Tiếng gọi ngàn (1)

Cứ vài ba tháng là bà con ấp Kèo Nèo lại rủ nhau tổ chức đi "săn hội" một lần. Bởi lâu ngày thèm thịt, ăn mãi cá tôm phát chán cũng có. Bởi thích thú chạy nhảy đuổi bắt, hò la thỏa sức cũng có. Ðối với các tay lì lợm có chút ít võ nghệ thì đó là dịp phô phang tài trí, đem gan góc ra thử thách, đối chọi với nanh vuốt của các con vật rừng hung hãn nhất.

Ðàn ông trai tráng khỏe mạnh tích cực, tất nhiên. Mà đàn bà trẻ con yếu ớt cũng hăng hái theo phụ trợ. Bởi các con thịt lớn săn được, đều có phần chia cho từng nhà, còn con nào nho nhỏ thì gia đình ai bắt được nấy ăn. Và cũng bởi trong các câu chuyện kể ở các tiệc nhậu giỗ, nhậu cưới... thì chuyến đi săn được thực khách đứng ra biểu diễn lúc chính mình đánh nhau với ác thú, bao giờ cũng là tiết mục hấp dẫn, hồi hộp, khoái trá được mọi người hoan nghênh nhất. Mà ở cái xứ rừng heo hút của đất Gò Quao - trong những năm hai mươi của thế kỷ chúng ta đang sống đây - đã gọi là tay "võ dõng" thì nào ai há chịu kém ai. Chính vì thế mà hầu như không có mấy con vật rừng sống sót, mỗi lần họ tập hợp hàng đôi ba trăm người hăm hở kéo nhau gõ thùng thiếc, khua chiêng huơ dáo mác vây kín cả một khu rừng nào đó, từ lúc mặt trời còn chưa ló dạng.

Từ hổ báo, lợn rừng, nai, hoẵng, khỉ, vượn, chim nước, kỳ đà, rắn, rùa... cho tới con nhen con sóc vừa giật mình thức dậy nhô đầu ra khỏi bộng cây, con chuột nhum ăn đêm chưa kịp về đến tổ chui trốn xuống hang cũng đều khó lòng thoát khỏi tay họ. Nói chung tất cả các loài bò, bay, lùi, chạy trong khu rừng bị bao vây đều biến thành mồi nhậu của những bữa rượu kéo dài thâu đêm.

Vậy mà lần nọ, có một con lợn rừng con thoát chết. Lợn rừng mẹ đã chống cự quyết liệt để bảo vệ con. Bị mác thông đâm lút cai, nó không ngớt hộc lên dữ dội, còn nghẹo cổ cắn nát cái mác thông và húc mấy người suýt toi mạng. Hạ được mẹ rồi, họ nổi khùng giết luôn cả đàn con. Còn một con trốn chui vào hốc cây. Khi một ngọn mũi chuồi vừa chong ra, sắp sửa thọc vào hông con vật rừng bé nhỏ thì chú Tư Ðằng trưởng ấp phát hiện thấy nó có cái vá trắng giữa trán, bèn la lớn:

- Dừng tay lại! Ðừng đâm... Ðừng đâm nghe các cha nội!

- Tại sao? Người toan đâm, mắt đầy sắc khí, hầm hầm quay lại hỏi.

- Linh vật đa! Không thấy cái đốm giữa trán nó sao? Từ nhỏ tới giờ tôi mới thấy giống heo rừng có con này là một.

- Vậy mà thả nó sống để nó lớn lên thành tinh à?

- Thả đâu! Bắt về chớ! Ðể bắt nó về tặng thầy giáo Bẩy!

Nhờ cái vá trắng giữa trán và lòng mến mộ thầy giáo Bẩy của bà con ấp Kèo Nèo mà con lợn rừng con này thoát chết.

* * *

Thầy giáo Bẩy thích nuôi chim, nuôi khỉ, nuôi trăn... Khi chúng quen người và lớn rồi, thầy thả sống tự do chứ không nhốt. Dường như con nào cũng "khôn", rong chơi chán - có khi đến vài ba tháng - lại biết tìm về nhà chủ. Nhưng rút cuộc nhà thầy không còn con nào. Có thể chúng sa hầm vướng bẫy, thọ tên chết ở một cánh rừng nào đó, cũng có thể chúng ra đi theo tiếng gọi của núi rừng và giống loài muôn thuở cũng nên. "Thật là uổng công xúc tép nuôi cò, cò ăn cò lớn cò dò lên cây!". Cũng đã có vài người tiếc hộ công lênh, chê thầm thầy như vậy.

