển lên tương xứng với nước Pháp, hay vẻ vang với thế giới, mà chúng thực hiện chính sách ngu dân, làm cho dân ngu để dễ trị. Trong Báo cáo gửi Toàn quyền Đông Dương ngày 1-3-1899, Thống sứ Bắc kỳ đã viết: “Kinh nghiệm của các dân tộc châu Âu khác đã chỉ rõ rằng việc truyền bá một nền học vấn đầy đủ cho người bản xứ là hết sức dại dột”. Vì vậy, chúng ít đầu tư cho giáo dục, làm cho nền giáo dục nước ta rất chậm phát triển và mang nặng mục tiêu chính trị. Điều đó được thể hiện rất rõ: trường học ở các cấp không được quan tâm phát triển, đến năm 1906, cả nước mới chỉ có 25 trường bậc trung học ở tỉnh; các trường nghề chỉ được mở ra nhằm đào tạo nguồn nhân lực cho chúng. Với chính sách đó, cho đến năm 1913, cả nước chỉ có khoảng 100.000 học sinh các loại, chiếm tỉ lệ 0,5% dân số. Dân số cả nước bị thất học đến 95%.
Báo chí là công cụ tuyên truyền đắc lực nên thực dân Pháp rất quan tâm lưu ý. Các tờ báo chủ yếu là công cụ thực dân, nội dung nặng về thông tin và giải thích những mệnh lệnh của chính quyền cai trị, ca ngợi chính sách “khai hóa”, hô hào mở rộng công thương nghiệp,… như các báo Lục tỉnh tân văn, Đại Việt công báo, Đăng cổ tùng báo,…. Hoạt động báo chí bị thực dân Pháp kiểm soát rất chặt chẽ, nhiều tờ báo tuyên truyền yêu nước bị đóng cửa nên các nhà báo cách mạng phải kết hợp vừa ca ngợi chúng hoặc phải xuất bản và tuyên truyền bí mật.
Tình hình sinh hoạt văn hóa có ít nhiều biến đổi và phát triển chủ yếu ở các đô thị nhưng nhà nước thực dân luôn ý thức cho duy trì các lề lối, tập tục hủ bại của xã hội phong kiến Việt Nam, đồng thời, chúng còn dung dưỡng, khuyến khích các tệ nạn xã hội, thể hiện như nạn cờ bạc không bị cấm mà còn khuyến khích cho mở sòng bạc để thu thuế; tệ uống rượu không bị hạn chế mà dân ta còn bị bắt phải uống rượu cồn độ nặng do các hãng rượu độc quyền của Pháp sản xuất trên khắp cả nước; thực dân Pháp còn mở các cơ quan thu mua và các ti bán thuốc phiện để lập quỹ cho Phủ Toàn quyền, chính là trực tiếp khuyến khích nạn nghiện hút. Ở nông thôn, hủ tục ma chay, cưới xin, tệ hương ẩm, nạn hận thù giữa các phe giáp vẫn tồn tại, thêm vào đó là nạn bói toán, đồng bóng, mê tín dị đoan ngày càng nặng nề. Nguyễn Ái Quốc đã tội ác của thực dân Pháp ở Đông Dương “chúng tôi không những bị áp bức và bóc lọt một cách nhục nhã, mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm… bằng thuốc phiện, bằng rượu… chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có quyền tự do học tập”.
Như vậy, với công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân, đất nước Việt Nam, một mặt, bị phá hoại nghiêm trọng tài nguyên thiên nhiên, vơ vét của cải và vơ vét cả sức lực con người, kìm hãm sự phát triển kinh tế đất nước, kìm hãm cả xã hội trong vòng ngu dốt, lạc hậu. Mặt khác, nó tác động mạnh mẽ đến toàn bộ đời sống kinh tế, xã hội đất nước, làm cho nền kinh tế phát triển có tính chất đột biến đồng thời làm xuất hiện nhiều yếu tố mới trong xã hội.
Thực dân Pháp không phải không lường trước hậu quả công cuộc thực dân của họ ở thuộc địa, nhưng xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX đã tồn tại trong bối cảnh lịch sử hoàn toàn mới, có thuận lợi cho quá trình phát triển để đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ lịch sử. Làm rõ điều đó, ta nghiên cứu sự chuyển biến trong xã hội.
- Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam.
Đây là vấn đề tự nghiên cứu, để nắm rõ nội dung này, các đồng chí về làm rõ:
+ Đặc điểm (chủ yếu) kinh tế, xã hội của mỗi giai cấp.
+ Thái độ cách mạng của mỗi giai cấp.
+ Vai trò trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Tóm lại, với sự xâm lược của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam chuyển từ chế độ phong kiến độc lập sang chế độ thuộc địa, nửa phong kiến, các giai cấp mới ra đời là giai cấp công nhân, giai cấp tư sản và tầng lớp tiểu tư sản. Các giai cấp và tầng lớp trong xã hội (cũ và mới) đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị phụ thuộc bị chèn ép, bị áp bức bóc lột bởi thực dân Pháp. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản trước đó là giữa nhân dân mà chủ yếu là nông dân với địa chủ phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản, vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là: mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Từ đó, phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân ta diễn ra rất sôi nổi, theo nhiều khuynh hướng khác nhau, để tìm hiểu, ta đi vào nghiên cứu nội dung…
b) Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
Thứ nhất, phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến
Phong trào Cần Vương (1885-1896): là phong trào vũ trang do Vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng, đã tổ chức tiến công vào tòa Khâm xứ Pháp ở Trung kỳ và đồn Mang Cá nhưng bị thất bại. Tôn Thất Thuyết đưa Vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị) và hạ chiếu Cần Vương. Chiếu Cần Vương tập trung tố cáo âm mưu xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp, đồng thời kêu gọi sĩ phu, văn thân và nhân dân cả nước đứng lên kháng chiến giúp vua, bảo vệ quê hương đất nước. Hưởng ứng chiếu Cần Vương, nhân dân ta ở khắp nơi, dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu, văn thân yêu nước, đã sôi nổi đứng lên chống Pháp, với các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu tập trung chủ yếu ở các trung tâm lớn: khởi nghĩa Ba Đình ở Thanh Hóa do Phạm Bành và Đinh Công Tráng lãnh đạo (1881-1887); khởi nghĩa Bãi Sậy ở Hải Dương do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo (1883-1892) và khởi nghĩa Hương Khê ở Hà Tĩnh do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1885-1895). Ngày 1-11-1888, vua Hàm Nghi bị thực dân Pháp bắt, nhưng phong trào vẫn tiếp tục đến năm 1896 thì thất bại hoàn toàn.
Qua phong trào Cần Vương chúng ta có thể đánh giá ở hai đặc điểm như sau:
Thứ nhất, mặc dù diễn ra dưới danh nghĩa Cần Vương, nhưng thực tế, đây là phong trào yêu nước đấu tranh chống Pháp xâm lược của nhân dân ta. Trong thời kỳ này, hoàn toàn vắng mặt sự tham gia của quân đội triều đình, không đặt dưới sự lãnh đạo của các võ quan triều Nguyễn như trong thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, mà là các sĩ phu, văn thân yêu nước có chung một nỗi đau mất nước với quần chúng lao động, nên đã tự nguyện đứng về phía nhân dân chống Pháp xâm lược. Điều đó, thể hiện triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã không còn là đại diện cho lợi ích của dân tộc. Giai cấp phong kiến và chế độ phong kiến đã mất liên hệ với nhân dân và đã phản bội dân tộc, làm tay sai cho Pháp để áp bức, bóc lột nhân dân ta. Thất bại của phong trào Cần Vương đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ đấu tranh chống Pháp giành độc lập dân tộc dưới khẩu hiệu “phò vua cứu nước” nằm trong hệ tư tưởng phong kiến.
Thứ hai, phong trào Cần Vương phát triển mạnh mẽ ra nhiều địa phương ở Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ, thế nhưng, các cuộc khởi nghĩa đều thất bại, vì nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là do chưa liên kết được lực lượng dân tộc trên quy mô rộng, tạo thành một phong trào có quy mô toàn quốc. Đó là những hạn chế của bộ phận lãnh đạo phong trào.
Trong phong trào dân tộc cuối thế kỷ XIX, song song với các cuộc đấu tranh Cần Vương còn có các cuộc đấu tranh tự phát của nông dân và đồng bào miền núi, nổi bật nhất là phong trào nông dân Yên Thế.
