Hỗn Tại Tam Quốc Làm Quân Phiệt full 9 het

post anhgaay151

Unknown
by Unknown
Hỗn Tại Tam Quốc Làm Quân Phiệt



























“Chúa công” Mưu sĩ Tuân Úc giục ngựa tiến lên gần tới Tào Tháo, hắn nhìn Tào Tháo nói: “Đợi khi lát nữa phá vây, đội nghi trượng của chúa công theo bộ binh phá vây còn chúa công tốt nhất thì đi với đội kỵ binh của Trương tướng quân. Dù sao kỵ binh hành động với tốc độ nhanh hơn, có nhiều cơ hội phá vây hơn”.

“Ừ”.

Tào Tháo nặng nề gật đầu.

Tuân Úc chỉ nói mập mờ như vậy nhưng Tào Tháo là người thông minh, dĩ nhiên hắn có thể hiểu được ý của Tuân Du.

Trên thực tế Tuân Úc đã nhắc nhở Tào Tháo khi cần thiết Tào Tháo có thể bỏ qua bộ binh, trực tiếp dẫn kỵ binh phá vây. Một khi không còn dính dáng tới bộ binh, tốc độ phá vây của kỵ binh sẽ tăng mạnh. Dù sao đường chiến hào ngăn cản trước mặt quân Tào đã không còn tồn tại nữa. Từ cổng thành tới quân doanh Lương Châu đều là một vùng đất bằng phẳng. Tốc độ của kỵ binh vượt xa nhiều lần so với tốc độ của bộ binh.

Tào Tháo đang định hạ lệnh tấn công thì phía trước đột nhiên vang lên hiệu kèn lệnh cực kỳ sục sôi.

Cùng với hiệu kèn lệnh sục sôi, doanh trướng dầy đặc của quân Lương Châu ở hai bên cánh đột nhiên vỡ ra. Điều đáng kinh ngạc là bên trong những doanh trướng dầy đặc như rừng đó không phải là quân lính Lương Châu mà là những chiếc bản xa ( giống như xe ba gác ). Mỗi một chiếc bản xa cao chừng hai trượng, rộng chừng bốn trượng. Toàn bộ thân xe được bố trí các cọc gỗ vót nhọn đầu.

Mặt ngoài cùng của bản xa là mặt bằng, trên bề mặt gắn hàng dãy cọc gỗ. Cọc gỗ vót nhọn đầu, trắng hếu, ánh tà dương chiếu xuống phát ra ánh sáng trang nhã làm những người yếu bóng vía phải hoảng sợ.

“Cái gì vậy?” Tào Tháo đột nhiên hít một hơi thật sâu, hắn hốt hoảng hỏi: “Đây là cái quỷ quái gì vậy?”

“Hình như là đầu gỗ đinh chế thành một cỗ xe” Lưu Diệp nghiêm nghị nói: “Khi Mã đồ phu còn Hộ Ô Hoàn Giáo uý thì mưu sĩ dưới trướng của hắn, Quách Đồ đã từng chế ra những cỗ xe như này đánh bại kỵ binh Tiên Ti của Kha Bỉ Năng”.

“Không hay rồi” Lưu Diệp vừa nói xong thì Tuân Úc vội kêu lên: “Chúa công, những cỗ xe này đang di động”.

“Ừ, chúng có thể di động sao?”

Tào Tháo nhất thời kinh hãi, hắn vội vàng chăm chú nhìn phía trước, quả nhiên những cỗ xe cồng kềnh đó đang thong thả di chuyển. Những cỗ xe vốn hỗn độn, đan xen khắp nơi trên thảo nguyên thế mà chỉ trong chốc lát chúng có thể tiến, lùi, chậm rãi liên kết thành một chỉnh thể, chỉ trong khoảnh khắc đã hình thành một bức tường kiên cố ở mặt chính diện, cao hai trượng, rộng mấy trăm bước chân.

Hơn nưa điều tuỵêt vọng hơn nữa là bên mặt ngoài của bức tường kiên cố này còn gắn những hàng rào sừng hươu sắc bén nên căn bản không thể trèo lên trên.

“Trời ơi, các cỗ xe ở hai bên cũng dang di chuyển” Tào Tháo đang kinh hãi thì Trình Dục cũng kêu to: “Hơn nữa chúng đang từ ba hướng ép tới chỗ quân ta”.

“Rống!”.

“Rống!”.

“Rống!”.

Trình Dục vừa nói xong, đồng thời với tiếng kèn lệnh to, rõ của quân Lương Châu, bức tướng chắn kiên cố từ ba hướng bắt đầu di chuyển với tốc độ nhanh hơn, hai bức tường chắn hai bên đang di chuyển rất nhanh, khe hở đó đang dần dần biến mất, trong khi bức tường ở giữa cũng đang dần tiến tới. Chỉ còn khoảng thời gi­an ăn một bữa cơm nữa là ba bức tường chắn hoàn toàn có thể khép lại với nhau, lấp kín khe hở.

Tới khi đó con đường di chuyển của quân Tào hoàn toàn bị cắt đứt. Nếu như quân Tào không thể công phá được ba bức tường chắn kiên cố đó thì vận mệnh đang chờ đợi chúng ở phía sau chính là rút lui lại về phía sau thế nhưng vì chỉ có một con đường rút lui, để tranh nhau bỏ chạy trối chết, quân Tào nhất định sẽ giẫm đạp lên nhau mà chạy, hơn nữa dù có thể trốn về trong thành Hứa Xương thì bọn tàn binh bại tướng này cũng chỉ có một con đường chết.

Nói cách khác từ giờ khắc này quân Tào cũng chỉ còn có hai con đường lựa chọn. Một là xuyên qua khe hở trước khi ba bức tường chắn hợp lại với nhau, hai là đợi sau khi ba bức tường hợp lại bắt đầu phát động tấn công, phá tan ba bức tường chính diện kiên cố kia, thong thả phá vòng vây. Lần này chúng không còn sự lựa chọn thứ ba. Nếu như lựa chọn cách phá vây trước, Tào Tháo nhất định phải nhẫn tâm bỏ lại toàn bộ bộ binh.

Chỉ có kỵ binh hành động nhanh chóng mới có thể xuyên qua khe hở đó trước khi ba bức tường đó khép lại với nhau.

“Hiểu rồi” Rốt cuộc Tào Tháo cũng hiểu ra mục đích của quân Lương Châu, hắn nghiêm nghị nói: “Đây chính là tính toán của Mã đồ phu, thế nhưng chỉ dựa vào ba bức tường gỗ kia, Mã đồ phu hắn nghĩ có thể ngăn chặn được bốn vạn đại quân của Cô thì không phải khẩu khí quá lớn sao?”

“Chúa công” Mưu sĩ Tuân Úc vội la lên: “Thật sự không thể khinh thưòng bản xa trận của Mã đồ phu. Chúa công hãy tận dụng cơ hội ba bức tường còn chưa kịp hợp nhất mang theo kỵ binh của Trương Cáp tướng quân đi trước phá vây”.

“Xin chúa công đi trước phá vây”.

“Xin chúa công đi trước phá vây”.

“Xin chúa công đi trước phá vây”.

Tuân Du, Trình Dục, Lưu Diệp mấy người cũng rối rít xuống ngựa, quỳ xuống nói.

Tào Tháo còn đang do dự thì Tuân Úc đã vội la lên: “Không còn thời gi­an nữa, Tào Hưu, Trương Liêu, Tàng Phách đâu?”

Tào Hưu, Trương Liêu, Tàng Phách vội vàng giục ngựa tiến lên, ôm quyền đáp: “Có mạt tướng”.

Tuân Úc nói: “Lập tức chỉ huy ba trăm Hổ Báo kỵ mang theo chúa công, Công Đạt, Trọng Đức, Tử Dương theo trung quân của Trương tướng quân, cùng đội kỵ binh cùng nhau phá vây theo “.

Một khi Tuân Úc đã đứng ra làm chủ, Tào Tháo không thể tiếp tục ở lại nữa, hắn chỉ quát lên: “Văn Nhược, thế còn ngươi?”

Tuân Úc bật cười lớn, cao giọng nói: “Lúc này trung quân không thể không có người trấn giữ, tại hạ thân là quân sư của chúa công nên lưu lại đây chỉ huy các bộ phá vây. Chúa công cứ yên tâm, mặc dù bản xa trận của quân Lương Châu lợi hại nhưng chưa chắc có thể vây khốn bốn vạn trọng binh của quân ta. Lúc này ai chết vì tay ai vẫn không thể biêt được”.

“Văn Nhược” Tào Tháo buồn rầu kêu lên rồi hắn quay đầu, giơ roi, giục ngựa quát to: “Đi!”.

Gót sắt cuồn cuộn, ngay khi đám quân Tào Tháo đã đi xa, Tuân Úc chắp tay vái theo Tào Tháo đang xa dần nói: “Chúa công, bảo trọng!”.

Hậu trận quân Lương Châu, tháp quan sát.

Lý Túc đột nhiên kêu lên: “Tướng quân mau nhìn, kỵ binh quân Tào đi trước phá vây”.

“Ừ”.

Cao Thuận gật đầu, từ trên cao nhìn xuống hắn quả nhiên thấy năm ngàn kỵ binh quân Tào đã chia thành hai đường lao thẳng tới khe hở của ba bức tường chắn, không cần nói cũng biết dụng ý của kỵ binh quân Tào, chúng định thừa dịp ba bức tường chắn chưa kịp khép lại đánh vu hồi ra sau hậu trận quân Lương Châu, hỗ trợ cho quân bộ binh tấn công chính diện hai mặt cùng giáp công quân Lương Châu.

“Cú Đột tướng quân” Cao Thuận vội quay đầu lại, nhìn Cú Đột nói: “Hiện tại đã tới Lang kỵ của tướng quân”.

“Xin tướng quân yên tâm” Cú Đột hùng dũng trả lời: “Khi Lang kỵ của mạt tướng đang săn thú trên thảo nguyên thì đám quân Hà Bắc kia nằm trong ngực nữa nhân bú sữa mẹ. Nó về kỵ chiến bọn chúng kém xa”.

Ngoài cửa nam thành Hứa Xương, khí thế hào hùng của toàn bộ chiến trường đã mở ra.

Gần một ngàn chiếc bản xa của quân Lương Châu liên kết thành một bức tường ba mặt không thể phá vỡ, từ ba mặt đông, tây, nam ép lại phía quân Tào. Quân Tào đối chọi lại một cách không khoan nhượng, chúng phân chia ra làm ba đường bộ binh phát động thế tấn công mạnh mẽ như rời non lấp biển với y đồ cố gắng ngăn cản, thậm chí phá huỷ bức tường chắn kiên cố đang khép lại. Trương Cáp, Trương Liêu mỗi người chỉ huy một đội kỵ binh tấn công theo hướng tây nam và đông nam nhanh như bão táp với ý đồ trước khi ba bức tường chắn chưa kịp khép lại đột phá qua vòng vây sau đó đánh vu hồi hậu trận quân Lương Châu, hình thành thế hai mặt giáp công quân Lương Châu.

“Oanh long long”

Vó ngựa quay cuồng, bụi mù bốc lên, Trương Cáp chỉ huy ba ngàn quân tinh kỵ đánh về hướng đông nam, ngay lúc này khe hở giữa hai bức tường mặt nam và đông chỉ còn khoảng hai mươi bước chiều rộng. Chỉ trong thời gi­an khoảng một nén nhanh là khe hở này hoàn toàn khép kín, tới khi đó thì quân Tào không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải cường công.

“Giá!”.

Trương Cáp đang hối hả giục ngựa, hắn đang định giục ngựa vượt qua lỗ hổng thì bất chợt vang lên một âm thanh xe gió vô cùng thê lương.

Trương Cáp kinh hãi ngẩng đầu nhìn thì thấy ba hàn tinh hình tam giác đang bắn tới trước mặt. Trương Cáp hét to một tiếng, thiết thương trong tay đánh ra nhanh như chớp, ba tiếng đin đinh đinh vang lên, ba điểm hàn tinh đó đã bị Trương Cáp đánh rơi, thì ra đó là ba mũi lang tiễn to bằng ngón tay cái.

“Lại là ngươi!”.

Hai mắt Trương Cáp thoáng chốc co rút lại, hắn chăm chú nhìn thẳng về phía trước.

Trong đám bụi đất bay lên mù mịt, một người cưỡi ngựa đứng ngạo nghễ, sừng sững, đó chính là tướng quân Cú Đột, thần bắn cung dưới trướng Mã đồ phu. Trương Cáp và Cú Đột cũng có thể coi như là đối thủ lâu năm. Khi quyết chiến bên ngoài thành Hứa Xương, hai người đã hai lần thử tài bắn cung của nhau, khi ấy Cú Đột nhỉnh hơn Trương Cáp một chút.

Cú Đột hung hăng vung cây thiết thai cung trong tay, hắn lớn tiếng quát: “Trương Cáp, ngươi có dám tỷ thí tiễn pháp với bản tướng quân không? Cùng nhau bắn ba mũi tên, sinh tử do thiên mệnh, có dám không?”

Thoáng chốc sát khí trong mắt Trương Cáp ngày một nồng nặc, hai hàm răng nghiến lại như muốn cắn nát miệng, hắn đang định chấp nhận lời thách đấu của Cú Đột thì bất chợt ánh mắt hắn nhìn thấy hai bức tường chắn vẫn đang chầm chậm tiến lại, không bao lâu nữa sẽ hoàn toàn khép kín. Trương Cáp thoáng rùng mình một cái, hắn giơ thương nói: “Bản tướng quân không thèm so với ngươi. Các huynh đệ quận Thanh Hà, giết…”.

“Giết giết giết!”

Trong tiếng hò reo như nước triều lên, ba ngàn tinh kỵ theo sau Trương Cáp mãnh liệt tiến về hướng khe hở chưa kịp khép lại. Gần như trong cùng lúc đó thì Trương Liêu, Tàng Phách chỉ huy hai ngàn tinh kỵ Hà Bắc còn lại phát động tấn công như rời non lấp biển về hướng tây nam. Cú Đột lập tức giương cung lắp tên rồi hắn ngửa mặt lên trời tru lên như sói: “Các huynh đệ, bắn tên”.

“Hưu hưu hưu!”

Cú Đột vừa ra lệnh một tiếng, những hàng Lang kỵ sau lưng hắn lập tức giương cung bắn tên.

Gần như cùng với lúc đó trên bức tường chắn đang chậm rãi khép lại cũng bắn ra một cơn mưa tên, quân kỵ binh Hà Bắc đang mãnh liệt xông lên trước đồng loạt ngã xuống một mảng lớn.

“Tiến công!” Hai mắt Trương Cáp như vỡ ra, hắn vung thiết thương trong tay chỉ về phía trước, hắn ngửa mặt lên trời gào to đến khản cả giọng: “Xông lên đi, không được để cho chúng có cơ hội bắn ra loạt tên thứ hai”.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 323: Cường công ải Thanh Ngưu (1)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Tiếng vó ngựa vang lên như sấm, hơn hai ngàn kỵ binh Hà Bắc còn lại giống như loài lang sói bị thương làm nổi lên thú tính, chúng gào thét xông tới Lang kỵ của Cú Đột. Quân hai bên chỉ cách nhau có hơn mười thước nên quân Lang kỵ không còn thời gi­an để bắn loạt tên thứ hai.

Cú Đột ném thiết thai cung xuống mặt đất, hắn cầm xước đao trong tay ngửa mặt lên trời quát to: “Các huynh đệ, chuyển lại thương, thương, thương”.

Tiếng kim loại leng keng va vào nhau vang lên liên tục, hai ngàn Lang kỵ phía sau Cú Đột đều vứt bỏ cùng và chuyển sang đao. Cú Đột cầm Trảm Mã đao trong tay xông lên trước dẫn đường. Hai ngàn Lang kỵ gào lên rồi cùng giục ngựa theo sau hắn, tất cả đều hung hãn không sợ chết nghênh đón thế tấn công mãnh liệt của quân kỵ binh Hà Bắc. Thoáng chốc hai đạo kỵ binh giống như hai ngọn sóng lớn đối đầu với nhau. Gần như cùng lúc đó huyết hoa rực rỡ, lộng lẫy bắn tung lên trời, tiếng kêu la thảm thiết cùng tiếng hí bi thương của chiến mã vang động khắp bãi chiến trường. Trong trận của hai bên người ngã ngựa đổ, cảnh tượng vô cùng hỗn độn.

“Cạch!” Cú Đột vung Trảm Mã đao nặng nề chém vào thiết thương trong tay Trương Cáp. Trong không trung bất chợt vang lên một âm thanh to như sấm. Một lực phản cuồng dã giống như nước thuỷ triều lên từ Trảm Mã đao bắn ngược lại, Cú Đột không sao khống chế nổi, sống đao nặng nề đập vào ngực Cú Đột. Cú Đột gào lên một tiếng đau đớn, hắn há miệng phun ra một ngụm máu tươi, hai ngựa vượt qua nhau, Trương Cáp vung thương giục ngựa xông thẳng vào trận quân Lang kỵ, trước mặt Cú Đột cũng xuất hiện hai kỵ tướng Hà Bắc thúc ngựa xong tới, hai thanh Mã đao trong tay chúng vung lên cao chuẩn bị bổ xuống.

Trảm Mã đao trong tay Cú Đột rất khó khăn mới giơ lên được nửa chừng, lúc này hắn mới phát hiện hai cánh tay tê dại, cả người hắn vô cùng mệt mỏi. Dưới tình thế cấp bách như vậy Cú Đột vội vàng nghiêng người né tránh nhưng đã không kịp. Cú Đột chỉ nghe thấy hai tiếng “phập, phập” khẽ vang lên, hắn chợt cảm thấy bả vai mình mát lạnh, hắn kinh hãi cúi đầu nhìn thì thấy hai tay của mình đã bị chém đứt lìa. Cú Đột vô cùng kinh hãi: chuyến này thì chết là không phải bàn cãi, ngay lúc đó một kỵ tướng Hà Bắc cưỡi ngựa lướt tới, Mã đao vung lên, hàn quang chợt loé, lưỡi đao sắc bén bay ngang cổ Cú Đột, trong khoảnh khắc Cú Đột cảm thấy người mình bay lên cao.

Ngay khi thấy mình đang ở trên không trung Cú Đột mới phát hiện thân thể của mình vẫn đang cưỡi ngựa phía dưới mặt đất. Phía sau thân thể hắn quân kỵ binh hai bên giống như môt nồi nước sôi sùng sục quấn lấy nhau thành một màn hỗn độn. Chỉ sau một khắc tiếng động rầm rĩ của chiến trường rời khỏi ý thức của Cú Đột, cả đất trời trở nên yên ắng một cách quỷ dị rồi ngay sau đó đất trời trở nên ảm đạm dần và cuối cùng trở nên tối đen. Giây phút cuối cùng Cú Đột cảm thấy vô cùng lạnh giá, một tia ý thức cuối cùng cũng quay cuồng tiêu tán trong không trung, bay vút ra xa mấy trượng rồi nặng nề rơi xuống mặt đất.

“Kẻ nào ngăn cản ta, chết!”.

Trương Cáp hét to một tiếng, cây thiết thương trong tay hắn như một con độc xà đâm ra nhanh như chớp, hai tên Lang kỵ Ô Hoàn không kịp giơ đao chống đỡ đã bị đâm thấu cổ họng, huyết quang bắn tung lên trời như hoa nở, cả hai nặng nề ngã nhào xuống ngựa. Trương Cáp giục ngựa tiến lên trước, đột nhiên hắn cảm thấy phía trước vô cùng sáng sủa, rộng mở, thậm chí không còn kỵ binh địch quân ngăn cản, lúc này hắn mới phát hiện mình đã đánh xuyên qua trận địch quân. Trương Cáp vội vàng ghìm cương ngựa, quay đầu lại, phía sau hắn chỉ có hơn mười tên thân binh vẫn theo sát, Tào Tháo, Tuân Du, Trình Dục không có trong đám đó, ở cách đó không xa quân kỵ binh hai bên vẫn đang không ngừng kịch chiến với nhau, có một nhóm quân kỵ Hà Bắc đã lao ra được tới khe hở tường chắn nhưng lại bị quân kỵ binh Lương Châu theo sát, quấn lấy, rất khó có thể thoát thân được.

Vẫn còn rất nhiều quân kỵ binh Hà Bắc vẫn đang ở bên trong bức tường chắn. Quân Lương Châu trên tường chắn không hề keo kiệt tên cũng như những mũi lao, chúng đã gây cho quân kỵ binh Hà Bắc một mức độ thương vong kinh người.

Ánh mắt Trương Cáp nhìn chằm chằm vào bức tường chắn đang khép lại. Lúc này khe hở giữa hai bức tường chắn chỉ còn chiều rộng khoảng năm thước, nó sẽ nhanh chóng được khép kín.

“Đi!” Trương Cáp giục ngựa quay lại, hắn chỉ thiết thương về phía trước, quát to với hơn mười tên thân kỵ: “Đánh giêt quay lại”.

Giữa đám loạn quân.

Tào Tháo, Tuân Du, Trình Dục, Lưu Diệp, Cổ Quy đang hoảng sợ chạy trốn, Hổ Báo kỵ của Tào Hưu kiêu dũng thiện chiến, một mình phá vòng vây hoàn toàn không gặp trở ngại gì nhưng lúc này chúng đang phải hộ tống mấy người Tuân Du, thư sinh trói gà không chặt nên việc phá vây không phải là chuyện dễ dàng. Tào Hưu chỉ huy quân lính tả xung hữu đột hồi lâu mà vẫn không thể đi thoát, ba trăm Hổ Báo kỵ lúc này chỉ còn khoảng bốn, năm mươi người, tình thế càng lúc càng nguy cấp thì bất chợt quân Lương Châu phía trước đột nhiên nứt ra như rẽ sóng, tan tác tháo chạy, Tào Hưu thừa thế dẫn quân đánh giết ngay khi quân hai mặt hội lại thì mới biết Trương Cáp đã dẫn quân đánh giết trở lại.

Tào Tháo lau mồ hôi lạnh trên trán, hắn nhìn Trương Cáp nói: “Lần này nếu không phải Nhược Phi ( tên chữ của Trương Cáp ) liều chết cứu giúp, mệnh ta đã hỏng rồi”.

Trương Cáp ngồi trên lưng ngựa, chắp tay nói: “Nơi này không nên ở lâu, chúa công hãy mau theo mạt tướng phá vây”.

“Chúa công” Trương Cáp vừa dứt lời thì Cổ Quy đột nhiên thở hồng hộc giục ngựa đuổi tới nói: “Không hay rồi cả Tuân Du tiên sinh và Trình Dục tiên sinh đều thất lạc trong đám loạn quân rồi”.

Trương Cáp nhìn Tào Hưu nói: “Tào Hưu tướng quân, hãy cấp tốc hộ vệ chúa công và nhị vị tiên sinh chạy mau, mạt tướng đi tìm nhị vị tiên sinh Tuân Du, Trình Dục”.

“Tướng quân cẩn thận” Tào Hưu ôm quyền vái Trương cáp rồi hắn vung thương quat to: “Đi!”.

Trên tháp quan sát.

Một tên tiểu giáo vội vã trèo lên tháp, hắn thì thào mấy câu vào tai Lý Túc, Lý Túc lập tức biến sắc, hắn vội vã bước lên hai bước nhìn Cao Thuận nói: “Tướng quân, Cú Đột đã tử trận rồi”.

Sắc mặt Cao Thuận vô cùng buồn bã nhưng hăn ngay lập tức khôi phục lại sự bình thản.

Trên chiến trường, ba bức tường chắn ở ba mặt đã hoàn toàn khép kín, kỵ binh Hà Bắc đang kịch chiến cùng với Lang kỵ Ô Hoàn ở hai góc đông nam và tây nam đã bị cắt ra làm hai đoạn, chỉ có một số ít kỵ binh Hà Bắc chạy thoát qua khe hở trước khi bức tường chắn hợp lại, đại bộ phận kỵ binh Hà Bắc bị Lang kỵ Ô Hoàn quấn lấy sau đó khi hai mặt bức tường hợp lại, chen chúc nhau, người ngã ngựa đổ, chen nhúc nhau làm thành một đám hỗn độn.

Tên bắn và những mũi lao bén nhọn như gió táp mưa xa từ trên bức tường chắn lao xuống, quân kỵ binh Hà Bắc không kịp phá vây nhanh chóng bị sát thương gần như hết, trên mặt đất tràn ngập thi thể.

Trong khi đó, quân bộ binh Tào quân dưới tiếng trống trợ uy khó khăn lắm mới tiến tới trước bức tường chắn ba mặt.

“Tấn công!” Hãn tướng Thanh Hà, Tưởng Kỳ giơ cao song đao, hắn ngửa mặt lên trời gào lên.

Phía sau hắn năm trăm trọng giáp bộ binh gào lên rồi chúng vọt tới bức tường chắn gắn đầy hàng rào sừng hươu sắc bén.

Huyết quang bắn tung toé. Hàng thứ nhất của tring giáp bộ binh liều chết xung phong vẫn còn chưa kịp vung đao chém sạch những hàng rào sừng hươu trên tường chắn đã bị quân trọng giáp bộ binh phía sau liên tiếp xô đẩy tiến lên trên. Những sừng hươu sắc bén ngay lập tức đã xuyên thủng áo trọng giáp đâm qua thân thể chúng chỉ một chốc lát trên bức tường xuất hiện quân Lương Châu đông như kiến.

Trong tiếng kèn lệnh lanh lảnh vang lên, một loạt lao từ trên bức tường lao xuống dưới.

“Ai”.

“Ai da”.

“Trời ơi, đôi mắt của ta. Ta không nhìn thấy gì nữa”.

“Cứu mạng, cứu, cứu ta. Mau cứu ta, ta vẫn chưa muốn chết”.

Trong khoảnh khắc tiến la hét thảm thiết vang lên dậy đất, quân trọng giáp bộ binh Tào quân đang chen chúc nhau bên dưới kêu lên thảm thiết rồi ngã xuống hàng loạt.

“Đáng hận” Tưởng Kỳ nắm chặt song đao, đôi mắt hắn như muốn bốc hoả, hắn vội vàng quay người nhìn đám thân binh phía sau quát to: “Thang người”.

Đám thân binh phía sau Tưởng Kỳ ầm ầm đáp lại, chúng hoàn toàn không sợ chết, mạnh mẽ áp thân mình vào tường chắn gắn đầy sừng hươu sắc bén, lấy thân thể máu thịt của mình làm thang người. Tưởng Kỳ hét lên một tiếng, chân hắn nặng nề đạp lên thân thể cường tráng của một tên thân binh, thân thể tên thân binh oằn xuống nhao mạnh về phía trước, một cái sừng hươu sắc bén đã đâm thấu ngực trái của hắn, qua trái tim, một dòng máu đỏ thắm ngay lập tức trào ra từ miệng hắn.

Tưởng Kỳ đạp chân ba cái, thân hình của hắn rốt cuộc cũng vọt lên tới mặt bức tường chắn.

“Sưu sưu sưu” Tưởng Kỳ còn chưa đứng vững, ba mũi lang nha tiễn sắc bén đã bắn tới trước mặt hắn. Tưởng Kỳ hét lớn một tiếng, vội vàng vung song đao cản lại, vất vả đánh bay ba mũi tên sắc nhọn.

Tưởng Kỳ vẫn chưa kịp thở thì sát khí lạnh như băng lại tràn tới, Tưởng Kỳ kinh hãi ngẩng đầu nhìn, hai mũi lao bén nhọn, một tả, một hữu đang lao nhanh tới. Ánh mắt Tưởng Kỳ lập tức trở nên vô cùng đanh ác, hắn ngửa mặt lên trời gào lên một tiếng, hai tay hắn gi­ang ra, đợi khi hai mũi lao lướt tới bên sườn hắn thì hắn hung hăng hạ hay tay xuống kẹp lấy hai mũi lao. Tưởng Kỳ đột nhiên quay người lại, hai mũi lao dưới nách hắn quay ngược mũi lại phía sau, trong nháy mắt hai cây lao bay vút ra hướng về hai tên lính bộ binh Lương Châu đang lao tới. Hai tên lính không kịp né tránh, trong nháy mắt cả hai đã bị lao xuyên qua ngực.

“Hưu hưu hưu

Âm thanh xé gió liên tục vang lên, hơn mười mũi lao phóng chụm bắn về phía Tưởng Kỳ như gió táp mưa rào.

“Đương đương đương”.

Tưởng Kỳ ra sức vung đao chống đỡ hơn mười mũi lao đó nhưng rốt cuộc hắn không thể ngăn cản đợt lao kế tiếp phóng tới.

Âm thanh trong trảo của mũi lao sắc bén xé rách thân thể vang lên, thân thể cường tráng của Tưởng Kỳ lắc lư một lát sau đó hai mắt hắn lồi ra, hắn ngã lộn ngược từ trên tường cao xuống dưới đất. Lúc này thân thể Tưởng Kỳ bị không dưới mười mũi lao xuyên qua, chúng đã đâm xuyên qua người hắn trước khi hắn ngã xuống đất.

Tưởng Kỳ vừa chết, ngay lập tức quân trọng giáp bộ binh dưới trướng của hắn rối loạn. Dưới những cơn mưa lao phóng xuống dưới như mưa xa, gió giật của quân Lương Châu, chỉ trong chốc lát thi thể quân Tào đã chất cao như núi ở trước bức tường chắn chính diện.

Hậu trận quân Tào

Ánh mắt Tuân Úc lộ vẻ u buồn, hắn nhìn tên tiểu giáo quân Tào bên cạnh nói: “Truyền lệnh cho Lữ Kiền tướng quân để quân cung thủ tiến lên trước, dùng phương pháp bắn thẳng để bắn áp chế quân Lương Châu phòng thủ trên tường, yểm hộ trọng giáp bộ binh tấn công”.

Tuân Úc vừa ra lệnh, quân cung thủ của Lữ Kiền nhanh chóng tiến lên trước, những mũi tên bay vút lên, quân Lương Châu phòng thủ ở trên bức tường chính diện đều bị trúng tên, ngã ngào xuống đất. Sĩ khí của quân trọng giáp bộ binh của Hàn Mãnh làm tiếp nhiệm vụ tấn công của Tưởng Kỳ nhất thời lên cao, chúng gào lên rồi thay nhau đạp lên thi thể đồng đội trèo lên bức tường.

Chỉ trong khoảng thời gi­an chưa tới nửa nén nhang, trên mặt bức tường chính diện đã có hơn một trăm tên bộ binh quân Tào, một chiều rộng khoảng gần mười trượng bức tường chính diện đã hoàn toàn bị quân Tào khống chế.

Ngay sau đó quân Tào không ngừng trèo lên trên bức tường, cán cân thế trận lập tức nghiêng về phía quân Tào.

Hậu trận quân Lương Châu, Lý Túc nhìn Cao Thuận nói: “Tướng quân, quân Tào đã đánh chiếm bức tường chính diện”.

“Ừ” Cao Thuận nói: “Truyền lệnh, phóng giường nỏ”.

“Tuân lệnh”.

Tên thân binh phía sau Cao Thuận ầm ầm đáp lại rồi hắn nhanh chóng giơ cây lệnh kỳ tam giác màu đỏ chỉ về phía trước, phất mạnh mấy cái.

Trước trận hai bên.

Lập tức hoàng loạt tiếng a a vang lên. Trên mặt ngoài bức tường chính diện gần như đã bị gọt gần hết sừng hươu đột nhiên xuất hiện vô số lỗ thủng đen ngòm, những lỗ thủng đó to cỡ nắm tay người, hình như có một cơn gió lạnh từ bên trong thổi ra ngoài làm những người khác phải rét run. Quân Tào đang kinh nghi thì bất chợt từ những lỗ thủng đen ngòm đó những loạt lao phóng ra ngoài.

Trên thực tế đây không phải là những mũi lao mà là những cự nỏ bắn ra từ sàng nỏ.

Quân Tào đang chen chúc nhau đông như kiến trước bức tường lập tức bị thương vong vô cùng nặng nề, có mũi cự nỏ thậm chí còn xuyên qua liên tiếp thân thể mấy tên binh sĩ quân Tào, sau đó xâu những thi thể này thành một chuỗi như xâu châu chấu vậy.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 323: Cường công ải Thanh Ngưu (2)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Hàn Mãnh đang chỉ huy mười mấy tên thân binh ra sức bổ, chém bản xa dưới chân thì đột nhiên hắn nghe thấy sau lưng mình tiếng la hét, gào thét vang lên dậy đất, hắn vội vàng quay đầu nhìn thì vô cùng kinh hãi khi nhận ra binh lính bản bộ của mình vừa mới lúc trước vẫn còn đang chen chúc nhau ở bên dưới trèo lên trên bức tường gần như toàn bộ đã nằm trên vũng máu.

Vật cướp đi tính mạng của chúng chính là những mũi cự nỏ trông giống như một cây trường thương của binh lính.

Con mẹ nó, đang xảy ra chuyện gì vậy?

Trong lúc Hàn Mãnh vẫn đang giật mình kinh hãi thì hắn nhận ra dưới chân mình vang lên những âm thanh khác thường. Hàn Mãnh vội vàng cúi đầu nhìn thì nhận ra mặt bức tường vốn bằng phẳng như mặt đất đột nhiên xuất hiện những lỗ thủng đen ngòm.

Trong lúc Hàn Mãnh vẫn còn đang sững sờ, hơn một trăm mũi trường mâu từ phía dưới theo lỗ thủng hung tợn bay vút lên. Hàn Mãnh nhảy lên theo bản năng, khó khăn lắm hắn mới tránh được vận rủi bị những mũi trường mâu xuyên qua thân thể nhưng những tên thân binh bên cạnh hắn không có được may mắn như hắn, trong khoảnh khắc chúng đều bị những mũi trường mâu xóc ngược thân thể, bỏ mạng oan uổng.

“Phốc!”

Trường thương trong tay Hàn Mãnh khẽ điểm mũi xuống mặt bức tường, thân thể hắn lộn một vòng từ trên đỉnh bức tường xuống bên dưới tuy nhiên may mắn của Hàn Mãnh cũng chỉ có đến thế.

Ngay khi Hàn Mãnh vẫn chưa rơi xuống đất, một loạt cự nỏ nữa lại từ những lỗ thủng trên mặt tường bắn chụm ra, trong đó có hai mũi lần lượt xuyên thấu bụng và ngực Hàn Mãnh, đẩy mạnh thân thể hắn bay ngược lại hơn mười bước, nặng nề rơi xuống mặt đất. Ngay trước khi rơi xuống đất Hàn Mãnh cũng đã sớm tuyệt khí mất mạng, trở thành một thi thể không còn sự sống.

Quân Tào bất thình lình bị cự nỏ tấn công nhanh chóng thất bại một lần nữa.

Đến lúc này một vạn trọng giáp bộ binh dưới sự chỉ huy của Tưởng Kỳ, Hàn Mãnh đã gần như bị thương vong toàn bộ, chỉ còn khoảng hơn hai ngàn thương binh đang nằm rên la, giãy giụa trên chiến trường tuy nhiên vận mệnh của đám thương binh này cũng sớm được định đoạt. Bị thương cũng đồng nghĩa với cái chết.

Hậu trận quân Tào, Tuân Úc trông giống như bị sét đánh, hắn thì thào với mình: “Sàng nỏ, dĩ nhiên là sàng nỏ. Thậm chí Mã đồ phu còn biến sàng nỏ giả trang thành bản xa. Thì ra là như vậy, thì ra là như vậy, ai”.

Sau một tiếng thở dài, ánh mắt Tuân Úc thoáng chốc trở nên vô cùng chán nản, giống như hắn đã già đi thêm mười tuổi vậy.

Cao Thuận phấn khích nói: “Tốt, trọng giáp bộ binh của quân Tào đã hoàn toàn bị tiêu diệt. Bây giờ hãy truyền lệnh cho bản xa trận hai mặt đông và tây cùng với mặt chính diện nghiền ép lại, hãy ép hai vạn quân khinh bộ binh và năm ngàn quân cung thủ quân Tào dồn lại cùng với nhau. Hãy truyền lệnh cho quân cung thủ tới bản xa trận ở mặt đông và tây, phong toả con đường lùi của quân Tào, hãy xua đuổi tất cả chúng vào trong chiến hào”.

“Tuân lệnh”.

Tên thân binh nhận lệnh, hắn lại giơ lá lệnh kỳ màu đen, phất hai cái.

“Rống!”.

“Rống!”.

“Rống!”.

Trước trận của hai bên lập tức vang lên kiệu kèn lệnh lanh lảnh. Hiệu kèn lệnh đó hoàn toàn lấn át âm thanh rầm rĩ của chiến trường.

Binh lính Tào quân vốn đang không biết làm gì đột nhiên nhận ra hai bức tường tả và hữu vốn đứng yên bắt đầu chậm rãi ép lại. Có những tên khinh binh quân Tào không may mắn, chúng không cẩn thận bước hụt xuống hố, té ngã trên mặt đất. Điều bi thảm nhất là, chúng chưa kịp bò dậy trận bản xa liên kết thành tường đã cuồn cuộn tiến tới nghiến lên người chúng, liên tiếp nghiền qua bắp chân, bắp đùi, phần hông, phần eo của chúng.

Đáng thương thay những tên khinh binh quân Tào kêu gào thảm thiết đến khản cả giọng, chúng cố sức giãy giụa muốn đứng dậy bỏ chạy nhưng lại bị bản xa trận vô tình nghiền đến thịt nát xương tan.

Bản xa trận ở hai hướng đông và tây không ngừng tiến về phía trước, quân khinh bộ binh và quân cung thủ quân Tào bị kẹp ở giữa, chen chúc với nhau một chỗ. Lúc này chúng đã vô cùng hoảng sợ, liên tiếp có những tên lính khinh binh nổi điên, bộc phát thú tính, chúng gào lên rồi phát động đợt tấn công bi tráng tới bức tường đang cuồn cuộn áp tới, tuy nhiên đó thực sự chỉ là châu chấu đá xe, chúng đương nhiên không thể ngăn cản bả xa trận không ngừng tiến tới.

Lúc trước ngay cả một đại đội trọng giáp bộ binh cũng không thể công phá bản xa trận thì những tên lính khinh binh tản mạn, mất chỉ huy này có thể đối phó được hay sao?

Với sự tấn công liên tiếp của những cơn mưa tên, sàng nỏ, ý chí chống cự của quân Tào rốt cuộc cũng bị phá huỷ. Nếu như không phải đang đánh nhau với quân Lương Châu thì chỉ e đám hàng quân Ký Châu này đã sớm quỳ xuống đầu hàng rồi. Tuy nhiên ông trời cũng thật tàn nhẫn, hết lần này tới lần khác chúng cũng chỉ đánh nhau với quân Lương Châu. Trong lòng quân Quan Đông luôn in sâu đậm hình ảnh tàn nhẫn, hiếu sát của quân Lương Châu. Đổng Trác hung tàn, Mã đồ phu hung tàn, quân Lương Châu thủ hạ của hai người đó cũng hung tàn như vậy, một khi rơi vào tay chúng thì đúng sống không bằng chết.

Nếu không đánh lại, lại không thể đầu hàng vậy chỉ còn cách bỏ chạy.

Trong cơn không hoảng loạn không biết đã có kẻ nào hô lên: “Các huynh đệ chạy mau, hãy chạy về thành Hứa Xương đã”.

Chỉ trong khoảnh khắc, quân Tào như một cái nồi phát nổ, chúng chen lấn nhau bỏ chạy thục mạng, liên tiếp có những tên thương binh đi đứng bất lợi bị chen ngã trên mặt đất. Ngay khi bọn chúng chưa kịp đứng lên đã có vô số những bàn chân lạnh lùng giẫm đạp trên lưng bọn chúng. Trong sự tuyệt vọng cùng với sự bất lực chết lặng những tên thương binh bị giẫm đạp này giãy giụa và chết đi trong bi thảm.

Bọn chúng chưa chết dưới binh khí của quân Lương Châu thì đã chết dưới chân quân mình.

Quân Tào thất bại nhanh như núi lở, cuối cùng chỉ còn có hai ngàn tàn binh là có thể chạy được vào thành Hứa Xương nhưng trên thực tế vận mệnh của hai ngàn tà binh đó cũng đã được định đoạt. Chỉ có cái chết chờ đợi bọn chúng.

Cách cửa nam thành Hứa Xương năm mươi dặm, một vùng đất trời bao la.

“Hu!”.

Tào Tháo nhẹ nhàng dừng ghìm cương ngựa rồi quay đầu nhìn lại phía sau, phía sau hắn là một vùng hoang dã mênh mông, mịt mờ. Tiếng động rầm rĩ của chiến trường cùng hình dáng hùng vĩ của thành Hứa Xương đã hoàn toàn lùi lại sau.

Quanh quẩn sau lưng Tào Tháo chỉ còn có Tào Hưu chỉ huy hơn mười Hổ Báo kỵ đi theo. Võ tướng chỉ còn lại Trương Liêu và Tàng Phách, mưu sĩ chỉ còn có Lưu Diệp, Cổ Quy. Một cảm giác bi thương khốn cùng đột nhiên xuất hiện trong lòng Tào Tháo. Tuyệt đại kiêu hùng của thời đại ngửa mặt lên trời im lặng hồi lâu rồi đột nhiên hắn phá lên cười đau đớn, ánh nắng buổi chiều chiếu dọi trên gương mặt vô cùng bi thương của Tào Tháo.

Gió bắc nghẹn ngào nức nở như đồng cảm cùng với điệu cùng bi thương của Tào Tháo lan xa dần lan xa dần.

“Chúa công” Lưu Diệp giục ngựa tiến lên, hắn cúi đầu ủ rũ nói: “Hứa Xương đã mất, đại quân phía sau bị vây chặt, chỉ e lành ít dữ nhiều. Bây giờ chúng ta nên đi đâu?”

“Ai” Tào Tháo khẽ than nhẹ một tiếng, hắn nói vẻ bi thương: “Không biết liệu đã có thể phá vây chưa, Công Đạt, Trọng Đức sống hay chết? Mã đồ phu có đối xử tử tế với Văn Nhược không?”

“Hí hí hí”.

Tào Tháo vừa dứt lời, trên cánh hoang vu bát ngát ở phía bắc đột nhiên vang lên tiếng ngựa hí dài.

Tào Hưu biến sắc, hắn vội vàng chỉ huy hơn mười Hổ Báo kỵ lập trận nghênh địch, hai viên Đại tướng còn lại duy nhất của Tào Tháo là Trương Liêu và Tàng Phách cũng vội vã giục ngựa tiến lên bảo vệ hai bên tả hữu Tào Tháo. Ngay lập tức trong lúc đó trên vùng đất hoang vu mênh mông ở phía bắc xuất hiện hơn mười kỵ binh đang giục ngựa phóng như bay tới hướng Tào Tháo.

Tào Hưu rất tinh mắt, đột nhiên hắn vui mừng gào lên: “Chúa công, là Trương Cáp tướng quân, còn có cả Trình Dục tiên sinh”.

“Hả?” Tào Tháo nghe vậy rất vui mừng nói: “Trọng Đức trở về, lòng Cô được an ủi rất nhiều” Trong khi Tào Tháo còn đang nói, Trương Cáp đã giục giựa xông tới như gió cuốn, đột nhiên hắn ghìm mạnh cương ngựa, chiến mã lập tức đứng khựng lại, hai chân trước nhấc bổng lên, đá hỗn loạn mấy cái rồi mới nặng nề hạ xuống, lúc này Trương Cáp mới nhảy xuống ngựa, hắn quỳ xuống trước mặt Tào Tháo nói: “Mạt tướng vô năng chỉ có thể cứu về Trình Dục tiên sinh, xin chúa công trách phạt”.

Tào Tháo vội vàng nhảy xuống ngựa, hắn bước tới đỡ Trương Cáp dậy thành thực nói: “Tướng quân có tội gì, mau mau đứng lên”.

“Chúa công” Trương Cáp đứng dậy, hắn buồn rầu nói: “Trong đám loạn quân mạt tướng đã tìm được Trình Dục tiên sinh nhưng chỉ chậm một lát mà Tuân Du tiên sinh, tiên sinh đã chết trong đám loạn quân rồi”.

“Ai” Tào Tháo thở dài, hắn nhớ tới việc Tuân Du đã theo mình nhiều năm, ánh mắt không khỏi hiện lên vẻ đau buồn nhưng khi liếc nhìn thấy chư tướng chung quanh đang cúi đầu ủ rũ, hắn cố làm ra vẻ phấn chấn quát to: “Công Đạt tuy là văn nhân nhưng luôn ôm trong lòng yêu nước thương dân, thường ôm hoài niệm phục hưng Hán thất, nay có thể chết trận nơi sa trường, da ngựa bọc thây đó chính là chuyện may mắn nhất của một đời người. Chư vị tất không nên đau thương. Chúng ta nên kế thừa ý chí mà Công Đạt và các tướng sĩ tử trận khác để lại, thề phục hưng Hán thất cho dù bách chiến bách bại cũng tuyệt đối không nản lòng”.

“Tới tới tới đây” Tào Tháo giơ tay nói với mọi người: “Chúng ta hãy kết tay ăn thề, cùng đồng lòng nhất trí”.

Không khí sôi sục của chiến trường rốt cuộc cũng tĩnh lặng lại. Bức tường bản xa liên kết chắc chắn với nhau đã được tách rời. Cao Thuận có sự hộ tống của Lý Túc đi xuống sát bãi chiến trường quan sát, hắn đưa mắt nhìn thi thể của các tướng sĩ quân Tào tử trận nằm ngổn ngang trên bãi chiến trường, cũng có rất nhiều binh lính chỉ bị thương nặng, vẫn chưa tắt thở đang phát ra những âm thanh rên rỉ não lòng, phơi bày ra hiện thực tàn khốc vô tình của chiến tranh.

“Tướng quân!”.

“Tướng quân!”.

“Tướng quân!”.

Tiếng bước chân hỗn loạn vang lên, Hồ Xích Nhi, Trương Vệ, Dương Nhâm, Dương Ngang cùng chư tướng đã đều đi tới sau lưng Cao Thuận, trước ngực Hồ Xích Nhi quấn băng vải, dòng máu đỏ thẫm vẫn thấm qua lớp vải bố dầy đọng lại thành một mảng lớn, từ đó có thể thấy Hồ Xích Nhi bị thương khá nặng. Nhìn thấy ánh mắt ân cần của Cao Thuận, Hồ Xích Nhi xấu hổ toát mồ hôi nói: “Mạt tướng học nghệ không tinh bị Trương Liêu đâm một thương may mà không bị thương tổn nặng, không có gì đáng ngại”.

Mặc dù Hồ Xích Nhi nói không có gì đáng ngại nhưng thực tế lúc đó thật sự là sinh tử trong đường tơ kẽ tóc.

Trương Liêu và Tàng Phách dẫn theo hai ngàn kỵ binh Hà Bắc đột phá vòng vây ở góc tây nam, Hồ Xích Nhi dẫn quân ngăn cản. Sau một hồi kịch chiến ác liệt cuối cùng quân Lương Châu cũng ngăn cản quân kỵ binh Hà Bắc ở trong bức tường chắn nhưng Trương Liêu, Tàng Phách vẫn dẫn hơn mười kỵ binh đột phá thoát ra ngoài. Trong lúc loạn chiến Hồ Xích Nhi cũng bị Trương Liêu đâm một thương ngã ngựa, suýt chút nữa mất mạng, may là trọng giáp trên người đã cứu mạng hắn.

Hồ Xích Nhi nói vẻ buồn bực: “Thật đáng tiếc không hoàn toàn ngăn cản được kỵ binh quân Tào, đã để cho chúng chạy trốn được hơn mười kỵ binh” Cao Thuận đưa tay vỗ vào bả vai Hồ Xích Nhi nói: “Mặc dù trong trận chiến này có một lượng nhỏ quân Tào phá vây chạy thoát thì cũng không thay đổi được vận mệnh toàn quân bị tiêu diệt của quân Tào. Tào Tháo gần như đã mất hết toàn bộ quân đội trong trận chiến này. Cho dù hơn mười kỵ binh đó chạy khoát khỏi vòng vây thì chúng có thể chạy đi đâu xin cứu viện? Hoài Nam, Từ Châu có thái độ mập mờ. Hiện tại Thiên Tử không biết đang hạ lạc nơi nào. Chỉ e chúng sẽ không xuất binh cứu viện Hứa Xương. Mà cho dù Hoài Nam, Từ Châu có xuất binh cứu viện, Tào Tháo cũng không chống đỡ được tới lúc đó”.

Hiện tại bên trong thành Hứa xương chỉ còn hai ngàn tàn binh. Chúng chỉ giống như ngọn nến trước gió, bất kỳ lúc nào cũng có thể dập tắt.

Lúc này Cao Thuận vẫn không biết Tào Tháo đã nguỵ trang thành binh lính bình thường theo kỵ binh chạy thoát ra ngoài. Trong số tàn binh bị quân Lương Châu đuổi chạy vào trong thành Hứa Xương chỉ có đội nghi trượng của Tào Tháo và cả quân sư Tuân Úc mà thôi.

Đón nhận ánh mắt rực cháy của chư tướng, Cao Thuận cao giọng nói: “Truyền lệnh, tranh thủ thời gi­an sửa lại chiến hào bị hỏng, tường trại, tiếp tục bao vây quân Tào”.

“Tuân lệnh”.

Chư tướng ầm ầm trả lời.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 323: Cường công ải Thanh Ngưu (3)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Khẩu Bắc, Đại Biệt Sơn, Mã Dược chỉ huy đại quân Lương Châu vất vả tiến quân tới đây, nhưng phát hiện ra sơn khẩu hiểm yếu đã bị quân Đông Ngô chiếm giữ, hơn nữa trời cũng đã tối đen nên hắn liền hạ lệnh cắm trại nghỉ ngơi.

Ban đêm, trung quân đại trướng.

Mã Dược đang triệu tập quân sư Giả Hủ, Đại tướng thuỷ quân Cam Ninh, Trần Hổ, Trương Báo thương nghị. Cam Ninh nói: “Chúa công, mạt tướng đã phái người đi điều tra. Từ ải Thanh Ngưu tới bình nguyên Nhữ Nam chỉ có một con đường. Hai bên con đường này là núi non trùng điệp. Hiện tại đang là mùa đông khắc nghiệt, tuyệt đọng lại trong núi, vách núi, vách đá rất khó vượt qua, gập ghềnh khó đi, hơn nữa rất dễ trượt chân ngã xuống vực sâu, ngay cả đến đám tiều phu, thợ săn bắn cũng không dám vào núi”.

Mã Dược cau mày nói: “Nói cách khác Thiên tử, bá quan văn võ và cả tám ngàn quân thiết kỵ bị vây ở ải Thanh Ngưu cũng chỉ có một con đường đi sao?”

Đột nhiên Giả Hủ nói: “Nếu một khi đại quân kỵ binh không thể tiến quân, vậy có thể phái một toán tinh binh đi trước đón Thiên tử ở ải Thanh Ngưu tới đây không?”

“Chỉ e không được” Cam Ninh lắc đầu nói: “Trong núi quân Ngô là tinh binh Sơn Việt canh gác tầng tầng lớp lớp. Bọn tinh binh Sơn Việt này khi ở bình nguyên đương nhiên không thể chịu được một đòn nhưng ở trên núi rất khó đối phó với chúng. Bọn chúng từ nhỏ đã lớn lên trên núi, rất quen thuộc với địa hình núi non, cho dù là vách núi, vách đá chúng cũng có thể leo trèo tự nhiên. Tướng sĩ thuỷ quân tuy cũng quen thuộc địa hình vùng núi phía nam nhưng so với quân Sơn Việt thì kém xa. Dĩ nhiên nếu chúng ta không tiếc phải trả một cái giá rất lớn tấn công thì cũng không phải là không thể vượt qua, thế nhưng trong đám loạn quân chưa chắc đã đảm bảo an toàn tính mạng cho Thiên Tử và bá quan”.

Giả Hủ cũng nói: “Long thể Thiên tử yếu ớt, chưa chắc đã chịu được gió lạnh trong núi, trên đường đi vạn nhất xảy ra chuyện gì thì hậu quả là không thể tưởng tượng nổi”.

“Thật ghê tởm” Mã Dược nói: “Lũ binh lính Sơn Việt này khó chơi thế sao?”

“Đúng vậy” Giả Hủ nói: “Lúc trước khi Tôn Kiên vì hàng phục bọn này cũng đã phải dốc hết sức bình sinh của mình”.

“Nói đi nói lại vẫn chỉ có một cách duy nhất đó là cường công” Mã Dược nặng nề vỗ tay xuống án, hắn quả quyết nói: “Một khi đã dùng cường công, hãy chờ tới bình minh ngày mai hãy đánh sập quân Đông Ngô ngăn cản ở sơn khẩu”.

“Chúa công” Trong mắt Giả Hủ đột nhiên xuất hiện vẻ giảo hoạt, hắn nhìn Mã Dược nói: “Một khi đã chọn cách tấn công thì cần gì phải đợi tới ngày mai. Chúng ta thừa dịp đêm tối tấn công không phải là tốt hơn sao?”

“Hả? Nhân dịp đêm tối tấn công?” Mã Dược ngạc nhiên hỏi: “Tại sao lại như vậy?”

Giả Hủ gi mũi chân trên mặt đất.

Ban đầu Mã Dược ngơ ngác sau đó hắn chợt hiểu ra. Mã Dược vui mừng nói: “Thì ra là vậy”.

Trại quân Đông Ngô. Thái Sử Từ, Chu Thái, Lữ Mông đang trong trướng thương nghị thì đột nhiên nghe thấy nghe thấy hiệu kèn lệnh không ngừng vang lên. Cả ba vội ngẩng đầu nhìn thì thấy một tên tiểu giáo đã bước vào trướng, hắn quỳ xuống đất bẩm báo: “Ba vị tướng quân, quân Lương đang nổi hiệu lệnh tập hợp đội ngũ. Có vẻ chúng muốn tấn công ngay trong đêm”.

“Hả?” Mã đồ phu muốn tấn công cả ban đêm ư?” Ánh mắt Thái Sử Từ hiện lên vẻ kinh ngạc, hắn nhìn Chu Thái, Lữ Mông nói: “Ấu Bình, Tử Minh, hãy ra ngoài xem thế nào”.

“Tướng quân, mời”.

Chu Thái, Lữ Mông đồng thời khoát tay.

Thái Sử Từ cũng không câu nệ, hắn rời khỏi trướng trước tiên.

Ba tướng đi nhanh tới trước cửa viên môn, quả nhiên trên bãi đất bằng ở phía trước có hơn một ngàn cây đuốc mỡ dê đang cháy. Dưới ánh đuốc đỏ rực, rất nhiều đội quân Tây Lương đang khẩn trương lập đội ngũ. Trước trận quân Tây Lương có một viên Đại tướng cưỡi ngựa, múa đao chạy đi chạy lại. Vó ngựa lướt qua, cả đội quân Lương Châu đều hào hứng hò reo, rõ ràng viên Đại tướng đó có uy vọng, địa vị rất cao trong lòng binh sĩ Tây Lương.

Ánh mắt Chu Thái sắc bén, từ xa quan sát viên Đại tướng Tây Lương đó, hắn không khỏi biến sắc nói: “Lần này chẳng lẽ là Cẩm Phàm Tặc Cam Ninh?”

Trước khi đầu quân cho Tôn Kiên, Chu Thái cũng là cường đạo hoành hành thuỷ đạo Trường Gi­ang nhiều năm vì vậy hắn đã sớm nghe qua danh tiếng của Cẩm Phàm Tặc Cam Ninh thế nhưng Chu Thái chỉ luôn luôn làm ăn trên sông nước Cửu Gi­ang, Cam Ninh chỉ làm ăn ở Ba Thục, địa giới Kinh Tương hai người vì vậy rất ít khi chạm mặt nhau, cũng không có quan hệ gì cả”.

Thái Sử Từ nói: “Ta thường nghe dưới trướng Mã đồ phu có một viên Đại tướng xuất thân từ thuỷ tặc. Không thể nghi ngờ gì nữa có lẽ đây chính là Cam Ninh”.

Lữ Mông nói: “Cẩm Phàm Tặc hoành hành cả trên đất liền Ba Thục, Kinh Tương là một loại cường đạo thuỷ bộ rất khó chơi. Chúng thực sự rất khó đối phó. Nếu thực sự quân Tây Lương kia là Cầm Phàm Tặc của Cam Ninh chúng ta tuyệt đối không thể khinh thường”.

“Không sao” Thái Sử Từ lãnh đạm nói: “Cẩm Phàm Tặc dù có lợi hại như nào đi nữa chúng có so sánh được với sự lợi hại của trọng giáp thiết kỵ của Hứa Chử không?”

Lữ Mông nói: “Trọng giáp thiết kỵ của Hứa Chử thực sự có uy lực, thực sự không có loại quân nào có thể so với nó về uy lực tấn công”.

Thái Sử Từ nói: “Thì đó, chúng ta chỉ cần cho binh lính thủ vững trong doanh, không để quân Lương Châu thừa dịp tấn công, quân Tây Lương tấn công không được đương nhiên sẽ tự rút lui”.

“Ô ô ô”.

Trong lúc Thái Sử Từ đang nói thì hiệu kèn lệnh trong quân Lương Châu đột nhiên trở nên sục sôi.

Cam Ninh chỉ thanh trường đao trong tay về phía trước rồi hắn giục ngựa tiến lên trước, hai ngàn tên Cẩm Phàm Tặc hò reo vang trời cùng tiến lên. Hai ngàn quân Cẩm Phàm Tặc này nửa là quân đao thuẫn, nửa là quân phóng lao. Quân đao thuẫn cầm thuẫn đi trước bảo vệ, quân ném lao đi theo sau nhanh chóng tiến gần tới đại trại quân Đông Ngô.

Đại trại quân Ngô.

Thái Sử Từ rút bội kiếm chỉ lên trời, quát to: “Quân đao thuẫn lập trận phòng ngự, quân cung thủ chuẩn bị”.

Ba ngàn quân đao thuẫn Đông Ngô nhanh chóng tiến nhanh lên trước hình thành thế trận phòng ngự. Ba ngàn quân cung thủ Đông Ngô tiến ngay phía sau. Với sự yểm hộ của quân đao thuẫn, quân cung thủ đồng loạt hạ cung, lắp tên, chỉ cần Thái Sử Từ ra lệnh chúng lập tức giương cung bắn tên, trút những mũi tên sắc bén, vô tình lên đầu quân Lương Châu.

“Bắn tên”.

Thái Sử Từ vừa ra lệnh, ba ngàn quân cung thủ Đông Ngô lập tức giương cung bắn tên, ngay lập tức ba ngàn mũi tên sắc bén bay dựng lên không trung.

Trước trận quân Lương Châu, Cam Ninh đột nhiên giơ cao trường đao trong tay, hắn ngửa mặt lên trời gào to: “Dừng lại”.

Hai ngàn quân Cẩm Phàm Tặc phía sau đang mạnh mẽ tiến lên lập tức dừng lại.

“Nâng lá chắn”.

Cam Ninh vừa ra lệnh, một ngàn quân Cẩm Phàm Tặc lập tức nâng cao những chiếc thuẫn nặng nề trong tay lên che chắn. Tiếng rít thê lương từ trên không trung đã chụp xuống. Âm thanh leng keng không ngừng vang lên, vang dội khắp bầu trời đêm yên tĩnh. Sau khi đợt mưa tên qua đi, mỗi tên đao thuẫn Cẩm Phàm Tặc bỏ chiếc thuẫn trong tay xuống thì mới phát hiện trên mỗi chiếc thuẫn đã cắm đầy những mũi tên sắc bén, đanh ác.

“Tiếp tục đi tới”.

Quân Đông Ngô vừa dừng bắn tên, Cam Ninh lại chỉ trường đao về phía trước, hắn tiếp tục chỉ huy quân Cẩm Phàm Tặc tiến tới đại trại quân Đông Ngô. Liên tiếp nhiều lần như vậy, cuối cùng hai ngàn quân Cẩm Phàm Tặc đã chỉ còn cách đại trại quân Đông Ngô một khoảng cách khoảng hai mươi bước chân.

Hai mươi bước là một khoảng cách rất bất tiện cho quân Đông Ngô. Với quân cung thủ, khoảng cách bắn quá gần. Nếu muốn bắn thẳng vào trận quân Cẩm Phàm Tặc thì sẽ không tạo nên mối uy hiếp thực sự nào vì quân Cẩm Phàm Tặc đã có thuẫn che chắn. Tuy lăn cây và đá có lực sát thương khủng khiếp nhưng quân bộ binh Đông Ngô không thể nào ném những khúc gỗ cũng như những tảng đá với khoảng cách hai mươi bước chân ( khoảng ba mươi thước ).

Tuy nhiên đối với quân Lương Châu mà nói, hai mươi bước chân là khoảng cách tấn công tốt nhất, vừa có thể tránh được sát thương của quân cung thủ Đông Ngô chúng còn có thể dùng lao gây nên sát thương cho quân Đông Ngô.

“Quân ném lao chuẩn bị”.

Cam Ninh giơ cao trường đao quát to một tiếng vang vọng khắp không trung. Tướng sĩ hai bên trước trận tiền đều có thể nghe rõ ràng.

Thái Sử Từ thầm hoảng hốt trong lòng, hắn vội giơ cao bội kiếm quát to: “Lỗ thuẫn, mau nâng lỗ thuẫn”.

Đối với lao của quân Lương Châu, Thái Sử Từ không còn lạ gì. Trong lòng Chu Thái, Lữ Mông vẫn còn thầm sợ hãi.

Sở dĩ bảy trăm quân thiết kỵ của Mã Siêu có thể phản công, lần lượt đánh bại các cuộc tấn công của quân Đông Ngô chính là dựa vào công lao rất lớn của những cây lao đã gây sát thương khủng khiếp với quân Đông Ngô.

Thiết kỵ Tây Lương dựa vào chiến mã ném lao, những chiếc thuẫn đồng nhẹ của quân Đông Ngô căn bản không thể ngăn cản nổi. Áo giáp bằng vải bố có còn hơn không của quân Đông Ngô đương nhiên càng không thể chịu nổi một đâm. Bình thường một tên lính thiết kỵ Tây Lương ném ra một lao có thể xuyên qua thân thể của mấy tên lính Đông Ngô.

( Vào thời đại của vũ khí lạnh khi bộ binh tấn công thường sử dụng đội hình xếp hàng dầy đặc. Còn về việc xung phong tản mát là sau khi xuất hiện súng máy mới xuất hiện chiến thuật này. Vào thời đại này không tướng lĩnh nào sử dụng chiến thuật này. Rất đơn giản mấy người lính tay cầm vũ khí lạnh xung phong tản mát có thể tạo ra hiệu quả gì? Cuối cùng chưa tấn công được đã chịu chết ).

Những cây lao của quân Tây Lương gây ra thương vong nặng nề cho quân Đông Ngô, đồng thời chúng cũng làm cho các tướng lĩnh Đông Ngô rút ra bài học xương máu, khổ tâm tìm kế sách hoá giải ( Đương nhiên quân Đông Ngô cũng muốn dùng cách gậy ông đập lưng ông ) nhưng trong lúc cấp bách không thể nào kịp bắt chước làm ra lao. Thế nhưng trong những cuộc chiến sau này nhất định có dùng lao ), trong đó đã nghĩ ra cách phá giải hữu hiệu nhất là dùng những tấm ván gỗ dầy làm lá chắn. Ưu điểm của những tấm lá chắn gỗ này là đủ đầy để có thể ngăn cản lao của quân Tây Lương ném ra, hơn nữa diện tích che phủ cũng lớn, một tấm lá chắn gỗ có thể che phủ cho mười tên lính bộ binh nhưng nhược điểm của nó là quá nặng, phải cần tới bốn tên lính mới có thể nâng lên cao được nên nó chỉ được dùng trong phòng ngự chứ không thể nào dùng trong tấn công.

Thái Sử Từ vừa ra lệnh, mấy trăm tấm là chắn dầy được nâng lên cao bảo vệ vững chắc đỉnh đầu quân Đông Ngô.

“Toa toa toa…”

Dưới bầu trời đêm vang lên âm thanh xé gió, binh lính Đông Ngô trốn trong những chiếc lá chắn đợi hồi lâu mà vẫn không thấy lao đâm vào lá chắn trong lúc đó tiếng va vào lá chắn lốp bốp. Các tướng sĩ Đông Ngô đang nghi ngờ thì bất chợt một tên lính Đông Ngô kêu to: “Trời ơi, chúng ta mắc lừa rôi. Quân thổ lang Lương Châu không phải đã ném lao, chúng chỉ ném tuyết cầu”.

“A?”

“Tuyết cầu?”

Tướng sĩ Đông Ngô lập tức hạ lá chắn trên đầu xuống xem xét, quả nhiên trên mặt lá chắn dính đầy những vết tuyết tròn, to, dưới chân chúng loang lổ tuyết, rõ ràng quân Lương Châu đã ném tuyết, không thấy bóng dáng của bất kỳ một cây lao nào.

Trước trận quân Lương Châu, Cam Ninh khẽ nhếch miệng cười nhạt, lần này cho các ngươi nếm mùi thực sự.

Đột nhiên trong lúc đó toàn bộ đuốc trong trận quân Lương Châu tắt phụt. Dựa vào bóng đêm che giấu, Cam Ninh lặng lẽ giơ cao trường đao chỉ về phía trước, sau đó hắn dùng sức vẫy mạnh một cái, dựa vào phản quang của tuyết trắng, quân Cẩm Phàm Tặc vẫn miễn cưỡng nhìn thấy hành động của Cam Ninh, một ngàn quân ném lao Cẩm Phàm Tặc lập tức cầm những cây lao thực sự trong tay, chúng giơ tay chạy lên trước hai bước sau đó đồng loạt ném mạnh ra.

“Cẩn thận” Nhìn thấy đuốc trong trận quân Lương Châu đột nhiên tắt hết, theo bản năng Chiết Trùng Giáo uy Lữ Mông cảm nhận được sự nguy hiểm, hắn gào lên: “Mau nâng lá chắn, mau giơ lá chắn lên”.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 324: Cung thỉnh bệ hạ xa giá Đông Đô (1)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Lữ Mông vừa nói xong thì một loạt lao đã từ trên trời giáng xuống, binh lính Đông Ngô vẫn xòn đang mắng chửi ầm ĩ bất ngờ, không kịp đề phòng đã bị những cây lao xuyên thấu, nằm chết la liệt trên mặt đất.

Trước trận quân Lương Châu, Cam Ninh lại một lần nữa giơ cao trường đao, hắn ngửa mặt lên trời gào lên: “Quân phóng lao chuẩn bị”.

Những tướng sĩ Đông Ngô may mắn không bị lao đâm trúng vội vàng giơ lá chắn lên che nhưng vào lúc này ném vào đầu quân Đông Ngô lại là những trái tuyết cầu như lần đầu tiên mà không phải là lao, lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy, Chu Thái rất phẫn nộ hắn nhìn Thái Sử Từ nói: “Tướng quân, mạt tướng đề nghị dẫn một toán tinh binh ra khỏi doanh trại phản công, chém tận giết tuyệt đám Cẩm Phàm Tặc đáng hận kia”.

“Tướng quân không thể” Lữ Mông vội vàng khuyên nhủ: “Lúc này là trời tối, không thể tuỳ tiện xuất kích”.

Thái Sử Từ cũng nói: “Đúng vậy, hãy cẩn thận tối đa, chỉ cần các tướng sĩ liên tục nâng lá chắn lên thì lao của Cẩm Phàm Tặc cũng không thể làm gì được chúng ta. Các tướng sĩ hành động mệt mỏi thì cho thay người. Cầm Phàm Tặc của Cam Ninh chỉ gây náo loạn thôi, cứ để xem bọn chúng có thể gây náo loạn tới khi nào? Tất cả mọi việc cứ chờ tới bình minh hãy nói”.

Thái Sử Từ vừa ra lệnh, quân Ngô lập tức không chú ý tới việc quấy rầy của quân Lương Châu nữa.

Quân Cẩm Phàm Tặc của Cam Ninh ở trước trại quân Ngô ném tuyết thêm mấy lần, xen giữa đó là lén lút ném lao nhưng không gây thêm bất kỳ thương vong nào cho quân Đông Ngô. Quân Lương Châu cứ quấy rầy như vậy cho tới giờ sửu, quân Lương Châu nhận ra không còn cơ hội nữa thì mới thu binh quay lại quân doanh.

Ngay khi quân Lươing Châu rút đi, quân Đông Ngô cũng quay về trướng nghỉ ngơi, chuyện không đề cập tới nữa.

Trước bình minh chính là lúc bầu trời tối nhất.

Trước đại trại quân Lương Châu khung cảnh vẫn rất nghiêm túc, dựa vào bóng đêm che giấu, một vạn thuỷ quân tinh nhuệ của Cam Ninh đã lặng lẽ, không một tiếng động lập trận xong.

Ánh mắt Giả Hủ vô cùng giảo hoạt, hắn nhìn Mã Dược nói: “Chúa công, đã tới lúc rồi”.

“Ừ” Mã Dược gật đầu, hắn lập tức rút Thất Tinh bảo kiếm ra, tiến lên phía trước, nghiêm nghị quát to: “Toàn quân tấn công”.

Cam Ninh nhảy lên ngựa, trường đao trong tay hắn hung hăng chỉ thẳng phía trước, hắn gào lên: “Tấn công!”.

“Giết giết giết

Một vạn thuỷ quân gào lên như long trời lở đất, tất cả chạy theo sau lưng Cam Ninh đánh lén đại trại quân Đông Ngô ở trong sơn khẩu phía trước.

Thái Sử Từ đang ngủ say bị tiếng hò hét kinh thiên động địa đánh thức, hắn vội vàng xoay người ngồi dậy. Ngay khi tên thân binh giúp hắn mặc giáp trụ chỉnh tề, Thái Sử Từ vội bước nhanh ra ngoài đại trướng, Chu Thái, Lữ Mông cũng đã sớm có mặt. Ngay khi đó một tên tiểu giáo bước nhanh tới bẩm báo: “Ba vị tướng quân, quân Tây Lương tấn công ồ ạt”.

Thái Sử Từ ngẩng đẩu nhìn sắc trời, chân trời phía đông xuất hiện ánh sáng màu trắng bạc.

Thái Sử Từ thầm nghĩ: Muốn thừa dịp bóng tối trước bình minh bất ngờ đánh lén sao? Quả thực là hy vọng hão huyền. Trong mắt Thái Sử Từ đột nhiên xuất hiện sự lạnh lùng, hắn quát lên: “Nổi kèn lệnh, toàn quân nhanh chóng tập hợp, chuẩn bị ứng chiến”.

Cam Ninh chỉ huy một vạn thuỷ quân như nước thuỷ triều lên cuồn cuộn tiến về phía trước, lúc này đã chỉ còn cách đại trại quân Đông Ngô khoảng hai trăm bước chân, chỉ còn một khoảng thời gi­an ngắn nữa thôi là tiến vào đúng tầm bắn của quân cung thủ Đông Ngô. Lúc này trong đại trại quân Đông Ngô kèn lệnh lanh lảnh đã vang lên, tướng sĩ Đông Ngô vất vả suốt đêm, thân không cởi giáp đang từ các lều trại tràn ra ngoài, giống như những dòng suối nhỏ hợp thành một con sông lớn tập kết trước hàng rào doanh trại. Dựa theo tốc độ hành động và phản ứng của tướng sĩ hai bên, khi thuỷ quân cảu Cam Ninh còn chưa vào tới tầm bắn của quân cung thủ thì mấy ngàn quân cung thủ Đông Ngô cũng đã lập xong thế trận không mấy khó khăn. Thuỷ quân của Cam Ninh đương nhiên muốn lợi dụng bống tối đen trước bình minh đánh lén quân Đông Ngô nhưng chỉ cần nhìn qua thì hình như kế hoạch đó có vẻ không thành công, quân Đông Ngô không thể bị giết trở tay không kịp.

“Giết…”.

Cam Ninh giơ cao trường đao, giục ngựa tiến lên.

Phía sau hắn một vạn thuỷ quân theo sát như hình với bóng, quyết tâm theo sát hắn, không chút do dự chạy vào trong tầm bắn của quân cung thủ Đông Ngô.

Đúng lúc đó tướng sĩ trong đại trại trung quân đột nhiên nghe thấy tiếng người ngã ngựa đổ. Mấy ngàn quân cung thủ Đông Ngô vẫn còn chưa kịp lập xong đội hình xạ kích đã kêu loạn lên ngã lộn nhào trên mặt đất. Trong khoảnh khắc tiếng kêu la, tiếng mắng chửi, tiếng binh khí va vào nhau đan xen với nhau. Trong ánh nắng ban mai mỏng manh, trong đại trại quân Đông Ngô giống như một nồi nước sôi bị đun nóng bốc lên ngùn ngụt.

“Xảy ra chuyện gì vậy?” Thái Sử Từ vừa mới thúc ngựa chạy tới nhìn thấy tình cảnh quỷ dị này không khỏi lớn tiếng quát hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì vậy?’

Thái Sử Từ vừa nói dứt lời, chiến mã của hắn đã hí lên một tiếng bi thương. Hai chân trước chiến mã khuỵa xuống ngã nhào trên mặt đất. Thái Sử Từ ngồi trên lưng ngựa không đề phòng ngay lập tức bị hất tung xuống, cũng may là Thái Sử Từ võ nghệ cao cường, phản ứng nhanh nhẹn, thân hình cường tráng của hắn lộn về phía trước một cách diệu kỳ rồi nhẹ nhàng đứng xuống đất.

Thế nhưng chuỵên xảy ra tiếp theo thực sự làm người khác trợn tròn mắt. Một tiếng oạch vang lên, Thái Sử Từ chỉ cảm thấy hai chân mình trượt mạnh, hắn nặng nề ngã dài trên mặt đất.

Lúc này đây Thái Sử Từ không còn cách nào mượn lực để hai chân đứng vững trên mặt đất, hắn ngã bầm dập cả mặt mũi. Ngay lúc đó cùng với tiếng kêu thảm thiết là cả tiếng của vật nặng rơi xuống đất và cả tiếng quát mắng liên tục vang lên phía sau Thái Sử Từ.

Thái Sử Từ cố sức bò dậy, hắn đưa mắt nhìn xung quanh. Lữ Mông, Chu Thái và quân thân binh của ba người cũng không khá hơn gì. Gần như tất cả đều té ngã trên mặt đất. Lúc này Thái Sử Từ mới phát hiện trên mặt đất dưới chân hắn có một lớp băng dầy mấy tấc. Trong ánh sáng ban mai mờ nhạt, lớp băng đó phát ra áng sáng trắng long lanh, khó trách người ngựa giẫm lên đó đều té ngã xuống đất.

“Lớp băng kia ở đâu ra vậy?” Thái Sử Từ giận dữ quát to: “Tại sao khi hạ trại không dọn sạch tuyết trên mặt đất?’

“Mạt tướng hiểu rồi” Lữ Mông đột nhiên kêu to: “Đây là quỷ kế của quân Lương Châu. Đây là do quân Lương Châu làm”.

“Hả?” Thái Sử Từ hoảng hốt hỏi: “Là quỷ kế của quân Lương Châu sao?”

Lữ Mông nói: “Tướng quân có còn nhớ tối qua Cẩm Phàm Tặc của Cam Ninh quấy rối chúng ta không? Còn nhớ rõ trong mấy canh giờ Cẩm Phàm Tặc ném tuyết cầu vào trong đại trại của quân ta không? Những tuyết cầu đó đã bị các tướng sĩ giẫm nát tan thành nước sau khi các tướng sĩ quay lại doanh trại, nhất định bãi nước tuyết đó đã bị gió thổi đóng lại thành băng tuyết rắn chắc, bóng loáng vì vậy mới xảy ra chuyện này”.

“Ai”.

“Thì ra là như vậy”.

Thái Sử từ, Chu Thái đột nhiên biến sắc, cả hai vội vã ngẩng đầu nhìn bên ngoài đại trại, quân Tây Lương đang cuồn cuộn xông tới chỉ còn cách đại trại quân Đông Ngô một khoảng cách hai mươi bước chân thế mà trong đại trại quân Đông Ngô, quân bộ binh vẫn còn ngã lên ngã xuống, bò dậy lại ngã, từ đầu đến cuối vẫn không có cách nào kết trận được. Một số quân Sơn Việt bị đao, thương của quân Ngô gây thương tích, thú tính nổi lên chúng bắt đầu tự giết lẫn nhau.

Chỉ có một số ít quân cung thủ Đông Ngô không bị ngã lẻ tẻ bắn tên về phía quân Lương Châu nhưng đương nhiên không thể nào gây nên sự uy hiếp lớn cho quân Lương Châu chứ chưa nói tới việc ngăn cản quân Lương Châu tấn công.

“Mã đồ phu thật đúng là cực kỳ giảo hoạt” Lữ Mông nhìn Thái Sử Từ nói: “Tướng quân, hãy cấp tốc cho các tướng sĩ cởi chiến bào trên người ra che trên mặt đất để khỏi trượt chân ngã xuống nữa”.

“Chỉ e không còn kịp nữa rồi” Trong mắt Thái Sử Từ đột nhiên hiện ra vẻ âm lạnh rất khó hiểu, hắn chỉ tay về phía trước nhìn Chu Thái, Lữ Mông nói: “Tử Minh, Ấu Bình, hai người hãy nhìn xem”.

Chu Thái, Lữ Mông vội vàng nhìn theo hướng Thái Sử Từ chỉ ở trước hàng rào, cả hai thấy một loạt lao từ trong tay quân Lương Châu bay vút lên không trung sau đó làm thành một đường cong hình cánh cung cùng với tiếng rít chói tai hướng về đại trại của quân Đông Ngô bay tới trong khi đó tướng sĩ Đông Ngô trong đại trại vẫn đang siêu vẹo, ngã lên ngã xuống nên căn bản là không có cách nào giơ lá chắn lên che chắn thân mình dù chỉ một cái.

Cơ hồ chỉ trong nháy mắt, từng loạt lao phóng ra lao vào trận quân Đông Ngô. Máu huyết bắn tung toé khắp nơi. Quân Đông Ngô đang chen chúc nhau ở một chỗ bị những cây lao sắc bén xuyên qua thân thể. Trong nháy mắt tiếng kêu la thảm thiết vang lên dậy đất.

Thái Sử Từ và Chu Thái cùng nhắm mắt lại, trên mặt cả hai hiện lên sự đau đớn khôn cùng.

Trong khi đó Lữ Mông vẫn trợn mắt nhìn chằm chằm vào chiến trường tàn khốc giống như cảnh trong địa ngục Tu La. Hai tay Lữ Mông nắm chặt, binh bất yếm trá. Đột nhiên Lữ Mông đã hiểu được đạo lý của câu nói này. Mã đồ phu quả không hổ là một lão tướng thân trải trăm trận, Độc sĩ Giả Hủ lại càng túc trí đa mưu. Bản thân hắn thật sự thua sút hai người này rất nhiều.

Sau khi trận chiến này kết thúc, nhất định phải tập trung đọc cách sách binh thư, nghiên cứu mưu lược mới được. Giây phút này trong mắt Lữ Mông hiện lên sự kiên định chưa từng có.

“Rút lui!” Thái Sử Từ đột nhiên mở bừng mắt. Đôi mắt vốn trong suốt, sáng ngời của hắn đã trở nên đỏ ngầu, hắn giận dữ gào lên tới khàn cả giọng: “Toàn quân rút lui về phía sau. Rút lui về sau trại”.

“Không được, không thể rút lui, tướng quân” Lữ Mông vội vã khuyên can: “Lúc này mà rút lui, các tướng sĩ chưa chắc đã có thể rút lui được, hơn nữa sẽ rất dễ dàng thất bại. Không bằng hãy hạ lệnh tử thủ. Các tướng sĩ vẫn còn có thể liều chết đánh một trận ngăn quân Lương Châu bên ngoài doanh trại. Hiện tại quân ta chỉ có cách tử thủ, chỉ có thể tử thủ mà thôi”.

“Trại trước đã không thể nào giữ được. Nếu không rút lui các tướng sĩ sẽ bị thương vong gần hết” Hai mắt Thái Sử Từ đỏ ngầu, hắn không muốn nghe lời khuyên can của Lữ Mông, hắn giận dữ hét to: “Truyền lệnh, toàn quân rút về trại sau”.

Lữ Mông không khỏi vội vàng khi hắn thấy Thái Sử Từ không nghe theo lời khuyên can của mình, hắn nói tiếp: “Nếu đã rút lui, cũng không thể triệt thoái toàn quân về phía sau. Mạt tướng tình nguyện chỉ huy một toán tinh binh ở lại đoạn hậu”.

“Được, bản tướng quân cấp cho ngươi hai ngàn tinh binh ở lại sau đoạn hậu” Thái Sử Từ nói xong hắn nhìn Chu Thái và các tướng lĩnh Đông Ngô còn lại nói: “Các vị tướng quân còn lại hãy chỉ huy binh lính bản bộ theo bản tướng quân rút lui về trại sau”.

Đại trại quân Lương Châu.

Hứa Chử, Mã Đại, Trần Đáo, Pháp Chính đang tề tựu ở quân trướng của Mã Siêu.

Pháp Chính nói: “Phía bắc sơn khẩu, âm thanh chém giết vang trời. Xem ra đại quân của chúa công đã bắt đầu tấn công rồi”.

“Đại quân của huynh trưởng tấn công, chúng ta cũng nên xuất binh tiếp ứng mới đúng thế nhưng đại quân của Tôn Kiên ở nam quan ải sẽ không ngồi nhìn chúng ta phá vây bên phía bắc, nhất định hắn sẽ phái binh tấn công quan ải mãnh liệt, kiềm chế binh lực của quân ta” Nói xong Mã Siêu đột nhiên quát to: “Trần Đáo nghe lệnh”.

Trần Đáo bước lên, ôm quyền nói: “Có mạt tướng”.

Mã Siêu nói: “Hãy chỉ huy hai ngàn thiết kỵ xuất trại, không cần đợi quân Ngô tấn công hãy lập tức phát động tập kích vào đại trại quân Ngô”.

Đây mới đúng là phong cách của Mã Siêu. Xưa nay Mã Siêu luôn lấy tấn công làm trọng cho dù là trong cuộc chiến phòng ngự Mã Siêu cũng có thể biến thành một cuộc chiến tấn công.

“Mạt tướng tuân lệnh”.

Trần Đáo hùng dũng trả lời rồi hắn quay người bước nhanh khỏi trướng.

Mã Siêu lại nhìn Hứa Chử nói: “Hứa Chử nghe lệnh”.

Hứa Chử vội bước ra khỏi hàng nói: “Có mạt tướng”.

Mã Siêu nói: “Chỉ huy hai ngàn thiết kỵ sẵn sàng tiếp ứng Trần Đáo bất kỳ lúc nào”.

“Tuân lệnh”.

Hứa Chử trả lời rồi cũng ra khỏi trướng.

Lúc này Mã Siêu mới đưa mắt nhìn Mã Đại, Pháp Chính, hắn trầm giọng nói: “Trọng Nhạc, Hiếu Trực lập tức làm theo kế hoạch đã định, tấn quân doanh trại quân Tào”.

Mã Đại, Pháp Chính ôm quyền nói: “Tuân lệnh”.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 324: Cung thỉnh bệ hạ xa giá Đông Đô (2)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Chu Du quân trướng.

“Khụ khụ…”.

Chu Du vốn vẫn đang nằm hôn mê bất tỉnh trên giường đột nhiên ho khan dữ dội mấy tiếng ngay sau đó một dòng máu đen trào ra từ khoé miệng hắn. Đôi mắt sáng quắc của Chu Du đang nhắm chặt chậm rãi mở ra. Hoa Đà đang ở bên cạnh đích thân sắc thuốc thấy thế không khỏi thở phào nhẹ nhõm, ông ta nhìn tên thân binh bên cạnh mừng rỡ như điên nói: “Tính mạng của Đại đô đốc không còn lo lắng nữa rồi, có thể để Tôn tướng quân vào trướng thăm rồi”.

Tên thân binh vui mừng quay người chạy đi.

Chỉ một lát sau bên ngoài trướng vang lên tiếng bước chân hỗn độn, màn trướng vén lên, Tôn Kiên, Từ Thứ, Trương Chiêu, Cố Ung lần lượt đi vào. Tôn Kiên bước nhanh tới trước giường Chu Du, kích động nói: “Công Cẩn không việc gì, cuối cùng thì gánh nặng để trong lòng của Cô cũng được tháo xuống”.

Chu Du cười gương, yếu ớt nói: “Đa tạ chúa công quan tâm”.

Tôn Kiên nhìn Hoa Đà xá dài một cái, xúc động nói: “Đa tạ thần y đã diệu thủ hồi xuân”.

Hoa Đà vội vàng đáp lễ nói: “Chỉ là một cái nhấc tay, nào dám để tướng quân hậu lễ như vậy”.

“Chúa công” Chu Du giãy giụa người, khẽ hỏi: “Du hôn mê đã mấy ngày rồi?”

Tôn Kiên đáp: “Đã hơn nửa tháng rồi”.

“Đã hơn nửa tháng?” Chu Du biến sắc nói: “Thiên Tử đang ở đâu?”

Tôn Kiên nói: “Vẫn còn đang ở ải Thanh Ngưu nhưng đại quân của Mã đồ phu đã tới cứu viện, hôm nay đã tới ngoài núi”.

Từ Thứ ở bên cạnh lại đem tình hình cùng địa thế phức tạp của ải Thanh Ngưu thuật qua cho Chu Du nghe.

Chu Du nghe xong, hắn suy tư một lát rồi nhìn Tôn Kiên nói: “Chúa công, quân Lương Châu dũng mãnh, tinh nhuệ, quân ta thực sự không thể ngăn cản, hơn nữa đại quân của Mã đồ phu đã tới cứu viện. Thái Sử Từ, Chu Thái, Lữ Mông ba vị tướng quân nhất định không chặn được. Bây giờ Thiên Tử tuy tạm thời bị nhốt ở ải Thanh Ngưu nhưng sớm muộn gì cũng bị Mã đồ phu nghênh đón vào Quan Trung”.

“Hơn nữa nếu như Mã đồ phu đã dám mang đại quân tới Nhữ Nam vậy nhất định cuộc chiến Hứa Xương đã định. Nếu như Du đoán không sai thì chỉ e Tào Tháo sắp bại vong tới nơi. Việc Mã đồ phu cướp Thiên Tử đã thành, quân ta dù có dốc toàn lực cũng khó có thể vãn hồi vậy thay vì đem binh lực, vật tư tiêu hao vô ích ở ải Thanh Ngưu này thì không bằng chúa công hãy chủ động bãi binh, nhân dịp Mã đồ phu mới cướp được Thiên Tử, triều đình chưa ổn định, hãy tập trung toàn bộ quân đội, vật tư đánh chiếm Hoài Nam, Từ Châu làm gốc rễ cho việc bắc phạt”.

Tôn Kiên cùng Từ Thứ liếc nhìn nhau, thoáng chốc ánh mắt hai người lập tức trở nên vô cùng nghiêm trọng.

Lời nói của Chu Du tuy nâng thanh thế người khác lên, không ngại làm giảm sĩ khí quân mình nhưng không nghi ngờ đó hoàn toàn đúng đắn.

Trận đánh ải Thanh Ngưu đã làm cho Tôn Kiên và quân Đông Ngô đầy hung hăng lãnh giáo được sức mạnh của quân Lương Châu. Thiết kỵ Tây Lương thực sự là một thế lực quân sự cực kỳ uy phong, vô luận là trang bị, huấn luyện, chiến thuật đều áp đảo khi so sánh với quân Đông Ngô. Hiện tại dưới tình hình ưu thế binh lực không rõ ràng, Tôn Kiên quả thực cũng không nắm chắc có thể cướp lại Thiên Tử hay không.

“Một khi Tào Tháo thất bại tất hắn sẽ đầu quân Lưu Biểu. Lưu Biểu được Tào Tháo hỗ trợ, muốn đánh Kinh Châu lại càng khó khăn hơn” Chu Du thở dốc hai tiếng rồi lại nói tiếp: “Vì vậy chúa công hãy nhân dịp này đánh chiếm Hoài Nam, Từ Châu làm gốc rễ. Nếu để tới khi Mã đồ phu lấy danh nghĩa Thiên Tử truyền lệnh cho sĩ tộc, dân chúng vùng Duyện Dự, khi đó thế lực Trung Nguyên của hắn sẽ vững như bàn thạch, chúa công có muốn lấy Hoài Nam, Từ Châu cũng khó như lên trời tới khi đó thì chúa công chỉ còn một cách lùi về một góc Gi­ang Đông tử thủ để mong bảo vệ mình”.

Đến đây không thể không nói về mục đích chiến lược của Tôn Kiên.

Đối với cuộc chiến Trung Nguyên của ba thế lực Tào Tháo, Viên Thiệu và Mã Dược chỉ có thể xuất hiện hai kết quả ( trước đó Tôn Kiên, Chu Du, Từ Thứ cũng không đánh giá cao Tào Tháo, cho rằng cuộc chiến Trung Nguyên chỉ có thể là Viên Thiệu hoặc là Mã Dược chiến thắng. Việc Tào Tháo thất bại là đương nhiên ) Tôn Kiên dựa theo đề nghị của Chu Du đã đề ra các sắp xếp tương ứng.

Nếu cuối cùng Viên Thiệu thắng thì quân Ngô sẽ tiến về phía tây lấy Kinh Châu, tiến tới dùng Kinh Châu là bàn đạp để giành Ích Châu, cố gắng cùng Mã Dược, Viên Thiệu hai thế lực phương bắc dùng Trường Gi­ang phân định việc cai trị. Nếu như Mã Dược giành được Trung Nguyên, Tào Tháo đầu quân cho Lưu Biểu sẽ tiến về phía bắc lấy Hoài Nam, Từ Châu, chiếm cứ vùng Gi­ang Hoài màu mỡ làm cứ địa, liên kết với Lưu Biểu, Lưu Chương đối phó với Mã Dược, thành lập thế chia bốn thiên hạ.

Thế nhưng ở ngay giữa tiến trình lại xuất hiện cuộc phản loạn của Quan Vũ, xảy ra chuyện cướp Thiên tử chạy tới đầu hàng Gi­ang Đông làm Tôn Kiên không kịp chuẩn bị.

Ngay khi Viên Thiệu thất bại quay lại Hà Bắc, việc Mã Dược chiếm cứ Trung Nguyên đã là chuyện tất yếu, Tôn Kiên liền triệu tập Tôn Sách và Chu Du dẫn đại quân thuỷ quân từ Lư Gi­ang gần sát Kinh Châu, hắn lại phái Tôn Sách và Chu Du chỉ huy tinh binh đi trước lên phía bắc tiếp ứng Quan Vũ, chính hắn cùng với Từ Thứ tụ tập chư tướng chuẩn bị dẫn đại quân bắc tiến dánh chiếm hai vùng Hoài Nam, Từ Châu.

Tôn Kiên dùng Tôn Sách và Chu Du đi trước tiếp ứng Thiên Tử đó là việc làm vô cùng cẩn thận.

Kết quả ông trời lại trêu cợt với Tôn Kiên, chẳng những Thiên Tử vẫn chưa nghênh đón được, con trai trưởng kiêu dũng, thiện chiến Tôn Sách còn bị Mã Siêu giết chết.

Tôn Kiên nổi cơn thịnh nộ, hắn liền từ bỏ kế hoạch tấn công Hoài Nam, Từ Châu dẫn đại quân đi đoạt lại Thiên Tử. Từ Thứ cho rằng Thiên Tử quan trọng hơn so với Hoài Nam, Từ Châu, hơn nữa lúc đó Mã đồ phu cũng đang giằng co với Tào Tháo ở Hứa Xương, không thể dẫn quân tới Nhữ Nam tiếp ứng nên Tôn Kiên mới dẫn đại quân tới ải Thanh Ngưu chặn đường cướp lại Thiên Tử.

Ai ngờ Mã đồ phu vượt qua tất cả những dự đoán dẫn đại quân tới ải Thanh Ngưu cứu viện cho Mã Siêu, hơn nữa còn cực kỳ nhanh chóng, gần như là khi đại quân của Tôn Kiên đuổi tới nơi thì đại quân của Mã đồ phu cũng tới nơi.

Người tính không bằng trời tính, rốt cuộc biến thành cục diện khó xử ngày hôm nay.

Rút quân về, Tôn Kiên thực sự không cam lòng. Không rút quân, cứ tiếp tục lãng phí như vậy cũng không phải là biện pháp hay.

Chu Du biết rõ Tôn Kiên không muốn rút quân chính là vì Mã Siêu, hắn muốn giết Mã Siêu để báo thù cho Tôn Sách liền lên tiếng khuyên nhủ: “Chúa công, tục ngữ có câu: Quân tử báo thù mười năm chưa muộn, chỉ cần quân ta có thể chiếm được vùng Gi­ang Hoài màu mỡ, dựa vào tiền lương hùng hậu sẽ có thể tạo ra một đội quân hổ lang chi sư, khi đó còn sợ không báo được thù của Bá Phù sao?”

“Chúa công” Tôn Kiên vẫn đang do dự không quyết thì Từ Thịnh bước vào trong trướng bẩm báo: “Quân thiết kỵ Tây Lương lại tới tấn công”.

“Cứ làm theo lời Công Cẩn” Tôn Kiên cắn răng nói: “Để ba nghìn khinh binh ở lại trấn thủ đại doanh còn các bộ quân khác theo Cô chuyển hướng tấn công Hoài Nam, còn nữa hãy truyền lệnh để Thái Sử Từ, Chu Thái, Lữ Mông hãy nhường đường để quân Lương Châu đi qua, đợi khi quân Lương Châu đi qua thì hãy từ bình nguyên Nhữ Nam giáp công Hoài Nam từ hướng đông, không được sai sót”.

Đại doanh quân Tào.

Suốt một đêm Tào Hồng không ngủ, hắn đang cùng Vu Cấm, Tào Chân nghị sự thì đột nhiển ở phía bắc sơn khẩu vang lên kiệu kèn lệnh không ngừng.

Ánh mắt Vu Cấm nghiêm nghị, hắn nhìn Tào Hồng nói: “Tướng quân, xem ra quân Tây Lương của Mã đồ phu bắt đầu tấn công rồi”.

Trong mắt Tào Hồng hiện lên sự lo lắng, hắn trầm giọng nói: “Mã đồ phu trải qua trăm trận, bản tính xảo trá, không biết liệu quân Ngô có thể chống đỡ được hay không?”

Tào Chân nói: “Quân Ngô dù không đông cũng có tổng cộng một vạn quân, việc bảo vệ được dăm bữa nửa tháng hẳn không có vấn đề gì”.

Vu Cấm nói: “Điều này cũng rất khó nói. Công Tử đừng quên bên cạnh Mã đồ phu còn có Độc sĩ Giả Hủ quỷ kế đa đoan, quân Ngô ngay cả phòng thủ một ngày cũng không xong”.

Tào Chân nói: “Nếu thật sự là như thế, quân ta cũng phải chuẩn bị sẵn sàng để tránh đến lúc đó chúng ta bị quân Lương hai mặt giáp công mà không kịp ứng phó”.

Tào Chân vưa fnói xong trên ải Thanh Ngưu đột nhiên vang lên hiệu kèn lệnh không ngừng. Sắc mặt Tào Hồng trầm xuống, hắn nhìn Vu Cấm, Tào Chân nói: “Xem ra Mã Siêu cũng bắt đầu tấn công rồi. Vu Cấm tướng quân hãy ở lại giữ trại sau đề phòng bất trắc. Tử Đan, hãy theo bản tướng quân lên trại trước nghênh tiếp Mã Siêu”.

“Tuân lệnh”.

Vu Cấm, Tào Chân đồng thời ôm quyền nhận lệnh.

Ngay khi Tào Hồng, Tào Chân vội vã chạy ra tới trại trướpc thì một đội thiết kỵ Tây Lương đã từ trên ải Thanh Ngưu xông tới. Tào Hồng nhìn qua ước tính đội thiết kỵ Tây Lương đó chỉ có khoảng hơn ngàn quân kỵ thế nhưng điều làm Tào Hồng thấy kỳ quái chính là có rất nhiều quân thiết kỵ Tây Lương vây xung quanh bảo vệ một kỵ mã. Kỵ mã này không mặc áo giáp cũng không mang theo binh khí.

Nhìn qua trang phục củ người đó, đột nhiên Tào Hồng giật mình kinh hãi, hắn nhìn Tào Chân bên cạnh nói: “Tử Đan, người đang tới này chẳng lẽ lại là Thiên Tử?”

“Hả, Thiên Tử?”

Tào Chân nghe vậy cũng giật mình hoảng sợ, hắn vội vàng chăm chú nhìn cũng nhận ra trang phục của người đang được kỵ mã Tây lương xúm quanh bảo vệ quả thật giống như đương kim Thiên Tử. Trong lúc Tào Hồng, Tào Chân còn đang nghi ngại thì đội thiết kỵ Tây Lương đã tới gần doanh trại quân Tào, chỉ còn cách khoảng trăm bước. Tên tiểu giáo chỉ huy quân cung thủ thấy Tào Hồng chậm trễ ra lệnh bắn tên liền tiến tới hỏi: “Tướng quân, có bắn tên không?”

“Không được” Tào Hồng hít một hơi thật sâu, hắn trầm giọng nói: “Bản tướng quân chưa ra lệnh, không ai được tự tiện bắn tên. Ai trái lệnh, lập tức xử chém”.

Tuy Hán thất đã suy vi thế nhưng bất kể là gì thì hiện tại vẫn là thiên hạ của Đại Hán, cho dù là Mã đồ phu hay Thừa tướng Tào Tháo cũng không dám bất kính với thiên tử. Nếu người cưỡi ngựa đó thật sự là Thiên tử, Tào Hồng thật sự không dám bắn tên vào Thiên Tử, đó chính là việc đại nghịch bất đạo. Nếu một khi chuyện này lan truyền ra ngoài thì hắn sẽ bị người đời chửi mắng, nguyền rủa. Nếu Tào Hồng là một người lỗ mãng, không hiểu lễ nghĩa thì không nói làm gì, đằng này Tào Hồng là người đã theo Tào Tháo lâu ngày nên cũng hiểu rõ việc đời nên đương nhiên biết rõ lợi hại trong đó.

“Quân Tào phía trước nghe đây, đương kim Thiên Tử đang ở đây, còn không mau mau mở cửa trại ra nghênh đón”.

Trên sơn đạo đột nhiên vang lên một tiếng hét như sấm. Quân thiết kỵ Tây Lương đang chậm rãi đi tới lập tức toàn bộ ngừng lại, tản ra hai bên. Người mặc trang phục Thiên tử ở chính giữa liền giục ngựa chậm rãi tiến lên, hơn mười tên thân kỵ đi hộ vệ tiến tới gần doanh trại quân Tào năm mươi bước, dừng lại cao giọng quát: “Thấy mặt Trẫm vì sao không quỳ?”

“A?”

“Đương kim Thiên Tử?”

“Người này đương nhiên là Hoàng Thượng hả?”

“Thấy Hoàng Thượng hãy quỳ xuống, không bị chém đầu bây giờ”.

Tướng sĩ quân Tào trong doanh trại đều reo hò ầm ĩ. Bọn chúng chỉ là những binh lính bình thường, cả đời chúng cũng không bao giờ có thể thấy mặt Thiên Tử, sao biết được người này là thật hay giả? Chúng mới vừa nghe nói là đương kim Thiên Tử đã hoảng sợ cuống cuồng quỳ dạp xuống đất, hô to vạn tuế ba lần. Tào Hồng thì càng cảm thấy người đối diện này chính là Thiên tử, hắn cũng quỳ xuống, dập đầu hô to: “Thần Tào Hồng ra mắt Bệ hạ. Hoàng Thượng vạn tuế, vạn tuế, vạn tuế”.

Bất chợt trong lúc tiếng lên dây cung vang lên lách tách truyền vào tai Tào Hồng rất rõ ràng. Tào Hồng kinh hãi quay đầu lại nhìn thì thấy Tào Chân đã náu vào sau cửa viên môn, giương cung, lắp tên nhắm vào người Thiên Tử.

Tào Hồng kinh hãi. Đây không phải là chuyện đùa nhưng hắn lại không dám chồm dậy ngăn cản Tào Chân, hắn e sợ vạn nhất Tào Chân khẽ buông tay, bắn mũi tên thì thật sự Thiên Tử sẽ bị giết, hắn gấp gáp tới mức hai mắt như lồi ra, khẽ quát: “Tử Đan, người điên rồi. Dám giết đương kim Thiên Tử sao?”

Tào Chân lãnh đạm nói: “Chất nhi không điên, người này chỉ là giả”.

Tào Hồng quát to: “Làm sao ngươi biết người này là giả Thiên Tử? Vạn nhất là thật thì sao?”

Tào Chân đáp: “Thật hay giả chỉ cần bắn một mũi tên là biết”.

Nói xong Tào Chân khẽ buông tay phải ra, một tiếng sưu vang lên, mũi tên đã thoát khỏi dây cung, bắn ra như tia chớp, cắm vào cổ họng của đương kim Thiên Tử.

Tào Hồng ở bên cạnh sợ tới mức mặt mày tái xám, một hồi lâu mà hắn vẫn chưa lấy lại tinh thần. Nói thì chậm nhưng sự việc xảy ra rất nhanh, chỉ nghe “a” một tiếng vô cùng thảm thiết, cổ họng của “Đương kim Thiên Tử” đang cưỡi Hãn Huyết Bảo mã đã bị mũi tên xuyên qua, rồi ngã vật xuống ngựa.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 324: Cung thỉnh bệ hạ xa giá Đông Đô (3)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Tướng sĩ quân Tào trong doanh trại thấy thế nhất thời náo động hẳn lên, lo sợ không yên.

Trong lúc tướng sĩ quân Tào đang lo sợ không yên, không biết làm gì thì Tào Chân đã rút bảo kiếm chỉ về phía trước quát to: “Ba quân tướng sĩ nghe đây. Người này là Thiên tử giả. Tặc tử Mã Siêu lấy thứ dân giả mạo Thiên Tử, khinh nhờn Thánh giá, tội không thể dung thứ. Cung thủ, mau bắn tên, bắn chết lũ loạn thần tặc tử to gan lớn mật kia”.

“Hô” Mã Siêu nặng nề đấm một quyền vào tay vịn bằng gỗ, hắn bùi ngùi nói: “Đáng tiếc lại bị quân Tào đoán được”.

“Coi như có đoán được cũng chẳng sao cả” Pháp Chính cười ha hả nói: “Vì bị lòng nghi ngờ ám ảnh, lúc này lòng quân Tào đã loạn. Nhị tướng quân chỉ cần thừa dịp tấn công mãnh liệt là có thể một trận phá tan doanh trại quân Tào’.

Mặc dù Tào Chân quyết định rất nhanh bắn tên giết chết Thiên tử giả nhưng đúng như Pháp Chính đã nói, tướng sĩ quân Tào thực sự không biết Thiên Tử bị Tào Chân bắn chết là thật hay giả. Lúc này lòng quân đã loạn.

Từ khi nghênh đón, thừa lệnh Thiên Tử tới nay, Tào Tháo vẫn tự cho mình là Thừa tướng, thuỷ chung coi nhiệm vụ của mình là phục hưng Hán thất, cho tới bây giờ hắn vẫn chưa lộ dã tâm muốn tự lập thay Hán thất vì vậy văn thần võ tướng phần lớn chia làm hai nhóm đối lập. Một nhóm chỉ một lòng một dạ hướng về Tào Tháo, giống như Quách Gia, Hạ Hầu Uyên, Hạ Hầu Đôn, trong con mắt những người đó chỉ có Tào Tháo, cũng chỉ nhận Tào Tháo là quân nhưng còn một nhóm lại hướng tới triều đình Đại Hán ví dụ như Tuân Du, Tuân Úc, Nhạc Tiến vân vân. Đối tượng thần phục của mấy người này thật ra lại là triều đình Đại Hán bởi vì biểu hiện trước sau của Tào Tháo giống như trung thần của Đại Hán nên mới nghe theo lệnh Tào Tháo.

Dưới tình huống này cả hai nhóm này thật ra chỉ hướng tới một người. Đó chính là Tào Tháo.

Thế nhưng dưới những tình huống đặc biệt ví dụ như Thiên Tử bị mũi tên của Tào Chân bắn chết vậy thì tình hình sẽ khác. Lúc này có hai viên hàng tướng Từ Châu xưa nay vẫn tự nhận là thần tử Đại Hán nhảy ra rút đao chỉ Tào Chân quát to: “Nghịch tặc Tào Chân dám bắn chết đương kim Thiên Tử, quả thực là đại nghịch bất đạo, tội không thể dung thứ. Giết hắn!”.

Trong doanh trại quân Tào nhất thời trở nên đại loạn. Hai viên hàng tướng Từ Châu cùng bộ hạ cũ của mình bắt đầu chém giết các bộ quân Tào còn lại. Mã Đại thừa dịp dẫn quân thiết kỵ Tây Lương đánh ùa vào. Quân thiết kỵ Tây Lương ném lao như rời non lấp biển, quân Tào bị thương vong nặng nề. Thừa dịp quân Tào không thể gượng dậy tổ chức phản kháng, mấy trăm thiết kỵ Tây Lương xuống ngựa dọn sạch sẽ dây gạt ngựa, cạm bẫy sừng hươu trước doanh trại quân Tào, ngay sau đó đại đội quân thiết kỵ Tây Lương phá hàng rào tấn công vào đại trại quân Tào.

Quân Tào đã không thể cứu vãn nổi.

Tào Hồng, Tào Chân thấy tình thế không ổn vội vàng gom quân đội lui về giữ doanh trại thứ hai. Mã Đại được thế nhất định không buông tha, hắn chỉ huy thiết kỵ Tây Lương đuổi theo đến cùng, thừa dịp quân Tào còn chưa kịp ổn định lại mãnh liệt tấn công doanh trại thứ hai của quân Tào. Tào Hồng, Tào Chân bất đắc dĩ đành phải thối lui tới hậu trại của Vu Cấm.

Thiết kỵ Tây Lương muốn lặp lại trò cũ, Vu Cấm chỉ huy quân lính liều chết ngăn cản, tiếp ứng Tào Hồng, Tào Chân vào trong trại.

Mã Đại thấy Vu Cấm đã có chuẩn bị, hơn nữa thiết kỵ Tây Lương công phá liền hai trại, sức lực đã mệt mỏi nên liền dẫn quân tạm lui lại mấy dặm nghỉ ngơi hồi phục sức lực. Tào Hồng, Tào Chân vừa mới ngồi xuống, vẫn còn chưa kịp thở thì Vu Cấm chiến bào nhuốm máu bước nhanh vào trướng la lên: “Nhị vị tướng quân, việc lớn hỏng rồi”.

Tào Hồng giật mình kinh hãi hỏi: “Văn Tắc, đã xảy ra chuyện gì?”

Vu Cấm nói: “Quân Ngô ở phía bắc sơn khẩu đã bỏ doanh trại rồi”.

Tào Hồng hít một hơi thật sâu, hắn trầm giọng nói: “Quân Ngô thật sự đã thất bại sao? Thậm chí không tử thủ được lấy một ngày sao?”

Tào Chân nói: “Thế thì xong rồi. Quân ta lưỡng bề thọ địch thì chống đỡ sao nổi?”

Vu Cấm nói: “Chuyện đã như này thì chúng ta không còn biện pháp nào khác. Trước mắt quân ta phải tạm lui vào trong núi, né tránh quân tiên phong Lương Châu, đợi khi quân Lương Châu rút đi thì chúng ta tới Hứa Đô hội quân với đại quân của chúa công”.

Tào Hồng nói: “Hiện tại cũng chỉ còn cách đó là tốt nhất”.

Trần Hổ phóng ngựa như bay quay về, hắn kích động nhìn Mã Dược nói: “Chúa công, quân ta đã liên tục đánh phá hai toà đại trại của quân Ngô và quân Tào. Nhị tướng quân đã chỉ huy quân thiết kỵ tới hội quân”.

“Hả?” Giả Hủ vui mừng nói: “Chúa công, nói như vậy thì quan đạo từ bình nguyên Nhữ Nam tới ải Thanh Ngưu đã thông”.

“Ừ” Mã Dược trầm giọng nói: “Trần Hổ nghe lệnh”.

Trần Hổ vội giục ngựa lên trước nói: “Có mạt tướng”.

Mã Dược nói: “Chỉ huy hai ngàn quân tinh nhuệ bảo vệ đường núi, không được để mất”.

Trần Hổ ầm ầm trả lời: “Tuân lệnh”.

Lúc này Mã Dược mới nhìn Giả Hủ cười nói: “Văn Hoà, bây giờ nên đi nghênh đón Thiên Tử về kinh thành”.

Giả Hủ mỉm cười, chắp tay nói: “Chúa công, mời”.

Mã Đại giục ngựa phóng như bay quay về, từ rất xa hắn đã kích động nhìn Mã Siêu gào lên: “Huynh trưởng, quân ta đã đánh phá ba toà quân doanh của quân Tào, đã hội quân với thuỷ quân của Cam Ninh tướng quân”.

“Tốt quá” Mã Siêu phấn khích nói: “Truyền lệnh, lệnh Trần Đáo chỉ huy quân thiết kỵ bản bộ đoạn hậu, vừa đánh vừa lui. Các chư tướng còn lại chỉ huy quân thiết kỵ bản bộ theo bản tướng quân hộ tống Thiên Tử và bách quan xa giá đi ra ngoài núi hội quân với đại quân của huynh trưởng”.

Nửa canh giờ sau, trên quan đạo trước ải Thanh Ngưu.

Mã Dược nhảy xuống ngựa, hắn quỳ dạp xuống, cung kính nói: “Tội thần Lương Châu mục, Bình Tây tướng quân…Mã Dược nghênh giá chậm trễ, tội đáng muôn chết”.

Phía sau Mã Dược, Giả Hủ, Cam Ninh, Trần Hổ, Trương Báo cùng với hơn một trăm tướng lĩnh Lương Châu lớn nhỏ cũng quỳ dạp xuống, nhìn lại chỉ thấy trên quan đạo nhỏ hẹp chỉ thấy toàn “mông” cao cao, cong lên trông rất hùng tráng.

Xa giá Thiên Tử đang lộc cộc tiến về phía trước đột nhiên dừng lại. Màn xe vén lên, Hán Hiến Đế dáng người gầy gò khom lưng chui ra, khoát tay nói: “Mã ái khanh hộ giá có công. Có tội gì? Mau mau bình thân. Chư vị tướng quân tất cả cũng miễn lễ, bình thân”.

“Tạ ơn bệ hạ” Mã Dược cung kính dập đầu bái lạy ba lần, hắn cao giọng nói: “Ngô hoàng vạn tuế, vạn tuế, vạn tuế”.

Phía sau Mã Dược, Giả Hủ và tướng lĩnh Lương Châu cũng rối rít tung hô vạn tuế ba lần sau đó mới cùng Mã Dược đứng dậy.

Tư Đồ Khổng Dung giục ngựa tiến lên trước, cất tiếng nói: “Mã Dược có công hộ giá, gia phong Chinh Tây tướng quân, tước Lương công, khâm thử”.

Mã Dược lại phục xuống bái lạy: “Tạ chủ long ân”.

Tư Đồ Khổng Dung lại tiến lên hô: “Lương công, sao không hộ giá hoàn đô?”

“Thần lĩnh chỉ”.

Mã Dược đứng dậy, hắn quay người nhìn đại quân Tây Lương phía sau vung tay lên. Thiết kỵ Tây Lương đang chen chúc nhau trên quan đạo nhỏ hẹp ầm ầm tách sang hai bên, miễn cưỡng có thể làm thành một lối đi ở giữa.

Mã Siêu, Mã Đại giục ngựa tiến lên, đồng thanh quát to: “Cung thỉnh Bệ hạ xa giá Đông đô”.

Trong một toà thành địa thế hẻo lánh. Mấy năm nay chiến loạn liên miên, trong núi ngiặc cướp nổi lên, dân chúng trong thành hầu hết đã bỏ đi. Lúc này chỉ còn là một toàn thành trống không.

Tào Tháo chỉ huy tàn binh bại tướng tạm thời trú thân ở đây. Bên trong đại đường huyện nha, Tào Tháo đang ngồi co ro sưởi ấm bên cạnh một chậu than. Bốn bức tường rách nát đương nhiên không thể ngăn cản gió lạnh xâm nhập. Gió lạnh thổi mạnh làm Tào Tháo rét run bần bật. Do tuổi tác ngày một già đi, hơn nữa nhiều ngày nay vất vả bôn ba, sức khoẻ Tào Tháo đi xuống trông thấy từng ngày một.

“Thúc phụ!” Cánh cửa gỗ huyện nha đột nhiên mở ra. Tào Hưu bước nhanh vào trong, kích động kêu to: “Thúc phụ, Hồng thúc tới”.

“Tào Hồng?” Sắc mặt vốn cực kỳ tái nhợt của Tào Tháo đột nhiên ửng lên, hắn đứng dậy hỏi: “Tào Hồng ở đâu?”

“Chúa công, Tào Hồng ở đây”.

Tào Tháo vừa dứt lời thì đột nhiên bên ngoài huyện nha vang lên một giọng nói rất khoẻ khoắn, bóng người loé lên, Tào Hồng, Vu Cấm, Tào Chân ba tướng đã theo nhau bước vào, nhìn thấy Tào Tháo, cả ba người lập tức quỳ dạp xuống đất, khóc to nói: “Chúa công, chúa công, đã tìm được người rồi, ô ô ô”.

“Đứng lên, mau đứng lên” Mắt Tào Tháo ươn ướt, hắn vội tiến lên đỡ ba người Tào Hồng dậy sau đó hắn cầm tay Tào Hồng, cảm khái nói: “Tử Liêm, các người đã có thể quay về rồi”.

Tào Hồng buồn bực nói: “Mạt tướng vô năng không thể nghênh đón Thiên Tử quay về, đã để chúa công người thất vọng rồi”.

“Đừng nói vậy” Tào Tháo nói: “Các ngươi không việc gì là Cô đã cực kỳ cao hứng rồi”.

Tiếng bước chân vang lên, Trình Dục, Cổ Quy, Lưu Diệp, Trương Liêu, Trương Cáp đồng loạt bước vào. Tào Tháo vội bảo mọi người ngồi vòng quanh chậu than.

Lúc này Tào Hồng mới lên tiếng hỏi: “Sao chúa công không ở Hứa Đô, hà cớ gì lại tới đây?”

Tào Tháo thở dài nói: “Tử Liêm có điều chẳng biết, Hứa Đô đã thất thủ rồi”.

Tào Hồng thất thanh hỏi: “Hả, Hứa Đô đã thất thủ ư?”

Tào Tháo nói: “Chẳng những Hứa Đô thất thủ mà bảy vạn đại quân cũng hoàn toàn bị tiêu diệt”.

“Cái này…”.

Tào Hồng, Tào Chân, Vu Cấm ba người nhìn nhau, cả ba thực sự không dám tin vào tai mình.

Tào Tháo im lặng một lát rồi hắn hỏi Tào Chân: “Tử Đan, ngươi có biết tung tích của các đệ và di mẫu ở đâu không?”

Ánh mắt Tào Chân vô cùng buồn bã, hắn im lặng hồi lâu không dám trả lời.

Tào Tháo lại hỏi Tào hồng: “Tử Liêm, ngươi có biết các điệt nhi và tẩu tẩu ở đâu không?”

Tào Hồng nói vẻ sầu thảm: “Thật không dám dấu diếm chúa công, chư vị công tử đều bị nghịch tặc Quan Vũ làm hại ( Quan Vũ đã chết mà vẫn bị Pháp Chính giá hoạ, đúng là chết không nhắm mắt ) mà chư vị tẩu tẩu cũng…”.

Tào Tháo gặng hỏi: “Các nàng ấy thế nào?”

Tào Hồng nói: “Đã bị làm nhục tới chết”.

“Đồ thất phu Quan Vũ” Tào Tháo hét to một tiếng, sắc mặt hắn lập tức đỏ ngầu, hai mắt tối sầm hắn ngã xuống bất tỉnh.

Đông Đô Lạc Dương

Mã Dược nghênh đón Thiên Tử đã được mấy tháng trời, trong nháy mắt đã tới mùa xuân năm Kiến An thứ mười một ( năm 198 ). Sau khi nghênh đón Thiên Tử về Lạc Dương, Mã Dược lập tức huy động mười vạn dân phu từ Quan Trung tới Lạc Dương, không lo tốn kém tu sửa cung điện Đông Đô, thu nạp mấy vạn lưu dân từ hai châu Duyện, Dự vào Lạc Dương.

Các Đại phú thương được Mã Dược đỡ đầu cũng thi nhau mở cửa hiệu ở Lạc Dương. Chỉ sau mấy tháng Đông Đô Lạc Dương đã ngựa xe như nước, người đi lại liên miên không dứt, dần dần đã khôi phục lại cảnh thịnh vượng ngày xưa nhất là khu chợ đông thành càng nhộn nhịp hơn ngày trước.. Thiên Tử mặt rồng hớn hở đã hạ chiếu sắc phong Mã Dược làm Thừa tướng, tăng ấp phong lên hai ngàn hộ.

Phủ Thừa tướng, đông thành Lạc Dương.

Mã Dược đang nằm ngửa vẻ thanh thản trên ghế bọc gấm, loại ghế dài này được đặc chế. Bên dưới chạm rỗng làm thành bồn cầu, dưới ghế thiết lập phòng ngầm dưới đất, trong phòng ngầm dùng đá đốt nóng, có thị nữ ở đó dưới nước lên đá nóng, hơi nước bốc lên, xông hơi hạ thể của Mã đồ phu. Sung sướng quá mức.

Tiếng bước chân nhỏ nhẹ vang lên, Điêu Thiền vén rèm đi vào ( Đây là Điêu Thiền thật )

Đôi mắt đẹp khẽ liếc nhìn những vết sẹo chồng chất trên người Mã Dược. Trong mắt Điêu Thiền hiện lên sự đau xót, nàng lên tiếng: “Lão gia, Giả Hủ đại nhân tới”.

Mã Dược à một tiếng, vung tay, hai nữ tỳ trên người khoác một chiếc áo tơ lụa mỏng nửa ngồi đấm lưng cho Mã Dược yêu kiều đứng dậy, sau khi khom lưng chào Mã Dược liền ẩn vào sau bức bình phong. Lúc này Mã Dược mới nhìn Điêu Thiền nói: “Thiền nhi, hãy để Giả Hủ đại nhân vào đây”.

Điêu Thiền trả lời rồi quay người đi ra ngoài.

Chỉ trong chốc lát, màn trúc nhấc lên, Giả Hủ khom lưng đi vào, hắn chắp tay vái chào Mã Dược, cao giọng nói: “Hủ tham kiến chúa công”.

“Không cần đa lễ” Mã Dược cầm một chiếc trường bào trên ghế khoác lên người rồi hắn nằm nghiêng trên ghế và bảo Giả Hủ: “Văn Hoà, tới đây ngồi đi”.

“Tạ ơn chúa công”.

Giả Hủ tạ ơn, lúc này hắn mới tiến lên hai bước ngồi vào vị trí

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 325: Mã đồ phu không yên lòng, Tư Mã Ý làm Chủ Bạ

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

“Chúa công, Hứa Xương đã dọn dẹp xong” Giả Hủ nói: “Thế nhưng chỉ bắt được Tuân Úc, không bắt được Tào Tháo, thậm chí ngay cả thủ hạ của hắn là Trương Liêu, Trương Cáp, Tuân Du, Hứa Du, Trình Dục, Cổ Quy, Lưu Diệp, Tàng Phách, quan văn, võ tướng không bắt được ai”.

Mã Dược nói: “Văn Hoà cho rằng Tào Tháo và văn quan, võ tướng dưới trướng hắn đã chết trong đám loạn quân hay đã chạy trốn rồi?”.

Giả Hủ nói: “Theo như Tử Nghiêm nói ở lần đại phá vây cuối cùng đã có mấy chục kỵ binh quân Tào đột phá ra khỏi vòng vây. Hủ cho rằng Tào Tháo cùng với thủ hạ tâm phúc văn, võ rất có thể đã ăn mặc như những binh lính bình thường, dùng kế lừa dối chạy thoát”.

Mã Dược nói: “Cô cũng cho là như vậy ( Hiện tại Mã Dược là Lương Công, xưng Cô hẳn là không có vấn đề gì ).

Giả Hủ nói: “Ai, chúa công đã bày thiên la địa võng ở bên ngoài thành Hứa Xương, thật không ngờ Tào Tháo vẫn có thể chạy thoát. Người này quả thật mạng rất lớn”.

“Ha ha” Mã Dược cười nói: “Văn Hoà chê Tào Tháo mạng lớn. Tào Tháo vẫn chê Cô mạng lớn. Tam Gi­ang Khẩu, Diệp Thành, còn cả Tỵ Thuỷ Quan. Không phải Cô lúc đó cũng phải tìm đường sống trong cái chết sao? Ngươi hãy nghĩ xem nếu Tào Tháo chết dễ dàng như vậy thì hắn không phải là Tào Tháo nữa”.

Thật sự phân tích của Mã Dược về Tào Tháo còn cả phần tình cảm trong đó.

Nếu không phải thời thế bắt buộc, Mã Dược thật sự muốn kết gi­ao bằng hữu với Tào Tháo. Hơn nữa Mã Dược tin tưởng rằng với tính cách của mình hai người nhất định sẽ là bằng hữu tâm gi­ao.

Giả Hủ vui vẻ nói: “Nói như vậy, chúa công sẽ không trách phạt Cao Thuận tướng quân chứ?”

Mã Dược hỏi: “Cao Thuận có tội gì?”

“Tạ ơn chúa công” Giả Hủ vui vẻ nói: “Vậy Hủ lập tức ra Tướng phủ thả Cao Thuận”.

“Hả?” Cao Thuận ngạc nhiên hỏi: “Cao Thuận đã tới Lạc Dương hả?”

Giả Hủ nói: “Đang quỳ với Tử Nghiêm bên ngoài Tướng phủ, xin thỉnh tội với chúa công”.

“Ngươi nữa” Mã Dược cười chỉ Giả Hủ nói: “Mặc dù Cao Thuận, Lý Túc vô tội nhưng thực sự vẫn phải chịu trách nhiệm, Tào Tháo vẫn là chạy thoát khỏi tay hai người này, chuyện quỳ gối không thể tránh được, cứ để hai người đó quỳ một lát. Văn Hoà, ngươi cũng đừng vội ra đó. Cô có chuyên quan trọng muốn thương nghị với ngươi”.

Giả Hủ vui vẻ nói: “Hủ nào dám không tuân lệnh”.

Mã Dược ngẩng đầu nói: “Điển Vi”.

Một bóng người loé lên bên ngoài buồng lò sưởi, Thân hình như cột sắt của Điển Vi vén rèm bước vào, cung kính nói: “Chúa công có gì phân phó?”

Mã Dược nói: “Phái người đi mời Pháp Chính đại nhân tới đây”.

“Tuân lệnh”.

Điển Vi ầm ầm trả lời rồi đi ra.

Mã Dược lại nói: “Văn Hoà, nhân lúc Hiếu Trực chưa tới, Cô có chuyện muốn thương nghị cùng ngươi”.

Giả Hủ nói: “Xin chúa công cứ nói”.

Mã Dược nói: “Sau cuộc chiến với Tào Tháo, quân ta thương vong rất nặng nề. Cú Đột và Lang kỵ Ô Hoàn do hắn chỉ huy càng thương vong thê thảm hơn. Tướng sĩ Lang kỵ là người Ô Hoàn, theo như quân luật quân Lương Châu thì không thể được hưởng thụ trợ cấp ngang bằng với tướng sĩ người Hán. Thế nhưng nói gì thì nói những tướng sĩ Ô Hoàn này vẫn thuỷ chung đi theo Cô từ buổi ban đầu ở Thượng Cốc, trải qua trăm trận, trung thành và tận tâm với Cô. Trong thâm tâm của ba quân tướng sĩ thực sự không coi như người ngoại tộc. Cô thực sự không đành lòng”.

Sắc mặt Giả Hủ nghiêm nghị, hắn đứng dậy, bái lạy Mã Dược và nói: “Chúa công nhân hậu, tướng sĩ Ô Hoàn rất may mắn. Tướng sĩ Lương Châu rất may mắn. Muôn dân trăm họ thiên hạ rất may mắn”.

“Văn Hoà hãy ngồi xuống nói chuyện” Đợi khi Giả Hủ ngồi lại vào chỗ mình, Mã Dược mới nói tiếp: “Cô có suy nghĩ này muốn thương nghị với Văn Hoà”.

Giả Hủ nói: “Hủ xin rửa tai lắng nghe”.

Mã Dược nói: “Cô có ý định nhận con trai trưởng của Cú Đột là Cú Duyên làm nghĩa tử, ban thưởng họ Mã, nhập Hán tịch. Con mồ côi của các tướng sĩ Ô Hoàn đã bỏ mình cũng ban thưởng Hán tịch, đổi họ Ô, khi đó tướng sĩ Ô Hoàn có thể được thụ hưởng trợ cấp ngang bằng như tướng sĩ quân Hán. Các dũng sĩ Nguyệt thị, Khương tộc cũng như vậy. Văn Hoà nghĩ sao?”

Giả Hủ nghiêm mặt nói: “Chúa công anh minh”.

Lời này của Giả Hủ tuỵêt đối không phải chỉ là lời xu nịnh mà phát ra từ tâm can. Mã Dược có thể nói rất hung tàn với kẻ thù của mình nhưng đối với thủ hạ của mình mà nói thì lại cực kỳ quan tâm. Có thể nói từ trước tới nay chưa có bậc quân chủ nào coi trọng tính mạng của thủ hạ như Mã Dược, cũng có thể nói từ trước tới nay chưa có bậc quân chủ nào được thủ hạ của mình thực tâm ủng hộ từ tận đáy lòng như Mã Dược.

Bình thường binh lính khá thô kệch, bọn họ thường không hiểu đạo lý là gì, chỉ cần người khác đối xử tốt với bọn họ, bọn họ sẽ bán mạng cho người đó. Mọi chuyện chỉ đơn giản như vậy.

Đang trong lúc hai người nói chuyện thì Pháp Chính đi tới, hắn thi lễ với Mã Dược và nói: “Tham kiến chúa công”.

Mã Dược khẽ gật đầu, ra hiệu cho Pháp Chính ngồi xuống rồi mới nói: “Hôm nay Cô cho mời các ngươi tới chính là muốn cùng các ngươi thương nghị chiến lược sau này cho quân Lương. Hiếu Trực, ngươi nói trước đi”.

Hiển nhiên Pháo Chính đã sớm có chuẩn bị, Mã Dược vừa dứt lời hắn đã lên tiếng: “Chúa công mới nghênh đón Thiên tử, thiên hạ quy thuận. Tào Tháo mới bại, thế cô lực mỏng. Lưu Biểu là hạng người tầm thường vô hại. Tôn Kiêu tuy có chí kiêu hùng nhưng cũng chỉ an phận ở Gi­ang Đông, binh lính chỉ quá ba vạn, dân cũng chỉ quá trăm vạn”.

“Nói về thế lớn thiên hạ lúc này thì trước mắt cần tiếp tục tấn công nhưng rất đáng tiếc sau cuộc chiến với quân Tào, chúng ta đã bị hao tổn rất nhiều lương tiền. Mấy năm nghỉ ngơi tích trữ, để dành đã bị tiêu hao gần hết. Hơn nữa quân đoàn Lương Châu chính chiến đã lâu ngày, tướng sĩ mệt mỏi cũng cần phải nghỉ ngơi hồi phục, trong khoảng thời gi­an ngắn trước mắt rất khó có thể phát động một cuộc chiến tranh quy mô lớn”.

Mã Dược đưa mắt nhìn Giả Hủ và hỏi: “Văn Hoà nghĩ sao?”

Giả Hủ nói: “Hiếu Trực nói không phải không có đạo lý. Mục tiêu chiến lược của quân Lương từ ba tới năm năm nữa là phải củng cố Trung Nguyên. Sau đó trước tiên đánh Viên Thiệu, bình định phương bắc, rồi tích trữ sinh lực trong vòng mười năm để dùng thế Thái Sơn áp đỉnh đánh lấy Kinh Tương, cuối cùng là nhập Xuyên định thiên hạ”.

“Nhập Xuyên?” Mã Dược khẽ chấn động, hắn vội vàng hỏi: “Sau khi Tào Tháo thua chạy khỏi Hứa Xương, liệu hắn có thể chạy vào Xuyên đầu hàng Lưu Chương không?’

Giả Hủ nói: “Nếu Tào Tháo chạy vào Xuyên đầu hàng Lưu Chương, hắn nhất định phải chết. Chúa công chỉ cần phái người ăn nói khéo léo đi trước vào đó ắt việc sẽ thành”.

Pháp Chính nói: “Nếu Tào Tháo may mắn không chết, hắn nhất định cũng không đầu hàng Tôn Kiên, hắn chỉ có thể tới Kinh Châu đầu hàng Lưu Biểu”.

Mã Dược nói: “Lưu Biểu không sợ Tào Tháo chiếm đoạt mất địa bàn của mình sao?”

Pháp Chính nói: “Lưu Biểu tuy là Kinh Châu mục nhưng thực ra chỉ có danh, không có lực”.

“Hả?” Mã Dược nói: “Xin rửa tai lắng nghe”.

Pháp Chính nói: “Thế lực sĩ tộc, môn phiệt Kinh Tương rất hùng mạnh, đặc biệt là bốn thế lực môn phiệt hàng đầu: Sái, Khoái, Hoàng, Vương, trong đó Sái thị Tương Dương có quan hệ thông gia với Lưu Biểu. Khoái Lương, Khoái Việt đã bị chúa công bắt cóc. Lưu Biểu lại trúng kế giá hoạ của quân sư, Khoái thị ở Nam Quận đã bị Lưu Biểu diệt tộc, thế lực không còn hùng mạnh như trước nữa”.

“Ngày nay thực quyền ở Kinh Châu nằm trong tay ban môn phiệt: Lưu, Sái, Hoàng, Vương chia nhau chiếm giữ. Nếu Tào Tháo thất bại chạy tới Kinh Châu. Các thế lực môn phiệt Kinh Tương xuất phát từ việc bảo đảm lợi ích của mình đương nhiên sẽ đề nghị Lưu Biểu thu nạp Tào Tháo để đối kháng với chúa công và Tôn Kiên. Cho dù Lưu Biểu có không muốn nhưng hắn thực sự không nắm được đại cục”.

“Ai” Mã Dược vỗ tay xuống án, thửo dài nói: “Nếu chuyện xảy ra đúng như Hiếu Trực nói, Tào Tháo sớm muộn gì cũng làm chủ Kinh Châu. Nay Tôn Kiên đang dẫn quân tấn công mạnh Hoài Nam, Từ Châu. Quân ta đánh lâu mệt mỏi, ngoài tầm với. Vùng đất Gi­ang Hoài màu mỡ sớm muộn gì cũng rơi vào tay Tôn Kiên như thế nam có Tào Tháo, đông có Tôn Kiên, e rằng đó là đại hoạ”.

Pháp Chính nói: “Tại hạ có một kế có thể hoá giải mối ưu sầu của chúa công”.

Mã Dược nói: “Kế gì hãy mau nói ra”.

Pháp Chính nói: “Viên gia bốn đời làm tam công, rất có uy vọng trong nước, nền tảng cực kỳ vững chắc. Tuy Viên Thiệu thất bại ở Quan Độ, ba mươi vạn đại quân biến thành cát bụi nhưng căn cơ của hắn không bị tổn hại, thực lực của hắn vẫn còn. Nếu chúa công vội vàng tiến đánh, chỉ là hao binh tổn tướng, hao tổn lương tiền không biết bao nhiêu mà kể. Chúa công sao không dâng tấu lên Thiên tử, bề ngoài tán dương công lao của Viên Thiệu, xin phong cho con trai trưởng Viên Đàm của hắn là Thứ Sử Dương Châu, con trai thứ hai Viên Hi làm Thứ Sử Từ Châu, con trai thứ ba Viên Thượng làm Thứ Sử Dự Châu, cháu ngoại của hắn là Cao Kiền làm Thứ Sử Duyện Châu. Viên Thiệu là người bảo thủ nhưng lại thích làm việc lớn, thích công to, tất sẽ vui vẻ đón nhận chiếu chỉ”.

“Ha ha ha, diệu kế” Giả Hủ phấn khích nói: “Nếu chúa công nhân cơ hội này kết đồng minh với Viên Thiệu. Viên Thiệu đương nhiên sẽ đồng ý, như thế là chúa công đã mượn thế lực Viên Thiệu ổn định cục diện Trung Nguyên. Một khi Tôn Kiên muốn lấy được vùng Gi­ang Hoài hắn sẽ phải tranh đấu tới lưỡng bại câu thương với Viên gia hùng hậu nhân tài vật lực”.

Pháp Chính lại nói: “Làm như vậy có hai điều lợi: thứ nhất là có thể tiêu hao thực lực của Viên Thiệu, thứ hai có thể phân tán binh lực Hà Bắc, đợi sau ba, năm năm khi sau khi lương tiền Quan Trung đầy đủ, chúa công có thể không cần tốn nhiều sức cũng có thể bình định Hà Bắc, Trung Nguyên, hoàn toàn tiêu diệt được thế lực cũ Viên gia. Cái này chính là nuôi hổ là mầm hoạ, nuôi heo để ăn thịt”.

“Ha ha, hay” Mã Dược vỗ tay xuống án, cao hứng nói: “Hay cho câu nuôi hổ là mầm hoạ, nuôi heo để an thịt. Viên Thiệu kia chính là con heo Cô nuôi để ăn thịt”.

“Thế nhưng” Mã Dược đổi giọng nói tiếp: “Thế nhưng con hổ Tào Tháo kia cũng không thể buông tha cho nó được, càng không thể để cho nó dùng Kinh Châu làm bàn đạp để lấy Tây Xuyên. Nếu như Tào Tháo có thể lấy Tây Xuyên thì tiêu diệt hắn càng khó khăn hơn. Ý của Cô là ra tay động thủ trước Tào Tháo, dùng Mạnh Khởi làm chủ tướng, thống lĩnh một đội quân tinh binh tiến xuống Hán Trung, giành lấy Tây Xuyên. Văn Hoà, Hiếu Trực cho rằng có thể được không?”

Giả Hủ suy nghĩ một lát rồi khuyên nhủ: “Làm việc nóng vội thì không thể thành công, mong chúa công nghĩ lại”.

Pháp Chính cũng nói: “Chúa công, quân ta đã ác chiến mấy tháng, tướng sĩ đã vô cùng mệt mỏi, hơn nữa lương tiền trong kho đã tiêu hao quá nhiều, khó có thể kéo dài. Lúc này thực sự không nên nghĩ tới việc xuất binh”.

Lúc này rốt cuộc ý kiến của Mã Dược, Giả Hủ và Pháp Chính đã gặp sự khác biệt sâu sắc.

Mã Dược là người xuyên việt tới, dĩ nhiên hắn biết sự nghiêm trọng của việc Tào Tháo làm chủ Tây Xuyên. Nếu như Tào Tháo thật sự lấy được Tây Xuyên khi đó hắn chính là Lưu Bị trong chính sử. Cho dù Mã Dược có thống nhất được phía bắc Trường Gi­ang, rộng hơn một nửa lãnh thổ Trung Quốc những cũng chưa chắc đã đánh vào Tây Xuyên được. Theo phản ứng dây chuyền, bị Tây Xuyên kiềm chế, Mã Dược sẽ không có cách nào tập trung binh lực tấn công Đông Ngô.

Một khi như vậy thì cục diện thế chân vạc tam quốc như trong chính sử rất có thể một lần nữa xuất hiện. Đây là điều Mã Dược tuyệt đối không thể dễ dàng chấp nhận được. Lưu Biểu được Tào Tháo trợ giúp rất khó có thể đánh bại như vậy Mã Dược phải ra tay trước Tào Tháo đoạt lấy Tây Xuyên, bóp chết xu thế chân vạc tam quốc từ trong trứng nước.

Mã Dược quả quyết nói: “Ý Cô đã quyết, Văn Hoà, Hiếu Trực không cần phải nhiều lời”.

Giả Hủ, Pháp Chính lập tức thôi không khuyên nhủ nữa.

Trong huyện nha rách nát, Tào Tháo cùng mọi người vội nghênh đón Tàng Phách vào đại đường.

Tàng Phách đưa tay tiếp nhận ấm nước từ tay Vu Cấm, hắn ngửa cổ uống sạch sẽ ấm nước rồi lau miệng nhìn Tào Tháo nói: “Chúa công, mạt tướng đã thăm dò rõ ràng”.

Tào Tháo nói: “Không vội, Tuyên Cao hãy ngồi xuống từ từ nói chuyện, chư vị cũng ngồi xuống đi”.

Đợi mọi người ngồi xuống xong, Tàng Phách mới thở dốc nói: “Chúa công, Hứa Xương đã bị công phá, Tuân Úc tiên sinh đã bị quân Lương Châu bắt, không biết sinh tử thế nào. Mã đồ phu đã nghênh đón Thiên Tử về Đông Đô Lạc Dương, hắn lại điều mười vạn dân phu từ Quan Trung sửa sang cung điện ở Lạc Dương. Hổ Lao quan, Tỵ Thuỷ quan cũng được tu bổ lại hoàn toàn, Mã đồ phu đều phái trọng binh trấn giữ”.

“Quan địa phương của hai châu Duyện, Dự đã bỏ trốn, giặc cướp hoành hành ở vùng Tử Địa Tử, Mang Nãng Sơn, Cửu Lý Sơn, Thái Sơn, trăm họ lầm than. Mạt tướng trên đường đi tới một ngàn dặm mà không gặp được vài gia đình, cảnh phồn hoa khi xưa đã biến mất, thay vào đó là cảnh tiêu điều, xác xơ”.

( Khi Tào Tháo, Viên Thiệu và Mã Dược đại chiến Trung Nguyên, phần lớn dân chúng hai châu Duyện, Dự chạy tị nạn vào Từ Châu, Hoài Nam, Quan Trung, Kinh Châu, chỉ có một số ít không đi, lưu lại thành giặc cướp ).

Nói tới đây giọng nói Tàng Phách trở nên nghẹn ngào, Lưu Diệp, Trương Liêu đang ngồi nghe ở bên cạnh cũng vô cùng xúc động.

Tào Tháo ngửa mặt lên trời than dài một tiếng, hắn nói vẻ bi thương: “Mã đồ phu quả là loại hại nước hại dân’.

Tàng Phách lại nói: “Tôn Kiên đã tấn công Hoài Nam. Lôi Tự đã chết trận, Mai Thành đã đầu hàng. Hiện tại quân Ngô đang chia binh làm hai đường từ hai mặt tây và nam giáp công Từ Châu, Nghiễm Lăng, đang kịch chiến cùng Trần Đăng ở Gi­ang Đô”.

Tào Hồng hỏi: “Quân Lương của Mã đồ phu có xuất binh không?”

Tàng Phách nói: “Mạt tướng bí mật tới kinh đô Lạc Dương và vùng phụ cận, dò hỏi nhiều lần nhưng không phát hiện ra dấu hiệu quận Tây Lương tập kết binh lực quy mô lớn. Xem ra Mã Dược không có ý định xuất binh cứu Từ Châu”.

Trình Dục nói: “Không phải Mã đồ phu không muốn cứu mà chỉ e là lực bất tòng tâm. Mặc dù trước sau Mã đồ phu giành thắng lợi trong cuộc chiến Lạc Dương, cuộc chiến Nam Dương, cuộc chiến Diệp Thành, cuộc chiến Hứa Xương và cả cuộc chiến ải Thanh Ngưu cũng chấm dứt vì thắng lợi của quân Lương nhưng vì chiến tranh liên tiếp, quân Lương bị thương vong nặng nề, lương tiền tiêu hao cũng gần hết. Nếu chúng không nghỉ ngơi dưỡng sức từ ba tới năm năm thì chỉ e không thể hồi phục nguyên khí”.

Đôi mắt nhỏ của Tào Tháo đang nhắm lại đột nhiên mở ra, hắn nhìn mọi người xung quanh nói: “Đại khái cục diện ngày nay là như vậy, chư vị có cao kiến gì?”

Cổ Quỳ nói: “Chúa công, hai châu Duyện, Dự đã thành đất cằn sỏi đá, khó có thể thành căn bản. Hoài Nam tất về tay Tôn Kiên, không thể chiếm được. Sĩ tộc, môn phiệt Từ Châu như rừng, Mã đồ phu nắm giữ Thiên Tử, hắn chưa chắc đã cam tâm để chúa công sử dụng nên cũng không với được. Viên Thiệu và chúa công có đại thù nếu tới nương nhờ nơi hắn tất bị làm hại như vậy Hà Bắc cũng không thể đi. Nhìn khắp thiên hạ chỉ có chạy tới Gi­ang Đông, Kinh Châu và Tây Xuyên ba nơi đó. Quỳ nghĩ rằng Tây Xuyên bốn xung quanh là núi, dễ thủ khó công lại có đồng bằng phì nhiêu trải dài ngàn dặm, dân cư cũng đạt tới con số năm, sáu trăm vạn. Nếu như chúa công có thể đoạt lấy Tây Xuyên thì có thể đối chọi được với Mã đồ phu”.

“Không thể” Trình Dục vội la lên: “Người Xuyên bài ngoại. Nếu chúa công tới Tây Xuyên nương nhờ Lưu Chương tất sẽ bị hại”.

Tào Hồng không cam lòng nói: “Chúa công, dưới trướng vẫn còn hai ngàn tinh binh ( tàn binh của Tào Hồng, Vu Cấm, Tào Chân ), chẳng phải tự lập ở Nhữ Nam là tốt hơn sao, cần gì phải nương thân chỗ người khác?”

Tào Tháo lắc đầu nói: “Tử Liêm sai rồi, trước kia Nhữ Nam là quận lớn, nay dân cư đã mất đi phân nửa, không có tiền lương, binh mã lấy gì sinh sống? Hơn nữa Nhữ Nam gần Dĩnh Xuyên, Lạc Dương. Nếu Mã đồ phu nghe thấy dẫn quân tấn công thì quân ta có thể đánh lại được không? Ăn nhờ ở đậu không phải là điều Cô mong muốn những cũng là vạn bất đắc dĩ”.

“Ai!”.

Tào Hồng thở dài, lặng lẽ không nói.

Tào Tháo chậm rãi đứng lên, hắn nhìn mọi người nói: “Cô định dẫn quân tới nương nhờ Lưu Biểu ở Kinh Châu. Nếu chư vị không muốn, Cô tuyệt đối không gây khó dễ, xin cứ tự mình rời đi”.

Trương Liêu, Trương Cáp, Tàng Phách, Trình Dục, Lưu Diệp, Cổ Quy, Vu Cấm cùng đứng dậy, ôm quyền nói với Tào Tháo: “Mỗ thề chết đi theo Thừa tướng, tuyệt đối không phản bội”.

“Tử Dương” Cuối cùng Tào Tháo nhìn Lưu Diệp nói: “Phiền ngươi đi tới Tương Dương một chuyến”.

Lưu Diệp nói: “Diệp lĩnh mệnh”.

Điện Đức Dương nơi Thiên Tử triệu kiến quần thần vốn đã bị phá huỷ bởi loạn binh. Sau khi Mã Dược nghênh đón Thiên Tử quay về Lạc Dương đã cho xây dựng lại trên nền cung điện cũ một cung điện nhỏ hơn làm nơi văn võ bá quan triều kiến Thiên Tử.

Ngày hôm nay, chân trời phía đông mới hé lộ ánh bình minh, tiếng chuông trước điện Đức Dương đã vang lên. Văn võ bá quan đã sớm tụ tập từ trước hối hả vào triều. Sau ba quỳ, chín khấu đầu thì chia làm hai ban. Bên tay trái là nhóm quan văn, đứng đầu hàng là một người dáng vẻ lẻ loi nhưng đó lại là một bề tôi quan trọng nhất, đương kim Thừa tướng Mã Dược.

Tư lễ thái giám bước lên nói: “Có bản tấu dâng lên, không bản tấu bãi triều”.

Ánh mắt văn võ bá quan trong điện liền tập trung trên người Mã Dược. Lúc này Mã Dược không chút hoang mang, hắn tiến ra hai bước, quỳ xuống trước thềm son nói: “Thần có bản tấu”.

Hiến Đế khoát tay nói: “Thừa tướng dâng sớ miễn quỳ. Mau đứng lên nói chuyện”.

Mã Dược vẫn quỳ bên dưới nói: “Thần tử dâng tấu phải quỳ là lễ nghi từ cổ xưa. Thần sao dám làm trái lễ nghi”.

Hiến Đế nói: “Nếu như thế Thừa tướng hãy mau tấu lên”.

Mã Dược nói: “Đại tướng quân Viên Thiệu đức cao vọng trọng, chiến công trác tuyệt, khi xưa thảo phát nghịch tặc Tào Tháo, lập nhiều chiến công. Thần tấu xin bệ hạ sắc phong trưởng tử của Đại tướng quân là Viên Đàm làm Thứ Sử Dương Châu, thứ tử Viên Hi làm Thứ Sử Từ Châu, tam tử Viên Thượng làm thứ sử Dự Châu, ngoại sanh Cao Kiền làm Thứ Sử Duyện Châu cùng với khen thưởng công lao to lớn của Đại tướng quân”.

“Chuẩn tấu” Hiến Đế đáp không chút suy nghĩ: “Trẫm chuẩn tấu. Thừa tướng hãy mau đứng dậy”.

“Hoàng Thượng thánh minh”.

Mã Dược cung kính khấu đầu ba lần rồi mới quay về chỗ.

Hán Hiến Đế lại hỏi quần thần: “Chư vị ái khanh còn chuyện gì bẩm tấu không?”

Tư Đồ Khổng Dung bước ra nói: “Từ khi Đổng Trác làm loạn kinh thành, Tào tặc cướp giá ( Thiên tử đã ở trong Mã Dược, Khổng Dung cũng chỉ biết thuận theo thời thế coi Tào Tháo là nghịch tặc) Thiên Tử lang bạt kỳ hồ đến nỗi triều chính hoang phế, quốc sự rối ren. Bá quan có nhiều người đã tử nạn nay chức Quang Lộc Huân, Thái Phó, Đại Hồng Lư, Tông Chính, Đại Tư Nông, Thiếu Phủ, Chấp Kim Ngô, Đại Trường Thu đều khuyết đã lâu. Thần xin bệ hạ tìm trong số Thị trung, Thị lang người có tài đức bổ nhiệm chức quan, lại vời người tài đức ở các châu quận trong cả nước về triều làm quan lang”.

Hán Hiên Đế nói: “Khổng ái khanh đã chọn được người phù hợp chưa?”

Khổng Dung nói: “Thị trung Trần Quần có thể làm Quang Lộc Huân, Mãn Sủng có thể làm Đại Hồng Lư, Đổng Chiêu làm Thái Phó, Đỗ Kỷ làm Đại Tư Nông. Tư Mã Lãng làm Thiếu Phủ, Trần Kiểu làm Tương Tác Đại Tượng trợ giúp Thừa tướng, chịu trách nhiệm tu sửa cung điện”.

Hán Hiến Đế nhìn Mã Dược hỏi: “Chẳng hay Thừa tướng nghĩ thế nào?”

Mã Dược nói: “Danh sách của Khổng đại nhân rất hợp lý, thần không có ý kiến gì”.

Hán Hiến Đế nói: “Nếu vậy Trẫm chuẩn tấu”.

“Bệ hạ thánh minh”.

Khổng Dung khấu đầu tạ ơn.

Hán Hiến Đế lại hỏi bá quan: “Chẳng hay chư vị ái khanh có thể tiến cử người thích hợp vào triều không?”

Thái Thường Tư Mã Phòng bước ra nói: “Tiến cử người ngoài không tránh khỏi kẻ thù, tiến cử bên trong không tránh khỏi tình thân, thứ tử của vi thần là Tư Mã Ý thông minh, học giỏi, có tài năng có thể làm lang trung”.

Tư Mã Phòng vừa dứt lời, hai hàng lông mày kiếm của Mã Dược giật mạnh một cái.

Dù Mã Dược biết rất ít về Tam Quốc nhưng cái tên Tư Mã Ý không xa lạ gì với hắn. Cái tên Tư Mã Ý này luôn có liên quan với yêu nhân Gia Cát Lượng kia.

Nếu điều kiện cho phép, Mã Dược đã sớm phái người bắt giữ hai người này, có thể sử dụng thì sử dụng, không thể sử dụng thì giết đi, giống như cách đối xử ban đầu với Chu Du, chỉ tiếc là hắn đã thất bại trong gang tấc, chưa giết được nhưng điều đáng tiếc nhất là Mã Dược không biết hai người này cư ngụ ở đâu, hơn nữa trong biển người mênh mông muốn tìm ra hai người này thì thực sự không khác gì mò kim đáy bể.

Hôm nay đột nhiên ngay giữa buổi triều Mã Dược được nghe nói cái tên Tư Mã Ý nên hắn không khỏi giật mình.

Theo lệ Hán Hiến Đế lại hỏi Mã Dược: “Thừa tướng nghĩ thế nào?”

Mã Dược trấn tĩnh lại đáp: “Tư Mã đại nhân học vấn uyên thâm, trưởng tử Tư Mã Lãng trẻ tuổi tài cao, độ lượng, khoan dung, bá quan ai cũng ca ngợi. Nhị công tử Tư Mã Ý thiết nghĩ cũng là bậc hiền tài. Nay trong tướng phủ còn khuyết chức Chủ Bạ. Nếu như Tư Mã đại nhân không chê, bản tướng nguyện để chỗ trống đó, không biết Tư Mã đại nhân nghĩ thế nào?”

Sở dĩ Mã Dược làm vậy là vì hắn không yên lòng.

Bản thân Mã Dược là người tương lai nên đương nhiên hắn biết Tư Mã Ý nguy hiểm tuyệt đối không thua kém Tào Tháo. Mã Dược thật sự không yên lòng khi để một người nguy hiểm như vậy tự do ở bên ngoài. Hắn không thể không giữ người này ở bên cạnh để giám sát cẩn thận. Nếu có thể sử dụng thì dùng hạn chế còn nếu không thể sử dụng thì tìm cớ giết đi để tránh di hoạ lại cho con cháu.

Dã tâm của Tư Mã Chiêu bất kỳ ai cũng biết.

Tư Mã Chiêu là ai? Chính là con trai của Tư Mã Ý.

Thế nhưng hiện tại Tư Mã ý còn chưa tới hai mươi tuổi, đương nhiên Tư Mã Chiêu vẫn còn chưa xuất hiện ngay cả hình bóng. Nhưng Mã Dược không cho đây là lo buồn vô cớ. Từ khi hắn đi tới thời loạn thế này kinh nghiệm đều cho hắn một chân lý: Phải phòng ngừa mọi chuyện chú đáo, phải bóp chết tất cả nguy hiểm manh nha ngay từ trong trứng nước thì mới có thể yên ổn sinh cơ lập nghiệp.

Hiển nhiên Tư Mã Phòng có khúc mắc sâu đậm với Mã Dược, ông ta đang muốn từ chối thì Hán Hiến Đế đã vỗ tay nói: “Tốt, như thế rất tốt. Trẫm thay mặt Tư Mã ái khanh đồng ý, ha ha ha”.

Một khi Thiên Tử đã đồng ý, Tư Mã Phòng cũng chỉ biết bất đắc dĩ chấp nhận, ông ta cố ra vẻ vui mừng nói: “Vậy xin đa tạ thừa tướng cất nhắc”.

“A a” Mã Dược vỗ tay cười nói: “Nếu như thế thì việc đã định”.

Khi Tư Mã Ý tới thì Mã Dược vẫn đang thương nghị cùng Giả Hủ.

Ngay lúc đó Điển Vi mang lên một vò rượu ngon, Mã Dược liền cầm bút đề ngay ba chữ trên vò rượu: “Nhất hợp tửu” sau đó để vò rượu trên án. Tư Mã ý thấy thế không nói không rằng cầm ngay vò rượu ngửa cổ uống cạn một hơi sau đó có vẻ vẫn chưa thoả mãn, tấm tắc khen: “Rượu ngon, rượu rất ngon’.

Điển Vi giận dữ nói: Đây là mỹ tửu Bồ Đào Trưởng Sử Tây Vực Ban Thiện dâng tặng Thừa tướng, ngươi chỉ là một tên tiểu tử, sao dám uống trước?”

Tư Mã Ý nói: “Có lệnh của Thừa tướng, tại hạ sao dám cãi lời”.

“Ngươi nói cái gì?” Điển Vi ngạc nhiên hỏi: “Thừa lệnh Thừa tướng? Làm gì có chuyện Thừa tướng để ngươi uống rượu?”

Tư Mã ý chỉ ngón tay vào ba chữ trên vò rượu nói: “Tướng quân hãy nhìn, rõ ràng Thừa tướng viết năm chữ: Một người một ngụm rượu, chẳng lẽ có sai sót?”

“Ai, cái này…”.

Điển Vi vò đầu không biết làm sao.

Mã Dược cười to nói: “Trọng Đạt tài cao, quả thực danh bất hư truyền. Điển Vi, hãy mau lui ra”.

Điển Vi hoang mang đi ra ngoài, rốt cuộc hắn vẫn không hiểu chuyện gì đang xảy ra? Điển Vi biết trên vò rượu có chữ nhưng những chữ trên vò rượu là gì thì hắn không biết.

Tư Mã Ý cung kính vái chào Mã Dược, cao giọng nói: “Tiểu tử Tư Mã Ý tham kiến Thừa Tướng”.

“Miễn lễ” Mã Dược khoát tay nói: “Chức Chủ Bạ của Tướng phủ thấp bé mà khổ cực, Trọng Đạt có oán hận không?’

“Không dám” Tư Mã Ý đáp: “Có thể ra sức vì Thừa tướng, tiểu tử vô cùng vui mừng, thực không dám oán hận’.

“A, như thế rất tốt” Mã Dược nói: “Ngươi hãy lui ra đi”.

“Nếu vậy tiểu tư xin cáo lui”.

Tư Mã ý đứng thẳng người vái chào rồi hắn quay người rời đi.

Ngay khi bóng dáng Tư Mã Ý đi xa, sắc mặt Mã Dược liền trở nên âm trầm, hắn hỏi Giả Hủ ngồi bên cạnh vẫn không nói nãy giờ: “Văn Hoà, người này thế nào?”

Giả Hủ vuốt chòm râu ngày một thưa của mình, trầm giọng nói: “Người này có dáng vẻ như ưng, như vượn, có tài sánh ngang trời đất nhưng…”.

“Nhng thế nào?” Mã Dược nói: “Văn Hoà cứ nói đừng ngại”.

“Người này dùng tốt thì là trung thần thời thái bình, dùng không tốt thì là gi­an hùng thời loạn thế” Nói xong Giả Hủ nhìn Mã Dược nói với vẻ lo lắng: ” Cuối cùng thì Tư Mã Ý trở thành một năng thần hay biến thành một gi­an thần tất cả đều dựa vào biểu hiện tương lai của công tử Chinh mà nên”.

Mã Dược nói: “Cô đã hiểu”.

Lời nói của Giả Hủ rất thẳng thắn. Ý của hắn rằng khi Mã Dược vẫn còn sống thì dù Tư Mã Ý có tài năng đến như nào cũng không thể làm gì được thế nhưng sau khi Mã Dược chết đi, Mã Chinh có trấn áp được Tư Mã Ý hay không còn rất khó nói. Nếu như Mã Chinh có hùng tài đại lược như Mã Dược thì đương nhiên không thành vấn đề. Ngược lại nếu năng lực Mã Chinh bình thường, trước khi chết Mã Dược nhất định phải giết chết Tư Mã Ý để ngăn ngừa hậu hoạn sau này.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 326: Mã đồ phu mới là lang sói

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Phủ quan của Lưu Biểu.

Sái Mạo, Trương Doãn, Lưu Bàn, Lý Nghiêm, Hoàng Tổ, Hàn Huyền, Trâu Tĩnh, Hàn Tung, Vương Uy, Vương Sán, Triệu Phạm, Kim Toàn cùng văn võ đại thần Kinh Tương đang tề tựu ở đại sảnh thương nghị đại sự.

Theo thời gi­an trôi đi, thế cục thiên hạ ngày càng trở nên rõ ràng. Công Tôn Toản, Hàn Phức, Khổng Dung, Trương Tế, Viên Thuật, Đào Khiêm, Lữ Bố các thế lực quân phiệt trước sau đều bị tiêu diệt. Viên Thiệu sau thất bại Quan Độ thế lực cũng không còn hùng mạnh như trước, chuyện bại vong chỉ trong sớm tối, có vẻ như Tây Bắc Mã Dược dần dần sẽ đoạt hết thiên hạ.

Một vấn đề vô cùng nghiêm trọng đã bày ra trước mắt sĩ tộc môn phiệt Kinh Tương, đó là Kinh Châu nên đi theo hướng nào?

Nếu quan sát trên bản đồ sẽ thấy Kinh Châu ở vào một địa thế vô cùng bất lợi. Dù Tây Xuyên Lưu Chương cùng Lưu Biểu đều là dòng dõi Hán thất, đáng tiếc năm xưa Lưu Biểu vì ủng hộ Hán Trung Trương Lỗ mà trở mặt với Lưu Yên, hai nhà kết oán thù đã lâu. Phía đông là địa bàn của mãnh hổ Gi­ang Đông Tôn Kiên, Tôn Kiên cũng có oán thù với Lưu Biểu.

Phía bắc thì không cần phải nói. Có thể nói Mã đồ phu là kẻ thù của cả thiên hạ, hắn tuyệt đối không thể sống chung với sĩ tộc Kinh Tương, cho dù Mã Dược có trợ giúp Thiên Tử, nắm đại nghĩa trong tay hắn cũng không thể nào thay đổi sự thật đó, nhất là chính sách Mã đồ phu thực hiện ở Quan Trung càng làm cho sĩ tộc Kinh Tương căm hận đến tận xương tuỷ.

( Chính sách ở Quan Trung của Mã Dược là xem trọng nông, thương, áp dụng khoa cử, chính sách làm quan mở rộng. Có thể nói chính sách này đánh trực tiếp vào giới sĩ tộc môn phiệt, có ý định làm suy yếu thế lực của sĩ tộc môn phiệt, giảm bớt không gi­an sinh tồn của sĩ tộc môn phiệt nên đương nhiên sẽ bị sĩ tộc môn phiệt trong thiên hạ ghen ghét. Với tình hình như thế đương nhiên sĩ tộc môn phiệt Kinh Tương không thừa nhận Mã Dược.

Ngoại trừ Gi­ao Châu ở phía nam thì có thể nói Kinh Châu ba mặt thụ địch, hoàn cảnh sinh tồn có thể nói là cực kỳ ác hiểm.

Biệt Giá Kinh Châu Hàn Tung bước ra khỏi hàng nói: “Chúa công, Kinh Châu bốn mặt là chiến trường, tình hình không thể lạc quan. Tại hạ cho rằng việc cấp bách là chỉ định một viên Đại tướng trấn thủ Tân Dã để ngăn ngừa thiết kỵ Tây Lương xuôi nam từ Uyển Thành uy hiếp Tương Dương sau đó nghĩ cách cải thiện quan hệ với Lưu Chương, Tôn Kiên kết đồng minh ba nhà cùng nhau đối kháng Mã Dược. Chỉ có thể làm vậy thì mới bảo vệ được Kinh Châu”.

Lưu Biểu cau mày nói: “Trong trường hợp này thì ai mới có thể trấn thủ Tân Dã?”

Sái Mạo, Trương Doãn đưa mắt nhìn nhau. Lưu Bàn, Hoàng Tổ ở bên cạnh cũng không dám nhìn thẳng vào mặt Lưu Biểu.

Chỉ có Lý Nghiêm tiến lên một bước thản nhiên nói: “Mạt tướng nguyện trấn thủ Tân Dã”.

“Hỗn láo!” Lưu Biểu quát to: “Sự còn mất của Tân Dã cực kỳ trọng đại, bọn tiểu bối các ngươi há có thể đảm nhận việc này sao? Còn không mau lui ra”.

Lý Nghiêm vô cùng xấu hổ, hắn rũ tay áo bỏ đi.

Danh sĩ Kinh Tương là Vương Sán nói: “Mặc dù Nguỵ Diên tướng quân tuổi còn trẻ nhưng rất có phong cách của một Đại tướng, có thể đảm nhiệm trọng trách”.

Tuy Vương Sán nổi danh Kinh Tương nhưng vì tướng mạo xấu xí nên Lưu Biểu không thích, vào giới quan trường Kinh Châu nhiều năm nhưng cũng chỉ là một viên tiểu lại áo xanh nếu không phải Biệt Giá Kinh Châu Hàn Tung cực lực đề nghị thì chỉ e hôm nay Vương Sán không đủ tư cách tham gia.

Lập tức Lưu Biểu lắc đầu phản đối: “Trọng Tuyên nói sai rồi. Nguy Diên tuy có dũng lược nhưng còn quá trẻ, liệu có thể là đối thủ của Mã đồ phu không? Làm thế tất hư đại sự”.

Vương Sán cười gượng, lui ra không nói.

Hàn Huyền đột nhiên bước ra khỏi hàng nói: “Chúa công, tại hạ tiến cử một người có thể trấn thủ Tân Dã”.

“Hả?” Lưu Biểu vội hỏi: “Không biết là người phương nào?’

Hàn Huyền nói: “Tiếu Quận Tào Tháo”.

“Hả?” Nghe vậy Lưu Biểu kinh hãi nói: “Tào Tháo?”

Văn võ Kinh Tương trong sảnh liền cuống quýt cật vấn: “Không phải Tào Tháo đã chết ở Hứa Xương sao?”

Hàn Huyền nói: “Chư vị đại nhân, kỳ thật Tào Tháo không chết ở Hứa Xương nay đang đóng quân ở một toàn thành nhỏ có tên là Cổ thành ở giữa gi­anh giới ba quận Nam Dương, Dĩnh Xuyên, Nhữ Nam. Tuy Tào Tháo thất bại ở Hứa Xương nhưng vẫn còn tám ngàn tinh binh dưới trướng. Văn có Trình Dục, Lưu Diệp, Cổ Quy là những danh sĩ đương thời. Vũ có Trương Liêu, Trương Cáp, Tàng Phách sức địch muôn người, lại có Tào Hồng, Tào Chân, Tào Hưu là Đại tướng cùng tộc, có thể nói nhân tài đông đúc. Nếu chúa công có thể chiêu nạp để trấn thủ Tân Dã thì có thể ngăn cản quân Lương Châu”.

“Nói bậy!” Hàn Huyền vừa nói xong, Lưu Bàn, tòng tử của Lưu Biểu bước ra khỏi hàng trách mắng: “Tào Tháo từng là Thừa tướng nhà Hán. Nếu như nghênh đón hắn tới Kinh Châu thì chúa công sẽ ở đâu?”

Hàn Huyền nói: “Trong thiên hạ chẳng lẽ cứ là vương tướng là phải chiếm giữ thiên hạ . Một khi mọi người đã là thần tử nhà Đại Hán phải một lòng giúp đỡ Hán thất, diệt trừ gi­an tặc chính là nhiệm vụ của mình, cần gì phải quan tâm tới quyền cao chức trọng? Tuy Tào Tháo từng là Thừa tướng Đại Hán nhưng cũng là bậc anh hùng thời nay, đương nhiên có thể hiểu đạo lý đó, há có thể tranh vị trí làm chủ Kinh Châu với chúa công sao?”

Sắc mặt Lưu Biểu âm trầm không quyết, không ai biết trong lòng hắn đang suy nghĩ điều gì, một lúc lâu sau hắn đưa mắt hỏi Sái Mạo: “Đức Khuê nghĩ thế nào?”

Sái Mạo vội trả lời: “Ngoài Tào Tháo không ai có thể cự với Mã đồ phu”.

Lưu Biểu lại hỏi Hoàng Tổ: “Nguyên Dương nghĩ thế nào?”

Hoàng Tổ cũng nói: “Ngoài Tào Tháo ra thì không đủ lực đối phó Mã đồ phu”.

Cuối cùng Lưu Biểu quay sang hỏi Vương Uy: “Nguyên Vũ nghĩ như thế nào?”

Vương Uy cũng nói: “Ngoài Tào Tháo không ai cự nổi Mã đồ phu”.

Sái Mạo, Hoàng Tổ, Vương Uy đã bày tỏ thái độ, trong tứ đại môn phiệt Kinh Tương, ba nhà: Sái, Hoàng, Vương đã thống nhất ý kiến với nhau, trên thực tế cũng đại diện cho ý kiến của cả giới sĩ tộc môn phịêt Kinh Tương. Kể từ khi Lưu Biểu trở thành Kinh Châu mục, Lưu gia nhanh chóng quật khởi, cũng có thể coi là một trong tứ đại môn phiệt hùng mạnh nhất nhưng trên thực tế căn cơ còn chưa sâu, bền, không thể được coi ngang hàng như tam đại môn phiệt kia. Vào những thời khắc mấu chốt không có đủ thực lực để tự giải quyết các vấn đề quan trọng.

Sau khi im lặng một lúc đột nhiên Lưu Biểu nói: “Hôm nay tới đây thôi, hôm khác thương nghị tiếp”.

Nói xong Lưu Biểu rũ tay áo bỏ đi, không hề quan tâm tới mọi người. Mọi người trong sảnh cũng cảm thấy vô vị nên cũng lần lượt bỏ đi.

Trong một mái nhà tranh bình thường, Lưu Biểu đang cung kính quỳ bái lạy trước một lão giả và nói: “Bàng Đức Công, lần này Cô có một vấn đề khó khăn, đích thân tới tỉnh giáo”.

Bàng Đức Công khoát tay ra hiệu cho Lưu Biểu ngồi vào chỗ rồi bảo đồng tử dâng trà xanh sau đó ông ta mỉm cười nói: “Chẳng hay Lưu Kinh Châu gặp vấn đề khó khăn gì?”

Lưu Biểu nói: “Từ khi Đổng Trác loạn kinh tới nay, quần hùng thiên hạ quật khởi, chư hầu san sát. Nay một số quần hùng đã bị tiêu diệt, duy chỉ còn Cô, Gi­ang Đông Tôn Kiên, Hà Bắc Viên Thiệu là còn tồn tại. Tây bắc Mã Dược dần dần có thực lực chiếm thiên hạ. Vì để bảo đảm an toàn cho mình, Sĩ tộc Kinh Tương muốn mời Tào Tháo là Thái Thú Tân Dã làm bức bình phong cự lại quân Lương của Mã Dược. Bàng Đức Công có cho rằng làm vậy là đúng không?”

Bàng Đức Công không trả lời mà hỏi ngược lại Lưu Biểu: “Lưu Kinh Châu có biết lang sói không?”