Thầy Bẩy được tiếng là người có tài thuyết phục các con rừng mà ai cũng cho là khó nuôi dạy. Nhiều lúc thầy ngồi suy tư hàng giờ, con trăn bò lên cổ, quấn quanh người, thè lưỡi liếm mặt, thầy cũng không động đậy. Chú Tư Ðằng từng nghĩ: ắt thầy là người khai sáng một thứ Ðạo gì đó, chẳng qua "phong vân chưa gặp hội" nên còn ẩn tích mai danh, chưa ra mặt cứu đời. Cho nên khi ôm con lợn rừng con đến tặng thầy, chú có nói vui, giọng thật thà: "Biết đâu nó cũng là một Thiên bồng nguyên soái (1) phải đọa xuống trần cũng nên!". Thầy Bẩy cười, cám ơn chú rối rít, rồi lại lắc đầu cười mà chẳng có ý kiến nhận xét, bình phẩm gì.

(1) Tiền thân của Trư Bát Giới trong Tây du ký

Nói cho "miên" thì bà con chẳng ai rõ lai lịch thầy Bẩy. Người thì bảo chắc ông thất tình hoặc trốn nợ; kẻ cho rằng: có chữ nghĩa như ông, ra làm việc thì thông ngôn ký lục dễ như chơi, lại bỏ trốn thị thiềng lánh về xứ khỉ ho cò gáy này, sống như một nông dân lam lũ, là ông muốn tỏ thái độ bất hợp tác với nhà nước Pháp... Tất cả những tiếng xầm xì ấy đều có đến tai thầy. Thầy chỉ mỉm cười. Mà điều này chánh hương quản ở tận trên "nhà việc" cách hai mươi cây số cũng có để mắt tới. Nhất là chuyện khi mới về đây, thầy thường khuyên nhủ bà con cố gắng cho con cháu đi học để "mở mang tâm trí". Biết vậy, nhưng mà học ở đâu? Ngay cả xã và các làng phụ cận cũng không có lấy một trường tiểu học? Hương chức hội tề nhiều ông còn dốt đặc cán mai, tập được một chữ ký tên cũng là khá lắm. Thầy xin phép làng, đứng ra dạy các em học tại nhà mình không lấy một xu cắc bạc nào; trò nào nghèo quá thầy còn cấp cho cả giấy bút. Bà con dân ấp cảm phục nghĩa cử ấy, mặc nhiên gọi ông là thầy giáo. Lâu ngày thành một danh xưng. ở thời đế quốc tư bản Pháp khuếch trương kinh tế lớn tại các thuộc địa sau đại chiến thế giới thứ nhất, giữa lúc mọi người bon chen theo đường danh lợi, giữ mình thanh khiết được như thầy là chuyện hiếm. Thầy cất một ngôi nhà sàn nhỏ ngoài đầu xóm, xin phá đất cấy một khoảnh ruộng nhỏ đủ gạo ăn; cũng đi "ăn ong", đốn củi như mọi người. Ngoài những giờ lao động, thầy lấy sự dạy trẻ và chăm sóc các con vật rừng làm vui. Hầu như thế sự gác ngoài tai.

Thầy đặt tên con lợn rừng còn sống sót ấy, tên con Vá.

Ðó là một con cái đã bước vào tháng tuổi thứ tư. Nếu không gặp tai họa vừa rồi thì nó vẫn còn quây quần bên mẹ cùng các anh chị nó, cho đến hết tuổi hai năm mới lìa đàn. Dù sao trong ba tháng theo mẹ lùng sục giữa rừng bụi hoang vu, nó đã có thể sống tự lập được rồi. Ðâu còn tính thuần khiết ấu nhi như những chú lợn rừng non mới đẻ bị bắt còn chưa kịp phủ lông tơ, chịu phục tùng bú bình sữa hay núc vú một con chó cái đẻ mất con.