Phong trào nông dân Yên Thế (tỉnh Bắc Giang), 1884-1913. Lãnh đạo phong trào đa số là nông dân, mà người có công to lớn hơn cả là Hoàng Hoa Thám (Đề Thám). Phương thức tác chiến của nghĩa quân là đánh du kích, lấy ít đánh nhiều. Nghĩa quân thường đánh những trận nhỏ, dựa vào địa hình hiểm trở và công sự dã chiến để đánh gần, đánh nhanh rồi rút nhanh. Nhờ chiến thuật đánh du kích mà nghĩa quân Yên Thế ngày càng phát triển và có trận đánh thắng lợi. Nhưng đến những năm 1909-1913, thực dân Pháp tập trung lực lượng để tấn công ồ ạt vào Yên Thế thì lực lượng ngày càng giảm sút. Đến ngày 10-2-1913, Đề Thám bị bao vây, giết hại – sự kiện này đánh dấu thất bại hoàn toàn của phong trào nông dân Yên Thế. Sự thất bại của phong trào nông dân Yên Thế là do chưa có một đường lối rõ rệt, điều đó là do hạn chế của bộ phận lãnh đạo phong trào.
Nhưng qua phong trào nông dân Yên Thế chúng ta thấy rằng: khởi nghĩa Yên Thế là một phong trào đấu tranh tự phát của nông dân. Và sự tồn tại bền bỉ, dẻo dai của phong trào đã nói lên tiềm năng, ý chí và sức mạnh to lớn của nông dân. Nhưng nông dân chỉ có thể trở thành lực lượng cách mạng thực sự khi được giai cấp tiên tiến dẫn đường.
Trong những năm diễn ra Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), các phong trào đấu tranh vũ trang chống Pháp ở Việt Nam tiếp tục diễn ra như: cuộc khởi nghĩa của Thái Phiên và Trần Cao Vân ở miền Trung năm 1916, cuộc khởi nghĩa của binh lính Thái Nguyên năm 1917, phong trào “Hội kín” ở Nam kỳ, các cuộc khởi nghĩa của đồng bào các dân tộc thiểu số (người Thái ở Tây Bắc năm 1914, đồng bào Mông ở Lai Châu năm 1918, người Hán, Nùng, Giao ở Tây Bắc năm 1918…) nhưng đều bị thực dân Pháp đàn áp, tiêu diệt.
Thất bại của phong trào Cần Vương cũng như các phong trào yêu nước trên đã chấm dứt vai trò lãnh đạo của triều đình nhà Nguyễn cũng như sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến và phong trào nông dân trong việc giải quyết nhiệm vụ lịch sử dân tộc.
Thứ hai, phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản
Xem xét phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản, ta phân ra làm hai loại: phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản và phong trào yêu nước do giai cấp tư sản lãnh đạo.
Về phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản, thì đã diễn ra sôi nổi vào đầu thế kỷ XX. Về mặt phương pháp, tầng lớp sĩ phu lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX có sự phân hóa thành hai xu hướng. Một bộ phận chủ trương đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập dân tộc, khôi phục chủ quyền quốc gia bằng biện pháp bạo động; một bộ phận khác lại coi cải cách là giải pháp để tiến tới khôi phục độc lập.
Đại diện cho xu hướng bạo động là Phan Bội Châu, chủ trương đánh đuổi thực dân Pháp để khôi phục nền độc lập cho dân tộc.
Đầu tiên, Phan Bội Châu chủ trương lập chế độ quân chủ lập hiến và dựa vào Nhật để đánh Pháp. Năm 1904, ông tham gia sáng lập Duy Tân hội để khôi phục độc lập dân tộc. Đến năm 1908, Duy Tân hội phát động Phong trào Đông Du và đưa gần 200 thanh niên ưu tú Việt Nam sang học tập trong các trường ở Nhật Bản để đào tạo cán bộ cho cuộc bạo động về sau. Nhưng đến tháng 9-1908, thực dân Pháp cấu kết với người Nhật trục xuất số lưu học sinh Việt Nam khỏi đất Nhật, phong trào Đông Du tan rã. Phong trào này thể hiện một hạn chế rất lớn trong đường lối cứu nước của Phan Bội Châu. Trong tác phẩm Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Trần Dân Tiên đã nhận xét: “Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”.