Lưu Biểu nói: “Đương nhiên biết”.

Bàng Đức Công nói: “Nếu đã biết lang sói vậy có biết tập tính của chúng không?”

Lưu Biểu lắc đầu nói: “Không rõ lắm’.

Bàng Đức Công nói: “Lang sói thích sống bầy đàn. Mỗi một bầy lang sói đều có lang vương. Tất cả mẫu lang trong đàn đều là phối ngẫu của lang vương, còn các lang sói khác không có quyền. Sau khi lão lang vương già yếu, trong bầy đàn của mình hoặc bầy đàn bên ngoài sẽ xuất hiện một công lang trẻ, cường tráng hơn tới khiêu chiến lão lang vương. Lão lang vương thất bại thì lang vương mới sẽ làm chủ bầy sói. Lúc này tất cả mẫu lang trong bầy đàn sẽ không còn lưu luyến lão lang vương thất bại kia nữa mà chúng sẽ vui vẻ xà vào lồng ngực của lang vương mới kia. Đó là vì sao? Bởi vì chỉ có lang vương mới đầy tài năng mới có thể duy trì sự sinh tồn của bầy đàn, duy trì sinh lực, để cả bầy đàn sinh tồn được”.

Lưu Biểu lặng im.

Một lúc sau Bàng Đức Công mới hỏi Lưu Biểu: “Bây giờ Lưu Kinh Châu đã hiểu chưa?”

“Đã hiểu” Lưu Biểu buồn rầu nói: “Cô chính là lão lang vương. Tào Tháo chính là lang vương mới còn đám sĩ tộc Kinh Tương kia chính là mẫu lang trong bầy sói”.

Bàng Đức Công lại hỏi: “Vậy Lưu Kinh Châu đã biết nên làm thế nào chưa?”

Lưu Biểu lắc đầu nói: “Chưa”.

Bàng Đức Công nói: “Hưng thịnh, dân chúng khổ. Suy vong, dân chúng khổ. Chỉ hy vọng Lưu Kinh Châu có thể suy nghĩ vì dân chúng Kinh Tương”.

Lưu Biểu không hiểu liền hỏi: “Những lời ấy của Bàng Đức Công là có ý gì, có thể chỉ rõ ra không?”

“Trời không còn sớm nữa” Bàng Đức Công cũng không giải thích, đột nhiên ông ta đứng dậy nói: “Lão hủ không lưu khách, xin Lưu Kinh Châu cứ tự nhiên”.

Lưu Biểu bất đắc dĩ chắp tay bái lạy Bàng Đức Công sau đó hắn quay người rời khỏi ngôi nhà tranh.

Đợi khi Lưu Biểu rời khỏi nhà mình, Bàng Đức Công mới nhìn bầu trời đêm u tối, khẽ thở dài, lắc đầu nói: “Kinh Châu bắt đầu loạn rồi, không biết dân chúng Kinh Châu còn phải gánh chịu bao nhiêu khổ nạn nữa đây?”

Hàn Huyền vừa mới bước chân trước vào phủ, Lưu Diệp đã bước chân sau tới hỏi Hàn Huyền: “Hàn Huyền đại nhân, chuyện tiến triển như thế nào?”

Hàn Huyền nói: “Lưu Diệp tiên sinh, tại hạ đã nói hết khả năng của mình còn việc thành hay không thành thì hoàn toàn nằm ngoài khả năng của tại hạ. Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Tiên sinh hãy cứ kiên nhẫn ở đây chờ tin tức đi”.

Lưu Diệp vội la lên: “Tại hạ chờ được nhưng dân chúng Kinh Châu không chờ được”.

Hàn Huyền cười nói: “Theo như tại hạ thấy thì Thừa tướng mới không chờ được”.

Lưu Diệp nói: “Thừa tướng suy nghĩ vì dân chúng Kinh Châu nên đương nhiên lòng như lửa đốt”.

“Những lời nói khoa trương như này tiên sinh không cần phải nói. Tại hạ đã nhận được lợi ích từ Tào Thừa tướng nên đương nhiên tại hạ sẽ gắng sức làm việc cho Thừa tướng” Hàn Huyền nói xong hắn ghé sát tai Lưu Diệp thì thào: “Thực không dám giấu, Sái, Hoàng, Vương trong tứ đại gia tộc Kinh Tương đều muốn đón Thừa tướng. Theo như tại hạ thấy việc Tào Thừa tướng trấn thủ Tần Dã đã thành, Lưu Biểu dù lòng không muốn cũng không thể ngăn cản. Chuyện tiếp theo diễn ra như thế nào tất cả còn phải xem vận khí của Tào Thừa tướng”.

Lưu Diệp nghe vậy vui mừng nói: Đa tạ đại nhân”.

“Lang! Lang tới. Người đâu! Cứu mạng…”.

Lúc nửa đêm, Lưu Biểu đột nhiên ú ớ kêu trong giấc ngủ. Sái thị vội vàng kêu nha hoàn đốt đèn mới phát hiện hai mắt Lưu Biểu nhắm nghiền, cả người mồ hôi đầm đìa, trong dáng vẻ rất hoảng sợ. Sái thị không khỏi kinh hãi ôm lấy Lưu Biểu hỏi: “Lão gia, người làm sao vậy?”

“Không có gì” Lưu Biểu khẽ thở ra một hơi, dáng người co quắp duỗi thẳng ra, hắn thở dài nói: “Chỉ là ác mộng thôi”.

Sái thị lo âu nói: “Lão gia, nghe nói thần y Trương Cơ đang ở gần Tương Dương, liệu có cần phái người tới mời ông ấy tới xem bệnh không?”

Lưu Biểu lắc đầu nói: “Không cần thiết, Cô không có bệnh”.

Sái thị nói: “Nhưng đã liên tục mấy ngày nay người ngủ không an giấc”.

Lưu Biểu thở dài nói: “Tào Tháo lang sói kia sẽ tới Kinh Châu, Cô có thể yên tâm ngủ được không?”

“Tào Tháo?” Sái thị nghi hoặc nói: “Thiếp nghe huynh trưởng ( Sái Mạo ) nói Tào Tháo là anh hùng đương thời. Mã đồ phu phương bắc mới đích thực là ác lang. Lão gia, có phải người nghĩ sai không?”

“Hả?” Sắc mặt Lưu Biểu đột nhiên ngưng trọng, hắn lúng túng hỏi: “Phu nhân vừa mới nói cái gì?”

Sái thị nói: “Thiếp cho rằng Tào Tháo là bậc anh hùng, Mã đồ phu mới là ác lang”.

“Mã đồ phu mới là ác lang? Mã đồ phu mới là lang sói” Đột nhiên Lưu Biểu giống như người mất hồn, hắn thì thào: “Sau khi lão lang vương già yếu, trong bầy đàn của mình hoặc bầy đàn bên ngoài sẽ xuất hiện một công lang trẻ, cường tráng hơn tới khiêu chiến lão lang vương. Lão lang vương thất bại thì lang vương mới sẽ làm chủ bầy sói. Lúc này tất cả mẫu lang trong bầy đàn sẽ không còn lưu luyến lão lang vương thất bại kia nữa mà chúng sẽ vui vẻ xà vào lồng ngực của lang vương mới kia. Đó là vì sao? Bởi vì chỉ có lang vương mới đầy tài năng mới có thể duy trì sự sinh tồn của bầy đàn, duy trì sinh lực, để cả bầy đàn sinh tồn được”.

Sái thị nói: “Lão gia, người đang nói gì vậy?’

Lưu Biểu không trả lời, hắn buồn bã nói: “Hiểu rồi, rốt cuộc đã hiểu. Thì ra là như vậy. Thì ra là như vậy”.

Sái thị hỏi: “Lão gia hiểu cái gì?”

Lưu Biểu nói: “Cô thật sự là lão lang vương nhưng lang vương mới không phải Tào Tháo mà là Mã đồ phu mà đám mẫu lang kia không phải là sĩ tộc Kinh Tương mà là dân chúng Kinh Tương. Bàng Đức Công ơi Bàng Đức Công, lão nhân gia người có thể nói là người trách trời thương dân nhưng Cô lại muốn làm cho người thất vọng rồi’.

Sái thị nghe vậy ngơ ngác, suýt chút nữa đã nghĩ là Lưu Biểu đã điên mất rồi.

Sau khi suy nghĩ cẩn thận, Lưu Biểu không còn thấy buồn ngủ nữa, hắn lập tức bảo nha hoàn hầu hạ mặc quần áo rồi ngay trong đêm phái người triệu tập tòng tử Lưu Bàn, cháu ngoại Trương Doãn và trưởng tử Lưu Kỳ tới phủ thương nghị.

Khoái Lương, Khoái Việt, Lỗ Túc, Chung Diêu, Sái Ung, Chân Dật mấy người đã đồng ý lời mời làm tân khách.

Công bằng mà nói, Khoái Lương không có cảm tình gì với Mã Dược. Kể từ lúc hắn bị Mã Dược bắt vào Quan Trung, Khoái Lương vẫn một mực nhàn rỗi ngồi nhà, không muốn ra làm quan. Nếu như không phải Mã Dược giúp đỡ Thiên Tử, hơn nữa có biểu hiện của bậc hiền thần, mấy người này sẽ không bao giờ để ý tới hắn.

Sau khi thi lên, Mã Dược khoát tay nói: “Chư vị tiên sinh, mời ngồi’.

“Tạ ơn thừa tướng”.

Mọi người tạ ơn, ngồi vào vị trí.

Khi rượu được ba tuần, Mã Dược mới lên tiếng: “Từ khi Cô vâng lệnh đảm nhiệm chức vị Thừa tướng tới nay, ngày đêm suy nghĩ cách báo qu­uốc, an dân nhưng sức lực một người có hạn, suy nghĩ của một người tất nhiên cũng có chỗ sai lầm vì vậy Cô muốn mời chư vị tiên sinh đảm nhiệm chức Tá quan Thừa tướng, giúp Cô xử lý việc đại sự thiên hạ, phục hưng Hán thất, tạo phúc cho muôn dân trăm họ. Chẳng hay chư vị tiên sinh nghĩ thế nào?’

Mã Dược nói những lời quang minh chính đại này làm mấy người Khoái Lương rất khó cự tuyệt. Nếu như bọn họ cự tuyệt thì không phải bọn họ đã cự tuyệt lời hiệu triệu của triều đình Đại Hán sao?

Trong đại sảnh trầm mặc một lát rồi Lỗ Túc là người đầu tiên bày tỏ thái độ: “Tại hạ nguyện ý hỗ trợ Thừa Tướng san sẻ việc nước”.

Khoái Lương, Khoái Việt đưa mắt nhìn nhau rồi cả hai cùng ôm quyền cao giọng nói: “Ra sức vì quốc gia là việc làm của kẻ sĩ, không dám từ nan”.

Ba người Chung Diêu, Sái Ung, Chân Dật thấy ba người Lỗ Túc đều bày tỏ thái độ, cũng thuận thế xuống núi, cả ba đứng dậy nói: “Tại hạ cũng nguyện ý trợ giúp Thừa tướng một tay”.

“A, a, vậy là rất tốt” Mã Dược vui mừng nói: “Nhạc phụ đại nhân ( Sái Ung ) là người học vấn uyên thâm, được người trong thiên hạ kính trọng hãy làm Tây Tào thừa tướng, phụ trách việc tuyển chọn, loại bỏ quan lại. Chung Diêu tiên sinh là người cẩn trọng, hãy làm Đông Tào thừa tướng, trông coi việc quốc gia đại sự của các quận trong thiên hạ. Chân Dật tiên sinh là người tài hoa văn chương hãy làm Tấu Tào thừa tướng, trông coi việc soạn thảo bản tấu. Khoái Lương tiên sinh giỏi nội chính, hãy làm Tập Tào thừa tướng, trông coi việc thu thuế má, lương thảo. Về phần Khoái Việt và Lỗ Túc nhị vị tiên sinh hãy làm quân sư tế tửu, chẳng hay chư vị nghĩ thế nào?”

Sái Ung nói: “Nào dám không tuân lệnh”.

“Chúa công” Mã Dược vừa mới phân công xong chức vị cho mấy người Sái Ung, Lý Túc vội vã đi vào, hắn nhìn thấy mấy người Sái Ung bên trong, lời nói đã ra tới cửa miệng lại lập tức nuốt hết vào trong bụng, hắn đi tới bên người Mã Dược, khẽ thì thào với Mã Dược: “Chúa công, xin ra ngoài nói chuyện”.

Mã Dược nói: “Không cần, Tử Nghiêm cứ nói, đừng ngại”.

Lý Túc nói: “Trưởng Sử Tây Vực Ban Thiện vừa mới gửi tin cấp báo tám trăm dặm nói rằng cường quốc An Tức ở phía tây đã từng bước xâm chiếm Đại Nguyệt thị ( Quốc gia cổ Quý Sương ) sau đó tiếp tục xua quân lên phía bắc, hiện tại đã đánh tới Đại Uyển, Vương thành Đại Uyển đã bị mười vạn quân An Tức bao vây, hiểm nguy một sớm một chiều. Các quốc gia Tây Vực khẩn cầu Thiên Triều phát binh cứu giúp”.

( Vào thời kỳ Hán mạt trên thế giới có bốn đại cường quốc hùng bá đại lục Âu Á. Từ tây sang đông lần lượt là La Mã, An Tức, Quý Sương và Đông Hán, An Tức nằm ở Tây Á, là vương triều cổ đại của người Iran. Quý Sương nằm ở Trung Á là do người Đại Nguyệt thị thành lập vào thế kỷ thứ một trước công nguyên, tới gi­ai đoạn này thì bắt đầu suy sụp, phân chia ra làm năm bộ. Trong chính sử thì tới thế kỷ thứ năm mới bị người Vi Đát tiêu diệt. Trong cuốn sánh này chỉ là một Hấp Hầu ở phía bắc ( quốc gia A Tư Cổ Lệ ) đã bị Mã Siêu tiêu diệt còn bốn bộ hấp hầu khác cũng bị người An Tức thừa cơ hội thâu tóm.

“An Tức?” Mã Dược cau mày hỏi: “An Tức là quốc gia như thế nào?”

Chung Diêu, người vừa mới nhận chức Đông Tào thừa tướng nói: “Thừa tướng, vào thời Hoà Đế thì Trưởng sử Tây Vực là Ban Siêu có cử con trai là Ban Dũng đi sứ tới Lạc Dương triều kiến Thiên Tử vì thế chúng ta mới biết ở phía tây nước Quý Sương có một cường quốc gọi là An Tức, binh lính trăm vạn, thần dân gần ngàn vạn. Thực lực quốc gia hùng mạnh hơn Quý Sương”.

“Một trăm vạn binh lính?” Mã Dược cau mày nói: “Nói như vậy thì là một nước lớn sao?”

Chung Diêu nói: “Mặc dù An Tức có trăm vạn quân nhưng so với Thiên Triều chúng ta thì chỉ là một tiểu quốc, không đáng nhắc tới”.

Mã Dược nói: “Đông Tào thừa tướng quản lý sự vụ các quận trong thiên hạ. Phủ Trưởng sử Tây Vực cũng thuộc nhóm các quận của Đại Hán. Nguyên Thường ( tên chữ của Chung Diêu ) cho rằng Thiên Triều có nên xuất binh cứu giúp không?”

Chung Diêu nói: “Đương nhiên là nên cứu”.

Mã Dược khó xử nói: “Nhưng lúc này quân Lương vừa mới trải qua mấy trận ác chiến, vô cùng mỏi mệt. Trong khoảng thời gi­an ngắn này chỉ e không thể xuất binh”.

Tế tửu quân sư mới Khoái Việt thuận miệng nói: “Thừa tướng muốn cứu chư quốc Tây Vực thì căn bản là không cần điều động đại quân Lương Châu. Chỉ cần phái một viên Đại tướng có tài chinh chiến, uy danh hiển hách thống lĩnh mấy ngàn quân thiết kỵ là được”.

Mã Dược nói: “Xin chỉ giáo’.

Khoái Việt nói: “Chư quốc Tây Vực không phải hoàn toàn không thể đánh bại được sức mạnh của An Tức. Vấn đề cơ bản là không có dũng khí đối đầu với An Tức. Thừa tướng chỉ cần phái một viên Đại tướng chỉ huy mấy ngàn quân thiết kỵ tới Tây Vực. Các quốc gia Tây Vực có chỗ dựa, nhất định sẽ lấy được dũng khí, dám khai chiến với quân An Tức”.

Mã Dược nói: “Thì ra là vậy”.

Lý Túc nói: “Chư vị tướng quân dưới trướng chúa công: Cao Thuận, Từ Hoảng, Phương Duyệt, Cam Ninh đều là những viên Đại tướng thiện chiến, đánh đông dẹp bắc nhưng nếu nói về uy danh hiển hách không ai so được với Thiếu tướng quân”.

“Mạnh Khởi?”

Mã Dược không khỏi cau mày. Lúc này Mã Dược thật sự không muốn Mã Siêu chính chiến Tây Vực bởi vì không bao lâu nữa Mã Dược sẽ động thủ lấy Tây Xuyên mà Mã Dược đã chọn Mã Siêu làm thống soái chỉ huy. Nếu như Mã Dược chinh chiến Tây Vực, chức thống soái đại quân xuất chinh Tây Xuyên sẽ để ai thay thế?

Thế nhưng Lý Túc nói rất có lý. Trong lòng người Tây Vực thì chỉ e cái tên Mã đồ phu cũng còn lâu mới đáng sợ bằng hung tên Mã Siêu kia. Ngay cả trẻ con Tây Vực chỉ nghe thấy cái tên Mã Siêu cũng không dám khóc đêm.

“Được” Mã Dược trầm tư một lát rồi hắn nhìn Lý Túc nói: “Hãy mau chóng gọi Mạnh Khởi tới đây”.

Lưu Bàn, Trương Doãn, Lưu Kỳ nối đuôi nhau đi vào, Lưu Kỳ nhìn Lưu Biểu nói: “Đêm khuya phụ thân cho đòi, chẳng hay có chuyện gì quan trọng?”

Lưu Biểu khẽ gật đầu, hắn khoát tay ý bảo ba người ngồi xuống. Ngay khi ba người ngồi xuống, Lưu Biểu trầm giọng nói: “Lần này Cô triệu tập các ngươi giữa đêm khuya là có mấy chuyện cực kỳ quan trọng muốn các ngươi đi làm”.

Lưu Bàn nói: “Không hiểu là đại sự gì? Thúc phụ cứ nói, đừng ngại”.

Lưu Biểu gật đầu hỏi Trương Doãn: “Đức Dung ( tên chữ của Trương Doãn ), trong thuỷ quân Kinh Châu, có bao nhiên quân lính hoàn toàn nghe lệnh ngươi?”

Trương Doãn không hiểu ý Lưu Biểu: “Chỉ cần cữu phụ ra lệnh một tiếng, hài nhi có thể điều động toàn bộ thuỷ quân Kinh Châu”.

“Không, Cô không phải có ý đó” Lưu Biểu lắc đầu nói: “Ý của Cô là nếu ngươi điều động thuỷ quân mà Sái Mạo phản đối thì trong ba vạn thuỷ quân có ba nhiêu người hoàn toàn nghe lệnh ngươi?”

Trương Doãn nói: “Vì sao Sái Mạo phải phản đối nếu cữu phụ điều động thuỷ quân?’

Lưu Biểu nói: “Đó chỉ là giả thiết. Cô muốn biết rốt cuộc thì có ba nhiêu thuỷ quân hoàn toàn nghe theo lệnh của ngươi?”

Trương Doãn nói: “Nếu là như vậy thì nhiều nhất cũng chỉ có ba ngàn quân”.

“Tốt, ba ngàn thuỷ quân là cũng đủ rồi” Lưu Biểu trầm giọng nói: “Đức Dung hãy quay lại đại trại thuỷ quân hãy lập tức tuyển chọn lại ba ngàn quân này một lần nữa. Nếu có bất kỳ kẻ nào không hoàn toàn bị người khống chế thì hãy bí mật xử tử. Nhớ kỹ phải làm cho sách sẽ, tuyệt đối không được để Sái Mạo phát hiện ra dấu vết gì”.

Trương Doãn nói: “Cữu phụ, cái này…”.

“Không nên hỏi tại sao” Lưu Biểu trầm giọng nói: “Đây là việc có liên quan tới sinh tử tồn vong của hai nhà Lưu, Trương. Đức Dung hãy làm cho tốt”.

“Hài nhi tuân lệnh”.

Trương Doãn trả lời rồi lĩnh mệnh rời đi.

Lưu Biểu nhìn Lưu Bàn nói: “Trọng Thạch ( tên chữ của Lưu Bàn ), Cô cử ngươi đi Trường Sa thu nạp và tổ chức lại tặc binh Khu Tinh, thải loại lính già yếu, tuyển mộ tinh tráng, việc tiến triển thế nào rồi?”

Lưu Bàn nói: “Đã chiêu mộ được năm ngàn tinh binh, đang đồn trú ở Du huyện, ngày đêm thao luyện”.

“Du huyện cách Tương Dương quá xa” Lưu Biểu khẽ nói: “Trọng Thạch hãy dẫn quân lên phía bắc, đồn trú luyện binh ở huyện Công An”.

Lưu Bàn nói: “Chất nhi tuân lệnh”.

Lưu Biểu lại nói: “Còn nữa, từ hôm nay phải tiến hành giám sát nghiêm ngặt các tướng lĩnh do ba gia tộc Sái, Hoàng, vương tiến cử. Nếu vạn nhất Tương Dương có biến, Trọng Thạch trước tiên hãy bắt lũ tướng lĩnh này lại, chém đầu để ngăn ngừa hậu hoạ”.

“Tương Dương có biến?” Lưu Bàn thất thanh nói: “Thúc phụ, cái này…”.

Lưu Biểu trầm giọng nói: “Sĩ tộc Kinh Tương do ba gia tộc Sái, Hoàng, Vương cầm đầu cho rằng Cô không có năng lực như Tào Tháo, không thể chỉ huy sĩ tộc Kinh Tương chống lại Mã Dược vì vậy chúng muốn nghênh đón Tào Tháo vào làm chủ Kinh Tương. Vì cơ nghiệp của Lưu gia, Cô không thể không phòng ngừa chu đáo, tính toán trước”.

“A?” Lưu Bàn biến sắc nói: “Nếu một khi như thế, chất nhi e rằng chỉ dựa vào năm ngàn tinh binh sẽ rất khó ngăn cản Sái Trung, Sái Hoà, Hoàng Tổ, Vương Uy thống lĩnh quân Kinh Châu. Hơn nữa trong quân Kinh Châu còn có các mãnh tướng Hoàng Trung, Nguỵ Diên, Văn Sính, chỉ một người thôi e rằng chất nhi cũng khó đối phó được”.

“Điều này Trọng Thạch không cần lo lắng” Lưu Biểu trầm giọng nói: “Nếu Cô đã động thủ, nhất định đã sắp xếp chu đáo, tuyệt đối sẽ không để năm ngàn tinh binh của ngươi đối chọi với cả quân đoàn Kinh Châu”.

“Chất nhi hiểu” Lưu Bàn hít một hơi thật sâu, hắn trầm giọng nói: “Nếu như thế chất nhi cáo từ quay lại Du huyện”.

Lưu Biểu nói: “Hãy đi mau”.

Lưu Bàn vái một cái thật sâu rồi hắn quay người rời khỏi.

Đưa mắt nhìn Lưu Bàn đang rời đi, Lưu Kỳ chủ động hỏi: “Phụ thân, không biết hài nhi nên làm gì?’

Lưu Biểu lấy một cái vồ sắt dài hơn một thước ( kỳ thật đó là Lang nha thiết truỳ của Hứa Chử thu nhỏ lại ) đưa cho Lưu Kỳ và nói: “Vi phụ cùng Phiên Vương Vũ Lăng là Sa Đà là bạn cố tri. Sa Đà có nói nếu như Cô gặp nạn thì hãy cho người cầm lệnh bài này đi tới cầu viện. Hiện tại Lưu gia chúng ta đang phải đối mặt với tình hình nghiêm trọng. Đây chính là lúc cần giúp đỡ, Kỳ nhi hãy cầm vật này đi vào trong núi Võ Lăng tìm Sa Đà cầu viện”.

“Hài nhi tuân lệnh”.

Lưu Kỳ trả lời rồi hắn cũng lĩnh mệnh rời đi.

Đứa mắt nhìn bóng dáng Lưu Kỳ xa dần, trên mặt Lưu Biểu không khỏi hiện lên sự lưu luyến.

Thái giám tuyên chỉ đứng giữa đại sảnh, cao giọng nói: “Đại tướng quân Viên Thiệu công lao trác tuyệt, uy danh bốn bể, nay gia phong làm Đại Tư mã, tiết việt, tước Nguỵ công, ấp phong tăng hai vạn hộ. Trưởng tử Viên Đàm làm Vũ Lâm Trung lang tướng, tước Xuân Đình hầu, Thứ Sử Dương Châu. Thứ tử Viên Hi làm Hổ Bí Trung lang tướng, tước Diêu Đình hầu, Thứ Sử Từ Châu. Tam tử Viên Thượng làm Phấn Uy Trung lang tướng, tước Hàng Đình hầu, Thứ Sử Dự Châu. Cao Kiền làm An Nam tướng quân, tước Đường Đình hầu, Thứ Sử Duyện Châu, khâm thử”.

“Thần Viên Thiệu lĩnh chỉ tạ ơn” Viên Thiệu giơ cao hai tay tiếp nhận thánh chỉ, hắn quỳ dạp xuống đất tạ ơn và nói: “Ngô Hoàng vạn tuế, vạn tuế, vạn tuế’.

Phía sau Viên Thiệu, Viên Đàm, Viên Hi, Viên Thượng, Cao Kiền cùng với quan văn, võ tướng Hà Bắc rối rít quỳ xuống hô vạn tuế ba lần.

“Xin Nguỵ công hãy đứng lên” Thái giám tuyên chỉ tiến lên đỡ Viên Thiệu đứng dậy cười nói: “Xin chúc mừng toàn gia Nguỵ công thăng quan tiến tước”.

“Ha ha ha” Viên Thiệu ngửa mặt lên trời cười to ba tiếng rồi hắn vung tay cao giọng nói: “Người đâu, hãy dẫn công công đi chiêu đãi trọng thể, không được sai sót”.

“Tuân lệnh” Ngay lạp tức có tên gia tướng tiến lên nhìn thái giám tuyên chỉ nói: “Công công mời”.

Thái giám tuyên chỉ vui mừng đi xuống.

Đợi khi thái giám tuyên chỉ đi xa, Viên Thiệu mới cung kính để Thánh chỉ lên án rồi hắn quay người vô cùng đắc ý nói: “Tuy Cô thất bại ở Quan Độ nhưng lại làm chủ Trung Nguyên. Thiết kỵ Tây Lương dù đánh khắp Trung Nguyên nhưng cuối cùng lại nhường Trung Nguyên cho Cô. Vui quá, vui quá, ha ha ha”.

Mưu sĩ Thẩm phối lo lắng nói: “Chúa công, chỉ e đây là quỷ kế của Giả Hủ”.

“Quỷ kế?” Viên Thiệu không tin hỏi: “Là quỷ kế gì?”

Theo bản năng Thẩm Phối không an tâm với Mã đồ phu nhưng thật sự hắn không thể chỉ ra Mã đồ phu có ác tâm gì. Thẩm Phối hoàn toàn giống với Phùng Kỷ, hai người này hoàn toàn trung thành với Viên Thiệu nhưng nói về năng lực thì lại kém xa rất nhiều so với Hứa Du và Điền Phong. Hiện tại Điền Phong đã bị giết, Hứa Du đầu quân cho Tào Tháo cũng đã gặp nạn trong loạn quân. Nhân tài Hà Bắc ít ỏi, thực sự dưới trướng Viên Thiệu không còn mưu sĩ xuất sắc nữa”.

Vì Thẩm Phối không thể nói ra đó là âm mưu gì nên Viên Thiệu không khỏi bực tức nói: “Chính Nam hãy nhớ là không thể ăn nói bừa bãi”.

Thẩm Phối xấu hổ đỏ mặt, cúi đầu im lặng.

Viên Thiệu nhìn Viên Đàm, Viên Hi, Viên Thượng, Cao Kiền nói: “Hiển Tư, Hiển Dịch, Hiển Phủ, Nguyên Tài. Ngày nay các người đã chính thức được triều đình sắc phong làm đại quan, tự lập môn hộ của mình. Hiển Phủ ( Viên Thượng ), Nguyên Tài ( Cao Kiền ), Cô cho mỗi người các ngươi ba vạn binh mã, hãy lập tức xuôi nam vào làm chủ hai châu Duyện, Dự. Dương Châu của Hiển Tư, Từ Châu của Hiển Dịch vẫn đang nằm dưới sự khống chế của Tôn Kiên, Tào Báo. Nếu muốn hai châu đó trở thành địa bàn của Viên gia chúng ta thì chỉ e phải chờ đợi một thời gi­an, chờ khi Tôn Kiên, Tào Báo đánh nhau lưỡng bại câu thương, Cô sẽ một lần nữa xuôi nam bình định Từ Châu, Gi­ang Đông. Khi đó có thể phân chia thiên hạ với Mã đồ phu”.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 327: Chinh phạt Tây Xuyên Mã đồ phu dụng kế. Tấn công Gi­ang Đô, Tôn Kiên chết

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Lạc Dương, phủ Thái Thường

Tư Mã Ý rón rén đi vào ái các, hắn nhìn phụ tử Tư Mã Phòng, Tư Mã Lãng cung kính nói: “Hài nhi tiếp kiến phụ thân đại nhân, tiếp kiến huynh trưởng’.

“Trọng Đạt, con tới rồi” Tư Mã Phòng đang ngồi trước án coi văn thư nghe tiếng ngẩng đầu, sắc mặt lo lắng hỏi: “Vi phụ nghe nói khi hôm nay Thừa tướng triệu kiến con, con đã uống hết một vò mỹ tửu Bồ Đào Trưởng Sử Tây Vực Ban Thiện dâng tặng Thừa tướng phải không?”

Tư Mã Ý nói: “Thật sự có việc ấy”.

Tư Mã Phòng nói: “Trọng Đạt, ngày thường vi phụ đã dạy dỗ con như thế nào? Làm người phải khiêm tốn, khi làm việc phải tỏ ra thấp kém, tối kỵ việc bộc lộ tài năng, tránh để người khác ghen tỵ”.

Tư Mã Ý nói: “Phụ thân dạy bảo hài nhi những gì hai nhi luôn ghi nhớ trong tâm khảm”.

Tư Mã Phòng nói: “Vậy tại sao con tự tiện uống mỹ tửu của Thừa tướng?”

Tư Mã Ý nói: “Hài nhi nhất thời hồ đồ”.

Tư Mã Phòng nói: “Thôi, việc này dừng ở đây. Sau này làm việc hãy cẩn thận một chút”.

“Hài nhi nhớ kỹ”.

“Đi thôi”.

“Hài nhi cáo lui”.

Tư Mã Ý cung kính vái chào Tư Mã Phòng sau đó hắn quay người rời khỏi ái các.

Đợi khi hình bóng Tư Mã Ý khuất rạng bên ngoài ái các, Tư Mã Lãng từ nãy tới giờ vẫn chưa lên tiếng đột nhiên nói: “Phụ thân, sự việc xảy ra hôm nay ở Tướng phủ, đối với Trọng Đạt mà nói có lẽ cũng không phải là chuyện xấu”.

“Hả?” Tư Mã Phòng hỏi: “Bá Đạt thử giải thích xem sao?”

Tư Mã Lãng nói: “Bình thường nhị đệ làm việc rất cẩn thận, ngay cả khi trong lòng giận dữ cũng không bộc lộ ra ngoài. Lần này Thừa tướng triệu kiến, đáng lẽ phải cực kỳ cẩn trọng, thế nhưng nhị đệ lại bộc lộ tài năng của mình, không phải điều này rất khác thường sao?”

Tư Mã Phòng nói: “Theo như Bá Đạt việc xảy ra ở Tướng phủ hôm nay là do Trọng Đạt cố ý làm ra sao?”

Tư Mã Lãng nói: “Nhị đệ có dáng vẻ như ưng, sói, tướng mạo khác với người thường, hơn nữa lại là nhân tài khó gặp trong đời nhưng phàm là bậc danh sĩ thông hiểu thuật tướng số đều có thể nhìn ra nhị đệ không giống như người bình thường. Nếu làm vậy không khỏi bị Thừa tướng nghi ngờ. Chỉ e là hành động hôm nay của nhị đệ là để xua tan mối nghi kỵ trong lòng Thừa tướng”.

“Chuyện này xấu chính là ở chỗ đó” Tư Mã Phòng nói: “Thừa tướng là ai? Quân sư Giả Hủ là người như thế nào, há không thể nhận ra chiêu lừa bịp đó của Trọng Đạt sao? Trọng Đạt làm như vậy chỉ e là lại có tác dụng ngược lại, càng làm tăng mối nghi kỵ trong lòng Thừa tướng’.

“Cái…này…” Tư Mã Lãng nói: “Tuy nhị đệ có tài sánh ngang trời đất nhưng tuổi vẫn còn trẻ nên đương nhiên còn thiếu lịch lãm”.

“Ai” Tư Mã Phòng thở dài nói: “Thất phu vô tội, người tài có tội. Trọng Đạt thông minh nhanh nhẹn, học vấn hơn người vừa là may mắn mà cũng là bất hạnh của gia môn. Nếu như không biết cách giấu tài chỉ e sẽ mang lại thảm hoạ diệt tộc cho gia tộc Tư Mã. Bây giờ nghĩ lại thấy vi phu vô cùng tắc trách, sớm biết như vậy thì ban đầu đã không tiến cử nó vào triều làm thị lang”.

Mã Dược hỏi Giả Hủ và Pháp Chính: “Lần này Mạnh Khởi xuất chinh Tây Vực, Hiếu Trực sẽ đi theo, Cô có ý để Tư Mã Ý đi theo làm tham mưu trong quân, ý hai người thế nào?”

Pháp Chính nói: “Chúa công anh minh, Tư Mã Ý có thể đảm nhiệm được”.

“Tư Mã Ý nhìn như vừa bộc lộ tài năng vừa lại như quá cao ngạo nhưng kỳ thật hắn đang diễn trò. Nhưng Tư Mã Ý đã quá coi thường chúa công. Dựa vào tính khoan dung với người của chúa công, há lại nghi kỵ một con chim nhỏ vừa ra đời như hắn sao? Thế nhưng” Giả Hủ nói liền một hơi rồi hắn chuyển giọng nói tiếp: “Đối với một người thông minh như Tư Mã Ý nhất định phải cho hắn biết việc gì nên làm, việc gì không nên làm, cái gì có thể suy nghĩ trong đầu, cái gì không thể có trong đầu hắn”.

“Việc này Văn Hoà cứ tự tiện xử lý” Mã Dược gật đầu, sắc mặt trầm tư, hắn chỉ tay vào bản đồ trên trác án nói với Giả Hủ và Pháp Chính: “Bây giờ quay lại việc chính. Lần nay chinh phạt Ba Thục cũng là chuyện bất đắc dĩ của Cô. Đường Tây Xuyên khó đi. Từ Hán Trung tới Tây Xuyên có nhiều hùng quan thiên nhiên hiểm trở. Nếu cứ cường công chỉ e sẽ kéo quá dài, tiêu hao quá nhiều mà cũng chưa chắc đã thành công. Chẳng hay Văn Hoà và Hiếu Trực có diệu kế gì không?”

Giả Hủ nói: “Bốn xung quang Tây Xuyên toàn là núi non, dễ thủ khó công, chỉ nên dùng kế, không nên cường công”.

Mặc dù Giả Hủ và Pháp Chính kiên quyết phản đối việc Mã Dược chinh phạt Tây Xuyên nhưng một khi Mã Dược đã quyết định như vậy, điều lo lắng của hai người là làm cách nào ngăn cản Mã Dược mà là tìm mọi cách để biến quyết định của Mã Dược trở thành sự thật. Đây mới là chức trách mà chính, phó quân sư phải đảm trách.

Pháp Chính nói: “Mấy năm trước thuộc hạ có đi ngao du khắp thiên hạ, đã từng tới Tây Xuyên hai lần. Đối với địa hình Tây Xuyên thuộc hạ cũng có chút hiểu biết. Theo như thuộc hạ biết kỳ thật từ Hán Trung tới Thành Đô có hai con đường có thể đi được, ngoại trừ con đường cái bên ngoài Kiếm Các, Manh Quan, từ Âm Bình có một con đường nhỏ đi về hướng nam cũng có thể tới Thành Đô”.

“Hả? Con đường nhỏ từ Âm Bình đi về hướng nam sao?” Mã Dược chỉ tay vào bản đồ nhíu mày nói: “Nhưng trên bản đồ này nó là một vùng nói non trùng điệp, không thể có một con đường ở đây”.

Pháp Chính nói: “Đây chỉ là một con đường núi nhỏ, chỉ những tiều phu, thợ săn mới biết tới nó nhưng thuộc hạ tin tưởng con đường này thực sự tồn tại”.

“Mặc kệ con đường nhỏ này có tồn tại hay không thì cũng đáng phải thử một lần” Mã Dược nói: “Có thể tưởng tượng. Nếu tập trung tất cả đại quân Tây Xuyên ở vùng Gia Manh Quan, Kiếm Các, Tử Đồng thì nhất định việc phòng ngự Thành Đô nhất định bỏ trống. Khi đó chỉ cần một toán tinh binh Tây Lương đột nhiên xuất hiện dưới chân thành Thành Đô thì sẽ gây ra sự chấn động thế nào với giới sĩ tộc Tây Xuyên nhỉ? Từ trước tới nay Lưu Chương là người nhu nhược, nhát gan, rất có thể hắn sẽ chọn cách đầu hàng để bảo toàn cho mình”.

Giả Hủ nói: “Lưu Chương là dòng dõi tông thất nhà Hán. Nếu như hắn thật sự dâng thành đầu hàng, chúa công không được đối xử lạnh nhạt với hắn”.

Pháp Chính nói: “Nếu là như vậy thì nhất định Hán Trung phải làm rầm rộ. Thuộc hạ cho rằng ít nhất phải điều hai mươi vạn đại quân tới ngoài Gia Manh Quan. Chỉ khi như thế thì mới có đủ khả năng lôi kéo đại quân Tây Xuyên tới vùng Tử Đồng, Kiếm Các, Gia Manh Quan để đề phòng, việc phòng ngự Thành Đô mới lỏng lẻo”.

“Hai mươi vạn đại quân?” Mã Dược trầm ngâm một lát rồi hắn cười âm trầm nói vẻ hung tợn: “Hai mươi vạn đại quân thì cũng không có gì khó”.

Ngay khi Sái Mạo, Sái Trung, Sái Hoà, Vương Uy, Vương Sán, Hoàng Tổ, Hoàng Thừa Ngạn, Hàn Huyền cũng văn quan, võ tướng Kinh Tương tề tựu đông đủ, Lưu Biểu nói: “Nay Mã đồ phu thế lớn, Kinh Châu một mình khó chống đỡ, Cô quyết định mời Tào Tháo đại nhân dẫn tinh binh bản bộ trấn thủ Tân Dã làm thành thế môi răng. Chẳng hay chư vị nghĩ thế nào?”

Mấy người Sái Mạo cùng nói: “Chúa công anh minh”.

Lưu Biểu nói: “Nếu đã như thế thì việc cứ định như vậy. Hàn Huyền đâu?”

Hàn Huyền bước ra khỏi hàng nói: “Chúa công có gì phân phó?”

Lưu Biểu cao giọng nói: “Ngay hôm nay khởi hành tới Cổ thành, đem ý định của Cô truyền đạt cho Tào Tháo đại nhân”.

Hàn Huyền nói: “Nào dám không tuân lệnh”.

“Tử Dương?”

Tào Tháo mặt mày mừng rỡ từ sau công đường đi ra đón, phía sau hắn là Trình Dục, Trương Liêu và các văn, võ tâm phúc. Lưu Diệp chắp tay nói: “Chúa công việc đã thành”.

“Hả?” Tào Tháo liếc mắt nhìn Hàn Huyền phía sau Lưu Diệp hỏi: “Tử Dương, vì này là…”.

Lưu Diệp vội nói: “Vị này chính là Biệt Giá Kinh Châu Hàn Huyền đại nhân”.

“Thì ra là Hàn Huyền đại nhân” Tào Tháo ôm quyền, đôi mắt cười dài, không ngừng nói: “Ngưỡng mộ đã lâu, ngưỡng mộ đã lâu”.

Hàn Huyền cuống quýt đáp lễ nói: “Sao dám, sao dám”.

Tào Tháo cười xong khoát tay nói: “Hàn đại nhân mời vào trong”.

Hàn Huyền nói: “Thừa tướng, mời đi trước”.

Trong đại đường sau khi mọi người thi lễ với nhau, Hàn Huyền mới chỉnh lại quan phục, cao giọng nói: “Phụng lệnh chúa công tại hạ, mệnh lệnh của Lưu Kinh Châu, cung thỉnh Thừa tướng dẫn tinh binh bản bộ tới trấn giữ huyện Tân Dã, tạo thế răng môi đối kháng với quân Lương. Chẳng hay ý của Thừa tướng thế nào?”

Tào Tháo vỗ tay cười nói: “Cô cũng mong muốn như vây, không dám trái lệnh”.

Quân Ngô vây thành đã hơn ba tháng, Thái Thú Nghiễm Lăng là Trần Đăng dựa vào tường thành Gi­ang Đô chắc chắn tổ chức phòn thủ nghiêm ngặt, liên tục đánh bại các cuộc công thành của quân Ngô. Trước sau quân Ngô vẫn không có cách nào phá thành.

Doanh trại quân Ngô bên ngoài thành.

Trương Chiêu lo lắng nhìn Tôn Kiên nói: “Chúa công, trong thành Gi­ang Đô lương thảo sung túc, đủ để có thể chống đỡ hơn hai năm nữa mà quân lương của quân ta chỉ đủ để duy trì trong nửa tháng nữa. Nếu trong vòng nửa tháng nữa chúng ta không thể đánh chiếm thành Gi­ang Đô, khi đó chúng ta chỉ còn cách rút quân quay về Lư Gi­ang mà thôi”.

“Nửa tháng?” Tôn Kiên cau mày hỏi: “Chỉ còn nửa tháng quân lương nữa sao?”

“Chỉ còn nửa tháng nữa” Trương Chiêu nói: “Lương thảo tích trữ ở bốn quận Gi­ang Đông đều đã bị lấy gần như hết sạch. Tuy Hoài Nam là vùng đất màu mỡ nhưng đánh tiếc mấy vạn thạch lương trong thành Thọ Xuân đã bị Lôi Tự đốt hết trước khi thành bị phá. Quân ta đã không thể kiếm nổi một hạt lương thực thì chớ mà còn phải dùng một phần quân lương của mình để nuôi hàng quân Mai Thành. Trong vòng nửa năm tới quân ta sẽ rơi vào tình cảnh thiếu quân lương trầm trọng. Ít nhất chúng ta phải chờ tới mùa thu khi Hoài Nam thu hoạch vụ lúa nước thì mới có khả năng giảm bớt tình trạng này”.

Thái Sử Từ nói: “Chúa công, mạt tướng nguyện chỉ huy quân tinh binh bản bộ sáng sớm ngày mai tấn công thành. Nếu mạt tướng không thể công phá thành Gi­ang Đô, mạt tướng nguyện mang đầu về” Tôn Kiên liếc mắt nhìn Từ Thứ, Từ Thứ khẽ gật đầu. Tôn Kiên lập tức đứng dây, trầm giọng nói: “Thái Sử Từ, Chu Nhiên, Toàn Tông nghe lệnh”.

“Có mạt tướng”.

Ba tướng Thái Sử từ bước ra khỏi hàng.

Tôn Kiên nói: “Thái Sử Từ làm chủ tướng, Chu Nhiên, Toàn Tông làm phó tướng dẫn tám ngàn tinh binh mai phục trong rừng rậm bên ngoài cửa tây, đợi tới giữa trưa quân thủ thành mệt mỏi thì bất ngờ xông ra đánh chiếm thành”.

“Tuân lệnh”.

Tôn Kiên lại nói: “Các chư tướng còn lại dẫn quân bản bộ của mình cùng Cô tổng tấn công cửa đông thành Gi­ang Đô đánh lừa quân thủ thành Gi­ang Đô”.

( Tấn công đánh thành quy mô lớn không giống với trận đánh dã chiến. Âm mưu quỷ kế lợi hại càng khó phát huy công hiệu. Trên căn bản phải xét trên thực lực, lương thảo của đôi bên, việc tiêu hao thực lực, lương thảo để xem ai không thể trụ vững được trước )

Ngày hôm sau, hiệu kèn lệnh nổi lên dồn dập bên ngoài thành Gi­ang Đô.

Nhiều đội quân lính quân Đông Ngô từ trong doanh trại nối đuôi nhau tiến ra ngoài, lập thế trận bên ngoài cửa đông thành Gi­ang Đông.

Trần Đăng được hơn mười viên tướng lĩnh Từ Châu hộ tống đi lên lâu thành. Khi đứng trên lâu thành quan sát thì thấy bên ngoài thành tinh kỳ rợp trời, đội ngũ quân Đông Ngô trùng điệp đông như rừng, đao thương kiếm kích dựng thẳng như mây phát ra ánh sáng lạnh lẽo khắp không trung.

“Đại nhân, lần này quân Đông Ngô hẳn là dốc toàn bộ lực lượng tấn công” Hữu bộ tướng nhìn Trần Đăng nói: “Xem ra Gi­ang Đông mãnh cẩu ( tên gọi miệt thị Tôn Kiên ) muốn đánh một trận ăn cả ngã về không”.

“Cũng phải tới lúc quyết chiến rồi” Trần Đăng khẽ nhắm hai mắt lại, trong mắt hắn hiện lên hàn quang kỳ lạ rồi biến mất: “Phán đoán theo thời gi­an, chắc hẳn lương thảo của quânn Đông Ngô cũng sắp hết rồi”.

“Đại nhân, xem ra quân Ngô muốn tấn công toàn diện ở cửa đông” Viên bộ tướng đó nói: “Mạt tướng sẽ hạ lệnh cho quân đội ở ba hướng còn lại tập trung về cửa đông”.

“Cửa đông” Trần Đăng đột nhiên mở choàng mắt, hắn lãnh đạm nói: “Mặc dù bên ngoài cửa đông tụ tập gần như toàn bộ binh lực của quân Ngô nhưng mục tiêu tấn công thực sự của quân Ngô chỉ e là cửa tây chứ không phải là cửa đông”.

“Hả?” Viên bộ tướng không hiểu liền hỏi: “Mục tiêu tấn công thực sự của quân Ngô lf cửa tây sao?”

Trần Đăng nói: “Chư vị tướng quân không cần hoài nghi. Hãy nhanh chóng tập hợp quân trấn thủ hai cửa nam và bắc, từ đó lựa chọn ra hai ngàn dũng sĩ cảm tử mai phục trong cửa tây, chờ khi quân Đông Ngô đang tấn công mãnh liệt cửa tây thì đột nhiên mở cổng thành, hai ngàn quân cảm tử thừa cơ đánh lén, quân Ngô nhất định đại bại”.

Viên bộ tướng càng ngơ ngác không hiểu: “Đại nhân, nếu mục tiêu tấn công của quân Ngô là cửa tây vậy vì sao phải tập kết quân ở cửa bắc và nam ở cửa đông? Đáng lý phải tập kết quân ở cửa tây mới đúng”.

“Đương nhiên bản quan có ý của mình” Trần Đăng mỉm cười nói: “Chư vị tướng quân cứ y kế thi hành là được”.

“Nếu đã như vậy, mạt tướng lĩnh mệnh”.

Chư tướng chắp tay lĩnh mệnh rời đi.

Tôn Kiên nhìn Từ Thứ nói: “Nguyên Trực có thể bắt đầu được rồi”.

Từ Thứ gật đầu, hắn nhìn các tướng Chu Thái, Tưởng Khâm, Lữ Mông, Từ Thịnh, Lữ Đại, Chu Trị, Tổ Lang, Hạ Tề quát to: “Chu Thái, Tưởng Khâm tướng quân chỉ huy năm ngàn quân làm tiền bộ. Lữ Mông, Từ Thịnh chỉu huy năm ngàn quân làm tả bộ. Lữ Đại, Chu Trị tướng quân chỉ huy năm ngàn quân làm hữu bộ. Tổ Lang, Hạ Tề chỉ huy năm ngàn quân làm hậu bộ. Mỗi bộ thay nhau tấn công thành Gi­ang Đô”.

“Tuân lệnh”.

Tám tướng Chu Thái ầm ầm trả lời.

Sau khi Từ Thứ đã ra lệnh, Chu Thái, Tưởng Khâm chỉ huy năm ngàn tinh binh bắt đầu tấn công cửa đông thành Gi­ang Đông. Các bộ quân Ngô còn lại vẫn án binh bất động. Trên lâu thành Gi­ang Đô, Trần Đăng đột nhiên nở một nụ cười lạnh lùng. Hành động của quân Ngô không ngoài suy đoán của hắn, chúng chỉ giở kế giương đông kích tây.

Trong rừng rậm bên ngoài cửa tây thành Gi­ang Đô

Thái Sử Từ đang vô vùng nóng ruột, sắp sửa không nhẫn nhịn được nữa thì phó tướng Toàn Tông đột nhiên giục ngựa tới lớn tiếng nói: “Tướng quân, đã tới giờ ngọ rồi”.

“Tốt” Nghe vậy Thái Sử Từ vội vã nhảy lên ngựa, hắn chỉ thiết thương trong tay về phía trước, lớn tiếng quát: “Giết”.

Thái Sử Từ vừa ra lệnh, tám ngàn tinh binh vốn nghỉ ngơi đã lâu ở trong rừng lập tức liều chết xông lên như mãnh hổ hạ sơn, xông tới đánh chiếm cửa tây thành Gi­ang Đô.

Quân trấn thủ Gi­ang Đô liều chết tử thủ, gỗ, đá lăn xuống như mưa. Quân Ngô tấn công mãnh liệt nửa canh giờ bị thương vong vô cùng nặng nề nhưng không thể tiến lên mặt thành. Chủ tướng chỉ huy Thái Sử Từ vô cùng giận dữ, hắn để phó tướng Toàn Tông chỉ huy trung quân còn tự mình dẫn tám trăm cảm tử quân đi tiên phong làm gương cho tướng sĩ, xông pha nơi đầu tên, mũi đạn xông lên chiếm thành.

Sĩ khí quân Ngô lên cao, ra sức liều chết tấn công thành. Dưới sự chỉ huy của Thái Sử Từ rốt cuộc quân Ngô cũng tấn công được lên mặt thành sau bao khó khăn. Thái Sử Từ vô cùng kiêu dũng, cây thiết thương trong tay hắn bay múa, quân trấn thủ thành bỏ chạy tán loạn. Ngay khi quân thủ thành chuẩn bị thất bại thì đột nhiên cửa thành mở ra, hai ngàn quân tinh nhuệ Từ Châu xông ra đánh giết.

Hiển nhiên quân Ngô không ngờ rằng quân Từ Châu lại dám cho quân ra khỏi thành phản công, hơn nữa vì đã tấn công thành đã lâu, thể lực của các tướng sĩ Đông Ngô không còn đủ để chống đỡ, giống như nỏ mạnh hết đà, bị quân Từ Châu còn đầy đủ sức lực liều chết xông ra đánh giết nên ngay lập tức thất bại. Tuy Thái Sử Từ liều chết ngăn cản nhưng một cây chẳng làm nên non, hắn đành phải dẫn hơn mười tên thân binh đánh giết mở một đường máu, dưới sự tiếp ứng của bộ tướng Chu Nhiên chật vật chạy về trận của mình.

Phó tướng Toàn Tông vội vàng điểm lại tàn binh, phát hiện đã bị thiệt hại hơn hai ngàn quân, thang công thành cũng bị phá huỷ gần hết. Bất đắc dĩ Thái Sử Từ đành phải quay về chịu tội với Tôn Kiên.

Thái Sử Từ xấu hổ đi tới trước mặt Tôn Kiên, ủ rũ cụp đầu nói: “Chúa công, mạt tướng bất tài đã để người thất vọng rồi”.

Tôn Kiên dường như không có biểu hiện gì, hắn hỏi Thái Sử Từ: “Tử Nghĩa vẫn chưa đánh chiếm được cửa tây sao?”

Thái Sử Từ nói: “Vẫn chưa”.

“Tử Nghĩa đã cố hết sức mà vẫn không thể phá thành thì đó là ý trời” Tôn Kiên khẽ vỗ nhẹ vào vai Thái Sưr Từ nói: “Tướng quân hãy quay về nghỉ ngơi đi”.

“Đa tạ chúa công”.

Thái Sử Từ ôm quyền vái chào, xấu hổ bỏ đi.

Đợi khi Thái Sử Từ đi khỏi Từ Thứ mới nhìn Tôn Kiên nói: “Chúa công, đã tới lúc tung ra đòn tấn công cuối cùng”.

“Ừ” Tôn Kiên trầm giọng nói: “Có thể phá thành hay không chính là dựa vào lần hành động này”.

Từ Thứ nhìn tên tiểu giáo phía sau quát to: “Truyền lệnh các tướng Chu Thái, Tưởng Khâm, bốn đội binh mã đồng loạt mạnh mẽ tấn công cửa đông thành Gi­ang Đô” Tôn Kiên chậm rãi cầm ngang thanh bảo đao nói: “Lúc này Cô muốn đích thân xuất chiến”.

Từ Thứ ngạc nhiên nói: “Việc an nguy của chúa công rất quan trọng, tuyệt đối không thể cẩu thả khinh xuất”.

Tôn Kiên quả quyết: “Ý Cô đã quyết, Nguyên Trực không nên nhiều lời”.

Đột nhiên trong lúc đó hiệu kèn lệnh lại vang lên giục giã ngoài thành Gi­ang Đô, Chu Thái, Tưởng Khâm và các tướng chỉ huy bốn đội quân Ngô cùng xông lên, đồng thời phát động tấn công vào mặt chính diện rộng mấy trăm bước của cửa đông thành Gi­ang Đông với khí thế mạnh mẽ như nước triều lên.

Chỉ chưa tới nửa canh giờ, quân Ngô đã tiến sát dưới chân thành, lần lượt dựng lên từng cái thang một. Quân đội hai bên nhanh chóng bước vào cuộc cận chiến tàn nhẫn và thảm khốc. Quân Ngô mạnh mẽ như nước thuỷ triều trèo lên thành, gỗ, dá từ trên mặt thành lao xuống như mưa. Quân Ngô bám vào thanh công thành như những con kiến gào lên thảm thiết rồi ngã lộn ngược xuống chân thành.

Dầu sôi từ trên mặt thành liên tiếp dội xuống dưới, tướng sĩ quân Ngô bên dưới bị dầu sôi dội khắp người kêu gào đầy bi thảm , bước đi loạng choạng giống như ruồi nhặng không đầu, rồi bất chợt trượt chân ngã xuống hào sâu bên ngoài thành, bị những rào sừng hươu nhọn hoắt đâm xuyên thấu thân thể, mùi tươi đậm đặc theo gió phát tán trong không khí làm nhiều người muốn ói ra.

Dù bị thương vong nặng nề nhưng quân Ngô không vì thế mà lui binh, ngược lại các tướng lĩnh chỉ huy các cấp càng thêm hung tàn, càng thêm điên cuồng, từng đám từng đám bám vào thang trèo lên trên thành.

Trong lúc cuộc chiến ở cửa đông đang bước vào gi­ai đoạn khốc liệt nhất.

Ở hậu viện của một nhà dân ở gần cửa đông, đống cỏ khô chất cao ở góc tường đột nhiên bị hất tung ra. Ở chỗ đống cỏ khô bị hất ra đó hiện ra miệng của một đường hầm đen ngòm. Một đầu người đội mũ sắt từ trong đó xông ra như quỷ dị. Người chủ nhà nghe thấy tiếng động lạ bước ra sau hậu viện xem xét, hắn vừa mới ngẩng đầu nhìn thì thấy ngay một tên võ tướng quân Ngô khôi giáp chỉnh tề, trong tay đang cầm một cây thiết thai cung ngăm đen đứng trước mặt.

Người chủ nhà há hốc mồm định kêu to thì đột nhiên một mũi lang nha tiến lạnh như băng xé gió lao tới cắm đúng vào cổ họng người chủ nhà.

Tên võ tướng quân Ngô đó một tên bắn chết người chủ nhà sau đó hắn quay đầu nhìn cửa hầm, khẽ vẫy tay. Bóng người nhấp nhoáng, có rất nhiều quân lính Đông Ngô từ trong miệng hầm chui ra.

Trần Đăng đang nhắm mắt dưỡng thần thì đột nhiên hắn nghe thấy tiếng hò reo vang trời vang lên trong cửa đông. Đôi mắt khép hờ của Trần Đăng mở to, gương mặt thanh tú của hắn đột nhiên trở nên vô cùng lạnh lùng. Hắn thầm nghĩ: Rốt cuộc cũng đã tới.

Bên ngoài cửa đông thành Gi­ang Đông.

Tôn Kiên đầu đội mũ trụ đỏ rực, người mặc áo giáp đỏ, cưỡi ngựa hoành đao, uy phong lẫm liệt, đứng nghiêm dưới cây đại kỳ.

Phía sau Tôn Kiên, năm trăm kỵ binh đã lập trận xong. Có vẻ như tiếng động rầm rĩ cùng tiếng chém giết bi thảm của chiến trường không ảnh hưởng gì tới Tôn Kiên, hắn không thèm liếc mắt nhìn cảnh chiến trường khốc liệt. Ánh mắt Tôn Kiên chỉ chăm chú nhìn vào cửa đông thành Gi­ang Đô vẫn đang khép chặt. Hắn đang chờ đợi cánh cửa thành đó mở ra.

Bốn bộ quân của Chu Thái không tiếc thương vong tấn công mạnh mẽ cửa đông thành Gi­ang Đô chẳng qua là muốn tập trung sự chú ý của quân thủ thành lên mặt thành để cho viên tiểu tướng Đinh Phụng có cơ hội kỳ tập.

“Két két két’.

Âm thanh chói tay vang lên, cửa đông thành Gi­ang Đô vốn vẫn khép chặt rốt cuộc đã hé ra một khe hở.

Đinh Phụng, năm nay mới mười bảy tuổi, tay cầm đơn đao từ khe cửa đó vọt ra ngoài, hắn nhìn ra ngoài thành, ngửa mặt lên trời gào lên.

Phía sau Đinh Phụng, khe cửa đó càng lúc càng được mở rộng, hơn trăm quân Ngô dũng mãnh đang làm thành từng bước tường người chen chúc nhau trên con đường hẹp ở cổng thành, liều chết ngăn cản quân Từ Châu đang phản công dữ dội.

Rốt cuộc Đinh Phụng đã thành công.

Tôn Kiên hung hăng thúc mạnh hai chân vào hông chiến mã, chiến mã bị đau lập tức nhẩy tung lên, ngửa đầu lên trời hí lên một tiếng bi thương đến tột cùng. Tôn Kiên ngồi trên lưng ngựa, giơ cao bảo đao chỉ về phía cổng thành, lớn tiếng quát: “Giết”.

“Giết giết giết…”

Phía sau Tôn Kiên, năm trăm kỵ binh ầm ầm gào lên ba lần rồi tất cả theo sau Tôn Kiên mãnh liệt nhằm hướng cửa đông xông tới.

Một tên tiểu giáo toàn thân đẫm máu bước nhanh tới, hắn nhìn Trần Đăng nói: “Đại nhân, cửa thành đã bị quân Ngô công phá, đại đội bộ binh quân Ngô đang nhằm hướng cửa thành xông tới. Một đội kỵ binh quân Ngô đã xông trước vào bên trong thành”.

“Có bao nhiêu kỵ binh?” Trần Đăng vẫn bình tĩnh như thường, bất động như núi: “Chủ tướng chỉ huy là ai?”

Tên tiểu giáo thở dốc nói: “Nhiều nhất là bảy, tám trăm kỵ binh. Chủ tướng chỉ huy là một người mặc chiến giáp màu đỏ, mũ trụ màu đỏ, một mắt. Đó chính là Tôn Kiên”.

“Hay, rốt cuộc Tôn Kiên đã không nhẫn nhịn được tới đây chịu chết, bản quan cũng đã dự đoán hắn không nhẫn nhịn được mà” Trần Đăng đứng dậy, hắn vung tay nện xuống trác an, thoáng chốc trên gương mặt nho nhã, anh tuấn của hắn hiện lên sát khí, sự đanh ác. Sau khi đứng dậy, hắn nhìn tên thân binh quát to: “Lập tức nổi hiệu lệnh, quân mai phục đổ ra …giết… Tôn Kiên!”.

“Tuân lệnh”.

Tên thân binh ầm ầm trả lời, hắn lập tức nâng chiếc sừng trâu đeo bên ngoài, bạnh quai hàm, cố sức thổi, trong thoáng chốc hiệu kèn lệnh thê lương từ trên lâu thành liên tục vang lên, vang vọng khắp trời xanh.

“Giết…”

“Giết…”

“Giết…”

Tôn Kiên chỉ huy năm trăm kỵ binh, vất vả đánh tan quân coi giữ cổng thành, hắn đang muốn bất ngờ đánh chiếm phủ Thái Thú, bắt giữ Trần Đăng thì đột nhiên nghe thấy âm thanh chém giết vang trời ở phía sau.

Tôn Kiên vội vã quay đầu nhìn, hắn giật mình khi phát hiện ra dưới chân tường thành ( chân tường thành trong cửa thành ), mặt đất bằng phảng đột nhiên sụp xuống, hiện ra hàng loạt quân mai phục sẵn trong các đường hầm. Quân Từ Châu đông nghịt, trường mâu cầm trong tay từ trong các đường hầm reo hò xông ra, trong nháy mắt đã chặn mất đường lui binh của Tôn Kiên.

Tôn kiên đang chưa hết kinh hãi, hắn định cướp đường khác bỏ chạy thì đột nhiên hai bên đường cùng phía trước vang lên âm thanh chém giết vô cùng tận. Hắn hốt hoảng đưa mắt nhìn bốn xung quanh thì thấy quân Từ Châu đông như kiến từ ba hướng đang xông tới, hắn ngửa mặt ngó lên mặt thành thì thấy trên bức tường chắn mái của lâu thành cũng xuất hiện hàng loạt quân cung thủ Từ Châu. Tên tiểu giáo chỉ huy vừa ra lệnh một tiếng, trong nháy mắt một cơn mưa tên đã đổ xuống.

Bên ngoài cửa đông thành Gi­ang Đô.

Từ Thứ sợ hãi suýt nữa ngã lộn ngược xuống ngựa khi nhìn thấy bên trong thành đột nhiên xảy ra kịch biến, may mắn là tên thân binh phía sau nhanh mắt đã tiến lên đưa tay đỡ lấy Từ Thứ, đúng lúc đó Thái Sử Từ không có tâm trạng nghỉ ngơi, hắn đang giục ngựa phóng tới định xin Tôn Kiên xuất chiến nhìn thấy thế vội hỏi Từ Thứ: “Quân sư, có chuyện gì vậy?”

Từ Thứ thở dài nói: “Chúa công nguy rồi”.

“Hả?” Thái Sử Từ kinh hoảng, hắn quát hỏi: “Chúa công ở đâu?”

Từ Thứ chỉ tay vào cửa thành, ảo não nói: “Đã bị vây kín bên trong cửa thành rồi”.

“Không hay rồi” Thái Sử Từ hét to một tiếng rồi hắn quay đầu nhìn hơn mười tên thân binh phía sau quát: “Các ngươi hãy theo ta xông lên”.

Nói chưa xong, Thái Sử Từ đã quay đầu giục ngựa xông tới cửa đông thành Gi­ang Đô.

Đinh Phụng có ý đồ mở một con đường máu cứu Tôn Kiên ra nhưng đáng tiếc con đường cổng thành nhỏ hẹp, trường thương trận của quân Từ Châu lại dầy đặc như rừng, quân Ngô rất khó có thể tiến lên một bước. Toàn thân Đinh phụng trúng vài thương, hắn đang định liều mạng thì đột nhiên nghe thấy sau lưng vang lên một tiếng hét như sấm: “Mau tránh ra”.

Theo bản năng Đinh Phụng tránh sang bên, ngay lúc đó một cơn lốc ào qua tai hắn, Đinh Phụng vội vã ngẩng đầu nhìn thì thấy đó là Đại tướng Thái Sử Từ.

“Ai cản ta, chết”.

Thái Sử Từ ngửa mặt lên trời gào lên một tiếng, trường thương trong tay hắn đâm vào thi thể của một lính Từ Châu rồi mạnh mẽ ném về phía trước. Mấy tiếng phập phập bén ngọt vang lên. Mấy thanh trường mâu sắc bén đã đâm xuyên qua thi thể của tên lính Từ Châu, mượn thi thể của tên lính Từ Châu mở đường, Thái Sưt Từ gào lên một tiếng, thiết thương trong tay hắn cố sức đánh ra, lập tức mấy tên lính trường mâu Từ Châu gục chết tại chỗ.

Thái Sử Từ một thương đâm chết mấy tên lính trường mâu từ Châu, hắn vẫn không dừng lại, thúc chiến mã xông lên đâm thẳng vào mười mấy tên lính trường mâu Từ Châu. Chiến mã hí lên một tiếng bi thương, ngã xuống trong vũng máu, cả người Thái Sử Từ đã sớm vọt lên cao, lướt qua đám quân trườn mâu Từ Châu rơi xuống bên trong cửa thành.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 328: Cam Ninh đánh Thục

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

“Hưu hưu hưu.”

Trong âm thanh rít lên, ba cây trương mâu đâm tới.

Thái Sử Từ hét to một tiếng, hắn nhún chân nhảy lên cao hơn một thước, ba cây trương mâu vốn định đâm vào thắt lưng Thái Sử Từ giờ lại đâm vào hư không.

Thái Sử Từ thuận thế hạ xuống. Hai tay hắn tóm lấy đầu của hai tên trường thương binh ở hai bên tả, hữu dập mạnh một cái vào đầu tên trường thương binh đứng ở giữa. Hai tiếng “thịch, thịch” nặng nề vang lên. Đầu của ba tên trường thương binh đã đập vào nhau, trong khoảng khắc đầu chúng vỡ vụn giống như dưa hấu. Thái Sử Từ không kịp lau máu và óc bắn tung toé lên mặt mình, hắn vội vàng nhảy lên cao, ngửa mặt lên trời gào to: “Chúa công ở đâu?”

“Tử Nghĩa? Chẳng lẽ phía trước là Tử Nghĩa?”

Tôn Kiên đang trong lúc bối rối thì bất chợt nghe thấy âm thanh từ phía trước truyền đến.

Thái Sử Từ vừa hạ người xuống đất, hắn vội ngẩng đầu lên nhìn, hắn thấy ở bên trái cách đó không xa, Tôn Kiên và hơn một trăm tinh kỵ đang bị vây chặt, giục ngựa tới lui. Hơn hai ngàn quân trường thương Từ Châu giống như một bầy sói hung tàn bao vây chặt Tôn Kiên và hơn một trăm kỵ binh, liên tiếp có quân kỵ binh Đông Ngô bị trường thương của quân Từ Châu đâm xuyên qua người, gào lên thảm thiết rồi ngã xuống vũng máu.

Ngay trong lúc đó, Tôn Kiên lại bị trúng một mũi tên, hắn suýt chút nữa ngã ngựa.

“Chúa công, Thái Sử Từ tới đây”.

Thái Sử Từ tiện tay quơ lấy một cây cung và bao tên của một tên lính cung thủ đã chết. Hắn liên tiếp bắn ra mười hai mũi tên, tất cả trước sau có mười hai tên lính trường thương Từ Châu chết dưới tên của Thái Sử Từ, đúng là bách phát bách trúng.

Hơn một trăm tên lính trường thương Từ Châu gào lên liều chết xông tới, Thái Sử Từ lại nhặt trường thương của những tên lính đã chết ném ra. Quân lính Từ Châu thấy Thái Sử Từ dũng mãnh như vậy nên lập tức thối lui. Bất chợt trong lúc đó hàng loạt mưa tên từ trên lâu thành bắn xuống liên tiếp, Thái Sử Từ vẫn bình tĩnh như thường, hắn cầm chắc thiết thương múa vòng tròn đến giọt nước cũng không chạm vào được, tất cả những mũi tên bắn vào người hắn đều bị đánh bay ra ngoài.

Thái Sử Từ tiếp tục xông tới, binh lính Từ Châu rẽ ra như sóng, để mặc cho hắn đánh giết mở một đường máu trong đám loạn quân.

Tôn Kiên có một mắt nên khó quan sát, trên lưng hắn lại vừa trúng thêm hai mũi tên, hắn ngã nhào từ trên ngựa xuống.

“Chúa công”.

Thái Sử Từ vất vả đánh giết tới nơi, hắn vội tiến tới đỡ Tôn Kiên dậy.

“Tử Nghĩa” Khoé miệng Tôn Kiền trào máu, hắn nhìn Thái Sử Từ nói: “Tử Nghĩa hãy mau đi đi, đừng để ý tới Cô. Trên người Cô trúng mấy mũi tên, chắc chắn sẽ chết’.

“Chúa công” Thái Sử Từ trợn tròn mắt, con người hắn như muốn bốc lửa: “Chỉ cần mạt tướng còn một hơi thở, tuyệt đối mạt tướng sẽ không để chúa công rơi vào tay bọn cẩu Từ Châu này”.

Nói xong, Thái Sử Từ vội cởi áo giáp trên người Tôn Kiên ra, sau đó hắn đỡ Tôn kiên lên lưng ngựa, dùng dây cương ngựa cột chặt Tôn Kiên sau đó một tay dắt ngựa, một tay cầm thương đánh ra hướng cửa thành.

Lư Gi­ang, Thư huyện

Mây đen kéo tới, mưa như trút nước nhưng trong hậu viện của phủ Thứ Sử Dương Châu vẫn vang lên âm thanh leng keng của kim loại va chạm vào nhau, mơ hồ còn xen lẫn tiếng quát tháo. Tôn Tĩnh sắc mặt vô cùng kinh hoàng đẩy cửa hậu viện, loạng choạng bước vào, hắn giương mắt nhìn Tôn Quyền đang ở vào tuổi nhược quán (thời xưa gọi thanh niên khoảng 20 tuổi là nhược quán) đang cùng một thiếu niên khoảng mười lăm tuổi gì đó chém giết ( Trong cuốn sách này tuổi của Tôn Quyền được phóng đại lên ).

Hai người, một đao, một thương đang say sưa kịch chiến.

“Trọng Mưu, Thống nhi” Tôn Tĩnh chạy tới bên cạnh, hắn che mặt khóc không thành tiếng nói: “Thôi đừng luyện võ nữa, hãy mau tới tiền đường nhìn mặt phụ thân các ngươi lần cuối”.

“Hả? Phụ thân!”.

Tôn Quyền nghe vậy liền quẳng thanh đao xuống, ngửa mặt lên trời gào lên một tiếng rồi chạy đi.

“Thúc phụ” Năm ấy Lăng Thống mới mười lăm tuổi, hắn tiến lên hỏi Tôn Tĩnh: “Không phải nghĩa phụ đang chỉ huy đại quân xuất chinh Gi­ang Đô sao? Nghĩa phụ đã quay lại Lư Gi­ang bao giờ vậy?”

Lăng Thống vốn là con trai độc nhất của Lăng Tháo. Khi hai mươi ba lộ chư hầu khởi binh chinh phạt Mã Dược thì Lăng Tháo đánh trận Huỳnh Dương tử trận. Tôn Kiên thấy Lăng Thống tuổi còn nhỏ không nơi nương tựa nên mới nhận làm nghĩa tử, cùng Tôn Quyền, Tôn Hủ, Tôn Khuông mấy anh em ăn cùng mâm, ngủ cùng chiếu, giống như các huynh đệ, hắn lại được các mãnh tướng Gi­ang Đông như Chu Thái, Thái Sử Từ, Tưởng Khâm dạy võ nghệ, Từ Thứ, Chu Du truyền dạy binh pháp.

“Ai” Tôn Tĩnh thở dài một tiếng, hắn vuốt đầu Lăng Thống, buồn rầu nói: “Thống nhi, mau tới tiền đường đi”.

Đại sảnh phủ Thứ Sử lúc này đã chìm trong không khí bi thương.

Tôn Kiên vẫn mặc chiến giáp màu đỏ, toàn thân đẫm máu, vẫn giữ nguyên dáng vẻ khi được Thái Sử Từ cứu ra, thậm chí ba mũi tên trên lưng hắn cũng chỉ cắt bỏ đuôi, không lấy đầu mũi tên ra. Trên thực tế quân lang trung trong quân không dám lấy đầu mũi tên ra vì một khi lấy đầu mũi tên ra, nội tạng Tôn Kiên sẽ sung huyết, hắn sẽ chết ngay lập tức.

“Phụ thân!”.

Tôn Quyền bước nhanh vào đại sảnh, liếc nhìn thấy Tôn Kiên toàn thân đẫm máu đang nằm trên giường, Tôn Quyền liền quỳ mọp xuống đất rồi hắn lê gối tới cạnh giường Tôn Kiên than khóc. Sau lưng Tôn Quyền, Tôn Dực, Tôn Khuông, Lăng Thống, Tôn Du, Tôn Kiểu mấy huynh đệ cũng đều quỳ dạp xuống, Ngô phu nhân cũng đang quỳ cạnh giường than khóc, tiếng khóc vô cùng thương tâm.

Tôn Kiên cố hết sức giơ tay ra tìm kiếm, thều thào nói: “Trọng Mưu đâu?”

Tôn Quyền vội lên lên cầm hai tay Tôn Kiên, hắn đau đớn nói: “Phụ thân, hài nhi ở đây”.

Khoé miệng Tôn Kiên trào máu, hắn thở hổn hển nói: “Trọng Mưu, Gi­ang Đông…này, Cô…Cô gi­ao… gi­ao cho ngươi, ngươi hãy làm cho tốt…”.

Tôn Kiên còn chưa nói xong, thần thái trong con mắt còn lại của Tôn Kiên dần trở nên ảm đạm, một dòng máu đen từ khoé miệng hắn trào ra, tức khắc thở hắt ra tắt thở.

“Phụ thân!’.

Tôn Quyền gào lên rồi hôn mê bất tỉnh trước giường Tôn Kiên.

Vào tháng sáu mùa hè oi bức, ở thành Lạc Dương thời tiết vô cùng oi bức, khó chịu, Mã Dược đang ở trong biệt viện trên núi ngoài thành nghỉ hè thì Giả Hủ, Lý Túc và Pháp Chính cùng nhau tới gặp.

Lý Túc hít một hơi, hắn trầm giọng nói: “Chúa công, vừa mới có tin tức, mãnh hổ Gi­ang Đông đã chết”.

“Hả, Tôn Kiên đã chết?” Mã Dược vội hỏi: “Vì sao mà chết?”

Pháp Chính nói: “Tôn Kiên dẫn quân tấn công Gi­ang Đô nhưng không chiếm được, lại bị Thái Thú Nghiễm Lăng là Trần Đăng lập mưu bắn chết”.

“Hả, bị Thái Thú Nghiễm Lăng, Trần Đăng bày kế bắn chết sao?” Nghe vậy, Mã Dược giật mình hoảng hốt, hắn thất thanh hỏi: “Trần Đăng này là người thế nào? Hắn có thể bày kế bắn chết Tôn Kiên thì không phải mưu kế cao hơn Từ Thứ một bậc sao?”

Giả Hủ nói: “Trần Đăng này là nhi tử của danh sĩ Từ Châu là Trần Khuê, khá có tiếng tăm trong nước, có thể nói là một nhân vật đại tài, rất giỏi thủ thành. Đây quả thật là một người tài”.

“Ai” Mã Dược ngửa mặt lên trời than dài một tiếng: “Một người như vậy mà Cô không thể sử dụng, chẳng phải rất đáng tiếc sao?”

“Chúa công” Giả Hủ nở một nụ cười giảo hoạt, hắn đề nghị: “Hủ thường nghe nói phụ tử Trần thị tự cho mình là trung thần Đại Hán. Sao chúa công không dùng danh nghĩa Thiên Tử hạ chiếu cử Trần Đăng làm Thái Thú Nam Dương”.

“Ừ, cử Trần Đăng làm Thái Thú Nam Dương” Mã Dược nói: “Kế này liệu có thành không?”

Giả Hủ nói: “Nhất định sẽ thành”.

“Hay!” Nghe vậy Mã Dược vô cùng kích động nói: “Nếu được Trần Đăng làm Thái Thú Nam Dương, Cô có thể kê cao gối ngủ”.

Pháp Chính nói: “Chúa công, thuộc hạ cũng có một kế gọi là lùa hổ nuốt sói, không cần tốn nhiều công sức mà vẫn có thể bình định Gi­ang Đông”.

“A” Mã Dược vui vẻ nói: “Kế đó sắp đặt như nào?”

Pháp Chính nói: “Tôn Kiên vừa chết, tuy trưởng tử Tôn Sách rất có dũng lược nhưng đáng tiếc đã chết trước Tôn Kiên ở ải Thanh Ngưu. Thứ tử Tôn Quyền năm nay nhược quán, uy danh thật sự không thể sánh được với phụ thân và huynh trưởng, bây giờ kế vị trong lúc cấp bách chỉ e rất khó ổn định cục diện Gi­ang Đông. Chúa công chỉ cần cử một người ăn nói khéo léo đi tới Bộc Dương, gợi ý, dùng lợi thúc đẩy tất Viên Thiệu sẽ xuất binh”.

“Hay, diệu kế” Mã Dược phấn khích nói: “Chỉ cần Viên Thiệu xuất binh cho dù không thể tiêu diệt Tôn Quyền, bình định Gi­ang Đông thì ít nhất cũng làm hao tổn rất nhiều thực lực Tôn thị ở Gi­ang Đông, trong mấy năm tới cũng không thể gây chuyện được. Hay, vậy làm phiền Tử Nghiêm hãy đi tới Bộc Dương một chuyến”.

Lý Túc vui vẻ nói: “Túc nào không dám tuân lệnh”.

Mã Dược nói tiếp: “Vụ thu lúa tiểu mạch vào mùa xuân tuy không đủ nhưng tới vụ thu hoạch vào mùa thu tới cũng đủ bù đắp. Cô cho là cuộc chiến chinh phạt Thục cũng nên sớm bắt đầu chuẩn bị. Ba quân chưa lên đường, lương thảo đã phải đi trước. Việc chuẩn bị lương thảo dĩ nhiên là quan trọng nhưng việc lựa chọn chủ tướng lại càng quan trọng hơn. Chẳng hay ba vị đã lựa chọn được người thích hợp chưa?”

Ánh mắt Lý Túc và Pháp Chính đồng thời nhìn Giả Hủ. Việc bổ nhiệm chủ soái là vấn đề quan trọng. Hai người đương nhiên biết bản thân mình vẫn chưa có quyền nói việc này trước mặt Mã Dược. Trong ba người chỉ có Giả Hủ mới có đủ tư cách trả lời.

Giả Hủ trầm tư giây lát rồi đáp: “Tướng quân Cao Thuận chú trọng chính diện, không chú trọng kỳ tập, có thể thống lĩnh đại quân tấn công chính diện Nha Manh Quan. Thiếu tướng quân vốn là một lựa chọn cho vị trí chủ soái dẫn quân kỳ tập, hơn nữa thanh danh cũng đủ làm chấn động sĩ tộc Xuyên Trung, đáng tiếc lại dẫn quân đi Tây Vực vì vậy vị trí chủ soái chỉ huy quân kỳ tập không chúa công thì không ai có thể đảm nhiệm”.

“Cái gì?” Nghe vậy Lý Túc giật mình kinh hãi, từ ngày về giúp sức Mã Dược tới nay đây là lần đầu tiên, hắn dám phản bác lại ý kiến của Giả Hủ, Lý Túc lớn tiếng nói: “Quân sư nói sai rồi. Sự an nguy của chúa công là cực kỳ quan trọng, sao có thể khinh xuất mạo hiểm? Việc đó quá mạo hiểm. Chúa công tuyệt đối không thể nghe theo lời quân sư, nếu không tai hoạ là vô cùng”.

Nhưng Pháp Chính lại có vẻ hiểu ý Giả Hủ, hắn nhìn Lý Túc nói: “Tử Nghiêm huynh, sao không nghe quân sư nói hết đã?”

“Hả?” Hình như Lý Túc cũng lờ mờ hiểu: “Ý của quân sư?”

“Ha ha ha” Giả Hủ cười nói: “Ý của tại hạ là không phải chúa công tới thì không đủ để chấn động sĩ tộc Xuyên Trung, nhưng không nói để chúa công mạo hiểm tự mình dẫn quân đánh lén Tây Xuyên”.

“Đã hiểu” Lý Túc đột nhiên nói: “Thì ra là cho người giả làm chúa công dẫn quân đi vào Xuyên, nói phao lên để đối phương sợ bóng sợ gió một hồi”.

Giả Hủ và Pháp Chính nhìn nhau cười.

Mã Dược nói: “Văn Hoà, ngươi vẫn chưa nói ai được chọn làm thống soái cầm quân”.

Giả Hủ nói: “Thủ hạ dưới trướng chúa công không thiếu Đại tướng cầm quân. Từ Thiếu tướng quân Mã Siêu trở xuống, Phương Duyệt, Từ Hoảng, Cam Ninh đều rất thiện thiến, đủ để độc lập cầm quân thế nhưng cuộc chiến chinh phạt Thục không phải chuyện đùa. Con đường nhỏ từ Âm Bình vào Thục rất nguy hiểm, khó đi. Sau khi một mình dẫn quân vào Thục, bốn phía là địch nhân. Chủ tướng dẫn quân phải biết tuỳ cơ ứng biến, quyết đoán, liên quan tới sự thành bại của cuộc chiến chinh phạt Thục lần này nên không thể mạo hiểm”.

Mã Dược nói: “Nói tiếp đi”.

Giả Hủ nói: “Tướng quân Phương Duyệt mạnh mẽ có thừa nhưng lại không đủ ứng biến. Tướng quân Từ Hoảng phòng thủ vững như bàn thạch nhưng lại thiếu nhuệ khí, chỉ có Cam Ninh tướng quân trí dũng song toàn, hơn nữa lại là người Lâm Gi­ang, quen thuộc địa lý Xuyên Trung, hơn nữa tướng sĩ thuỷ quân tinh nhuệ dưới trướng cũng có rất nhiều người là người Xuyên Trung. Sao chúa công không để Cam Ninh tướng quân chỉ huy thuỷ quân từ con đường nhỏ Âm Bình phạt Thục?”

Từ sau khi Thiên Tử phong tước cho ba con trai và cháu ngoại của Viên Thiệu, Viên Thiệu liền chuyển phủ Đại tướng quân từ Nghiệp Thành Hà Bắc xuống Bộc Dương ở phía nam, thể hiện quyết tâm tranh giành Từ, Dương.

Trong đại sảnh, Lý Túc đang chậm rãi nói: Nay Tôn Kiên đã chết trận, Gi­ang Đông chấn động, trưởng tử Tôn Sách cũng đã chết sớm, thứ tử Tôn Quyền, tam tử Tôn Dực, từ tử Tôn Khuông đều còn nhỏ tuổi, khó có thể cai quản. Các đại thần Gi­ang Đông vì tư lợi của mình mà liên tiếp tranh chấp với nhau. Quân Sơn Việt các quận bạo loạn, giết chóc khắp nơi. Sĩ tộc Gi­ang Đông phấp phỏm không yên, tử thủ trong trúc ổ. Đây chính là cơ hội trời ban cho Nguỵ công. Sao Nguỵ công không xuất binh xuôi nam, chinh phạt Gi­ang Đông?”

“Ừ”.

Viên Thiệu nghe Lý Túc nói vậy thì bắt đầu nổi lòng tham, hắn thầm nghĩ đây thực sự là cơ hội tốt nhất chinh phạt Gi­ang Đông.

Mưu sĩ Thẩm Phối vội bước ra khỏi hàng khuyên nhủ: “Chúa công không được”.

Viên Thiệu cau mày hỏi: “Vì sao không được?”

Thẩm Phối nói: “Tuy Tôn Kiên đã chết nhưng Từ Thứ, Chu Du, Trương Chiêu đều là những năng thần”.

Phùng Kỷ nói: “Mấy người đó hoặc giỏi về mưu kế, giỏi về nội chính hay giỏi cầm quân. Tất cả đều là nhân tài kiệt xuất hiện nay, tuyệt đối không thể khinh xuất. Các quận Dương Châu tuy có bạo loạn nhưng sẽ nhanh chóng bị bình định. Loạn quân Sơn Việt cũng chỉ như cỏ dại, không đủ để gây nên mối hoạ lớn, Gi­ang Đông lại có Trường Gi­ang hiểm trở. Thủ hạ dưới trướng chúa công lại không có thuỷ quân. Nếu chúa công nghe lời Lý Túc thì chỉ tự chuốc lấy hoạ, chỉ e diệt vong không còn xa nữa”.

Viên Thiệu vốn là người không mưu kế, hắn nghe vậy thì chần chừ không quyết: “Cái…này…”.

Lý Túc đột nhiên chuyển giọng, hắn cười nhạt nói: “Từ Thứ mưu kế vô song thiên hạ, đánh một trận Gi­ang Đô làm Tôn Kiên mất mạng. Trương Chiêu nội chính vô song, cai quản bốn quân Gi­ang Đông, giặc cướp nổi lên hoành hành khắp nơi, thiên tai không ngừng. Chu Du cầm quân người đương thời không có ai sánh bằng, một trận ải Thanh Ngưu bị Thiếu tướng quân nhà ta chỉ huy tám trăm quân thiết kỵ đánh giết không còn mảnh giáp, chẳng những Tôn Sách chết trận mà ngay cả bản thân Chu Du cũng bị thương nặng”.

‘Như thế có phải là những năng thần cổ kim hiếm thấy chưa?”

Thẩm Phối, Phùng Kỷ không biết nói gì.

Đột nhiên Lý Túc chuyển giọng, hắn cao giọng nói: “Thực không dám dấu giếm, Thừa tướng vốn có ý khởi đại quân chinh phạt Gi­ang Đông nhưng hiềm nỗi Dương Châu chính là địa bàn của trưởng tử Nguỵ công. Nếu Thừa tướng tuỳ tiện dẫn quân chinh phạt thì e tổn thương hoà khí hai nhà. Nếu Nguỵ công không có ý muốn thảo phạt, tại hạ sẽ lập tức quay về Lạc Dương phục mệnh Thừa tướng, nhất định ít ngày nữa Thừa tướng sẽ xuất binh chinh phát Gi­ang Đông”.

Nói xong Lý Túc xá dài Viên Thiệu một cái rồi hắn quay người có ý muốn rời đi.

“Chậm đã” Viên Thiệu vội vàng la lên: “Lý Túc tiên sinh hãy dừng bước”.

Lý Túc nói: “Nguỵ công có gì chỉ giáo?”

Viên Thiệu quả quyết nói: “Xin nói lại với Thừa tướng ít ngày nữa Cô sẽ khởi binh xuôi nam, chinh phạt Gi­ang Đông”.

Trong đình hóng mát trong hậu viện, gió thổi đìu hiu, Tôn Quyền mặc quần áo tang đang ngồi cùng Từ Thứ, Trương Chiêu, Chu Du quanh trác án.

Sau nửa năm nghỉ ngơi, sức khoẻ của Chu Du đã khôi phục hoàn toàn, hắn đang chuẩn bị thống lĩnh thuỷ quân đi tới Gi­ang Đô trợ chiến thì đột nhiên nghe tin dữ truyền về, Tôn Kiên đã chết trận.

Từ Thứ mở một quyển sách giản, trầm giọng nói: “Thái Thú Hội Kê là Toàn Nhu cấp báo, quân binh Gi­ao Châu đang như tằm ăn rỗi lấn chiếm Chư huyện ở phía nam Hôi Kê. Thái Thú Dự Chương Lữ Phạm cấp báo Sơn Việt ( phần đông Sơn Việt ở biên giới Việt Trung ) tập trung mấy vạn người, cướp bóc xung quanh Chư huyện, khí thế to lớn, xin chúa công cấp tốc điều binh trấn áp”.

“Chuyện không chỉ có vậy đâu” Tôn Quyền giơ bức mật thư trong tay nhìn ba người nói: “Cữu phụ ( Ngô Cảnh, em vợ Tôn Kiên ) vừa mới cho người đưa mật thư tới thông báo: Viên Thiệu đang không ngừng tăng thêm binh lính tới biên giới Hoài Nam, lương thảo, đồ quân nhu, vũ khí nặng cũng đang từ phương bắc cuồn cuộn vận chuyển hướng về Lương Quốc, Tiếu Quận, xem ra sắp sửa động thủ đối với Hoài Nam”.

Trương Chiêu thở dài nói: “Loạn bên trong chưa bình định xong, hoạ ngoại xâm lại đến. Bây giờ cần phải làm gì đây?”

“Chúa công không cần âu lo” Đột nhiên Chu Du nhíu mày lại, hắn thản nhiên nói: “Du cho là cục diện còn lâu mới tới mức không thể khống chế nổi. Điều cần làm lúc này là chủ động xuất quân mà không nên cố thủ Gi­ang Đông trong gi­an khó”.

“Chủ động xuất binh?”

Sắc mặt Từ Thứ khẽ biến, hình như hắn đang suy nghĩ điều gì đó.

Trương Chiêu có vẻ như hoài nghi lỗ tai của mình có vấn đề, hắn chất vấn: “Đại quân chưa ra quân, lương thảo đã phải đi trước. Lúc này các quận Gi­ang Đông đều nghèo kiệt, tại sao phải huy động lương thảo xuất chinh? Hơn nữa đại quân xuất chinh ra bên ngoài thì lấy gì phòng thủ Hoài Nam, Lư Gi­ang. Chẳng lẽ để mặc cho đại quân của Viên Thiệu tấn công Gi­ang Đông sao?”

“Viên Thiệu?” Chu Du mỉm cười nói: “Viên Thiệu chỉ là một đầu heo vỗ béo của Mã đồ phu mà thôi. Chỉ cần quân ta xuất binh đánh chiếm Nghiễm Lăng, bắt chém Trần Đăng, báo thù cho chúa công là có thể hù doạ Viên Thiệu hoảng sợ rút quân trở về, căn bản chúng ta không cần điều một binh một tướng đi phòng bị Viên Thiệu”.

“Nói thì rất dễ dàng” Trương Chiêu phản đối: “Chúa công tự mình dẫn ba vạn đại quân tấn công Gi­ang Đô mấy tháng trời cũng không thể đánh chiếm được. Chẳng hay Công Cẩn có diệu kế gì để có thể đánh chiếm Gi­ang Đô, bắt chém Trần Đăng đây? Còn nữa xin hỏi Công Cẩn cần tập trung bao nhiêu binh mã tấn công Gi­ang Đô? Lấy lương thảo ở đâu?”

Chu Du cao giọng nói: “Du chỉ cần ba ngàn tinh binh là có thể đánh chiếm Gi­ang Đô, bắt gi­am Trần Đăng”.

Trương Chiêu hoảng hốt nói: “A, ba…ba ngàn tinh binh sao?”

Tôn Quyền thoáng biến sắc.

Từ Thứ có vẻ không nén được sự giận dữ. Từ Thứ phụ tá Tôn Kiên dẫn ba vạn đại quân mãnh liệt tấn công Gi­ang Đô hơn ba tháng trời, cuối cùng bị Trần Đăng phản kích đánh tan tác rút về hơn nữa Tôn Kiên còn tử trận nhưng Chu Du lại nói hắn chỉ cần ba ngàn tinh binh là có thể đánh chiếm Gi­ang Đô, bắt giữ Trần Đăng thì không khác nào một cái bạt tai vào mặt Từ Thứ.

Hiển nhiên Chu Du nhận ra biến đổi tâm trạng của Từ Thứ, hắn cười to giải thích: “Du không có ý khinh thường quân sư, cũng không phải là lời nói cuồng vọng. Mưu trí của quân sư, người đương thời ít ai sánh kịp. Du thực sự rất bội phục. Sở dĩ Du nói chỉ cần ba ngàn tinh binh có thể đánh chiếm Gi­ang Đô là còn có một nguyên nhân khác”.

Từ Thứ nói: “Xin lắng tai nghe”.

Chu Du nói: “Quân ta mới thất bại, chúa công lại chết trận. Tinh thần binh lính xuống thấp, ba quân đang lúc bi thương, hơn nữa bản thân các quận Gi­ang Đông lại đang có phản loạn, đúng là lúc ốc còn không mang nổi mình ốc. Trần Đăng tuyệt đối sẽ không thể ngờ quân ta có thể bất ngờ tấn công Gi­ang Đô. Lần trước chúa công tử trận, ba quân tướng sĩ đều nóng lòng báo thù. Đây chính là lúc dụng binh. Điều thứ hai, lần trước quân ta tấn công Gi­ang Đô hơn ba tháng, đương nhiên tường thành Gi­ang Đô hư hỏng, vật tư hư hao rất khó có thể tu bổ kịp, đây chính là lúc thừa dịp tập kích. Điều thứ ba quân trấn thủ Gi­ang Đô bị bao vây đã lâu, vô cùng mệt mỏi, tất lòng quân lơi lỏng, sút giảm ý chí chiến đấu. Điều thứ tư, có ba nguyên nhân đó lo gì Gi­ang Đô không thể chiếm, Trần Đăng không thể diệt chứ?’

Sắc mặt Từ Thứ vô cùng hoảng sợ.

Tôn Quyền vỗ án, lạnh lùng nói: “Cô sẽ cùng Công Cẩn xuất quân đánh Trần Đăng, báo mối huyết thù của tiên phụ”.

Chu Du cùng Từ Thứ khẽ gật đầu.

Hiển nhiên những lời này của Tôn Quyền không phải là cao hứng trong lúc nhất thời mà đó chính là quyết định đã được suy xét rất cẩn thận. Luận về võ nghệ Tôn Quyền không sánh bằng đại huynh Tôn Sách. Nói về uy danh Tôn Quyền càng không thể nào sánh bằng phụ thân Tôn Kiên. Nếu không dựa vào uy thế lưu lại của cha và anh, Tôn Quyền tuyệt đối không thể trở thành người đứng đầu Gi­ang Đông.

Thế nhưng uy danh lưu lại của cha và anh chỉ có thể trợ giúp Tôn Quyền một chốc một lát, không thể giúp hắn cả đời.

Tiếp theo đó tạo dựng uy tín cho bản thân mình đều hoàn toàn dựa vào chính bản thân Tôn Quyền vì vậy Tôn Quyền muốn mượn cuộc chinh phạt Trần Đăng này để tạo dựng uy tín của mình trong quân. Tôn Kiên chỉ huy ba vạn đại quân tấn công Gi­ang Đô hơn ba tháng không chiếm được. Nếu như Tôn Quyền chỉ dùng ba ngàn tinh binh có thể đánh chiếm Gi­ang Đô, giới sĩ tộc Gi­ang Đông và ba quân tướng sĩ sẽ cư xử với Tôn Quyền như thế nào?

Đừng nên coi thường Tôn Quyền trẻ tuổi, tâm tư của tiểu tử này vô cùng sâu sắc.

Trương Chiêu không hiểu nỗi lòng của Tôn Quyền nên vội vàng khuyên nhủ: “Cái này gọi là đi vào vết xe đổ. Chúa công quá cố đã tử trận ở Gi­ang Đô, nay chúa công không thể khinh xuất mạo hiểm như vậy”.

Tôn Quyền quả quyết nói: “Ý Cô đã quyết, Tử Bố đừng nhiều lời”.

Bành Thành, Trần phủ.

Trần Đăng từ Nghiễm Lăng cưỡi ngựa chạy về Bành Thành, phụ thân hắn Trần Khê đang trong cơn hấp hối nhưng do Trần Đăng vẫn chưa về nên vẫn gắng chống chọi chưa chịu trút hơi thở cuối cùng.

“Hài nhi” Trần Khuê giơ cánh tay pahỉ gầy như que củi khô cầm lấy tay Trần Đăng nói: “Trần gia chúng ta đời đời lấy trung hiếu lễ nghĩa làm đầu, tuyệt đối không thể làm trái lễ nghĩa. Các thế hệ Trần gia đời đời là người nhà Đại Hán. Sống là thần tử Đại Hán, chết là ma nhà Đại Hán, tuyệt đối không thể làm chuyện đại nghịch bất đạo”.

“Phụ thân” Trần Đăng cúi đầu, buồn rầu nói: “Hài nhi ghi nhớ lời phụ thân dạy bảo”.

“Khụ khụ khụ” Trần Khuê ho dữ dội mấy tiếng liền rồi bảo người nhà lấy một phong thư đưa cho Trần Đăng sau đó ông ta thở dốc nói: “Đây là một đạo sắc lệnh, ra lệnh cho con chuyển từ Nghiễm Lăng tới Nam Dương làm Thái Thú. Đây tuy chỉ là do gi­an tướng Mã Dược mượn danh Thiên Tử phát lệnh nhưng cuối cùng thì vẫn làn chiếu lệnh của Thiên Tử, Thiên mệnh không thể trái”.

Trần Đăng ủ rũ nói: “Dạ, hài nhi chuẩn bị tới Nam Dương nhậm chức”.

“Ai…”.

Trần Khuê đã gặp mặt Trần Đăng, việc cuối cùng cũng dặn dò xong, ông ta thở ra một hơi, tắt thở.

Sau khi đại quân Đông Ngô rút đi, thành Gi­ang Đô lập tức trở lại sự yên lặng như trước kia. Mặt trời mọc dân chúng ra ngoài thành đi làm, mặt trời lặn quay về thế nhưng tường thành vẫn đổ nát, tan hoang, còn cả hào sau quanh tường thành vẫn chưa dọn sạch gỗ và đá. Từ những điều này vẫn có thể nhận ra nơi đây mới xảy ra một trận chiến vô cùng ác liệt, thê thảm.

Vào lúc hoàng hôn có hai tên ngư dân mang theo sọt cá điềm nhiên như không tiến vào cửa đông thành Gi­ang Đông. Quân canh cổng thành không hỏi han gì, cũng không có nghi ngờ gì lập tức để cả hai đi vào trong thành.

Ngay khi hai tên ngư dân tiến vào trong thành, thân hình chúng loé lên, lập tức biến mất trong một hẻm nhỏ.

Trong một ngôi nhà dân trong con hẻm nhỏ, ở sau hậu viên lúc này đã tụ tập một trăm hán tử khoẻ mạnh. Những hán tử này có người ăn mặc theo kiểu thương nhân, có người ăn mặc theo kiểu tiều phu, có người ăn mặc theo kiểu nông dân, có rất nhiều người ăn mặc theo kiểu ngư dân Gi­ang Đô, ngay khi hai tên ngư dân đó xuất hiện những hán tử này lập tức tiến tới vây quanh.

Hai tên ngư dân kia không phải ai khác mà chính là hai mãnh tướng Đông Ngô là Từ Thịnh và Đinh Phụng, một trăm hán tử kia cũng là những binh lính do hai người đó lựa chựa ra trong vạn quân, phân chia nhỏ lẻ lẻn vào trong thành Gi­ang Đô làm cảm tử quân.

Mọi việc diễn ra đúng như dự đoán của Chu Du, sau khi Tôn Kiên tử trận thất bại, quân trấn thủ Gi­ang Đô trở nên cực kỳ lơi lỏng. Từ Thịnh, Đinh Phụng chỉ huy hơn một trăm tinh binh không cần tốn nhiều sức đã đánh chiếm được cửa thành. Cửa thành lập tức được mở ra, trên lâu thành cũng đốt một đống lửa lớn làm hiệu, nhận được tín hiệu, Chu Du tự mình dẫn quân đánh vào trong thành.

Tiết Tống, người vừa mới đảm nhận chức Thái Thú Nghiễm Lăng từ Trần Đăng vừa mới đi nằm nghỉ thì bất chợt nghe thấy cửa đông thành vang lên tiếng chém giết.

Tiết Tống vô cùng hoảng sợ, hắn vội mặc trang phục đi ra ngoài cửa xem xét thì phát hiện ra ở cửa đông mửa bốc lên sáng rực trời. Trong ánh lửa cháy rừng rực mơ hồ còn có cả tiếng hò hét đinh tai nhức óc. Tiết Tống kinh hãi, hắn vội hỏi tả hữu: “Xảy ra chuyện gì? Đã xảy ra chuyện gì?”

“Đại nhân, không hay rồi” Tiết Tống vừa nói xong, một tên tiểu giáo giục ngựa chạy tới, hắn run run nói: “Quân Ngô tập kích thành, cửa đông đã bị chiếm. Đại quân quân Ngô đã đánh vào trong thành”.

“Cái gì?” Tiết Tống gào lên: “Tuyệt đối không thể nào. Quân Ngô vừa mới đại bại, Tôn Kiên cũng đã chết trận. Sao chúng dám quay lại tấn công Gi­ang Đô? Tuyệt đối không thể nào”.

“Đại nhân, là thật” Ánh mắt tên tiểu giáo vô cùng hoảng sợ: “Quân Ngô thật sự đã đánh vào trong thành. Chủ tướng của chúng là Chu Du. Đại nhân chạy mau đi, nếu chậm là không kịp”.

“Hả, Chu Du?”

Tiết Tống hoảng sợ khẽ rùng mình một cái. Bên tai hắn văng vẳng tiếng nói của Trần Đăng trước khi rời đi: “Tuy quân Ngô mới thất bại, Tôn Kiên tuy đã chết nhưng vẫn còn Chu Du, thứ tử của Tôn Kiên là Tôn Quyền cũng không phải hạng người tầm thường. Đại nhân trấn thủ Gi­ang Đô bất kỳ lúc nào cũng phải đề cao cảnh giác, canh phòng nghiêm ngặt người lạ tiến vào Gi­ang Đô để tránh quân Ngô thừa cơ đánh úp”.

“Ai” Tiết Tống thở dài nói: “Ta hối hận vì đã không nghe theo lời Nguyên Long cuối cùng gánh chịu đại nạn hôm nay”.

“Đại nhân, việc cấp bách rồi” Ngay lúc đó có tên thân binh dắt ngựa tới hô to: “Hãy mau đi thôi”.

Tiết Tống thở dài một tiếng rồi nhảy lên ngựa, hắn dẫn theo hơn trăm tên thân binh và gia tướng chạy ra ngoài cửa bắc định chạy trốn tới Xạ Dương thì bị quân Ngô mai phục tóm gọn.

Bên ngoài thành Gi­ang Đô, Chu Du giục ngựa đi tới trước mặt Tôn Quyền nói: “Chúa công, không bắt được Trần Đăng, chỉ bắt được Tiết Tống, Thái Thú Nghiễm Lăng mới nhậm chức”.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 329: Kẻ bất tài này chính là Bàng Thống, Bàng Sĩ Nguyên

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Chu Du vừa dứt lời, Thái Sử Từ đã mang Tiết Tống đang bị kẹp dưới nách ném xuống chân ngựa Tôn Quyền. Tôn Quyền nhìn theo ánh đuốc thì thấy thất khiếu Tiết Tống đã chảy máu, hắn đã sớm tắt thở chết. Thái Sử Từ thấy thế hắn ảo não gãi gãi đầu nói: “Người này đã quá sợ hãi, mới bị kẹp đã chết rồi”.

Tôn Quyền âm trầm hỏi: :”Tại sao Trần Đăng không có mặt ở đây?”

Chu Du nói: “Nghe nói Trần khuê bệnh tình nguy kịch, Trần Đăng quay về Bành Thành chịu tang cha”.

“Đáng tiếc” Tôn Quyền căm hận nói: “Cuối cùng vẫn để Trần Đăng tránh được kiếp nạn này thế nhưng Gi­ang Đô đã bị công phá. Hãy lập tức giết hết người già trong thành báo thù cho phụ thân rồi ca khúc khải hoàn quay về Lư Gi­ang”.

“Chúa công, không được” Chu Du vội vàng la lên: “Tuyệt đối không thể tàn sát dân chúng trong thành”.

Tôn Quyền lãnh đam hỏi: “Vì sao không thể?”

Chu Du hỏi ngược lại: “Xin hỏi chúa công muốn nhất thời tiêu tan sự căm phẫn hay là muốn giành được vùng đất Gi­ang Hoài màu mỡ?”

Tôn Quyền nói: “Cô vừa muốn hả giận mà cũng vừa muốn vùng Gi­ang Hoài màu mỡ”.

Chu Du nói: “Nếu chúa công muốn hả giận, tại sao không dẫn quân lên phía bắc đánh Viên Thiệu? Nếu muốn giành được vùng Gi­ang Hoài màu mỡ thì đây chính là cơ hội tốt nhất để có thể lấy lòng sĩ tộc Từ Châu. Sao có thể tàn sát dân chúng trong thành Gi­ang Đô được?”

Tôn Quyền nói: “Lúc này Thiên Tử đã ở Lạc Dương. Sĩ tộc Từ Châu nhất định sẽ đều hướng về Mã đồ phu, sao chúng có thể thân thiện với Cô nữa?”

“Sẽ không đâu” Chu Du nói: “Mặc dù Mã đồ phu lấy danh nghĩa Thiên Tử để sai khiến chư hầu nhưng bản chất của hắn và Tào Tháo trước đây hoàn toàn khác nhau. Tào Tháo dùng chính sách vuốt ve giới sĩ tộc trong khi đó chính sách của Mã Dược thi hành ở Quan Trung lại coi sĩ tộc thiên hạ là kẻ thù. Nếu như sĩ tộc môn phiệt Từ Châu không muốn lợi ích gia tộc của mình bị ảnh hưởng chỉ có cách kết minh cùng chúa công. Sở dĩ cố chúa công thất bại trong cuộc chinh phát Từ Châu là bởi thời cơ chín muồi chưa tới, nóng vội. Nếu như có thể chờ đợi thêm một, hai năm, chờ khi sĩ tộc Từ Châu biết được sự uy hiếp của Mã đồ phu, quân ta mới xuất quân thì không cần tốn nhiều công sức cũng đánh chiếm được Từ Châu”.

“Được” Tôn Quyền gật đầu, hắn trầm giọng nói: “Từ Thịnh, Đinh Phụng nghe lệnh”.

Từ Thịnh, Đinh Phụng liền tiến ra, cả hai đồng thanh nói: “Có mạt tướng”.

Tôn Quyền nói: “Cô để lại hai ngàn tinh binh. Hai ngươi nhất định phải bảo vệ an toàn Gi­ang Đô”.

Từ Thịnh, Đinh Phụng hùng dũng trả lời: “Mạt tướng lĩnh mệnh”.

Tôn Quyền quay đầu nhìn Thái Sử Từ, Chu Du rồi quát to: “Quay về Lư Gi­ang”.

Viên Thiệu vừa mới điều năm vạn đại quân từ Hà Bắc tới, hắn đang chuẩn bị dẫn đại quân xuôi nam tấn công Gi­ang Hoài thì đột nhiên mật thám cấp báo Tôn Quyền đã đánh chiếm Gi­ang Đô.

Tân Bình nói: “Chúa công, tin tức mới báo về Tôn Quyền đã chỉ huy ba ngàn tinh binh tập kích Gi­ang Đô, Thái Thú Gi­ang Đô là Tiết Tống chết trận. Hiện tại quận Nghiễm Lăng đã là địa bàn của Tôn gia”.

“Cái gì?” Viên Thiệu kinh hãi, hắn thất thanh nói: “Tôn Quyền đánh chiếm Gi­ang Đô? Ba ngàn tinh binh?”

“Dạ” Tân Bình gật đầu nói: “Tôn Quyền chỉ dẫn theo ba ngàn tinh binh”.

“Ông trời ơi, sao điều này có thể xảy ra?” Viên Thiệu bực tức nói: “Mãnh hổ Gi­ang Đông Tôn Kiên là hạng anh hùng chỉ huy ba vạn đại quân tấn công Gi­ang Đô hơn ba tháng mà không hạ được. Tôn Quyền chỉ huy ba ngàn tinh binh chỉ trong thời gi­an ngắn ngủi có thể đánh hạ Gi­ang Đô sao? Thật sự đáng sợ. Không phải như vậy thì Tôn Quyền còn lợi hại hơn cả cha hắn gấp bội phần sao?”

Mưu sĩ Thẩm Phối ở bên cạnh nói: “Người đời thường nói Mãnh hổ Gi­ang Đông Tôn Kiên có bốn con trai, người nào cũng là anh hùng, xem ra lời đồn đại quả không sai”.

“Ai, sinh con phải được như Tôn Trọng Mưu” Viên Thiệu ngửa mặt lên trời than dài một tiếng rồi hắn nói vẻ bất đắc dĩ: “Lập tức truyền lệnh đại quân quay về Hà Bắc, huỷ bỏ kế hoạch tấn công Hoài Nam”.

Thái Sử Từ đang thuật lại cuộc chiến Gi­ang Đô một cách sinh động cho Chu Thái, Tưởng Khâm, Lữ Mông, Hoàng Cái, Tổ Lang và các tướng lĩnh Gi­ang Đông nghe. Từ Thứ, Trương Chiêu, Bộ Chất, Cố Ung, Trương Hoành, Ngu Phiên cùng các quan văn thì đang nhắm mắt lại như dưỡng thần nhưng thực chất đang chăm chú lắng nghe. Mấy huynh đệ Tôn thị còn lại: Tôn Dực, Tôn Khuông, Tôn Du, Tôn Kiểu, Lăng Thống thì ngay cả thở mạnh cũng không dám, khi Thái Sử Từ nói tới chỗ nào gay cấn thì vỗ tay tán thưởng. Bầu không khí trong đại sảnh khá sôi động. Có vẻ bầu không khí bi thương do cái chết của Tôn Kiên đã hoàn toàn biến mất.

Từ Thứ, Trương Chiêu nhìn nhau cười gật đầu.

Trên thực tế, hai người này đương nhiên biết kỳ thật công lao của cuộc chiến Gi­ang Đô đều là của Chu Du thế nhưng Đông Ngô hay chính là Tôn Quyền rất cần trận thắng này bởi vì khi Tôn Kiên chết trận, tinh thần của quân Đông Ngô đã chạm đáy, sáu quận Gi­ang Đông mất ổn định. Ở vào thời khắc nguy nan này. Không còn nghi ngờ gì nữa một trận đánh thắng sẽ mang lại niềm vui tràn trề, lấy lại tinh thần của quân Đông Ngô và ổn định nhân tâm người Gi­ang Đông, nhất là việc Tôn Quyền tự mình dẫn quân đánh chiếm Gi­ang Đô càng có một ý nghĩa cực kỳ to lớn.

Cũng không phải tất cả mọi người đều đi tìm hiểu chân tướng trận chiến Gi­ang Đô.

Tôn Kiên thống lĩnh ban vạn đại quân tấn công Gi­ang Đô hơn ba tháng mà không thể hạ thành, trong khi đó Tôn Quyền chỉ dẫn theo ba ngàn quân tinh nhuệ chỉ trong một đêm đã đánh hạ Gi­ang Đô. Chỉ trong vòng chưa đầy nửa tháng tin tức này đã lan truyền khắp sáu quận Gi­ang Đông ( Đan Dương, Ngô Quận, Cối Kê, Dự Chương, Lư Gi­ang và Hoài Nam. Dân chúng Đông Ngô và các tướng sĩ quân Ngô mừng rõ khi nhận ra tài năng của Tôn Quyền còn vượt xa cha mình là Tôn Kiên. Bọn họ cũng không còn cảm thấy tuyệt vọng vì cái chết của Tôn Kiên nữa bởi vì Tôn Quyền còn hơn xa cha của hắn.

“Chúa công giá lâm. Đại đô đốc giá đáo”.

Đột nhiên một giọng nói xướng lên bên ngoài đại sảnh.

Kể từ khi Tôn Kiên chết trận, Tôn Quyền không bao giờ mỉm cười.

“Tham kiến chúa công”.

Văn võ bá quan đang đứng nghiêm hai bên cuống quýt ôm quyền làm lễ ra mắt. Chu Du cũng nhẹ nhàng đứng vào hàng ngũ.

Sau khi tiến tới sau án, Tôn Quyền đứng nghiêm khoát tay nói: “Miễn lễ”.

“Chúa công” Trương Chiêu bước ra khỏi hàng tước tiên nói: “Việc thu hoành lương thực của sáu quân Gi­ang Đông đã bắt đầu. Vì đã tiến hành xây dựng các công trình thuỷ lợi, công với mưa thuận gió hoà nên các quận đều bội thu. Riêng quận Hoài Nam càng thu hoạch lớn, trăm năm có một. Hiện tại các kho lương ở các quận đã đầy, đủ để quân ta có thể chính chiến hai năm liên tiếp’.

Tôn Quyền gật đầu, sắc mặt hắn vẫn không chút thay đổi đáp: “Ừ”.

Trương Chiêu vừa mới đứng vào hàng, Trương Hoàng liền bước ra nói: “Chúa công, bốn quận Ngô Quận, Dự Chương, Đan Dương, Cối Kê đã bình định xong loạn Sơn Việt. Sĩ gia Gi­ao Châu cũng cử sứ giả tới, muốn ký kết hiệp nghị ngưng chiến lâu dài với chúa công, còn nữa mật thám báo về Viên Thiệu đã dẫn đại quân quay về Hà Bắc”.

Tin mừng nối tiếp tin mừng, sắc mặt văn võ bá quan trong đại sảnh vô cùng mừng rỡ.

Thế nhưng trên gương mặt Tôn Quyền vẫn không hiện lên chút vui vẻ nào, hắn đột nhiên giơ cao tay phải. Âm thanh xì xào bàn tán trong đại sảnh đột nhiên dừng lại. Ánh mắt của văn võ bá quan đều tập trung vào Tôn Quyền.

Tôn Quyền liếc nhìn mọi người bên dưới rồi đột nhiên hắn quát to: “Chu Du đâu?’

Chu Du tiến lên hai bước, hắn quỳ trước án của Tôn Quyền nói: “Có mạt tướng”.

Tôn Quyền cầm bội kiếm trong tay, hắn trịnh trọng cầm bội kiếm đặt lên đỉnh đầu Chu Du nói: “Từ ngày hôm nay làm Đại đô đốc ba quân, thay mặt Cô thống lĩnh ba quân, không được sai sót”.

Sắc mặt Chu Du vô cùng nghiêm nghị, hắn giơ cao hai tay tiếp nhận bội kiếm của Tôn Quyền đáp: “Du…kính cẩn tuân chỉ lệnh của chúa công”.

Tôn Quyền khẽ gật đầu, đột nhiên hắn ngẩng đầu nói: “Hoàng Cái, Lữ Mông, Thái Sử Từ đâu?”

Ba tướng Hoàng Cái vội bước ra ngoài, theo thứ tự quỳ sau lưng Chu Du, đồng thành đáp: “Có mạt tướng”.

Tôn Quyền nói: “Hoàng Cái lão tướng quân làm Đô đốc bộ quân, Lữ Mông làm Đô đốc thuỷ quân. Thái Sử Từ làm Đô đốc kỵ quân. Tất cả chịu sự chỉ huy của Đại đô đốc, ngay lập tức chỉ huy bộ, thuỷ, kỵ quân ngày đêm thao luyện, chỉnh đốn võ bị, không được sai sót”.

Hoàng Cái, Thái Sử Từ ầm ầm trả lời: “Mạt tướng kính cẩn tuân chỉ lệnh của chúa công”. Lữ Mông thì có vẻ kích động, hắn phấn khích nói: “Mạt tướng tuyệt đối sẽ không phụ sự phó thác của chúa công”.

Trong đại sảnh vô cùng tĩnh lặng, không ai dám lên tiếng.

Mặc dù việc Tôn Quyền bổ nhiệm Chu Du làm Đại đô đốc ba quân một cách đột ngột nhưng chuyện này đáng lý phải như thế nên không có ai dám chất vất. Việc bổ nhiệm Hoàng Cái làm Đô đốc bộ quân cũng không có gì đáng nói vì dù sao Hoàng Cái cũng đi theo từ lúc Tôn Kiên khởi binh, là một lão tướng còn sót lại. Việc bổ nhiệm Thái Sử Từ làm Đô đốc kỵ quân cũng rất hợp lý, Thái Sử Từ không những nổi danh dũng mãnh trong ba quân mà cũng là viên tướng duy nhất trong quân Đông Ngô am hiểu kỵ chiến, có thể nói đó là lựa chọn duy nhất cho vị trí Đô đốc kỵ quân.

Nhưng việc bổ nhiệm Lữ Mông làm Đô đốc thuỷ quân thì hoàn toàn vượt qua dự đoán của mọi người. Lữ Mông chẳng những còn trẻ tuổi, hơn nữa lại không có danh tiếng gì. Từ trước tới nay Lữ Mông vẫn chỉ là một Chiết Trùng Giáo uy nho nhỏ. Đối với phần đông tướng già của quân Đông Ngô thì Lữ Mông không có số mà gì. Luận về chiến công, võ nghệ, sự từng trải, kinh nghiệm Lữ Mông đều thua xa hai tướng Chu Thái, Tưởng Khâm. Cho dù chức Đô đốc thuỷ quân có được thay phiên thì cũng không tới lượt Lữ Mông.

Việc Tôn Quyền bổ nhiệm Lữ Mông làm Đô đốc thuỷ quân cũng là có ý mượn việc này để tạo nên quyền uy tuyệt đối của mình. Sau cuộc chiến Gi­ang Đô, Trương Chiêu đã hoàn toàn thay đổi cách nhìn của mình với Tôn Quyền. Trương Hoành lại ăn nói cẩn trọng, không dùng tới tư thế của một cựu thần Đông Ngô đứng ra ngăn cản Tôn Quyền. Những văn quan chỉ là những thiên lôi chỉ đâu đánh đấy của nhị Trương thì lại lựa chọn cách im lặng.

Các võ tướng thì không khỏi cóchút không cam lòng, cảm thấy giận dữ bất bình thay cho Chu Thái, Tưởng Khâm.

Ngược lại tựa như Chu Thái, Tưởng Khâm lại không có bất kỳ phản ứng nào trước việc một gã tiểu tử chưa ráo máu đầu như Lữ Mông làm chỉ huy của mình, sắc mặt cả hai có vẻ thờ ơ nhưng thực tế cả hai rất khó chịu, chuẩn bị tìm một cơ hội để cho gã tiểu tử Lữ Mông này lãnh giáo sự lợi hại của hai người.

Khi không thấy ai lên tiếng phản đối, Tôn Quyền lại nói: “Từ Thứ, Lục Tốn nghe lệnh”.

Từ Thứ cùng Lục Tốn, người cùng tuổi Tôn Quyền, một bạch diện thư sinh cùng tiến lên đứng sau lưng các tướng Hoàng Cái. Tôn Quyền nói: “Từ Thứ làm quân sư, Lục Tốn làm tế tửu quân sư. Nhị vị hãy gắng hết sức hỗ trợ, tham mưu việc quân cho Đại đô đốc, bắc cự Cường Lỗ, trong vòng hai năm Cô muốn có được cả Từ Châu giàu có và đông đúc”.

Từ Thứ, Lục Tốn ôm quyền nói: “Lĩnh mệnh’.

Trương Chiêu, Cố Ung thấy Tôn Quyền dùng người rất quyết đoán, không chút nghi ngờ, càng không đắn đo suy nghĩ, cử chỉ rất giống với tác phong của tiên phụ Tôn Kiên thì không khỏi gật đầu, ánh mắt hiện lên sự vui mừng.

Trần Đăng khẽ vái chào Mã Dược nói: “Tham kiến Thừa tướng”.

“Nguyên Long, miễn lễ” Mã Dược bước lên hai bước thân mật cầm tay Trần Đăng

Trần Đăng khẽ rút tay khỏi tay Mã Dược, lạnh nhạt nói: “Dốc sức phục vụ triều đình, san sẻ gánh nặng của triều đình chính là trách nhiệm của kẻ thần tử. Vì sao Thừa tướng phải cảm tạ?”

Có thể nói lời nói của Trần Đăng rất thẳng thừng, không chút khách sáo. Ý của Trần Đăng là ta bán mạng cho Thiên Tử Đại Hán chứ không phải bán mạng cho Mã đồ phu ngươi, ngươi tạ ơn ta làm gì?

“Ai” Mã Dược giống như chạm phải một cái đinh mềm nhưng hắn vẫn không tức giận, chỉ cười nói: “Nguyên Long thực là bậc trung thần. Cô phải trọng thưởng tương xứng, người đâu!”.

“Thừa tướng” Trần Đăng nói: “Không có công không dám thụ hưởng. Nguyên Long quyết không dám thụ hưởng ban thưởng của Thừa tướng”.

Mã Dược lại như đâm đầu vào đinh, hắn thoáng biến sắc nhưng rồi lại mỉm cười nói: “Nguyên Long đúng thật là bậc quốc sĩ, đức cao khiến người phải khâm phục”.

Trần Đăng ôm quyền, thở dài nói: “Đăng có ý nguyện gặp mặt Thiên Tử, chẳng hay có được không?”

Mã Dược nói: “Lẽ ra nên như vậy. Người đâu, hãy mau dẫn Trần Đăng đại nhân vào cung triều kiến Thiên Tử”.

Lập tức có một viên tiểu lại bước tới dẫn Trần Đăng đi.

Đưa mắt nhìn bóng dáng Trần Đăng xa dần, nụ cười trên gương mặt Mã Dược dần dần biến mất mà thay vào đó là sự lạnh lùng thường thấy, Giả Hủ ở bên cạnh liền khuyên nhủ: “Chúa công, nếu muốn một người trung nghĩa như Trần Đăng quy thuận thì tuyệt đối không thể nóng vội”.

Mã Dược gật đầu, bùi ngùi nói: “Văn Hoà không cần lo lắng, Cô chỉ cảm động trước tấm lòng quang minh chính đại của Trần Đăng, phong thái quân tử mà thôi, không giống như một số người vẫn tự cho mình là trung thần Đại Hán nhưng vẫn khúm núm trước Cô. Cô thực sự không biết là những người đó thuần phục bản thân Cô hay là đương kim Thiên Tử. Nếu người trong thiên hạ cũng quang minh lỗi lạc như Trần Đăng thì quá tốt’.

“Ai” Giả Hủ khẽ mỉm cười, hắn nhìn Mã Dược nói: “Nếu kẻ sĩ trong thiên hạ ai cũng đều như Trần Đăng thì cũng không hẳn là một chuyện tốt với chúa công. Nói không đâu xa, nếu Tây Xuyên Lưu Chương là một người như Trần Đăng thì liệu chúa công có dám để Cam Ninh tướng quân thống lĩnh kỳ binh bất ngờ tập kích Thành Đô không? Còn nữa nếu ba con trai cùng cháu của Viên Thiệu cũng như vậy thì liệu chúa công có yên tâm gi­ao Trung Nguyên cho chúng không?”

“Ha ha ha” Mã Dược cười to nói: “Thì đương nhiên như vậy”.

“Chúa công” Mã Dược vừa nói xong, đột nhiên Lý Túc bước vội vào, hắn nói nhanh: “Nghiễm Lăng cấp báo”.

“Nghiễm Lăng?” Mã Dược nói: “Mau nói!”.

Sắc mặt Lý Túc vô cùng nghiêm trọng, hắn vội nói: “Ngay sau khi chuyển thi thể Tôn Kiên về Lư Gi­ang, Tôn Quyền đã lập tức chỉ huy ba ngàn tinh binh bí mật xuất chinh, đánh chiếm Gi­ang Đô.Tiết Tống, Thái Thú Quảng Lăng thay cho Trần Đăng hoàn toàn không đề phòng quân Đông Ngô đánh lén Gi­ang Đô nên đã để Tôn Quyền đánh lèn Gi­ang Đô thành công”.

“Hả?” Mã Dược thất thanh nói: “Quân Ngô đánh lén Gi­ang Đô thành công?”

“Đúng” Lý Túc gật đầu nói: “Trận chiến Gi­ang Đô không chỉ giúp Tôn Quyền đoạt lấy Quảng Lăng làm quận thứ bảy của Gi­ang Đông mà còn làm sĩ khí quân Ngô lên cao, cuộc phản loạn ở sáu quân Gi­ang Đông cũng nhanh chóng bị bình định. Sĩ Nhiếp, quân Sơn Việt ở Ngô Trung đều lặng lẽ chấm dứt chiến tranh. Thậm chí Viên Thiệu còn chưa xuất binh đã bị hù doạ quay về’.

“Chu Du!” Mã Dược quả quyết: “Nhất định đó là do Chu Du làm!”.

Sắc mặt Giả Hủ có vẻ lo lắng, hắn nói: “Thế nhưng Tôn Quyền tuổi còn trẻ mà có thể quyết đoán như vậy cũng đủ thấy hắn không phải là người tầm thường”.

“Chu Du không chết, Cô không thể ăn ngon ngủ yên” Mã Dược chắp tay sau lưng đi lại trong sảnh, đột nhiên hắn dừng lại hỏi Lý Túc: “Tử Nghiêm, tình hình thu hoạch lương thực ở Gi­ang Đông năm nay như thế nào?”

Lý Túc nói: “Nghe nói cũng giống như Quan Trung. Một năm được mùa hiếm thấy”.

“Vậy không hay rồi” Mã Dược kích động nói: “Một trận đánh Gi­ang Đô giúp Tôn Quyền tạo dựng uy danh chỉ trong thời gi­an ngắn nhất, cũng ổn định thế cục Gi­ang Đông đang lung lay sắp đổ vì cái chết của Tôn Kiên. Một khi quân Ngô khôi phục được như cũ sẽ lập tức ra tay với Từ Châu. Nếu Từ Châu lọt tất vào tay Tôn Quyền, lại có Chu Du trợ giúp thì chỉ e sẽ di hoạ khôn cùng”.

Khoái Việt ở bên cạnh đột nhiên nói: “Chúa công, Tôn Quyền vẫn chỉ là một đứa bé, trong lòng hắn chưa chắc đã thật sự tin tưởng Chu Du. Sao chúng ta không dùng kế ly gián làm Tôn Quyền nghi ngờ Chu Du?’

Mã Dược nói: “Kế ly gián?”

Lý Túc nói: “Chỉ e kế ly gián rất khó thành hiện thực. Từ Lư Gi­ang cũng vừa mới có tin tức truyền tới: Tôn Quyền đã chỉ định Chu Du làm Đại đô đốc ba quân. Tất cả binh quyền Gi­ang Đông do Chu Du nắm. Nếu như Tôn Quyền không có tính khoan dung độ lượng hơn người thì e là hắn không dám đưa ra quyết định như vậy”.

“Tôn Quyền thậm chí đã gi­ao toàn bộ binh quyền Gi­ang Đông cho Chu Du sao? Đây là việc gi­ao tính mạng toàn gia của mình đặt lên người Chu Du. Chẳng lẽ hắn không sợ Chu Du cắn lại sao?” Mã Dược cau mày nói: “Thế nhưng….điều này cũng đủ để chứng minh Tôn Quyền là người vô cùng bất phàm. Tôn Kiên có con trai như vậy cũng ngậm cười nơi chín suối”.

“Thế cục Gi­ang Đông bất ngờ thay đổi quả thực nằm ngoài dự đoán của mọi người. Việc Tôn Kiên chết trận là một đòn đả kích trí mạng đối với Đông Ngô nhưng đối với Chu Du, Tôn Quyền mà nói thì nó lại là một chuyện nhân hoạ đắc phúc” Sắc mặt Giả Hủ càng hiện lên sự lo lắng, hắn trầm giọng nói: “Tôn Quyền lợi hại như vậy, chỉ e Viên Thiệu không dám tranh đoạt nữa rồi”.

“Ý của quân sư là việc trực tiếp xuất binh tiếp quản địa bàn của Viên Thiệu sau đó tranh đoạt Từ Châu với Đông Ngô sao?” Pháp Chính cau mày nói: “Thế nhưng kỵ binh Mạc Bắc vẫn chưa chuẩn bị sẵn sàng, thoạt nhìn thì mười vạn kỵ binh là rất nhiều, muốn trong một thời gi­an ngắn đánh chiếm các châu U, Tịnh, Ký, Thanh, Duyện, Dự cùng Từ Châu thì chỉ e là vẫn chưa đủ sức”.

“Thôi!” Mã Dược nói: “Mặc dù Tôn Quyền lợi hại nhưng vẫn không là gì khi so sánh với Tào Tháo. Lúc này địa bàn chiến lược của chúng ta vẫn là Kinh Châu và Tây Xuyên. Còn về phần Từ Châu hãy để đó cho Viên Thiệu chăm lo, huống chi quân Đông Ngô đánh chiếm Từ Châu cũng không có gì đáng lo lắm. Tuy Gi­ang Hoài là vùng đất màu mỡ nhưng không có địa thế hiểm yếu để phòng thủ. Một khi kỵ binh Mạc Bắc của chúng ta xuôi nam thì chỉ cần không tốn quá nhiều công sức là có thể đoạt lại”.

Khoái Việt nói: “Xin thứ cho tại hạ nói thẳng. Lúc này Tào Tháo không khác gì chó nhà có tang, trấn thủ một góc Tân Dã. Binh lính chỉ có mấy ngàn, tướng chỉ có hơn mười viên, hoàn toàn không thể so sánh với mối đại hoạ Gi­ang Đông. Sao chúa công không phái đại quân ra Nhữ Nam uy hiếp lấy Lư Gi­ang như thế tất Tôn Quỳên sẽ không dám vội vàng đánh chiếm Từ Châu”.

“Không” Mã Dược quả quyết nói: “Chẳng lẽ Dị Độ chưa từng nghe nói câu: Nhổ cỏ không nhổ tận gốc, gió xuân tới lại đâm chồi trỗi dậy sao?”

“Nhổ cỏ không nhổ tận gốc, gió xuân tới lại đâm chồi trỗi dậy sao?” Khoái Việt lắc đầu nói: “Chưa từng nghe nói”.

“Ai” Mã Dược than nhẹ một tiếng rồi giải thích: “Ý muốn nói trừ ác phải tận diệt. Tào Tháo còn chưa chết ngày nào, Cô thực sự không yên tâm”.

Khoái Việt nói: “Vậy đó chẳng phải là bỏ gốc lấy ngọn sao?”

Mã Dược nói: “Tôn Quyền còn lâu mới được coi là gốc, Tào Tháo càng không phải là ngọn”.

Khoái Việt chắp tay nói: “Tại hạ hiểu”.

Tào Tháo cầm một phong thư trong tay nhìn thuộc hạ xung quanh nói: “Lưu Biểu cho người mang thư mời tới. Hắn muốn mời Cô tới Tương Dương dự tiệc. Chư vị nghĩ xem có nên đi hay không?”

Đại tướng Vu Cấm nói: “Lưu Biểu mời cũng chưa chắc có ý tốt. Chúa công không thể xem nhẹ”.

Trương Liêu, Trương Cáp, Tang Bá chư tướng cũng phụ hoạ: “Vu Cấm tướng quân nói rất đúng. Chúa công tuyệt đối không thể xem nhẹ”.

Tào Tháo hỏi Trình Dục: “Trọng Đức nghĩ sao?”

Trình Dục trầm ngâm một lát rồi nói: “Dục cho là Lưu Biểu không có ác ý. Hơn nữa dù Lưu Biểu muốn có ác ý, sĩ tộc Kinh Tương nhất định cũng không đồng ý. Dù sao bây giờ giết chúa công cũng không phải là điều hay đối với sĩ tộc Kinh Tương vì vậy chúa công cứ yên tâm đi dự tiệc thế nhưng vẫn cần Trương Liêu tướng quân chỉ huy năm trăm tinh binh đi theo bảo vệ”.

Lưu Diệp, Cổ Quy cùng nói: “Nếu được Trương Liêu tướng quân đi theo bảo vệ thì chúa công cứ yên tâm đi dự tiệc”.

“A a” Tào Tháo mỉm cười nói: “Cô cũng có ý này”.

“Báo…” Tào Tháo vừa dứt lời, chợt thấy Tào Hưu bước nhanh vào, hắn quỳ xuống bẩm báo: “Bên ngoài phủ có một người tướng mạo xấu xí tự xưng là kỳ sĩ Kinh Tương muốn gặp chúa công, ông ta nói có chuyện quan trọng muốn bẩm báo”.

Tào Tháo hỏi: “Kỳ sĩ Kinh Tương?”

Tàn Phách nói: “Thậm chí người này không biết xấu hổ là gì, hắn còn tự xưng mình là kỳ sĩ Kinh Tương”.

Cổ Quy nói: “Tự xưng là kỳ sĩ cũng chưa chắc đã có tài cán gì”.

Trình Dục nói: “Sao chúa công không triệu vào gặp mặt?”

“Ừ, Trọng Đức nói hợp ý Cô” Tào Tháo vui vẻ gật đầu, hắn nhìn Tào Hưu nói: “Văn Liệt, hãy mau cho người này vào”

“Tuân lệnh”.

Tào Hưu lĩnh mệnh rời đi, một lát sau hắn đã dẫn một người vóc dáng ngũ đoản, tướng mạo xấu xí như vượn khỉ, người bé loắt choắt. Nam tử xấu xí đó thấy Tào Tháo, không chắp tai thi lễ, không hành lễ, hắn chỉ ngang nhiên đứng giữa đại sảnh, kiễng chân, ngửa mặt lên trời, ngạo nghễ nói: “Ngày chết của Tào công sắp đến, không biết ngài đã biết hay chưa?”

“Càn rỡ!”.

Tàng Phách nghe vậy vô cùng giận dữ, hắn rút soạt bảo kiếm ra, hắn bước lên hai bước kề bảo kiếm vào cổ nam tử xấu xí.

Nam tử xấu xí như là không nhìn thấy thanh bảo kiếm đang kề trên cổ mình, hắn lạnh lùng liếc nhìn Tàng Phách một cái rồi nói vẻ trào phúng: “Tướng quân thân kinh bách chiến, giết người đầy đồng, sợ gì giết thêm một người nữa? Hãy mau chóng ra tay, không nên ngần ngại”.

“Muốn chết!”.

Tàng Phách giận dữ, hắn đang định một kiếm giết chết nam tử xấu xí thì Tào Tháo khoát tay nói: “Tang Bá tướng quân không được vô lễ”.

“Hừ!”.

Tàng Phách tức giận trừng mắt nhìn nam tử xấu xí rồi mới miễn cưỡng thu lại bảo kiếm quay lại chỗ của mình. Lúc này Tào Tháo mới chắp tay chào nam tử xấu xí, cao giọng nói: “Chẳng hay tôn tính đại danh của tiên sinh là gì?”

Nam tử xấu xí vuốt vuốt ống tay áo, ngạo nghễ nói: “Kẻ bất tài này chính là Bàng Thống, Bàng Sĩ Nguyên’.

“Thì ra là Bàng Tiên sinh” Tào Tháo nói: “Mới rồi tiên sinh nói vậy không rõ là có ý gì? Xin vui lòng chỉ giáo”.

Bàng Thống nói: “Nay Lưu biểu mở Hồng Môn yến, muốn nhổ tận gốc Tào công cùng thế lực của ba nhà lớn nhất sĩ tộc Kinh Tương. Tào công không biết lần này chính là đi vào tử lộ sao? Nếu như không phải có bằng hữu uỷ thác, tại hạ cần gì làm điều thừa thãi này, tự chuốc lấy nhục. Nay lời đã chuyển, tại hạ xin cáo từ”.

“Tiên sinh xin dừng bước” Tào Tháo vội vàng la lên: “Cô có nhiều điều chứa chất trong lòng không giải thích được, xin vui lòng chỉ giáo”.

Bàng Thống lãnh đạm nói: “Nếu Tào công muốn chiết nhiều chuyện, sao không đi tìm cao nhân khác chỉ giáo cho?”

Nói xong Bàng Thống liền rũ tay áo ý muốn bỏ đi.

“Ghê tởm!”.

Tàng Phách tức giận, hắn lại rút kiếm định chém Bàng Thống, Tào Tháo cả giận quát: “Không thể càn rỡ!”.

Tàng Phách nói: “Chúa công!”.

Tào Tháo quát: “Còn không lui ra cho Cô”.

“Ôi”.

Tàng Phách thở dài, hắn tức giận ném thanh trường kiếm trong tay xuống đất rồi lui xuống.

Lúc này Tào Tháo mới rời khỏi chỗ ngồi, hắn tiến tới trước mặt Bàng Thống vái chào và nói: “Vừa rồi Tàng Phách tướng quân có nhiều thất lễ với tiên sinh. Cô xin bồi tội với tiên sinh”.

Bàng Thống mấy lần dò xét, thấy Tào Tháo thuỷ chung có lòng chiêu hiền đãi sĩ, không ngạo mạn, kiêu căng nên hắn không khỏi trở nên nghiêm nghị. Bàng Thống cung kính quay người cúi người thật sâu vái chào Tào Tháo một cái rồi cao giọng nói: “Tào công trí tuệ rộng lớn, khoan dung độ lượng, khoáng đạt khiến người khâm phục. Vừa rồi Thống chỉ làm ra vẻ cuồng vọng một chút chính là muốn nhìn xem Tào công có lòng đối đãi với người như người đời thường nói không. Hôm nay mới thử qua một lần, quả nhiên danh bất hư truyền”.

Tào Tháo nói: “Tiên sinh quá khen, Cô thẹn không dám nhận”.

Bàng Thống nói: “Việc làm lần này của Thống thực không có ác ý, kính xin Tào công khoan thứ. Còn về phần vị tướng quân kia, sau này tại hạ sẽ tới tận cửa tạ tội”.

“A, tiên sinh quá lời rồi” Tào Tháo cầm tay Bàng Thống dẫn tới chỗ ngồi rồi hỏi tiếp: “Chẳng hay chuyện tiên sinh vừa nói tột cùng là như thế nào?”

Bàng Thống nghiêm mặt nói: “Mã đồ phu là người kiêu hùng, Lưu Biểu yếu đuối không phải là đối thủ. Theo như tại hạ biết ba sĩ tộc Sái, Hoàng, Vương cầm đầu sĩ tộc môn phiệt Kinh Tương có ý nghênh đón Tào Công vào làm chủ Kinh Châu. Việc này vốn vô cùng bí mật nhưng không hiểu tại sao Lưu Biểu lại biết được. Lưu Biểu đã ra lệnh cho tòng tử Lưu Bàn dẫn năm ngàn quân từ Du huyện, Trường Sa tới trú ở Công An, lại sai trưởng tử Lưu Kỳ tới núi Võ Lăng điều hai ngàn Phiên binh, lấy tiếng là muốn bảo vệ xung quanh Tương Dương nhưng thực ra là muốn đối phó với Tào công và ba gia tộc môn phiệt”.

“Có việc ấy sao?” Tào Tháo hoảng sợ nói: “Nếu không có tiên sinh thì e rằng Cô đã bị gã thất phu Lưu Biểu làm hại rồi”.

Bàng Thống lại nói: “Lưu Biểu dự định sau ba ngày nữa sẽ thiết đại yến ở phủ Thứ Sử mời quần thần, Tào công và sĩ tộc môn phiệt Kinh Tương. Đợi khi Tào công và sĩ tộc Kinh Tương đều tới. Hai ngàn Phiên binh của Phiên vương Sa Ma Kha sẽ bao vây phủ Thứ Sử, tru diệt ba gia tộc cầm đầu của Sái Mạo, Hoàng Tổ, Vương Uy, Tào công cũng nằm trong nhóm bị tru diệt”.

“Sau đó Lưu Biểu sẽ ra lệnh cho cháu ngoại Trương Doãn tiếp ứng năm ngàn quân của Lưu Bàn vượt Gi­ang Bắc tiến vào đóng ở Tương Dương”.

“Lưu Biểu nghĩ rằng chỉ cần tiêu diệt được ba đại môn phiệt cùng với Tào công là có thể khống chế cục diện Kinh Châu, có thể bảo toàn lợi ích và địa vị của Lưu gia ở Kinh Châu. Nhưng ông ta đã lầm to. Một khi Sái Mạo, Hoàng Tổ, Vương Uy bị giết thì quân Kinh Châu như rắn mất đầu, lòng quân đại loạn. Kết quả cuối cùng chỉ tạo thuận lợi cho gã ác lang Mã đồ phu”.

Bàng Thống vừa nói xong, Trình Dục, Lưu Diệp, Cổ Quy mấy người vô vùng hoảng sợ.

Tào Tháo sau mày suy nghĩ một lát rồi hỏi Bàng Thống: “Lưu Biểu lòng dạ độc ác như vậy thì Cô phải làm gì bây giờ?”

Bàng Thống nói: “Thống có một kế, đảm bảo Lưu Biểu chắp tay nhượng lại Kinh Châu”.

“Hả?” Tào Tháo vội la lên: “Xin lắng nghe”.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 330: Trương Tùng hiến Tây Xuyên (1)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Tân Dã, phu quan Tào Tháo

Ngay khi Cổ Quy dẫn Bàng Thống ra ngoài, Tào Tháo nhìn thủ hạ của mình nói: “Chư vị có nghĩ Bàng Thống, Bàng Sĩ Nguyên này có đáng tin cậy hay không?”

“Chúa công không nên dễ tin lời gã nhà quê này” Trình Dục chưa kịp trả lời, Đại tướng Tào Hồng đã nói: “Người này tự xưng là kỳ sĩ Kinh Tương. Hồng cho rằng cũng chẳng làm nên trò trống gì. Kế sách hắn hiến cũng chưa chắc đã giúp chúa công đoạt được Kinh Châu, cũng có khi thằng nhãi này phụng mệnh Lưu Biểu tới đây. Chúa công tin lời hắn nhất định là sẽ tự chui đầu vào lưới”.

Tào Tháo hỏi Trình Dục: “Trọng Đức nghĩ sao?”

Trình Dục nói: “Dục nghĩ rằng không phải Bàng Thống cố ý làm ra vè huyền bí”.

Tào Tháo đột nhiên quát to: “Trương Liêu đâu?”

Đại tướng Trương Liêu bước ra, ôm quyền nói: “Có mạt tướng”.

Tào Tháo nói: “Lập tức điểm năm trăm tinh binh đi theo Cô tới Tương Dương”.

“Tuân lệnh”.

Trương Liêu trả lời rồi rời đi.

Tào Tháo nhìn Trình Dục, Lưu Diệp nói: “Trọng Đức, Tử Dương hãy chia nhau đi làm việc”.

“Tuân lệnh”.

Trình Dục, Lưu Diệp ôm quyền vái chào rồi cùng rời khỏi sảnh đường.

Năm thứ mười một Hán Hiến Đế, mùa xuân ( năm 198 )

Mã Dược cử Cao Thuận thống lĩnh hai vạn đại quân ra Hán Trung hạ trại, không lâu sau đó hai vạn quân đóng trại ở đó phân tán ra, bí mật quay lại Quan Trung sau đó Mã Dược lại cử thiên tướng dẫn hai vạn đại quân đó quay lại Hán Trung hội họp với Cao Thuận, cứ như thế diễn ra mười lần. Tới mùa thu năm đó đã tạo nên một tư thế hai mươi vạn đại quân đang đóng trại ở Nam Trịnh.

Cao Thuận lại phái ra rất nhiều mật thám, xích hầu, ngày đêm không ngừng thăm dò địa hình, quân tình Tây Xuyên, phái người vào Tây Xuyên trắng trợn phao tin tức nói trước khi mùa đông bắt đầu đại quân sẽ xuôi nam tiến đánh Tây Xuyên.

Ngay lập tức thế cục Tây Xuyên nổi sóng, biến đổi một cách kỳ lạ, giống như là cơn giông tố sắp xảy ra.

Tin tức truyền tới Thành Đô, Ích Châu mục Lưu Chương vô cùng hoảng sợ, hắn cấp tốc triệu tập văn, võ bá quan thương nghị tìm cách đối phó. Lúc này trong đại sảnh của phủ Ích Châu mục lô nhô toàn đầu người. Gần như tất cả những nhân vật có uy danh, máu mặt ở Xuyên Trung đã tụ tập ở đây, cùng nhau thương nghị đại kế.

Lúc này cũng cần phải giới thiệu sơ lược qua tình hình sĩ tộc Xuyên Trung.

Vào giữa năm Trung Bình, Mã Tương, Triệu Chi tụ tập người khởi nghĩa. Sĩ tộc Xuyên Trung là Nhâm Kỳ, Cổ Long vì để tự bảo vệ bản thân mình nên đã liên kết với cường hào Xuyên Trung tụ tập nghĩa binh trấn áp cuộc khởi nghĩa sau đó nghênh đón Lưu yên nhập Xuyên. Dưới sự ủng hộ của Nhâm Kỳ, Cổ Long, Lưu Yên nhanh chóng thiết lập được thế lực ở Tây Xuyên. Nhưng niềm vui ngắn chẳng tày gang, thế lực của Cổ Long không ngừng bành trướng tạo thành mối uy hiếp thực sự nghiêm trọng tới địa vị cai trị của Lưu Yên.

Đương nhiên Lưu Yên không muốn trỏ thành con rối, để mặc cho sĩ tộc Xuyên Trung thao túng vì vậy Lưu Yến mới nghĩ tới việc lợi dụng “Đông Châu sĩ” để phản kích lại sĩ tộc Xuyên Trung.

Vậy “Đông Châu sĩ” là gì?

“Đông Châu sĩ” là tên gọi chung của người Xuyên với giới sĩ tộc đến từ bên ngoài.

Khi Lưu Yên vào Xuyên nhậm chức có dẫn theo một nhóm người tài năng. Trong đó tương đối nổi danh có Ngô Ý ( trong chính sử, muội muội của Ngô Ý trước đó được gả cho thứ tử của Lưu Yên sau đó lại gả cho Lưu Bị làm hoàng hậu ), Bàng Hi, Triệu Vĩ, Đổng Phù, Hứa Tĩnh mấy người. Bởi vì mấy năm liền Quan Đông chiến loạn nên có mười mấy vạn lưu dân đổ vào Tây Xuyên. Trong số lưu dân này cũng có một số nhân tài. Tương đối nổi danh một chút có Đặng Chi, Đổng Hoà và Ngô Ban.

“Đổng Châu sĩ ” từ khi theo Lưu Yên nhập Xuyên vẫn một mực bị sĩ tộc Xuyên Trung do Nhâm Kỳ, Cổ Long cầm đầu xa lánh, chèn ép. Vì vậy khi Lưu Yên và sĩ tộc Xuyên Trung phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Bọn họ liền kiên định không đổi ủng hộ Lưu Yên. Dựa vào sự ủng hộ mạnh mẽ của “Đông Châu sĩ”, Lưu Yên đã thành công trong việc dẹp tan sự uy hiếp của sĩ tộc Xuyên Trung, trấn áp tàn khốc sự phản loạn của Nhâm Kỳ, Cổ Long. Lúc ấy gần như các đại gia tộc nổi danh, hùng mạnh bị tàn sát hoàn toàn.

Thế nhưng điều đáng tiếc là Lưu Yên cũng không phải là một người có tâm kế, không có năng lực của một người chủ có tài trí, mưu kế kiệt xuất. Năng lực của hắn rất bình thường. Sau khi tiêu trừ mối uy hiếp của sĩ tộc Xuyên Trung, hắn rất nhanh chóng lại mắc phải một sai lầm tương tự. Đó chính là để mặc cho những nhân vật tiêu biểu của “Đông Châu sĩ” như Đổng Phù, Triệu Vĩ phát triển thế lực.

Mặc dù Đổng Phù, Triệu Vĩ là “Đông Châu sĩ’ nhưng thực ra lại là người Xuyên điển hình. Hai người này đã lợi dụng thân thế người Xuyên của mình đã thành công trong việc thâu tóm các thế lực sĩ tộc Xuyên Trung còn sót lại. Cuối cùng đã hình thành một tập đoàn sĩ tộc Xuyên Trung hoàn toàn mới.

Nói một câu theo thuật ngữ hiện đại là: tất cả thành quả cách mạng của “Đông Châu sĩ” đã bị Đổng Phù, Triệu Vĩ, hai người của phái bảo thủ chiếm hết.

Thế nhưng cũng cần chỉ rõ ra rằng: Đổng Phù, Triệu Vĩ, đại diện cho giới sĩ tộc mới sinh ra ở Xuyên Trung rất khác biệt với sĩ tộc bản địa sinh trưởng ở Xuyên Trung.

Sau khi Lưu Chương kế vị Lưu Yên. Sĩ tộc Xuyên Trung hình thành ba phía rất rõ ràng. Quần thể sĩ tộc mới trỗi dậy ở Xuyên Trung, sĩ tộc Xuyên Trung bản địa và “Đông Châu sĩ’. Ba đại thế lực sĩ tộc này liên kết, trợ giúp lẫn nhau. Chúng cùng hình thành cộng đồng ngươi lừa ta gạt thống trị quan trường Xuyên Trung.

Dựa vào tình thế trước mắt mà nói, sĩ tộc Xuyên Trung mới trỗi dậy nắm quyền hành to lớn về chính quyền, quân sự.

Đổng Phù nắm giữ trọng binh. Gần như tất cả quan lại địa phương ở Tây Xuyên đều xuất phát là môn hạ của hai người Triệu Vĩ, Đổng Phù. Trong khi đó “Đông Châu sĩ” thì nắm giữ quân quyền. Ví dụ như Ngô Ý, cũng là người nắm quyền hành to lớn. Nếu so sánh thì giới sĩ tộc Xuyên Trung bản địa là thê thảm nhất. Với những nhân vật đứng đầu là Trương Tùng, Phí Thi, vương Luỹ, sĩ tộc bản địa Xuyên Trung chỉ đảm nhiệm một số chức quan nhàn tản không quan trọng. Với những người như Trương Nhiệm, Nghiêm Nhan, cũng không phải là những nhân vật trọng yếu nắm giữ quân đội, trong tay nhiều lắm cũng chỉ có hai, ba ngàn quân.

Thành Đô, đại sảnh của phủ Ích Châu mục.

Lưu Chương nhìn khắp văn quan, võ tướng trong đại sảnh, ánh mắt hắn vô cùng hoảng sợ lên tiếng hỏi: “Nay Mã đồ phu dẫn theo hai mươi vạn binh mã tiến hành xâm phạm đại quy mô. Bây giờ chúng ta phải làm gì?’

Đại tướng Ngô Ý bước ra khỏi hàng nói: “Chúa công không cần kinh hãi. Mã đồ phu dẫn theo hai mươi vạn đại quân xâm phạm thực ra cũng chẳng có điều gì lo lắng. Quân ta chỉ cần phái tinh binh trấn thủ chặt hai nơi hiểm yếu Gia Manh Quan, Kiếm Các. Lại cử Đại tướng đóng quân ở trung tâm Tử Đồng điều khiển tác chiến. Quân Lương Châu tấn công lâu ngày không thể công chiếm, lương thảo tiếp tế khó khăn, tất sẽ lui binh”.

Đổng Phù cũng nói: “Tử Viễn nói rất đúng. Trước đây hãn tướng dưới trướng Mã đồ phu, Thái Thú Hán Trung là Trương Tú đã mấy lần khởi binh tấn công Gia Manh Quan nhưng đều thất bại lui binh đó sao. Lần này Mã đồ phu dù có tập hợp hai mươi vạn đại quân thì cuối cùng cũng chỉ e không thể làm nên cơm cháo gì. Chúa công bất tất phải lo lắng”.

Lưu Chương dùng tay áo lau mồ hôi trán, hắn run run nói: “Nhưng ai là người có thể trấn thủ Gia Manh Quan, Kiếm Các?”

“Mạt tướng nguyện ý”.

“Mạt tướng nguyện ý”.

Lưu Chương vừa dứt lời, hãn tướng Xuyên Trung là Nghiêm Nhan, Trương Nhiệm trước sau bước ra khỏi hàng nói.

Lưu Chương nói: “Như vậy thì Trương Nhiệm hãy dẫn ba ngàn quân trấn thủ Gia Manh Quan. Nghiêm Nhan hãy dẫn ba ngàn quân trấn thủ Kiếm Các”.

Trương Nhiệm, Nghiêm Nhan đồng thanh nói: “Mạt tướng tuân lệnh”.

Lưu Chương lại nnhìn Ngô Y, Đồng Phù nói: “Tử Viễn ( tên chữ của Ngô Ý ) hãy thống lĩnh ban vạn đại quân trấn giữ Tử Đồng. Nguyên Trợ ( tên chữ của Đồng Phù ) hãy thống lĩnh mười vạn đại quân trấn giữ Lãng Trung. Phối hợp trợ giúp lẫn nhau”.

Đổng Phù, Ngô Ý ôm quyền nói: “Tuân lệnh”

Dinh thự của Trương Tùng.

Trưởng Sử Thục quận là Phí Thi và Vương Luỹ cùng nhau tới thăm.

Trương Tùng, Phí Thi, Vương Luỹ đều là người Xuyên Trung. Có thể nói ba người đều là những nhân tài kiệt xuất của giới sĩ tộc bản địa Xuyên Trung thế nhưng vì bị giới sĩ tộc Xuyên Trung mới trỗi dậy và “Đông Châu sĩ” chèn ép, bước tiến của sĩ tộc Xuyên Trung bản địa rất gi­an nan. Một người năng lực xuất chúng như Trương Tùng mới chỉ là một Tòng Sự, có thể nói là một chức quan rất hèn kém.

Trong sảnh, Trương Tùng, Phí Thi, Vương Luỹ cùng ngồi quan án.

Phí Thi nói: “Lần này Mã đồ phu tụ tập hai mươi vạn đại quân ở Hán Trung, có thể nói khí thế rất hung hăng. Đổng Phù, Ngô Ý thân nắm giữ binh quyền nhưng một người trốn tránh ở Lãng Trung, một người núp ở Tử Đồng. Trương Nhiệm, Nghiêm Nhan tuy là danh tướng Xuyên Trung nhưng trong tay chỉ có ba ngàn thủ hạ chỉ e rất khó có thể ngăn cản được sức mạnh của quân Lương”.

“Đúng vậy” Vương Luỹ cảm khái nói: “Bình thường chỉ thấy Ngô Ý, Đổng Phù tác oai tác quái, vênh vênh váo váo. Bây giờ đại quân Lương áp sát biên giới thì tất cả bọn chúng lại giống như con rùa rụt cổ. Chúng lại đẩy người Xuyên chúng ta đi ra tiền tuýên làm bia đỡ đạn. Quả thực chúng coi thường người Xuyên chúng ta quá đáng”.

“Hừ…” Trương Tùng hừ một tiếng ý bảo hai người không nên nói vội. Sau khi hắn đứng dậy đi ra ngoài cửa quan sát cẩn thận, phát hiện không có bất kỳ ai nghe lén, hắn mới quay lại chỗ ngồi, thì thào nói với Vương Luỹ và Phí Thi: “Chỉ e Mã đồ phu tụ tập hai mươi vạn đại quân ở Hán Trung là hư trương thanh thế. Nếu như tại hạn tính không sai. Quân Lương rất có thể dùng chiêu giương đông kích tây. Trước tiên chúng gióng trống khua chiêng ở Hán Trung lam ra vẻ chuẩn bị tấn công Gia Manh Quan, tới khi đại quân Tây Xuyên bị kéo tới Tử Đồng, Lãng Trung, chúng sẽ ngầm phái một toán quân tinh binh đi theo con đường nhỏ từ Âm Bình tiến thẳng tới Thành Đô”.

“Hả?”

“Gì?”

Phí Thi, Vương Luỹ kinh hãi khi nghe nói vậy, cả hai thất thanh nói: “Nếu quả như dự đoán của Vĩnh Niên. Đại quân Tây Xuyên ở xa mãi Tử Đồng, Lãng Trung trong lúc cấp bách nhất định sẽ không kịp quay lại phòng thủ. Quân Lương Châu sẽ nhân dịp đó đánh chiếm Thành Đô”.

“Không phải có thể mà là nhất định” Trương Tùng nói: “Từ Đạp Trung ra Âm Bình có một con đường nhỏ. Một đường từ Gi­ang Du tới Phù Thành, qua Miên Trúc, Duyên Đồ đều không có bất kỳ một nơi hiểm yếu nào để phòng thủ. Trong các thành trì dọc đường cũng không có trọng binh trấn giữ. Mã đồ phu chỉ cần phái ra ba ngàn tinh binh là có thể phá thành, nhổ trại, thẳng tiến tới Thành Đô”.

Phí Thi nói: “Như vậy chúng ta hãy mau chóng bẩm báo chúa công, sớm phái tinh binh trấn thủ con đường nhỏ Âm Bình”.

“Chậm đã” Trương Tùng khoát tay nói: “Tử Thư ( tên chữ của Phí Thi), không thể”.

“Cái gì?” Vương Luỹ thất thanh hỏi: “Ý của Vĩnh Niên muốn gì?”

Trương Tùng nói: “Ta có ý định mang Tây Xuyên hiến cho Thừa tướng. Chẳng hay ý nhị vị thế nào?’

“A” Phí Thi vội vàng la lên: “Vĩnh Niên nói vậy là sai rồi. Chính sách của Mã đồ phu thi hành ở Quan Trung có thể nói là đại nghịch bất đạo. Coi trọng thứ dân và thương nhân ti tiện, lại không tin dùng giới sĩ tộc chúng ta. Đi ngược lại với cổ huấn của thánh nhân, bỏ lễ, định chế. Mã đồ phu làm điều ngang ngược như vậy, bỏ quên nguồn gốc. Chúng ta há có thể tiếp tay cho hắn làm bậy sao?”

Trương Tùng cũng không phản bác lại, hắn chỉ lạnh lùng hỏi ngược lại một câu: “Vậy nhị vị còn muốn tiếp tục làm thủ hạ dưới trướng Đổng Phù, Triệu Vĩ, Ngô Ý, làm cái đuôi của người khác sao? Đến bao giờ chúng ta mới có thể đoạt lại lợi ích của sĩ tộc Xuyên Trung chúng ta? Đến lúc nào sĩ tộc Xuyên Trung chúng ta mới chân chính nắm giữ binh quyền. Đến lúc nào chúng ta mới chân chính nắm giữ vận mệnh của chúng ta?”

“Cái này…’.

Vương Luỹ, Phí Thi cứng họng.

Trương Tùng khẽ vỗ trác án, hắn trầm giọng nói: “Ta đã vẽ một bức địa đồ toàn bộ địa hình Tây Xuyên. Mấy ngày nữa ta sẽ mang theo bức địan đồ này tới Lạc Dương, yến kiến Thừa tướng phân tích rõ lợi hại. Nếu như Thừa tướng đồng ý duy trì lợi ích của giới sĩ tộc Xuyên Trung chúng ta, không áp đặt chính sách mới ở Quan Trung cho Tây Xuyên lúc đó Tùng mới dâng hiến địa đồ sau đó sẽ mang hết toàn lực giúp Thừa tướng vào Xuyên”.

Vương Luỹ nói: “Nếu như Mã đồ phu không nghe theo?”

Ánh mắt Trương Tùng lộ hàn quang, hắn trầm giọng nói: “Vậy chúng ta hãy mang kế giương đông kích tây của quân Lương Châu bẩm báo lên chúa công, đề nghị chúa công cử một toán tinh binh tới trấn thủ con đường nhỏ Âm Bình, đánh bại âm mưu của Mã đồ phu”.

“Được” Vương Luỹ trầm giọng nói: “Tính từ ngày Vĩnh Niên rời Xuyên, hãy lấy thời hạn ba tháng. Nếu trong ba tháng đó không có tin tức báo về, bọn ta sẽ lập tức báo lên chúa thượng để phái quân Ích Châu trấn giữ con đường nhỏ Âm Bình”.

“Ừ” Trương Tùng gật đầu nói: “Sau khi ta rời khỏi Tây Xuyên, Tử Thư, Tử Phục ( tên chữ của Vương Luỹ ) hãy âm thầm liên kết với Vương Bình, Trương Nhiệm, Nghiêm Nhan mấy người đó, sớm chuẩn bị sẵn sàng để nghênh đón quân Lương Châu vào Xuyên”.

Vương Luỹ nói: “Vĩnh Niên cứ yên tâm. Tử Quân ( tên chữ của Vương Bình ) chính là tộc đệ của tại hạ. Nhị vị tướng quân Trương Nhiệm, Nghiêm Nhan cũng là thuộc hạ cũ của Nhâm công, Cổ công đề bạt. Chúng ta chỉ cần nói với bọn họ là để duy trì lợi ích của sĩ tộc Xuyên Trung, là vì muốn báo thù cho Nhâm công, Cổ công, bọn họ nhất định sẽ theo chúng ta”.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 330: Trương Tùng hiến Tây Xuyên (2)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

“Như vậy tốt quá” Trương Tùng nói: “Việc này không nên chậm trễ. Ngay ngày mai ta sẽ khởi hành đi Lạc Dương”.

Phí Thi, Vương Luỹ ôm quyền nói: “Vĩnh Niên huynh bảo trọng”.

Lưu Biểu thiết yến khoản đãi sĩ tộc Kinh Tương, Tào Tháo là khách quý nên đương nhiên cũng tham dự.

Rượu quá ba tuần, Lưu Biểu đột nhiên đứng dậy quát to: “Ta có một câu, chư vị hãy lắng nghe”.

Âm thanh trong đại sảnh dần dần trở nên nhỏ xuóng, ánh mắt của mọi người đều nhìn vào người Lưu Biểu.

Lưu Biểu liếc nhìn một vòng quanh đại sảnh, hắn cất cao giọng nói: “Cô nay tuổi già sức yếu, dù vẫn còn lòng duy trì chính sự nhưng là lực bất tòng tâm. Hai con trai tuổi còn nhỏ, tài trí đần độn, không đủ lực gánh vác trách nhiệm trấn giữ Kinh Tương. Nay Cô có ý nhường Kinh Châu cho Tào công, khẩn cầu Tào công trấn giữ Kinh Châu. Chẳng hay ý của chư vị thế nào?”

Lập tức trong đại sảnh trở nên vô cùng tĩnh mịch.

Ngoại trừ Hàn Huyền và một số ít người biết ý định thực sự của Lưu Biểu, còn gần như tất cả sĩ tộc Kinh Tương đều cảm thấy vô cùng bất ngờ.

Mặc dù bọn họ cũng có ý nghênh đón Tào Tháo vào làm chủ kinh Châu thế nhưng tất thảy mới chỉ ở giải đoạn chuẩn bị, căn bản vẫn chưa bước tới gi­ai đoạn tiến hành thực sự. Mấy đại sĩ tộc Sái, Hoàng, Vương, Hàn thậm chí còn chưa chính thức thông qua sự việc này. Bọn họ thực sự không thể ngờ hôm nay Lưu Biểu lại nói ra những lời này trên bàn yến tiệc.

Trong lúc cấp bách không ai dám nghĩ xem lời nói này của Lưu Biểu là thật lòng hay chỉ là dò xét. Đám sĩ tộc Kinh Tương trong đại sảnh chỉ biết đưa mắt nhìn nhau, không ai dám tuỳ tiện bày tỏ thái độ.

Trong bầu không khí làm kẻ khác nghẹt thở, đột nhiên Tào Tháo đứng dậy, hắn nhìn Lưu Biểu vái chào một cái thật dài và nói với giọng vô cùng thành khẩn: “Tháo lâm vào thế cùng, may được Lưu Kinh Châu không chê mới được làm huyện lệnh Tân Dã. Tháo thực tâm rất cảm kích, thực không dám có vọng tưởng như vậy”.

Lưu Biểu nói: “Năng lực của Tào công hơn Biểu này gấp bội. Không cần từ chối”.

Tào Tháo vội la lên: “Nếu Lưu Kinh Châu vẫn khư khư cố chấp thì Tháo chỉ còn cách cao bay chạy xa mà thôi”.

“Tào công sợ rằng bản thân Cô cố ý dò xét sao?” Lưu Biểu đột nhiên mỉm cười, bất chợt hắn quát to: “Người đâu?”

Ngay lập tức có một viên tiểu lại tay nâng ấn tín, tiết việt từ sau bức bình phong đi ra. Lưu Biểu cầm lấy ấn tín, tiết việt trịnh trọng đặt trên án. Hắn một lần nữa nhìn Tào Tháo nói: “Ấn tín và tiết việt đều ở đây. Xin mời Tào công”.

“Chúa công không thể” Lưu Biểu vừa dứt lời, bất chợt có một viên tiểu lại tiến lên hai bước, quỳ trước đại sảnh, hắn dập đầu khóc không thành tiếng nói: “Kinh Châu là cơ nghiệp của chúa công một tay lập nên. Há có thể dễ dàng trao vào tay người sao? Nếu chúa công vẫn khăng khăng không bỏ ý định, hạ quan nguyện lấy cái chết ngay dưới thềm này để thể hiện lòng mình”.

“Cần gì ngươi phải chết dưới thềm này?” Sắc mặt Lưu Biểu vô cùng lạnh lùng, hắn quát to: “Thân vệ đâu? Hãy mau chóng mang kẻ không biết thức thời vụ này ra ngoài…chém đầu răn chúng”.

“Tuân lệnh!”.

Ngay lập tức có hai tên giáp sĩ như lang như hổ bước nhanh vào trong đại sảnh, bắt viên tiểu lại đi ra ngoài. Viên tiểu lại cố sức giãy giụa, Hắnn ngửa mặt lên trời gào to: “Chúa công, hạ quan chết không nhắm mắt. Chết không nhắm mắt’.

Chỉ trong chốc lát, giáp sĩ đã mang đầu lâu của viên tiểu lại máu vẫn chảy đầm đìa vào trong đại sảnh.

Sĩ tộc Kinh Tương trong đại sảnh thực sự không ngờ Lưu Biểu lại thực sự giết viên tiểu lại đó. Tất cả biến sắc nhìn nhau, trong lúc này không ai dám bước ra khuyên can Lưu Biểu chuyện nhường Kinh Châu cho Tào Tháo nữa. Trong mắt Tào Tháo không khỏi xuất hiện một tia nghiêm túc. Nếu không phải Bàng Thống đã chỉ điểm trước cho hắn thì hắn cơ hồ đã bị Lưu Biểu này lừa gạt vào chỗ chết rồi.

Lưu Biểu đằng đằng sát khí nhìn mọi người trong đại sảnh quát: “Ai dám khuyên Cô nữa thì hãy nhìn gương tên tiểu lại đó”.

Sái Mạo hít một hơi thật sâu, hắn đột nhiên bước ra khỏi hàng, hướng Tào Tháo vái chào rồi cao giọng nói: “Cung thỉnh Tào công lưu thủ Kinh Châu”.

Hoàng Thừa Ngạn, Vương Sán, Hàn Huyền mấy người cũng rối rít bước ra khỏi hàng, cùng kêu lên phụ hoạ: “Cung thỉnh Tào công lưu thủ Kinh Châu”.