Tính chất hoang rợ còn nguyên vẹn đó là trở ngại lớn, trong cố gắng đem lại sự gắn bó với con người cô đơn này. Hơn nữa, nó đâu phải là một con chuột lang mua ở chợ về, một con chuột lang con lần đầu tiên mở mắt trong nhà người. Ngoài khoai sắn, khoai lang và các thứ rễ củ mềm, con Vá còn đánh hơi thịt sống. Nó đã thè chiếc lưỡi nhám thử liếm từng nhát một, khúc thịt rắn thầy Bẩy xin về ném chỗ góc sân. Và cũng bắt chước mẹ trong tư thế ngồi xổm trước thây con chuột nhum hay thây con rắn mai gầm: những cung cách quen thuộc đã thổi vào tâm hồn con vật dễ nổi xung này, tính e dè sợ hãi và thói ưa dọa nạt, vốn là bản tính của các loài thú rừng hoang dã.

Việc dạy tập cho con Vá quen người phải kiên trì từng bước. Tất cả bộ dạng nó đều thoát ra một sự nghi ngờ. Thấy người lạ, nó lùi phắt lại. Hai chót tai nhọn hoắt của nó cụp xuống dựng lên một cách dữ tợn, những nếp cau ngược giữa vá trán rung rung và hai khóe mép bóng như nhọ mỡ chốc chốc lại nhếch một cái để lộ những chiếc răng hàm mới nhú trắng tinh. Chót đuôi cũn cỡn túm lông bé tẹo của nó quật mạnh vào hai bên mông liên tục, và nếu thấy người làm một cử chỉ đe dọa như dư dứ cánh tay chẳng hạn, là y như nó lao tới một bước chẳng khác gì mẹ nó lúc giận dữ chìa hai chiếc nanh cong nhọn hoắt ra, lao thẳng vào bụng kẻ thù xốc ngược lên trước khi quật xuống đất. Tất nhiên là "thế võ cổ truyền" ấy nó mới chỉ đánh vào không khí, đầu hất qua hất lại một cách còn rất vụng về.

Và đã phải khá lâu, con Vá mới quen dần, chịu đứng yên để thầy gãi lưng, trong lúc đang nhai tóp tép những bắp ngô non. Thức ăn bằng động vật sống như ếch nhái, rắn con... mà đám học trò đập được dọc đường, mỗi ngày mang đến cho nó, khoảng cách ấy thưa dần theo lệnh thầy giáo. Khi nó chỉ được cho ăn chuối cây thái ủ chua và các thức ăn nấu chín sền sệt như cháo gạo lức... thì đối với nó từ chỗ lạ lẫm ngạc nhiên buổi đầu, qua vài hôm đã thành một sự thèm quen thích thú. Khi móng nó đã to như chiếc cốc, hai chiếc nanh nhọn bắt đầu nhô ra khỏi khóe mép và chỉ một cái hất mõm, nó đã đánh gẫy rắc chiếc cột chôn giữa sân thì những bữa ăn đúng giờ giấc cũng bắt đầu.

Còn những trò đùa nghịch thì nó mới chỉ học được quen quen thôi. Như ủi lăn những khúc gỗ cắt ngắn chất trong sân chưa bổ thành củi, lắc mõm đánh rơi từng quả mướp xác - tròn như quả bóng te - nít - thầy Bẩy lần lượt tung lên trước đầu nó, đuổi nhau với Bé Hai con chú Tư Ðằng và con chó Mực nhỏ chạy vòng quanh sân... đôi khi thầy Bẩy cũng tham gia. Sắc lông óng mượt hoe hoe toàn thân rực vàng trong nắng, đã xóa hết những vằn lông sọc dài thẫm màu, lùi xùi, thưa và cứng hai bên hông, còn cái vá trắng cũng to gần bằng bàn tay. Nó đã là một con lợn rừng choai có bước đi chững chạc, chân đứng khá cao.

Dù có cao to nặng cân hơn trước, nó vẫn thừa nhanh nhẹn lao theo đớp những con dơi muỗi bay là là trên sân, rồi đứng vẫy đuôi nhai gau gáu, và khước từ không nghĩ đến chuyện làm cho con chồn, con cù lần (2) đã được thuần hóa luẩn quẩn dưới sân nhà lo ngại.

(2) Con cu ly

Chỉ có một điều làm nó khủng khiếp: đó là những người nông dân lực lưỡng cởi trần vác đòn xóc, dắt những con trâu có cặp sừng cong nhọn hoắt đi qua bên ngoài rào.