Đến năm 1912, tại Quảng Châu, chịu ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng Tân Hợi (Trung Quốc), Phan Bội Châu tập hợp những người yêu nước ở Trung Quốc, Thái Lan, thành lập Việt Nam Quang phục hội, từ bỏ lập trường quân chủ lập hiến, chuyển sang lập trường dân chủ tư sản với chủ trương: đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước Cộng hòa dân quốc Việt Nam. Việt Nam Quang phục hội chủ trương đẩy mạnh hoạt động vũ trang, tiến hành các vụ ám sát như ám sát tên Tuần phủ Nguyễn Duy Hàn (Thái Bình) và hai tên trung tá Pháp trước khách sạn Hà Nội. Ngoài ra, Hội đã chỉ huy các cuộc bạo động ở Huế, Thái Nguyên nhưng đều thất bại. Sau các cuộc tấn công đó, thực dân Pháp đã khủng bố dã man, Việt Nam Quang phục hội từng bước tan rã, nhiều nhân vật quan trọng của Hội lần lượt sa lưới giặc, bản thân Phan Bội Châu, sau một thời gian sống ở Trung Quốc, cuối cùng bị thực dân Pháp bắt đưa về nước vào năm 1925.
Sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu trải qua nhiều bước thăng trầm, đi từ lập trường quân chủ lập hiến của Duy Tân hội đến con đường dân chủ tư sản của Việt Nam Quang phục hội, nhưng cuối cùng đều thất bại và đi vào con đường bế tắc. Sự thất bại đó xuất phát từ việc cụ đã không nhận thức được đặc điểm của thời đại, khi mà giai cấp tư sản không còn ở vị trí trung tâm nữa. Trước kia, giai cấp tư sản là bộ phận tiên tiến, thì hiện nay, giai cấp tư sản đã trở thành một giai cấp phản động, cấu kết với nhau để xâm chiếm, đàn áp nhân dân các nước thuộc địa. Đó là hạn chế của bộ phận lãnh đạo phong trào.
Vào nửa đầu thập kỷ 20 của thế kỷ XX, Phan Bội Châu chịu ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga, ông có cảm tình với nước Nga Xôviết, chủ nghĩa xã hội và có ý đặt hy vọng vào Nguyễn Ái Quốc. Hồ Chí Minh đánh giá: “Phan Bội Châu là tiêu biểu cho chủ nghĩa quốc gia”.
Đại biểu cho xu hướng cải cách là Phan Chu Trinh, chủ trương vận động cải cách văn hóa, xã hội; động viên lòng yêu nước trong nhân dân; đả kích bọn vua quan phong kiến thối nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản, với phương pháp khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền, dựa vào Pháp đánh đuổi vua quan phong kiến hủ bại; phản đối đấu tranh vũ trang, phản đối cầu viện nước ngoài. Năm 1906, Phan Chu Trinh cùng nhóm sĩ phu tiến bộ lãnh đạo cuộc vận động Duy Tân ở Trung kỳ. Phong trào này bị thực dân Pháp đàn áp, Phan Chu Trinh bị Pháp bắt và kết án tù ở Côn Đảo. Năm 1911, thực dân Pháp đưa Phan Chu Trinh sang sống ở Pari. Trong hơn mười năm sống ở đây, ông vẫn kiên trì đường lối cải lương, kêu gọi dân quyền, dân sinh, dân trí và phản đối đấu tranh bạo động vũ trang.
Hoạt động yêu nước của Phan Chu Trinh đã góp phần thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất về phương pháp là đường lối cải lương phản đối bạo động (bạo động tắc tử), “… điều đó là sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương”.
Cũng theo xu hướng dân chủ tư sản, các sĩ phu như Lương Văn Can, Nguyễn Quyền… phát động phong trào Đông Kinh nghĩa thục, đứng ra mở trường tư dạy chữ quốc ngữ, với chương trình đào tạo mới. Chủ trương của phong trào là lấy việc đổi mới văn hóa, xã hội, cổ vũ lòng yêu nước làm mục đích hoạt động và nhanh chóng trở thành trung tâm của phong trào Duy Tân ở Bắc kỳ. Thực dân Pháp lo sợ Đông Kinh nghĩa thục trở thành “một cái lò phiến loạn ở Bắc kỳ” nên ra tay đàn áp, tịch thu và cấm lưu hành các tài liệu của Đông Kinh nghĩa thục, bắt các sĩ phu cầm đầu phong trào.