Một khi tứ đại sĩ tộc đã biểu thị thái độ. Sĩ tộc Kinh Tương còn lại cũng tranh nhau noi theo, tất cả rối rít bước ra khỏi hàng cùng xin Tào Tháo tiếp quả Kinh Châu. Ánh mắt Lưu Biểu lạnh lùng bàng quan, sắc mặt bình thản lạnh lùng. Hắn thầm nghĩ rốt cuộc bọn này đã nói ra suy nghĩ thực sự của mình. Một khi các ngươi đã bất nhân vậy thì đừng trách Cô bất nghĩa.

Bất chợt trong lúc đó Lưu Biểu nhếch miệng cười đầy sát khí, đanh ác.

“Leng keng” Đột nhiên trong đại sảnh vang lên âm thanh của kim loại va chạm vào nhau.

Mọi người nghe thấy âm thanh đó vội vàng quay đầu nhìn. Công tử Lưu Kỳ từ sau bình phong bước ra. Lưu Kỳ cầm song kiếm trong tay, sắc mặt đầy sát khí. Lưu Kỳ liếc nhìn sĩ tộc Kinh Tương trong đại sảnh, hắn quát to: “Uổng công phụ thân ta xưa nay hậu đãi các ngươi. Không ngờ các ngươi lại là lũ tiểu nhân bội tín như thế. Các ngươi muốn đón Tào Tháo mà phản bội phụ thân ta. Ta không thể nhẫn nhịn được nữa. Người đâu?”

“Ô”.

Lưu Kỳ vừa quát lên thì trong đột nhiên trong đại sảnh vang lên một tiếng hét như sấm gần như chấn vỡ màng tai của mọi người.

Mọi người vội vã quay đầu nhìn thì thấy một đám dã nhân toàn thân mặc da thú đang chen chúc nha tiến vào đại sảnh. Tên dã nhân đi đầu vóc người cao lớn, khoảng hơn một trượng. Mắt to như chuông đồng, da như than lửa. Trong tay hắn cầm một cái vồ sắt vừa to vừa nặng. Trên cổ hắn đeo một dây xích làm bằng đầu lâu người.

Dã nhân này không ai khác mà chính là con trai của lão Phiên vương Võ Lăng Sa Đà, tân Phiên Vương Sa Ma Kha.

Nhìn thấy tướng mạo Sa Ma Kha như hung thần ác sát đến ngay một người có kiến thức rộng lớn như Tào Tháo cũng không khỏi hít một hơi thật sâu.

Lưu Kỳ vung tay lên quát to: “Trói lại tất cả cho bản công tử”.

“Ô”.

Sa Ma Kha ầm ầm trả lời, hắn vung tay lên. Mười mấy tên dã nhân sau lưng hắn ùa lên xô ngã sĩ tộc Kinh Tương trong đại sảnh.

Tuy Sái Mạo là anh vợ Lưu Biểu nhưng hắn cũng không ngoại lệ. Sái Mạo tức giận nhìn Lưu Kỳ quát to: “Lưu Kỳ, ngươi điên hả? Dám vô lễ như vậy ư?”

“Điên ư?” Lưu Kỳ lãnh đạm nói: “Bản công tử không điên mà là các ngươi điên rồi”.

“Ngươi!” Sái Mạo nổi giận, hắn nhìn Lưu Biểu nói: “Chúa công, đã xảy ra chuyện gì? Tại sao không ngăn công tử lại?”

“Không cần” Trên gương mặt Lưu Biểu đột nhiên hiện lên sát khí, sự hung ác. Hắn lãnh đạm nói: “Ý của công tử cũng là ý của Cô”.

“Hả? Là ý của chúa công sao?” Sái Mạo, Hoàng Thừa Ngạn, Vương Sán giật mình kinh hãi, thất thanh nói: “Mới vừa rồi chúa công còn muốn nhượng lại Kinh Châu”.

“Ai” Tào Tháo vẫn một mực ngồi yên từ nãy giờ đột nhiên thở dài một tiếng. Hắn nhìn Sái Mạo, Hoàng Thừa Ngạn mấy người nói: “Chẳng lẽ chư vị vẫn chưa nhìn ra sao? Hôm nay Lưu Kinh Châu bày ra tiệc này chính là bố trí Hồng Môn yến. Lưu Kinh Châu là muốn diệt trừ chư vị và Cô đây, chấm dứt hậu hoạn. Cô đã làm liên luỵ tới chư vị rồi”.

“Hả?” Sái Mạo, Hoàng Thừa Ngạn, Vương Sán vội hỏi Lưu Biểu: “Chúa công, vì sao lại vậy?”

Lưu Biểu lãnh đạm nói: “Các ngươi có ý muốn vứt bỏ Cô, vì sao Cô không thể giết các ngươi?’

“Lưu Biểu người điên rồi” Sái Mạo giận dữ quát to. “Năm đó nếu không phải là ta thì một thư sinh như ngươi sao có thể trở thành chủ Kinh Châu? Ta lại còn chịu thiệt gả muội muội cho ngươi. Ta không ngờ ngay hôm nay ngươi lại lấy oán báo ân. Ta thật sự có mắt như mù lại đi thờ phụng một lẻ tiểu nhân vong ân bội nghĩa như ngươi”.

Binh!

Sái Mạo vừa dứt lời, lưu Kỳ đã vung tay tát một cái rất mạnh vào mặt Sái Mạo. Lưu Kỳ chỉ vào mặt Sái Mạo mắng: “Người vong ân phụ nghĩa chính là ngươi”.

“Lưu Biểu, thất phu!” Thái Thú Gi­ang Hạ là Hoàng Tổ cố sức vùng vẫy hai cái nhưng vẫn không thoát ra được, hắn tức giận mắng: “Hôm nay dù ngươi có thể giết chết Lão Tử ta, Lưu thị của ngươi cũng không có một kết cục tốt đẹp. Con trai Hoàng Xa của Lão Tử sẽ thống lĩnh đại quân Gi­ang Hạ tiến tới Tương Dương báo thù cho Lão Tử. Ha ha ha”.

“Cô ở Tương Dương chờ con ngươi tới báo thù” Lưu Biểu cười âm hiểm rồi hứn quát lên: “Mang tất cả ra ngoài bêu đầu”.

Trương Tùng nhìn Mã Dược vái chào rồi hắn cung kính nói: “Tại hạ Trương Tùng, Tòng Sự Ích Châu tham kiến Thừa tướng”.

“Ích Châu Trương Tùng?”

Sắc mặt Giả Hủ khẽ biến, hắn vội vàng tiến tới thì thào vào tai Mã Dược mấy câu.

Mã Dược lập tức tiến tới đỡ Trương Tùng đứng dậy. Hắn vui mừng nói: “Tiên sinh hãy mau đứng dậy”.

“Tạ ơn Thừa tướng”.

Trương Tùng không khỏi đắc ý khi hắn thấy Mã Dược dùng hậu lễ đối đãi. Hắn bái lạy một lần nữa rồi cùng Mã Dược ngồi quanh án.

Mã Dược hỏi: “Tiên sinh không quản ngại đường xa ngàn dặm từ Tây Xuyên tới Lạc Dương là có chỉ giáo gì?”

Trương Tùng đưa tay vuốt chòm râu ngắn rồi hắn ra vẻ giận dữ nói: “Thừa tướng cho là Xuyên Trung không có người có thể đoán ra kế giương đông kích tây của Thừa tướng sao?’

Mã Dược giả bộ không hiểu hỏi: “Hà cớ gì tiên sinh lại nói những lời ấy?”

Trương Tùng nói: “Thừa tướng muốn dùng kế nghi binh lôi kéo đại quân Tây Xuyên ra đường Tử Đồng, Lãng Trung. Thừa tướng lại âm thầm phía một toán tinh binh lẻn theo con đường nhỏ Âm Bình thừa dịp tiến đánh Thành Đô, có phải vậy không?”

Mã Dược kinh hãi, biến sắc hỏi: “Tại sao tiên sinh lại biết được?”

Trương Tùng hỏi: “Tùng chỉ muốn hỏi Thừa tướng xem có phải thế không?’

Mã Dược nói: “Đúng như vậy”.

Trương Tùng nói: “Chẳng lẽ Thừa tướng không sợ Lưu Ích Châu sẽ phái một toán tinh binh trấn giữ con đường nhỏ Âm Bình sao? Một khi đã như vậy quân tinh binh của Thừa tướng sẽ lâm vào tuyệt cảnh tiến không được mà thoái cũng không xong, chết không có chỗ chôn”.

“Cô khinh thường người Xuyên quá” Mã Dược toát mồ hôi lạnh, hắn nhìn Giả Hủ nói: “Văn Hoà, hãy cấp tốc báo tin cho Cam Ninh tướng quân ở Trường An quay về Lạc Dương. Việc kỳ tập Tây Xuyên hãy hoãn lại”.

“Thừa tướng không cần nóng vội như thế” Trong lòng Trương Tùng vô cùng khoái trá khi hắn thấy Mã Dược khẩn trương như vậy. Hắn khoát tay ngăn cản nói: “Mặc dù Xuyên Trung không thiếu danh sĩ nhưng người có thể phá giải kế giương đông kích tây của Thừa tướng cũng chỉ có mấy người nhìn thấu nhưng cũng chưa chắc đã vì Lưu Chương mà hiến kế’.

“Hả?” Mã Dược nói: “Xin rửa tai lắng nghe”.

Trương Tùng nói: “Lưu Chương là kẻ hèn yếu, nhu nhược. Bàng Hi, Triệu Vĩ thâu tóm quyền hành, làm điều sai trái. Sĩ tộc Xuyên Trung oán thán dậy đất, dân chúng lầm than không thể tả, chỉ hy vọng Thừa tướng vào làm chủ Tây Xuyên. Ôi…”.

Mã Dược nói: “Cô cũng có ý tạo phúc cho Tây Xuyên nhưng đường trong Thục gi­an khó”

Trương Tùng lấy từ trong ống tay áo ra một cuốn sách lụa, hắn nhìn Mã Dược nói: “Tại hạ thường đi khắp đó đây Tây Xuyên, tự tay vẽ một bản đồ địa hình Tây Xuyên. Nay Tùng có ý muốn hiến Thừa tướng, trợ giúp Thừa tướng vào Xuyên. Thế nhưng…”.

Bàn tay Mã Dược đã đưa ra một nửa vội rụt lại, hắn khoát tay nói: “Tiên sinh cứ nói. Đừng ngại”.

Trương Tùng nghiêm nghị nói: “Tại hạ muốn Thừa tướng phải lập lời thể. Sau khi Thừa tướng vào Xuyên phải coi trọng lợi ích của người Xuyên. Tuyệt đối không được áp dụng chính sách mới ở Quan Trung đối với sĩ tộc, dân chúng Tây Xuyên. Chẳng hay như vậy có được không?’

Mã Dược nghe vậy chần chừ nói: “Cái…”.

Trương Tùng thấy Mã Dược do dự không quyết thì hắn nói tiếp: “Nếu Thừa tướng nguyện lập lời thể, tại hạ có thể thuyết phục danh tướng Xuyên Trung là Trương Nhiệm, Nghiêm Nhan quay giáo về với Thừa tướng, dâng tặng Gia Manh Quan, Kiếm Các, cung nghênh đại quân của Thừa tướng vào Xuyên”.

“Hả?’

Nghe vậy tim Mã Dược đập thình thịch.

Kể từ sau khi thu phục Hán Trung, quân mật thám Lương Châu đã thu thập được rất nhiều thông tin về Tây Xuyên. Rất nhiều lần Mã Dược đã được nghe nói tới đại danh của danh tướng Xuyên Trung là Trương Nhiệm, Nghiêm Nhan. Thái Thú Hán Trung là Trương Tú cũng đã mấy lần khởi binh tấn công Gia Manh Quan, hắn muốn giải trừ chướng ngại ngăn cản đại quân của Mã Dược vào Xuyên trong tương lại nhưng cuối cùng vẫn thất bại trong tay Trương Nhiệm.

Trương Nhiệm có thể làm Trương Tú mấy lần thất bại là đủ thấy hắn rất có tài năng.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 331: Chúa công, Kinh Châu xảy ra đại sự rồi (1)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Trương Tùng cảm thấy Mã Dược đã bắt đầu lay động, lại nói tiếp “Thừa tướng, Trương Nhiệm, Nghiêm Nhan mặc dù chỉ là hai viên Thiên tướng, thủ hạ dưới trướng chỉ có ba ngàn binh lính nhưng bọn họ rất có uy danh trong lòng ba quân tướng sĩ Tây Xuyên. Chỉ cần có thể giết chết Đổng Phù và Ngô Ý đang trấn giữ Tử Đồng và Lãng Trung là mười ba vạn đại quân có thể ra sức vì chúa công”.

“Hả, mười ba vạn quân Xuyên ư?”

Mã Dược không nhịn được hắn quay người nhìn Giả Hủ một cái. Không hề nghi ngờ gì nữa đây là một trong những cám dỗ lớn nhất đối với Mã Dược.

Nếu như hắn có thể sử dụng mười ba vạn đại quân Xuyên, với sự trợ giúp của Cẩm Phàm Tặc của Cam Ninh. Bất kỳ lúc nào Mã Dược cũng có thể cho mười ba vạn đại quân Xuyên đó rời Tây Xuyên xuôi dòng Trường Gi­ang, theo đường thuỷ tiến thẳng tới Kinh Tương. Một khi như vậy thì cho dù Tào Tháo có thể thay thế Lưu Biểu quản lý tám quận Kinh Châu cũng tuyệt đối sẽ rơi vào tình cảnh rất xấu.

Giả Hủ trầm tư chốc lát rồi hắn nhìn Mã Dược gật đầu.

Mã Dược vỗ án đứng dậy, hắn nhìn Trương Tùng nói: “Cô đồng ý với tiên sinh. Sau khi Cô vào Xuyên sẽ lấy lợi ích của sĩ tộc Xuyên Trung làm trọng, tuyệt đối Cô sẽ không áp dụng chính sách ở Quan Trung đối với dân chúng Tây Xuyên”.

Trương Tùng vui mừng nói: “Thừa tướng anh minh”.

“Thế nhưng…” Mã Dược lại nói tiếp: “Lần này Cô tự mình dẫn theo mười vạn đại quân vào Xuyên. Tiên sinh hãy làm quân sư tế tửu, ở lại trong trướng của Cô tham mưu việc quân đi”.

Trương Tùng cung kính bái lạy, hắn cao giọng nói: “Nguyện ra sức khuyển mã”.

Mã Dược ngẩng đầu nói: “Dị Độ đâu?”

Khoái Việt từ bên ngoài phòng bước vào, hắnn nhìn Mã Dược nói: “Thừa tướng có gì phân phó?”

Mã Dược chỉ vào Trương Tùng nói: “Trước tiên hãy dẫn Vĩnh Niên đi nghỉ ngơi một lát, đợi sau khi Cô sắp đặt tiệc rượu trong tướng phủ sẽ tẩy trần cho Vĩnh Niên, ha ha ha”.

“Tuân lệnh”.

Khoái Việt chắp tay thi lễ rồi dẫn Trương Tùng ra ngoài.

Đưa mắt nhìn theo bóng Trương Tùng và Khoái Việt đi xa, nụ cười trên gương mặt Mã Dược dần trở nên lạnh lùng, hắn bước lại án, mở tấm bản đồ địa hình Tây Xuyên do Trương Tùng hiến, cẩn thận quan sát hồi lâu sau đó hắn hỏi Giả Hủ: “Văn Hoà. Theo ý của ngươi thì lời nói của trương Tùng có mấy phần có thể tin được? Giới sĩ tộc Tây Xuyên thật tâm quy hàng hay đây chỉ là một cái bẫy được thiết kế cẩn thận?”

Giả Hủ nói: “Theo như Hủ biết, đại khái sĩ tộc Tây Xuyên chia làm ba phái rõ rệt. Trong đó phái sĩ tộc mới ndo Triệu Vĩ và Đổng Phù cầm đầu nắm quyền hành tuyệt đối về quân sự và chính quyền. Mặt khác Ngô Y và lưu Chương có quan hệ mật thiết vì vậy giới Đông Châu sĩ cũng có quyền hành tương ứng như vậy. Giới sĩ tộc Tây Xuyên bản địa do Trương Tùng cầm đầu bị tập đoàn sĩ tộc của Triệu Vĩ, Đổng Phù và Đông Châu sĩ bài trừ, không được Lưu Chương trọng dụng nên thầm hận trong lòng. Đây cũng là chuyện hợp lý”.

Mã Dược nói: “Nói như vậy thì việc Trương Tùng hiến Tây Xuyên có thể tin được sao?”

Giả Hủ nói: “Tuy có thể tin nhưng không thể hoàn toàn tin tưởng. Chúng ta nên chú ý phòng bị lòng người. Nếu chúa công muốn tự mình dẫn đại quân vào Xuyên thì nhất định phải chuẩn bị chu đáo, đề phòng bất trắc”.

Giả Hủ chỉ vào vị trí Tử Đồng và Lãng Trung trên bản đồ Tây Xuyên nhìn Mã Dược nói: “Chúa công hãy nhìn. Nơi này là Lãng Trung, có mười vạn đại quân Xuyên của Đổng Phù trú đóng. Nơi này là Tử Đồng, có ba vạn đại quân Xuyên của Ngô Ý trú đóng. Kiếm Các và Gia Manh Quan hai bên này có ba ngàn tinh binh quân Xuyên do hai mãnh tướng Nghiêm Nhan và Trương Nhiệm chỉ huy”.

“Nếu như Trương Tùng nói thật thì đoạn đường sạn đạo hiểm trở từ Gia Manh Quan tới Kiếm Các không có trọng binh trấn giữ. Nếu như đây là một cái bẫy thì nhất định quân Xuyên sẽ lựa chọn ngay khi quân ta vừa tiến tới Gia Manh Quan và Kiếm Các sẽ tiến hành tập kích bất ngờ. Khi đó quân ta trước sau đều có hùng quan ngăn cản. Tiến thoái lưỡng nan, nhất định sẽ bại”.

Giả Hủ nói xong ngừng lại một lát rồi lại nói tiếp: “Sở dĩ Tây Xuyên thủ dễ khó công là vì bốn phía xung quanh đều là núi. Đường trong Thục khó đi. Nếu như đại quân của chúa công có thể thuận lợi đánh thông các nơi hiểm yếu Gia Manh Quan và Kiếm Các, xuất hiện trên bình nguyên Tây Xuyên thì chỉ cần hai vạn tinh binh cũng dủ đánh dọc ngang Tây Xuyên, cần gì phải sợ hãi Trương Tùng bầy ra âm mưu quỷ kế này?”

“Có đạo lý” Mã Dược nói: “Nếu như sĩ tộc Tây Xuyên muốn lập kế với Cô thì nhất định chúng sẽ lập bẫy trên đoạn đường đó thôi”.

“Vì vậy kỳ thật cũng không khó để phán đoán việc Trương Tùng hàng thật hay hàng giả” Giả Hủ nói: “Sau khi Trương Nhiệm dâng Gia Manh Quan, chúa công hãy phái một viên Đại tướng chỉ huy quân bộ binh đi trước tới Kiếm Các, đợi sau khi lấy được Kiếm Các, chúa công hãy dẫn đại quân xuôi nam. Nếu như Trương Tùng thật sự đầu hàng thì sẽ không có gì dị nghị. Nếu như hắn ta trá hàng đương nhiên sẽ nghĩ cách ngăn cản chúa công chia binh lực”.

“Ừ” Mã Dược nói: “Vậy còn quân kỳ tập của Cam Ninh? Có cần phải tiếp tục đi theo con đường nhỏ từ Âm Bình kỳ tập Thành Đô không?”

“Vẫn đáng thử một lần. Hơn nữa còn đi sớm hơn, không nên trì hoãn” Giả Hủ nói: “Cục diện tốt nhất là khi chúa công ở Lãng Trung và Tử Đồng giải quyết Đổng Phù, Ngô Ý và mười ba vạn đại quân thì Cam Ninh tướng quân cũng kỳ tập Thành Đô thành công. Một khi như vậy có thể ổn định cục diện chính trị Tây Xuyên một cách vững vàng, không xuất hiện cục diện bất ổn, tránh kẻ thù bên ngoài thừa dịp”.

Giả Hủ nói tiếp: “Tốt nhất hãy cho quân kỳ tập của Cam Ninh tướng quân lên đường trước nửa tháng, đợi khi một vạn tinh binh của Cam Ninh tướng quân rời khỏi con đường nhỏ Âm Bình, chúa công hãy tự mình dẫn đại quân xuôi nam. Nếu như một vạn tinh binh của Cam Ninh tướng quân bị ngăn cản trong con đường nhỏ Âm Bình, chúa công cũng sẽ sớm biết đây là một cái bẫy”.

“Diệu kế” Mã Dược kích động nói: “Nếu như sĩ tộc Tây Xuyên nhằm vào mục tiêu là Cô thì bọn chúng sẽ lựa chọn buông tha cho một vạn quân kỳ tập của Cam Ninh. Hừ hừ, tới khi đó sĩ tộc Xuyên Trung sẽ biết sự lợi hại của một vạn quân Cam Ninh. Thế nhưng Cô hy vọng Trương Tùng thật lòng, không phải làtrá hàng”.

…………………………………………� � �………

Lưu Biểu chỉ tay vào đám sĩ tộc Kinh Tương đang bị đè dưới đất, nhe răng cười lạnh nói: “Hãy mang tất cả ra ngoài bêu đầu”.

‘Ai dám làm hại tính mạng chủ ta”.

Lưu Biểu vừa nói dứt lời thì đột nhiên vang lên một tiếng hét như sấm nổ. Một đội giáp sĩ từ bên ngoài chen chúc nhau đi vào, đao kiếm tuốt trần, đứng đối mặt với Phiên Vương Sa Ma Kha và hơn mười dã nhân Phiên binh. Đứng đầu là một viên Đại tướng tay cầm trường thương, uy phong lẫm liệt. Người đó chính là Nhạn Môn Trương Liêu.

“Trương Liêu” Lưu Kỳ biến sắc nói: “Sao ngươi có thể vào trong này?”

“Hừ” Trương Liêu hừ một tiếng rồi quát to: “Chỉ dựa vào những dã nhân Phiên binh bên ngoài mà cũng xứng cản đường mỗ hay sao?”

“Sa Ma Kha!” Lưu Kỳ nhìn Phiên Vương Sa Ma Kha quát to: “Giết hắn. Mau giết bọn chúng”.

“Ngao”

Phiên Vương Sa Ma Kha ngửa mặt lên trời gào lên một tiếng. Đột nhiên trong lúc đó chiếc vồ sắt giơ lên không trung sau đó làm thành một đường cong quỷ dị, ngăm đen nhắm đầu Trương Liêu hung hăng bổ xuông.

“Ánh sáng đom đóm và cũng xứng tranh sáng với ánh trăng rằm sao?”

Trương Liêu quát to một tiếng, hắn ra thương nhanh như chớp giật, vừa chính xác vừa hung tợn đánh trúng chiếc vồ của Sa Ma Kha trên không trung. Một tiếng “cạch” dữ dội vang lên, chiếc vồ sắt của Sa Ma Kha bị đánh bắn ngược trở lại. Sa Ma Kha không đứng vững, lảo đảo bị đẩy ngược lại sau mấy bước liền.

Sa Ma Kha biến sắc. Từ trước tới nay Sa Ma Kha vẫn tự phụ là một Phiên Vương dũng lực, sức địch muôn người nhưng không ngờ hôm nay sức lực vủa Trương Liêu lại hơn xa hắn.

Trương Liêu đánh một thương đẩy lùi Sa Ma Kha. Hắn ngửa mặt lên trời khẽ hét to một tiếng, thân hình hắn lập tức bay bổng lên không trung. Cây thiết thương nặng nề trong tay hắn giống như cầu vồng đâm như chớp vào cổ họng Sa Ma Kha. Sa Ma Kha chật vật giơ vồ sắt lên đón đỡ. Hắn chưa kịp ngăn chặn thì thấy cổ họng mát lạnh, hắn kinh hãi cúi đầu nhìn thì thấy cây thiết thương sắc bén đã đâm xuyên qua cổ họng mình.

“Phốc!”.

Trương Liêu thu thương lại. Máu tươi từ cổ họng Sa Ma Kha phun ra như suối. Đôi mắt to như chuông đồng của Phiên Vương lập tức trở nên ảm đạm, thần thái mất hết.

“Hô!”.

Trương thương của Trương Liêu lại rung lên, mũi thương nhỏ máu chỉ về phía Lưu Kỳ ở phía xa.

Lúc này Lưu Kỳ giống như người chết, hắn gào lên một tiếng hoảng sợ rồi chạy vào trốn ở sau bình phong. Trương Liêu sát khi đằng đằng, hắn ném trường thương trong tay về phía trước. Lưu Kỳ vẫn chưa kịp chạy tới sau bức bình phong đã bị trường thương đâm xuyên qua thân thể, trương thương mang theo thân thể Lưu Kỳ bay nhanh về phía trước, cuối cùng dính chặt vào cây cột trụ hai người ôm ở trong đại sảnh.

Cảnh chém giết kịch liệt diễn ra chỉ vẻn vẹn chưa hết một tuần nhang. Phiên Vương Sa Ma Kha và mười mấy tên dã nhân Phiên binh đều bị giết. Trương Liêu và hơn mười tinh binh đã hoàn toàn khống chế cục diện trong đại sảnh. Lúc này đám sĩ tộc Kinh Tương kinh hồn bạt vía vừa mới du hành một chuyến tới cửa Quỷ Mon Quan đã định hình lại. Cả bọn quay đầu nhìn chằm chằm vào Lưu Biểu với ánh mặt độc ác.

Lưu Biểu toát mồ hôi lạnh, hắn lùi lại từng bước một, cuối cùng vấp ngã xuống bậc thềm.

“Người. Người đâu, mau tới đây”.

Bầu không khí trong đại sảnh cực kỳ ngột ngạt. Khắp đại sảnh chỉ vang lên tiếng quát gọi đến khản cả giọng của Lưu Biểu, vừa yếu ớt vừa mệt mỏi. Lúc này Lưu Biểu giống như con sơn dương đợi làm thịt đang gắng gượng kêu lên những tiếng cuối cùng.

“Không cần hô nữa” Trương Liêu lãnh đạm nói: “Võ Lăng Phiên Vương Sa Ma Kha và hai ngàn Phiên binh đã hoàn toàn bị giết. Cho dù người có hô tới thủng cổ họng cũng không có ai tới cứu ngươi”.

“Hả?” Sắc mặt Lưu Biểu trở nên trắng bệch. Hắn vẫn cố giãy dụa nói: “Lưu Bàn, Cô vẫn còn Lưu Bàn và năm ngàn tinh binh. Không bao lâu nữa Lưu Ban và năm ngàn tinh binh sẽ đánh vào thành Tương Dương. Cô đã sắp xếp chu đáo mọi việc. Coi như các ngươi có giết Cô thì Lưu Bàn cũng không tha cho các ngươi”.

“Lưu Bàn ở đây”.

Lưu Biểu vừa nói dứt lời thì đột nhiên bên ngoài bang lên một tiếng quát như sấm.

Ngay trong lúc đó đột nhiên có một vật lạ từ bên ngoài bị ném mạnh vào trong đại sảnh. Sau khi rơi xuống đất, vật đó lăn lông lốc tới trước mặt Lưu Biểu. Lưu Biểu vội vàng nhìn kỹ. Đó là một cái đầu lâu, măt mày quen thuộc, sắc mặt đanh ác, đó chính là đầu lâu của Lưu Bàn. Lưu Biểu giật mình kinh hãi, chuyện tới nước này thì không xong rồi.

Tiếng bước chân dồn dập vang lên. Sái Trung, Sái Hoà toàn thân khôi giáp từ bên ngoài bước nhanh vào trong đại sảnh. Theo sau Sái Trung, Sái Hoà là một lượng lớn giáp sĩ. Cả hai tìm thấy Sái Mạo trong đám người rồi quát to: “Đại ca, nếu lần này không có Tào công trợ giúp thì chỉ e ba huynh đệ chúng ta cùng vơi người nhà mấy trăm mạng sẽ bị lão tặc Lưu Biểu này làm hại”.

“Lão tặc Lưu Biểu” Ánh mắt Sái Mạo hiện lên vẻ đanh ác. Hắn tiến lên một bước dẫm lên đầu Lưu Biểu, cười nhạt nói: “Ngươi còn gì để nói không?”

Sắc mặt Lưu Biểu xám như tro tàn. Hắn im lặng không nói.

“A”.

Sái Mạo quát to một tiếng, hắn rút kiếm chém đầu Lưu Biểu, ném xuống đất sau đó hắn quỳ một gối dạp xuống đất hướng Tào Tháo nói: “Sái Mạo cung thỉnh Tào công lưu thủ Kinh Châu”.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 331: Chúa công, Kinh Châu xảy ra đại sự rồi (2)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Hoàng Thừa Ngạn, Hoàng Tổ, Vương Uy, Vương Sán, Hàn Huyền cũng sĩ tộc Kinh Tương cũng rối rít quỳ rạp xuống đất, cùng kêu lên: “Cung thỉnh Tào công lưu thủ Kinh Châu”.

Tiếng bước chân nặng nề vang lên, Trương Nhiệm trong trang phục thường ngày bước thẳng vào trong trướng. Hắn ôm quyền nhìn Nghiêm Nhan nói: “Lão tướng quân vội vã triệu tập mạt tướng từ Gia Manh Quan về đây, chẳng hay có chuyện gì khẩn cấp?”

Nghiêm Nhan nói: “Mạnh Đạo ( tên chữ của Trương Nhiệm ) hãy hỏi nhị vị đại nhân đi. Trong lòng lão phu cũng rất hoài nghi”.

Trương Nhiệm nhìn xung quanh thì thấy Phí Thi, Vương Luỹ, Vương Bình đang đứng trang nghiêm trong trướng. Hắn vội vàng ôm quyền nói: “Thì ra là nhị vị đại nhân còn cả Tử Quân ( tên chữ của Vương Bình ) đều ở đây. Mạt tướng thật sự thất lễ”.

Phí Thi cười nói: “Tướng quân không cần lưu tâm”.

Nghiêm Nhan khoát tay nói: “Nhị vị đại nhân, Mạnh Đạo, Tử Quân mời ngồi”.

Sau khi năm người phân chia chủ khách ngồi xuống, Phí Thi đột nhiên ho khan một tiếng rồi hắn hỏi Nghiêm Nhan và Trương Nhiệm: “Tại hạ mạo muội hỏi nhị vị tướng quân một câu: Nhị vị trấn giữ Gia Manh Quan, Kiếm Các, chiến đấu vì ai?”

Nghiêm Nhan không đáp.

Trương Nhiệm lại chắp tai nhìn về phương nam xa xa, cao giọng nói: “Đương nhiên chiến đấu vì chúa công”.

Phí Thi lại hỏi: “Vậy vì sao phải chiến đấu vì chúa công?”

“Cái này…” Trương Nhiệm ngập ngừng rồi hắn miễn cưỡng đáp: “Đương nhiên là vì triều đình trấn thủ Tây Xuyên mà chiến đấu”.

“Được” Phí Thi nói: “Vậy đương kim thiên tử ở đâu?”

Trương Nhiệm trả lời: “Lạc Dương”.

Phí Thi nói: “Thiên Tử ở Lạc Dương, Lương hầu lại là Thừa tướng. Nhị vị tướng quân trấn thủ Gia Manh Quan, Kiếm Các lại ngăn cản quân triều đình vào Xuyên vậy không phải là phạm thượng, làm loạn sao?”

Trương Nhiệm nói: “Công Cử ( tên chữ của Phí Thi ) đại nhân nói lời ấy sai rồi. Mã Dược tuy là tướng nhà Hán nhưng thật ra là Hán tặc. Thiên Tử tuy ở Lạc Dương thật ra bị Mã đồ phu chèn ép không có tự do. Chúa công lại thuộc dòng dõi Hán thất, tự nhiên ra sức vì triều đình, trấn thủ nơi khởi nghiệp của nhà Hán. Chúng ta há có thể để mặc cho phản quân của Mã đồ phu tiến vào Tây Xuyên sao?”

Nghiêm Nhan từ nãy tới giờ vẫn chưa lên tiếng lúc này mới đột nhiên nói: “Mạnh Đạo không cần phải nói những lời này. Thật ra ta và người đều biết chuyện gì đang xảy ra. Tây Xuyên là Tây Xuyên của người Tây Xuyên , há có thể để cho một người ngoài như Mã đồ phu tranh giành sao? Đây cũng là lý do lão phu và Mạnh Đạo trấn giữ Gia Manh Quan và Kiếm Các, ngăn cản đại quân Lương Châu và Tây Xuyên”.

Trương Nhiệm cũng không phản bác. Hiển nhiên hắn đồng ý với lý do của Nghiêm Nhan. Trên thực tế quả có chuyện như vậy.

Phí Thi mỉm cười, vui vẻ nói: “Hay cho lão tướng quân dám nói thẳng. Tại hạ vẫn còn muốn hỏi lão tướng quân: Phụ tử Lưu Yên, Lưu Chương chẳng lẽ là người Tây Xuyên sao? Ngô Ý, Bàng Hy chẳng lẽ là người Tây Xuyên sao? Đổng Phù, Triệu Vĩ tuy là người Xuyên nhưng tổ phụ của chúng đã di cư vào Trung Nguyên. Trên thực tế cũng không thể được coi là người Tây Xuyên”.

Phí Thi vừa dứt lời, Vương Luỹ đã tiếp lời: “Hiện tại Tây Xuyên đã sớm bị người ngoài cầm quyền. Nhị vị tướng quân hãy mở to mắt nhìn xem tình cảnh của chúng ta, những người Tây Xuyên thật sự như thế nào? Trương Tùng đại nhân tài năng hơn người nhưng cũng chỉ làm chức quan hèn mọn. Bàng Hi, Triệu Vĩ vì a dua nịnh nọt nên quyền cao chức trọng. Đổng Phù, Ngô Ý không thể cầm quân ra trận giết giặc, không đủ uy danh để chấn nhiếp ba quân nhưng lại nắm giữ binh quyền., Nhị vị tướng quân dũng mãnh nổi danh ba quân tướng sĩ Tây Xuyên nhưng chỉ là một Thiên tướng, trấn thủ quan ải hiểm yếu nơi biên thuỳ xa xôi. Thủ hạ dưới trướng cũng không quá hai, ba ngàn quân. Chẳng lẽ đây alf điều nhị vị tướng quân muốn nhìn thấy ở Tây Xuyên sao? Chẳng lẽ nhị vị tướng quân không tiếc bị rơi đầu, bầu máu nóng rơi vãi, da ngựa bọc thây vì một Tây Xuyên như này sao?”

“Cái này…”.

Trương Nhiệm, Nghiêm Nhan cùng cứng họng. Nói tới việc ra trận giết địch thì cho dù một trăm Phí Thi, Vương Luỹ cũng không phải đối thủ của hai người. Còn nói về tài hùng biện thì chỉ e một ngàn Trương Nhiệm, Nghiêm Nhan cũng không thể sánh được với Phí Thi, Vương Luỹ. Thực sự một Tây Xuyên hiện tại cũng không phải là Tây Xuyên mà hai người hy vọng.

Phí Thi hít một hơi thật sâu. Hắn đè nén sự kích động trong lòng xuống nói tiếp: “Chuyện của Nhâm công ( Nhâm Kỳ ), Cổ công ( Cổ Long ), nhị vị tướng quân hẳn cũng không xa lạ gì? Nói về lòng trung thành, có thể nói Nhâm công, Cổ công luôn trung thành, tận tâm với Lưu Yên nhưng kết cục thì như thế nào? Không phải chính Lưu Yên đã mượn thanh đao của Đông Châu sĩ giết chết sao?”

Vương Luỹ nói: “Tại sao Lưu Yên lại làm như vậy? Bởi vì uy tín của Nhâm công, Cổ công rất cao, uy hiếp địa vị làm chủ của Lưu Yên. Lưu Yên hoàn toàn không hy vọng người Tây Xuyên chúng ta một ngày nào đó có thể chân chính nắm giữ vận mệnh của mình”.

Trương Nhiệm nói: “Vậy nếu một khi Mã đồ phu vào Xuyên, người Tây Xuyên chúng ta có thể chân chính nắm giữ vận mệnh của mình không?”

Phí Thi nói: “Trương Tùng đại nhân đã mang theo địa đồ Tây Xuyên tự mình đã vẽ ra. Tài năng của Trương Tùng đại nhân hẳn nhị vị tướng quân đã biết rõ. Chúng ta tin tưởng Trương Tùng đại nhân có thể giành được lợi ích xứng đáng cho người Tây Xuyên. Với trí thông minh của đại nhân, nếu như Mã thừa tướng muốn giở trò, nhất định sẽ không qua được con mắt đại nhân”.

Đột nhiên Vương Bình nói: “Nhị vị đại nhân, lão tướng quân, Mạnh Đạo. Tại hạ xuất thân hàn vi. Tại hạ muốn đứng ở lập trường dân chúng Tây Xuyên nói mấy câu, không biết chư vị có nguyện ý nghe không?”

Nghiêm Nhan khoát tay nói: “Tử Quân cứ nói, đừng ngại”.

Vương Bình nghiêm nghị nói: “Dân chúng Tây Xuyên đều không hy vọng đánh giặc. Bọn họ không cần biết làm chủ Tây Xuyên là họ Lưu hay họ Mã. Bọn họ chỉ hy vọng Tây Xuyên không xảy nạn binh đao. Chư vị không ngại hãy nhìn qua Quan Trung của Lương hầu, nhìn lại Kinh Châu của Lưu Biểu trấn giữ, Tôn gia trấn giữ Gi­ang Đông, còn cả Viên Thiệu trấn giữ đất Hà Bắc. Chẳng hay chư vị có phát hiện gì không?’

Nghiêm Nhan nghiêm nghị nói: “Theo như lão phu biết, Quan Trung mưa thuận gió hoà, dân chúng sung túc. Quan Đông tai hoạ liên miên, dân chúng lầm than”.

Phí Thi gật đầu nói: “Dân chúng Quan Trung giàu có bởi vì bọn họ nộp thuế ruộng đất rất nhẹ. Ngoại trừ tá điền của các đồn điền phải nộp cho quan phủ sáu phần thu hoạch, những dân chúng có đất đai riêng của mình chỉ cần nộp một nửa phần thu hoạch của mình. Chư vị hãy nhìn lại Tây Xuyên của chúng ta thế nào: Thuế rộng đất là năm phần thu hoạch”.

Hai hàng mi đang cau lại của Trương Nhiệm dần dần dãn ra.

Trên thực tế Trương Nhiệm và Vương Bình cũng giống nhau, cả hai đều xuất thân hàn vi, từ nhỏ đã quen với sự gi­an khổi của dân chúng. Cũng bởi do địa lý liền nhau, tin tức về Quan Trung, Kinh Châu vẫn được những thương nhân đi khắp bốn phương mang vào Tây Xuyên. Từ đó dân chúng Tây Xuyên mới biết tới hiện trạng của cuộc sống dân chúng Quan Trung.

Sự hấp dẫn của cuộc sống ổn định, yên ổn, giàu có, hàng năm có rất nhiều tá điền Tây Xuyên không kế sinh nhai bỏ Tây Xuyên di cư tới Quan Trung. Tất thảy những điều này Trương Nhiệm đều biết.

Trong khi đó điều quan trọng nhất chính là Mã Dược hiện là thế lực quân phiệt cát cứ lớn nhất. Cho dù là Kinh Châu Lưu Biểu hay Gi­ang Đông Tôn Quyền hay ngay cả Hà Bắc Viên Thiệu mấy người này chỉ chấp nhận số phận bị đánh chứ ngược lại không thể nào thảo phạt Mã Dược. Nói cách khác chỉ có nằm dưới sự thống trị của Mã Dược, dân chúng mới tránh khỏi hoạ tai ương binh đao.

Trương Nhiệm bùi ngùi nói: “Kỳ thật mạt tướng cũng hiểu được. Nếu để Lương hầu vào làm chủ Tây Xuyên, đối với dân chúng Tây Xuyên thì nđây là phúc chứ không phải là hoạ. Nhưng vấn đề là, lão tướng quân cùng mạt tướng chỉ có mấy ngàn binh mã, Đổng Phù, Ngô Ý lại nắm trong tay mười mấy vạn đại quân. Nếu chúng ta cứ tuỳ tiện khởi binh, chỉ e là lấy trứng chọi đá”.

“Điều này tướng quân không cần phải lo lắng” Phí Thi mỉm cười nói: “Tất thảy chúng ta cứ chờ tin tức của Trương Tùng đại nhân từ Lạc Dương. Thế nhưng trước khi nhận được tin tức của Trương Tùng đại nhân, chư vị không được bất cẩn tiết lộ việc thương nghị hôm nay ra ngoài. Nếu không thì chỉ những người ngồi ở đây hôm nay đều không thoát khỏi cái chết”.

Nghiêm Nhan, Trương Nhiệm, Vương Luỹ, Vương Bình cùng thề thốt: “Nếu việc hôm nay có nửa câu tiết lộ ra ngoài, ngày sau tất chết dưới loạn tiễn”.

Mã Dược đang thiết tiệc trong đại sảnh của tướng phủ, tẩy trần cho Trương Tùng. Trương Tùng ngồi ghế khách quý trên cao. Gương mặt xấu xí thường ngày của Trương Tùng, hôm nay đang rạng ngời. Quả thực sự hậu đãi của Thừa tướng Mã Dược đã vượt qua suy nghĩ của Trương Tùng bởi vậy càng làm Trương Tùng tin tưởng hơn vào tương lai của Tây Xuyên.

“Tới tới tới” Mã Dược giơ cao chung rượu, nhìn Trương Tùng nói: “Chúng ta hãy kính Vĩnh Niên một chung nữa”.

“Thừa tướng” Trương Tùng vội khoát tay nói: “Tại hạ thật sự không uống được rượu. Uống tiếp sẽ say”.

“Say thì cho say” Mã Dược cười to nói: “Chư vị hôm nay ở đây không say không về, ha ha ha”.

Đang trong lúc đối ẩm thì chợt có viên tiểu lại bước vào, hắn thì thào vào tai Giả Hủ mấy câu, Giả Hủ biến sắc, hắn vội đưa mắt ra hiệu cho Mã Dược sau đó hắn lấy cớ là đi thay trang phục ( trong cổ văn “Thay y phục” chính là đi vệ sinh) rồi cáo từ đi ra ngoài, Mã Dược hiểu ý. Một lát sau hắn cũng lấy cớ rời khỏi bàn tiệc đi vào phòng sau.

Khi thấy Mã Dược đi vào, Giả Hủ liền tiến lên nghênh tiếp, hắn hấp tấp nói: “Chúa công, Kinh Châu xảy ra đại sự rồi”.

Mã Dược hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì?”

Giả Hủ nói: “Lưu Biểu đã chết. Sĩ tộc Kinh Tương đã nghênh đón Tào Thào vào làm chủ Kinh Châu”.

“Cái gì?” nghe vậy Mã Dược kinh hãi, hắn thất thanh nói: “Tào Tháo có thể làm chủ Kinh Châu nhanh như vậy sao? Rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì vậy?”

Giả Hủ nói: “Cái này Hủ cũng không rõ lắm, phải đợi Tử Nghiêm tới mới có tin tức chính xác”.

Trong lúc hai người đang nói chuyện thì Pháp Chính, Lý Túc cũng mượn cớ đi vào phòng sau.

Mã Dược vội vàng hỏi Lý Túc: “Tử Nghiêm, rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì vậy?”

“Chúa công, chuyện là thế này” Lý Túc sắp xếp lại suy nghĩ rồi nói: “Kể từ khi sĩ tộc Kinh Tương chủ trương để Lưu Biểu nghênh đón Tào Tháo vào Kinh Châu thì Lưu Biểu đã bắt đầu hoài nghi sĩ tộc Kinh Tương có dụng tâm nghênh đón Tào Tháo làm chủ Kinh Châu vì vậy Lưu Biểu mới âm thầm sắp đặt mưu kế, mưu đồ diệt trừ Tào Tháo và toàn bộ sĩ tộc Kinh Tương”.

Mã Dược nói: “Không ngờ Lưu Biểu lại có quyết tâm này. Xem ra hắn cũng không phải là một người ngu ngốc”.

Lý Túc nói: “Đối với Lưu Biểu, không chỉ có chúa công nhìn nhận sai mà ngay cả những sĩ tộc Kinh Tương thân tín nhất của hắn cũng nhìn sai. Trên thực tế giới sĩ tộc Kinh Tương không hề phát hiện âm mưu của Lưu Biểu. Theo như tin tức của mật thám báo về, Lưu Biểu bị người bán đứng nên mới thất bại trong gang tấc”.

Mã Dược nói: “Rốt cuộc thì Lưu Biểu đã sắp xếp như thế nào?”

Lý Túc nói: “Lưu Biểu lấy lý do bảo vệ xung quanh Tương Dương nên mới sai trưởng tử Lưu Kỳ đi núi Võ Lăng, mượn hai ngàn dã nhân Phiên binh. Hắn lại sai tòng tử Lưu Bàn chỉ huy năm ngàn tinh binh từ Du huyện, Trường Sa tới Công An, lại sai Trương Doãn âm thầm chuẩn bị tiếp ứng, bất kỳ lúc nào cũng có thể chuyển năm ngàn tinh binh của Lưu Bàn sang bắc Trường Gi­ang”.

“Sau khi tất cả sự chuẩn bị diễn ra xong xuôi, Lưu Biểu mới thiết yến ở phủ Kinh Châu mục, thiết yến tất cả sĩ tộc Kinh Tương cùng với Tào Tháo, đợi khi mọi người đã tới đông đủ hắn lại ra lệnh Phiên binh khống chế toàn thành Tương Dương. Khi tất cả sĩ tộc Kinh Tương và Tào Tháo đều bị giết, Lưu Bàn sẽ dẫn đại quân đánh tới Tương Dương, một đòn đánh tan đại quân Kinh Châu thủ hạ của Hoàng Tổ, vương Uy, Sái Mạo”.

Giả Hủ gật đầu nói: “Có thể nói kế hoạch này sắp đặt đến một gọt nước cũng không lọt. Nếu như không bị người tiết lộ bí mật từ trước, có thể nói sẽ hoàn toàn thành công”.

Pháp Chính phụ hoạ: “Quả thật như thế, một khi sĩ tộc Kinh Tương hoàn toàn bị diệt. Thuỷ bộ đại quân Kinh Châu sẽ như rắn mất đầu, Lưu Biểu sẽ hoàn toàn phân hoá được chúng”.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 332: Bình định Tây Xuyên (1)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

“Thế nhưng rất đáng tiếc” Lý Túc kích động nói: “Thậm chí Tào Tháo đã biết trước kế hoạch của Lưu Biểu. Hắn âm thầm cấu kết với Sái Trung, Sái Hoà đóng đại quân ở bên ngoài thành Tương Dương. Lưu Biểu vẫn chưa kịp động thủ, hai ngàn Phiên binh trong thành Tương Dương đã bị Nguỵ Diên, Văn Sính chỉ huy tinh binh Kinh Châu chém tận, giết tuyệt, Phiên Vương Sa Ma Kha cũng bị Trương Liêu giết chết, cả tòng tử của Lưu Biểu là Lưu Bàn vừa dẫn đại quân vượt Trường Gi­ang đã trúng mai phục, toàn quân bị tiêu diệt. Bản thân Lưu Bàn đã bị mãnh tướng Kinh Châu là Hoàng Trung chém đầu”.

“Ôi” Mã Dược kích động nói: “Tào Tháo này quả thật là người mệnh lớn”.

Lý Túc nói: “Chúa công, hiện tại Tào Tháo vừa mới làm chủ Kinh Châu, thế cục chưa ổn định, sao chúa công không xuất binh nam chinh?”

“Thôi” Mã Dược khoát tay nói: “Lúc này dù thế cục Kinh Châu chưa ổn định nhưng đợi khi Cô điều đại quân từ các nơi tới Nam Dương, điều phối đủ lương thảo, đồ quân nhu cũng phải mất hơn nửa năm chuẩn bị, khi đó Tào Tháo cũng đã sớm bình định được thế cục Kinh Châu. Hơn nữa việc đại quân nhập Xuyên đã ở thế như tên trên dây cung, há có thể tuỳ tiện bãi bỏ sao?”

“Chúa công lo lắng rất đúng” Pháp Chính phụ hoạ: “Lưu Biểu chết việc Tào Tháo vào làm chủ Kinh Châu rất khó tránh khỏi cục diện có biến động lớn. Tuy nhiên Sái, Hoàng, Vương, Hàn, tứ đại môn phiệt Kinh Tương này hoàn toàn nắm binh quyền thuỷ, bộ đại quân Kinh Châu, có sự ủng hộ của tứ đại môn phiệt, Tào Tháo sẽ nhanh chóng bình định cục diện Kinh Châu”.

“Ai’ Giả Hủ cũng không khỏi tiếc nuối nói: “Chẳng qua là một cơ hội tốt như vậy đã phải bỏ qua. Nếu chúng ta có thể sớm chuẩn bị sẵn sàng thì cho dù không thể đánh chiếm toàn bộ Kinh Châu, ít nhất cũng có thể chiếm được Tương Dương. Thuỷ quân của Cam Ninh tướng quân cũng có chỗ hạ trại. Sau này phần thắng trong việc chinh phạt quân Đông Ngô sẽ tăng lên rất nhiều”.

“Không vội” Mã Dược trầm giọng nói: “Chỉ cần lần này chúng ta có thể thuận lợi nhập Xuyên, sớm muộn gì Kinh Châu cũng là vật trong túi của Cô”.

Năm Kiến An, Hán Hiến Đế thứ mười một, Mã Dược dùng Cam Ninh làm chủ tướng, Trần Đáo, Mạnh Đạt làm phó tướng, Pháp Chính làm quân sư chỉ huy một vạn thuỷ quân tinh nhuệ âm thầm xâm nhập con đường nhỏ Âm Bình, tập kích bất ngờ Thành Đô.

Hạ tuần tháng tám, trải qua hơn nửa tháng hành quân gi­an khổ, với cái giá là hơn một nửa thương vong, quân lính bản bộ của Cam Ninh đã đi xuyên qua con đường nhỏ Âm Bình, không đánh mà thắng, đánh chiếm Đạp Trung. Sau khi nghỉ ngơi lấy lại sức đôi chút ở Đạp Trung đôi chút, lại tiếp tục hành quân tiếp cận Thành Đô.

Đầu tháng chín, sau khi biết quân bản bộ của Cam Ninh đã thuận lợi vượt qua con đường nhỏ Âm Bình, Mã Dược khởi mười vạn đại quân ( trên thực tế chỉ có ba vạn ) tiến ra Nam Trịnh, thảo phạt Tây Xuyên. Các tướng Tây Xuyên là Trương Nhiệm, Nghiêm Nhan, Vương Bình dẫn quân tiếp ứng, đại quân Tây Lương thuận lợi tiến qua Gia Manh Quan, Kiếm Các. Sau khi ra khỏi Kiếm Các, thiết kỵ Tây Lương chia quân ra làm hai đường. Một đường do Mã Đại và quân sư Giả Hủ chỉ huy thắng tiến đánh Tử Đồng. Một đường do Mã Dược tự mình chỉ huy tiến thẳng tới đánh chiếm Lãng Trung.

Trung tuần tháng chín, hai đạo quân Tây Lương đồng thời xuất hiện ở chân thành Tử Đồng và Lãng Trung.

Hạ tuần tháng chín, Cam Ninh chỉ huy năm ngàn tinh binh đánh giết tới chân thành Thành Đô. Trưởng tử của Lưu Chương là Lưu Tuần cùng đại thần Bàng Hi, Triệu Vĩ đều chủ trương gắng sức tử thủ, chờ đại quân của Ngô Ý, Đổng Phù từ Tử Đồng, Lãng Trung quay về cứu viện. Lưu Chương không nghe theo, cố ý mở cửa thành đầu hàng. Tướng trấn thủ Lãng Trung là Đổng Phù tự sát, phó tướng là Dương Hoài và Cao Bái dẫn quân đầu hàng.

Đầu tháng mười, tướng trấn thủ Tử Đồng là Ngô Ý dẫn quân đầu hàng. Đại quân Tây Lương không đánh mà thắng, nhanh chóng bình định Tây Xuyên.

Tào Tháo đang mật đàm cùng với Bàng Thống. Bàng Thống chỉ tay vào bản đồ nói: “Chúa công, xin hãy nhìn. Địa hình phương bắc là bình nguyên, thiết kỵ Tây Lương tung hoành ngang dọc, thiên hạ vô địch, hơn nữa Mã đồ phu dùng Thiên Tử để uy hiếp chư hầu. Quân ta quả thật không thể tranh chấp với chúng. Trung Nguyên Viên Thiệu mặc dù yếu nhược nhưng hai châu Duyện, Dự là nơi chiến địa. Hơn nữa nơi này đã xảy ra chiến loạn, sinh linh oán thán. Chủ nhân thế thịnh mới có thể trấn thủ lâu dài, lúc này càng không nên lấy. Phía đông Tôn Quyền tuy còn trẻ tuổi nhưng trên dưới một lòng, thuỷ quân Đông Ngô tinh nhuệ, Chu Du là một nhân tài hiếm gặp, cũng không được vội vàng đánh chiếm, trước tiên phải kết đồng minh để cùng nhau chống trọi với Mã đồ phu”.

“Ừ”.

Tào Tháo nghe xong liên tục gật đầu.

Cuối cùng Bàng Thống chỉ vào Tây Xuyên, hắn trầm giọng nói: “Tây Xuyên đồng cỏ ngàn dặm phì nhiêu. Trăm họ giàu có, thịnh vượng. Lưu Chương yếu đuối, bất tài, khó có thể giữ được. Đây chính là ý trời ban cho chúa công. Sao chúa công không mau chóng đánh lấy để mưu đồ nghiệp Vương bá?”

Tào Tháo nói: “Thế nhưng Cô nghe nói Mã đồ phu cũng đang định chinh phạt Tây Xuyên”.

Bàng Thống nói: “Đây chính là cơ hội tốt cho chúa công”.

“Hả?” Tào Tháo nói: “Xin chỉ giáo”.

Bàng Thống nói: “Mã đồ phu thực hiện ở Quan Trung cái gọi là chính sách mới. Theo đó mấy loại người từ thương nhân, tiều phu, nông dân, thậm chí cả bọn nô lệ cũng được tuyển chọn làm quan lại, hoàn toàn đi ngược lại chính sách được áp dụng từ Lưỡng Hán tới nay ( Đông Hán và Tây Hán ), làm suy yếu nghiêm trọng ảnh hưởng của sĩ tộc thiên hạ, xét lại chế độ phong quan, khoa cử, uy hiếp nghiêm trọng sự sinh tồn của gi­ai cấp sĩ tộc vì vậy Thống có thể đoan chắc rằng một khi Mã đồ phu nhập Xuyên, nhất định sẽ vấp phải sự phản đối kịch liệt của sĩ tộc Tây Xuyên”.

Tào Tháo nói: “Ý của Sĩ Nguyên là…”.

Bàng Thống nói: “Sao chúa công không lấy cớ trợ giúp Lưu Chương dẫn đại quân vào Tây Xuyên sau đón giả đò phạt Quắc, diệt Ngu”.

“Giả đò phạt Quắc diệt Ngu?” Tào Tháo nghe vậy vui mừng nói: “Diệu kế!”.

“Chúa công” Tào Tháo vừa dứt lời, Lưu Diệp vội vã đi vào nói: “Mật thám ở Tây Xuyên vừa mới cấp báo: Lưu Chương đã hiến thành đầu hàng, Mã đồ phu đã bình định Tây Xuyên”.

“Hả?” Người kiêu hùng như Tào Tháo nghe thấy tin này cũng không khỏi biến sắc, hắn kinh hãi hỏi: “Sao có thể xảy ra điều này? Tính theo thời gi­an, hẳn cuộc chiến Tây Xuyên bây giờ mới bắt đầu, chỉ e lúc này đại quân Tây Lương của Mã đồ phu vẫn còn tấn công Gia Manh Quan. Tại sao chúng có thể nhanh chóng đánh tới Thành Đô, bức bách Lưu Chương dâng thành đầu hàng như vậy?”

“Mã đồ phu có nội ứng trong quân Tây Xuyên. Quân Tây Lương không đánh mà thắng, chiếm được Gia Manh Quan và Kiếm Các. Mười mấy vạn đại quân Tây Xuyên của Ngô Ý và Đổng Phù bị bao vây ở bên trong thành Lãng Trung và Tử Đồng” Lưu Diệp nói: “Mã đồ phu lại phái một toán kỳ binh đi theo con đường nhỏ Âm Bình kỳ tập Thành Đô, quân Xuyên bị giết trở tay không kịp”.

Tào Tháo nghiêm nghị nói: “Thì ra là thế”.

Trên mặt Bàng Thống không khỏi hiện lên sự khó xử. Lúc trước hắn vừa mới nói Mã đồ phu nhập Xuyên sẽ gặp phải sự chống cự kịch liệt của sĩ tộc Tây Xuyên, không ngờ hắn nói còn chưa lâu thì lại có tin nói Mã đồ phu được sự tiếp ứng của sĩ tộc Tây Xuyên đã dễ dàng nhập Xuyên. Không thể nghi ngờ gì nữa đây chính là một sự phủ nhận tàn nhẫn đối với năng lực của Bàng Thống.

Hiển nhiên Tào Tháo cũng hiểu rõ sự khó xử của Bàng Thống. Hắn lên tiếng khuyên nhủ: “Sĩ Nguyên không cần phải lo lắng. Sĩ tộc Tây Xuyên phe phái như rừng, bên trong không ngừng đấu tranh với nhau. Có người trợ giúp Mã đồ phu thì cũng không phải là điều ngạc nhiên”.

Bàng Thống sau khi suy nghĩ lại, hắn nhìn Tào Tháo nói: “Chúa công, nếu Mã đồ phu đã chiếm Tây Xuyên, Kinh Châu đã ở thế nguy rồi”.

Lưu Diệp nói: “Sao chúa công không thừa dịp quân Lương Châu với tới Tây Xuyên, tình hình chưa ổn xuất binh đoạt lại?”

“Không còn cơ hội nữa rồi” Tào Tháo không khỏi tiếc nuối, hắn thở dài nói: “Hiện tại Mã đồ phu đã chiếm cứ Tây Xuyên, cứ coi như Cô tự mình dẫn đại quân đi tranh đoạt thì chỉ e cũng không thể chiếm được bất kỳ lợi thế nào. Một khi tranh đoạt bất lợi rất có thể sẽ bị quân Tây Lương thừa cơ chiếm đoạt mất Kinh Châu như vậy thì được không bù mất. Hơn nữa thế cục Kinh Châu vẫn chưa ổn định, vẫn còn tồn tại rất nhiều bất ổn”.

“Thế nhưng nếu chúa công muốn tranh đoạt Tây Xuyên thì không phải là đã hoàn toàn hết cơ hội” Bàng Thống nói: “Nếu Thống dự liệu không sai: Đầu mùa xuân sang năm rất có thể Chu Du sẽ ra tay với Viên Thiệu ở Trung Nguyên. Nếu Trung Nguyên có biến, Mã đồ phu sẽ chuyển chiến lược trọng tâm sang phía đông, chờ tới khi quân Lương Châu và quân Đông Ngô đánh giết không phân thắng bại, cơ hội đánh chiếm Tây Xuyên của chúa công sẽ tới”.

“Lúc này không còn diệu kế nào khác, cũng chỉ còn có thể chờ đợi” Tào Tháo gật đầu nói: “Thế nhưng việc cấp bách hiện nay là cử sứ giả tới Lư Gi­ang liên kết đồng minh hỗ trợ lẫn nhau với Tôn Quyền”.

Bàng Thống nói: “Thống nguyện ý”.

Trương Tùng, Phí Thi, Vương Luỹ đại diện cho sĩ tộc Tây Xuyên đang thảo luận với Giả Hủ, Pháp Chính về việc phân phối quyền lực ở Tây Xuyên.

Trong những trường hợp như này, Mã Dược không tiện ra mặt. Nếu như Mã Dược thực sự có mặt ở đây thì ngược lại hắn sẽ làm Giả Hủ, Pháp Chính vướng chân vướng tay, khó có thể phát huy hết năng lực của mình vì vậy Mã Dược gi­ao hết việc này cho Giả Hủ, Pháp Chính, bản thân hắn dẫn Điển Vi, Mã Đại đi ngắm cảnh. Dù sao Mã Dược cũng là người hiện đại, hắn biết Tây Xuyên chính là một nơi tàng trữ mỹ nhân.

Lần này vất vả vào Xuyên, đương nhiên phải vơ vét một ít mỹ nhân quay về Lạc Dương.

Trong mật thất, Trương Tùng, Phí Thi, Vương Luỹ biểu hiện giống như ba gi­an thương, cân đong từng lạng một. Giả Hủ, Pháp Chính đã xuất tất cả vốn liếng, gặp chiêu phá chiêu. Đôi bên rao giá trên trời rồi lập tức trả giá, tranh cãi nhau cả nửa ngày rốt cuộc hai bên cũng xuất ra quân bài tẩy của mình.

“Mười lăm vạn quân Xuyên nhất định phải rời khỏi Tây Xuyên” Giả Hủ nói với giọng nhất quán của mình: “Hơn nữa các quận Ích Châu chỉ được phép giữ lại ba ngàn binh lính. Việc nào cũng có thể thương lượng được, duy nhất việc này là không thể thương lượng. Tại hạ cũng đã lực bất tòng tâm, chỉ hy vọng ba vị cũng đừng quá nhấp nhặt”.

“Được” Trương Tùng bất đắc dĩ nói: “Thế nhưng tại hạ cũng cần phải biết mười lăm vạn quân Xuyên sẽ được chuyển đi đâu?”

“Đương nhiên điều này có thể” Giả Hủ nói: “Theo như tại hạ biết mười lăm vạn quân Xuyên có thể sẽ tới mở đồn điền ở Nam Dương, có thể được phép mang theo gia quyến tới đồn điền ở Nam Dương. Thế nhưng ba vị tiên sinh cũng phải giải thích rõ cho ba quân tướng sĩ Tây Xuyên: Chế độ đồn điền ở Nam Dương áp dụng chính sách bốn, sáu. Lưu lại quê hương không bằng đi xa có cuộc sống sung túc hơn”.

Phí Thi nói: “Địa bàn Ba Quận rộng lớn, lại tiếp giáp với Kinh Châu. Nếu chỉ có ban ngàn quân canh phòng, chỉ e rất khó cự lại với quân Kinh Châu”.

Pháp Chính nói: “Về điểm này, ba vị không cần lo lắng, Thừa tướng đã có sắp xếp chu đáo. Khi đó Thái Thú Hán Trung, Trương Tú sẽ chuyển tới làm Thái Thú Ba Quận. Trương Tú tướng quân có năm ngàn tinh binh bản bộ, hơn nữa Trương Vệ, Dương Ngang, Dương Nhiệm có một vạn tinh binh quân Hán Trung, trấn thủ một thành nhỏ Vĩnh An thì không có vấn đề gì”.

“Nếu thừa tướng đã có sắp xếp như vậy, tôi cũng không buồn lo vô cớ” Trương Tùng nói tiếp: “Thế nhưng tại hạ cũng hy vọng Thừa tướng có thể thủ tín, không nên làm tổn hại tới lợi ích của sĩ tộc Tây Xuyên”.

“Một khi Thừa tướng đã hứa sẽ không có ai dám bội ước” Ánh mắt Giả Hủ hiện lên vẻ xảo trá, hắn chuyển giọng nói tiếp: “Thế nhưng Thừa tướng chỉ hứa bảo vệ lợi ích của sĩ tộc Tây Xuyên bản địa, trong khi đó Đổng Phù, Triệu Vĩ đều thuộc Đông Châu sĩ, Đông Châu sĩ không thuộc nhóm phải bảo vệ lợi ích. Điểm này hiển nhiên ba vị không phản đối chứ?”

“Cái này…” Trương Tùng lập tức cau mày lại, hắn nói vẻ buồn bực: “Thừa tướng làm vậy khó tránh khỏi những lời hiềm nghi lật lọng”.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 332: Bình định Tây Xuyên (2)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Phí Thi, Vương Luỹ cũng nói: “Tá điền Tây Xuyên, điền sản trong mười thành thì trong chín thành tập trung trong tay Đổng Phù, Triệu Vĩ và Đông Châu sĩ. Những tá điền, điền sản này vốn thuộc về sĩ tộc Tây Xuyên. Thế nhưng kể từ khi Lưu Yên vào Xuyên đã bị Đông Châu sĩ cưỡng chiếm mất mà thôi. Nếu như Thừa tướng thu hết những tá điền, điền sản này vào triều đình vậy có còn nói là bảo vệ lợi ích của sĩ tộc Tây Xuyên không?”

“Điều này không có cách nào khác” Giả Hủ chơi xấu nói: “Ban đầu Thừa tướng cũng chỉ đồng ý bảo vệ lợi ích của sĩ tộc Tây Xuyên mà không nói sẽ bảo vệ lợi ích của Đông Châu sĩ”.

Phí Thi bực tức nói: “Nếu Thừa tướng đã có thái độ này thì không cần thiết phải bàn đi bàn lại”.

“Ai, Phí Thi đại nhân đừng nóng vội” Tới thời khắc mấu chốt Pháp Chính đứng ra hoà giải: “Chuyện gì cũng từ từ, chuyện gì cũng từ từ. Ha ha ha”.

Sau khi khuyên nhủ Phí Thi, Pháp Chính nhìn Giả Hủ nói: “Quân sư, ý của tại hạ như này có được không: Mọi người hãy nhường nhịn lẫn nhau, phân chia điền sản, tá điền, nhà cửa, gia nô và các tài sản khác làm hai, mỗi bên năm phần, có được không?”

“Không được” Giả Hủ quả quyết nói: “Nhiều nhất là ba bảy thôi”.

Trương Tùng giơ bốn ngón tay, cắn răng nói: “Phân chia thành bốn sáu”.

“Được” Giả Hủ vỗ tay nói: “Đồng ý”.

Pháp Chính chân tay nhanh nhẹn, hắn lập tức mở sổ sách thống kê điền sản, hộ tịch Tây Xuyển để trên án ra. Hắn nhìn Trương Tùng, Giả Hủ nói: “Theo như sổ sách, Tây Xuyên có tất cả hai mươi vạn hộ, hơn chín mươi ba vạn nhân khẩu. Tuy nhiên đây chỉ dân cư ghi trên sổ sách. Trên thực tế dân cư Tây Xuyên có ít nhất hơn năm trăm vạn. Nói cách khác có hơn bốn trăm vạn dân cư Tây Xuyên không có trong sổ sách. Hơn bốn trăm vạn dân cư này đã trở thành tá điền tư hữu của sĩ tộc Tây Xuyên, lần này cũng trở thành đối tượng phân chia tài sản bốn sáu”.

“Căn cứ theo thoả thuận bốn sáu hai bên đã đạt được, Tây Xuyên có ba trăm ba mươi vạn nhân khẩu phải tính thuế ruộng đất để gi­ao nộp cho triều đình. Ba vị đại nhân, tại hạ tính có sai không?”

Ba người Trương Tùng, Phí Thi, Vương Luỹ đau khổ nói: “Không sai”.

“Ba vị đại nhân không cần phải nản lòng như vậy” Giả Hủ cười nham hiểm nói: “Theo như tại hạ biết, sắc phong của Thiên Tử sẽ nhanh chóng được ban xuống. Trương Tùng đại nhân sắp được vinh thăng làm Thứ Sử Ích Châu. Nhị vị đại nhân Phí Thi, Vương Luỹ cũng được vinh thăng lên chức cao, Biệt giá Ích Châu. Ba vị sắp được thăng quan, hà có gì mà không vui vậy?”

Cuối cùng ba người Trương Tùng cũng tươi cười, ốm quyền nhìn về phía đông nói: “Nhận được Thừa tướng cất nhắc. Tùng tài trí đần độn, chỉ e khó có thể đảm nhiệm được”.

“Ai, Vĩnh Niên không cần khiêm tốn” Giả Hủ vỗ vai Trương Tùng cười nói: “Nếu đại nhân không thể đảm nhiệm thì chỉ e khắp thiên hạ này không có ai đảm nhiệm nổi chức Thứ Sử Ích Châu”.

Tôn Quyền đang ngồi đọc binh thư trước án thì bất chợt tiếng bước chân vang lên. Hắn ngẩng đầu nhìn thì thấy Từ Thứ chậm rãi bước vào, Tôn Quyền đẩy quyển binh thư ra, nhìn Từ Thứ hỏi: “Cô nghe nói Tào Tháo có cử sứ giả tới đây. Nguyên Trực tới đây là vì việc này sao?”

Từ Thứ chắp tay nói: “Quả nhiên chúa công liệu việc như thần”.

Tôn Quyền khoát tay nói: “Nguyên Trực không cần phải đùa cợt Cô. Có phải Tào Tháo cử sứ giả tới để liên kết đồng minh không?”

Từ Thứ nói: “Đúng vậy”.

Tôn Quyền hỏi: “Vậy Nguyên Trực cho rằng chúng ta có nên liên kết đồng minh với Tào Tháo không?”

Từ Thứ nói: “Nên”.

“Ai” Tôn Quyền vỗ tay cười nói: “Mới rồi Công Cẩn còn phái người đưa thư tới khuyên Cô nên kết đồng minh với Tào Tháo. Đáng buồn cười là có người lại khuyên Cô hãy nhân cơ hội này đánh chiếm Kinh Châu. Quả thật không biết thức thời chút nào. Chỉ có Công Cẩn và Nguyên Trực là vẫn giữ được đầu óc tỉnh táo. Có nhị vị giúp sức, có thể nói là ông trời đã không chê Cô”.

Từ Thứ nói: “Chúa công nói quá lời. Thứ thẹn không dám nhận”.

Tôn Quyền nói: “Nguyên Trực hãy mau quay về thông báo với sứ giả của Tào Tháo là Cô muốn kết đồng minh”.

Từ Thứ nói: “Chúa công, vẫn còn một chuyện”.

“Chuyện gì?”

‘Sứ giả của Tào Tháo còn tiết lộ một tin tức: Mã đồ phu không đánh mà thắng đã bình định Tây Xuyên. Hiện tại Kinh Châu rơi vào tình cảnh lưỡng bề thọ địch, tình hình cực kỳ bất ổn”.

“Hả?” Ánh mắt Tôn Quyền chợt loé, hắn nghiêm giọng hỏi: “Mã đồ phu đã bình định Tây Xuyên rồi ư?”

Từ Thứ nói: “Đúng là như vậy”.

Đột nhiên Tôn Quyền trở về trước án, hắn mở tấm bản đồ quân sự trên án, nhìn Từ Thứ nói: “Tới đây, Nguyên Trực lại đây”.

Đợi khi Từ Thứ tiến tới trước án, Tôn Quyền chỉ vào bản đồ nói: “Mặc dù Mã đồ phu không đánh mà bình định được Tây Xuyên nhưng chỉ e đại quân Tây Lương của hắn sẽ còn phải lưu lại Tây Xuyên một thời gi­an ngắn nữa. Chẳng phải đây là cơ hội tốt cho quân ta đánh chiếm toàn bộ Từ Châu sao?”

Từ Thứ vui vẻ nói: “Đây chính là điều Thứ muốn nói với chúa công”.

Tôn Quyền nói: “Cô nghe nói tới bây giờ Viên Thiệu vẫn chưa lập người thừa kế. Ba con trai vì chuyện này mà bất hoà, lục đục với nhau. Võ tướng, mưu sĩ dưới trướng Viên Thiệu chia làm bốn phe phái đối lập với nhau rõ ràng. Nếu như chúng ta có thể bày ra một mưu kế hay, có thể không đánh mà thắng, giải quyết Viên Thiệu, đánh chiếm Trung Nguyên, Từ Châu”.

Từ Thứ nói: “Thứ có một kế”.

Tôn Quyền nói: “Nguyên Trực cứ nói, đừng ngại”.

Từ Thứ nói: “Thứ nghe nói Viên Thiệu háo sắc. Sao chúa công không tuyển mười mỹ nữ Gi­ang Đông hiến cho Viên Thiệu? Viên Thiệu ngày ngày vui chơi, không biết kiềm chế, tất nửa đường chết sớm. Viên Thiệu vừa chết, ba con trai nhất định sẽ vì tranh giành địa vị mà chém giết lẫn nhau. Khi đó chỉ e lãnh địa của Viên Thiệu sẽ chia năm xe bẩy. Chẳng những chúng ta có thể đạt được mục đích dùng Viên trị Viên mà chúng ta còn có thể lợi dụng bộ hạ cũ của Viên thị từ phía tây giáp công Từ Châu. Chúa công có thể dễ dàng đoạt được vùng đất Từ Châu màu mỡ”.

“Diệu kế!” Tôn Quyền kích động nói: “Nếu như dùng mười mỹ nữ Gi­ang Đông mà có thể lấy được vùng Từ Châu màu mỡ, còn có thể làm tan rã Viên Thiệu, tay sai của Mã đồ phu thì sao lại không làm chứ?”

Từ Thứ nói: “Một khi chúa công có được tất cả từ Châu, căn cơ bắc phạt của quân ta đã có, sẽ không cần phải sợ hãi Mã đồ phu nữa”.

Tôn Quyền nói: “Người đâu!”.

Kiêu tướng Giả Hoa từ bên ngoài bước vào, ôm quyền nói: “Chúa công có gì phân phó?”

Tôn Quyền nói: “Hãy cấp tốc phái khoái mã tới Sài Tang, lệnh Đại đô đốc hoả tốc đến Lư Gi­ang, không được sai lệnh”.

“Tuân lệnh”.

Giả Hoa ầm ầm trả lời, lĩnh mệnh rời đi.

Tây Xuyên.

Tiết Thanh Minh, mưa bụi.

Mã Dược đang cùng Điển Vi, Giả Hủ, Pháp Chính, Trương Tùng, Phí Thi, Vương Luỹ, Trương Nhiệm, Nghiêm Nhan cùng văn quan, võ tướng Tây Xuyên. Nhưng rõ ràng Mã Dược là ý của tuý ông không phải là rượu ( ý nói có ý khác ). Ánh mắt hắn thỉnh thoảng ngắm nhìn những cô nương, tiểu nương tử che ô đi trên quan đạo.

Ở kiếp trước Mã Dược chưa từng tới Tứ Xuyên, cho tới lúc chết hắn chưa từng nếm thử qua hương vị của mỹ nữ Tứ Xuyên. Có thể nói kiếp trước của Mã Dược là một cuộc đời đầy tiếc nuối. Hiện tại bao vất vả xuyên tới đây, được sống lại, hơn nữa hắn lại trở thành một người có quyền có thế, chúa tể thiên hạ. Dĩ nhiên Mã Dược muốn thoải mái nhấm nháp hương vị của mỹ nữ Tây Xuyên.

Thế nhưng điều đáng tiếc là trên suốt đường đi hắn chỉ nhìn thấy những người nhan sắc tầm thường, rất có có thể lọt vào mắt của Mã Dược.

Mã Dược cảm thấy mất hứng, hắn đang định quay ngựa về thành thì đột nhiên một chiếc xe ngựa chạy ngang qua. Trong lúc vô tình Mã Dược quay đầu lại nhìn. Vừa hay ngay lúc đó gió thổi hất tung một góc rèm cửa sổ của xe. Mã Dược kinh ngạc khi nhìn thấy một thiếu phụ đang ngồi trong xe, dáng điệu cực kỳ rung động lòng người. Hơn nữa thiếu phụ vẫn đang chịu tang, càng làm tăng thêm vẻ quyến rũ của mình.

Trương Tùng vừa mới đảm nhiệm chức Thứ Sử Ích Châu lặng lẽ đi lên nhìn Mã Dược nói: “Chúa công, đây là xe ngựa của phủ Lưu Ích Châu”.

“Hả?”

Mã Dược ngẩn người mê mẩn, ánh mắt mập mờ nhìn Trương Tùng.

Trương Tùng ngầm hiểu. Hắn hạ giọng nói: “Tiểu nương tử ngồi trong xe ngựa là Ngô thị, tẩu quả phụ của Lưu Ích Châu, nổi danh là mỹ nhân của Tây Xuyên”.

“Ha ha ha” Mã Dược vuốt chòm râu dài rậm dày của mình, hắn thắng ngựa, quay đầu lại nhìn Giả Hủ nói: “Đi, quay về thành. Ta tới Thành Đô cũng mấy tháng rồi cũng nên tới bái phỏng Lưu Ích Châu”.

Lữ Mông ngẩng đầu bước vào đại sảnh, hắn nhìn Chu Du, ôm quyền, cao giọng nói: “Mạt tướng tham kiến Đại đô đốc”.

“Tử Minh, ngươi đã đến rồi” Chu Du mỉm cười, hắn bỏ cuốn binh thư trong tay xuống, ngoắc tay nói: “Hôm nay không phải là buổi thương nghị việc quân chính thức. Tử Minh không cần phải trịnh trọng như vậy. Tới ngồi đi”.

“Tạ ơn Đại đô đốc”.

Lữ Mông cung kính ôm quyền vái chào sau đó hắn tiến lên hai bước ngồi đối diện với Chu Du.

(Thời Tam Quốc tiếp khách không dùng ghế. Cả chủ và khách đều ngồi xổm )

Chu Du nói: “Nghe nói Tử Minh ngày đêm nghiên cứu binh thư tới tình trạng mất ăn mất ngủ, chẳng hay có thực thế không?”

Lữ Mông vội nói: “Trong lúc rảnh rỗi làm chút việc giết thời gi­an”.

“A, Tử Minh bất tất phải khiêm tốn” Chu Du vui vẻ nói: “Nếu tất cả chư tướng quân Ngô đều giống như Tử Minh giản dị, hiếu học thì lo gì không diệt được Mã nghịch tặc, thiên hạ không thái bình”.

Lữ Mông nói: “Đại đô đốc quá khen, Mông thẹn không dám nhận”.

“Hôm nay bản Đô đốc muốn khảo nghiệm ngươi để xem ngươi học hành có đến nơi đến chốn không?” Chu Du nói một hồi rồi bất chợt hắn chuyển giọng vô cùng nghiêm nghị nói: “Chẳng hay Tử Minh có nhận xét gì về cục diện thiên hạ hôm nay?”

Lữ Mông suy nghĩ một lát rồi hắn nghiêm nghị đáp: “Thiên hạ ngày nay, Mã đồ phu đang trong lúc hưng thịnh, lại có Viên Thiệu làm tay sai. Quân ta chỉ có thể liên kết cùng Tào Tháo mới có thể chống đỡ được”.

Chu Du nói: “Quân Ngô chống lại quân Lương liệu có thể thủ thắng hay không?”

Lữ Mông nói: “Không thắng chỉ có bại”.

Chu Du nói: “Vậy cần phải làm gì?”

Lữ Mông nói: “Chỉ có thể dựa vào địa hình sông rạch chằng chịt của Gi­ang Đông, phát triển mạnh thuỷ quân, dùng thuỷ quân để kiềm chế thiết kỵ Tây Lương thì Gi­ang Đông có thể tự bảo vệ mình, không cần lo lắng”.

“Kẻ sĩ cần phải thay đổi cách nhìn triệt để” Chu Du vui vẻ nói: “Tử Minh nói rất đúng. Nếu luận về dã chiến quân ta tuyệt đối không bằng quân Lương. Chúng ta chỉ có thể dựa vào thuỷ quân mới có thể tự bảo vệ mình. Nhưng trong chiến lược của quân ta cũng không thể tiêu cực như vậy, cũng cần phải tích cực bắc phạt, mưu đồ Từ Châu, Trung Nguyên tiến tới cùng Mã đồ phu phân chia Lưỡng Hán”.

“Thời cơ tới rồi” Chu Du kích động nói: “Chúa công cho đòi tất là vì việc bắc phạt”.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 333: Bạo bệnh bỏ mình (1)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Lưu Chương kéo Trương Tùng ra một góc, thì thào hỏi: “Vĩnh Niên, rốt cuộc là Thừa tướng đến chơi là có việc gì?”

“Khụ khụ” Trương Tùng ho khan hai tiếng, hắn nhìn cung quanh rồi nói: “Chẳng lẽ Lưu sứ quân không nhìn ra sao?”

Lưu Chương nói: “Thật không biết”.

Trương Tùng thì thào: “Chẳng lẽ sứ quân không nghe nói về tật xấu của bậc Đế vương sao?”

“Tật xấu của bậc Đế vương?” Lưu Chương chợt hiểu, sắc mặt vô cùng khó chịu, hắn tức giận nói: “Thừa tướng hiếp người quá đáng”.

“Ai. Lưu sứ quân nói quá lời” Trương Tùng khuyên nhủ: “Thiết tưởng lệnh tẩu chính đang tuổi thanh xuân mà phải thủ tiết, chẳng lẽ đó là tuân theo đạo lý nhân luân sao? Trong khi đó Thừa tướng oai hùng lẫm lịêt, thiên hạ vô song. Lệnh tẩu được kết duyên với Thừa tướng có thể nói là anh hùng sánh với mỹ nhân. Chẳng lẽ đây không phải là một việc tốt sao? Nhìn khắp Tây Xuyên này có biết bao nhiêu người nịnh bợ tìm cách hiến mỹ nhân cho Thừa tướng. Lưu sứ quân cần gì phải già mồm cãi láo”.

“Điều này…”.

Lưu Chương nhất thời nghẹn lời.

Trương Tùng lại nói: “Lưu sứ quân, tại hạ nghe nói Thừa tướng đã dâng tấu lên Thiên tử tâu xin sứ quân vào triều vì là tôn thất. Dù thánh chỉ của Thiên Tử vẫn còn chưa tới nhưng tại hạ có thể sẽ sớm được chúc mừng sư quân”.

“Thật vậy không?” Ánh mắt Lưu Chương buồn bã, hắn thở dài nói: “Hiểu rồi”.

Lúc này thời tiết Tây Xuyên se lạnh, cửa sổ của sương phòng phía tây đã sớm khép lại, chỉ còn tiếng đàn du dương, êm tai, cùng với đó là giọng ca uyển chuyển truyền ra ngoài theo khe cửa hẹp. Ngọn đèn mờ ảo hắt thân hình mê người của vũ nữ lên cửa sổ, có vẻ vô cùng thướt tha mềm mại.

Bên trong sương phòng, Ngô thị, tẩu quả phụ của Lưu Chương đang đánh đàn gần cửa sổ, lửa than nóng hừng hực thiêu đốt, tron phòng ấm áp như mùa xuân. Sắc mặt Ngô thị như hoa đào, càng lúc càng quyến rũ, đôi mắt trong veo, long lanh rung động lòng người, ngón tay ngọc khẽ đưa, tiếng đàn như nước chảy, tri âm tri kỷ (tri âm tri kỷ; cao sơn lưu thuỷ (Bá Nha có tài gảy đàn, Tử Kỳ có tài thưởng thức. Khi Bá Nha gảy đến đoạn miêu tả núi cao, nước chảy thì Tử Kỳ thốt lên: ‘Tuyệt! Tuyệt! cao như Thái Sơn, dài như Trường Gi­ang!’) làm cho người nghe quyến luyến quên cả lối về.

Một đội vũ nữ Tây Xuyên đang nhẹ nhàng khiêu vũ, làn lụa mỏng trên người, căn bản không thể chư hết xuân sức mê người, vô cùng hấp dấn. Mắt Mã Dược sáng quắc như đuốc rơi trên người những vũ nữ nóng bỏng sau đó hắn uống cạn một chung mỹ tửu.

Cảm giác say dang lên, trong khoảnh khắc ánh mắt Mã Dược trở nên vô cùng nóng bỏng.

“Mỹ nhân” Mã Dược giơ tay ngoắc Ngô thị, cười nói: “Lại đây. Mau tới đây”.

Ngô thị không dám cãi lời, yểu điệu, chậm chậm bước tới bên người Mã Dược. Ngay khi Ngô thị còn cách Mã Dược hai bước chân, Mã Dược đã giơ tay ôm Ngô thị kéo vào lòng mình. Những tiếng soàn soạt vang lên, y phục trên người Ngô thị đã bị xé rách, một đôi nhũ hoa đầy đặn, vểnh cao bắn tung ra ngoài, chạm vào mặt Mã Dược, khiêu khích lòng người.

Ngô thị “ưm” một tiếng, sắc mặt đỏ bừng xấu hổ.

Ham muốn của Mã Dược đã bốc lên ngùn ngụt, bàn tay hắn lại lần xuống cởi quần của Ngô thị, kiều đồn loã thể, đẫy đà, ngạo nghễ hiện ra trước mắt Mã Dược. Mã Dược cười ha hả, hắn ôm vòng eo nhỏ nhắn của Ngô thị , bắt nàng quỳ dạp trên trên mặt thảm mềm mại sau đó hai tay hắn tay năm tay mười, vỗ mạnh vào kiều đồn trắng như tuyết của nàng.

Ngô thị khẽ rên rỉ một tiếng, trên kiều đồn của nàng đã hiện lên hai dấu tay rất rõ ràng, có hoa văn như hai đó hoa mai, cực kỳ kiều diễm, quyến rũ.

Phủ Đại tướng quân.

Viên Thiệu đang cùng mưu sĩ tâm phúc Thẩm Phối, Phùng Kỷ uống rượu mua vui. Trong đại sảnh có hai đội vũ nữ Sơn Việt đang cầm đoản kiếm, khiên mộc ca múa giúp vui. Bên cạnh Viên Thiệu còn có hai mỹ nữ Gi­ang Đông phụng bồi rót rượu. Tay phải ôm, tay trái ấp vô cùng khoái hoạt.

“Những mỹ nữ Gi­ang Đông này thật sự là tươi ngon mọng nước” Mưu sĩ Thẩm Phối là một trung thần nhưng trung thần thì cũng háo sắc. Nhìn đội vũ nữ Sơn Việt ca múa trong đại sảnh, mắt Thẩm Phối hiện lên sự dâm đãng, hắn lên tiếng khen ngợi: “Ài, nhìn vòng eo thon uốn éo, làn da mỏng có thể vắt ra nước, thật sự chỉ muốn ôm vào lòng nếm thử một phen”.

“Mỹ nữ Gi­ang Đông không chỉ có làn da mềm mại” Viên Thiệu cười nói: “Nếu như Chính Nam yêu mến, sao không chọn lấy hai người từ đội vũ nữ Sơn Việt này?”

Thẩm Phối vui mừng nói: “Thật thế sao, chúa công?”

Viên Thiệu nói: “Có khi nào Cô đã nói chơi chưa?”

“Vậy tạ ơn chúa công” Thẩm Phối vội nói: “Nếu vậy tại hạ chọn hai vũ nữ mông to, eo nhỏ, mặt trái xoan kia”.

“Được” Viên Thiệu vung tay, sảng khoái nói: “Vậy hai vũ nữ đó là người của Chính Nam”.

“Vậy tại hạ xin kính chúa công một chén” Thẩm Phối giơ chung rượu, không kìm được niềm vui mừng nói: “Đa tạ chúa công ban thưởng mỹ nữ”.

“Được” Viên Thiệu cười to nói: “Uống, ha ha ha ha ha..ai!”.

Viên Thiệu đang cười thì đột nhiên “ai” một tiếng. Sắc mặt hắn lập tức trở nên đờ đẫn, ngay sau đó ngã xuống. Thẩm Phối, Phùng Kỷ kinh hoàng tiến tới đỡ Viên Thiệu dậy thì phát hiện ra Viên Thiệu đã sùi bọt mép, bất tỉnh nhân sự. Hai mỹ nữ Gi­ang Đông đang hầu cận bên cạnh Viên Thiệu sợ hãi tái mét mặt.

Năm thứ mười hai Kiến An, Hán Hiến Đế, Đại tướng quân Viên Thiệu qua đời, hưởng thọ bốn mươi bảy tuổi.

Thẩm Phối, Phùng Kỷ, Tần Bình, Tân Tì và các đại thần đang tụ tập bên ngoài phòng của Viên Thiệu. Tất cả mọi người đều bất an, nôn nóng, sắp không nhẫn nhịn được nữa thì chợt thấy lang trung với vẻ mặt buồn rầu từ trong phòng của Viên Thiệu đi ra. Thẩm Phối, Phùng Kỷ cầm đầu đám đại thần xông tới.

“Bệnh tình của chúa công như thế nào?”

“Chúa công có tỉnh lại không?”

Lang trung thở dài, lắc đầu.

“Két két!”.

Cánh cửa phòng một lần nữa được mở ra, chính thê Lưu thị của Viên Thiệu mặt mày tức giận từ bên trong đi ra quát to: “Viên Ngũ đâu?”

Một lão gia tướng tuổi gần năm mươi tiến lên đáp: “Có lão nô”.

Lưu thị nghiến răng nghiến lợi quát to: “Hãy đi bắt trói hai con tiện nhân Gi­ang Đông lại. Hãy dùng roi đánh tới chết, sau đó hãy dùng kim rạch nát mặt chúng để sau khi chúng chết tới âm phủ không còn quyến rũ nam nhân nữa”.

“Lão nô lĩnh mệnh”.

Lão gia tướng trả lời rồi rời đi. Chỉ một lát sau đã dẫn theo gia đinh bắt trói hai mỹ nữ Gi­ang Đông hoa dung thất sắc từ sương phòng ở hai bên ra ngoài. Hiển nhiên hai mỹ nữ Gi­ang Đông này cũng hiểu được số mệnh của mình. Cả hai khóc lóc cầu xin Lưu thị tha thứ: “Phu nhân, xin tha mạng, phu nhân xin tha mạng”.

Nhưng Lưu thị không thèm quan tâm tới lý lẽ, sắc mặt càng lúc càng trở nên hung tợn.

Một lúc lâu sau, trong sảnh của phủ Đại tướng quân.

Ba đại mưu sĩ Thẩm Phối, Phùng Kỷ và Tân Bình đang cùng chính thế Lưu thị của Viên Thiệu mật nghị việc người thừa kế.

Viên Đàm, Viên Hi, Viên Thượng đều do Lưu thị sinh ra. Nhưng Viên Thiệu và Lưu thị đều giống nhau, đó là yêu mến Viên Thượng hơn. Cả hai đều có ý lập Viên Thượng làm thế tử. Nhưng lo lắng việc phế trưởng lập thứ là trái với đạo lý nên Viên Thiệu vẫn chần chừ chưa quyết. Điều này lại là nguyên nhân dẫn tới đại hoạ diệt vong cho Viên gia.

Lưu thị nhìn ba người Thẩm Phối nói: “Thiếp thân thừa hưởng ý nguyện của tiên phu muốn lập tam tử Viên Thượng là người kế vị. Chẳng hay có được không?”

Tân Bình có quan hệ thân thiết với trưởng tử Viên Đàm của Viên Thiệu nên hắn kập tức lên tiếng phản đối: “Phu nhân không thể. Cái này là tôn ti trưởng thứ. Há có thể làm trái với quy định của người xưa sao? Thiết nghĩ nên lập trưởng công tử Viên Đàm kế vị. Nếu làm ngược lại thì chỉ e sẽ gây hoạ khôn cùng”.

Lưu thị cau mày không nói.

Thẩm Phối xưa nay thân thiết với Viên Thượng lập tức phản bác: “Tân Bình đại nhân sai rồi. Tam công tử oai hùng tài hoa, văn võ kiêm toàn nên lập làm người thừa kế gánh vác trách nhiệm Đại tướng quân”.

Tân Bình, Thẩm Phối tranh cãi một hồi vẫn không ngã ngũ. Lưu thị hỏi Phùng Kỷ: “Chẳng hay ý của Kỷ đại nhân thế nào?”

Phùng Kỷ nói: “Tại hạ chỉ như thiên lôi chỉ đâu đánh đấy của phu nhân”.

Lưu thị nói: “Vậy hãy bí mật không phát tang. Triệu hồi công tử Thương quay về Bộc Dương kế vị sau đó mới triệu tập công tử Đàm, công tử Hi cùng Cao Kiền quay về Bộc dương sau đó sẽ phát tang, đưa linh cữu về mai táng ở Nghiệp Thành”.

Sau khi được triều đình sắc phong làm Thứ Sử Dương Châu, Viên Đàm được Viên Thiệu chia cho năm vạn đại quân đóng ở Nhữ Nam, tư thế sẵn sàng có thể đánh chiếm Hoài Nam bất kỳ lúc nào.

Ban đêm

Viên Đàm vừa mới đi tuần tra quân doanh quay về tới Bình Dư ( quận thủ của quận Nhữ Nam ) chưa cả kịp cởi giáp thì bất chợt có một tên tiểu giáo đi vào bẩm báo: “Tướng quân, Tân Bình tiên sinh tới chơi”.

“Tân Bình tiên sinh ư?” Viên Đàm vội la lên: “Mau mời tiên sinh vào”.

Tên tiểu giáo lĩnh mệnh rời đi, chỉ một lát sau hắn đã dẫn Tân Bình đi vào. Tân Bình vội vàng la lên: “Công tử, xảy ra đại sự rồi”.

Viên Đàm hỏi: “Có chuyện gì?”

Tân Bình đưa mắt ra hiệu cho Viên Đàm. Viên Đàm hiểu ý hắn lập tức cho tả hữu lui ra bên ngoài rồi mới hỏi: “Trọng Trì, đã xảy ra chuyện gì vậy?”

Tân Bình ủ rũ nói: “Chúa công đã qua đời rồi”.

“Hả?” Viên Đàm kinh hãi, đột nhiên hắn quỳ xuống hướng về phía bắc, khóc khan: “Phụ thân, phụ thân…”.

“Công tử, bây giờ không phải là lúc bi thương” Tân Bình hít một hơi thật sâu, hắn trầm giọng nói: “Phu nhân và Thẩm Phối, Phùng Kỷ mật mưu muốn triệu tam công tử Viên Thượng làm người kế vị, đã lập tức triệu hồi Viên Thượng quay về Bộc Dương. Công tử cần nhanh chóng quyết đoán làm chuyện gì đó. Nếu không một khi để Viên Thượng được lập làm người kế vị, nhất định công tử sẽ chết không nơi chôn thây”.

“Cái gì?” Viên Đàm giận tím mặt nói: “Bản công tử mới là trưởng tử. Chức vị Đại tướng quân của phụ thân đương nhiên phải do bản công tử thừa kế. Viên Thượng có tư cách gì mà kế vị? Quả thực rất buồn cười”.

“Công tử” Tân Bình nói: “Viên Thượng có phu nân, Thẩm Phối, Phùng Kỷ ủng hộ. Việc kế thừa chức vị Đại tướng quân của chúa công chỉ e là việc trong sớm tối. Chuyện đã xảy ra tới giờ cũng không còn biện pháp nào khác. Công tử hãy nhanh chóng dẫn đại quân đánh tới Bộc Dương, đánh chiếm thành Bộc Dương đoạt lấy tức vị trước Viên Thượng, công bố di chiếu của chúa công trước thiên hạ. Chỉ có thể làm như vậy mới vãn hồi được đại cục”.

“Được, cứ làm thế đi” Viên Đàm tức giận vỗ án nói: “Người đâu, đánh trống thăng trướng”.

Phùng Kỷ nhìn Thẩm Phối nói: “Chính Nam huynh, tại hạ vừa mới được biết Tân Bình giả ốm ở nhà”.

“A” Thẩm Phối nói: “Vậy trong này tất có gi­an trá gì đó”.

“Đúng vậy” Phùng Kỷ nói: “Thật ra Tân Bình đã sớm rời Bộc Dương từ năm ngày trước. Ta và đại nhân vẫn bị hắn lừa chẳng hay biết gì”.

“Tân Bình rời Bộc Dương vào lúc này sao?” Thẩm Phối trầm ngâm một lát rồi hắn biến sắc, thất thanh la lên: “Nhất định người này đã đi Như Nam rồi”.

Phùng Kỷ nói: “Tại hạ cũng nghĩ là như vậy”.

Thẩm Phối nói: “Một khi Tân Bình đã đi Nhữ Nam thì nhất định hắn muốn đi báo tin cho Viên Đàm. Dựa vào tính cách của Viên Đàm, khi hắn biết phu nhân muốn phế trưởng, lập thứ nhất định hắn sẽ không cam tâm. Rất có thể hắn sẽ dẫn binh tiến đánh Bộc Dương, đoạt lấy quyền thừa kế ngay trước công tử Thượng, thay đổi thế cục. Nếu một khi như vậy thì tình hình rất nguy hiểm”.

Phùng Kỷ nói: “Nếu thật sự Viên Đàm khởi binh làm loạn, không biết Chính Nam huynh có diệu kế đối phó hay không?”

Mắt Thẩm Phối lộ hàn quang, hắn trầm giọng nói: “Chuyện tới nước này thì chỉ e không còn biện pháp nào khác. Chỉ còn cách vung đao loại bỏ kẻ đối nghịch, ổn định thế cục trong thời gi­an ngắn nhất nếu không cơ nghiệp của chúa công sẽ bị huỷ trong chốc lát. Khi đó chẳng những Tôn Quyền, Tào Tháo có thể dẫn quân công phạt mà ngay cả Mã đồ phu cũng có thể tận dụng cơ hội giậu đổ bìm leo”.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 333: Bạo bệnh bỏ mình (2)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

“Nếu đã là như thế thì không nên chậm trễ, ta và ngươi lập tức chia nhau hành động” Phùng Kỷ nói: “Chính Nam huynh hãy mau chóng tới Trần Lưu yêu cầu công tử Thượng dẫn quân về Bộc Dương. Ngay trong đêm tại hạ cũng đi ngay tới Sơn Dương để nhị công tử cũng dẫn quân quay về Bộc Dương. Còn nữa hãy mời tướng quân Cao Kiền triển khai quân pòng thủ Bộc Dương ra xung quanh Bộc Dương, giăng lưới đợi khi Viên Đàm dẫn quân tới tấn công Bộc Dương”.

“Được” Thẩm Phối nói: “Cứ làm như thế đi”.

Hai vạn quân Ngô tinh nhuệ đã được bí mật tập hợp. Lúc này Hợp Phì đã biến thành một doanh trại quân đội khổng lồ.

Trong trung quân đại trướng của Chu Du, Thái Sử Từ, Lữ Mông, Chu Nhiên, Chu Thái, Từ Thịnh, Tưởng Khâm, Toàn Tông và các tướng lĩnh Đông Ngô khác đang tụ tập , thảo luận sôi nổi việc bắc phạt.

“Đại đô đốc tới”.

Đột nhiên bên ngoài trướng vang lên tiếng hô. Các chư tướng trong trướng lập tức ngừng thảo luận.

Tiếng bước chân thong thả vang lên, Chu Du mặc nhung trang ( quân phục ), gương mặt tươi cười khoan thai đi vào trướng. Chư tướng hai tay ôm quyền, cao giọng nói: “Mạt tướng tham kiến Đại đô đốc”.

Sau khi Chu Du đi tới trước án, hắn khoát tay nói: “Chư vị tướng quân, miễn lễ”.

“Tạ ơn Đại đô đốc”.

Chư tướng ôm quyền tạ ơn rồi phân thành hai nhóm đứng hai bên.

Chu Du vung tay, hắn cao giọng nói: “Bản đồ”.

Ngay lập tức một tên tiểu giáo mở bản đồ ra treo trên tấm bình phong. Chu Du đi tới trước tấm bình phong, hắn vẫy tay nói với chư tướng nói: “Tới đây. Các vị tướng quân lại đây”.

Các tướng lĩnh làm theo tiếng lên vây xung quanh tấm bình phong.

Chu Du nói: “Chư vị tướng quân, mật thám vừa mới cấp báo. Nửa tháng trước Viên Thiệu đã chết. Mưu sĩ của Viên Thiệu là Thẩm Phối, Phùng Kỷ giả mạo di chúc lập tam tử của Viên Thiệu là Viên Thượng làm người kế vị. Trưởng tử của Viên Thiệu là Viên Đàm khởi binh làm phản, dẫn đại quân tấn công Bộc Dương nhưng đã bị liên quân Viên Thượng, Viên Hi, Cao Kiền đánh bại bên ngoài thành Bộc Dương. Hiện nay Viên Đàm đã dẫn tàn quân lui về Nhữ Nam”.

“Viên Thiệu đã chết sao? Thật sự rất tốt” Đại tướng Thái Sử Từ nói: “Hiện tại Mã đồ phu đang ở mãi Tây Xuyên. Viên Thiệu lại vừa chết, còn ai có thể ngăn cản quân ta bắc phạt? Lúc này không lấy Trung Nguyên thì còn đợi khi nào nữa?”

“A, Thái Sử Từ tướng quân hãy bình tĩnh một chút” Chu Du mỉm cười nói: “Lúc này vẫn chưa có cơ hội khởi binh bắc phạt”.

“Cơ hội?” Thái Sử Từ nói: “Điều đó có ý gì?”

“Nói cách khác bây giờ vẫn chưa phải lúc” Chu Du nới: “Ngay bây giờ khởi binh bắc phạt rất có thể khiến cho Viên Đàm, Viên Thượng tạm thời bãi binh, liên kết chống lại quân ta. Nếu quân ta tiếp tục chờ thêm một thời gi­an nữa chờ khi Viên Đàm lâm vào đường cùng cầu cứu quân ta, khi đó chính là lúc tiến quân. Khi đó chẳng những có thể phân hoá quân Hà Bắc, còn có thể làm cho bộ hạ cũ của Viên gia tự giết lẫn nhau, quân ta sẽ không đánh mà thắng, đánh được Trung Nguyên, vậy hà cớ gì mà không làm?”

“Viên Đàm cầu cứu sao?” Thái Sử Từ không hiểu hỏi: “Hai năm nay Viên Đàm chỉ huy đại quân đóng ở Nhữ Nam, hắn vẫn gi­ao chiến cùng quân ta. Tại sao hắn lại cầu cứu quân ta? Đáng lẽ hắn phải cầu cứu quân Lương mới đúng chứ?”

Chu Du nói: “Mã đồ phu, Giả độc sĩ ở Tây Xuyên xa xôi. Trong lúc cấp bách, thông tin khó khăn. Mã Siêu lại vừa dẫn quân viên chinh Tây Vực. Lúc này trong thành Lạc Dương không còn ai có thể trủ trì đại cục. Nếu như không được Mã đồ phu cho phép, thử hỏi Phương Duyệt, Từ Hoảng, Hứa Chử có dám xuất binh cứu viện Viên Đàm không? Nếu như Viên Đàm muốn sống sót, hắn chỉ có thể nịnh nọt lấy lòng, cầu cứu quân ta”.

Thái Sử Từ nói: “Thì ra là như vậy”.

Chu Du chỉ tay vào bản đồ trên bình phong, cao giọng nói: “Bởi vì Mã đồ phu đang ở Tây Xuyên xa xôi, quân Lương đương nhiên không kịp phản ứng. Việc công chiếm Trung Nguyên cũng không phải việc khó. Vấn đề quan trọng nhất là trong khoảng thời gi­an ngắn nhất làm thế nào đánh tan được quân của Viên Thượng sau đó huy động binh lực từ hướng đông, hai mặt giáp công Từ Châu. Quân ta nhất định phải đoạt được Từ Châu trước khi Mã đồ phu quay lại Lạc Dương, quân Lương kịp ra tay phản ứng”.

Lữ Mông nói: “Viên Thiệu chết đã nửa tháng. Nếu như quân Lương dùng khoái mã tám trăm dặm cấp tốc báo tin, nhất định Mã đồ phu sẽ biết tin ngay trong nay mai. Chờ khi Mã đồ phu quay lại Lạc dương, điều phối quân đội, lương thảo. Mạt tướng cho rằng ít nhất phải mất hai tháng nữa quân Lương mới có thể xuất đại quân từ hai vạn trở lên”.

“Không, ít nhất phải ba tháng nữa” Chu Du quả quyết nói: “Nếu như Mã đồ phu không đánh mà thắng, chiếm được Tây Xuyên thì với tính cách của hắn, hắn tuyệt đối sẽ không để mười vạn quân Xuyên lưu lại Tây Xuyên, hắn nhất định sẽ điều mười vạn quân Xuyên rời khỏi Tây Xuyên sau đó chuyển quân đội bên ngoài Xuyên vào trú đóng ở các quận Tây Xuyên. Các công việc này vô cùng phức tạp. Nhất định không thể hoàn thành trong vòng nửa năm”.

Lữ Mông nói: “Hơn nữa trước khi thế cục Tây Xuyên hoàn toàn ổn định Mã đồ phu tuyệt đối không dám tuỳ tiện rời khỏi Tây Xuyên”.

Thái Sử Từ hỏi: “Tại sao lại như vậy?”

Lữ Mông nói: “Bởi vì Tào Tháo ở ngay Kinh Châu, chỉ Mã đồ phu có chút sơ sẩy thì Tào Tháo sẽ thừa dịp tiến vào đánh Tây Xuyên”.

“Không hổ là Tử Minh” Chu Du vui vẻ gật đầu, hắn nhìn chư tướng nói: “Nói cách khác quân ta có htời gi­an ba tháng để bức bách quân Từ Châu hoàn toàn khuất phục’.

Tân Bình vội vã đi vào đại trướng, hắn nhìn Viên Đàm nói: “Chúa công, phản quân của Viên Thượng, Viên Hi, Cao Kiền từ ba hướng đã đánh tới, chỉ còn cách thành Bình Dư không tới một trăm dặm”.

“Hả?” Viên Đàm nghe vậy kinh hãi nói: “Chúng đuổi theo nhanh như vậy sao?”

Tân Bình trầm giọng nói: “Xem ra Viên Thượng có ý đuổi cùng giết tận chúa công”.

“Viên Thượng!” Viên Đàm nghiến răng nghiến lợi, cuối cùng hắn vẫn không có cách nào đành phải hỏi Tân Bình: “Quân ta mới bại, tinh thần quân lính dao động. Sĩ khí phản quân đương thịnh. Lúc này mà liều mạng thì chỉ e không thắng được. Nếu như tử thủ trong thành Bình Dư thì cũng không còn nhiều lương thảo. Bây giờ chúng ta cần phải làm gì đây?”

Tân Bình nói: “Chuyện tới lúc này cũng chỉ còn cách cầu viện người khác”.

“Cầu viện ư?” Viên Đàm chợt hiểu nói: “Đúng, suýt nữa Cô đã quên cầu viện Lương công. Lương công và tiên phụ chính là đồng minh, theo đạo lý Cô chính là người kế thừa đại nghiệp của tiên phụ. Chỉ cần Cô gửi một phong thư nói rõ âm mưu soán vị của Viên Thượng, nhất định Lương công sẽ xuất binh chủ trò công đạo. Hừ hừ, có quân Lương trợ giúp, Cô không còn phải sợ thằng nhãi Viên Thượng nữa”.

“Chúa công” Tân Bình nói: “Lương công ở Tây xuyên xa xôi. Nếu bây giờ cầu cứu Lương công thì chỉ e không kịp nữa”.

Viên Đàm nói: “Hà cớ gì phải cầu cứu Lương công, không phải ở Lạc dương, Hổ Lao quan, Tỵ Thuỷ quan có trú đóng mấy ngàn quân thiết kỵ Tây Lương sao?”

Tân Bình cười gượng nói: “Chúa công, nếu như không được Lương công cho phép. Quân thiết kỵ Tây Lương trấn giữ Lạc Dương, Hổ Lao quan, Tỵ Thuỷ quan có dám tự động xuất binh hay không? Nếu như đợi khi Lương công biết tin tức, phái binh mã từ Lạc dương tới cứu viện, ít nhất cũng phải mất mấy tháng. Lúc đó thì chỉ e quân ta đã không thể cầm cự nổi”.

Viên Đàm lo sợ bất an nói: “Vậy phải làm gì?”

Tân Bình trầm giọng nói: “Chuyện cho tới nước này cũng không còn diệu kế nào khác. Chúng ta chỉ còn cách cầu cứu quân Ngô ở gần”.

Thành Đô, phủ tạm thời của Mã Dược.

Giả Hủ nhìn Mã Dược nói: “Chúa công, Trương Tú, Thái Thú Hán Trung vừa mới báo tin: Cả nhà Lưu Chương đã tới Trường An, gia đình Đổng Phù, Triệu Vĩ chuyển tới Mạc Bắc cũng đã tới Dương Bình quan”.

“Ừ’ Mã Dược gật đầu hỏi: “Việc sắp xếp quân Xuyên chuyển tới đồn điền Nam Dương đã tiến hành thế nào?”

Pháp Chính nói: “Chúa công, mười vạn quân Xuyên vốn trú đóng ở Tử Đồng, Lãng Trung đã lên đường, nhất định hiện tại đã tiến tới Thượng Dung thế nhưng còn năm vạn quân Xuyên phần lớn phân tán ở các quận Ích Châu đang tụ họp ở Lãng Trung, phải mất một khoảng thời gi­an nữa, khoảng chừng nửa tháng mới có thể khởi hành”.

Mã Dược nói: “Trương Vệ, Dương Nhiệm, Dương Ngang chỉ huy quân Hán Trung đã tiến tới đâu rồi?”

Pháp Chính nói: “Quân Hán Trung hiện tại đã tới Lâm Gi­ang, chỉ còn cách Vĩnh An hơn ba trăm dặm”.

“Ôi” Giả Hủ thở phào một hơi dài, hắn nói vẻ thư thái: “Chúa công, chỉ hơn nửa tháng nữa quân ta có thể quay lại Lạc Dương. Cái địa phương Tây Xuyên quỷ quái này vừa ẩm ướt vừa lạnh giá làm các đầu gối của thuộc hạ đã sưng lên hết cả rồi”.

“Đúng vậy, cũng nên ban sư hồi hương” Mã Dược nói: “Rời Lạc Dương đã hơn nửa năm, trong lòng Cô thật sự cũng không nỡ”.

“Chúa công!” Mã Dược vừa nói xong, Lý Túc đã hấp tấp bước vào, hắn thở hổn hển nói: “Xảy ra chuyện rồi”.

Mã Dược giật mình hoảng hốt, hắn trầm giọng hỏi: “Tử Nghiêm, đã xảy ra chuyện gì?”

Lý Túc nói: “Nửa tháng trước, Đại tướng quân Viên Thiệu đã đột tử”.

“Hả?’ Viên Thiệu thất thanh nói: “Viên Thiệu đã chết sao?”

‘Đã chết!” Lý Túc trầm giọng nói: “Nghe nói vì tửu sắc quá độ, trúng gió mà chết”.

“Hỏng rồi” Giả Hủ kích động nói: “Viên Thiệu chết bất đắc kỳ tử, không chỉ định người thừa kế, Viên Thượng, Viên Đàm đều có mục đích riêng cần phải đạt được. Vì vậy việc thừa kế cơ nghiệp Viên gia khó tránh khỏi xung đột với nhau. Đây chính là cơ hội giải quyết đầu heo vỗ béo Viên Thiệu kia nhưng lúc này chúa công đang ở Tây Xuyên. Nhất định Chu Du sẽ nhân cơ hội này hưởng lợi”.

“Chúa công!”Pháp Chính nói: “Không thể tiếp tục ở lại Tây Xuyên nữa, chúng ta phải lập tức quay về Lạc Dương”.

Mã Dược cau mày nói: “Nếu như bây giờ chúng ta ban sư quay lại Lạc Dương, năm vạn quân Xuyên còn lại thì thế nào?”

Giả Hủ đột nhiên nói: “Chúa công, Hủ có một câu chẳng biết có nên nói hay không?”

Mã Dược nói: “Cứ nói đừng ngại”.

Giả Hủ nói: “Hủ cho là chúa công cũng nên hoàn toàn tin tưởng quân Xuyên”.

Mã Dược nói: “Ý của Văn Hoà là…”.

Giả Hủ nói: “Chúa công hãy chọn một người trong số các tướng lĩnh Tây Xuyên thống lĩnh năm vạn đại quân Xuyên đó cùng với Trương Tú tướng quân trấn thủ Tây Xuyên như thế có thể chứng minh trong lòng chúa công cô cùng tín nhiệm. Sau khi đại quân rời khỏi Tây Xuyên, việc phòng ngự Tây Xuyên sẽ vô cùng lỏng lẻo, trống rỗng. Nếu như chỉ dựa vào một vạn năm ngàn tinh binh của Trương Tú tướng quân chưa chắc đã có thể ngăn cản quân Kinh Châu của Tào Tháo”.

Mã Dược trầm ngâm một lát rồi hỏi: “Nhưng ai có thể đảm nhiệm được?”

Giả Hủ nói không chút do dự: “Hủ cho là Trương Nhiệm là người hữu dũng vô mưu, là người trung nghĩa có thể đảm nhiệm được”.

“Trương Nhiệm ư?” Mã Dược quát to: “Người đâu, hãy cấp tốc cho đòi Trương Nhiệm tướng quân tới đây”.

Mã Dược vô cùng tín nhiệm năng lực nhìn người của Giả Hủ. Đối với năng lực nhìn người mà nói, Mã Dược thật sự không thấy ai lợi hại hơn Giả Hủ.

Chu Du đang triệu tập chúng tướng thương nghị thì bất chợt có một tên tiểu giáo bước nhanh vào trướng, hắn quỷ xuống nói: “Đại đô đốc, bên ngoài quân doanh có một người tự xưng là sứ giả của Viên Đại tướng quân xin được cầu kiến Đại đô đốc’.

“Viên Đại tướng quân sao? Chỉ e là chính Viên Đàm tự phong cho mình. Ha ha” Chu Du cười to hai tiếng, hắn nhìn chư tướng nói: “Thời cơ bắc phạt đã tới. Mau truyền sứ giả của Viên Đàm vào trướng”.

Chỉ trong chốc lát, trong ánh mắt soi mói, ngập sát khí của chư tướng Đông Ngô, một nho sĩ mặc áo xanh không kiêu ngạo cũng chẳng tự ti bước vào đại trướng, hắn vái chào Chu Du, ngạo nghễ nói: “Tại hạ Tân Bì tham kiến Đại đô đốc”.

“Quý sứ bất tất phải đa lễ” Chu Du đột nhiên hỏi: “Chẳng hay tiên sinh tới đây có chuyện gì?”

Tân Bì nói: “Phụng mệnh Đại tướng quân tới cầu viện Đại đô đốc”.

“Cầu viện ư?” Chu Du mỉm cười nói: “Bản Đại đô đốc không nghe lầm đấy chứ? Hình như quý sứ đã quên. Trước đây không lâu hai nhà chúng ta vẫn còn đối địch với nhau”.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 334: Mười vạn thiết kỵ

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

“Việc đó chỉ là trong lúc nhất thời, trong lúc nhất thời” Tân Bì nói: “Cố chúa công chẳng may qua đời. Viên Thượng âm mưu soán vị. Đại tướng quân tuy có di chiếu của cố chúa công nhưng thân cô không thể chống lại được, hy vọng Đại đô đốc có thể ra tay cứu viện. Quân ta sẽ vô cùng cảm kích, tất có báo đáp. Đại tướng quân nguyện mang Từ Châu làm lễ vật tặng Đông Ngô”.

“Từ Châu?” Chu Du nới: “Nếu như bản Đại đô đôc nhớ không lầm, lúc này Từ Châu cũng không phải địa bàn nằm trong tay Viên Đại tướng quân”.

Tân Bì cau mày nói: “Nói như vậy, Đại đô đốc không muốn liên kết đồng minh sao?”

“Cũng không phải thế” Chu Du cao giọng nói: “Xin tiên sinh hãy lập tức quay lại báo với Viên Đại tướng quân, bản Đại đô đốc hoàn toàn có thể thay mặt Ngô gầu kết đồng minh với Đại tướng quân thế nhưng ngay sau khi diệt trừ Viên Thượng, Đại tướng quân cần phải xuất binh trợ giúp Ngô hầu tiến đánh Từ Châu”.

Nghe vậy Tân Bì vui mừng, chắp tay nói: “Tại hạ sẽ chuyển thiện ý của Đại đô đốc cho Đại tướng quân, cáo từ”.

Chu Du nói: “Không tiễn”.

Tân Bì một lần nữa chắp tay thi lễ sau đó hắn quay người rời khỏi đại trướng.

Đưa mắt nhìn theo bóng dáng xa dần của Tân Bì, Sắc mặt Chu Du đột nhiên trở nên nghiêm túc, hắn quát to: “Thái Sử Từ, Lăng Thống, Tôn Dực nghe lệnh”.

Ba tương Thái Sử Từ, Lăng Thống, Tôn Dực bước ra khỏi hàng, ôm quyền đáp: “Có mạt tướng”.

Chu Du nói: “Chỉ huy năm ngàn khinh kỵ ( Đông Ngô chỉ có bằng ấy kỵ binh ) ngay trong đêm nhổ trại, thuỷ quân tiếp ứng vượt bắc sông Hoài Thuỷ, sau đó xuyên qua Tiếu Quận, giống trống khua chiêng ra vẻ tiến đánh Trần Lưu”.

“Tuân lệnh”.

Ba tướng Thái Sử Từ, Lăng Thống, Tôn Dực đồng thanh trả lời rồi quay người rời khỏi trướng.

“Toàn Tông, Từ Thịnh nghe lệnh”.

“Có mạt tướng”.

“Chỉ huy ba ngàn tinh binh, được thuỷ quân tiếp ứng qua sông Dĩnh, đi trước tới Trần Lưu, mai phục trên quan đạo Trần Lưu”.

“Tuân lệnh”.

Toàn Tông, Từ Thịnh cũng lĩnh mệnh rời khỏi trướng.

Chu Du lại nói: “Lữ Mông, Tưởng Khâm, Chu Thái nghe lệnh”.

Ba tướng Lữ Mông bước ra khỏi hàng, ôm quyền nói: “Có mạt tướng’.

Chu Du nói: “Chỉ huy tám ngàn thuỷ quân xuất phát từ đại trại Sào Hồ đi tới Thọ Xuân tiếp ứng kỵ binh của Thái Sử Từ tướng quân vượt qua sông Hoài sau đó chia binh làm hai đường. Chu Thái chỉ huy đội thuyền vận chuyển, vận chuyển quân của Toàn Tông, Từ Thịnh qua sông Dĩnh, cùng đi mai phục. Lữ Mông, Tưởng Khâm dẫn một đội chiến thuyền nhẹ ngược dòng Dĩnh Thuỷ đi trước phối hợp tác chiến với quân của Viên Đàm”.

“Tuân lệnh”.

Ba tướng Lữ Mông lĩnh mệnh rời đi.

Cuối cùng Chu Du nhìn các chư tướng còn lại, cao giọng nói: “Các chư tướng còn lại thống lĩnh binh mã bản bộ, ba ngày sau theo bản Đại đô đốc rời khỏi ải Thanh Ngưu, tiến thẳng tới Nhữ Nam”.

“Tuân lệnh”.

Chư tướng ầm ầm trả lời.

Sau hai lần đại quân của Viên Thượng tấn công thất bại lập tức thay đổi sách lược, dùng chiến thuật bao vây trường kỳ.

Nháy mắt hơn mười ngày đã qua, lương thảo trong thành đã cạn, có thể nói lòng Viên Đàm nóng như lửa đốt. Tân Bì phái đi Lư Gi­ang cầu viện cũng chưa thấy quay về càng làm Viên Đàm đứng ngồi không yên.

Đêm khuya.

Viên Đàm đang trong lúc hoảng sợ, khiếp nhược thì đột nhiên Tân Bì bước vào trướng.

“Tá Trì ( tên chữ của Tân Bì )” Viên Đàm vội vàng bước tới cầm tay Tân Bì hỏi: “Kết quả chuyến đi Lư Gi­ang thế nào?”

Tân Bì nói: “Chúa công, Chu Du đã đồng ý kết đồng minh”.

“A, tốt quá” Nghe vậy Viên Đàm vô cùng vui mừng, hắn vội vàng hỏi: “Chu Du có điều kiện gì? Chuẩn bị khi nào xuất binh? Sẽ điều động bao nhiêu quân đội?”

Tân Bì lặng im, ngay trong lúc này hắn không biết phải trả lời câu hỏi của Viên Đàm như thế nào.

Viên Đàm vỗ vỗ trán, tự giễu cợt mình” Cô quả thật quá lo lắng, Tá Trì cứ từ từ nói”.

Tân Bì hít một hơi thật sâu nói: “Chúa công, Chu Du chỉ đồng ý giúp chúa công đánh lui phản quân Viên Thượng, cướp lại hai châu Duyện, Dự nhưng không đồng ý giúp chúa công đoạt lại Ký, Tịnh, Thanh, U bốn châu. Hơn nữa Chu Du còn đặt điều kiện, sau khi đánh lui phản quân Viên Thượng, chúa công phải xuất binh giúp Đông Ngô đánh Từ Châu”.

“Điều này sớm nằm trong dự liệu của Cô” Viên Đàm nói: “Vốn Cô không trông mong có thể đoạt lại bốn châu Ký, Tịnh, Thanh, U. Có thể bảo vệ được hai châu Duyện, Dự cũng quá tốt rồi. Thế nhưng rốt cuộc thì khi nào Chu Du mới xuất binh? Tốt nhất là đừng chờ mấy tháng nữa mới xuất binh, tới khi đó thì chỉ e thành Bình Dư đã bị phản quân Viên Thượng đánh chiếm rồi”.

Tân Bì nói: “Chúa công không cần lo lắng, trên thực tế thuỷ quân Đông Ngô đã tiến tới ngoài thành Bình Dư rồi”.

“Thật vậy sao?” Viên Đàm vui mừng nói: “Quân Ngô đã tiến tới ngoài thành Bình Dư sao?”

“Đúng thế” Tân Bì nói: “Nếu như không có thuỷ quân Đông Ngô trợ giúp, tại hạ không thể đi vào thành được”.

Tân Bình nói: “Phản quân Viên Thượng đã bao vây thành chật như nêm cối. Tá Trì vẫn có thể vào thành, hoá ra lại từ đường thuỷ. Ha ha ha”.

Tân Bì nói: “Đô đốc thuỷ quân Đông Ngô là Lữ Mông bảo tại hạ chuyển lời cho chúa công: vào lúc bình minh thuỷ quân Đông Ngô sẽ tiến hành tập kích quân doanh của Viên Thượng ở ngoài cửa đông. Khi đó sẽ đốt lửa làm hiệu, hy vọng chúa công có thể phái một toán tinh bin ra khỏi thành, phối hợp với thuỷ quân Đông Ngô, hai mặt giáp công đại doanh của Viên Thượng”.

“Diệu kế” Tân Bình kích động nói: “Phản quân không ngờ thuỷ quân Đông Ngô tới, tất nhiên không phòng bị, sẽ bị thiệt hại nặng”.

Khắp nơi là một khung cảnh vô cùng hỗn độn. Đây chính là lúc bầu trời tối đen nhất trước lúc bình minh.

Trên bờ sông Dĩnh, Tưởng Khâm hoành đao đứng sừng sững.

Trước mặt Tưởng Khâm, năm trăm tráng hán xếp hàng chỉnh tề. Năm trăm tráng hán thuỷ quân này đều mặc áo Trực chuyết, tay cầm đơn đao, đầu đội một chiếc mũ rộng vành. Đây là quân trang điển hình của thuỷ quân Đông Ngô. Gió sông lành lạnh thổi làm tung bay chiếc khăn quấn đầu của Tưởng Khâm. Đột nhiên ngay trong lúc đó Tưởng Khâm vung thanh đao trong tay chém mạnh về phía trước.

“Giết!”.

Tiếng gào thét như sấm đột ngột nổi lên, phá tan sự tĩnh lặng của bầu trời đêm yên tĩnh.

Gần như cùng lúc đó bên ngoài cửa đông thành Bình Dư ngọn lửa cháy rừng rực bốc lên cao, nổi bật lên trên màn đêm đen ngòm. Trong lúc đó cánh cửa đông thành Bình Dư đang đóng chặt đột ngột mở ra, một toán binh lính đen nghịt tiến ra, vượt qua cầu treo đã hạ xuống, xông tới đại doanh quân Viên Thượng bên ngoài thành.

Trung quân đại trướng. Viên Thượng đột ngột bị âm thanh chém giết vang trời đánh thức. Hắn vội vàng ngồi dậy, quát hỏi tả hữu: “Xảy ra chuyện gì vậy? Xảy ra chuyện gì vậy?”

Thẩm Phối quần áo không chỉnh tề lảo đảo xông vào trong trướng, hắn thở hổn hển nói: “Cướp doanh, có người cướp doanh”.

“Cướp doanh?” Viên Thượng cau mày nói: “Không phải phản quân của Viên Đàm đang bị vây hãm trong thành sao? Quân đội cướp doanh từ đâu xuất hiện vậy hả?”

“Chúa công, là quân Đông Ngô’.

Viên Thượng vừa dứt lời, Phùng Kỷ cũng hoảg hốt xông vào trướng.

“Quân Ngô? Không thể nào” Viên Thượng nghe vậy vô cùng kinh hãi, hắn thất thanh nói: “Sao quân Ngô có thể liên kết với Viên Đàm? Không phải bọn chúng vẫn đang gi­ao chiến với nhau sao?”

“Đích thực là quân Ngô” Phùng Kỷ nói: “Tại hạ không nhìn lầm”.

“Đáng hận” Viên Thượng tức giận nói: “Tại sao thám báo của quân ta không phát hiện ra quân Ngô xuất hiện bất ngờ bên ngoài thành Bình Dư?”

“Chúa công, là do thuộc hạ khinh thường” Thẩm Phối xấu hổ nói: “Nhất định quân Ngô từ đưởng thuỷ đánh tới. Phần lớn thám báo của quân ta phân bổ trên đất liền. Hơn nữa từ Hoài Nam ngược dòng Dĩnh Thuỷ tới Bình Dư đều là thâm sơn, rừng rậm. Thuộc hạ căn bản không phái xích hầu theo dõi đường thuỷ sông Dĩnh”.

“Chính Nam” Viên Thượng tức giận nói: “Lần sau hãy chú ý đề phòng”.

“Dạ” Thẩm Phối nói: “Lần sau thuộc hạ nhất định rút ra bài học này”.

“Báo…” Thẩm Phối vừa dứt lời, bất chợt có một viên Thiên tướng vào bẩm báo: “Đại tướng quân, mặc dù địch quân tấn công quân doanh không nhiều lắm nhưng chúng cực kỳ kiêu dũng, nhất là Đại tướng chỉ huy thì cực kỳ hung hãn, không ải cản nổi. Hơn mười viên kiện tướng của quân ta đã chết dưới cây đao của hắn. Hiện tại đại doanh hậu quân, đại doanh tả quân đã bị đánh chiếm. Địch quân đang đánh tới đại doanh trung quân”.

“Báo…” Viên thiên tướng vừa dứt lời, lại có một tên nha tướng vào trướng bẩm báo: “Chúa công, phản quân trong thành cũng đánh ra ngoài. Chúng đang mãnh liệt tấn công đại doanh tiền quân”.

“Báo… bờ sông Dĩnh lửa cháy ngút trời. Một đại đội nhân mã từ dưới sông xông lên đánh giết’.

Tin xấu nối tiếp tin xấu. Viên Thượng tái nhợt mặt, hắn dậm chân nói: “Lập tức truyền lệnh, toàn quân rời bỏ đại doanh đông thành, lui về trấn giữ đại doanh bắc thành”.

Viên Thượng dẫn theo tàn quân dưới sự tiếp ứng của Viên Hi lui về đại doanh bắc thành. Hắn vẫn chưa kịp ngồi xuống thở thì tin xấu lại dồn dập bay tới.

“Chúa công. phát hiện một đội khinh kỵ Đông Ngô ở Tiếu Quận, chúng đang nhanh chóng tiến tới Trần Lưu” Sắc mặt Thẩm Phối tái nhợt, hắn nhìn Viên Thượng nói: “Một khi Trần Lưu thất thủ, tuyến đường vận lương của quân ta sẽ quân Ngô cắt đứt, hậu quả là không thể tưởng tượng nổi”.

“Chúa công, cách Bình Dư năm mươi dặm về phía nam phát hiện đại quân Đông Ngô” Thẩm Phối còn chưa nói xong, Phùng Kỷ đã vội vã đi vào trướng, nhìn Viên Thượng nói: “Theo như quân xích hầu cấp báo, đội quân Ngô đó có ít nhất mấy vạn người. ở trung quân có một cây đại kỳ, trên đó có thêu một chữ “Chu”. Xem ra Chu Du đã tự mình dẫn quân xuất chinh”.

“Chúa công, đêm qua quả thật đúng là quân Ngô tập kích đại doanh” Thẩm Phối lại nói: “Hiện tại thuỷ quân Đông Ngô theo đường sông Dĩnh đang cuồn cuộn vận chuyển binh lính, lương thảo tiến về thành Bình Dư. Chỉ e là trong một thời gi­an ngắn chúng ta không thể công chiếm thành Bình Dư. Phối cho rằng chúng ta hãy sớm bãi binh, trước tiên lui quân về Bộc Dương rồi sẽ tính tiếp”.

“Tại sao có thể như vậy” Viên Thượng cau mày nói: “Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy hả?”

Chẳng trách Viên Thượng lại buồn bực như vậy. Chỉ trong vòng một đêm, tình hình vốn tốt đẹp là thế lại đột nhiên trở nên vô cùng tồi tệ. Chu Du và quân Ngô đột nhiên xuất hiện. Hiện tại ngay cả thành Bình Dư cũng không phá được, không thể tiêu diệt phản quân Viên Đàm, mà ngay việc rút quân an toàn quay về Bộc Dương cũng là cả một vấn đề”.

“Chúa công” Phùng Kỷ cũng khuyên nhủ: “Chỉ cần còn núi xanh, lo gì không còn củi đốt. Hãy rút lui đi”.

“Ai” Viên Thượng ngửa mặt lên trời thở dài một tiếng. Hắn buồn bực nói: “Truyền lệnh của Cô, toàn quân rút về Bộc Dương”.

Trung tuần tháng sau, năm Kiến An thứ mười hai, Hán Hiến Đế, Chu Du thống lĩnh bốn vạn đại quân thuỷ bộ bắc phạt Trung Nguyên ( ba vạn quân kỵ bộ đại doanh Hợp Phì, một vạn thuỷ quân đại trại Sào Hồ ). Viên Thượng không dám ham chiến, hoảng sợ rút quân quay về, kết quả gặp phải phục quân của Toàn Tông, Từ Thịnh ở phụ cận Dĩnh Dương, thất bại thảm hại.

Khi về tới Trần Lưu lại bị quân kỵ binh của Thái Sử Từ tập kích, một lần nữa đại bại.

Bảy vạn đại quân hoàn toàn tan rã. Cuối cùng Viên Thượng, Viên Hi chỉ huy hơn tám trăm kỵ binh kinh hoàng trốn chạy về Bộc Dương.

Tháng bảy năm Kiến An thứ mười hai, Hán Hiến Đế, Viên Thượng vứt bỏ Bộc Dương trốn về Nghiệp Thành. Viên Đàm dưới sự trợ giúp của Chu Du đã thành công đoạt lại hai châu Duyện, Dự. Cùng lúc đó đô đốc quân Ngô là Hoàng Cái chỉ huy hai vạn quân Sơn Việt tiến ra Quảng Lăng, bắc Từ Châu, hội quân với Chu Du, Viên Đàm ở Bành Thành. Trong khi đó đại quân của Mã Dược vừa mới quay về tới Quan Trung, còn cách Lạc Dương cả ngàn dặm đường

Thế nhưng mười vạn đại quân Tây Xuyên vào tháng sáu cũng đã xuôi nam tiến tới Nam Dương, tạm thời đóng quân ở Nhương huyện, An Chúng, Dục Dương phía bắc Tân Dã.

Lý Túc mang thư cấp báo từ Lạc Dương tới cho Mã Dược xem. Xem xong, Mã Dược trầm ngâm hồi lâu không nói.

Giả Hủ cũng bùi ngùi thở dài nói: “Quả thật không hổ là Chu Du, chỉ trong vòng chưa tới một tháng đã đánh đuổi Viên Thượng chạy về Hà Bắc. Hiện tại Chu Du, Viên Đàm, Hoàng Cái ba lọ quân gần tám vạn đại quân đã hội quân ở Bành Thành. Từ Châu của Tào Báo chỉ e là sẽ không giữ được lâu”.

Pháp Chính cũng nói: Sau khi Từ Châu Trần Khuê chết bệnh liền trở nên người không có tài cán gì. Với năng lực của Tào Báo, kiên trì giữ được Từ Châu hai tháng đã là cực hạn”.

“Hơn nữa còn có một khả năng khác nữa” Mã Dược trầm giọng nói: “Một khi đại quân Đông Ngô áp sát, với sự cầm đầu của Tào Báo, Tôn Kiền, để duy trì lợi ích của bản thân mình, sĩ tộc Từ Châu rất có thể sẽ đầu hàng Đông Ngô. Dù sao thủ phạm giết chết Tôn Kiên là Trần Đăng đã chuyển tới làm Thái Thú Nam Dương. Đông Ngô và Từ Châu không còn mối thâm thù đại hận nào nữa”.

Giả Hủ nói: “Nếu thật sự quân Đông ngô không đánh mà thắng, chiếm được Từ Châu. Hơn nữa với vùng Hoài Nam và năm quận Gi­ang Đông, Tôn Quyền hoàn toàn có thể bội thu tiền thuế ruộng. Một khi như vậy võ có Thái Sử Từ, Chu Thái, Tưởng Khâm làm đại tướng. Văn có Từ Thứ, Trương Chiêu, Bộ Chất là những thần tử có tài, lại có Chu Du thống lĩnh ba quân thì chỉ trong vòng từ ba tới năm năm nữa Tôn Quyền hoàn toàn có thể thay thế Tào Tháo trở thành mối hoạ lớn nhất trong lòng chúa công”.

“Xem ra không còn cách nào khác là phải sớm điều động thiết kỵ ba vạn hộ Mạc Bắc” Pháp Chính nói: “Với mười vạn quân Xuyên mới hàng, lòng quân chưa ổn định, hơn nữa tố chất binh lính tốt xấu lẫn lộn, chỉ e không thể trọng dụng. Chỉ dựa vào ba vạn tinh nhuệ ở Lạc Dương đông chinh thì chỉ e rất khó tìm được thắng lợi. Thuộc hạ cho rằng chỉ còn cách điều động mười vạn thiết kỵ Mạc Bắc thì mới đảm bảo chắc thắng”.

“Ừ, đã tới lúc rồi” Giả Hủ phụ hoạ: “Vừa hay Viên Thượng đang muốn phản công, thiếu binh lính, thiếu tướng sai sứ giả tới cầu cứu chúa công. Tại sao chúa công không giả vờ đồng ý, sai mười vạn thiết kỵ đi ngang qua bình nguyên Hà Bắc, xuôi nam, trước tiên dùng kế phát Quắc, diệt Ngu tiêu diệt Viên Thượng sau đo tiếp tục tiến đánh Trung Nguyên”.

“Hay” Mã Dược quả quyết nói: “Ngày mai hãy lập tức ban bố cáo thị, lập tức chuyển Ung, Lương, Sóc các châu sang thể chế chiến tranh ( do Mã Dược định ra ), chuyển tất cả quân lương, quân mã, khí giới, vật tư do triều đình điều phối, chờ sau khi chiến tranh kết thúc, triều đình sẽ xem xét đền bù tổn thất”.

Pháp Chính nói: “Vậy còn Thiên Tử…”.

Mã Dược nói: “Về phần Thiên Tử, Cô sẽ giải thích”.

Giả Hủ nói: “Chúa công minh giám”.

Đột nhiên trong mắt Mã Dược hiện lên sự lạnh lùng rất khó hiểu, hắn trầm giọng nói: “Đợi tới tháng chín, thời tiết cuối thu dễ chịu, ngựa béo mập, khoẻ mạnh thì lập tức hạ lệnh mười vạn thiết kỵ Mạc Bắc xuôi nam tiến đánh Trung Nguyên . Chu Du đương nhiên sẽ điều đại quân ra Bạch Mã, Diên Tân với ý đồ ngăn cản quân thiết kỵ của ta ở phía bắc sông Hoàng Hà. Khi đó Cô sẽ quay về Lạc Dương, chỉ huy ba vạn quân tinh nhuệ tiến ra Huỳnh Dương. Công Minh, Hiếu Trực lập tức dẫn mười vạn quân Xuyên ra Dĩnh Xuyên, ba mặt giáp công quân Ngô. Cô muốn nhìn xem Chu Du này có ba đầu sáu tay gì để có thể ngăn cản đại quân hơn hai mươi vạn thiết kỵ của Cô”.

Lưu Diệp, người chịu trách nhiệm thu thập tin tức tình báo nhìn Tào Tháo nói: “Chúa công, vừa mới có tin: liên quân Chu Du, Viên Đàm đã đánh đuổi Viên Thượng chạy về Hà Bắc. Hiện tại hai châu Duyện, Dự ở Trung Nguyên trên danh nghĩa vẫn thuộc quyền quản lý của Viên Đàm nhưng bất kỳ ai cũng biết Viên Đàm đã trở thành con rối trong tay Chu Du’.

Ánh mắt Tào Tháo cô cùng phức tạp, một lúc lâu sau hắn mới chậm rãi nói: “Viên Bản Sơ một đời anh hùng nhưng hắn lại sinh ra ba đứa con trai phế vật. Di cốt của phụ thân vẫn chưa tan hết đã rơi vào cảnh huynh đệ tương tàn. Ai, không ngờ quá tiện ích cho thằng nhãi Chu Du đó. Ai, nhưng nói gì thì nói thằng nhãi Chu Du đó cũng hoàn toàn không đơn giản chút nào”.

Trình Dục hỏi: “Từ Dương, sau khi đánh bại Viên Thượng, quân Ngô có động tĩnh gì không vậy?”

Lưu Diệp trả lời: “Có, Chu Du, Viên Đàm, Hoàng Cái ba lộ quân có tám vạn quân đã hội quân ở Bành Thành’.

“Xem ra không bao lâu nữa toàn bộ Từ Châu sẽ rơi vào tay Chu Du” Ánh mắt Tào Tháo rất phức tạp, hắn bùi ngùi nói: “Thằng nhãi Chu Du này ra tay quả thật bất phàm. Cứ theo tình hình hiện nay chỉ cần nghỉ ngơi dưỡng sức mấy năm nữa quân Ngô sẽ có đủ thực lực quyết chiến một trận thư hùng với quân Lương. So với đối phương quả thật Kinh Châu của Cô là yếu nhất, dù là so với quân Ngô, hay quân Lương thì cũng thua xút rất nhiều”.

Bàng Thống nói: “Chúa công chỉ có lấy được Tây Xuyên thì mới có đủ thực lực chống lại quân Ngô và quân Lương’.

“Đúng vậy” Tào Tháo nói: “Hiện tại Cô cũng hy vọng Mã đồ phu có thể sớm quay lại Lạc Dương. Có Mã đồ phu ở Lạc Dương kiềm chế, sự phát triển lớn mạnh của quân Ngô và Chu Du mới không thuận buồm xuôi gió. Tốt nhất là trong vòng nửa năm nữa quân Ngô và quân Lương sẽ xảy ra xung đột ở Trung Nguyê, khi đó Cô sẽ thừa dịp đánh chiếm Tây Xuyên’.

Là một lão đối thủ gi­ao chiến nhiều năm với nhau, Tào Tháo vẫn còn khá e sợ Mã đồ phu. Một khi quân Lương của Mã đồ phu và quân Đông Ngô chưa xảy ra chiến tranh toàn diện, vô luận là chuyện gì xảy ra Tào Tháo nhất định không dám tiến quân vào Tây Xuyên. Nếu một khi gượng ép tiến quân vào Xuyên, rất có thể Tây Xuyên chưa chiếm được mà còn bị Mã đồ phu thừa cơ hội đoạt mất Kinh Châu.

Nếu quả thực chuyện xảy ra như vậy thì Tào Tháo ngay cả một mảnh đất cắm dùi cũng không có.

“Chỉ e là trận ác chiến đó giữa quân Ngô và quân Lương là không thể tránh khỏi” Bàng Thống nói: “Sớm thì tháng bảy, chậm thì tháng mười, hai bên sẽ xảy ra xung đột. Nhưng nếu chúa công muốn thư dịp lấy được Tây Xuyên nhưng chúa công vẫn phải sắp xếp phòng thủ Kinh Châu chu đáo. Mã đồ phu mới điều mười vạn hàng quân Xuyên ra Nam Dương. Dù sức chiến đấu của mười vạn đại quân Xuyên này thấp nhưng nhiều kiến cắn chết voi. Dù sao đó cũng là mười vạn quân”.

Tào Tháo nói: “Theo Sĩ Nguyên thì nên lưu lại bao nhiêu để có thể bảo vệ an toàn Kinh Châu?’

Bàng Thống nói: “Ít nhất hai vạn bộ binh, hơn nữa cần ba vạn thuỷ quân phối hợp nhưng vẫn cần phải hết sức cẩn thận”.

Trình Dục nói: “Nếu như lưu lại hai vạn bộ binh, lại không thể sử dụng thuỷ quân, chúa công chỉ có thể điều động ba vạn quân bộ binh chinh phạt Tây Xuyên. Binh lực như vậy có ít quá không?”

Bàng Thống nói: “Ban vạn tinh binh nói nhiều thì không nhiều mà nói ít thì cũng không ít. Chỉ cần điều động phù hợp thì như vậy là đủ. Dù gì mười vạn đại quân Xuyên đã bị Mã đồ phu điều ra khỏi Tây Xuyên. Hiện tại quân đội trấn giữ Tây Xuyên không vượt quá năm, sáu vạn, hơn nữa lại phải phân tán ra trấn giữ các quan ải, rất dễ dàng bị quân ta công phá thế nhưng…”.

Tào Tháo nói: “Nhưng thế nào?”

Bàng Thống chỉ tay vào bản đồ, hắn trầm giọng nói: “Thế nhưng Thống cho rằng quân Xuyên nhất định sẽ trú đóng trọng binh ở chỗ này để tạo thành bức bình phong che chắn đại quân của chúa công nhập Xuyên. Vì vậy bước đầu tiên của việc nhập Xuyên là triệu tập tất cả quân đội dùng thế Thái Sơn áp đỉnh tấn công mạnh mẽ đánh chiếm cánh cổng nhập Xuyên”.

Tào Tháo nhìn theo hướng chỉ của ngón tay Bàng Thống, hắn cau mày, trầm giọng nói: “Ngư Phúc Phổ sao?”

Trương Tú chỉ huy năm ngàn tinh binh bản bộ cùng với Trương Vệ, Dương Ngang, Dương Nhiệm chỉ huy một vạn quân Hán Trung vào trú đóng trong thành Vĩnh An. Trương Tùng, Thứ Sử Ích Châu mới nhậm chức, gánh vác trọng trách Thừa tướng Mã Dược gi­ao phó là phòng ngự Tây Xuyên, không dám lơ là cũng theo đại quân của Trương Nhiệm tới Vĩnh An.

Phủ nha Thái Thú.

Trương Tú ôm quyền nhìn Trương Tùng, Trương Nhiệm nói: “Mạt tướng mới tới, vẫn còn chưa quen thuộc địa hình sông núi Vĩnh An, phong tục tập quán, suy nghĩ khó tránh khỏi sơ sót, mong Vĩnh Niên huynh, Bá Đạo huynh giúp đỡ nhiều hơn. Dù sao Thừa tướng gi­ao trọng trách trấn giữ cửa ngõ tiến vào Tây Xuyên cho mạt tướng, mạt tướng không dám lơ là”.

Trương Tùng nói: “Trương tướng quân khách khí rồi. Ta và tướng quân cùng ra sức vì Thừa tướng, đương nhiên là phải giúp đỡ lẫn nhau”.

Trương Nhiệm nói: “Mạt tướng thừa lệnh Thừa tướng tới trước trướng nghe theo sự điều phối của tướng quân đương nhiên sẽ biết gì nói đấy, không gì dối trá. Thế nhưng mạt tướng là ng­woif trực tính, trong lòng nghĩ gì sẽ nói vậy. Nếu như trong lời nói có gì xung đột, mạo phạm tướng quân, mong tướng quân hãy bỏ qua cho”.

Trương Tú nói: “Bá Đạo huynh nói rất hợp ý ta. Ta cũng là một người trực tính”.

“Trương tướng quân, chúng ta hãy bàn về việc chính đi” Trương Tùng nói: “Về vấn đề phòng ngự Vĩnh An, quả thật tại hạ có một suy nghĩ muốn thương lượng cùng với tướng quân. Vĩnh An là cánh cửa của Tây Xuyên, cực kỳ quan trọng, không thể để mất mà Ngư Phúc Phổ lại là cánh cửa của Vĩnh An. Nói tóm lại nếu có thể bảo vệ được Ngư Phúc Phổ, Vĩnh An sẽ không có gì lo lắng, Tây Xuyên sẽ không có gì đáng lo”.

“A, Ngư Phúc Phổ?” Trương Tú nói: “Vĩnh Niên có thể nói rõ ra không?”

Trương Nhiệm lập tức mở bản đồ quân sự mang theo bên người ra. Trương Nhiệm chỉ tay vào bản đồ, nhìn Trương Tú nói: “Tướng quân hãy nhìn. Đây là Vĩnh An, phía đông Vĩnh An một trăm dặm chính là Ngư Phúc Phổ. Có thể nói đây chính là cánh cửa duy nhất để từ Kinh Châu tiến vào Xuyên. Từ Ngư Phúc Phổ theo hướng bắc theo đường chim bay chính là Đại Ba Sơn chim bay không lọt. Chỉ có kẻ hồ đồ mới theo con đường này tiến vào Hán Trung”.

“Ừ” Trương Tú gật đầu nói: “Nói như vậy Ngư Phúc Phổ cực kỳ hiểm yếu. Thế nhưng liệu thuỷ quân Kinh Châu có thể theo đường thuỷ Trường Gi­ang ngược đường lên Tây Xuyên không?”

“Không thể” Trương Tùng nói: “Bởi vì từ Vĩnh An tới Gi­ang Lăng, sự chênh lệch mặt nước sông Trường Gi­ang là rất lớn. Hơn nữa nước sông chảy xiết, nhiều bãi đá nguy hiểm. Chiến thuyền to lớn của thuỷ quân Kinh Châu căn bản là không có cách nào ngược dòng mà lên. Thuyền nhẹ được người kéo thì có thể ngược dòng lên tới nhưng quân ta chỉ cần phái mật thám ăn mặc giả trang như ngư dân, ngày đêm dò xét trên sông là có thể kịp thời phòng bị”.

“Chỉ cần thuỷ quân Kinh Châu không thể ngược dòng được thì sự uy hiếp của quân Kinh Châu đã giảm đi một nửa” Trương Tú nói: “Liệu Vĩnh Niên huynh có thể giải thích tường tận địa hình Ngư Phúc Phổ cho mạt tướng nghe không?”

“Tùng nguyện ý giải thích” Trương Tùng vuốt vuốt râu, cao giọng nói: “Tàm Tùng, Ngư Phù ( Thục Vương cổ đại, tổ tiên trong văn hoá Thục cổ đại, tương đương với Viêm Đế, Hoàng Đế trong văn hoá Hoa Hạ ), Thì Đại ba người vàoTây Thục buôn bán muối ăn bởi vì việc thu lợi nên thường xảy ra tranh chấp. Ngư Phù lập tức phái quân bảo vệ muối ăn, cam đoan cung cấp muối ăn cho Thục Cương cổ đại. Ở trên bãi sông có di tích doanh trại quân đội quân Thục thời cổ vì vậy được gọi là Ngư Phúc Phổ”.

Tháng bảy, năm Kiến An thứ mười hai, Hán Hiến Đế, Chu Du dùng kế dụ quân trấn thủ Bàng Thành ra ngoài thành, Tào Báo chết trận.

Tháng tám, Tôn Kiền dẫn đầu sĩ tộc Từ Châu hiến thành. Các quận Đông Nguyệt, Hạ Phì, Đông Hải đều đầu hàng. Tôn Quyền tiếp nhận năm quận Từ Châu. Tới lúc này Tôn Quyền đã thu được hai châu Từ, Dương với tổng số dân gần bảy trăm vạn người, uy danh đại chấn. Tháng chín, Tôn Quyền tự phong làm Đại Tư Mã, tước Ngô công, đồng thời hắn chuyển phủ tới Thọ Xuân, bày tỏ ý chí quyết phân tranh cao thấp với Mã Dược.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 335: Năm mươi vạn đại quân

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Thọ Xuân, phủ Ngô công.

Tôn Quyền đang triệu tập văn võ bá quan nghị sự.

Từ Thứ nói: “Chúa công, mật thám cấp báo, Mã đồ phu, Giả độc sĩ đã cùng tới Mạc Bắc. Xem ra không tới một tháng nữa Mã đồ phu sẽ phái thiết kỵ Mạc Bắc xuôi nam đánh Trung Nguyên. Mặt khác mười vạn đại quân Xuyên trú đóng ở Nam Dương dưới sự chỉ huy của thủ hạ Mã đồ phu là Đại tướng Từ Hoảng, mưu sĩ Pháp Chính tiến ra chiếm giữ Tung Sơn Nam Lộc, bất kỳ lúc nào cũng có thể đông tiến Dĩnh Xuyên hay đánh chiếm Nhữ Nam”.

Tôn Quyền nói: “Cô mới thu được Từ Châu, Mã đồ phu đương nhiên sẽ không chịu để yên”.

Từ Thứ nói: “Ngoài ra thủ hạ tâm phúc của Mã đồ phu là Đại tướng Cao Thuận đã chỉ huy tám vạn đại quân tinh nhuệ tiến ra phía đông tới Tỵ Thuỷ, đang tiến tới Huỳnh Dương, Hứa Xương. Tám vạn quân này quả thực là quân tinh nhuệ. Trong đó ba vạn thiết kỵ Tây Lương càng là quân thân kinh bách chiến, năm vạn quân bộ binh còn lại cũng là quân tinh nhuệ do chính Cao Thuận huấn luyện”.

Tôn Quyền biến sắc nói: “Hơn mười vạn thiết kỵ Mạc Bắc, mười vạn hàng quân Xuyên, còn cả tám vạn quân tinh nhuệ của Cao Thuận. Chẳng phải là lần này Mã đồ phu định điều động ba mươi vạn đại quân sao? Trong đó có gần mười lăm vạn kỵ binh. Quả thật không hổ là Mã đồ phu, thủ hạ quả nhiên binh nhiều tướng mạnh”.

Tôn Quyền vừa dứt lời, mấy người Trương Chiêu, Trương Hoành, Lã Phạm, Bộ Chất, Ngu Phiên đồng loạt biến sắc. Tinh thần phấn khởi của quân Ngô vì việc Tôn Quyền mới thu phục được Từ Châu đã sớm tan thành mây khói. Mặc dù lãnh địa của Tôn Quyền đã được mở rộng rất rộng lớn, thế lực cũng nhanh chóng bành trướng nhưng so với Mã đồ phu quả thật vẫn có vẻ thế cô lực mỏng.

“Chỉ sợ là không phải chỉ có từng này quân đội” Từ Thứ lại nói: “Nếu như thuộc hạ dự liệu không nhầm, Mã đồ phu tất mượn cơ hội xuôi nam, diệt trừ Viên Thượng, Viên Hi, Cao Kiền. Khi đó hơn mười vạn quân bộ hạ cũ của Viên gia sẽ hoàn toàn thuộc về Mã đồ phu. Một khi Mã đồ phu chân chính tiến quân vào Trung Nguyên thì chỉ sợ thủ hạ dưới trướng đã có năm mươi vạn đại quân”.

“Năm mươi vạn quân?” Trương Chiêu tái nhợt mặt, hắn hỏi Tôn Quyền: “Chúa công, lúc này quân ta có bao nhiêu binh mã?”

Tôn Quyền nghiêm nghị hỏi Chu Du: “Công Cẩn, lúc này quân ta có bao nhiêu binh mã?”

Chu Du nói: “Trừ đi binh lực trấn giữ các quận dưới quyền của chúa công ra, toàn bộ quân đội của chúng ta đã được điều động theo hướng Thọ Xuân, Bành Thành. Trong đó có ba vạn bộ binh, tám ngàn kỵ binh, hai vạn thuỷ quân. Tất cả đều là quân tinh nhuệ, thiện chiến. Ngoài ra chúng ta còn có ba vạn hàng quân Từ Châu, Du đã tuyển từ đó lấy một vạn quân tinh nhuệ, thành lập Từ Châu doanh”.

Tôn Quyền nói: “Nói cách khác binh lực của quân ta còn chưa tới bảy vạn quân”.

“Chưa tới bảy vạn quân sao?” Trương Chiêu thất thanh nói: “Binh lực thua kém quá xa”.

Bộ Chất lau mồ hôi lạnh trên trán nói: “Mã đồ phu binh nhiều tướng mạnh. Đại quân hàng ngày tiêu phí quân lương rất lớn, không thể duy trì lâu dài. Quân ta chỉ cần luỹ cao hào sâu, không ham chiến. Quân Lương hết lương thảo tự nhiên sẽ phải thối lui’.

Chu Du nói: “Tử Sơn (tên chữ của Bộ Chất) nghĩ đương nhiên đúng nhưng suy nghĩ như vậy không thực tế chút nào. Viên Thiệu trấn giữ Hà Bắc lâu ngày, tích luỹ được rất nhiều lương thảo, vật tư, quân mã. Lần này Mã đồ phu điều động mười vạn thiết kỵ Mạc Bắc chính là hắn muốn dùng thế sét đánh không kịp bưng tay, vơ vét hết bốn châu Hà Bắc. Nếu như Du đoán không sai tất cả những gì Viên Thiệu tích luỹ bao nhiêu năm sẽ thuộc về Mã đồ phu”.

“Mà quân ta dù tận thu tất cả tiền lương của các quận Từ Châu thì vẫn thua kém rất xa so với Hà Bắc vì vậy nếu như chúng ta cố thủ, so sánh về việc tiêu jao lương thảo, quân không thể chống đỡ được lại chỉ e là quân ta chứ không phải quân Lương”.

“Đúng vậy” Trương Chiêu run run nói: “Hơn nữa huống chi Quan, Lương, Hà Sáo dưới trướng Mã đồ phu đã nghỉ ngơi tích luỹ nhiều năm. Há không thể để dành quân lương sao? Lúc này hiển nhiên Mã đồ phu đã có chuẩn bị, quyết tâm phải có được tất cả”.

“Sợ gì hắn” Trương Chiêu vừa dứt lời, Đại tướng Chu Thái bước ra khỏi hàng quát to: “Thủ hạ dưới trướng Mã đồ phu tuy binh nhiều tướng mạnh nhưng ngoại trừ Cam Ninh và mấy ngàn Cẩm Phàm Tặc, phần lớn quân đội là lũ vịt cạn phương bắc. Chỉ cần quân ta phái thuỷ quân phong toả sông Hoàng Hà. Khi đó dù Mã đồ phu có cả trăm vạn kỵ binh thì đã sao nào?”

Chu Du nói: “Chu Thái tướng quân có điều chẳng biết. Hoàng Hà không giống với Trường Gi­ang, Hoài Thuỷ. Hàng năm vào mùa đông đều là mùa nước cạn. Vào mùa nước cạn, nước sông Hoàng Hà giảm xuống rất nhiều. Thuyền bè căn bản là không có cách nào để lưu thông được. Có những đoạn sông thậm chí còn khô cạn. Kỵ binh của Mã đồ phu không cần bắc cầu vẫn có thể qua sông được”.

“A, thì ra là như vậy” Chu Thái gãi đầu nói: “Vậy thì quả thật có chút phiền phức…”.

Lục Tốn nói: “Hiện tại đang là tháng chín, thời tiết cuối thu dễ chịu, chiến mã khoẻ mạnh, cường tráng. Địa hình Trung Nguyên bằng phẳng, rất có lợi cho kỵ binh rong ruổi. Lãnh địa của Mã đồ phu đã được dẹp yên, không có mối lo sau lưng. Trong khi đó thái độ của đồng minh Viên Đàm mập mờ, bất kỳ lúc nào cũng có thể quay về với Mã đồ phu. Thiên thời, địa lợi, nhân hoà đều không nằm trong tay quân ta. Trận đánh này sẽ là lành ít dữ nhiều”.

Sắc mặt Tôn Quyền dần dẫn trở nên nghiêm trọng, hắn hỏi Chu Du: “Công Cẩn, nói như này trận chiến này với Mã đồ phu không đánh có được không?”

Chu Du lắc đầu nói: “Không, trận chiến này phải đánh, hơn nữa rất cần phải đánh”.

Tôn Quyền nắm tay nói: “Đại đô đốc nói rất hợp ý Cô’.

Chu Du quay nhìn Lục Tốn, hắn mỉm cười nói: “Bá Ngôn nói thiên thời, địa lợi, nhân hoà chính là ba nhân tố quyết định chiến tranh thế nhưng có câu là xu thế có thể thay đổi. Địa lợi cùng nhân hoà không phải đã hình thành thì không thay đổi mà căn cứ vào thế lực gi­ao chiến trên chiến trường tăng hay giảm của hai bên mà không ngừng biến hoá”.

Lục Tốn nghe vậy thì trầm tư. Mấy người Lữ Mông, Từ Thứ thì như bừng tỉnh.

Tôn Quyền vui vẻ nói: “Nói như vậy thì Công Cẩn đã có đối sách ứng phó sao?”

Chu Du cao giọng nói: “Đối sách của Du rất đơn giản. Trước tiên chia binh ngăn địch, liên tiếp chống cự. Trong gi­ai đoạn đầu của cuộc chiến tiêu hao một số lượng lớn lương thảo, vật tư, trang thiết bị nặng của quân Lương, cố gắng làm giảm tới mức lớn nhất nhuệ khí của quân Lương sau đó tập trung binh lực tử thủ Thọ Xuân. Lúc này tuyến đường tiếp tế của quân Lương bị kéo dài, rất có lợi cho quân ta tử thủ”.

“Chỉ cần chịu đựng tới mùa xuân sang năm. Cả vùng Gi­ang Hoài sẽ bước vào mùa mưa dầm mỗi năm một lần. Khi đó cả vùng đất bằng phẳng Gi­ang Hoài sẽ trở nên lầy lội, khó di chuyển. Ưu thế về kỵ binh của quân Lương đương nhiên sẽ không tồn tại nữa”.

“Thừa dịp quân chủ lực của quân Lương bị quân ta kiềm chế ở Từ Châu, nhất định Tào Tháo sẽ cử binh đánh lén Tây Xuyên như thế thì hậu phương của Mã đồ phu bất ổn, hắn sẽ phải tốc chiến tốc thắng để nhanh chóng quay lại cứu viện Tây Xuyên. Ba yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hoà đều chuyển nghịch trở nên có lợi cho quân ta. Trận chiến này sao không thể thắng chứ?”

Răng rắc!

Tôn Quyền hung hắn rút kiếm chém đứt một góc án, hắn lạnh lùng nói: “Ý Cô đã quyết, nhất định tử chiến với Mã đồ phu ở Thọ Xuân. Nếu vạn nhất đường cùng Cô sẽ lui về giữ Gi­ang Đông”.

Đầu tháng sáu Chu Thương, Bùi Nguyên Thiệu đã nhận được quân lệnh của Mã Dược, bắt đầu triệu tập các Thiên hộ dưới trướng. Tới cuối tháng tám, sau gần ba tháng tụ họp, chuẩn bị hơn ba ngàn bộ bách hộ, tổng cộng mười hai vạn thiết kỵ Mạc Bắc đã hòan toàn tụ họp quanh đại bản doanh Hãn Sơn. Lều vải chằng chịt, lô nhô kéo dài cả trăm dặm.

Mã Dược được Giả Hủ, Điển Vi và hơn mười thiết kỵ tiền hô hậu ủng tiến tới đại trướng. Bùi Nguyên Thiệu, Chu Thương đã sớm xuất lĩnh các Thiên hộ ra nghênh đón. Một thiếu niên được hai tên thị vệ hộ tống hai bên hiên ngang đứng trang nghiêm trên đầu. Thiếu niên này gương mặt như ngọc, anh tuấn tuyệt luận, dáng người làm người ta có cảm giác như một làn gió xuân.

Ngay khi nhóm người của Mã Dược hiện ra trong tầm mắt của mọi người thì thiếu niên này cùng hai tên thị vệ bước nhanh tới trước, khi còn cách Mã Dược mười bước chân, thiếu niên anỳ quỳ xuống, cao giọng nói: “Hài nhi khấu kiến phụ thân đại nhân”.

Thiếu niên này đương nhiên là công tử Mã Chinh, người vẫn một mực ở lại Tái Ngoại rèn luyện.

“Tham kiến Thừa tướng”.

Hai tên thị vệ phía sau Mã Chinh cùng quỳ xuống.

“Ừ” Mã Dược gật đầu, hắn khoát tay nói: “Đứng lên đi”.

“Tạ ơn phụ thân”.

Mã Chinh khấu đầu bái lạy một lần nữa rồi mới cung kính đứng dậy. Triệu Vân, Hứa Thiệu cũng đứng dậy đứng hầu sau lưng Mã Chinh. Sau khi Mã Chinh hoàn thành nghi lễ, Bùi Nguyên Thiệu, Chu Thương và các Thiên hộ với rối rít tiến lên làm lễ.

Ban đêm

Trong trung quân đại trướng đuốc cháy sáng choang, người ngồi đông nghịt.

Bùi Nguyên Thiệu nhìn Mã Dược nói: “Bá Tề, tuân theo quân lệnh của ngài. Ba bộ vạn hộ Mạc Bắc, ba trăm Thiên hộ tổng cộng mười hai vạn đại quân đã tụ tập quanh đại bản doanh Hãn Sơn đợi lệnh”.

“Ừ” Mã Dược gật đầu hỏi: “Sau khi đại đội lỵ binh rời khỏi lão doanh, quân man di có thừa dịp tập kích không?”

“Bá Tề yên tâm” Bùi Nguyên Thiệu nói: “Ma di ở Đại Mạc số diệt đã diệt, số trốn đã trốn. Hiện tai chưa có bất kỳ thế lực nào có thể tạo thành mối uy hiếp. Cho dù có di chuyển toàn bộ ba vạn hộ, chỉ để lại quân doanh nữ nhân trấn giữ thì quân doanh cũng bình yên vô sự. Kỳ thật các huynh đệ đã sớm mong đợi ngày này rồi”.

“Đại đầu lĩnh, bọn ta hàng ngày trông coi thảo nguyên này, ngoại trừ săn bắn ( cướp bóc dân cư ) hoặc “chơi” nữ nhân còn lại thì đều rất vô vị” Bùi Nguyên Thiệu và dứt lời thì Chu Thương và các Thiên hộ tụ tập trong trướng đều tranh nhau nói. “Nếu như không để chúng ta xuôi nam về Trung Nguyên, chúng ta tình nguyện bỏ chức vị Thiên hộ”.

Cùng với sự bàng trướng thế lực và địa vị ngày càng cao của Mã Dược. Uy thế của Mã Dược cũng trở nên ngày càng mạnh mẽ. Hiện tại người bình thường nhìn thấy Mã Dược thậm chí còn không dám thở mạnh. Cũng chỉ có Chu Thương và hơn ba trăm lão lưu khấu còn lại sau khi trải qua sàng lọc là có dũng khí xưng hô Mã Dược là “Đại đầu lĩnh”. Người gọi thẳng Mã Dược là Bá Tề cũng chỉ còn có mình Bùi Nguyên Thiệu.

Mã Dược cắt một miếng thịt trâu luộc bỏ vào mồm vui vẻ nhai, hắn chỉ có thể ê a gật đầu chứ không rảng rỗi để trả lời.

Chu Thương vung mạnh cánh tay, hắn cao giọng nói: “Người đâu, mang vũ kỹ Âu la ba ra đây”.

Bên ngoài đại trướng bất chợt vang lên nhịp trống dồn dập. Trong nhịp trống kích động lòng người đó, một đội vũ nữ Âu la ba dáng người cao gầy, tóc vàng mắt xanh uốn eo, lắc mông tiến vào trong trướng. Những vũ nữ này không vận quần áo, toàn thân chỉ quấn quanh hông một miếng da thú nhỏ, ngắn.

Những vũ nữ nào uốn eo, lắc mông làm tấm da thú quấn bên hông hất lên, hoàn toàn để lộ xuân quang ở hạ thể. Trong đại trướng, các lão lưu khấu, kể cả Chu Thương, Bùi Nguyên Thiệu cũng đều vỗ tay, la hét. Phảng phất như quay lại thời gi­an của hơn chục năm trước, quãng thời gi­an bỏ chạy trối chết. Ban ngày liếm máu trên lưỡi đao, ban đêm chè chén say sưa bên đống lửa cùng với tuế nguyệt. Trong lúc vô tình một vũ nữ tiến tới trước mặt Chu Thương, cô ả quay lưng về phía Chu Thương, cố sức lắc kiều đồn đầy đặn, mê người của mình.

“Lại đây nào. Kiễng người lên. Ha ha” Chu Thương cười dâm đãng. Hắn giơ tay ôm ngang đùi của vũ nữ Âu La Mã, bắt kiều đồn của ả vũ nữ vểnh cao lên sau đó hắn dùng hai ngón tay chọc vào hạ thể của ả vũ nữ một lúc. Cuối cùng hắn hít vào mồm, quay sang nhìn đám lưu khấu bên cạnh gào lên: “Tư vị cũng không tệ lắm. Thực sự…”.

“Ha ha ha…”

Các Thiên hộ, Bách hộ trong trướng phá lên cười.

Hiệu kèn lệnh nổi lên dưới chân núi Đạn Hãn Sơn, một đội thiết kỵ Mạc Bắc từ trong quân doanh mãnh liệt tuôn ra thảo nguyên mênh mông, triển khai thế trận kỵ binh chỉnh tề. Phụ tử Mã Dược, Mã Chinh được Điển Vi, Triệu Vân, Giả Hủ, Chu Thương, Bùi Nguyên Thiệu, Quản Khởi hộ tống từ trong trận kỵ binh phóng ngựa lên trước.

Mười hai vạn thiết kỵ Mạc Bắc dùng phương trận theo từng Thiên hộ, tổng cộng ba trăm phương trận ( ba trăm Thiên hộ có lớn, có nhỏ. Lớn có mấy ngàn kỵ binh, nhỏ chỉ có hơn trăm kỵ binh ) triển khai theo thứ tự trên thảo nguyên mênh mông, trải dài hơn hai mươi dặm. Cơ hồ như Mã Dược phải mất hai canh giờ thì mới có thể kiểm tra qua hết ba trăm phương trận kỵ binh.

Trước tiên Mã Dược đi kiểm tra phương trận kỵ binh Thanh Châu doanh của hãn tướng Quản Hợi.

Dù Quản Hợi đã chết, ba trăm tặc khấu Thanh Châu đã từng theo Quản Hợi và Mã Dược dong duổi Trung Nguyên cũng đã toàn bộ chết trận ở Âm Phong Hạp cốc nhưng Thanh Châu doanh của Quản Hợi vẫn được Mã Dược giữ lại. Từ ba trăm kỵ binh ban đầu đã mở rộng ra thành ba ngàn kỵ binh. Đây là một chi thiết kỵ tinh nhuệ thực sự làm người khác kinh sợ.