Nhún nhường và tự hạ buổi sáng, nghịch ngợm hoặc lục lọi ủi chơi nhăng nhít sau các bữa ăn, đó là đặc điểm của nó ban ngày. Tuy nhiên, nhiều lúc nó cũng suồng sã nhảy lên sàn, chực bên bàn thầy Bẩy đang ngồi ăn cơm để vòi vĩnh xin một vài miếng xương đang gặm dở. Nhưng ban đêm, khi gió thổi qua rừng đưa đến nó mùi hương của những vành hoa mới nở, hơi thở của rừng rậm và mùi mồ hôi các loài thú hoang, con Vá cảm thấy bồn chồn, nó không ịt ịt nữa, mà đầu hết lắc bên trái lại lắc bên phải, ẹc ẹc giống như lúc nó theo mẹ lần các con đường mòn dẫn ra những rẫy ngô, ra các ven đầm nước. Nó loanh quanh đi trong sân, nhiều lúc chồm lên vách rào cố lách mõm ngó ra ngoài tò mò muốn được đến gần nhìn xem những gì mà các giác quan vừa tiếp xúc, khiến nó cố đoán ra.

Giam nhốt nó vào cũi vào chuồng, chuyện ấy dễ quá, ai chẳng biết nhưng thật là lố bịch. Bởi điều đó, trước hết là trái với quy luật của ngàn xanh. Cũi chuồng vốn là sáng kiến của những kẻ tàn nhẫn. Thầy Bẩy vẫn nghĩ thế. Hơn nữa, con Vá đâu phải là con lợn thịt.

Chủ nó đã tập cho nó quen đeo vòng cổ. Ðầu tiên thầy chỉ buộc quanh cổ nó một vòng dây da có khóa sắt nhỏ, xem như một món trang sức. Và đính thêm chiếc lục lạc, nhất cử nhất động của con Vá đều rung leng keng. ít lâu sau lại buộc vào vòng cổ một đoạn thừng thả lỏng. Tất cả những việc đó đều xem như trò chơi. Dù con Vá nhiều lúc có nổi xung, nhẩy dựng ngược, quay đầu đánh tung sợi thừng vướng víu, sự bực mình ấy vẫn cứ là trò chơi kia mà.

Chiếc vòng de đeo ở cổ con Vá cứ nửa tháng lại được nới rộng thêm một nấc, nhưng không bao giờ rời cổ nó nữa. Thường ban ngày nó vẫn ngủ từ sáng đến ba bốn giờ chiều. Giờ đó, tập tính giống loài mới đánh thức nó dậy đi ăn. Bây giờ cái ăn không phải lo. Nó tha hồ rong chơi, lê la đi khắp sân. Ban đêm, đầu thừng thả lỏng mới được buộc vào bên chân bậc thang lên xuống nhà. Nó chỉ cần ngoái cổ cắn một nhát đủ đứt phăng. Tuy nhiên, con Vá vẫn phục tùng nằm đấy, như một cần vụ trung thành suốt đêm thức canh cho chủ ngủ, an tâm về sự hiện diện của chủ mình trên ngôi nhà với ý thức kiêu hãnh được bảo vệ tuyệt đối, không hề lo sợ một cuộc tấn công bất thình lình của con hổ - con báo nào có thể xảy ra đối với nó.

Ngờ đâu chính đoạn thừng thả lỏng ấy đã gây nên một tai biến.