Do những hạn chế về lịch sử, về giai cấp, nên dù theo xu hướng dân chủ tư sản, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, cũng như các sĩ phu cấp tiến lãnh đạo phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX vẫn không thể tìm được một phương hướng giải quyết chính xác cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nên chỉ sau một thời kỳ phát triển đã bị kẻ thù dập tắt.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, mặc dù còn nhiều hạn chế về số lượng, về thế lực kinh tế và chính trị, nhưng với tinh thần dân tộc, dân chủ, giai cấp tư sản Việt nam đã bắt đầu vươn lên vũ đài đấu tranh với thực dân Pháp bằng một số cuộc đấu tranh cụ thể với ba hình thức chủ yếu:
Thứ nhất, Phong trào quốc gia cải lương của bộ phận tư sản và địa chủ lớp trên đã diễn ra bằng việc vận động chấn hưng nội hóa, bài trừ ngoại hóa; chống độc quyền hương cảng Sài Gòn…
Năm 1923, xuất hiện Đảng Lập Hiến của Bùi Quang Chiêu ở Sài Gòn, tập hợp tư sản và địa chủ lớp trên. Họ cũng đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự do dân chủ để lôi kéo quần chúng. Nhưng khi bị thực dân Pháp đàn áp hoặc nhân nhượng thì họ lại đi vào con đường thỏa hiệp.
Thứ hai, Phong trào yêu nước dân chủ công khai của tiểu tư sản thành thị và tư sản lớp dưới. Họ lập ra nhiều tổ chức chính trị như: Việt Nam nghĩa đoàn, Phục Việt (1925), Hưng Nam, Thanh niên cao vọng (1926), thành lập nhiều nhà xuất bản như Nam Đồng thư xã (Hà Nội), Cường học thư xã (Sài Gòn), Quan Hải tùng thư (Huế); ra nhiều báo chí tiến bộ như Chuông Rạng, Người Nhà Quê, An Nam Trẻ…. Có nhiều cuộc đấu tranh chính trị gây tiếng vang khá lớn như đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu (1925), lễ truy điệu và để tang Phan Chu Trinh, đấu tranh đòi thả nhà yêu nước Nguyễn An Ninh (1926). Cùng với phong trào đấu tranh chính trị, tiểu tư sản Việt Nam còn tiến hành một cuộc vận động văn hóa tiến bộ, tuyên truyền rộng rãi những tư tưởng tự do dân chủ. Tuy nhiên, càng về sau, cùng sự thay đổi của điều kiện lịch sử, phong trào trên đây ngày càng bị phân hóa mạnh. Có bộ phận đi sâu hơn nữa vào khuynh hướng chính trị tư sản (như Nam Đồng thư xã), có bộ phận chuyển dần sang quỹ đạo cách mạng vô sản (tiêu biểu là Phục Việt – sau đổi tên là Tân Việt cách mạng Đảng).
Thứ ba, Phong trào cách mạng quốc gia tư sản, gắn liền với sự ra đời và hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng (25/12/1927). Cội nguồn Đảng này là nhóm Nam Đồng thư xã, lãnh tụ là Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính.
Các phong trào cách mạng của giai cấp tư sản và tiểu tư sản trên đã góp phần thúc đẩy phong trào yêu nước chống Pháp, đặc biệt là Tân Việt cách mạng Đảng và Việt Nam quốc dân Đảng.