Mỗi kỵ binh Thanh Châu doanh được chia hai chiến mã Sơn Đan tốt nhất, cùng với bốn con ngựa lùn Mông Cổ. Khi tác chiến thì dùng chiến mã Sơn Đan, khi hành quân thì dùng ngựa lùn Mông Cổ. Chỉ có những lão binh Thanh Châu chiến công trác tuyệt thì mới được hưởng đãi ngộ này.

Trong tiếng võ ngựa nhẹ, trầm, Mã Dược chậm rãi giục ngựa đi trước trận của Thanh Châu doanh.

“Đại đầu lĩnh uy vũ”.

Một viên kỵ tướng cưỡi ngựa đứng sừng sững trước trận tiền, giơ cao Trảm mã đao trong tay, hắn ngửa mặt lên trời gào to. Phía sau lưng viên kỵ tướng, ba ngàn kỵ binh Thanh Châu cũng ầm ầm đáp lại, tiếng reo hò ầm ầm quay cuồng trong đất trười, rất lâu mới chấm dứt. Ánh mắt Mã Dược lập tức nóng rực lên, thậm chí máu trong người hắn cũng bắt đầu sôi trào.

“Hát!”

“Hát!”

“Hát!”

Dưới sự chỉ huy của viên kỵ tướng, ba ngàn kỵ binh Thanh Châu đều hô hiệu tử, vừa dùng Trảm mã đao vỗ vào áo giáp trước ngựa, phát ra âm thanh va chạm to, nhịp nhàng. Đây chính là một nghi lễ độc đáo của tướng sĩ kỵ binh Mạc Bắc, biểu thị sự ủng hộ và tôn kính của binh lính đối với người chủ soái.

“Ngươi là Viên Tùng” Trong âm thanh rầm rĩ không ngừng, Mã Dược giục ngựa tới trước mặt viên kỵ tướng, hắn trầm giọng nói: “Khi đánh một trận ở Âm Phong Hạp cốc, ngươi vì bị thương mà ở lại quân doanh, chính là vậy ngươi là người may mắn còn sống sót duy nhất trong ba trăm binh lính Thanh Châu. Ta còn nhớ lúc đó ngươi mới chỉ mười tám tuổi nhưng ngươi đã tham gia ba mươi bảy trận ác chiến, mười chín lần bị thương, trong đó có hai lần bị thương. Lần thứ nhất ở Hổ Lao quan, lần thứ hai ở Trường Xã. Ta nói đúng không?”

Viên kỵ tướng lớn tiếng đáp: “Đại đầu lĩnh nói đúng, mạt tướng chính là Viên Tùng”.

Mã Dược cũng quát to: “Dưới trướng của bản đại đầu lĩnh, Quản Hợi vẫn luôn là một Đại tướng tiên phong, Thanh Châu doanh vẫn luôn là tinh nhuệ của tinh nhuệ. Vô luận là con người ngày càng thay đổi, thế sự ngày càng xoay vần, quân hồn của tám trăm lưu khấu vẫn bất diệt. Cô hy vọng ngươi không nên làm hỏng uy danh thống lĩnh của Quản Hợi, lại càng không nên hủy đi thanh danh lẫy lừng của Thanh Châu doanh”.

Viên Tùng lại một lần nữa giơ cao Trảm mã đao gào lên: “Tử chiến!”.

“Tử chiến!”

“Tử chiến!”

“Tử chiến!”

Trong tiếng hò reo long trời lở đất của ba ngàn thiết kỵ Thanh Châu, Mã Dược tiếp tục giục ngựa tiến lên trước.

Ngay sau đó xuất hiện trước mặt Mã Dược là một đội Khương binh màu xanh, tạo thành Khương kỵ binh.

Tiền thân của đội Khương binh này là tám ngàn Khương binh tinh nhuệ Mã Dược mượn từ ba mươi sáu trại Khương ở Bắc Địa. Sau khi trải qua bách chiến, tám ngàn Khương binh này chỉ còn lại có hơn ba ngàn quân. Hơn nữa từ một đội quân bộ binh biến thành một đội kỵ binh thiện chiến.

Sau khi Phương Duyệt bình định Mạc Bắc, Mã Dược phân phong ba bộ vạn hộ. Hắn nhớ tới Quản Khởi ( mất Quản Hợi từ lúc nằm trong bụng mẹ ), tuổi nhỏ không nơi nương tựa nên mới đem ba ngàn Khương binh này ban cho Quản Khởi, trở thành một đội thân vệ của Quản Khởi. Lúc này toàn bộ ba bộ vạn hộ Mạc Bắc điều động, đội thân vệ của Quản Khởi đương nhiên cũng muốn theo quân xuất chinh.

“Thiên Tướng quân uy vũ!”

Trước trận Khương kỵ, viên Khương tướng giơ cao chiếc vồ sắt gào lên.

“Thiên Tướng quân uy vũ!”

“Thiên Tướng quân uy vũ!”

“Thiên Tướng quân uy vũ!”

Ba ngàn Khương binh ầm ầm trả lời.

Người Khương xưa nay coi Đại Hán Phục Ba tướng quân là thần uy Thiên tướng quân. Mã Dược là hậu nhân của Mã Viện, đương nhiên cũng được người Khương coi là thần uy Thiên tướng quân.

“Ngột Thuật” ( Ngột Thuật là huynh đệ của Ngột Đương - mẫu thân của Nguyệt Nô nhi, cũng là tình nhân của Mã Dược ) ánh mắt Mã Dược sáng quắc như đuốc nhìn Ngột Thuật, hắn nghiêm nghị quát hỏi: “Các dũng sĩ ba mươi sáu trại Khương đã chuẩn bị sẵn sàng chưa?”

Ngột Thuật hung hăng vung cây vồ sắt trong tay, quát to: “Bất kỳ lúc nào cũng có thể nghe theo sự sai bảo của Thiên tướng quân”.

Điền Dự đi vào đại sảnh, sắc mặt hắn vô cùng nghiêm trọng. Hắn nhìn Viên Thượng nói: “Đại tướng quân, không hay rồi”.

Viên Thượng ngẩng đầu hỏi: “Điền Dự tướng quân, đã xảy ra chuyện gì? Chẳng lẽ phản quân của Viên Đàm và đại quân Đông Ngô đã đánh tới Hoàng Hà sao?”

“Không phải” Điền Dự nói: “Là Mã đồ phu xuất binh”.

“Mã đồ …ai, Mã Thừa tướng?” Viên Thượng không lấy đó làm kinh sợ, trái lại hắn còn vui mừng nói: “Đây là chuyện tốt. Điền Dự tướng quân không cần lo lắng. Quân Lương đồng ý với yêu cầu của Cô nên mới xuất binh”.

“Chỉ e chuyện không đơn giản như vậy” Điền Dự trầm giọng nói: “Mật thám mới cấp báo, xung quanh đại bản doanh Đạn Hãn Sơn đã tụ tập mười mấy vạn thiết kỵ Mạc Bắc. Ba bộ vạn hộ Mạc Bắc toàn bộ xuất chinh, xuôi nam với quy mô lớn. Xin Đại tướng quân hãy suy nghĩ cẩn thận. Nếu như chỉ để giúp Đại tướng quân đánh lui phản quân Viên Đàm và đại quân Đông Ngô, Mã đồ phu có cần thiết phải huy động mười mấy vạn quân thiết kỵ Mạc Bắc không?”

“Chẳng lẽ…” Viên Thượng tái mặt, hắn trầm giọng nói: “Thừa tướng có dụng ý khác”.

“Đại tướng quân” Điền Dự ôm quyền, hắn kích động nói: “Mã đồ phu tụ tập mười mấy vạn thiết kỵ xuôi nam, chỉ e đây là kế mượn đường phạt Quắc mà thôi”.

“Mượn đường phạt Quắc?” Viên Thượng bàng hoàng nói: “Không, tuyệt đối không thể nào”.

Mưu sĩ Thẩm Phối vừa mới đi vào, Viên Thượng giận tím mặt mắng: “Thẩm Phối, đây tất cả đều là chủ ý của ngươi”.

Thẩm Phối bị Viên Thương mắng té tát, hắn ngơ ngác, bối rối hỏi: “Chúa công, hà cớ gì mà tức giận?”

“Ngươi” Viên Thượng chỉ tay vào Điền Dự, giận dữ nói: “Quốc Nhượng, hãy nói cho hắn biết”.

Điền Dự nói: “Quân sư, mật thám cấp báo, Chu Thương, Bùi Nguyên Thiệu, Quản Khởi, đã tụ tập toàn bộ ba bộ vạn hộ Mạc Bắc, tổng cộng hơn mười vạn kỵ binh ở đại bản doanh Đạn Hãn Sơn. Xem ra chỉ nay mai chúng sẽ nhập quan xuôi nam”.

“Hả?” Sắc mặt Thẩm Phối lập tức trở nên trắng bệch. Hắn run run nói: “Có việc này sao? Quả thật là hối không kịp. Vốn chúng ta chỉ muốn mượn quân Mã đồ phu tiêu diệt phản quân Viên Đàm, đánh bại quân Đông Ngô của Chu Du, không ngờ lại dẫn tới mười mấy vạn thiết kỵ Mạc Bắc này. Bây giờ phải làm gì đây?”

“Cô còn muốn hỏi ngươi đó” Viên Thượng lạnh lùng nói: “Nếu như ngươi không nghĩ ra biện pháp vãn hồi thế cục này, Cô sẽ lấy đầu ngươi”.

Thẩm Phối sầu thảm nói: “Thiết kỵ Mạc Bắc thế lớn. Nếu như chia binh ra tử thủ thì chỉ e sẽ bị tiêu diệt từng phần một. Chuyện cho tới lúc này cũng chỉ còn cách để Điền Dự tướng quân và Trương Yến tướng quân chỉ huy bộ binh bản bộ tử thủ U Châu, trì hoãn tốc độ xuôi nam của thiết kỵ Mạc Bắc sau đó chúng ta tụ họp trọng binh với tốc độ nhanh nhất ở Nghiệp Thành để tự bảo vệ mình”.

Viên Thượng vội vàng giục giã Điền Dự: “Như vậy tướng quân hãy mau chóng trở về U Châu”.

“Mạt tướng tuân lệnh” Điền Dự chắp tay thi lễ sau đó hắn quay người rời khỏi.

Bạch Sơn Khẩu ở giữa Bạch Sơn và Đạn Hãn Sơn, là một trong ba quan khẩu chủ yếu từ thảo nguyên Mạc Bắc xuôi nam U Châu. Địa thế Bạch Sơn Khẩu hiểm trở, hai bên là núi non uốn lượn chính là Vạn Lý trường thành, vẫn được xưng tụng là dễ thủ khó công.

Thế nhưng bởi vì tập đoàn Viên thị và tập đoàn Mã Dược có quan hệ hữu hảo. Binh lính U Châu trấn giữ Bạch Sơn Khẩu tương đối lỏng lẻo. Viên Thiệu chỉ để Điền Dự, Thứ Sử U Châu phái ba trăm binh lính quận trấn giữ tượng trưng. Mục đích chính của hắn không phải là để phòng ngừa thiết kỵ Mạc Bắc xuôi nam mà là để phòng ngừa mã tặc tập kích thế nhưng Điền Dự vẫn khá cẩn thận, hắn đã tăng quân trấn thủ lên tới năm ngàn người.

Trên sơn khẩu, hai tên lính U Châu đang uể oải nhìn qua tháp quan sát. Trên thảo nguyên mênh mông ở phía bắc vốn chẳng có một điểm gì đáng chú ý. Đột nhiên trong lúc đó một tên lính U Châu dường như phát hiện ra điều gì. Hắn đứng bật dậy, tên lính U Châu bên cạnh giật nẩy mình, tức giận gầm lên: “Ngưu lão tam, con mẹ nó, ngươi muốn hù chết lão tử sao?”

“Hùng lão nhị, ngươi hãy nhìn phía bắc đi”.

Ngưu lão tam chỉ tay về thảo nguyên bao la ở phía bắc, giọng nói của hắn vô cùng bất an.

“Cái quỷ gì vậy? Ngươi đừng có hù doạ ta” Hùng lão nhị không nghĩ vậy, hắn nhìn theo hướng chỉ của Ngưu lão tam sau đó hắn điềm nhiên quay đầu lại, khinh thường nói: “Đó chỉ là một đám ngựa hoang, chẳng có gì mà hoảng sợ. Ai, chờ một chút”.

Đột nhiên Hùng lão nhị kêu lên một tiếng, hắn vội vàng quay đầu lại nhìn. Cuối cùng hắn hít một hơi thật sâu, nhìn Ngưu lãi tam nói: “Ông trời ơi, đó là kỵ binh”.

“Rất nhiều kỵ binh” Ngưu lão tam trong lòng run sợ nói: “Con mẹ nó, Lão Tử sống nửa đời người vẫn chưa từng nhìn thấy nhiều kỵ binh như vậy. Nhìn thế trận phải có tới mấy vạn kỵ binh”.

“Mau!” Hùng lão nhị gần như nhảy dựng len: “Còn ở đó mà lo lắng, mau nổi kèn báo động. Nhất định là thiết kỵ Mạc Bắc đã đánh tới”.

“Ô ô ô…”

Đột nhiên trong lúc đó, hiệu kèn lệnh nổi lên dậy đất. Binh lính U Châu đang trong quân doanh cuống quýt vọt ra từ lều của mình, kết thành thế trận hoảng loạn ngay trước quân doanh. Đứng ở trong quân doanh từ trên cao nhìn xuống ra ngoài sơn khẩu, chỉ thấy trên thảo nguyên bao la đã xuất hiện một nhóm lớn kỵ binh, đông nghịt một mảng, giống như mây đen đang từ phương bắc cuốn tới.

Vô số đầu ngựa di động hội tụ thành một biển lớn mênh mông, bát ngát, vạn mã cuồn cuộn, gót sắt bốc lên. Tiếng vó ngựa vang vọng đất trời, không khí ngột ngạt làm người khác hít thở không thông, từ sâu thẳm trong linh hồn mình cũn phải chấn động.

“Ông trời ơi, a. Ông trời ơi” Một tên tiểu giáo U Châu rên rỉ như mộng mị: “Ta phải về nhà. Ta không muốn chết ở đây”.

Trong quân doanh U Châu lập tức vang lên những tiếng xít xoa. Cơ hồ gần như trong mắt của tất cả binh lính U Châu đều hiện lên sự hoảng sợ, lo sợ không yên sau đó theo bản năng chúng lui lại phía sau, lui lại sau.

“Tướng quân chạy rồi”.

Trong lúc bối rối có tên binh lính gào lên.

Binh lính U Châu đang trong lúc hoảng sợ, khiếp nhược tan rã tới nơi thì thấy một viên võ tướng U Châu với sự hộ tống của hơn mười thân kỵ binh giục ngựa bỏ chạy. Binh lính U Châu giống như một nồi sup de phát nổ, chúng đồng thanh gào lên một tiếng rồi quay người bỏ chạy. Chỉ trong một khoảng thời gi­an ngắn toàn bộ quân doanh đã hoàn toàn trống trơn, hcỉ còn lại một doanh luỹ trống rỗng, trên mặt đất ném đầy đao, thương, kiếm kích.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 336: Chu Du dụng binh (1)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Điền Dự mới từ Nghiệp Thành quay về Kế huyện, đang cùng Trương Yến thượng nghị kế sách chống đỡ lại thiết kỵ Mạc Bắc xuôi nam thì bất chợt một tên tiểu giáo hoảng hốt chạy vào bẩm báo: “Tướng quân, hỏng rồi”.

Điền Dự quát to: “Hoảng hốt cái gì? Có việc gì cứ từ từ nói”.

“Tướng quân” Tên tiểu giáo thở hổn hển nói: “Bạch Sơn khẩu đã mất rồi. Mười mấy vạn quân thiết kỵ Mạc Bắc đã qua Trục Lộc, đang tiến tới Trác quận”.

“Hả?”

“Cái gì?”

Điền Dự, Trương Yến cùng tái mặt.

“Không thể nào” Điền Dự tức giận nói: “Địa thế Bạch Sơn khẩu hiểm yếu. Hơn nữa còn có năm ngàn tinh binh trấn giữ. Sao có thể thất thủ nhanh như vậy được?”

“Tướng quân” Tên tiểu giáo buồn rầu nói: “Tiêu Xúc sớm bỏ chạy”.

“Tiêu Xúc đáng chết kia” Điên Dự giận dữ quát: “Bản tướng quân không thể không giết hắn”.

“Không cần nữa” Tên tiểu giáo ủ ê nói: “Bại quân của Tiêu Xúc đã bị thiết kỵ Mạc Bắc đuổi theo. Toàn quân bị diệt. Tiêu Xúc cũng đã chết trong đám loạn quân”.

“Điền tướng quân” Trương Yến nói: “Hiện tại chỉ còn cách tập trung quân đội tử thủ Trác quận. Nếu như Trác quận cuối cùng cũng mất nốt thì toàn bộ Ký Châu sẽ hoàn toàn nằm dưới gót sắt của thiệt kỵ Mạc Bắc. Địa hình Ký Châu hoàn toàn bằng phẳng, ngoại trừ mấy toà thành lớn còn căn bản không có nơi hiểm yếu để phòng thủ. Một khi thiết kỵ Mạc Bắc tiến vào Ký Châu thì thế lớn của quân ta đã mất”.

“Chỉ sợ không còn kịp nữa rồi” Điền Dự buồn rầu nói: “Thiết kỵ Mạc Bắc tiến nhanh như gió. Chờ khi chúng ta có thể tập hợp đại quân tử thủ Trác quận thì chỉ e chúng đã đánh tới Ký Châu. Hơn nữa với sự giảo hoạt của Mã đồ phu và Giả độc sĩ, cho dù chúng ta có tiến hành tử thủ thì chưa chắc chúng cũng ở lại U Châu lâu để đôi co với chúng ta. Dù sao mục tiêu duy nhất của Mã đồ phu chính là Nghiệp Thành”.

Trương Yến lo sợ không yên nói: “Vậy phải làm gì bây giờ?’

Điền Dự trầm giọng nói: “Chuyện cho tới nước này cũng không còn biện pháp khả thi nào nữa. Chúng ta chỉ còn cách dẫn quân U Châu xuôi nam vào Ký Châu, cứu viện Nghiệp Thành”.

“Hả” Trương Yến thất thanh nói: “Vậy còn U Châu thì làm sao bây giờ? Đại quân trong lúc hành quân vội vàng khó tránh khỏi sơ hở, rất có thể bị thiết kỵ Mạc Bắc nhân cơ hội đánh giết. Chỉ e là chưa tới Nghiệp Thành toàn quân đã thất bại’.

“Nói như vậy..” Điền Dự ngẩng đầu nhìn Trương Yến, sắc mặt hắn xanh lét. Hắn trầm giọng nói: “Tướng quân muốn thấy chết mà không cứu, giữ lại trọng binh của mình sao?”

“Quốc Nhượng huynh không cần phải nói khích” Trương Yến tức giận nói: “Mạt tướng tuy xuất thân Hắc Sơn tặc nhưng cũng biết hai chữ trung nghĩa. Cố chúa công đối xử không tệ với mạt tướng. Đương kim chúa công gặp nạn. Mạt tướng há có thể thấy chết mà không cứu sao? Nếu tướng quân đã quyết tâm như vậy…mạt tướng sẽ sai khoái mã chạy về Ngư Dương, khởi toàn bộ đại quân Hắc Sơn theo tướng quân xuôi nam Nghiệp Thành”.

“Được!” Điền Dự cao giọng nói: “Bản tướng quân ở Kế huyện chờ đại quân của tướng quân”.

Mã Dược giục ngựa đi lên sườn núi ở bên phải quan đạo. Hắn giơ roi ngựa chỉ bình nguyên bao la ở hướng đông bắc, nhìn Giả Hủ nói: “Văn Hoà còn nhớ thảo nguyên kia không?’

Giả Hủ nói: “Có gì mà không nhớ. Trên thảo nguyên Bá Thượng này quân ta đã đánh một trận. Chúa công đã dùng mấy ngàn kỵ binh đánh bại ba vạn quân U Châu tinh nhuệ của Lưu Ngu. Chúa công đã vận dụng chiến xa thiết giáp liên hoàn. Điều này Hủ vẫn nhớ như mới. Sau đó trong cuộc chiến Hứa Xương, cũng chính trên cơ sở chiến xa thiết giáp liên hoàn của chúa công đã cải biến thành xa trận nỗ mới có thể tiêu diệt toàn bộ bảy vạn đại quân của Tào Tháo”.

“Hồi tưởng lại giống như một giấc mộng” Mã Dược xúc động nói, đột nhiên hắn quay đầu nhìn Mã Chinh hỏi: “Chinh nhi, có biết vì sao vi phu đưa con tới Mạc Bắc không?”

“Hài nhi biết” Mã Chinh cung kính chắp tay thi lễ với Mã Dược rồi hắn cao giọng nói: “Tuy phụ thân khởi binh ở Trung Nguyên nhưng hưng thịnh ở Mạc Bắc. Phụ thân hoàn toàn dựa vào kỵ binh làm việc gì cũng thuận lợi để có cơ nghiệp ngày hôm nay. Phụ thân mang hài nhi tới Mạc Bắc chính là hy vọng hài nhi có thể hiểu rõ hơn về kỵ binh, vận dụng kỵ binh tốt hơn. Kể từ khi hài nhi tới Mạc Bắc, ban ngày tập luyện võ nghệ, ban đêm nghiên cứu binh thư. Hàng tháng đều theo nhị vị thúc phụ đi săn thú. Học tập chiến thuật kỵ binh, linh hoạt vận dụng ngay trong thực chiến, không dám có chút lơ là’.

“Bá Tề” Đột nhiên Bùi Nguyên Thiệu nói: “Chinh nhi tuổi còn nhỏ những đã tinh thông kỵ chiến. Mùa đông năm ngoái bắc tiến đánh Đinh Linh, Chinh nhi chỉ huy chín trăm khinh kỵ binh tiến hơn hai ngàn dặm, chém hơn vạn người, bắt tù binh, dê, bò, trâu gì đó hơn mười vạn đầu”.

“Thật vậy sao?” Mã Dược hơi kích động, hắn nhìn Mã Chinh hỏi: “Nguyên Thiệu thúc phụ nói thật không?”

Mã Chinh kinh sợ nói: “Bắc đánh Đinh Linh, quân kỵ binh chủ lực của người Đinh Linh đã bị nhị vị thúc phụ tiêu diệt. Hài nhi dẫn chín trăm kỵ binh đuổi giết chỉ là một đám tàn binh bại tướng. Hài nhi thật không dám kể công”.

“Hừ, nói vậy là thật sao?” Mã Dược nói: “Nói như vậy thì vi phu thật sự muốn khảo nghiệm con. Con không ngại nói cho vi phu biết tinh tuý của kỵ chiến là gì không?”

Mã Chinh vội vàng nói: “Hài nhi sao dám múa rìu qua mắt thợ trước mặt phụ thân?’

“Ta cho phép con nói” Mã Dược cau mày bực tức nói: “Cứ bẽn lẽn như nữ nhân vậy, không giống nam nhân chút nào”.

“Như vậy hài nhi xin lạm quyền” Mã Chinh vươn người thi lễ rồi hắn cao giọng nói: “Hài nhi cho là tinh tuý của kỵ binh tập trung ở chữ “nhanh’. Vu hồi ngàn dặm, bôn tập đường dài, có thể dùng kỳ binh bất ngờ tiến đánh, tấn công vào chỗ địch nhân chưa hề phòng bị. Có thể nói không đánh mà hưởng lợi. Dĩ nhiên trọng giáp thiết kỵ của phụ thân thì hoàn toàn khác, chiến thuật cũng không giống với khinh kỵ binh”.

“Cũng có điểm đáng chú ý” Mã Dược nói: “Vậy con không ngại hãy cho vi phu biết cuộc chiến Hà Bắc này nên đánh như thế nào đây?”

Mã Chinh nói: “Đối với cuộc chiến Hà Bắc, hài nhi cho rằng công tâm là thượng sách, công thành là hạ sách”.

“Hả?” Mã Dược đưa mắt trao đổi với Giả Hủ rồi hắn nói tiếp: “Hãy nói tiếp theo nên làm thế nào?’

Mã Chinh nói: “Mười hai vạn thiết kỵ Mạc bắc đều là kỵ binh. Kỵ binh có ưu thế ở tốc độ, dùng cho dã chiến. Nếu như dùng để công thành thì có thể nói lấy sở đoản địch với sở trường. Người trí dũng không dùng hạ sách công thành này. Viên Thiệu mới chết. Hai con trai cùng tự lập. Bộ hạ cũ của Viên thị xáo động nhân tâm, không có quyết tâm tử chiến. Binh lính không có ý chí tử chiến. Nếu như lúc này dùng một toán tinh kỵ đột nhiên xuất hiện ở chân thành Nghiệp Thành, làm cho Nghiệp Thành trở thành một toà cô thành ngăn cách với thế giới bên ngoài thì chính là một sự đả kích nghiêm trọng đối với nhân tâm của bộ hạ cũ của Viên thị và dân chúng Nghiệp Thành. Một khi phòng tuyến tâm lý của bộ hạ cũ Viên thị mất đi, rất có thể chúng sẽ không chiến mà hàng. Quân ta có phải công thành thì cũng vấp phải sức chống cự yếu ớt hơn nhiều. Đó là lý do công tâm là thượng sách”.

“Ừ”.

Mã Dược không nhịn được gật đầu. Dù sắc mặt của hắn vẫn bình thản nhưng trong lòng hắn thầm nghĩ: Chỉ cần đợi một thời gi­an nữa Mã Chinh sẽ không thua sút Tôn Quyền. Có con trai như vậy thì bây giờ có chết ngay lập tức cũng không có gì lo lắng nữa.

Giả Hủ ở bên cạnh đương nhiên cũng có suy tính, hắn hỏi một câu: “Tại hạ cũng muốn hỏi công tử một chút. Nếu như Viên Thượng hiến thành đầu hàng thì nên xử trí thế nào? Bộ hạ cũ của Viên thị nên xử lý thế nào? Dân chúng Nghiệp Thành và Hà Bắc nên xử trí thế nào?”

Nếu so sánh mà nói thì Mã Dược quan tâm tới binh lược của Mã Chinh. Đương nhiên Giả Hủ lại quan tâm tới chính lược của Mã Chinh. Dù sao Mã Dược đánh chiếm gi­ang sơn rộng lớn chính là để sau này Mã Chinh trị vì. Nếu như Mã Chinh không có sự xuất sắc về chính trị, hắn rất khó có thể cai trị thiên hạ tốt. Nếu như Mã Chinh chỉ thiện dụng binh, không giỏi dùng chính trị sau này hắn rất có thể sẽ trở thành một bạo quân vương. Tuyệt đối đây không phải là phúc của chúng dân thiên hạ.

Mã Chinh trả lời không chút suy nghĩ: “Nêu như Viên Thượng hiến thành đầu hàng, thiết tưởng nên chuyển Viên Thượng vào triều làm quan. Mặt khác có thể lựa chọn người có tài có đức làm Thứ Sử các châu Ký, U, Tịnh, Thanh, rộng lượng đề bạt danh sĩ Hà Bắc. Nhanh chóng khôi phục sự ổn định của bốn châu Hà Bắc, lại mở kho lương cứu tế cho dân chúng, không được tuyển chọn quan lại tàn ác, chỉnh đốn trị an như vậy nhân tâm sẽ định. Nhưng về việc tiễu phỉ, trộm cướp thì nhất định phải lưu lại tới mức độ có thể lính bảo an địa phương, giữ lại sức mạnh cho Hà Bắc. Còn về phần các bộ hạ cũ của Viên thị và hơn mười vạn đại quân thì nhất quyết không được đóng lại Hà Bắc, phải theo đại quân xuôi nam đánh Trung Nguyên’.

Giả Hủ vuốt râu, sắc mặt cực kỳ vui vẻ.

Tương lai của Mã Chinh thế nào, Giả Hủ không dám chắc nhưng Giả Hủ tin tưởng ít nhất Mã Chinh sẽ không trở thành một bạo chúa cực kỳ hiếu chiến.

Mã Dược gõ gõ roi ngựa vào lòng bàn tay, đột nhiên hắn ngẩng đầu quát to: “Mã Chinh, Quản Khởi nghe lệnh”.

Mã Chinh, Quản Khởi giục ngựa tiến lên trước.

Mã Dược quát to: “Mã Chinh làm chủ tướng, Quản Khởi làm phó tướng, chỉ huy ba vạn thiết kỵ xuôi nam, tiến thẳng tới Nghiệp Thành”.

“Tuân lệnh”.

Mã Chinh, Quản Khởi lĩnh mệnh rời đi.

‘Chúa công” Lý Túc không nhịn được, hắn giục ngựa tiến lên khuyên nhủ: “Mặc dù công tử Chinh thuộc làu binh thư, tinh thông mưu lược, cũng giỏi chính lược nhưng dù sao tuổi vẫn còn trẻ. Hơn nữa công tử vẫn chưa có kinh nghiệm cầm quân một mình. Còn nữa dùng Quản Khởi làm phó tướng có mạo hiểm quá không? Dù sao Quản Khởi cũng chỉ lớn hơn công tử Chinh mấy tháng. Túc thiết nghĩ cần phải phái một lão tướng thiện chiến làm phó tướng”.

“Tử Nghiêm không cần phải lo lắng” Mã Dược khoát tay nói: “Mặc dù Mã Chinh là nhi tử của Cô nhưng Cô không thể không thừa nhận tiểu tử này làm việc rất có phong thái của một Đại tướng. Huống chi bên cạnh Mã Chinh còn có Triệu Vân, Hứa Thiệu, hai viên hãn tướng làm thân vệ, không cần lo lắng về việc an toàn. Lần này Cô để cho hắn đơn độc dẫn quân đường xa bôn tập Nghiệp Thành chính là để nhìn xem hắn nói được có làm được không, không đánh mà khuất phục Nghiệp Thành”.

Nói một hồi Mã Dược nhìn Lý Túc hỏi một câu đầy thâm ý: “Chẳng lẽ Tử Nghiêm không cảm thấy trận chiến này có ý nghĩa vô cùng trọng đại với công tử Chinh, càng có ý nghĩa hơn với cả quân đoàn Lương Châu sao?”

“Ai…” Ban đầu Lý Túc sửng sốt nhưng bất chợt hắn hiểu ra nói: “Hiểu, thuộc hạ đã hiểu”.

Lý Túc là người thông minh, hắn lập tức thông suốt.

Hiển nhiên là Mã Dược muốn thông qua cuộc chiến Nghiệp Thành lần này đạt được hai mục đích của mình. Thứ nhất hắn muốn bồi dưỡng và rèn luyện năng lực tự mình cầm quân của Mã Chinh. Thứ hai hắn muốn Mã Chinh tạo dựng uy tín trong quân đoàn Lương Châu. Nói cách khác bắt đầu từ bây giờ Mã Dược chính thức xác nhận thân phận thế tử của Mã Chinh.

Tân Bình lo lắng nhìn Viên Đàm nói: “Chúa công, mật thám cấp báo: Đại tướng Tây Lương Cao Thuận chỉ huy mười vạn quân tinh nhuệ đã tiến vào thành Huỳnh Dương, chỉ còn cách Trần Lưu chưa tới năm trăm dặm. Trong số mười vạn quân tinh nhuệ đó, có ba vạn thiết kỵ Tây Lương. Nếu như khinh kỵ binh tiến nhanh thì chỉ cần ba ngày là có thể đánh tới thành Trần Lưu”.

“Hả, mười vạn quân tinh nhuệ? Ba vạn thiết kỵ Tây Lương sao?” Sắc mặt Viên Đàm lập tức trở nên trắng bệch. Hắn lo sợ không yên nói: “Vậy làm sao để ngăn cản? Cần làm gì bây giờ?”

Chuyện tới lúc này cũng chỉ còn cách cầu viện quân Ngô” Tân Bình nói: “Khi chinh phạt Tào Báo, chúa công đã từng trợ giúp Tôn Quyền. Hiên tại chúa công gặp nạn, Tôn Quyền có thể thấy chết mà không cứu sao? Còn nữa, chúa công hãy phái người đi tới Hà Bắc dò xét phản ứng của Viên Thượng. Bình nghe nói Viên Thượng cũng bị mười vạn quân thiết kỵ Mạc Bắc uy hiếp. Nếu có thể thì hai nhà hãy liên thủ đối phó với kẻ thù”.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 336: Chu Du dụng binh (2)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Tân Bì nói: “Nhị ca nói rất đúng. Chúa công hãy cấp tốc phía sứ giả tới Nghiệp Thành”.

“Cái gì? Cử sứ giả đi Nghiệp Thành?” Viên Đàm tức giận nói: “Không thể nào. Tuyệt đối lhông thể nào. Cô dù chết trận cũng không bao giờ cúi đầu cầu cứu thằng nhãi ranh Viên Thượng”.

Tân Bình nói: “Chúa công hãy lấy đại cục làm trọng”.

“Câm!” Viên Đàm tức giận nói: “Tân Bình, tất cả đều là chủ ý chết tiệt của ngươi. Đáng lẽ lúc trước không nên cầu viện quân Ngô. Nếu chúng ta cầu viện quân Lương thì làm gì có mối hoạ hôm nay? Ngươi rõ ràng có chủ tâm giết chết Cô, cố ý đẩy Cô vào tuyệt lộ để thành toàn cho thằng nhãi ranh Viên Thượng kia, có phải không?”

“Cái gì?” Tân Bình thất thanh nói: “Chúa công sao có thể nói như vậy? Điều này làm thuộc hạ thật sự thất vọng và đau khổ. Vì để trợ giúp chúa công, thuộc hạ ngay cả vợ con ở Nghiệp Thành cũng bỏ đi, sao có thể mang lòng khác chứ? Nếu như thuộc hạ muốn thành toàn cho công tử Viên Thượng thì tại sao vợ con của thuộc hạ ở Nghiệp Thành lại lâm vào thảm hoạ?”

“Cái này…” Viên Đàm bị Tân Bình căn vặn không sao nói được, một lúc lâu sau hắn mới ngượng ngùng nói: “Trọng Trì, Cô cũng là nóng nảy, hồ đồ, nói chuyện không tỉnh táo. Ngươi tuỵêt đối không nên để trong lòng”.

“Ai” Tân Bình thở dài nói: “Sau khi cẩn thận ngẫm lại thì thấy kỳ thật chúa công nói không phải không có lý. Vì để tương trợ chúa công làm nên nghiệp bá, thuộc hạ đương nhiên phải hy sinh vợ con ở Nghiệp Thành nhưng cũng khó nói là không có tư tâm. Cũng chính bởi vì thuộc hạ có tư tâm nên trước kia mới khuyên nhủ chúa công cầu viện Đông Ngô”.

“Hả?” Viên Đàm nói: “Trọng Trì nói vậy là có ý gì?”

Tân Bình nói: “Ngoại trừ việc cầu viện Đông Ngô, chúa công vẫn còn một lựa chọn nữa”.

Viên Đàm nói: “Hãy nói mau”.

Tân Bình nói: “Đầu hàng”.

Hai mắt Viên Đàm hung tợn nhìn Tân Bình một hồi lâu không nói gì.

Sắc mặt Tân Bình vẫn như thường, hắn ung dung nói: “Xem thế cục thiên hạ hiện nay. Mã Thừa tướng hùng cứ tây bắc, mới lấy được Tây Xuyên. Vô luận là dân cư, lương thảo, quân mã, hai người Tào Tháo và Tôn Quyền khó có thể so sánh được. Nếu thuộc hạ dự đoán không sai thì chỉ trong vòng mười năm nữa thiên hạ tất hoàn toàn về tay Mã Thừa tướng. Tuy chúa công có hùng tâm khôi phục sự nghiệp của phụ thân nhưng đáng tiếc thế cô lực mỏng. Nếu như đầu hàng Thừa tướng, chúa công vẫn có thể bảo đảm được sự giàu sang phú quý cho Viên thị. Nếu như chúa công liên kết với quân Ngô ngoan cố kháng cự chỉ e là sẽ nhận kết cục ngọc đá đều cháy”.

Sắc mặt Viên Đàm liên tục biến đổi. Một lúc lâu sau hắn thở dài hỏi: “Chẳng lẽ không còn biện pháp nào khác sao?”

“Chúa công” Tân Bình xá dài rồi nói: “Đây là cơ hội cuối cùng. Nếu bỏ qua cơ hội này thì sau này dù chúa công có hiến thành đầu hàng cũng chưa chắc đã có kết cục tốt đẹp”.

“Thôi” Viên Đàm thở dài nói: “Tân Bì”.

Tân Bì chắp tay nói: “Có thuộc hạ”.

Viên Đàm khoát tay nói: “Vẫn do ngươi đi Huỳnh Dương một chuyến’.

“Thuộc hạ lĩnh mệnh”.

Tân Bì chắp tay thi lễ với Viên Đàm, lĩnh mệnh ra đi. Đưa mắt nhìn bóng dáng Tân Bì biến mất khỏi đại sảnh, thân hình Viên Đàm đột nhiên xụi lơ, ngã ngồi xuống đất. Tân Bình ở bên cạnh lắc đầu, thở dài rồi lặng lẽ quay người rời khỏi đại sảnh.

Chu Du chỉ tay vào bản đồ, hắn nhìn chúng tướng nói: “Trước khi mùa nước cạn tới, sông Hoàn Hà vẫn là lá chắn tự nhiên để quân ta ngăn cản thiết kỵ Mạc Bắc xuôi nam”.

Lữ Mông nói: “Mười mấy vạn thiết kỵ Mạc Bắc cùng với mười mấy vạn hàng quân Hà Bắc cùng với hơn mười vạn chiến mã, còn có cả lương thảo, đồ quân nhu. Phải huy động một một lượng nhân lực khổng lồ để vận chuyển sang bờ nam Hoàng Hà. Tất nhiên cũng cần phải có một đội thuyền khổng lồ, một thời gi­an dài để vận chuyển tới lui. Đây chính là cơ hội để quân ta có thể tận dụng”.

Chu Du nặng nề vỗ tay vào bản đồ, hắn trầm giọng nói: “Cảng Bạch Mã và cảng Duyên Tân. Khoảng cách từ hai cảng này xuôi nam tới Trung Nguyên là gần nhất. Hơn nữa đây cũng là hai cảng lớn nhất ở hai bên bờ sông Hoàng Hà. Chỉ cần không có chuyện bất ngờ xảy ra đương nhiên Mã đồ phu sẽ chọn hai cảng này để vượt sông Hoàng Hà. Bởi vậy trước khi mùa nước cạn tới, quân ta nhất định phải bảo vệ được hai cảng này”.

“Bạch Mã, Duyên Tân vô cùng quan trọng” Nói tới đây Chu Du ngừng lại nhìn quanh chư tướng rồi hỏi: “Có ai dám trấn thủ không?”

“Mạt tướng tình nguyện”.

“Mạt tướng tình nguyện”.

Chu Du vừa nói xong, Toàn Tông, Hạ Tề đồng thời bước ra nói.

“Ừ” Chu Du gật đầu nói: “Thiết kỵ Mạc Bắc của Mã đồ phu sắp đánh tới. Bản đô đốc dự liệu rằng Viên Thượng không có tâm nào trấn giữ. Nhị vị tướng quân hãy điểm ba ngàn tinh binh ngay trong đêm nay xuất chinh, phối hợp với thuỷ quân đánh chiếm hai cảng Bạch Mã và Duyên Tân”.

“Mạt tướng tuân lệnh”.

Toàn Tông, Hạ Tề trả lời rồi rời đi.

Chu Du lại nói: “Tưởng Khâm nghe lệnh”.

Tương Khâm lắc mình ra khỏi hàng, nói to: “Có mạt tướng”.

Chu Du nói: “Hãy chỉ huy thuỷ quân phối hợp với nhị vị tướng quân Toàn Tông, Hạn Tề đánh chiếm cảng Bạch Mã và Duyên Tân sau đó lục soát kỹ lưỡng ở các làng chài, các cảng nhỏ hai bờ Hoàng Hà, đem đốt tất cả các con thuyền lớn nhỏ”.

“Tuân lệnh”.

Tưởng Khâm cũng lĩnh mệnh rời đi.

Đưa mắt nhìn bóng dáng của ba người Toàn Tông, Hạ Tề, Tưởng Khâm đi xa, sắc mặt Chu Du vô cùng nghiêm trọng, hắn trầm giọng nói: “Cứ coi như tiết trời tốt, mùa nước cạn sông Hoàng Hà chậm lại hay hoàn toàn biến mất, Toàn Tông, Hạ Tề lâu nhất cũng chỉ có thể trụ vững tới cuối năm. Tuy nhiên từ cuối năm tới tận tháng sáu sang năm mới chính là mùa mưa dầm. Trong lúc này chúng ta chỉ có vẻn vẹn thời gi­an sáu tháng”.

“Tuy vật tư cùng phương tiện phòng thủ trong thành Thọ Xuân có làm cho mọi người tin tưởng vài phần nhưng đối mặt với mười vạn quân Tây Lương tấn công mạnh mẽ không ngừng nghỉ, nhiều nhất chúng ta cũng chỉ tử thủ được hai tháng. Nói cách khác chúng ta tuyệt đối không thể để quân Tây Lương của Mã đồ phu đánh tới thành Thọ Xuân trước tháng tư. Vì vậy giữa sông Hoàng Hà và thành Thọ Xuân quân ta phải xây dựng tuyến phòng thủ thứ hai”.

Từ Thứ nói: “Cần phải chỉ rõ là ngay khi thiết kỵ Mạc Bắc tấn công Bạch Mã và Duyên Tân bất lợi, rất có thể Mã đồ phu sẽ cho hai đạo quân Tây Lương của Cao Thuận và Từ Hoảng sớm tiến vào Trung Nguyên. Trần Lưu của Viên Đàm rất có thể không chiến đầu hàng. Căn bản quân ta không thể trông cậy vào tàn binh bại tướng của Viên Đàm có thể ngăn cản được quân Tây lương tiến đánh”.

Lữ Mông cau mày nói: “Nói cách khác phòng tuyến thứ hai rất có thể bị đại quân Tây Lương công kích trước cả phòng tuyến thứ nhất. Hơn nữa phòng tuyến thứ hai không giống như phòng tuyến thứ nhất có sông Hoàng Hà hiểm trở. Điều càng nghiêm trọng hơn nữa là binh lực quân ta vô cùng bất lợi. Nếu như chia quân phòng thủ khắp nơi để đề phòng thì kỳ thật chính là không đề phòng. Quân Tây Lương chỉ cần đột phá được một điểm nào đó, cả phòng tuyến của quân ta sẽ tan rã”.

“Ừ. Tử Minh phân tích cực kỳ có lý” Chu Du nói: “Vùng Trung Nguyên rộng lớn, nhiều thành trì. Quân ta binh lực có hạn, tuyệt đối không thể chia ra phòng thủ khắp nơi. Vì vậy quân ta chỉ cần lựa chọn mấy quan ải hiểm yếu làm thành điểm phòng ngự trọng điểm. Trong đó ải Thanh Ngưu cùng Dĩnh Thượng có địa thế hiểm yếu, hơn nữa còn có sông Hoài. Chúng ta có thể xây dựng thành một lá chắn kiên cố ở phía bắc thành Thọ Xuân”.

“Hả?” Thái Sử Từ hét to: “Thối lui một mực từ bờ nam Hoàng Hà tới tận ải Thanh Ngưu và Dĩnh Thượng sao? Đây không phải là đem cả Trung nguyên dâng lên Mã đồ phu là gì?”

“Đúng vậy. Rất vất vả mới đánh chiếm được Trung Nguyên, tuyệt đối không thể không đánh mà nhường như vậy” Lão tướng Hoàng Cái cũng hét to: “Hơn nữa không có Trung Nguyên che chở, Từ Châu ở bên sườn cũng hoàn toàn phơi ra trước mắt quân Lương. Nếu như Mã đồ phu chia quân tấn công Từ Châu, rất có thể Từ Châu cũng thất thủ. Nếu một khi như vậy thì thành quả bắc phạt chẳng phải như nước chảy về biển Đông sao?”

“Biết rõ không thể thủ mà vẫn thủ là không khôn ngoan. Vứt bỏ Trung Nguyên cũng là điều bất đắc dĩ’ Chu Du chuyển giọng nói: “Dĩ nhiên nhượng bộ hết thảy cũng có một cái giá rất lớn. Nếu quân ta có thể đánh bại Mã đồ phu ở chân thành Thọ Xuân là có thể lập tức thay đổi thế cục. Một lần nữa việc đoạt lại Trung Nguyên và Từ Châu có thể nói dễ như trở bàn tay. Thế nhưng…”.

Hoàng Cái vội la lên: “Thế nhưng là như thế nào?”

Chu Du nói: “Thế nhưng lão tướng quân nói cũng không phải không có lý. Quân ta thực sự không thể dễ dàng buông tha cả Trung Nguyên. Mã đồ phu có kỵ binh vô địch thiên hạ, Đông Ngô ta cũng có thuỷ quân thiên hạ vô song. Trung Nguyên, Từ Châu sông ngòi ngang dọc, kênh rạch chằng chịt. Quân ta hoàn toàn có thể noi theo chiến thuật tập kích quấy dối lập nghiệp của tám trăm lưu khấu dưới trướng Mã đồ phu, dùng thuỷ quân tiến hành tập kích quấy dối quân Lương bất kỳ lúc nào’.

Nghiệp Thành

Thẩm Phối, Phùng Kỷ kích động đi vào phủ Đại tướng quân bẩm báo với Viên Thượng: “Chúa công, có tin mừng”.

“Hả?” Viên Thượng đang đứng ngồi không yên nghe vậy bật dậy hỏi: “Tin mừng gì?”

Thẩm Phối nói: “Quân Thanh Châu của Viên Hi tướng quân đã tới đông thành”.

Phùng Kỷ cũng nói: “Quân Tịnh Châu của Cao Kiền tướng quân cũng đã qua Hồ Quan, chỉ còn cách thành hai ngày đường nữa”.

“Thật vậy sao?” Nghe vậy Viên Thượng vui mừng nói: “Thiết kỵ Mạc Bắc của Mã đồ phu đang ở đâu?”

Phùng Kỷ nói: “Điền Dự vừa mới cho khoái mã tới báo, thiết kỵ Mạc Bắc đã qua Trung Sơn Quốc, còn cách thành năm ngày đường nữa”.

“Thật tốt quá” Viên Thượng phấn khích nói: “Nói như vậy hai đạo quân của Viên Hi, Cao Kiền đều tới thành trước quân thiết kỵ Mạc Bắc sao?’

“Đúng như vậy” Thẩm Phối nói: “Trong thành vốn có hai vạn quân trấn thủ. Hiện tại Viên Hi tướng quân có ba vạn quân Thanh Châu. Cao Kiền tướng quân cũng có hai vạn quân Tịnh Châu. Trong thành có bảy vạn quân trấn thủ, so với hơn mười vạn thiết kỵ Mạc Bắc của Mã đồ phu thì ở thế yếu hơn nhiều nhưng quân ta có thành trì kiên cố. Dù địch quân có ưu thế quân số gấp ba trở lên cũng rất khó có thể công phá thành”.

“Hô…vậy không còn lo việc giữ thành nữa” Viên Thượng thở phào nhẹ nhõm một cái. Hắn nhìn hai người Thẩm Phối, Phùng Kỷ nói: “Chính Nam, Nguyên Đồ, trước tiên hãy theo Cô ra cửa đông thành nghênh đón đại quân của Viên Hi”.

‘Chúa công, trước tiên mời”.

Thẩm Phối, Phùng Kỷ khoát tay nhường đường, Viên Thượng phất tay áo đi trước.

Cửa đông thành

Viên Thượng được Thẩm Phối, Phùng Kỷ cùng với một đám văn quan, võ tướng Hà Bắc tiền hô hậu ủng đi lên trên lâu thành.

Viên Thượng khum tay trước trán đưa mắt nhìn ở hướng xa xa. Hắn chỉ thấy ở chân trời phía đông xa xa có một sợi chỉ màu vàng đang chậm rãi di chuyển. Thời gi­an trôi qua, sợi chỉ màu vàng đó chậm rãi phân thành hai cánh, hơn nữa càng lúc càng trở nên to hơn. Chưa tới thời gi­an ăn một bữa cơm, đại đội quân Thanh Châu mặc áo giáp đồng đã hiện ra trong tầm mắt mấy người Viên Thượng.

Thẩm Phối hưng phấn nói: “Chúa công, đại quân Thanh Châu của Viên Hi tướng quân đã tới”.

Viên Thượng gật đầu, hắn đang định suất lĩnh quan văn, võ tướng xuống dưới lâu thành nghênh đón thì một viên tiểu lại bên cạnh chợt hét to: “Chúa công mau nhìn, hướng bắc”.

“Hả?”

Viên Thượng, Thẩm Phối, Phùng Kỷ vội vàng quay đầu nhìn hướng bắc. Từ phương bắc xa xôi nơi chân trời bụi mù nhàn nhạt bốc lên. Bởi vì khoảng cách rất xa nên không chăm chú nhìn thì rất khó phát hiện ra.

Thẩm Phối nói: “Hình như là bụi mù”.

Phùng Kỷ nói: “Không giống, là bão cát”.

“Không đúng là kỵ binh” Một tên tiểu giáo hoảng sợ la lên: “Là đại đội kỵ binh”.

“Hả? Kỵ binh? Chẳng lẽ là thiết kỵ Mạc Bắc sao?” Viên Thương vô cùng kinh hãi. Hắn vội vàng quay đầu nhìn về phía đông. Đại quân Thanh Châu của Viên Hi vẫn còn cách cửa đông thành ít nhất một ngàn bước. Hắn hấp tấp la lên: “Mau mở cổng thành nghênh đón quân Thanh Châu vào thành, mau”.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 337: Mã Chinh đơn kỵ hạ Nghiệp Thành (1)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

“Chúa công không thể” Thẩm Phối vội vàng khuyên nhủ: “Nếu thật sự đó là quân thiết kỵ Mạc Bắc, lúc này mở cổng thành ra nghênh đón quân Thanh Châu vào thành đã không kịp nữa rồi. Nếu làm không tốt rất có thể sẽ bị quân thiết kỵ Mạc Bắc thừa dịp rối loạn cướp cổng thành. Bây giờ nên hạ lệnh cho Viên Hi tướng quân và quân Thanh Châu lập trận bên ngoài cửa đông thành làm thành thế ỷ dốc hỗ trợ lẫn nhau mới là thượng sách”.

“Nói nhảm!” Đột nhiên Viên Thượng tức giận nói: “Viên Hi cùng với Cô là anh em cùng một mẹ, như chân với tay. Cô há có thể thấy chết mà không cứu sao? Người đâu, mau hạ cầu treo xuống, mở cổng thành nghênh đón đại quân Thanh Châu vào thành, mau”.

Sắc mặt Thẩm Phối vô cùng sầu thảm, hắn quay lại trao đổi ánh mắt với Phùng Kỷ, cả hai đều ảm đạm lắc đầu.

Viên Thượng vừa mới ra lệnh, cầu treo đang treo trên cao chậm rãi hạ xuống, cánh cổng thành đang đóng chặt cũng từ từ mở ra.

Phía bắc Nghiệp Thành năm mươi dặm, trên bình nguyên Hà Bắc mênh mông.

Ba vạn thiết kỵ Mạc Bắc giống như châu chấu phấp phới bay qua vùng đất hoang vu rộng lớn. Mã Chinh mặc áo giáp màu vàng, tay cầm Ngân thương, chiến bào trắng như tuyết, đang giục ngựa chạy băng băng trước trận, đột nhiên Triệu Vân giục ngựa chạy lên, hắn chỉ tay về phía trước nói với Mã Chinh: “Công tử, hãy mau nhìn phía trước”.

Tay Phải Mã Chinh ghìm cương, tay trái bắt khum trên trán nhìn xung quanh trong chốc lát rồi hắn trầm giọng nói: “Có quân đội đang vào thành”.

“Đây chính là cơ hội ngàn năm một thuở” Triệu Vân phấn khích nói: “Nếu như quân ta thừa dịp tấn công bất ngờ, chẳng những có thể đánh tan quân địch đang vào thành mà rất có thể nhận dịp hỗn loạn cướp lấy cổng thành như vậy thì việc chiếm thành dễ như trở bàn tay”.

“Hay!” Mã Chinh quát to: “Triệu Vân nghe lệnh”.

“Có mạt tướng!”

“Chỉ huy tám ngàn thiết kỵ vòng qua phía đông, tập kích vào sau lưng quân địch”.

“Tuân lệnh”.

Mã Chinh lại nói: “Hứa Thiệu đâu?”

Hứa Thiệu vội vã giục ngựa tiến lên trước đáp: “Có mạt tướng”.

“Chỉ huy hai nàgn thiết kỵ thừa dịp hỗn loạn đánh vào cổng thành”.

“Mạt tướng tuân lệnh”.

“Quản Khởi đâu?”

Quản Khởi vội vã giục ngựa lên nói: “Có mạt tướng”.

“Chỉ huy đại đội thiết kỵ tấn công chính diện, khống chế quân địch bên ngoài thành”.

“Tuân lệnh”.

Quản Khởi trả lời rồi giục ngựa rời đi.

Cửa đông thành. Cuối cùng một chuyện không thể tưởng tượng được đã xảy ra.

Quân thiết kỵ Mạc Bắc đột nhiên xông tới chém giết làm quân Thanh Châu cực kỳ hoảng sợ. Những tướng sĩ quân Thanh Châu đi trước tới gần cửa thành phát hiện cổng thành đã mở, cầu treo đã hạ xuống liền chen lấn nhau chạy về phía cổng thành. Bởi vì quân Thanh Châu hành quân đường dài nên thế trận vốn đã dời dạc, trong khoảnh khắc lập tức trở nên vô cùng hỗn loạn. Viên Hi ở trung quân thấy vậy chỉ biết bực bội dậm chân.

Quyết định sai lầm của Viên Thượng rốt cuộc đã mang tới tai hoạ ngập đầu cho quân Thanh Châu bên ngoài thành.

Nếu như Viên Thượng hạ lệnh đóng chặt cổng thành, hạ lệnh cho quân Thanh Châu ở lại bên ngoài thành lập trận cự địch, có lẽ quân Thanh Châu không trở nên rối loạn như vậy. Nhưng hiện nay cổng thành đã mở ra, tâm lý của quân Thanh Châu cũng thay đổi. Nếu như có thể lựa chọn, có ai tình nguyện ở lại bên ngoài thành chờ chết không? Dĩ nhiên chúng chỉ hận không thể trốn vào trong thành sớm hơn.

Viên Hi cố gắng hết sức mình cũng chỉ có thể làm cho hơn hai ngàn quân thân vệ ở cánh phải của đại quân lập trận phòng ngự một cách khó khăn.

Vạn mã lao nhanh, gót sắt quay cuồng. Quản Khởi chỉ huy đại đội thiết kỵ tựa như cơn sóng động trời, ùn ùn kéo tới. Một cơn mưa tên từ phía quân Thanh Châu dựng lên trên không trung, mang theo tiếng gào rít chói tai rơi xuống kỵ trận của quân Mạc Bắc.

Hơn mười thiết kỵ gào lên thảm thiết ngã ngựa, thoáng chốc đã bị chiến mã cuốn qua thành xương tan thịt nát.

Thế nhưng so với đội hình kỵ binh khổng lồ này, thương vong hơn mười kỵ binh có vẻ không có khác biệt gì mấy, giống như trong biển nước mênh mông bắn lên mấy bọt nước, căn bản là không đủ lực làm thay đổi đại cục.

Ngay khi quân cung thủ Thanh Châu bắn được hai lượt tên, quân thiết kỵ Mạc Bắc ở phía trước đã đánh tới trước trận của quân Thanh Châu. Nhìn thấy quân thiết kỵ Mạc Bắc sắp đụng vào thế trận cự mã lạnh lùng, âm u của quân Thanh Châu, đột nhiên Quản Khởi giơ cao trường đao chỉ về bên trái. Thiết kỵ Mạc Bắc đang cuồn cuộn tiến về phía trước lập tức quay đầu ngựa, cắt nghiêng trước trận quân Thanh Châu cuốn về phía đông.

Sau một khắc, một mảng lao sắc bén từ trong trận thiết kỵ Mạc Bắc đã dựng lên không trung, bay tới trận quả quân Thanh Châu.

Tiến kêu la thảm thiết lập tức vang lên dậy đất. Mấy trăm tên lính Thanh Châu gào lên thảm thiết ngã xuống trong vũng máu. Ngay trong lúc đó là một đòn trí mạng đến từ hậu quân. Triệu Vân chỉ huy tám ngàn thiết kỵ từ phía đông đánh tới, giống như một con dao lóc thịt sắc bén không thể cản nổi đánh thẳng vào hai ngàn quân thân vệ và đại quân Thanh Châu đang vô cùng hỗn loạn.

Một tên cung thủ Hà Bắc khó khăn lắm giương được trường cung lên, đang định bắn tên thì một thiết kỵ Mạc Bắc đánh tới, Trảm mã đao sắc bén khẽ lướt qua gáy tên cung thủ. Máu huyết bắn tung lên, đầu người rơi xuống. Chỉ nghe “Thịch” một tiếng, dây cung buông lỏng, mũi lang nha tiến đã đặt trên dây cung đã bay vút lên nhưng tinh chuẩn đã mất, mũi lang nha tiễn bay bổng lên giữa không trung.

Hai tên cung thủ Hà Bắc khác chật vật quay đầu lại nhìn, một chiến mã lướt qua như bay.

Hai người chỉ thấy ngân quang loé lên trước mặt, lập tức cảm thấy cổ họng mát lạnh, ánh mắt rũ xuống. Máu tươi từ cổ họng phun ra như suối. Một thương của Triệu Vân chọc thủng cổ họng của hai tên cung thủ quân Thanh Châu rồi thúc ngựa thẳng tiến tới chỗ Viên Hi ở trong trung quân. Từ xa Viên Hi đã nhìn thấy, hắn gào lên một tiếng hoảng hốt rồi được mấy trăm khinh kỵ binh hộ tống từ trong đám loạn quân đánh giết mở một đường máu bỏ chạy về hướng cửa nam.

Triệu Vân giục ngựa, vung thương chỉ huy hơn mười thiết kỵ xông vào giữa đám loạn quân bắt Viên Hi.

Trên lâu thành.

“Chúa công” Thẩm Phối nhìn Viên Thượng nói: “Hãy mau hạ lệnh thả thiên cân áp đi”.”.

Phùng Kỷ cũng nói: “Nếu không hạ thiên cân áp xuống, cửa thành sẽ mất”.

“Ai” Viên Thượng buồn bực thở dài một tiếng, hắn xua tay nói: “Lệnh, thả thiên cân áp”.

“Mau!” Thẩm Phối lau mồ hôi lạnh trên trán, hắn nhìn tên tiểu giáo bên cạnh quát to: “Mau thả thiên cân áp”.

“Dát dát dát… Oanh!”

Thiên cân áp nặng nề hạ xuống. Quân Thanh Châu đang chen chúc ở trên con đường trước cổng thành lập tức có hơn mười tên bị đè chết. Quân Thanh Châu bị thiên cân áp ngăn cản ở bên ngoài cổng thành lập tức phẫn nộ gào thét. Chúng vừa dùng binh khí trong tay đánh vào thiên cân áp, vừa điên cuồng gào thét: “Mở cửa, con mẹ nó mau mở cửa thành ra để Lão Tử đi vào”.

Trên lâu thành, Viên Thượng thống khổ nhắm mắt lại như mắt điếc tai ngơ trước cơn phẫn nộ gào thét của binh lính Thanh Châu bên ngoài. Hắn nhìn Thẩm Phối, Phùng Kỷ nói: “Hồi phủ”.

Nghiễm Tông

Đại đội thiết kỵ Mạc Bắc đang chậm rãi xuôi nam.

Trong trung quân, Lý Túc giục ngựa đi tới trước mặt Mã Dược bẩm báo: “Chúa công, thám mã phi báo: Quân Hắc Sơn củae Trương Yến và quân U Châu của Điền Dự đã rời khỏi Kế huyện, chúng đang tiến quân vào Hà Gi­an”.

Mã Dược nghiêng đầu liếc nhìn Giả Hủ. Hai người cùng nhếch miệng cười vô cùng xảo trá.

“Bá Tề” Bùi Nguyên Thiệu nói: “Một khi quân U Châu và quân Hắc Sơn rời khỏi thành trì kiên cố, phá chúng tất dễ như trở bàn tay”.

Lý Túc nói: “Bộ hạ cũ của Viên Thiệu vốn có hơn mười vạn quân. Trong đó có danh tướng Hà Gi­an Trương Cáp là bộ hạ cũ của Ký Châu, quân Hắc Sơn của Trương Yến và quân U Châu của Điền Dự cũng có thể được coi là tinh binh. Trương Cáp và bộ hạ Ký Châu cũ đã đầu hàng Tào Tháo trong cuộc chiến Quan Độ. Sau đó toàn quân đã bị quân ta tiêu diệt trong cuộc chiến Hứa Xương. Hiện tại chỉ có hai đội quân này là đủ sức đánh trận”.

Chu Thương nói: “Nếu như để quân U Châu và quân Hắc Sơn chạy tới Nghiệp Thành, diệt chúng sẽ rất khó khăn. Sao không thừa dịp này diệt chúng đi?”

“Không” Mã Dược khoát tay nói: “Điền Dự, Trương Yến thà rằng bỏ qua U Châu, khởi binh xuôi nam cứu viện Nghiệp Thành đủ thấy hai người này là người trung nghĩa, không cầu lấy ôm giữ trọng binh tự bảo vệ mình theo thói của tiểu nhân bợ đỡ. Hắc Sơn quân và quân U Châu cũng không tham gia quá nhiều vào cuộc chiến Quan Độ, là đội quân tinh nhuệ còn lại của bộ hạ cũ Viên Thiệu. Bây giờ tiêu diệt hai đội quân này chẳng phải là rất đáng tiếc sao?”

Giả Hủ nói: “Nếu thế tử có thể khiến Viên Thượng dâng thành không chiến mà hàng, hai đạo quân U Châu, Hắc Sơn này như vật trong túi chúa công vậy”.

Nghiệp Thành, phủ Đại tướng quân.

“Chúa công, Viên Hi tướng quân đích thực đã bị bắt” Thẩm Phối liếc nhìn Viên Thương, nơm nớp lo sợ nói: “Lúc trước thuộc hạ trên lâu thành cửa nam đã gặp qua Viên Hi tướng quân. Ngoài ra địch quân ở ngoài thành cửa nam đã bắn một phong thư vào trong thành. Trong thư nói…”.

Thần sắc Viên Thượng âm trầm bất ổn, hắn thờ ơ nói: “Trong thư nói những gì?

Thẩm Phối nói: “Trong thư nói Viên Hi tướng quân và toàn quân Thanh Châu đã đại bại. Quân Tịnh Châu của Cao Kiền tướng quân cũng đã lui về Hồ Quan. Quân U Châu của Điền Dự tướng quân, Quân Hắc Sơn của Trương Yến tướng quân hiện tại đang bị đại đội thiết kỵ Mạc Bắc bao vây ở Hà Gi­an không thể nhúc nhích. Viện binh nhoài thành đã tuyệt, chúa công không nên làm thú bị vây hãm, tránh để ngọc đá cũng đều bị thiêu cháy”.

“Thú bị vây hãm? Ngọc đá bị thiêu cháy?” Viên Thượng thê lương nói: “Ngoại trừ ngọc đá cũng bị thiêu cháy, Cô còn có sự lựa chọn khác sao?”

Viên Thượng vừa nói xong, Phùng Kỷ đột nhiên bước vào đại sảnh nói: “Chúa công, có sứ giả quân Lương cầu kiến”.

“Sứ giả quân Lương? Tất tới để bức hàng” Viên Thượng kêu lên một tiếng đau đớn, hắn căm hận nhìn tên đội trưởng thân binh sau lưng quát to: “Hãy mai phục hơn mười tên đao phủ hai bên hành lang. Nếu Cô giơ cánh tay phải thì phục binh đổ ra, chém thành xương tan thịt nát”.

Đội trưởng thân binh lĩnh mệnh rời đi.

Phùng Kỷ quay đầu lại, hắn vung tay quát to: “Chúa công có lệnh, truyền sứ giả quân Lương vào gặp”.

Tiếng bước chân vang lên, một thiếu niên anh tuấn nhanh nhẹn bước vào. Hắn nhìn Viên Thượng thi lễ, cao giọng nói: “Tại hạ Mã Chinh tham kiến Đại tướng quân”.

“Mã…Mã Chinh?” Viên Thượng nghe vậy kinh hãi, hắn thất thanh nói: “Ngươi là Mã Chinh sao?”

Thẩm Phối, Phùng Kỷ đưa mắt nhìn nhau. Dù hai người chưa từng gặp mặt Mã Chinh nhưng không lạ lẫm với cái tên Mã Chinh này.

Thử hỏi có người nào không biết Mã Chinh là trưởng tử của Thừa tướng Đại Hán Mã Dược sao? Trong lòng Thẩm Phối, Phùng Kỷ không khỏi cực kỳ cảm khái. Mã đồ phu chính là anh hùng thời nay. Nhi tử của hắn cũng không kém chút nào. Chỉ dựa vào việc Mã Chinh đơn thân độc mã, can đảm đi vào thành. Viên Đàm, Viên Thượng còn lâu mới sánh bằng. Ai, tại sao cố chúa công không có một người con như Mã Chinh vậy?

Mã Chinh ung dung nói: “Đúng là tại hạ”.

“Ha ha ha…hay!” Viên Thượng đột nhiên cười dai ba tiếng. Sắc mặt hắn trở nên vô cùng đanh ác, hắn lạnh lùng nói: “Tới đúng lúc lắm. Đây chính là tự ngươi tới nộp mình”.

Mã Chinh hỏi: “Đại tướng quân thực sự nghĩ là cầm giữ tính mạng của tại hạ là có khiến cho gia phụ bãi binh sao?”

“Thông minh” Viên Thượng giơ ngón tay cái, cười gằn nói: “Quả không hổ là trưởng tử của Thừa tướng”.

Mã Chinh nói: “Tại hạ muốn mạo muội hỏi một câu: Đại tướng quân đã từng thấy gia phụ bị người khác lợi dụng điểm yếu uy hiếp chưa?”

Viên Thượng nói: “Cái này…”.

Mã Chinh nói: “Với hùng tài đại lược của gia phụ, há có thể vì một đứa con mà bị người khác khống chế sao? Mã Chinh mà chết thì vẫn còn Mã Chiến, Mã Dương, Mã Khởi. Từ Mã Khởi trở xuống vẫn còn mười mấy đệ đệ. Căn bản là không cần lo lắng không có người thừa kế cơ nghiệp Mã gia. Nhưng tại hạ muốn nhắc nhở Đại tướng quân một câu. Nếu như Đại tướng quân giết tại hạ, Mã gia cùng Viên gia sẽ có mối thù không đội trời chung”.

Viên Thượng cười đanh ác nói:” Ngươi đang uy hiếp Cô”.

“Không dám” Mã Chinh nói: “Nếu như tại hạ muốn uy hiếp Đại tướng quân thì chỉ cần sai khiến một tên tiểu tốt vào thành truyển lời cho Đại tướng quân là được, cần gì phải đích thân vào hang hổ?”

Viên Thượng im lặng.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 337: Mã Chinh đơn kỵ hạ Nghiệp Thành (1)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Mã Chinh chỉnh lại y phục rồi hắn nghiêm nghị nói tiếp: “Sở dĩ tại hạ đơn thân độc mã vào thành là hy vọng Đại tướng quân có thể hiểu tại hạ là có thật tâm vì tiền đồ của Viên gia mà tới, vì các thế gia đại tộc trong thành Nghiệp Thành này mà tới, càng vì hơn bảy trăm vạn lê dân bách tính bốn châu Hà Bắc mà tới. Tại hạ thực sự không muốn thấy một Hà Bắc phì nhiêu, màu mỡ lại trở thành một đống đổ nát dưới gót sắt của thiết kỵ Mạc Bắc”.

Sắc mặt Viên Thượng hình như dao động.

Nghe khẩu khí của Mã Chinh thì chỉ cần Viên Thượng nguyện ý đầu hàng, chẳng những hắn không hề lo lắng tới tính mạng của mình mà còn có thể kéo dài sự vinh hoa phú quý của Viên thị.

Thẩm Phối nói: “Nếu thật thế tử nghĩ tới hơn bảy trăm vạn lên dân bách tính của bốn châu Hà Bắc thì thiết nghĩ nên khuyên Thừa tướng bãi binh, để hơn mười vạn thiết kỵ Mạc Bắc lui về Đại Mạc chẳng phải là tốt hơn sao?”

Mã Chinh hỏi ngược lại: “Nếu như tại hạ đoán không lầm thì vị này có phải là Thẩm Phối tiên sinh không?”

Thẩm Phối ngạo nghễ nói: “Đúng là tại hạ”.

Mã Chinh nói: “Tiên sinh là danh sĩ Hà Bắc, đáng lý nên hiểu rõ đại thế thiên hạ. Hà Bắc bị vây giữa Lương và Ngô, có đủ sức để tự bảo vệ mình không?”

Thẩm Phối thở dài nói: “Không đủ để tự bảo vệ”.

Mã Chinh nói: “Như vậy tiên sinh hy vọng Hà Bắc trở thành mục tiêu tranh đoạt của cả quân Ngô và quân Lương, chiến trường tranh đoạt nhiều năm liền hay hy vọng Hà Bắc có thể yên ổn, phồng vinh như Ung, Lương Sóc mấy châu?”

Sau khi nói xong Mã Chinh lại nhìn Viên Thượng nói: “Nếu Đại tướng quân có thể thuận theo ý trời, dẫn quân Hà Bắc quy hàng, làm theo hy vọng của sĩ tộc Hà bắc, hy vọng của dân chúng Hà Bắc chính là Đại tướng quân có thể lập kỳ công dễ như trở bàn tay. Tương lai nhất định sẽ đứng vào hàng Tam công. Viên thị năm đời đều là Tam công, cực kỳ vinh hạnh, không phải là hơn gấp trăm lần ngọc đá cũng thiêu cháy, Viên thị bị tận diệt”.

Viên Thượng im lặng hồi lâu.

Nếu như có thể lựa chọn. dĩ nhiên Viên Thượng cũng hy vọng làm một quân phiệt cát cứ địa phương giống như phụ thân mình là Viên Thiệu.

Nhưng thực tế rất tàn khốc. Cục diện Viên Thượng đang phải đối mặt thì tàn khốc hơn rất nhiêu so với thời của Viên Thiệu. Hơn nữa Viên Thượng lại không có tài năng như Viên Thiệu. Một trận đánh Trung Nguyên, mười mấy vạn đại quân Hà Bắc thậm chí đánh không lại mấy vạn quân Ngô của Chu Du. Hiện tại Chu Du còn lợi hại gấp bội so với việc mười vạn quân thiết kỵ Mạc Bắc của Mã đồ phu xuôi nam. Quân Hà Bắc làm thế nào để ngăn cản được đây?

Tuy nhiên

Nếu như lựa chọn đầu hàng, Viên Thượng lại lo lắng Mã đồ phu qua cầu rút ván, trở mặt vô tình.

Phùng Kỷ hiểu rõ tâm tư của Viên Thượng liền hỏi: “Đây chỉ là ý nguyện của thế tử hay là ý nguyện của Thừa tướng?”

Mã Chinh nghiêm nghị nói: “Nếu như tiên sinh đã nghe nói qua việc Tây Xuyên thì nên biết sau khi Trương Tùng cầm đầu sĩ tộc Tây Xuyên ra hàng, gia phụ không những không can thiệp quá nhiều vào việc chính sự của Tây Xuyên mà lợi ích của sĩ tộc Tây Xuyên cũng được bảo vệ ở mức độ cao nhất. Vậy Đại tướng quân và nhị vị tiên sinh không cần phải lo lắng việc gia phụ lật lọng. Nếu như không nhờ sĩ tộc Hà Bắc duy trì, gia phụ sẽ không làm nên chuỵên gì ở Hà Bắc”.

Viên Thượng do dự nói: “Có thể để Co suy nghĩ một lát không?”

“Dĩ nhiên” Mã Chinh nói: “Vì để biểu lộ thành ý, trước khi Đại tướng quân chưa có quyết định thì hãy cứ gi­am lỏng tại hạ lại”.

“Điều này không cần thiết” Viên Thượng bùi ngùi nói: “Cô đã lĩnh giáo dũng khí và sự quyết đoán của thế tử. Cô tự thẹn là không bằng. Thế nhưng cho dù Cô quyết định tử thủ thành cũng không gi­am giữ thế tử để uy hiếp. Trước hết xin thế tử hay quay về quân doanh kiên nhẫn chờ đợi. Ngày mau cho dù quyết chiến hay đầu hàng Cô cũng cho người báo tin cho thế tử”.

Mã Chinh nói: “Nếu đã như vậy, tại hạ xin cáo từ”.

Viên Thượng nói: “Thứ cho không tiễn”.

Mã Chinh chắp tay, quay người rời khỏi đại sảnh.

Đưa mắt nhìn bóng dáng Mã Chinh đi xa dần, Viên Thượng nhìn Thẩm Phối, Phùng Kỷ nói: “Chính Nam, Nguyên Đồ nghĩ thế nào?’

Đầu tháng mười, năm Kiến An thứ mười hai, Hán Hiến Đế, Viên Thượng đầu hàng, Mã Chinh không chiến mà chiếm được thành.

Giữa tháng mười, Viên Đàm cũng hiến thành, đầu hàng Cao Thuận. Cao Thuận cử Đại tướng Hứa Chử dẫn ba vạn quân vào đóng trong thành Trần Lưu.

Tháng mười một, với sự du thuyết của Thẩm Phối, Phùng Kỷ, Cao Kiền, Điền Dự, Trương Yến cũng đều ra hàng. Tới lúc này bốn châu Ký, U, Tịnh, Thanh đều thuộc về bản đồ Tây Lương. Dưới trướng Mã Dược lại có thêm mười tám vạn hàng quân Hà Bắc ( hai vạn quân của Cao Kiền, năm vạn quân Hắc Sơn của Trương Yến, ba vạn quân U Châu của Điền Dự, ba vạn quân thủ thành của Viên Thượng, hai vạn tàn quân của Viên Hi, ba vạn quân của Viên Đàm )

Cùng tháng Mã Dược phong Viên Thượng làm Đại Tư Mã, Viên Đàm làm Phiêu Kỵ tướng quân, Viên Hi làm Xa Kỵ tướng quân, Cao Kiền làm Ti Châu Thứ Sử, lệnh cho thế tử Mã Chinh làm Chinh Bắc tướng quân, tổng quản bốn châu Hà Bắc, lại cử Thẩm Phối, Phùng Kỷ, Tân Bình, Tân Bì làm Thứ Sử bốn châu: U, Tịnh, Ký, Thanh, trợ giúp Mã Chinh ổn định tình hình Hà Bắc, lại cử Điền Dự, Trương Yến thống lĩnh mười tám vạn đại quân Hà Bắc tới nghe lệnh trước trướng.

Đầu tháng mười hai

Mã Dược lệnh cho Điền Dự dẫn năm vạn quân tiến ra Bạch Mã, Trương Yến dẫn năm vạn quân tiến tới uy hiếp Duyên Tân, còn chính bản thân hắn dẫn đại quân vào đóng ở Lê Dương, cuộc chiến tranh giành Trung Nguyên chính thức mở màn.

Lê Dương, trung quân đại trướng.

Mã Dược ngồi trước án, Bùi Nguyên Thiệu, Chu Thương, Giả Hủ, Lý Túc, Khoái Việt, Lỗ Túc, Phương Duyệt, Cam Ninh, Mã Đại, Mã Hưu chia ngồi hai bên tả, hữu.

“Chúa công” Lý Túc bước ra khỏi hàng, hắn chắp tay thi lễ với Mã Dược rồi cao giọng nói: “Thám mã phi báo, tướng trấn thủ Bạch Mã, Duyên Tân lần lượt là Toàn Tông và Hạ Tề. Theo như tin tức tình báo thuộc hạ có được thì hai người này là hai tướng lĩnh Đông Ngô am hiểu thuật phòng thủ nhất, đặc biệt là Hạ Tề. Hạ Tề nguyên là bộ tướng của Lưu Do, từng dùng ba trăm binh lính quận trấn thủ cô thành, năm vạn phản quân Sơn Việt tấn công mãnh liệt hai tháng cũng không đánh được”.

“Thật vậy sao?” Nghe vậy Mã Dược không khỏi cau mày lại hỏi: “Ngoại trừ Bạch Mã và Duyên Tân thì có còn cảng nào có thể qua sông không?”

Lý Túc nói: “Hai bên bờ sông Hoàng Hà có rất nhiều cảng sông nhưng cảng lớn để chiến thuyền lớn của thuỷ quân có thể buông neo chỉ có Bạch Mã và Duyên Tân là hai cảng lớn. Những cảng nhỏ khác chỉ có thể để những đội thuyền nhỏ cập bến. Nếu như dùng thuyền nhỏ để qua sông thì chỉ e phải tới nửa năm mới có thể vận chuyển hết người, ngựa cùng với vô số lương thảo, quân nhu sang hết bên bờ nam Hoàng Hà’.

Mã Dược nói: “Nửa năm ư? Nữa năm sau cả vùng Gi­ang Hoài đã bước vào mùa mưa dầm, hơn nữa khí trời phương nam ẩm ướt, nóng bức. Thiết kỵ Mạc Bắc không thể xuôi nam được. Xem ra phải nghĩ ra biện pháp khác để vượt sông. Nếu như không thể dùng chiến thuyền lớn để vượt sông vậy bắc cầu thì sao? Bắc một cây cầu lớn cần bao nhiêu thời gi­an?”

Lý Túc nói: “Muốn bắc cầu quả thực không khó, chỉ cần kéo hai dây xích sắt lớn ngang qua hai bờ sông Hoàng Hà sau đó dùng các chiến thuyền con chốt dọc theo xích sắt, cuối cùng lát ván gỗ lên boong thuyền thì chỉ cần thời gi­an nhiều nhất là nửa tháng. Nhưng vấn đề chính là trên sông Hoàng Hà có thuỷ quân Đông Ngô hoạt động, quân ta rất khó có thể bắc cầu trong sự quấy dối của thủy quân Đông Ngô”.

Mã Dược hỏi Cam Ninh: “Cam Ninh, thuỷ quân Cẩm Phàm của ngươi đâu?”

Cam Ninh cười gượng nói: “Lúc trước khi vượt Trường Gi­ang vì binh ít, thuyền nhiều không dùng hết nên quân ta đã đục chìm toàn bộ chiến thuyền nhẹ, chỉ để lại lâu thuyền, mông trùng, đấu hạm ra biển. Nhưng chiến thuyền của thuỷ quân Đông Ngô lại phần lớn là chiến thuyền nhẹ. Mặc dù chiến htuyền nhẹ không to như mông trùng, đấu hạm hay lâu thuyền nhưng lại đi lại như thoi đưa, có ưu thế rất lớn về tốc độ. Nếu quân ta tấn công quy mô lớn thì thuỷ quân Đông Ngô thường bỏ chạy tứ tán. Quân ta có chút trễ nải thì chúng lập tức bu lại như bầy sói, rất khó phòng bị chúng”.

“Đây đúng là tạo hoá trêu ngươi” Mã Dược thở dài nói: “Xem ra trước khi sông Hoàng Hà cạn, quân ta không thể qua Hoàng Hà được”.

‘Chúa công hoàn toàn không cần lo lắng” Lý Túc nói: “Căn cứ vào kinh nghiệm của nhiều năm thì chậm nhất vào tháng giêng năm sau, sông Hoàng Hà sẽ cạn nước. Khi đó vẫn còn cách mùa mưa dầm của vùng Gi­ang Hoài gần năm tháng nữa. Năm tháng cũng đủ để quân ta đánh chiếm được hai châu Duyện, Dự cùng với toàn bộ phía bắc Từ Châu với ba quận Bành Thành, Lang Nha và Đông Hải”.

“Cô không chỉ muốn có những nơi đó” Mã Dược trầm giọng nói: “Ngoại trừ hai châu Duyện, Dự và ba quận phía bắc Từ Châu, Cô còn muốn những quận còn lại của Từ Châu; Hợp Phì, Nghiễm Lăng hai quận này, còn có quận Hoài Nam, quận Lư Gi­ang. Hơn nữa quận Hoài Nam là quan trọng. Thằng nhãi Tôn Quyền chuyển trụ sở từ Thư huyện lên phía bắc tới Thọ Xuân chính là hắn đang uy hiếp Cô”.

Mã Dược vỗ án quát to: “Trận chiến này không đuổi được thằng nhãi Tôn Quyền qua sông Trường Gi­ang, Cô tuyệt đối không bỏ qua”.

Lời nói này của Mã Dược thoạt nghe thì như làm theo cảm tính nhưng thật sự thì không phải như vậy.

Trước cuộc chiến, Mã Dược và Giả Hủ đã xác định mục tiêu không chỉ cướp lấy Trung Nguyên và Từ Châu mà còn muốn thông qua một lần hay nhiều lần đại chiến quy mô lớn để tiêu diệt thực lực của quân Đông Ngô, hạn chế thực lực của Tôn Quyền ở nam sông Trường Gi­ang, bảo đảm trong vòng mười năm quân Đông Ngô không có lực bắc phạt. Mười năm sau Mã Dược có thể tận dụng nhân tài vật lực của mười một châu: Ung, Ti, Lương, Sóc, U, Thanh, Ký, Ích, Duyện, Dự, Từ. Khi đó Mã Dược có thể hình thành ưu thế áp đảo chiến lược so với Tào Tháo ở Kinh Châu và Tôn Quyền ở Dương Châu.

Đến khi đó việc thống nhất thiên hạ không còn gì lo lắng nữa.

Cảng Bạch Mã.

Hãn tướng Đông Ngô, Toàn Tông đang đứng trang nghiêm trước doanh nhìn nước sông rút xuống để lộ ra một lớp bùn. Hắn im lặng hồi lâu, chỉ có trong mắt hiện lên nỗi lo lắng khó nói nên lời.

Tiếng bước chân nặng nề vang lên, hãn tướng thuỷ quân Tưởng Khâm bước dài sau lưng Toàn Tông hỏi: “Có phải Tử Hoàng đang lo lắng sông Hoàng Hà cạn nước?”

“Đúng vậy” Toàn Tông gật đầu, lo lắng nói: “Trong vòng mười ngày, mực nước sông Hoàng Hà ở Bach Mã đã giảm xuống mấy thước. Nếu cứ giữ tốc độ này thì chỉ chưa qua mười ngày nữa, thuỷ quân của ngươi phải rút khỏi bến Bạch Mã. Qua nửa tháng nữa, sông Hoàng Hà sẽ cạn nước, khi đó quân Lương chỉ cần trải ván gỗ lót cỏ khô là có thể đi bộ qua Hoàng Hà”.

Tưởng Khâm gãi gãi đầu nói: “Nếu như ngươi không nói, mỗ tuyệt đối không phát hiện nước sông Hoàng Hà tự nhiên lại giảm nhiều như vây”.

Toàn Tông thở dài nói: “Thậtn đáng tiếc. Nếu như Hoàng Hà không cạn nước, quân ta hoàn toàn có thể phòng thủ tới đầu mùa xuân sang năm. Một khi như vậy bên Đại đô đốc chỉ phải đối phó với hai đạo quân của Cao Thuận, Từ Hoàng, áp lực sẽ giảm đi rất nhiều”.

Tưởng Khâm vỗ vỗ vai Toàn Tông khuyên nhủ: “Tử Hoàng không cần phải trách mình. Đây chính là ý trời, cũng không phải ngươi không thể trấn thủ. Huống chi Đại đô đốc cũng chỉ cần ngươi trấn thủ tới cuối tháng mười hai. Chỉ cần qua nửa tháng nữa là coi như ngươi hoàn thành nhiệm vụ”.

“Báo…” Tưởng Khâm vừa dứt lời, một tên tiểu giáo vội vã chạy tới bẩm báo: “Tướng quân, địch quân lại bắt đầu tấn công”.

“Điền Dự này cũng thật là không để người ta bớt lo một chút” Toàn Tông thở một hơi dài nhìn Tưởng Khâm nói: “Mỗ đi đây, Công Dịch cứ tự nhiên”.

Nói xong Toàn Tông quay người rời đi.

Tưởng Khâm nhìn theo bóng lưng của Toàn Tông kêu to: “Tử Hoàng, đợi tới cuối tháng, mỗ có thể tự mĩnh dẫn một đội thuyền nhỏ tới tiếp ứng”.

Toàn Tông ở phái xa quay người lại, ôm quyền thi lễ với Tưởng Khâm, cao giọng nói: “Làm phiền Công Dịch”.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 338: Chết trước khi xuất quân (1)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Tháng giêng năm Kiến An thứ mười ba ( 200 ) Hán Hiến Đế.

Điền Dự hạ Bạch Mã, Trương Yến đánh chiếm Duyên Tân. Toàn Tông, Hạ Tề dẫn sáu trăm tàn quân dưới sự tiếp ứng của thuỷ quân Tưởng Khâm rút lui ra biển.

Đại tướng Tây Lương Cao Thuận thống lĩnh mười vạn đại quân ( năm vạn quân truân điền tinh nhuệ, ba van thiết kỵ Tây Lương, hai vạn hàng quân Hà Bắc của Viên Đàm ) làm tả lộ, rời Nhữ Nam tấn công ải Thanh Ngưu. Phương Duyệt thống lĩnh mười vạn đại quân làm hữu lộ rời Sơn Dương tấn công Bành Thành. Mã Dược tự mình dẫn hai mươi vạn đại quân kỵ bộ làm trung lộ, vượt qua Tiếu quận, Phái Quốc, khí thế hung hăng uy hiếp Thọ Xuân.

Thái Sử Từ ngạo nghễ đứng nghiêm trên lâu thành. Hắn quay đầu nhìn lại sau. Một Bành Thành vốn phồn hoa náo nhiệt lúc này đã trở thành một toà thành trống rỗng.

Từ cuối năm ngoái, dân chúng ba quân Bành Thành, Đông Hải, Lang Nha ở phía bắc sông Hoài đã bị ép buộc di chuyển vào Hoài Nam. Đột nhiên trong lúc này Thái Sử Từ cười nhạt. Hắn thầm nghĩ: cứ coi như quân Lương có thể đánh chiếm ba quận Hoài Bắc của Từ Châu thì chúng cũng chỉ chiếm được một vùng đất khô cằn sỏi đá mà thôi. Chúng sẽ không thể tìm được một hạt lương thực nào ở trong vùng Hoài Bắc.

Tiếng bước chân dồn dập vang lên, một tên tiểu giáo quân Ngô vội vã chạy lên lâu thành bẩm báo với Thái Sử Từ: “Tướng quân, phía bắc ba mươi dặm phát hiện quân Lương”.

“Cuối cùng chúng đã tới” Thái Sử Từ gật đầu, đột nhiên hắn quát to: “Truyền lệnh phóng hoả. Toàn quân rút về hướng Hoài Nam”.

Thái Sử Từ vừa ra lệnh, quân Ngô sớm chờ đợi lâu ngày trong thành đã lập tức phóng hoả. Khi tướng tiên phong của hữu lộ quân Lương là Mã Đại chỉ huy hai vạn quân kỵ binh đánh giết tới Bành Thành thì cả toà thành đã sớm hoá thành tro bụi. Tiếu quận cũng sớm bị một trận lửa thiêu cháy thành tro bụi.

Mã Dược được Giả Hủ, Lý Túc, Khoái Việt, Lỗ Túc mấy người hộ tống giục ngựa đi vào trong thành lúc này đã rơi vào cảnh tượng hoang tàn. Hiện lên trước mắt mọi người chỉ là mặt đất bị đốt cháy đen và những đống đổ nát.

“Chúa công” Giả Hủ lo lắng nhìn Mã Dược nói: “Đây là sách lược đất khô cằn, vườn không nhà trống”.

Mã Dược gõ roi ngựa vào yên ngựa theo bản năng. Hắn ngửa mặt lên trười cười to nói: “Ha ha ha, xem ra thằng nhãi Tôn Quyền này đã tiến bộ nhiều, lại có thể học được cách cưỡng ép di dời dân cư. Nhưng điều này lại là con dao hai lưỡi. Xét một cách lâu dài, di rời một lượng lớn dân cư có thể nang cao tiềm lực chiến lược của Gi­ang Đông nhưng sắp tới nó cũng sẽ mang tới cho Đông Ngô một gánh nặng hậu cần trầm trọng. Đông Ngô có nhiều lương thảo để chu cấp cho những dân chúng di rời về nam sao?”

“Hiểu rồi” Giả Hủ ở bên cạnh đột nhiên kích động, thở dài một tiếng nói: “Quả thực không hổ là Chu Du”.

Mã Dược giật mình, hắn quay đầu lại hỏi Giả Hủ: “Văn Hoà hiểu cái gì?’

Giả Hủ nói: “Sách lược phòng thủ của Chu Du”.

‘Hả?” Mã Dược vội la lên: “Văn Hoà hãy mau nói ra”.

Giả Hủ nói: “Viên Thượng, Viên Đàm là chướng ngại vật ngăn cản thứ nhất của Chu Du, lợi dụng thời cơ quân ta đánh Hà Bắc và Trung Nguyên di chuyển tất cả dân chúng các quận Nhữ Nam, Tiếu Quận và Từ Châu về Hoài Nam. Cuối cùng dù Viên Thượng, Viên Đàm không chiến mà hàng nhưng Toàn Tông, Hạ Tề tử thủ ở Bạch Mã, Duyên Tân đã thành công trong việc ngăn cản đại quân của chúa công xuôi nam vì vậy bước đầu trong kế hoạch của Chu Du đã thành công”.

Mã Dược nói: “Sau đó thì sao?”

Giả Hủ nói: “Sau đó quân Ngô sẽ rút lui toàn diện về Hoài Nam, chuẩn bị quyết chiến cùng quân ta ở Hoài Nam”.

“Quyết chiến cùng quân ta ở Hoài Nam sao?” Trong mắt Mã Dược chợt loé hàn quang, hắn trầm giọng nói: “Văn Hoà nói, Tôn Quyền và Chu Du quyết định từ bỏ vùng đất rộng lớn ở phía bắc sông Hoài sao?”

Giả Hủ nói: “Địa hình vùng Hoài Bắc là bình nguyên, có lợi cho kỵ binh cơ động. Hoài Nam sông nước chằng chịt, uy lực của thiết kỵ Mạc Bắc bị giảm đi rất nhiều, trong khi đó thuỷ quân Đông Ngô lại như cá gặp nước, uy lực tăng lên gấp bội. Thuỷ quân Cẩm Phàm của Cam Ninh tướng quân chỉ có năm ngàn người, rõ ràng ở vào thế thua kém hơn rất nhiều so với mấy vạn thuỷ quân của Đông Ngô, chỉ e là rất khó phát huy tác dụng”.

Lý Túc nói: “Như vậy quân Ngô có thể bù đắp được rất nhiều sự thua sút về binh lực so với quân ta”.

Lỗ Túc nói: “Tại hạ cho rằng rất cần thiết phải nhắc nhở Thừa tướng một câu: tốt nhất là phải kết thúc chiến tranh trước tháng sáu”.

“Đa tạ Tử Kính nhắc nhở” Mã Dược gật đầu nói: “Cô hiểu tướng sĩ quân Lương phần lớn là người phương bắc. Người phương bắc rất khó quen với thời tiết mưa dầm của phương nam. Một khi chiến sự kéo dài tới tháng sáu mà vẫn không thể kết thúc, trong quân rất có khả năng sẽ phát sinh ra bệnh dịch lớn ( ở vùng đất phương nam thường xuyên có bệnh dịch phát sinh vào thời điểm gi­ao mùa giữa mùa xuân và mùa hè. Ở thời kỳ chưa có thuốc kháng sinh thì cảm cúm cũng là căn bệnh trí mạng, khi bộc phát quy mô lớn trong quân đội thì tính huỷ diệt càng cao)

Thái Sử Từ ôm quyền nhìn Chu Du nói: “Đại đô đốc, dân chúng ba quận Tiếu Quận, Nhữ Nam, Hoài Bắc đã di chuyển toàn bộ tới Hoài Nam, toàn bộ nhân khẩu có hơn ba trăm sáu mươi chín vạn người”.

“Hay” Chu Du gật đầu nói: “Thái Sử Từ tướng quân đã chịu khổ rồi. Hãy đi nghỉ ngơi đi”.

“Mạt tướng cáo lui”.

Thái Sử Từ chắp tai thi lễ rồi hắn quay người rời khỏi trướng.

“Đại đô đốc” Thái Sử Từ vừa mới rời đi, Tạ Tinh, người chịu trách nhiệm thu thập tin tức tình báo, dáng vẻ mệt mỏi, bụi bặm bước nhanh vào trướng, nhìn Chu Du nói: “Đã tìm hiểu được hướng di chuyển của quân Lương rồi”.

“Hả?” Chu Du vội vàng la lên: “Mau nói”.

Tạ Tinh thở hổn hển nói: “Tổng cộng binh lực của Mã đồ phu từ bốn mươi tới năm mươi vạn quân. Trong đó Cao Thuận thống lĩnh mười vạn đại quân làm tả lộ tấn công ải Thanh Ngưu. Phương Duyệt thống lĩnh hơn mười vạn đại quân làm hữu lộ tấn công Từ Châu. Mã đồ phu tự mình xuất lĩnh hơn hai mươi vạn đại quân kỵ binh làm trung lộ tiến thẳng tới Thọ Xuân. Hiện tại đại quân vừa mới qua Tiếu Quận. Còn nữa mười vạn đại quân do Từ Hoảng chỉ huy hình như đã lui về Nam Dương”.

“A a, được đó” Từ Thứ ở bên cạnh mỉm cười nói: “Cuối cùng Mã đồ phu vẫn không dám xem thường Tào Tháo”.

Lão tướng Hoàng Cái trầm giọng nói: “Thế nhưng ba lộ đại quân của Mã đồ phu, Cao Thuận, Phương Duyệt kia vẫn rất khó đối phó. Tổng cộng lại cũng vẫn khoảng bốn, năm mươi vạn đại quân, vẫn gấp hơn sáu lần quân ta”.

“Dụng tâm của Mã đồ phu rất rõ ràng” Lữ Mông nhìn Chu Du rồi phân tích: “Hắn tự mình dẫn hơn hai mươi vạn đại quân uy hiếp Thọ Xuân hiển nhiên là muốn thu hút chủ lực của quân ta tập trung ở Thọ Xuân sau đó hắn cho Cao Thuận, Phương Duyệt chia làm hai đường tấn công ải Thanh Ngưu, Từ Châu. Ý đồ là đột phá từ hai cánh sau đó vu hồi đánh Thọ Xuân, cuối cùng là hình thành thế bao vây ba mặt cùng tấn công Thọ Xuân”.

“Đúng là binh nhiều cũng có lợi” Hoàng Cái thở dài nói: “Mã đồ phu nhiều binh, không kiêng kỵ chia binh ra nhưng quân ta ít, chỉ có thể tập trung tập trung binh lực tử thủ mấy địa điểm chiến lược. Ở Hoài Âm bên kia tuy có sông Hoài, hồ Hồng Trạch, hồ Bạch Mã ngăn cản, lại có thuỷ quân kiềm chế nhưng chiến tuyến phòng thủ thực sự quá dài. Nếu chỉ dựa vào tám ngàn tinh binh của Tam tướng quân ( Tôn Dực ) thì chỉ e rất khó ngăn cản mười mấy vạn đại quân của Phương Duyệt”.

Lữ Mông nói: “Điều đáng ngại nhất kỳ thật lại chính là ải Thanh Ngưu. Mặc dù địa thế ải Thanh Ngưu hiểm yếu, lại có Thiếu tướng quân Lăng Thống chỉ huy năm ngàn tinh binh trấn thủ nhưng đối thủ chính là danh tướng Tây Lương Cao Thuận cùng mười mấy vạn tinh binh. Cao Thuận thân kinh bách chiến, chưa từng thất bại. Ba ngàn tướng sĩ Hãm Trận doanh cực kỳ sắc bén, dũng mãnh, mỗi lần tấn công không bao giờ thất bại. Rất lợi hại”.

‘Các vị tướng quân cũng không cần phải lo âu. Bản Đại đô đốc đã sớm có sách lược vẹn toàn” Chu Du cao giọng nói: “Mã đồ phu không đến thì thôi, còn nếu hắn thật sự dám dẫn bốn mươi vạn đại quân tới tấn công, tất sẽ chết không có chỗ chôn”.

Mã Dược nhìn Giả Hủ nói: “Văn Hoà, việc Chu Du mạnh mẽ cưỡng ép dân chúng Hoài Bắc di chuyển tới Hoài Nam hình như không có quan hệ gì tới chuyện quyết chiến của quân đội hai bên”.

“Không, lần này Chu Du có thâm ý khác” Giả Hủ trầm giọng nói: “Chu Du tuyệt đối không đặt tất cả hy vọng chiến thắng lên toàn bộ đại quân Đông Ngô chưa tới bảy vạn của hắn. Hắn nhất định có sắp đặt khác. Nếu như Hủ đoán không sai, việc sắp xếp này có quan hệ tới việc di chuyển mấy trăm vạn dân chúng vào vùng Hoài Nam. Chúa công, trong mấy trăm vạn dân chúng chuyển về nam này ít nhất cũng có một trăm vạn trai tráng khoẻ mạnh”.

“Trên một trăm vạn trai tráng khoẻ mạnh sao?”Mã Dược giật mình rồi hắn nghiêm nghị nói: “Cô có hiểu đôi chút rồi”.

Lưu Diệp nhìn Tào Tháo nói: “Chúa công, mật thám cấp báo, mười vạn đại quân của Từ Hoảng đã quay lại Nam Dương”.

“Chuyện này cũng nằm trong dự liệu của Cô” Tào Tháo gật đầu hỏi Lưu Diệp: “Chiến sự Hoài Nam tiến triển như thế nào rồi?’

Lưu Diệp nói: “Hướng phát triển tiếp theo của quân Lương vẫn chưa có thông tin cụ thể nhưng từ itn tức tình báo lúc rước cũng có thể phân tích ra hơn mười vạn đại quân của Mã đồ phu đã tiến vào Hoài Nam từ hơn hai tháng trước”.

Thào Tháo nói: “Nói cách khác cuộc chiến Hoài Nam đã như tên ở trên dây, không thể không diễn ra sao?”

Lưu Diệp nói: “Nhất định là như vậy”.

“Ha ha ha” Tào Tháo ngửa mặt lên trời cười to ba tiếng, hắn lạnh lùng nói: “Hơn mười vạn đại quân của Mã đồ phu đã bị quân Ngô kiềm chế ở Hoài Nam. Thời cơ tốt nhất vào Xuyên đã tới rồi”.

Bàng Thống nói: “Nếu chúa công muốn lấy Tây Xuyên, nhất định phải cử một viên Đại tướng trấn thủ Tương Dương”.

Tào Tháo nói: “Sĩ Nguyên nghĩ rằng ai có thể trấn thủ Tương Dương?”

Bàng Thống nói: “Ngoài Trương Liêu tướng quân thì không có ai có thể đảm đương trách nhiệm”.

“Ừ” Tào Tháo gật đầu, quát to: “Trương Liêu, Văn Sính, Nguỵ Diên nghe lệnh”.

Trương Liêu, Văn Sinh, Nguỵ Diên ba tướng bước ra khỏi hàng, ôm quyền, cao giọng nói: “Có mạt tướng”.

Tào Tháo nói: “Trương Liêu làm chủ tướng. Văn Sinh, Nguỵ Diên làm phó tướng, chỉ huy hai vạn quân trấn thủ Tương Dương”.

“Mạt tướng tuân lệnh”.

Ba tướng Trương Liêu trả lời rời đi.

Tào Tháo đứng dậy, ánh mắt hắn nhìn lướt qua các tướng lĩnh còn lại, quát to: “Các vị tướng quân còn lại hãy chỉ huy binh mã bản bộ theo Cô phạt Xuyên”.

“Tuân lệnh”.

Các chư tướng ầm ầm trả lời.

Tháng hai, năm Kiến An thứ mười hai, Hán Hiến Đế ( năm 200 )

Thừa dịp đại quân Tây Lương đang gi­ao tranh ác liệt với quân Đông Ngô ở Hoài Nam, Tào Tháo lệnh Trương Liêu trấn thủ Tương Dương, Văn Sính trấn thủ Phàn Thành, Nguỵ Diên trấn thủ Tân Dã cùng với Tương Dương làm thành thế hỗ trợ lẫn nhau chống cự mười vạn quân Xuyên của Từ Hoảng. Sau khi tất cả mọi việc được sắp đặt ổn thoả, Tào Tháo khởi ba vạn quân Kinh Châu tinh nhuệ mưu lấy Tây Xuyên. Thái Thú Vĩnh An là Trương Tú vội vàng cử danh tướng Tây Xuyên Trương Nhiệm dẫn ba vạn đại quân ra Ngư Phúc Phổ hạ trại, chuẩn bị tử thủ.

Trương Nhiệm trong trang phục quân đội ngồi trước án. Ngô Lan, Lôi Đồng, Trương Dực, Trương Nghi, bốn tướng ngồi hai bên.

Trước quân doanh không xa chính là dòng Trường Gi­ang đang cuồn cuộn chảy về đông. Nước sông vùng này vừa sâu vừa chảy xiết, rất nhiều vùng nước xoáy. Hai bên bờ sông dựng thẳng đứng. Người Thục cổ đục một con đường núi trên vách núi, uốn lượn trong mấy trắng. Cảnh tượng hiểm trở này nhìn từ xa đủ làm người khác choáng váng chứ đừng nói tới hành quân qua đó.

Trương Nhiêm quan sát bản đồ trên án hồi lâu rồi hắn đột nhiên ngẩng đầu quát to: “Lôi Đồng”.

Lôi Đồng bước ra, ôm quyền đáp: “Có mạt tướng”.

Trương Nhiệm hỏi: “Bản tướng quân lệnh cho người chuẩn bị vật dẫn lửa, đã chuẩn bị xong chưa?”

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 338: Chết trước khi xuất quân (2)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

“Bẩm tướng quân” Lôi Đồng trả lời: “Tất cả những vật dẫn lửa như tướng quân phân phó: dầu lửa, củi khô, than đá đều đã chuận bị đầy đủ”.

“Ừ” Trương Nhiệm gật đầu, hắn tiếp tục phân công Ngô Lan: “Ngô Lan, bắt đầu từ hôm nay cắt đứt đường núi, không cho phép bất kỳ ai, thương đội nào đi qua. Ở các bến sông đều phải phái binh lính canh giữ. Trên ặmt sông cũng phái quân tuần tra. Cấm tất cả thuyền bè qua lại trên sông. Nếu phát hiện bất kỳ kẻ nào nói giọng Kinh Tương đều coi là gi­an tế, bêu đầu ngay tại chỗ”.

Ngô Lan chắp tay nói: “Mạt tướng lĩnh mệnh”.

Trương Nhiệm suy nghĩ một lát rồi nói: “Trương Dực nghe lệnh”.

Trương Dực bước ra đáp: “Có mạt tướng”.

Trương Nhiệm nói: “Hãy lựa chọn ba mươi tên tinh binh Ba Đông, mặc giả trang như tiều phu, thợ săn địa phương, mai phục trong vùng Di Lăng, giám sát chặt chẽ hướng di chuyển của quân Tào, có bất kỳ phát hiện nào phải lập tức bẩm báo”.

“Mạt tướng tuân lệnh”.

Trương Dực trả lời, lĩnh mệnh rời đi.

Ba ngày trước đó quân Tào cũng đã hành quân tới hạ trại ở đây.

Trên một ngọn núi cao hiểm trở bên bờ Gi­ang Tả, Tào Tháo, Bàng Thống được các tướng Tào Hưu, Tào Hồng, Tàng Phách, Trương Cáp, Hoàng Trung hộ tống đang đứng quan sát địa hình. Đứng từ trên đỉnh núi thì thấy cả một vùng núi non trùng điệp giống như bị Quỷ Phủ thần công chém đứt thành hai nửa ở giữa. Dòng Trường Gi­ang từ trên vách núi cao ngàn trượng đổ xuống xuyên qua đó.

“Địa thế nơi này quả thực rất hiểm trở” Tào Hồng dùng tay lau sương mù trên mặt, hắn trầm giọng nói: “Quân Xuyên chỉ cần phái một chi tinh binh trấn thủ đường núi thì quân ta không thể tiến lên nửa bước. Đây quả thực là một người giữ ải, vạn người không thể qua”.

Tào Tháo mặc nhiên ông nhận, hắn lên tiếng hỏi: “Ngoại trừ con đường núi hiểm trở này, không biết có còn con đường nào đi vào Tây Xuyên không?”

Bàng Thống lắc đầu nói: “Theo như thuộc hạ biết, ngoại trừ con đường núi này thì không còn con đường nào khác”.

Tào Hồng cau mày nói: “Nói như vậy thì quân ta ngoại trừ cường công ra thì không còn cách nào khác sao?”

Bàng Thống nói: “Thiếu tướng quân cũng không cần quá lo lắng. Đường núi kia hiểm trở khó đi tất nhiên bất lợi cho quân ta tấn công nhưng cũng bất lợi cho việc phòng thủ của quân Xuyên. Quân ta chỉ cần phái một toán quân tinh nhuệ, thân kinh bách chiến làm tiên phong, dùng chiến thuật tiến lên từng bước tấn công mạnh mẽ là có thể đẩy lùi quân Xuyên lui về Ngư Phúc Phổ. Qua Ngư Phúc Phổ chính là bình nguyên Xuyên Trung bằng phẳng”.

Trên một vách núi cách đó một ngàn bước.

Trương Dực đang giả dạng thợ săn ẩn nấp sau một mỏm núi đá, thò ra nửa đầu, hắn trợn tròn mắt, không chớp nhìn chằm chằm vào mấy người Tào Tháo ở phía trước. Một tên lính giả dạng làm tiều phu nhô nửa người lên ở sau Trương Dực, hắn lên tiếng hỏi Trương Dực: “Tướng quân, người mặc áo bào đỏ ở phía trước kia hình như là Đại tướng. Có cần phải bắn lén một mũi tên hay không? Nếu có thể dùng một mũi tên bắn chết là lập đại công”.

Tên binh lính khác phụ hoạ theo: “Đúng vậy. Cứ theo quân luật Tây Lương, chỉ cần bắn chết một viên Đại tướng địch quân là có thể được phong tướng quân” Tên lính vừa nói xong, hai mươi mấy tên lính phía sau Trương Dực đều dục dịch đứng dậy như thể chức tướng quân, ruộng tốt, nhà cao cửa rộng, thê thiếp xinh đẹp đang vẫy chào bọn chúng.

“Không được, vách núi hai bên trụi lủi, nếu đi ra nhất định sẽ bị phát hiện” Trương Dực lắc đầu nói: “Hơn nữa người trên núi dù chỉ có bảy, tám người rất dễ đối phó nhưng chẳng lẽ các ngươi không phát hiện ra phía sau chúng ba mươi bước có hơn một trăm người sao? Nếu chúng ta cứ lỗ mãng hành động, chỉ e chúng ta chưa tới trước mặt những người đó, chúng ta đã bị hơn một trăm tên lính đó bắn thành con nhím”.

“Tướng quân, như vậy chẳng phải chúng ta đã bỏ qua một cơ hội rất đáng tiếc sao?” Tên lính đề nghị ban đầu kiên trì nói: “Có được hay không cũng nên thử một lần”.

“Ừ” Trương Dực cau mày, trầm tư nói: “Để ta nghĩ đã”.

“Tướng quân, những người đó hình như đang tiến tới chỗ chúng ta”.

Trương Dực đang cau mày suy nghĩ thì một tên lính ở phía sau đột nhiên giơ tay chỉ. Trương Dực vội chăm chú quan sát thì thấy quả nhiên viên Đại tướng mặc áo bào đỏ và thư sinh mặc áo tím và mấy viên võ tướng đã đi xuống chân ngọn núi hiểm trở đó và đang đi tới vách núi nới mấy người Trương Dực đang ẩn nấp. Lúc này hơn một trăm tên lính dưới chân núi đã tản mát ra xung quanh. Trong số đó có hơn ba mươi tên đoạn hậu ở phía sau, hơn sáu mươi người còn lại đi trước mở đường, canh phòng rất nghiêm ngặt.

Trong lúc vô tình ánh mắt Trương Dực lướt qua một khối đá lớn cao bằng khoảng hai người, lập tức trong đầu hắn nảy ra một ý, hắn quay đầu lại ngoắc tay nói: “Tới đây”.

Dưới vách đá, Tào Tháo, Bàng Thống vừa đi vừa nói chuyện. Tào Hưu, Tào Chân và các tướng lĩnh lẽo đẽo đi theo sau hai người. Cả nhóm người không hề hay biết cứ tiến lên trước. Sáu mươi tên thân binh quân Tào rất cảnh giác lục soát cẩn thận từng mỏm núi đá hai bên sơn đạo, từng bụi cây, thậm chí ngay cả hang núi nhỏ chỉ có thể cho một con báo ra vào cùng dùng trường thương đâm chọc một lúc lâu.

Nhưng tên thân binh quân Tào không ngờ trên vách núi cao hơn mười trượng trên đỉnh đầu chỉ để cho vượn khỉ leo trèo lại có người đang ẩn núp.

Đoàn người đang bước đi thì bất chợt trên đỉnh đầu có một âm thanh kinh thiên động địa. Mọi người kinh hãi ngẩng đầu thì thấy một bóng đen khổng lồ cùng với tiếng rít như sấm đang nhắm đầu Tào Tháo và Bàng Thống rơi xuống với khí thế Thái Sơn áp đỉnh.

“Nghĩa phụ cẩn thận!”.

“Chúa công cẩn thận!”.

Tào Chân và Tào Hưu là hai người ở gần Tào Tháo nhất. Cả hai cùng hét lên một tiếng rồi cùng nhảy tới ôm lấy Tào Tháo. Ba người kết thành một khối cùng lăn vào một hõm núi bên cạnh sơn đạo. Tào Hồng ở phía sau Tào Chân, Tào Hưu hai bước. Hắn thấy hai người đã cứu được Tào Tháo thì nhảy tới cứu Bàng Thống nhưng đã không kịp. Tào Hồng vừa mới ôm lấy Bàng Thống thì tảng đá khổng lồ đã ầm ầm rớt xuống.

Ba tướng Tàng Phách, Trương Cáp, Hoàng Trung ở phía sau mấy chục bước chỉ biết trơ mắt nhìn tảng đá khổng lồ nện trúng người Tào Hồng, Bàng Thống sau đó một tiếng nổ ầm vang phát ra, bụi mù bay đầy trời, còn có cả những mảnh đá vụn sắc bén bắn ra bốn phía. Tuy Tàng Phách võ nghệ cao cường nhưng vẫn không tránh kịp, bị mấy mảnh đá bắn vào mặt, lập tức máu tươi bắn ra như suối.

Ầm!

Trong lúc mọi người còn đang kinh hồn khiếp vía thì trên vách đá lại phát ra một âm thanh rền vang, một tảng đá lớn lại từ trên vách núi giáng xuống. Nhưng so với tảng đá ban đầu thì bé hơn rất nhiều. Ngay trong lúc đó Tàng Phách, Trương Cáp, Hoàng Trung cũng phát hiện ra bóng dáng của mấy người Trương Dực trên vách đá. Hoàng Trung tháo thiết thai cung trên lưng xuống nhanh như chớp. Hắn giương cung, lắp tên, lạnh lùng nói: “Hãy xem mỗ bắn xuyên qua cổ họng”.

Hoàng Trung nói xong, tiếng “vù vù’ vang lên, mũi tên sắc bén đã rời khỏi thiết thai cung nhanh như tia chớp bay lên trên vách núi.

Trên vách đá.

“Các huynh đệ, dùng sức ném”.

Trương Dực giơ một tảng đá nặng hơn một trăm cân định ném xuống vách núi thì bất chợt tiếng rít chói tai từ dưới vách núi bay tới, hàn quang loé lên. Cổ họng Trương Dực đã bị một mũi tên sắc bén to bằng ngón tay cái xuyên qua. Một giọt máu mang theo hàn quang lấp lánh từ đầu mũi tên nhỏ xuống. Ánh nắng buổi chiều chiếu dọi làm phát ra một màu máu vô cùng thê lương.

Ầm!

Hai cánh tay Trương Dực mềm nhũn. Tảng đá đang giơ cao trên không trung rơi xuống, lăn lông lốc trên vách núi.

“Tướng quân!”.

“Tướng quân!”.

Mấy tên lính phía sau Trương Dực tiến lên định đỡ lấy người Trương Dực thì âm thanh thê lương như xe toạc không trung bay tới, ngay tức khác có hơn mười tên lính chết dưới những mũi tên của Hoàng Trung. Mấy tên binh lính còn lại hoảng sợ chạy trốn thì trượt chân ngã xuống vách núi, xương tan thịt nát. Lúc này Tàng Phách, Trương Cáp mới vội vàng tiến lên hất đống đá vụn ra, kéo ba người Tào Tháo, Tào Chân, Tào Hưu từ trong hõm núi ra.

Tào Tháo, Tào Chân không bị một vết thương nào nhưng Tào Hưu đã sớm tắt thở đi gặp Diêm Vương.

Sau khi ôm Tào Tháo, Tào Chân lăn vào hốc đá bên cạnh sơn đạo. Tào Hưu cố sức mở rộng hai tay với ý đồ dùng thân thể của hắn, đương nhiên không thể cứng rắn hơn những tảng đá, chống đỡ cho hai người Tào Tháo, Tào Chân. Cuối cùng tính mạng tuổi trẻ của hắn cũng bị cắt đứt. Một mảnh đá vụn sắc bén đã vô tình cắt đứt áo giáp trên lưng hắn, xé toạc lưng hắn.

Sau khi cứu Tào Tháo, Tào Chân lên, Tàng Phách, Trương Cáp lại cố sức moi hai người Bàng Thống, Tào Hồng từ đống đá vụn lên.

Đầu và phần thân thể từ eo trở lên của Tào Hồng đã bị đập nát vụn, phần thân thể từ eo trở xuống của hắn trong đó có hai chân nằm trong vũng máu vẫn còn không ngừng đung đưa, co quắp làm nổi bật lên vể cực kỳ tàn nhẫn, lạnh lùng của cái chết. Thân thể Bàng Thống từ phần eo trở xuống đã hoàn toàn biến mất nhưng như một kỳ tích, hắn vẫn chưa chết. Khi Tàng Phách, Trương Cáp moi hắn lên từ đống đá vụn, hắn vẫn có thể tỉnh táo nói chuyện.

“Nhị vị tướng quân” Bàng Thống số hết sức mình khoát tay áo nhìn Tàng Phách nói: “Tại hạ có chuyện muốn nói với chúa công”.

Tàng Phách, Trương Cáp không dám chậm trễ, cả hai vội vàng đỡ Tào Tháo tới trước mặt Bàng Thống. Tào Tháo nhìn thấy Bàng Thống toàn thân đẫm máu, hạ thể bị đạp nát nhừ, dáng vẻ cực kỳ thê thảm thì không khỏi đau buồn nói: “Sĩ Nguyên”.

“Chúa công” Bàng Thống cố hết sức cầm tay Tào Tháo nói: “Thống tài trí bình thường. May nhờ chúa công không chê mới uỷ thác trách nhiệm quân sư. Đáng tiếc trời không ủng hộ. Lần này bị tai nạn này chỉ e là không thể bày mưu kế cho chúa công nữa rồi”.

Tào Tháo khóc nói: “Cô mất Sĩ Nguyên như tráng sĩ đứt mất cánh tay. Sau này còn ai có thể bày mưu, còn ai có thể bày mưu?”

“Chúa công không cần phải âu lo” Trên sắc mặt Bàng Thống hiên lên một tia rất khác thường, hắn nói tiếp: “Kinh Tương vốn là nơi rất nhiều kỳ sĩ. Những người tài học hơn Thống nhiều không kể xiết. Nay mệnh Thống không còn bao lâu nữa, Thống nguyện tiến cử cho chúa công bốn người bạn học”.

‘Hả?” Tào Tháo nôn nóng hỏi: “Không biết là người phương nào?”

Bàng Thống nói: “Người đầu tiên là họ Thôi, tên Trị, tên chữ là Chu Bình, vốn là con của Thái Uý Thôi Liệt. Sau này gia cảnh suy sụp liền chuyển tới Kinh Tương, bái gia thúc Bàng Đức Công làm thầy. Thôi Thái Uý cùng chúa công là bạn cố tri. Chu Bình luôn muốn góp sức cùng chúa công nhưng ngặt nỗi nghiệp học chưa thành. Lần trước việc Kinh Châu của Thống thực ra do Chu Bình uỷ thác tới trợ giúp chúa công”.

Tào Tháo cảm khái nói: “Thì ra là con của cố nhân”.

Bàng Thống lại nói: “Người thứ hai họ Mạnh, tên Kiến, tên chữ là Công Uy. Người thứ ba họ Thạch, tên Thao, tên chữ là Nghiễm Nguyên. Tài trí của hai người này cùng Thôi Trị đều hơn xa Thống, rất đáng được trọng dụng”.

Tào Tháo nói: Người thứ ta là người ở đâu?”

Bàng Thống nói: “Người thứ tư họ Gia Cát, tên Lượng, tên chữ là Khổng Minh, vốn là người quận Lang Nha, Từ Châu. Ngay khi còn nhỏ đã theo phụ thân chạy loạn tới Kinh Châu, bái gia thúc làm môn hạ đã mười hai năm. Mặc dù năm nay Khổng Minh tuổi nhược quán nhưng tài cao như Quản Trọng, Nhạc Nghị, tài học hơn Thống gấp trăm lần. Thống vốn định sau khi phạt Xuyên sẽ tiến cử Khổng Minh với chúa công. Nhưng hiện tại xem ra là không thể”.

Tào Tháo cau mày nói vẻ nghi ngờ: “Khổng Minh này quả thật có tài học như vậy sao?’

“Thống là người sắp chết, cần gì phải nói lời sằng bậy lừa gạt chúa công?” Bàng Thống nói một hồi, sắc hắn dần dần ảm đạm, giọng nói cũng trở nên rất khó khăn, hắn nói tiếp: “Sau khi Thống chết, bốn vị bạn học đó nhất định sẽ tới viếng tang. Thống có một kế làm cho bốn người bạn này cùng ra sức vì chúa công”.

Tào Tháo nói: “Kế gì?”

Bàng Thống gom hết sức tàn cố thì thào mấy tiếng vào tai Tào Tháo. Tào Tháo nghe xong liên tục gật đầu khen: “Diệu kế, quả thực diệu kế”.

Tào Tháo nói xong một lúc lâu không thấy Bàng Thống lên tiếng. Hắn vội quay đầu nhìn thì thấy thất khiếu Bàng Thống chảy máu, tắt thở từ lúc nào.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 3398: Vũ khí sắc bén công thành (1)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Hoài Nam

Đại quân tả lộ của Cao Thuận, đại quân hữu lộ của Phương Duyệt chia nhau tấn công ải Thanh Ngưu và Hoài Âm bị quân Ngô ngoan cường chống cự. Chỉ có Mã Dược tự mình thống lĩnh đại quân trung lộ chiến thắng như chẻ tre, tiến quân thần tốc, trong khoảng thời gi­an chưa tới một tháng đã tiến được mấy trăm dặm, quân tiên phong đánh thẳng tới Thọ Xuân.

Bắc thành Thọ Xuân, quân trướng của Mã Dược.

Giả Hủ nhìn Mã Dược nói: “Chúa công, Cao Thuận tướng quân cho khoái mã tới báo. Quân Ngô ở ải Thanh Ngưu đã xây dựng thành một tấm lá chắn vững chắc. Hơn nữa địa thế ở đó khá hiểm trở, sơn đạo chật hẹp, căn bản quân ta không thể phát huy được ưu thế về binh lực. Chúng ta chỉ có thể dùng một nhóm nhỏ tinh binh tấn công quan ải nhưng quân Đông Ngô chống cự vô cùng điên cuồng. Xem ra đây là một trận ác chiến kéo dài, vô cùng ác liệt”.

“Ừ, đây cũng là chuyện trong dự tính” Mã Dược gật đầu nói: “Vậy còn đại quân hữu lộ của Phương Duyệt tướng quân tiến triển như thế nào?”

Giả Hủ nói: “Đại quân hữu lộ đã thuận lợi đánh chiếm ba quận Lang Nha, Bành Thành, Đông Hải của Hoài Bắc và phần lớn đất đai quận Hợp Phì nhưng khi tiếp tục xuôi nam tiến công Hoài Âm thì bị quân Ngô chống cự kịch liệt. Hoài Âm tựa lưng vào sông Hoài, lại cóm thuỷ quân Đông Ngô trợ giúp. Phương Duyệt tướng quân đã tấn công mấy lần nhưng không có kết quả, lại phải đề phòng thuỷ quân Đông Ngô tập kích ban đêm nên đã rút lui ba mươi dặm hạ trại”.

Mã Dược nói: “Xem ra trong khoảng thời gi­an ngắn nhất không thể trông cậy hai lộ quân tả, hữu đánh vu hồi phía sau thành Thọ Xuân”.

Điền Dự nói: “Chỉ là một toà thành Thọ Xuân, cần gì phải có hai lộ quân tả, hữu giáp công? Mạt tướng gnuyện chỉ huy ba vạn tinh binh U Châu bản bộ làm tiên phong. Trong vòng nửa tháng nhất định sẽ đánh chiếm được thành Thọ Xuân”.

Mã Dược nói: “Quân lệnh không thể nói chơi”.

Điền dự nói: “Mạt tướng nguyện lập tờ quân lệnh”.

“Được” Mã Dược quát to: “Điền Dự nghe lệnh”.

“Có mạt tướng”.

“Thống lĩnh ba vạn tinh binh U Châu làm tiên phong tấn công cửa bắc thành Thọ Xuân”.

“Mạt tướng lĩnh mệnh”.

Điền Dự ầm ầm trả lời, lĩnh mệnh rời đi.

Thọ Xuân, quân trướng của Chu Du.

Chu Du nhìn Tôn Quyền nói: “Chúa công, lộ tả quân của Cao Thuận đã bị Thiếu tướng quân Lưng Thống chặn lại ở ải Thanh Ngưu. Lộ hữu quân của Phương Duyệt cũng bị Tam tướng quân chặn lại ở Hoài Âm. Tới lúc này chỉ có Mã đồ phu tự mình thống lĩnh quân trung lộ. Quân ta hoàn toàn có thể áp dụng chiêu thức như sách lược đã đề ra. Áp dụng chiến thuật dụ địch xâm nhập. Hiện tại hai mươi vạn đại quân Tây Lương đã tiến tới cách bắc thành Thọ Xuân ba mươi dặm”.

“Hả?” Tôn Quyền kích động hỏi: “Đại quân của Mã đồ phu đã tiến tới cửa bắc thành Thọ Xuân ba mươi dặm sao?”

“Chúa công xin nhìn” Chu Du chỉ tay vào bản đồ, nhìn Tôn Quyền nói: “Đây là thành Thọ Xuân. Sông Hoài chạy ngang qua thành. Trong vòng chu vi một trăm dặm quanh thành là một vùng trũng. Bởi vì mấy năm nay nước sông Hoài liên tục chảy ngược nên đã hình thành rất nhiều hồ nước. Thuỷ đạo có các hồ nước này liên thông với nhau. Điều quan trọng hơn cả là mặt nước hồ mọc đầy lau sậy, cỏ cây mọc thành bụi. Chiến thuyền nhẹ của thuỷ quân có thể ẩn núp làm cho quân Lương rất khó phòng bị”.

“Hay” Tôn Quyền kích động nói: “Mã đồ phu thống lĩnh hai mươi vạn thiết kỵ tiến vào vùng đất này thì coi như hắn đã bước một chân vào tử địa. Nhất định sẽ bị thuỷ quân Đông Ngô quáy phá không ngừng nghỉ. Quân Lương thế lớn. Nếu quân ta không liều mạng, chắc chắn sẽ thất bại. Chỉ có thể phát huy đầy đủ ưu thế của thuỷ quân, lợi dụng ưu thế của địa hình xung quanh thành Thọ Xuân thì mới có thể chuyển bại thành thắng. Ha ha. Chỉ cần đánh tan lộ quân trung đường của Mã đồ phu. Hai lộ quân kia của Cao Thuận và Phương Duyệt sẽ không cần phải lo lắng nữa”.

Chu Du mỉm cười quay người lại, đứng trước án, quát to: “Chu Thái, Từ Thịnh, Đinh Phụng, Tôn Kiều nghe lệnh”.

Bốn tướng Chu Thái, Từ Thịnh, Đinh Phụng, Tôn Kiều thản nhiên bước ra, đứng thành hàng ngang trước trướng nói: “Có mạt tướng”.

Chu Du nói: “Hãy chỉ huy hai ngàn thuỷ quân, dùng thuyền nhẹ xuất quân. Các tướng cần ghi nhớ, ban ngày chia nhỏ ra ẩn núp trong các hồ nước, ban đêm lên bờ tập kích, thiêu huỷ lương thảo, đồ quân nhu, giết binh lính, trộm ngựa, không từ thủ đoạn nào giết địch. Tập kích, quấy nhiễu làm địch quân mệt mỏi, không thể phòng bị”.

“Mạt tướng lĩnh mệnh”.

Bốn tướng Chu Thái lĩnh mệnh rời đi.

Chu Du lại nói: “Lữ Mông nghe lệnh”.

Lữ Mông tiến ra đáp: “Có mạt tướng”.

Chu Du nói: “Chỉ huy chủ lực thuỷ quân dò xét sông Hoài, canh phòng nghiêm ngặt việc quân Lương bắc cầu nổi qua sông Hoài. Chỉ cần lá chắn sông Hoài không mất, quân Lương của Mã đồ phu tuyệt đối không thể gây bất kỳ uy hiếp nào lên cửa đông, tây và nam của thành Thọ Xuân. Quân ta có thể tập trung binh lực tử thủ cửa bắc thành”.

Lữ Mông trả lời: “Math tướng tuân lệnh”.

“Ô ô ô…”

Lữ Mông vừa dứt lời thì bất chợt xa xa bên ngoài thành Thọ Xuân đột nhiên vang lên hiệu kèn lệnh lanh lảnh. Một tên tiểu giáo Đông Ngô bước nhanh vào trướng, hắn quỳ xuống bẩm báo: “Bẩm Đại đô đốc, quân Lương bắt đầu công thành”.

Chu Du tươi cười, hắn quay đầu nhìn Tôn Quyền nói: “Chúa công, sao không xa giá lên địch lâu quan sát cuộc chiến, khích lệ tinh thần ba quân tướng sĩ?”

Tôn Quyền vui vẻ nói: “Cô đang có ý đó”.

Cửa bắc thành Thọ Xuân.

Ba vạn hàng quân U Châu của Điền Dự đã lập xong thế trận. Tinh kỳ bay rợp trời trên cánh đồng hoang vu bên ngoài cửa bắc thành. Hơn một vạn trường mâu đâm thẳng lên trời cao, hàn quang lạnh giá cơ hồ như che phủ cả bầu trời.

Trong trung quân, Điền Dự được các cựu tướng U Châu là Trương Nam, Tô Do, Mao Gi­ai, Tân Minh hộ tống giục ngựa tiến ra trước trận.

Từ xa nhìn lại, thành Thọ Xuân giống như một con thú khổng lồ ngồi ngay trên sông Hoài. Dòng sông Hoài chạy ngang qua, chia thành Thọ Xuân thành hai nửa. Hiển nhiên quân Ngô đã sớm chuẩn bị. Bức tường thành ở bắc sông Hoài vốn cao hơn ba trượng đã được gia cố cao lên năm trượng ( khoảng mười mét ), cứ cách mỗi hai mét lại xây dựng một lô cốt. Lô cốt nhô hẳn ra bên ngoài, tường hai bên lõm hẳn vào trong.

“Lợi hại thật. Chúng có thể xây dựng được tường thành vững chắc như vậy” Sau khi cẩn thận quan sát Điền Dự quay lại nói với chúng tướng: “Cách bố trí tường thành như vậy quả thực chưa từng thấy bao giờ. Bản tướng quân cũng chưa từng đọc thấy trong binh thư. Thế nhưng có thể thấy việc công thành của quân ta khó khăn hơn rất nhiều. Chỉ dựa vào điểm này cũng đủ thấy Chu Du, Đại đô đốc quân Ngô cũng không phải là hạng đầu đường xó chợ”.

“Đúng vậy” Tân Minh gật đầu phụ hoạ: “Bởi vì có sự tồn tại của những lô cốt ở góc này nên khi quân ta công thành thì đồng thời nhận phải sự đánh trả của chính diện vài hai bên. Rất bất lợi”.

“Thế nhưng chúng ta không còn sự lựa chọn nào khác” Gương mặt Tô Tuỳ thoáng co rúm lại: “Tướng quân đã lập tờ quân lệnh trước mặt Thừa tướng. Chúng ta chỉ có thể liều chết đánh trận này, nhất định trong vòng nửa tháng phải đánh chiếm được thành Thọ Xuân. Hơn nữa chúng ta cũng nhân cơ hội này chứng minh cho lũ thiết kỵ Mạc Bắc ngông cuồng tự cao tự đại kia là sở dĩ quân U Châu chúng ta lựa chọn quy hàng không phải vì không đánh lại chúng, cũng không phải vì sợ chúng”.

“Nói hay lắm” Mao Gi­ai hung hăng vung nắm đấm, hắn trầm giọng nói: “Nếu như lực lượng hai bên tương đương nhau, một khi để quân binh U Châu chúng ta và quân thiết kỵ Mạc Bắc đánh nhau một trận thực sự thì còn chưa biết ai thắng ai thua”.

“Ăn nói cẩn thận” Điền Dự sa xầm mặt, quát to: “Hôm nay là lúc nào mà con phân biệt thiết kỵ Mạc Bắc, quân binh U Châu? Mọi người đều là quân đội của Thừa tướng, đều là quân đội của Đại Hán, đều phải đồng tâm hiệp lực đánh bại quân Ngô. Sau này không được ai có suy nghĩ sai lệch này trong đầu. Những lời nói hôm nay càng không được nói tới, bằng không đừng trách bản tướng quân không niệm tình nghĩa xưa kia”.

Các tướng sợ hãi không dám lên tiếng.

Mắt Điền Dự lộ hàn quang, hắn quát to: “Tân Minh”.

Tân Minh vội giục ngựa tiến lên trước nói: “Có mạt tướng”.

“Chỉ huy ba ngàn tinh binh đánh trận đầu, thử dò xét sức mạnh phòng thủ của quân Ngô”.

“Tuân lệnh”.

“Trương Nam”.

“Có mạt tướng”.

“Chi huy năm ngàn khinh kỵ binh áp trận, đề phòng quân Ngô ra khỏi thành tập kích”.

“Tuân lệnh”.

Lâu thành Thọ Xuân.

Tôn Quyền, Chu Du được các tướng Hoàng Cái, Thái Sử Từ, Tống Khiêm, Giả Hoa tiền hô hậu ủng đi lên địch lâu. Ngay khi chưa kịp ngồi xuống thì bất chợt bên ngoài thành vang lên tiếng kèn lệnh, tiếng trống rung trời. Một đội kỵ binh mặc áo giáp màu vàng tươi tiến ra trước như sóng to gió lớn. Khi còn cách tường thành Thọ Xuân còn hơn một tầm tên thì chúng ghìm cương ngựa lại, chuyển hướng cắt ngang trước thành, sau đó đứng trấn tại đầu bên trái của trận thế.

Sắc mặt Tôn Quyền trở nên vô cùng nghiêm trọng, hắn hỏi Chu Du: “Công Cẩn, kia có phải thiết kỵ Mạc Bắc dưới trướng Mã đồ phu không?”

Chu Du mỉm cười nói: “Chúa công, kia chỉ là hàng binh Hà Bắc, không phải là thiết kỵ Mạc Bắc của Mã đồ phu”.

Sắc mặt Tôn Quyền càng trở nên nghiêm trọng, hắn lại nói: “Nói như vậy thì không phải thiết kỵ Mạc Bắc của Mã đồ phu càng tinh nhuệ hơn sao?’

Chu Du cao giọng nói: “Chúa công tuyệt đối không cần lo lắng. Tuy thiết kỵ Mạc Bắc của Mã đồ phu kiêu dũng thiện chiến, cực kỳ sắc bén nhưng chúng chỉ có thể ra vẻ ta đây trên bình nguyên phương bắc. Phía nam là thiên hạ của thuỷ quân Đông Ngô chúng ta. Theo như Du thấy, Mã đồ phu thống lĩnh hơn hai mươi vạn thiết kỵ, bộ binh vượt tới Hoài Nam xa xôi đánh Thọ Xuân, căn bản là tự tìm lấy cái chết”.

Tôn Quyền thấy Chu Du như đã tính toán trước tất cả mọi việc, hắn không khỏi thấy yên lòng, lên tiếng khen ngợi: “Cô có Cổng Cẩn là có thể bình chân như vại”.

Đang trong lúc nói chuyện, thế trận quân Lương bên ngoài thành đã lại thay đổi. Một đội bộ binh mặc áo giáp đồng xuất trận, tiến tới cửa bắc thành Thọ Xuân.

Chu Du khẽ mỉm cười, hắn quay đầu nhìn Hoàng Cái nói: “Hoàng lão tướng quân, lập tức truyền lệnh toàn quân cung thủ. Quân địch chưa tiến tới gần sông đào hộ thành thì tuyệt đối không được bắn tên. Ai trái lệnh, chém”.

“Tuân lệnh”.

Hoàng Cái trả lời rồi quay người rời đi.

Tôn Quyền không hiểu bèn hỏi: “Công Cẩn, theo như Cô biết. Tầm bắn của quân cung thủ chúng ta có thể đạt tới một trăm bước. Vì sao chúng ta phải chờ địch quân tiến gần tới sông đào hộ thành mới được bắn tên? Chẳng lẽ ngay khi quân địch vừa mới vào tới tầm bắn thì bắn tên thì không phải tốt hơn sao?”

Chu Du nói: “Chúa công, đội quân kia chỉ tấn công mang tính chất dò xét. Quân ta không cần phải bắn tên một cách lãng phí”.

“Thì ra là như vậy” Tôn Quyền vui vẻ gật đầu nói: “Quả thật không hổ là Công Cẩn. Nhất cử nhất động của quân địch đều nằm trong lòng bàn tay. Mã đồ phu gặp phải ngươi thì coi như hắn đã bất hạnh rồi”.

Phía bắc thành Thọ Xuân ba mươi dặm, quân trướng Mã Dược.

Giả Hủ trịnh trọng móc trong người ra một quyển sách lụa. Hắn cẩn thận mở ra trên trác an sau đó hắn nhìn Khoái Việt, Lỗ Túc nói: “Dị Độ, Tử Kính, hai người lại đây”.

Khoái Việt, Lỗ Túc không dám chậm trễ, cả hai vội tiến lên hai bước tới cạnh án.

Giả Hủ chỉ tay vào bản vẽ trên cuốn sách lụa nói: “Đây là tại hạ căn cứ vào suy nghĩ của chúa công vẽ ra. Sau khi hoàn thiện trở thành xe công thành như này. Hai người hãy nhìn kỹ đi”.

Khoái Việt, Lỗ Túc cúi đầu nhìn thì thấy trong cuốn sách lụa có mô hình một toà tháp cao chế bằng gỗ. Tháp cao có sáu mặt hình thang. Mặt ngoài phía trước và mặt sau thẳng đứng. Mặt ngoài phía sau hơi thoai thoải, hai mặt bên hơi nghiêng vào trong. Trên mặt dốc thoai thoải đó có rất nhiều gờ nhỏ. Bên cạnh đó có những chữ nhỏ ghi chú lại, rõ ràng đây là những bậc thang để đi lại.

Hai bên cầu thang có những hàng rào bảo vệ để tránh cho binh lính trượt chân ngã xuống nhưng cũng có tác dụng chống lại tên bắn của kẻ thù từ hai bên.

Ở đáy toà tháp cao có gắn rất nhiều những bánh xe gỗ. Điều càng làm Khoái Việt, Lỗ Túc ngạc nhiên nữa chính là kết cấu của nóc toà tháp.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 3398: Vũ khí sắc bén công thành (2)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Trên đỉnh tháp là một mái bằng phảng, xung quanh có một hàng rào lan can, phía sau nối liền với cầu thang, phía trước có một sợi xích bắt vào một cái cầu treo , giống như chiếc cầu treo ở cổng thành vậy, chỉ có điều khác ở chỗ là hai sợi dây treo cầu treo này cột chặt vào 2 chiếc cột trên mái bằng, trên cột có bánh xe, thông qua bánh xe và dây cột có thể làm cho cầu treo lên xuống tự do.

Nếu để cho xe công thành này tới gần tường thành, chỉ cần cầu treo có thể được hạ xuống mặt tường thành thì trên lâu thành sẽ giống như mặt đất, xuất hiện một thông đạo vận chuyển binh lính cực kỳ khủng khiếp. Theo thông đạo này, bộ binh công thành có thể dễ dàng đánh giết lên mặt tường thành và không cần phải mạo hiểm trèo trên thang mây dưới sự uy hiếp của tên bắn, đá, cây gỗ, dầu sôi.

Trên thực tế đây là thiết bị công thành Mã đồ phu cải tiến từ xe thang công thành chế ra ở trận đánh Hổ Lao quan.

Chỉ có điều kết cấu bằng trúc đã được đổi thành gỗ. So với trúc, kết cấu bằng gỗ có ưu điểm là kiểu dáng gọn, nhỏ hơn, độ bền lại tốt hơn nhiều như vậy thì sự uy hiếp của máy bắn đá của quân trấn thủ thành với tháp công thành đã giảm đi rất nhiều. Trước khi máy bắn đá hạng nặng xuất hiện, những máy bắn đá dùng đòn bẩy do con người lôi, kéo tuyệt đối không thể gây ra uy hiếp thực sự đối với tháp công thành đã cải tiến này.

Nhưng có lợi thì cũng có bất lợi.

Tuy tháp công thành chế bằng gỗ nâng cao sức bề nhưng lại khá nặng khi so sánh với tháp công thành chế tạo bằng trúc. Cho dù sử dụng rất nhiều người thì cũng không thể nào đẩy tháp công thành này tiến lên phía trước vì vậy đã phải lắp đặt rất nhiều bánh xe gỗ sau đó dùng nhân lực đi xung quanh đẩy vì vậy yêu cầu về độ bằng phẳng của mặt đất cũng như độ cứng khi dùng tháp công thành bằng gỗ cao hơn rất nhiều so với tháp công thành bằng trúc.

“Thiên tài, đây quả thực là suy nghĩ của thiên tài” Lỗ Túc quay đầu lại nhìn Mã Dược với anh mắt sùng kính, hắn thở dài nói: “Thật không ngờ chúa công lại nghĩ ra vũ khí công thành sắc bén như này? Quả thực không thể tưởng tượng nổi. Có khí giới sắc bén như này trong tay, lo gì thành Thọ Xuân không phá được? Nhưng chỉ e với khí giới công thành này, sau này chiến thuật thủ thành cũng phải thay đổi hoàn toàn triệt để”.

Mã Dược khiêm tốn nói: “Tháp công thành này dù rất lợi hại nhưng cũng không lợi hại tới mức như Tử Kính nói. Thế nhưng quân Ngô vẫn chưa biết quân ta có một khí giới công thành sắc bén như vậy. Chúng ta có thể đánh cho chúng trở tay không kip”.

Sắc mặt Khoái Việt khá kích động, hắn hỏi Mã Dược: “Chúa công, không biết khi nào thì tháp công thành này mới được vận chuyển tới đại doanh? Thuộc hạ rất nóng lòng được nhìn thấy hình dáng của nó”.

“Ai, Dị Độ không cần nóng vội” Giả Hủ khoát tay cười nói: “Thứ đồ chơi này vừa nặng nề vừa thô kệch, cũng không thuận tiện cho việc vận chuyển nên chỉ có thể đốn gỗ ngay tại chỗ để chế ra. Chúa công cho người mời nhị vị tới chính là muốn mời nhị vị giám sát, đốc thúc thợ thủ công, chế tạo gấp gáp một ít tháp công thành này. Hình dáng đại khái của tháp công thành này nhị vị cũng đã thấy, độ cao của nó cũng tương đương với độ cao của tường thành Thọ Xuân, cao chừng năm thước. Nếu trong quá trình có vấn đề gì xảy ra, nhị vị có thể tới tìm tại hạ, cũng có thể đi tìm chúa công. Mặt khác nếu có yêu cầu gì. Ví dụ như vật liệu, nhân công, thợ thủ công, nhị vị cũng cứ nói ra, tại hạ nhất định tìm mọi biện pháp thoả mãn”.

“Hiểu rồi” Lỗ Túc kích động nói: “Xin hãy yên tâm gi­ao cho tại hạ và Dị Độ. Nhất định không để chúa công và quân sư thất vọng”.

Mã Dược vui vẻ nói: “Vậy nhờ cậy nhị vị”.

“Cáo từ”.

Lỗ Túc chắp tay thi lễ với Mã Dược và Giả Hủ rồi hắn quay người rời đi. Khi đi được hai bước mới phát hiện đã quên bản vẽ, hắn vỗ vỗ trán rồi quay lại cầm bản vẽ trên án rồi cùng Khoái Việt rời khỏi trướng.

Giả Hủ lắc đầu cười, nhìn Mã Dược nói: “Lỗ Tử Kính này làm việc thật là hấp tấp, ha ha ha”.

Mã Dược cũng mỉm cười nói: “Vì vậy việc giám sát này không ai có thể hơn hắn”.

Giả Hủ nói: “Mặc dù Chu Du kia rất giỏi dùng binh nhưng hắn nhất định cũng không ngờ quân ta có vũ khí công thành sắc bén như này. Hủ cho là hiện tại nghĩ cách nên làm thế nào vượt sông Hoài, cùng với tiếp tục bố trí chiến lược xuôi nam cụ thể”.

“Văn Hoà không thể khinh địch” Mã Dược nghiêm nghị lắc đầu nói: “Tháp công thành kia có thể giết quân Ngô trở tay không kịp nhưng chưa chắc có thể công phá được thành Thọ Xuân. Thằng nhãi Chu Du này tuy tuổi còn trẻ nhưng tuyệt. Năm đó Cô dùng dụ hắn ra để giết hắn nhưng cuối cùng hắn đoán ra làm thất bại trong gang tấc. Năng lực tuỳ cơ ứng biến của thằng nhãi này có thể nói là hạng nhất, quả thật bình sinh Cô hiếm gặp”.

“Dạ” Giả Hủ gật đầu đồng ý: “Có thể xem xét tình hình, điều chỉnh chiến thuật phù hợp với trạng thái chiến trường trong nháy mắt. Đây quả thực là tố chất cơ bản của một thống soái chỉ huy phải có”.

Tương Dương, linh đường Bàng Thống.

Bốn gã sĩ tử tuổi trẻ, dáng người cao gầy, tướng mạo đường đường đang phúng viếng. Trong đó gã trẻ tuổi đang ngâm một bài văn tế quả thật xuất chúng hơn người. Khi đọc tới chỗ xú động quả nhiên khóc lóc, từng chữ lại khóc thút thít. Đôi mắt mèo của Tào Tháo cũng phải chảy hai giọt lệ. Chiến tướng thân kinh bách chiến như Trương Liêu, Trương Cáp cũng vô cùng xúc động, buồn rầu.

Ban đêm, phủ quan Tào Tháo.

Tào Tháo hỏi Lưu Diệp: “tử Dương, lễ vật Cô nói đã chuẩn bị chu đáo chưa vậy?”

“Đã xong rồi’ Lưu Diệp cung kính nói: “Vàng có trăm lượng, vải vóc một trăm cuộn, lụa thượng đẳng hai mươi cuộn và cả hai mỹ nữ”.

“Ừ” Tào Tháo gật đầt nhìn Trình Dục nói: “Làm phiền Trọng Đức hãy mang vàng, vải vóc và lụa tới dịch xá của Thạch Thao”.

Trình Dục chắp tay thi lễ nói: “Thuộc hạ tuân lệnh”.

Chờ khi Trình Dục rời đi, Tào Tháo nhìn Cổ Quy nói: “Phiền Lương Đạo hãy mang hai mỹ nữ tới dịch xá của Mạnh Kiến”.

‘Thuộc hạ tuân lệnh”.

Cổ Quy cũng lĩnh mệnh rời đi.

Chờ cho Cổ Quy rời khỏi, Lưu Diệp mới lo lắng nói: “Chúa công mới gặp Thạch Thao và Mạnh Kiến lần đầu mà đã tuỳ tiện tặng lễ vật như vậy. Vạn nhất hai người này là chí sĩ thanh cao thì không phải đã gây ra chuyện xấu sao?’

“Không sao” Tào Tháo xua tay , sắc mặt ảm đạm, hắn thở dài nói: “Sĩ Nguyên cùng với bốn người Mạnh Kiến, Thạch Thao, Thôi Trị, Gia Cát Lượng là bạn học nhiều nắm, há không hiểu tính tình bốn người này sao? Cô chỉ làm theo di kế của Sĩ Nguyên mà thôi nhưng nhất định việc sẽ thành”.

Lưu Diệp ngạc nhiên hỏi: “Di kế của Sĩ nguyên sao?’

“Đúng vậy” Tào Tháo gật đầu nói: “Trước khi chết Sĩ Nguyên có nói với Cô: Thôi Trị là người ngay thẳng, rất có phong thái của kẽ sĩ. Mạnh Kiến háo sắc. Thạch Thao tham tài. Hai người này đều là chí sĩ phóng túng không chịu gò theo khuôn phép. Gia Cát Lượng là bậc kỳ tài có một không hai nhưng lại thích hư danh. Mới rồi Cô tặng vàng bạc cùng mỹ nữ, Mạnh Kiến và Thạch Thao hai người phóng đãng không chịu theo khuôn phép này nhất định sẽ vui vẻ chấp nhận sau đó cả hai sẽ theo về với Cô”.

Lưu Diệp lại hỏi: “Chúa công dự định đưa tặng Gia Cát Lượng lễ vật gì vậy?”

Tào Tháo nói: “Sĩ Nguyên nói Gia Cát Lượng thích hư danh. Nếu Cô đưa tặng vàng bạc, châu báu tất bị coi thương, đưa tặng mỹ nữ tất bị từ chối. Chỉ có một cách tới tận nhà, liên tục thỉnh mời để cho Gia Cát Lượng nở mày nở mặt trước người khác, nhất định hắn sẽ ra sức vì Cô”.

Gió núi gào thét, tuyết trắng tung bay.

Cao Thuận giục ngựa đứng sừng sững trước ải Thanh Ngưu, sắc mặt nghiêm nghị nhưng lạnh lùng.

Trên quan đạo nhỏ hẹp trước quan ải nằm ngổn ngang thi thể các tướng sĩ quân Lương. Ải Thanh Ngưu được xây dựng cực kỳ chắc chắn, quân Ngô chống cự cũng vô cùng ngoan cường. Tướng trấn thủ quan ải Lăng Thống lại rất giỏi khích lệ tinh thần tướng sĩ. Đối mặt với đại quân Tây Lương sóng sau cao hơn sóng trước, tấn công không ngừng nghỉ, quân Ngô vẫn duy trì ý chiến đấu cao độ, không một giây phút trễ nải.

Cao Thuận hít một hơi thật sâu, ánh mắt hắn vô cùng kiên nghị. Cánh tay cụt của hắn giơ lên phía trước. Hắn trầm giọng quát to: “Hãm Trận doanh…tấn công”.

“Ngao ha ha. Oa nha!” Xích Ngục, thống lĩnh Hãm Trận doanh đứng trang nghiêm sau lưng Cao Thuận, nặng nề đập mặt Trảm mã đao vào áo giáp ngực của mình, hắn ngửa mặt lên trời gào lên: “Tấn công…”.

“Có đi không có về”.

Ba ngàn tử sĩ Hãm Trận doanh ầm ầm trả lời.

“Ý chí Hãm Trận doanh!”.

“Tấn công!”.

Xích Ngục giơ cao Trảm mã đao hung hăng chỉ về phía trước. Năm trăm tử sĩ Hãm Trận doanh rời khỏi trận đánh tới ải Thanh Ngưu ở phía trước.

Thực tế rất tàn khốc, bởi vì quan đạo trước quan rất nhỏ hẹp. Ba ngàn tướng sĩ Hãm Trận doanh không thể chen chúc nhau xông lên. Bất đắc dĩ Xích Ngục phải phân chia ba ngàn tướng sĩ tinh binh Hãm Trận Doanh thành sáu đội tấn công, lần lượt công thành nhưng một khi làm như vậy quân Ngô trấn thủ quan sẽ phải chịu áp lực nhỏ hơn rất nhiều.

Trên quan ải Thanh Ngưu.

Lăng Thống trẻ tuổi đứng sừng sững trên quan ải, tay vịn vào bức tường chắn mái.

Phía sau Lăng Thống, hơn mười viên kiện tướng Đông Ngô như sao vây quanh trăng đứng xung quanh hắn. Trải qua mười mấy ngàu chém giết kịch liệt, những viên hãn tướng này ban đầu còn đối lập đã dần chuyển sang ủng hộ. Mặc dù Lăng Thống tuổi còn trẻ nhưng kiếm, cung thành thạo, chỉ huy rất kiên định làm ba quân tướng sĩ vô cùng khâm phục. Tuy Lăng Thống là nghĩa đệ của chúa công nhưng lại dám sông pha trước hòn tên mũi đạn làm gương cho tướng sĩ.

“Hãm Trận doanh” Sắc mặt Lăng Thống không khỏi trở nên lạnh lùng. Cánh tay trái cầm kiếm của hắn lập tức nổi gân xanh lét. Hắn trầm giọng quát to: “Cuối cùng Cao Thuận muốn hy sinh tất cả Hãm Trận doanh của hắn sao?”

“Hãm Trận doanh?’

“Công không thể cản. Hãm Trận doanh bách chiến bách thắng”.

“Đây chính là quân tinh nhuệ trong tinh nhuệ của quân Lương”.

Phía sau lưng Lăng Thống không ngừng vang lên tiếng xít xoa, tướng sĩ quân Ngô ở bốn phía xung quanh bắt đầu xì xào bàn tán.

Lăng Thống cười lạnh lùng, hắn đột nhiên quay người quát to: “Chúng tướng sĩ nghe đây”.

Tướng sĩ quân Ngô trên quan ải rét run không dám lên tiếng, ánh mắt của tất cả đều tập trung trên người Lăng Thống. Giây phút này chỉ có gió núi lạnh thấu xương thổi cây đại kỳ màu đen bay phất phới. Gió thổi làm chữ “Lăng” trên mặt lá cờ trông vô cùng dữ tợn.

Trước ánh mắt sáng quắc của tướng sĩ quân Ngô, Lăng Thống cầm bảo kiếm chỉ thẳng lên trời.

“Hãm Trận doan bách chiến bách thắng là vì chúng chưa bao giờ gặp đối thủ thực sự”.

“Hãm Trận doanh công không thể cản là vì chúng chưa bao giờ gặp phải hùng quan thực sự”.

“Lúc này đây” Lăng Thống hạ kiếm chỉ xuống ải Thanh Ngưu dưới chân quát to: “Nơi này là Hãm Trận doanh, thần thoại công không thể cản của Hãm Trận doanh sắp kết thúc”.

“Hống hống hống…”

Được những lời nói kích động, khiêu khích của Lăng Thống cổ vũ, tướng sĩ quân Ngô bắt đầu thúc trống reo hò.

Lăng Thống giơ ngang bảo kiếm chỉ thẳng vào mặt tướng sĩ Đông Ngô quat lên: “Chính là các ngươi sẽ làm tiêu tan hoàn toàn thần thoại bách chiến bách thắng của Hãm Trận doanh. Bắt đầu từ hôm nay trong thiên hạ không còn Hãm Trận doanh bách chiến bách thắng, công không thể cản”.

“Hống hống hống…”

Được cổ vũ tinh thần của tướng sĩ quân Ngô bắt đầu cuồng nhiệt.

Bên ngoài ải Thanh Ngưu.

Cao Thuận nhìn bức tường quan ải hiểm trở ở phía xa, sắc mặt hắn nghiêm túc hơn bao giờ hết.

Vô luận là gì đi nữa, Lăng Thống là một đối thủ đáng giá nhưng chỉ bằng vào năm ngàn tinh binh quân Ngô đóng trên ải Thanh Ngưu mà muốn ngăn cản mười vạn quân Lương tinh nhuệ thì tuyệt đối không thể nào.

Trải qua hơn mười ngày gi­ao tranh công thủ ác liệt, Cao Thuận hoàn toàn tin tưởng thể lực của quân trấn thủ có hạn trong khi đó tinh thần, sức lực của ba ngàn tướng sĩ Hãm Trận Doanh đang lúc thịnh.

Cho dù ý chí chiến đấu và đấu pháp ngang nhau thì cũng không thể bù đắp được sự tiêu hao thể lực. Nhất định hôm nay phải chiếm quan ải.

“Công kích. Có đi không có về”.

“Xông vào trận địa.

Trong tiếng kèn lệnh đinh tai nhức óc, năm trăm tử sĩ Hãm Trận Doanh rốt cuộc đã tiến tới trước quan ải. Áo giáp dầy cộm cùng với thuẫn đồng chắc chắn đã bảo vệ hoàn hảo cho các tướng sĩ Hãm Trận Doanh. Tên bắn của quân thủ quan căn bản không thể ngăn cản các tướng sĩ Hãm Trận doanh. Năm trăm tướng sĩ Hãm Trận doanh xông tới chân tường quan ải mà gần như không có bất kỳ thương vong nào.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 340: Hôm nay phá quan ải

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Leng keng leng keng leng keng!

Âm thanh lanh lảnh vang lên, từng cái thang mây một dựng vào đầu tường quan ải.

Tướng sĩ Hãm Trận doanh miệng ngậm cương đao, một tay nâng lá chắn, một tay vị thang mây trèo lên tường quan ải. Quân thủ quan Đông Ngô trên quan ải lăn cây gỗ, ném đá rơi xuống như mưa. Tướng sĩ Hãm Trận doanh trèo trên thang mây dán sát người vào thang mây sau đó nâng lá chắn làm thành một góc nghiêng, tận lực làm tản mát sức nện của gỗ, đá từ trên ném xuống nhưng vẫn có rất nhiều tướng sĩ bị nện rơi xuống chân tường, chết ngay tại chỗ.

Nhưng nhanh chóng quân Đông Ngô thủ quan phát hiện ra tướng sĩ Hãm Trận doanh không giống với quân Lương bình thường.

So với quân bộ binh bình thường của quân Lương, thể lực và khả năng chịu đựng tấn công của tướng sĩ Hãm Trận doanh là không gì sánh nổi. Nếu là quân bộ binh bình thường của quân Lương. Dưới cơn mưa gỗ, đá tên dày đặc như này thì chỉ e chúng đã sớm cởi giáp, quẳn mũ tháo lui một cách chật vật nhưng tướng sĩ Hãm Trận doanh vẫn như dính trên thang mây, coi như không có gỗ, đá, tên điên cuồng bắn xuống.

Hơn nữa thang mây của tướng sĩ Hãm Trận doanh cũng khác với thang mây của quân Lương bình thường.

Thang mây của quân Lương bình thường được dựa vào tường thành. Quân thủ quan chỉ việc dùng trường thương là có thể đẩy đổ thang mây. Thamg mây của tướng sĩ Hãm Trận

doanh lại móc vào tường thành. Trên đầu thang mây có thiết kế những móc sắt, móc chặt vào lỗ châu mai trên tường thành. Hơn mười tướng sĩ Hãm Trận Doanh bò trên một thang mây, tổng trọng lượng hơn ngàn cân, quân thủ quan rất khó có thể di rời đầu thang mây ra khỏi lỗ châu mai.

“Ngưng bắn tên” Trên tường quan ải, Lăng Thống giơ cao trường đao, hắn trầm giọng quát: “Quân cung thủ lui lại phía sau”.

Năm trăm quân cung thủ Đông Ngô trấn thủ quan ải lập tức lui lại phía sau.

“Ngưng ném gỗ, đá. Tát cả chuyển sang dùng lao” Sắc mặt Lăng Thống trở nên vô cùng đanh ác. Hắn quát to: “Bây giờ tới lượt quân Lương nếm thử mùi vị lao xuyên qua thân thể”.

Dưới chân tường quan ải.

Thừa dịp gỗ, đá từ trên tường quan ải ngừng ném xuống, tướng sĩ Hãm Trận doanh lập tức như gấu chó tỉnh lại sau giấc ngủ đông từ từ trèo lên thanh mây. nhưng vào ngay lúc đó trên tường quan ải đột nhiên xuất hiện một toán quân khinh binh Đông Ngô. Trên tay những tên khinh binh Đông Ngô này có cầm một cây lao dài, giơ lên cao.

Xích Ngục đang bò trước nhất trên thang mây thoáng rùng mình một cái, hắn lồng lộn gào lên: “Ném thuẫn đồng xuống. Bò lên trên với tốc độ nhanh nhất. Mau”.

Lũ thổ cẩu Đông Ngô đáng chết. Chúng lại học được cách xử dụng lao.

Dưới đòn đâm của mũi lao sắc bén, chắc chắn những chiếc thuẫn đồng không chịu nổi một đòn, áo giáp dầy cộm cũng sẽ bị xé toạc. Hiện tại tướng sĩ Hãm Trận doanh chỉ có thể thi với thời gi­an. Xông lên đi. Nhất định phải xông lên với tốc độ nhanh nhất. Năm trăm tướng sĩ Hãm Trận doanh đầu tiên hy sinh thân mình vọt lên trên tường thành sau đó bảo vệ một đoạn tường thành để đội thứ hai của tướng sĩ Hãm Trận doanh xông lên giải quyết chướng ngại vật.

“Ngao a…”

Xích Ngục vừa ra lệnh một tiếng. Năm trăm tướng sĩ Hãm Trận doanh đồng loạt ném thuẫn đồng trong tay xuống rồi dùng cả chân, tay trèo lên thang mây.

Nhưng vào lúc này Lăng Thống vừa mới ra lệnh một tiếng. Hàng loạt lao từ trên tường quan ải gào theo lao xuống dưới. Mười mấy tên lính Hãm Trận doanh sông lên trước nhất trong khoảnh khắc đã bị những ngọn lao xe rách áo giáp, xuyên qua lồng ngực. Cũng có những tên lính không may bị lao xuyên qua đầu, rú lên thảm thiết rơi xuống chết ngay lập tức.

Các tướng sĩ Hãm Trận doanh thân kinh bách chiến đương nhiên sẽ không bị cái chết hù dọa. Thừa dịp khoảng trống ccủa đợt công kích thứ hai ngắn ngủi, càng gia tăng tốc độ trèo lên. Rồi bỗng nhiên đã chạm tới đầu tường quan ải. Xích Ngục bò trước tiên là người nhảy lên trên tường quan ải. Trảm mã đao trong tay hắn thuận thế phạt ngang một đường. Ba tên lính Đông Ngô lập tức đã bị chém thành sau mảnh.

Theo sát Xích Ngục là hai tên thân binh cũng nhân tình thế trèo lên tường quan ải. Cây đại kỳ được cuốn lại trong tay chúng được cắm xuống mặt tường thành quan ải. Cây huyết sắc đại kỳ lập tức no gió tung bay. Trên mặt cờ có một chữ “Lương”.

Hậu trận quân lương.

Một tên Thiên tướng hưng phấn nhìn Cao Thuận nói: “Tướng quân mau nhìn, đại kỳ, đại kỳ của quân ta đã bay trước mặt”.

“Ha ha ha…” một tên Thiên tướng khác cũng cười to nói: “Ải Thanh Ngưu đã bị Hãm Trận doanh đánh chiếm”.

Chỉ có sắc mặt Cao Thuận vẫn bình thản, không buồn, không vui.

Lúc này cuộc huyết chiến mới thực sự bắt đầu. Đương nhiên cuối cùng Hãm Trận doanh vẫn có thể công chiếm ải Thanh Ngưu. Nhưng hiện tại nói đã công chiếm được ải Thanh Ngưu thì e vẫn còn quá sớm. Cuộc phản công của Lăng Thống vẫn chưa bắt đầu.

“Hống hống hống…”

Nhìn thấy cây đại kỳ của quân mình đang tung bay trước mặt, sĩ khí của các thê đội phía sau quân Hãm Trận doanh lên cao, tất cả đều gia tăng bước chạy. Trái lại sĩ khí của quân Ngô trên quan ải bị giảm sút nghiêm trọng, tất cả vô cùng hoảng sợ nhìn chung quanh, tốc độ ném lao xuống dưới chậm hơn rất nhiều. Lăng Thống nhìn thấy quân Ngô sắp sụp đổ, hắn quơ lấy cây trường đao đánh tới cây đại kỳ đang tung bay trước mặt.

“Giết!”

Xích Ngục hét to một tiếng. Hắn vung cao Trảm mã đao đánh xuống đầu Lăng Thống.

Lăng Thống gào lên một tiếng, cây trường đao trong tay hắn chém ngang, nặng nề đạp vào Trảm mã đao của Xích Ngục. Chỉ nghe ‘cạch” một tiếng, Trảm mã đao của Xích Ngục đã bị đẩy bắn ra, thân hình khổng lồ của Xích Ngục cũng bị đẩy lùi lại sau mấy bước, suýt nữa hắn ngã lộn cổ xuống từ trên tường quan ải. Lăng Thống ra tay không chút lưu tình. Cây trường đao trong tay hắn lăng không quay ngược trở lại chém vào cây huyết sắc đại kỳ đang tung bay trước gió.

“Ngăn cản hắn” Xích Ngục gào lên một tiếng thê lương. “Tuyệt đối không để cho hắn chặt đứt cây đại kỳ”.

Hai tên tử sĩ Hãm Trận doanh gào lên một tiếng vọt tới chỗ Lăng Thống. Hai thanh Trảm mã đao sắc bén chém lên trong không trung, mang theo tiếng rít vèo vèo. Lăng Thống không khỏi rùng mình, chỉ là hai tên lính bình thường mà đã có sát khí như vậy. Hãm Trận doanh quả thực danh bất hư truyền.

Thế nhưng chỉ dựa vào điểm này mà muốn ngăn cản mình thì quả thực quá sai lầm rồi.

“Muốn chết!”

Lăng Thống hét to một tiếng. Cây trường đao trong tay hắn chuyển ngược lại. Hai tên tử sĩ Hãm Trận doanh bị chém chết ngay tại chỗ. Xích Ngục lúc trước mới bị đánh lui lại lập tức quơ Trảm mã đao, hung hãn không sợ chết vọt tới, hắn lại bị Lăng Thống tung chân đá bay, ngay khi người ở trên không trung chưa kịp rơi xuống đất, Lăng Thống đã dậm chân xông tới, một đao chém Xích Ngục thành hai mảnh. Hai tên tử sĩ Hãm Trận doanh bảo vệ cây đại kỳ biết chắc mình sẽ phải chết nhưng vẫn dũng cảm đón nhận, tiến lên nghênh đón Lăng Thống.

Nhưng cuối cùng hai tên tử sĩ Hãm Trận doanh vẫn không thể nào cứu được vận mệnh của cây đại kỳ.

Lăng Thống tung chân đá bay hai tên lính, cây trường đao vung lên, cây huyết sắc đại kỳ đã bị chém thành hai mảnh. Lá cờ dừng lại trên không trung rồi sau đó từ từ rơi xuống đất.

Cây đại kỳ bị chém đỏ, tinh thần của tướng sĩ Đông Ngô trên quan ải lên cao. Thế công của tướng sĩ Hãm Trận doanh lập tức bị đẩy lùi.

Long Trung, bắc thành Tương Dương.

Tào Tháo dẫn theo Tàng Phách, Trương Liêu xuất hiện ở một khu rừng trúc. Tàng Phách vừa đi vừa bất mãn nói với Tào Tháo: “Gia Cát Lượng này chỉ là một sĩ tử không có danh tiếng. Chúa công có cần thiết phải ba lần tự mình tới thỉnh mời không? Nghe nói Sái Mạo tướng quân là tỷ phu của Gia Cát Lượng. Sao chúa công không để Sái Mạo tướng quân ra mặt mời, như vậy không phải bớt phiền phức sao?”

“Tuyên Cao có điều không biết” Tào Tháo lắc đầu nói: “Phàm là kỳ nhân dị sĩ đều có tính cách cổ quái. Sĩ Nguyên có nói tính cổ quái của Gia Cát Lượng này là chỉ thích hư danh. Nếu như Cô không ba lần tới tận đây mời, vô luận là gì hắn cũng sẽ không rời núi. Cho dù Sái Mạo tướng quân ra mặt mời thì chỉ e cũng hắn đồng ý ra sức giúp Cô”.

Trương Liêu nói: “Chỉ e là Gia Cát Lượng này không có chân tài thực học”.

Tào Tháo nói: “Cô tin tưởng con mắt nhìn người của Sĩ Nguyên”.

Tàng Phách nói: “Chúa công, phía trước là nhà tranh của Gia Cát Lượng, để mạt tướng lên trước gõ cửa”.

“Tuyên Cao không thể lỗ mãng” Tào Tháo vội la lên: “Để Cô tự mình tới gõ cửa”.

Ngư Phúc Phổ, quân trướng của Trương Nhiệm.

Ngô Lan bước nhanh vào trướng, nhìn Trương Nhiệm nói: “Tướng quân, đã thăm dò rõ ràng”.

“Hả?” Trương Nhiệm vội la lên: “Đã xảy ra chuyện gì?”

Ngô Lan nói: “Tiểu tử Trương Dực này khi dò la tin tức phục kích một đội quân Tào, không ngờ đó là đội thân binh của Tào Tháo. Kết quả mưu sĩ thân tín dưới trướng Tào Tháo là Bàng Thống, Đại tướng cùng họ là Tào Hồng, Tào Hưu cũng chết dưới loạn đá, suýt chút nữa còn giết chết Tào Tháo”.

Trương Nhiệm hỏi: “Vậy còn Trương Dực? Có biết tung tích của Trương Dực và ba mươi tướng sĩ ở đâu không?”

Ngô Lan buồn rầu nói: “Toàn bộ đã chết trận”.

“Ai”.

Trương Nhiệm thở dài im lặng.

Long Trung, nhà tranh.

Gia Cát Lượng chắp tay thi lễ thật sâu với Tào Tháo, hắn cao giọng nói: “Được Tào công yêu mến không chê, Lượng xin ra sức khuyển mã”.

“Cô được Khổng Minh trợ giúp, đại sự tất thành” Tào Tháo vỗ tay cười to rồi hỏi: “Chẳng hay Khổng Minh có thượng sách nào giúp Cô lấy được Vĩnh An không?”