Hôm nọ thầy Bẩy có việc bận đi vào xóm. Bọn học trò lau nhau về hết rồi, chỉ còn mỗi Bé Hai ở lại thổi nồi cơm giúp thầy - thỉnh thoảng ban đêm nó còn ôm mền đi ngủ với thầy cho vui - con Mực theo lệ thường chạy đến đón cậu chủ nhỏ. Bé Hai nghe tiếng sủa, mở cổng cho con Mực vào. Vá và Mực cùng mừng rỡ nhẩy cỡn lên, hệt đôi bạn nhỏ lâu ngày gặp nhau. Thế là trò chơi đuổi bắt quanh sân như trước kia lại diễn ra. Bé Hai bận quay vào trông nồi cơm, quên khuấy cánh cổng mở. Ðùa nghịch một lúc, Mực bị đuổi gấp, nột quá quay cắn vào chót mõm Vá một cái rồi chạy vọt ra cổng. Vá lập tức phóng theo. Mực về đến gần nhà, cậy nhà bèn quay lại khòm xuống vẫy đuôi nhảy qua nhảy lại, tỏ ý bỡn cợt thách thức. Khi Vá lao tới, Mực nhanh nhẹn chui qua chiếc thuyền úp, kê trên bốn thanh đà gác chéo của ông trưởng ấp kéo lên bờ sông chờ sửa chữa. Ai chẳng biết ngón võ lợi hại của lợn rừng khi đánh nhau với hổ, là dụ hổ đến gần một thân cây đổ ngang mặt đất. Hổ quen thói nhảy lên cao chụp xuống bám lưng để cắn cổ đối thủ, sẽ bị lợn rừng luồn vụt qua dưới thân cây. Hổ bất ngờ bị thân cây đánh vào mặt như búa giáng, tất ngã lăn ra, chưa kịp choàng dậy thì đã bị lợn rừng quay phắt lại, vung hai chiếc nanh cong nhọn hoắt xóc vào hạ bộ hất tung lên. May mắn mà sống sót, nếu con nào không mất giống thì cũng cạch đến già... Mực vừa chui sang bên kia, thì Vá tức khắc vận dụng miếng võ cổ truyền nhoài mình xuống luồn theo như một làn chớp. Sợi thừng thả lỏng bỗng mắc vào gốc đà bắt chéo, giật gẫy thanh đà và chiếc thuyền úp đổ sập xuống, - một bên be đè đúng giữa lưng con Vá. Nó hộc lên dữ dội, hai chân trước cào đất bắn tứ tung cố nhoài ra, càng nhoài thì sợi thừng càng căng thẳng, siết vào cổ họng. Bốn chiếc móng guốc nhọn đen nhánh như sừng của nó cày sâu vào đất cố rướn tới, các bắp thịt nổi vồng lên giữa lớp da ướt mồ hôi, nó vùng vẫy dốc hết lực nhoai ra mà vẫn không thoát ra khỏi khối nặng đè giữa lưng như một quả núi. Tiếng hộc dữ dội của nó ban đầu làm lũ gà vịt trên sân hoảng hốt chạy tán loạn - chốc sau chỉ còn là những tiếng khàn khàn rồi hổn hển từng cơn. Ðôi lúc nó nín im, dường như muốn tìm lại sức dẻo dai. Nhưng lực khỏe dẻo dai của giống nòi, thực ra đã rời bỏ nó rồi. Những bắp thịt nuộc lưng thẳng căng như sắp đứt vẫn còn giữ được các đốt xương sống dính nhau đấy, nhưng mà chóng chầy cũng có thể sẽ bục ra thôi.

Thầy Bẩy trên đường về, nghe tiếng hộc bất thường của con Vá, vừa kịp lao đến bắt gặp tình huống nguy kịch ấy, và con Vá cũng nhìn thấy thầy. Nó cố chồm về phía chủ nhưng sợi thừng mắc trong lòng thuyền úp lại kéo ngược đầu nó lại. Hai chân trước co dưới cổ như con lợn co trên bàn tế, nó ngước mắt lên nhìn chủ đang không bỏ lỡ một giây phút, è ạch cố nhắc be thuyền lên. Chiếc thuyền nặng quá không sao nhấc nổi. Thầy quay lưng chạy vào nhà chú Tư Ðằng, để mặc con Vá nằm nguyên đó, trong thế chết hiểm nghèo. Như một quả bóng xì hơi, từ trong cuống họng của con lợn rừng lâm nạn thoát ra một tiếng rên nhỏ kéo dài đầy oán trách: ông chủ bỏ đi rồi.

Khi thầy Bẩy hối hả trở lại tay cầm con dao yếm, tay xách chiếc đòn tra thì con Vá đã bất động, nhìn thẳng vào thầy bằng cặp mắt chờ đợi mênh mông, đầy nhẫn nhục, như sắp bật ra khỏi tròng bởi quá sức chịu đựng, mép sùi đầy bọt trắng. Xoẹt một cái, sợi thừng đứt phăng, và chiếc đòn tre đã bẩy được chiếc thuyền lên. Con Vá lập tức trườn ra và không phải đợi chờ lâu, chỉ mươi bước chụm chân nó đã phóng bay về nhà, chạy vòng quanh sân.

Thầy Bẩy về đến nhà vừa mệt khát. Thầy bước lại lu nước mưa chỗ đầu hồi, cầm chiếc gáo dừa khom xuống, chưa kịp múc lên uống, bỗng cảm thấy hai vai bị một sức nặng của đôi chân to tướng bất thình lình chụp bổ tới. Thầy ngã sấp xuống, vừa lăn mình chưa kịp trở dậy thì trước mặt thầy, lù lù bộ mặt của con vật rừng đã lớn khò khè thở thẳng vào mặt thầy một mùi hăng hăng.