Tân Việt cách mạng Đảng là một tổ chức yêu nước đã trải qua nhiều thay đổi và cải tổ. Tiền thân là Việt Nam nghĩa đoàn do Lê Văn Huân, Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai… thành lập năm 1925. Qua nhiều lần đổi tên: Hội Phục Việt, Hội Hưng Nam, Việt Nam cách mạng Đảng,… và cuối cùng, đến năm 1928, lấy tên là Tân Việt cách mạng Đảng. Đây là một tổ chức yêu nước của các phần tử thanh niên trí thức, học sinh, công chức, tiểu thương và lúc đầu chưa có lập trường giai cấp rõ rệt. Trong quá trình Tân Việt cách mạng Đảng tồn tại và hoạt động, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đang phát triển mạnh và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Điều này đã làm cho lập trường chính trị của Tân Việt cách mạng Đảng dần dần thay đổi và trong nội bộ Đảng có sự phân hóa theo hai khuynh hướng tư sản và vô sản. Trong đó, số đông các đảng viên Tân Việt, nhất là những thanh niên trẻ tuổi giàu nhiệt huyết thì ngả hẳn sang khuynh hướng vô sản, tích cực chuẩn bị để tiến tới thành lập một chính đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin.
Việt Nam quốc dân Đảng là tổ chức chính trị tiêu biểu nhất của khuynh hướng tư sản ở Việt Nam, tập hợp các thành phần tư sản, tiểu tư sản, địa chủ và cả hạ sĩ quan Việt Nam trong quân đội Pháp.
Bị chi phối bởi các điều kiện giai cấp và xã hội, Việt Nam quốc dân Đảng không đề ra một đường lối chính trị độc lập, rõ ràng. Trong bản Điều lệ được thông qua tại Hội nghị thành lập, Việt Nam quốc dân Đảng ghi rõ mục đích: “Trước mắt làm cách mạng quốc gia, sau làm cách mạng thế giới” (tức là trước tiên đánh đổ đế quốc chủ nghĩa trong nước, sau giúp các nước khác đánh đổ đế quốc giành độc lập dân tộc). Trong bản Điều lệ sửa đổi công bố tháng 2/1929, Việt Nam quốc dân Đảng lại thay bằng ba nguyên tắc tư tưởng của Cách mạng tư sản Pháp 1789: “Tự do – Bình đẳng – Bác ái”. Nhưng đến trước khởi nghĩa Yên Bái (2/1930), Việt Nam quốc dân Đảng lại mô phỏng theo chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn nhưng những nguyên tắc và chính sách có tính cách mạng lại bị loại bỏ. Cụ thể, Việt Nam quốc dân Đảng chỉ ủng hộ chủ trương “cách mạng dân tộc” và “thiết lập dân quyền”, còn khẩu hiệu “bình quân địa quyền” (chia lại ruộng đất cho nông dân) và các chính sách “liên Nga, liên Cộng, phù trợ công nông” (tức đoàn kết với nước Nga xôviết, liên minh với Đảng cộng sản và ủng hộ giúp đỡ công nông) lại không được nhắc tới. Rõ ràng, Việt Nam quốc dân Đảng không có một cương lĩnh thể hiện rõ mục đích và lập trường chính trị của mình. Đúng như Trần Dân Tiên nhận xét: “Nó muốn một nước cộng hòa, nhưng là thứ cộng hòa nào? Sẽ cai trị quốc gia như thế nào? Với phương pháp gì người ta sẽ xây dựng lại kinh tế quốc gia? Làm thế nào để nâng cao mức sống của những tầng lớp nhân dân lao động, thợ thuyền, nông dân và trí thức? Về những điều này, Việt Nam quốc dân Đảng chưa có chương trình rõ rệt”.
Do không có lý luận cách mạng làm cơ sở cho đường lối và phương pháp đấu tranh nên Việt Nam quốc dân Đảng thiên về các hoạt động ám sát, khủng bố cá nhân. Điển hình là vụ ám sát tên trùm mộ phu Bazin ngày 9/2/1929 tại Hà Nội. Vụ án này đã làm cho thực dân Pháp điên cuồng khủng bố phong trào yêu nước. Việt Nam Quốc dân Đảng bị tổn thất nặng nề nhất. Trong tình thế hết sức bị động, các lãnh tụ của Đảng quyết định dốc toàn bộ lực lượng vào trận chiến đấu cuối cùng với tư tưởng “không thành công cũng thành nhân”.
Ngày 9-2-1930, cuộc khởi nghĩa Yên Bái bùng nổ, trung tâm là thị xã Yên Bái với cuộc tiến công trại lính Pháp của quân khởi nghĩa. Ở một số địa phương như Thái Bình, Hải Dương… cũng có những hoạt động phối hợp.