Gia Cát Lượng lắc đầu nói: “Vĩnh An dễ lấy, Tây Xuyên khó hạ”.

Tào Tháo nói: “Lời ấy có ý gì?”

Gia Cát lượng nói: “Lượng có một kế có thể giúp chúa công lấy Vĩnh An nhưng muốn lấy Tây Xuyên thì vô cùng khó khăn”.

Tào Tháo nói: “Tại sao lại như vậy?”

“Đường Thục hiểm trở khó đi, dễ thủ khó công. Theo như Lượng thấy không giống như vùng đồng bằng. Tuy có thể phá như lật bàn tay, nhưng…” Gia Cát Lượng chuyển giọng nói tiếp: “Sau khi Mã đồ phu bình định Tây Xuyên, hắn thực hiện sách lược người Xuyên trị người Xuyên, rất được sĩ tộc Tây Xuyên bản địa ủng hộ. Trong khi đó thế lực sĩ tộc Đông Châu sĩ đã bị nhổ tận gốc. Lúc này có thể nói sĩ tộc Tây Xuyên đồng lòng quy thuận, trăm họ vui mừng, ba quân tướng sĩ hàng phục. Nếu như bây giờ chúa công dẫn quân phạt Xuyên, sĩ tộc Xuyên Trung, dân chúng, binh lính nhất định sẽ phản kháng tới cùng. Hơn nữa Trương Tùng, Phí Thi, Vương Luỹ đều là những người có trí mưu. Trương Tú, Trương Nhiệm đều là mãnh tướng bách chiến, lại còn mười vạn quân của Từ Hoảng ở Nam Dương, thèm thuồng nhòm ngó Kinh Châu. Quân ta đầu đuôi đều khó khăn, sao có thể thắng được?’

Tào Tháo cau mày nói: “Lúc này nếu không lấy Tây Xuyên, đợi khi cuộc chiến Hoài Nam kết thúc, khi đó vô luận là Mã đồ phu thắng hau thua. Cô sẽ không còn cơ hội dẫn quân vào Xuyên nữa. Nếu Cô không lấy được Tây Xuyê, Kinh Châu bốn bề thọ địch thì sao có thể chống lại đại quân Tây Lương của Mã đồ phu”.

Gia Cát Lượng nói: “Bây giờ không phải là lúc phạt Xuyên”.

Tào Tháo nói: “Vậy phải đợi tới khi nào?”

Gia Cát Lượng nói: “Nếu như Lượng đoán không lầm thì cuộc chiến Hoài Nam này quân Ngô tất bại. Tuy Chu Du dụng binh lợi hại, thậm chí có thể được xưng tụng thiên hạ vô địch hiện nay, thực lực quân Ngô và quân Lương thua sút nhau quá xa. Hơn nữa Mã đồ phu thân kinh bách chiến, lại có Giả Hủ, Khoái Việt, Lỗ Túc là những người mưu trí trợ giúp. Chu Du rất khó có thể tìm được cơ hội dùng kỳ kế. Quân Ngô tuyệt đối sẽ không thể thay đổi được cán cân lực lượng như hiện nay vì vậy quân Ngô sẽ bại”.

Tào Tháo cau mày nói: “Nếu quân Ngô bại, không phải tất cả Gi­ang Đông sẽ thuộc về Mã đồ phu sao?”

“Cũng không phải vậy” Gia Cát Lượng lắc đầu nói: “Quân Đông Ngô có ưu thể tuyệt đối về thuỷ quân, Thọ Xuân lại nối liền với sông Hoài vì vậy quân Đông Ngô tuy thất bại nhưng vẫn có thể ung dung rút về Gi­ang Đông. Tuy Mã đồ phu có được vùng Hoài Nam nhưng vì sông Trường Gi­ang hiểm trở ngăn cản nên hắn muốn tập kích bất ngờ đánh chiếm bốn quận Gi­ang Đông cũng vô cùng khó khăn. Ít nhất cũng phải mất mười năm nữa thì mới có thể”.

Tào Tháo nói: “Nói tiếp đi”.

Gia Cát Lượng nói tiếp: “Mã đồ phu mới được Hoài Nam, tất cần hai năm để nghỉ ngơi và hồi phục. Đương nhiên hắn sẽ xuôi nam với quy mô lớn thảo phạt Kinh Tương, hắn muốn trước tiên tiêu diệt chúa công sau đó mới diệt Tôn Quyền. Lúc này chúa công hãy liên kết với Tôn Quyền, lợi dụng thuỷ quân và sông Trường Gi­ang hiểm trở ngăn cách giằng co cùng với quân Lương. Chờ khi tiết trời chuyển sang nóng bức, Lượng sẽ có một kế làm quân Lương đại bại. Khi đó liên quân thừa dịp truy kích, tất thu được toàn thắng”.

Tào Tháo nghiêm nghị hỏi: “Vậy sao?’

Gia Cát Lượng nói: “Một khi thất bại, quân Lương tất tổn thương nguyên khí nặng nề. Các châu dưới trướng trị vì của Mã đồ phu như: Ích, Từ, Duyện, Dự, Ký, Thanh, U cùng các châu mới quy hàng tất sinh lòng khác. Lúc này chúa công sẽ dẫn quân phạt Xuyên. Cho tới hiện tại chúa công nhất quyết không thể phạt Xuyên để tránh hao tổn binh lực. Lúc này cần chế tạo chiến thuyền, tinh luyện thuỷ quân đợi hai năm nữa sẽ quyết chiến một trận”.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 341: Cô sẽ đích thân tới trước trận

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Trên Thanh Ngưu quan.

Lăng Thống cả người đẫm máu, tay cầm trường đao đứng ngạo nghễ. Ở trước và sau Lăng Thông, đã đông nghịt hãm trận tử sĩ, mấy chục cây trường mâu đã hoàn toàn chặn kín lối đi của hắn, mũi thương sắc bén cơ hồ đã chạm lên người hắn.

Dưới Thanh Ngưu quan, cửa quan đóng chặt đã mở ra, từng đội từng đội Tây Lương thiết kỵ đang từ cửa quan hung dũng phi qua.

Trên khuôn mặt trẻ tuổi của Lăng Thống không khỏi hiện lên một tia ảm đạm, hắn đã tận lực rồi, nhưng Thanh Ngưu quan… vẫn bị hãm trận doanh công phá. Sơn việt tinh binh được cho là kiêu ngạo nhất của quân Đông Ngô cuối cùng cũng không ngăn cản được sự tiến công của hãm trận tử sĩ. Thần thoại không chỗ nào là không công phá được của hãm trận doanh vẫn được tiếp tục. Bắt đầu từ bây giờ, từ Nhãn Nam tới Lư Gi­ang sẽ không còn chỗ nào có thể thủ. Mười vạn đại quân của Cao Thuận có thể tiến quân thần tốc, tiến thẳng tới Lư Gi­ang!

“Chúa công…” Lăng Thống đột nhiên ngẩng mặt lên trời gọi dài: “Mạt tướng khiến người thất vọng rồi!”

“Phốc phốc phốc…”

Trong tiếng lưỡi dao sắc bén xé tan cốt nhục, mấy chục thanh trường mâu sắc bén cơ hồ là đông thời đâm vào trong cơ thể của Lăng Thống. Thân thể trẻ tuổi của Lăng Thống co giật kịch liệt mấy cái, có tia máu màu đỏ thuận theo khóe miệng của hắn chảy xuống. Hai mắt vốn đang sáng quắc cũng từ từ ảm đạm. Khi đầu của hắn vô lực ngẹo sang một bên thì dư quang ở khóe mắt cũng nhìn thấy một viên đại tướng một tay chậm rãi bước lên thành lầu.

Cao Thuận vừa lên tới thành lâu thì có tiểu giáo của quân Lương vội vã bước lên trước bẩm báo: “Tướng quân, tàn binh của quân Ngô đã bị quét sạch toàn bộ rồi!”

“Ừ!” Cao Thuận gật đầu, trầm giọng nói: “Người đâu!”

“Tướng quân có gì phân phó?”

Sớm đã có thân binh bước lên nghe lệnh.

Cao Thuận cao giọng nói: “Lập tức dùng khoái mã tám trăm dặm truyền tin cho chúa công, tả lộ đại quân đã công phá Thanh Ngưu quan, ít ngày nữa sẽ tới nam độ sông Hoài, trong vòng nửa tháng lền có thể vu hồi tới một giải Hợp Phì, cắt đứt hậu lộ của quân Ngô.”

“Tuân lệnh.”

Thân binh lĩnh mệnh mà đi.



Thọ Xuân.

Bóng đêm phủ xuống, một đội xe ngựa nối đuôi nhau đang lặng lặng dừng lại trên vùng hoang vu. Gần đội xe có từng đống từng đống lửa trại đang rực cháy, Lương Châu binh phụ trách áp giải đội xe đang ngồi túm năm tụm ba cạnh lửa trại, vừa ăn lương khô vừa kể cho nhau nghe những câu chuyện cười thô tục. Trong đám người thỉnh thoảng lại nổ ra những tiếng cười ròn tan, rồi truyền đi rất xa trong bầu trời đêm yên tĩnh.

Trong một mảng cỏ lau ở ngoài trăm bước, đang có một đôi mắt âm lãnh nhìn chằm chằm không chớp mắt vào đội xe.

Gió đêm thỏi bụi co lau đung đưa, phát ra tiếng xào xạc. Dưới ánh trăng, trong bụi cỏ lau đang đung đưa đột nhiên có thân ảnh đen xì chui ra như quỷ mị, sau đó nhanh chóng tỏa ra trên vùng hoang dã, từ bốn phương tám hướng vây về phía đội xe. Binh sĩ Tây Lương đang ngồi quanh lửa trại vui vẻ nói chuyện căn bản không ngờ rằng vùng hậu phương cách xa tiền tuyền lại có thể gặp phải sự phục kích của quân địch, do đó căn bản không có bất kỳ một sự phòng bị nào.

“Toa toa!”

Trong tiếng phá không thanh lệ, hai binh sĩ gác đêm được bố trí xung quanh doanh vô thanh vô tức ngã xuống, hai mũi tên sắc bén đã chuẩn xác bắn xuyên yết hầu của họ. Cho tới lúc chết bọn họ cũng không phát ra được bất kỳ một thanh âm nào, cho tới khi đám bóng đen tới gần doanh trại trong vòng ba mươi bước thì một sĩ binh Lương quân đang đi tiểu mới đột nhiên gào to: “Địch tập, ặc…”

Đáng tiếc rằng sĩ binh mới chỉ kịp hét lên nửa tiếng thì đã trúng tên rồi ngã gục trong vũng máu.

“Giết giết giết…”

Trong tiếng hò hét như thủy triều, vô số bóng đen từ trong màn đêm nhảy ra, vung vẩy cương đao sáng loáng từ bốn phương tám hướng giết tới. Đội vận lương của quân Lương không kịp đề phòng, lại thêm ít người nên rất nhanh đã bị giết sách.



Đại doanh của quân Lương.

Mã Dược bị Điển Vi từ trong mộng lay dậy: “Chúa công, quân sư và Lý Túc tiên sinh ở ngoài trước cầu kiến.”

“Văn Hòa, Tử Nghiêm ư?” Mã Dược ngáp một cái, xoay người ngồi dậy, nói: “Mau bảo bọn họ vào.”

Điển Vi vâng lệnh ra khỏi trướng, một lát sau, Giả Hủ, Lý Túc cùng nhau bước vào, không đợi Mã Dược hỏi, Giả Hủ đã chắp tay nói: “Hủ và Tử Nghiêm đêm khuya làm phiền, xin chúa công thứ tội.”

“Ài.” Mã Dược xua tay nói: “Nhưng lời khách sáo này không cần phải nói đâu, Văn Hòa mau nói ra đi, đã xảy ra chuyện gì rồi?”

Giả Hủ nói với Lý Túc: “Hay là Tử Nghiêm nói cho chúa công nghe đi.”

Lý Túc gật đầu, nói: “Chúa công, chuyện là thế này, vừa nhận được khoái mã cấp báo của Trương Yên tướng quân, lại có một đội vận lương gặp tập kích của quân Ngô ở nửa đường, lương thảo áp vận bị cướp hết rồi. Gần nửa tháng nay, đã có sáu đội vận lương bị quân Ngô phục kích. Ngoài ra tả quân đại doanh cũng ba lần gặp phải sự tập kích của quân Ngô vào nửa đêm, không ít tướng sĩ chết trận.”

Mã Dược hỏi: “Phái kỵ binh ra chưa?”

Lý Túc đáp: “Phái rồi, có điều khi kỵ binh đội tới nơi thì hiện trường sớm đã không thấy bóng dáng của quân Ngô, tại hạ hoài nghi quân Ngô có thể là thuận theo đường thủy mà rút.”

“Không phải có thể, mà là chắc chắn!” Giả Hủ sửa lại: “Nếu không phải là từ đường thủy mà tới, lại từ đường thủy mà đi, quân Ngô căn bản không thể thâm nhập tới sườn sau của quân ta được, càng không thể thoát khỏi sự truy sát của kỵ binh đội! Mà quan trọng là trong phạm vi mấy trăm dặm của nơi đây đầy kênh rạch, hồ nước chằng chịt, ở giữa còn có cỏ lau mọc thành bụi, mấy vạn quân Ngô chia nhỏ ra trốn ở trong đó, quân ta căn bản là khó mà phát hiện ra được.”

Ánh mắt của Mã Dược lập tức biến thành ngưng trọng, nếu không thể ngăn chặn được sự quấy nhiễu của quân Ngô, đối với quân Lương mà nói không nghi ngờ gì nữa là cực kỳ bất lợi.

Giả Hủ gọi Mã Dược, Lý Túc bước tới trước bình phong, sau đó chỉ vào bản đồ, nói: “Chúa công, Tử Nghiêm, các người nhìn đi, qua đối chiếu, quân Ngô mấy lần đánh lén đội vận lương và dạ tập quân doanh đều có một đặc điểm, không phải là dựa vào hai bờ Dĩnh Thủy thì cũng là phụ cận có hồ nước. Cho nên, tại hạ dám khẳng định rằng quân Ngô nhất định là từ đường thủy mà vu hồi tới.”

“Phải nghĩ ra biện pháp.” Mã Dược trầm giọng nói: “Nếu không, quân ta sẽ mệt mỏi vì phải ứng phó với chúng.”

Lý Túc nói: “Hay là… chặn sông ngăn nước.”

“Cái này thì không thể.” Mã Dược lắc đầu nói: “Có điều, nhờ Tử Nghiêm nói vậy, cô lại nhớ tới một chuyện. Đó là chuyện của vào năm Trung Bình, cô và tám trăm huynh đệ dưới trướng để giữ mạng đành phải chạy quanh các nơi trong quận Nam Dương. Kết quả Dị Độ (Khối Việt) hiến một kế cho Viên Thuận. Thế là cô và tám trăm huynh đệ chỉ có thể chán nản chạy tới Dĩnh Xuyên. Hiện tại, hoàn toàn có thể sử dụng kế năm đó của Dị Độ để đối phó với sự quấy nhiễu của thủy quân Đông Ngô.”

“Ồ!” Giả Hủ vui mừng nói: “Là diệu kế gì vậy?”

Mã Dược nói: “Đó là ở gần hồ nước, đường sông xây dựng phong hỏa đài, một khi phát hiện thủy quân của Đông Ngô ẩn hiện, lập tức đốt lửa làm hiệu, kỵ binh đang tuần tra ở phụ cận lập tức chạy tới truy sát. Một khi như vậy, bất kỳ hành động của thủy quân Đông Ngô cũng không thoát khỏi tầm mắt của quân Ta. Kỵ binh tuần tra của quân ta lại có phản ứng trước, sau mấy lần thất lợi, thủy quân Đông Ngô tự nhiên sẽ lui.”

“Kế này quả nhiên là tuyệt diệu!” Lý Túc nói: “Có điều, nếu xây dựng phong hỏa đài ở phụ cận tất cả các hồ nước, đường sông thì lượng công trình e rằng là không nhỏ, ít nhất cũng phải cần hai, ba tháng thời gi­an!”

“Vậy cũng không cần.” Giả Hủ nói: “Cái gọi là phong hỏa đài là một loại sách lược, không phải là thật sự phải xây dựng phong hỏa đài.”

“Không sai.” Mã Dược nói: “Lúc đó Dị Độ cũng không thực sự xây dựng phong hỏa đài, chỉ phái binh dựng mấy chồng củi ở các nơi hiểm yếu mà thôi.”

“Hiểu rồi.” Lý Túc nói: “Đây cũng quả thực là một biện pháp hay vừa nhanh lại vừa hữu hiệu.”

Mã Dược vui vẻ nói: “Tử Nghiêm, vậy chuyện này gi­ao cho ngươi nhé.”

Lý Túc ôm quyền nói: “Tại hạ lĩnh mệnh.”



Ba ngày sau.

Thọ Xuân. Trung quân đại trướng của Chu Du.

Chu Thái, Từ Thinh, Đinh Phụng, Tôn Giảo bốn tướng cùng nhau bước vào, tạ tội với Chu Du: “Đại đô đốc, bọn mạt tướng vô năng, khiến ngài phải thất vọng.”

“Ha ha.” Chu Du cười nói: “Chẳng phải chỉ là bại mấy trận, hao tổn hơn hai ngàn thủy quân thôi sao. Cái này gọi là thắng bại là chuyện thường của binh gia, bốn vị tướng quân không cần phải như vậy.”

Bốn tướng bọn Chu Thái mặt lộ ra vẻ xấu hổ, ôm quyền nói: “Đa tạ đại đô đốc khoan hồng độ lượng.”

Chu Du nói: “Bốn vị tướng quân chịu nhiều vất vả rồi, lui xuống nghỉ ngơi đi đã.”

“Tại ơn đại đô đốc.”

Bọn Chu Thái ôm quyền vái một cái rồi xoay người rời đi.

Sau khi bốn tướng rời đi, sắc mặt của Chu Du dần dần trở nên ngưng trọng, nhìn ba người Từ Thứ, Lữ Mông, Lục Tốn, nói: “Không ngờ Mã đồ tể lại dùng cách phong hỏa truyền tin để hóa giải kế sách quấy nhiễu của quân ta, không hổ là Mã đồ tể.”

Từ Thứ nói: “Kế sách quấy rối một khi mất linh, quân ta lại phải thủ ở Thọ Xuân tới tháng sáu, vậy thì càng thêm khó khăn.”

“Không hẳn.” Chu Du cao giọng nói: “Hiện tại đã là trung tuần tháng ba rồi, qua hơn hai tháng nữa là vào mùa mai vàng rồi. Mà quân Lương muốn trong vòng hơn hai tháng công phá Thọ Xuân thì tuyệt không có khả năng.

“Báo…” Chu Du vừa dứt lời. Hoàng Cái đột nhiên vội vã bước vào, hổn hển nói: “Đại đô đốc, không ổn rồi!”

Chu Du nhíu mày nói: “Lão tướng quân cớ sao lại kinh hoàng như vậy?”

Hoàng Cái nói: “Lăng thống thiếu tướng quân đã chiến tử, tả lộ đại quân của Cao Thuận đã công phá Thanh Ngưu quan. Hiện tại đang xây cầu chuẩn bị qua sông ở một giải Quang Châu, Cố Thủy!”

“Hả? Thanh Ngưu quan đã thất thủ rồi ư?” Lữ Mông thất thanh nói: “Lần này hỏng bét rồi!”

Hoàng Cái nói: “Đại đô đốc, xem ra phải bảo chủ lực thủy quân thuận sông mà lên, chặn không cho đại quân của Cao Thuận qua sông thôi!”

“Đã không kịp nữa rồi!” Chu Du trầm giọng nói: “Đợi chủ lực thủy quân tới được một giải Quang Châu, Cố Thủy thì e rằng mười vạn đại quân của Cao Thuận sớm đã qua được sông Hoài rồi. Hơn nữa hiện tại điều chủ lực thủy quân theo sông Hoài mà lên, rất dễ để lộ bí mật của bến Duyên Phong. Bí mật của bến Duyên Phong một khi bị lộ, vậy thì Hoài Nam chi chiến không còn cần phải đánh tiếp nữa làm gì!”

Hoàng Cái nói: “Vậy hiện tại phải làm sao?”

“Chưa tới thời khắc cuối cùng, tuyệt không được tùy tiện vứt bỏ!” Trong mắt Chu Du lóe lên vẻ kiên nghị, nói với Hoàng Cái: “Lão tướng quân, hiện tại chỉ có thể dựa vào ngài thôi.”

Hoàng Cái ôm quyền, nghiêm nghị nói: “Đại đô đốc cứ sai báo, mạt tướng dù muôn lần chết cũng không chối từ!”

Chu Du chỉ vào địa đồ, nói với Hoàng Cái: “Mời lão tướng quân nhìn, Thanh Ngưu quan một khi thất thủ, mười vạn đại quân của Cao Thuận sẽ có thể từ bên sườn Tây Nam vu hồi ra sau sườn Thọ Xuân. Một khi để đại quân của Cao Thuận tới được dưới thành Thọ Xuân hình thành thế nam bắc giáp kích cùng với đại quân của Mã đồ tể, vậy hình thế của quân ta sẽ nguy như chồng trứng sắp đổ. Cho nên, lão tướng quân nhất định phải thủ vững tấm bình phong cuối cùng giữ Lư Gi­ang và Thọ Xuân là Hợp Phì!”

Hoàng Cái ầm ầm vâng lệnh: “Xin đại đô đốc yên tâm, mạt tướng quyết không nhục mệnh.”

“Quân ta binh lực không nhiều, do đó, bản đô đốc chỉ có thể cấp cho lão tướng quân tám ngàn bộ binh!” Chu Du nói tới đây thì ngừng lại, mắt lộ ra vẻ nghiêm nghị, hỏi Hoàng Cái: “Lão tướng quân có lòng tin thủ được Hợp Phì hai tháng không?”

Hoàng Cái đáp: “Mạt tướng nhất định sẽ tận hết sức để thủ.”



Thành bắc Thọ Xuân, trung quân đại trướng của Mã Dược.

Điền Dự dẫn Mao Gi­ai, Tân Minh, Tô Do, Trương Nam bốn tướng mặt đầy vẻ xấu hổ, đột nhiên quỳ xuống đất, ôm quyền nói: “Thừa tướng, bọn mạt tướng vô năng, không thể trong vòng nửa tháng công phá Thọ Xuân, xin nhận quân pháp.”

“Ha ha.” Mã Dược mỉm cười, bước lên trước đỡ bọn chư tướng Điền Dự dậy, cao giọng nói: “Thắng bại là chuyện thường, chư vị tướng quân không cần phải như vậy, mau đứng dậy đi.”

Điền Dự ngạc nhiên nói: “Thừa tướng, mạt tướng từng hạ quân lệnh trạng…”

Mã Dược lắc đầu nói: “Quốc Nhượng không biết rồi, cái gọi là quân lệnh trạng chỉ là thủ đoạn kích lệ ba quân mà thôi, chứ không phải là mục đích. Giờ công thành đã gặp bất lợi, vậy thì nên tổng kết giáo huấn hòng lấy lại danh dự, chứ chẳng lẽ lại có cái lý thật sự chém tướng trước trận ư?”

Điền Dự cúi đầu nói: “Thừa tướng!”

Ở sau Diền Dự, Tân Minh, Tô Do, Trương Nam, Mao Gi­ai bốn tướng mặt đều lộ ra vẻ cảm kích.

“Thừa tướng!” Đang nói chuyện thì Lỗ Túc, Khoái Việt đột nhiên hưng phấn bừng bừng xông vào, ôm quyền kích động nói: “Thừa tướng, hai mươi chiếc xe công thành đầu tiên đã hoàn thành rồi!”

“Ồ!” Mã Dược vui vẻ nói: “Tốt quá rồi!”

Nói xong, Mã Dược liền bảo với Điền Dự: “Điền Dự tướng quân, có muốn lấy lại danh dự không?”

Điền Dự đứng dậy, ngạo nghễ nói: “Nằm mơ cũng muốn!”

“Được!” Mã Dược quát: “Đợi ngày mai… cho xe công thành ồ ạt công thành, cô sẽ tự mình tới trước trận, đánh trống trợ uy cho ba quân!”

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 342: Giết lên đầu thành Thọ Xuân (1)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Long Trung, nhà tranh của Khổng Minh.

“Khổng Minh, chuyện ở Tây Xuyên là vì tình thế bắt buộc!” Tào Tháo trầm giọng nói: “Ngươi cho rằng Vĩnh An dễ hạ, Tây Xuyên khó thủ, cô lại cho rằng Vĩnh An khó hạ, Tây Xuyên dễ thủ, chỉ cần Khổng Minh ngươi có thể giúp cô đánh hạ Vĩnh An, cô liền có mười phần nắm chắc nhập chủ được Tây Xuyên! Một khi Tây Xuyên tới tay, cô liền có thể dựa vào chỗ hiểm yếu mà thủ, tiến có thể công, lui có thể thủ, đứng vào thế bất bại.”

Gia Cát Lượng nhíu mày nói: “Thế nhưng…”

Tào Tháo xua xua tay ngắt lời Gia Cát Lượng, nói: “Nếu đợi tới khi Hoài Nam chi chiến Mã đồ tể đánh bại của Tôn Quyền, vậy thì cô sẽ không còn cơ hội nhập Xuyên nữa rồi! Không Minh cho rằng, sau khi đánh bại Tôn Quyền, Mã đồ tể sẽ dẫn hết cả trăm đại quân ập tới Kinh Tương, song đây dẫu sao chỉ là một loại khả năng. Vạn nhất Mã đồ tể áp dụng sách lược đao cùn cắt thịt, bằng vào nhân lực, vật lực hùng hậu từ từ gặm nhấm Kinh Châu, cô nên ứng phó thế nào đây?”

Gia Cát Lượng nói: “Chúa công, đó là điều không có khả năng.”

“Không Minh?” Tào Tháo lại xua tay, ngắt lời: “Ý cô đã quyết, Tây Xuyên cô phải lấy cho bằng được, hiện tại ngươi đừng ngại nói với cô, nên làm thế nào mới hạ được Vĩnh An?”

“Ài.” Gia Cát Lượng có chút mất mát thở dài một hơi, nói: “Được rồi, tại hạ trước tiên muốn hỏi thừa tướng, nếu muốn công đánh Vĩnh An, khó khăn lớn nhất là gì?”

Tào Tháo đáp không cần suy nghĩ: “Dịch đạo của Gi­ang Tả quá hiểm trở, khó mà đi qua được.”

Gia Cát Lượng nói: “Chúa công có muốn đi vòng hay không?”

“Đi vòng?” Tào Tháo lắc đầu nói: “Cái này không thể, từ Gi­ang Lăng tới Vĩnh An chỉ có một dịch dạo này thôi, đi vòng thế nào được?”

Gia Cát Lượng nói: “Dịch đạo đã không thông, chúa công cớ sao không đi sơn lộ.”

“Đi sơn lộ?” Tào Tháo nhíu mày nói: “Trước tiên không nói là có sơn lộ thông tới Xuyên Trung hay không, cho dù là có, binh sĩ có lẽ còn có thể đi qua, nhưng đồ quân nhu, lương thảo thì vận chuyển thế nào đây? Không có lương thảo, quân nhu thì đại quân tiến tới Tây Xuyên há chẳng phải là tự chuốc lấy diệt vong à?”

“Ha ha.” Gia Cát Lượng mỉm cười nói: “Lượng sở dĩ nói lấy Vĩnh An dễ, đáp án chính là ở đây.”

Tào Tháo không hiểu, hỏi: “Lời này có ý gì?”

Gia Cát Lượng nói: “Lượng có một kế, gọi là mộc ngưu lưu mã, có thể giúp chúa công từ sơn lộ vận chuyển lương thảo, quân nhu.”

“Mộc ngưu lưu mã?” Tào Tháo bối rối nói: “Cô chưa từng nghe thấy, không biết đó là vật gì?”

Gia Cát Lượng mỉm cười, nói: “Mời chúa công đi theo Lượng.”

NÓi xong, Gia Cát Lượng dẫn Tào Tháo tới hậu viện. Ở hậu viện bày một thứ rất kỳ quái, nói nó là trâu thì rõ ràng là chỉ có ba chân, có một chân còn là bánh xe. Nói nó là xe thì nó lại chỉ có một bánh xe. Tào Tháo thấy vậy thì rất thất vọng, chỉ vào thứ đó rồi nói với Gia Cát Lượng: “Đây chính là mộc ngưu lưu mã mà Khổng Minh nói ư? Không biết có tác dụng gì?”

Gia Cát Lượng mỉm cười, nói: “Chúa công đừng xem thường nó, chỉ cần là nơi mà binh sĩ có thể đi qua thì nó cũng có thể đi qua, mà có thể thồ được trọng lượng lớn hơn nhiều so với trọng lượng mà hai vai sĩ binh có thể mang. Có nó, chúa công có thể thông qua sơn lộ mà dễ dàng vận lương thảo và quân nhu vào Tây Xuyên. Một khi như vậy, sự hiểm trở của dịch đạo Gi­ang Tả không công cũng tự phá.”

“Thật ư?” Tào Tháo không tin, nói: “Vật này thật sự thần kỳ như vậy ư?”

Gia Cát Lượng mỉm cười không nói gì, bước lên trước hai bước nhấc càng xe, khiến hai cái chân chống ở dưới càng xe nhấc lên không. Sau đó đẩy chiếc xe một bánh ra hậu viện, đầu tiên là dễ dàng đi qua cây cầu một cột, sau đó thì thuận theo con đường gồ ghề ở đi ở giữa núi mà phi như bay, sau cùng Khổng Minh còn bảo Trương Liêu đặt một khối đá nặng hơn hai trăm cân lên xe một bánh. Không ngờ một thư sinh sức trói gà không chặt như Khổng Minh đẩy xe một bánh mà vẫn đi như bay.

Tào Tháo lúc này mới tin là thật, lớn tiếng khen hay. Trương Liêu, Tàng Bá cũng luôn miệng khen chiếc xe một bánh này.

“Quát tốt rồi!” Tào Tháo hưng phấn không thôi, nói: “Có mộc ngưu lưu mã, có được Tây Xuyên dễ như trở bàn tay.”

Gia Cát Lượng không đồng ý, nói: “Chúa công nhìn nhận vấn đề một cách quá đơn giản rồi.”

“Không.” Tào Tháo lắc đầu, nói: “Tây Xuyên sở dĩ dễ thủ khó công, hoàn toàn là bởi vì thục đạo gập gềnh khó đi. Hiện tại có mộc ngưu lưu mã, Thục đạo dễ thủ khó công đối với quân phòng thủ mà nói không phải là phúc mà lại chính là họa. Khổng Minh ngươi nghĩ xem. Khi Trương Tú, Trương Nhậm tập kết trọng binh nghiêm phòng tử thù ở một giải Ngư phúc phổ thì cô lại đi sơn lộ vào Xuyên đột nhiên xuất hiện ở sườn sau Ngư phúc phổ, quân Lương không chút phòng bị lại hai mặt thụ địch, sao có thể không bại cho được?”

Gia Cát Lượng nói: “Đây cũng chính là lấy Vĩnh An thì dễ mà Lượng đã nói.”

“Chính là như vậy.” Tào Tháo nói: “Chỉ cần công phá được Ngư Phúc Phổ, rồi tiến tiếp về phía trước là binh nguyên Xuyên Trung bằng phẳng. Trước mắt Mã đồ tể đang kịch chiến với Tôn Quyền ở Hoài Nam, trong lúc cấp thiết làm sao mà hồi sư cho được? Chỉ bằng vào hạng như Trương Tùng, Trương Tú, Trương Nhậm cũng muốn ngăn cản đại quân của cô thì đó là si tâm vọng tưởng. Một khi như vậy, lấy tiếp Tây Xuyên chẳng phải là chuyện dễ như trở bàn tay sao?”

Gia Cát Lượng nói: “Mã đồ tể trong lúc cấp bách tất nhiên là khó mà hồi sư. Hạng Trương Tú, Trương Nhậm, Trương Tùng tất nhiên khó mà địch được với chúa công. Nhưng chúa công đừng quên, trong quân Tây Lương còn có một nhân vật cực kỳ lợi hại tùy lúc đều có thể tới Tây Xuyên! Nếu người này vào lúc chiến sự khẩn cấp lại tới thì Tây Xuyên chi chiến e rằng lành ít mà dữ nhiều!”

Tào Tháo mắt lộ ra vẻ nghiêm nghị, nghiêm giọng nói: “Người mà Khổng Minh nói là… Mã Siêu?”

“Mã Siêu?”

“Mã Siêu!”

Vẻ mặt của hai người Tàng Bá, Trương Liêu ở phía sau Tào Tháo cũng biến thành ngưng trọng.

“Không sai, chính là Mã Siêu!” Gia Cát Lượng trầm giọng nói: “Lượng tuy không ra khỏi cửa, nhưng gia sư lại có không ít học sinh làm quan ở Dương Châu, Kinh Châu. Do đó, đối với đại thế thiên hạ cùng một số nhân vật nổi danh thì cũng biết một biết hai. Tây Lương Cẩm Mã Siêu không phải dễ đối phó. Người này không những võ nghệ siêu cường, hơn nữa tính tình còn âm hiểm, có chút phong cách của Giả độc sĩ.”

Tàng Bá nói: “Mã Siêu tuy lợi hại thật, nhưng tên tiểu tử này chẳng phải đã tới Tây Vực rồi sao? Tây Vực cách Trung Nguyên tới cả vạn dặm, đâu có dễ mà quay về như vậy?”

Trương Liêu nói: “Cái này cũng chưa chắc. Mã Siêu đi Tây Vực đã hơn một năm rồi, không khéo đã bình định được Tây Vực rồi cũng chưa biết chừng! Mã Siêu có thể ở trước trận của hai quân chém chết Tôn Sách. Lại đánh trọng thương Đông Ngô đại đô đốc Chu Du, trong vạn quân lấy đầu tướng dễ như lấy đồ trong túi. Đây quả thật là một nhân vật nguy hiểm, chúa công không thể không đề phòng.”

“Mã Siêu? Mã Siêu!”

Tào Tháo mắt lấp lánh sáng, bắt đầu chắp tay đi đi lại lại.

“Sợ cái rắm!” Tàng Bá nói: “Mã Siêu có lợi hại hơn nữa thì có thể giết hết toàn bộ ba vạn đại quân của chúng ta chắc? Một mình hắn có thể xoay chuyển càn khôn ư? Mạt tướng không tin có chuyện tà quái như vậy đâu!”

Gia Cát Lượng lại nói: “Hiện tại quân Lương ở Tây Xuyên đúng là binh lực không nhiều, lại phải chia binh thủ thành ở các nơi hiểm yếu, rất dễ bị quân ta kích phá từng nơi một. Nhưng chúa công ngàn vạn lần đừng quên ảnh hưởng thâm căn cố đế của Mã gia ở Tây Khương. Đặc biệt hiện tại thanh uy của hai huynh đệ Mã Dược, Mã Siêu ở trong lòng người Khương giống như là mặt trời giữa trưa, mà biên giới phía tây của Tây Xuyên lại chỉ cách Khương Nguyên có tám ngàn dặm!”

Tào Tháo đột nhiên dừng bước, quay lại nhìn Tàng Bá, quát: “Tuyên Cao!”

Tàng Bá bước lên trước, ôm quyền nói: “Chúa công có gì phân phó!”

Tào Tháo nói: “Lập tức quay về Gi­ang Lăng, triệu tập tất cả công tượng dồn hết thời gi­an mau chóng chế mộc ngưu lưu mã. Cô muốn trong vòng một tháng phải chế tạo ra năm ngàn cỗ mộc ngưu lưu mã, không được chậm trễ!”

Tàng Bá nói: “Mạt tướng tuân lệnh.”

Tào Tháo lại nói với Gia Cát Lượng: “Khổng Minh.”

Gia Cát Lượng chắp tay nói: “Chúa công có gì phân phó?”

Tào Tháo nói: “Từ giờ trở đi, ngươi chính là quân sư của cô. Cô quyết ý phạt Xuyên. Mong Khổng Minh ra sức tương trợ.”

Gia Cát Lượng thấy Tào Tháo quyết ý phạt Cuyên, đành bất đắc dĩ nói: “Lượng tất nhiên nguyện công hiến sức lực.”



Trong tiếng kèn lệnh kéo dài liên miên bất tuyệt, một nhánh Tây Lương thiết kỵ từ vùng hoang dã hùng dũng tiến tới. Khi còn cách thành Thọ Xuân một ngàn bước thì nhao nhao ghìm ngựa. Sau đó chậm rãi triển khai sang hai cánh. Tướng sĩ quân Ngô ở đầu thành Thọ Xuân dõi mắt nhìn, toàn là Tây Lương thiết kỵ đông nghìn nghịt, vô số đầu ngựa ngọ nguậy, trảm mã đao chói mắt hội tụ thành một bức tranh triều dâng sóng dậy, khiến người ta cảm thấy run sợ từ sâu trong linh hồn.

“Tu…”

“Tu…”

“Tu…”

“Ầm!”

Sau ba tiếng kèn trâu vô cùng to rõ, trong thiên địa đột nhiên vang lên tiếng trống thận kịch liệt khiến mạch máu của người ta như muốn nổ tung.

Đột nhiên, một chiếc trống trận hành quân cực kỳ to lớn gác trên một cỗ xe ngựa khổng lồ do mười sáu thớt ngựa kéo từ từ xuất trận. Trên xe ngựa, Mã Dược thân mặc quan bào đỏ thẫm, tay áo vén cao. Tây nắm hai chiếc dùi trống to cỡ chân trẻ con đang ra sức gõ vào mặt trống cao bằng hai người. Trong nháy mắt, lại nghe một tiếng trống trận “ầm” vang vọng lên tận trời cao.

“Gào!” Điển Vi ra sức giơ đại thiết kích lên, ngẩng mặt lên trời gào đến khản cả cổ: “Thừa tướng uy võ!”

“Thừa tướng uy võ!”

“Thừa tướng uy võ!”

“Thừa tướng uy võ!”

Trước tiên là thân binh của Mã Dược, sai đó là trung quân, cuối cùng là cả đại quân Tây Lương bắt đầu gào thét cuồng liệt. Mà thanh âm của hai mươi vạn người tụ thành một tiếng hét chỉnh tề như một, lớp này tiếp nối lớp kia. Tiếng thét cuồng bạo giống như là sóng to gió lớn, kịch liệt vang vọng trong thiên địa, tàn khốc ập lên ý chí để kháng của tướng sĩ Đông Ngô.

“Ặc!”

Một tiếng hô thảm thê lương đột nhiên vang lên trên đầu thành Thọ Xuân, tướng sĩ quân Ngô đang khẩn trương tới mức sắp sụp đổ đều nhao nhao quay đầu lại, chỉ thấy một binh sĩ quân Ngô đã xùi bọt mép, từ trên đầu thành ngã xuống, giống như một khúc gỗ rơi thẳng xuống sông hộ thành. Sau khi binh sĩ đó rơi xuống sông hộ thành thì không nổi lên được nữa, chỉ có một quầng máu đỏ tươi nổi lên trên mặt nước.

Trên thực tế, mặt nước của sông hộ thành đầy chướng ngại vật sắc nhọn.

Không nghi ngờ gì nữa, tên binh sĩ đáng thương này đã bị chướng ngại vật sắc nhọn găm dưới đáy sông. Có điều, có lẽ trước khi hắn ngã xuống, đã vỡ ruột vỡ gan mà chết rồi.

Chu Du hít sâu một hơi lạnh, nhìn ra xung quanh, trừ đám thân binh và túc tướng thân kinh bách chiến như Hoàng Cái, Thái Sử Từ ra thì cơ hồ tất cả tướng sĩ Đông Ngô sắc mặt đều vàng như nghệ, có chút sợ hãi đến nỗi thân thể cũng bắt đầu run rẩy khe khẽ. Nếu loại sợ hãi này tiếp tục lan đi, vậy thì e rằng không đợi tới lúc quân Lương bắt đầu công thành thì quân Ngô đã sụp đổ rồi.

Phải thay đổi loại cục diện bất lợi này, phải nghĩ biện pháp cổ vũ sĩ khí của tướng sĩ quân Ngô.

Đột nhiên, ánh mắt của Chu Du rơi lên người Thái Sử Từ, quát: “Thái Sử Từ nghe lệnh.”

Thái Sử Từ vội vàng tiến lên trước, ôm quyền đáp: “Có mạt tướng.”

Chu Du: “Ra khỏi thành khiêu chiến, làm nhụt khí thế của địch!”

“Tuân lệnh!”

Thái Sử Từ rầm rầm ứng tiếng, quay người bước nhanh xuống lầu.

Cầu treo được hạ xuống, cửa thành mở ra, Thái Sử Từ dẫn ba trăm thân kỵ giết ra ngoài thành như gió lốc, giơ thương lên trước hét: “Đông Lai Thái Sử Từ ở đây, sai dám chiến!”

Trong trận của quân Lương có một tướng vỗ ngựa phi ra, giơ đao quát: “Mỗ tới tiếp ngươi!”

Thái Sử Từ quát: “Tướng vừa tới hãy báo danh. Dưới thương của mỗ không có hạng vô danh.”

Tướng đó quát lớn: “Mỗ là Hà Gi­an Sầm Bích (hàng tướng Hà Bắc), Thái Sử Từ ngươi chết chắc rồi.”

“Hừ, chỉ giỏi khoác lác.” Thái Sử Từ hừ một tiếng, kéo cung đặt tên, nói: “Xem mỗ bắn ngươi rớt xuống ngựa đây!”

Sầm Bích đang giục ngựa phi tới thì thấy trước mặt lóe hàn quang. Khi vội vàng né tránh thì đã không kịp, bị một tiễn của Thái Sử Từ bắn xuyên yết hầu, ngã ngựa. Tướng sĩ quân Ngô ở trên đầu thành Thọ Xuân thấy Thái Sử Từ một tiễn bắn chết đại tướng của quân Lương thì không khỏi lớn tiếng khen hay, sĩ khí sắp sụp đổ lại một lần nữa dâng cao, tay trái đang nắm chặt của Chu Du cũng từ từ buông lỏng.

Sầm Bích đã chết, lại có một tướng từ trong trận của quân Lương giục ngựa phi ra, giơ thương quát: “Thất phu chớ có ngông cuồng, Hán Trung Dương Ngang tới tiếp ngươi.”

“Hừ.” Thái Sử Từ cất cung vào vỏ rồi giục ngựa nghênh chiến. Hai ngựa gi­ao nhau mới chỉ một hiệp thì đã đâm Dương Ngang ngã xuống ngựa.

Thái Sử Từ ghìm ngựa hoành thương, cao giọng quát: “Còn có ai muốn tìm chết nữa không?”

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 342: Giết lên đầu thành Thọ Xuân (2)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Trong trận của quân Lương, hàng tướng Tây Xuyên là Dương Hoài, Cao Phái tức giận song song xuất mã đánh Thái Sử Từ, chiến không được mười hiệp lại bị Thái Sử Từ hất bay xuống ngựa.

Thái Sử Từ liên tiếp giết chết bốn tướng, tướng sĩ quân Ngô trên đầu thành Thọ Xuyên xem rất hưng phấn, ai ai cũng bắt đầu quên hết tất cả mà gào thét, sĩ khí đại chấn.

Trong trận của quân Lương, Giả Hủ than: “Nếu có thiếu tướng quân ở đây, Thái Sử Từ sao dám ngông cuồng như vậy?”

Lý Túc cũng nói: “Chỉ cần một trong hai vị tướng quân Hứa Chử, Cam Ninh có ở đây cũng đủ để chém chết Thái Sử Từ rồi.”

“Chúa công.” Điển Vi đột nhiên giục ngựa lên trước mặt Mã Dược, nói: “Để mạt tướng xuất chiến đi.”

“Không được.” Lý Túc nói: “Điển Vi tướng quân chính là thiếp thân cận vệ của chúa công, há lại có thể đi mạo hiểm?”

Ý của Lý Túc là vạn nhất Điển Vi có ba dài hai ngắn gì thì sau này bảo ai đi bảo hộ Mã Dược đây?

Điển Vi vội vàng la lên: “Chúa công!”

“Điển Vi không được xuất chiến.” Mã Dược lạnh lùng quát: “Hai quân gi­ao chiến không phải là đọ cái dũng của hạng thất phu. Thái Sử Từ tuy kiêu dũng, nhưng chẳng qua chỉ là một tên thất phu mà thôi, không đáng nhắc đến, Điền Dự nghe lệnh!”

Điền Dự vội vàng giục ngựa lên trước, ôm quyền thưa: “Có mạt tướng.”

Mã Dược giơ dùi trống trong tay lên trước, nghiêm giọng quát: “Bắt đầu công thành!”

“Tuân lệnh!”

Điền Dự ầm ầm ứng tiếng, sau đó giơ cao tay phải lên trước, quân trận Lương Châu lập tức biến hóa, kỵ binh áp trận bắt đầu tách sang hai cánh, bộ binh dưỡng sức lâu ngày ở hậu trận bắt đầu bày đội hình chỉnh tề rồi hùng hổ tiến lên trước. Đặc biệt khiến tướng sĩ quân Ngô ở đầu thành Thọ Xuân cảm thấy không hiểu gì, hoặc có thể là tâm kinh đảm chiến là trong trận của bộ binh quân Lương không ngờ còn dựng từng tòa “tháp cao”.

Đầu thành Thọ Xuân.

Vẻ mặt của Chu Du lập tức biến thành vô cùng ngưng trọng, quát thân binh ở bên cạnh: “Gõ kẻng thu quân.”

Thái Sử Từ đang phóng ngựa khiêu chiến trước trận của hai quân nghe thấy tiếng kẻng liền dẫn ba trăm thân kỵ quay về thành.

Chu Du nghiêng đầu nhìn Từ Thứ, hỏi: “Quân sư những tòa tháp gỗ cao vợi trong trận của quân Lương là dùng để làm gì không?”

Từ Thứ sau khi trầm ngâm một lát bèn đáp: “Nếu tại hạ không đoán sai, thì chắc chính là lợi khí công thành độc môn của quân Lương - thang công thành.”

“Thang công thành?”

Chu Du nhướn mày, hàn quang không tên không trong mắt chợt lóe lên rồi vụt tắt.

Từ Thứ nói: “Theo Thứ biết, Mã đồ tể năm đó chính là nhờ vào loại thang công thành này mà giết cho quân thủ thành Đại Hán của Hổ Lao quan trở tay không kịp. Thiện hạ hùng quan do hai ngàn tinh binh trấn thủ không ngờ lại bị mấy ngàn lưu khấu của Mã đồ tể công phá, đây quả thực chính là một kỳ tích trong lịch sử của Hoa Hạ!”

Chu Du nói: “Chuyện này bản đô đốc cũng nghe nói qua. Lúc ban đầu có thế nào cũng không dám tin, có điều hôm nay… bản đô đốc đã tin rồi!”

Từ Thứ thấp giọng nói: “Đại đô đốc, lần này chúng ta gặp phiền phức rồi.”

“Ừ.” Chu Du gật đầu, thấp giọng nói: “Thang công thành của quân Lương rộng không quá hai trượng, mục tiêu quá nhỏ, máy ném đá của chúng ta khó mà tạo thành được uy hiếp đối với nó. Hơn nữa phía trước và hai bên của thang công thành đều bọc da trâu, không sợ hỏa công của quân ta, cũng chính là nói, quân ta không có bất kỳ biện pháp nào để ngăn cản sự tiếp cận của cái vật khổng lồ này.”

Từ Thứ nói: “Một khi để những vật khổng lồ này dựa vào tường thành sẽ dựng ra vô số thông đạo giữa đầu thành và mặt đất. Bộ binh Tây Lương sẽ thuận theo những thông đạo này mà liên miên bất tuyệt giết lên đầu thành. Một khi như vậy, tác dụng của lá chắn tường thành sẽ biến mất hoàn toàn, quân ta cơ hồ sẽ ở vùng ngoài tiến hành một trận hội chiến chính diện với quân Lương.”

“Vậy cũng không hẳn.” Trên mặt Chu Du đột nhiên hiện lên một nụ cười: “Những vật khổng lồ này đúng là rất đáng sợ, nhưng không phải là không có nhược điểm.”

“Ồ?” Từ Thứ nói: “Nhược điểm ư?”

“Quân sư ngài nhìn xem.” Chu Du chỉ vào thang công thành đang từ từ tiếp cận, nói: “Những thang công thành này thân cao năm trượng, nếu như tính thêm cả cầu treo trên đỉnh thì tổng độ cao của nó là hơn bảy trượng, mà độ rộng hai bên phần đáy lại chỉ có hai trượng! Chỉ cần ở mặt bên tăng thêm một ít lực dẫn nho nho là có thể khiến vật khổng lồ này đổ xuống.”

“Ồ.” Mắt Từ Thứ híp lại, trầm giọng nói: “Nhưng thang công thành xung quanh đều đầy bộ binh Tây Lương. Đại đô đốc cho dù phái ra tám ngàn khinh kỵ binh của Thái Sử Từ tướng quân toàn bộ cũng khó mà tiếp cận được thang công thành, càng đừng nói đến việc lật đổ chúng.”

“Không sai, phái kỵ binh của Thái Sử Từ ra quả thật là có thể đánh ngã thứ này. Có điều đợi sau khi bọn chúng dựa vào đầu thành rồi thì cơ hội sẽ đến.” Chu Du dừng lại một chút, đột nhiên quay người quát thân binh ở phía sau: “Truyền lệnh, lập tức chuyển năm mươi cỗ cự nỏ lên giác bảo, lại lệnh cho công tượng buộc thêm tên có móc ngược ở phần chóp, phần đuôi thì buộc chặt dây thừng.”

Tuân lệnh. Thân binh vội vàng lĩnh mệnh mà đi.

Sự chờ đợi khiến người ta phải nghẹt thở cuối cùng cũng qua đi.

Mấy trăm cỗ xe ném đá của quân Lương bắt đầu tấn công trước tiên. Theo một tiếng rống to của trăm ngàn binh sĩ, từng cánh tay khổng lồ bắn lên, ném cự thạch ở trong gió phóng lên cao. Cự thạch ở trên không trung thuận theo quỹ tích không có quy tắc, mang theo tiếng rít thê lương, hướng thành đầu thành Thọ Xương mà rơi xuống.

“Rầm!”

Một khối cực thạch đập mạnh lên tường thành, trong khói bụi mờ mịt, tường thành vốn nguyên vẹn đã vỡ ra một cái lỗ lớn.

“Rầm rầm rầm!”

Ba khối cự thạch cơ hồ như là không phân trước sau đập lên đầu thành. Hai binh sĩ xui xẻo của quân Ngô tránh không kịp bị ngã xuống đất, trong đó có một binh sĩ còn trực tiếp bị khối đá đập vỡ dầu, tương não và máu bắn tung tóe, phun lên khắp mắt binh sĩ quân Ngô ở xung quanh. Mà thi thể mất đầu không ngờ lại vẫn đứng sừng sững, chỉ có điều giữa cổ vẫn có máu tươi không ngừng phun ra.

Có tân binh chưa bao giờ thấy cảnh tượng đáng sợ như thế này, lập tức phục xuống đất mà khóc rống lên: “Mẹ ơi, con muốn về nhà, hu hu hu…”

“Đứng dậy, thằng đầu lợn này!” Một lão binh bước lên trước hung hăng đá một cước vào mông tân binh đó, “đây là chiến trường, mẹ ngươi không cứu được ngươi đâu. Chỉ có thể dựa vào chính ngươi thôi, mau đứng lên.”

“Vù!”

Lại có một khối cự thạch lăng không bay tới, lão binh nghiêng người né tránh theo bản năng. Khối đá cơ hồ là xẹt qua tai lão, vừa hay nặng nề đập lên mông của tân binh đó. Chỉ nghe thấy rầm một tướng, mông của tân binh đó đã bị đập cho biến thành vô hình, cả phần lưng bị đứt đoạn, máu thịt mơ hồ, tân bình vùng vẫy lật nửa thân trên lên, bắt đầu gào thét như đứt ruột đứt gan.

“Lão tử sớm đã nói với ngươi rồi, đây là chiến trường, mẹ ngươi không cứu được ngươi đâu.”

Ánh mắt của lão binh trở nên lạnh lùng, bước lên trước hai bước rút đao chém một cái, sạch sẽ gọn gàng *** đứt yết hầu của tên tân binh. Tiếng gào thét của tên thân binh lập tức tắt hẳn, nghẹo đầu sang một bên tuyệt khí thân vong.

“Giết giết giết!”

Trong tiếng hò hét như thủy triều, bộ binh của quân Lương đang chậm rãi tiến lên trước đột nhiên gia tăng tốc độ.

Đầu thành Thọ Xuân, Chu Du lúc này mới lạnh lùng nói: “Truyền lệnh, máy bắn đá bắt đầu phản kích!”

Dưới một tiếng ra lệnh của Chu Du, máy bắn đá trong thành Thọ Xuân cuối cùng cũng bắt đầu phản khích, ném từng khối từng khối đá khổng lồ về phía đỉnh đầu của quân Lương. Có điều, so với mấy trăm chiếc mấy bắn đá đồng thời phát động tấn công của quân Lương, sự phản kích của mấy chục chiến xe bắn đá của quân Ngô lộ ra vẻ thế cô lực đơn, một số ít khối đá đơn lẻ không thể tạo thành sát thương quá lớn cho bộ binh đang hùng dũng tràn lên của quân Lương.

Cuối cùng, Tây Lương bộ binh đông nghịt bắt đầu tiến vào xạ trình của cung tiễn thủ quân Ngô. Theo một tiếng gầm của tiểu giáo quân Ngô trên đầu thành, từng làn mưa tên từ đầu thành bắn xuống. bộ binh quân Lương đang chen chúc cạnh xe công thành nhao nhao giơ lỗ thuẫn trong tay lên, đóng thành một bức tường thuẫn kiên cố ở trên đỉnh đầu, tên của cũng tiễn thủ quân Ngô hoàn toàn không tạo thành bất kỳ thương hại nào đối với họ.

Cho tới khi Tây Lương bộ binh tiếp cận tường thành thì máy bắn đá ở hậu trận sợ ngộ thương người mình cho nên đình chỉ tấn công.

Dưới thành Thọ Xuân.

Điền Dự thân mặc trọng giáp tự bình ra trước trận chỉ huy.

“Câu thác thủ, lên!”

Điền Dự hạ lệnh một tiếng, mấy chục câu thác thủ dưới sự yểm hộ của lỗ thuẫn binh tới gần cầu treo. Tiểu giáo lãnh quân hạ lệnh, mấy chục chiếc câu thác (dây móc) đồng thời được ném ra, quấn chặt lấy dây treo của cầu, càng nhiều bộ binh của quân Lương ào ào tiến tới. Nắm lấy đầu còn lại của dây móc rồi dùng sức kéo xuống. Trên đầu thành tên vãi xuống như mưa, bộ binh quân Lương rào rào ngã xuống, nhưng lại có thêm bộ binh quân Lương ào ào lao tới.

“Rầm!”

Theo một tiếng ầm, dây treo của cầu bị kéo đứt, cầu treo rơi xuống.

“Tốt!” Điền Dự mắt lộ ra sát cơ băng lãnh, giơ đao lên trước, quát: “Dùi đập cửa, công!”

“Cộc cộc cộc…”

Trong tiếng ma sát do vết bánh xe gỗ và trục xe phát ra, một chiếc xe đẩy to lớn mà lại kiên cố dưới sự thôi động của mấy chục binh sĩ quân Lương nhanh chóng trượt về phía trước. Phần đầu của xe đẩy được cố định một khúc chàng mộc (gỗ để đập cửa thành) khổng lồ hai người ôm không xuể. Đầu khúc chàng mộc được đính sắt, đầu sắt được mài cho vô cùng sắc bén, dưới ánh sáng của tà dương phát ra hàn mang lạnh căm. Giống như một con ác lang đang nhe răng nhọn, hướng tới cửa thành mà nện.

“Rầm!”

Tiếng va chạm định tai nhức óc lướt qua cầu treo, dưới tác dụng của quán tính đập lên cửa bắc của thành Thọ Xuân. Theo những tiếng rầm rầm, cả tường thành phía bắc của thành Thọ Xuân đều bắt đầu run rẩy. Tứ Thứ đang đứng trên đầu thành quan sát suýt chút nữa thì ngã cả xuống đất. May mà Chu Du ở bên cạnh nhanh tay nhanh mắt túm lại được, mỉm cười hỏi: “Quân sư không sao chứ?”

“Không sao.”

Từ Thứ vội vàng giãy ra khỏi tay Chu Du, xấu hổ cười cười.

“Ha ha.” Chu Du mỉm cười quay đầu lại, nói với Tổ Lang: “Tổ Lang tướng quân, cửa thành gi­ao cho ngài đó.”

“Xin đại đô đốc yên tâm.” Tổ Lang ầm ầm ứng tiếng, quay đầu lại quát tiểu giáo quân Ngô đứng ở phía sau: “Ngươi, đã chuẩn bị tốt dầu hỏa chưa?”

Tiểu giáo quân Ngô vội vàng thưa: “Hồi bẩm tướng quân, đều đang sôi ở trong nồi.”

“Tốt!” Tổ Lang hét lớn một tiếng, trên khuôn mặt đầy sẹo hiện lên vẻ dữ tợn, tàn nhẫn cười nói: “Vậy thì để đám chó hoang Tây Lương ở dưới thành thưởng thức mùi vị dầu hỏa nướng thịt người đi.”

“Rào rào rào…”

Khi mấy chục binh sĩ quân Lương đẩy chùy đập thành lại một lần nữa lướt qua cầu treo, đập mạnh lên cửa thành thì từng nồi dầu hỏa nóng rực đột nhiên từ trên đầu thành hắt xuống. Dầu hỏa nóng bỏng đổ lên mặt, lên người tướng sĩ quân Lương, khiến họ bị bỏng, nhảy lên nhảy xuống như tôm cá trong chảo, vừa nhảy vừa phát ra tiếng kêu cực kỳ ghê rợn.

Trên đầu thành.

Trong mắt của Tổ lang léo lên vẻ khoái trá tàn nhẫn, cao giọng quát: “Bắn tên!”

Một làn mưa tên từ trên đầu thành bắn xuống, dùi đập cửa cùng với xe dẩy ở bên dưới và mấy chục sĩ binh đang nhảy nhót kêu gào bị tên lửa nhuốm lên người lập tức bị lửa cháy rừng rực nuốt chửng. Mắt thấy dùi đập cửa mà mình đặt nhiều hi vọng bị lửa nuốt chửng, sắc mặt của của Điền Dự biến thành xám xịt.

“Rầm!”

Theo một tiếng rầm, cầu treo bị đốt cháy, dùi đập cửa rơi xuống sông hộ thành, trên mặt nước bốc lên lửa cao tới mấy thước rồi lập tức tắt­ngóm, chỉ có khói xanh mờ mờ bốc lên.

“Đáng ghét!”

Điền Dự nắm chặt song quyền, cơ hồ nghiến đến gãy cả răng.

Đúng vào lúc này, hai mươi cỗ xe công thành đã tiếp cận bờ sông hộ thành.

“Đình chỉ tiến tới!”

Diền Dự hạ lệnh một tiếng, hai mươi chiếc xe công thành kẽo kẹt dừng lại. Cầu treo lơ lửng trên xe công thành hạ xuống. Theo một tiếng rầm, hai mươi chiếc cầu treo đồng thời đáp lên đầu thành Thọ Xuân, tinh binh U Châu đã đứng đợi lâu ở trên đài cao của xe công thành lập tức hò hét xông lên cầu treo, giết về phía đầu thành Thọ Xuân. U Châu hãn tướng Mao Gi­ai tay trái cầm thuẫn, tay phải cầm đao xông lên trước nhất.

“Giết giết!”

Hai binh sĩ quân Ngô trốn sau lỗ châu mai lách người ra giết, giơ thương đâm vào ngực Mao Gi­ai. Mao Gi­ai xoay ngang đại thuẫn ra đỡ hai thanh trường thương, khảm đao trong tay thuận thế chém ngang, hai binh sĩ quân Ngô trong khoảnh khắc đã bị chém thành bốn đoạn. Mao Gi­ai một kích đắc thủ, hét lớn một tiếng rồi bay vụt lên không, thân hình to cao giống như một con chim lớn hạ lên đầu thành Thọ Xuân, hai binh sĩ quân Ngô né không kịp, bị Mao Gi­ai chém chết.

“Tránh ra, tránh ra cho lão tử.”

Trong tiếng hét như sấm, một hãn tướng quân Ngô mặt đầy sẹo giống như quỷ mị xuất hiện trước mặt Mao Gi­ai. Mắt Mao Gi­ai lập tức co rút lại, bằng vào bản năng của võ tướng, hắn biết tên gia hỏa phía trước là một tay khó chơi.

Ở đằng xa, hậu trận của quân Lương.

“Tốt!” Lý Túc kích động kêu lớn: “Tốt quá rồi, quân U Châu đã giết lên đầu thành Thọ Xuân rồi, ha ha!”

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 343: Lần này, Chu Du e rằng phải bại dưới tay Tử Kính.

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Đầu thành Thọ Xuân.

Chu Du khẽ vung quạt lông trong tay về phía trước, cao giọng nói: “Bắt đầu phản kích!”

Truyền lệnh binh đứng ở sau Chu Du cấp tốc giơ lệnh kỳ lên rồi dùng sức vung mạnh một cái, trên giác bảo ở hai bên trái phải địch lâu lĩnh quân của quân Ngô giơ cao kiếm lên quá đỉnh đầu, ngẩng mặt lên trời quát lớn: “Bắn!”

“Vút vút!” Hai mũi nỏ tiễn khổng lồ từ trên thân nỏ bắn vút ra nhanh như thiểm điện, hàn quang lóe lên đã bắn trúng vách chắn ở bên hông của xe công thành của quân Lương, bó tên có móc câu thì đâm vào vách gỗ dày tới mấy tấc. Ngô tướng lĩnh quân hạ lệnh một tiếng, sĩ binh quân Ngô ở trên giác bảo lập tức hành động, dây thừng buộc trên nỏ tiễn rất nhanh liền bị kéo căng, trong tiếng trục bánh xe xoay chuyển kẻo kẹt, xe công thành cao vút rất nhanh liền bắt đầu nghiêng ngả.

Hai bộ binh quân Lương vừa bước lên cầu treo thì trượt chân, từ trên cầu treo rơi xuống sông hộ thành, rồi không nổi lên nữa, chỉ có hai vầng máu nhuộm đỏ mặt nước.

Hậu trận của quân Lương.

“Sao vậy? Xe công thành hình như là đang nghiêng?”

Mã Dược đang ngồi trên ghế đột nhiên đứng bật dậy, có chút khó tin nhìn về phía trước.

Dưới thành Thọ Xuân.

“Két két két… rầm!”

Xe công thành cao chót vót sau khi nghênh tới một góc nhất định thì cuối cùng cũng mất đi trọng tâm, đổ rầm xuống, bộ binh quân Lương đang chen chúc dưới xe công thành vộ vàng tránh né. Song vẫn có rất nhiều người bị xe công thành nặng nề đổ xuống đè lên người, tan xương nát thịt, chết oan chết uổng! Không tới thời gi­an một bữa cơm, hai mươi xe công thành đã bị quân Ngô kéo ngã mất mười bảy chiếc, ba chiếc còn lại cũng đã bị nghiêng nghiêm trọng, tùy thời đều có thể đổ xuống.

Hậu trận của quân Lương, Mã Dược mặt co giật kịch liệt, rít qua kẽ răng: “Truyền lệnh… thu binh!”

“U u u u…”

Sau tiếng hạ lệnh của Mã Dược, hậu trận của quân Lương trong khoảng khắc vang lên tiếng kèn lệnh thê lương, nghe thấy tiếng kèn hiệu, bộ binh quân Lương đang chen chúc ở dưới thành Thọ Xuân lập tức rút lui sạch sẽ. Chiến trường vốn nhộn nhịp lúc này chỉ còn lại một đống hỗn độn trên mặt đất, chỉ còn lại xác của hai mươi chiếc xe công thành và thi thể của hàng ngàn tướng sĩ chết trận

“U…”

“U…”

“U…”

Thấy quân Lương rút lui, tướng sĩ quân Ngô ở đầu thành Thọ Xuân mừng rỡ như điên, nhao nhao giơ binh khí lên chúc mừng nhau.

Trên địch lâu, Lữ Mông, Lục Tốn nói với Chu Du: “Đại đô đốc, quân Lương rút binh rồi, ha ha!”

“Ừ.” Chu Du gật đầu, cao giọng nói: “Bản đô đốc sớm đã nói rồi. Mã đồ tể tới công đánh Thọ Xuân, căn bản chính là tới chịu chết.”



Buổi đêm.

Thành bắc Thọ Xuân, trong đại doanh quân Lương.

“Vốn muốn giết cho quân Ngô trở tay không kịp, không ngờ lại việc sắp thành lại bại.” Mã Dược ngửa mặt lên trời thở dài: “Không hổ là Chu Du, không ngờ lại phá được kỳ kế xe công thành của cô dễ dàng như vậy. Ài.”

“Đúng vậy.” Giả Hủ gật đầu, bùi ngùi nói: “Cái khiến người ta khó tin nhất chính là Chu Du có thể tìm ra nhược điểm của xe công thành trong khoảng thời gi­an ngắn như vậy. Năng lực quan sát và tùy cơ ứng biến của người này quả thật là nhất lưu! Hủ cho rằng. Trong thiên hạ có lẽ chỉ có chúa công và gi­an tặc Tào Tháo là có thể sánh ngang với Chu Du được thôi!”

“Văn Hòa quá khen rồi.” Mã Dược thờ dài nói: “Chu Du dụng binh cô tự thẹn không bằng, chỉ e rằng Tào Tháo cũng phải kém hơn hắn một bậc.”

“Tử Kính.” Mã Dược đột nhiên chuyển ánh mắt sang phía Lỗ Túc, hỏi: “Ngươi và Chu Du từng là bạn thân, theo ngươi thì Chu Du có nhược điểm gì?”

Lỗ Túc không nghĩ ngợi mà đáp ngay: “Không hề có khuyết điểm.”

“Không có khuyết điểm ư?” Mã Dược nhíu mày nói: “Vậy thì phiền phức rồi!”

Khoái Việt đột nhiên bước ra khỏi hàng nói với Mã Dược: “Cường công đã không đạt được hiệu quả, thừa tướng có sao không áp dụng sách lược tập kích bất ngờ?”

“Sách lược tập kích bất ngờ ư?” Mã Dược hỏi: “Nói ra đi?”

Khoái Việt thưa: “Việt từng quan sát rất kỹ địa thế phụ cận, phát hiện địa thế Thọ Xuân lệch thấp, trong hai trăm dặm xung quanh đều là đất trũng, đó chính là Hoài Hà đi xuyên qua thành, mà mặt bằng của nó cũng hơi cao hơn mặt đất. Thừa tướng chỉ cần sai một nhánh quân đắp đê tích nước ở thượng du Hoài Hà. Đợi mực nước tăng cao rồi sau đó vỡ đê tràn nước, như vậy, có thể không tốn một binh một tốt mà dìm chết Thọ Xuân.”

“Kế hay?” Lý Túc kích động nói: “Dìm chết Thọ Xuân? Quả nhiên là kế hay.”

“Không được.” Mã Dược lắc đầu nói: “Nếu như dùng kế lấy nước để phá thành, phương viên mấy trăm dặm của Thọ Xuân, thậm chí là cả Hoài Nam đều trở thành một vùng ngập trong nước. Mấy chục vạn mẫu ruộng tốt đều không thu hoạch được một hạt gạo nào, quận Hoài Nam vốn được xưng là vùng đất phi nhiều há chẳng phải sẽ trở thành người chết đói khắp đồng sao? Dị Độ ngàn vạn lần chớ quên rằng quận Hoài Nam hiện tại còn có hơn ba trăm vạn bách tính Từ Châu bị Tôn Quyền, Chu Du cường hành dời tới đang làm đồn điền đó!”

Khoái Việt nói: “Thừa tướng…”

“Kế này của Dị Độ là hoàn toàn không dùng được.” Mã Dược đột nhiên giơ tay lên, kiên quyết nói: “Cô là thừa tướng của triều đình Đại Hán, há lại có thể vì một thành Thọ Xuân nho nhỏ mà hi sinh hơn bốn trăm vạn bách tính vô tội.”

Khoái Việt nói: “Chúa công, đại trượng phu có việc lên làm có việc không nên làm, lúc cần dứt khoát mà không dứt khoát ắt sẽ vì thế mà gặp rắc rối đó.”

Mã Dược nói: “Ý cô đã quyết, Dị Độ không cần phải nhiều lời!”

“Ài.”

Khoái Việt thở dài một tiếng, quay người bước lại vào hàng, nhưng trên mặt lại không có bao nhiêu vẻ thất vọng. Mã Dược tuy hung danh vang dội, giết người như ma, nhưng ít nhất hắn vẫn thương cảm cho bách tính, Đại Hán triều có thể có được thừa tướng như vậy, chính là phúc của vạn dân trong thiên hạ.

“Thừa tướng anh minh.” Lỗ Túc đột nhiên lách người ra khỏi hàng, cung kính vái Mã Dược một cái rồi nói: “Túc thay mặt mấy trăm vạn bách tính Hoài An tạ ơn không giết của thừa tướng.”

“Bỏ đi.” Mã Dược xua tay nói: “Tử Kính không cần phải như vậy.”

Lỗ Túc nói: “Thừa tướng, Túc có một biện pháp, có lẽ có thể kích phá Thọ Xuân.”

“Ồ?” Mã Dược vui mừng nói: “Tử Kính mau nói ra đi.”

Lỗ Túc nói: “Thừa tướng có thể lệnh cho sĩ lấy đất xây đài ở ngoài thành Thọ Xuân, độ cao thì cao hơn tường thành Thọ Xuân mấy trượng, sau đó tập kết cung tiễn thủ từ trên đài cao phóng tên vào thành Thọ Xuân, lại lệnh cho sĩ tốt dựa đất tiếp tục xây tiến lên trước. Khi đài cao liên tục kéo dài cho tới tận đầu thành Thọ Xuân thì cũng là lúc quân ta công phá Thọ Xuân đó!”

“Kế hay.” Khoái Việt khen: “Chu Du dụng binh tuy lợi hại, nhưng cũng khó mà phá giải được thổ điền chi thuật này.”

“Ồ?” Mã Dược và Giả Hủ trao đổi với nhau bằng ánh mắt, vui mừng nói: “Đây đúng là một biện pháp hay.”

Lý Túc nói: “Lấy đất lấp thành quả nhiên là một biện pháp hay, có điều thời gi­an liệu có đủ hay không?”

Lỗ Túc nói: “Có thể làm một cái tính toán sơ lược như thế này. Giả sử chiều rộng của phần đầu của đài cao này là ba mươi trượng, chiều rộng của phần đáy là năm mươi trượng, thì độ rộng bình quân là bốn mươi trượng (khoảng 92m). Độ cao là sáu trượng, ngoài ra đài cao cần ở ngoài xạ trình của cung tiễn thủ quân Ngô rồi cứ vậy lấp phẳng tới đầu thành Thọ Xuân, trước sau tung thâm ít nhất cũng phải tới một trăm trượng (khoảng 231m), do đó có thể đưa ra kết luận rằng tổng cộng cần hai vạn bốn ngàn mét khối đất! Một mét khối đất ước chừng là năm mươi vạn cân, do đó để xây dừng đài cao này đại khái cần ba mươi sáu vạn vạn cân đất.”

“Ba mươi sáu vạn vạn cân?” Khoái Việt nói tiếp: “Nếu để mười vạn binh sĩ gánh đất xây đài, bình quân mỗi binh sĩ cần gánh ba vạn sáu ngàn cân?”

Lỗ Túc nói: “Nếu chỉ là lấy đất, mỗi binh sĩ một ngày ít nhất có thể đi đi về về mười chuyến, mỗi chuyến gánh một trăm cân, một ngày có thể gánh được một ngàn cân, do đó có thể đưa ra kết luận sơ lược là đại khái cần ba mươi sáu ngày. Tính cả tới việc quấy nhiễu của quân Ngô và ảnh hưởng của các loại nhân tố khác, trên thực tế phải cần nhiều thời gi­an hơn. Có điều binh lực của quân ta đạt tới hai mươi vạn, hơn nữa còn có một lượng lớn, vật kéo, xe ngựa có thể dùng. Thời gi­an chắc không quá bốn mươi ngày.”

Giả Hủ không nhịn được phải cất tiếng khen: “Phải chăng Lỗ Túc đã nghiên cứu nhiều về thuật lấy đất lấp thành này rồi?”

“Không dám giấu quân sư.” Lỗ Túc nói: “Lúc nhỏ cùng người ta nghiên cứu thuật công thành thủ thành, Lỗ tư chất đần độn, chỉ nghĩ được thuật phá thành ngốc ngếch này thôi, vì thế mới có chút nghiên cứu.”

“Người ta mà Tử Kính nói chắc chắn chính là Chu Du rồi.” Mã Dược cao giọng cười: “Cái này gọi là lấy vụng thắng khéo. Lần này, Chu Du sợ là phải bại dưới tay Tử Kính rồi! Ha ha ha, cô cũng muốn xem xem, Chu Du có thể nghĩ ra được biến pháp gì để phá thổ điều chi thuật của Tử Kính đây. Hừ!”

Mã Dược nói tới đây thì dừng lại, quát: “Khoái Việt, Lỗ Túc nghe lệnh!”

Khoái Việt, Lỗ Túc vội vàng bước ra khỏi hàng, chắp tay nói: “Xin nghe theo lời sai khiến của thừa tướng.”

Mã Dược nói: “Bắt đầu từ ngày mai, do các ngươi hào lệnh ba quân, lấy đất lấp thành!”

“Tuân lệnh.”

Lỗ Túc, Khoái Việt chắp tay vài, vẻ mặt nghiêm túc.

Mã Dược lại nói vơi Giả Hủ: “Văn Hòa, lập tức truyền lệnh cho các quân, phải nghe theo hiệu lệnh của Tử Kính, Dị Độ, không được có sai lầm.”

Giả Hủ chắp tay đáp: “Tuân lệnh.”



Thành Thọ Xuân, phủ Ngô công.

“Tốt, quá tốt rồi!” Tôn Quyền vỗ bàn đứng dậy, cao giọng nói: “Quân Lương mãnh công Thọ Xuân nửa tháng mà không tiến được một tấc. Giờ kỳ kế thang công thành đã bị Công Cẩn phá rồi, Mã đồ tể chẳng qua cũng chỉ có thế mà thôi, không đáng để lo lắng. Người khiến cô lo lắng chỉ còn tả lộ thiên sư của Cao Thuận mà thôi, không biết Hoàng Cái lão tướng quân có thể ngăn cản tại dĩ nam Hợp Phì không?”

Chu Du nho sam phất phới, khẽ ve vẩy quạt lông, ung dung nói: “Chúa công không cần phải lo lắng, đối với lộ thiên sư này của Cao Thuận, Du đã có an bài rồi, Hoàng lão tướng quân chỉ cần theo đúng kế mà làm thì có thể đứng ở thế bất bại, cho dù không thể kích phá được quân của Cao Thuận thì thủ vững mấy tháng tại bến Tiêu Diêu cũng dư thừa.”

Tôn Quyền vui vẻ nói: “Như vậy cô có thể cao gối ngủ ngon không cần lo nghĩ rồi.”

“Ngô công.” Vào lúc hai người đang nói chuyện, đột nhiên có tiểu lại bước vội vào bẩm báo: “Tiệc rượu đã chuẩn bị xong rồi.”

“Ha ha, tốt.” Tôn Quyền đưa tay nói với Chu Du: “Công Cẩn, mời.”

Chu Du cũng mỉm cười nói: “Mời chúa công.”



Bắc hiệu Hợp Phì, bến Tiêu Diêu.

Một đội thuyền nhỏ, bè gỗ thuận theo dòng đưa đi lại như thoi đưa, không ngừng vận chuyển vật liệu đá, củi về Gi­ang Trung. Lòng sông tinh kỳ lay động, sát khí trùng thiên, một tòa thủy quân đại trại khí thế to lớn như ẩn như ẩn trong mưu bụi mông lung.

Cha con Hoàng Cái, Hoàng Bính dưới sự vậy quanh của mấy chục thân binh đang đứng nghiêm trang bên bờ sông.

Hoàng Bính không hiểu hỏi Hoàng Cái: “Hợp Phì thành trì kiên cố, đủ để ngự địch, phụ thân vì sao chỉ lưu lại khinh binh thủ thành, mà tập kết trọng binh ở bến Tiêu Diêu?”

Hoàng Cái nói: “Bính nhi có điều chưa biết rồi, cái này chính là kế của đại đô đốc.”

Hoàng Bính nói: “Kế của đại đô đốc ư?”

“Không sai.” Hoàng Cái gật đầu, tay chỉ vào mặt sông mênh mông rồi nói với Hoàng Bính: “Bính Nhi con nhìn đi, thượng nguồn này giống như từ Tướng Quân lĩnh tới bến Tiêu Diêu thì một chialàm hai, đi về phía bắc hai trăm dặm ra khỏi Thọ Xuân rồi đổ và Hoài Hà, đi về phía nam hơn trăm dặm thì đổ vào Sào hồ, cơ hồ tách Lư Gi­ang và Hoài Nam ra, quân ta thủ vững bến Tiêu Diêu thì giống như là chẹn được yết hầu của đại quân Cao Thuận tới Thọ Xuân!”

Hoàng Bính nói: “Thì ra là như vậy.”

Hoàng Cái nói: “Hơn nữa bến Tiêu Diêu và Hợp Phì cách nhau chỉ mấy dặm, quân Lương nếu tấn công Hợp Phì, thủ quân thủy quân đại trại của bến Tiêu Diêu có thể từ thủy lộ tùy thời chi viện, quân Lương nếu tấn công bến Tiêu Diêu thì hắc hắc…”

Hoàng Bính gật đầu nói: “Quân Lương không có thủy quân, vượt sông tấn công Tiêu Diêu Tân thì chẳng khác nào là tự mình tìm chết.”



Sáng sớm ngày hôm sau, đại trướng của Chu Du.

Chu Du đang múa kiếm trên khoảng đất trống ở trước trước thì đột nhiên thấy bọn Lữ Mông, Lục Tốn, Từ Thứ, Thái Sử Từ nối đuôi nhao bước tới, Từ Thứ vẫy tay nói: “Đại đô đốc, không ổn rồi.”

Chu Du thua kiếm điều tức, hờ hững hỏi: “Nguyên Trực, có chuyện gì vậy?”

Từ Thứ nói: “Quân Lương lại có động tĩnh rồi!”

“Ồ?” Chu Du nói: “Động tĩnh gì?”

Từ Thứ nói: “Tại hạ trong nhất thời nửa khắc không thể nói rõ cho được, đại đô đốc hay là tự mình lên đầu thành xem đi.”

“Ồ.” Mắt Chu Du lóe sáng, cao giọng nói: “Được, chư vị hãy theo bản đô đốc lên thành quan sát, bản đô đốc cũng muốn xem xem Mã đồ tể lại nghĩ ra diệu chiêu gì rồi?”

Nói xong, Chu Du đưa bảo kiếm cho thân binh rồi dưới sự giúp đỡ của thị tòng mặc áo giáp chỉnh tề, sau đó dẫn bọn Từ Thứ, Lữ Mông vội vã lên bắc môn. Đứng trên địch lâu nhìn ra ngoài, chỉ thấy trên khoảng đất vốn trống trải ở trước cửa thành đã bị quân Lương đào ra vô số hố đất lớn nhỏ.

Thái Sử Từ hoang mang nói: “Không hiểu Mã đồ tể muốn làm cái gì nữa. Chẳng lẽ là đào địa đạo à?”

“Địa đạo?” Lữ Mông lắc đầu nói: “Đào địa đạo thì làm gì có chuyện lại đào lỗ lớn như vậy? Hơn nữa quân Lương nếu như thực sự muốn đào địa đạo để công thành, thì phải hành sự bí mật mới đúng chứ. Lấy đâu ra đạo lý làm một cách rầm rầm rĩ rĩ như vậy? Sách lược đào địa đạo công thành một khi bị vạch trần, quân ta chỉ cần đào thủng địa đạo trước, sau đó dẫn nước vào địa đạo, quân Lương chui vào địa đạo sẽ giống như là cá trong nước mà thôi.”

Thái Sử Từ lắc đầu, hỏi ngược lại: “Vậy theo Tử Minh thấy thì Mã đồ tể đang làm gì?”

Lữ Mông trầm ngâm một lát sau đó nói: “Theo mạt tướng thấy, quân Lương có thể là muốn xây dựng đài cao ở ngoài thành, sau đó lại ở trên đài cao bố trí cung tiễn thủ để phản chế quân ta.”

“Xây đài cao, bố trí cung tiễn thủ ư?” Thái Sử Từ không đồng ý, nói: “Không thể nào, ngọn núi nhỏ mà quân Lương đổ bùn đất cách đầu thành thọ xuân phải tới hơi trăm trượng, cung tên không thể bắn xa như vậy được.”

Lữ Mông vò đầu bứt tai, nói: “Đây cũng chính là chỗ mà mạt tướng nghĩ không ra.”

Mọi người đều không nói gì, Chu Du đang nhíu mày suy nghĩ đột nhiên biến sắc, cao giọng thốt lên: “Ối trời, không ổn rồi!”

Mọi người vội vàng hỏi: “Đại đô đốc cớ sao lại nói vậy?”

“Quân Lương đây chính là muốn lấy đất lấp thành đó!” Sắc mặt của Chu Du biến thành ngưng trọng chưa từng có, trầm giọng nói: “Tử Kính, kế này chắc chắn là do Tử Kính nghĩ ra. Ài, không ngờ tới Tử Kính lại đầu hàng Mã đồ tể!”

“Lấy đất lấp thành?” Từ Thứ, Lữ Mông, Lục Tốn ba người đều hoảng sợ nhìn nhau. “Lấy đất lấp thành!”

Thái Sử Từ hỏi: “Đại đô đốc, Tử Kính là ai?”

Chu Du thở dài nói: “Tử Kính họ Lỗ tên Túc, chính là bạn thời thiếu niên của bản đốc, tám năm trước bị Mã đồ tể bắt tới Quan Trung. Không ngờ giờ lại ra sức trước trướng của Mã đồ tể rồi.”

Thái Sử Từ nói: “Người này lợi hại lắm ư?”

Chu Du thở dài: “Người này đại trí giả ngu, rất khéo mà lại giống như vụng, tài năng không dưới bản đốc.”

“Hả? Năng lực của người này không ngờ lại có thể sánh ngang với đại đô đốc ư?” Thái Sử Từ thất thanh nói: “Nói vậy, thuật lấy đất lấp thành này chắc chắc cũng cực kỳ lợi hại, lấy đất thì mạt tướng nhìn thấy rồi, nhưng thực sự không hiếp pháp lấp thành là như nào? Chẳng lẽ quân Lương đất mà quân Lương đào ra sẽ để mình chắp cánh bay tới lấp phẳng sông hộ thành ư?”

“Ài.” Từ Thứ thở dài nói: “Thái Sử tướng quân vẫn chưa nhìn ra ư? Quân Lương Châu không chỉ muốn lấp sông hộ thành mà còn muốn ở trước thành Thọ Xuân đắp một con đường đủ để cho kỵ binh Mạc Bắc trực tiếp giết lên thành đầu đó!”

“Cái gì? Sao có thể như vậy được!” Thái Sử Từ không tin, nói: “Muốn đắp một con đường phẳng như vậy thì phải tốn bao nhiêu thời gi­an?”

Lữ Mông nói: “Đại quân Lương Châu người nhiều thế mạnh, chỉ cần một ngươi gánh một khuông đất là đủ rồi!”

Thái Sử Từ nói: “Quân Lương châu dù nhiều người, nhưng chẳng lẽ thực sự có thể đắp được một con đường trong vòng ba tháng ư?”

Chu Du trầm giọng nói: “Nhớ lúc còn trẻ, bản đốc từng cùng với Tử Kính trải qua một cuộc tranh luận, chính là áp dụng thuật lấy đấp lấp thành này cần tốn bao nhiêu thời gi­an mới có thể phá thành, kết quả tính toán cuối cùng căn bản là không cần quá nhiều thời gi­an, tối đa chỉ cần, ba, năm mươi ngày là có thể đắp lên một con đường giữa mặt đất và tường thành cao năm trượng rồi!”

“Hả, chỉ cần ba, năm mươi ngày thôi ư?” Thái Sử Từ thất thanh nói: “Đại đô đốc, không bằng để mạt tướng dẫn kỵ binh ra khỏi thành đánh lén, ít nhất có thể làm chậm chễ một chút tiến triển của quân Lương.”

“Thái Sử tướng quân không thấy có kỵ binh ở hai cánh sao?” Chu Du lạnh lùng nói: “Chỉ sợ kỵ binh của ngài vừa mới xuất thành, còn chưa kịp bố trí xong trận hình thì đã bị hai đội kỵ binh này bao vây tiêu diệt rồi!”

“Vậy phải làm sao bây giờ?” Thái Sử Từ: “Kiểu gì thì cũng không thể ngồi yên chờ chết được.”

“Về doanh.” Chu Du nhíu mày nói: “Ngày khác lại thương nghị.”

Nói xong, Chu Du quay người nghênh ngang mà đi, chỉ lưu lại Thái Sử Từ, Lữ Mông chúng tướng nghệt mặt nhìn nhau, một lúc sau mới đều tự tản đi.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 344: Chu Du có thể sẽ chó cùng rứt giậu (1)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Sau hai mươi ngày, mười vạn đại quân của Cao Thuận cuối cùng cũng áp sát Hợp Phì.

Bến Tiêu Diêu.

Cam Ninh, Cao Thuận suất lĩnh mấy chục Cẩm Phàm thủy tặc cưỡi thuyền nhẹ xuôi dòng đi xuống, quan sát địa hình của hai bờ Phì thủy, Cam Ninh chỉ vào lòng sông như ẩn như hiện trong mưa bụi rồi nói với Cao Thuận: “Tướng quân, phía trước chính là Bến Tiêu Diêu rồi.”

“Ồ.” Cao Thuận gật đầu nói: “Đây chính là Bến Tiêu Diêu ư?”

Cam Ninh nói: “Trên Bến Tiêu Diêu vốn là có cầu nối, có điều hiện tại không còn nữa rồi.”

Cao Thuận nói: “Đây cũng là chuyện trong ý liệu, ưu thế của Đông Ngô là thủy quân, mà ưu thế của quân ta là kỵ binh, quân Ngô đương nhiên sẽ phá hỏng cầu nối, bức quân ta cùng chúng tiến hành một cuộc thủy chiến mà chúng ta không thành thạo.”

Cam Ninh nói: “Tên gia hỏa Chu Du này đúng là âm hiểm.”

Cao Thuận đột nhiên mỉm cười, hờ hững nói: “Thủy quân tất nhiên là ưu thế của quân Ngô, có điều lại cũng chỉ là tương đối thôi!”

Cam Ninh nói: “Ý của tướng quân là…”

Cao Thuận nói: “Thủy quân Đông Ngô tất nhiên cường đại, song chủ lực của chúng không phải ở Thọ Xuân mà chính là ở Hoài Âm, thủy quân Đông Ngô trấn giữ bến Tiêu Diêu tuyệt không vượt quá được hai ngàn người. Từ trên binh lực mà xét thì không tương xứng với Cẩm Phàm thủy quân của Hưng Bá ngươi, có điều từ tốt chất của binh sĩ mà xét thì thủy quân Đông Ngô hơn hẳn Cẩm Phàm thủy quân của ngươi.”

“Đúng vậy.” Cam Ninh gãi đầu nói: “Thủy quân của mạt tướng không có chiến thuyền mà.”

“Ừ.” Cao Thuận nhìn về phía Bến Tiêu Diêu rồi nói: “Trong đại trại của thủy quân ở Bến Tiêu Diêu chẳng phải là có rất nhiều chiến thuyền đang bỏ neo sao?”

“Vâng.” Cam Ninh gật đầu nói: “Phải nghĩ biện pháp cướp những chiến thuyền này cho bằng được.”

Cao Thuận cao giọng nói: “Hưng Bá. Muốn cướp được số chiến thuyền này cũng không phải là điều khó khăn.”

Cam Ninh nói: “Tướng quân mau nói cho mạt tướng nghe đi, làm thế nào mà cướp được số chiến thuyền này?”

Cao Thuận nói: “Quân Ngô chia binh trấn thủ Hợp Phì, Bến Tiêu Diêu. Quân Ngô ở hai nơi hình thành thế góc cạnh, quân ta nếu công đánh Hợp Phì quá gấp thì quân Ngô ở Bến Tiêu Diêu sẽ từ thủy lộ tới cứu, Hưng Bá có thể suất lĩnh hai ngàn thủy quỷ tiềm phúc trước ở trong cỏ lau ven sông, đợi thuyền của quân Ngô lên bờ, chỉ lưu lại một ít sĩ tốt trông coi thuyền thì thừa cơ giết ra, tất sẽ giết cho quân Ngô trở tay không kịp.”



Cha con Hoàng Cái, Hoàng Bính dưới sự vây quanh của hơn chục thân binh tuần tra ở đầu thanh, đột nhiên nghe thấy ngoài bắc môn vang lên tiếng chém giết, khi vội vàng quay đầu lại nhìn thì chỉ thấy trên vùng đất trông trải vốn tối mít đã lấp lánh ánh lửa, hùng dũng tràn về Hợp Phì.

Thấy thanh thế lớn như thế này, ít nhất cũng phải có tới mấy vạn người.

Có thân binh gào lớn: “Tướng quân, có địch tập!”

“Ừ.” Hoàng Cái trầm giọng nói: “Bản tướng quân sớm biết quân Lương đã giết tới Hợp Phì, nhưng không ngờ Cao Thuận lại công thành ngay trong đêm!”

Hoàng Bính bước lên trước một bước, hỏi: “Phụ thân, hiện tại nên làm thế nào?”

Hoàng Cái rút kiếm ra quát: “Truyền lệnh toàn quân lên đầu thành, chuẩn bị ứng chiến!”

Hoàng Bính nói: “Phụ thân, có cần phái người cấp báo cho Đinh Phụng tướng quân, để thủ quân ở Bến Tiêu Diêu tới trợ chiến không?”

“Tạm thời chưa cần.” Hoàng Cái dẫu sao cũng là bách chiến túc tướng, lắc đầu nói: “Trước tiên xem xem thế công của quân Lương thế nào đã rồi hẵng nói. Nếu quân Lương chỉ là muốn quấy nhiễu chứ không phải toàn lực công thành, vậy thì không cần phải kinh động tới thủ quân ở Bến Tiêu Diêu.”

“Vâng, phụ thân.” Hoàng Bính ôm quyền vái một cái, rồi quay người lại quát thân binh ở phía sau: “Còn không mau đi triệu tập quân đội. Nhanh lên!”

“Tuân lệnh!”

“Tuân lệnh!”

“Tuân lệnh!”

Mười mấy thân binh rầm rầm vâng lệnh, nhao nhao lĩnh mệnh mà đi.

Khi đại đội quân Ngô từ trong mộng tỉnh lại, giáp trụ chỉnh tề chạy lên đầu thành thì đại quân Tây Lương hung dũng ập tới cũng vừa hay giết đến dưới thành Hợp Phì. Nằm ngoài dự đoán của Hoàng Cái là đại quân Tây Lương ngay từ lúc ban đầu đã khởi xướng một cuộc tấn công nhanh chóng và mạnh mẽ về phía thành Hợp Phì! Nhờ có sự yểm hộ của bóng đêm, đại quân Tây Lương rất nhanh liền dùng thang mây lót ván gỗ dựng lên mấy chục cầu phao đơn giản bên trên sông hộ thành.

Bỗng nhiên, Tây Lương hàn tốt đã khênh thang mây áp sát tường thành Hợp Phì, trong cây lăn, lôi thạch xen lẫn với những mũi tên dày đặc, từ trên đầu thành trút xuống, sĩ tốt quân Lương dưới tường thành không có chỗ giấu mình, ngã rạp từng mảng, nhưng sự tấn công của quân Lương không hề vì thế mà dừng lại, có càng nhiều binh sự hung hãn không sợ chết chen nhau lao tới dưới tường thành.

Cuối cùng, mấy chục chiếc thang mây đã được dựng lên, hơn trăm Tây Lương hãn tốt dưới sự suất lĩnh của tiểu giáo lĩnh quân hứng chịu gỗ lăn, lôi thạch cùng với những mũi tên nhọn trút xuống như mưa, gi­an nan trèo lên đầu thành Hợp Phì. Thế công của quân Lương phi thường mạnh mẽ, từng nồi từng nồi dầu sôi từ trên đầu thành đổ xuống, thiêu cho phía dưới tường thành trở thành một mảng tu la luyện ngục, nhưng cho dù vậy vẫn không thể ngăn cản được sự tiến công của quân Lương.

Đầu thành Hợp Phì, Hoàng Cái rõ ràng đã cảm thấy áp lực.

“Phụ thân!” Hoàng Bính bước lên nói: “Thế công của quân Lương phi thường mãnh liệt, trong thành Hợp Phì chỉ có hai ngàn người, nếu không có viện quân tới thì e rằng rất khó chống đỡ được cho tới khi trời sáng đó!”

“Ồ.” Mắt Hoàng Cái lóe sáng, trầm giọng quát: “Bính nhi mau chóng tới đại trại thủy quân ở Bến Tiêu Diêu, lệnh cho Đinh Phụng dẫn năm ngàn tinh binh tới trợ chiến!”

“Hài nhi tuân lệnh.”

Hoàng Bính ôm quyền vái một cái rồi quay người rời đi.

Đinh Phụng bị tiếng hô chém giết chói tai làm cho giật mình tỉnh giậy, khi vội vàng mặc giáp trụ chạy ra trước trại thì mới phát hiện bên ngoài cửa tây Hợp Phì tiếng chém giết rung trời, ánh lửa hừng hực đã ánh đỏ cả bầu trời.

Trong tiếng bước chân gấp rút và hỗn tạp, lại có mấy chục tướng lĩnh thủy quân nối gót nhau đi tới.

“Tướng quân, trông thế này thì chắc là quân Lương đang mãnh công thành Hợp Phì rồi.”

“Trong thành Hợp Phì chỉ có hai ngàn thủ quân, e rằng là không chống đỡ được, có phải nên lập tức phái ra viện quân không?”

“Không được!” Đinh Phụng kiên quyết nói: “Chưa có quân lệnh của Hoàng Cái tướng quân, tuyệt không được tự tiện xuất binh.”

“Đinh tướng quân!” Đinh Phụng vừa dứt lời, phía trước đột nhiên truyền tới tiếng hô lanh lảnh và cấp bách: “Đinh phụng tướng quân ở đâu?”

“Mạt tướng ở đây!” Đinh Phụng hô: “Người vừa tới có phải là Hoàng Bính tướng quân không?”

“Chính là mạt tướng.” Hoàng Bình nghênh đón Đinh Phụng, ôm quyền thở hổn hển nói: “Phụng lệnh của gia phụ, xin tướng quân mau chóng phái viện quân!”

“Mạt tướng tuân lệnh!” Đinh Phụng ầm ầm ứng tiếng, quay đầu lại quát hơn mười tướng lĩnh thủy quân ở phía sau: “Đinh Phong (đệ đệ của Đinh Phụng) dẫn binh mã bản bộ ở lại thủ đại trại, những tướng khác thì dẫn binh mã bản bộ theo bản tướng quân hỏa tốc tăng viện cho Hoàng lão tướng quân.”

“Tuân lệnh!”

Hơn mười tướng lĩnh thủy quân ầm ầm ứng tiếng.

Hợp Phì tổng cộng có bốn cửa. Cửa bắc, tây, nam đều có sáu đường thông nhau, duy có cửa đông thì được xây dựng đối diện với Phì thủy, đoạn tường thành phía đông của thành Hợp Phì ăn sâu vào Phì Thủy mấy trượng, cờ hồ là xây dựng trên mặt nước. Do đó chỉ có thủy quân mới có thể từ đường thủy mà khởi xướng tấn công cửa đông Hợp Phì. Kề sát cửa đông Hợp Phì chính là bến phà, trên bên phá có mấy trăm chiến thuyền lớn nhỏ đang bỏ neo, có hai binh sĩ đang canh gác ở trên đài quan sát.

Hai chiếc thuyền nhẹ khác thì đi lại tuần tra trên mặt sông, trừ điều đó ra thì quân doanh gần bến phà nhất cũng ở ngoài năm mươi mét.

Ngoài cửa nam Hợp Phí ánh lửa sáng rực, tiếng hò hét chém giết rung trời, ngoài cửa đông thì yên tĩnh như quỷ mị. Dưới ánh trăng u ám, từng đám lau sậy trên mặt được đột nhiên không gió mà động, những bụi cỏ lau lắc lư tiến về phái đài quan sát ở bên phải bến đò.

Trên đài quan sát.

Hai binh sĩ quân Ngô đang buồn chán kiểm tra mặt nước đen xì ở bốn phía, nhưng căn bản không ngờ tới một thân ảnh đen mờ đã bò lên đài quan sát ở phía sau hắn. Hàn quang lóe lên, sĩ binh quân Ngô ở gần Cẩm Phàm thủy tặc còn chưa kịp phát ra tiếng kêu thì cổ họng đã bị cắt đứt. Một quân sĩ quân Ngô khác nghe thấy động tĩnh, vừa quay đầu lại thì cảm thấy cổ họng lạnh toát, lập tức có một khuôn mặt dữ tợn đập vào mắt hắn, binh sĩ quân Ngô giật nảy mình, vội vàng há miệng định thét to. Đáng tiếc rằng truyền vào tai hắn chỉ là một tiếng ọc ọc, đó chính là tiếng máu tràn ra ngoài yết hầu.

Cẩm Phàm thủy tặc đánh lén đắc thủ, lập tức cho hai ngón tay vào trong miệng, dưới bầu trời đêm trong khoảnh khắc vang lên hai tiếng kêu thê lương của chim nước.

“Rào rào rào…”

Trong tiếng bọt nước bắn tung tóe, vô số thân ảnh đen mờ từ trong bụi lau sậy ở bên bến phà phi ra như quỷ mị, nhanh chóng tiến đến chỗ mấy trăm chiến thuyền ở trên bến phà. Đợi khi hai chiếc thuyền nhẹ đang đi lại trên mặt nước phát hiện ra tình hình khác lạ, đi tới quan sát thì hai ngàn Cẩm Phàm thủy quân đã cướp được mấy trăm chiếc chiến thuyền lớn nhỏ rồi cưỡi sóng mà đi rồi.

Trên mũi thuyền của thuyền đi đầu, Cam Ninh kéo cung cài tên, sớm đã có Cẩm Phàm tặc bước lên đốt vải dầu bọc trên mũi tên, chỉ nghe thấy ong một tiếng, mũi tên lửa đã xé không bay lên, trong bầu trời đen xì vạch ra một quỹ tích chói mắt, mặc dù ở xa ngoài mấy trăm bước cũng vẫn có thể nhìn thấy rõ ràng.



Theo một tiếng kèn lệnh thê lương, đại quân Tây Lương đang chen chúc dưới thành Hợp Phì đột nhiên rút nhanh như thủy triều. Hoàng Cái thở phào một hơi nhẹ nhõm, chống trường đao xuống đất rồi thở dốc kịch liệt. Vừa rồi đúng là kinh hiểm quá, nếu năm ngàn tinh binh của Đinh Phụng tới chậm chỉ chốc lát, có lẽ thành Hợp Phì đã bị của công phá rồi.

“Lão tướng quân.” Đinh Phụng bước lên trước, hỏi một cách quan tâm: “Ngài không sao chứ?”

“Không sao.” Hoàng Cái lắc lắc đầu, thở dốc nói: “Bản tướng quân chỉ là tuổi tác lớn rồi, thể lực có chút giảm sút nên không chịu được.”

“Báo…” Hoàng Cái vừa dứt lời, đột nhiên có tiểu lại bước vội lên lầu thành, quỳ xuống đất báo cáo: “Tướng quân, đại sự không xong rồi!”

“Ồ!” Hoàng Cái trầm giọng hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì vậy?”

Tiểu giáo hổn hển nói: “Mấy trăm chiếc chiến thuyền lớn nhỏ bỏ neo ở bến phà ngoài cửa đông bị cướp rồi!”

“Cái gì?” Đinh Phụng nghe vậy giật nảy mình, cao giọng quát: “Không thể nào! Cẩm Phàm thủy quân của Cam Ninh đang kịch chiến với thủy quân của Tưởng Khâm tướng quân tại Hoài Âm, trừ Cẩm Phàm thủy quân của Cam Ninh ra, trong quân Tây Lương hiện tại không còn thủy quân nào nữa, bằng vào mười vạn lính không biết bơi của Cao Thuận, chẳng lẽ có thể phóng ngựa trên mặt nước mà cướp chiến thuyền ư?”

Tiểu giáo hoảng hốt nói: “Tướng quân, chiến thuyền đúng là bị cướp rồi!”

“Hỏng rồi!” Hoàng Cái sầu thảm nói: “Là lão phu nhất thời sơ ý! Trước khi đi, đại đô đốc từng dặn đi dặn lại lão phu rằng phải đề phòng Cẩm Phàm tặc của Cam Ninh, không ngờ lại lão phu vẫn lơ là sơ suất.”

“Báo…” Hoàng Cái vừa dứt lời, lại có tiểu giáo rảo bước lên lầu thành, quỳ xuống đất nói: “Hướng Bến Tiêu Diêu ánh lửa ngập trời, đại trại thủy quân đang bị quân Lương tập kích!”

“Lão tướng quân.” Đinh Phung lo lắng nói: “Hiện tại phải làm thế nào bây giờ?”

Hoàng Cái ngẩng mặt lên trờ thở dài: “Chiến thuyền bị cướp đoạt rồi, quân ta đã không thể quay về cứu Bến Tiêu Diêu được nữa, cũng không thể ngăn cản được đại quân của Cao Thuận bắc độ Phì Thủy tới Thọ Xuân nữa rồi. Ài, lã phụ hổ thẹn với đại đô đốc.”

Nói xong, Hoàng Cái đột nhiên rút kiếm, nhanh như điện xẹt cắt lên cổ mình.

Khi Đinh Phụng vội vàng vội vàng lao lên hòng đoạt lấy bảo kiếm của Hoàng Cái thì đã muộn, chỉ kịp đỡ lấy thi thể của Hoàng Cái, không khỏi sầu thảm kêu: “Lão tướng quân…”

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 344: Chu Du có thể sẽ chó cùng rứt giậu (2)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Mã Dược và bốn người Giả Hủ, Lý Túc, Lỗ Túc, Khoái Việt dưới sự hộ vệ của Điển Vi và mấy trăm thiết kỵ giục ngựa chậm rãi xuất trận. Ở phía trước không xa, đài đất do Lỗ Túc, Khoái Việt phụ trách đã xây được một nửa, một đài đất lớn cao hơn cả tường thành Thọ Xuân chỉ còn cách đầu thành Thọ Xuân không tới năm mươi trượng, hai ngàn cung tiễn thủ của quân Lương xếp thành mười tung đội, đang bắn nhau với cung tiễn thủ của quân Ngô trên đầu thành Thọ Xuân.

Giữa mười tung đội do cung tiễn thủ xếp thành, sĩ binh Tây Lương thiết kỵ giống như nước chảy không ngừng đang vận chuyển từng sọt từng sọt đất lên đài dất. Sau đó lại nhắm về phía đầu thành Thọ Xuân mà đổ xuống, theo mỗi một sọt đất được đổ xuống, đài đất ở dưới chân đại quân Tây Lương liền không gì ngăn trở men thêm từng phân về phía thành Thọ Xuân. Hai mươi ngày nay, quân Lương chính là bằng vào chiêu số nhìn thì ngu ngốc nhưng căn bản không có cách nào phá giải này mà từng bước áp sát thành Thọ Xuân.

Mã Dược đắc ý nói: “Xem ra Chu Du đúng là cũng bó tay với thuật lấy đất lấp thành này của Tử Kính rồi, ha ha.”

Lỗ Túc nói: “Thừa tướng ngàn vạn lần đừng xem nhẹ Chu Du, Túc có thể đoán định, Chu Du tất sẽ có cách phá giải.”

Mã Dược hỏi ngược lại: “Năm đó Tử Kính và Chu Du luận chiến, Chu Du có phá giải được thuật lấy đất lấp thành này của Tử Kính không?”

Lỗ Túc lắc đầu nói: “Lúc đó thì không, có điều chuyện đã qua hơn chục năm rồi, Công Cẩn khẳng định đã nghĩ ra cách phá giải rồi.”

“Cái đó cũng chưa chắc.” Mã Dược nói: “Biện pháp lấy đất lấp thành này trôngthì rất ngốc nghếch, nhưng lại ngốc rất hay. Cơ hồ là không thể nào phá giải được. Nói chung cô không nghĩ ra được biện pháp phá giải, chư vị có thể nghĩ ra cách phá giải không?”

Bọn Giả Hủ, Khoái Việt, Lý Túc đều đồng thời lắc đầu.

Lỗ Túc nói: “Có điều Túc cho rằng, Công Cẩn chắc chắn có thể nghĩ ra cách phá giải!”

“Không thể.” Mã Dược hờ hững nói: “Cái này gọi là binh tới thì tướng ngăn, nước tới thì đất chặn. Cho dù Chu Du phá được thuật lấy đất lấp thành của Tử Kính thì cô cũng có biện pháp khác để đả bại hắn.”

“Binh tới thì tướng ngăn, nước tràn thì đất chắn?”

Lỗ Túc lẩm bẩm lại hai câu này rồi rơi vào trầm tư.

“Đợi xem kịch hay đi.” Mã Dược đắc ý nói: “Cô có chút nóng lòng muốn được xem biểu hiện của Chu Du, hi vọng Mỹ Chu Lang đừng khiến cô thất vọng, ha ha ha.”

“Báo…” Mã Dược vừa dứt lời, đột nhiên có khoái mã phi tới, cao giọng hét: “Chúa công, Cao Thuận tướng quân đưa cấp báo!”

“Hả, Cao Thuận ư?” Sắc mặt của Mã Dược vui mừng, cao giọng hô: “Mau nói đi!”

Kỵ binh đó ghìm ngựa lại, hổn hển nói: “Ba ngày trước, Cam Ninh tướng quân dạ tập Bến Tiêu Diêu, đại phá thủy quân Đông Ngô. Ngày hôm sau, Cao Thuận tướng quân cùng Cam Ninh tướng quân từ hai đường thủy lục mãnh công Hợp Phì. Đông Ngô thủ tướng Hoàng Cái tự sát, Đinh Phụng, Hoàng Bính chiến tử. Giờ hai vị tướng quân Cao Thuận, Cam Ninh mỗi người dẫn đại quân dọc theo hai đường thủy lục tiến nhanh tới Thọ Xuân, qua năm ngày nữa là có thể tới ngoài thành Thọ Xuân rồi!”

“Tốt!” Mã Dược phấn khích nói: “Không hổ là Cao Thuận, nhanh như vậy đã công phá được Bến Tiêu Diêu rồi!”

“Thế thì tốt rồi.” Lý Túc, Giả Hủ cũng vỗ tay chúc mừng, vui vẻ nói: “Chỉ cần hãm trận doanh của Cao Thuận tướng quân có thể kịp thời tới nơi, cho dù Chu Du có thể phá được thuật lấy đất lấp thành của Tử Kính thì e rằng cũng không thủ được Thọ Xuân đâu!”

“Thừa tướng!” Lỗ túc đột nhiên nói: “Túc nghĩ ra Công Cẩn sẽ có thể áp dụng cách gì để phá giải rồi.”

“Hả?” Mã Dược nói: “Vậy Tử Kính mau mau nói ra đi.”

Lỗ Túc nói: “Vừa rồi một câu nước tới thì đất chắn của thừa tướng đã nhắc nhở Túc, Túc cho rằng Công Cẩn rất có khả năng sẽ dẫn nước để làm đổ đài đất!”

“Dẫn nước vào Thọ Xuân?” Mã Dược nghiên nghị nói: “Chu Du nếu như dẫn nước làm ngập Thọ Xuân, hai mươi vạn đại quân của cô tất nhiên khó thoát được một kiếp, nhưng quân Ngô trong thành Thọ Xuân há không phải là cũng bị chết chìm theo sao? Còn mấy trăm vạn bách tính trên bình nguyên Hoài Nam nữa, sau hồng thủy, Đông Ngô sẽ lấy gì mà nuôi sống bọn họ? Tôn Quyền, Chu Du chắc sẽ không thể làm như vậy chứ?”

“Không không không.” Lỗ Túc liên tục xua tay nói: “Quân Ngô sẽ không dẫn nước làm ngập cả Thọ Xuân, càng sẽ không nhấn chìm cả bình nguyên Hoài Nam, bọn họ chỉ cần đào một cái lỗ nhỏ ở trên đê Hoài Hà, do mực nước của Hoài Hà vốn cao hơn mặt đất, cho nên nước Hoài Hà sẽ thuận thế mà đổ xuống, đánh sập đài dất! Cơn hồng thủy cỡ nhỏ này cho dù không đánh sập được đài đất thì cũng sẽ khiến cả tòa đài đất mềm ra, biến thành lầy lội bất kham, quân ta một khi rơi vào trong đó thì chỉ có thể trở thành bia sống để cung tiễn thủ quân Ngô tập bắn mà thôi.”

“Ặc…” Mã Dược thất thanh nói: “Bùn đất gặp nước tất sẽ tan, đây đúng là cách phá giải!”

“Ái chà!” Giả Hủ đột nhiên vỗ đầu, sợ hãi nói: “May mà Tử Kính nhắc nhở kịp thời, nếu không hậu quả có thể là không tưởng tượng nổi.”

“Ồ?” Mã Dược hỏi Giả Hủ: “Văn Hòa lại nghĩ tới gì đó ư?”

“Ặc…” Giả Hủ vội vàng nói: “Không có gì, không có gì, Hủ nói là nếu không phải có Tử Kính nhắc nhở kịp thời, lần này rất có thể sẽ bị tên gia hỏa Chu Du này chơi lại một vố rồi.”

Mã Dược cùng Giả Hủ cấu kết làm việc xấu với nhau nhiều năm, há lại không thể nhìn ra Giả Hủ rõ ràng có lời mà không nói ra. Lập tức nói với Lỗ Túc, Khoái Việt: “Thế này…. đây chỉ là suy đoán của Tử Kính, thằng nhãi Chu Du vị tất đã có thể nghĩ ra được. Cô không muốn làm phiền công tác của Tử Kính và Dị Độ nữa, các ngươi tiếp tục làm việc đi. Ha ha, cô và quân sư đi dạo ở chỗ khác một lúc.”

Lỗ Túc, Khoái Việt nói: “Vậy thì cung tống thừa tướng.”

Mã Dược xua xua tay, cùng Giả Hủ, Lý Túc giục ngựa bỏ đi.

Cho đến khi cách xa Lỗ Túc, Khoái việt, Mã Dược mới thấp giọng hỏi: “Văn Hòa vừa rồi còn chưa nói hết lời?”

“Chúa công.” Giả Hủ ánh mắt trở nên ngưng trọng, trầm giọng nói: “Vừa rồi từ những gì mà Tử Kính nói ra, khiến tại hạ nghĩ tới một loại khả năng cực kỳ đáng sợ! Chỉ cần Tôn Quyền, Chu Du đủ ác độc, lần này Thọ Xuân chi chiến có lẽ không cần phải đợi tới tháng sáu vào mùa mai vàng, quân Ngô đã có thể tiêu diệt toàn bộ đại quân hai mươi vạn kỵ binh dưới trướng chúa công cùng với mười vạn tinh nhuệ dưới trướng Cao Thuận tướng quân ngay dưới thành Thọ Xuân này rồi!”

“Hả?” Mã Dược đại kinh thất sắc nói: “Có khả năng này ư?”

Giả Hủ nói: “Chúa công cứ bình tĩnh, thong thả nghe Hủ nói kỹ càng đã.”



Một hỏa đầu quân mang hai thùng cháo vừa đi lên đầu thành, một làn mưa tên từ trên đài cao do đất xây lên ở ngoài mấy chục trượng từ trên cao bắn xuống, hỏa đầu quân không kịp phòng bị, lập tức cả người trúng mấy tiễn rồi tuyệt khí thân vong, hai thùng cháo gánh trên vai cũng trước sau rơi xuống đất, hai binh sĩ quân Ngô cách đó không xa vội vàng lao lên, thò tay ra muốn đón lấy hai thùng gỗ.

Hai si binh quân Ngô vừa thò tay ra, do đó không thể không bỏ thuẫn bài che trên đầu xuống, vì thế liền hoàn toàn bạo lộ cả thân thể dưới tầm nhìn của cung tiễn thủ quân Lương.

“Vút vút!” T

Lai là một màn mưa tên dày đặc được bắn tới, hai binh sĩ quân Ngô trúng mấy mũi tên rồi ngã trong vũng máu.

“Tây Lương mã tặc đáng chết!” Một tiểu giáo quân Ngô co rút mình sau lỗ châu mai ác độc chửi hai tiếng, muốn đi lên kéo thi thể của hai sĩ tốt chết trận về, nhưng hắn vừa khênh hai thi thể của binh sĩ lên, còn chưa kịp chạy về nấp sau lỗ châu mai thì trên đài cao ở đối diện đã xuất hiện một hãi tốt Tây Lương cường tráng, kéo cung đặt tên, thổ khí khai thanh, chỉ nghe thấy vút một tiếng, một mũi lợi tiễn đã xé không bắn tới.

“Vút!”

Mũi tên sắt sắc bén dễ dàng bắn dứt khăn quấn trên đầu của tiểu giáo quân Ngô, rồi xuyên thẳng qua đầu.

“Hự…”

Tiểu giáo quân Ngô hô thảm một tiếng, lưng mang thi thể của binh sĩ khó nhọc quay đầu lại, sau cùng trừng mắt hung ác nhìn về đài cao do đất dây thành ở không xa. Trên đài cao, mấy cung tiễn thủ của quân Lương đang vây lấy một tiểu giáo quân Lương cường tráng mà hoan hô. Tiểu giáo quân Ngô đầu nghẹo lên đầu thành, đến chết vẫn trợn tròn hai mắt, có thể nói là chết không nhắm mắt.

Chu Du, Lữ Mông, Lục Tốn đang nghị sự thì Thái Sử Từ lo lắng không yên xông vào đại, trướng, nói với Chu Du: “Đại đô đốc, đài cao do quân Lương lấy đất đắp thành chỉ còn cách đầu thanh Thọ Xuân không tới ba mươi trượng, Mã đồ tể đáng chết ỷ vào binh nhiều, sai mấy vạn cung tiễn thủ chia thành mười đội, luân phiên lên đài đất từ trên cao bắn xuống đầu thành Thọ Xuân. Tướng sĩ thủ trên đầu thành bị cung tên của quân Lương ép cho không thể động đậy, hiện tại ngay cả hỏa phu cũng không lên được, các tướng sĩ đều đói đến sắp chết rồi!”

“Ồ.” Chu Du gật đầu, hờ hững nói: “Bản đô đốc đã biết rồi.”

“Đại đô đốc.” Thái Sử Từ lo lắng nói: “Phải nhanh chóng nghĩ biện pháp hủy đi đài cao của quân Lương, nếu không thành Thọ Xuân không thủ được đâu!”

“Thái Sử Từ chớ có lo lắng như vậy.” Chu Du xua tay nói: “Bản đốc đã có an bài rồi. Ít ngày nữa là có thể hủy đi đài cao của quân Lương, quân Lương không còn càn rỡ được mấy ngày nữa đâu. Xin tướng quân truyền quân lệnh của bản đốc, bảo các tướng sĩ kiên trì thêm ít hôm nữa.”

“Hừ.” Thái Sử Từ bực bội giậm giậm chân rồi quay người bỏ đi.

Nhìn theo thân ảnh của Thái Sử Từ rời đi, Từ Thứ quay đầu lại nhìn Chu Du, hỏi khẽ: “Đai đô đốc thật sự có cách phá giải rồi ư!”

Chu Du mặc lộ ra vẻ lạnh lùng, không đáp mà hỏi ngược lại: “Nguyên Trực cho rằng thế nào?”

“Ài.” Từ Thứ lắc đầu thở dài một tiếng, nói: “Tuy có cách phá giải, nhưng không thể tùy tiện áp dụng được.”

Chu Du đứng dậy, chắp tay đi tới trước trướng, nhìn bầu trời bao la ở bên ngoài, nói: “Không tới vạn bất đắc dĩ, bản đốc thực sự không nguyện ý làm vậy.”

“Đại đô đốc!” Chu Du vừa dứt lời, đột nhiên có tiểu giáo hoảng sợ lao vào trướng, quỳ xuống bẩm báo: “Hợp Phì cấp báo!”

“Hợp Phì ư?” Chu Du giật thót tim, vội vàng bảo: “Mau nói đi!”

Tiểu giáo run giọng nói: “Ba ngày trước, Hợp Phì, Bến Tiêu Diêu đã thất thủ. Hoàng Cái lão tướng quân tự sát, Đinh Phụng, Hoàng Bính chiến tử, tám ngàn thủ quân toàn quân bị tiêu diệt! Mười vạn đại quân của Cao Thuận đang từ hai đường thủy, lục tiến nhanh tới Thọ Xuân. Tám ngàn tiên phong thiết kỵ do Tây Lương hãn tướng Hứa Chử xuất lĩnh đã chỉ còn cách năm mươi dặm!”

“Hả?”

Từ Thứ, Lữ Mông, Lục Tốn ba người nghe vậy đều thất kinh, sắc mặt của Chu Du đột nhiên cũng trầm xuống, một hồi lâu vẫn không nói gì. Bầu không khí trong đại trướng giống như là cô đọng thành đặc quánh, nặng nề đến mức khiến người ta ngạt thở. Sau cả nửa ngày, Chu Du mới thở dài một hơi, vẻ mặt khôi phục lại như cũ, quay đầu lại nói với Lục Tốn: “Bá Ngôn, ngươi nên tới bến Duyên Phong rồi.”

Lục Tốn chắp tay vái một cái rồi nghiêm nghị nói: “Mạt tướng tuân lệnh.”

Nhìn theo thân ảnh của Lục Tốn rời đi, Chu Du lại thở dài một tiếng, nói với Lữ Mông: “Tử Minh, tiếp theo là phải dựa vào thủy quân đo.”

“Xin đại đô đốc yên tâm.” Lữ Mông nghiêm nghị nói: “So với kỵ chiến, bộ chiến thì quân ta có lẽ không bằng được quân Ngô, nhưng luận về thủy chiến thì quân Lương lại kém xa chúng ta!”

“Ừ.” Chu Du gật đầu, phất tay nói: “Từ Minh mau đi chuẩn bị đi.”

“Mạt tướng cáo lui.”

Lữ Mông chắp tay vái một cái rồi quay người rời đi.

Chu Du lúc này mới nói với Từ Thứ: “Nguyên Trực, hiện tại nên tới phủ Ngô công rồi.”

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 344: Chu Du có thể sẽ chó cùng rứt giậu (3)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Nghe xong suy đoán của Giả Hủ, Mã Dược nói: “Văn Hòa muốn nói là Chu Du rất có khả năng sẽ mở đục Hoài Hà, nhấn chìm Thọ Xuân ư?”

Giả Hủ nói: “Khi bại cục của quân Ngô đã không thể vãn hồi, Chu Du rất có khả năng sẽ chó cùng rứt giậu.”

“Nước từ đâu mà tới?” Lý Túc nói: “Nước sông Hoài Hà tuy hơi cao hơn mặt đất, nhưng lại không cao hơn bao nhiêu.”

Giả Hủ hỏi ngược lại: “Tử Nghiêm chẳng lẽ không nghe Tử Kính nói rằng mực nước sông Hoài Hà năm nay hơi thấp hơn nắm ngoái ư?”

Mã Dược nghiêm nghị nói: “Tử Kính quả nhiên có nói như vậy.”

“Trên thực tế, năm ngoái một giải Đại Biệt sơn không hề gặp đại hạn, nhưng mặt nước vì sao lại vẫn hơi thấp?” Giả Hủ trầm giọng nói: “Điều này chỉ có một loại khả năng, đó chính là quân Ngô đã vây đập tích nước ở thượng du Hoài Hà.”

“Vây đập tích nước?” Lý Túc thất thanh nói: “Vậy phải phát động bao nhiêu lao dịch!”

Giả Hủ nói: “Chẳng lẽ Tử Nghiêm quên hơn ba vạn bách tính từ Từ Châu vào Hoài Nam rồi ư?”

“Hiểu rồi!” Lý Túc nghiêm nghị nói: “Thì ra là như vậy.”

“Chu Du tính toán giỏi lắm!” Mã Dược thở dài nói: “Tên mặt trắng này phí tâm cơ chuyển ba vạn bách tính từ Từ Châu và Hoài Nam, thật đúng là dụng tâm đến khổ! Nếu Tây Lương đại quân của cô trước mùa mưa dầm không thể công phá Thọ Xuân mà bị bức phải rút lui, vậy chỉ cần chịu đựng tới khi mùa thua gặt chín muồi, hơn ba trăm vạn bách tính này sẽ có thể từ gánh nặng biến thành hậu thuẫn cường đại của Tôn Ngô!”

“Chúa công nói không sai.” Lý Túc phụ họa: “Chỉ cần chịu đựng tới mùa thu, mùa thu hoạch của hơn ba trăm vạn truân điền bách tính này chín muồi, quân Ngô không những có thể thu hoạch được nguồn mộ lính sung túc, mà còn có thể khiến quận Hoài Nam biến thành một kho lúa lớn siêu cấp, cung cấp quân lương cuồn cuồn không ngừng cho quân Ngô bắc phạt Trung Nguyên!”

“Đây chỉ là điều thứ nhất.” Mã Dược nói tiếp: “Dụng cơ của Chu Du không phải chỉ có vậy thôi đâu.”

Giả Hủ nói: “Khi bại thế của quân Ngô ở Thọ Xuân đã định, khẳng định không thể thủ vững tới mùa mưa dầm thì Tôn Quyền, Chu Du sẽ được ăn cả ngã về không mở đập tích nước ở thượng du Hoài Hà mà nhấn chìm Thọ Xuân! Trong phương viên hai trăm dặm quanh Thọ Xuân đều là đất trũng, khi hồng thuỷ làm vỡ đê Hoài Hà rồi hóa đất trũng thành biển, ba vạn thủy quân Đông Ngô sẽ tạo thành uy hiếp trị mạng cho đại quân của chúa công, đây chính là điều thứ hai.”

Mã Dược nói: “Nếu quân ta sớm có phòng bị, ba vạn thủy quân Đông Ngô không thể chuyển bại thành thắng tiêu diệt hai mươi vạn đại quân của cô, trận hồng thủy ngập trời này cũng có thể chìm ngập một nửa lớn Hoài Hà, ba trăm vạn bách tính đồn điền từ Từ Châu tới Hoài Nam sẽ không thu hoạch được một hạt lúa nào, mà cô là thừa tướng của Đại Hán, đối mặt với mấy trăm vạn dân đói chờ xin thực phẩn sẽ không thể nhắm mắt làm ngơ. Cô tất sẽ phải lấy toàn bộ quân lương ra để cứu tế tai dân. Quân lương một khi hết sạch, quân ta sẽ mất đi cơ hội thừa thắng truy kích, đó là điều thứ ba!”

“Không hổ là Chu Du.” Lý Túc kích động nói: “Kế này hoàn toàn là kín kẽ, có thể nói là áo trời không vết rách, đặc biệt lơi hại là Chu Du lợi dụng đầy đủ nhược điểm thương cảm bách tính của chúa công mà hạn chế quân ta. Quân Ngô chưa đánh đã đứng ở thế bất bại, chúa công và quân sư cho dù nhìn thấu quỷ mưu của Chu Du, thì hình như vẫn không có kế nào để phá giải!”

“Đích xác là không có kế nào để phá giải cả.” Mã Dược nói: “Có điều, Chu Du thật sự sẽ làm vậy ư?”

Giả Hủ nói: “Chúa công, không thể không đề phòng được.”

Mã Dược nói: “Văn Hòa cho rằng quân ta nên ứng phó như thế nào đây?”

Giả Hủ nói: “Chu Du nếu như thật sự quyết định sẽ nhấn chìm Thọ Xuân, khẳng định sẽ đợi đến khi tả lộ đại quân của Cao Thuận tướng quân cũng tới dưới thành Thọ Xuân thì mới động thủ, cũng chính là nói, quân ta ít nhất còn có hai ngày thời gi­an để chuẩn bị! Chuyện cấp bách nhất là phải chuyển lương thảo và quân nhu tới chỗ cao, hơn nữa hành động phải bí mật, tốt nhất đừng để cho thám báo của quân Ngô phát giác!”



Tôn Quyền đưa lưng về phía Chu Du, Từ Thứ một hồi lâu rồi mới u sầu nói: “Trừ cách này ra thì thực sự không còn có biện pháp nào khác nữa ư?”

Chu Du nói: “Chúa công, thực sự là không còn biện pháp nào khác nữa rồi.”

Tôn Quyền nói: “Công Cận có nghĩ tới hậu quả khi làm vậy không?”

“Đã nghĩ tới rồi.” Chu Du thở dài một tiếng, đáp: “Sau trận chiến này, bách tính Hoài Nam tất sẽ coi quân ta là hồng thủy mãnh thú, chúa công muốn đặt chân lên Gi­ang Bắc có thể nói là khó hơn lên trời.”

“Được rồi.” Tôn Quyền thở dài nói: “Công Cẩn cứ phóng tay mà làm đi, cô toàn lực ủng hộ ngươi.”



Trương Nhậm hỏi Ngô Lan: “Quân Tào gần đây có động tĩnh gì không?”

Ngô Lan nói: “Vẫn tu sửa sạn đạo ở huyền nhai Gi­ang Hữu, nhìn thì có vẻ là Tào Tháo quyết tâm muốn vòng qua dịch đạo Gi­ang Tả, định từ Gi­ang Hữu tạc một sạn đạo mới để vào Xuyên.”

“Vẫn đang tu sửa sạn đạo ư?” Trương Nhiệm nhíu mày nói: “Chuyện này có chút cổ quái. Nếu muốn từ Di Lăng xây một sạn đạo thông thẳng tới Vĩnh An, kiểu gì cũng phải tốn thời gi­an tám đến mười năm. Đợi khi Tào Tháo sửa xong sạn đạo này thì e rằng ngay cả hoa cúc vàng cũng héo rồi. Tới lúc đó không đợi quân Tào vào Xuyên, đại quân của thừa tướng chắc đã rời Xuyên giết tới Kinh Châu rồi.”

“Chẳng lẽ đây chỉ là kế nghi binh của Tào Tháo ư?”

“Đây khẳng định là kế nghi binh.” Trương Nhiệm nói rất quả quyết: “Chẳng lẽ noi theo Cao Tổ minh tu sạn đạo, ám độ Trần Thương ư? Nhưng Xuyên Bắc có Trần Thương tiểu đạo có thể từ Tây Xuyên thông thẳng tới Quan Trung. Ba Đông này lại không có một con đường nhỏ nào có thể từ Kinh Châu thông thẳng tới Tây Xuyên, tên gia hỏa Tào Tháo này rốt cuộc là muốn làm gì đây?”

Ngô Lan nói: “Mặt kệ hắn muốn gì, chúng ta chỉ cần thủ được dịch đạo Gi­ang Tả thì coi như là kẹp được yết hầu của Tào Tháo rồi, quân Tào muốn vào Xuyên chỉ là điều si tâm vọng tưởng.”

“Cẩn thận một chút thì vẫn tốt hơn.” Trương Nhiệm nghĩ một lúc vẫn thấy không an tâm, liền nói với Lôi Đồng: “Lôi Đồng, ngươi cưỡi ngựa về Vĩnh An, bẩm bảo lo lắng và suy đoán của bản tướng quân với Trương Tú tướng quân và Trương Tùng đại nhân đi.”

“Tuân lệnh.”

Lôi Đồng không dám trậm chễ, vội vàng lĩnh mệnh rời đi.



Mắt thấy con đường ở phía trước biến thành càng lúc càng phẳng, càng lúc càng thông thoáng, Tào Tháo không khỏi thở ra một hơi, thản nhiên quay đầu lại, chỉ thấy ở đằng sau núi non trùng điệp, mây trắng lượn lờ, con đường nhỏ như ruột dê giống như là một sợi tơ phe phẩy trong không trung, chập chờn giữ núi non hùng vĩ, khiến người ta thấy mà khiếp sợ.

“Chúa công!” Trương Cáp giục ngựa tới phía sau Tào Tháo, cao giọng nói: “Phía trước không xa chính là đường lớn rồi.”

“Ài.” Biểu tình trên mặt Tào Tháo không vui không buồn, có chút ưu tư thở dài nói: “Đáng tiếc tám ngàn tướng sĩ trung dũng đã an nghỉ trong tòa núi lớn này rồi.”

Tào Chân giục ngựa lên trước, khuyên giải: “Phụ thân chớ có đau buồn, tám ngàn tướng sĩ này tuyệt sĩ không chết một cách vô ích đâu.”

“Ừ.” Tào Tháo gật đầu, cao giọng nói: “Dẫn đường.”

“Dẫn đường.”

Tao Chân quay đầu lại quát lớn một tiếng, sớm đã có thân binh áp giải một trung niên nhân đầu trâu mặt ngựa tới trước mặt Tào Tháo. Tào Tháo lạnh lùng nhìn người trung niên đó một cái rồi hỏi: “Chu lão tứ, nơi đây là chỗ nào rồi?”

Chu lão tứ vội vàng nói: “Hồi bẩm đại nhân, đây chính là Vân Khê Phô, phái trước không xa chính là Vu trấn rồi.”

Tào Tháo nói: “Còn cách Vĩnh An bao xa nữa.”

Chu lão tứ nói: “Đại khái khoảng hai trăm dặm.”

“Ngưu Phúc Phổ thì sao?”

“Hơn trăm dặm.”

“Tốt!” Tào Tháo nghe vậy liền mừng rỡ, quay đầu lại nói với Gia Cát Lượng: “Khổng Minh, hạ lệnh đi.”

“Vâng.” Gia Cát Lượng gật gật đầu, quát: “Ngụy Diên nghe lệnh.”

Ngụy Diên vội vàng giục ngựa lên trước, ôm quyền nói: “Mạt tướng nghe lệnh.”

Gia Cát Lượng nói: “Dẫn ba trăm tử sĩ giả trang làm tiều phu, thợ săn trà trộn vào thành Vĩnh An, chuẩn bị chiếm cửa thành.”

“Tuân lệnh.”

“Trương Cáp nghe lệnh!”

Trương Cáp vội vàng giục ngựa lên trước, cao giọng nói: “Mạt tướng ở đây.”

Gia Cát Lượng nói: “Hãy dẫn tám ngàn tinh binh ngay đêm chạy tới Ngư Phúc Phổ, Ngư Phúc Phổ địa thế hiểm yếu, thủ tướng Trương Nhiệm cũng là trí dũng song toàn, quyết không được xem thường. Nếu có cơ hội thì đương nhiên phải thừa cơ công đánh, nếu không có cơ hội thì ngàn vạn lần không được cường công, phải bố trí thật nhiều nghi binh khiến hắn không dám khinh cử vọng động, nhớ rõ đấy.”

“Tuân lệnh!”

Trương Cáp ầm ầm ứng tiếng, lĩnh mệnh mà đi.

Gia Cát Lượng lại nói: “Tào Chân, Tàng Bá nghe lệnh.”

Tào Chân, Tàng Bá vội vàng giục ngựa lên trước hô: “Mạt tướng có mặt.”

Gia Cát Lượng nói: “Mỗi người dẫn năm ngàn tinh binh mai phục ở hai bên đường lớn từ Vĩnh An tới Ngưu Phúc Phổ, Ngư Phúc Phổ bỗng nhiên bị tập kích, Trương Nhậm không biết hư thực của quân ta tất sẽ sai khoái mã cấp báo cho Vĩnh An. Thái thủ Trương Tú của Vĩnh An nghe tin Ngư Phúc Phổ gặp nguy, tất sẽ sai đại quân tới cứu viện, nếu Tây Xuyên viện quân tới thì có thể thừa cơ chặn giết.”

“Tuân lệnh!”

Tuân lệnh.”

Tào Chân, Tàng Bá lĩnh mệnh rời đi.

Gia Cát Lượng lại nói với Lý Nghiêm: “Lý Nghiêm nghe lệnh.”

Lý Nghiêm giục ngựa tiến lên, ôm quyền nói: “Có mạt tướng.”

Gia Cát Lượng nói: “Dẫn năm ngàn tinh binh mai phục ở ngoài thành Vĩnh Yên, chờ khi Trương Tú dẫn đại quân rời thành đi cứu Ngư Phúc Phổ thì nhân cơ hội thành rỗng mà cướp Vĩnh Yên.”

“Tuân lệnh!”

Lý Nghiêm phục mệnh rời đi.

Gia Cát Lương sau cùng hô: “Các tướng còn lại dẫn binh mã bản bộ, phối hợp với chúa công ở giữa.”

“Tuân lệnh!”

Mấy chục tướng lĩnh quân Tào rầm rầm ứng tiếng.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 345: Nhấn chìm Hoài An

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Vĩnh An, dinh thự của Trương Tú.

Trương Tùng vội vã bước vào thiên thính, ôm quyền hỏi Trương Tú: “Tướng quân đêm khuya triệu kiến, không biết có chuyện gì gấp?”

Trương Tú ngẩng đầu chỉ vào Lôi Đồng ở bên cạnh, trầm giọng nói: “Hay là Lôi Đồng tướng quân nói đi.”

Lôi Đồng gật gật đầu, nói: “Hành tích của quân Tào gần đây vô cùng khả nghi, Trương Nhiệm tướng quân sai mạt tướng chuyển cáo tới tướng quân và thứ sử đại nhân, nhất định phải đề cao cảnh giác, đề phòng quân Tào đi đường nhỏ bất ngờ tập kích Vĩnh An.”

“Hả?” Trương Tùng trầm giọng nói: “Tướng quân hãy nói xem hành tích của quân Tào khả nghi như thế nào?”

Lôi Đồng nói: “Quân Tào một mực tu sửa sản đạo ở Gi­ang Hữu, Trương Nhậm tướng quân cho rằng quân Tào là minh tu sạn đạo, ấm độ Trần Thương.”

“Minh tu sạn đạo, ám độ Trần Thương ư?” Trương Tú lập tức biến sắc, quay đầu nhìn Trương Tùng, nói: “Trương đại nhân, từ Kinh Châu vào Xuyên thực sự có đường khác ư?”

“Cái này…” Trương Tùng sau khi trầm ngâm một lát thì lắc đầu nói: “Thật sự là khó nói, tại hạ tuy biết địa hình của Tây Xuyên, nhưng cũng không thể biết được hết mỗi một ngóc ngách của Tây Xuyên. Ở sâu trong Vu Sơn, Ba Sơn còn có những con đường nhỏ mà tại hạ không biết là chuyện hoàn toàn có khả năng. Có điều, cho dù có tiểu lộ thông suốt cũng tất nhiên là cực kỳ hiểm trở, đại quân e rằng là khó mà đi qua được?”

Trương Tú nói: “Nếu thực sự có tiểu lộ như vậy, sao với Trần Thương tiểu đạo và Tử Ngọ cốc tiểu đạo thì như thế nào?”

Trương Tùng nói: “Cũng tương đương nhau.”

“Ừ.” Trương Tú nói: “Hiểu rồi.”

Nói tới đây thì dừng lại, Trương Tú nói với Lôi Đồng: “Lôi Đồng tướng quân.”

Lôi Đồng vội vàng ôm quyền nói: “Có mạt tướng.”

Trương Tú nói: “Tướng quân ngay đêm quay về Ngư Phúc Phổ, nhất thiết phải chuyển cáo lại cho Trương Nhiệm tướng quân, bảo ba vạn đại quân của hắn đóng chặt ở đó như đinh, bất kể ngoại giới phát sinh chuyện gì cũng không được khinh cử vọng động, càng không cho phép tự tiện xuất kích! Cho dù là Vĩnh An bị công hãm, thậm chí là thành đô bị công hãm thì cũng không cần phải để ý! Chỉ cần hắn thủ được Ngư Phúc Phổ thì chính là lập được đại công ạ. Ngoài ra, nếu để mất Ngư Phúc Phổ, cho dù hắn ở trước trận chém chết được Tào Tháo thì bản tướng quân cũng phải trị tội hắn!”

Lôi Đồng nói: “Mạt tướng tuân lệnh.”

Trương Tú xua tay nói: “Tướng quân mau đi đi.”

“Mạt tướng cáo lui.”

Lôi Đồng chắp tay vái một cái, quay người vội vã bỏ đi.

Nhìn Lôi Đồng bỏ đi, Trương Tùng u sầu nói: “Tướng quân đây là chuẩn bị dùng bất biến để ứng vạn biến ư?”

“Không sai?” Trương Tú gật đầu nói: “Tào Tháo thân kinh bách chiến, dùng binh quỷ trá, chúa công và quân sư cực kỳ kiêng kỵ hắn. Nếu mạt tướng suất quân xuất kích quyết chiến với hắn thì tất bại chứ không nghi ngờ gì nữa. Mạt tướng cho rằng thượng thượng chi sách để chống chọi với Tào Tháo chính là dựa vào thành mà thủ, lấy bất biến ứng vạn biến. Chia binh phòng thủ cứ điểm quan trọng, sách lược này xét thấy quả thật là rất bị động, cũng rất dễ bị Tào Tháo kích phá, gặm từng miếng từng miếng như tằm ăn rỗi. Nhưng đây chính là dụng ý của bản tướng quân!”

“Ồ!” Trương Tùng trầm giọng nói: “Dụng ý của tướng quân là muốn chia binh chống địch, cố gắng chống chọi, dùng binh lực và không gi­an để đổi lấy thời gi­an, phải không?”

“Chính là như vậy.” Trương Tú nắm chặt quyền đầu, nói: “Tào Tháo có lợi hại hơn nữa thì hắn liệu có thể trong vòng nửa năm từ Vĩnh An đánh tới Thành đô được không? Nhưng sau nửa năm, chúa công sớm đã đánh thắng Hoài Nam chi chiến. Tới lúc đó hồi sư ập tới Kinh Tương, Tào Tháo cho dù là muốn hồi sư tự cứu thì cũng không kịp. Mạt tướng sở dĩ bảo ba vạn đại quân của Trương Nhiệm đóng thật chặt vào Ngưu Phúc Phổ như cây đinh, chính là muốn bức chúng lại phải đi đường nhỏ một lần nữa. Hắc hắc.”

Trương Tùng vuốt chòm râu dưới cằm, đột nhiên hỏi: “Nhưng tướng quân có nghĩ tới vạn nhất thừa tướng chiến bại tại Hoài Nam thì sao?”

“Không thể.” Trương Tú dứt khoát nói: “Đây là điều không thể.”

Trương Tùng nói: “Tướng quân đừng quên, từ xưa tới nay, lấy yếu thắng mạnh, lấy ít thắng nhiều là chuyện không phải hiếm. Không nói đâu xa, chỉ nói tới Quan Dộ chi chiến giữa Viên Thiệu và Tào Tháo, Tào Tháo không phải là bằng vào ba vạn nhược lữ mà đánh bại ba mươi vạn đại quân của Viên Thiệu sao?”

“Nhưng chuyện này thì khác, Tôn Quyền không phải là Tào Tháo, chúa công càng không phải là Viên Thiệu.” Trương Tú nói tới đây thì dừng lại, trong mắt đột nhiên lóe sáng, quay đầu lại nói với Trương Tùng: “Mà vạn nhất cho dù chúa công thật sự chiến bại ở Hoài Nam, vậy cũng không có gì phải lo lắng. Đại nhân ngàn vạn lần đừng quên rằng, dưới trướng chúa công còn có Mã Siêu đó. Thiếu tướng quân viễn chinh Tây Vực đã hơn một năm rồi, tùy thời đều có thể quay về Trung Nguyên.”

Trương Tùng nói: “Tướng quân đừng hiểu lầm, bản quan cũng chỉ là nói vậy mà thôi. Trên thực tế, hiện tại cả sĩ tộc Tây Xuyên đều đã buộc thành một túm với thừa tướng rồi, có thể nói là một người vinh thì tất cả đều vinh, một người chịu tổn thất thì tất cả đều chịu tổn thất theo. Bản quan và cả sĩ tộc Tây Xuyên tuyệt đối sẽ không bán đứng thừa tướng. Bản quan hôm nay dừng lời ở đây, cái mạng già này gi­ao cho bản tướng quân ngài rồi. Vĩnh An còn thì Trương Tùng còn, Vĩnh An mất thì Trương Tùng vong!”

“Tốt.” Trương Tú cao giọng nói: “Có câu này của đại nhân, ngài đã chắc chắc thành bằng hữu của mạt tướng rồi.”

Hai cánh tay lớn nắm chặt vào nhau, hai người bốn mắt nhìn nhau, cùng cao giọng cười to.

Ngoài cửa đông Vĩnh An, Ngụy Duyên dẫn mấy chục binh sĩ giả trang làm tiêu phu tiềm phục trong bụi ở của đông hiệu, đang quan sát động tĩnh của Vĩnh An. Nhìn từ xa, chỉ thấy ngoài cửa đông Vĩnh An có hai đội thiết giáp kỵ sĩ đang đứng, một tiểu giáo dẫn hai binh sĩ đang tra hỏi kỹ càng bách tính muốn vào thành, gặp xe đẩy chở củi thì càng kiểm tra tử tế hơn.

Ngụy Diên không nhịn được mà quay đầu nhìn lại mấy chục bó củi ở đằng sau, trong những bó củi này đều giấu bính khí cả.

“Tướng quân, tình hình không ổn rồi.” Có binh sĩ rướn lên, thấp giọng nói: “Quân Lương tra khám vô cùng nghiêm ngặt, nhìn cảnh này thì căn bản là không thể đem binh khí giấu trong bó củi trà trộn vào thành được. Làm sao bây giờ?”

Một binh sĩ khác nói: “Hay là không mang theo binh khí nữa?”

“Không được.” Nguyện Duyên dứt khoát nói: “Không mang theo binh khí vào thành thì chẳng khác nào đi chịu chết.”

“Vậy tướng quân nói phải làm sao bây giờ?”

“Ừm.” Ngụy Duyên trầm mặc một lát, gọi ba binh sĩ tới trước mặt, phân phó: “Ba đứa các ngươi trước tiên đi thăm dò một chút, khi thủ quân xét hỏi thì nhất định phải kín đáo, ngàn vạn lần đừng để lộ dấu vết, nhớ kỹ chưa?”

“Tướng quân yên tâm.” Lão binh dẫn đầu nhấc hai bó củi lên, gọi hai binh sĩ khác rồi nói: “Đi nào.”

Ngụy Duyên phất tay, suất lĩnh đám binh sĩ còn lại trốn vào trong bụi cỏ, khẩn trương nhìn ba binh sĩ ngênh ngang bước tới cửa thành Vĩnh An. Khi sắp tới gần cửa thành thì tiểu giáo thủ quân dẫn hai binh sĩ tới đón đầu, cao giọng quát: “Đứng lại, làm gì thế?”

Lão binh dẫn đầu của quân Tào vội vàng bỏ bó củi trên vai xuống, cười bồi nói: “Quân gia, lão hán là tiều phu ở gần trong núi, dẫn hai nhi tử đi chặt mấy bó củi rồi mang vào trong thành để bán, định đổi lấy mấy thước vải để chuẩn bị hôn sự cho tiểu nhi tử, hắc hắc, hắc hắc.”

“Tiều phu ở gần trong núi?” Tiểu giáo thủ quân nhìn lão binh quân Tào hai lượt, đột nhiên quát: “Nói bậy, ta thấy ngươi giống gi­an tế, người đâu, trói lão già này lại!”

“Tuân lệnh!”

Hai binh sĩ ầm ầm thừa lệnh, lao lên giống như hổ lang.

Lão binh quân Tào biến sắc, quay đầu lại đánh mắt ra hiệu cho hai binh sĩ ở phía sau, quát: “Huynh đệ, chém chết mẹ nó đi!”

Huýt sáo một tiếng, ba gã gi­an tế quân Tào liên rút ra ba thanh khảm đao từ trong bó củi, đao quang lấp lánh chém thẳng vào mặt hai thủ quân, tiểu giáo thủ quân sắc mặt trầm xuống, cao giọng quát: “Giỏi lắm, quả nhiên là gi­an tế!”

Trong bụi cỏ ở xa xa.

“Hừm.” Ngụy Duyên hậm hực đấm xuống đất, ảo não nói: “Thằng ngu này làm hỏng chuyện rồi!”

“Tướng quân, hay là chúng ta nhân cơ hội đoạt lấy cửa thành đi?”

“Thừa cơ đoạt cửa thành ư? Ngươi muốn tìm chết à?” Ngụy Duyên quay đầu lại trừng mắt nhìn binh sĩ vừa hỏi, quát: “Quay về! Thủ vệ của Vĩnh An quá nghiêm mật. Chúng ta căn bản không trà trộn vào được.”



Ngưu Phúc Phổ, đại doanh của Trương Nhiệm.

“Hiểu rồi.” Trương Nhiệm gật gật đầu, nói với Lôi Đồng: “Bản tướng quân đã hiểu dụng ý của Trương Tú tướng quân và Trương Tùng đại nhân rồi.”

Lôi Đồng hỏi: “Dụng ý gì vậy?”

Trương Nhiệm đáp: “Đây là muốn dùng binh lực và không gi­an để đổi lấy thời gi­an đó! Có quân ta trấn thủ Ngư Phúc Phổ, chỉ đợi thừa tướng đánh bại Tôn Ngô ở Hoài Nam, thừa cơ ùa về Kinh Tương, Tào Tháo cho dù muốn lui cũng khó! Ha ha, thế sự đúng là biến hóa vô thường, ngày hôm qua, bản tướng quân còn lo lắng Tào Tháo sẽ xuất kỳ bình, nhưng hiện tại, bản tướng quân ngược lại hi vọng Tào Tháo thực sự tìm được một con đường nhỏ để vào Xuyên đó!”

Ở chỗ gi­ao nhau giữa Dĩnh Thủy và Hoài Hà, vốn chính là thủy vực hai mươi dặm, phía sau là một bãi phù sa khổng lồ.

Sau khi cưỡng ép di chuyển bách tính Từ Châu vào Hoài Nam, Chu Du trưng tập bốn mươi vạn lao dịch rồi cưỡng bức xây dựng vây đập, khiến thủy vực của Duyên Phong Tân chỉ hai mươi dặm thoáng cái đã mở rộng ra tới phạm vi hơn hai trăm dặm. Lục Tốn đứng ở trên đê vây đập giống như biểu rộng mênh mông vô bờ vô bến. Đột nhiên, trên khuôn mặt trẻ tuổi của Lục Tốn thoáng hiện vẻ vô cùng ngưng trọng.

Cái đê lớn vây đập này một khi mở ra, không chỉ nhấn chìm hai mươi vạn kỵ bị đại quân của Mã đồ tể và mười vạn tinh nhuệ của Cao Thuận, mà còn nhấn chìm cả hơn bốn trăm vạn bách tính vô tội của Hoài Nam nữa! Công bằng mà nói, Lục Tốn thực sự không muốn mở đê vây đập, song quân lệnh như sơn, vì đại nghiệp của chúa công, vì sinh tử tồn vong của quân Ngô, Lục Tốn không còn sự lựa chọn nào khác.

Gió đêm hây hây, thổi cho áo choàng của Lục Tốn kêu phần phật. Vào thời khắc này, thân ảnh của Lục Tốn lộ ra vẻ thanh lãnh rất đặc biệt.

“Tướng quân!” Phó Tướng bước lên đê, có chút bất nhẫn nói: “Có đợi thêm nữa không?”

“Không cần dâu.” Lục Tốn đột nhiên giơ tay lên, lắc đầu nói: “Không cần phải đợi nữa, sẽ không thể xuất hiện kỳ tích nữa đâu. Hơn nữa thời gi­an không đợi người, vạn nhất để thám mã của quân Lương phát hiện ra đê lớn vây đập của bến Duyên Phong mà có chuẩn bị trước thì dụng tâm đến khổ của đại đô đốc sẽ như nước chảy về biển đông hết.”

“Ài.” Phó tướng thở dài một tiếng, buồn bã quay đầu đi.

Lúc Tốn ngẩng đầu lên trời, tinh thần xán lạn, giống như vạn nhà đốt đèn. Rồi đột nhiên, khóe miệng Lục Tốn lộ ra vẻ dữ tợn băng lãnh, quát gằn từng chữ: “Truyền lệnh, đào đê lớn vây đập!”

“Tuân lệnh!” Thiên tướng ầm ầ lĩnh mệnh, quay đầu lại phất tay quát: “Tướng quân có lệnh, đào đê!”

Hai ngàn sĩ binh quân Ngô sớm đã nghiêm trận chờ đợi nhanh chóng huy động cuốc chim bắt đầu đào. Không tới một lát sau đã đào ra được một cái lỗ trên đê lớn. Nước hồ ôn nhu giống như nữ nhân thuận theo lỗ mà từ từ tràn ra, dưới sự thấm ngấm không chỗ nào không tiến tới được của nước hồ, bùn đất ở hai bên lỗ hống rất nhanh liền mềm ra, sụt lở, rồi sau đó nhanh chóng mở rộng. Rất nhanh, nước hồ của đê lớn vây đập từ một nữ nhân ôn nhu biến thành một con sư tử cuồng bạo, ầm ầm tràn xuống…



Ngoài ba mươi dặm phía tây nam Thọ Xuân, đại doanh của quân Lương.

Trung quân đại trướng, khi Cao Thuận và Cam Ninh đang nghị sự thì đột nhiên có tiểu gi­ao hớt hải chạy vào trướng, quỳ xuống vội vàng nói: “Tướng quân, thừa tướng có lệnh!”

“Chúa công có lệnh ư?” Cao Thuận quát: “Mau nói đi.”

Tiểu giáo hổn hển nói: “Quân Ngô tùy thời đều có thể nhấn chìm Thọ Xuân, bảo tướng quân phải chuẩn bị trước cho tốt!”

“Cái gì? Nhấn chìm Thọ Xuân ư!” Cao Thuận trước giờ cho dù là Thái Sơn sụp đổ ở trước mặt cũng không đổi sắc giờ cũng không nhịn được mà cảm thấy sợ hãi, trầm giọng hỏi: “Ngươi nói là quân Ngô muốn nhấn chìm Thọ Xuân?”

Tiểu giáo gật đầu nói: “Đúng vậy.”

“Ông nội nó, coi bộ quân Ngô là muốn được ăn cả ngã về không rồi.” Cam Ninh nghiêm nghị nói: “Cũng may mà chúa công kịp thời phát hiện ra âm mưu của Đông Ngô, nếu không khi quân ta không chút phòng bị tới dưới thành Thọ Xuân, gặp phải thao thiên cự lãng, sau khi hồng thủy qua đi thì mấy trăm dặm xung quanh Thọ Xuân đều trở thành vùng ngập nước. Lúc này thủy quân Đông Ngô lại xông ra truy sát, hậu quả thật đúng là không thể tưởng tượng nổi!”

“Hỏng rồi!” Cao Thuận đột nhiên quát: “Người đâu?”

“Tướng quân có gì phân phó?”

Cao Thuận vừa dứt lời, sớm đã có thân binh bước vào trong trướng.

Cao Thuận quát: “Lập tức sau khoái mã truyền lệnh cho Hứa Chử tướng quân, bảo tám ngàn thiết kỵ của hắn lập tức rút lui!”

“Tuân lệnh.”

Thân binh rầm rầm ứng tiếng, lĩnh mệnh mà đi.

Cam Ninh đột nhiên bước ra khỏi hàng, nói: “Tướng quân, nếu quân Ngô thật sự nhấn chìm Thọ Xuân, vậy đập tích nước nhất định được xây ở thượng du Hoài Hà! Hay là để mạt tướng dẫn Cảm Phàm thủy quân lên Hoài Hà, tìm đập tích nước của Đông Ngô? Nếu có thể tới trước khi Đông Ngô đào đập, có lẽ có khả năng phá hỏng kế hoạch của quân Ngô!”

“Không còn kịp nữa rồi!” Cao Thuận lắc đầu nói: “Quân Ngô nếu thực sự quyết định nhấn chìm Thọ Xuân, há lại lưu lại sơ hở như vậy? Huống chi tướng quân lúc này suất lĩnh Cẩm Phàm thủy quân lên Hoài Hà, chẳng may gặp phải hồng thủy thì quá mạo hiểm. Sau khi Hoài Nam chi chiến kết thúc, chúa công tất sẽ điều khiển tinh binh cường tướng thừa cơ công đả Gi­ang Đông. Tới lúc đó không có Cẩm Phàm thủy quân của tướng quân thì không được. Cho nên, bản tướng quân quyết không để ngài đi mạo hiểm như vậy.”



Chu Du dưới sự vây quanh của chư tướng Thái Sử Từ, Chu Nhiên, Tạ Tinh đứng ở đầu thành Thọ Xuân, nhìn về đại doanh của quân Lương ở phương bắc. Nhìn từ xa, chỉ thấy trong đại doanh của quân Lương ánh lửa sáng rỡ, tiếng người ồn ã, từng đội từng đội Mạc Bặc kỵ binh mang vũ trang hạng nặng đang đi lại tuần tra dọc theo hàng rào ở ngoài doanh. Đây chỉ là một đêm bình thường và yên tĩnh.

Tiếng bước chân gấp gáp đột nhiên vang lên, Chu Du thản nhiên quay đầu lại, chỉ thấy Lữ Mông dưới sự vây quanh của hai tướng Từ Thịnh, Chu Thái rảo bước về phía trước, khi tới trước mặt Chu Du, Lữ Mông ôm quyền nói: “Đại đô đốc, tất cả chiến thuyền của thủy quân toàn bộ đã được buộc dây thừng chắc chắn! Vô luận là hồng thủy có lớn cỡ nào, chỉ cần tường thành Thọ Xuân không đổ thì chiến thuyền của thủy quân tuyệt sẽ không bị trôi đi!”

“Ừ.”

Chu Du nghe vậy thì gật gật đầu, sau đó không có phản ứng gì.

Bộ tướng Tạ Tinh không nhịn được mà hung hăng nện lên tường chắn mái, cao giọng nói: “Xem ra đại quân Tây Lương không có chút phòng bị nào cả. Ha ha, trận thao thiên hồng thủy đột nhiên ập tới này khẳng định sẽ dìm chết một nửa lớn mấy chục vạn con lợn Tây Lương này. Nửa nhỏ sẽ do thủy quân của Lữ đô đốc xử lý. Ha ha, khi ở trên mặt nước, bọn lợn Tây Lương này căn bản không kham nổi một kích, trận chiến này quân ta thắng chắc rồi!”

“Đúng vậy!” Bộ tướng Chu Nhiên cũng phụ họa nói: “Không hổ là đại đô đốc, chỉ nhấc tay một cái là tiêu diệt được mấy chục vạn đại quân của Mã đồ tể rồi, ha ha.”

Sắc mặt Chu Du đột nhiên biến thành cực kỳ khó coi, quay người bỏ đi.

Cho tới khi thân ảnh của Chu Du biến mất ở trong địch lâu, Chu Nhiên, Tạ Tinh mới hớt hải lo sợ nói: “Đại đô đốc bị sao vậy? Mạt tướng nói gì sai à?”

“Đại đô đốc đương nhiên là tức giận rồi!” Lữ Mông bực mình hừ một tiếng, lên tiếng: “Các ngươi cao hứng lắm à? Có gì mà cao hứng như vậy? Cái này đáng để cao hứng lắm ư? Cho dù tiêu diệt được toàn bộ mấy chục vạn đại quân Tây Lương thì sao chứ? Lãnh thổ dưới tay Mã đồ tể rộng bao la bát ngát, nhân khẩu đông đúc. Qua mấy năm nữa là lại một lần có được mấy chục vạn đại quân thôi!”

“Ngoài ra, các ngươi không biết sau khi trận hồng thủy này qua đi, cả Hoài Nam đều trở thành một vùng ngập nước sao? Các ngươi có biết được có bao nhiêu bách tính vô tội sẽ phải chết trong trận đại nạn này không? Bách tính Hoài Nam còn may mắn sống sót sẽ nhìn chúng ta với ánh mắt như thế nào? Từ nay về sau, chúng ta muốn bước chân vào Gi­ang Bắc, sẽ gặp phải sự phản kháng khó có thể tưởng tượng được, những điều này các ngươi có biết không hả?”

“Vậy thì sao chứ?” Tạ Tinh không đồng ý, phản bác: “Đánh trận mà, lúc nào chả có người chết, để bách tính đi chết chả phải là tốt hơn để các tướng sĩ đi chết sao? Hơn nữa những bách tính tay không tất sắt này thì liệu có thể làm được chuyện gì chứ? Phản kháng thì sao nào? Không nghe lời thì cho một đao, mùa đông năm trước, không phải cũng dụng biện pháp này để di dời bọn họ từ Từ Châu tới Hoài Nam sao?”

Chu Nhiên cũng phụ họa: “Đúng vậy, dù bọn họ có mấy trăm vạn người thật đấy, nhưng chúng ta chỉ cần phái ra mấy ngàn người là có thể đuổi họ tới Hoài Nam như đuổi một bầy dê rồi.”

“Ài, mùa đông năm ngoái có thể dời mấy trăm vạn bách tính Từ Châu tới Hoài Nam dễ dàng như vậy chính là bởi vì thanh danh của chúa công tốt hơn Mã đồ tể. Nhưng sau Hoài Nam chi chiến lại sẽ biến thành khác hẳn rồi.” Lữ Mông nói tới đây thì dựng lại, lắc đầu thở dài: “Những chuyện này có nói thì các ngươi cũng chẳng hiểu được đâu. Thôi ai nấy đi chuẩn bị đi, sau khi trời sáng còn có một trường ác chiến đang chờ đợi chúng ta đó!”

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 346: Bại tẩu Gi­ang Đông (1)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Buổi đêm, quận Hoài Nam.

Trăng sáng sao thưa, gió đêm hiu hiu, trong một thôn lạc nào đó ở nam hiệu Thọ Xuân đang vô cùng yên tĩnh, các bách tính sớm đã tiến vào mộng tưởng trầm trầm. Đột nhiên, ở phía tây bắc truyền tới tiếng rầm rầm mơ hồ. Mấy chục con chó săn trong thôn cũng bị tiếng ầm này làm cho tỉnh lại, sợ hãi từ trong chuồng lao ra, hướng tới phía tây bắc mà sủa ầm ĩ. Đám động vật lợn, bò, dê mà các thôn dân nuôi dưỡng cũng bắt đầu trở nên bất an.

Cả thôn xóm trong nháy mắt đã trở nên sôi sục.

Đối với bách tính sinh ra và lớn lên ở hai bờ Hoàng Hà thì thanh âm này đã quen đến nỗi không thể quen hơn được nữa. Hồng thủy, có hồng thủy rồi!

Các thôn dân dùng tốc độ nhanh nhất để mặc quần áo lên người, đốt đuốc, cõng hài tử, đỡ người già, có một thổ tài chủ tiếc một con lợn nuôi trong nhà, dứt khoát cõng nó lên lưng rồi chạy. Trong lúc này, không gi­an xen lẫn tiếng trẻ con gọi cha ới mẹ, tiếng cha mẹ gọi con, còn có thể chó sủa cùng với tiếng kêu của gà, vịt, bò, dê. Trong không khí tràn ngập sự tuyệt vọng và sự hoảng sợ vô tận, giống như là ngày tận thế đã giáng xuống rồi.

Thế nhưng, không đợi các thôn dân chạy ra xa, hồng thủy cuồn trào mãnh liệt đã ập tới rồi.

“Rầm…”

Một con sóng đánh tới, khiến cho hơn chục căn nhà dễ dàng bị lập úp trên mặt dất. Một người mẹ trẻ tuổi trong lòng còn bế một đứa nhỏ chưa đầy tháng vùng vẫy từ trong nhà vừa lao ra thì bị hồng thủy hất ngã. Trong trận hồng thủy cuộn trào, từng cái cột gỗ gãy lìa giống như những thanh kiếm gỗ sắc bén, đâm về phía đôi mẹ con này. Người mẹ trẻ tuổi lật người lại theo bản năng, lưng hướng về cột gỗ sắc bén, bảo vệ cho đứa con sinh trong lòng.

“Mẹ nó ơi, cẩn thận!”

Trong một tiếng hét thê lương, một tráng hán trẻ tuổi vội vàng chạy tới, gạt cột gỗ trầm trọng ấy ra. Đúng vào lúc này lại có một con sóng lớn nữa ập tới, hất tung hán tử lên, đầu của hán tử đập mạnh vào một khối đá, trong nháy mắt máu tuôn như suối.

“Cha nó ơi!”

Nữ nhân trẻ tuổi ngẩng mặt lên phát ra một tiếng hô thảm như xé ruột xé gan, quay người lại nhào lên người hán tử trẻ tuổi.

Lại một con sóng nữa ập tới, hất cho nữ nhân tử tuổi và đứa trẻ trong lòng nhào ngã lộn lên đất, rồi lập tức bị nước đục cuồn cuộn vô tình nhấn chìm. Cách đó không xa, hai con lợn đang vùng vẫn, gào thét trong thao thiên trọc lãng… Ở xa hơn, một dãy lều lán bị hồng thủy cuộn trào hất đổ, nhấn chìm, không ngừng có thôn dân bị chìm ngập trong hồng thủy. Trước thiên uy của đại tự nhiên, lực lượng của cá nhân nhỏ bé không đáng kể như vậy đó.

Nhưng đây không phải là thiên tai mà rõ ràng là nhân họa.



Dưới bóng đêm, Chu Du dưới sự hộ vệ của mấy chục thân binh đi lên đầu thành Thọ Xuân. Mượn ánh trăng mờ mờ để nhìn, chỉ thấy bên ngoài thành Thọ Xuân đã trở thành biển lớn mênh mông. Thành Thọ Xuân nho nhỏ giống như một tòa cô đảo trong biển lớn, tùy thời đều có thể đắm chìm.

Tường thành kiên cố của thành Thọ Xuân đã ngăn được hồng thủy, hơn năm vạn đại quân Đông Ngô trốn trong thành bình yên vô sự, nhưng mấy vạn bách tính Thọ Xuân do quân Ngô cường hành đuổi ra ngoài thành cùng với mấy chục vạn thôn dân ở trong vòng năm chục dặm quanh Thọ Xuân thì đã gặp phải tai họa ngập đầu trong hồng thủy. Trận hồng thủy này sẽ còn tiếp tục lan rộng, cuối cùng sẽ nhấn chìm một nửa lớn quận Hoài Nam.

Sau cùng, hơn bống trăm vạn bách tính sống ở quận Hoài Nam sẽ rơi vào tuyệt cảnh không có cơm ăn áo mặc, mà người khởi xưởng tất cả những việc này chính là Chu Du!

Đột nhiên, từng khuôn mặt với muôn trạng sợ hãi xuất hiện ở trước mặt Chu Du. Chu Du giống như nhìn thấy mấy vạn người ngộ nạn bụng trương phềnh, mặt trắng bệch đang từ bốn phương tám hương vây về phía hắn. Ai ai cũng gi­ang tay ra, mặt trợn tròn không chớp, hướng tới hắn mà hò hết đến khản cả giọng: “Trả mạng cho ta, trả mạng cho ta…”

“Không…”

Chu Du gào lên một tiếng, từ trong mộng tỉnh lại.

Thân binh canh giữ ở ngoài trướng vội vàng vén rèm bước vào, dưới ánh lửa yếu ớt, chỉ thấy Chu Du cả đầu đầy mồ hôi, sắc mặt trắng bệch. Đại đô đốc của ba quân Đông Ngô luôn luôn trấn định, trầm tư, dù Thái Sơn sụp đổ trước mặt cũng không đổi sắc lúc này lại lộ ra vẻ vô cùng hoảng sợ.

“Đại đô đốc, ngài sao vậy?”

“Phù…” Chu Du thở dài một hơi, cả người xụi lơ, nói: “Thì ra chỉ là một giấc mộng…”

“Rầm…”

Chu Du vừa dứt lời, ngoài trướng đột nhiên vang lên tiếng động lớn, tựa hồ như ngay cả mặt đất ở dưới chân cũng nhẹ nhàng run rẩy. Sắc mặt của Chu Du trong khoảng khắc biến thành càng lúc càng trắng bệch. Đội trưởng thân binh đứng trong trướng cũng biến sắc, trầm giọng nói: “Đại đô đốc, tiểu nhân ra ngoài xem một chút, rốt cuộc là phát sinh chuyện gì rồi?”



Năm mươi dặm về phía bắc thành Thọ Xuân. Trên một ngọn núi vô danh nào đó.

Nhờ vào ánh trăng mờ mờ, nhìn sóng đục ngập trời từ dưới chân núi ập tới, Mã Dược ngẩng mặt lên trời thở dài, trên mặt không khỏi hiện lên mấy phần căm hận, mấy phần thương tiếc, lại có cả mấy phần tự trách.

Thân ảnh của Giả Hủ lặng lẽ xuất hiện ở phía sau Mã Dược.

Trên thế giới này, không có một ai khác có thể thể hội được tâm tình của Mã Dược vào lúc này hơn Giả Hủ. Mã Dược căm hận Chu Du tâm ngoan thủ lạc, lại thương xót cho mấy trăm vạn bách tính vô tội ở Hoài Nam. Đồng thời cũng tự trách nếu như không khởi binh nam hạ, có lẽ sẽ không mang đến một trường hạo kiếp này cho bách tính Hoài Nam.

Đối với sĩ tộc và man di không phục vương hóa của Đại Hán mà nói thì Mã Dược quả thật là một tên đồ tể.

Nhưng đối với bách tính Đại Hán mà nói, đồ tể chân chính không phải là Mã Dược, trước giờ đều không phải.

Đồ tể chân chính chính là bọn quân phiệt cát cự tự cho mình là siêu phàm như Tôn Quyền, Tào Tháo, Viên Thiệu, Viên Thuật, Lã Bố. Những kẻ đầy dã tâm này trước giờ không đặt sự sống chết của bách tính vào trong lòng. Chỉ có Mã Dược, tên phản nghịch bị thiên hạ sĩ tộc dùng ngòi bút làm vũ khí này, tên đồ tể chuyên tàn sát ngoại tộc trước giờ chưa từng chùn tay này mới thực sự chân chính coi trọng sinh tử của bách tính Đại Hán.

“Chúa công, đây không phải là cái sai của ngài.” Giả Hủ khuyên bảo: “Đây đều là do thằng nhãi Chu Du mất trí làm ra, không có bất kỳ quan hệ gì tới chúa công cả.”