Thầy muốn tự vệ, tay đẩy mõm nó ra, tay giữ chân nó lại. Nhưng con Vá đã đè lên người thầy, chà qua sát lại với sức nặng gần hai trăm cân của những bắp thịt rắn chắc như thép. Sự lo sợ làm thầy tuần tự mất hết cảm giác, đờ người rồi nhẹ bỗng đi và nặng trịch nhấc tay chân lên hết nổi. Nhưng trạng thái đó diễn ra không lâu. Từ trong cổ họng con Vá không phát ra tiếng gầm rít của những con lợn rừng độc khi nổi xung, đe dọa mà là một giọng gầm gừ trầm đục, sâu thẳm kéo dài. Mép nó không nhe lên, chìa cặp nanh ra mà từ trong mõm nhọn thè ra cái lưỡi nhám liếm hai bàn tay thầy đang đưa lên chống đỡ, liếm lên trán, lên mặt và khắp cả ngực cả vai thầy. Bốn chiếc móng guốc nhọn của nó choãi ra để tránh dẫm lên mình thầy, con Vá cứ đứng vẫy đuôi đưa mõm cọ cọ vào người chủ tốt bụng của nó với tấm lòng kính trọng, thương yêu và chan chứa sự biết ơn.

Bé Hai nghe thấy tiếng thầy ngã, chạy ra chứng kiến hết. Thoạt đầu, tưởng con Vá nổi cơn điên hành hung, thấy tính mạng thầy nguy cấp đến nơi, nó với chiếc đòn xóc chạy tới toan đâm con Vá. Nhưng rồi hai cánh tay bé nhỏ của Bé Hai đang lăm lăm giơ lên lấy đà đâm bỗng sựng lại rồi từ từ hạ xuống. Nó ngạc nhiên, sửng sốt đứng nhìn con vật thường được đem ra ví với người kém thông minh biểu hiện tình cảm mến chủ đến mức gần như người!

Từ hôm đó, con Vá ngày càng thêm quyến chủ. Nó chẳng muốn đùa nghịch lúc không có thầy, nghe thầy gọi dù đang chơi, đang ăn nó cũng bỏ, chạy đến ngay. Ðêm thầy lội đi soi ếch nó cũng lội theo. Buổi trưa thầy nằm đưa võng trước hàng hiên, nó trèo lên sàn nằm dưới chân thầy và đôi lúc thầy ngủ quên nó còn len lén ngước mõm lên liếm nhẹ vào chân chủ. Con Vá đã trở thành bạn chí thiết của thầy giáo Bẩy.

Nhiều người khen con vật khôn. Cũng nhiều người bĩu môi vì ghen tị với thầy: "Có khôn gì cũng là heo rừng. Trước sau gì, động đực nó cũng bỏ về rừng cho mà coi!".

Ðiều họ nghi ngờ đó đã đến!

Sáu tháng mùa mưa, gió ẩm ướt thổi thốc liên miên trong những cánh rừng tràm U Minh Thượng qua rồi, kề đến những ngày nắng nóng cháy da kéo dài của sáu tháng mùa khô cũng trôi qua. Con Vá đã tròn hai mươi bốn tháng tuổi. Ðối với một con lợn rừng cái, đó là tuổi dậy thì của một thiếu nữ mười tám.

Chẳng có gì thay đổi ngoài sự choán chỗ nằm của nó ngoài hành lang mỗi tháng một rộng thêm. Ngoài rừng có vài loại cây đã thay dần lá mới, và điều đó không diễn ra một lúc như cây trổ lộc mùa xuân. Một thứ băn khoăn đang xâm chiếm cả tâm hồn con Vá. Ðêm nó không còn có những giấc ngủ yên tĩnh như trước nữa. Nó thường đứng chồm chân, ngước lên giật giật kéo sợi thừng buộc cổ và đánh hơi bốn phía có các luồng gió thổi về. Những luồng gió từ mọi hướng đưa đến nó tiếng thì thầm của ngàn xanh và mùi rú rậm.

Người không chú tâm có thể cho là đôi tai nhọn, cứng đờ của con vật rừng không chịu nổi tiếng lũ chó xóm dai dẳng khiêu khích; còn như chú Tư Ðằng thì có thể chú tin là nó bị ma trêu quỷ ám cũng nên. Nhưng điều làm con Vá băn khoăn, bồn chồn chính là những tiếng xôn xao mà tai người không thể nghe được, nó gần như tiếng búp lá cựa mình, như tiếng lách nhẹ của một chồi non nhú lên khỏi mặt đất mềm. Ðêm này sang đêm khác, khi vầng trăng thượng huyền cứ lên cao dần thì những tiếng xôn xao mơ hồ đó nghe càng rõ hơn. Chắc chắn là gió có trở mạnh hơn và lay động cây rừng nhiều hơn.