Khởi nghĩa Yên Bái nổ ra khi chưa có thời cơ, vì thế nó nhanh chóng bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Các lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân Đảng cùng hàng ngàn chiến sĩ yêu nước bị bắt và kết án tử hình. Vai trò của Việt Nam Quốc dân Đảng trong phong trào dân tộc ở Việt Nam chấm dứt cùng với sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái.
Khởi nghĩa Yên Bái với những hành động quả cảm của các nghĩa quân Việt Nam quốc dân Đảng đã thể hiện tinh thần yêu nước, chí khí quật cường của dân tộc ta mặc dù thành phần xã hội có khác nhau, góp phần thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước trong các tầng lớp nhân dân. Từ đó, thấy rõ mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc Pháp đã trở nên vô cùng gay gắt.
Tuy nhiên, thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái cũng chứng tỏ sự bồng bột, hăng hái nhất thời của tầng lớp tiểu tư sản. Đó cũng chính là thất bại của giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh giành quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Đồng chí Lê Duẩn – nguyên Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam nhận định: “Khởi nghĩa Yên Bái chỉ là một cuộc bạo động bất đắc dĩ, một cuộc bạo động non, để rồi chết luôn không bao giờ ngóc lên nổi. Khẩu hiệu “Không thành công thì thành nhân” biểu lộ tính chất hấp tấp tiểu tư sản, tính chất hăng hái nhất thời và đồng thời cũng biểu lộ tính chất không vững chắc, non yếu của phong trào tư sản”.
Từ sau khởi nghĩa Yên Bái và sự tan rã của Việt Nam quốc dân Đảng, khuynh hướng cách mạng dân chủ tư sản hoàn toàn thất bại, hệ tư tưởng tư sản cũng hoàn toàn bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Ngọn cờ cách mạng đã chuyển hẳn sang tay giai cấp vô sản.
Tóm lại, qua nghiên cứu về các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản, ta thấy rằng, trước yêu cầu lịch sử của xã hội Việt Nam, các phong trào đấu tranh chống Pháp diễn ra sôi nổi. Mục tiêu của các cuộc đấu tranh thời kỳ này đều hướng tới giành độc lập cho dân tộc, nhưng trên các lập trường khác nhau nhằm khôi phục chế độ phong kiến, hoặc thiết lập chế độ quân chủ lập hiến, hoặc cao hơn là thiết lập chế độ cộng hòa tư sản. Các phong trào đấu tranh diễn ra với các phương thức và biện pháp khác nhau: bạo động hoặc cải cách; với quan điểm tập hợp lực lượng bên ngoài khác nhau: dựa vào Pháp để thực hiện cải cách, hoặc dựa vào ngoại viện để đánh Pháp…. Nhưng cuối cùng các cuộc đấu tranh đều thất bại.
Một số tổ chức chính trị theo lập trường quốc gia tư sản ra đời và đã thể hiện vai trò của mình trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và dân chủ. Nhưng các phong trào và tổ chức trên, do những hạn chế về giai cấp, về đường lối chính trị; hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ; chưa tập hợp rộng rãi được lực lượng dân tộc, nhất là chưa tập hợp được hai lực lượng xã hội cơ bản là công nhân và nông dân, nên cuối cùng đã không thành công. Sự thất bại của các phong trào yêu nước theo lập trường quốc gia tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX đã phản ánh địa vị kinh tế và chính trị yếu kém của giai cấp này trong tiến trình cách mạng dân tộc, phản ánh sự bất lực của họ trước những nhiệm vụ do lịch sử dân tộc Việt Nam đặt ra.
Mặc dù bị thất bại, nhưng sự phát triển mạnh mẽ của phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có ý nghĩa rất quan trọng. Nó là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất vì độc lập tự do của dân tộc Việt Nam và chính sự phát triển của phong trào yêu nước đã tạo cơ sở xã hội thuận lợi cho việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm cách mạng Hồ Chí Minh. Phong trào yêu nước trở thành một trong ba nhân tố (nguồn gốc) dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.
Sự thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã chứng tỏ con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản đã bế tắc. Cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối, về giai cấp lãnh đạo. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là phải tìm một con đường cách mạng mới, với một giai cấp có đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, của nhân dân, có đủ uy tín và năng lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành công.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top