“Ài.” Mã Dược lắc lắc đầu, buồn bã thở dài: “Cô đã đánh giá thấp sự âm hiểm và xảo trá của Chu Du rồi, ngàn vạn lần không ngờ rằng tên gia hỏa này để hủy diệt mấy chục vạn đại quân của cô, không ngờ lại thực sự lựa chọn cách ngọc nát đá tan, khiến mấy trăm vạn bách tính phải chịu đại họa. Cô sớm phải nghĩ tới điều này mới đúng…”

“Nếu nói vậy, đây chính là sai lầm của Hủ.” Giả Hủ thấy Mã Dược cứ tự trách mãi, liền đẩy sai lầm lên chính bản thân mình: “Hủ thân là quân sư, nhưng lại không làm hết được chức trách của quân sư, không thể thấy rõ tiên cơ, hỏa giải trường hạo kiếp này thành vô hình, thực sự là tội không thể tha!”

Thấy Giả Hủ như vậy, trên mặt Mã Dược không khỏi lộ ra một nụ cười khổ, quay đầu lại vỗ vai Giả Hủ, mỉm cười nói: “Văn Hòa à, ngươi không cần phải cướp phần trách nhiệm với cô đâu. Hạo kiếp đã phát sinh rồi, có truy cứu trách nhiệm thì cũng đã muộn. Hiện tại phải mau chóng nghĩ biển pháp để chẩn tai. Người chết đuối thì phải kịp thời mang chôn, người bị thương thì phải kịp thời cứu chữa. Đặc biệt là trẻ con.”

“Chẩn tai tất nhiên là quan trọng, có điều phải nghĩ biện pháp đánh lui thủy quân Đông Ngô đã.” Giả Hủ lo lắng trùng trùng nói: “Nếu thủy quân Đông Ngô một mực ở lại Hoài Nam quấy rối, công tác chẩn tai của quân ta sẽ rất khó mà khai triển được. Hơn nữa, Hủ rất lo lắng trong liên hoàn kế này của Chu Du còn có một khâu tối hậu, cũng là một khâu độc ác nhất!”

“Một khâu tối hậu?” Mã Dược trầm giọng nói: “Là khâu gì?”

Giả Hủ nói: “Chu Du rất có khả năng sẽ ra lệnh cho thủy quân Đông Ngô ra sức quấy rối quân ta, khiến quân ta không thể cứu chữa kịp thời cho bách tích. Một khi như vậy, mấy trăm vạn tai dân của Hoài Nam sẽ vì đói rét mà bị thương vong lớn. Mà qua mấy tháng nữa thời tiết sẽ vào giữa hè. Tới lúc đó lượng lớn thi thể sẽ dễ dàng dụ phát ôn dịch. Ôn dịch một khi bạo phát, sẽ lan tới Hoài Nam, Từ Châu, Trung Nguyên, thậm chí là các nơi như Quan Trung, Hà Bắc mà chúa công cai trị. Hậu quá khó mà tưởng tượng được!”

“Không xong rồi!” Mã Dược giật nảy mình, thất thanh thốt lên: “Vậy nên làm thế nào đây?”

“Nếu Chu Du thật sự muốn đuổi tận giết tuyệt, làm ra độc kế tuyệt hậu tàn ác vô nhân đạo như vậy thì chỉ có thể để mười vạn đại quân của Cao Thuận tướng quân lui về dĩ bắc Hoài Hà trước, sau đó dựa vào Hoài hà mà thủ, cố gắng bảo toàn cho bách tính ở dĩ bắc Hoài hà. Sau đó lệnh cho Cẩm Phàm thủy quân phong tỏa Hoài hà. Cho dù là một con chuột cũng không cho phép qua sông! Còn bách tính ở dĩ nam Hoài hà thì…”

Giả Hủ nói tới đây thì dừng lại, trong mắt lóe lên một tia bất lực khó mà nói ra được, thở dài: “Thì chỉ có thể để bọn họ tự sinh tự diệt thôi.”

“Không!” Mã Dược kiên quyết nói: “Như vậy không được, tuyệt không được! Cô tuyệt không thể trơ mắt nhìn mấy trăm vạn tai dân ở dĩ nam Hoài Hà không chết trong hồng thủy thì cũng chết vì đói được, tuyệt đối không thể!”

“Ài.” Giả Hủ thở dài một tiếng, buồn bã nói: “Chỉ mong là Hủ quá lo xa.”



Trời cuối cùng cũng sáng rồi.

Một đêm dài và gi­an nan nhất cuối cùng cũng qua đi. Khi những người còn sống sót đang đứng trên nóc nhà, trèo trên ngọn cây, bám vào chậu gỗ mà bơi trên mặt nước dõi mắt nhìn xungquanh thì chỉ thấy một mảng đại dương mênh mông, hồng thủy đục ngầm đã triệt để nhấn chìm gia viên của bọn họ. Bọn họ mất đi hoa màu, mất đi súc vật, mất đi nhà cửa, thậm chí mất đi cả thân nhân!”

Đúng vào lúc các nạn dân đang cảm thấy tuyệt vọng thì trong tia năng ban mai mỏng manh ở phía đông đột nhiên xuất hiện một đội chiến thuyền.

Lữ Mông án kiếm đứng trên đầu thuyền. Gió sớm lạnh buốt thổi áo choàng ở sau người hắn bay phấp phới. Ở đằng sau Lữ Mông, trên cột buồm chủ có một chiếc cờ lớn đang đón gió phần phật, bên trên cờ viết một chữ “Ngô” to như cái đấu!”

“Cứu mạng!”

“Cứu ta với…”

“Ông trời ơi, cầu xin ngài, cứu ta lên thuyền đi…”

Tiếng gào của nạn dân rất chói tai, tướng sĩ thủy quân đứng trên boong thuyền nhao nhao quay đầu lại nhìn Lữ Mông. Trong mắt Lữ Mông thoáng hiện một tia đau đớn không dễ phát giác, làm như không thấy ánh mắt chờ mong của các tướng sĩ, lạnh lùng quát: “Truyền lệnh các thuyền tiến về phía trước hết tốc lực, không cho phép cứu người. Ai trái lệnh… chém!”

“Ài!” Từ Tịnh đứng ở phía sau Lữ Mông khẽ thở dài một tiếng, quay người lại quát truyền lệnh binh ở phía sau: “Còn không mau đi đi!”

Truyền lệnh binh không dám chậm trễ, nhanh chóng bò lên cột thuyền chủ, ra sức múa cờ lệnh hình tam giác màu đỏ ở trên không hai cái, những chiến thuyền khác nhận được quân lệnh của Lữ Mông, không còn do dự nữa, ra sức chèo, rẽ sóng tiến nhanh về phía trước. Sau khi chiến thuyền qua đi, chỉ lưu lại mặt nước đục ngầu hỗn độn và nạn dân đang giãy chết.

Thuyền đội của thủy quân Đông Ngô nhanh chóng tiến về phía trước, không tới nửa tiếng liền chạy tới nơi đại quân Tây Lương đóng trại.

Dõi mắt lên nhìn, hồng thủy sâu hơn hai trượng đã hoàn toàn bao phủ cả đại doanh của quân Lương. Trên mặt nước là là hàng rào gãy lìa và những mảnh nhỏ của trướng bồng da trâu trôi bồng bềnh. Có điều lại không phát hiện ra bất kỳ một cỗ thi thể của binh sĩ quân Lương nào, cũng không có thi hài của một thớt chiến mã Tây lương nào. Lữ Mông vốn cho rằng mặt nước sẽ trôi đầy thi thể của tướng sĩ quân Lương và chiến mã Tây Lương, nhưng trên thực tế hoàn toàn lại không phải như vậy. Điều này có chút nằm ngoài dự đoán của Lữ Mông.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 346: Bại tẩu Gi­ang Đông (2)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

“Đô đốc, đây là chuyện gì vậy?” Từ Thịnh nhìn mặt nước đục ngầu với vẻ không dám tin, nói với Lữ Mông: “Trên mặt nước không ngờ lại không tìm thấy một cỗ thi thể nào của đám sói đất quân Lương cả?”

Lữ Mông nhíu chặt mày, chuyện khiến người ta lo lắng nhất vẫn phát sinh.

Xem ra, đại quân Tây Lương tựa hồ như sớm đã có phòng bị, trận hồng thủy này không thể mang đến tai họa ngập đầu cho mấy chục vạn đại quân của Mã đồ tể rồi.

“Đô đốc!” Tiểu giáo quân Ngô trèo trên cột buồn đột nhiên rống lên một tiếng: “Phía trước mười dặm có mấy tòa cô đảo, trên đảo hình như có quân Lương đang hoạt động!”

“Hả?” Lữ Mông sắc mặt trầm xuống, quát: “Truyền lệnh cho Chu Nhiên dẫn tả quân ghép đội hình chiến đấu!”

Tiểu giáo của quân Ngô ở trên cột buồn vội vàng giơ lệnh kỳ tam giác lên, ra sức múa hai cái về phía trước bên trái. Ở phía trước bên trái cách đó không xa, Chu Nhiên đang đứng trên đầu chiến thuyền keng keng rút bảo kiếm ra, cao giọng quát: “Toàn quân tướng sĩ nghe lệnh, xếp đội hình chiến đấu… giết!”

Cơ hồ là đồng thời vào lúc Lữ Mông suất lĩnh hai vạn thủy quân chủ lực đi tới địa doanh của quân Lương ở thành bắc, một vạn thủy quân Đông Ngô do Chu Thái suất lĩnh cũng vừa hay giết tới đại doanh của Cao Thuận ở thành nam. Phóng mắt nhìn, trên mặt nước quả thật có rất nhiều thi thể người và súc vật đang trôi bồng bềnh. Nhưng phần lớn những thi thể này đều là thi thể của bách tính ngộ nạn ở các thôn lạc gần đó trôi tới. Trong đây không hề phát hiện thi thể của quân sĩ Tây Lương.

Khi Chu Thái đang kinh ngạc không thôi thì tiểu giáo quân ở trên cột buồm đột nhiên gào lên: “Tướng quân, ở phía sau bên trái phát hiện đại quân Tây Lương!”

“Đại quân Tây Lương ư? Không thể nào!”

Chu Thái thốt lên, vết đao trên mặt lộ ra vẻ dữ tợn rất đáng sợ, đột ngột quay đầu lại. Quả nhiên nhìn thấy mấy trăm chiếc thuyền nhẹ cỡ nhỏ từ trong tía nắng ban mai nhàn nhạt xông ra, xếp trường xà trận hình chữ nhất đang xông lên. Trên chiếc thuyền đầu tiên là một đại háng ngang tàng đang đứng, đại hán này thân cao tám thước, mặc áo mỏng, da thịt lộ ra ngoài có màu đồng chói mắt, đi chân trần tùy tiện đứng trên đầu thuyền. Cả người không chút động đậy giống như là rễ cây, vừa nhìn đã biết chính là luyện gia tử nhiều năm sinh hoạt trên nước.

“Tướng quân.” Chợt có tiểu giáo tinh mắt thốt lên: “Là Cẩm Phàm tặc!”

“Cẩm Phàm tặc! Cam Ninh?” Chu Thái rùng mình, lập tức có một tia sát cơ nóng rực bùng lên trong mắt, hung hăng nắm chặt khảm đao nặng trịch ở trong tay rồi chém ngang hai cái, gào lên như một con thú: “Cam Ninh, lão tử đợi ngươi lâu rồi, hôm nay coi như là để lão tử đây gặp được rồi. Sau ngày hôm nay, trên thế gi­an này không còn Cẩm Phàm tặc nữa. Ha ha!”

“Giết!” Chu Thái vung khảm đao trong tay về phía trước, ra sức gào lớn: “Giết giết…”

“Tướng quân…” Phó tướng Đinh Phong rụt rè nhắc nhở. “Cẩm Phàm tặc của Cam Ninh chỉ có mấy trăm người, cũng chỉ có mấy trăm thuyền nhẹ, ở trước mặt mông trùng đấu hạm của quân ta căn bản là không kham nổi một kích, tùy tiện đụng một cái là đắm thôi! Tướng quân hay là mau mau suất lĩnh thủy quân chủ lực tìm đại quân Tây Lương của Cao Thuận đi. Mấy trăm Cẩm Phàm gi­ao cho mạt tướng là được rồi.”

“Gi­ao cái gì mà gi­ao!” Chu Thái quay đầu lại trừng mắt lườm Đinh Phong, quát: “Trước tiên diệt mấy trăm Cẩm Phàm tặc của Cam Ninh rồi truy sát đại quân Tây Lương của Cao Thuận cũng không muộn. Dẫu sao thì hiện tại cả Hoài Nam đều là vùng ngập nước rồi, mười vạn đại quân của Cao Thuận chạy lên trời được chắc? Truyền lệnh toàn quân, lập tức dùng tốc độ nhanh nhất, tiến lên…”

Ngoài mấy trăm bước.

Mắt thấy thủy quân Đông Ngô triển khai thế trận hùng hổ xông tới, trên mặt Cam Ninh không khỏi lộ ra một nụ cười lạnh, trầm giọng quát: “Truyền lệnh, quay thuyền lại rồi dùng tốc độ cao nhất rút lui!”

Sau tiếng hạ lệnh của Cam Ninh, hơn trăm chiếc thuyền nhẹ cỡ nhỏ nhao nhao quay đâu thuyền lại, bắt đầu rút lui.

Chu Thái đứng ở đầu thuyền thấy vậy, không khỏi ha ha cười lớn: “Tên quỷ nhát gan Cam Ninh này muốn chạy ư? Không có cửa đâu! Truyền lệnh toàn quân, tăng tốc toàn lực truy kích, ha ha ha…”



Thọ Xuân.

Tường thành kiên cố tuy cản được hồng thủy mãnh liệt, nhưng bốn cửa thành lại không thể ngăn được hồng thủy thấm vào. Tới khi trời sáng, nước đọng trong thành đã sâu tới mấy thước, hơn hai vạn bộ binh Đông Ngô ở trong thành Thọ Xuân bị bức phải rút lên thuyền. Một con thuyền năm tầng cỡ siêu lớn chậm rãi lái ra khỏi thành Thọ Xuân. Trên boong thuyền tầng cao nhất. Tôn Quyền dưới sự vây quanh của bọn Chu Du, Từ Thứ, Trương Chiêu, Trương Hoành đứng ở sau mái tường chắn.

Sắc mặt của Chu Du vẫn có chút trắng bệch. Mà sắc mặt của Tôn Quyền thì lộ ra vẻ âm tình bất định.

Không khí trên boong thuyền có chút nặng nề, chỉ có gió sớm thổi tinh kỳ kêu phần phật.

Trương Hoành đột nhiên nói với Chu Du: “Đại đô đốc, trận hồng thủy này ập xuống, cả Hoài Nam đều thành vùng ngập nước, quân ta không tiếc bỏ cả thành Hoài Nam để làm ra hành động ngọc nát đá tan này, đại quân Tây Lương bị diệt chắc là không có vấn đề gì chứ?”

Trừ Từ Thứ, Tôn Quyền ra, ánh mắt của tất cả mọi người đều chiếu lên người Chu Du.

Chu Du im lặng không trả lời.

Chu Du tất nhiên cũng hi vọng mấy chục vạn đại quân Tây Lương của Mã đồ tể sẽ bị tiêu diệt toàn bộ trong trận hồng thủy này, nhưng lý trí nói cho hắn biết rằng. Kết quả cuối cùng e rằng rất khó khiến người ta hài lòng. Hơn nữa, Chu Du làm ra hành động ngọc nát đá tan này, mục đích chủ yếu của hắn chỉ là để làm trì trệ và hóa giải quân Lương nam hạ, đảm bảo cho chủ lực của quân Ngô có thể từ đường thủy an toàn lui về Gi­ang Đông.

Nhấn chìm Hoài Nam là ngọc nát đá tan, càng là uống nước chống khát.

Trận hồng thủy này tuy có thể ngăn cản quân Lương nam hạ trong một khoảng thời gi­an ngắn, nhưng cũng dập tắt ngọn lửa bắc phạt của quân Ngô. Quân Ngô cũng đừng hòng bước được vào Gi­ang Bắc. Kết quả tốt nhất của Tôn Ngô cũng chỉ có thể là dựa vào Trường Gi­ang hiểm yếu mà cầu tự bảo vệ mình. Đây đương nhiên không tính là kết quả tốt gì, càng không phải là điều mà Chu Du hi vọng nhìn thấy, nhưng hắn đã không còn có lựa chọn nào khác.

Xả nước nhấn chìm Hoài Nam, ít nhất có thể đảm bảo rằng quân Lương trong vòng mười năm không thể thảo phạt Gi­ang Đông.

Nhưng nếu không xả ra trận hồng thủy này, có lẽ không quá ba năm, Mã đồ tể sẽ có thể nhờ nhân lực của hai quận Lư Gi­ang, Hoài Nam (Gi­ang Hoài là nơi có trai tráng thông thạo thủy tình nhất), cùng với vật lực, tài lực hùng hậu của hai mươi châu mà tạo ra một nhánh thủy quân khổng lồ.

Với sự hiểu biết của Chu Du đối với Mã đồ tể, hắn tin rằng sự to lớn của nhánh thủy quân này sẽ vượt qua bất kỳ sức tưởng tượng của một người nào.

Cho dù nhánh Tây Lương thủy quân này không bằng thủy quân Đông Ngô tinh nhuệ, không năng chinh thiện chiến như thủy quân Đông Ngô, nhưng kiến nhiều thì có thể cắn chết voi. Mà cho dù là nhánh thủy quân Tây Lương khổng lồ này không thể đánh bại thủy quân Đông Ngô thì việc hộ tống mấy chục vạn Tây Lương thiết giáp vượt qua Trường Gi­ang thì cũng thừa sức. Một khi mấy chục vạn Tây Lương thiết giáp vượt qua Trường Gi­ang, quân Ngô lấy cái gì mà cản chúng đây?

“Báo…”

Chu Du đang nhìn nước đục mênh mông đến xuất thần thì đột nhiên có bộ tướng từ trên cầu thang chạy lên boong thuyền, quỳ xuống đất nói với Tôn Quyền: “Chúa công, Lữ Mông tướng quân cấp báo!”

Chu Du chột dạ, tay phải đang dựa lên tường chắn đột nhiên nắm chặt lại.

Tôn Quyền không nhịn được mà liếc qua Chu Du, sau đó không quay đầu lại quát: “Nói đi!”

Bộ tướng hổn hển nói: “Quân Lương ở thành bắc sớm đã có chuẩn bị, hai mươi vạn kỵ bộ đại quân đều đã chuyển tới nơi cao từ trước, hầu như không phải chịu một chút tổn thất nào!”

Bộ tướng vừa dứt lời, văn quan võ tướng trên boong thuyền đồng loạt biến sắc, sắc mặt của Tôn Quyền cũng biến thành cực kỳ khó coi.

Đúng vào lúc này, lại có bộ tướng hớt hải chạy lên boong thuyền, quỵ xuống đất nói: “Chúa công, Chu Thái tướng quân cấp báo!”

Tôn Quyền vỗ lên tường chắn, giận dữ bảo: “Nói đi!”

Bộ tướng lo sợ nói: “Chu Thái tướng quân trúng gi­an kế của quân Lương, khi truy đuổi Cẩm Phàm tặc tới một hợp cốc gặp phải phục kích, hơn ba mươi chiếc mông trùng, hơn bốn mươi đấu hạm bị thiêu hủy, hơn một trăm chiếc thuyền nhẹ bị Cẩm Phàm tặc nhân lúc loạn mà cướp thuyền. Tướng sĩ thủy quân thương vong hơn ba ngàn người, trong đó chết trận hơn tám trăm người.

“Hả?”

“Cái gì?”

“Sao lại có thể như vậy được?”

Văn quan võ tướng ở trên boong thuyền trở nên náo động, rõ ràng là không có ai ngờ tới dạng kết quả này.

Vốn cho rằng sau khi hồng thủy qua đi, thủy quân Đông Ngô có thể không tốn chút sức nào mà chém tận giết tuyệt tàn binh Tây Lương đang ở trong cảnh cửu tử nhất sinh, nhưng ngàn vạn lần không ngờ rằng lại bị quân Lương giết cho trở tay không kịp. Đúng là thịt dê không thành lại còn dính phải xui xẻo.

Sắc mặt của Chu Du trong thoáng chốc đã biến thành càng lúc càng khó coi, một nỗi uất ức khiến người ta không thể hít thở nổi đột nhiên từ trong ngực xộc lên. Chu Du đột nhiên há to miệng, phun ra một bụm máu, lập tức hai mắt tối xầm rồi ngả ngửa ra sau. Tôn Quyền ở gần trong gang tấc, nhưng lại trơ mắt nhìn Chu Du ngã xuống đất chứ không giơ tay ra đỡ, trong ánh mắt đang nhìn Chu Du lại lộ ra vẻ lạnh lùng đến khiếp người.

“Đại đô đốc?”

“Đại đô đốc?”

Đám hãn tướng Đông Ngô Thái Sử Từ, Tổ Lang, Hạ Tề, Toàn Tông vội vàng lao lên cứu Chu Du. Tôn Quyền lúc này mới nghiêm giọng quát: “Tôn Khuông, Tôn Du. Các ngươi còn đứng ngây ra đó làm gì? Còn không mau đỡ đại đô đốc tới phòng của cô. Tôn Giảo, mau tìm lang trung tùy quân tới đây, nói với lang trung nhất định phải dùng dược liệu tốt nhất. Mau lên!”



Buổi đêm.

Chu Du từ trong hôn mê từ từ tỉnh lại, chỉ thấy Tôn Quyền, Từ Thứ mặt đầy vẻ lo lắng trông chừng ở cạnh giường. Thấy Chu Du tỉnh lại, Tôn Quyền không khỏi lộ ra vẻ vui mừng, hỏi thăm với vẻ quan tâm: “Công Cẩn, cảm thấy đỡ hơn chưa?”

“Không sao cả, chỉ chẳng qua là vì vết thương cũ thôi, xin chúa công đừng lo lắng.”

Chu Du dứt lời, khi đang muốn đứng dậy hành lễ thì bị Tôn Quyền nhẹ nhàng ấn xuống giường, khuyên bảo: “Công Cẩn ngàn vạn lần đừng loạn động, cứ nằm trên giường nói chuyện đi.”

Trên mặt Chu Du lộ ra một nụ cười khổ, cũng không miễn cưỡng nữa, thuận thế nằm lại xuống giường.

“Ài.” Tôn Quyền đột nhiên thở dài một tiếng, nói: “Công Cẩn, quân Lương sớm đã có chuẩn bị, hồng thủy tràn ngập cũng sẽ rút trong vòng hai ngày nữa. Quân ta căn bản không có cơ hội để tấn công. Hiện tại thủy quân của Lữ Mông, Chu Thái đều đã quay về rồi, toàn quân đang trên đường lui về Gi­ang Đông. Cô ngàn vạn lần không ngờ rằng, Hoài Nam chi chiến lại có kết cục như vậy.”

Nói tới đây thì dừng lại, Tôn Quyền đột nhiên cúi đầu nhìn Chu Du, hỏi: “Công Cẩn, Hoài Nam chi chiến thực sự kết thúc như vậy sao?”

Chu Du nghiêng đầu nhìn hắn, buồn bã nói: “Du vô năng, khiến chúa công phải thất vọng.”

“Không, cô biết Công Cẩn đã tận lực rồi.” Trong mắt Tôn Quyền đột nhiên lóe lên vẻ buồn bã, trầm giọng nói: “Trận chiến này bại thực ra là bởi vì thực lực của quân ta không đủ, có điều thắng thua chính là chuyện thường của binh gia. Quân ta thua Hoài Nam chi chiến, chưa chắc sẽ tiếp tục thua mãi. Công Cẩn ngàn vạn lần đừng tự trách mình.”

Chu Du nói: “Đa tạ chúa công khoan hồng độ lượng.”

“Cố gắng dưỡng thương đi.” Tôn Quyền mỉm cười với Chu Du, cao giọng nói: “Tới Gi­ang Đông rồi, cô còn phải dựa vào Công Cẩn rất nhiều. Quân Ngô không thể không có đại đô đốc ba quân của họ được. Ha ha ha, thôi cô không làm phiền Công Cẩn nghỉ ngơi nữa.”

Nói xong, Tôn Quyền quay đầu rời đi.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 347: Gia Cát Lượng chế tạo trùng xa

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Từ Thứ rón rén bước vào khoang thuyền, ôm quyền vái Tôn Quyền rồi nói: “Thứ tham kiến chúa công.”

Tôn Quyền nghe thấy vậy liền quay đầu lại, ánh mắt u buồn nhìn Từ Thứ, im lặng không nói gì.

Từ Thứ đột nhiên cảm thấy một tia xa lạ, Tôn Quyền tuổi mới gần nhược quán (khoảng 20 tuổi) tựa hồ như trong vòng một đêm đã biến thành người khác. Với sự cơ trí và nhãn quang của Từ Thứ, không ngờ lại không thể đoán ra được trong lòng Tôn Quyền đang nghĩ gì. Tôn Quyền hiện tại giống như một vị chư hầu thượng vị nhiều năm, nhất cử nhất động đều lộ ra vẻ cao thâm mạt trắc, lộ ra vẻ âm trầm khiến người ta phải sợ hãi.

Dưới cái nhìn quyền áp bách tính của Tôn Quyền, Từ Thứ di dời ánh mắt theo bản năng.

Khóe miệng Tôn Quyền lộ ra một nụ cười lạnh, hỏi Từ Thứ: “Nguyên Trực, Hoài Nam chi chiến đúng là kết thúc như vậy sao?”

Từ Thứ cúi đầu đáp: “Chúa công, đại đô đốc nói thế nào?”

Tôn Quyền lạnh lùng nói: “Cô hiện tại đang hỏi ngươi cơ mà!”

Từ Thứ sau khi do dự một thoáng bèn cắn răng nói: “Chúa công, Hoài Nam chi chiến kỳ thực vẫn chưa kết thúc.”

“Phù…” Tôn Quyền thở dài một hơi nhẹ nhõm, trong mắt thoáng hiện vẻ vui mừng, gật đầu nói: “Nguyên Trực, cô biết ngươi sẽ nói thật. Ngươi và đại đô đốc không thể không ngờ tới rằng quân Lương sẽ phá được kế nhấn chìm Hoài Nam của quân ta được. Quân ta không tiếc vứt bỏ cả vùng Hoài Nam màu mỡ, không tiếc hi sinh hơn bốn trăm vạn bách tính Hoài Nam, cô lại không tiếcủa gánh chịu tiếng xấu ngàn đời, Đông Ngô chúng ta trả một cái giá thảm trọng như vậy, há lại không có được bất kỳ một thu hoạch nào?”

“Cô tin rằng, Hoài Nam chi chiến tuyệt sẽ không kết thúc như vậy, tuyệt không thể!” Tôn Quyền nói tới đây thì dừng lại, ngữ khí đột nhiên chuyển thành trầm thấp, lại nói tiếp: “Đại đô đốc không muốn tiếp tục cuộc chiến này, cô tin rằng khẳng định là có lý do của hắn. Nhưng cô lại biết rõ rằng, Nguyên Trực ngươi… ngươi thủy chung đứng ở phía cô! Nguyên Trực, ngươi quả nhiên không khiến cô thất vọng.”

Tứ Thứ mồ hôi nhễ nhại, quỳ xuống nói: “Chúa công minh giám.”

“Được rồi, đứng dậy đi.” Tôn Quyền không đi lên đỡ Từ Thứ, chỉ hờ hững nói: “Hiện tại ngươi hãy nói cho cô biết, Hoài Nam chi chiến này rốt cuộc nên tiếp tục như thế nào?”

Từ Thứ thầm thở dài một hơi, đứng dậy nói với Tôn Quyền: “Chúa công, tại hạ và đại đô đốc quả thật đã ngờ trước rằng kế nhấn chìm Hoài An này khó mà có được hiệu quả. Cũng đã nghĩ tới kế hoạch hành động tiếp theo. Có điều… kế này quá thương thiên hại lý, có thể nói là tàn ác vô nhân đạo. Đại đô đốc không muốn để trận chiến này tiếp thực nữa, kỳ thực cũng không phải là không có đạo lý.”

“Đủ rồi.” Tôn Quyền lạnh lùng nói: “Cô chỉ muốn biết, trận này nên tiếp tục như thế nào?”

Trên mặt Từ Thứ hiện ra vẻ bất lực, đành đáp: “Dùng thủy quân triển khai tập kích quấy rối không ngừng nghĩ với Hoài Nam, cản trở kế hoạch chẩn tai của đại quân Tây Lương, bức cho mấy trăm vạn tai dân Hoài Nam vì đói mà chết một lượng lớn. Mấy trăm vạn thi thể phơi thây nơi hoang dã. Dưới ánh nắng gay gắt của mùa hè oi bức, rất dễ bùng phát một trận đại ôn dịch xưa nay chưa từng có. Hơn nữa trận ôn dịch này sẽ theo tai dân di chuyển về hương bắc mà lan tới Trung Nguyên, Từ châu, Ti châu, Hà Bắc. Thậm chí là Quan Trung, Lương châu. Quân ta có thể không phí một binh một tốt mà khiến Mã đồ tể nguyên khí đại thương!”

“Không ngờ lại như vậy?” Tôn Quyền mắt lộ ra vẻ chấn kinh, nghiêm giọng nói: “Hiểu rồi, thì ra chính là ôn dịch! Đây không phải chính là độc kế mà vào Hàm Cốc quan chi chiến năm đó, Mã đồ tể đã dúng để đánh bại liên quân Quan Đông sao? Năm đó nếu không phải là Giả độc sĩ nghĩ ra độc kế ôn dịch này thì e rằng thế lực của Mã đồ tể sớm đã bị ba mươi sáu lộ liên quân Quan Đông nhổ tận gốc rồi. Mã đồ tể há có thể có được ngày hôm nay?”

Từ Thứ nói: “Chúa công, kế này đại thương thiên hòa, quả thực là không nên làm!”

“Cô trong lòng biết rõ mà.” Tôn Quyền không đưa ra ý kiến, bảo Từ Thứ: “Nguyên Trực, ngươi lui trước đi.”

Từ Thứ còn muốn khuyên nữa, nhưng thấy sắc mặt âm trầm của Tôn Quyền, lời tới môi rồi lại đành nuốt ngược trở về, sau đó lặng lẽ chắp tay vái Tôn Quyền rồi quay người lui xuống. Đợi khi thân ảnh của Từ Thứ đi xa, Tôn Quyền mới thở dài một tiếng, quay đầu nhìn bầu trời đêm ảm đạm, lẩm bẩm một mình: “Chu Du à Chu Du, cô tin tưởng ngươi như vậy mà ngươi lại giấu diếm cô, thực sự là không nên như vậy đâu…”



Cách thành đông Vĩnh An mười dặm, trung quân của Tào Tháo.

Ngụy Duyên giục ngựa tới trước mặt Tào Tháo, cúi đầu ủ rũ nói: “Chúa công, phòng vệ của Vĩnh An rất nghiêm mật, mạt tướng căn bản là không thể trà trộn vào được.”

“Hả?” Tào Tháo quay đầu lại nhìn Gia Cát Lượng, nhíu mày trầm giọng nói: “Không ngờ tên Trương Tú này lại cẩn thận như vậy, có Ngư Phúc phổ hiểm yếu chặn ở trước mặt, phòng vệ của thành Vĩnh An không ngờ lại vẫn nghiêm mật như thế? Ài, nếu như thái thú các quận dưới quyền Mã đồ tể ai ai cũng đều giống như Trương Tú, Trương Nhiệm, vậy cô cũng không cần phải tranh thiên hạ với hắn nữa làm gì nữa.”

Gia Cát Lượng vội vàng nói: “Chúa công không cần phải nổi giận làm gì, Lượng có một kế có thể hạ được Vĩnh An.”

Tào Tháo nói: “Kế gì vậy?”

Gia Cát Lượng nói: “Chúa công còn nhớ lời của tên hướng đạo không?”

Tào Tháo nói: “Lời gì?”

Gia Cát Lượng nói: “Tường thành thành Vĩnh An tuy cao nhưng không dày, hơn nữa lấy đất để xây tường, trong ngoài, hai bên đều không gia cố thêm đá, hơn nữa ngoài thành lại không có sông hộ thành vây quanh, quân ta có thể dễ dàng giết tới dưới tường thành, sau đó Lượng sẽ có cách để làm đổ tường thành Vĩnh An.”

Tào Tháo vội vàng nói: “Dùng trùng xa ư?”

Gia Cát Lượng nói: “Không cần trùng xa, kỳ thực chính là xe đẩy tay đơn gi­an do ván gỗ chế thành, dùng ván gỗ dày che phần đỉnh và hai bên, bên ngoài lại bọc thêm da trâu. Cường độ của nó đủ để ngăn cản sự va chạm của gỗ lăn và lôi thạch, lại có thể chống được lửa. Ở phần chóp cố định chùy đập sắc nhọn, hai bên đục lỗ. Đồng thời vào lúc chùy đập chàng kích tường thành thì trong lỗ sẽ phun ra nước làm ẩm tường thành, có thể khiến tường thành sụp đổ nhanh hơn.”

Tào Tháo nói: “Vậy trùng xa tất nhiên sẽ rất nặng, chuyển động nó thế nào đây?”

Gia Cát Lượng nói: “Nhưng ở phần dưới của xe ta sẽ lắp đặt bánh xe, binh sĩ có thể ở trong xe mà lái về phía trước.”

Mắt Tào Tháo sáng lên, vui vẻ nói: “Đây đúng là một biện pháp tốt, nếu nói tới bánh xe thì trên mộc ngưu lưu mã đã có sẵn rồi. Hay, Khổng Minh nhanh chóng đi đả tạo hai trăm cỗ trùng xa này, sau đó ngay đêm không ngừng chàng kích tường thành Vĩnh An!”

Gia Cát Lượng vui vẻ ôm quyền nói: “Lượng tuân lệnh.”



Ba ngày sau, đầu thành Vĩnh An.

Khi mấy chục chiếc “xe kỳ quái” nặng nề đang nhanh chóng áp sát tường thành trong tiếng lọc cọc chói tai, Trương Tú triệt để ngây ngốc.

Trương Tú vừa nghiêm lệnh cho binh sĩ không được khinh cử vọng động vừa hỏi Trương Tùng: “Trương đại nhân, đây là thứ quỷ quái gì vậy?”

Trương Tùng lắc đầu, trầm ngâm cả nửa ngày, sau cùng mới thốt ra được một câu: “Bản quan cũng chưa từng thấy bao giờ.”

“Rầm!”

Trương Tùng vừa dứt lời, đám “xe kỳ quái” này đã nặng nề đập lên tường thành. Mấy chục chiếc trùng xa trước sau đập lên tường thành, thanh thế này rất hãi nhân, cơ hồ cả tường thành đều bắt đầu chấn động kịch liệt. Trương Tùng không kịp đề phòng suýt chút nữa thì ngã xuống đất, may mà Trương Tú nhanh tay nhanh mắt đỡ lấy kịp. Trương Tùng ổn định lại thân hình, vội vàng đưa tay ra chỉnh lại mũ cao ở trên đầu, sau đó cười xấu hổ với Trương Tú.

“Đa tạ tướng quân.”

Trương Tú cười cười, từ trên địch lâu thò đầu ra nhìn xuống dưới, chỉ thấy dưới chân tường thành đã bốc lên bụi mù.

Trong khói bụi mờ mịt, đám “xe kỳ quái” lại lọc cọc lùi ra mấy bước, sau đó lại lại hung hăng nện về phía tường thành. Cứ lặp đi lặp lại mấy lần, Trương Tú cuối cùng cũng nhìn ra được một số môn đạo.

“Hỏng rồi!” Trương Tú nhớn nhác thốt lên: “Quân Tào muốn đập đổ tường thành!”

“Cái gì! Đập đổ tường thành!” Trương Tùng ngạc nhiên nói: “Tào Tháo bị điên à? tường thành Vĩnh An tuy không phải quá dày, nhưng cũng phải dày tới hơn bốn trượng, chỉ mấy trăm cỗ trùng xa này e rằng còn không đập thủng được, muốn đập đổ thì không biết phải đến năm nào tháng nào? Tào Tháo chẳng lẽ vì bại trận nhiều quá mà điên rồi chứ?”

“Không đúng?” Trương Tú nghiêm giọng nói: “Đại nhân nhìn xem, mới có một lát mà tường thanh đã bị đập đổ một khối lớn rồi. Chiếu theo tốc độ này, e rằng không tới mười ngày, tường thành sẽ bị đập thủng, tới lúc đó quân Tào chẳng phải có thể xuyên qua tường mà vào sao?”

“Có chuyện này ư?” Trương Tùng giật nảy mình, vội vàng thò đầu ra từ trên địch lâu, nói: “Để bản quan xem nào.”

Trương Tùng nhìn xuống, quả nhiên thấy dưới sự chàng kích không ngừng của mấy chục chiếc “xe kỳ quái” đó, đã lưu lại từng vết lõm rõ ràng ở trên tường thành. Hơn nữa trên vết lõm rõ ràng có dấu vết bị nước thấm ướt. Trương Tùng sợ hãi, thất thanh nói: “Tào Tháo giảo hoạt quá, không ngờ trước tiên đã dùng nước làm ẩm tường thành, sau đó mới đập, quả nhiên là lợi hại.”

“Toàn quân nghe lệnh!” Trương Nhậm rút kiếm ra, giơ lên quá đỉnh đầu, quát: “Lăn đá và gỗ xuống, đập cho thứ quỷ quái đó nát như tương đi!”

Thủ quân Tây Lương ở trên tường thành rầm rầm vâng lệnh, nhao nhao giơ gỗ lăn, lôi thạch đã chuẩn bị từ rồi ném xuống đống xe kỳ quái ở dưới tường thành, trong tiếng va chạm liên tục không ngừng, gỗ lăn lôi thạch rào rào như mưa nặng nề đập lên thân đống xe kỳ quái đó. Lúc này, chuyện khiến Trương Tú, Trương Tùng và tất cả tướng sĩ quân Lương cảm thấy bất ngờ nhất đã phát sinh. Đám xe kỳ quái ở dưới tường thành không ngờ lại không có bất kỳ tổn thất nào.

“Con mẹ nó.” Phó tướng Trương Tiên gào lên: “Đống đồ chơi quỷ quái này chắc chắn thật đó, gỗ lăn lôi thạch không ngờ lại không làm gì được chúng!”

“Đi mang hai con sư tử đá dựng ở trước phủ nha môn tới đây!” Trương Tú tức giận quát: “Bản tướng quân không tin là không đập nát được nó!”

Phó tướng Trương Tiên lĩnh mệnh rời đi, sau hai tiếng, Trương Tiên suất lĩnh mấy chục binh sĩ thân thể cường tráng dùng “kiệu lớn ba mươi hai người khiêng” chuyển hai con sư tử đá phải nặng tới ngàn cân lên đầu thành. Trương Tú ra lệnh cho các binh sĩ đẩy một con lên tường chắn mái, nhắm tới một cỗ xe kỳ quái của quân Tào mà ném xuống. Chỉ nghe thấy rầm một tiếng, cỗ xe kỳ quái đó trong khoảnh khắc bị đập cho tan nát, xác xe cũng bị cắm sâu vào trong đất.

“Tốt!”

Tướng sĩ quân Lương ở trên tường thành rầm rầm khen hay.

Trong trận của quân Tào, Gia Cát Lượng nói với Tào Tháo: “Chúa công không cần phải lo lắng làm gì, sư tử đá nặng ngàn cân trong thành Vĩnh An liệu có được mấy con chứ?”

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 348: Xích sắt chặn sông (1)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

“Có rồi!” Trương Tùng kích động nói: “Có đối sách rồi.”

Trương Tú vội vàng nói: “Đại nhân mau nói đi, đối sách gì vậy?”

Trương Tùng nói: “Tướng quân hãy hỏa tốc lệnh cho sĩ tốt sưu tập các vật dễ cháy như than củi, củi đốt, than đá, vỏ cây, rồi đem những đồ dễ cháy này từ đầu thành ném xuống, tưới thêm dầu hỏa để dẫn cháy. Sau đỏ lại từ trên đầu thành ném vải vụn đã được thấm ướt để tạo thành khói đặc. Hắc hắc, nếu cần thiết thì còn có thể từ trên đầu thành hắt phân lỏng xuống. Da trâu có thể phòng hỏa công, nhưng binh sĩ quân Tào trốn ở bên dưới xe lại không thể chịu nổi sức nóng do lửa lớn cháy không ngừng và khói mù mịt được, đúng không nào?”

“Biện pháp hay!” Trương Tú nghe vậy liền vui mừng nói: “Trương Tiên ở đâu?”

Phó tướng Trương Tiên vội vàng bước lên thưa: “Có mạt tướng.”

Trương Tú phất tay, quát: “Dẫn người đi sưu tập nhưng vật dễ cháy như than củi, củi đốt, than đá, vỏ cây, lại cố gắng thu thập một số vải vụn bỏ đi, thuận tiện bảo các bách tính ở trong phòng chọn mấy chục thùng phân lỏng nữa!”

“Cái gì? Phân lỏng?” Trương Tiên ngạc nhiên nói: “Cần phân lỏng làm gì?”

“Hỏi ít thôi.” Trương Tú nói: “Còn không mau đi đi.”

“Mạt tướng tuân lệnh.”

Trương Tiên rầm rầm ứng tiên, lĩnh mệnh rời đi.

Không tới hai tiếng sau, Trương Tiên suất lĩnh binh sĩ từ trong thành sưu tập một lượng lớn vật dẫn hỏa, cũng thu thập tất cả vải vóc đã rách nát không dùng được nữa của bách tính trong thành lại. Bách tính trong thành nghe nói Trương Tú muốn thu thập phân lỏng để thủ thành, liền xung phong gánh phân nước lên đầu thành. Rất nhanh trên đầu thành liền được xếp đầy từng thùng từng thùng phân lỏng, múi hôi thối đậm đặc khiến người ta buồn nôn.

Trương Tú hạ lệnh một tiếng, một lượng lớn vật dẫn hỏa từ trên đầu thành được ném xuống, tiếp theo là từng nồi dầu hỏa cũng được trút xuống theo. Dưới tường thành rất nhanh liền háa thành biển lửa. Da trâu bọc trên trùng xa tuy ngăn được lửa xâm nhập, nhưng binh sĩ quân Tào ở trong xe lại không thể chịu nổi nhiệt độ cao do lửa cháy, đặc biệt là một lượng lớn vải vóc ẩm ướt từ trên đầu thành ném xuống, dưới tường thành lập tức bốc lên khói mù đậm đặc.

Lại có thêm từng thùng từng thùng phân lỏng lại được ném xuống từ trên đầu thành, dưới tường thành cơ hồ trở thành một bãi phân nóng hầm hập. Khói độc nóng rực kèm với mùi hôi thối khiến người ta buồn nôn chậm rãi tỏa ra trong không khí. Rất nhiều binh sĩ quân Tào ở trong xe ngạt thở mà chết. Những binh sĩ may mắn không bị ngạt thở mà chết khó khăn lắm mới bò được ra khỏi xe thì cũng bị thủ quân ở trên đầu thành bắn chết.

Rất nhanh, mấy chục chiếc trùng xa ở dưới tường thành triệt để không còn động tĩnh gì nữa.

Hậu trận quân Tào.

“Đáng ghét!” Tàng Bá chán nản vung quyền đầu, quát: “Đáng chết thật, không ngờ lại bị phá giải rồi?”

“Ha ha.” Gia Cát Lượng mỉm cười: “Tàng Bá tướng quân, hiện tại nếu nói quân Lương đã phá giải được kế trùng xa của quân ta thì hình như còn quá sớm đó. Chiến tranh mới chỉ vừa bắt đầu thôi. Quân ta chẳng qua chỉ tổn thất mấy trăm bộ tốt thôi mà. Mấy chục chiếc trùng xe vẫn hoàn toàn không bị tổn thất gì cả. Còn thủ quân ở trong thành Vĩnh An thì cơ hồ đã dùng hết vật dẫn hỏa và dầu hỏa rồi!”

“Ừ.” Tào Tháo gật đầu, cao giọng nói: “Truyền lệnh, trùng xa đội thứ hai bắt đầu đập một đoạn tường thành khác!”

Sau tiếng hạ lệnh của Tào Tháo, mấy chục chiến trùng xa từ trong trận của quân Tào lục tục đi ra, vòng qua đoạn tường thành đã trở nên hỗn độn đó, lại lựa chọn một đoạn tường thành còn nguyên vẹn khác để tiếp tục trùng kích. Trương Tú vội vàng ra lệnh cho Trương Tiên lại sưu tập vật dẫn lửa, nhưng Vĩnh An là một tòa thành nhỏ, vật dẫn hỏa ở trong thành cũng không đủ. Vật dẫn hỏa sưu tập được trong lần thứ hai này ít hơn lần trước đến đáng thương.

Hơn nữa Tào Tháo tiếp nhận bài học của lần gi­ao phong thứ nhất, thủ quân vừa ném vật dẫn hỏa từ trên đầu thành xuống. Trùng xa của quân Tào liền không chút do dự lui ra sau. Sau đó lại chọn một đoạn tường thành còn nguyên vẹn khác để bắt đầu trùng kích. Cứ tiếp tục người tấn công, kẻ công phòng như vậy, thậm chí ngay cả phân lỏng ở trong thành Vĩnh An cũng hết. Nhưng trùng xa của quân Tào thì ngược lại càng lúc càng nhiều.

Trương Tú lại hạ lệnh cho tướng sĩ quân Lương từ trên đầu thành ném một lượng lớn gỗ lăn, lôi thạch xuống. Tạo thành một giải chướng ngại ở dưới chân thành, hòng ngăn cản trùng xa của quân Tào tiếp cận. Nhưng cái này căn bản không có tác dụng gì. Quân Tào từ dưới trùng xa thò ra mấy chục chiếc gậy dài, gạt từng chướng ngại vận cản đường trùng xe tiến lên trước. Sau đó tất nhanh lại tiếp tục tiếp cận tường thành.

Trương Tú lại lệnh cho Trương Tiên dẫn năm trăm tử sĩ thử xuất thành đánh lén. Kết quả lại bị đại tướng Tàng Bá của quân Tào giết cho đại bại. Suýt chút nữa còn bị quân Tào nhân cơ hội mà đoạt mất cửa thành! Giết tới khi trời tối, trùng xa của quân Tào đã đập ra mấy chục cái lỗ lớn ở đoạn tường thành phía nam của thành Vĩnh An, có mấy cái lỗ còn sâu tới vài thước. Chiếu theo tốc độ này, tối đa mười ngày nữa thành tường thành Vĩnh An khẳng định sẽ bị đập đổ.



Buổi đêm, phủ nha của thái thú Vĩnh An.

Trương Tú, Trương Tùng ngồi đối diện nhau, nhìn ngọn đèn ở trên bàn đến phát ngốc. Một lúc sau, Trương Tú mới phá vỡ sự trầm lặng, nói với Trương Tùng: “Trương đại nhân, cứ tiếp tục thế này thì không được, nhất định phải nghĩ ra biện pháp phá xe đập thành của quân Tào.”

Trương Tùng vuốt chòm râu dê lưa thưa ở dưới cằm, nhíu mày nói: “Hay là… phái binh nhân lúc đêm tối xuất thành đánh lén?”

“Khẳng định là không được.” Trương Tú lắc đầu nói: “Tào Tháo dụng binh ngay cả chúa công còn phải cố kỵ, với khả năng của chúng ta tốt nhất là đừng có mạo hiểm.”

“Vậy cũng được.” Trương Tùng gật đầu nói: “Vạn nhất mạo hiểm thất bại, làm không tốt thì ngay cả thành Vĩnh An cũng sẽ thất thủ.”

Trương Tú nghĩ một chút rồi nói: “Hay là trước tiên tìm cách lấy một chiếc xe phá thành về nghiên cứu đã. Sau đó sẽ nhắm vào nhược điểm của nó mà công kích? Mạt tướng không tin thứ này tà như vậy. Xe phá thành của quân Tào tuy lợi hại nhưng chẳng lẽ thật sự không có nhược điểm?”

“Lấy một chiếc xe phá thành ư?” Trương Tùng cười khổ: “Lấy thế nào đây? Phái binh xuất thành cướp ư?”

“Như thế thì khẳng định là không được rồi.” Trương Tú lắc đầu nói: “Nếu có thể phái binh ra ngoài thành thì còn cướp về làm gì, trực tiếp đập nát nó có phải nhanh hơn không?”

“Trừ phái binh xuất thành để cướp thì còn có thể có biện pháp nào khác nữa? Dẫu sao thì cũng không thể thòng mấy sợi dây thừng xuống rồi kéo xe phá thành của quân Tào lên được?” Trương Tùng nói xong câu này thì mắt lập tức sáng lên, vội vàng nói: “Hả, dây thừng? Trực tiếp kéo lên thành? Ha ha, có rồi! Bản quan nghĩ ra cách phá giải rồi! Tướng quân, bản quan nghĩ ra nên làm thế nào để phá giải xe phá thành của quân Tào rồi.”

Trương Tú nói: “Phá giải như thế nào?”

Trương Tùng nói: “Tướng quân có thể phái người ngay đêm chế ra trục kéo cỡ lớn, tốt nhất là còn lớn hơn cả trục kéo ngàn cân để kéo cửa thành lên xuống ấy, mà còn phải thật kiên cố nữa. Sau đó cố định những trục kéo này lên tường thành. Đợi khi trời sáng quân ta cho xe phá thành ra đập tường thì dùng nỏ bắn ra nỏ tiễn cỡ lớn có móc câu ghim vào vách dày của xe phá thành, ở đuôi nỏ tiễn lại buộc xích sắt, lợi dụng trục kéo để kéo xích sắt, há chẳng phải là có thể kéo được xe phá thành của quân Tào lên đầu thành ư?”

“Đây đúng là một biện pháp tốt.” Trương Tú gật đầu nói: “Tào Tháo nếu phái bộ binh bảo vệ xe phá thành, chúng ta có thể bảo cung tiễn thủ bắn chết toàn bộ bộ binh của quân Tào, xe phá thành không sợ cung tiễn, không sợ hỏa thiêu, cũng không sợ gỗ lăn lôi thạch, nhưng sĩ binh quân Tào lại không thể như vậy. Một khi như vậy, quân Tào nếu muốn bảo vệ xe phá thành thì ắt phải trả giá bằng thương vong cực lớn. Chiến tranh sẽ trở về đường cũ, ha ha.”

Trương Tùng cười âm hiểm, nói với Trương Tú: “Tướng quân, bản quan còn nghĩ ra được một loại lợi khí thủ thành khác nữa!”

Trương Tú nói: “Lợi khí gì?”

Trương Tùng bảo: “Chúng ta đã có thể kéo được xe phá thành của quân Tào lên, tất nhiên cũng có thể thả nó ra. Tướng quân thử nghĩ xem, nếu những cỗ xe phá thành có trọng lượng đạt tới mấy trăm, thậm chí là hơn ngàn cân này từ trên tường thành cao mấy trượng rơi xuống, đập lên đầu tướng sĩ quân Tào thì sẽ tạo thành sát thương như thế nào? Nếu ở trên thành xe còn gắn đầy chướng ngại vật sắc bén thì lực sát thương chẳng phải sẽ còn mạnh hơn ư?”

Trong đầu Trương Tú lập tức hiện lên một cảnh tượng quỷ dị, từng cỗ xe phá thành cả thân xe cắm đầy chướng ngại vật sắc nhọn dưới sự vận động của trục xe mà bị léo lên rồi lại hạ xuống, cứ thế tiếp tục kéo lên rồi lại hạ xuống. Mỗi lần xe phá thành hạ xuống đều có một mảng binh sĩ quân Tào nằm vật trong vũng máu, dưới tường thành lưu lại từng vết lõm khổng lồ, trong những vết lõm đó là máu thịt lẫn lộn, giống như là tu la huyết ngục.

“Trời ơi, Trương đại nhân ngài đúng là một thiên tài.” Trương Tú rùng mình sợ hãi, thất thanh nói: “May mà ngài là đồng liêu của mạt tướng, nếu ngài là địch nhân, vậy mạt tướng đúng là tối nào ngủ cũng nằm mơ thấy ác mộng mất.”

“Hắc hắc.”

Trương Tùng há miệng cười to, biểu tình đó đúng là âm hiểm không tả nổi.



Hai ngày sau.

Xe phá thành của quân Tào đã đập ra được một khối lớn ở dưới chân tường thành đoạn tường thành phía nam của Vĩnh An. Hai cái trục kéo cỡ lớn mà Trương Tú phái người khẩn cấp chế tạo cuối cùng cũng thuận lợi làm xong. Trương Tú lập tức phái người chuyển hai trục kéo này lên tường thành, dùng cọc sắt và đá khối để cố định, lại ở đoạn tường thành tương ứng bố trí ròng rọc và nỏ lớn, sau đó thì dùng xích sắt buộc vào phần đuôi của nỏ tiễn cỡ lớn, đợi tất cả chuẩn bị xong xuôi, Trương Tú mới giơ cao tay phải lên rồi phất mạnh xuống.

“Vù vù!”

Trong tiếng rung kịch liệt của dây cung, hai mũi nõ tiển từ trên đầu thành bắn xuống nhanh như thiểm điện, bó tiễn có móc câu đã cắm sâu vào trong thành gỗ dày cộp của xe phá thành của quân Tào. Trương Tú lại hạ lệnh một tiếng, mấy chục binh sĩ đứng ở cạnh trục kéo nhanh chóng chuyển động hai cái trục kéo khổng lồ. Dây kéo nối với nỏ tiễn, bánh kéo và ròng rọc lập tức căng ra.

Trước khi quân Tào có phản ứng, một cỗ xe công thành nặng nề đã bị kéo lên khỏi mặt đất.

“Có chuyện gì vậy?” Hơn mười binh sĩ quân Tào ở phía dưới xe phá thành thò đầu ra, hoảng hốt nhìn xung quanh: “Phát sinh chuyện gì vậy?”

“Két két két!”

Một mũi tên nhọn từ trên đầu thành được bắn xuống nhanh như thiểm điện, hai gã binh sĩ quân Tào xui xẻo còn chưa hiểu rõ rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì thì đã trở thành vong hồn dưới mũi tên của cung tiễn thủ quân Lương. Hơn mười binh sĩ quân Tào còn lại vội vàng rụt người lại, hai tay nắm chặt lên tay vịn ở trong xe, cố gắng để bản thân không từ trong xe rơi xuống.

Rõ ràng, trốn ở trong xe còn có thể miễn cưỡng bảo toàn được tính mạng, nếu mất đi sự bảo hộ của xe phá thành, lập tức sẽ gặp nguy hiểm tới tính mạng.

Nhưng xe càng lúc càng bị kéo lên cao, binh sĩ quân Tào ở trong xe mất đi chỗ đứng ở dưới chân, chỉ dựa vào hai tay nắm chặt lấy tay vịn, cuối cùng thể lực không đủ, nhao nhao từ trên không rơi xuống. Sau đó bị cung tiễn thủ ở trên tường thành không chút lưu tình bắn cho biến thành con nhím. Đợi khi xe phá thành bị kéo lên chóp tường thành, binh sĩ của quân Lương nhanh chóng bóc lớp da trâu bóc bên ngoài của nó ra, rồi dùng búa sắc chặt gãy nỏ tiễn.

Xe phá thành cồng kềnh nặng nề rơi xuống đất, rầm một tiếng chạm vào mặt đất, trong khoảnh khắc đã vỡ nát.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 348: Xích sắt chặn sông (2)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Hậu trận quân Tào.

Thấy cảnh kinh người này, Tào Tháo và Gia Cát Lượng cơ hồ đồng thời đứng bật dậy!

“Hả?” Tào Tháo ồ một tiếng, hỏi Gia Cát Lượng: “Khổng Minh, đây là chuyện gì vậy?”

“Hỏng rồi!” Gia Cát Lượng nhíu mày nói: “Hình như là trục kéo!”

Gia Cát Lượng vừa dứt lời, lại một chiếc xe nữa bị kéo lên.

“Có gì đâu.” Tàng Bá nói: “Phái binh tiến lên chắt đứt nỏ tiễn cắm vào xe là được thôi mà?”

“Không được, một khi như vậy, để bảo vệ xe phá thành ắt sẽ xuất hiện thương vong lớn. Quân ta hiện tại là cô quân thâm nhập, binh lực không thể bổ sung kịp thời. Do đó không thể liều mạng mà chỉ có thể dùng trí.” Gia Cát Lượng nói tới đây thì dừng lại, quay đầu lại nói với Tào Tháo: “Chúa công, hiện tại chỉ có thể hạ lệnh tạm thời lui binh thôi, đợi nghĩ ra cách phản chế rồi lại công thành.”

“Ừ, Khổng Minh nói có lý.” Tào Tháo gật đầu nói: “Truyền lệnh, trùng xa rút lui, tạm dừng công thành!”

Tào Tháo hạ lệnh một tiếng, hậu trận quân Tào trong khoảnh khắc vang lên tiếng kẻng chói tai. Mấy chục chiếc trùng xe còn lại nghe thấy tiếng kẻng, vội vàng bắt đầu lùi ra sau. Không tới một lát đã rút sạch khỏi chân thành Vĩnh An. Trên đầu thành Trương Tú, Trương Tùng không nhịn được mà vỗ tay chúc mừng, ba quân tướng sĩ càng hoan hô nhảy nhót.



Hoài Nam

Hồng thủy tràn ngập cuối cùng cũng rút, song mấy vạn mẫu ruộng trên bình nguyên Hoài Nam đã bị hủy trong chốc lát. Các tai dân vừa may mắn sống sót từ trong hồng thủy rất nhanh liền phải đối mặt với nguy cơ mới. Hồng thủy không những cuốn trôi hết tất cả gia súc cũng họ, nhấn chìm nhà cửa của họ, và hiện tại bọn họ không có gì để ăn, không có cái mặc và thậm chí ngay cả một chỗ để ở cũng không có

Để cứu vãn mấy trăm vạn bách tích gặp tai họa của quận Hoài Nam, Mã Dược tự mình dẫn mười vạn hàng quân Hà Bắc nhanh chóng vượt qua Hoài Hà tiến vào các huyện của Hoài Nam, Vừa duy trì trật tự vừa ra sức hiệp trợ bách tính Hoài Nam xây dựng lại gia viên. Đồng thời lấy ra quân lương còn lại ở trong quân để chẩn tế tai dân, lại lệnh cho Từ Hoảng khẩn cấp điều vận quân lương từ Nam Dương tới Hoài Nam để giải nguy.

Song đúng vào lúc này, chuyện mà Mã Dược, Giả Hủ lo lắng nhất vẫn phát sinh!

Thủy quân Đông Ngô dựa vào kênh rạch chằng chịt đan xen nhau trong quận Hoài Nam mà phát động sự quấy nhiễu không ngừng nghỉ với đại quân Tây Lương, trong nửa tháng ngắn ngủi, liên tục phát sinh hơn trăm lần tập kích. Một lượng lớn lương thực quý báu bị thủy quân Đông Ngô thiêu hủy, cục thế của quận Hoài Nam lâm vào thế cục họa vô đơn chí, hiện tại không nhưng hơn ba trăm vạn dân không có cơm ăn áo mặc, thậm chí là mười vại đại quân Tây Lương cũng rơi vào khốn cảnh.



Thọ Xuân.

Trên nhai đạo lầy lội bất kham nhô ra một khoảng đất trống, bên trên dựng một trướng bồng, chính là dinh thự lâm thời của Mã Dược. Trong đại trướng, Mã Dược đang cùng với đám người Giả Hủ, Lý Túc, Lỗ Túc, Khoái Việt vây lại trước một tấm bình phong để thương thảo đối sách.

Lỗ Túc nhíu chặt mày, lo lắng trùng trùng nói với Mã Dược: “Sau khi hồng thủy qua đi, khắp một giải Hoài Nam liên tục hơn mười ngày đều là ngày nắng gắt. Một lượng lớn nạn dân chết trong hồng thủy và thi thể súc sinh đã bắt đầu thối rửa. Lượng lớn thây người đã trôi vào ao hồ Gi­ang Hà, các bách tính Hoài Nam phải sử dụng nguồn nước không tinh khiết này, rất dễ phát sinh ôn dịch.”

Lỗ Túc vừa dứt lời thì Khoái Việt lại nói: “Điều khiến người ra lo lắng nhất vẫn là hơn ba mươi vạn tai dân, do thiếu hụt thực vật, mỗi ngày đều có một ngàn tới một vạn người chết. Nghe nói ở huyện Thành Đức đã có dân đói gây chuyện, tập kích hai quân doanh của quân ta, tuy bạo loạn cuối cùng cũng bị trấn áp, nhưng cũng đã tạo thành thương vong cho mấy trăm tướng sĩ. Nếu cứ tiếp tục thế này, cục thế kiểu gì cũng có một ngày loạn đến không thể khống chế được.”

Lý Túc phẫn hận nói: “Khiến người ta giận dữ nhất là bọn thủy quân Đông Ngô! Vào lúc này mà chúng không ngờ vẫn qua lại ở cảnh nội Hoài Nam như âm hồn bất tán. Lương thực mà quân ta khổ sở từ hậu phương chuyển tới lại bị đám hỗn đàn này đốt đi. Cứ tiếp tục thế này, Quan Trung, Hà Bắc cho dù có nhiều lương tồn hơn nữa thì e rằng cũng không lấp đầy cái lỗ thủng này được đâu!”

Giả Hủ thở dài một hơi, nói: “Cẩm Phàm thủy quân của Cam Ninh tướng quân vì ít không địch được nhiều, chỉ có thể lui về thủ chắc bến Tiêu Diêu không dám ra ngoài. Hiện tại thủy quân Đông Ngô đã hoàn toàn phong tỏa Phì Thủy và Hoài Hà rồi. Kế hoạch đem tai dân Hoài Nam chia ra an bài tới tới quận Lư gi­ang, Từ châu đã rất khó thực thi. Ngoài ra, các huyện đóng quân ở Hoài Nam sau khi gặp tập kích đều gia tăng phòng bị. Thủy quân Đông Ngô mấy lần đánh lén không thu được kết quả, vì tổn binh thiệt tướng nên không ngờ lại chuyển mục tiêu sang bách tính vô tội. Sau ngày hôm qua, đã có hơn hai vạn ba ngàn bách tính vô tội chết dưới đồ đao của quân Ngô!”

“Thằng nhãi Chu Du này đúng là điên mất rồi!” Mã Dược đấm một quyền lên bàn, cao giọng quát: “Hắn thật sự muốn đuổi tận giết tuyệt ư!”

“Chúa công, tình thế hiện tại rất không tốt.” Lý Túc nói: “Do sự phong tỏa của thủy quân Đông Ngô, lương thực ở bên ngoài không vận vào được. Tai dân Hoài Nam lại không di chuyển ra được, hơn ba trăm vạn tai dân chỉ trừ ngồi yên chờ chết ra thì không còn lựa chọn nào khác cả!”

“Chúa công, quận Hoài Nam tùy thời đều có khả năng bùng phát ôn dịch, nơi đây đã trở thành tử địa rồi!” Khoái Việt cũng nói: “Nhân lúc Cẩm Phàm thủy quân của Cam Ninh tướng quân còn có sức đánh một trận thì trước tiên nên nghĩ biện pháp rút đại quân tới dĩ tây Phì Thủy đi. Nếu đợi đến khi thủy quân Đông Ngô công hãm bến Tiêu Diêu hoặc là ôn dịch bùng phát, hơn mười vạn đại quân Tây Lương đóng ở các huyện Hoài Nam sẽ gặp kiếp số khó mà thoát được.”

“Ài.” Mã Dược thở dài nói: “Chẳng lẽ thật sự không có biện pháp nữa ư?”

“Nếu không phải là thực sự không nghĩ ra biện pháp thì ai nỡ trơ mắt nhìn hơn ba trăm vạn tai dân chết vì đói chứ?” Khoái Việt chán nản nói: “Phải biết rằng ba trăm vạn bách tính này không phải chỉ là một bình nguyên khổng lồ, mà còn có thể khiến quận Hoài Nam trở thành một kho lúa lớn. Có kho lúa này, chúa công không cần phải chuyển quân lương từ Quan Trung, Hà Bắc mà cũng vẫn đủ lương thực để cung cấp cho mấy vạn đại quân chinh thảo Gi­ang Đông rồi.”

Mã Dược chắp tay bước ra ngoài trướng, nhìn ánh nắng cháy da cháy thịt đến ngây ngốc, đột nhiên hỏi: “Văn Hòa, hiện tại là tháng mấy rồi?”

Giả Hủ nói: “Hồi bẩm chúa công, hiện tại đã là trung tuần tháng tư rồi.”

“Trung tuần tháng tư ư?” Mã Dược lắc lắc đầu, lại thở dài một hơi, âu sầu nói: “Đã là trung tuần tháng tư rồi, rất nhanh sẽ tới mùa hè. Nhưng cô thật sự hi vọng hiện tại vẫn là mùa đông, nếu trời có thể đổ một trận tuyết lớn thì càng tốt, mùa đông tuy lạnh, nhưng sẽ không bùng phát ôn dịch, chúng ta lại có thể từ từ nghĩ biện pháp vận lương thực tới Hoài Nam để bảo vệ tính mạng cho hơn ba trăm vạn bách tính, cũng bảo vệ được nguyên khí của quận Hoài Nam. Có sự chống đỡ của quận Hoài Nam, diệt Gi­ang Đông Tôn thị ít nhất cũng có thể sớm hơn mười năm…”

Giả Hủ buồn bã nói: “Chúa công, nhân lực có lúc cũng hữu hạn mà.”

“Cô biết.” Mã Dược nhẹ nhàng gật đầu, quát: “Lệnh…”

Mọi người ở trong trướng vội vàng ưỡn thẳng người, ánh mắt đồng loạt chiếu lên lưng Mã Dược.

Mã Dược không quay đầu lại, hô: “Bùi Nguyên Thiệu, Chu Thương, Quản Khởi dẫn tam bộ mười vạn thiết kỵ ngay hôm nay rời khỏi đại doanh Hoài Bắc, quay về Mạc Bắc. Cao Thuận, Hứa Chử dẫn hai vạn dẫn tinh binh ra khỏi Lịch Dương (quận Lư Gi­ang), Phương Duyệt, Mã Đại dẫn hai vạn tinh binh ra khỏi Gi­ang Đô (quận Quảng Lăng), chia trái phải hai đường tấn công Gi­ang Đông, bức thủy quân Đông Ngô chia binh quay về Ngưu Chử, Đan Đồ. Đợi thủy quân Đông Ngô chia binh nam hạ, Cam Ninh lại dẫn Cẩm Phàm thủy quân từ bến Tiêu Diêu xuất kích, tiếp ứng đại quân tây độ Phì Thủy.”

Chuyện đã đến nước này, nhân lực đã không thể vãn hồi.

Mệnh vận của hơn ba trăm vạn bách tính Hoài An đã được quyết định, hà tất phải để mấy chục vạn tướng sĩ Tây Lương phải bồi táng theo? Chỉ đáng tiếcủa cho mảnh đất Hoài Nam màu mỡ này, sắp tới sẽ trở thành một nơi đất cằn sỏi đá không có bóng người.

“Chúa công chậm đã!”

Mã Dược vừa dứt lời, ngoài trướng đột nhiên vang lên tiếng bước chân nặng nề, bóng người nhoáng lên, thân ảnh cao to của Cam Ninh đã bước vào trong trướng.

Cam Ninh ôm quyền nói: “Mạt tướng nghe nói chúa công đang phát sầu vì không có cách đả phá sự phong tỏa của thủy quân Đông Ngô đối với Phì Thủy, Hoài Hà, cho nên ngay đêm cưỡi thuyền nhẹ tới Thọ Xuân, có một kế để hiến lên.”

“Ồ, kế gì vậy?”

Mã Dược nghe vậy liền kinh ngạc, ngay cả bọn trí giả như Giả Hủ, Lỗ Túc đều thúc thủ vô sách, dạng võ phu như Cam Ninh lại có thể nghĩ ra đối sách gì đó ư?

Cam Ninh nói: “Tại thủy đạo Ba Thục, khi các bang hội vì lợi ích mà phát sinh tranh chấp, thường sẽ sử dụng xích sắt để chắn ngang đoạn sông, chỉ có cho thuyền của bản bang thông hành!”

“Xích sắt ngăn sông?”

“Xích sắt ngăn sông?”

“Xích sắt ngăn sông?”

Mã Dược như bừng tỉnh, hô lên: “Kế hay!”

Ba người Giả Hủ, Lỗ Túc, Khoái Việt nghe vẫn hai mắt cũng sáng bừng, cao giọng nói: “Quả nhiên là kế hay!”

“Hưng Bá đúng là phúc tướng của cô!” Mã Dược trong lòng như trút được gánh nặng, không nhịn được mà ha ha cười lớn: “Văn Hòa, Tử Kinh, Dị Độ, Tử Nghiêm đều thúc thủ vô sách, không ngờ Hưng Bá lại phá giải được, ha ha ha.”

Cam Ninh gãi đầu nói: “Kỳ thực chuyện xích sắt ngăn sông, các bang hội hoành hành thủy đạo đều biết.”

Giả Hủ vui vẻ nói: “Tử nói văn có trước sau, thuật nghiệp thì chuyên chú. Cổ nhân đúng là không lừa ta.”

Mã Dược nói: “Tử Kính, Dị Độ!”

Lỗ Túc, Khoái Việt vội vàng tiến lên trước ôm quyền nói: “Chúa công có gì phân phó?”

Mã Dược cao giọng nói: “Lập tức tụ tập tất cả thợ rèn trong quân, chế tạo xích sắt ngăn sông!”

“Tuân lệnh.”

Lỗ Túc, Khoái Việt vui vẻ lĩnh mệnh.



Mạt Lăng, dinh thự Ngô công.

Khi Tôn Quyền đang dựa vào bàn ngủ gật thì đột nhiên bị tiếng bước chân làm cho bừng tỉnh. Vội vàng ngẩng đầu lên nhìn thì thấy tam đệ Tôn Khuông, tộc huynh Tôn Du, tộc đệ Tôn Giảo đã bước vào, ba người xếp thành hình chữ nhất ở trước mặt Tôn Quyền, chắp tay vái: “Tham kiến chúa công.”

“Miễn lễ.” Tôn Quyền xua tay, hỏi Tôn Khuông: “Thúc Bật, Hoài Nam có tin tức truyền về ư?”

Tôn Khuông nói: “Hồi bẩm huynh trưởng, Lữ Mông đô đốc vừa phái người đưa tin tức về, Cẩm Phàm tặc của Cam Ninh đã chui rúc vào bến Tiêu Diêu không dám xuất chiến. Phì Thủy và Hoài Hà đã hoàn toàn bị phong tỏa. Hiện tại, lương thực ở bên ngoài không đưa vào được, tai dân ở bên trong lại không ra được. Hơn ba trăm vạn bách tích của quận Hoài Nam cùng với mấy chục vạn đại quân Tây Lương độ qua Hoài Hà đã thành cá trong chậu rồi.”

“Tốt!” Tôn Quyền trầm giọng nsoi: “Thúc Bật hãy tự mình tới Hoài Nam đốc chiến, nhưng nhớ nhất định không được mềm lòng nương tay! Không tới khi ôn dịch bùng phát toàn diện thì tuyệt đối không thể giải trừ phong tỏa đối với Hoài Hà, Phì Thủy!”

“Tiểu đệ lĩnh mệnh.”

Tôn Khuông dạ một tiếng, lĩnh mệnh mà đi.

Đợi Tôn Khuông đi rồi, Tôn Quyền mới hỏi Tôn Du: “Trọng Dị, bệnh của Chu Du thế nào rồi?”

Tôn Du nói: “Lang trung nói bệnh của Chu Du có chiều hướng nặng thêm, Chu Du còn xin tới Sài Tang dưỡng bệnh.”

“Tới Sài Tang dưỡng bệnh ư?” Tôn Quyền nghe vậy mắt sáng lên, trầm giọng nói: “Cô cho phép.”

Tôn Du om quyền nói: “Tại hạ sẽ chuyển cáo tới Chu Du.”

Tôn Quyền lại nói với Tôn Giảo: “Thúc Lãng, cô bảo ngươi chiêu mộ tân quân, tiến triển thế nào rồi?”

Tôn Giảo nói: “Đã mộ được hai vạn tân binh rồi, đang khẩn cấp huấn luyện.”

“Tốt.” Tôn Quyền gật đầu nói: “Nếu thiếu quân truy thì có thể đi tìm Tử Bố.”

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 349: Lần này, Tào Tháo e rằng khó thoát khỏi kiếp nạn rồi

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Ngưu Chử.

Trong đại trại của thủy quân Đông Ngô, Lữ Moogn đang nhìn địa đồ ở trên bàn đến phát sầu.

Quân Lương giảo hoạt cứ cách một trăm bước lại dựng một đài phóng hỏa đơn giản ở hai bờ Phì Thủy, Hoàng Hà. Nhất cử nhất động của thủy quân Đông Ngô đều nằm dưới sự giám thị nghiêm mật của thám báo quân Lương. Phạm vi hoạt động của thủy quân Đông Ngô trước giờ không dám cách bờ sông hơn hai mươi dặm. Tuyệt đại đa số thời gi­an bọn họ đều chỉ có thể tới lui tuần tra ở trên mặt sông, không dám tùy tiện lên bờ.

Chỉ có khi trời tối không có ánh trăng, thủy quân Đông Ngô mới dám nhân lúc tối mịt mà giết lên lục địa tập kích quân doanh của quân Lương.

Đông Ngô tuy có ba vạn thủy quân, hơn ngàn chiếc chiến thuyền lớn nhỏ, nhưng muốn triệt để phong tỏa Phì Thùy và Hoài Hà thì lại vẫn khá vất vả. Thủy lộ của Hoài Hà, Phì Thủy thực sự là quá dài, nếu như kéo thủy lộ Phì Thủy, Hoài Hà cần phong tỏa lại thành đường thẳng thì cơ hồ dài đến cả ngàn dặm. Ba vạn thủy quân nhìn thì nhiều thật đấy, nhưng phải phong tỏa thủy lộ ngàn dặm thì thực sự là có chút quá khó khăn.

Bình quân, mỗi một trăm dặm thủy lộ cần phái ba ngàn thủy quân đóng quân!

Có điều, trong thao tác thực tế Lữ Mông đương nhiên không phân bố bình quân ba vạn thủy quân tới ngàn dặm thủy lộ, hắn chỉ có thể tập trung thủy quân chủ lực tại mấy đoạn sông quan trọng, những đoạn sông không quan trọng thì chỉ phái một ít thủy quân đi phụ trách tuần tra. Một khi phát hiện có quân Lương chuẩn bị dựng cầu hoặc là đóng bè qua sông thì lập tức quay về hồi báo cho thủy quân chủ lực đóng ở phụ cận. Thủy quân chủ lực sẽ có thể tới trong khoảng thời gi­an ngắn nhất, kịp thời hóa giải ý đồ qua sông của quân Lương.

Trên thực tế, binh lực không đủ không phải là điều gay go nhất.

Điều gay go nhất chính là ở dĩ bắc Trường Gi­ang không tìm thấy một bến cảng nào để tướng sĩ thủy quân nghỉ ngơi, bổ sung nước ngọt. Thủy quân Đông Ngô chỉ có thể từ đại doanh Ngưu Chử lấy lương thảo, quân nhu, rồi bổ sung nước ngọt sạch sẽ từ thượng du Hoài Hà, Vĩnh Thủy. Duy có một điều đáng để thấy may mắn là thủy quân Đông Ngô có thể ở trên đảo giữa lòng sông mà tiến hành nghỉ ngơi.

Nhưng điều khiến Lữ Mông ăn không ngon ngủ không yên nhất chính là hai ngàn Cẩm Phàm tặc ở bến Tiêu Diêu.

Để đối phó với hai ngàn Cẩm Phàm tặc của Cam Ninh, Lữ Mông đã đóng đủ sáu ngàn thủy quân ở trên hòn đảo nằm giữ lòng sông đối diện với bến Tiêu Diêu.



Thọ Xuân, đại trướng của Mã Dược.

Mã Dược, Giả Hủ, Cam Ninh ba người ngồi vây quanh bàn, xem bản đồ để nghiên cứu bố trí cụ thế việc lấy xích sắt ngăn sông.

Giả Hủ chỉ vào bản đồ, nói: “Chúa công nhìn xem, Phì Thủy ở đây có mấy khúc quành, mặt sông ở chỗ quành lại khá hẹp. Quân ta có thể giăng xích sắt ngăn sông ở chỗ này, sau đó mượn vào sự yểm hộ của xích sắt ngăn xông, dây dựng cầu nối ở trên mặt sông, hoặc có thể lợi dụng bè gỗ mà lén chuyển lương thực, đưa đò dân chạy nạn. Một khi như vậy, có thể xây được một thông đạo sinh mệnh ở giữa quận Lư Gi­ang và quận Hoài Nam. Độc kế của Chu Du cũng không cần phá cũng tự phá.”

Mã Dược hỏi Cam Ninh: “Xích sắt ngăn sông có cách phá giải không?”

“Có.” Cam Ninh gật đầu nói: “Chỉ cần dựng lò luyện ở đầu thuyền, cho dây xích vào lò luyện rồi thiêu nóng, trước tiên khiến nó mềm đi, sau đó lại dùng chùy sắt chặt mạnh là có thể khiến nó đứt đoạn.”

Mã Dược nhíu mày nói: “Vậy nên làm thế nào mới tốt?”

“Không sao.” Giả Hủ nói: “Quân ta ở thể bố trí mấy chục máy bắn đá ở trên bán đảo nằm giữa lòng sông, đá lớn của máy bắn đá tuy rất khó bắn trúng chiến thuyền đang di động, nhưng chiến thuyền của thủy quân Đông Ngô muốn cắt đứt xích sắt thì ắt phải dừng lại để đốt lò. Chiến thuyền một khi dừng lại thì sẽ trở thành bia sống của máy bắn đá.”

“Đây quả thật là một biện pháp tốt.” Cam Ninh gật đầu nói: “Quan trong nhất là mặt sông ở nơi đây khá hẹp, đá do máy bắn ra cơ hồ có thể bắn tới bờ bên kia, dựng trăm chiếc máy bắn đá ở cùng một chỗ, cho dù tiến hành bắn loạn không nhắm mục tiêu cũng đủ để phong tỏa mặt sông rồi, thủy quân Đông Ngô nêu thực sự dám tới, thì chẳng khác nào tìm chết!”



Phía đông thành Vĩnh An, đại doanh của quân Tào.

Trong đại trướng ở trung quân võ tướng tề tụ, Tào Tháo đang chắp tay sau lưng đi đi lại lại đột nhiên dừng bước, quay đầu lại hỏi Gia Cát Lượng: “Khổng Minh, đã nghĩ ra cách phản chế nào chưa?”

Gia Cát Lượng lắc lắc đầu, đáp: “Xem ra trùng xa rất khó để phá được thành, có điều Lượng còn có một kế để hạ Vĩnh An.”

Tào Tháo hỏi: “Kế gì?”

Gia Cát Lượng nói: “Vẫn dùng trùng xa để dương đông, hấp dẫn sự chủ ý của thủ quân, có điều trùng xa mỗi lần phái ra nên giảm bớt đi năm chiếc, hơn nữa cần phải phái thêm bộ tốt bảo hộ, rồi âm thầm lệnh cho sĩ tốt đào địa đạo, từ đại doanh thông thẳng tới thành Vĩnh An!”

“Cách này cũng hay đấy!” Tào Tháo vui vẻ nói: “Vậy thì đào địa đạo đi!”



Buổi đêm.

Ngoài cửa tây thành Vĩnh An là một mảng tối mịt, thành môn tiểu giáo đang suất lĩnh một đội quân Lương cảnh giác khám xét vùng hoàng dã tối mịt ở ngoài thành. Dưới trời đêm bỗng nhiên vang lên một tràng tiếng vó ngựa gấp rút. Khi thành môn tiểu giáo chăm chú nhìn thì chỉ thấy dưới ánh trăng mờ mờ có một kỵ sĩ từ trong bóng tối mờ mịt xông ra, giống như gió lốc phi tới dưới cửa thành, ngẩng mặt lên quát lớn: “Mau mở cửa!”

Thành môn tiểu giáo đương nhiên không dám tùy tiên mở cửa, cúi đầu xuống nghiêm giọng quát hỏi: “Ngươi là người phương nào?”

Kỵ sĩ mới tới nghiêm giọng đáp: “Mỗ chính là tả quân giáo úy Hàn Đức dưới trướng Chinh Tây tướng quân, còn không mau mau mở cửa thành!”

“Chinh Tây tướng quân? Tả quân giáo úy Hàn Đức?” Thành môn tiểu giáo lắc lắc đầu, lẩm bẩm: “Chưa hề nghe qua, Tây Xuyên có người tên như vậy ư?”

Một tiểu tốt lặng lẽ bước lên, thấp giọng nhắc nhở: “Đại nhân, Chinh Tây tướng quân chẳng phải chính là thiếu tướng quân Mã Siêu sao? Là tộc đệ của thừa tướng đó! Tên gia hỏa này là tiểu giáo trước trướng của thiếu tướng quân.”

“Hả? Thiếu tướng quân ư!” Thành môn tiểu giáo nghe vậy liền giật nảy mình, vội vàng quát xuống dưới thành: “Ngươi đợi một chút! Để ta thả giỏ treo xuống.”

Kỵ sĩ vừa tới tức giận nói: “Vì sao không mở cửa thành, đi giỏ treo xuống làm gì, sao lằng nhằng thế?”

“Tướng quân thứ lỗi.” Thành môn tiểu giáo nói: “Trương Tú đại nhân đã ra quân lệnh như sơn, tiểu nhân không dám không tuân!”

“Được rồi.”Kỵ sĩ đó bực bội nói: “Vậy thì nói ít thôi, mau thả giỏ treo xuống đi.”



Vĩnh An, dinh thự của Trương Tùng.

Trương Tùng vừa cởi áo lên giường, ôm cái mông đẫy đà của tiểu thiếp sờ mó linh tinh, khiến cho tiểu thiếp Tuyết Tuyết rên rỉ không ngớt, thân hình yêu kiều uốn éo như một con rắn. Trương Tùng đưa tay ra sờ sờ giữa háng của tiểu thiếp, thấy đã ướt đẫm xuân thủy. Trương Tùng cười dâm mấy tiếng đang định cầm thương lên ngựa thì bên ngoài phòng đột nhiên vang lên tiếng bước chân phá hết phong cảnh.

Chợ có giọng nói của lão quản gia Trương Phúc vang lên: “Lão gia, Trương thái thú tự mình tới bái phỏng.”

“Hả? Trương Tú! Giờ này ư?”

Trương Tùng nghe vậy thì giật nảy mình, lửa dục lập tức tắt ngóm.

Tiểu thiếp đang dựa vào lòng Trương Tùng cảm thấy rõ được sự biến hóa trong sinh lý của Trương Tùng, bất mãn uốn éo thân thể mềm mại, cố gắng thổi bùng hùng phong của Trương Tùng thêm một lần nữa. Trương Tùng không nhịn được mà vỗ mạnh lên cái mông đẫy đà của ả, cười mắng: “Nỡm à, ta có chính sự, còn không mau thay áo cho ta?”

Tiểu thiếp cười rất mị hoặc, vung vẩy cái mông rồi thay áo cho Trương Tùng.

Phòng khách của phủ.

Khi Trương Tú đang chờ đến sốt ruột thì phái sau vang lên một tràng tiếng bước chân, khi vội vàng quay đầu lại thì thân hình ngũ đoản của Trương Tùng đã từ ngoài cửa bước vào, liên tục chắp tay nói: “Ái chà, không ngờ Trương tướng quân tới thăm. Bản quan không thể ra ngoài nghênh đón, thứ tội thứ tội. Chỉ là tướng quân đêm hôm tới chơi, không biết có việc gì gấp không?”

Trương Tú ôm quyền trả lễ, nói: “Nếu không phải có chuyện cực kỳ quan trọng, mạt tướng cũng không dám đang đêm lại tới làm phiền đại nhân đâu.”

Vẻ mặt của Trương Tùng lập tức trở nên ngưng trọng, hỏi: “Không biết là có chuyện gì vậy?”

Trương Tú nhìn sang hai bên, thấy không có ai mới hạ thấp giọng, nói: “Đại nhân, có một tin tức cực kỳ tốt!”

“Hả?” Trương Tùng vui vẻ nói: “Tin tức tốt gì vậy?”

Trương Tú nói: “Thiếu tướng quân Mã Siêu đã tới Vĩnh An rồi!”

“Hả? Thiếu… ngài nói là thiếu tướng quân Mã… Mã Siêu ư?”

“Đúng vậy!” Trương Tú kích động nói: “Đi cùng với thiếu tướng quân còn có ba ngàn Tây Lương thiết kỵ nữa!”

“Còn có cả ba ngàn Tây Lương thiết kỵ nữa ư?” Trương Tùng cao hứng đến nỗi hai tay không biết phải đặt đi đâu, vội vàng nói: “Thế thì tốt quá rồi, đúng là tốt quá rồi. Có thiếu tướng quân tọa trấn Vĩnh An, vậy thì chẳng còn phải sợ Tào A Man nữa. Tướng quân cớ sao không mau mau xuất thành nghênh đón thiếu tướng quân và ba ngàn Tây Lương thiết kỵ vào Vĩnh An? Tin tức tốt như thế này nên thông báo khắp toàn thành, bách tính và ba quân tướng sĩ ở trong thành Vĩnh An nếu biết thì khẳng định sẽ đại chấn sĩ khí.”

“Không được!” Trương Tú lắc đầu nói: “Quân sư Tư Mã Ý đi theo thiếu tướng quân đã bố trí một kế, nhất định có thể trong nhất chiến mà kích phá quân Tào. Thiếu tướng quân kiêu dũng vô cùng, trong vạn quân lấy thủ cấp của tướng địch dễ như lấy đồ trong túi, lại có ba ngàn thiết kỵ ẩn trong bóng tối, không sợ quân Tào biết được. Vấn đề hiện tại không phải là phòng thủ Vĩnh An như thế nào, mà là phải kích bại quân Tào như thế nào, thậm chí là chém ciết Tào Tháo ở trước trận như thế nào!”

Trương Tùng vỗ vỗ đầu, thất thanh nói: “Bản quan đúng là nóng ruột đến hồ đồ mất rồi, ha ha. Đã có thiếu tướng quân và ba ngàn thiết kỵ tới Vĩnh An, quân ta chiếm được ưu thế binh lực tuyệt đối, tất nhiên là có thể chuyển thủ thành công. Nhưng không biết quân sư Tư Mã Ý gì đó đi theo tướng quân đã bố trí diệu kế gì? Hai vạn đại quân ở trong thành Vĩnh An nên phối hợp với họ như thế nào?”

Trương Tú nói: “Kế sách của Tư Mã ý phi thường đơn giản, đợi ngày mai khi quân Tào công thành. Thiếu tướng quân sẽ dẫn ba ngàn Tây Lương thiết kỵ từ sườn sau quân Tào đột nhiên giết ra, dùng thế sét đánh không kịp bưng tai đánh thẳng vào trung quân của quân Tào. Đến lúc đó hai vạn đại quân ở trong thành cũng ồ ạt xuất thành, thừa thế yểm sát, quân Tào đột nhiên gặp hai mặt giáp kích, tất sẽ bại không cần phải nghi ngờ!”

“Kế này quả nhiên đơn giản thật!” Trương Tùng khe: “Song kế sách càng đơn giản thì thường thường lại càng lợi hại, Tào Tháo cho dù có tài thông thiên triệt địa, nhưng cũng không thể biết trước được rằng thiếu tướng quân đã dẫn ba ngàn Tây Lương thiết kỵ tới Vĩnh An. Xem ra trận chiến này quân Tào chắc chắn sẽ bại, chỉ là không biết thiếu tướng quân có thể ở trong loạn quân mà thành công chém chết Tào Tháo không.”

“Hàm Dương chi chiến, thiếu tướng quan ở trước trận liên tiếp chém chết bốn viên đại tướng của Tôn Kiên! Thanh Ngưu ải chi chiến, thiếu tướng quân chỉ với bảy trăm thiết kỵ mà đánh tan mấy vạn quân Ngô. Ở trước trận chém giết Gi­ang Đông tiểu bá vương Tôn Sách, lại đánh trọng thương Chu Du, đó là hạng anh hùng gì chứ?” Trong mắt Trương Tú lóe lên vẻ lãnh liệt dị dạng, nghiêm nghị nói: “Lần này Tào Tháo e rằng khó thoát khỏi kiếp nạn rồi!”

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 350: Bạch mã thực tào (1)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Ngoài thành Vĩnh An, đại doanh của quân Tào.

Tào Tháo từ trong hư vô từ từ tỉnh dậy, chỉ thấy xung quanh là một mảng hỗn độn. Tào Tháo cố gắng mở mắt nhìn, nhưng không ngờ lại không nhìn thấy bất kỳ một cảnh tượng nào, chỉ có thứ giống như mây lại giống như sương đang phiêu đãng ở bốn phía xung quanh.

“Đây là nơi nào?” Tào Tháo khẽ thì thầm rồi ngẩng đầu lên quát: “Có người không?”

Chỉ thấy tiếng vọng từ bốn phía vang lên, nhưng lại không có ai trả lời. Khi Tào Tháo đang biết phải làm thế nào thì ở phía sau đột nhiên vang lên tiếng ngựa hí to rõ, vội vàng quay đầu lại thì mây khói tan hết, một con bạch mã cực kỳ thần tuấn đang nhàn nhã ăn cỏ khô ở trong chuồng ngựa, xa xa kình phong phần phật, lông bờm màu trắng ở cổ ngựa phất phơ theo gió, lộ ra vẻ cứng cáp và phiêu hãn khiến người ta phải sợ hãi.

Tào Tháo đang nhìn đến ngây ngốc thì cảnh vật ở xung quanh bỗng nhiên sụp đổ.

“Không!”

Tào Tháo hô thảm một tiếng, vội vàng giật mình ngồi bật dậy, lúc này mới phát hiện đây hóa ra chỉ là một giấc mộng Nam Kha. Nhưng nội y toàn thân Tào Tháo cũng đã hoàn toàn ướt sũng, cả người giống như là vừa từ trong hồ nước bò ra.

“Phụ thân!” Ngoài trướng vang lên tiếng hét lo lắng, một bóng người nhoáng lên, Tào Chân đã án kiếm xông vào đại trướng, hớt hả hỏi: “Phụ thân, cha làm sao vậy?”

“Phù…” Tào Tháo lắc đầu với Tào Chân, thở dài nói: “Vừa rồi chỉ là nằm mơ thôi.”

“Mơ ư?” Tào Chân ngạc nhiên hỏi: “Phụ thân mơ thấy gì vậy?”

“Không có gì.” Tào Tháo nói: “Tử Đan, con mau đi mời quân sư tới đây.”

“Hài nhi tuân lệnh.”

Tào Chân lĩnh mệnh rời đi, không tới một lát sau liền dẫn Gia Cát Lượng bước vào đại trướng của Tào Tháo. Gia Cát Lượng chắp tay vái chào Tào Tháo, sau đó cao giọng hô: “Tham kiến chúa công.”

“Khổng Minh miễn lễ.” Tào Tháo xua xua tay, hỏi: “Nghe nói Khổng Minh rất am hiểu thuật giải mộng đúng không?”

Gia Cát Lượng nói: “Lượng cũng biết một chút.”

“Vậy thì được rồi.” Tào Tháo nói: “Cô vừa rồi nằm mơ, muốn hỏi Khổng Minh là điềm lành hay là điềm xấu.”

Gia Cát Lượng nói: “Xin chúa công cứ nói.”

Tào Tháo bảo: “Trong mộng cô thấy một con bạch mã thần tuấn đang nhãn nhã ăn cỏ ở trong chuồng ngựa. Sau đó đột nhiên trời đất sụp đổ, cô cũng vì vậy mà giật mình tỉnh dậy.”

Gia Cát Lượng trầm ngâm một lát rồi nói: “Tàu ngựa (tào) là ẩn dụ chúa công! Ngựa (mã) là ẩn dụ họ Mã. Bạch giống như cẩm, bạch mã ở đây chính là Cẩm Mã Siêu! Bạch mã thực tào, chính là cẩm mã giết Tào. Chính là dấu hiệu đại hung rồi!”

“Cái gì? Cẩm mã giết Tào!” Tào Chân sợ hãi thốt lên: “Quân sư là nói Tây Lương Cẩm Mã Siêu ư?”

Gia Cát Lượng nói: “Điềm mộng là vậy đó. Chúa công phạt Xuyên rất có thể là sẽ bại vì Mã Siêu, không bằng ta nên sớm lui quân thì hơn.”

“Ài.” Tào Tháo không đồng ý, nói: “Cô bình sinh không tin quỷ thần, Khổng Minh hình như có chút nói quá rồi đó.”

Gia Cát Lượng thưa: “Lượng chỉ dựa vào sở học mà giải mộng thôi, nghe hay không nghe thì vẫn là chúa công quyết định.”

“Cô biết rồi.” Tào Tháo nói: “Khổng Minh về trướng nghỉ ngơi tiếp đi.”

“Lượng xin cáo lui.”

Gia Cát Lượng chắp tay với Tào Tháo, quay người lui ra ngoài trướng.

Mắt nhìn Gia Cát Lượng rời đi, Tào Chân nói với Tào Tháo: “Phụ thân, hài nhi cho rằng lời của quân sư không phải là không có đạo lý đâu. Vĩnh An thành trì kiên cố, trong lúc cấp thiết khó mà công phá cho được. Mà Tây Lương Cẩm Mã Siêu thì lại tùy thời có khả năng tới Tây Xuyên, không bằng chúng mau chóng triệt binh đi?”

“Ài.” Tào Tháo thở dài, lắc đầu nói: “Tử Đan, thời gi­an không đợi người đâu. Nếu không thể nhân lúc này mà đoạt lấy Tây Xuyên, đợi Mã đồ tể từ Hoài Nam nhảy ra, thì không còn cơ hội nữa rồi!”

Tào Chân nói: “Nhưng hài nhi cho rằng, chỉ cần có thể liên thủ với Đông Ngô, sau đó dựa vào Trường Gi­ang hiểm trở mà bắc kháng cường Lương, chưa chắc đã không có cơ hội chuyển bại thành thắng. Chỉ cần có thể ở Trường Gi­ang nhất chiến chuyển bại thành thắng, cục diện mà quân sư đã nói rồi sẽ xuất hiện. Tới lúc đó các châu dưới quyền cai trị của Mã đồ tể sẽ rơi vào thế bị rung chuyển, phụ thân lại khởi binh phạt Xuyên cũng không muộn mà.”

“Ấu trĩ!” Tào Tháo lắc đầu nói: “Ý kiến của kẻ thư sinh như Khổng Minh mà ngươi cũng tin được à?”

Tào Chân nghẹn lời: “Vậy…”

Tào Tháo thở dài nói: “Khổng Minh tuy tài trí hơn người, nhưng chung quy vẫn còn trẻ tuổi, cũng chưa hề trải qua chiến trường. Hắn không biết được sự lợi hại của Mã đồ tể và đại quân Tây Lương, cho dù là liên thủ với Đông Ngô. Cho dù có Trường Gi­ang hiểm trở để làm chỗ dựa, cho dù liên quân có thủy quân với ưu thế tuyệt đối thì thật sự có thể ngăn cản được đại quân Tây Lương của Mã đồ tể sao?”

Tào Chân nói: “Chẳng lẽ không thể ư?”

“Đương nhiên không thể!” Tào Tháo trầm giọng nói: “Từ sau khi hai mươi ba lộ liên quân cùng phạt Mã nghịch, phong cách hành sự của Mã đồ tể đã phát sinh biến hóa rất lớn, đổi thành tác phong xuất kỳ chế thắng, thích mạo hiểm, cách dùng binh của hắn cũng biến thành trầm ổn hậu trọng, chi li cẩn thận. Khổng Minh tự xưng có diệu kế có thể khiến quân Lương không bại mà bại, chẳng qua là các loại kế sách tập kích bất ngờ như thủy yểm, hỏa công hoặc là ôn dịch. Nhưng Mã đồ tể thân kinh bách chiến có gì mà không biết, há có thể dễ dàng bị mắc lừa ư?”

Tào Chân im lặng không nói gì.

Tào Tháo đột nhiên từ trong tay áo rút ra một bức chiếu thư đưa cho Tào Chân.

Tao Chân đưa tay ra nhận lấy, bối rối hỏi: “Phụ thân, đây là gì?”

“Đây là di chiếu do cô lập ra.” Tào Tháo nói: “Lần này phạt Xuyên lành ít dữ nhiều, nếu cô có gì sơ xuất thì sẽ do ngươi kế thừa lãnh địa và tước vị.”

“Phụ thân!” Tào Chân vội vàng phục xuống, hai tay giơ cao chiếu thư, run giọng nói: “Hài nhi nhất quyết không dám tòng mệnh.”

“Tử Đan.” Tào Tháo thở dài nói: “Ai không lo xa thì ắt có lo gần, cô không thể không tính toán trước được.”

“Phụ thân.”

Tào Chân nghe vậy liền run rẩy, nhìn Tào Tháo một hồi lâu không nói gì.



Hôm sau.

Trời còn chưa sáng, trong đại doanh quân Tào đã vang lên tiếng kèn lệnh kéo dài không dứt, từng đội từng đội binh sĩ quân Tào từ trong đại doanh ùn ùn xông ra, tiến tới ngoài cửa đông thành Vĩnh An thì bày trận thế.

Tào Tháo thân mặc cẩm bào, dưới sự vay quanh của đám người Tàng Bá, Vu Cấm, Thái Trung, Thái Hòa, Vương Uy, Hoàng Trung, Lý Nghiêm, Gia Cát Lượng giục ngựa xuất trận. Đột nhiên ở sườn sau vang lên tiếng vó ngựa rầm rĩ, khi vội vàng quay đầu lại nhìn thì chỉ thấy trong tia nắng ban man mờ mờ, một đội thiết kỵ giống như quỷ mị từ trong rừng rậm ở đằng xa lướt nhanh như gió xông ra yểm sát.

Ở trước trận thiết kỵ, một con tuấn mã màu trắng giống như tuyết trắng đang tung vó phi nhanh, ngồi trên lưng ngựa là một Tây Lương võ tướng uy phong lẫm liệt. Võ tướng thân mặc ngân bào, tay cầm trường thương chỉ hờ lên trời, đầu đội mũ mặt quỷ, bờm ngựa trắng muốt ở sau đầu nhấp nhô như sóng lớn, tuy còn cách mấy trăm bước nhưng Tào Tháo vẫn có thể cảm nhận rõ ràng cỗ khí tức phiêu hãn tỏa ra từ người tên Tây Lương võ tướng ấy.

Ở phiá sau Tây Lương võ tướng, một lá cờ lớn màu máu đang đón gió bay phần phật, bên trên vướt một chữ “Mã” to tướng trông rất dữ tợn.

Nhìn thấy cảnh này, Tào Tháo ngay lập tức biến sắc. Mã Siêu, chính là Tây Lương Cẩm Mã Siêu!

Đột nhiên, trước mắt Tào Tháo lại hiện lên giấc mộng đáng sợ đêm qua, bên tai thì hồi tưởng lại câu nói ấy của Gia Cát Lượng: “Bạch mã thực tào, chính là cẩm mã giết Tào!”

Vu Cấm giật nảy mình, thất thanh nói: “Chúa công, là Mã Siêu!”

“Giết giết giết…”

Vu Cấm vừa dứt lời, cửa đông Vĩnh An đang đóng chặt đột nhiên mở toang, Tây Lương bộ binh đông nghìn nghịt đã xông ra.

Tàng Bá giục ngựa xông lên, quát: “Chuyện gấp lắm rồi, chúa công hãy mau về doanh đi!”

Tàng Bá theo Tào Tháo nhiều năm, cùng quân Lương trải qua hơn trăm trận lớn nhỏ, biết rõ Mã Siêu cùng sự lợi hại của Tây Lương thiết kỵ, trên bình địa thông thoáng quân Tào rất khó có thể ngăn cản được sự đột kích của Tây Lương thiết kỵ.

Điều khiến người ta tuyệt vọng nhất là quân Tào căn bản không ngờ Tây Lương thiết kỵ của Mã Siêu lại đột nhiên từ sườn sau giết ra vào lúc này, căn bản là không có bất kỳ một sự chuẩn bị nào cả!

“Không được!” Gia Cát Lượng vội vàng nói: “Lúc này nếu lui binh tất sẽ thành bại cục!”

Tàng Bá tức giận nói: “Binh lực của quân Lương chiếm ưu thế, lại có hai ngàn Tây Lương thiết kỵ, quân ta thì trong lúc gấp gáp không kịp chuẩn bị, ngạnh kháng với chúng thì chắc chắn sẽ gặp phải thất bại thảm hại!”

“Chúa công xin đừng kinh hoàng!” Tàng Bá vừa dứt lời, Kinh Châu hãn tướng Hoàng Trung đột nhiên cao giọng quát: “Tên thất phu Mã Siêu đó, đợi mạt tướng lấy đầu hắn!”

Vừa dứt lời, Hoàng Trung sớm đã dẫn bộ tốt bản bộ xuất trận nghênh kích Mã Siêu.

Tào Tháo ngăn cản không kịp, chỉ đành nói với Ngụy Duyên, Lý Nghiêm: “Hoàng Trung tướng quân e rằng không địch được Mã Siêu đâu, hai vị tướng quân hãy dẫn binh mã bản bộ đi theo tiếp ứng!”

“Tuân lệnh!”

“Tuân lệnh!”

Ngụy Duyên, Lý Nghiêm ầm ầm trả lời, mỗi người dẫn quân của mình xông lên.

Hoàng Trung giục ngựa tiến tới, hai ngàn tinh binh Nam Dương như bóng theo hình thề sống chết theo sát Hoàng Trung, không chút sợ hãi nghênh đón Tây Lương thiết kỵ đang ập tới. Khi hai quân còn cách nhau hai trăm bước thì Hoàng Trung kéo cung đặt tên, vụt một cái bắn vào mặt Mã Siêu. Mã Siêu đột nhiên thấy trước mặt có hàn quang lóe lên, vội vàng lắc người né tránh, một mũi lang nha tiễn sắc bén đã bắn xẹt qua mặt.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 350: Bạch mã thực tào (2)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

oàng Trung một tiễn bắn không trúng, lại đặt ba mũi lợi tiễn lên dây cung, vừa giục ngựa phi nhanh vừa quát: “Lại nhận thêm một tiễn của mỗ này!”

Nói xong, vút một tiếng ba mũi tên đồng thời rơi dây cung, bắn về phía ba nơi yếu haoij là yết hầu, ngực, bụng của Mã Siêu nhanh như điện xẹt. Khóe miệng Mã Siêu phác ra một nụ cười băng lãnh, ngân thương trong tay vung ra với tốc độ khiến người ta phải kinh hãi, tron khoảng kắc đã vẽ ra một vòng quỹ tích mờ ảo ở trước mặt. Chỉ nghe thấy ba tiếng “keng, keng, keng”, ba mũi lợi tiễn mà Hoàng Trung bắn ra đã bị đánh rơi hết.

Chỉ trong khoảng thời gi­an này, hai ngựa đã cách nhau không tới năm mươi bước!

“Đáng ghét!” Hoàng Trung thấy cung tên không thể đả thương Mã Siêu, chỉ đành cất vung vào vỏ, giơ Phượng chủy đao lên trời rồi quát lớn: “Vậy nhận thêm một đao của mỗ nhé!”

“Hừ!” Mã Siêu lạnh lùng nói: “Vậy tiếp chiêu đi!”

Hai ngựa trong thoáng chốc đã lao vào nhau.

Hoàng Trung hét lớn một tiếng, Phượng chủy đao giống như cầu vồng xuyên không nhắm vào thắt lưng của Mã Siêu mà chém ngang một cái, Mã Siêu giơ thương lên gạt khẽ, chỉ nghe thấy “keng” một tiếng, Phượng Chủy đao của Hoàng Trung đã vọt lên không, bay xẹt qua đỉnh đầu Mã Siêu. Ngân thương của Mã Siêu đã giống như một con độc xà xuất động nhắm vào nơi yếu hại là yết hầu của Hoàng Trung mà đâm tới.

“Không ổn!”

Hoàng Trung hét một tiếng rồi rùn người né tránh, lập tức cảm thấy đầu vai đau nhói, bên ta cũng vang lên một tiếng phập. Khi vội vàng quay đầu lại nhìn thì giáp vai và thôn giáp thú đã bị đánh bay, trên vai còn bị chém rơi một khối thịt, trên vết thương dữ tợn không ngờ còn lộ ra xương trắng ởn, lập tức có máu đỏ sẫm phọt ra.

Hoàng Trung đang kinh hồn bạt vía thì sát cơ băng hàn đột nhiên từ phía trước ập tới như hồng thủy, khi quay đầy lại nhìn thì mười mấy mũi thương sắc bén đã xé không lao tới.

Hoàng Trung gào lên một tiếng, vội vàng giơ Phượng chủy đao lên gắng sức ngăn cản. Không ngờ cánh tay trái bị thụ thương nên đã hoàn toàn mất đi tri giác, do đó làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới tộc độ và lực độ vung đao, sau khi khó nhọc cản được bảy mũi thì cuối cũng cũng không thể ngăn được những mũi thương còn lại đâm tới. Chỉ gn­he thấy mấy tiếng phập phập, mấy mũi thương sắc bén đã đâm vào xương thịt của Hoàng Trung. Tọa kỵ ở dưới người Hoàng Trung cũng trúng liền mười mấy thương, ngã vật xuống, hất Hoàng Trung từ trên lưng ngựa bay xuống đất.

Không đợi Hoàng Trung bò dậy, lại có mười mấy mũi thương xé không ném tới, găm chặt Hoàng Trung xuống đất. Sau một khắc, Tây Lương thiết kỵ giống như thủy triều hùng dũng ập tới, trong khoảnh khắc đã giẫm Hoàng Trung còn chưa tuyệt khí thành một đống thịt vụn. Đáng thương cho một viên hổ tướng có thể cưỡi ngựa bắn cung tuyệt hảo, còn chưa kịp thi triển võ nghệ toàn thân thì đã thành oan hồn dưới vó sắt của Tây Lương thiết kỵ.

Sau khi hai người gi­ao nhau, Mã Siêu liền không để ý đến Hoàng Trung nữa, xông thẳng vào trong loạn quân hòng giết Tào Tháo.

Vô luận là như thế nào, mục tiêu của Mã Siêu đều chỉ có một, chính là Tào Tháo!

Hai tiểu giáo Kinh Châu hứng mũi chịu sào, còn chưa kịp vung trường đao trong tay ra thì đã trở thành vong hồn dưới thương của Mã Siêu, hai bộ binh ở phía sau tiểu giáo Kinh Châu cũng bị tọa kỵ ở phía dưới Mã Siêu hất cho bay đi, trên thiết giáp của tọa kỵ mà Mã Siêu cưỡi găm đầy mũi nhọn dữ tợn, trước khi hai bộ tốt này bị đụng bay đã bị mũi nhọn đâm xuyên thân thể rồi.

Mã Siêu không ai có thể cản được giống như một thanh đao nhọn sắc bén, dễ dàng giết vào trong quân Nam Dương.

Tây Lương hãn tướng Hàn Đức suất lĩnh ba trăm trọng giáp thiết kỵ theo sát sau Mã Siêu, lỗ hổng mà Mã Siêu mở ra nhanh chóng được khoách đại, dần dần, hai ngàn quân Nam Dương trong khoảnh khắc đã trận cước đại loạn. Tiếp theo đó, đại đội thiết kỵ hùng dũng tiến lên cuối cùng cũng giết tới nơi, ném thương như mưa rơi, quân Nam Dương trong thoáng chốc đã ngã rạp một mảng, những kẻ còn may mắn sống sót thì quay người chạy trốn.

Hai ngàn tinh binh do Hoàng Trung dẫn dầu cơ hồ chỉ vừa mới tiếp xúc đã hoàn toàn sụp đổ.

Tây Lương thiết kỵ vốn cực kỳ phiêu hãn, sự tiến công của Tây Lương thiết kỵ mà Mã Siêu dẫn dắt lại càng cực kỳ sắc bén!Chiến thuật mà Mã Siêu giỏi nhất và cũng tôn sùng nhất chính là tiến công, tiến công và tiến công. Sự tiến công của Mã Siêu giống như là mưa dông gió giật, khiến người ta khó có thể chống đỡ. Địch nhân đối trận với hắn thậm chí là căn bản không kịp làm ra bất kỳ phản ứng nào thì đã bị Tây Lương thiết kỵ triệt để tàn sát, giống như là hai ngàn Nam Dương binh hiện tại.

Trung quân của quân Tào.

Vu Cấm biến sắc, quay đầu lại nói với Tào Tháo: “Chúa công, Hoàng Trung tướng quân chiến tử rồi!”

“Chúa công!” Vu Cấm vừa dứt lời, Tàng Bá lại vô cùng lo lắng thốt lên: “Bại binh của Hoàng Trung chạy toán loạn ra sau làm loạn trận cước của quân đội, Tây Lương thiết kỵ thừa cơ trùng sát. Ngụy Duyên, Lý Nghiêm đã ngăn cản không được rồi! Chúa công, mau triệt binh về đại doanh đi, chỉ có lợi dùng hàng rào kiên cố của đại doanh mới có thể ngăn cản được sự đột kích của Tây Lương thiết kỵ, ở lại đây thì chỉ có đường chết mà thôi!”

“Chúa công.” Tàng Bá vừa nói xong, Vương Uy lại nói: “Thủ quân ở trong thành Vĩnh An cũng tràn tới rồi.”

Tàng Bá gập đến độ nhảy dựng lên: “Chúa công, mau hạ lệnh rút quân đi!”

“Chúa công, không thể rút được đâu.” Gia Cát Lượng vội vàng nói: “Lúc này hạ lệnh rút lui thì có khác gì tự sát? Hoàng Trung tuy chết, Ngụy Duyên, Lý Nghiêm tuy bại, song hai vạn đại quân chủ lực của quân ta vẫn còn, nếu có thể dùng cung tiễn thủ ở giữa làm loạn trận cước, dùng trường thương binh dàn hàng ở phía trước, đao thuẫn thủ bảo vệ hai cánh, như vậy có thể tránh khỏi phải mạo hiểm, nếu cứ vậy mà lui quân thì chắc chắn sẽ bại.”

Tào Tháo mắt lóe sáng, đột nhiên quát lên: “Tàng Bá ở đâu?”

Tàng Bá vội vàng giục ngựa lên trước, nghiêm giọng thưa: “Có mạt tướng.”

Tào Tháo nói: “Dẫn tinh binh bản bộ đoạn hậu, những chư tướng khác thì dẫn nhân mã bản bộ của mình theo cô lui về thủ đại doanh.”

Tàng Bá nói: “Mạt tướng tuân lệnh.”

“Chúa công…” Gia Cát Lượng vội vàng nói: “Lúc này ngàn vạn lần không thể triệt binh được đâu.”

“Ý cô đã quyết.” Tào Tháo không đồng ý, nói: “Khổng Minh chớ có nhiều lời.”

Nói xong, Tào Tháo không do dự nữa, giục ngựa quay đầu rút về đại doanh.

Chư tướng Thái Trung, Thái Hòa Vương Uy vội vàng chạy theo. Chủ soái vừa đi, tướng sĩ Kinh Châu không còn lòng ham chiến nữa, nhao nhao lui về đại doanh. Tào Chân lưu thủ đại doanh thấy vậy vội vàng mở viên môn, dốc hết năm ngàn tinh binh ra nghênh đón Tào Tháo.

Trong loạn quân.

Mã Siêu dùng thương gạt trường đao của Ngụy Duyên ra, thuận thế quét ngang một cái lên lưng Ngụy Duyên.

Thân hình cường tráng của Ngụy Duyên run rẩy kịch liệt, trong khoảnh khắc giống như là bị chùy nặng đập trúng, không thể hít thở, khuôn mặt vốn vàng vọt cũng biến thành đỏ rực, có tia máu đỏ sẫm từ khóe miệng ứa ra. Mã Siêu đang muốn bồi thêm một thương kết liễu Ngụy Duyên thì dư quang ở khóe mắt đột nhiên nhìn thấy quân Tào ở cách đó không xa đã trận cước đại loạn, gần hai vạn đại quân giống như là ong vỡ tổ chạy như điên về phía đại doanh.

Một kỵ đang giục ngựa chạy trước tiên, không ngờ chính là Tào Tháo.

“Tháo tặc chớ chạy!” Mã Siêu vội vàng bỏ qua Ngụy Duyên, giục ngựa giết về phía Tào Tháo: “Để mạng lại đây cho ta!”

Tào Tháo đang giục ngựa phi nhanh thì đột nhiên một bóng trắng từ bên hông xông ra, vội vàng ngẩng đầu lên nhìn thì thấy là Mã Siêu. Tào Tháo lúc này kinh hãi vô cùng, suýt chút nữa thì sợ đến phọt cả rắm. Dưới lúc nguy cấp không ngờ lại kéo đầu ngựa hối hả chạy. Thái Trung không biết lợi hại vung thương nghênh đón Mã Siêu, bị Mã Siêu gạt một thương đánh bay xuống ngựa. Thái Hòa thấy vậy vội vàng giục ngựa chạy trốn thì Hàn Đức vỗ ngựa vung đao chém ngã lăn xuống đất.

Lại nói Tào Tháo bỏ mặc đại quân chạy trối chết, may mà tọa kỵ ở bên dưới cũng là lương câu Trảo Hoàng Phi Điện ngàn dặm mới tìm được một. Mã Siêu tuy đuổi sát không tha, nhưng trong lúc cấp thiết cũng khó có thể đuổi kịp. Khi hai người đang liều mạng đuổi nhau trên đường lớn thì ở sau núi đột nhiên có một nhánh quân mã ùa ra, vừa hay cản đường Tào Tháo, viên đại tướng đi đầu ghìm ngựa hoành thương, nghiêm giọng quát: “Tháo tặc chạy đi đâu? Trương Tú ở đây đợi ngươi lâu rồi!”

Tào Tháo chỉ đành bỏ đường lớn, đổi sang chạy đường nhỏ.

Đúng vào lúc này, Mã Siêu vừa hay đuổi tới nơi, nâng thương đâm vào lưng Tào Tháo. Tào Tháo né không kịp né tránh bị đâm trúng bối tâm, đầu thương sắc bén sau khi đâm xuyên thân thể của Tào Tháo, dư thế chưa hết lại đâm xuyên cổ ngựa Trảo Hoàng Phi Điện. Trảo Hoàng Phi Điện nghển cổ lên trời phát ra một tiếng hí cực kỳ bi thương, sau khi chạy thêm được hơn chục bước thì đột nhiên ngã xuống.

Khi Mã Siêu, Trương Tú vỗ ngựa chạy tới thì Tào Tháo sớm đã tuyệt khí thân vong.

Mã Siêu dùng ngân thương chặt thủ cấp của Tào Tháo rồi giơ lên không, ngẩng đầu lên trời hét to: “Tào Tháo đã chết!”

Trương Tú cùng tướng sĩ quân Lương ở phía sau Trương Tú cũng nhao nhao rống theo: “Tào Tháo đã chết, Tào Tháo đã chết…”

“Tào Tháo đã chết!”

“Tào Tháo đã chết!”

“Tào Tháo đã chết!”

Không tới một lát sau, tiếng rống to rõ đã vang khắp cả chiến trường.

Nghe thấy Tào Tháo đền tội, tướng sĩ quân Lương thanh thế đại chấn, mà sĩ khí của tướng sĩ quân Tào lại xuống cực thấp. Sở bộ phụ trách đoạn hậu của Tàng Bá dưới sự giáp kích hai mặt của thủ quân Vĩnh An và Tây Lương thiết kỵ trong thoáng chốc đã rối loạn không thành quân. Tàng Bá cũng lực chiến mà chết. Nghe thấy Tào Tháo chiến tử, Tào Chân vội vàng thu thập tàn bộ lui tới Vu huyện, dọc đường lại có chư tướng Ngụy Duyên, Lý Nghiêm dẫn tàn bộ tới phối hợp.

Khi tới Vu huyện thì vừa hay gặp tàn quân của Trương Cáp.

Thì ra Trương Cáp tại Ngư Phú Phổ cũng bị Trương Nhiệm đánh bại, các lộ bại quân tới Vu huyện điểm binh, ba vạn đại quân khi xuất chinh đã hao tổn bảy phần, chỉ còn lại bảy, tám tàn binh.



Huyện nha Vu huyện, Gia Cát Lượng nói: “Nước không thể một ngày không có vua, ba quân không thể một ngày không có thống soái, xin công tử thuận theo di chiếu của tiên chúa công, lập tức kế vị!”

Chưa tướng Vu Cấm, Ngụy Duyên, Lý Nghiêm cũng nhao nhao phụ họa: “Cung thỉnh công tử kế vị.”

Tào Châu lật tay rút kiếm ra cứa nhẹ vào lòng bàn tay, trong khoảnh khắc máu chảy như suối. Tào Chân vẫn như không có tri giác, lớn tiếng quát: “Cô hôm nay dùng máu lập thệ, thiên địa quỷ thần làm chứng, lúc sinh thời tất sẽ tự tay đâm chết Mã Siêu, báo thủ rửa nhục!”

Gia Cát Lượng dẫn đầu quỳ xuống, cao giọng hô: “Khấu kiến chúa công!”

“Khấu kiến chúa công!”

“Khấu kiến chúa công!”

Chư tướng Vu Cấm, Ngụy Duyên, Lý Nghiêm ở phía sau Gia Cát Lượng đều quỳ xuống theo, ngoài đại đường huyện nha, mấy ngàn tướng sĩ quân Tào cũng quỳ rạp xuống đất. Bỗng nhiên trong lúc này, trong phương viên vài dặm ngoài Tào Chân ra, không còn ai đứng cả.

“Tất cả đứng lên đi.” Tào Chân nghiêm giọng nói: “Tây Lương đại quân tùy thời đều có thể giết tới, không biết chư vị có thượng sách phá địch nào không?”

Chư tướng đều im lặng, chỉ có Gia Cát Lượng bước ra khỏi hàng, nói: “Cái này gọi là trong họa có phúc, quân ta mặc dù bại, binh lựa hao tổn rất lớn, nhưng vị tất đã là tai họa, quân Lương mặc dù thắng nhưng chắc gì đã là chuyện hay!”

Tào Chân nói: “Quân sư nói vậy là có ý gì?”

Gia Cát Lượng thưa: “Lượng có một kế, có thể đánh lui truy binh.”

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 351: Dị tính Lương vương (1)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Bờ đông Phì thủy, đại doanh của quân Lương.

Lỗ Túc, Khoái Việt kích động tiến vào đại trướng, nói với Mã Dược: “Chúa công, xích sắt chặn sông đã chế tạo xong rồi, trục kéo ở bờ sông cũng đã bố trí tốt, hiện tại chỉ đợi thủy quân Đông Ngô mắc bẫy thôi!”

“Ừ, tốt.” Mã Dược vui vẻ nói: “Tử Kính và Dị Độ lập được đại công rồi đó, hơn ba trăm vạn tai dân của Hoài Nam được cứu rồi! Sau khi khải hoàn về triều cô nhất định sẽ tấu lên thiên tử, trọng thưởng cho hai ngươi, ha ha.”

“Không dám, không dám.” Lỗ Túc, Khoái Việt đồng thời lắc đầu, nói: “Công lao này theo lý nên ghi cho Cam Ninh tướng quân mới đúng.”

“Đó là đương nhiên rồi.” Mã Dược cao giọng nói: “Cam Ninh tướng quân tất nhiên cũng phải trọng thưởng chứ.”

“Chúa công…” Mã Dược vừa dứt lời, Lý Túc đột nhiên đầu đầy mồ hôi tiến vào, xòe tay ra cười nói: “Đại hỉ, đại hỉ!”

“Hả?” Mã Dược nghe vậy liền quay người lại, hỏi Lý Túc: “Hỉ từ đâu tới vậy?”

Lý Túc nói: “Vừa nhận được tin chiến thắng từ Tây Xuyên, Tư Mã Ý dẫn hai ngàn thiết kỵ kịp thời tới Vĩnh An, Tào Tháo bị giết cho trở tay không kịp, đại bại. Ba vạn đại quân hao tổn một nửa lớn, Tào Tháo hắn…”

Mã Dược vội vàng hỏi: “Tào Tháo hắn làm sao?”

Lý Túc thốt lên: “Tào Tháo cũng bị thiếu tướng quân chém chết rồi!”

“Hả?”

Mã Dược ngây người, một hồi lâu không nói ra nổi một câu, trong lòng dâng lên một cỗ tình tự phức tạp khó nói thành lời, có hoan hỉ, có tiếc nuối, có thương cảm, thậm chí còn có cả một chút bi thương.

Từ lúc giặt khăn vàng Nam Dương bắt đầu cho tới nay, sinh tử giác đấu giữa Mã Dược và Tào Tháo nhiều không kể xiết. Khi ở Dĩnh Xuyên hai người thậm chí còn có một lần đơn đốc đối diện với nhau. Trong giác đầu dài tới mười mấy năm, Mã Dược không lúc nào là không muốn dồn Tào Tháo vào chỗ chết, nhưng mỗi lần đều thất bại trong gang tấc. Hiện giờ Tào Tháo chết rồi, Mã Dược lại đột nhiên cảm thấy mất mát vô cùng.

Đại Gi­ang đông khứ, lãng đào tẫn, nhân vật thiên cổ phong lưu.

Theo sự vẫn lạc của Tào Tháo, kiêu hùng cùng thời với Mã đồ tể đều đã chết hết toàn bộ, chỉ có Tôn Quyền, Tào Chân hai tên tiểu bối này còn miễn cưỡng chống chọi, trời đất mênh mông, gi­ang sơn cẩm tú, Mã đồ tể đã không tìm thấy đối thủ của mình nữa rồi. Cơ hồ là trong sát na này, Mã Dược cảm thấy nhân sinh đã mất đi tất cả lạc thú. Từ nay về sau, hắn rất khó tìm thấy được cảm giác người thông minh luyến tiếc lẫn nhau và kiêng kỵ lẫn nhau nữa rồi.

Một niềm mất mát dâng lên trong lòng, đó là một loại tĩnh mịch phát sinh từ sâu trong linh hồn!

Lý Túc rõ ràng là không thể nào thể hội được tâm tình của Mã Dược vào lúc này, có chút ngạc nhiên hỏi: “Chúa công, ngài sao vậy?”

Mã Dược chắp tay sau lưng, giống như là không nghe thấy Lý túc nói gì.

Khi Lý Túc đang muốn nói tiếp thì Giả Hủ bước lên khẽ nắm lấy tai áo hắn. Sau đó đánh mắt ra hiệu, Lý túc hiểu ý, cùng Giả Hủ rời khỏi đại trướng. Lỗ Túc, Khoái Việt tâm lĩnh thần hội, cũng theo hai người rời khỏi đại trướng. Rèm trướng được hạ xuống, ánh sáng trong đại trướng liền biến thành ảm đạm.

Ở ngoài trướng, Giả Hủ nói: “Tử Nghiêm, nhìn vẻ mặt vừa mừng vừa lo của ngươi vừa rồi, e rằng không phải chỉ có tin tức tốt thôi đúng không?”

“Đúng vậy.” Lý Túc nói: “Thiếu tướng quân tuy giết được Tào Tháo, nhưng khi truy sát tàn binh Kinh Châu thì lại trúng quỷ kế của quân địch. Hai ngàn Tây Lương thiết kỵ thiết kỵ cơ hồ là tổn hao gần hết. May mà Trương Tú, Trương Nhiệm suất lĩnh đại quân theo sau kịp thời tới nơi, mới liều mạng cứu thiếu tướng quân ra được.”

“Hả?” Giả Hủ nghe vậy liền rùng mình sợ hãi, thất thanh nói: “Thiếu tướng quân thân kinh bách chiến, có quỷ kế nào mà chưa từng thấy qua, sao lại có thể dễ dàng trúng kế được? Hơn nữa, bên cạnh không phải là còn có Tư Mã Trọng Đạt ư, sao lại bại một cách thê thảm như vậy? Quỷ kế này rốt cuộc là do ai bày ra, sao lại lợi hại như thế?”

Lý Túc nói: “Người này tên là Gia Cát Lượng, tự là Khổng Minh, tuổi gần hai mươi.”

“Gia Cát Lượng!” Giả Hủ nhíu mày nói: “Người này là ai?”

Lý Túc lắc đầu nói: “Cái này thì không biết.”

“Người này ở tuổi hai mươi mà cũng có thể đánh bại được thiếu tướng quân ư?” Giả Hủ nhíu mày nói: “Người này không thể coi thường được.” Lại hỏi tiếp: “Tình hình Tây Xuyên hiện giờ thế nào?”

“Tàn binh của Tào Chân đã lui về Gi­ang Lăng.” Lý Túc nói: ” Có điều thiếu tướng quân thân thụ trọng thương, đã không thể lĩnh quân. Bọn Trương Tú, Trương Nhiệm lại không dám tự tác chủ trương xuất binh, Kinh Châu trước mắt đang dựa vào nơi hiểm yếu mà thủ.”

“Ừ, dựa vào nơi hiểu yếu mà thủ là đúng rồi.” Giả Hủ gật đầu nói: “Tuy nói Tào Tháo vừa chết, Tào Chân mới lập, cục thế Kinh Châu chưa định, chính là thời cơ tuyệt hảo để thừa cơ tiến công, nhưng trước mắt cục thế Hoài Nam chưa định, hơn ba trăm vạn tai dân vẫn đang đợi quân ta chẩn tế. Trong khoảng thời gi­an ngắn trọng tâm chiến lược của quân ta vẫn rất khó chuyển dời. Tây Xuyên vẫn nên áp dụng chiến thuật lấy thủ là chính, để tránh mưu hổ không thành lại bị hổ làm bị thương.”

Lý Túc nói: “Tư Mã Trọng Đạt trong thư cũng có kiến nghị như vậy, đúng là không mưu mà hợp với quân sư.”



Phì Thủy, mỏm Quái Thạch.

Trong tin nắng ban mai mỏng manh, mấy trăm chiến mông trùng, đấu hạm của Đông Ngô đã theo Phì Thủy mà lên. Lữ Mông án kiếm đứng ở đầu thuyền, gió sông trong lành ùa vào mặt, hà đạo tươi mát đã thấm ướt chiến bào của hắn. Trên mặt sông ở phía trước không xa, hơn trăm chiếc thuyền nhẹ và mấy chục chiếc mông trùng đang như ẩn như hiện trong sương mù, trên cột buồm của một chiếc mông trùng treo cờ viết chữ “Cẩm Phàm” chói mắt.

Cẩm Phàm tặc, đó chính Cẩm Phàm tặc!

Lúc nữa đêm, Lữ Mông nhận được tin tức, Cẩm Phàm dùng hết chiến thuyền lớn nhỏ rời khỏi thủy quân đại trại ở bến Tiêu Diêu, đang dọc theo Phì Thủy mà lên, coi bộ tựa hồ như là muốn hiệp trợ bộ binh quân Lương từ thượng du Phì Thủy qua sông. Lữ Mông đương nhiên sẽ không để quân Lương toại nguyện, lập tức dẫn năm ngàn thủy quân ngăn cản, hai quân kịch chiến ở ngang sông hơn nửa tiếng, Cẩm Phàm thủy quân quả nhiên không địch lại, hoảng sợ chạy trốn.

Lữ Mông tất nhiên không bằng lòng bỏ qua cơ hội tốt này, dẫn thủy quân Đông Ngô đuổi sát không tha.

Đuổi tới khi trời sáng rỡ thì vừa hay tới mỏm Quái thạch, Lữ Mông dõi mắt nhìn, chỉ thấy mặt sông ở phía trước đang dần dần biến thành chật hẹp, địa hình ở hai bên ngờ cũng bắt đầu biến thành phức tạp, cỏ mọc rậm rạp, quái thạch lởm chởm.

“Chu Thái tướng quân.” Lâm Bắc Phàm không nhịn được quay đầu lại hỏi Chu Thái: “Ngươi quen thuộc với đường sông của Hoài Nam hơn bản đô đốc, địa hình phía trước phức tạp, thế núi hiểm trở, không biết là tới nơi nào rồi?”

Chu Thái đứng ở mui thuyền nhìn xung quanh một lúc, đáp: “Đô đốc, phía trước chính là mỏm Quái thạch.”

Lữ Mông nhíu mày nói: “Mỏm Quái thạch ư.”

“Vâng.” Chu Thái gật đầu nói: “Mỏm quái thạch chính là bởi vì giải quái thạch ở phía trước mà có tên như vậy, Phì Thủy ở đây sẽ quẹo một vòng lớn. Đáy sông trải đầy đá ngầm, trên mặt sông chỗ nào cũng là xoáy nước, thuyền bè ở đây rất hay va phải đá ngầm mà chìm. Nếu như không phải là vạn bất đắc dĩ, cho dù là Cửu Gi­ang thủy tặc cũng không muốn đi qua đoạn sông này.”

“Rẽ ngoặt? Đá ngầm? Xoáy nước?” Sắc mặt của Lữ Mông dần dần biến thành ngưng trọng, mắt thấy thủy quân Đông Ngô sắp tiến vào mỏm Quái thạch, Lữ Mông đột nhiên giơ cao tay phải lên, cao giọng quát: “Truyền lệnh, toàn quân dừng tiến tới!”

Từ Thịnh án kiếm đứng sau Lữ Mông không dám chậm trễ, vội vàng quay đầu lại quát kỳ lệnh binh ở trên cột buồm: “Truyền lệnh, toàn quân bỏ neo, dừng tiến tới!”

“Hả?” Chu Thái ngạc nhiên nói: “Đô đốc vì sao lại hạ lệnh dừng tiến lên!”

“Đúng vậy!” Tưởng Khâm cũng nói: “Khó lắm mới đợi được cơ hội này, không thể cứ vậy bỏ qua cho Cẩm Phàm được!”

“Không đúng!” Lữ Mông lắc đầu nói: “Tình hình có chút bất thường. Đây rất có khả năng là quỷ kế của quân Lương!”

“Quỷ kế?” Chu Thái không đồng ý, nói: “Có thể có quỷ kế gì được chứ? Chẳng lẽ Tây Lương thiết kỵ có thể giết tới mặt sông ư?”

Lữ Mông chỉ vào quái thạch lởm chởm ở hai bên bờ Phì Thủy, nói với Chu Thái: “Nơi đây địa thế hiểm trở, mặt sông chật hẹp. Hơn nữa đáy sông còn rải đầy đá nầm. Chỗ nào cũng là xoáy nước. Nếu muốn xuyên qua đoạn sông này, quân ta tất sẽ phải giảm tốc độ, cẩn thận từng li từng tí mà vượt qua bãi nguy hiểm này! Không biết hai vị tướng quân có nghĩ tới không, khi quân ta xuyên qua vùng nguy hiểm này, rất dễ gặp phục kích.”

Chu Thái, Tưởng Khâm quay sang nhìn nhau, lại lặng lẽ gật đầu.

Lữ Mông lại nói: “Một khi như vậy, quân Lương chỉ cần dựng máy bắn đá ở hai bên bờ, vậy thì có thể tạo thành uy hiếp trí mạng cho quân ta rồi!”

Chu Thái hỏi: “Vậy phải làm sao bây giờ?”

Lữ Mông trầm tư một lát rồi nói: “Trước tiên phái một ngàn người đi thám thính hư thực đã.”

Chu Thái ôm quyền nói: “Mạt tướng xin đi.”

Lữ Mông vui vẻ nói: “Vậy thì làm phiền tướng quân rồi.”

Chu Thái quát lớn một tiếng rồi tung người lên, thân hình hùng tráng lăng không đằng thân hai cái rồi nhẹ nhàng đáp lên đầu thuyền, lập tức giơ đao lên quát lớn: “Tướng sĩ tiền quân nghe lệnh, công kích tốc độ… tiến lên!”

Chu Thái hạ lệnh một tiếng, ba mươi mông trùng cùng với năm mươi chiếc thuyền nhẹ từ trong đội ùa ra, nhanh chóng bức tiến về phía quái thạch.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 351: Dị tính Lương vương (2)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Bờ trái mỏm quái thạch.

Trương Yến giấu mình sau quái thạch thấy thủy quân Đông Ngô đột nhiên dừng tiến lên, không khỏi khẩn trương dứng dậy, nhìn xung quanh nói: “Chuyện gì vậy? Thủy quân Đông Ngô sao lại không tiến lên nữa? Chẳng lẽ chúng đã phát hiện ra sơ hở gì đó ư?”

“Không thể nào!” Hắc Sơn cựu tướng Lý Đại Mục tròn đôi mắt trâu giống như chuông đồng lên, nói: “Các huynh đệ đều trốn rất kỹ, không thể bị thủy quân Đông Ngô phát hiện ra sơ hở gì được. Quân Ngô nếu thực sự phát hiện ra sơ hở, vậy cũng nhất định là U Châu binh ở Gi­ang Hữu bại lộ hành tung.”

“Đúng đúng đúng, Mắt To nói rất đúng.” Vu Độc gật đầu liên tục,nói: “Hai tên vương bát đản Tô Do, Trương Nam đó làm việc vụng về, nhất định là bọn chúng tiết lộ hành tung.”

“Được rồi!” Trương Yến nhíu mày quát: “Nói xong chưa?”

“Đây không phải là nói quen rồi sao?” Lý Đại Mục, Vu Độc gãi gãi đầu, cười hắc hắc: “Hắc Sơn tặc chúng ta và U Châu binh đánh mười mấy trận, khi còn dưới trướng đại tướng quân Viên Thiệu cho tới khi ở dưới trướng thưa tướng vẫn không hợp nhau.”

“Câm miệng!” Trương Yến nghiêm giọng quát: “Thừa tướng hùng tài đại lược, Viên Thiệu há có thể sánh bằng? Hai người các ngươi về sau còn dám nói linh tinh nửa câu thì đừng có trách bản tướng quân trở mặt vô tình!”

Lý Đại Mục, Vu Độc thấy Trương Yến thực sự động nộ, không dám lên tiếng nữa.

Đúng vào lúc này, Hắc Sơn cựu tướng Tả Giáo đột nhiên gào lên: “Tướng quân, quân Lương có động tĩnh rồi.”

“Hả, thật không?”

Trương Yến nghe thấy vậy bèn quay đầu lại, quả nhiên nhìn thấy gần trăm chiếc chiến thuyền lớn nhỏ đang nhanh chóng tiếp cận mỏm Quái thạch. Có điều đại đội thuyền của thủy quân Đông Ngô thì vẫn ở lại chỗ cũ không có động tĩnh gì. Trương Yến không khỏi trầm xuống, ngẩng đầu nhìn lên ngọn núi ở ở bờ sông đối diện. Một chiếc tam giác lệnh kỳ không biết từ lúc nào đã cắm ở trên đỉnh núi, đang đón gió bay phần phật.

Trương Yến rút kiếm, nghiêm giọng quát: “Các huynh đệ, mau dựng máy bắn đá lên, lắp đạn đá vào, nhanh!”

“Rầm rầm rầm…”

Sau khi Trương Yến hạ lệnh, cây cối cỏ dại phủ lên máy bắn đá để ngụy trang đều được bỏ xuống. Đột nhiên, hơn trăm chiếc máy bắn đá đã lộ ra chân dung dữ tợn. Cơ hồ là đồng thời, trên núi ở đối diện, U Châu binh do Điền Dự xuất lĩnh cũng nhao nhao bỏ lớp ngụy trang của máy bắn đá xuống, bắt đầu bước chuẩn bị cuối cùng cho đại chiến.

Mà vào lúc này, tiểu phân đội do Chu Thái suất lĩnh vẫn hoàn toàn không biết gì, cứ thế chui dầu vào bẫy do quân Lương bố trị cẩn mật.

“Rầm rầm rầm…”

Theo tiếng trống trận sục sôi, cự thạch dày đặc như mưa từ bên bờ sông bay tới, mang theo tiếng rít bén nhọn nhắm vào phía phân đội thủy quân mà Chu Thái suất lĩnh bắn tới. Chu Thái giật nảy mình, vội vàng giơ đao gào lên: “Quay thuyền lại, hậu đội chuyển thành tiền đội, rút, rút mau!”

Song đã không còn kịp nữa rồi.

Chỉ nghe thấy hai tiếng rầm rầm vang lên, hai khối đá lớn đã bắn tới trước tiên, hung hăng đập vào trong nước. Lập tức làm dềnh lên cột nước cao vút. Bọt nước ở khắp nơi trong khoảnh khắc đã xối ướt người Chu Thái. Chu Thái thậm chí còn chưa kịp lau nước sông dính lên mặt thì lại có mười mấy khối đá lớn liên tục bắn tới, nặng đề đập vào bên cạnh hắn.

Lập tức, trên boong thuyền của mông trùng chiến thuyền của Chu Thái xuất hiện mấy cái lỗ lớn.

“Tướng quân, không ổn rồi.” Có tiểu giáo hoảng hốt từ dưới boong thuyền xông lên, gào khản cả giọng: “Va phải đá ngầm rồi, nước tràn vào thuyền rồi. A a…”

Tiểu giáo còn chưa nói xong thì lại có một khối đá lớn lăng không đập tới, nặng nề va vào đầu tiểu giáo. Tiểu giáo gào lên một tiếng, một cái đầu lâu lập tức vỡ nát như dưa hấu. Máu và tương não bắn khắp mặt Chu Thái. Chu Thái còn chưa kịp đau lòng vì tên tiểu giáo vừa chết đi thì bên tai lại vang lên tiếng rít bén nhọn, hắn vội vàng lắc mình né tránh. Một khối đá lớn cơ hồ là xẹt qua tai hắn, nặng nề đập lên cột buồm cao vút.

Binh sĩ bò trên cột buồm để quan sát lập tức rơi xuống sông, rất nhanh liền bị nước xoáy nuốt chửng.

Có điều, thủy quân Đông Ngô dẫu sao cũng là một nhánh tinh binh, sau khi trải qua cơn hoảng loạn lúc ban đầu rất nhanh liền trấn định lại. Dưới sự cố gắng của người cầm chèo và người cầm lái, mấy chục chiếc chiến thuyền còn lại nhanh chóng quay đầu lại, bắt đầu rút lui rất đâu vào đấy. Song, đúng vào lúc này, biến cố đột nhiên phát sinh! Mông trùng chiến thuyền đi ở trước tiên đột nhiên ngưng trệ. Tiểu giáo quân Ngô đứng chỉ huy ở đầu thuyền lảo đảo suýt nữa thì rơi xuống đất, có tiếng mộc bản vỡ nát truyền vào trong tai hắn, giọng nói đó… rõ ràng là tiếng vách thuyền vỡ vụn.

“Chuyện gì vậy?” Tiểu giáo vội vàng đứng lên, nghiêm giọng quát: “Va phải đá ngầm à?”

“Không, không phải là đá ngầm!” Có binh sĩ hốt hoảng gào lên: “Là xích sắt ngăn sông. Trời ạ, là xích sắt ngăn sống!”

“Cái gì? Xích sắt ngăn sông ư?” Tiểu giáo giật nảy mình, nghiêm giọng hô: “Mau, lậy tức dùng cờ hiệu bẩm báo cho đô đốc, chúng ta đụng phải xích sắt ngăn sông rồi!”



Trên mặt sông cách mỏm Quái thạch không xa.

Trong mắt Lữ Mông lóe lên lãnh ý, trầm giọng nói: “Quả nhiên có mai phục!”

“Vẫn là đô đốc thần cơ diệu toán!” Tưởng Khâm không nhịn được giơ ngón trỏ lên, khen ngợi: “Nếu không phải là đô đốc thấy rõ tiên cơ, quân ta đã gặp nguy hiểm rồi.”

Lữ Mông hơi gật đầu, trầm giọng nói: “Máy bắn đá đúng là lợi hại thật, nhưng chẳng qua là đập được mấy cái lỗ trên khoang thuyền mà thôi. Cho dù là khoang thuyền bị bắn xuyên thì cũng không đủ để cấu thành uy hiếp trí mạng đối với chiến thuyền của quân ta. Truyền lệnh, chia tất cả thuyền thành mười tiểu đội, luân phiên xông lên quấy nhiễu, dẫn dụ máy bắn đá của quân Lương công kích. Bản đô đốc muốn xem xem quân Lương công kích với cường độ như vậy liệu có thể kiên trì được tới lúc nào, hừ!”

“Đô đốc, không ổn rồi!” Lữ Mông vừa dứt lời, tiểu giáo bò trên cột buồm đột nhiên gào lên: “Chu Thái tướng quân truyền tin tức về, thuyền đội đã gặp xích sắt chặn sông, đã không thể rút lui được nữa rồi!”

“Hả? Xích sắt ngăn sông ư!”

Tưởng Kham, Từ Thịnh chư tướng nghe vậy đều rùng mình sợ hãi, Lữ Mông trong lòng cũng lạnh toát, lập tức hét lên: “Mau, lệnh cho Chu Thái tướng quân lập tức bỏ thuyền!”

“Tuân lệnh!”

Tiểu giáo rầm rầm trả lời, giơ tam giác lệnh kỳ lên ra sức vẫy.

“Đô đốc, lần này toi rồi!” Tưởng Khâm nói với Lữ Mông: “Xích sắt ngăn sông là khó chơi nhất, uy hiếp đối với chiến thuyền thủy quân cũng lớn nhất. Muốn phá giải xích sắt chặn sông chỉ có hai biện pháp, hoặc là dùng tàu vận tải cường hành đưa bộ binh tới đất liền, chiếm được yếu trại ở hai bờ mỏm Quái thạch, phá hỏng trục kéo của quân Lương, cho xích sắt chìm xuống nước, hoặc là phái thuyền tiếp cận, châm lửa đốt lò để cắt xích sắt kim loại.”

Từ Thịnh nói tiếp: “Nhưng sức chiến đấu của bộ binh quân ta lại không đủ, không nói tới hiện tại còn có thể phái quân đội ra hay không, cho dù có phái đi thì e rằng cũng không phải là đối thủ của quân Lương. Tới lúc đó không những không đoạt được yếu trại ở hai bên bờ mà làm không tốt còn gây thêm phiền phức cho thủy quân của chúng ta. Còn dựng lò đốt lửa, mặc dù có thể đốt đứt xích sắt, nhưng một khi như vậy thì chiến thuyền sẽ trở thành bia sống cho máy bắn đá của quân Lương.”

“Hiểu rồi, thì ra là như vậy!” Lữ Mông biến sắc, cuối cùng thì ngẩng mặt lên trời thở dài một tiếng, có chút mất mát nói: “Bại rồi, quân ta bại triệt để rồi!”

Tưởng Kham, Từ Thịnh bối rối hỏi: “Đô đốc, như vậy là sao?”

Lữ Mông thở dài nói: “Bản đô đốc muốn nói là, Hoài Nam chi chiến lần này, quân ta đã vẫn thua! Trước ưu thế tuyệt đối về thực lực của quân Lương, đại đô đốc chung quy vẫn không thể ngăn được cơn sóng dữ. Thua rồi, chúng ta đã thua rồi! Tưởng Khâm, phái một đội thuyền nhẹ tiến lên tiếp ứng cho Chu Thái và tướng sĩ rơi xuống nước, sau đó rút binh về đại trại Ngưu Chử.”

“Hả, về đại trại Ngưu Chử ư?” Tưởng Khâm ngạc nhiên nói: “Vậy chúng ta không phong tỏa Phì Thủy nữa à?”

“Đã không cần phải phong tỏa nữa rồi.” Lữ Mông chán nản nói: “Nếu không phá được xích sắt ngăn sông, quân Lương lại có thể ở thượng du dễ dàng dựng cầu nối. Cầu nối một khi được dựng xong, lương thực của Lư Gi­ang có thể không ngừng vận tới Hoài nam. Tai dân của Hoài Nam cũng được đưa tới Lư Gi­ang và hai châu Duyện, Dự. Tính toán của chúa công và đại đô đốc đã hoàn toàn thất bại rồi.”

“Chúng ta đã tận lực rồi…”

Lữ Mông nói đến đây thì ngừng lại, vẻ mặt đột nhiên trở nên nhẹ nhõm, không thể hoàn thành nhiệm vụ mà chúa công gi­ao phó, tuy có chút hổ thẹn, nhưng nói tới cùng thì dẫu sao cũng không cần phải trơ mắt nhìn hơn ba trăm vạn tai dân chết trong ôn dịch nữa rồi.



Tháng năm năm Kiến An Hán Hiến Đế thứ mười ba (200)

Cam Ninh hiến kế xích sắt chặn sông, thành công phá giải sự phong tỏa của thủy quân Đông Ngô đối với quận Hoài Nam, mấy chục vạn thạch quân lương khẩn cấp điều tập từ Hà Bắc, Quan Trung, Ích châu, Nam Dương không ngừng được chuyển tới Hoài Nam thông qua cầu nối dựng ở mỏm Quái thạch. Đồng thời, dưới sự tổ chức của Lỗ Túc, Khoái Việt, gần hai trăm vạn bách tính lục tục từ Hoài Nam sơ tán tới Nhữ Nam, Dĩnh Duyện, Trần Lưu.

Tháng sáu, Mã Dược cho Trần Đăng làm thái thú Hoài Nam, lại dùng hai mươi vạn hàng quân Hà Bắc xây đại doanh Hoài Nam, một là truân điền dưỡng binh, hai là đề phòng Đông Ngô.

Tháng bảy, Mã Dược lại tấu lên thiên tử, xin cho Cao Thuận làm Chinh Nam tướng quân, tiết chế quân vụ bốn châu Duyện, Dự, Từ, Dương.

Tháng tám, Mã Dược dẫn mười vạn quân Lương tinh nhuệ về triều.



Bắc cung Lạc dương, Đức Dương điện.

Hán Hiến đế lòng vui phơi phới nói với văn võ bá quan: “Chư vị ái khanh, trẫm hôm nay muốn nói cho các vị một tin tức tốt. Thừa tướng đã phá giải được sự phong tỏa của thủy quân Đông Ngô đối với quận Hoài Nam. Lương thực, vật tư từ các nơi điều vận đế đã tới được Hoài Nam. Ha ha, mấy trăm vạn bách tính chịu tai ương của quận Hoài Nam đã có cơm ăn, áo mặc rồi. Không phải ngồi chờ chết nữa!”

“Trời cao có mắt, thương cho Đại Hán ta, lão thần… chúc mừng bệ hạ.”

Hán Hiến đế vừa dứt lời, thượng thư đã bước ra khỏi hàng quỳ xuống, nói đến mức lệ già chứa chan.

“Cung hỉ bệ hạ.”

“Chúc mừng bệ hạ.”

“Đại hán quốc vận vĩnh ương…”

Quần thần nhao nhao quỳ xuống, hô vạn tuế.

“Chư vị ái khanh mau mau đứng dậy.” Hán Hiến đế liên túc xua tay, tỏ ý bảo các đại thần đứng dậy, đợi các đại thần đứng dậy mới nói tiếp: “Hôm nay, trầm còn có một đại sự muốn thương lượng với chư vị khanh gia.”

Tông chính Lưu Chương bước ra khỏi hàng, tấu: “Không biết là đại sự gì?”

Hán Hiến đế nói: “Trẫm muốn phạ lệ phong thừa tướng làm dị tính Lương vương, không biết có thỏa đáng không?”

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 352: Trong lòng trẫm sáng như gương (1)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

“Bệ hạ, tổ chế không thể làm trái, di huấn của Cao Tổ cũng không thể phế được!” Hán Hiến đế vừa dứt lời thì Khổng Dung đã quỳ một gối xuống, ngẩng đầu lên nói: “Từ lúc Cao Tổ lập Hán đến nay, người được dị tính phong vương (người khác họ được phong vương) mới chỉ có chín người, hơn nữa đều là khai quốc công thần, mà hơn bốn trăm năm nay, không có dị tính phong vương nữa, lão thần cho rằng lệ này dứt khoát không được bỏ!”

“Bệ hạ, Tư đồ đại nhân nói rất đúng, không thể dị tính phong vương được.”

“Đúng vậy, ngàn vạn lần không thể bỏ tiền lệ được.”

“Thừa tướng công lao tuy lớn, nhưng cũng chưa tới mức phong vương.”

“Bệ hạ, lệ này nếu bỏ, quốc gia sẽ không ra quốc gia nữa…”

Khổng Dung vừa dứt lời, đám văn võ bá quan Tư Đồng Khổng Trụ, Thái thường khanh Tư Mã Phòng, Thái phó Đổng Chiêu, đại hồng Lư Mãn Sủng, thiếu phủ Tư Mã Lãng, đại trường thu Trần Kiểu, tướng quân Viên Hy, đại tư nông Đỗ Kỷ, tông chính Lưu Chương nhao nhao quỳ xuống, đồng thanh phụ họa, thậm chí ngay cả nhạc phụ Thái Hòa của Mã Dược là trung chân dật cũng lên tiếng phản đối.

Dõi mắt nhìn, vãn võ cả điện trừ vài người như Quang lộc huân Trần Quần, Hà Nam duẫn Chung (Chung gì đó nhưng bản text thiếu, tra mãi không có chỗ nào đủ, các bác thông cảm) ra, tuyệt đại đa số đều kiên quyết phản đối phong Mã Dược làm dị tính vương.

Hán Hiến đế nhíu mày nói: “Từ loạn Đổng Trác tới nay, hào cường các nơi nổi dậy, thiên hạ phân tranh không ngừng, bác tính khốn đốn, triều cương loạn lạc, nếu không có thừa tướng chặn cơn sóng dữ, hưng nghĩa quân diệt bất thần, thì liệu có được ngày hôm nay không? Cái thế kỳ công như vậy, Lưỡng Hán bốn trăm năm, có ai sánh bằng? Lẽ nào không thể phong vương?”

Từ Đồ Khổng Dung nói: “Bệ hạ, thừa tướng tước tới Lương công, thực ấp hai vạn hộ đã là vị cực nhân thần (ý nói chức cao lắm rồi), không thể tấn phong được nữa!”

Hán Hiến đế nói: “Ý trẫm đã quyết…”

“Bệ hạ!” Hán Hiến đế còn chưa nói xong, Tư Đồ Khổng Dung đã đứng bật dậy, bộ râu trắng ở dưới cùng không gió mà bay, nghiêm giọng hô: “Bệ hạ nếu không tuân theo di huấn của Cao Tổ, cố chấp làm theo ý mình muốn phong thừa tướng làm dị tính vương, lão thần ôm nay sẽ chết ở dưới thềm vàng!”

“Bệ hạ!”

“Bệ hạ!”

“Bệ hạ!”

Không Dung vừa nói xong, bọn Khổng Trụ, Tư Mã Phòng, Tư Mã Lãng nhao nhao quỳ xuống theo.

Hán Hiến đế mắt thấy quần thần khí thế to lớn, không hề có ý nhượng bộ, trong lòng tuy không vui nhưng cũng chỉ đành thu hồi lại mệnh lệnh, nghiêm giọng nói: “Đã như vậy, chuyện này để hôm khác lại thương nghị, hôm nay dừng ở đây, bãi chiều!”

Nói xong, Hán Hiến đế không để ý đến văn võ khắp triều nữa, phất tay áo bỏ đi.

Thiên tử đã đi, quần thần trong điện nhao nhao giải tán. Không tới một lát sau, trên điện vàng to lớn chỉ còn lại có hai người Quang lộc huân Trần Quần và Ti đãi giáo úy Chung. Trần Quần còn cố ý nhìn xung quanh, thấy không có ai liền bước lên mấy bước tới chỗ Chung, thấp giọng hỏi: “Vừa rồi bệ hạ muốn phong thừa tướng là dị tính vương, bá quan đều phản đối, chỉ có đại nhân là không phải đối, không biết vì sao lại vậy?”

Chung cười nhạt, hỏi ngược lại: “Trần đại nhân không phải là cũng không phản đối sao?”

“Cái này…” Trần Quần cười xấu hổ, nói: “Hạ quan chỉ cảm thấy chuyện thừa tướng phong vương đã là thế phải thành rồi.”

“Ha ha.” Chung mỉm cười, nói: “Trần đại nhân là người thông minh, tất nhiên không giống như đám người không thức thời Không Dung, Khổng Trụ. Hừ hừ, thiên tử đã có ý phong thừa tướng làm dị tính vương, chỉ bằng vào đám người bọn họ cũng có thể ngăn cản ư?”

Trần Quần nói: “Nói nhiều như vậy, có phải là đại nhân cũng tán thành phong vương không?”

“Phong vương?” Chung cười nhạt một tiếng, trên mặt đột nhiên lộ ra một nụ cười cao thâm mạc trắc, ngẩng đầu lên nhìn trời, đột nhiên nói một câu không đầu không đuôi: “Trời đất… lại thay đổi rồi.”



Hổ Lao quan, quân trướng của Mã Dược.

Mã Dược phất tay ý bảo bọ Giả Hủ, Lý Túc, Khoái Việt, Lỗ Túc bốn người ngồi xuống, sau đó nói: “Cô hôm nay gọi mọi người tới là có một đại sự muốn thương lượng với các ngươi.”

Gia Cát Lượng chắp tay thở dài nói: “Chúa công nói đi.”

Mã Dược nói: “Dưới quyền cai trị của triều đình có toàn bộ mười hai châu Ung, Ti, Lương, Thanh, U, Ký, Tịnh, Sóc, Dự, Duyện, Từ, Ích, Kinh Châu quận Nam Dương, Dương Châu Lư Gi­ang, Hoài Nam hai quận cùng với thảo nguyên Mạc Bắc bao la, lãnh thổ của đại Hán đông tây nam bắc kéo dài mấy vạn dặm, đã vượt xa bất kỳ triều đại, thời kỳ nào trước đây.”

Khoái Việt chắp tay nói: “Đây đều là công của thừa tướng.”

“Được rồi.” Mã Dược lắc đầu, nói: “Cô hôm nay không phải là biểu lộ công lao với các ngươi. Hiện tại có một vấn đề vô cùng cấp thiết, vô cùng nghiêm trọng đang được bày ra ở trước mặt chúng ta. Đó chính là thiếu hụt nghiêm trọng các quan viên ở các châu, các quận, các huyện. Bốn châu ở Hà Bắc có hơn bốn mươi quận, không ngờ lại thiếu tới ba mươi sáu thái thú và hơn một trăm sáu mươi huyện lệnh. Ngoài ra đám quan lại như trường sử, chủ bạc, công tào, đô úy, huyện úy, huyền thừa cũng thiếu nhiều không kể xiết!”

“Duyện, Dự, Từ châu tới tận giờ vẫn chưa tìm thấy nhân tuyển thích hợp để đảm nhiệm chức thứ sử. Do thiếu hụt thứ sử, quận thủ và huyện lệnh, những khu vực này đang trở nên hỗ loạn, trị an gay go, triều đình không thể không phải một lượng lớn quân đội tới đóng lâu dài, thực thi quân quản đối với những địa vực này. Song quân quản chung quy vẫn không phải là kế lâu dài.”

Giả Hủ sớm đã biết suy nghĩ ở trong lòng Mã Dược, liền nói: “Hủ cho rằng hiện tại là lúc thực hành khoa cửu thủ sĩ (thi cử chọn hiền sĩ) có tính toàn quốc rồi!”

“Khoa cử thủ sĩ?”

“Khoa cử thủ sĩ?”

Lỗ Túc, Khoái Việt lần đầu tiên nghe thấy cách nói này, không khỏi ngơ ngác nhìn nhau.

Lý Túc liền giải thích: “Cái gọi là khoa cử thủ sĩ là một loại cơ chế tuyển bạt nhân tài do thừa tướng sáng tạo ra. Nội dung hạch tâm của nó chính là chế độ thi cử hai cấp, trước tiên là do huyện lệnh các huyện tiến hành thi cử cấp một đối với người đọc sách của bản huyện, người hợp cách sẽ là tú tài, sau đó các quận áp dụng tiến hành thi cử cấp hai đối với tú tài của các huyện dưới quyền quận đó, người hợp cách sẽ là cử nhân, trở thành cử nhân thì có thể xuất sĩ rồi, chế đạo này đã thử làm nhiều năm ở Lương châu, Ung châu, Sóc châu, rất được người đọc sách ở Quan Trung tôn sùng.”

Giả Hủ nói: “Trên thực tế, chế độ khoa cứ mà thừa tướng sáng tạo ra còn có thi cử cấp ba, đó chính là tập trung cử nhân trúng tuyển của các quận lại tới kinh thành tiến hành thi cử cấp ba, người trúng tuyển sẽ là tiến sĩ! Tiến sĩ trúng tuyển có thể đưa ra các huyện đảm nhiệm trưởng quan huyện lệnh, trải qua nhiều năm rèn luyện nếu quả thực có tài thì có thể thăng lên làm quận thủ.”

“Cái này…” Lỗ Túc nghi hoặc nói: “Vậy chẳng lẽ thứ dân cũng có thể tham gia thi cử sao?”

Lý Túc nói: “Chỉ cần là người Hán, bất luận là thứ dân, sĩ nhân, toàn bộ đều có thể tham gia thi cử.”

Khoái Việt nói: “Thế chẳng phải là làm loạn hết lễ số sao?”

“Lễ Số, thế nào là lễ?” Mã Dược lạnh lùng nói: “Cứ phải phân cao thấp sang hèn mới là lễ à? Cùng là bách tính đại Hán, cùng là con dân đại Hán, vì sao cứ phải phân tam, lục, cửa đẳng? Tử Kính, Dị Độ tất nhiên xuất thân sĩ tộc, nhưng cô xin hỏi hai vị, tổ thượng của các ngươi chẳng phải cũng xuất thân Hàn Vi sao?”

“Cái này…”

Khoái Việt, Lỗ Túc lập tức nghẹn lời.

Mã Dược đứng dậy, chắp tay sau lưng lạnh lùng nói: “Lễ số tốt có thể giáo hóa vạn dân, tất nhiên là nên tuân theo. Nhưng những lễ số không tốt thì cô phải phá trừ, cô chính là muốn dùng hành động thực tế để nói với tất cả người đọc sách trong thiên hạ rằng chỉ cần bọn họ có học vấn, có tài năng, bất luận là xuất thân hàn vi hay là cao quý thì đều có cơ hội làm quan! Cô muốn duy trì thi cử!”

“Chúa công.” Mã Dược vừa dứt lời, Điển Vi đột nhiên bước vào trướng, ôm quyền thưa: “Quang lộc huân khanh Trần Quần tướng quân ở ngoài trướng xin cầu kiến.”

“Trần Quần?” Mã Dược trầm giọng nói: “Cho hắn vào.”

“Tuân lệnh.”

Điển Vi ôm quyền vái một cái rồi quay người rời đi.

Không tới một lát sau.

Trần Quần thân hình thon dài, tướng mạo tuấn lãng phiêu nhiên bước vào trướng, vái Mã Dược một cái, cao giọng nói: “Hạ quan Trần Quần, tham kiếm thừa tướng.”

“Ha ha. Trường Văn miễn lễ.” Mã Dược ngẩng đầu nói: “Nào nào nào, tới đây ngồi đi.”

“Tạ ơn thừa tướng.”

Trần Quần ôm quyền hành lễ, rồi đi tới ngồi xuống bên phải Khoái Việt.

Mã Dược nói: “Trường Văn từ Lạc dương tới tận Hổ Lao quan xa xôi này, chẳng hay có chuyện gì quan trọng?”

Trần Quần nhìn đám người Giả Hủ, muốn nói rồi lại thôi.

Mã Dược nói: “Trường Văn cứ nói đi đừng ngại.”

Trần Quần nói: “Hạ quan tới đây đúng là có chuyện muốn bẩm báo với thừa tướng.”

Mã Dược hỏi: “Chuyện gì?”

Trần Quần nói: “Thiên tử muốn phong thừa tướng làm dị tính vương, có điều lại bị văn võ bá quan do Tư Đồ Khổng Dung cầm đầu kiên quyết phản đối. Chỉ có một số ít người như hạ quan và Hà Nam doãn Chung đại nhân ủng hộ thiên tử. có điều bởi vì tiếng nói bé, do đó không dám ngông cuồng bình nghị ở đình nghị. Hạ quan cho rằng chuyện này rất trong đại, vì thế suốt đêm tới ngay Hổ Lao quan thông báo cho thừa tướng.”

Mã Dược cười nhạt, nói: “Trường Văn phí tâm rồi, ha ha.”

“Ra sức vì thừa tướng chính là chức phận của hạ quan.” Trần Quần nói tới đây, sắc mặt đột nhiên chuyển thành nghiêm túc, nói: “Quần có một lời, không biết có nên nói hay không?”

Mã Dược nói: “Cứ nói đi đừng ngại.”

Trần Quần nói: “Chính là cái gọi là thiên hạ vốn vô chủ, người có đức thì được. Lưỡng Hán trước sau hơn bốn trăm năm, trải qua hai mươi tư đế, quả thực khí số đã tận. Giờ thừa tướng trong diệt tứ di, ngoài mở cương sĩ, uy chấn hải nội, công thước cổ kim. Cho dù là Tần Hoàng Hán Vũ cũng không bằng. Cớ sao không thuận theo thiên ý Đại hán mà lên ngôi?”

Mã Dược biến sắc, quát: “Trường Văn nói năng cho cẩn thận!”

Trần Quần lờ đi, nói tiếp: “Giờ thiên hạ binh quyền đã thuộc về tay thừa tướng, lên ngôi Đại hán có thể nói là nước chảy thành sông, thuận lý thành chương, điều phải lo lắng chẳng qua chỉ có khẩu tru bút phạt của văn võ toàn triều, Quần ngày đêm suy nghĩ, ngẫu nhiên có kế sách, dự thảo cửu phẩm trung chính chế, có lẽ có thể giúp thừa tướng quét sạch chướng ngại!”

“Đủ rồi!” Mã Dược vỗ bàn quát: “Trường Văn nếu còn dám hồ ngôn loạn ngữ, chớ trách cô trở mặt vô tình!”



Lạc Dương, hậu uyển hoàng cung.

Ích Dương công chúa Lưu Minh chỉnh lại vạt áo rồi thi lễ với Hán Hiến đế Lưu Hiệp, nói: “Bái kiến hoàng thượng.”

“Hoàng cô miễn lễ.” Lưu Hiệp vội vàng đưa tay tỏ ý bảo Lưu Minh đứng dậy, nói: “Trẫm phái người mời hoàng cô vào cung, không có chuyện gì khác mà chính là muốn tâm sự việc nhà với hoàng cô.”

“Ài.” Lưu Minh nghe thấy vậy liền thở dài, hỏi: “Bệ hạ năm nay chắc đã hai mươi tuổi rồi?”

Lưu Hiệp nói: “Vừa đúng hai mươi.”

“Nên hành quan lễ rồi.” Lưu Minh nói: “Hơn nữa cũng nên nạp phi.”

Lưu Hiệp nói: “Quốc sự chưa định, trẫm nào có tâm tư đâu mà nạp phi.”

“Điều này ngài không bằng Lương công rồi.” Lưu Minh nửa đùa nửa thật nói: “Tuy quốc sự chưa định, nhưng Lương công lại chưa từng ngừng chọn mỹ nạp thiếp. Những năm nay Lương công thường xuyên chính chiến ở bên ngoài. Mỗi lần tới một nơi đều mang về rất nhiều nữ tử mỹ mạo trẻ tuổi. Hiện tại á, thâm khuê oán phụ được nuôi trong phủ Lương công có khi phải tới mấy trăm người rồi.”

Lưu Hiệp mỉm cười, nói: “Xem ra hoàng cô vẫn có lòng bất mãn với thừa tướng.”

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 352: Trong lòng trẫm sáng như gương (2)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

“Thiếp thân nào dám có lòng bất mãn.”Trên mặt Lưu Minh thoáng hiện một tia đau khổ, nói: “Hoa tàn ít bướm, làm sao sánh bằng những nữ tử trẻ tuổi đó. Hoàng thượng ngài không biết đấy thôi, trong phủ Lương công, đám hồ ly lẳng lơ đó nghe nói Lương công sắp hồi triều, ai ai cũng đều trang điểm xinh đẹp, ha ha, thật không biết nên nói gì đây.”

“Chuyện ngày trẫm không giúp được hoàng cô rồi.” Lưu Hiệp khuyên: “Nam nhân mà, phong lưu một chút cũng là chuyện thường tình, huống chi thừa tướng vị cực nhân thần, còn là anh hùng trong lòng người trong thiên hạ, hoàng cô nên nghĩ thoáng một chút.”

“Từ lâu đã nghĩ thoáng rồi.” Lưu Minh tự giễu: “Hiện tại á, tâm tư của thiếp thân đều đặt lên người Cơ nhi, chỉ ngóng trông Cơ nhi lớn lên được vui vẻ, tương lại lớn rồi chọn một lang quân như ý, bất kể là nhà người làm quan hay là hào môn phú thương, cho dù là tiểu dân cũng được. Cho dù có như vậy cũng tuyệt không thể gả cho hạng tứ xứ lưu tình như phụ thân của Cơ nhi.”

Lưu Hiệp che miệng cười trộm, rồi lập tức nghiêm mặt nói với Lưu Minh: “Kỳ thực trẫm có một chuyện quan trọng muốn hỏi hoàng cô.”

Lưu Minh nói: “Chuyện gì vậy?”

Lưu Hiệp nói: “Trẫm muốn phong thừa tướng làm dị tính vương, nhưng văn võ khắp triều đều phản đối…”

“Ngài muốn phong Lương công làm dị tính vương ư.” Lưu Minh thần sắc ngưng trọng, trầm giọng nói: “Hoàng thượng, cái này ngài đã nghĩ kỹ chưa.”

“Kỳ thực, trẫm sớm đã nghĩ kỹ rồi.” Lưu Hiệp buồn bã thở dài, nói: “Nghĩ kỹ hơn bất kỳ ai.”

Lưu Minh nói: “Ý của hoàng thượng là…”

“Không có gì.” Lưu Hiệp tránh khỏi trọng tâm câu chuyện, bảo: “Trẫm chính là muốn hỏi hoàng cô một chút, trẫm có nên phong thừa tướng làm dị tính vương không.”

“Việc này tiện thiếp thật sự là cũng không thể nói được.” Lưu Minh cười khổ, nói: “Hay là hoàng thượng tự mình quyết định đi.”



Hổ Lao quan.

Trần Quần, Lý Túc, Khoái Việt, Lỗ Túc đã rời đi, trong đại trướng chỉ còn lại Mã Dược và Giả Hủ hai người.

Giả Hủ nói: “Lời của Trần Quần tuy đại nghịch bất đạo, nhưng cửu phẩm trung chính chế mà hắn đề ra lại phi thường có kiến giải. Hủ cho rằng bắt chước chế độ tam công cửu khanh từ Tần triều có rất nhiều chỗ không hợp lý. Ví dụ như cơ cấu lỏng lẻo, chức quyền chồng chéo, hoặc là thiếu xót. Quan viên làm việc với hiệu suất quá thấp, mà cửu phẩm trung chính chế do Trần Quần đề xuất lại có thể vừa hay lấp được chỗ khuyết này.”