Ðiều ấy chẳng ảnh hưởng gì đến giấc ngủ của thầy giáo Bẩy và các cuộc nhậu, các đám đờn ca đêm của những chàng thanh niên trong xóm. Tối nọ, những tiếng xôn xao ấy rõ lên đến mức lọt tai ông già Nam, một lão lâm kỳ cựu:

- Bà con liệu dỡ khoai, hái bắp đi sớm. Không khéo heo rừng về phá hết rẫy đa!

Các bợm rượu trong xóm nghe vậy liền kháo nhau: "Vậy thì ta đào hầm, gài bẫy bắt... kiếm mồi nhậu đi, các cha!"

Ban ngày con Vá vẫn ăn, tợp nước cám trong máng, vẫn ngủ ngáy rõ to và đùa nghịch như thói quen thường lệ, chẳng có gì thay đổi. Nhiều người đến chơi, tấm tắc khen con lợn rừng lớn nhanh, đẹp mã, khuyên thầy Bẩy nên coi chừng kẻo nó bứt dây, phá rào đi mất thì uổng lắm. Họ nói vui vậy thôi, chứ họ biết tỏng tòng tong con Vá đã trở thành "tù binh nô lệ" của thầy rồi.

Tuy nhiên, một hôm Bé Hai đến sớm thấy con Vá nằm dang xa chỗ sợi thừng buộc cổ. Sợi thừng đã bị răng nó cắn một nhát đứt gọn như dao cạo. Thầy Bẩy nghe kêu, chạy xuống lấy sợi thừng bện bằng da trâu mới, chắc hơn, buộc vào vòng cổ nó và làu bàu nhặt đoạn thừng đứt quật nó cho mấy cái. ồn một chốc rồi đâu đó lại vào khuôn phép. Thầy nghĩ nó muốn thử bộ răng chứ không hề ngờ là con Vá, từ trong tiềm thức, đã có hành động như mấy cậu học trò tinh quái của mình khi muốn đánh cắp của thầy một hòn tẩy, một đoạn bút chì cứ mỗi ngày rời xa bàn một chút cho đến khi thầy không trông thấy. Chuyện đó đã xếp lại và con Vá không còn cắn dây nữa.

Lại một tuần trăng mới. Ðêm sáng hơn, trông rõ cả tàu lá ráng ngời ngời lung linh tận ven tràm bên kia sông. Các loại vật nhỏ thường kiếm ăn đêm dọc chân rừng, không con nào dám mò vào đấy nữa. Tiếng xôn xao đã xua chúng dạt cả vào gần xóm.

Những tuần trăng sau đó, khi con Vá cao thêm vài phân, nặng thêm vài cân, thì tiếng xôn xao mơ hồ ấy càng rõ dần, càng nhiều hơn, thường xuyên hơn từ khi con Vá toát ra những bí ẩn của một thứ mùi đặc biệt thứ mùi bí ẩn gọi kêu đã giục những con bướm đực - từ nhiều dặm xa - bay đến tìm gặp con bướm cái đang bị nhốt trong lồng, thứ mùi khiến cho phấn hoa đực tìm gặp lại một cách diệu kỳ những nhụy hoa cái đang ra sức điểm tô cho một mùa tưng bừng hoa nở.

Ðêm ấy, gió thổi qua rào, ve vuốt sống lưng con Vá. Gió đưa đến nó mùi hương của các bụi lùm và những ngọn cây rừng cao, mùi nhựa chảy từ những cây vỏ nứt, mùi quả chín tươm mật, mùi phấn hoa vàng lay động bởi cánh dơi quạ và các loài chim đêm, li li bay vơ vẩn và ngọn gió trữ tình đón lấy mang đi gieo rắc khắp nơi.

Thầy giáo Bẩy đã ngủ rồi, biết đâu được nỗi bồn chồn của con Vá.

Theo luồng gió, tiếng xôn xao đang chuẩn bị, đã được báo trước, im bặt một lúc, bắt đầu nổi cơn lên, vượt ra khỏi ven rừng tràm và dãy ruộng sáng ngời ánh trăng. Bắt đầu từ một cổ họng, rồi nhiều cổ họng khác tiếp theo. Tiếng hộc...hộc... gào lên vang rền.

Nghe tiếng kêu đầu tiên, con Vá đã đứng phắt dậy, ngước đầu lên, đuôi quật vào mông, giẫm chân trên hành lang và chồm ra lan can. Nó bắt đầu lôi thừng buộc cổ họng ra. Ngoài kia, những con lợn rừng đực của đàn tộc đang không ngớt gọi kêu những tiếng mà thế kỷ này sang thế kỷ khác, các con đực vẫn gọi các con cái trong mùa hôn phối.

Con Vá quên rằng chủ đang ngủ, theo sức mạnh của "Tiếng Gọi", chồm tới, kêu nho nhỏ rồi gầm lên từng cơn kéo dài. Thầy Bẩy tốc màn chạy ra.

Trước mặt thầy là một con Vá chưa từng thấy. Nó như vụt lớn trong phút chốc, nhảy dựng dựng, mọp xuống rồi lại chồm lên cao hơn. Chân sau choãi xuống lấy điểm tựa như sẵn sàng phóng lên. Nó không chú ý gì đến chủ nữa, không thèm đếm xỉa đến sợi thừng thổ tả cắn cái đứt phăng. Mắt nó chằm chằm nhìn sang phía bên kia bờ rạch.

Ðiều mà các con đực đứng ngồi không yên, gào lên, sẵn sàng đánh nhau vì "nàng" đã thấy trong tầm mắt, ấy là Tiếng Gọi giục con Vá "bắc cầu giải yếm", phải tuân theo bổn phận muôn đời của các con cái, chớ bội ước lâu hơn nữa trước định luật của tạo hóa, định luật mà Vá vi phạm để làm vui lòng con người. Và chúng giục gọi đến khản giọng, tiếng gầm gào rung chuyển cả rừng.

- Này, Vá, quỷ bắt mày à? Thầy Bẩy quát lên. Như vừa thoát ra khỏi cơn mơ, nó vụt quay đầu lại. Ðôi mắt đỏ rực chiếu lấp lánh trong bóng tối hành lang. Trông thấy chủ, dáng nghiêng đồ sộ của nó rời khỏi ánh trăng, từ từ hạ xuống. Nó nằm xuống, đuôi duỗi ra, hai chân trước co lại.

Những "anh chàng hiệp sỹ cô độc" kia, mải ngao du chốn đại ngàn, theo bản năng, từ biệt mấy rừng xa đã vượt sông hồ về đây tìm "nàng", đâu biết rằng Vá đã nhiễm mùi con người, đã quen ăn muối và thức ăn nấu chín, đã được con người kỳ cọ tắm rửa, gãi lưng. Chúng đến với "nàng" từng bước một, từ từ như khi phải lần dò tránh bẫy.

- Bé Hai!

- Con đây. Cậu học trò nhỏ thức trước, đứng rình phía đầu hồi bước ra.

- Cái gì vậy? Ai đột nhập vô nhà à?

- Có ai đâu, thưa thầy. Mấy con heo rừng đực kêu con Vá đó mà! Bé Hai vùng vằng đáp vậy. Nó thấy ghét con Vá quá. Thật chẳng khác gì gái nhà lành muốn lộn nài tháo ống đi theo mấy thằng du đãng.

Thầy Bẩy với chiếc thùng thiếc khua ầm lên, rồi đốt một nắm cây chai dùng nhóm bếp ném vù sang bên kia bờ rạch.

Những tiếng gầm gào bên kia im bặt. Chỉ chốc sau, con Vá lôi sợi thừng đến bên chủ. Thầy Bẩy cúi xuống, gãi gãi trên mi mắt, gãi gãi dưới cằm rồi vuốt sống lưng nó:

- Thôi nằm xuống, ngủ đi con!

Con Vá liếm liếm bắp chân thầy rồi ngoan ngoãn ịch sang bên, chờ chủ gãi bụng, gãi lưng.

Giữa lúc ấy, bên kia dẫy rừng xanh biếc ánh trăng, bóng những con lợn rừng đực lắc lư xa dần. Những vệt thẫm di động, óng ánh sắc lông như tơ tằm sống khạc ra những lời nguyền rủa dần dật từng cơn, quyện thành những chuỗi tiếng rền đường bệ hướng về những ngôi nhà đầu xóm ấp Kèo Nèo.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top