“Ha ha.” Mã Dược nói: “Cửu phẩm trung chính chế của Trần Quần quả thật là không tồi, có điều cô lại có một cách hay hơn.”

“Ồ?” Giả Hủ vui vẻ nói: “Chúa công còn có cách hay hơn ư?”

“Cái này cũng phải cám ơn Trần Quần nhắc nhở cô đó.” Mã Dược nói: “Để cô nghĩ tới tam tỉnh lục bộ chế, có điều suy xét tình huống thực tế, có thể đổi thành tam tỉnh bát bộ chế!”

“Tam tỉnh bát bộ chế?” Giả Hủ nghe mà đầu quay mòng mòng, hỏi: “Tam tỉnh bát bộ là gì?”

Mã Dược nói: “Tam tỉnh chính là trung thư tỉnh, môn hạ tỉnh, thượng thư tỉnh. Bát bộ chính là bát bộ như binh (bộ quốc phòng), công (bộ kiến thiết), lễ (bộ giáo dục), lại (bộ nhân sự), nông (bộ nông nghiệp), thương (bộ thương vụ), hình (bộ công an), hộ (bộ dân chính) thuộc thượng thư tỉnh.”

Giả Hủ nói: “Phân công cụ thể của tam tỉnh bát bộ là thế nào?”

Mã Dược nói: “Chức trách của trung thư tỉnh là phụ trợ thừa tướng tiến hành quyết sách, quyết định quốc gia đại sự; chức trách của môn hạ tỉnh là phụ trách tiến hành thẩm tra quyết sách của trung thư tỉnh, để xác định tính chuẩn xác và tình khả thi. Bát bộ thượng thư của thượng thư tỉnh thì cụ thể phụ trách chấp hành các hạng quyết sách của trung thư tỉnh!”

“Thì ra là như vậy.” Giả Hủ đột nhiên bừng tỉnh: “Như vậy, chính lệnh của thiên hạ đều ra từ tay thừa tướng, vô luận là bổ nhiệm bãi nhiệm, lên chức xuống chức của quân viên hay là ủy phái điều động quân đội đều đều phải qua sự cho phép của thừa tướng. Dần dà, quận thủ, huyện lệnh thiên hạ đều xuất phát từ môn hạ của thừa tướng, tướng lĩnh các quân đều là môn sinh của thừa tướng, tất cả đều nước chảy thành công. Ha ha!”

“Đó là chuyện về sau, để sau hẵng nói.” Mã Dược cười nhạt, nói tiếp: “Việc cấp thiết bây giờ là thúc đẩy chế độ khoa cử, tuyển bạt một lượng lớn quan viên. Cô định trong nửa năm sẽ bổ nhiệm và bãi nhiệm quân viên của các châu, quận, huyện, sau đó dùng thời gi­an hai năm để ổn định cục thế, đợi thế cục của các châu được ổn định mới khởi binh nam hạ, dùng thế lôi đình diệt dư nghiệt của Tôn, Tào.”

Giả Hủ nói: “Chúa công là nói cường hành xúc tiến chế độ khoa cử?”

“Ừ.” Mã Dược gật đầu, mắt lộ ra sát cơ, trầm giọng nói: “Để Mã Đại dẫn hai vạn Tây Lương thiết kỵ tiến vào Tây Xuyên, để đảm bảo thi Hương được tiến hành thuận lợi.”

Giả Hủ gật đầu, nghiêm giọng nói: “Hiểu rồi.”



Lạc Dương, thẩm cung của Hán Hiến đế.

Phục hoàng hậu tỉnh dậy, đột nhiên phát hiện thiên tử đang đứng ở trước cửa sổ nhìn ánh trăng ở trên trời đến ngây ngốc, bóng lưng lộ ra vẻ gầy yếu, dưới ánh trăng được kéo dài ra, bóng và người gần nhau, nhìn vô cùng cô độc.

“Bệ hạ.” Phục hoàng hậu cầm cẩm bào nhẹ nhàng choàng lên người Lưu Hiệp, ôn nhu nói: “Ngài sao lại dậy?”

Lưu Hiệp thở dài một tiếng, thở dài nói: “Trẫm không ngủ được.”

Phục hoàng hậu nói: “Bệ hạ có tâm sư ư?”

Lưu Hiệp nhẹ nhàng ừ một tiếng.

Phục hoàng hậu nói: “Thần thiếp có thể nghe không?”

Lưu Hiệp đột nhiên nói: “Hoàng hậu, trẫm hỏi nàng, các châu Ung, Ti, Lương, Sóc như thế nào dưới sự cai trị của thừa tướng?”

Phục hoàng hậu nói: “Cái này còn cần phải nói sao, mưa hòa gió thuận, quốc thái dân an. Từ sau khi thừa tướng cung nghênh bệ hạ tới Đông đô, Lạc Dương vốn tan hoang bất kham trong mấy năm ngắn ngủi liền khôi phục như trước. Hiện tại trên đại nhai thành Lạc Dương mỗi ngày đều ngựa xe như nước, khách thương vãng lai qua lại không ngớt. Nghe phụ thân (Phục Hoàng) nói, Đông đô hiện tại đã phồn vinh hơn bất kỳ thời kỳ nào trước đây.”

“Đúng vậy.” Lưu Hiệp gật đầu, xúc động nói: “Nhưng đây đều là công lao của thừa tướng. Nếu không có thừa tướng, Đông đô Lạc Dương há có thể có được ngày hôm nay? Các châu bên dưới há có được thịnh vượng như ngày hôm nay, thiên hạ bách tính há có được cuộc sống sung túc như bây giờ? Trẫm suy tính trước sau, thực sự là rất cám ơn Lương hầu. Hoàng hậu, nàng nói người làm vua, quan trọng nhất là gì?”

Phục hoàng hậu nói: “Thần thiếp cho rằng người làm vua, quan trọng nhất là nhân hiếu.”

“Không.” Lưu Hiệp lắc đầu, nói: “Nếu nói nhân hiếu, lịch đại tiên hoàng không thiếu nhân nghĩa chi quân, cũng không thiếu pháp hiếu chi quân (vua bất hiếu). Nhưng vì sao không thể đại trị thiên hạ, không thế để bách tính dưới quyền cai trị có được cuộc sống sung túc giống như thừa tướng đã làm? Vì sao không thể giống như Lạc Dương dưới quyền thừa tướng có sinh cơ sáng rỡ mà trước giờ chưa từng có? Đây là vì sao?”

Phục hoàng hậu nói: “Cái này… bện hạ hay là đi hỏi thừa tướng đi.”

“Đúng vậy, có một ngày trẫm sẽ hỏi thừa tướng.” Lưu Hiệp nói: “Có điều, không phải là bây giờ.”

Phục hoàng hậu kinh ngạc nói: “Bệ hạ, ngài sao vậy?”

“Không có gì.” Lưu Hiệp nói: “Chỉ có trải qua lang bạt kỳ hồ, mới biết được cuộc sống an định đáng quý như thế nào, chỉ có trải qua cơ hàn bần khổ, mới biết cuộc sống sung túc khó khăn biết bao. Hoàng hậu, trẫm tuy trẻ tuổi, nhưng không phải là kẻ hồ đồ. Trong lòng trẫm sáng tỏ như gương, trẫm kỳ thực cái gì cũng hiểu. Nhưng văn võ toàn triều của trẫm lại không hiểu, trẫm thực sự lo lắng cho bọn họ…”

Phục hoàng hậu bị Lưu Hiệp nói cho ngây người, có lòng muốn hỏi hai câu nhưng lại không biết nên hỏi từ đâu.



Tương Dương, Tào Chân công phủ.

Tào Chân đang cùng Gia Cát Lượng, Trình Dục, Lưu Diệp, Cổ Quy nghị sự.

Lưu Diệp nói: “Thám tử hồi báo, thiên tử có ý phong Mã đồ tể làm Lương vương, có điều do bá quan trong triều kiên quyết phản đối nên chuyện không thành. Có điều người ta cho rằng sau khi Mã đồ tể về triều, tất sẽ có nịnh thần sẽ lại đem chuyện này ra để nghị sự hòng nịnh bợ Mã đồ tể. Mã đồ tể tay nắm trọng binh, tích lũy sâu dày. Tới lúc đó đám triều quan tham sống sợ chết liệu có gan để tỏ ý phản đối ở ngay trước mặt Mã đồ tể hay không thì còn khó nói.”

Gia Cát Lượng nói: “Chuyện phong vương e rằng là ván đã đóng thuyền rồi.”

Trình Dục cũng nói: “Khổng Minh nói rất đúng, cho dù văn võ bá quan phản đối thì sao chứ?”

Cổ Quy nói: “Mã đồ tể một khi được phong Lương vương, trên danh nghĩ có thể đè ép chúa công, Quy cho rằng chúa công cũng nên tự xưng làm Sở vương.”

“Tự xưng làm Sở vương ư?” Gia Cát Lượng lắc đầu nói: “Không không không , như vậy e rằng sẽ bị người trong thiên hạ dị nghị. Lượng cho rằng chúa công nên tấu lên thiên tử, xin cho Tôn Quyền làm Ngô vương, Tôn Quyền tất sẽ báo đáp, dâng biểu xin cho chúa công làm Sở vương. Một khi Mã đồ tể thực sự được tấn phong Lương vương, vậy Tôn Quyền được tấn phong là Ngô vương, chúa công tấn phong Sở vương cũng là chuyện nước chảy thành sông thôi.”

Ngụ ý của Gia Cát Lượng là chuyện phong vương mình tốt nhất đừng ra mặt. Nếu do Tôn Quyền thay Tào Chân tấu lên triều đình vậy thì là thuận lý thành chương. Còn triều đình có đáp ứng hay không thì kỳ thực không quan trọng, bởi vì hiện tại ai cũng biết triều đình đã hoàn toàn nằm trong quyền khống chế của Mã đồ tể. Mã đồ tể có thể nói mình là phụng chỉ thảo tặc thì Tôn Quyền, Tào Chân cũng có thể mặt khác nói là phụng mất chiếu thanh quân.

Dẫu sao thì đây chỉ là trên danh nghĩa, còn ai là vua ai là giặc thì chẳng ai nói được, chỉ có thể nhìn vào kết quả cuối cùng mà thôi.

“Biện pháp này rất hay!” Trình Dục khen: “Tốt nhất là nên rèn sắt lúc còn nóng, phái sử giá tới Mạt Lăng để liên hệ với Đông Ngô.”

“Tốt, việc này cứ quyết định như vậy đi.” Tào Chân nói tới đây thì dừng lại, nói với Lưu Diệp: “Vậy phiền Tử Dương đi sứ một chuyến tới Đông Ngô vậy.”

Lưu Diệp vội vàng đứng dậy ôm quyền nói: “Tuân lệnh.”

“Ừ.” Tào Chân gật đầu, nhìn quanh mọi người, nói: “Hiện tại nên thương nghị chiến lược sau này rồi, trước mắt cục thế mà quân ta phải đối diện vô cùng nghiêm trọng. Mười vạn đại quân của Từ Hoảng đóng ở Nam Dương tùy thời đều có thể huy sư nam hạ, Vĩnh An lại có năm vạn đại quân của Trương Tú, Trương Nhiệm đang tập kết. Nếu hai lộ quân Lương này đồng thời xuất binh, hai mặt giáp kích Kinh Châu. Kinh Châu sẽ gặp nguy hiểm.”

Gia Cát Lượng nói: “Chúa công không cần phải lo lắng, Lượng cho rằng trong vòng ba năm quân Lương sẽ không nam hạ đâu.”

Trình Dục hỏi: “Tại sao lại vậy?”

Gia Cát Lượng nói: “Sau một phen ác chiến với Đông Ngô ở Hoài Nam, tổn thất của quân Lương tuy không đáng kể, nhưng lương thảo truy trọng tiêu hao lại rất lớn. Đặc biệt là để an trí cho mấy trăm vạn bách tính chịu tai họa của quận Hoài Nam, càng tiêu hao hết tất cả lương tồn của các châu dưới quyền cai trị. Không có ba tới năm năm tích lũy, quân Lương căn bản không thể ồ ạt nam hạ.”

Tào Chân nói: “Cũng chính là nói, quân ta còn có thời gi­an ba tới năm năm để chuẩn bị?”

Gia Cát Lượng nói: “Tối đa là năm năm, ít nhất là ba năm.”

Tào Chân nói: “Vậy việc cần kíp mà quân ta nên làm hiện giờ là gì?”

Gia Cát Lượng nói: “Việc cần kíp bây giờ là huấn luyện thủy quân, tranh thủ trong vòng ba năm huấn luyện ra một nhánh thủy quân tinh nhuệ! Binh lực của nhánh thủy quân này có thẻ không cần quá nhiều, nhưng nhất định phải kỷ luật nghiêm minh, tác chiến dũng cảm, điều đặc biệt quan trọng là trang bị nhất định phải tinh lương. Không biết chư vị có từng nghĩ tới không, sự tiến công của Tây Lương thiết kỵ mà Mã Siêu suất lĩnh vì sao lại lợi hại như vậy? Dưới móng sắt của Tây Lương thiết kỵ, sĩ tốt Nam Dương của Hoàng Trung tướng quân không chịu nổi một kích!”

Tào Chân hỏi: “Vì sao?”

Gia Cát Lượng nói: “Bởi vì Tây Lương thiết kỵ kỷ luật nghiêm minh, tác chiến dũng cảm. Bọ chúng được trang bị thiết giáp kiên cố nhất, binh khí tinh lương nhất, đặc biệt là lao của bọn chúng càng khiến người ta ghi nhớ sâu sắc. Quả thực chính là ác mộng của tướng sĩ quân ta!”

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 353: Mã Siêu bệnh chết (1)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Tháng tám năm Kiến An Hán Hiến đế thứ mười ba, Mã Siêu khải hoàn về triều.

Hôm sau, trên điện Đức Dương.

Ở phía trước bá quan bố trí một cái ghế xếp, chính là tiên tử ban cho thừa tướng ngồi, Mã Dược hai mắt khép hờ, lặng lẽ ngồi trên ghế.

Bá quan bên dưới vô cùng náo nhiều, vừa hay gặp đại triều nghị một năm mới có một lần, có rất nhiều thứ sử các nơi về triều báo cáo công tác, như đám đại quan viên địa phương Ký châu thứ sử Thẩm Phối, Thanh châu thứ sử Tân Bình, Tịnh Châu thứ sử Tân Bì, U châu thứ sử Phùng Kỷ, Sóc châu thứ sử Tự Thụ, Lương châu thứ sử Phó (?), Ung châu thứ sử Pháp Chân, Ích châu thứ sử Trương Tùng, Ti châu thứ sử Cao Can.

Trong ban quan văn, Giả Hủ đánh mặt ra hiệu, Ký Châu thứ sử Thẩm Phối hiểu ý, ra khỏi ban, tấu: “Bệ hạ, thần có bản tấu.”

Thiên tử phất tay nói: “Tấu chuyện gì?”

Thẩm Phối nói: “Thập quận tam quốc dưới quyền cai trị của Ký châu thiếu sáu quận thủ, hai quốc tướng, một trăm sáu mươi bảy huyện dưới quyền cai trị của các quận quốc thiếu tổng cộng một trăm linh chín huyện lệnh (trưởng), sự thiếu hụt quan viên với mức độ lớn như vậy đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới thông đạt chính lệnh Ký châu và sự ổn định của xã hội, thần khẩn cầu bệ hạ từ trong triều quan chọn ra hiền sĩ tài giỏi để cho ra ngoài làm quận thủ, huyện lệnh trưởng.”

“Thần có bản tấu.”

“Thần cũng có bản tấu.”

“Bệ hạ, thần cũng có bản tấu.”

Thẩm Phối vừa dứt lời, Thanh châu thứ sử Tân Bình, Tịnh châu thứ sử Tân Bì, U châu thứ sử Phùng Kỷ cũng bước ra khỏi ban quỳ xuống tấu.

Thiên tử hỏi: “Tấu chuyện gì.”

Tân Bình nói: “Thanh châu thiếu bảy quận thủ, chín mươi sáu huyện lệnh trưởng.”

Phùng Kỷ nói: “U châu thiếu năm quận thủ, bảy mươi chín huyện lệnh trưởng.”

Tân Bì nói: “Tịnh châu thiếu ba quận thủ, ba mươi sáu huyện lệnh trưởng.”

“Cái này…” Thiên tử không khỏi rời ánh mắt về phía Tư Đồ Khổng Dung, nói: “Bốn châu Ký, Tịnh, U, Thanh thiếu quận thủ, quốc tướng là hai mươi ba người, huyện lệnh trưởng hơn ba trăm người. Quan viên của Duyện, Dự, Từ châu mới bình định cùng với quận Hoài Nam, Lư Gi­ang chẳng phải càng thiếu hụt nghiêm trọng hơn sao. Khổng ái khanh, không biết các quan trong triều có được bao nhiêu người.”

Khổng Dung khó xử nói: “Khải tấu bệ hạ, các quan trong triều chỉ có ba mươi chín người.”

Khổng Dung vừa dứt lời, khóe miệng Mã Dược không khỏi phác ra một nụ cười lạnh.

Bắt đầu từ giặc Khăn Vàng, Quan Đông các châu chiến loạn không ngừng, sĩ tộc các châu quận không chết trong binh tai thì cũng lưu vong tới kinh kỳ Lạc Dương. Dẫn tới việt Lạc Dương trở thành nơi tụ tập của thiên hạ sĩ tộc thời kỳ Hán mạt. Song điều bất hạnh là Đổng Trác, Lưu Bị trước sau hai lần loạn kinh, tàn sát sĩ tộc trong kinh, cấu thành đả kích có tính hủy diện cho lực lượng sĩ tộc môn phiệt.

Từ đó về sau Quan Đông lập tức rơi vào chiến loạn nhiều năm, tới khi Mã Dược bình định Hoài Nam thì số lượng sĩ tộc Quan Đông đã gần như tổn hại hết. Kẻ may mắn không chết vì binh tai thì đại đa số cũng tránh nạn tới Gi­ang Đông, Kinh châu. Chỉ có Ích châu, Kinh châu và Dương châu tương đối an định là có số lượng sĩ tộc không không giảm mà tăng. Song Tào Chân, Tôn Quyền không thể để sĩ tộc hai châu Kinh, Dương tới Lạc Dương làm quan được. Mã Dược cũng không thể để sĩ tộc Ích châu ra khỏi Tây Xuyên.

Hiện tại, triều đình Lạc Dương đang phải đối diện với một khốn cảnh gay go. Cho dù là bá quan trong triều cũng có rất nhiều chức vị bị bỏ trống, càng đứng nói tới quan địa phương ở các châu các quận. Rõ ràng, ngoại trừ khai khoa thủ sĩ chọn quan viên ra thì không còn lựa chọn nào khác.

“Cái gì?” Thiên Tử thất thanh nói: “Các quan trong triều chỉ có ba mươi chín người thôi ư? Cho dù cho cả ba mươi chín người này ra ngoài thì cũng không lấp được chỗ hổng quan viên lớn như vậy ở các châu quận Quan Đông?”

Giả Hủ lại đánh mắt ra hiệu, Quang lộc huân khanh Trần Quần hiểu ý, đứng ra khỏi ban tấu lên: “Bệ hạ, thần có đối sách có thể bù đắp sự thiếu hụt quan viên của các châu quận.”

“Ồ, là đối sách gì?” Thiên tử vui vẻ nói: “Ái khanh mau nói ra đi.”

Trần Quần tâu: “Nghe nói Thanh châu đại nho Quản Trữ có tám trăm đệ tử, tại Sóc châu, Lương châu, Ung châu mở rộng học quán, truyền đạo thụ nghiệp, tới giờ đã hơn chục năm rồi. Hiện tại nhân sĩ có học vấn ở Quan Trung đã lên tới mấy ngàn người. Bệ hạ cớ sao không từ trong đó chọn ra người có tài năng đức hạnh mà đưa tới các quận, huyện Quan Đông làm quận thủ, huyện lệnh trưởng? Một khi như vậy, vừa có thể đề cao tính tích cực của người đọc sách trong thiên hạ, lại có thể giải quyết chỗ trống quan viên địa phương, há chẳng hải là lưỡng toàn kỳ mỹ sao?”

“Bệ hạ, không được!” Trần Quần vừa dứt lời, Khổng Dung vội vàng đứng ra khỏi ban quỳ xuống trước thềm vàng, nghiêm giọng phản đối: “Người đọc sách ở Quan Trung tuy nhiều, nhưng đại đa số xuất thân hàn vi, chính là thứ dân. Từ cổ sĩ thứ có cách biệt, há lại có thể đánh đồng như nhau? Nếu đại lượng đề bạt thứ dân làm quan, không những không phù hợp với lễ nghi mà còn khiến nhân sĩ thiên hạ phải xấu mặt.”

Khổng Dung vừa dứt lời, bá quan trong triều nhao nhao gật đầu, có ý tán đồng.

Mắt thấy tình thế sắp nằm ngoài sự khống chế, Mã Dược đột nhiên đứng dậy, nghiêm giọng quát: “Khổng Dung!”

Mã Dược quát một tiếng, giống như là sẩm nổ trên kim điện, tiếng nghị luận của bá quân lập tức ngưng bặt, cả đại điện lộ ra vẻ tĩnh lặng, cơ hồ ánh mắt của tất cả mọi người đều tập trung lên người Mã Dược. Bình thường triều nghị, Mã Dược rất ít khi phát biểu ý kiến, nhưng đã phát biểu ý kiến thì cũng luôn nói năng nhỏ nhẹ, hôm nay đột nhiên thần sắc nghiêm nghị, lập tức khiến bá quan kinh hãi.

Không Dung cũng khó tránh hỏi run sợ trong lòng, miễn cường ôm quyền nói: “Thừa tướng có gì chỉ giáo?”

Mã Dược không nhanh không chậm nói: “Cô cho rằng kiến nghị của Trần đại nhân vô cùng hợp lý, tư đồ đại nhân thấy thế nào?”

Mã Dược nói tới đây thì dừng lại, chậm rãi quay người, mặt hướng về văn võ bá quan trên đại điện, lạnh lùng hỏi một câu: “Chư vị đại nhân thấy sao?”

Hà Nam doãn Chung bước ra khỏi ban, quỳ xuống tấu: “Bệ hạ, thần hoàn toàn ủng hộ kiến nghị của Trần đại nhân.”

“Thần ủng hộ kiến nghị của Trần đại nhân.”

“Thần cũng ủng hộ.”

“Thần ủng hộ…”

Chung vừa dứt lời, thứ sử các châu nhao nhao bước ra khỏi ban rồi quỳ xuống, thậm chí ngay cả văn võ bá quan trong triều cũng quỳ xuống một nửa, Khổng Dung quay đầu lại nhìn, bi thương phát hiện ra trừ vài người Tư Không Khổng Trụ, thị lang Chân Dật ra thì văn võ toàn triều đại đa số dưới dâm uy của thừa tướng Mã Dược đã lựa chọn khuất phục.

Thiên tử chỉ sợ Khổng Dung, Khổng Trụ không tức thời mà lấy cái chết ra can gián, vội vàng xua tay nói: “Đã như vậy, trẫm chuẩn tấu.”

“Bệ hạ thánh minh!”

Mã Dược quay đầu lại chắp tay với thiên tử, quay người ngồi xuống.

Thiên tử lại nói với Trần Quần: “Trần ái khanh, nhân sĩ có học vấn của Quan Trung không dưới mấy ngàn người, mà quan viên thiếu hụt lại chỉ có mấy trăm người, không biết những quan viên này nên tuyển chọn thế nào đây?”

“Khảo thí.” Trần Quần đáp ngay không cần nghĩ ngợi: “Khai khoa thủ sĩ!”

“Khai khoa thủ sĩ?” Thiên tử không hiểu, nói: “Khai khoa như thế nào?”

Trần Quần nói: “Tuyển chọn văn quan thì mở khoa văn, thi các mục như nho học, luật học, truy nguyên, toán học. Tuyển quan võ thì mở khoa võ, thi các mục như quyền thuật, tài bắn cung, tài cưỡi ngựa, binh pháp. Khoa văn, khoa võ chia làm ba bảng, thiên, địa nhân. Mỗi bảng chọn lấy trăm người. Thiên bảng thì cho đỗ tiến sĩ, địa bảng thì cho xuất thân tiến sĩ, nhân bản thì ban cho đồng xuất thân tiến sĩ…”

Trần Quần đêm qua sau khi mật nghị với Giả Hủ, Lý Túc đã bàn định về việc khai khoa thủ sĩ.

Thiên tử cùng với văn võ toàn triều tuy nghe thấy rất mới mẻ nhưng cũng hiểu ngay, chỉ bản thân khai khoa thủ sĩ mà luận, quả thật cũng tính là phương thức tuyển chọn quan viên công bằng nhất. Có điều việc duy nhất khiến bá quan không thể tiếp nhận được chính là phương pháp khai khoa thủ sĩ tuyển chọn quân viên này một khi được thực thi, sĩ tộc sẽ vĩnh viễn mất đi thân phận quý tộc cao cao tại thượng, từ đó không thể không bình khởi bình tọa với thứ dân.

Duy sĩ tộc vi tôn, trở thành duy người độc thư nhân vi tôn.

Trên thực tế, cửu phẩm trung chính chế mà Trần Quần hiến cho Mã Dược để nịnh hót sĩ tộc một cách cực đoan, mà chế độ thi cử do Mã Dược nghĩ ra thì là đàn áp sĩ tộc. Hai phương pháp này tuy trống đánh xuôi kèn thổi ngược, thái độ đối với sĩ tộc càng cách biệt một trời một vực, nhưng mục đích lại rất nhất trí, đó chính là đưa Mã Dược lên đế vị.

Cử phẩm trung chính chế là nịnh hót sĩ tộc, lấy việc duy trì sự lợi ích của sĩ tộc để đổi lấy sự ủng hộ của sĩ tộc.

Chế độ thi cử thì thông qua việc nâng đỡ người đọc sách xuất thân hàn vi thượng vị, để đổi lấy sự ủng hộ của người đọc sách trong thiên hạ.

Trước mặt Mã Dược, sĩ tộc cơ hồ chính là người đọc sách trong thiên hạ, người đọc sách trong thiên hạ chính là sĩ tộc. Hai người này là hợp hai thành một, nhưng sau khi Mã Dược chiếm lĩnh Quan Trung. Tình hình lại phát sinh biến hóa có tính căn bản. Cái gọi này gọi là phi thương thì bất phú, Mã Dược tận sức nâng đỡ sự phát triển của công thương nghiệp, khiến cho điều kiện cuộc sống của bách tính Quan Trung có cải thiện cực lớn.

Sau khi có cuộc sống sung túc, đệ tử hàn môn cũng sẽ có cơ sở vật chất để cầu học, lại thêm tám trăm đệ tử của Quản Trữ mở trường tư thục như nấm mọc sau mưa, cuối cùng dẫn tới việc Quan Trung xuất hiện mấy vạn học tử hàn môn. Đặc biệt là Pháp Chính tại hai châu Ung, Lương trước tiên thử tiến hành khai hoa thủ sĩ, sau khi từ trong số những người đọc sách tuyển chọn quan viên địa phương, sự nhiệt tình đọc sách của đệ tử hàn môn càng tăng vọt chưa từng có.

Tới hiện tại, sĩ tộc bởi vì chiến loạn mà điêu linh. Người đọc sách hàn môn thì bởi vì Quan Trung lập lại an ninh và trật tự mà xuất hiện lớp lớp, so sánh hai bên thì học tử hàn môn đã chiếm được ưu thế về số lượng có tính áp đáp. Điều kiện thi hành khoa cử thủ sĩ đã hoàn toàn chín muồi, đây cũng chính là nguyên nhân lớn nhất khiến Mã Dược dám mặc kệ sự phản đối của thiên hạ sĩ tộc mà vẫn dứt khoát thi hành chế độc khoa cử.

Chỉ cần Mã Dược dùng quân đội để duy trì chính quyền, sống qua mấy năm ban đầu, đợi hàn môn đệ tử xuất thân từ khoa cử ở trên quan trường ở các châu, quận, huyện đứng vững. Thế lực của sĩ tộc tàn dư dưới trướng Mã Dược cũng không thể gây nên được sóng gió gì nữa. Cái này gọi là kinh tế là cơ sở quyết định chế độ chính trị, hiện tại trình độ phát triển kinh tế của Quan Trung đã khiến tuyệt đại đa số hàn môn đệ tử đều có thể được đọc sách, như vậy sự thi hành chế độ khoa cử cũng bắt đầu được tiến hành.

Do có sự ủng hộ tuyệt đối của Mã Dược, tuyệt đại đa số quan viên do sợ dâm uy của mà lựa chọn chuyển sang ủng hộ.

Đám thiếu tướng quan viên Tư Đồ Khổng Dung, Tư Đồ Khổng Trụ, và thị lang Chân Dật tuy kịch liệt phản đối, nhưng độc lực nan chi. Cuối cùng thiên tử hạ chiếu phát công văn tới các quận, huyện toàn quốc. Phàm là người muốn cầu công danh, bất luận là xuất thân sĩ tộc hay là xuất thân thứ tộc, bất kể là văn sinh hay là võ sinh, đều có thể vào kinh dự thi. Ngày thi Hương được ấn định vào hạ tuần tháng mười.

Quan chủ kháo cao nhất tất nhiên là do Mã Dược tự mình đảm đương.

Vị trí quan chủ khảo này được coi là hết sức quan trọng. Mã Dược tuy không có văn hóa, nhưng lúc nhỏ cũng xem không ít kịch, biết sau khi vào kinh trúng trạng nguyên thì phải bái sân sư, ân sư trong kịch bình thường đều là tể tướng. Một khi như vậy tân khoa trạng nguyên cũng chính là thành môn sinh của tể tướng, độ trung thành của những môn sinh này đối với tể tướng đều rất cao.

Thiết nghĩ, nếu thiên hạ quan viên đều xuất phát từ môn hạ của thừa tướng Mã Dược, tương lai Mã Dược xưng đế liệu còn có trở ngại gì nữa không?

Trừ thử thực hành chế độ khoa cử, thiên tử còn hạ chiến tấn phong cho Mã Dược làm Lương vương, tăng ấp mười vạn hộ, bá quan trong triều lại một lần nữa trở giáo. Bọn Khổng Dung, Khổng Trụ tuy kiên quyết phản đối, nhưng lại không có sức xoay chuyển trời đất.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 353: Mã Siêu bệnh chết (2)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Mười lăm tháng tám năm Kiến An Hán Hiến đế thứ mười ba (200), thiên tử chính thức sắc phong Mã Dược làm Lương vương, tứ cửu tích.

Tháng chín, Tào Chân dâng biểu tấu lên thiên tử xin cho Tôn Quyền làm Ngô vương.

Tháng mười, Tôn Quyền thượng tấu thiên tử xin cho Tào Chân làm Sở vương.

Tháng mười một, Tôn Quyền đem ấu muội Tôn Nhân gần mười tuổi gả cho Tào Chân. Ngô, Sở hai nhà chính thức kết minh.



Năm Kiến An Hán Hiến đế thứ mười bốn (201).

Tháng giêng, Ích châu thứ sử Trương Tùng trù tính xúi giục Ngũ Khê Man cử binh làm phản.

Tháng hai, Tào Chân để Trương Liêu lưu thủ Tương Dương, dùng Gia Cát Lượng làm quân sư tự mình dẫn ba vạn đại quân chinh thảo Ngũ Kê Man.

Tháng năm, Sở quân đại phá Ngũ Kê Man, có thêm một vạn tinh tráng.



Tháng sáu, Tào Chân áp dụng kế sạch của Gia Cát Lượng, xúi giục Nam Trung man nhân làm phản, Ích châu nam bộ Vĩnh Xương, Kiến Ninh, Việt Tây, Tang Ca là ngũ quân phiên nhân đều phản. Phiên vương Mạnh Kha (cha của Mạnh Hoạch - bịa đặt) thống soái mười vạn phiên binh liên tục tấn công mười mấy thành, binh phong bức thẳng tới Chúc quốc của quận Thục, Tây Thùy Chư Khương cũng có nhiều phản loạn, cử binh liên kết với nam man, binh thế rất lớn.

Tháng bảy, Thục tướng Trương Nhiệm thân chinh nam trung, vì thời thiết nóng bức, thủy thổ không quen. Tướng sĩ có rất nhiều người bị bệnh, gặp thất lợi lớn.

Tháng chín, Ích châu thứ sử Trương Tùng bố trí dụ giết phiên vương Mạnh Kha ở dưới Thành đô, phản quân đại bại.

Tháng mười, phiên vương Mạnh Hoạch xâm lược trở lại, tặc thế lại trỗi dậy.

Tháng mười một, Ngũ Khê Man khởi binh hưởng ứng, uy hiếp Tây Xuyên.

Tháng mười hai, Sở tướng Trương Liêu suất quân hai vạn tiến đóng Di Lăng, uy hiếp Ngưu Phúc Phổ, Trương Tùng vội vàng sai khoái mã tám trăm dặm cấp báo về Lạc Dương.



Lạc Dương, phủ Lương vương.

Buổi đêm, vào lúc cả nhà già trẻ đoàn viên, trong phủ Lương vương đăng đèn kết hoa, các hạ nhân phó phụ qua lại như thoi đưa, đang bận rộn vô cùng. Trong đại sảnh sáng rực huy hoàng, Mã Dược thân mặc cổn long vương bào ngồi trên án.

Ngoài cửa lớn đầu người lúc nhúc, mấy chục phi tử cùng với hơn trăm nhi nữ xếp hàng chỉnh tề ở trước mặt Mã Dược.

Nữ nhân của Mã Dược nhiều không đếm suể, có điều tuyệt đại đa số đều là không có thân phận, không có địa vị, hoặc là cơ thiếp không có con cái. Tất nhiên cũng không có tư cách xuất hiện ở trong loại trường hợp chính thức như thế này.

Trong tiếng nhạc du dương êm tai, chính phi Lưu Nghiên bước vào trong đại sảnh. Lưu Nghiên tay trái dắt trưởng nữ Mã Nguyệt, tay phải dắt thứ tử Mã An, đi sau một bước phía bên trái là trưởng tử Mã Chinh. Mã Chinh lúc này đã mười tám tuổi, sớm đã thành một thiếu niên ngang tàng, so với Mã Dược, Mã Chinh thiếu mấy phần khí tức phiêu hãn mà lại có thêm mấy phần phong lưu nho nhã.

Có điều trong đôi mắt vẫn hoàn toàn kế thừa gien của Mã Dược, vừa đen lại vừa sáng, lấp lánh áp đảo người khác.

Tiểu nha đầu Mã Nguyệt cũng đã mười hai tuổi, trổ mã trông càng lúc càng xinh đẹp dễ thương, có lẽ vì duyên cơ là nữ nhi đầu tiên, lại thêm Mã Dược dẫu sao cũng là người hiện đại, cho nên đặc biệt cưng chiều Mã Nguyệt hơn.

“Đi đi.” Lưu Nghiên vỗ vỗ cái đầu nhỏ của Mã Nguyệt và Mã An, nói: “Mau tới thỉnh an phụ vương đi.”

Mã Chinh dẫn đệ đệ, muội muội bước lên trước một bước, cung kính quỳ xuống trước mặt Mã Dược, cao giọng xướng: “Hài nhi thỉnh an phụ thân, cung chúc phụ thân thân thể khang thái, phúc thọ vĩnh hưởng.”

“Ha ha ha…” Mã Dược liên tục gật đầu, nói: “Đứng dậy đi, đứng dậy đi.”

“Tạ ơn phụ vương.”

Mã Chinh lập tức khấu đầu vái lạy, sau đó đứng dậy rồi cung kính đứng sang một bên.

Mã Nguyệt, Mã An thì sớm dã cười hi hi chui vào trong lòng Mã Dược. Mã Nguyệt thò tay ra ôm lấy cổ Mã Dược, Mã An tuổi nhỏ chân ngắn nên thò tay ra chỉ miễn cưỡng ôm được đùi Mã Dược, miệng không ngừng bi bô đòi “Phụ vương, bế bế!”. Mã Dược cười miệng ngoác đến tận mang tai, có lẽ vì tuổi nhỏ, cho nên yêu cầu của Mã Dược đối với thứ tử Mã An không nghiêm khắc như với Mã Chinh.

“Này, Nguyệt nhi, cái này cho con.”

Mã Dược mở cẩm hạp ở trên bàn bên cạnh, từ bên trong lấy ra một cái vòng tay đưa cho Mã Nguyệt.

“Oa, vòng tay đẹp quá đi.”

Mã Nguyệt vui vẻ nhận lấy, ôm cổ Mã Dược hôn một cái, sau đó vội vã đeo lên cổ tay. Mã An đang ôm đùi Mã Dược không cao hứng, chu miệng lên kháng nghị: “Phụ vương, hài nhi cũng muốn, hài nhi cũng muốn…”

“Được được được.” Mã Dược cười cười cúi xuống, bế Mã An lên rồi đặt lên đùi, mở một cái cẩm hạp khác, từ bên trong lấy ra một cái cung nhỏ rất tinh trí đặt vào tay Mã An, cười nói: “Xem phụ vương chuẩn bị cái gì cho con này?”

“Oa, cung!” Mã An vui vẻ thốt lên, ôm lấy cung nhỏ nhìn trái rồi nhìn phải, bộ dạng thích thú không nỡ rời tay, đột nhiên quay đầu lại cười với Mã Chinh, trên khuôn mặt nhỏ tràn ngập biểu tình sùng bái và ngưỡng mộ: “Tương lai lớn rồi, An nhi cũng muốn giống như đại ca một tiễn bắn xuyên chim nhạn ở trên trời.”

“Ha ha.” Mã Dược không nhịn được xoa xoa cái đầu nhỏ của Mã An, cười nói: “An nhi tương lai lớn rồi khẳng định là một vị đại tướng quân, nói không chừng tương lai còn có thể suất lĩnh đại quân giết thẳng tới phương tây nữa.”

Mã An hưng phấn giơ cái cung nhỏ lên, bập bẹ hét lớn: “A, An nhi tương lai sẽ thành đại tướng quân…”

“Được rồi, đừng làm loạn nữa.” Lưu Nghiên bước lên trước ôm lấy Mã An, rồi lại nói với Mã Nguyệt: “Nguyệt nhi, mau dẫn đệ đệ đi chơi đi, bên ngoài còn có rất nhiều đệ đệ, muội muội đợi chúc tết phụ vương của con đó.”

Mã Nguyệt chu môi lên, dẫn Mã An không tình nguyện chuyển vào phía sau bình phong.

Mã Dược lúc này mới trầm mặt xuống, vẻ mặt nhiêm túc hỏi Mã Chinh: “Ở trong thành hơn một năm, võ nghệ có để hoang phế không?”

Mã Chinh cung kính trả lời: “Hài nhi nhớ kỹ lời giáo huấn của phụ vương, mỗi ngày đều cần luyện võ nghệ, không dám lười biếng.”

“Ồ.” Mã Dược vuốt chòm râu rậm ở dưới cằm, lại hỏi: “Nói đi, hơn một năm nay ở trong thành học tập trì lý nội chính với Thẩm Phối đại nhân, ngươi có những tâm đắc gì?”

Mã Chinh nghỉ một chút rồi đáp: “Hài nhi cho rằng triều đình là thuyền, bách tính là nước, nước có thể nâng thuyền mà cũng có thể làm lật thuyền. Cho nên triều đình nhất định phải đồng tình với bách tính, tuyệt không thể sưu cao thuế nặng, càng không được phân chia lao dịch một cách vô tội vạ. Bách tính giàu có thì quốc gia mới giàu có, quốc gia giàu có thì hậu cần sung túc, hậu cần sung túc thì quân đội cường thịnh, quân đội cường thịnh thì quốc gia cường thịnh. Vì thế, bánh tính chính là căn bản cho sự cường thịnh của quốc gia.”

“Ừ, tốt.” Trên mặt Mã Dược lộ ra một tia vui mừng hiếm có, khen: “Tuổi còn nhỏ mà đã có được kiến giải như vậy, đủ thấy ở Hà Bắc hơn một năm, ngươi đã dụng tâm quan sát, dụng tâm học tập. Coi như là không cô phụ một phen tâm huyết của phụ vương.”

Mã Chinh vội vàng nói: “Đây là phụ vương giáo huấn có cách.”

“Được rồi, trong lòng ngươi cũng đừng có đắc ý quá.” Mã Dược xua xua tay, nói: “Phải biết đạo học không có bờ bến. Một chút kiến thức hiện tại của ngươi căn bản không tính là gì cả. Những thứ mà ngươi phải học còn nhiều lắm, còn phải thỉnh giáo thêm mấy vị lão sư, đặc biệt là Giả Hủ tiên sinh. Hết năm không cần phải đi thành nữa, cứ ở lại Lạc Dương đi, mẫu hậu của ngươi gần đây thân thể không được tốt, có thời gi­an thì ở nhớ ở bên mẹ nhiều hơn.”

Mã Chinh cung kính nói: “Hài nhi tuân lệnh.”

Mã Dược nói: “Được rồi, lui xuống đi.”

Mã Chinh chắp tay vái một cái rồi cúi người lui ra ngoài đại sảnh.

Chính phi Lưu Minh dẫn Mã Cơ vào thỉnh an Mã Dược, vốn là với thân phận trưởng công chúa của Lưu Minh hoàn toàn nên độc hưởng tôn vinh chính phi, nhưng đáng tiếc là bụng của nàng ta không giỏi tranh đấu, Mã đồ tể cày cuốc trên bụng nàng ta không ít, nhưng sau cùng chỉ ra được một tiểu nha đầu, chính là Mã Cơ hiện tại đang đứng cạnh Lưu Minh. Mã Cơ hoàn toàn kế thừa mỹ mạo của mẫu thân nàng ta, tương lai lớn rồi rõ ràng là một mỹ nhân ngàn dặm mới tìm được một.

“Nào, Cơ nhi lại đây cho phụ vương bế nào.”

Mã Dược đưa tay ra bế Mã Cơ đặt lên đầu gối, Mã Cơ liền ôm lấy cổ Mã Dược rồi ngọt ngào gọi một tiếng phụ vương, khiến cho Mã Dược ngây ngất trong lòng. Phải nói là Mã Dược rõ ràng thích nữ nhi hơn một chút, mỗi ngày ở trong vương phủ nhìn đám nhi tử nghịch đến mức gà bay chó nhảy, Mã Dược đầu như to ra, nhưng chỉ cần nhìn thấy những nữ nhi xinh đẹp đoan trang như Mã Nguyệt, Mã Cơ, nộ khí ở trong lòng Mã Dược trong khoảnh khắc đều tan thành mây khói.

Mã Dược tặng cho Mã Cơ một chuỗi hoa ngọc trai, tiểu nha đầu theo Lưu Minh hoan thiên hỉ địa lui xuống.

Những người tiếp theo vào thỉnh an Mã Dược là trắc phi Trâu Ngọc nương và Nãi Chân Nhĩ Đóa, theo sau hai nàng là anh em Mã Chiến, Mã Dương, Mã Khởi. Nãi Chân Nhĩ Đóa tuy là phiên phi, nhưng mẫu bằng tử quý (mẹ dựa vào con mà được thơm lây), Mã Chiến nói sao cũng là Lương vương thứ tử, tuy nói vương tử chỉ có một, nhưng Mã Chiến nói sao cũng là thế tử. Thân phận của Nãi Chân Nhĩ Đóa tất nhiên cũng theo đó mà tôn quý hơn.

Anh em Mã Chiến xếp thành hình chữ nhất, ôm quyền cung kính nói: “Hài nhi cung chúc phụ vương thân thể khang thái, phục thọ vĩnh hưởng.”

“Tốt, tốt, rất tốt.” Mã Dược liên tục phất tay, thái độ đối với anh em Mã Chiến rõ ràng là hiền hòa hơn so với Mã Chinh nhiều, cười nói: “Tốt rồi, mỗi đứa đều lớn cả rồi. Đặc biệt là Chiên nhi ngươi. Ừ, trông cũng giống một con nghé rồi đấy, nghe nói võ nghệ của ngươi cũng tiến cảnh thần tốc, có thể đánh bình thủ với tướng quân Điển Vi rồi. Ha ha, qua hai năm nữa sẽ theo lão tử ra chiến trường.”

Mã Chiến nghe vậy liền mừng rơn, vội vàng quỳ một gối xuống cao giọng nói: “Hài nhi cẩn tuân lệnh của phụ vương.”

“Ồ…” Mã Dược ngây người, lập tức cười nói: “Đứa nhỏ này, không ngờ lại chơi trò tâm nhãn với phụ vương. Ha ha, tốt, ngươi đã có lòng như vậy, lần tới khi xuất chinh, phụ vương nhất định sẽ dẫn ngươi theo, thế nào?”

“Tạ ơn phụ vương.” Mã Chiến lập tức bái tạ: “Hài nhi sớm đã mong chờ ngày này rồi.”

“Được rồi.” Mã Dược xua xua tay, nói với anh em Mã Chiến: “Các ngươi đều là nam hài tử, hơn nữa đều đã đến vũ chước chi niên (13-15 tuổi), phụ vương không tặng quà cho các ngươi nữa. Phụ vương chỉ cần các ngươi nhớ kỹ một điều, giữa huynh đệ nhất định phải tương thân tương ái, nhất định phải đoàn kết. Huynh đệ giống như là năm ngón tay trên một bàn tay, chỉ có nắm chặt lại thì mới đánh ra được lực lượng.”

Mã Chiến cung kính nói: “Hài nhi xin ghi nhớ lời giáo huấn của phụ vương.”

“Được rồi.” Mã Dược phất tay nói: “Các ngươi lui đi.”

Các nhi tử còn lại đang muốn tiến vào đại sảnh thỉnh an Mã Dược thì Điển Vi đột nhiên rảo bước vào trong đại sảnh, ghé vào tay Mã Dược nói khẽ mấy câu. Mã Dược nghe xong lập tức biến sắc, nói: “Thật ư?”

Điển Vi buồn bã gật đầu, thưa: “Thật vậy.”

“Mau!” Mã Dược không nghĩ ngợi gì, lập tức hạ lệnh: “Chuẩn bị ngựa, tới phủ Chinh Tây tướng quân.”

Nói xong, Mã Dược không để ý đến bọn Điêu Thuyền, Nguyệt Nô Nhi, A Tư Cổ Lệ, Đại Kiều, Tiểu Kiều đang đợi ở ngoài cửa, Điển Vi đã dắt tọa kỵ của Mã Dược đến. Mã Dược vội vàng nhảy lên lưng ngựa, dưới sự thốc ủng của Điển Vi và mấy chục gia tướng lập tức tới phủ Chinh Tây tướng quân.

Phủ Chinh Tây tướng quân lúc này đã bị bao phủ trong sầu vân thảm vụ.

Khi Mã Dược tới ngoài phủ Chinh Tây tướng quân thì huynh đệ Mã Đại, Mã Hưu sớm đã đợi ở ngoài cửa. Thấy Mã Dược, Mã Đại, Mã Hưu vội vàng quỳ xuống, đi bằng đầu gối tới ôm lấy đùi Mã Dược, gào khóc: “Huynh trưởng! Đại ca huynh ấy… sắp không xong rồi, hu hu hu…”

“Sao vậy?” Mã Dược nghiêm giọng gầm lên: “Hôm qua còn khỏe mạnh cơ mà?”

Mã Đại khóc nói: “Lúc chạng vạng đại ca đòi cưỡi ngựa, tiểu đệ cản không được nên đành chiều theo ý huynh ấy. Không ngờ huynh ấy từ trên lưng ngựa ngã xuống rồi phạm phải vết thương cũ. Khi ngự y tới nơi thì đã không cứu vãn được nữa rồi.”

“Hai thằng ngu này, cút ra!” Mã Dược đá bay Mã Đại, Mã Hưu rồi vội vàng xông vào đại môn

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 353: Mã Siêu bệnh chết (2)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Mười lăm tháng tám năm Kiến An Hán Hiến đế thứ mười ba (200), thiên tử chính thức sắc phong Mã Dược làm Lương vương, tứ cửu tích.

Tháng chín, Tào Chân dâng biểu tấu lên thiên tử xin cho Tôn Quyền làm Ngô vương.

Tháng mười, Tôn Quyền thượng tấu thiên tử xin cho Tào Chân làm Sở vương.

Tháng mười một, Tôn Quyền đem ấu muội Tôn Nhân gần mười tuổi gả cho Tào Chân. Ngô, Sở hai nhà chính thức kết minh.



Năm Kiến An Hán Hiến đế thứ mười bốn (201).

Tháng giêng, Ích châu thứ sử Trương Tùng trù tính xúi giục Ngũ Khê Man cử binh làm phản.

Tháng hai, Tào Chân để Trương Liêu lưu thủ Tương Dương, dùng Gia Cát Lượng làm quân sư tự mình dẫn ba vạn đại quân chinh thảo Ngũ Kê Man.

Tháng năm, Sở quân đại phá Ngũ Kê Man, có thêm một vạn tinh tráng.



Tháng sáu, Tào Chân áp dụng kế sạch của Gia Cát Lượng, xúi giục Nam Trung man nhân làm phản, Ích châu nam bộ Vĩnh Xương, Kiến Ninh, Việt Tây, Tang Ca là ngũ quân phiên nhân đều phản. Phiên vương Mạnh Kha (cha của Mạnh Hoạch - bịa đặt) thống soái mười vạn phiên binh liên tục tấn công mười mấy thành, binh phong bức thẳng tới Chúc quốc của quận Thục, Tây Thùy Chư Khương cũng có nhiều phản loạn, cử binh liên kết với nam man, binh thế rất lớn.

Tháng bảy, Thục tướng Trương Nhiệm thân chinh nam trung, vì thời thiết nóng bức, thủy thổ không quen. Tướng sĩ có rất nhiều người bị bệnh, gặp thất lợi lớn.

Tháng chín, Ích châu thứ sử Trương Tùng bố trí dụ giết phiên vương Mạnh Kha ở dưới Thành đô, phản quân đại bại.

Tháng mười, phiên vương Mạnh Hoạch xâm lược trở lại, tặc thế lại trỗi dậy.

Tháng mười một, Ngũ Khê Man khởi binh hưởng ứng, uy hiếp Tây Xuyên.

Tháng mười hai, Sở tướng Trương Liêu suất quân hai vạn tiến đóng Di Lăng, uy hiếp Ngưu Phúc Phổ, Trương Tùng vội vàng sai khoái mã tám trăm dặm cấp báo về Lạc Dương.



Lạc Dương, phủ Lương vương.

Buổi đêm, vào lúc cả nhà già trẻ đoàn viên, trong phủ Lương vương đăng đèn kết hoa, các hạ nhân phó phụ qua lại như thoi đưa, đang bận rộn vô cùng. Trong đại sảnh sáng rực huy hoàng, Mã Dược thân mặc cổn long vương bào ngồi trên án.

Ngoài cửa lớn đầu người lúc nhúc, mấy chục phi tử cùng với hơn trăm nhi nữ xếp hàng chỉnh tề ở trước mặt Mã Dược.

Nữ nhân của Mã Dược nhiều không đếm suể, có điều tuyệt đại đa số đều là không có thân phận, không có địa vị, hoặc là cơ thiếp không có con cái. Tất nhiên cũng không có tư cách xuất hiện ở trong loại trường hợp chính thức như thế này.

Trong tiếng nhạc du dương êm tai, chính phi Lưu Nghiên bước vào trong đại sảnh. Lưu Nghiên tay trái dắt trưởng nữ Mã Nguyệt, tay phải dắt thứ tử Mã An, đi sau một bước phía bên trái là trưởng tử Mã Chinh. Mã Chinh lúc này đã mười tám tuổi, sớm đã thành một thiếu niên ngang tàng, so với Mã Dược, Mã Chinh thiếu mấy phần khí tức phiêu hãn mà lại có thêm mấy phần phong lưu nho nhã.

Có điều trong đôi mắt vẫn hoàn toàn kế thừa gien của Mã Dược, vừa đen lại vừa sáng, lấp lánh áp đảo người khác.

Tiểu nha đầu Mã Nguyệt cũng đã mười hai tuổi, trổ mã trông càng lúc càng xinh đẹp dễ thương, có lẽ vì duyên cơ là nữ nhi đầu tiên, lại thêm Mã Dược dẫu sao cũng là người hiện đại, cho nên đặc biệt cưng chiều Mã Nguyệt hơn.

“Đi đi.” Lưu Nghiên vỗ vỗ cái đầu nhỏ của Mã Nguyệt và Mã An, nói: “Mau tới thỉnh an phụ vương đi.”

Mã Chinh dẫn đệ đệ, muội muội bước lên trước một bước, cung kính quỳ xuống trước mặt Mã Dược, cao giọng xướng: “Hài nhi thỉnh an phụ thân, cung chúc phụ thân thân thể khang thái, phúc thọ vĩnh hưởng.”

“Ha ha ha…” Mã Dược liên tục gật đầu, nói: “Đứng dậy đi, đứng dậy đi.”

“Tạ ơn phụ vương.”

Mã Chinh lập tức khấu đầu vái lạy, sau đó đứng dậy rồi cung kính đứng sang một bên.

Mã Nguyệt, Mã An thì sớm dã cười hi hi chui vào trong lòng Mã Dược. Mã Nguyệt thò tay ra ôm lấy cổ Mã Dược, Mã An tuổi nhỏ chân ngắn nên thò tay ra chỉ miễn cưỡng ôm được đùi Mã Dược, miệng không ngừng bi bô đòi “Phụ vương, bế bế!”. Mã Dược cười miệng ngoác đến tận mang tai, có lẽ vì tuổi nhỏ, cho nên yêu cầu của Mã Dược đối với thứ tử Mã An không nghiêm khắc như với Mã Chinh.

“Này, Nguyệt nhi, cái này cho con.”

Mã Dược mở cẩm hạp ở trên bàn bên cạnh, từ bên trong lấy ra một cái vòng tay đưa cho Mã Nguyệt.

“Oa, vòng tay đẹp quá đi.”

Mã Nguyệt vui vẻ nhận lấy, ôm cổ Mã Dược hôn một cái, sau đó vội vã đeo lên cổ tay. Mã An đang ôm đùi Mã Dược không cao hứng, chu miệng lên kháng nghị: “Phụ vương, hài nhi cũng muốn, hài nhi cũng muốn…”

“Được được được.” Mã Dược cười cười cúi xuống, bế Mã An lên rồi đặt lên đùi, mở một cái cẩm hạp khác, từ bên trong lấy ra một cái cung nhỏ rất tinh trí đặt vào tay Mã An, cười nói: “Xem phụ vương chuẩn bị cái gì cho con này?”

“Oa, cung!” Mã An vui vẻ thốt lên, ôm lấy cung nhỏ nhìn trái rồi nhìn phải, bộ dạng thích thú không nỡ rời tay, đột nhiên quay đầu lại cười với Mã Chinh, trên khuôn mặt nhỏ tràn ngập biểu tình sùng bái và ngưỡng mộ: “Tương lai lớn rồi, An nhi cũng muốn giống như đại ca một tiễn bắn xuyên chim nhạn ở trên trời.”

“Ha ha.” Mã Dược không nhịn được xoa xoa cái đầu nhỏ của Mã An, cười nói: “An nhi tương lai lớn rồi khẳng định là một vị đại tướng quân, nói không chừng tương lai còn có thể suất lĩnh đại quân giết thẳng tới phương tây nữa.”

Mã An hưng phấn giơ cái cung nhỏ lên, bập bẹ hét lớn: “A, An nhi tương lai sẽ thành đại tướng quân…”

“Được rồi, đừng làm loạn nữa.” Lưu Nghiên bước lên trước ôm lấy Mã An, rồi lại nói với Mã Nguyệt: “Nguyệt nhi, mau dẫn đệ đệ đi chơi đi, bên ngoài còn có rất nhiều đệ đệ, muội muội đợi chúc tết phụ vương của con đó.”

Mã Nguyệt chu môi lên, dẫn Mã An không tình nguyện chuyển vào phía sau bình phong.

Mã Dược lúc này mới trầm mặt xuống, vẻ mặt nhiêm túc hỏi Mã Chinh: “Ở trong thành hơn một năm, võ nghệ có để hoang phế không?”

Mã Chinh cung kính trả lời: “Hài nhi nhớ kỹ lời giáo huấn của phụ vương, mỗi ngày đều cần luyện võ nghệ, không dám lười biếng.”

“Ồ.” Mã Dược vuốt chòm râu rậm ở dưới cằm, lại hỏi: “Nói đi, hơn một năm nay ở trong thành học tập trì lý nội chính với Thẩm Phối đại nhân, ngươi có những tâm đắc gì?”

Mã Chinh nghỉ một chút rồi đáp: “Hài nhi cho rằng triều đình là thuyền, bách tính là nước, nước có thể nâng thuyền mà cũng có thể làm lật thuyền. Cho nên triều đình nhất định phải đồng tình với bách tính, tuyệt không thể sưu cao thuế nặng, càng không được phân chia lao dịch một cách vô tội vạ. Bách tính giàu có thì quốc gia mới giàu có, quốc gia giàu có thì hậu cần sung túc, hậu cần sung túc thì quân đội cường thịnh, quân đội cường thịnh thì quốc gia cường thịnh. Vì thế, bánh tính chính là căn bản cho sự cường thịnh của quốc gia.”

“Ừ, tốt.” Trên mặt Mã Dược lộ ra một tia vui mừng hiếm có, khen: “Tuổi còn nhỏ mà đã có được kiến giải như vậy, đủ thấy ở Hà Bắc hơn một năm, ngươi đã dụng tâm quan sát, dụng tâm học tập. Coi như là không cô phụ một phen tâm huyết của phụ vương.”

Mã Chinh vội vàng nói: “Đây là phụ vương giáo huấn có cách.”

“Được rồi, trong lòng ngươi cũng đừng có đắc ý quá.” Mã Dược xua xua tay, nói: “Phải biết đạo học không có bờ bến. Một chút kiến thức hiện tại của ngươi căn bản không tính là gì cả. Những thứ mà ngươi phải học còn nhiều lắm, còn phải thỉnh giáo thêm mấy vị lão sư, đặc biệt là Giả Hủ tiên sinh. Hết năm không cần phải đi thành nữa, cứ ở lại Lạc Dương đi, mẫu hậu của ngươi gần đây thân thể không được tốt, có thời gi­an thì ở nhớ ở bên mẹ nhiều hơn.”

Mã Chinh cung kính nói: “Hài nhi tuân lệnh.”

Mã Dược nói: “Được rồi, lui xuống đi.”

Mã Chinh chắp tay vái một cái rồi cúi người lui ra ngoài đại sảnh.

Chính phi Lưu Minh dẫn Mã Cơ vào thỉnh an Mã Dược, vốn là với thân phận trưởng công chúa của Lưu Minh hoàn toàn nên độc hưởng tôn vinh chính phi, nhưng đáng tiếc là bụng của nàng ta không giỏi tranh đấu, Mã đồ tể cày cuốc trên bụng nàng ta không ít, nhưng sau cùng chỉ ra được một tiểu nha đầu, chính là Mã Cơ hiện tại đang đứng cạnh Lưu Minh. Mã Cơ hoàn toàn kế thừa mỹ mạo của mẫu thân nàng ta, tương lai lớn rồi rõ ràng là một mỹ nhân ngàn dặm mới tìm được một.

“Nào, Cơ nhi lại đây cho phụ vương bế nào.”

Mã Dược đưa tay ra bế Mã Cơ đặt lên đầu gối, Mã Cơ liền ôm lấy cổ Mã Dược rồi ngọt ngào gọi một tiếng phụ vương, khiến cho Mã Dược ngây ngất trong lòng. Phải nói là Mã Dược rõ ràng thích nữ nhi hơn một chút, mỗi ngày ở trong vương phủ nhìn đám nhi tử nghịch đến mức gà bay chó nhảy, Mã Dược đầu như to ra, nhưng chỉ cần nhìn thấy những nữ nhi xinh đẹp đoan trang như Mã Nguyệt, Mã Cơ, nộ khí ở trong lòng Mã Dược trong khoảnh khắc đều tan thành mây khói.

Mã Dược tặng cho Mã Cơ một chuỗi hoa ngọc trai, tiểu nha đầu theo Lưu Minh hoan thiên hỉ địa lui xuống.

Những người tiếp theo vào thỉnh an Mã Dược là trắc phi Trâu Ngọc nương và Nãi Chân Nhĩ Đóa, theo sau hai nàng là anh em Mã Chiến, Mã Dương, Mã Khởi. Nãi Chân Nhĩ Đóa tuy là phiên phi, nhưng mẫu bằng tử quý (mẹ dựa vào con mà được thơm lây), Mã Chiến nói sao cũng là Lương vương thứ tử, tuy nói vương tử chỉ có một, nhưng Mã Chiến nói sao cũng là thế tử. Thân phận của Nãi Chân Nhĩ Đóa tất nhiên cũng theo đó mà tôn quý hơn.

Anh em Mã Chiến xếp thành hình chữ nhất, ôm quyền cung kính nói: “Hài nhi cung chúc phụ vương thân thể khang thái, phục thọ vĩnh hưởng.”

“Tốt, tốt, rất tốt.” Mã Dược liên tục phất tay, thái độ đối với anh em Mã Chiến rõ ràng là hiền hòa hơn so với Mã Chinh nhiều, cười nói: “Tốt rồi, mỗi đứa đều lớn cả rồi. Đặc biệt là Chiên nhi ngươi. Ừ, trông cũng giống một con nghé rồi đấy, nghe nói võ nghệ của ngươi cũng tiến cảnh thần tốc, có thể đánh bình thủ với tướng quân Điển Vi rồi. Ha ha, qua hai năm nữa sẽ theo lão tử ra chiến trường.”

Mã Chiến nghe vậy liền mừng rơn, vội vàng quỳ một gối xuống cao giọng nói: “Hài nhi cẩn tuân lệnh của phụ vương.”

“Ồ…” Mã Dược ngây người, lập tức cười nói: “Đứa nhỏ này, không ngờ lại chơi trò tâm nhãn với phụ vương. Ha ha, tốt, ngươi đã có lòng như vậy, lần tới khi xuất chinh, phụ vương nhất định sẽ dẫn ngươi theo, thế nào?”

“Tạ ơn phụ vương.” Mã Chiến lập tức bái tạ: “Hài nhi sớm đã mong chờ ngày này rồi.”

“Được rồi.” Mã Dược xua xua tay, nói với anh em Mã Chiến: “Các ngươi đều là nam hài tử, hơn nữa đều đã đến vũ chước chi niên (13-15 tuổi), phụ vương không tặng quà cho các ngươi nữa. Phụ vương chỉ cần các ngươi nhớ kỹ một điều, giữa huynh đệ nhất định phải tương thân tương ái, nhất định phải đoàn kết. Huynh đệ giống như là năm ngón tay trên một bàn tay, chỉ có nắm chặt lại thì mới đánh ra được lực lượng.”

Mã Chiến cung kính nói: “Hài nhi xin ghi nhớ lời giáo huấn của phụ vương.”

“Được rồi.” Mã Dược phất tay nói: “Các ngươi lui đi.”

Các nhi tử còn lại đang muốn tiến vào đại sảnh thỉnh an Mã Dược thì Điển Vi đột nhiên rảo bước vào trong đại sảnh, ghé vào tay Mã Dược nói khẽ mấy câu. Mã Dược nghe xong lập tức biến sắc, nói: “Thật ư?”

Điển Vi buồn bã gật đầu, thưa: “Thật vậy.”

“Mau!” Mã Dược không nghĩ ngợi gì, lập tức hạ lệnh: “Chuẩn bị ngựa, tới phủ Chinh Tây tướng quân.”

Nói xong, Mã Dược không để ý đến bọn Điêu Thuyền, Nguyệt Nô Nhi, A Tư Cổ Lệ, Đại Kiều, Tiểu Kiều đang đợi ở ngoài cửa, Điển Vi đã dắt tọa kỵ của Mã Dược đến. Mã Dược vội vàng nhảy lên lưng ngựa, dưới sự thốc ủng của Điển Vi và mấy chục gia tướng lập tức tới phủ Chinh Tây tướng quân.

Phủ Chinh Tây tướng quân lúc này đã bị bao phủ trong sầu vân thảm vụ.

Khi Mã Dược tới ngoài phủ Chinh Tây tướng quân thì huynh đệ Mã Đại, Mã Hưu sớm đã đợi ở ngoài cửa. Thấy Mã Dược, Mã Đại, Mã Hưu vội vàng quỳ xuống, đi bằng đầu gối tới ôm lấy đùi Mã Dược, gào khóc: “Huynh trưởng! Đại ca huynh ấy… sắp không xong rồi, hu hu hu…”

“Sao vậy?” Mã Dược nghiêm giọng gầm lên: “Hôm qua còn khỏe mạnh cơ mà?”

Mã Đại khóc nói: “Lúc chạng vạng đại ca đòi cưỡi ngựa, tiểu đệ cản không được nên đành chiều theo ý huynh ấy. Không ngờ huynh ấy từ trên lưng ngựa ngã xuống rồi phạm phải vết thương cũ. Khi ngự y tới nơi thì đã không cứu vãn được nữa rồi.”

“Hai thằng ngu này, cút ra!” Mã Dược đá bay Mã Đại, Mã Hưu rồi vội vàng xông vào đại môn

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 354: Cô muốn báo thù cho Mạnh Khởi

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Khi Mã Dược lo lắng không yên chạy tới nơi thì chỉ thấy mấy chục nha hoàn phó phụ quỳ trước màn che của Mã Siêu, còn chính thê Chân Vinh của Mã Siêu thì quỳ trước giường Mã Siêu ở trong màn. Phía tay trái Chân Vinh là trưởng thử Mã Thiều của Mã Siêu đang quỳ, tay phải là thứ tử Mã Câu. Mã Câu, Mã Thiều còn nhỏ nên hoàn toàn không biết cái chết của Mã Siêu đối với bọn chúng mà nói thì có tư vị gì, chỉ nắm lấy tay áo Chân Vinh, bập bẹ khuyên mẫu thân đừng khóc.

“Mạnh Khởi!”

Mã Dược vội vàng bước lên trước hai bước, quỳ một gối ở trước giường, trong con ngươi vốn luôn lạnh lùng không có nhân tình lúc này lại lộ ra vẻ lo lắng và đau đớn vô tận. Tuy Mã Dược không phải là hậu nhân chân chính của Mã Viên, nhưng nhiều năm nay, hắn sớm đã coi mình là hậu nhân chân chính của Mã Viên, đối với Mã Siêu cũng một mực thân như huynh đệ, hơn nữa hắn còn tốn rất nhiều tâm huyết trên người Mã Siêu.

Không chút khoa trương khi nói rằng Mã Dược hoàn toàn coi Mã Siêu là khai quốc đại tướng quân của vương triều Mã gia để bồi dưỡng, giống như Hán Võ đế Lưu Triệt không tiếc phải mạo hiểm mấy vạn Hán quân thiết kỵ toàn quân bị tiêu diệt mà bồi dưỡng Hoắc Khứ Bệnh. Sự bồi dưỡng của Mã Dược đối với Mã Siêu cũng là không tiếc giá đắt. Song, điều khiến Mã Dược ngàn vạn lần không ngờ tới là mệnh vận của Mã Siêu cũng tương tự như Hoắc Khứ Bệnh!

Là ý trời hay là trùng hợp?

“Huynh trưởng…” Mã Siêu ngọ nguậy muốn ngồi dậy thi lễ, song hai cánh tay bình thường có thể bạt núi lúc này lại không chống nổi được thân hình của hắn, mới ngồi dậy được một nửa thì Mã Siêu lại ngã xuống giường, lúc này mới sầu thảm nói: “Huynh trưởng, tiểu đệ mang trọng bệnh trên người, thứ cho không thể hành lễ.”

“Mạnh Khởi…”

Mã Dược chỉ nắm chặt hai tay Mã Siêu, nghẹn ngào không nói thành lời. Từ sau khi xuyên việt tới thế giới này hắn chưa từng rơi một giọt lệ nào, lúc này không ngờ mắt lại ươn ướt. Khi nước mắt thuận theo khóe mắt rơi xuống thì ngoài màn đột nhiên vang lên tiếng bước chân gấp rút. Mã Dược thuận thế nghiêng đầu nhìn rồi lén lau đi nước mắt.

“Thiếu tướng quân!”

“Thiếu tướng quân!”

Trong tiếng hô hoán đầy lo lắng và đau thương, Giả Hủ, Lý Túc, Hứa Chử, Phương Duyệt đã nối đuôi nhau bước vào, nhao nhao quỳ xuống sau Mã Dược. Tuy nói luận về thân phận thì bọn họ không cần phải quỳ, nhưng tên gia hỏa Mã Dược này trước giờ coi lễ nghi như không khí, đã quỳ một gối xuống trước giường của tộc đệ, bọn Giả Hủ cũng chỉ đành quỳ theo.

“Huynh trưởng, huynh trưởng!” Mã Siêu nắm chặt hai tay của Mã Dược, trong đôi mắt hổ từ từ ứa lệ, trong ngữ khí tràn ngập sự phiều mộn và tiếc nuối vô tận, nhẹ nhàng nói: “Thật sự rất muốn lại được theo huynh chinh chiến sa trường, muốn nhìn thấy ngày huynh trưởng nhất thống gi­ang sơn, quân lâm thiên hạ… Đáng tiếc, tiểu đệ đã không đợi được tới ngày đó rồi…”

“Mạnh Khởi không được nói bậy!” Mã Dược vội vàng ngắt lời Mã Siêu: “Không phải chỉ ngã một cú thôi sao, có gì to tát đâu nào. Vi huynh đã lệnh cho Tư Mã ý gọi tất cả thái y trong triều đến rồi. Mạnh Khởi, đợi các thái y tới là không có chuyện gì đâu, thương thế của ngươi là chuyện nhỏ thôi.”

“Huynh trưởng.” Mã Siêu ngước mắt lên, nhìn vào màn che trên đỉnh đầu, yếu ớt nói: “Huynh không cần phải an ủi đệ, tiểu đệ tuy chỉ sống tới hai mươi bảy tuổi, nhưng thấy cũng không uổng kiếp này. Lã Bố tự xưng thiên hạ vô địch, nhưng hắn tới lúc chết đã làm được những gì? Siêu không dám tự khen, nhưng anh hùng hào kiệt Quan Đông chết dưới tay Siêu phải tới mấy trăm người! Điều mà tiểu đệ cảm thấy tiếc nuối nhất là không thể tận mắt thấy huynh trưởng quân lâm thiên hạ.”

“Mạnh Khởi, hu hu hu…”

Nước mắt của Mã Dược cuối cùng cũng ứa ra, bật khóc rất to.

Thần thái trong mắt Mã Siêu chuyển thành ảm đạm, hô hấp cũng bắt đầu trở nên gấp rút, vùng vẫy gọi: “Vinh… Vinh… nhi…”

“Phu quân.”

Chân Vinh hét lên một tiếng bi thương, quỳ gối tới trước giường bệnh của Mã Siêu. Nhìn Chân Vinh khóc rất thương tâm, Mã Thiều và Mã Câu còn nhỏ tuổi cũng khóc theo. Mã Siêu đưa tay ra nhẹ nhàng đỡ lấy trán Chân Vinh, trong mắt hiện lên vẻ hổ thẹn, thở dài nói: “Vinh nhi, vi phu thấy thẹn với nàng. May mà nàng còn trẻ tuổi, Vận nhi và Câu nhi cũng tự nhiên có huynh trưởng thay vi phu dưỡng dục chúng, nàng tìm một nhà nào tốt mà gả đi, chớ có thủ tiết vì vi phu.”

“Không.” Chân Vinh lắc đầu nói: “Thiếp thân sống là người Mã gia, chết là quỷ Mã gia, đời này tuyệt đối không bối phu tái giá.”

“Ài.” Mã Siêu thở dài một tiếng, nói một câu cuối cùng: “Cái này cũng tùy nàng, chỉ là khổ cho nàng quá…”

Nói xong, hai mắt Mã Siêu nhắm lại rồi không còn thanh tức.

Mã Dược đưa tay ra sờ mũi Mã Siêu, sắc mặt của Mã Siêu trong khoảnh khắc biến thành trắng bệch, thân hình vốn đang thẳng cũng từ từ ngả xuống. Ánh tàn dương chiếu qua kkung cửa sổ, chiếu cho tóc mai của Mã Dược ánh thành một dải thê lương, cả người giống như là già đi cả chục tuổi, người mới hơn tứ tuần mà lại lộ ra vẻ như tuổi xế chiều.

Chân Vinh cùng thê thiếp của Mã Siêu biết Mã Siêu đã chết, liền nhao nhao khóc rống lên, trong phủ Chinh Tây tướng quân lập tức tràn ngập bi thương.

Mã Dược lảo đảo bước ra ngoài cửa, Giả Hủ, Lý Túc vội vàng bước lên đỡ Mã Dược, Giả Hủ gạt lệ, thấp giọng khuyên nhủ: “Người chết không thể sống lại, chúa công cố nén bi thương.”

Trong mắt Mã Dược là một mảng ngốc trệ, chỉ lắc đầu lẩm bẩm: “Mạnh Khởi anh tài ngút trời, sao lại đột nhiên mất đi? Sao lại đột nhiên mất đi như vậy?”

Giả Hủ, Lý Túc buồn bã nhìn nhau, lắc đầu thở dài, hai người đều có thể lý giải được tâm tình của Mã Dược lúc này. Loại tâm tình này giống như nông phu khổ cực cả một mùa hè, mắt thấy sắp có thu hoạch thì trời lại đổ băng sương, thua hoạch trong nông trường mất hết cả. Loại mất mát vô cớ đó, cảm giác khóc không ra nước mắt đó người chưa từng tự mình thể hội thì rất khó hiểu được.



Tháng giêng năm Kiến An Hán Hiến đế thứ mười lăm (202), Chinh Tây tướng quân Mã Siêu bệnh chết, năm ấy vừa tròn hai mươi bảy tuổi.



Bảy ngày sau.

Mã Dược cuối cùng cũng từ trong bi thống khôi phục lại, lúc này hạ lệnh cho bọn văn quan võ tướng Giả Hủ, Lý Túc, Khoái Lương, Khoái Việt, Lỗ Túc, Trần Quần, Tư Mã Ý, Pháp Chính, Từ Hoảng, Phương Duyệt, Hứa Chử, Mã Đại, Mã Hưu, Mạnh Đạt, Tô Tắc, Chung, Hồ Xích Nhi tề tụ ở tướng phủ.

Khi chúng nhân đến đủ, Mã Dược nghiêm giọng quát: “Chư vị, cô quyết ý khởi binh ba mươi vạn nam hạ Kinh châu, thề lấy thủ cấp của Tào Chân, Gia Cát Lượng để tế điện vong linh của Mạnh Khởi.”

Mã Dược vừa dứt lời, Giả Hủ, Lỗ Túc, Khoái Việt, Tư Mã ý, Pháp Chính lộ ra vẻ thản nhiên. Rõ ràng, trước khi tới tướng phủ năm người đã có chuẩn bị tâm lý rồi. Mã Siêu được Mã Dược gởi gắm hi vọng đã chết, Mã Dược há có thể bỏ qua? Nói tới cùng thì Mã Siêu tuy cưỡi ngựa ngã chết, nhưng nếu không phải là trúng mai phục của Gia Cát Lượng từ trên huyền nhai rơi xuống dẫn tới trọng thương, với kỵ thuật của Mã Siêu há có thể ngã ngựa được?

Với tính cách có thù tất mà báo mà còn phải báo ngay lập tức của Mã Dược thì tuyệt đối không có khả năng dễ dàng bỏ qua cho Gia Cát Lượng và Tào Chân. Trước mắt nam chinh Kinh châu tuy không phải là thời cơ tốt nhất, nhưng ít nhiều cũng là cơ hội. Tôn Quyền binh bại Hoài Nam, Tào Tháo chiến tử Tây Xuyên mới qua chưa được hai năm, với căn cơ bạc nhược của Kinh châu, Dương châu, căn bản không thể trong khoảng thời gi­an ngắn như vậy mà khôi phục được nguyên khí.

Do Mã Dược chiếm cứ mười hai châu trong mười lăm châu của Đại Hán, dựa vào cơ số nhân khẩu khổng lồ cùng với có được tài lực hùng hậu của hậu phương Quan Trung hậu thuẫn, tốc độ khôi phục của quân Lương so với Sở, Ngô lưỡng quân thì nhanh hơn nhiều. Lúc này nam chinh, vô luận là trên binh lực hay là trên hậu cần bổ cấp, quân Lương đều chiếm được ưu thế áp đảo, nhất chiến định gi­ang sơn không phải là không có khả năng.

“Chúa công, lúc này nam hạ e rằng chưa phải là lúc.” Chỉ có Khoái Lương bước ra khỏi hàng khuyên cản: “Ngô, Sở có Trường Gi­ang thiên hiểm làm chỗ dựa, cớ sao không đợi Cam Ninh tướng quân ở Hoài Nam luyện thành thủy quân, rồi dốc hết trăm vạn thủy, lục đại quân dùng thế thái sơn áp đỉnh để nam chinh? Nếu như vậy, có thể không phí sức lực bình định Kinh, Dương, nhất thống gi­ang sơn, cuối cùng làm nên thiên thu đại nghiệp.”

“Ý cô đã quyết.” Mã Dược dứt khoát nói: “Tử Nhu không cần phải nhiều lời.”

Khoái Lương chắp tay vái rồi đành bước lại vào hàng.

Mã Đại bước ra khỏi hàng, hai tay ôm quyền nghiêm giọng hô: “Huynh trưởng, tiểu đệ nguyện làm tiền bộ!”

“Tốt!” Mã Dược cao giọng quát: “Mã Đại nghe lệnh!”

Mã Đại phấn khởi nói: “Có mạt tướng.”

Mã Dược nói: “Dẫn ba vạn thiết kỵ làm tiền bộ, ngay trong hôm nay giết tới Tân Dã!”

“Tuân lệnh!”

“Mạnh Đạt, Tô Tắc nghe lệnh!”

Mạnh Đạt, Tô Tắc bước lên trước, ôm quyền thưa: “Có mạt tướng.”

Mã Dược nói: “Hai ngươi làm phó tướng của Mã Đại, cùng nhau xuất chinh!”

“Tuân lệnh.”

“Pháp Chính nghe lệnh!”

Pháp Chinh bước ra khỏi hàng ôm quyền nói: “Thuộc hạ có mặt.”

“Làm tùy quân tham mưu cho Mã Đại.”

Pháp Chính nói: “Tuân lệnh!”

Mã Dược lại nói: “Văn Hòa.”

Giả Hủ bước lên trước một bước, chắp tay thưa: “Chúa công có gì phân phó?”

Mã Dược nói: “Dùng khoái mã tám trăm dặm truyền hịch tới Hoài Nam, lệnh cho Trương Yến dẫn mười vạn quân Hắc Sơn trong vòng ba tháng phải tới Tân Dã.”

“Tuân lệnh!”

Giả Hủ chắp tay lui xuống, Mã Dược lại gọi: “Từ Hoảng!”

Từ Hoảng vội vàng bước lên trước thưa: “Có mạt tướng.”

Mã Dược nói: “Lập tức về Nam Dương, chỉnh đốn võ bị, chuẩn bị nam chinh.”

“Tuân lệnh.”

“Phương Duyệt!”

“Có mạt tướng.”

“Suất binh mười vạn làm trung quân, theo cô cùng nam chinh.”

“Tuân lệnh.”

“Khoái Lương, Trần Quần.”

“Có thuộc hạ.”

“Lệnh cho các ngươi đôn đốc lương thảo truy trọng, hỗ trợ đại quân nam chinh.”

“Tuân lệnh.”

“Báo…” Khi Mã Dược đang phân phái quân đội thì đột nhiên có tiểu lại hối hả bước vào đại sảnh, hai tay giơ cao một quyển thư giản, hổn hển nói: “Thừa tướng, Ích châu cấp báo.”

“Hả?” Mã Dược nhíu mày nói: “Ích châu ư? Trình lên đây!”

Tiểu lại bước lên trước đưa thư giản cho Tư Mã Ý. Tư Mã Ý lại đưa thư giản cho Mã Dược. Mã Dược lập tức mở ra đọc rồi sắc mặt trầm xuống, Lý Túc ở bên cạnh không nhịn được liền hỏi: “Chúa công, Ích châu xảy ra chuyện gì vậy?”

Mã Dược ném tư giản lên bàn, trầm giọng nói: “Thứ sử Ích châu Trương Tùng cấp báo, nam trung man vương Mạnh Hoạch khởi binh mười vạn tập nhiễu Xuyên nam, lại có phản quân Ngũ Khê Man, Khương tộc đông tây hô ứng. Sở quân đại tướng Trương Liêu đóng hai vạn binh ở Di lăng, như hổ đói rình mồi Ngư Phúc phổ, Tây Xuyên bốn mặt thụ địch, đã nguy như chồng trứng sắp đổ, xin triều đình hỏa tốc phát binh tiêu diệt.”

Lý Túc nghe vậy liền nghẹn lời: “Cái này…”

Mã Dược hỏi Giả Hủ: “Văn Hòa, ngươi cho rằng có nên phái binh tiêu diệt không, nếu phải binh thì nên phái bao nhiêu quân đi?”

Giả Hủ trầm ngâm một lát rồi nói: “Tây Xuyên có Trương Tú tướng quân lưu thủ, Trương Tùng, Trương Nhiệm cũng không phải là hạng vô năng. Nếu đã dùng khoái mã tám trăm dặm cấp báo cho triều đình thì chứng tỏ tình huống đã vô cùng nghiêm trọng. Do đó, Hủ cho rằng viện binh nhất định phải phái đi! Nếu không sẽ không thể làm phấn chấn quân tâm của tướng sĩ Xuyên Trung, càng không thể làm kiên định quyết tâm tử thủ của sĩ tộc Xuyên Trung. Còn phải bao nhiêu viện quân tới giúp thì Hủ cho rằng trong khoảng hai, ba vạn người. Cái này sẽ không ảnh hưởng tới việc nam chinh của chúa công.”

“Vậy nên phái ai lĩnh quân?” Mã Dược nói tới đây thì dừng lại, đột nhiên nhớ tới Mã Siêu đã bệnh chết, buồn bã nói: “Ài, nếu Mạnh Khởi còn sống, cô cần gì phải lo tới cục thế Tây Xuyên? Chỉ cần Mạnh Khởi một mình một ngựa đến, với uy danh của Mạnh Khởi, phản quân Tây Khương tất nhiên phải tự hàng, có sự tương trợ của Khương binh, thì sợ gì bọn phản loạn Nam man, Ngũ Khê Man?”

“Chúa công.” Giả Hủ nói: “Hủ có một nhân tuyển.”

Mã Dược hỏi: “Văn Hòa cho rằng ai là hợp lý nhất?”

Giả Hủ nói: “Ngoài thế tử thì không ai cả.”

“Chinh nhi lãnh binh?” Mã Dược đầu tiên hơi ngây người, sau đó lập tức gật đầu: “Ừ, cũng là lúc đó nó nên đơn độc lĩnh quân rồi, có điều vẫn cần phái một bách chiến túc tướng làm phó tướng cho nó, ngoài ra còn cần một mưu sĩ làm túi khôn cho nó.”

“Chúa công.” Giả Hủ không đồng ý, nói: “Hủ cho rằng không nên phái bách chiến túc tướng làm phó tướng cho thế tử, phải biết thế tử tính tình khiêm tốn, nếu phái túc tướng đi theo thì tất sẽ xuôi theo ý người đó, mất đi sự quyết đoán. Huống chi cục thế Tây Xuyên nhìn thì hữu kinh nhưng kỳ thực lại vô hiểm. Phản quân Tây Khương, Nam man, Ngũ Khê Man đều là hạng ô hợp, khó có thành tựu, còn hai vạn Sở quân đóng ở Di Lăng thì một khi chúa công dẫn đại quân nam hạ, e rằng lập tức sẽ rút về Tương Dương.”

“Có đạo lý.” Mã Dược gật đầu nói: “Vậy để Mã Chinh một mình lĩnh quân xuất chinh, Hiếu Trực hãy làm tùy quân tham mưu.”

Pháp Chính nói: “Tuân lệnh.”

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 355: Nam chinh Kinh châu (1)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Tháng ba năm Kiến An Hán Hiến đế thứ mười lăm, Uyển thành.

Uyển thành lúc này đã thành một tòa binh doanh khổng lồ, ngoại trừ mười vạn quân Xuyên vốn đóng ở quận Nam Dương ra, mười vạn Hắc Sơn quân của Trương Yến cùng với mười vạn Tây Lương đại quân của Phương Duyệt (trung ương quân) cũng trước sau tới Uyển thành, gần ba mươi vạn đại quân tề tụ tại Uyển thành, chỉ quân doanh thôi cũng kéo dài cả mấy chục dặm, hành động với quy mô như vậy tất nhiên không thể giấu được gi­an tế quân Sở và gi­an tế quân Ngô tiềm phục ở Nam Dương.



Tương Dương, phủ Sở vương.

Tào Chân và Gia Cát Lượng, Trình Dục, Cổ Quy đang thảo luận về cục thế Tây Xuyên thì đột nhiên thấy Lưu Diệp hớt hải chạy vào, chắp tay nói: “Chúa công, mật thám hồi báo Mã đồ tể điều tập hơn ba mươi vạn đại quân ồ ạt nam hạ, chuẩn bị công đả Kinh châu, trước mắt đại quân đã tiến vào vùng Uyển thành, ba vạn tiên phong thiết kỵ do tộc đệ Mã Đại của Mã đồ tể suất lĩnh đã tiến tới Tân Dã rồi!”

“Cái gì?” Tào Chân nghe vậy liền giật nảy mình, đột nhiên đứng bật dậy, thất thanh nói: “Mã đồ tể điều tập hơn ba mươi vạn đại quân ồ ạt nam hạ ư? Cục thế Tây Xuyên nguy như chồng trứng sắp đổ, Mã đồ tể không xuất binh cứu Tây Xuyên mà ngược lại còn điều tập quân đội khổng lồ như vậy tới công đánh Kinh châu, đây không phải là quá khó hiểu sao? Nên là thế nào mới ổn đây?”

“Đây chính là lợi ích của thổ quốc rộng lớn, nhân khẩu dưới quyền cai trị đông đảo!” Trình Dục thở dài nói: “Trận chiến Hoài Nam, vì cứu hơn ba mươi vạn tai dân, sự tiêu hao của quân Lương là cực lớn, nhưng hiện tại mới qua chưa đến hai năm thời gi­an, Mã đồ tể không ngờ lại có thể điều tập đại quân với quy mô ba mươi vạn để xuất chinh, tốc độ bổ sung của quân Lương thực sự khiến người ta phải thán phục không thôi.”

“Đúng vậy.” Cổ Quy phụ họa: “Trái lại quân Ngô sau khi trải qua Hoài Nam chi bại thì đại thương nguyên khí, ít nhất trong vòng mười năm không thể đại cử bắc phạt được. Quân ta cũng tương tự, sau trận chiến ở Tây Xuyên thì rất khó phát động được thế công với quy mô lớn. Lần này Mã đồ tể thế đến ào ạt, tại hạ cho rằng chỉ có liên hợp tác chiến với quân Ngô mới có được một đường sinh cơ.”

“Ha ha.” Gia Cát Lượng cười nói: “Hai vị tiên sinh không cần phải lo lắng quá như vậy, quân Lương tuy đông nhưng không có thủy quân, hơn nữa còn lao sư tập viễn (hành quân xa xôi), quân ta tuy ít nhưng lại có ưu thế tuyệt đối của thủy quân, hơn nữa lại dĩ dật đãi lao. Cho dù chiến sự bất lợi thì vẫn có thể lui về thủ bốn quận Kinh nam, dựa vào Trường Gi­ang hiểm yếu để chống cự với quân Lương. Huống chi chiến tranh mới chỉ bắt đầu, ai thắng ai bại thì còn lâu mới biết được.”

Tào Chân nói: “Không Minh có kế đối địch chưa?”

Gia Cát Lượng nói: “Lượng quả thật đã đào sẵn một phần mộ cho Mã đồ tể rồi. Trên thực tế, kế diệt địch này khi ở dưới trướng của tiên chúa công Lượng đã suy nghĩ kỹ càng rồi. Nhưng đáng tiếc là tiên chúa công thủy chung không chịu nghe lời khuyên của Lượng, cố chấp không chịu phạt Thục, dẫn tới binh bại Vĩnh An. Khiến cho quân Sở nguyên khí đại thương, dẫn tới tình hình nguy cập như hiện giờ.”

Trình Dục theo Tào Tháo lâu nhất, nghe vậy liền nhíu mày không vui, nói: “Khổng Minh, những lời không liên quan thì đừng có nói ra làm gì.”

Tào Chân cũng nói: “Đúng đúng đúng, Khổng Minh hãy nói cho cô nghe đi, phải thế nào mới tiêu diệt được ba mươi vạn đại quân của Mã đồ tể?”

Gia Cát Lượng nói: “Lượng thường nói với tiên chúa công rằng, Mã đồ tể nếu đại cử nam hạ, công lược Kinh châu, Lượng có thể không phí một chút sức nào mà khiến hắn không bại mà bại, kẻ bất bại vẫn phải bại, không còn sức chiến đấu. Kỳ thực là mượn thiên uy của tạo hóa vạn vật, có điều đáng tiếc là Mã đồ tể lần này chỉ dẫn có ba mươi vạn đạo quân nam chinh. Cho dù ba mươi vạn đại quân này bị tiêu diệt sạch sẽ, quân ta cũng không có sức mà thừa thế bắc phạt. Tây Lương cũng không có nỗi lo diệt vong, kết quả tốt nhất chính là sau trận chiến này, Lương, Sở, Ngô sẽ hình thành thế chân vạc.”

“Thiên uy của vạn vật tạo hóa?” Trình Dục biến sắc, nghiêm giọng nói: “Ý của Khổng Minh là muốn mượn vào nước sông Trường Gi­ang?”

“Đúng vậy?” Gia Cát Lượng gật gật đầu, từ trong tay áo rút ra một tấm bản đồ rồi đặt lên bàn, trải ra, sau đó chỉ vào bản đồ rồi giải thích cho đám người Tào Chân: “Chúa công, ba vị tiên sinh nhìn đi. Đây là Trường Gi­ang, từ kinh môn hướng về phía đông, đây là Tương Gi­ang, từ Tương Gi­ang hướng về phía đông. Hai con sông lới này tại cửa Tam Gi­ang thì hợp hai thành một, hai sông giáp nhau thì là Gi­ang Hán Sơn Lăng đi về hướng đông tây, hình như miệng túi.”

Tào Chân nói: “Vậy thì sao?”

Gia Cát Lượng nói: “Thượng du Tương Dương mặt sông chật hẹp, không đủ để cản quân Lương nam hạ, do đó Tương Dương thất thủ là chuyện sớm muộn. Tương Dương nếu thất thủ, quân ta sẽ vừa đánh vừa lui, men theo Mạch thành, Gi­ang Lăng một mực lui tới cảng Ô Lâm, sau đó từ cảng Ô Lâm lên thuyền qua sông. Men theo đường không có nơi hiểm trở để thủ, lại không có thủy đạo ngăn trở, quân Lương tất nhiên sẽ tiến quân thần tốc vào thẳng Ô Lâm.”

“Vậy thì sao?” Cổ Quy không hiểu, hỏi ngược lại: “Đúng như lời Khổng Minh thì từ Gi­ang Lăng tới cảng Ô Lâm, trên đường không chỗ nào hiểm trở có thể thủ, lại không có thủy đạo ngăn trở, cho dù Gi­ang Hán Sơn Lăng nằm giữa Lưỡng gi­ang hình như miệng túi, quân ta cũng không thể buộc miệng túi lại, cũng không thể nhốt được ba mươi vạn đại quân của Mã đồ tể ở bên trong. Vậy cái gọi là không bại mà bại là từ đâu mà có?”

“Cái đó cũng chưa chắc.” Gia Cát Lượng cười nhạt một tiếng, ung dung nói: “Lượng từ quan sát kỹ càng một giải địa hình từ Di Lăng tới Gi­ang Lăng, phát hiện mặt nước Tương Gi­ang ở đoạn Mạch thành so với mặt nước Trường Gi­ang đoạn Di Lăng thì thấp hơn nhiều. Nếu quân ta từ Di Lăng đục đê Trường Gi­ang dẫn nước đổ về phía bắc, nước Trường Gi­ang khơi thêm dòng sẽ có thể hình thành một đường sông mới ở giữa Sơn Lăng, một khi như vậy, miệng túi của Gi­ang Hán Sơn Lăng chẳng phải là được buộc lại sao?”

“Vậy thì sao chứ?” Trình Dục không nhịn được liền phản bác: “Cho dù có thể đục đê Trường Gi­ang, hình thành một đường sông mới ở giữa Gi­ang Hán Sơn Lăng, vậy cũng chỉ có thể tạm thời vây khốn được quân Lương một đoạn thời gi­an, căn bản không thể nhốt chúng mãi. Phải biết Hoài Nam chi chiến, sự phong tỏa của thủy quân quân Ngô đối với Hoài Thủy, Phì Thủy cuối cùng không phải vẫn bị xích sắt chặn sông của quân Lương phá giải đó sao?”

“Chỉ cần có thể vây khốn quân Lương một tháng thôi là đủ rồi!” Gia Cát Lượng nói: “Trình tiên sinh chắc biết một giải Gi­ang Hán lưu hành một loại ác tật, là bệnh phình bụng (bệnh trùng hút máu), người mắc bệnh này bụng trương như cái trống, thường thường không thể chết già, người phương bắc nhiều năm sinh hoạt ở nơi khô ráo, không thích hợp với khí hậu ẩm ướt oi bức của phía nam, rất dễ bị cảm nhiễm ác tật. Hơn nữa phát tác cực nhanh, chỉ cần mấy tháng là có thể lan khắp toàn quân, bảy tới mười ngày là khiến người ta mất đi năng lực hành động rồi!”

Tào Chân, Trình Dục, Cổ Quy giật mình kinh hãi, trầm giọng nói: “Thì ra là như vậy!”

Gia Cát Lượng mỉm cười, nói tiếp: “Có điều việc cần kíp bây giờ là đánh bại Mã Đại, trước tiên diệt đi uy phong của quân Lương đã.”

Tào Chân mắt sáng ngời, đột nhiên quát lớn: “Người đâu!”

Lập tức có tiểu giáo vâng dạ bước vào, thưa: “Vương gia có gì phân phó?”

Tào Chân nói: “Mang ấn tín bội kiếm của cô tới đây.”

“Tuân lệnh.”

Tiểu giáo lĩnh mệnh mà đi, một lát sau khi quay lai thì tay bưng ấn tín và bội kiếm của Tào Chân vào. Tào Chân trịnh trọng gi­ao ấn tín và bội kiếm cho Gia Cát Lượng, trầm giọng nói: “Khổng Minh, từ hiện tại trở đi ngươi sẽ trở thành thống soái của quân Sở, vận chuyển lượng thảo cùng với phân công tướng sĩ đều do người toàn quyền độc lãm, cô sẽ không can thiệp nửa câu.”

Gia Cát Lượng trịnh trọng nhận lấy ấn tín và bội kiếm, nghiêm nghị nói: “Lượng… tuân lệnh.”

Tới giờ Lưu Diệp mới như vừa từ trong mộng tỉnh lại, nói với Tào Chân: “Chúa công, mật thám tiềm phục tại Lạc Dương cũng có tin tức truyền về, có điều thật giả khó phân.”

Tào Chân nói: “Tin tức gì?”

Lưu Diệp nói: “Nghe nói đầu hào đại tướng Mã Siêu dưới trướng Mã đồ tể đã chết rồi.”

“Mã Siêu chết rồi ư?” Tào Chân ngạc nhiên nói: “Sao mà chết?”

Lưu Diệp nói: “Nghe nói là cưỡng ngựa ngã xuống phạm phải vết thương cũ.”

“Cô tuy không thể tự tay chặt đầu Mã Siêu, nhưng Mã Siêu đã chết vì vết thương cũ, cũng coi như là chết dưới tay Khổng Minh.” Tào Chân nói tới đây thì dừng lại một chút, quay đầu lại nhìn Gia Cát Lượng, nói: “Nói vậy, huyết cừu của tiên vương cũng coi như là được báo rồi, cô thực sự nên cảm tạ Khổng Minh ngươi đó.”

Gia Cát Lượng nói: “Vu huyện chi chiến, Mã Siêu bại vì khinh địch, cho rằng tiên chủ đã chết trận, quân ta quần long vô thủ không kham nổi một kích, cho nên mới suất lĩnh hai ngàn kỵ binh giết lên sơn đạo để truy sát quân ta, dẫn tới binh bại ngã xuống núi. Kể ra cũng là có thiên ý, có lẽ là tiên chủ hiển linh lấy mạng Mã Siêu, Lượng quả thật không dám kể công.”



Mạt Lăng, phủ Ngô vương.

Chỉ cách có mấy ngày là Tôn Quyền cũng biết tin tức Mã Dược đại cử nam chinh Kinh châu, lập tức triệu tập Từ Thứ, Lữ Mông, Lục Tốn cùng với chư tướng Tôn Khuông, Tôn Du, Tôn Kiểu, Thái Sử Từ, Hạ Tề, Tổ Lang, Toàn Tông thương nghị đối sách.

Đại đô đốc Chu Du ôm bệnh tĩnh dưỡng ở Sài Tang, Tôn Quyền không hề triệu tới.

Tôn Quyền nhìn quanh một người một cái, trầm giọng nói: “Tin tức chắc mọi người đều biết cả rồi, Mã Siêu đột tử đối với quân ta mà nói tất nhiên là một tin tức cực kỳ tốt. Nhưng Mã đồ tể khởi binh ba mươi vạn đại cử nam chinh, trước mắt thực lực của quân Sở e rằng là rất khó ngăn cản được. Cô cho rằng kết quả tốt nhất cũng chỉ có thể là lui về thủ bốn quân Kinh Nam, dựa vào Trường Gi­ang hiểm yếu mà tự thủ, chư vị thấy thế nào.”

Lữ Mông nói: “Nếu có thủy quân của Cam Ninh tương trợ thì e rằng ngay cả Trường Gi­ang hiểm trở cũng không cản được Tây Lương đại quân.”

“Ừ.” Tôn Quyền gật đầu, trầm giọng nói: “Cho nên, trước khi Kinh Châu chi chiến quyết thắng phụ, nhất định phải giữ Cẩm Phàm thủy quân ở Nhu Tu ổ, tuyệt không thể để bọn chúng vượt sông hiệp trợ Tây Lương đại quân của Mã đồ tể vượt qua Trường Gi­ang! Trước mắt quân ta vừa trải qua Hoài Nam chi bại, nguyên khí chưa phục hồi, thực sự là không phái đâu ra viện quân, cũng chỉ có thể giúp quân Sở được vậy mà thôi.”

Nói tới Nhu Tu ổ, sắc mặt của Tôn Quyền đột nhiên biến thành ngưng trọng, lo lắng trùng trùng nói: “Bằng vào nhân lực, vật lực hùng hậu của Tây Lương, thằng nhãi Cam Ninh này đang trốn ở Nhu Tu ở chế tạo chiến thuyền, lại mộ tập ba vạn nam binh thao luyện mỗi ngày ở trên Sào hồ, cứ thế mãi thì e ràng sẽ trở thành tâm phúc đại hoạn của Đông Ngô ta, Tử Minh tuyệt không thể cứ ngồi nhìn hắn phát triển như vậy được!”

Lữ Mông bất lực nói: “Quân Lương tiếp thu kinh nghiệm sau trận chiến ở mỏm Quái Thạch, tại hai cánh của đại trại thủy quân ở Nhu Tu ổ dựng hai tòa thành bảo. Trong thành bảo lại an trí mấy trăm chiếc máy bắn đá, mạt tướng đã mấy lần suất lĩnh thủy quân ỳ đồ cường tập Nhu Tu ổ, đều dưới sự nghịch tập của máy bắn đá mà bất lực lui về. Mạt tướng cho rằng, muốn công phá đại trại thủy quân ở Nhu Tu ổ thì trước tiên nhất định phải phái ra bộ binh công phá thành bảo ở hai cánh, rồi phá hư máy bắn đá ở trong bảo.”

Tôn Quyền tức thì im lặng, trên mặt lộ ra mấy phần sầu khổ.

Lời của Lữ Mông có thể nói là điểm trúng chỗ yếu hại của Tôn Quyền. Trước mắt quốc lực của Đông Ngô căn bản không đủ để phát khởi chiến dịch tấn công một lần gồm ba vạn người, nhưng nếu như không có sự đầu nhập của binh lực hơn ba vạn mà muốn công phá thành bảo của quân Lương ở hai cánh đại trại thủy quân tại Nhu Tu ổ thì đâu có dễ? Phải biết Tây Lương hãn tướng Cao Thuận đã đóng hai vạn đại quân tại Nhu Tu ổ rồi.

“Được rồi.” Tôn Quyền chắp tay xoay người lại, đưa lưng về phía mọi người, nói: “Thôi cứ vậy đi, lập tức phái thủy quân phong tỏa Nhu Tu ổ.”

Lữ Mông khom người ôm quyền nói: “Mạt tướng tuân lệnh.”

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 355: Nam chinh Kinh châu (2)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Tân Dã, dinh thự của Văn Sính.

Văn Sinh đang đọc khoái mã cấp thư của Gia Cát Lượng thì đột nhiên có tiểu giáo hối hả xông vào trong đại sảnh, vội vàng thưa: “Tướng quân, Tây Lương thiết kỵ của Mã Đại đã tới sườn núi Vĩ Pha rồi, cách huyện thành Tân Dã không tới năm mươi dặm.”

“Ồ.” Văn Sinh gật đầu, ngẩng mặt lên nhìn sắc trời, nói: “Giờ trời đã tối rồi, Tây Lương thiết kỵ chắc sẽ không tiếp tục nam hạ nữa đâu.”

Phó tướng ở bên cạnh vội vàng nói: “Nhưng thưa tướng quân, thành trị của huyện thành Tân Dã quá nhỏ, tường thành cao không tới hai trượng, chỉ bằng vào hai ngàn thủ quân ở trong thành rất khó cản được sự mãnh công của Tây Lương đại quân.”

“Không sao cả” Văn Sinh nói: “Trong vòng ba ngày chúa công và quân sư sẽ suất lĩnh đại quân tới đây, quân ta chỉ cần thủ vững Tân Dã trong ba ngày là được rồi.”

“Nhưng binh lực của hai bên cách biệt nhau quá lớn.” Phó tướng lo lắng trùng trùng nói: “Binh của đại quân Tây Lương hơn quân ta năm mươi lần, e rằng rất khó mà thủ được ba ngày.”

Văn Sính nói: “Nếu để Tây Lương thiết kỵ giết tới thành thì e rằng ngay cả một ngày cũng chẳng thủ nổi ý chứ.”

Phó tướng nói: “Vậy nên làm gì bây giờ?”

Văn Sinh vung vẩy thư tín của Khổng Minh ở trong tay, mỉm cười nói: “Kế nghi binh.”

Phó tướng nói: “Thế nào là kế nghi binh?”

Văn Sính nói: “Tây Lương thiết kỵ đã tới sườn núi Thước Vĩ, tiếp theo tất sẽ phải qua sườn núi Bác Vọng. Sườn núi Bác Vọng là một giải núi cao rừng rậm, hơn nữa giờ đang là mùa xuân, chính là lúc Thiên Can vật khô, rất sẽ dùng hỏa công. Quân ta chỉ cần bố trí một số tinh kỳ đừng quá bắt mắt ở hai bên quan đạo, sau đó phái mấy đội sĩ binh cưỡi ngựa ở trong rừng chặt củi khô, dấy lên một chút khói làm nghi binh, đại quân Tây Lương tất sẽ không dám tùy tiện tiến vào.”

Phó tướng nói: “Thế nếu đại quân Tây Lương cứ giết thẳng vào trong rừng thì sao đây?”

Văn Sinh nói: “Vậy thì phóng hỏa, đốt bọn chúng ra tro chứ còn sao nữa.”

Phó tướng nói: “Nếu quân Lương vào trước phóng hỏa thì sao đây?”

Văn Sinh nói: “Vậy cũng chẳng sao cả, trận lửa này một khi cháy lên thì không mất ba ngày ba đêm thì không tể dập được. Đợi ba ngày ba đêm qua đi thì chúa công và quân sư sớm đã suất lĩnh đại quân tới Tân Dã rồi.”



Suờn núi Thước Vĩ, quân trướng của Mã Đại.

Mạnh Đạt sải bước như lưu tinh vào đại trướng, nói với Mã Đại: “Nhị thiếu tướng quân, có khói lửa ở trong rừng bốc lên. Coi bộ trong rừng rậm ở hai bên sườn núi rất có khả năng là có quân Tào mai phục.”

Mã Đại chuyển dời ánh mắt sang nhìn Tư Mã Ý ở bên cạnh, hỏi: “Trọng Đạt, ngươi thấy thế nào?”

Pháp Chính đã theo Mã Chinh suất chinh Tây Xuyên, Mã Dược chỉ có thể phái Tư Mã Ý làm tùy quân tham mưu cho Mã Đại.

Tư Mã Ý nói: “Ý cho rằng không thể tùy tiện xông vào rừng, để tránh gặp phải hỏa công.”

Mã Đại gật đầu nói: “Ừ, lời của Trọng Đạt không phải là không có đạo lý.”

Mã Đại tuy trẻ tuổi, hơn nữa còn nôn nóng muốn báo thù cho huynh trưởng Mã Siêu, nhưng hắn không phải là một người không hiểu đại thể, hơn nữa tính tình còn cẩn thận, lại thêm có Tư Mã ý tương trợ, hai người cẩn thận đặt ở cùng một chỗ, khả năng tùy tiện mạo hiểm tiến vào bẫy của địch cơ hồ là bằng không, đây cũng là nguyên nhân chủ yếu khiến Mã Dược yên tâm để Mã Đại lĩnh quân đảm nhiệm tiền bộ.

Mạnh Đạt đột nhiên nói: “Nhị tướng quân, không bằng quân ta xông vào phóng hỏa trước?”

“Biện pháp hay đấy.” Tô Tắc khen: “Nếu trong rừng thực sự có quân Tào mai phục, vậy thì đúng là tự tìm đường chết rồi.”

Mã Đại lại nhìn sang Tư Mã Ý.

Tư Mã ý gật đầu nói: “Ý cho rằng kế này cũng được. Tuy phóng hỏa thì lửa sẽ cháy liền trong vòng ba tới năm ngày, ít nhất cũng sẽ làm chậm trễ mấy ngày hành trình, cũng khiến quân Sở có thêm mấy ngày thời gi­an để chuẩn bị chiến đấu. Có điều quân ta về phương diện binh lực đã chiếm được ưu thế tuyệt đối, cho dù quân Sở chuẩn bị có đầy đủ hơn nữa thì cũng khó mà vãn hồi được bại cục, chắc sẽ không ảnh hưởng tới đại cục nam chinh của đại quân của thừa tướng đâu.”

“Được.” Mã Đại trầm giọng nói: “Vậy thì phóng hỏa đi, trước tiên đốt cháy sườn núi Bác Vọng đã rồi tính sau!”

Mạnh Đạt, Tô Tắc rầm rầm ứng tiếng, lĩnh mệnh mà đi.



Thành đô, đông môn.

Khi Mã Chinh, Pháp Chính suất lĩnh đại quân tới ngoài thành đô thì thấy thứ sử Ích Châu Trương Tùng đã dẫn văn võ Xuyên Trung đón chờ ở ngoài thành môn, nhìn từ xa thấy Tây Lương thiết kỵ đông nghìn nghịt xếp hàng ở ngoài thành, các thân sĩ quan viên Xuyên Trung trong lòng vốn lo sợ không yên lập tức thở phào nhẹ nhõm, ai ai cũng vui vẻ ra mặt, theo sau Trương Tùng ra ngoài nghênh đón.

Trương Tùng vội vàng bước lên trước, vái một cái thật sâu với Mã Chnh rồi cung kính nói: “Hạ quan Trương Tùng, dẫn thân sĩ Xuyên Trung cung nghênh thế tử.”

Ở phía sau Trương Tùng, văn quan võ tướng Xuyên Trung nhao nhao cúi người vái chào.

Mã bước lên trước đỡ lấy hai tay Trương Tùng đang vái lạy, khiêm tốn nói: “Đại nhân mau mau đứng dậy đi.”

“Tạ ơn thế tử.”

Trương Tùng chắp tay vái một cái nữa rồi mới thuận thế đứng dậy.

Pháp Chính ở phía sau Mã Chinh lúc này mới bước lên trước, ôm quyền mỉm cười nói: “Trương Tùng đại nhân, lâu rồi mới gặp.”

“Bái kiến Pháp Chính tiên sinh.” Trương Tùng chắp tay vái, quay người gi­ang tay nói: “Hạ quan cung thỉnh thế tử cùng ba quân tướng sĩ vào thành.”

Mã Chinh lắc đầu nói: “Tâm ý của đại nhân bản thế tử xin ghi nhận, có điều đại quân không thể vào thành được, đóng ở ngoài thành thì vẫn thỏa đáng hơn.”

“Cái này…” Trương Tùng khó xử nói: “Thế tử có điều chưa biết đấy thôi, phản quân Tây Khương đã đánh tới Vi thành rồi, tùy thời đều có thể binh khấu thành đô. Hạ quan cho rằng đại quân vẫn nên vào thành đóng trại thì thỏa đáng hơn, phản quân Tây Khương nếu tới cũng có thể dựa vào thành mà thủ.”

Bình tâm mà luận, trong lòng Trương Tùng vẫn mang thái độ hoài nghi đối với năng lực của thế tử Mã Chinh. Chỉ sợ Mã Chinh khinh địch rồi bại dưới tay phản quân Tây Lương. Cho nên hi vọng Mã Chinh có thể suất quân vào thành, có hai vạn Tây Lương thiết kỵ trợ chiến, cho dù phản quân Tây Lương đánh tới dưới thành đô thì thân hào sĩ tộc ở trong thành cũng có thể bình chân như vại, còn bách tính Tây Xuyên ở bên ngoài thành đô thì Trương Tùng không để ý nhiều.

Con người mà, chung quy lại thì vẫn là động vật ích kỷ, khi đối mặt với nguy cấp, trước hết vẫn luôn luôn lo tới lợi ích của mình.

Mã Chinh tuy tuổi còn trẻ nhưng từ nhỏ đã nhận được sự hun đúc của Giả Hủ, Mã Dược, há lại không nhìn ra dụng ý của Trương Tùng?

Mã Chinh mỉm cười nói: “Đại nhân, bản thế tử lần này phụng mệnh phụ vương dẫn quân xuất chinh, là tới để bảo vệ bách tính Tây Xuyên, chứ không phải là để tướng sĩ Tây Xuyên và thành trí kiên cố của thành đô bảo hộ sự an toàn của bản thế tử và hai vạn tướng sĩ ở dưới trướng. Thứ sử đại nhân nếu lo lắng cho sự an toàn của bản thế tử thì không cần thiết đâu. Trước khi đi phụ vương đã có lời, nam nhi của Mã gia tuyệt đối không được phép sợ địch không dám tiến lên, cho dù là da ngựa bọc thây thì cũng tuyệt đối không được phép lui.”

Pháp Chính ở bên cạnh nghe thấy vậy hai mắt không khỏi sáng ngời. Thầm nghĩ thế tử tuy còn nhỏ nhưng đã cực thạo nhân tình thế thái. Những lời này của Mã Chinh không những uyển chuyển chỉ rõ, đồng thời cự tuyệt dụng tâm của Trương Tùng mà còn thuận thế cho Trương Tùng bước xuống đài.

Trương Tùng cũng là một tay lão làng lăng lộn nhiều năm trong chốn quan trường, lập tức thuận núi xuống ngựa, chắp tay cảm khái: “Thừa tướng dạy thế tử có cách, đúng là tấm gương cho vạn thế.”

Mã Chinh cười hờ hững một tiếng, quay đầu lại nói với Mã Song (Vương Song, con của Tây Vực trưởng tử Vương Uyên) và Mã Duyên Đà (Cú Duyên Đà, con của Cú Đột): “Hai vị nghĩa huynh xin hãy dẫn quân tạm thời đóng quân ở ngoài thành.”

Mã Song, Mã Duyên Đà ôm quyền ứng tiếng: “Mạt tướng lĩnh mệnh.”

Mã Chinh lúc này mới nói với Trương Tùng: “Thứ tử đại nhân, mời.”

“Mời thế tử.”

Trương Tùng vội vàng nghiêng người nhường đường, cung thỉnh Mã Chinh vào thành.

Buổi tối, Trương Tùng lệnh cho Phí Thi, Vương Duy suất lĩnh thân sĩ trong thành mang theo một lượng lớn gà vịt thịt cá tới doanh trung ở ngoài thành khao quân, lại ở trong phủ thứ sử bày một tiệc rượu lớn, khoản đãi thế tử Mã Chinh và quân sư Pháp Chính. Khi rượu qua ba tuần, một thân sĩ Tây Xuyên cuối cùng cũng không nhịn được mà cất tiếng hỏi: “Giờ Tây Khương, Nam Man, Ngũ Khê Man ba lộ phản quân liên kết với nhau, tạo thành thế sừng thú, thập phần khó chơi, dám hỏi thế tử đã có kế sách đối địch chưa?”

Mã Chinh nói: “Không biết vị tiên sinh này xưng hô thế nào?”

Vị thân sĩ đó vội vàng ôm quyền nói: “Hạ quan Phí Huy, giữ chức trưởng sử ở Thục quận.”

Mã Chinh mỉm cười, hỏi lại: “Phí trưởng sử cho rằng trong ba lộ phản quân thì lộ nào là khó chơi nhất?”

Phí Huy không nghĩ ngợi mà đáp ngay: “Tất nhiên là phản quân Nam Man của Mạch Hoạch rồi.”

Mã Chinh lại hỏi: “Vậy lộ phản quân nào là ở xa nhất?”

Phí Huy nói: “Cũng vẫn là phản quân Nam Man.”

“Chính vậy đó.” Mã Chinh cười nói: “Phản quân thanh thế tuy lớn nhưng thực lực lại cọc cạch không đều, hơn nữa ba lộ phản quân cách nhau rất xa, không thể chân chính hình thành hợp lực. Quân ta hoàn toàn có thể chiếu theo gần trước xa sau, dễ trước khó sau mà lần lượt kích phá từng lộ phản quân một.”

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 356: Pháp Hiếu Trực kế định Tây Khương (1)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Hôm sau, đại trướng của Mã Chinh.

Pháp Chính mỉm cười nói với Mã Chinh: “Xem ra sĩ tộc Tây Xuyên vẫn có chút hoài nghi đối với năng lực của thế tử đó, ha ha ha.”

Mã Chinh nói: “Đây cũng là chuyện thường tình của con người mà thôi.”

Pháp Chính nói: “Có điều, chỉ cần bình định được phản quân Tây Khương là sĩ tộc Tây Xuyên khắc sẽ có nhận thức mới đối với năng lực của thế tử thôi.”

Pháp Chính vừa dứt lời, Hứa Thiệu đột nhiên bước vào trướng, ôm quyền cao giọng nói: “Thế tử, Triệu Vân tướng quân ở ngoài trướng cầu kiến.”

“Tốt.” Mã Chinh vui vẻ gật đầu: “Mau để Tử Long vào.”

Hứa Triệu lĩnh mệnh rời đi, lập tức thấy Triệu Vân ngạo nghễ bước vào trướng, ôm quyền vái chào: “Mạt tướng Triệu Vân, tham kiến thế tử, tham kiến quân sư.”

“Tử Long miễn lễ, ha ha.” Mã Chinh cười nhạt một tiếng, đưa tay ra chỉ vào một bộ khải giáp được treo ở trong trướng rồi nói với Triệu Vân: “Tử Long mặc thử đi, xem bộ khải giáp này có vừa người không?”

Triệu Vân đưa mắt nhìn, chỉ thấy thiết giáp treo ở trong trướng rõ ràng chính là chiến bào và ngân giáp của cố Chinh Tây tướng quân Mã Siêu. Đặc biệt là diện khôi (mũ giáp che cả mặt) đầu quỷ càng là thiên hạ độc nhất vô nhị, do đó ánh mắt của Triệu Vân không khỏi ngưng tụ, trầm giọng nói: “Đây là chiến giáp của Chinh Tây tướng quân.”

“Không sai.” Pháp Chính vui vẻ nói: “Tạ hạ và thế tử đã thương nghị, cho rằng Chinh Tây tướng quân ở trong lòng Khương nhân có uy vọng vô thượng, nếu có Chinh Tây tướng quân ở trước trận của hai quân mà giơ thương hô lớn, tất có thể khiến phản quân Tây Khương sợ hãi mà hàng, mà tướng quân và Chinh Tây tướng quân có thể hình tương tự nhau, hơn nữa võ công lại cao, để ngài giả trang Chinh Tây tướng quân là nhân tuyển thích hợp nhất.”

“Nhưng…” Triệu Vân do dự nói: “So với Chinh Tây tướng quân thì mạt tướng chẳng qua là một tên vô danh tiểu tốt, tùy tiện mắc di giáp của ngài, có phải là sẽ khinh nhờn anh linh của Chinh Tây tướng quân ở trên trời cao hay không?”

“Không sao cả.” Mã Chinh ôm quyền hướng về phía bắc: “Nếu Siêu thúc ở trên trời có linh thiêng, ắt cũng sẽ chỉ cảm thấy vui mừng vì điều này mà thôi.”

Triệu Vân nói: “Nếu vậy mạt tướng nguyện gánh trách nhiệm này.”

“Tốt.” Mã Chinh vui vẻ nói: “Đợi ngày sau hai quân gi­ao binh, tướng quân hãy…”



Thành đô, phủ thứ sử.

Vương Luy chạy một mạch vào thiên thính, nói với Trương Tùng, Phí Thi, Trương Nhiệm: “Vĩnh Niên, Công Cử (biểu của Phí Thi), Bá Đạo. Đại quân của thế tử vào buổi trưa hôm nay đã nhổ trại, giết với Vũ Dương rồi.”

“Thật không?” Trương Tùng vuốt râu suy ngẫm một lát rồi quay đầu lại nói với Trương Nhiệm: “Bá Đạo, ngươi thấy chúng ta có nên phái một nhánh quân đội tới Vũ Dương trợ chiến cho thế tử hay không? Dẫu sao thì phản quân Tây Khương cũng đạt tới hơn mười vạn. Mà đại quân của thế tử chỉ có hơn hai vạn, binh lực kém chúng quá xa.”

“Đại nhân không cần phải lo lắng đâu.” Trương Nhiệm lắc đầu nói: “Theo mạt tướng thấy, thế tử tuy tuổi trẻ nhưng anh tài cái thế, Pháp Chính quân sưở trước trướng thì trí kế hơn người. Triệu Vân, Mã Song, Mã Duyên Đà chư tướng đều am hiểu binh pháp chứ không phải là hạng tầm thườngng. Hai vạn Tây Lương thiết kỵ ở dưới tướng thế tử lại đều là tinh nhuệ chi sư thân kinh bách chiến, mười vạn phản quân Tây Khương chẳng qua chỉ là một đám ô hợp. Không đáng để lo lắng.”

Trương Tùng ngạc nhiên nói: “Ý của Bá Đạo là ngày thế tử bình định Tây Khương đã sắp tới rồi?”

Trương Nhiệm mỉm cười nói: “Chỉ trong vòng mười ngày màn thôi.”



Vũ Dương.

Mười vạn phản quân Tây Khương vây kính thành Vũ Dương đã hai tháng trời. Mà trong hơn hai tháng này, phản quân Tây Khương mỗi ngày đều không ngừng công thành. Thái thú Vũ Dương Tưởng Uyển thậm chí gầy đi cả một vòng, hai mắt lõm sâu, trong con ngươi đầy là tơ máu. Hơn hai tháng này đối với hắn mà nói thì không có nổi một giấc ngủ ngon.

Duy có một điều đáng để cảm thấy may mắn là phản quân Tây Khương hoàn toàn giống như giặc Khăn Vàng trong những năm Trung Bình, quả thật chỉ là một đám ô hợp.

Phản quân Tây Khương tuy có hơn mười vạn, nhưng trong đó tuyệt đại đa số là phụ nữ và trẻ em. Binh lính tinh tráng chân chính kỳ thực chỉ hơn ba vạn, hơn nữa do thiếu hụt khí giới công thành cần thiết phải có, cho nên vây thành hơn hai tháng rồi mà không thể phá nổi thành. Trái lại còn phải để lại vô số thi thể ở dưới thành. Bất đắc dĩ, Phản quân Tây Khương chỉ đành đổi sang dùng thuật khốn chiến, cố gắng vây sống thủ quân ở trong thành.

Tây Khương lúc này ( gồm Tứ Xuyên tây bộ , Thanh Hải, Tây Tàng) tổng cộng có mấy trăm bộ lạc Khương nhân lớn nhỏ. Bộ lạc lớn có mười mấy vạn người, bộ lạc nhỏ thậm chí chỉ có mấy trăm người. Cuộc làm phản lần này tổng cộng có hơn ba mươi bộ lạc lớn nhỏ tham gia. Trong đó có ba bộ lạc có thế lực khá lớn, trong đó thế lực lớn nhất là Tát Lý Cát đại vương, bộ chúng đạt tới hơn năm vạn người, thứ nhì là Phù Dung nữ vương và Mê Đương đại vương. Hai người mỗi người có hơn hai vạn bộ chúng.

Vây thành hai tháng có dư mà không thể phá nổi thành, lương thảo do phản quân cướp bóc được trước mắt sắp hết sạch. Tát Lý Cát chung quy cũng phải sốt ruột lo lắng, bèn phái người đi triệu tập Phù Dung nữ vương, Mê Đương đại vương cùng với mấy chục thủ lĩnh của các bộ lạc nhỏ tới, cùng nhau thương thảo đối sách.

“Chư vị.” Tát Lý Cát mắt ưng trợn tròn, uy phong lẫm liệt quét mắt nhìn mọi người một vòng, sau đó trầm giọng nói: “Lương thực mà chúng ta cướp được đã sắp ăn hết rồi. Nếu trong vòng mười ngày không đánh được vào thành, mọi người đều sẽ phải chết đói. Nói chung là không thể cứ tiếp tục thế này được nữa, nhất định phải nghĩ biện pháp đánh phá thành trì, cướp lương thực tàng trữ ở trong thành tới tay.”

“Còn phải cướp tất cả nữ nhân trẻ tuổi ở trong thành, một người cũng không được để thoát, mang hết tất cả về núi.”

Tát Lý Cát vừa dứt lời, Mê Đương đại vương cười dâm nói tiếp một câu, nói xong ý dâm chưa hết lại nghiêng đầu liếc nhìn bộ ngực nhô cao của Phù Dung nữ vương ở bên cạnh một cái. Trên mặt của Phù Dung nữ vương lập tức bồng bềnh hai áng mây hồng, lườm Mê Đương đại vương một cái như oán trách, yêu kiều nói: “Mê Dương, nhìn cái gì mà nhìn, lão nương móc mắt ngươi ra bây giờ đấy.”

Mê Đương đại vương chẹp chẹp miệng, vội vàng di dời thị tuyến.

Phù Dung nữ vương là một đóa hoa hồng nổi danh ở Tây Khương, không biết có bao nhiêu kẻ xui xẻo ý đồ muốn hái hoa đã bị ả giẫm cho vỡ trứng. Ngay cả Tát Lý Cát cũng không dám tùy tiện trêu vào ả. Mê Đương đại vương tuy tự nhận anh vũ cái thế, chính là hảo hán chọn một trong trăm của người Khương, nhưng cũng không cuồng ngạo cho rằng mình có thể cưỡi lên được con báo cái mỹ lệ Phù Dung nữ vương này.

Thấy Mê Đương đại vương chép chép miệng, những Tây Khương đầu lĩnh khác lập tức bật cười thích ý.

“Được rồi.” Tát Lý Cát xua tay dừng tiếng cười của mọi người, nhíu mày nói: “Mọi người hãy nói xem nên phá thành Vũ Dương như thế nào bây giờ?”

Tát Lý Cát vừa dứt lời, Nhã Đan vốn được Khương nhân gọi là trí giả vuốt chòm râu dê ở dưới cằm, ung dung nói: “Nghe nói trong quân của Hán nhân có một loại vũ khí công thành vô cùng lợi hại, gọi là xe công thành, có điều chưa được thấy qua, không biết nó được làm ra như thế nào. Nếu chúng ta có thể tạo ra loại vũ khí này, đả phá thành Vũ Dương là chuyện dễ như trở bàn tay thôi.”

Phù Dung nữ vương nói: “Chính là xe công thành mà Thần Uy Thiên tướng quân dùng để công phá thành Nguyệt Thị ư?”

Nhã Đan nói: “Chính là loại xe công thành này.”

Tát Lý Cát nói: “Nếu có thể lấy được một chiếc xe công thành thì tốt quá.”

“Báo…” Tát Lý Cát vừa dứt lời, đột nhiên có tiểu đầu lĩnh vẻ mặt hốt hoảng chạy vào trong đại trướng làm bằng da trâu, quỳ xuống đất vội vàng nói: “Không xong rồi, đại sự không xong rồi.”

Tát Lý Cát đứng bật dậy, nghiêm giọng quát: “Sao thế?”

Trong mắt tiểu đầu lĩnh trên mặt lộ ra vẻ sợ hãi vô tận, run giọng nói: “Thiên… Thiên tướng quân, Thần Uy Thiên tướng quân dẫn vô số Tây Lương thiết kỵ giết tới rồi!”

“Cái gì?” Tát Lý Cát nghe vậy liền giật nảy mình, thất thanh nói: “Thiên tướng quân! Ngươi nói là Thần Uy Thiên tướng quân ư?”

Mê Đương, Nhã Đan, Phù Dung nữ vương và bọn đầu lĩnh lớn nhỏ người Khương ai ai cũng há miệng trợn mắt.

“Mau…!” Một lúc sau, Tát Lý Cát mới từ trong kinh hoàng bừng tỉnh, đứng bật dậy giống như bị một cây gậy sắt được nung nóng dí vào mông, nghiêm giọng quát lên: “Mau mau đi tập kết nhân mã, các ngươi còn ngây ra đó làm gì? Mau về tập kết nhân mã, chuẩn bị ứng chiến…”



Vũ Dương.

Tưởng Uyển đang tuần thị ở trên thành thì đột nhiên nghe thấy tiếng kèn sừng vang vọng, Khương doanh vốn vẫn vô cùng yên tĩnh trong khoảnh khắc sôi sục như nước sôi. Trong tiếng ngựa hí người hét, từng đội từng đội phản quân Tây Khương từ trong đại doanh ùn ùn kéo ra, bắt đầu bày trận. Có điều khiến Tưởng Uyển cảm thấy kỳ quái nhất là phản quân Tây Khương không bày trận hướng về phía thành Vũ Dương ở phía trong mà là bày trận ở cạnh ngoài.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 356: Pháp Hiếu Trực kế định Tây Khương (2)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

“Đại nhân, tình hình có chút bất thường.” Một tiểu lại bước lên, nói khẽ: “Nhìn cử động của Khương binh, chẳng lẽ là Thành đô phái viện quân tới rồi?”

“Viện quân của thành đô?” Tưởng Uyển ắc đầu, không đồng ý, nói: “Thành đô chỉ có một vạn quân đội, không thể phái viện quân tới được đâu.”

Tiểu lại nói: “Chẳng lẽ Khương nhân cũng biết dùng tâm nhãn ư?”

Tưởng Uyển nói: “Cũng không giống lắm, có điều vẫn phải đề cao cảnh giác, lập tức triệu tập binh sĩ lên tường thành.”

Tiểu lại nói: “Hạ quan đi đây.”

Tiểu lại vừa rời đi thì một binh sĩ tinh mắt ở bên cạnh đột nhiên gào lên: “Đại quân mau nhìn kìa, đó là gì vậy?”

Tưởng Uyển vội vàng nhìn xung quanh, ngây ngốc hỏi: “Chỗ nào?”

Sĩ thủ vội vàng giơ tay chỉ về hướng đông, nói: “Phía đông!”

Tưởng Uyển vội vã quay đầu, nhìn về chân trời xa xa ở phía đông, đột nhiên phát hiện trên vùng hoang dã trống trải lúc này đã xuất hiện một mảng mây đen, điều đặc biệt khiến kinh hãi chính là mảng mây đen này đang chậm rãi nhúc nhích về phía trước, không tới một lát, đã tiếp cận thành Vũ Dương gần hơn nhiều. Trong thoáng chốc, Tưởng Uyển liền nghe thấy tiếng sấm động ầm ầm từ phía chân trời xa xa truyền tới.

“Đại nhân, là kỵ binh!” Sớm đã có binh sĩ hưng phấn hét lên: “Rất nhiều kỵ binh!”

“Đó nhất định là Tây Lương thiết kỵ!”

“Là viện quân của chúng ta!”

“Viện quân tới rồi, ha ha ha, chúng ta được cứu rồi!”

Trong khoảnh khắc, tướng sĩ quân Xuyên ở đầu thành Vũ Dương hoan hô nhảy nhót, mây đen của áp lực và tử vong kéo dài suốt những ngày qua lập tức tan biến, rất nhiều tướng sĩ thậm chí còn ôm nhau khóc rống lên vì vui mừng.



Ngoài thành Vũ Dương.

Bọn Khương Vương lớn nhỏ Tát Lý Cát, Mê Đương, Phù Dùng dưới sự vây quanh của mấy ngàn Khương kỵ giục ngựa xuất trận, nhìn về chân trời ở phía đông, chỉ thấy cả vạn đầu ngựa chạy chồm, Tây Lương thiết giáp đông nghìn nghịt đang ùa tới, mảng mây đen băng lãnh đó cơ hồ là che khuất cả vẻ tĩnh lặng vốn có, thậm chí ngay cả trời cao xanh ngát cũng bởi vì sự dữ tợn của thiết giáp mà biến thành ngưng trọng.

Trước trận của Tây Lương thiết kỵ, một kỵ binh đang giục ngựa chạy nhanh.

Khải giáp với ánh sáng bạc lấp lánh, cẩm bào chói mắt, diện khôi đầu quỷ dữ tợn, cùng với lông bờm màu bạc phất phơ theo gió ở phía sau gáy, một thanh ngân thanh dài ba trượng đâm thẳng lên trời, cơ hồ như muốn đấm vỡ cả lòng can đảm của Khương nhân. Đặc biệt khiến người ta ngạt thở là phía sau kỵ binh đó một kỵ thủ theo sát, trong tay kỵ thủ giơ cao một lá đại kỳ xanh thẳm như bầu trời.

Khương nhân đại đa số là không biết chữ, do đó không nhận ra chữ Hán ở trên đại kỳ, nhưng bọn họ nhìn hiểu tranh vẽ. Hình còn ngựa trắng đang đằng vân giá vụ ở trên mặt cờ khiến bọn chúng sợ vỡ mật. Tại cả mấy trăm bộ lạc Tây Khương, cho dù là đứa nhỏ còn đang bú sữa cũng biệt hình con ngựa bay này đại biểu cho cái gì? Cái mà nó đại biểu là Thần Uy Thiên tướng quân không thể chiến thắng, không thể khinh nhờn - Mã Siêu!

Mã Siêu hai lần đồ sát Tây Vực, thây trải dài cả vạn dặm, viễn chinh an tức, lại dùng ngàn quân phá tan mười vạn đại quân, trên đường hồi sư Trung Nguyên còn tiện đường đạp phá thập nhị Khương ở Tây Thùy. Cái thế công huân tiền vô hậu nhân, hậu vô lai giả này sớm đã định rõ địa vị chí cao vô thượng của Mã Siêu ở trong lòng Khương nhân. Trong lòng Khương nhân, Mã Siêu chính là thần, chiến thần bất khả chiến thắng!

“A…”

Triêu Vân giơ thương lên trời, ngửa cô huýt dài.

Trong quân Tây Khương lập tức vang lên tiếng hít thở nặng nhọc, quân trận khổng lồ do hơn mười vạn phản quân bày thành vì một tiếng huýt dài này của Triệu Vân mà sợ hãi phải lùi ra sau mấy bước. Khương binh lo sợ nhìn xung quanh, tất cả bọn chúng đều có thể nhìn thấy sự sợ hãi và bất an ở trong mắt đồng bạn. Hoàn cảnh sinh tồn của Khương nhân cực kỳ ác liệt, trước giờ coi tử vong như vô vật, trời sinh đã có một sức chịu đựng kinh người đối với tử vong. Duy có khi đối diện với quỷ thần thì bọn chúng mới cảm thấy sợ hãi.

“Đừng hoảng hốt! Không được phép lui về phía sau…”

Tát Lý Cát trong lòng cũng cảm thấy sợ hãi, nhưng hắn chung quy vẫn là đại vương của năm vạn Khương nhân, ít nhiều cũng quen với cảnh đời, vẫn có dũng khí ở trước trận động viên tinh thần cho phản quân Tây Khương. Khi Tát Lý Cát đang muốn giục ngựa lao lên thì bên tai đột nhiên nghe thấy một tiếng rít sắc nhọn, lập tức có sát cơ lạnh toát ập đến.

Tát Lý Cát cúi đầu xuống theo bản năng, chỉ nghe thấy phốc một tiếng, trong trận của Khương binh ở phía sau đột nhiên xôn xao.

Một chiếc lông chim từ trên trời chậm rãi rơi xuống, đó rõ ràng chính là lông vũ trên mũ giáp của Tát Lý Cát.

Ở cách xa mấy trăm bước, một tiễn bắn bay lông vũ trên đỉnh đầu Tát Lý Cát, đây là dạng tiễn thuật khủng bố như thế nào? Nếu Thiên tướng quân có ý bắn người, Tát Lý Cát lúc này còn có thể sống sót được không?

Sau khi sự chấn kinh qua đi, Tát Lý Cát dùng tốc độ kinh người xoay mình xuống ngựa, hoảng sợ quỳ xuống bụi cát, hai tay giơ cao lang nha bổng lên quá đỉnh đầu, miệng lầm bầm, giống như là đang cầu khẩn thiên thần. Ở phía sau Tát Lý Cát, mười mấy vạn Khương nhân của các bộ lạc đều nhao nhao quỳ xuống theo.

“Hô hô hô…”

Trong tiếng hít thở trầm trọng của chiến mã, Triệu Vân giống như một cơn gió lốc phi tới trước mặt Tát Lý Cát, sau đó ghìm mạnh cương ngựa. Tọa kỵ ở bên dưới lập tức đứng thẳng lên, vó trước sau khi đá loạn trong không trung thì nặng nề đáp xuống. Vó sắt cực đại cơ hồ là đạp sượt qua mặt Tát Lý Cát, chỉ gần thêm mấy ly nữa thôi là đầu của Tát Lý Cát đã bị đạp nát một cách vô tình.

Tát Lý Cát trong miệng lẩm bẩm Khương ngữ khó hiểu. Hai tay giơ cao lang nha bổng tượng chưng cho thân phận và quyền uy, thành kính quỳ trước mặt Triệu Vân.



Tân Dã.

Ba ngày sau, lửa lớn trên dốc Bác Vọng cuối cùng cũng tắt. Mã Đại dẫn quân tiến vào thành hiệu Tân Dã. Tào Chân cũng tự mình dẫn ba vạn quân Sở tới nơi, hai quân giằng co ở ngoài thành, ước định hôm sau hội chiến.



Đại doanh của quân Lương. Quân trướng của Mã Đại.

Mạnh Đạt nói: “Quân Sở và quân ta binh lực tương đương, nhưng quân Sở đại đa số là bộ binh, kỵ binh rất ít, mà quân ta đều là kỵ binh, hơn nữa còn có ba ngàn trọng giáp thiết kỵ vô địch. Do đó hội chiến ngày mai nên dùng trọng giáp thiết kỵ đâm xuyên trung quân của quân Sở, ba vạn thiết kỵ có thể chia làm ba lộ. Một lộ theo đuôi trọng giáp thiết kỵ làm tê liệt quân Sở, hai lộ thiết kỵ còn lại vu hồi ra hai cánh, chia cắt quân Sở rồi bao vây tiêu diệt!”

Cái mà Mạnh Đạt nói là chiến thuật đâm xuyên điển hình của kỵ binh, cũng là chiến thuật mà Tây Lương thiết kỵ quen dùng.

Ý chính của nó chính là trước tiên dùng trọng giáp thiết kỵ đâm xuyên quân dịch, chia cắt quân địch khiến cho chúng đầu đuôi không lo được cho nhau, sau đó lợi dụng ưu thế tốc độ của Tây Lương thiết kỵ để vây khốn quân dịch, khiến chúng không thể động đậy, sau cùng sẽ diệt đi từng lớp từng lớp quân địch giống như là lộTào Chân vỏ cà rốt, cho đến khi quân địch hoàn toàn bị tiêu diệt. Chiến thuật này vốn là chiến thuật mà người Hồ ở thảo nguyên quen dùng, nhưng từ sau khi Mã Dược chinh phục Ô Hoàn, liền đưa chiến thuật này vào trong những chiến thuật của Tây Lương thiết kỵ.

Tô Tắc nói: “Mạt tướng tán đồng ý kiến của Tử Độ (tự của Mạnh Đạt).”

Mã Đại hỏi Tư Mã Ý: “Trọng Đạt thấy thế nào?”

Tư Mã Ý nói: “Tại hạ cho rằng đối sách ổn thỏa nhất là dựa vào doanh trại mà thủ, đợi đại quân của thừa tướng tới rồi tính. Có điều nói đi nói lại, nếu thật sự sợ đánh không dám ra thì rất dễ làm nhụt đi nhuệ khí của ba quân. Do đó, tại hạ trên cơ bản là ủng hộ ý kiến của Tử Độ. Có điều hội chiến ngày mai, nhị tướng quân ngàn vạn lần đừng lơ là khinh địch, để tránh đi theo vết xe đổ của thiếu tướng quân.”

“Trọng Đạt yên tâm.” Mã Đại nghiêm nghị nói: “Đại cừu của huynh trưởng chưa báo, bản tướng quân tuyệt không khinh địch.”

“Như vậy thì tốt rồi.” Tư Mã Ý nói: “Chỉ cần nhị thiếu tướng quân không kinh địch, dụng binh ổn trọng, Gia Cát Lượng cho dù có tài thông thiên triệt địa, e rằng cũng không thể xoay chuyển được sự chêch lệch lớn lao về lực lượng giữa quân Sở và quân ta, đánh thắng Tân Dã chi chiến không phải là chuyện xa vời. Trên thực tế, Vu huyện chi chiến lúc trước nếu không phải là thiếu tương quân kinh địch liều lĩnh, Gia Cát Lượng sao có thể làm gì được quân ta?”



Đại doanh của quân Sở, quân trướng của Tào Chân.

Gia Cát Lượng mỉm cười, nói với Tào Chân: “Chúa công, xem ra phong cách hành sự của Mã Đại khác hẳn nãi huynh của hắn. Mã Siêu tính nóng như lửa, thế công lăng lệ, khiến người ta khó có thể chống đỡ. Nhưng Mã Đại lại cẩn thận, không nhanh không chậm, ổn trọng như núi lớn. Không ngờ hỏa thiêu Bác Vọng xong lại chịu đợi ba ngày chứ không khinh địch tiến tới, thật sự là rồng sinh chín con, không con nào giống con nào.”

“Đúng vậy.” Tào Chân gật đầu, buồn bã nói: “Mã gia có thể nói là anh tài lớp lớp, Tào gia chúng ta thì nhân tài điêu linh, ài.”

Gia Cát Lượng vội vàng nói: “Chúa công anh tài cái thế, hạng Mã Siêu, Mã Đại sao có thể sánh bằng?”

“Được rồi.” Tào Chân xua xua tay, nói: “Nói tới hội chiến ngày mai di, không biết nỗ xa (xe nỏ) mà Văn Viễn và Tử Dương áp vận có thể đưa tới Tân Dã trước ngày mai không. Nếu không có chỗ nỗ xa này, hội chiến ngày mai ắt sẽ lành ít dữ nhiều.”

“Chúa công.”

“Chúa công.”

Tào Chân vừa dứt lời, Trương Liêu, Lưu Diệp đã bước vào trướng.

Lưu Diệp dùng tay áo lau mồ hôi trên trán, hổn hển nói: “Chúa công, tại hạ may không nhục mệnh.”

“Ồ.” Tào Chân vui vẻ nói: “Nỗ xa đã vận tới chưa?”

Lưu Diệp nói: “Đủ năm trăm chiếc, đã vận tới toàn bộ rồi.”

“Tốt, tốt quá rồi!” Tào Chân kích động nói: “Có chỗ xe này, hội chiến ngày mai quân ta thắng chắc rồi!”

“Tại hạ sớm đã trông chờ ngày này!” Lưu Diệp dùng sức nắm chặt quyền đầu, phấn kích nói: “Hứa Xương chi chiến năm đó, tại hạ trơ mắt nhìn bao nhiêu tướng sĩ anh dũng phải ngã xuống trước nỗ xa của quân Lương. Tại hạ rút kinh nghiệm xương máu, từng thề với trời cao rằng có một ngày sẽ phải tạo ra nỗ xa tương tự, trả lại quân Lương tao ngộ của quân ta ở ngoài thành Hứa Xương gấp chục, gấp trăm lần!”

Trương Liêu, Trương Cáp là đại tướng may mắn sống sót trong Hứa Xương chi chiến, hai người biết rõ uy lực khủng bố của nỗ xa, một khi rơi vào trong phạm vi bao vây của nỗ xa, cho dù là binh sĩ năng chinh thiện chiến cũng đừng hòng đột phá vòng vây, lập tức hai người cũng gật đầu phụ họa: “Có chỗ nỗ xa này, hội chiến ngày mai nhất dịnh sẽ giết cho quân Lương trở tay không kịp!”

..

Thành đô, phủ thứ sử.

Trương Tùng đang dựa vào bàn uống rượu thì đột nhiên có Phí Thi mặt mày hớn hở chạy vào, chắp tay nói: “Vĩnh Niên huynh, Vũ Dương đại thắng rồi!”

“Hả?” Trương Tùng đứng bật dậy, vuốt chòm râu dê dưới cằm, vội vàng hỏi: “Nói vậy thế tử thực sự đã bình định được phản quân Tây Khương rồi ư?”

“Bình định rồi!” Phí Thi vui vẻ nói: “Tưởng Uyển đưa thư tới nói rằng, đại quân triều đình vừa tới Vũ Dương, thủ lĩnh của phản quân là Tát Lý Cát, Mê Dương, Phù Dung đều đầu hàng, thế tử có thể nói là không tốn một binh một tốt mà bình định được phản loạn Tây Khương.”

“Tốt quá rồi!” Trương Tùng vui vẻ nói: “Thế tử dụng binh rất có phong phạm của thừa tướng.”

Phí Thi nói: “Vĩnh An, còn có một tin tức tốt nữa.”

Trương Tùng vội vàng nói: “Công Cử mau nói ra đi.”

Phí Thi nói: “Thái thú Vĩnh An Trương Tú sai khoái mã đưa tin, hai vạn quân Sở của Trương Liêu đã rút về Tương Dương, phản loạn Ngũ Khê Man cũng đã ngừng công kích, chỉ còn lại phản quân Nam man của Mạnh Hoạch vẫn tàn sát bừa bãi ở Kiến Ninh!”

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 357: Bại thối Gi­ang Lăng (1)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Bầu trời phía đông vừa lộ ra một tia nắng nhàn nhạt thì ngoài thành Tân Xã đã vang lên tiếng kèn lệnh lanh lảnh.

Trong tia nắng ban mai mỏng manh, đông môn của huyện Tân Dã chậm rãi mở ra, Văn Sính dẫn thủ quân trong thành từ đông môn ùn ùn tiến ra, đến ngoài thành thì bày trận. Trong đại doanh của quân Sở ở ngoài thành cũng ồn ào tiếng người, từng đội từng đội tướng sĩ quân Sở mang võ trang hạng nặng dưới tiếng quát của tướng lĩnh đã tiến ra khỏi đại doanh. Khi tới vùng trống trải ở thành đông thì cũng bày trận thế. Cơ hồ là quân Sở vừa bày trận thế xong thì đường chân trời mênh mông ở phía trước cũng nổi lên một mảng mây đen.

Khi mặt trời đỏ chói ló dạng khỏi chân trời phía đông, rải ngàn vạn tia nắng vàng xuống đồng bằng. Dưới mặt trời đỏ rực, gót sắt rầm rập, đầu ngựa lúc nhúc, cả ba vạn Tây Lương thiết kỵ hội tụ thành một dòng sắt cuồn cuộn, đang từ huyện bắc của Tân Dã ùa tới. Dõi mắt nhìn, đường chân trời ở nơi xa trừ chiến mã đang chạy chồm ra thì không còn nhìn thấy bất kỳ cảnh vật nào khác.

Mảng thiết giáp đen bóng đó giống như là vật thể từ một thế giới dữ tợn đáng sợ, lại giống như là bóng đè khiến người ta cảm thấy ngạt thở, tướng sĩ quân Sở ở trước trận chỉ có một số ít là tới từ phương bắc, còn đâu tuyệt đại đa số đều là người Kinh châu, bọn họ trước giờ chưa từng được nhìn thấy binh phong của Tây Lương thiết kỵ. Khi mảng thiết giáp mênh mông dùng thế bài sơn đảo hải ép tới thì cơ hồ là tất cả tướng sĩ quân Sở đều bắt đầu run lẩy bẩy.

Tây Lương thiết kỵ, đây chính là Tây Lương thiết kỵ trong truyền thuyết!

“Rầm…”

Trong tiếng rầm rập từ xa ép tới gần, tiếng vó ngựa của Tây Lương thiết kỵ cuối cùng cũng cuốn đi tất cả thế giới, trong thiên địa chỉ còn lại tiếng rầm rập khiến người ta phải ngạt thở. Ngoài tiếng rầm rập ra, không còn nghe thấy bất kỳ một thanh âm nào khác.

Tào Chân hít một hơi lạnh, cố gắng bảo trì sự trấn định, quay đầu lại nói với Trương Liêu, Trương Cáp: “Nỗ xa đã được chuẩn bị tốt chưa?”

“Đều chuẩn bị tốt rồi!”

Trương Liêu, Trương Cáp ầm ầm ứng tiếng.



Trước trận của Tây Lương thiết kỵ.

Mã Đại giơ cao trường đao trong tay lên rồi dừng trên không trung, Tây Lương thiết kỵ đang ùn ùn tiến lên trước ở phía sau hắn trong khoảnh khắc liền bắt đầu giảm tốc. Hơn nữa còn nhanh chóng triển khai sang hai cánh, khi cự ly còn cách quân Sở một ngàn bước thì ba vạn Tây Lương thiết kỵ đã hoàn toàn triển khai xong, bày ra trận hình kỵ binh nghiêm cẩn.

Trong tiến kèn lệnh lanh lảnh, Mã Đại dưới sự vây quanh của Mạnh Đạt, Tô Tắc, Tư Mã ý giục ngựa xuất trận.

Tư Mã ý đột nhiên nhíu mày, nói với Mã Đại: “Nhị tướng quân, tình hình không đúng lắm.”

“Sao vậy?” Mã Đại hỏi: “Trọng Đạt phát hiệt ra điều gì bất thường ư?”

“Không có.” Tư Mã Ý lắc đầu nói: “Tại hạ không phát hiện ra bất kỳ sơ hở gì, có điều…”

Mã Đại nói: “Có điều làm sao?”

Tư Mã Ý nói: “Tại hạ cũng không nói ra được, chỉ là cảm thấy bầu không khí có chút không đúng.”

“Trọng Đạt có phải là đêm qua ngủ không được ngon không?” Mạnh Đạt không đồng ý, nói: “Ngươi đừng nghi thần nghi quỷ làm ảnh hưởng tới quân tâm nữa. Binh lực của quân Sở và quân ta là tương đương, mà quân Sở đại đa số là bộ binh, quân ta thì toàn là kỵ binh, kỵ binh đối bộ binh với binh lực ngang bằng, trận chiến này đánh kiểu gì mà chẳng thắng. Nhị tướng quân không cần phải do dự làm gì nữa, cứ hạ lệnh tiến công đi.”

“Đợi đã.” Tư Mã Ý đột nhiên vẻ mặt khẽ động, vội vàng đưa tay ra, nói: “Tại hạ biết rồi, tại hạ biết không thỏa đáng ở chỗ nào rồi!”

Mã Đại nhíu mắt lại, hỏi: “Chỗ nào không thỏa?”

“Binh lực!” Tư Mã Ý nói: “Binh lực của quân Sở chẳng qua chỉ có khoảng ba vạn, trên cơ bản là tương đương với quân ta, nhưng bọn chúng không ngờ lại dám bày trận dã chiến với quân ta ở ngoài thành. Đây chẳng phải là khả nghi sao?”

Mã Đại trầm giọng nói: “Ý của Trọng Đạt là…”

“Bên trong tất có điều kỳ quặc.” Tư Mã ý nói: “Tại hạ cho rằng không nên mạo hiểm tiến công.”

“Hừ.” Mạnh Đạt không đồng ý, nói: “Có thể có gì kỵ quặc chứ? Đào lỗ bẫy ngựa? Giăng thừng gạt ngựa ư (giăng giây ở chỗ tối để gạt ngã người ngựa của đối phương)?”

Tư Mã Ý lắc đầu nói: “Nếu là đào hố bẫy ngựa và giăng thừng gạt ngựa, chẳng qua chỉ là mấy mánh lới rẻ tiền, căn bản không đủ để làm ảnh hướng tới đại cục, trong đây nhất định là có huyền cơ khác.”

Nói tới đây thì dừng lại, sau khi nghĩ ngợi một thoáng thì Tư Mã Ý liền nói với Mã Đại: “Nhị tướng quân, sao trước tiên không phái hai ngàn kỵ binh thử phản ứng của quân Sở?”

Mã Đại trầm ngâm một lát rồi đồng ý: “Được, Mạnh Đạt nghe lệnh.”

Mạnh Đạt vội vàng giục ngựa lên trước, nói: “Có mạt tướng.”

Mã Đại nói: “Dẫn hai ngàn thiết kỵ… xuất kích!”

“Mạt tướng tuân lệnh!” Mạnh Đạt ôm quyền vái một cái trên lưng ngựa, giục ngựa tới trước trận, giơ trường thương trong tay lên rồi dùng lực hất một cái, nghiêm giọng quát: “Tiền quân thiết kỵ… xuất kích!”



Trong trận của quân Sở.

“Hả?” Trương Liêu đột nhiên ồ lên một tiếng kinh ngạc, nói với Gia Cát Lượng: “Quân sư, Mã Đại hình như chỉ phái hai, ba ngàn kỵ binh tiến công trước thôi.”

Gia Cát Lượng lạnh lùng nói: “Mã Đại dụng binh cẩn thận, đây là chuyện trong ý liệu.”

Ngụy Duyên hỏi: “Vậy hiện tại nên làm thế nào? Trong trận có nhiều bách tính bị bắt cóc như vậy, thời gi­an kéo dài rất dễ lộ sơ hở.”

Gia Cát Lượng nói: “Không có quân lệnh của bản quân sư, hậu quân không được khinh cử vọng động.”

Trương Liêu hỏi: “Hai, ba ngàn Tây Lương thiết kỵ này ứng phó như thế nào đây?”

Gia Cát Lượng nói: “Kim Toàn đâu?”

Kim Toàn vội vàng giục ngựa lên trước, ôm quyền thưa: “Có mạt tướng.”

Gia Cát Lượng nói: “Dẫn ba ngàn man binh lên chặn đánh Tây Lương thiết kỵ.”

“Tuân lệnh.”

Kim Toàn dạ một tiếng, điểm ba ngàn Ngũ Kê man binh rồi xông lên trước.

Không tới một lát, khoảng cách giữa hai quân chỉ còn mấy chục bước. Mạnh Đạt hạ lệnh một tiếng, kỵ binh ở hàng trước nhao nhao ném lao ra. Kim Toàn hô một tiếng, man binh chạy trước nhao nhao giơ lỗ thuận trầm trọng trong tay lên để đỡ. Cảnh tượng trong dự đoán của tướng sĩ quân Lương không ngờ lại không phát sinh, chỉ khi làn mưa lao rơi xuống, có mấy chục man binh hô thảm một tiếng rồi ngã xuống trong vũng máu, nhưng tuyệt đại đa số man binh đều không chịu chút thương tổn nào, vẫn tiếp tục chạy nhanh lên trước.

Rõ ràng, quân Sở đối với lợi khí lao mà Tây Lương thiết kỵ quen dùng sớm đã có phòng bị. Lỗ thuẫn của những man binh này vừa lớn lại vừa nặng, độ dày và độ cứng của nó đủ để ngăn cản được sức đâm của lao.

“Đáng ghét!”

“Mạnh Đạt hừ một tiếng, vội vàng giơ trường thương lên chỉ vào cánh trái, hai ngàn Tây Lương thiết kỵ đang ùa tới nhanh chóng đổi phương hướng chạy nước rút, cơ hồ là cắt xéo qua trước trận của ba ngàn man binh, sau đó ở trước tận vòng một vòng vu hồi ra sườn sau của man binh. Có điều Mạnh Đạt rất nhanh liền phát hiện lần này đúng là gặp phải phiền phức rồi. Tây Lương thiết kỵ vừa cắt qua chính diện, man binh liền lập tức dừng tiến lên mà kết thành một trận phòng ngự hình tròn.

Hơn một ngàn lỗ thuẫn kiên cố dày cộp được dựng lên ở trước trận của man binh, tạo thành một bức tường thuẫn dày, cả man binh trận trông giống như một con rùa, đầu và tứ chi đều co rút vào trong cái mai kiên cố. Tây Lương thiết kỵ cho dù là một con sư tử, lúc này cũng cảm thấy không có chỗ nào để đớp. Đặc biệt khó giải quyết là trên mai của con rùa này còn có đầy mũi nhọn sắc bén. Đó chính là hơn một ngàn trường mâu được chĩa ra qua các khe hở của lỗ thuẫn.

Phó tướng giục ngựa tới gần Mạnh Đạt, nghiêm giọng hỏi: “Tướng quân, hiện tại làm sao bây giờ?”

Mạnh Đạt sầm mặt xuống, tức giận quát: “Con mẹ nó, ngươi dẫn hai trăm kỵ binh đột kích từ chính diện, đập vỡ cái xác rùa này cho bản tướng quân!”

“Tuân lệnh!”

Phó tướng ầm ầm lĩnh mệnh, phất trảm mã đao trong tay về phía trước. Trong đại đội kỵ binh đang chạy quanh man binh với tốc độ rất nhanh lập tức chia ra hai trăm kỵ binh, theo sau phó tướng quay đầu ngựa lại, trùng sát thẳng về phía mai rùa hình tròn do man binh xếp thành!



Năm mươi dặm về phía trước huyện Tân Dã, hai mươi vạn đại quân Tây Lương đang rầm rập nam hạ.

Bản trận trung quân, một chiếc xe ngựa khổng lồ đang thuận theo quan đạo chậm rãi tiến về phía trước. Thùng xe rộng rãi do một tấm bình phòng chia thành hai gi­an. Bên trong trang trí rất xa hoa, tất cả những dụng cụ cần dùng đều có cả. Mã Dược lúc này đang dựa vào giường mềm chợp mắt. Hai nữ tử trẻ tuổi thân hình yểu điệu, dung mạo xinh đẹp đang cong mông ngồi đấm đùi cho Mã Dược ở trước giường.

Gi­an bên ngoài bày biện như một phòng khách, chính diện bình phong treo một bản đồ quân sự Kinh bắc. Giả Hủ, Lý Túc và Lỗ Túc đang ngồi ở trước bàn thấp giọng nghị luận gì đó. Khi ba người đang nói chuyện thì rèm xe ngựa đột nhiên bị người ta vén lên, một bóng người nhoáng lên, Khoái Việc đã cúi người chui vào thùng xe, hỏi ba người: “Chúa công tỉnh ngủ chưa?”

Lý Túc lắc đầu nói: “Chưa?”

“Là Dị Độ à?” Lý Túc vừa dứt lời, phía sau bình phong đột nhiên vang lên giọng nói của Mã Dược: “Có phải là Phương Duyệt, Từ Hoảng đã đắc thủ rồi không?”

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 357: Bại thối Gi­ang Lăng (2)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Bọn Giả Hủ vội vàng đứng dậy.

Rèm châu được vén lên, Mã Dược mặc cẩm cừu từ bên trong đi ra, ngẩng đầu bảo mọi người: “Nào nào nào, mọi người không cần phải câu thúc như vậy, cứ ngồi xuống nói chuyện đi.”

Đợi Mã Dược ngồi xuống trước, bọn Giả Hủ mới dám ngồi xuống theo.

Khoái Việt lúc này mới dám chắp tay nói: “Chúa công, vừa rồi khoái mã hồi báo, hai lộ thiên sư của Từ Hoảng tướng quân, Phương Duyệt tướng quân đã chia nhau bất ngờ đánh chiếm Tảo Dương, Đăng thành. Hiện tại đang nhánh chóng tiến tới sườn sau Tân Dã! Nếu không có gì bất ngờ, hai lộ thiên sư vào chiều hôm nay sẽ tới Tân Dã. Đại quân của Tào Chân đang giằng co với nhị tướng quân ở Tân Dã sẽ rơi vào trọng vây của quân ta.”

Mã Dược nói: “Nói vậy thì thằng nhãi Tào Chân đã trúng kế rồi?”

Lý Túc nói: “Xem ra vẫn là quân sư cao hơn một bậc. Tào Chân, Giả Hủ đều không ngờ được rằng ba vạn tiên phong thiết kỵ của nhị tướng quân kỳ thực chỉ là mồi nhử. Mà bọn chúng không ngờ lại thực sự điều tập chủ lực của quân Sở tới Tân Dã để hội chiến với nhị tướng quân. Dụng ý của thằng nhãi Tào Chân không gì ngoài muốn kích bại nhị tướng quân trước để làm nhụt nhuệ khí của quân ta. Ý nghĩ này rất hay, nhưng kết qua chưa chắc đã được như ý người.”

Giả Hủ nói: “Nhưng cũng không được lơ là, phải biết từ Tân Dã tới Tương Dương có Dục Thủy nối liền, thủy quân Kinh châu tùy thời có thể bắc thượng để tiếp ứng.”

“Cô cũng không hi vọng chỉ một trận chiến mà có thể bình định được Kinh châu đâu.” Mã Dược lạnh lùng nói: “Có thể ở Tân Dã giải quyết Tào Chân và Gia Cát Lượng tất nhiên là điều tốt nhất. Nếu giải quyết không được thì cũng không sao cả, lần này cô dùng ba mươi vạn đại quân hoành tảo Kinh Bắc, cũng muốn xem xem Gia Cát thôn phu chống trả thế nào?”



Tân Dã.

Mạnh Đạt mặt mày bơ phờ quay về bản trận, nói với Mã Đại: “Mạt tướng vô năng, xin tướng quân trách phạt.”

Đối diện với quy giáp trận của man binh quân Sở, Mạnh Đạt rõ ràng là không có biện pháp, trước sau phái ba đội ký binh hòng đột phá trận phòng ngự của man binh từ chính diện, kết quả đều giết không được mà phải lui. Sau cùng không ngờ còn bị man binh bất ngờ nghịch tập một hồi, trước sau tổng công hao tổn sáu, bảy trăm kỵ binh. Sau cùng Mạnh Đạt bất lực chỉ đành thu binh quanh về bản trận.

“Mạnh Đạt tướng quân không cần phải tự trách.” Mã Đại lên tiếng an ủi: “Quy giáp trận của quân Sở quả thật là rất khó đối phó.”

“Thì ra là như vậy, ha ha ha, thì ra cũng chẳng qua là như vậy!” Tư Mã Ý ở bên cạnh đột nhiên bật cười, nói với Mã Đại: “Nhị tướng quân, hiện tại có thể đại cử tiến công rồi.”

Mã Đại ngạc nhiên nói: “Vì sao lại như vậy?”

Tư Mã Ý nói: “Vừa rồi không biết hư thực của quân Sở, do đó không thể tùy tiện xuất kích. Sự xuất kích của Mạnh Đạt tướng quân tuy không đạt được kết quả gì mà phải quay về, nhưng cũng đã thăm dò được hư thực của quân Sở. Cái mà quân Sở ỷ vào chẳng qua là quy giáp phòng ngự trận. Quy giáp phòng ngự trận này tuy rất khó đối phó, nhưng ở trước mặt trọng giáp thiết kỵ của quân ta thì lại không kham nổi một kích! Hiên tại đã nắm được rõ hư thực của quân địch rồi, tất nhiên là có thể đại cử tấn công!”

“Hiểu rồi.” Mã Đại trầm giọng nói: “Mã Hưu nghe lệnh.”

Mã Hưu vội vàng giụp ngựa lên trước, nghiêm giọng thưa: “Có mạt tướng.”

Mã Đại nói: “Dẫn hai ngàn trọng giáp thiết kỵ, từ trung lộ đâm xuyên địch trận!”

“Tuân lệnh!”

Mã Hưu kéo mặt nạ quỷ của đầu khôi xuống, giụp ngựa phi đi.

Mã Đại lại nói: “Mạnh Đạt, Tô Tắc nghe lệnh.”

Mạnh Đạt, Tô Tắc vội vàng giục ngựa lên trước, ôm quyền thưa: “Có mạt tướng.”

Mã Đại quát: “Mỗi người dẫn tám ngàn thiết kỵ vu hồi hai cánh!”

“Tuân lệnh!”

“Tuân lệnh!”

Mạnh Đạt, Tô Tắc ầm ầm ứng tiếng.

Mã Đại sau cùng quát lên: “Những chư tướng còn lại thì dẫn tinh kỵ bản bộ, đột kích từ trung lộ!”



Bản trận của quân Sở.

Kim Toàn thở hổn hển quay về trung quân, nói với Tào Chân: “Chúa công, mạt tượng may mắn không nhục mệnh!”

“Rất tốt!” Tào Chân vui vẻ gật đầu: “Tướng quân khổ cực rồi, hãy về hậu trận tạm thời nghỉ ngơi đi.”

“Tuân lệnh.”

Kim Toàn dạ một tiếng, lĩnh mệnh mà đi.

“Chúa công!” Đúng vào lúc này, Trương Liêu đột nhiên cười to: “Tây Lương thiết kỵ muốn đại cử tiến công, trọng giáp thiết kỵ đã xuất kích rồi!”

Tào Chân giật mình, khi quay đầu lại nhìn thì quả nhiên thấy Tây Lương thiết kỵ đông nghìn nghịt đã giống như là nước sôi sôi trào, một nhánh trọng giáp thiết kỵ cả người từ đầu đến chân, thậm chí ngay cả tọa kỵ cũng được bao bọc trong thiết giáp đã từ trung quân hùng dũng đi ra. Nhánh thiết kỵ này rõ ràng là cao to hơn, cường tráng hơn cả Tây Lương kỵ binh, thậm chí ngay cả tốc độ của chiến mã cũng lộ ra vẻ vô cùng nhanh nhẹn.

“Tốt quá rồi!” Ngụy Duyên không nhịn được mà gào lớn: “Quân Lương trúng kế rồi, ha ha ha!”

“Khổng Minh.” Tào Chân quay đầu lại nhìn Gia Cát Lượng, trầm giọng nói: “Tây Lương thiết kỵ trúng kế rồi!”

“Vâng.” Gia Cát Lượng nhẹ nhàng gật đầu, trên khuôn mặt trẻ tuổi nho nhã không ngờ lại không có một tia đắc ý nào, lạnh lùng nói: “Chư tướng có thể theo kế mà hành động, không được làm rối loạn trật tự.”

Bọn chư tướng Trương Liêu, Trương Cáp, Ngụy Duyên, Văn Sính, Lý Nghiêm rầm rầm thưa: “Mạt tướng lĩnh mệnh.”

Gia Cát Lượng hạ lệnh một tiếng, quân Sở nhanh chóng bắt đầu hành động.

Thân binh trung quân bảo vệ Tào Chân, Gia Cát Lượng nhanh chóng lui về phía bờ sông Dục Thủy, năm ngàn quân Kinh châu do Sái Mạo suất lĩnh sớm đã ở bờ sông tiếp ứng. Bốn ngàn man bình bày thành hai quy giáp phòng ngự trận hình tròn ở chính diện, Ngụy Duyên, Trương Liêu mỗi người dẫn hai ngàn “bộ binh” bảo vệ hai cánh. Lý Nghiêm thì suất lĩnh tám ngàn “cung tiễn thủ” áp trận. Chỉ có Trương Cáp dẫn năm ngàn khinh nghị ẩn ở hậu trận, súc thế chờ phát động tấn công.



Hậu trận của quân Lương.

Tư Mã Ý cười lạnh, nói: “Quả nhiên không ngoài suy đoán. Thằng nhãi Tào Chân muốn dựa vào quy giáp trận để chống đỡ sự trùng kích của quân ta, hòng làm tiêu hao nhuệ khí của quân ta, sau đó thì dùng cung tiễn thủ để sát thương quân ta, đợi khi quân ta tử thương thảm trọng bị bức phải rút lui thì lại điều động khinh kỵ binh nghịch tập. Hừ hừ, nếu không có trọng giáp thiết kỵ, quân Sở có lẽ có sáu phần thắng, hiện tại thì quân Sở thua chắc rồi!”

“Ừ.” Mã Đại gật đầu nói: “Xen ra Kinh châu có thể bình định rất nhanh.”

“Tướng quân mau nhìn kìa.” Mã Đại vừa dứt lời, đột nhiên có thiên tướng hưng phấn gào lên: “Trọng giáp thiết kỵ đã đâm xuyên phòng ngự trận của quân Sở rồi!”

“Trận cước của quân Sở bắt đầu đại loạn rồi!”

“Quân Sở đã bị cắt thành hai nửa ở trung lộ rồi!”

“Mạnh Đạt, Tô Tắc tướng quân đã vu hồi tới sườn sau của quân Sở rồi!”

“Quân Sở chống đỡ không nổi, bắt đầu tan vỡ rồi!”

“Quân Sở quân lính tan rã, đang bỏ chạy tứ tán rồi!”

“Quân ta thắng rồi, ha ha ha, quân ta thắng rồi!”

Mắt thấy quân Lương thế như chẻ tre, quân Sở quân lính tan rã, các thân binh bên cạnh Mã Đại nhao nhao hoan hô. Nhưng mày của Tư Mã ý thì lại từ từ nhíu lại, sự hội bại của quân Sở sớm đã nằm trong dự liệu của Tư Mã Ý. Nhưng thua nhanh như vậy thì có chút kỳ lạ. Tư Mã Ý lờ mờ cảm thấy một tia bất an, trong lẽ bên trong có điều gì đó gi­an trá?



Ở đằng xa, trên đại thuyền của thủy quân Kinh châu.

Sái Mạo nói với Tào Chân: “Chúa công, quân Lương lập tức sẽ đuổi vào khoảng đất trông giữa hai cánh rừng rậm, tới lúc đó chỉ cần Vu Cấm tướng quân là Lưu Diệp tiên sinh phát động nỗ xa chặn đầu đuôi, lại thêm trong hai cánh rừng rậm này bụi gai mọc thành bụi, cây cỏ tươi tốt, kỵ binh căn bản không thể xuyên qua. Ba vạn Tây Lương thiết kỵ của Mã Đại sẽ trở thành cá trong chậu, chỉ có thể đợi giết mổ mà thôi!”

“Ừ.” Tào Chân phấn khích nói: “Hiện tại cho dù Mã Đại, Tư Mã Ý phát giác ra điều dị thường, muốn thu binh thì cũng không thu được nữa rồi!”

Sái Mạo nói: “Có thể tiêu diệt toàn bộ ba vạn Tây Lương thiết kỵ này hay không, rất nhanh sẽ thấy được kết quả thôi!”

“Báo…” Sái Mạo vừa dứt lời, đột nhiên có nha tướng hối hả lao lên khoang thuyền, quỳ xuống trước mặt Tào Chân, hoảng hốt nói: “Chúa công, không xong rồi, đại sự không xong rồi!”

Tào Chân giật thót mình, thất thanh nói: “Sao vậy?”

Nha tướng hổn hển thưa: “Thám mã hồi báo, hai nhánh Tây Lương kỵ binh đang từ Đăng thành, Tảo Dương vui hồi ra sau Tân Dã, chỉ còn cách nơi này không tới ba mươi dặm!”

“Cái gì?” Tào Chân nghe vậy thì thất kinh, nghiêm giọng quát hỏi: “Hai nhánh Tây Lương thiết kỵ này có bao nhiên kỵ?”

Nha tướng nói: “Hai nhánh kỵ binh này ít nhất cũng phải có bốn vạn kỵ!”

“Hả?” Sắc mặt của Tào Chân trong khoảng khắc liền biến thành trắng bệch, quay đầu lại nhìn Gia Cát Lượng, một lúc lâu vẫn chưa nói được gì.

“Ài.” Gia Cát Lượng thở dài một tiếng, buồn bã nói: “Cái này gọi là người có lòng hại hổ, mà hổ thì cũng có ý đả thương người. Chúng ta tính toán để tiêu diệt ba vạn kỵ binh tiên phong của Mã Đại, Mã đồ tể thì lại muốn lấy ba vạn kỵ binh này ra làm mồi nhử, dụ chủ lực của quân ta ra. Hơn nữa nắm bắt thời gi­an cực kỳ chuẩn xác! Mã đồ tể, Giả độc sĩ dụng binh chu đáo, quả nhiên danh bất hư truyền.”

Tào Chân sầm mặt xuống, hỏi: “Hiện tại nên làm thế nào đây?”

Gia Cát Lượng buồn bã nói: “Hai lộ kỵ binh mà Mã đồ tể phái tới cắt đường lui của quân ta đã chỉ còn cách nơi này ba mươi dặm, khoái mã chỉ nửa tiếng là có thể tới nơi. Lúc này phát động phục kích, cho dù có thể diệt được hết ba vạn kỵ binh của Mã Đại thì chủ lực của quân ta e rằng cũng không thể thoát được vận rủi toàn quân bị tiêu diệt. Mã đồ tể tổn thất ba vạn kỵ binh thì còn có mười vạn, ba mươi vạn, mà chúa công tổn thất ba vạn tinh nhuệ này thì sẽ bị tổn hại tới căn bản…”

Tào Chân nghe vậy trên mặt không khỏi hiện lên vẻ nhăn nhúm, loại cơ hội này một khi bỏ lỡ, chỉ sợ sau này sẽ không có nữa.

Gia Cát Lượng chậm rãi quay đầu lại, nói với thân binh ở phía sau: “Truyền lệnh toàn quân, thủ tiêu phục kích và thiêu hủy nỗ xa, sau đó toàn quân lui về Gi­ang Lăng.”



Hậu trận của quân Lương.

“Hỏng rồi!” Tư Mã Ý đột nhiên thốt lên: “Rừng rậm, trong hai cánh rừng rậm ở phía trước tất có quân Sở mai phục!”

“Trong rừng có mai phục ư?” Mã Đại nhíu mày nói: “Trọng đại sao có thể khẳng định như vậy?”

Tư Mã Ý nói: “Quân Sở bại quá nhanh, do đó có thể thấy ba vạn quân Sở ở chính diện khẳng định không phải là quân Sở chân chính. Nếu tại hạ đoán không sai, trong đó có đại bộ phận là bách tính ở trong thành Tân Dã giả trang. Còn chủ lực chân chính của quân Sở tất nhiên là mai phục ở trong hai cánh rừng rậm ở phía trước. Đợi khi kỵ binh của quân ta truy sát bại binh của quân Sở, đi qua khoảng trống ở giữa hai cánh rừng này, quân Sở tẫn sẽ đưa hết phục binh ra, giết cho quân ta trở tay không kịp!”

Mã Đại đưa mắt nhìn, quả nhiên nhìn thấy quân Sở bị đánh cho tan tác đại đa số là đâm quàng chạy xiên về phía nam. Ba vạn Tây Lương thiết kỵ cũng đuổi sát không tha, mắt thấy sắp đuổi vào trong khoảng đất trống ở giữa hai cánh rừng rậm tới nơi rồi.

“Mau!” Mã Đại thất kinh, vội vàng quay đầu lại quát thân binh ở phía sau: “Truyền lệnh, toàn quân ngừng truy kích!”

“Ài, đã không kịp nữa rồi.” Tư Mã ý thở dài ai oán một tiếng, âu sầu nói: “Các tướng sĩ chỉ cố truy sát địch nhân, trận hình hoàn toàn đã loạn rồi, quân lệnh đã không thể thuận lợi truyền đạt tới tai họ.”

“Xong rồi, xong hết rồi…” Mắt thấy mấy vạn thiết kỵ giống như là sói đói đang đuổi theo đàn dê, ào ào chạy vào trong khoảng đất trống ở giữa hai cánh rừng, Mã Đại ngẩng đầu lên nhìn bầu trời bao la, khóc không ra nước mắt: “Binh bại là chuyện nhỏ, nhưng làm tổn thương tới nhuệ khí của quân ta mới là chuyện lớn. Quay về biết ăn nói thế nào với huynh trưởng đây?”

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 358: Khổng Minh chỉ là hạng thư sinh mà thôi (1)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

“Lửa, cháy rồi!”

Mã Đại vừa nói xong, lại có tiểu giáo hét lên.

Khi Mã Đại, Tư Mã Ý vội vàng quay đầu lại nhìn, chỉ thấy trong cánh rừng rậm ở bên trái đột nhiên bốc khói. Không tới một lát sau, trong khói đặc cuồn cuộn lại bốc lên ngọn lửa màu đỏ. Hỏa thế nhanh chóng bắt đầu lan ra. Lúc này, Tây Lương thiết kỵ đang truy sát bại binh của quân Sở cũng phát giác ra điều dị thường. Bọn tướng tá lĩnh quân Mạnh Đạt, Tô Tắc cùng với Mã Hưu thấy vậy vội vàng lệnh cho toàn quân dừng truy sát.

Tây Lương thiết kỵ đang hùng dũng tiến lên nhao nhao giảm tốc độ, cuối cùng thì ghìm hẳn ngựa lại. Lúc này toàn quân chỉ còn một bước nữa là tiến vào khoảng không ở giữa rừng. Nếu như không phải là có lửa lớn đột nhiên bốc lên, Tây Lương thiết kỵ có lẽ sẽ đâm đầu vào trong bẫy rồi.

“Có chuyện gì vậy?”

Mắt thấy Tây Lương thiết kỵ ngừng truy kích, dưới sự hạ lệnh của tướng tá lĩnh quân sắp xếp lại đội hình rồi bắt đầu ngăn nắp trật tự lui ra sau, Mã Đại không khỏi vừa kinh ngạc lạc vừa vui mừng, hỏi Tư Mã Ý: “Lửa này là do ai đốt vậy? Trọng Đạt, là ngươi sai người đốt à?”

“Không phải.” Tư Mã Ý ngu ngờ lắc đầu nói: “Tại hạ cũng không biết là có chuyện gì nữa.”

Rất nhanh lại có khoái mã hồi báo: “Tướng quân, trong rừng đột nhiên có một toán quân Sở lao ra, đang dựa vào sự yểm hộ của lửa lớn mà lui về bờ sông.”

“Tướng quân!” Có phó tướng bước lên trước kiến nghị: “Sao không phái kỵ binh truy kích?”

“Không được.” Tư Mã Ý vội vàng nói: “Quân Sở chính là chủ động rút lui, ngàn vạn lần chớ có khinh định mà mạo hiểu tiến tới. Huống chi bờ sông tất có thủy quân Kinh châu tiếp ứng, đợi khi quân ta vòng qua cánh rừng rậm này, chỉ sợ quân Sở sớm đã lên thuyền đào tẩu rồi.”

“Ừ, Trọng Đạt nói đúng.” Mã Đại gật đầu, trầm giọng nói: “Truyền lệnh toàn quân, không được tùy tiện xuất kích, tất cả cứ đợi sau khi đại quân của huynh trưởng đến rồi tính tiếp.”

Hôm sau.

Khi trận lửa lớn hoàn toàn được dập tắt, Mã Dược mới suất lĩnh hơn hai mươi vạn kỵ bộ đại quân đi tới.

Mã Dược dưới sự vây quanh của bọn Giả Hủ, Lý Túc, Lỗ Túc, Khoái Việt, Mã Chiến đứng ở cạnh rừng. Vừa hay là lúc thời tiết vào đầu xuân, mưa xuân chưa đến, đang là lúc Thiên Can, mọi vật khô hanh. Trân lửa lớn này cơ hồ là thiêu rụi cả cánh rừng rậm thành tro bụi. Trong không khí tỏa ra mùi khói đậm đặc, bởi vì do lửa thiêu đốt mà mặt đất nóng rực vẫn bốc khói xanh lượn lờ.

“Ấy, phụ vương, cha nhìn xem đó là cái gì?”

Mã Chiến ở phía sau Mã Dược đột nhiên ồ lên một tiếng kinh ngạc, tay chỉ về phía trước rồi hét lên.

Đám người Mã Dược, Giả Hủ thuận theo phương hướng mà Mã Chiến chỉ, đưa mắt nhìn, chỉ thấy dưới một khối đá lớn có một vật đen sì đang nằm chỏng chơ, nhìn bộ dạng thì giống như xe đẩy, có điều đã bị đốt cho đen sì. Mọi người lại nhìn xung quanh, phát hiện phụ cận còn có rất nhiều vật giống như vậy, phần lớn đã bị cháy rụi nên rất khó mà nhận ra.

“Cái này…” Lý Túc thất thanh nói: “Không ngờ lại là nỗ xa!”

“Đáng chết.” Giả Hủ cũng rùng mình sợ hãi, trầm giọng nói: “Không ngờ quân Sở lại phỏng chế ra nỗ xa của quân ta!”

“Cái này cũng không có gì là lạ.” Mã Dược hờ hững nói: “Cấu tạo của nỗ xa không có gì phức tạp, dưới tay Tào Chân không thiếu người tài, chỉ nhìn thứ này một cái là có thể biết làm như thế nào. Có điều, mấy chiếc nỗ xa này không đủ để thay đổi sự chênh lệch lớn lao về lực lượng giữa hai quân. Thằng nhãi Tào Chân và Gia Cát Lượng thôn phu nếu muốn dùng nỗ xa để ngăn cản mười vạn đại quân của cô thì đó chính là tự mình tìm chết.”

“Báo…” Mã Dược vừa dứt lời, đột nhiên có khoái mã từ phía trước chạy tới, cao giọng thưa: “Tương Dương cấp báo.”

Mã Dược ngẩng đầu lên quát: “Nói đi.”

“Ba lộ đại quân của Từ Hoảng, Phương Duyệt, Mã Đại đã công hãm Tương Dương, quân Sở đang chạy về Gang Lăng.”

Truyền tấn binh vừa dứt lời, văn quan võ tướng ở phía sau Mã Dược đều lộ ra vẻ phấn chấn. Không ngờ Từ Hoảng nhanh như vậy đã công chiếm được đại bản doanh Tương Dương của quân Sở. Sự tiến triển thuận lợi của chiến sự quả thực có chút nằm ngoài ý liệu. Biểu tình trên mặt đám người Mã Dược, Giả Hủ, Lỗ Túc, Khoái Việt không ngờ lại hoàn toàn khác hẳn, không những không lộ ra vẻ vui mừng mà còn lộ ra vẻ lo lắng.

“Chạy nhanh thật đấy!” Mã Dược tay trái nắm chặt thành quyền, mạnh vào lòng bàn tay phải, không khỏi tiếc nuối nói: “Xem ra kỳ vọng làm trọng thương quân Sở ở Tương Dương đã tan thành mây khói rồi. Quân Sở hiện tại đã lui tới Gi­ang Lăng. Sau lưng Gi­ang Lăng lại chính là Trường Gi­ang, muốn ở Gi­ang Bắc vây bắt chủ lực của quân Sở rồi tiêu diệt là chuyện không thể rồi, ài…”

Giả Hủ khuyên: “Trận chiến này chỉ cần có thể đạt được Nam quận ở dĩ bắc Trường Gi­ang và quận Gi­ang Hạ, lại thêm quận Nam dương, bảy quận của Kinh Tương quân ta đã chiếm được ba quận. Tào Chân cho dù nguyên vẹn lui về dĩ nam Trường Gi­ang thì đất dưới quyền cai trị của hắn cũng chẳng qua là mấy trăm dặm, bách tính lại chỉ có mấy chục vạn, giống như là châu chấu sau mùa thu, không nhảy nhót được mấy ngày nữa đâu.”

Mã Dược trầm tư một lát rồi nói với Giả Hủ: “Văn Hòa, lệnh cho Từ Hoảng dẫn hai vạn kỵ binh nam hạ trước, bức thẳng tới Gi­ang Lăng. Phương Duyệt, Mã Đại thì tạm thời án binh bất động.”

Giả Hủ chắp tay nói: “Hủ tuân lệnh.”



Ích châu.

Đã bình định được phản loạn Tây Khương, Mã Chinh từ bên trong chọn ra hai vạn Khương binh tuổi trẻ sung sức theo quân suất chinh. Những lão ấu phu phụ còn lại ai muốn quay về Tây Khương thì cho phép về quê cũ hết, ai không muốn về quê thì an trí ở lại. Do sĩ tộc Tây Xuyên an bài ruộng đất để tiến hành truân điền. Sau nữa tháng, Mã Chinh cùng Trương Tùng hợp binh ở một nơi, dẫn hết bảy vạn kỵ bộ đại quân đại cử nam chinh.

Phiên vương Mạnh Hoạch nghe tin, lập tức tập kết các lộ phiên binh cộng với hai vạn phiên binh tinh nhuệ giằng co với đại quân Tây Lương ở thành Tam Gi­ang.

Mã Chinh theo kế của Pháp Chính chôn vật dẫn lửa ở trong Bàn Xà cốc ngoài thành Tam Gi­ang, lại lệnh cho tiên phong đại tướng Mã Duyên Đà trá bại dụ địch. Mã Duyên Đà đánh đâu thua đấy, thua chạy về Bàn Xà cốc. Mạnh Hoạch không biết là kế, suất binh đuổi vào trong Bàn Xà cốc, khi đang dẫn binh truy kích thì đột nhiên nghe thấy hai bên sơn cốc tiếng trống rung trời, tiếng hô chém viết vang vọng bốn phía. Mạnh Hoạch vội vàng ngẩng đầu nhìn thì hỏa tiễn ở trên cốc bắn xuống như mưa, châm ngòi vật dẫn lửa được chôn ở trong cốc.

Trong Bàn Xà cốc thoáng chốc đã lửa cháy ngùn ngụt, đáng thương cho hai vạn phiên binh tinh nhuệ dưới trướng phiên vương Mạnh Hoạch phải hóa thành tro bụi.

..

Gi­ang Lăng, dinh thự của Mã Dược.

Mã Dược đang nghị sự với đám người Giả Hủ, Lỗ Túc, Khoái Việt, Tư Mã Ý thì Lý Túc hớt hải bước vào trong đại sảnh, chắp tay nói với Mã Dược: “Chúa công, cảng Ô Lâm có tin tức truyền về.”

“Ồ?” Mã Dược vui vẻ nói: “Có phải là Từ Hoảng tướng quân đã công hãm được cảng Ô Lâm rồi không?”

“Không.” Lý Túc vẻ mặt ngưng trọng lắc lắc đầu, đáp: “Từ Hoảng tướng quân gặp phải phiền phức rồi.”

“Phiền phức ư?” Mã Dược hỏi: “Phiền phức gì vậy?”

Lý Túc nói: “Bởi vì không quen thủy thổ, hơn một nửa tướng sĩ trong quân đều đổ bệnh, một lượng lớn chiến mã đang điên cuồng gầy đi, căn bản là ngay cả chạy cũng không nổi. Hai vạn tiên phong thiết kỵ dưới trướng Từ Hoảng tướng quân hiện tại chỉ có binh sĩ là còn có thể miễn cưỡng tác chiến. Duy có một điều đáng để cảm thấy may mắn là quân Sở tựa hồ như vẫn không biết hư thực của quân ta, không hề nhân cơ hội này mà phát động phản kích. Nếu không, hậu quả khó mà tưởng tượng nổi.”

“Không quen thủy thổ ư?” Mã Dược nhíu mày nói: “Hiện tại chính là đầu xuân, còn lâu mới vào mùa mưa. Thời tiết vẫn chưa ấm lên, sao lại không quen thủy thổ? Hơn nữa cho dù là không quen thủy thổ thì tình huống cũng không thể nghiêm trọng như vậy chứ! Lúc trước cô dẫn tám ngàn thiết kỵ tịch quyển Kinh Dương, cũng từng gặp phải nan đề không quen thủy thổ, nhưng cũng không đến nỗi nghiêm trọng như thế này.”

Năm đó Mã Dược dẫn tám ngàn thiết kỵ tịch quyển Kinh Dương, Lý Túc cũng từng theo quân xuất chinh, đối với tình hình này tất nhiên là hiểu rõ nhất.

Lúc Túc gật đầu đồng ý, nói: “Tại hạ trong lòng cũng rất lấy làm lạ. Cũng là Tây Lương thiết kỵ, vì sao kỵ binh của chúa công không sợ thủy thổ của phương nam, mà kỵ binh của Từ Hoảng tướng quân lại bất lực như vậy. Chuyện này quả thật rất cổ quái. Có điều hiện tại Từ Hoảng tướng quân và hai vạn binh sĩ đang lâm vào nguy hiểm. Chúa công vẫn nên sớm ngày phái viện quân tới cứu viện, để tránh làm chậm trễ đại sự.”

“Đợi đã.” Khoái Việt đột nhiên ngắt lời Lý Túc, hỏi: “Tử Nghiêm vừa nói rằng ngay cả chiến mã cũng gầy đi điên cuồng, đúng không?”

Lý Túc nói: “Đúng vậy.”

Khoái Việt lại hỏi: “Tín sứ do Từ Hoảng tướng quân phái tới có nói tướng sĩ bị bệnh có triệu chứng gì không?”

“Có nói qua.” Lý Túc nói: “Hình như là đầu đau, bị sốt, bụng trương, cả người vô lực…”

“Hỏng rồi.” Khoái Việt kích động nói: “Đây chắc là nhiễm phải bệnh đại đỗ tử cấp tính rồi.”

“Bệnh đại đỗ tử.” Đám người Mã Dược, Giả Hủ ngơ ngác nhìn nhau, nói: “Cái gì gọi là bệnh đại đỗ tử?”

Khoái Việt nói: “Tạ hạ cũng có nghiên cứu sơ qua về y thuật, biết rằng Kinh châu có một loại bệnh. Người mắc bệnh thường thường bụng to như cái trống, đau khổ vô cùng. Do đó được gọi là bệnh đại đỗ tử. Đối với người phương nam mà nói thì loại bệnh này không có nguy hại gì lớn, bị mắc phải thì cũng rất dễ tự khỏi. Nhưng đối với người phương bắc mà nói thì tính nguy hại cực lính. Người phương bắc một khi nhiễm bệnh này thì có tám chín phần mười là phát tác cấp tính. Người bị nhẹ thì mê man bất tỉnh, người bị nặng thì toi mạng.”

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 358: Khổng Minh chỉ là hạng thư sinh mà thôi (2)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Mã Dược giật nảy mình, đột nhiên nhớ tới độc kế ôn dịch mà Giả Hủ đã từng dùng ở Hàm Cốc quan, nghiêm giọng hỏi: “Bệnh này cảm nhiễm thế nào?”

Khoái Việt nói: ” Dùng nước lã không sạch sẽ để uống hoặc là vệ sinh là có thể nhiễm bệnh.”

Mã Dược lại hỏi: “Thế phải trị như thế nào?”

“Không thể trị được.” Khoái Việt lắc đầu nói: “Có điều bệnh này có đặc điểm, một khi thích ứng với thủy thổ phương nam rồi thì có thể không cần thuốc và vẫn khỏi.”

“Không thể trị được ư?” Mã Dược nhíu mày hỏi: “Tướng sĩ quân Xuyên có thể không thuốc mà khỏi không?”

Khoái Việt nghĩ một chút rồi đáp: “Tướng sĩ quân Xuyên là người phương nam, thể chất không khác gì nhân sĩ Kinh Tương. Cho dù mắc bệnh cũng sẽ không phát tác cấp tính, cho dù là dùng nước không sạch cũng chỉ mắc phải bệnh đại đỗ tử mạn tính mà thôi. Lúc đó thì chẳng khác gì người bình thường, cũng không ảnh hưởng tới thể lực và chiến lực.”

“Vậy thì tốt rồi.” Mã Dược gật đầu nói: “Nghiêm Nhan, Vương Bình đâu?”

Nghiêm Nhan, Vương Bình ước ngực bước lên trước, nói: “Có mạt tướng.”

Mã Dược quát: “Lấy Vương Bình làm chủ tướng, Nghiêm Nhan làm phó tướng, suất lĩnh năm vạn Xuyên quân xuất phát từ Gi­ang Lăng, tới cảng Ô Lâm tiếp ứng Từ Hoảng. Sau khi phối hợp với Từ Hoảng thì lập tức chia binh làm hai lộ, do Nghiêm Nhân suất binh hộ tống kỵ binh của Từ Hoảng lui về Gi­ang Lăng nghỉ ngơi. Vương Bình suất quân lưu thủ ngoài cảng Ô Lâm, giám thị nghiêm mật thủy trại của quân Sở ở trong cảng, phải nhớ là không được khinh cử vọng động.”

“Tuân lệnh!”

“Tuân lệnh!”

Nghiêm Nhan, Vương Bình ầm ầm ứng tiếng, lĩnh mệnh mà đi.

Mã Dược lại nói: “Các bộ quân Xuyên còn lại thì chia binh thủ các thành trì hiểm yếu, nghiêm phòng quân Sở thừa cơ đánh lén.”

Đợi sau khi tướng lĩnh quân Xuyên lĩnh mệnh rời đi, Mã Dược lại nói với Khoái Việt: “Dị độ hãy tìm lang trung ở hai quận Nam quận và Gi­ang Hạ, tề tụ ở Gi­ang Lăng chuẩn bị trị bệnh cho ba vạn tướng sĩ.”

Khoái Việt chắp tay thưa: “Khoái Việt lĩnh mệnh.”

Mã Dược cuối cùng hô: “Tất cả chư tướng còn lại dẫn nhân mã bản bộ, ngay hôm nay lui về Tương Dương…”

“Báo…” Mã Dược vừa dứt lời, Điển Nhi đột nhiên vội vã bước vào, quỳ xuống bẩm báo: “Chúa công, Di Lăng cấp báo!”

“Di Lăng ư?” Mã Dược hỏi: “Trương Tùng tới Di Lăng rồi à?”

Điển Vi nói: “Trương Tùng tương quân sai khoái mã tới báo, quân Sở đã đào đê Trường An, dẫn nước đổ vào Gi­ang Bắc Sơn Xuyên, lạc Sơn Xuyên ở giữa Di Lăng và Mạch thành đã thành vùng ngập nước, hồng thủy tràn về phía bắc mấy trăm dặm qua phụ cận Mạch thành đổ vào Tương Gi­ang, đã hoàn toàn cắt đứt đạo lộ từ Tây Lăng tới Gi­ang Lăng. Đại quân do Trương Tùng suất lĩnh đã không thể tới Gi­ang Lăng hội hợp với tướng quân theo đúng hẹn nữa rồi.”

“Cái gì?” Mã Dược nhíu mày nói: “Đạo lộ từ Tây Lăng tới Gi­ang Lăng đã bị hồng thủy cắt đứt ư? Nước sông đổ về phía bắc mấy trăm dặm đã rót vào Tương Gi­ang? Gia Cát thôn phu muốn làm gì vậy? Chẳng lẽ muốn xối ra một hà đạo Trường Gi­ang mới ở phía bắc Gi­ang Lăng ư. Sau đó cũng học theo tên Chu Du đem thủy quân phong tỏa, vây chết ba mươi vạn đại quân của cô ở Gi­ang Lăng?”

“Địa hình Gi­ang Hán khác hẳn với địa hình Hoài Nam, bất lợi cho thủy quân tung hoành.” Giả Hủ nói: “Dụng ý của Gia Cát Lượng chắc là muốn vây khốn quân ta ở Gi­ang Lăng một đoạn thời gi­an, để tiện cho bệnh đại đỗ tử mà Dị Độ nói bùng phát với quy mô lớn ở trong quân. Một khi bệnh đại đỗ tử này bạo phát với quy mô lớn, quân ta sẽ hoàn toàn mất đi sức chiến đấu, nếu quân Sở vào lúc này mà phát động phản kích. Quân ta ắt sẽ lành ít dữ nhiều.”

“Hừ, cô há có thể để cho Gia Cát thôn phu được toại nguyện!” Mã Dược bực bội hừ một tiếng, nói với Giả Hủ: “Văn Hòa.”

Giả Hủ vội vàng chắp tay nói: “Chúa công có gì phân phó?”

Mã Dược nói: “Ra lệnh cho mười mấy vạn kỵ bộ đại quân ở trong thành Gi­ang Lăng ngoại trừ quân Xuyên ra thì tất cả rời xa mặt xông, chia ra đóng trại. Lấy năm ngàn người làm một trại, mỗi trại tự đào giếng lấy nước. Nghiêm cấm dùng nước sông. Nước uống cũng cần phải đun sôi. Tướng sĩ toàn quân chưa được phép thì nhất quyết không được xuất trại. Ai trái lệnh – chém. Các trại dùng kỳ ngữ lửa hiệu để liên hệ với nhau. Trừ dịch tốt vận lương thảo truy trọng tới ra thì nghiêm cấm người không phận sự ra vào. Một khi phát hiện trong quân có tướng sĩ lạ lập tức tới bẩm báo. Thống binh tướng lĩnh dám che giấu thì giết không tha!”

Lần này, Mã Dược rốt cuộc cũng biểu lộ ra ưu thế của người hiện đại.

Lúc trước có một trận ôn dịch đột nhiên ập đến, cơ hồ khiến toàn thể quốc dân của Trung Quốc đều trở thành chuyên gia phòng trị bệnh truyền nhiễm. Khoái Việt đã biết đường lối lây bệnh của bệnh đại đỗ tử này. Mã Dược tất nhiên cũng biết nên phòng chống thế nào, hơn nữa chính bởi vì tự mình trải qua trận ôn dịch đáng sợ đó, lại kiến thức qua sự khủng bố của việc Giả Hủ dùng độc kế tiêu diệt mấy chục vạn tướng sĩ Quan Đông, Mã Dược mới đặc biệt cảnh giác bệnh đại đỗ tử này.

Cái này gọi là thà tin là có chứ chớ tin là không.

Chuyện liên quan tới sự an nguy của mấy chục vạn tương sĩ, không thể không cẩn thận.

Lý Túc ngạc nhiên nói: “Chúa công, làm vậy thì sẽ tao thành bất tiện rất lớn cho toàn quân, có phải là chuyện bé xé ra to rồi không?”

“Không, cẩn tắc vô áy náy.” Mã Dược kiên quyết nói: “Các tướng sĩ chịu khổ một chút có tính là gì, còn hơn là toàn quân bị tiêu diệt.”

Nói tới đây thì dừng lại, Mã Dược hỏi Lý Túc: “Tử Nghiêm, tám ngàn thủy quân Hoài Nam của Cam Ninh tới đâu rồi?”

Lý Túc nói: “Theo thời gi­an mà tính thì chắc đã tới Tương Dương rồi.”

“Rất tốt.” Mã Dược lại nói: “Lệnh cho Cam Ninh dẫn tám ngàn thủy quân Hoài Nam lập tức nam hạ Mạch thành, bố trí xích sắt ngăn xông ở phụ cận Mạch thành. Sau đó dựng cầu nối tiếp ứng cho đại quân qua sông. Lại phái người dùng khoái mã tám trăm dặm mau chóng tới Thành đô, chuyển Thục quận thái thủ Trương Nhiệm làm thái thủ Nam quận, và chỉ huy mười vạn Tây Xuyên đại quân đóng tại Nam quận, Gi­ang Hạ, nghiêm phòng quân Sở ngóc đầu trở lại xâm lược.”



Hán Thọ, phủ Sở vương.

Thấy Lưu Diệp vội vã bước vào đại sảnh, Tào Chân lập tức đứng dậy hỏi: “Tử Dương, Gi­ang Bắc có tin tức rồi ư?”

Lưu Diệp thở dốc, nói: “Chúa công, tình hình không ổn rồi.”

“Hả?” Tào Chân nghe vậy lòng liền trầm xuống, nói: “Nói ra nghe đi.”

Lưu Diệp nói: “Thám tử hồi báo, Mã đồ tể lệnh cho mười vạn quân Xuyên chia binh trấn thủ các thành trì hiểm yếu, nghiêm phòng quân ta đánh lén, lại lệnh cho mười mấy vạn quân Lương tinh nhuệ dưới trướng cứ mấy ngàn người làm một tốp chia ra đóng trại. Các doanh tự đào giếng lấy nước, nghiêm cấm dùng nước lã để uống. Hơn nữa giữa các trại còn nghiêm cấm không được qua lại với nhau, chỉ cho phép dùng lửa và kỳ ngữ để truyền tin. Cho đến ngày hôm nay, trong quân Tây Lương chưa hề bùng phát bệnh đại đỗ tử với quy mô lớn.”

“Hả?” Tào Chân nghe vậy liền cảm thấy vô cùng thất vọng: “Sao lại như vậy được?”

Vẻ nho nhã và bình tĩnh trên mặt Gia Cát Lượng cuối cùng cũng biến mất, đôi lông mày rậm nhíu chặt lại, bối rối nói: “Mã Dược hành động như vậy, có thể nói là đánh trúng chỗ yếu hại của bệnh đại đỗ tử. Nhưng hắn rõ ràng là người phương bắc, sao lại hiểu cách phòng trị bệnh đại đỗ tử nhỉ? Chẳng lẽ… dưới trướng Mã Dược có nhân sĩ Kinh châu biết rõ về bệnh đại đỗ tử bày mưu tính kế cho hắn ư?”

Lưu Diệp thở dài, nói: “Chúa công, còn có một tin xấu nữa.”

Mày Tào Chân nhíu càng lúc chàng chặt, bảo: “Nói đi!”

Lưu Diệp nói: “Thủy quân hồi báo, Cam Ninh suất lĩnh gần vạn thủy quân Hoài Nam đã tới gần Mạch thành, trên mặt sông Tương Gi­ang đã giăng mấy chục sợi xích sắt ngăn sông. Thủy quân của Sái Mạo tướng quân đã mấy lần xuất kích, ý đồ cắt đứt xích sắt ngăn sông nhưng không thành công, còn bị máy bắn đá của quân Lương ở hai bên bờ sông bắn chìm mấy chiếc mông trùng đấu hạm. Hiện tại, thủy quân Hoài Nam đang dựng cầu nối, đợi cấu nối được dựng xong, mấy chục vạn đại quân của Mã đồ tể có thể an nhiều lui về phương bắc rồi.”

“Hả?” Trương Cáp vô cùng thất vọng, nói: “Nếu để mấy chục vạn đại quân của Mã đồ tể cứ vậy lui về phương bắc, trận chiến này há chẳng phải là bại rồi sao?”

“À.” Trương Liêu thở dài một hơi, ảo não nói: “Sớm biết thế này, lúc trước không nên dễ dàng buông bỏ Nam quận và quận Gi­ang Hạ như vậy. Hiện tại mười vạn quân Xuyên chiếm đóng thành trì, dựa vào nơi hiểm yếu mà thủ. Quân ta muốn đoạt lại có thể nói là khó hơn lên trời. Hơn nữa, lần này nếu không thể tiêu diệt được đại quân của Mã đồ tể ở Gi­ang lăng, qua mấy năm nữa sự cách biệt về thực lực giữa quân ta và quân Lương sẽ càng lớn hơn. Cứ tiếp tục như vậy thì đại sự hỏng mất!”

“Khổng Minh.” Tào Chân quay đầu lại nhìn Gia Cát Lượng, hỏi: “Hiện tại nên làm như thế nào mới tốt đây?”

Tào Chân tuy chờ mong Gia Cát Lượng có thể nghĩ ra diệu kế để xoay chuyển Càn Khôn. Nhưng hiện thực tàn khốc lại không ngừng nhắc nhở Tào Chân. Ở trước mặt thực lực tuyệt đối, tất cả âm mưu quỷ kế đều mất đi đất dụng võ.

Đột nhiên, bên tai Tào Chân không khỏi hồi tưởng lời nói của nghĩa phụ vào đêm trước lúc lâm tử: Không Minh chẳng qua là hạng thư sinh mà thôi, không có kinh nghiệm chinh chiến sa trường. Cái gọi là kế có thể khiến quân Lương không bại mà bại, chẳng qua là mấy cái kế vặt của hắn mà thôi. Mã đồ tể thân kinh bách chiến lại gi­an xảo như hồ ly, há lại có thể trúng kế của hắn?

“Chúa công.” Gia Cát Lượng chắp tay, đáp: “Chuyện tới nước này, cũng chỉ có thể ngồi yên chờ kỳ biến thôi.”



Sài Tang, ven hồ Bà Dương.

Một con thuyền nhỏ đang đắm chìm dưới ánh tà dương, theo gió sông nhẹ nhàng đung đưa. Chu Du mặc áo xanh ngồi một mình ở đầu thuyền, một cây sáo trúc nằm ngang khóe miệng, tiếng sáo du dương êm tai như khóc lóc, như kể lể, đang uyển chuyển thuật khẽ trong gió sông, giống như là một đôi tình nhân đang tâm tình. Vào đúng lúc sáo đang cất tiếng nỉ non này, ánh mắt của Chu Du lộ ra vẻ thương cảm chưa từng có.

Đột nhiên, trước mắt Chu Du lại hiện lên dáng người yểu điệu của tiểu Kiều, đang nấp trong sương mù mông lung mỉm cười với hắn. Vẻ phong tình của nụ cười này, chực khiến Chu Du như say như mê.

“Đại đô đốc, đại đô đốc…”

Một tiếng gọi đột ngột vang lên, kéo Chu Du trở lại hiện thực. Tiếng sáo du dương cũng im bặt, thân ảnh đang cười xinh của tiểu Kiều cũng hóa thành ánh sáng rồi biến mất không thấy đâu nữa. Chu Du ngẩng mặt lên trời thở dài một tiếng, chậm rãi quay đầu lại, chỉ thấy một con thuyền đang lướt tới như bay, trên đầu thuyền có một người đang đứng đón gió, chính là Lữ Mông.

Đợi khi hai thuyền gần nhau, Lữ Mông tung người nhẹ nhàng nhảy lên đuôi thuyền của Chu Du.

Chu Du cười nhạt một tiếng, không quay đầu lại hỏi: “Tử Minh, chắc là Kinh châu chi chiến đã kết thúc rồi phải không?”

Lữ Mông khom lưng chui vào mui thuyền, đi tới phía sau lưng Chu Du rồi đứng nghiêm, cung kính nói: “Đại đô đốc liệu sự như thần, Kinh châu chi chiến quả nhiên đã kết thúc rồi.”

Chu Du nói: “Kết quả khẳng định là quân Lương chiếm hết Nam quận, Gi­ang Hạ, quân Sở thì lui hết về giữ Kinh Nam.”

Lữ Mông thán phục nói: “Đại đô đốc không bước ra ngoài một bước lại vẫn nắm rõ chuyện thiên hạ như lòng bàn tay, mạt tướng bái phục.”

Chu Du buồn bã nói: “Chủ soái Gia Cát Lượng của quân Sở chẳng qua là hạng thư sinh. Cái gọi là không bại mà bại cuối cùng không đạt được kết quả gì cũng là điều đương nhiên. Rốt cuộc rơi vào thế bất thắng bất bại là chuyện nằm trong ý liệu. Nếu so sánh nghiêm túc, quân Sở kỳ thực bại rồi, cuối cùng mất đi Nam quận, Gi­ang Hạ của Gi­ang Bắc. Có điều nói đi nói lại, nếu đổi lại người khác làm chủ soái của quân Sở, kết quả có khi còn tồi hơn. Gia Cát Lượng ít nhất cũng bảo toàn được ba vạn quân Sở tinh nhuệ.”

“Lời của đại đô đốc rất đúng.” Lữ Mông gật đầu, nói tiếp: “Hiện tại Mã đồ tể đã khải quay về triều, nhưng Kinh Bắc có mười vạn đại quan Tây Xuyên chiếm đóng, lại có Xuyên Trung danh tướng Trương Nhiệm tọa trấn Gi­ang Lăng. Quân Sở muốn đoạt lại Nam quận, Gi­ang Hạ đã là điều không thể. Đúng như lời của đại đô đốc, hiện tại Ngô, Sở lưỡng quân chỉ còn lại một lần cơ hội cuối cùng mà thôi.”

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 359: Tam quốc đỉnh lập

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Phía bắc điện Đức Dương điện, thái miếu.

Trong miếu thờ, ở hai bên đại điện cung phụng lịch đại tên hoàng của Đông, Tây Lưỡng Hán. Khi tông chính khanh Lưu Chương, từ đồ Khổng Dung cùng với tư không Khổng Trụ bình khí ngưng thần bước vào đại điện, Hán Hiến đế Lưu Hiệp vừa hay thắp hương xong, đang khe khẽ cầu khấn trước họa tượng của liệt tổ liệt tông. Thấy bộ dạng này của thiên tử, ba người bọn Lưu Chương vội vàng quỳ xuống theo, đầu cúi xuống đất, khấu bái bằng đại lễ.

Hán Hiến đế cầu khấn xong, chậm rãi quay đầu lại, thần sắc trên mặt lộ ra vẻ nhẹ nhõm trước giờ chưa từng có.

“Ba vị ái khanh, bình thân đi.”

“Tạ ơn bệ hạ.”

Ba người bọn Lưu Chương khấu đầu bái lạy rồi đứng dậy, cung kính đứng ở hai bên.

Hán Hiến đế hờ hững nói: “Thiên miếu là nơi thần thánh cung phục lịch đại tiên hoàng, có thể nói là cấm địa của đất nước, không phải là thiên tử hoặc hoàng tử thì không được phép bước vào. Chắc ba vị ái khái trong lòng cũng đang nghi hoặc, trẫm hôm nay vì sao lại phá tổ chế này mà triệu tập ba vị vào thái miếu kiến giá, có phải không?”

Lưu Chương chắp tay nói: “Thần cung thỉnh bệ hạ giải thích nghi hoặc.”

“Kỳ thực…” Hán Hiến đế cười nhạt một tiếng, dùng nghĩ khí vô cùng nhẹ nhõm nói: “Nguyên nhân rất đơn giản, bởi vì bắt đầu từ ngày hôm nay, thái miếu này sẽ không còn là thái miếu nữa, và gi­ang sơm cẩm tú vạn dặm này, từ giờ cũng không còn là của họ Lưu nữa. Ngay cả gi­ang sơn cũng không còn là của họ Lưu, thái miếu này tất nhiên cũng không còn là thái miếu nữa, ba vị ái khanh tất nhiên cũng có thể bước vào trong.”

“Hả?”

“Sao?”

Ba người bọn Lưu Chương nghe mà như bị sấm đánh giữa đỉnh đầu, trong khoắc khắc ngây ra như phỗng.

Một lát sau, tư đồ Khổng Dung mới hồi thần lại trước tiên, phục xuống đất, nói: “Bệ hạ sao lại nói như vậy, lão thần thật sự không hiểu.”

Hán Hiến đế lạnh lùng nói: “Triều hội ngày hôm nay, trẫm sẽ thuận theo thiên ý, dân tâm, nhường vị cho thừa tướng.”

“Bệ hạ!” Tông chính khanh Lưu Chương quỳ xuống trước mặt Hán Hiến đế, run giọng nói: “Từ lúc Cao Tổ cầm ba thước kiếm chém rắn khởi nghĩa, bình Tần diệt Sở, sáng lập cơ nghiệp Đại Hán cho tới nay đã hơn bốn trăm năm. Bệ hạ chín tuổi đăng cơ, quốc vận nhiều khó khăn, may mà quân tướng phục vụ quên mình, bá quan cần cù siêng năng, cửu châu dần dần trở lại ổn định, tứ hải dần dần trở lại yên bình. Bệ hạ lại nhẫn tâm vứt bỏ đại nghiệp của tổ tông ư?”

Khổng Dung, Khổng Trụ cũng quỳ xuống đất hô: “Chúng thần cung thỉnh bệ hạ thu hồi thánh dụ.”

“Ý trẫm đã quyết.” Hán Hiến đế nói: “Ba vị ái khanh không cần phải khuyên nữa làm gì.”

Nói xong, Hán Hiến đế bỏ đi, rảo bước ra ngoài đại điện. Ở phía sau, Lưu chương, Khổng Dung, Khổng Trụ lớn tiếng hô: “Bệ hạ, gi­ang sơn Đại hán này nếu kết thúc ở đây, bệ hạ biết ăn nói thế nào với lịch đại tiên đế ở dưới cửu tuyền đây? Xin bệ hạ nghĩ lại, xin bệ hạ nghĩ lại…”

Ngoài đại điện. Ở chân trời phía đông vừa hay lộ ra một giải mây trắng, sắc mặt của Hán Hiến đế giống như đắm chìm trong tia nắng ban mai. Thành ấp Lạc Dương thì bình tĩnh, yên ả mà lại an tường. Ở phía sau không xa, ba người bọn Lưu chương vẫn đang không ngừng hô to gọi nhỏ. Hán Hiến đế không nghe không hỏi, bước thẳng ra ngoài thái miếu, chân nhẹ nhàng đặt lên ngự tiễn, lập tức cao giọng quát: “Bãi giá về triều.”



Tháng năm năm Kiến An Hán Hiến đế thứ mười lăm, Hán Hiến đế hạ chiếu nhường vị cho Lương vương Mã Dược.

Tư đồ Khổng Dung, tư không Khổng Trụ ở trước điện liều chết can giản, thiên tử không nghe, tự tử ngay dưới thềm vàng, bá quan đều thổn thức không thôi.

Mùng một tháng chín, Lý Túc ở đông hiệu Lạc Dương xây Thụ Thiện đài (đài nhận nhường ngôi), Hán Hiến đế dẫn Lương vương Mã Dược lên đài, tế cáo thiên địa, quỷ thần.

Nghi thức hoàn thành, Mã Dược chính thức đăng cơ xưng đế, quốc hiệu là Đại Lương, định đô tại Lạc Dương, đổi cải nguyên thành Thái Bình, sắc lập Lưu Nghiên làm hoàng hậu, lập trưởng tử Mã Chinh làm thái tử, thứ tử Mã Chiến làm Ngụy vương. Bùi Nguyên Thiệu làm Bình Bắc vương, Chu Thương làm Trấn Bắc vương, Quản Khởi làm An Bắc vương, truy tặng Mã Siêu làm Uy Võ vương, trưởng tử Mã Thiều kế vị, thứ tử Mã Câu thụ phong Trương Dịch vương.

Dùng Giả Hủ làm trung thư lệnh, Lý Túc, Pháp Chính làm môn hạ thị trung, Pháp Chân làm thượng thư lệnh, cùng đảm nhiệm chức tể tướng, thống soái quan viên tám bộ. Lại dùng Cao Thuận làm Chinh Đông tướng quân, Phương Duyệt làm Chinh Tây tướng quân, Từ Hoảng làm chinh nam tướng quân, Hứa Chử làm Chinh Bắc tướng quân, chia nhau nắm binh mã thiên hạ. Các cựu bộ khác thì đều được phong thưởng, lại đại xá thiên hạ, miễn ba năm thuế má.

Tin tức truyền ra, Kinh Dương chấn động.



Tháng chín năm Thái Bình thứ hai (203), Ngô vương Tôn Quyền xưng đế, định đô ở Kiến Nghiệp, cải nguyên là Hoàng Vũ.

Tháng năm năm Thái Bình thứ ba (204), Sở Vương Tào Chân xưng đế, định đô ở Hán Thọ, cải nguyên là Hoàng Sơ.

Tới lúc này, trên đại địa Trung Hoa xuất hiện thời kỳ Tam quốc lập đỉnh tạm thời.



Tháng chính năm Thái Bình thứ năm (206), thủy quân Kinh châu đã luyện thành, thời cơ nam chinh đã chín muồi.

Tin tức truyền tới Lạc Dương, Lương thái tổ (miếu hiệu của Mã Dược, sai khi chết thì do Mã Chinh nối tiếp) triệu tập đám cận thần thái tử Mã Chinh, Ngụy vương Mã Chiến, Phiêu Kỵ tướng quân Mã Đại, Xa Kỵ tướng quân Mã Song, Trung thư lệnh Giả Hủ, môn hạ thị trung Lý Túc, môn hạ nạp ngôn Pháp Chính, sử bộ thượng thư Lỗ Túc, hộ bộ thượng thư Khoái Việt, lễ bộ thượng thư Chung, công bộ thượng thư Trần Quần vào cung kiến giá.

Cung Trường Nhạc.

Bọn Mã Chinh, Giả Hủ, Lý Túc quỳ xuống đất, tam hô vạn tuế.

Mã Dược sốt ruột xua xua tay, cao giọng nói: “Đứng dậy cả đi.”

“Tạ ơn bệ hạ.”

Sau khi tạ thánh ân, bọn Giả Hủ mới dám đứng dậy, cung kính đứng sang một bên.

Mã Dược nói: “Trẫm lần này triệu các ngươi vào cung, chính là muốn thương nghị với các ngươi về chuyện nam chinh.”

Giả Hủ nói: “Từ lúc bệ hạ đăng cơ tới nay, năm nào cũng bình an, năm nào cũng bội thu, trước mắt quốc lực sung túc, đủ để cung cấp cho năm mươi vạn đại quân chinh chiến trong vòng ba năm. Đại doanh Lạc Dương (truân điền binh), đại doanh Hà Nam (truân điền binh), đại doanh Trường An (truân điền binh), Nhữ Nam đại doanh (truân điền binh) tổng cộng có hơn bảy mươi truân binh. Cũng là lúc thích hợp để nam chinh, Ngô, Sở.”

Bọn Lý Túc, Pháp Chính nhao nhao gật đầu phụ họa.

Mã Dược nói: “Quân ta cho dù là binh đa tướng quảng, lương thảo sung túc, nhưng nếu không thể giải quyết thủy quân của Ngô, Sở, đả thông lạch trời Trường An thì nam chinh cũng chỉ có thể kết thúc với thất bại mà thôi.”

Lý Túc nói: “Bệ hạ yên tâm, Cam Ninh tướng quân tại Tương Dương đã luyện thành bảy vạn thủy quân, lại có hơn ba trăm lâu thuyền cỡ lớn, mông trùng đấu hạm cũng hơn năm ngàn chiếc, thuyền nhẹ thì càng nhiều không đếm xuể. Nếu tính riêng thủy quân của hai nước Ngô, Sở thì quân ta hơn hẳn. Cho dù là hai nước Ngô, Sở liên kết lại với nhau thì thực lực chẳng qua cũng không phân trên dưới với quân ta.”

“Ài.” Mã Dược xua xua tay, nói: “Mặt sông không giống như lục địa, tác chiến trên nước cũng khác hẳn với đánh trận trên đất liền. Không phải là chiến thuyền nhiều hơn, thủy quân nhiều hơn, thực lực nhiều hơn là được. Thủy quân của Ngô, Sở rèn ra là tinh nhuệ chi sư, mà thủy quân của trẫm luyện ra thì chưa hề trải qua thủy chiến chính nhi bát kinh. Tới lúc đó ở trên chiến trường khó tránh khỏi sẽ sợ hãi, mười phần chiến lực có thể phát huy ra được hai phần là tốt lắm rồi.”

Lý Túc vội vàng nói: “Bệ hạ suy tính cực đúng, là thần sơ xuất.”

Mã Dược đưa tay ra nhẹ nhàng gõ vào ngự án, nhíu mày nói: “Mấy ngày nay trẫm cũng luôn nghĩ về chuyện nam chinh. Có thể nói là ăn không ngon ngủ không yên. Trẫm một mực đang suy nghĩ một vấn đề, đó chính là lắp đặt vũ khí tiến công xa sắc bén nhất trên chiến thuyền của thủy quân như thế nào. Nếu như trước khi chiến thuyền của hai quân tiếp xúc, mà có thể khiến chiến thuyền cỡ lớn của thủy quân Ngô, Sở bị tiêu hủy hoặc thậm chí là bị đánh chìm, thì những chiến thuyền cỡ nhỏ còn lại cũng không cần phải lo lắng đến làm gì.”

“Vũ khí công kích xa sắc bén nhất?” Giả Hủ trong lòng khẽ động, hỏi: “Bệ hạ là nói tới … máy bắn đá?”

“Không không, không phải là loại máy bắn đá đơn giản đó.” Mã Dược lắc đầu nói: “Loại máy bắn đá đơn giản đó tuy dễ dùng, hơn nữa cũng dễ chế tạo, nhưng lại cần quá nhiều binh sĩ dùng sức người để kéo. Xạ trình khó khống chế thì không nói, độ chính xác cũng cực kém. Máy bắn đá như vậy mà bố trí lên chiến thuyền, chỉ tổ thành gánh nặng chứ không thể cấu thành bất kỳ uy hiếp gì đối với chiến thuyền Ngô, Sở.

“Liệu có khả năng chế tạo một loại máy bắn đá như thế này hay không…”

Mã Dược nhíu chặt mày, trong đầu cố gắng nhớ lại hình dạng cùng với nguyên lý phóng ra của máy bắn đá trong các cuộc chến tranh thời Trung cổ như “thiên quốc vương triều” “thánh nữ Trinh Đức” mà mình đã đọc qua trước khi xuyên việt tới đây, khoa chân múa tay nói: “Loại máy bắn đá này không dựa vào sức người để kéo, mà là ở đoạn gần cánh tay ném của máy bắn đá buộc chặt đá lớn nặng hơn ngàn cân cho tới hơn vạn cân. Lợi dụng sức rơi của cự thạch để thay sức kéo của người. Như vậy lực ném mà mỗi lần máy bắn đá phát xạ sinh ra đều sẽ tương đối cố định. Hơn nữa còn có thể thông qua sự thay đổi độ cao của đá lớn rơi xuống mà khống chế độ xa gần của xạ trình.”

Pháp Chính nói: “Vậy cần bao nhiêu người mới có thể nâng được cự thạch nặng vạn cân lên?”

“Không cần người nâng.” Mã Dược nói: “Dùng bàn tời, xích kéo và giá đỡ, chỉ cần một binh sĩ là có thể kéo được cự thạch nặng vạn cân lên rồi.”

Trên thực tế, khi vừa xuyên việt tới thời loạn thế này, Mã Dược cũng không phải là không muốn phát minh ra một “vũ khí tiên tiến” vượt thời không, nhưng đác tiếc là Mã Dược căn bản không biết chế tạo súng trường, súng máy như thế nào, cũng không biết phối phương của hỏa dược. Hắn chỉ biết được thuật in ấn đơn giản nhất trong tứ đại phát minh, nhưng thuật làm giấy lúc đó cực kỳ lạc hậu, chất lượng giấy cũng kém, vậy thì thứ đồ chơi này có tác dụng gì?

Cho tới khi Mã Dược lần đầu tiên nhìn thấy máy bắn đá, mới nghĩ rằng xem ra máy bắn đá của thời loạn thế này hình như không giống với máy bắn đá ở trong phim. Nhưng lúc đó một là binh mã nghèo nàn, Mã Dược không có một khắc được nhàn rỗn, hai là ưu thế của Tây Lương thiết kỵ là dã chiến, rất ít khi tiến hành công kiên chính diện, máy bắn đá này cũng không có bao nhiêu tác dụng, cho nên một mực gác lại cho tới bây giờ.

Cho tới hôm nay, Mã Dược mới lại một lần nữa mới nghĩ tới cải tiến máy bắn đá này, dùng để đối phó với chiến thuyền của thủy quân Ngô, Sở.

“Bệ hạ nói là dùng bàn tời, dây kéo lên máy bắn đá?” Công bộ thượng thư Trần Quân là người đầu tiên lĩnh ngộ được ý tưởng của Mã Dược, vỗ tay hét to: “Trời ở, đây quả thực là ý tưởng của thiên tài! Nếu chiếu theo phương pháp của bệ hả mà cải tiến máy bắn đá, không những xạ trình của máy bắn đá sẽ tăng mạnh, mà có thể ném ra được đá khối nặng hơn. Diệu, quả thực là quá diệu!”

Bọn Giả Hủ, Pháp Chính vừa được chỉ điểm một cái là hiểu ngay, lập tức vỗ tay khen hay theo.

“Còn nữa…” Trong đầu Mã Dược đột nhiên hiện lên hình ảnh trong phim, trước khi đá được bắn đi, binh sĩ sẽ đốt đạn đá ở trong giỏi, sau đó rầm một tiếng ném ra. Đạn đá được được đốt cháy sau khi đụng vào cây cối, tường thành sẽ nổ tung, tia lửa văng khắp nơi, “Đá được máy bắn ra cũng nên cải tiến một chút, có một thứ mà sau khi nhúng dầu rất sẽ cháy, lại rất dễ vỡ nát không ? Sau khi đụng vào chiến thuyền sẽ rầm một cái nổ tung vỡ tan, một khi như vậy, hỏa diễm bắn ra sẽ có thể khiến cho chiến thuyền của thủy quân Ngô, Sở bắt lửa trên diện tích lớn.”

“Cái này…”Trần Quần nói: “Vì sao không trực tiếp đặt thùng ngói được tưới dầu hỏa ở trong giỏ phát xạ của máy bắn đá? Đợi sau khi dầu trong thùng ngói được đốt lên rồi, mới bắn nó ra, sau khi thùng ngói đụng vào chiến thuyền của quân địch sẽ vỡ tan ra, dầu hỏa bắn ra sẽ bám lên chiến thuyền rồi tiếp tục cháy, hơn nữa sẽ tạo thành cháy với diện tích lớn, quân địch rất khó mà dập được.”

“Ừ, chủ ý này không tồi.” Mã Dược khen: “Nếu có thể ở trong thùng ngói bố trí các tạp vật dễ bắt lửa như tơ lụa thì hiệu quả sẽ càng tốt hơn.”

“Máy bắn đá sau khi trải qua sự cải tiến của bệ hạ nhất định sẽ có uy lực lớn hơn.” Giả Hủ trước giờ luôn trầm ổn cũng không nhịn được mà nóng lòng muốn thử ngay: “Một khi trên chiến thuyền của quân ta được lắp đặt máy bắn đá mới cải tiến. Chiến thuyền cỡ lớn của thủy quân Ngô, Sở vì là mục tiêu quá lớn, nên rất khó tránh khỏi tai họa, còn các chiến thuyền cỡ nhỏ khác như mông trùng, đấu hạm, thuyền nhẹ có thể né được sự công kích của máy bắn đá, nhưng lại không thể né được sự va chạm của chiến thuyền cỡ lớn chúng ta cùng với sự tạp kích của gậy đập. Bệ hạ, lão thần có chút nóng lòng không đợi nổi nữa rồi.”

“Ha ha, Văn Hòa chớ có nóng vội.” Mã Dược vui vẻ mỉm cười, nói: “Máy bắn đá này có thể chế tạo ra được hay không? Cho dù tạo ra được thì liệu có uy lực như trong dự tưởng không? Nên lắp đặt lên chiến thuyền như thế nào? Nhưng cái này đều phải thí nghiệm qua thì mới biết được. Hơn nữa cho dù tất cả thuận lợi, muốn trang bị một lượng lớn máy bắn đá đã qua cải tiến lên chiến thuyền của thủy quân cũng cần có một đoạn thời gi­an. Mà tướng sĩ thủy quân để học sử dụng máy bắn đá này cũng cần một đoạn thời gi­an. Để hoàn thành những công tác rờm rà này, không có ba đến năm năm thời gi­an thì sợ là không được đâu.”

“Hô…” Giả Hủ thở phào một hơi, mặt toát mồ hôi, nói: “Là lão thần nóng ruột quá.”

Mã Dược nói với Trần Quần: “Trường Văn, chuyện cải tiến máy bắn đã gi­ao cho ngươi toàn quyền phụ trách. Nhớ là phải bảo mật tuyệt đối, không được để cho Ngô, Sở biết được hư thực.”

Trần Quầng khom người đáp: “Thần… lĩnh chỉ.”

..

Sài Tang, dinh thự của Chu Du.

Từ lúc Tôn Quyền xưng đế lập Ngô quốc tới nay, lần lượt tấn phong cho quần thần. Bọn Lữ Mông, Lục Tốn, Thái Sử Từ đều được phong hầu, duy có ba quân đại đô đốc Chu Du là không được phong hầu. Tôn Quyền giống như là quên mất rằng Ngô quốc còn có một người tên là Chu Du. Từ lúc Chu Du mượn cớ ốm tới Sài Tang tĩnh dưỡng, liền không phái người tới giục Chu Du trở lại nắm binh quyền nữa, cũng không phái người tới đòi ấn tín, quân vụ của đại đô đốc.

Cứ vậy kéo dài bảy năm, tình hình trong đây rất vi diệu.

Nhưng bọn tướng lĩnh quân Ngô như Lữ Mông, Lục Tốn, Thái Sử Từ đối với Chu Du thì vẫn kính trọng có thừa, thường giấu Tôn Quyền tới Sài Tang hỏi quân cơ yếu vụ. Tôn Quyền trong lòng một mặt hiềm nghi Chu Du chuyện ngày đó, nhưng một mặt lại biết rằng ba quân của Đông Ngô tuyệt không thể không có sự điều hành của Chu Du, cho nên cũng ngầm đồng ý với cách làm của bọn Lữ Mông, để Chu Du làm đại đô đốc của ba quân ở sau màn che.

Ở thiên tính, Lữ Mông, Lục Tốn chắp tay vái Chu Du, cao giọng nói: “Tham kiến đại đô đốc.”

“Thôi đi.” Chu Du xua xua tay, hờ hững nói: “Ngồi xuống cả đi.”

“Tạ đại đô đốc.”

Lữ Mông, Lục Tốn cảng ơn rồi lần lượt ngồi xuống.

Chu Du hỏi: “Nghe nói đại tướng quân Trương Liêu của nước Sở đã dẫn binh bình định Gi­ao Châu rồi?”

“Đúng vậy.” Trên mặt Lữ Mông thoáng hiện một tia nuối tiếc, nói: “Gi­ao Châu gồm bảy quận năm mươi sáu huyện, hơn trăm vạn nhân khẩu đã thuộc hết về nước Sở. Ài, sớm biết Gi­ao Châu dễ bình định như vậy, năm đó quân ta nên động thủ trước mới đúng.”

“Bình định Gi­ao Châu không dễ dàng như trong tưởng tượng đâu.” Chu Du xua tay nói: “Xem ra chúng ta vẫn coi thường thừa tướng Gia Cát Lượng của nước Sở rồi. Người này thống binh không giỏi, nhưng quả lý nội chính thì lại cực kỳ lợi hại! Quân Sở từ sau khi bại lui về bốn quận Kinh Nam, quân tâm tán loạn, sĩ khí xuống thấp, bách tính Nam Thiên không có nơi để ở, không có cơm ăn áo mặc, sĩ tộc chạy tới Kinh Nam cũng nhân tâm hoảng loạn, lại thêm gi­an tế của quân Lương buông lời đồn đại ở khắp nơi, sự thống trị của Tào gia tại Kinh châu phải đối diện với nguy cơ trước giờ chưa từng có, tùy thời đều có thể tan thành mây khói.”

“Song, chính tên Gia Cát Lượng này, chỉ dùng năm năm thời gi­an ngắn ngủi mà quản lý bốn quận Kinh Nam đâu ra đấy, bách tính an cư lạc nghiệp, sĩ tộc nhân tâm vững chắc, không ngờ còn có tiền lương để giúp cho đại quân của Trương Liêu nam chinh Gi­ao Châu. Không dễ dàng, quá không dễ dàng. Nếu so sánh, ta và ngươi đều là thần tử của nước Ngô, bên ngoài không thể khai cương tác thổ (mở rộng lãnh thổ) cho nước Ngô, bên trong không thể quản lý địa phương cho bệ hạ, đúng là xấu hổ muốn tự sát.”

Lục Tốn không nhịn được, bèn nói: “Đại đô đốc cũng không cần phải tự trách như vậy. Những năm nay nước Ngô tuy tuy không có thêm được tấc đất nào, nhưng cũng có một chút tiền lương dự trữ. Trừ kỵ binh vì thiếu thốn chiến mã nên không được tăng cường ra, bộ binh đã tăng lên thành mười vạn người, thủy quân cũng tăng lên tới sáu vạn người. Giờ lâu thuyền cỡ lớn có hơn hai trăm chiếc, mông trùng đấu hạm cũng hơn ba ngàn chiếc. So với thủy quân của nước Lương tuy trên binh lực và số lượng chiến thuyền thì kém hơn, nhưng quân ta về kinh nghiệm thực chiến thì lại chiếm được ưu thế tuyệt đối, nếu ở trên chiến trường, không cần quân ta động thủ thi đám tân binh của quân Lương cũng sẽ tự loạn trận cước rồi.”

“Đúng vậy, hiện tại chỉ có thể hi vọng vào thủy quân thôi.” Chu Du gật đầu, xúc động nói: “Tử Minh, Bá Ngôn sau khi quay về Ngưu Chử phải tăng cường huấn luyện thủy quân, cố gắng tích góp thêm quân truy lương thảo. Có lẽ không tới ba năm nữa, quân Lương sẽ đại cử nam chinh. Tới lúc đó Mã đồ tể khẳng định sẽ dốc hết toàn lực để đại cử nam hạ. Trận chiến này, không phải ngươi chết thì chính là ta vong…”

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 360: Trước đại chiến

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Quá trình nghiên cứu và chế tạo để cải tiến máy bắn đá không hề thuận lợi, do Mã Dược chỉ có thể nói ra khái niệm mơ hồ, thậm chí các chi tiết nhỏ như bàn tời nên lắp đặp ở phần trước hay là phần sau máy bắn đá, phối trọng của dây kéo nên dùng cơ cấu gì để chống đờ đều không rõ. Mà loại máy bắn đá cải tiến này có thể nói là hoàn toàn khác hẳn với máy bắn đá dùng sức người để kéo. Cho nên Trần Quần phụ trách chế tác cụ thể chỉ có thể trong thí nghiệm không ngừng dần dần hoàn thiện.

Do mục tiêu đả kích của máy bắn đá cải tiến của Mã Dược là lâu thuyền cỡ lớn của thủy quân Ngô, Sở, cho nên đạn đá mà lọai máy bắn đá này ném ra tất nhiên phải đủ nặng mới có thể đảm bảo xuyên thùng được sàn thuyền của chiến thuyền thủy quân. Cự ly ném đá của máy bắn đá cũng phải vượt qua xạ trình bình thường của cung tiễn ít nhất là một nửa, như vậy mới có thể tiên phát chế nhân.

Trần Quần đã làm qua thí nghiệm đơn giản, chỉ có khối đá vượt ba hai trăm cân (khoảng bốn mươi kg) từ độ cao hơn năm trượng rơi xuống, mới có thể kích xuyên loại ván gỗ dày như vách thuyền, sàn tàu của chiến thuyền thủy quân. Sợ rằng vách trong và phần đáy của ván thuyền của chiến thuyền thường thường đều được buộc thêm dây, do đó trên thực tế trọng lượng cần thiết của đạn đá ít nhất cũng phải đạt tới ba trăm cân (ước chừng sáu mươi kg).

Mà xạ trình của cung tiễn bình thường là một trăm bước, vượt quá một nửa tức là một trăm năm mươi bước.

Cũng chính là nói, máy bắn đá cải tiến của họ Mã ít nhất phải ném được đạn dá nặng ba trăm cân ra xa ngoài một trăm năm mươi bước. Như vậy cần cần bật cực kỳ chắc chắn và có độ dài đầy đủ. Trần Quần trải qua nhiều lần thí nghiệm đã phát hiện ra rằng, cần bật đơn thể dưới tiền đề phải chịu trọng lượng của bản thân và ít nhiều chịu hạn chế, rất khó chịu được sự trùng kích lớn như vậy.

Đúng vào khi Trần Quần đang thúc thủ vô sách thì Khoái Lương cho hắn một kiến nghị cực kỳ quan trọng, Khoái Lương đam mê nghệ thuật kiến trúc từ trong kết cấu của xà nhà đã có được gợi ý, kiến nghị Trần Quần chế tác cần bật kiểu ghép lại. Nguyên lý chính là dùng hai cần bật hướng dọc tương đối nhỏ, nhẹ, và xếp song song làm chủ thể, ở giữa hai cần bật này sẽ buộc dây ngang để giữ chắc. Sau đó bên ngoài lại bọc thêm da thú, lấy gân thú buộc chặt lại. Gân thú khi bị hong gió sẽ tự nhiên co rút lại, như vậy có thể cường hoành buộc chặt hai cánh cần bật và dây ngang buộc thêm ở giữa thành một thể.

Dạng cần bật kiểu ghép được chế tạo ra, vô luận là cường độ hay là độ co giãn của nó đề được tăng lên nhiều, đặc biệt là trọng lượng của nó so với cần bật đơn thể thì nhẹ hơn nhiều, song khi ném ra cũng càng nhẹ hơn, nhanh hơn.

Trần Quần áp dụng kiến nghị của Khoái Lương, trải qua mấy tháng thí nghiệm, cuối cùng cũng chế ra một chiếc máy bắn đã mẫu thô lậu.

Sau khi máy mẫu được chế thành, Trần Quần thử bắn mấy lần. Hiệu quả hoàn toàn không tồi, liền mời Mã Dược và văn võ bá quan cùng tới xem thử.

Trong ngoài công trường ở đông hiệu Lạc Dương, sự giới bị lúc này đúng là cực kỳ sâm nghiêm. Trên tường trại cao hơn ba trượng tràn đầy kim qua võ sĩ. Cửa lớn trước sau để ra vào công trường thì cứ cách năm ba bước lại có một trạm gác. Trừ ba ngàn cấm vệ quân vốn luôn đóng ở đây ra, lại tăng thêm ba vàn thiên ngự lâm vệ do Vệ tướng quân Điển Vi suất lĩnh. Gần sáu ngàn quân Lương tinh nhuệ đã hoàn toàn phỏng tỏa cả công trường.

Không có thánh dụ của thiên tử, bất kỳ ai cũng không được phép ra vào. Người không phận sự dám tới gần công trường mười bước đều giết chết không tha!

Bên trong công trường.

Lương thái tổ Mã Dược cùng với bọn văn võ bá quan Giả Hủ, Lý Túc, đang vây quanh một cỗ khí giới khổng lồ, miệng không ngừng tấm tắc bình phẩm.

Cỗ khí giới này cao hơn bốn trượng, đáy rộng hơn hai trượng, chiều dài hơn năm trượng. Phần chóp của khí giới dùng một xích bện khổng lồ để cố định một cần bật khổng lồ dài hơn năm trượng.

Phần trước của cần bật nhô lên, bên trên đặt một cái giỏ khổng lồ. Trong giỏ đựng đầy đá, độ dài rộng của chiếc giỏ phải hơn một bộ (một bộ bằng 5 thước), đá đựng ở bên trong e rằng tổng cộng cũng phải mấy vạn cân. Xích sắt thông qua ròng rọc của phần đầu máy bắn đã kéo dài lên trụ chống hoạt động ở phần đáy.

Khi máy bắn đá phát xạ, binh sĩ chỉ cần đập bật trụ chống không cố định là được.

Phần sau của cần bật cơ hồ là ép xuống tới tận đất, phần đỉnh cũng cố định một cái giỏ, có điều lại nhỏ hơn rất nhiều, trong giỏ đặt một tảng đá xanh bốn mặt ba góc đã trải qua gọi dũa đặc biệt (có bốn mặt, hình kim tự tháp). Hiển nhiên, Trần Quần đã dốc rất nhiều tâm huyết vào cỗ máy bắn đá này. Thậm chí ngay cả hình trạng của đạn đá cũng cải tiến thành hình bốn mặt ba góc có lực sát thương lớn nhất.

Trong ánh mắt chờ mong của thiên tử và bá quan, Trần Quần hít sâu một hơi, giơ cao tay phải lên rồi phất xuống, quát: “Phóng!”

“Bình!”

Binh sĩ giơ thiết chùy lên rồi đập mạnh lên cột trống không cố định.

Trong sự tĩnh lặng khiến người ta ngạt thở, đột nhiên vang lên một tiếng rít chói tai, khối đá nặng mấy vạn cân nhanh chóng rơi xuống, giá đỡ khổng lồ của máy bắn đá kịch liệt bắn một cái, mang theo tiếng rít thê lương, khối đá xanh bốn mặt ba góc nặng hơn ba trăm cân được đặt ở trong gió ném đã rời khỏi giỏ bắn cao lên không trung, sau đó quay cuồng ở trong không trung rồi bay về phía trước gần hai trăm dặm rồi mới hết đà rơi xuống.

“Rầm!”

Trong tiếng nổ đinh tai nhức óc, khối đá bốn mặt ba góc lăng không rơi xuống chuẩn xác bắn trúng một chiếc “thuyền bia” cỡ nhỏ mà Trần Quần đã sai người chuẩn bị từ trước. Trong khoảnh khách đã đập nát bấy cột buồm cùng sàn thuyền của chiếc “thuyền bia” này, ván gỗ vỡ vụn và cột buồm vỡ nát bay tứ tán, trông rất hùng tráng. Văn võ bá quan đang vây quanh Mã Dược để quan sát đều bật tiếng hoan hô, Mã Dược cũng không khỏi lộ ra nét mặt mừng rỡ.

“Bệ hạ, liệt vị đại nhân chớ có nôn nóng, đợi sắc trời tối hơn sẽ ném thùng dầu hỏa, tới lúc đó lửa đốt trời cao, tràng diện đó mới hùng tráng.”

Mắt thấy thiên tử và bá quan ai ai cũng mừng ra mặt, Trần Quần khó tránh khỏi cảm thấy đắc ý trong lòng.

“Ồ?” Mã Siêu đang ngồi trên long ỷ, vui vẻ nói: “Vậy trẫm cũng phải trợn mắt đón xem rồi. Người đâu, ban ngồi, lệnh cho bá quan cùng trẫm thưởng thức màn biểu diễn của Trần ái khanh, ha ha ha…”



Tương Dương, đại trại thủy quân.

Cam Ninh kết thúc thao luyện cho thủy quân ở Tương Gi­ang xong, vừa về tới phủ tướng quân, còn chưa kịp ngồi xuống uống ngụm trà nóng thì liền có gia tướng bước vào bẩm báo công bộ tả thị lang Tư Mã Ý Tư Mã đại nhân tới thăm.

“Tư Mã đại nhân ư?” Cam Ninh hoang mang lúc lắc đầu, cao giọng nói: “Để hắn đợi ở thiên tính.”

“Tuân lệnh.”

Gia tướng lĩnh mệnh rời đi.

Thiên thính.

Khi Tư Mã ý đang đợi có chút sốt ruột thì đột nhiên có tiếng bước chân vang lên, khi quay đầu lại nhìn thì thấy Cam Ninh rảo bước vào, vội vàng đứng dậy chắp tay vái chào: “Hạ quan tham kiến Cam đại đô đốc.”

“Tư Mã đại nhân.” Cam Ninh gi­ang tay nói: “Mời ngồi.”

“Tạ đại đô đốc.”

Tư Mã Ý cảm ơn xong, hai người chia chủ khách rồi ngồi xuống. Cam Ninh lúc này mới hỏi: “Không biết đại nhân từ xa tới Tương Dương là có việc gì?”

Tư Mã Ý chắp tay về phía bắc, cao giọng nói: “Phụng ý chỉ của thánh thượng, tới Tương Gi­ang đốc tạo chiến thuyền kiểu mới.”

Tư Mã Ý thong thả lấy một tấm lụa từ trong tay áo, đặt lên bàn rồi mở ra. Cam Ninh chăm chú nhìn thì chỉ thấy trên mặt lụa trắng có một bản vẽ, rõ ràng là một chiến thuyền thủy quân kỳ quái.

Tư Mã ý chỉ vào bản vẽ rồi nói với Cam Ninh: “Mời đại đô đốc nhìn, loại chiến thuyền kiểu mới này là do bệ hạ tự mình đưa ra ý tưởng. Sau đó do công bộ bổ sung và hoàn thiện. Có điều quan viên công bộ đại đa số là không thạo thủy chiến, trong đó khó tránh khỏi sẽ có sở hở hoặc là có chỗ trái với thường thức của thủy chiến. Cho nên vẫn phải cần có đại đô đốc căn cứ vào kinh nghiệm thực tế về thủy chiến để đề xuất ý kiến nhằm cải tiến.”

Cam Ninh chỉ vào thứ thứ giống như là bánh xe trên bản vẽ, hỏi: “Tư Mã đại nhân, thứ này trông giống như là thủy xa, nhưng cái thứ lắp ở bên cạnh lai không phải là ống trúc múc nước, rõ ràng là một tấm ván gỗ, không biết đó là vật gì?”

“Đây là bánh chèo.” Tư Mã Ý nói: “Chiến thuyền hiện tại đều là binh sĩ dùng tay để chèo, có loại bánh chèo này, có thể dùng chân đạp. Lợi ích của việc dùng chân đạp là có thể dựa vào thể trọng của bản thân binh sĩ mà đạp, so với dùng tay chèo thì có lực hơn, lại trụ được lâu hơn, hơn nữa còn nhanh hơn. Ý tưởng của bệ hạ là đơn độc chế tạo hai chiếc chiến thuyền có thân thuyền hẹp dài, sau đó với khoảng cách nhất định cố định hai chiếc chiến thuyền lại, không gi­an trống ở giữa thì dùng để lắp mười tới hai mươi chiếc bánh chèo, bên ngoài thì che da thú để phòng hỏa. Sau đó ở đầu thuyền cố định chàng chùy (chùy dùng để đập khi va chạm) bén nhón, dựa vào tốc độ phóng thuyền thật nhanh mà đâm vỡ vách thuyền của chiến thuyền quân địch.”

(kết cấu có chút giống như là ca nô đạn đạo song thể mà Trung Quốc vừa nghiên cứu chế tạo ra).

“Cái này…” Cam Ninh nhíu mày nói: “Chế tác dạng chiến thuyền này cũng không khó, kỳ thực là tạo hai chiếc mông trùng hẹp dài, sau đó thì cố định chúng lại với nhau với khoảng cách nhất định, trên đầu thuyền thì lắp chàng chùy, ở giữa lắp bánh chèo thì cũng được. Nhưng vấn đề cái gọi là bánh chèo này có thực sự là có lực và duy trì được lâu hơn là dùng tay để chèo và tốc độ chèo thuyền có đúng là nhanh hơn không?”

Tư Mã Ý nói: “Cái này chắc không có vấn đề.”

“Được rồi.” Cam Ninh gật đầu: “Bản đốc sẽ bảo công tượng của xưởng đóng tàu chế tạo một chiến thuyền như vậy để xem thử.”



Đông hiệu Lạc Dương, công xưởng của công bộ.

Trần Quần cao giọng hô: “Châm lửa.”

Sớm đã có binh sĩ cầm đuốc bước lên châm lửa, dầu hỏa ở trong giỏ của máy bắn đá lập tức cháy rực, Trần Quần nghiêm giọng quát: “Phóng!”

“Bùm!”

Dạ không đen kịt lại một lần nữa vang lên tiếng rung chấn thiên.

Thùng dầu hỏa rực cháy dưới sức ném của cần bật bay lên, hỏa diễm trong không trừng kéo ra một vì sao chổi dài dài, giống như là lưu tinh xẹt qua dạ không với một quỹ tích chói mắt, gào rít bắn ra xa. Khi vầng hỏa diễm chạy rực dần dần biến thành nhỏ lại rồi gần như là biến mất thì thùng dầu hỏa cuối cùng cũng đập lên cột buồm của thuyền bia, sau đó ầm rầm nứt ra, dầu hỏa văng khắp nơi, trong khoảnh khắc háa thành hỏa tinh ngập trời.

Nhìn thấy cảnh này, Mã Dược giống như là quay về xã hội hiện đại, đang xem bắn pháo hoa.

“Hay!”

“Hay lắm!”

“Hùng tráng quá!”

“Thiên triều ta có được kỳ kỹ này, cớ gì mà nam man bất định, Ngô Sở bất diệt?”

“Bệ hạ hồng phúc tề thiên, Đại Lương quốc vận hưng thịnh…”

Văn vó bá quan của Lương triều may mắn được chứng kiến cảnh này bắt đầu nhao nhao ca tụng công đức, giống như là có máy bắn đá sắc bén, Ngô, Sở ở dĩ nam Trường Gi­ang đã không còn đáng lo, nhấc tay một cái là diệt được. Song, Mã Dược thân là người thống trị tối cao của đế quốc Đại Lương lại không dám lơ là chút nào. Nếu không có sự ngăn cản của lạch trời Trường Gi­ang, liên quân Ngô, Sở đúng là không kham nổi một kích, có lẽ chỉ cần thái tử Mã Chinh dẫn mười vạn Tây Lương thiết kỵ nam chinh là đủ để giải quyết vấn đề rồi.

Song, có sự ngăn trở của lạch trời Trường Gi­ang, cục diệu lại tuyệt nhiên bất đồng.

Nếu không thể tiêu diệt thủy quân của Ngô, Sở, đả thông lạch trời Trường Gi­ang, trăm vạn kỵ bộ của đế quốc Đại Lương không thể vượt qua Lôi Trì được nửa bước. Cho dù miễn cưỡng lén lút đưa mấy vạn thậm chí là mười mấy vạn kỵ bộ đại quân qua sông, cho dù không tiếc dùng chiến thuật khát máu dĩ chiến dưỡng chiến hi sinh bách tính Gi­ang Nam, thì kết quả của nó cũng chỉ có thể là bị liên quân Ngô, Sở chặt đứt đường lui, sao đó trong bốn bề thụ địch toàn quân bị tiêu diệt.

Cho nên, muốn bình định Ngô, Sở thì chỉ có thể tiêu diệt thủy quân của Ngô, Sở.

Mà muốn diệt thủy quân của Ngô, Sở, chỉ bằng thủy quân của Cam Ninh thì còn lâu mới đủ. Thủy quân của Cam Ninh thành quân chưa lâu, vẫn không thể sánh bằng thủy quân Ngô, Sở. Cho nên, quân Lương nhất định phải dùng đường tắt để bù đắp sự chênh lệch về lực lượng. Cho nên Mã Dược mới nghĩ tới việc cải tiến máy bắn đá và chiến thuyền thủy quân. Song máy bắn đá và chiến thuyền sau khi được cải tiến liệu có thật sự phát huy được tác dụng nên có hay không?

Trước khi quyết xuất thắng phụ cuối cùng, tất cả vẫn chưa thể biết được. Điều duy nhất mà Mã Dược có thể làm chính là lo trước tính sau, gắng sức làm tốt công tác chuẩn bị trước đại chiến.

Nếu thua trận quyết chiến thủy quân này, Đại Lương đế quốc đương nhiên sẽ không bị thương tới nguyên khí. Song ngày nhất thống chỉ sợ sẽ trì hoãn tới ít nhất là hai mươi năm. Mã Dược giờ đã gần năm mươi rồi, hắn rất lo lắng mình không sống được tới lúc đó. nếu không thể nhất thống vào lúc còn sống, cái này chẳng phải sẽ thành điều tiếc nuối vĩnh viễn trong lòng Mã Dược sao?



Ba tháng sau, Tương Dương.

Một chiếc mông trùng chiến thuyền kỳ quái đang lặng lẽ bỏ neo ở trong xưởng đóng tàu.

Chiếc mông trùng này so với mông trùng chiến thuyền bình thường thì rộng gấp đôi, dài gấp hai, nhìn từ mặt nghiêng thì giống như một chiếc mông trùng chiến thuyền bình thường, nhưng nhìn từ chính diện thì lộ ra có chút quỷ dị.

Từ chính diện mà nhìn, kết cấu phần trên của chiếc chiến thuyền này liền thành một thể, mà phần dưới thì lạị tách ra. Hai bên trái phải thân thuyền đều được thiết kế có hạm thủ sắc bén. Trên hạm thủ thì lắp dặt hai hàng chàng chùy. Nhìn từ xa giống như một con cá lớn dữ tợn đáng sợ, đang há cái miệng to như máu, lộ ra hai hàm răng sắc nhọn.

Trên thực tế, ở dưới mặt nước còn ẩn giấu hai hàng chàng chùy to và dài hơn, hai hàng chàng chùy này mới là đòn sát thủ chân chính của mông trùng chiến thuyền.

Bên cạnh chiếc mông trùng chiến thuyền kỳ quái này còn có một chiếc mông trùng chiến thuyền bình thường đang bỏ neo.

Trên một chiếc lâu thuyền năm tầng cách đó không xa, Cam Ninh, Tư Mã Ý dưới sự vây quanh của mấy chục tướng lĩnh thủy quân đang đứng nghiêm.

Thấy hai chiếc mông trùng chiến thuyền đã chuẩn bị xong xuôi, Cam Ninh mới hạ lệnh: “Bắt đầu đi!”

Tướng lĩnh thủy quân đứng ở bên cạnh Cam Ninh lập tức giơ một chiếc tam giác lệnh kỳ màu đỏ lên, dùng lực phất về phía trước. Trong nháy mắt, tiếng kèn lệnh thê lương và tiếng trống trận sục sôi vang vọng. Trong tiếng trống trận khiến người ta nhiệt huyết sôi trào, từng chiếc từng chiếc mái chèo từ trong lỗ chèo của chiếc mông trùng chiến thuyền bình thường thò ra, bắt đầu chèo điên cuồng, tần xuất rẽ nước rõ ràng với tốc độ chạy nước rút.

Trong tiếng mái chèo rẽ nước điên cuồng, mông trùng chiến thuyền từ tĩnh chuyển thành động, bắt đầu tăng tốc.

Mà hai bên thành của chiếc mông trùng chiến thuyền to lớn cổ quái lại không hề có mái chèo thò ra. Đúng vào lúc Cam Ninh và thướng lĩnh thủy quân vô cùng tất vọng thì trong ống thoát ở phần đuôi của chiếc chiến thuyền cổ quái đột nhiên phun ra sóng nước màu trắng, sau đó cả chiếc thuyền trượt đi như tên, cơ hồ là từ lúc bắt đầu, mông trùng chiến thuyền bình thường đã bị bỏ lại phía sau, hơn nữa cự ly giữa hai chiếc chiến thuyền nhanh chóng bị kéo giãn.

Trên phi lư của lâu thuyền năm tầng, Cam Ninh hung hăng vung vẩy thiết quyền, nhãn thần đột nhiên lộ ra vẻ dữ tợn. Tướng lĩnh thủy quân ở phía sau Cam Ninh thì nhao nhao lớn tiếng hoan hô, ai ai cũng vỗ tay chúc mừng. Khi tướng lĩnh thủy quân đang không ngừng hoan hô thì chiếc mông trùng chiến thuyền cổ quái đang nhanh chóng lướt về phía trước đã nặng nề va chạm với một chiến thuyền dùng để làm bia đang bỏ neo nằm ngang.

Chỉ nghe thấy rầm một tiếng, trên mạn huyền của chiếc thuyền làm bia đã bị hai hàng chàng chùy sắc bén đập ra mấy chục cái lỗ, lực va chạm khổng lồ khiến thân của chiếc mông trùng chiến thuyền đột nhiên dừng lại, sau đó trong lỗ thoát nước ở đầu thuyền bắt đầu đảo ngược phun ra bọt sóng màu trắng, thân thuyền vừa dừng lại rất nhanh liền bắt đầu lui ra sau. Chàng chùy khổng lồ được rút ra, nước sông băng lãnh nhanh chóng từ lỗ thủng tràn vào trong khoang thuyền của chiếc thuyền làm bia.

Không tới một thoáng, chiếc thuyền dùng làm bia liền chìm vào đáy sông.



Đông hiệu Lạc Dương, công trường.

Lương thái tổ Mã Dược lại một lần nữa ngự giá thân lâm, suất lĩnh văn võ bá quan tới tham quan mười máy bắn đá cùng bắn một lúc. Hiệu quả kích thích thị giác do mười chiếc máy bắn đá bắn cùng lúc sinh ra tất nhiên là hùng tráng hơn một máy bắn nhiều. Có điều Mã Dược đột nhiên lờ mờ cảm thấy có chỗ nào đó không thỏa đáng lắm. Tựa hồ, tràng diện phát xạ của một chục chiếc máy bắn đá này so với tràng diện máy bắn đá phát xạ trong hồi ức của mình có chút khác biệt nhỏ.

Cụ thể là ở đâu thì Mã Dược trong thoáng chốc không nghĩ ra được.

Lúc này thái tử Mã Chinh đột nhiên vô ý hỏi Trần Quần một câu: “Trần thượng thư, vì sao không làm cần bật dài ra một chút?”

Trần Quần nói: “Thái tử có điều chưa biết đấy thôi, cần bật này không thể kéo dài hơn được nữa. Nếu độ dài của cần bật gia tăng thêm một trượng, vậy thì cường đó cần thiết của cần bật sẽ tăng thêm hai lần, độ khó chế tác của cần bật lại tăng thêm bốn lần, cả trọng lượng bản thân của máy bắn đá sẽ tăng thêm sáu lần, hơn nữa tăng thêm một trượng sẽ không giúp xạ trình của máy bắn đá tăng thêm quá nhiều.”

Mã Chinh hỏi: “Xạ trình lớn nhất hiện tại là bao nhiêu?”

“Xạ trình lớn nhất là một trăm tám mươi bước.” Trần Quần đáp: “Hạ quan sau nhiều lần thí nghiệm đã phát hiện, sáu trượng đã là độ dài lý tưởng nhất của cần bật rồi. Khi độ dài của cần bật ngắn hơn sáu trượng, xã trình sẽ giảm bớt đi một cách rõ rệt, mà khi độ dài của cần bật hơn sáu trượng, thì độ dài tăng thêm cũng không khiến xạ trình tăng thêm rõ rệt. Ngoài ra, xạ trình của cung tiễn chỉ ở vào khoảng một trăm hai mươi bước, xạ trình của máy bắn đá của quân ta đã đủ để áp chế rồi.”

“Không đúng!” Mã Dược cuối cùng cũng nghĩ ra vấn đề nằm ở đâu, vỗ bàn nói: “Xạ trình của máy bắn đá này ít nhất có thể tăng thêm một trăm bước!”

“Cái gì?” Trần Quần ngạc nhiên nói: “Tăng thêm một trăm bước ư? Thế phải tăng độ dài của cần bật lên bao nhiêu thì mới làm vậy được?”

“Không.” Mã Dược lắc đầu nói: “Ý tứ của trẫm là không cần gia tăng độ dài của cần bật mà vẫn có thể khiến xạ trình của máy bắn đá biến thành xa hơn.”

Trần Quần nói: “Sao có thể như vậy được?”

“Vì sao lại không thể?” Mã Dược hỏi lại: “Nếu ở chuôi cần bật buộc thêm hai sợi dây thừng, lại buộc đầu kia của dây thừng vào giỏ ném. Một khi như vậy, khi máy bắn đá phát xạ chẳng phải là tương đương với độ dài vốn có của cần bật cộng thêm độ dài của dây thừng sao? Có độ dài tăng thêm ngoài định mức này, xạ trình của máy bắn đá chẳng phải là tăng thêm nhiều ư?

Mã Dược cuối cùng cũng nhớ ra, khi máy bắn đá trong điện ánh phát xạ không phải trực tiếp dùng cần bật ném đá đi, mà là thông qua cần bật kéo dây thừng, lại do dây thừng ném đạn đá ở trong giỏ ra. Do khi máy bắn đá ở trạng thái phát xạ, cần bật cơ hồ là dán chặt vào mặt đất, mà giỏ bắn buộc dây thừng thì ở phần trước của máy bắn đá.

Cho nên khi cần bật bắn lên, thì sẽ tác động lên dây thừng, tạo cho giỏ ném một phương hướng hướng ra sau cơ hồ là lực khiên dẫn ban đầu bình hành với mặt đất. Dưới tác dụng của lực khiên dẫn ban đầu, giỏ ném sẽ dùng phần cán của cần bật làm tâm vòng tròn với độ dài của dây thừng làm bán kính để lay động phương hướng tiếp tuyến, mà lúc này cần bật cũng đang bật lên trên, hai loại vận động này đồng thời tiến hành.

Khi cần bật đạt tới cao điểm, bắt đầu nhận được sự kìm hãm của phối trọng mà giảm tốc, tiếp tuyến của dây thừng buộc ở vần đuôi cần bật lại không giảm tốc, cuối cùng dây thừng sẽ hình thành một trực tuyến với cần bật, nếu lúc này đạn đá ở trong giỏ ném vừa hay rời khỏi sự ràng buộc của giỏ ném, vậy thì trường độ thực tế của cần bật sẽ là độ dài vốn có của cần bật cộng thêm độ dài của dây thừng.

Độ dài thực tế của cần bật tăng thêm, xạ trình của nó tất nhiên cũng tăng thêm. Nan đề duy nhất cần giải quyết ở bên trong là làm thế nào đảm bảo rằng đạn đá ở trong giỏ ném sẽ bay đi khi cần bật và dây thừng nằm thẳng nhau.

Trần Quần rõ ràng là không hiểu nguyên lý vật lý học này, đầu óc mù mờ hỏi: “Buộc dây thừng ở phần đuôi cần bật, để dây thừng kéo giỏ ném? Như vậy có thể là tăng thêm xạ trình ư?”

“Đương nhiên.” Mã Dược đáp một cách chắc như đinh đóng cột: “Ngươi cứ thử là biết ngay.”

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 361: Bày mưu lập kế (1)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Tháng sáu năm Thái Bình thứ chín ( năm 210)

Sau khi đã chuẩn bị chu xong xuôi mọi việc, Mã Dược đang chuẩn bị khởi binh xuôi nam thì Bùi Định (trưởng tử của Bùi Nguyên Thiệu) và Thư Hộc ( con của Thư Thụ ) đột nhiên mặc quần áo tang tới Lạc Dương kiến giá. Cự Ngôn Bình Bắc Vương Bùi Nguyên Thiệu và Thứ sử Sóc Châu Thư Thụ cả hai đã lần lượt qua đời chết bệnh trong vòng một tháng. Mã Dươc nghe được tin tức liền khóc rống lên trước mặt văn võ bá quan. Mấy cựu thần như Giả Hủ, Quả Ninh, Phó Tiếp, Pháp Chân cũng sụt sùi hồi lâu.

Mã Dược cho phép Bùi Định thừa hưởng tước Bình Bắc Vương, cùng Chu Thương, Quản Khởi thống lĩnh mười lăm vạn thiết kỵ của ba vạn hộ Mạc Bắc xuôi nam Trung Nguyên, cử Chinh Đông tướng quân Cao Thuận khởi mười lăm vạn quân Quan Đông, Chinh Tây tướng quân Phương Duyệt khởi mười lăm vạn quân Quan Trung, Chinh Bắc tướng quân Hứa Chử khởi mười lăm vạn quân Hà Bắc. Trấn tây tướng quân Trương Tú khởi mười vạn quân Tây Xuyên, trước sau tiến tới Gi­ang Lăng hội quân với mười lăm vạn quân Kinh Châu của Chinh Nam tướng quân Từ Hoảng.

Mã Dược tự mình thống lĩnh mười vạn thiết kỵ tinh nhuệ hợp binh với mười lăm vạn thiết kỵ Mạc Bắc xuôi nam.

Tháng chín, năm Thái Bình thứ chín, các lộ quân Lương tụ tập ở Gi­ang Lăng, tổng cộng có hơn một trăm vạn các loại quân thuỷ, bộ, kỵ nhưng nói xưng lên ba trăm vạn.

Mã Dược lại sai sứ truyền hịch cho Ngô, Sở, muốn cùng Tôn Quyền, Tào Chân đánh một trận ở Xích Bích. Tin tức truyền tới gây chân động Kinh, Dương.

Kiến Nghiệp, Ngô cung

“Bệ hạ!” Tư Đồ Trương Chiêu quỳ dạp bên dưới, khóc rống lên can gián: “Nay ba trăm vạn đại quân Bắc Lương ồ ạt xuôi nam. Cho dù Ngô, Sở có liên minh cũng, binh lực cũng không quá ba mươi vạn, không thể chống lại được. Nếu như ngoan cố chống lại thì không nghi ngờ gì nữa chỉ như châu chấu đá xe. Tại sao không sớm đầu hàng, bảo toàn cho bách tính? Nếu cứ khăn khăn chống lại thì sẽ ngọc nát đá tan, trăm họ lầm than”.

“Bệ hạ.”

“Bệ hạ.”

“Bệ hạ.”

Trương Hoàng, Bộ Chất, Ngu Phiên cũng rối rít bước ra, quỳ dạp trước bệ rồng, cố gắng khuyên can Tôn Quyền đầu hàng quân Bắc Lương.

“Các vị đại nhân nói sai rồi” Tôn Quyền cực kỳ giận dữ đang muốn phát tác thì bất chợt Đô đốc thuỷ quân Lữ Mông bước ra nói: “Nước Ngô ta có năm vạn tướng sĩ thuỷ quân. Chiến thuyền lớn nhỏ gần vạn chiếc. Bắc Lương có ba trăm vạn đại quân xuôi nam nhưng chúng từ xa tới, nhất định có nhiều khó khăn. Quân ta chỉ cần dùng Trường Gi­ang rộng lớn, hiểm trở để tử thủ. Quân Lương đánh lâu không thắng, tất sẽ thối chí lui quân. Sao có thể không chiến mà hàng?”

Phiêu Kỵ tướng quân Thái Sử Từ cũng bước ra quát to: “Ngoại trừ năm vạn thuỷ quân, Đông Ngô ta vẫn còn mười vạn bộ binh tinh nhuệ. Cái gì gọi là không thể đánh lại?”

“Đúng. Tuyệt đối không hàng!”.

“Bệ hạ, không thể đầu hàng”.

“Thần thề sống chết không đầu hàng”.

Thái Sử Từ vừa nói xong, các võ tướng còn lại, Hạ Tề, Tổ Lang, Toàn Tông, Chu Nhiên cũng đều rối rít bước ra khỏi hàng, yêu cầu quyết tử chiến cùng với quân Lương.

Sắc mặt Tôn Quyền âm trầm, bất định. Bất chợt ngay trong lúc này hắn nhớ tới Chu Du. Nếu có Đại đô đốc ba quân Chu Du ở đây, chỉ e sẽ không có cuộc tranh luận hàng, hay chiến này? Hơn nữa nếu thực sự liên minh với quân Sở, đối kháng với quân Lương, ngoại trừ Chu Du ra, không ai có đủ tư cách thống lĩnh ba quân. Nghĩ vậy Tôn Quyền không còn do dự nữa, hắn quát to: “Kim Ngô vệ ở đâu?”

Chấp Kim Ngô Tống Khiêm vội vàng bước ra nói: “Có vi thần”.

Tôn Quyền nói: “Ngay lập tức phái người tới Sài Tang, triệu Đại đô đốc Chu Du về đây”.

“Thần tuân chỉ”.

Tống Khiêm lĩnh mệnh ngay lập tức rời đi.

Lúc này Tôn Quyền mới nhìn quần thần nói: “Chiến hay hàng đợi sau khi Đại đô đốc tới hãy thương nghị tiếp. Bãi triều”.

Hán Thọ, Sở cung.

So với việc văn quan võ tướng của Đông Ngô chia làm hai phái chiến, hoà. Quần thần trên dưới của nước Sở lại tỏ ra rất đoàn kết. Trên thực tế từ sau khi chuyển về nam, Gia Cát Lượng đã dần dần tiêu trừ ảnh hưởng của các gia tộc Sái, Hoàng, Vương cầm đầu sĩ tộc Kinh Tương ra khỏi trung tâm quyền lực. Hiện tại quyền lực cao nhất của nước Sở đã nằm trong tay Tào Chân và Gia Cát Lượng.

Ba trăm vạn đại quân Lương áp sát biên giới. Vua tôi nước Sở lại đoàn kết chưa từng có.

Sau khi nhận được hịch truyền của Lương Thái Tổ Mã Dược, Tào Chân khẩn cấp cho đòi Thừa tướng Gia Cát Lượng, Đại tướng quân Trương Liêu, Phiêu Kỵ tướng quân Trương Cáp cùng với văn quan võ tướng như Văn Sính, Nguỵ Diên, Trình Dục, Cổ Quy, Vương Sán tới thương thảo đối sách.

“Bệ hạ, tuy quân Lương xưng là ba trăm vạn quân nhưng thần cho rằng nhiều nhất chỉ có một trăm vạn quân”.

Đại điện Hoàng cung, Gia Cát Lượng đang chậm rãi nói. Sau khi trải qua gần mười năm tôi luyện, lúc này Gia Cát Lượng đã trưởng thành hơn rất nhiều.

Tào Chân hỏi: “Tại sao Thừa tướng lại quả quyết như vậy?”

Gia Cát Lượng nói: “Có thể căn cứ vào binh lực phân bố ở đại doanh các nơi của nước Lương mà kết luận. Lương quốc của Mã đồ phu có tổng cộng bẩy đại doanh truân binh. Trong đó đại doanh Lạc Dương trú đóng thiết kỵ Tây Lương tinh nhuệ nhất, tổng binh lực tả hữu là mười lăm vạn. Kỵ binh ba vạn hộ Mặc Bắc, cũng có binh lực tổng cổng mười lăm vạn. Ngoại trừ hai nơi đó ra còn có đại doanh truân điền Hà Bắc, Quan Đông, Kinh Châu, Quan Trung, Tây Xuyên. Mỗi truân điền đại doanh đó có binh lực từ mười tới mười lăm vạn đại quân. Đại doanh thuỷ quân ở Tương Dương có thể có hơn mười vạn binh lực. Nói tóm lại tổng binh lực quân Lương chỉ vào khoảng một trăm hai mươi vạn”.

Đại tướng quân Trương Liêu nói: “Coi như chỉ có một trăm hai mươi vạn quân cũng vượt quá xa binh lực Sở quốc chúng ta”.

“Đúng vậy” Phiêu Kỵ tướng quân Trương Cáp phụ hoạ: “Quân ta chỉ có sáu vạn bộ binh. Bốn vạn bộ binh. Binh lực không vượt quá mười vạn quân. Cứ coi như chúng ta liên thủ với quân Ngô, binh lực hai nước cộng lại cũng không quá hai mươi vạn, không bằng một phần tư quân Lương”.

“Nhị vị tướng quân hoàn toàn không cần lo lắng” Gia Cát Lượng cực kỳ tự tin nói. “Mặc dù binh lực quân Lương đông đảo nhưng phần lớn lại là kỵ binh và bộ binh, tổng binh lực thuỷ quân chỉ có khoảng mười vạn, trong khi đó binh lực thuỷ quân Ngô, Sở cộng lại cũng có chín vạn quân. Nói về thuỷ quân, binh lực của hai bên có thể nói chỉ tương đương nhau. Hơn nữa liên quân Ngô, Sở có Chu Du, Sái Mạo, Lục Tốn, Lữ Mông là những thống soái thuỷ quân xuất sắc, quân Lương ngoài Cam Ninh ra thì còn có ai?”

“Mã đồ phu truyền hịch muốn đánh một trận với liên quân Ngô, Sở ở Xích Bích. Thần cho là hắn đang tự tìm lấy cái chết” Vương Sán cũng phụ hoạ: “Đương nhiên kỵ binh và bộ binh của quân Lương kiêu dũng thiện chiến. Nhưng nếu một trăm vạn đại quân kia không thể vượt Trường Gi­ang vậy liệu có sự khác nhau về binh lực không? Thần cho là trong cuộc chiến Xích Bích, quan trọng nhất vẫn là thuỷ quân. Nói cách khác liên quân Ngô Sở, chỉ có chân chính đối đầu với mười vạn thuỷ quân Kinh Châu của Cam Ninh mà thôi”.

“Thì ra là như vậy”.

“Đã hiểu rồi”.

Sau khi được Gia Cát Lượng, Vương Sán phân tích một hồi, Trương Liêu, Trương Cáp gật đầu bừng tỉnh, có cảm giác như trút nỗi lo trong lòng.

Trên thực tế Gia Cát Lượng, Vương Sán đã vạch ra vấn đề mấu chốt nhất của cuộc chiến Xích Bích.

Mấu chốt của cuộc chiến Xích Bích chính là thuỷ quân. Nếu như thuỷ quân của liên quân Ngô, Sở có thể đánh bại thuỷ quân Kinh Châu của Cam Ninh ở cuộc chiến Xích Bích, công cuộc nam chinh của quân Lương sẽ thất bại thảm hại và chấm dứt.

Ngược lại thuỷ quân của liên quân Ngô, Sở thất bại trong tay thuỷ quân của Cam Ninh thì cho dù liên quân Ngô, Sở có binh lực kỵ, bộ ngang với quân Lương, cũng không có cách nào ngăn cản thiết kỵ quân Lương xuôi nam.

“Hiểu rồi” Tào Chân vỗ án, hắn cao giọng nói: “Vấn đề mấu chốt của cuộc chiến này là thuỷ quân của liên quân Ngô, Sở có thể tiêu diệt hoàn toàn mười vạn thuỷ quân Kinh Châu của Cam Ninh hay không. Vì để đạt được mục tiêu chiến lược này, Trẫm cho rằng nhất định phải gi­ao thuỷ quân nước Sở cho Đại đô đốc quân Ngô là Chu Du thống nhất chỉ huy để đồng tâm hiệp lực công phá quân Lương. Chẳng hay chư vị nghĩ thế nào?”

Gia Cát Lượng nghiêm nghị nói: “Tấm lòng của Bệ hạ làm kẻ khác thán phục. Thần cho là có thể”.

Mấy người Trương Liêu, Trương Cáp, Cổ Quỳcũng rối rít phụ hoạ: “Bệ hạ anh minh”.

Quyết định của Tào Chân nhìn như là lỗ mãng nhưng kỳ thật lại cực kỳ anh minh. Nếu luận về tài cầm quân, đương thời không có ai xuất sắc hơn Chu Du, dù là Lương Thái Tổ Mã Dược cũng tự nhận kém hơn Chu Du một bậc. Tuy Chu Du thất bại trong cuộc chiến Hoài Nam nhưng hắn không thua ở khả năng cầm quân mà hắn thua ở chỗ thực lực quân Ngô không bằng quân Lương. Cho dù Chu Du có tài năng lệch đất thì hắn tuyệt đối cũng không thể có khả năng làm xoay chuyển đất trời.

Vì vậy Tào Chân quyết định gi­ao thuỷ quân của nước Sở cho Chu Du thống nhất chỉ huy, không nghi ngờ gì nữa đây là quyết định rất chính xác, giải quyết thuận lợi vấn đề phối hợp giữa thuỷ quân của hai nước. Mặc dù thuỷ quân của quân Sở ở vào vị trí phụ thuộc vào quân Ngô nhưng Tào Chân không nghĩ đó là vấn đề quan trọng nhất. Vấn đề quan trọng nhất là chiến thắng trong cuộc chiến Xích Bích làm thất bại âm mưu xuôi nam đánh chiếm Kinh, Dương của Mã đồ phu.

Gi­ang Lăng, đại trướng của Mã Dược.

Tư Mã Ý chỉ tay vào bản đồ, hắn nhìn Mã Dược và văn võ đại thần nói: “Bệ hạ, chư vị đại nhân, mật thám mới cấp báo: Đô đốc thuỷ quân Đông Ngô là Lữ Mông thống lĩnh ba vạn thuỷ quân, hơn năm ngàn chiến thuyền lớn nhỏ vào đóng ở Hạ Khẩu. Đô đốc thuỷ quân nước Sở cũng chuyển đại trại thuỷ quân từ Ba Lăng về Xích Bích. Lúc này thuỷ quân hai nước Ngô, Sở phân ra đóng ở Hạ Khẩu, Xích Bích làm thành thế hỗ trợ lẫn nhau, ở vào thế giằng co với đại trại thuỷ quân chúng ta ở cảng Ô Lâm”.

Mã Dược gật đầu. Hắn đứng thẳng người, ưỡn bụng rồi thong thả bước đi trong đại trướng. Gần mười năm sống trong nhung lụa đã khiến cho thể hình của hắn biến đổi nghiêm trọng. Thân thể béo phì của hắn dần dần làm chiếc áo Long bào màu vàng nứt ra. Quả thật có một phong thái uy nghi khác thường của bậc đế vương. Bước đi mấy bước trong đại trướng, Mã Dược đột nhiên dừng chân, hắn lớn tiếng nói: “Bộ binh quân Ngô, Sở không đáng nói. Duy chỉ có thuỷ quân của chúng quả thật là một mối hoạ trong lòng”.

Nói một hồi rồi Mã Dược trầm giọng nói: “Chư vị ái khanh, cuộc chiến Xích Bích này nên đánh như thế nào?”

Mã Dược vừa dứt lời, Pháp Chính liền nói: “Bệ hạ, quân ta có ưu thế binh lực tuyệt đối. Thần cho là nhất định phải phát huy ưu thế binh lực ở mức tối đa, ngăn cản hành động của liên quân Ngô, Sở”.

Mã Dược vui vẻ nói: “Nói cụ thể đi”.

Pháp Chính bước tới trước bản đồ, hắn chỉ tay dọc theo sông Trường Gi­ang, cao giọng nói: “Có thể triển khai một trăm vạn đại quân kỵ, bộ ra đóng ở phía bắc Trường Gi­ang, từ duyên hải Gi­ang Lăng tới cảng Ô Lâm, phân chia ra làm tổng cộng mười đại doanh, chuẩn bị mười cầu phao vượt sông. Vì để ngăn cản quân ta vượt sông, liên quân Ngô, Sở sẽ chia binh ra tập kích. Một khi như vậy, binh lực ở đại trại thuỷ quân của quân Ngô, Sở ở Xích Bích, Hạ Khẩu sẽ suy yếu đi rất nhiều”.

Mã Dược nói: “Thuyền bè để bắc cầu phao thì lấy ở đâu?”

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 361: Bày mưu lập kế (2)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Pháp Chính nói: “Không cần dùng thuyền con. Cả một vùng Gi­ang Hán rộng lớn là một khu rừng lớn với cây tùng và cây thông. Quân ta hoàn toàn có thể chặt cây lấy gỗ làm cầu phao”.

Mã Dược hỏi: “Nếu như quân Ngô, Sở không chia quân ra đối phó thì sao?”

Pháp Chính nói: “Nếu như liên quân Ngô, Sở không chia quân ra đối phó, để mặc cho quân ta tuỳ ý bố trí cầu phao thì cuộc chiến Xích Bích sẽ nhanh chóng kết thúc”.

“Hả?” Mã Dược vui vẻ nói: “Xin chỉ giáo”.

Pháp Chính nói: “Bệ hạ hãy nghĩ xem. Nếu như quân Ngô, Sở không tới tập kích, quân ta hoàn toàn có thể bắc được các cầu phao vững chắc qua sông Trường Gi­ang sau đó chúng ta thiết kế xích sắt ngăn cản hai bên để bảo vệ cầu phao. Cuối cùng chúng ta thiết lập máy bắn đá do chính Bệ hạ sửa đổi ngay trên cầo phao. Tới khi đó cho dù thuỷ quân Ngô, Sở có dốc toàn bộ lực lượng thì sẽ rơi vào kết cục tan nát, có đến mà không có về, không phải trận chiến này quân ta nhất định thắng sao?”

Nghe vậy hai mắt Mã Dược nhất thời bừng sáng, hắn vui vẻ nói: “Đúng rồi, có cầu phao không thể phá huỷ này, lạch trời Trương Gi­ang tự nhiên lại trở thành một con đường lớn”.

Trần Quần nói: “Thế nhưng không hiểu Hiếu Trực có nghĩ tới không? Máy bắn đá rất nặng, đặt ở trên cầu phao, liệu cầu phao có chịu nổi sức nặng của nó hay không? Coi như gắng gượng chống đỡ được, chỉ e cũng không thể đặt quá nhiều máy bắn đá trên cầu phao. Với mấy chiếc máy bắn đá đơn độc đó, chỉ e rất khó tạo thành mới uy hiếp quá lớn với thuỷ quân Ngô, Sở”.

Pháp Chính nói: “Điều này tại hạ đã nghĩ tới, đương nhiên chỉ dựa vào bè gỗ là không đủ để chống đỡ quá nhiều máy bắn đá nhưng chúng ta hoàn toàn có thể đặt những thùng gỗ rỗng bịt kín bên dưới cầu phao. Nếu chúng ta đặt rất nhiều thùng gỗ như vậy thì sẽ gia tăng sức chống đỡ, sức nổi của cầu phao, cho dù chúng ta có đặt hơn một trăm máy bắn đá trên một cầu phao thì cũng không có vấn đề gì. Trường Văn nghĩ sao?”

Trần Quần gật đầu nói: “Thì ra là như vậy, nếu vậy thì không còn vấn đề gì nữa”.

Mã Dược nhìn mọi người xung quanh nói: “Chư vị ái khanh còn có diệu kế nào không?”

“Thần cũng có một kế” Khoái Việt bước ra khỏi hàng nói: “Sao Bệ hạ không sử dụng chiến thuyền liên hoàn? Chiến thuyền liên hoàn khổng lồ chẳng những có thể cho phép bệ phóng rất tốt cho máy bắn đá cải tiến của Bệ hạ, còn có thể biến mặt nước như đồng bằng. Trăm vạn đại quân Lương có thể gi­ao chiến trên mặt sông cùng với thuỷ quân Ngô, Sở. Một khi như vậy thì chỉ với mười mấy vạn thuỷ quân, liên quân Ngô, Sở căn bản không chịu nổi một đòn”.

“Liên hoàn chiến thuyền?”

Nghe vậy Mã Dược giật nẩy mình, lập tức trong đầu hắn hiện lên cuộc chiến Xích Bích trong lịch sử. Nếu như không phải Khoái Việt trước sau một lòng một dạ trung thành với triều Lương, Mã Dược suýt nữa đã nghi ngờ hắn là gi­an tế siêu cấp núp trong quân Lương. Nhưng khi ý nghĩ đó xuất hiện trong đầu hắn, hắn trầm giọng nói: “Chiến thuyền liên hoàn đương nhiên có thể biến mặt đất thành đồng bằng nhưng lại tối kỵ hoả công”.

“Không thể nào” Khoái Việt tự tin nói: “Bây giờ đang là thời tiết chính đông. Mùa đông chỉ có gió tây bắc”.

“Quân ta từ bắc tấn công sang hướng nam, hoàn toàn thuận gió. Nếu như quân Ngô, Sở dùng hoả công thì không phải tự thiêu chính bản thân mình sao?”

Mã Dược cau mày nói: “Nếu như vạn nhất lúc đó có gió đông nam nổi lên thì sao?”

“Cái này…” Khoái Việt ngạc nhiên nói: “Vào mùa đông làm sao có gió đông nam được?”

“Không thể có việc nào là tuyệt đối” Mã Dược nói: “Hơn nữa không sợ nhất vạn, chỉ sợ vạn nhất”.

Khoái Việt vội vàng nói: “Thần suy tính không kỹ, xin bệ hạ lượng thứ”.

“Không” Ánh mắt Giả Hủ ở bên cạnh đột nhiên trở nên rất gi­an xảo, hắn nhìn Mã Dược nói: “Bệ hạ, nếu như quân ta sớm có phòng bị, một khi gió đông nam nổi lên, liên quân Ngô, Sở muốn dùng hoả công cũng chẳng đáng sợ.

Thần cho là đề nghị của Dị Độ vẫn rất đáng thử. Thế nhưng để đề phòng vạn nhất, thần cho rằng có thể chỉ cho hai mươi vạn đại quân lên chiến thuyền liên hoàn, phối hợp với thuỷ quân của Cam Ninh tướng quân, phát động tấn công liên quân Ngô, Sở”.

“Ồ” Mã Dược vui vẻ nói: “Văn Hoà nói chỉ chế tạo chiến thuyền liên hoàn chở hai mươi vạn đại quân thôi sao?”

“Đúng” Giả Hủ gật đầu nói: “Như vậy trong trường hợp vạn nhất cũng chỉ tổn thất hai mươi vạn đại quân, không đủ để ảnh hưởng tới cả cuộc chiến”.

Mã Dược nói: “Thế nhưng nên đề phòng hoả công như thế nào?”

Giả Hủ nói: “Một khi liên quân Ngô, Sở muốn dùng hoả công, chúng chỉ có hai cách sử dụng”.

Mã Dược hỏi: “Hai loại gì?”

Giả Hủ nói: “Phương thức thứ nhất là khi quân đội hai bên gi­ao chiến với nhau, có thể dùng quân cung thủ phóng hoả tiến nhưng một khi như vậy, quân đội hai bên gi­ao chiến, quân cung thủ liên quân Ngô, Sở thua xa quân cung thủ chúng ta. Khi đó chưa nói tới việc liên quân Ngô, Sở không thiêu cháy được chiến thuyền của quân ta, ngược lại còn bị quân ta thiêu huỷ chiến thuyền. Phương thức thứ hai là phái người lái thuyền có chứa vật dẫn hoả lén lút tới gần chiến thuyền của quân ta sau đó sẽ tập kích bất ngờ. Ngoài hai khả năng này tuyệt đối không còn khả năng nào khác”.

Mã Dược hồi tưởng lại việc Chu Du có thể dùng một mồi lửa hoả thiêu tám mươi ba vạn đại quân của Tào Tháo, không phải chính là vì Hoàng Cái trá hàng, dẫn một đội Mông trùng, Đấu hạm chất đầy chất dẫn lửa xông vào chiến thuyền liên hoàn của quân Tào sao? Nếu như lúc Tào Tháo không trúng kế, không tuỳ tiến xuất lĩnh đội thuyền rời trại tiếp ứng Hoàng Cái thì có lẽ lịch sử đã được viết lại.

Nghĩ vậy, trong lòng Mã Dược không khỏi chấn động, hắn hỏi Giả Hủ: “Nói cách khác, chỉ cần không để chiến thuyền khả nghi tới gần, liên quân Ngô, Sở muốn dùng hoả công cũng chỉ còn cách phát động tấn công chính diện sao?”

Giả Hủ nói: “Đúng vậy”.

“Ha ha ha. Đây đúng là một kế hay” Mã Dược vui vẻ nói: “Mọi người có còn kế sách nào khác không?”

Trong trướng vô cùng tĩnh lặng. Trong lúc Mã Dược đang cảm thấy thất vọng thì Lỗ Túc đột nhiên bước ra khỏi hàng tấu: “Bệ hạ, thần không nghĩ ra cách hay nhưng thần cũng nghĩ ra một cách”.

Mã Dược vội nói: “Tử Kính hãy nói mau”.

Lỗ Túc nói: “Mặt sông Trường Gi­ang rộng rãi. Từ Tây Lăng trở xuống hạ lưu, đoạn hẹp nhất cũng hơn năm trăm bộ nhưng lại không quá sâu. Nhất là những chỗ mặt sông rộng nhất lại không sâu quá hai trượng. Quân ta có thể đóng cọc gỗ sâu gần bốn trượng trong cảng Ô Lâm để dựng thuỷ trại vậy tại sao quân ta không thể trực tiếp dưng thuỷ trại ngay trên mặt sông?”

Mã Dược nghe vậy không khỏi ngẩn người, hắn ngạc nhiên nói: “Dựng thuỷ trại trực tiếp ngay trên mặt sông, vì sao lại làm vậy?”

Lỗ Túc nói: “Thuỷ trại có tường trại, có tiễn tháp nên có thể ngăn cản được thuỷ quân Ngô, Sở tấn công. Nếu như quân ta có thể xây dựng một toà thuỷ trại khổng lồ ngay trên mặt sông từ bờ bắc sông Trường Gi­ang tới bờ nam sông Trường Gi­ang, nước sông vẫn có thể chảy bình thường nhưng chiến thuyền không có cách nào lưu thông được. Một khi chúng ta làm được như vậy, không phải con đường thuỷ Trường Gi­ang đã bị cắt làm đôi ư?”

“Cái này”.

Mã Dược thầm chấn động, trong đầu hắn bất chợt hiện lên một cảnh tượng quỷ dị.

Trên mặt sông Trường Gi­ang mênh mông đã thành một công trường khổng lồ. Mấy tên lính đang leo lên giá gỗ dựng trên mạn thuyền, chúng đang gắng sức vung cây chuỳ gỗ lớn đóng cọc gỗ xuống lòng xông. Cách đó không xa, hàng dãy cọc gỗ đã được dựng cao chót vót, có rất nhiều thuyền như đi lại như con thoi vận chuyển vật liệu. Thợ thủ công đang bận rộn lắp ghép khung gỗ trên mặt các cọc gỗ sau đó đã dựng thành tường trại sừng sững.

Trước tường trại rải rác những lộc giác sắc bén, tiêm giác nhọn hoắt hướng về phía trước. Bất kỳ lúc nào chúng cũng có thể xuyên thủng các chuyến thuyền tới gần. Đằng sau tường trại là những toàn tiễn tháp đứng sừng sững. Quân cung thủ đang nghiêm chỉnh canh gác trên các toà tiến tháp, bất kỳ lúc nào cũng có thể chống lại quân địch tới tập kích. Bên trong thuỷ trại có một số toà tháp khổng lồ, những máy bắn đá khổng lồ, đứng vững như bàn thạch, trông tựa như mãnh thú đang ngủ đông, đang chờ con mồi tới trước cửa.

Lỗ Túc nói: “Mặc dù biện pháp này không linh hoạt, cần mất rất nhiều thời gi­an, chỉ e là mất mấy năm nhưng chỗ tốt là quân ta có thể thận trọng tiến lên từng bước, thuỷ quân Ngô, Sở căn bản là không thể ngăn cản được”.

Lỗ Túc không nói. Biện pháp này có vẻ ngớ ngẩn nhưng cái ngớ ngẩn này hoàn toàn không thể phá giải được.

Nếu như thuỷ quân Ngô, Sở dốc toàn lực công kích bởi vì không có sự phối hợp của bộ binh trên đất liền. Kết quả của nó là cho dù dùng thuỷ quân tấn công toàn lực thuỷ trại quân Lương có hệ thống phòng ngự hoàn thiện dù chúng có thu hoạch gì thì cũng tổn thất vô cùng nặng nề.

Cuối cùng thuỷ trại quân Lương đẩy mạnh cuộc chiến công thủ trên mặt nước kéo dài. Quân Lương sẽ chỉ tổn thất một số ít quân bộ binh cùng với vật liệu gỗ vô cùng vô tận, trong khi đó thuỷ quân Ngô, Sở tổn thất thuỷ quân tinh nhuệ cùng với chiến thuyền có hạn của mình. Bộ binh quân Lương có trăm vạn người, thuỷ quân liên quân Ngô, Sở chỉ có mười vạn vì vậy bên đầu tiên không kiên trì được chính là liên quân Ngô, Sở chứ không phải là quân Lương.

“Bệ hạ, biện pháp này không tệ” Giả Hủ kích động, hắn thở dài nói: “Thần cho là rất đáng thử nghiệm”.

“Được” Mã Dược vui vẻ nói: “Lỗ Túc, Từ Hoảng nghe lệnh”.

Từ Hoảng, Lỗ Túc vội vàng bước ra, trầm giọng nói: “Có thần”.

Mã Dược nói: “Từ Hoảng thống lĩnh mười lăm vạn quân Kinh Châu bản bộ nghe lệnh điều khiển của Lỗ Túc đại nhân, dựng thuỷ quân đại trại khổng lồ nối liền hai bờ, nam bắc Trường Gi­ang”.

“Thần tuân chỉ”.

Từ Hoảng, Lỗ Túc chắp tay vái chào rồi lĩnh mệnh rời đi.

Mã Dược lại nói: “Pháp Chính, Phương Duyệt, Trương Tú nghe lệnh”.

Ba người Pháp Chính, Trương Tú, Phương Duyệt bước ra khỏi hàng nói: “Có thần”.

Mã Dược nói: “Thống lĩnh ba mươi vạn quân, chia làm ba nơi trú đóng, bắc cầu phao ngay tại chỗ, thu hút thuỷ quân Ngô, Sở tới tập kích”.

“Thần tuân chỉ”.

Ba người Pháp Chính lĩnh mệnh rời đi.

Mã Dược lại nói: “Khoái Việt, Cao Thuận nghe lệnh”.

Khoái Việt, Cao Thuận bước ra khỏi hàng đáp: “Có vi thần”.

Mã Dược nói: “Bên trong đại trại thuỷ quân ở Ô Lâm tiến hành xây dựng chiến thuyền liên hoàn, đợi khi chiến thuyền liên hoàn được hoàn thành, thống lĩnh hai mươi vạn quân cung thủ lên thuyền trợ chiến, trợ giúp thuỷ quân của Cam Ninh tướng quân tấn công chính diện Xích Bích, thực hiện một đòn tiêu diệt chủ lực thuỷ quân Ngô, Sở”.

“Thần tuân chỉ”.

Khoái Việt, Cao Thuận cùng lĩnh mệnh rời đi.

Đợi khi các chư tướng lĩnh mệnh rời đi, Mã Dược ngửa cổ lên trời đắc ý cười ta ba tiếng, hắn lại nhìn mọi người nói: “Trẫm có ba mũi tên đồng, để xem Tào Chân và thằng nhãi con Tôn Quyền chống đỡ như thế nào? Ha ha ha’.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 362: Cuộc chiến Xích Bích (nhất-1)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Hạ Khẩu, đại trại thuỷ quân Đông Ngô.

Chu Du đang triệu tập tướng lĩnh quân Ngô nghị sự, bất chợt có một tên tiểu giáo bước vào bẩm báo: “Đại đô đốc, Thừa tướng nước Sở là Gia Cát Lượng cùng Đại tướng quân Trương Liêu, Phiêu Kỵ tướng quân Trương Cáp, Đô đốc thuỷ quân Sái Mạo ở bên ngoài trướng cầu kiến”.

“Hả?” Chu Du ngạc nhiên rồi hắn vui vẻ hỏi: “Gia Cát Lượng sao?”

Đại tướng Thái Sử Từ hỏi: “Gia Cát Lượng tới để làm gì?”

Tổ Lang nói: “Không phải là tới đòi quyền chỉ huy liên quân chứ? Hừ, quân Ngô chúng ta tới trợ giúp nước Sở giết quân lương chứ không phải tới là nô tài của nước Sở. Muốn quân Ngô chúng ta nghe lệnh của Thừa tướng nước Sở, không có cửa đâu”.

“Ha ha ha” Chu Du phá lên cười nói: “Tổ Lang tướng quân quá lo lắng. Lần này Gia Cát Lượng tới đây nếu không phải vì đòi quyền chỉ huy liên quân thì chỉ e là sẽ gi­ao quyền chỉ huy thuỷ, bộ đại quân nước Sở cho bản Đại đô đốc”.

“Thật vậy sao?” Tổ Lang nghi ngờ nói: “Mạt tướng không tin”.

Chu Du mỉm cười nói: “Tướng quân có dám đánh cuộc không?”

Tổ Lang lớn tiếng nói: “Có gì mà không dám?”

“Được” Chu Du đứng dậy, hắn cao giọng nói: “Truyền lệnh cho mời Gia Cát Lượng, Thừa tướng nước Sở vào trướng”.

Tên tiểu giáo lĩnh mệnh đi ra, bất chợt bên ngoài trướng vang lên tiếng bước chân hỗn độn, Gia Cát Lượng dẫn đầu một nhóm người ung dung bước vào. Chu Du cười to một tiếng, hắn chắp tay thi lễ nói: “Ai nha nha, Gia Cát Thừa tướng đại giá quang lâm, bản Đại đô đốc vì có việc quân không thể nghênh đón từ xa. Thất lễ, thất lễ”.

Gai Cát Lượng cũng chắp tay vái chào, hắn mỉm cười nói: “Đại đô đốc chê cười, xin thứ lỗi quấy nhiễu”.

“Thừa tướng khách khí” Chu Du khoát tay nói: “Mời ngồi. Chư vị tướng quân, mười ngồi”.

Ngay lập tức có tên thân binh mang án tới đặt bên tay trái Chu Du. Gia Cát Lượng cũng không từ chối, hắn cùng Trương Liêu, Trương Cáp, Sái Mạo ngồi xuống. Lúc này Chu Du mới vui vẻ nói: “Thừa tướng, ba vị tướng quân, lần này Mã đồ phu tuyên bố hắn muốn cùng chủ ta và Sở hoàng đánh một trận Xích Bích. Có thể nói là rất cuồng vọng. Chủ ta đã lệnh bản Đại đô đốc thống lĩnh ba quân tới Hạ Khẩu nghe lệnh. Vinh nhục của cá nhân chỉ là chuyện nhỏ, sự tồn vong của hai nước Ngô, Sở mới là trọng đại. Vì để liên thủ hai nước kháng cường địch, bản Đại đô đốc quyết ý để toàn bộ đại quân Đông Ngô nghe theo hiệu lệnh của Thừa tướng. Thừa tướng không thể không chấp nhận”.

Gia Cát Lượng vui vẻ gật đầu, hắn lặng lẽ nghiêng đầu liếc nhìn Trương Liêu, Trương Cáp.

Trương Liêu, Trương Cáp không khỏi xấu hổ. Trước khi tới Hạ Khẩu, hai người vẫn vì chuyện đại quân thuỷ, bộ nước Sở phải nghe lệnh của Đại đô đốc Đông Ngô mà hậm hực. Hai người tuyệt đối không ngờ Đại đô đốc Đông Ngô vì lấy đại cục làm trọng đã chủ động để quân Đông Ngô nghe lệnh của Thừa tướng nước Sở. Với trí tuệ đó, sự độ lượng đó là người khác phải vô cùng thán phục.

Gai Cát Lượng nghiêm mặt, hắn nghiêm nghị nói: “Đại đô đốc, Lượng có một câu”.

Chu Du cũng nghiêm nghị nói: “Xin mời”.

Gia Cát Lượng nói: “Đại đô đốc dụng binh thiên hạ không ai bằng, ngay cả Mã đồ phu cũng tự nhận không bằng. Mặc dù nước Sở của ta không thiếu Đại tướng anh dũng, cũng không thiếu chí sĩ trí mưu nhưng nếu nói về khả năng cầm quân thì không có ai sánh bằng Đại đô đốc. Chính vì lý do đó ta quyết ý để đại quân thủy bộ nước Sở nghe lệnh sai khiến của Đại đô đốc. Ở đây ta có bội kiếm của Sở hoàng. Nếu tướng sĩ quân Sở nào dám trái lệnh, không theo lệnh của Đại đô đốc, chém ngay lập tức”.

Nói xong, Gia Cát Lượng khẽ phất tay, ngay lập tức Trương Liêu tự mình dâng lên bội kiếm của Tào Chân. Đây chính là Thanh Hồng kiếm, báu vật gia truyền của Tào gia.

Gia Cát Lượng nói xong, tướng lĩnh Đông Ngô trong trướng nhất thời biến sắc. Tất cả tròn mắt nhìn Chu Du, nhất là Tổ Lang nhìn như suýt chút nữa rơi cả cằm. Gia Cát Lượng này bị làm sao vậy?

Hắn thật sự muốn đại quân thuỷ bộ của nước Sở nghe lệnh của Đại đô đốc nước Ngô sao?

Chu Du vội vàng chắp tay hướng về phía tây, hắn nghiêm nghị nói: “Sở hoàng ưu ái. Du vô cùng cảm kích nhưng Du thực không dám nhận trách nhiệm này. Trong khi đó quân Ngô quả thực chỉ tới nước Sở trợ chiến. Nước Sở là chủ, nước Ngô là khách. Du há có thể đảo chủ thành khách sao? Kinh xin Thừa tướng trả lại bội kiếm cho Sở hoàng, cũng xin chuyển lời tới Sở hoàng: quân Ngô lần này tới nước Sở chính là vì sự sinh tử tồn vong của hai nước Ngô, Sở mà ra sức. Tuyệt đối sẽ không có chuyện bảo toàn thực lực mà bàng quan”.

Ánh mắt của tướng lĩnh quân Ngô trong trướng lập tức chuyển sang nhìn Gia Cát Lượng.

Gia Cát Lượng trầm giọng nói: “Nếu như Đại đô đốc nhẫn tâm nhìn đại quân nước Sở bị quân Lương tiêu diệt, Lượng tôi xin trả lại kiếm này cho chủ mình”.

Không nghi ngờ gì nữa những lời này của Gia Cát Lượng rất nặng nề. Nếu Chu Du ngươi không nhận kiếm này đó chính là ngươi thấy chết mà không cứu, cố ý để quân Sở tự sinh tự diệt. Lời nói đã tới mức độ này đương nhiên Chu Du không thể chối từ, huốn chi bản thân Chu Du cũng không có ý chối từ. Tất cả mọi người đều biết nếu phóng tầm mắt tìm khắp Kinh, Dương, ngoại trừ Chu Du hắn ra còn có ai có thể đảm đương trách nhiệm này?

Những lời nói lúc trước chỉ là giả dối, nhưng đó chính là bày trò.

Trương Liêu, Trương Cáp, Sái Mạo rời khỏi chỗ ngồi, quỳ xuống trước án Chu Du, cực kỳ thành khẩn nói: “Mỗ tình nguyện nghe Đại đô đốc sai khiến. Nếu có bất kỳ hành động nào sai trái, xin nguyện chịu xử theo quân pháp”.

“Nếu Du vẫn còn khăng khăn không nhận lại bị coi là làm kiêu” Chu Du nghiêm mặt nói: “Cũng được. Đã như vậy bản Đại đô đốc không khách khí”.

Ba tướng Trương Liêu, Trương Cáp, Sái Mạo đứng dậy, ôm quyền nói: “Nguyện nghe theo hiệu lệnh của Đại đô đốc”.

Chu Du gật đầu, hắn cao giọng nói: “Trương Cáp nghe lệnh”.

Trương Cáp tiến lên đáp: “Có mạt tướng”.

Chu Du nói: “Phái binh, không tiếc công sức xây dựng phong hoả đài ở bờ nam Trường Gi­ang, giám sát nhất cử nhất động của quân Lương bên bờ bên kia”.

“Tuân lệnh”.

“Sái Mạo nghe lệnh’.

“Có mạt tướng’.

“Phái thuỷ quân tinh nhuệ ngày đêm tuần tra Trường Gi­ang. Hơn nữa giám sát chặt chẽ đại trại thuỷ quân ở cảng Ô Lâm, có bất kỳ động tĩnh nào phải lập tức báo ngay”.

“Tuân lệnh”.

“Trương Liêu nghe lệnh”.

“Có mạt tướng”.

“Hãy lập tức thống lĩnh quân chủ lực tới Xích Bích hội quân với quân chủ lực Đông Ngô, chờ nghe lệnh của bản Đại đô đốc”.

“Tuân lệnh”.

Sau khi phân phái xong, Chu Du mới chắp tay hướng Gia Cát Lượng, hắn thành thực nói: “Gia Cát Thừa tướng, nói về quản lý nội chính, người đương thời không ai sánh bằng Thừa tướng vì vậy việc lương thảo, quân nhu của liên quân xin phiền người điều hành”.

Gia Cát Lượng chắp tay đáp lễ nói: “Lượng thân mang trọng trách, không dám chối từ”.

Chu Du lại nhìn Bộ Chất, Chủ bạ trong quân nói: “Bộ Chất đại nhân, hãy bàn gi­ao cho Gia Cát Thừa tướng chuyện lương thảo trong liên quân”.

“Tuân mệnh” Bộ Chất khom người vái chào, hắn nhìn Gia Cát Lượng nói: “Thừa tướng đại nhân, xin mời theo hạ quan”.

( Việc bày mưu tính kế của quân Lương và liên minh của quân Ngô, Sở diễn ra đồng thời với nhau )

Mã Dược đang ngồi đọc sách thì bất chợt Điển Vi vén màn trướng bước vào, hắn lo lắng nói: “Bệ hạ, Giả Hủ đại nhân ngã bệnh”.

“Hả?”Mã Dược kinh hãi, hắn thất thanh hỏi: “Văn Hoà hắn làm sao?”

Điển Vi khẽ nói: “Nghe lang trung nói, Giả Hủ đại nhân tuổi già sức yếu, vất vả ngày đêm. Hơn nữa lại không quen thuộc thuỷ thổ nên ngã bệnh, còn nghe nói Giả Hủ đại nhân đã ngã bệnh từ trước đó’.

“Đi” Mã Dược đứng dậy, hắn nhìn Điển Vi nói: “Mau đi xem một chút”.

Được Điển Vi hộ tống, Mã Dược nóng lòng chạy tới quân trường của Giả Hủ. Hắn vẫn chưa bước vào trướng đã nghe thấy tiếng ho khan từ bên trong vọng ra liên hồi. Mã Dược vô cùng lo lắng khi nghe thấy cơn ho đó. Hắn cảm thấy lòng mình nặng nề. Những năm gần đây bản thân hắn và những người bạn vong niên tuổi tác ngày một cao, căn bản không còn cách nào chống đỡ với địch nhân thời gi­an xâm lấn.

Quản Hợi, Liêu Hoá chết trận từ nhiều năm trước. Quách Đồ cũng chết sớm lúc tráng niên. Bùi Nguyên Thiệu, Thư Thụ người trước người sau chết bệnh. Chẳng lẽ lần này tới lượt Giả Hủ sao? Nếu như Giả Hủ chết đi, những bằng hữu năm xưa còn lại những ai? Hình như chỉ còn mỗi một mình Chu Thương. Nghĩ tới đó, Mã Dược thực sự không dám nghĩ tiếp, hắn vội vàng khom người bước vào trướng.

Trong trướng một ánh lửa hồng chập chờn, âm u, ảm đạm trong gió, dường như có thể tắt bất kỳ lúc nào.

Giả Hủ mệt mỏi ngồi dựa trên giường êm. Người hầu đang cẩn thận từng ly từng tí nâng bát thuốc, múc từng thìa đổ vào miệng Giả Hủ. Nghe thấy tiếng bước chân, Giả Hủ vội vàng nghiêng người nhìn, thấy Mã Dược bước vào hắn định nhỏm người ngồi dậy, không ngờ mắt hắn tối sầm lại, hắn té ngã xuống giường. Một cơn đau bất ngờ dội lên trong ngực, ngay sau đó là tới một cơn ho dữ dội như muốn tắt thở.

“Văn Hoà” Mã Dược vội vàng bước tới trước mặt Giả Hủ và la lên: “Văn Hoà, người không cần ngồi dậy. Trẫm đã nói rồi: trong thiên hạ bất kỳ kẻ nào nhìn thấy Trẫm cũng phải thi lễ. Duy chỉ có Văn Hoà ngươi là không cần phải hành lễ”.

“Khụ, khụ” Giả Hủ gắng sức ho khan hai tiếng rốt cuộc cơn ho cũng chấm dứt. Sau khi ngồi nghỉ một hồi lâu hắn mới uể oải nói: “Bệ ha, sao người lại tới đây?”

Mã Dược lo lắng nói: “Ngươi đã bệnh như thế này, Trẫm lại không biết. Đây chính là lỗi của Trẫm’.

“Bệ ha” Giả Hủ nhẹ nhàng cầm hai tay Mã Dược, hắn thở dốc nói: “Thần chỉ là cảm nhiễm phong hàn, chỉ uống mấy thang thuốc là khỏi. Thật sự không có gì đáng ngại”.

Mã Dược quay đầu nhìn Điển Vi nói: “Điển Vi”.

Điển Vi ôm quyền nói: “Có thần”.

Mã Dược nói: “Hãy cấp tốc cho đòi Thái y tới”.

“Tuân chỉ”.

Điển Vi lĩnh mệnh rời đi. Chỉ trong khoảng thời gi­an chưa uống hết chung trà, Điển Vi đã dẫn ba tên Thái y tới trướng ghh. Mã Dược âm trầm liếc nhìn ba tên Thái y một cái rồi hắn trầm giọng nói: “Hãy dùng dược tốt nhất. Hãy nghĩ tất cả mọi biện pháp trị lành bệnh cho Tể tướng đại nhân. Nếu như các ngươi muốn dùng loại dược nào trong quân không có, các ngươi cứ nói với Trẫm, Trẫm sẽ phái người đi tìm. Nhưng nếu như các ngươi không trị hết bệnh của Tể tướng đại nhân. Trẫm sẽ chu di cửu tộc nhà các ngươi, chôn cùng với Tể tướng đại nhân”.

Nói xong Mã Dược phất tay áo bỏ đi để lại ba tên Thái y sắc mặt tái nhợt đứng nhìn nhau.

Giả Hủ nhìn theo bóng lưng Mã Dược rời khỏi trướng, trong lòng hắn vừa cảm động vừa lo lắng. Hắn có rất nhiều tâm tình muốn nói ra nhưng cuối cùng lại biến thành một tiếng thở dài hư không. Nhân sinh trong thiên hạ cũng giống như tiệc tàn. Hủ năm nay đã sáu mươi tư tuổi, coi như là trường thọ. Thiên hạ sắp thống nhất. Võ đài của Giả Hủ cũng sắp tới lúc hạ. Bệ hạ, Giả Hủ cũng đã không uổng phí cuộc đời này.

Kể từ khi Tào Chân ban cho Chu Du kiếm Thanh Hồng, đặt đại quân thuỷ bộ nước Sở dưới quyền điều khiển của Chu Du, Chu Du đã di chuyển đại bản doanh của liên quân từ Hạ Khẩu về Xích Bích. Gần tám vạn thuỷ quân, hơn một vạn chiến thuyền lớn nhỏ tụ tập cùng nhau, quang cảnh vô cùng hùng tráng, trên bờ lại có hơn mười vạn quân bộ binh Ngô, Sở đóng trại tập trung với nhau, kéo dai liên tục hơn mười dặm, cảnh tượng càng hùng vĩ.

Trung quân đại trướng. Chu Du đang triệu tập chư tướng nghị sự.

Bất chợt có một tên tiểu giáo bước vào trướng bẩm báo: “Đại đô đốc, quân Lương lập ba toà đại doanh ở Xích Thuỷ Than, Hắc Tùng Lâm, Bạch Thạch Đà, chúng còn dựng cầu phao ngay ở đó”.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 362: Cuộc chiến Xích Bích (nhất-2)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

“Hả?” Chu Du nghiêm giọng hỏi: “Quân Lương đang đốn gỗ dựng cầu phao ư?”

Vương Sán, người quen thuộc địa hình Kinh Châu vội vàng nói: “Xích Thuỷ Than, Hắc Tùng Lâm, Bạch Thạch Đà ở trong vùng Gi­ang Lăng và Ô Lâm, khoảng cách ba nơi đó cách nhau chừng một trăm dặm. Tại sao quân Lương không tập trung binh lực một chỗ dựng cầu phao mà lại chia binh ra hành động? Chẳng phải đây là cơ hội cho quân ta tấn công sao?”

“Ừ” Chu Du gật đầu, hắn lại hỏi tên tiểu giáo: “Có xò xét xem mỗi đại doanh có bao nhiêu binh lính quân Lương trú đóng không?

Tên tiểu giáo nói: “Mỗi đại doanh đều có tổng cộng mười vạn binh mã”.

“Cái gì? Mười vạn binh mã?” Lữ Mông thất vọng nói: “Nếu như mỗi đại doanh chỉ có mười vạn quân trú đóng, quân ta sẽ không thể hành động khinh xuất được’.

Vương Sán phụ hoạ: “Lữ Mông tướng quân lo lắng rất đúng. Nếu như mỗi đại doanh của quân Lương trú đóng, quân ta rất khó có thể trong khoảng thời gi­an rất ngắn tiêu diệt chúng, trong khi đó quân thiết kỵ Tây Lương chỉ cần một khoảng thời gi­an ngắn có thể tới cứu viện. Nếu như quân ta đánh lén không thành, lại bị quân Lương ứng phó kịp thời, hậu quả không thể tưởng tượng nổi”.

Sái Mạo nói: “Nhưng như vậy cũng không thể để quân Lương tự do bắc cầu phao. Mỗ cho rằng phải phái thuỷ quân tới quấy nhiễu, ngăn cản quân Lương bắc cầu phao”.

“Báo…” Sái Mạo chưa nói xong, lại có một tên tiểu giáo thở hổn hển chạy vào, hắn quỳ xuống đất bẩm báo: “Đại đô đốc, Hán Dương cấp báo”.

“Hả?” Chu Du trầm giọng nói: “Mau nói”.

Tên tiểu giáo thở dốc nói: “Quân Lương đang ngang nhiên xây dựng thêm thuỷ trại Hán Dương”.

“Xây dựng thêm thuỷ trại Hán Dương?” Chu Du càu mày nói: “Mã đồ phu muốn làm gì vậy? Đối với quy mô thuỷ quân Kinh Châu của Cam Ninh mà nói, đại trại cảng Ô Lâm hoàn toàn có thể đáp ứng nhu cầu, chúng hoàn toàn không cần phải xây dựng thêm đại trại ở Hán Dương”.

Tên tiểu giáo nói: “Đại đô đốc, còn có tình huống rất khả nghi”.

Chu Du hỏi: “Tình hình như thế nào?”

Tên tiểu giáo nói: “Để có thể chống đỡ được tiễn tháp cùng hàng rào ( tường rào thuỷ trại và lục trại rất khác nhau. Tường rào thuỷ trại có khe hở rất lớn, chỉ có tác dụng ngăn cản chiến thuyền tiến vào nên nước vẫn có thể lưu thông ), các cọc gỗ đóng xuống lòng xông kéo dài hơn hai trăm bộ. Hơn nữa quân Lương vẫn không ngừng đóng cọc tiến về phía trước. Xem dáng điệu này chỉ e là quân Lương sẽ xây dựng thuỷ trại tiến ra tới giữa sông”.

“Cái gì? Chúng xây dựng thuỷ trại tiến ra tới giữa sông sao? Nghe vậy Từ Thịnh cười to nói: “Mã đồ phu đúng là đồ ngu ngốc, hắn lại muốn xây dựng thuỷ trại ra tới giữa lòng sông. Ha ha ha”.

“Kỳ quái, đúng là kỳ quái” Sái Mạo hoang mang nói: “Cam Ninh chính là lão đại Cẩm Phàm tặc hoành hành Trường Gi­ang nhiều năm, không có lý do gì hắn không hiểu mùa hè ở Trường Gi­ang có hồng thuỷ. Chẳng lẽ Cam Ninh cho rằng thuỷ trại chắc chắn của quân Lương có thể chống đỡ được với sức nước của hồng thuỷ sao? Điều này là không thể tưởng tượng nổi, lẽ ra Cam Ninh không nên phạm phải sai lầm này mới phải”.

“Không đâu” thiếu niên Lục Tốn phản đối: “Mã đồ phu không phải phường ngu ngốc, Cam Ninh lại càng không có chuyện không biết hồng thuỷ Trường Gi­ang. Quân Lương làm như vậy, Tốn chỉ e chúng muốn dựng một toà thuỷ trại khổng lồ bắc thông hai bờ nam bắc Trường Gi­ang. Một khi điều này xảy ra, Trường Gi­ang rộng lớn sẽ bị cắt làm hai đoạn. Quân Ngô, Sở đầu đuôi đều gặp khó khăn, không còn cách nào ngăn cản đại quân Tây Lương xuôi nam xuống Kinh Châu”.

“Xây dựng một toà thuỷ trại khổng lồ nối hai bờ, bắc nam Trường Gi­ang sao?” Trương Liêu thất thanh nói: “Một công trình khổng lồ như thế hao tốn bao nhiêu thời gi­an? Chị sợ tới mùa hè sang năm chúng cũng chưa chắc đã dựng thành”.

“Điều này cũng khó nói” Lục Tốn trầm giọng nói: “Dù sao quân Lương không phải sẽ kiến tạo một toà thuỷ trại thực sự. Có lẽ chúng chỉ kiến tạo hàng rào thuỷ trại cùng với tiễn tháp ở phía sau để phòng ngự. Nếu như chỉ cần xây dựng hàng rào thuỷ trại cùng với tiễn tháp, khối lượng công trình sẽ giảm bớt đi rất nhiều. Với số lượng nhân lực cùng vật lực của quân Lương, không phải là chúng không có khả năng hoàn thành trước mùa lũ hè sang năm”.

Lục Tốn vẫn chưa nói xong, bất chợt bên ngoài trướng vang lên tiếng bước chân nặng nề.

Bóng người loé lên, mãnh tướng thủy quân Đông Ngô là Chu Thái đã bước vào đại trướng, hắn ôm quyền nhìn Chu Du nói: “Đại đô đốc, mạt tướng đã trở về’.

“Chu Thái tướng quân cực khổ rồi” Chu Du vui vẻ nói: “Có dò xét được thực hư thuỷ quân của Cam Ninh không?”

“Đã rò xét rõ ràng” Chu Thái lau nước sông trên mặt nói: “Mạt tướng nhân dịp đêm tối lẻn vào đại trại thuỷ quân Ô Lâm, ẩn núp ở trong nước ba ngày ba đêm ( không nên hiểu lầm. Đây không phải là nín thở trốn trong nước ), cuối cùng đã thăm dò được thực hư thuỷ quân của Cam Ninh. Quả thực tổng cộng binh lực thuỷ quân của Cam Ninh có bảy vạn quân, lâu thuyền khổng lồ có hơn ba trăm chiếc, mông trùng, đấu hạm có hơn năm ngàn chiếc, chiến thuyền nhẹ có hơn một vạn chiếc”.

Tướng lĩnh Ngô, Sở trong trướng biến sắc. Rất nhiều người trong số này không ngờ thuỷ quân của Cam Ninh lại có nhiều chiến thuyền tới như vậy.

Chu Du nói: “Còn có tình hình nào nữa không?”

“Có” Chu Thái gật đầu nói: “Khi mạt tướng ẩn núp bên trong trại thì phát hiện có một loại chiến thuyền rất đáng sợ”.

Chu Du hỏi: “Chiến thuyền gì?”

Chu Thái nói: “Hình dáng chiến thuyền đó cũng giống như mông trùng, nhưng to lớn hơn rất nhiều, hai bên không có mái chèo nhô ra, nhưng tốc độ di chuyển của chúng nhanh hơn mấy lần mông trùng bình thường. Ở phía đầu chiến thuyền có hai hàng chuỳ đâm sắc bén. Mạt tướng từng tận mắt nhìn thấy chiến thuyền đáng sọ đó dễ dàng đâm xuyên qua mạn thuyền một đấu hạm của quân Lương”.

Chu Du ngạc nhiên nói: “Sao thuỷ quân Cam Ninh lại có thể làm ra loại Mông trùng đáng sợ như vậy?”

“Còn nữa” Chu Thái nói tiếp: “Trên lâu thuyền khổng lồ quân Lương có đặt một loại binh khí kỳ quái, nhìn dáng vẻ bên ngoài thì giống như máy bắn đá nhưng hình dáng lớn hơn máy bắn đá rất nhiều, hơn nữa kết cấu cũng cực kỳ phức tạp, không rõ đó là quỷ vật gì. Bởi vì quân Lương canh phòng rất nghiêm ngặt, mạt tướng không dám tiếp cận quá gần nên không thể xem xét cẩn thận”.

“Máy bắn đá ư?” chu Du ngạc nhiên nói: “Quân Lương lắp đặt máy bắn đá trên lâu thuyền sao? Tại sao chúng có thể làm điều này?”

“Đúng vậy” Lữ Mông, Lục Tốn cùng chư tướng cũng thấy nghi ngờ: “Trên mặt sông không thể so sánh với trên đất liền. Mặt sông dao động, thân thuyền không đứng yên. Nếu máy bắn đá bắn đá ra ngoài, chưa nói tới việc có thể đả thương chiến thuyền đối phương, cho dù có thể bắn trúng mục tiêu là thuyền đối phương thì nhiều nhất cũng chỉ có thể đập bể một boong thuyền, căn bản là không có cách nào tạo một lỗ thủng ở mạn thuyền vậy thì có thể tạo ra sự uy hiếp gì? Tác chiến trên mặt nước, máy bắn đá chỉ là vũ khí trang trí”.

Chu Thái lắc đầu nói: “Điều này mạt tướng cũng không rõ lắm. Máy bắn đá này của quân Lương to lớn hơn máy bắn đá bình thường rất nhiều, có lẽ chúng có thể bắn ra những tảng đá đủ to để đập vỡ mạn thuyền cũng không chừng. À, đúng rồi, quân Lương còn chế tạo chiến thuyền liên hoàn”.

“Chế tạo chiến thuyền liên hoàn ư?” Chu du trầm giọng nói: “Xem ra Mã đồ phu lại muốn lặp lại trò cũ. Ha ha ha”.

Gia Cát Lượng từ trước tới giờ vẫn chưa lên tiếng cũng mỉm cười nói: “Khi ở Tam Gi­ang khẩu, Mã đồ phu suýt chút nữa bị tiên đế ( Tào Tháo ) bị hoả thiêu chết. Không ngờ sau hơn mười năm, Mã đồ phu lại muốn xử dụng chiến thuyền liên hoàn. Điều này đúng là đã quên vết thương lòng”.

Chu Du nói: “Thế nhưng tình hình bây giờ cũng không giống với khi đó. Lúc trước Mã đồ phu hoàn toàn không phòng bị. Hơn nữa khi đó Tào công tấn công từ tây bắc xuống hướng đông nam, hoàn toàn thuận gió. Nhưng bây giờ Mã đồ phu đã có bài học thất bại, tất nhiên hắn sẽ gia tăng phòng bị. Hơn nữa quân Lương từ bờ bắc tấn công sang bờ nam, quân ta ngược lại bị ngược gió. Nếu muốn dùng kế hoả công một lần nữa là hoàn toàn không thể được”.

“Vậy cũng chưa chắc” Gia Cát Lượng mỉm cười nói: “Không phải là vào tiết trời chính đông giá rét không có gió đông nam”.

“Nếu vậy phải nhờ cậy Thừa tướng Gia Cát mượn gió đông” Chu Du và Gia Cát Lượng nhìn nhau cười to một tiếng. Chu Du nhìn chúng tướng trong trướng nói: “Chư vị, sách lược của Mã đồ phu đã rất rõ ràng. Chúng lập cầu phao ở Xích Thuỷ Than, Hắc Tùng Lâm và Bạch Thạch Đà. Chúng còn kiến tạo thuỷ trại ở Hán Dương chẳng qua là muốn dụ quân ta chia binh ra nhưng mục đích thực sự của chúng chính là để thuỷ quân Kinh Châu của Cam Ninh ở cảng Ô Lâm có cơ hội đánh một đòn quyết định”.

Ban đêm, gió sông Trường Gi­ang thổi lành lạnh.

Hội nghị quân sự của liên quân Ngô, Sở trước cuộc chiến đã chấm dứt. Chu Du dẫn Lữ Mông, Lục Tốn đi tới bờ sông. Nhìn sang bờ sông xa xa bên kia chỉ thấy trong đại trại Ô Lâm đuốc rực sáng như ban ngày, âm thanh hỗn loạn.

Lục Tốn nói: “Đại đô đốc, quân Lương ước định ba ngày sau quyết chiến trên mặt sông ở Xích Bích. Xem ra chúng đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng”.

“Đại đô đốc” Lữ Mông lo lắng nhìn Chu Du nói: “Trận chiến này chỉ e liên quân lành ít dữ nhiều”.

“Đúng vậy. Đây cũng là điều lo lắng của mạt tướng” Lục Tốn cũng nói: “Mạt tướng cho rằng quân Lương lập cầu phao ở ba nơi và xây dựng thuỷ trại ởn Hán Dương cũng không phải đơn giản chỉ để dụ quân ta chia binh ra đối phó. Nếu quân ta không để ý tới chúng, quân Lương có thể từ giả biến thành làm thật bắc ba cầu phao qua sông Trường Gi­ang. Một khi như vậy thì Trường Gi­ang hiểm địa tự nhiên đã trở thành con đường bằng phẳng. Cuộc chiến này nhất định không cần phải đánh nữa’.

“Bản Đốc há chẳng biết như vậy sao?” Chu Du bùi ngùi thở dài nói: “Nhưng mà liên quân không thể chia binh”.

“Ai!’.

Lữ Mông, Lục Tốn cùng thở dài. Chu Du nói không sai. Thuỷ quân của liên quân Ngô, Sở chỉ hơi chiếm ưu thế so với thuỷ quân quân Lương. Nếu bây giờ phải chia binh ra thì rất có thể liên quân Ngô, Sở sẽ thất bại trong cuộc thuỷ chiến Xích Bích. Nếu như ngay cả thuỷ chiến cũng thua thì liên quân Ngô, Sở dựa vào cái gì để ngăn cản đại quân Lương xuôi nam đây? Chuyện diệt vong của hai nước Ngô, Sở chỉ còn là chuyện trong nay mai.

“Quốc lực nước Lương quá hùng hậu. Thực lực quân Lương quá mạnh. Nếu như không phải Mã đồ phu nóng lòng muốn thành công, chỉ cần Mã đồ phu cam tâm chờ đợi thêm mười năm nữa, đợi khi thuỷ quân của Cam Ninh hoàn toàn áp đảo thuỷ quân hai nước Ngô, Sở mới bắc đầu tiến hành nam chinh, liên quân Ngô, Sở căn bản không có cơ hội chiến thắng” Chu Du chắp tay sau lưng, hắn nhìn ánh đuốc xa xa bên bờ bắc, thở dài nói: “Hiện tại cơ hội duy nhất của liên quân là đánh thắng cuộc thuỷ chiến Xích Bích, tiêu diệt bảy vạn thuỷ quân của Cam Ninh sau đó đốt cháy cầu phao. Tới khi đó thì cho dù có hơn mười vạn đại quân Lương vượt Trường Gi­ang sang bờ nam nhưng chỉ cần lương thảo, đồ quân nhu của quân Lương chưa vượt Trường Gi­ang được, hai nước Ngô, Sở vẫn còn có cơ hội chuyển bại thành thắng”.

Lữ Mông trầm giọng nói: “Cam Ninh đã hoành hành sông nước Trường Gi­ang trong nhiều năm, tinh thông thuỷ chiến. Tướng sĩ chiêu mộ lại là tinh tráng Hoài Nam, Kinh Châu tinh thông thuỷ tính, trong đó có rất nhiều gi­ang dương đại đạo hoành hành sông nước. Hơn nữa hiện tại binh lực liên quân chỉ chiếm ưu thế nhỏ nhoi, gi­ao tranh cùng với một đối thủ như vậy, chỉ e rất khó thắng”.

Lục Tốn gật đầu nói: “Hơn nữa theo như Chu Thái tướng quân, thuỷ quân của quân Lương còn có mông trùng khổng lồ. Cho dù chúng ta có gió nam đánh hoả công thì chỉ e những hoả thuyền còn chưa tiến tới gần đội thuyền của quân Lương đã bị những chiến thuyền này đánh chìm. Trên lâu thuyền của quân Lương còn lắp đặt cả máy bắn đá. Mạt tướng hiểu Mã đồ phu tuyệt đối không thể nào bắn tên không đích. Những máy bắn đá này có lẽ là thật và không giống với những máy bắn đá mà chúng ta biết”.

“Mọi sự do con người” Chu Du bùi ngùi nói: “Một khi xảy ra chiến tranh, tất có thắng có bại. Chỉ cần bản thân đã tận lực thì không còn gì nuối tiếc”.

Lữ Mông, Lục Tốn lặng lẽ. Gió sông tháng mười dù không lạnh thấu xương nhưng cả hai đồng thời không khỏi cảm thấy sự giá lạnh. Ngay cả Đại đô đốc cũng mất đi lòng tin chiến thắng vậy liên quân Ngô, Sở còn hy vọng không?

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 363: Cuộc chiến Xích Bích ( chương cuối ) (1)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Hán Thọ, hoàng cung nước Sở. Trình Dục, Cổ Quy tiến vào đại điện. Cả hai phát hiện ra Tào Chân đang đứng run rẩy sau Ngự án. Trình Dục nhẹ nhàng bước tới khẽ kêu lên một tiếng “Bệ hạ”. Lúc này Tào Chân mới bừng tỉnh từ trong cơn hoảng loạn, Tào Chân thở phào một tiếng, lên tiếng: “Ừ, các ngươi đã tới sao?”

“Bệ hạ”Trình Dục chắp tay, hắn cung kính nói: “Xa gia đã chuẩn bị xong xuôi”.

“Ai” Tào Chân thởi dài một tiếng hỏi: “Thật sự phải đi sao?”

Trình Dục, Cổ Quy cùng lặng im.

Tào Chân nói: “Trọng Đức, đây thật sự có phải là do Khổng Minh căn dặn không?”

“Đúng vậy” Trình Dục ảm đạm nói: “Thừa tướng nói trong cuộc chiến Xích Bích, liên quân lành ít dữ nhiều, Thừa tướng bảo bọn thần hộ giá đi trước lánh ở Quế Dương”.

“Quế Dương?” Tào Chân cười buồn thảm nói: “Nếu như không thắng cuộc chiến Xích Bích thì có cần thiết phải đi tới Quế Dương không?”

Cổ Quy nói: “Bệ hạ, lưu lại núi xanh lo gì không còn củi đốt”.

“Không” Sắc mặt Tào Chân trở nên kiên định, hắn nghiêm giọng nói: “Trẫm không đi. Trẫm sẽ ở lại Hán Thọ chờ. Mã đồ phu muốn tới, tốt lắm, Trẫm chờ hắn”.

“Bệ hạ…”.

“Phụ thân! Phụ thân…”.

Tôn Quyền kêu to hai tiếng, hắn đột nhiên bừng tỉnh từ trong cơn ác mộng. Hoàng hậu Bộ thị vội tiến tới ôm Tôn Quyền, đau xót hỏi: “Hoàng thượng, người làm sao vậy?”

“Ôi…” Tôn Quyền thờ dài một tiếng cực dài. Lúc này hắn mới cảm nhận được trước đó chỉ là một cơn ác mộng. Hắn lắc đầu nói: “Không có gì. chỉ là ác mộng. Ta mộng thấy phụ hoàng toàn thân đẫm máu, đang bước từng bước một tới gần Trẫm. Hai mắt phụ hoàng như toé lửa, tựa như phụ hoàng có gì muốn nói với Trẫm nhưng ngay lúc đó tặc tử Mã Siêu thúc ngựa đánh tới, hắn đâm một thương xuyên qua…”.

Trên mặt Tôn Quyền hiện lên sự cay đắng, hắn không nói thêm gì nữa.

Bộ thị nhẹ nhàng vuốt ve ngực Tôn Quyền, ôn nhu khuyên giải: “Hoàng thượng, mấy ngày liên tiếp vấ vả quốc sự, người nhất định mệt mỏi. Hay để thần thiếp kêu nô tỳ vào hiến mấy ca múa để xoa dịu nỗi lòng của Bệ hạ?”

“Thôi” Tôn Quyền khoát tay, hắn cau mày nói: “Bây giờ đại địch đang ở trước mặt. Trẫm nào có tâm tư thưởng thức’.

“Ai…” Nói tới đây, đột nhiên Tôn Quyền thở dài một tiếng, hắn ngẩng đầu nhìn về phía tây, buồn rầu nói: “Cũng không biết thế cục Kinh Châu thế nào? Trận chiến này liên quân có thể lấy yếu thắng mạnh, đánh bại ba trăm vạn đại quân Tây Lương của Mã đồ phu hay không?’

Bộ thị an ủi: “Bệ hạ hồng phúc tề thiên, tất có thể gặp dữ hoá lành”.

“Không ngủ nữa” Tôn Quyền đột nhiên ngồi dậy, hắn nhìn Bộ thị nói: “Hãy giúp Trẫm thay quần áo. Trẫm đột nhiên hiểu chuyện nhân sự Vu Hồ phải có thay đổi. Mặc dù nhị đệ kiêu dũng nhưng lại là người cố chấp. Hắn chưa chắc đã nghe lời của Hạ Tề tướng quân. Hiện tại toàn bộ chủ lực quân Ngô đều đang ở Kinh Châu. Tuyệt đối không thể để cho Điền Dự, Trần Đăng thừa dịp đánh qua Trường Gi­ang’.

Trên mặt Bộ thị hiện lên sự thất vọng, bất chợt liếc mắt đưa tình nói: “Để thần thiếp giúp Bệ hạ thay quần áo”.

Trên mặt sông rộng mênh mông, hàng ngàn thuyền buồm lướt sóng, hàng trăm chiến thuyền di chuyển. Mấy vạn chiến thuyền to nhỏ, đủ các loại cơ hồ làm tắc ngẽn mặt sông rộng hơn mười dặm, nhất là chiến thuyền liên hoàn của quân Lương càng bộc lộ khí thế hào hùng, uy phong lẫm lẫm., Cam Ninh mặc quan bào Đô đốc ngạo nghễ đứng trên phi lư của một chiến thuyền liên hoàn, xung quanh hắn có hơn mười viên tướng lĩnh thuỷ quân.

Đứng ở Phi lư trên cao nhìn xuống phía trước bên dưới, hơn một ngàn chiếc mông trùng, đấu hạm tản ra hai bên, phía trước chiến thuyền liên hoàn, giống như vệ sĩ mặc áo giáo sắt, bảo vệ nghiêm ngặt cho sự an toản của chủ soái của mình. Trong đám chiến thuyền này có cả mông trùng khổng lồ. Công bộ thị lang Tư Mã Ý đích thân đôn đốc, bí mật chế tạo ra hơn ba trăm chiếc mông trùng kiểu mới.

Đột nhiên Cam Ninh quay đầu nhìn lại sau. Trên bong thuyền là những cỗ máy bắn đá khổng lồ. Cánh tay thon dài của máy bắn đá lặng lẽ đặt trên bong thuyền. Trong những chiếc giỏ được làm bằng dây thừng thắt nút có đặt có đặt những cái hũ. Bên trong hũ là dầu lửa và vải lụa rất dễ bắt lửa cùng những vật linh tinh khác. Cam Ninh đã tận mắt nhìn thấy uy lực của quái vật khổng lồ này. Tựa hồ trong mắt Cam Ninh vẫn còn như thấy hũ dầu lửa vỡ toác ra, ánh lửa bùng lên trong bầu trời đêm.

Bỗng nhiên Cam Ninh nắm chặt bànm tay mình. Hắn quyết tâm phải thắng trong trận chiến này.

Trên soái hạm của thuỷ quân Đông Ngô, Chu Du mặc một bộ nho sam, tay cầm quạt lông, Lữ Mông, Lục Tốn hộ tống đang đứng nghiêm nghị trên Phi lư của chiếc lâu thuyền khổng lồ, nhìn mặt sông xa xa ở phía bắc. Chiến thuyền của thuỷ quân Tây Lương như muốn che kín cả mặt sông. Từng dãy chiến thuyền liên hoàn đã biến mặt sông dao động trở thành một vùng đất bằng. Từng nhóm lớn quân cung thủ quân Lương đã lập thế trận nghiêm chỉnh trên bong của chiến thuyền liên hoà. Thuỷ quân Ngô, Sở đã rơi vào tình thế vô cùng hiểm nghèo. Nếu như không thể giải quyết triệt để chiến thuyền liên hoàn quả quân Lương thì chỉ cần hơn mười vạn quân cung thủ quân Lương kia bắn ra một mũi hoả tiễn thì cũng đủ để đốt cháy đội thuyền của liên quân Ngô, Sở thành tro bụi. Thế nhưng khi Chu Du nhìn thấy đội thuyền mông trùng và đội đấu hạm của quân Lương ở phía trước đội chiến thuyền liên hoàn thì tâm trạng hắn không khỏi chìm nghỉm xuống đáy sông.

Nhưng chưa tới giây phút cuối cùng thì tuyệt đối không thể từ bỏ.

Trong mắt Chu Du hiện lên sự kiên định, hắn cao giọng nói: “Lữ Mông”.

Lữ Mông tiến lên một bước, hắn chắp tay nói: “Có mạt tướng”.

Chu Du nói: “Truyền lệnh Chu Thái xuất kích, quét sạch đội tàu mông trùng phía trước của quân Lương, loại bỏ chướng ngại vật cho đội tàu hoả công”.

“Tuân lệnh”.

Lữ Mông ầm ầm trả lời. Hắn quay người nhìn tên lính truyền tin trên tước thất, vung tay một cái. Tên lính truyền tin ở trên đài cao nhanh chóng giơ màu đỏ của chiếc tam giác lệnh kỳ lên, ra sức vẫy hai cái về bên trái. Tiếng trống trận và kèn lệnh nổi lên vang lừng. Một đội thuyền chừng bốn, năm trăm chiếc đấu hạm, mông trùng từ trong thuỷ trận của liên quân tách ra, chậm rãi tiến tới chiến thuyền của thuỷ quân Tây Lương.

Trên một chiếc đấu hạm, Chu Thái mặc quần áo ngắn, tay cầm khảm đao đứng ngạo nghễ.

Phía sau Chu Thái, năm mươi tên binh lính quân Ngô hung hãn, tay chúng cầm móc dây móc, lưng đeo cương đao, trông chúng tựa như một đám thuỷ quỷ âm u đang canh giữ trên bong thuyền. Ánh mắt chúng tràn ngập sát khí. Ở trên đất bằng, lính Tây Lương đánh đâu thắng đó nhưng trên mặt nước hảo hán Gi­ang Đông vô địch thiên hạ. Chu Thái giơ cao khảm đao, quát to: “Tất cả đánh bằng một trăm phần trăm sức lực cho Lão tử, đánh để đám thổ cẩu Tây Lương kia biết trên mặt sông Trường Gi­ang chính là thiên hạ của hảo hán Gi­ang Đông chúng ta. Nếu như kẻ nào muốn ngăn cản chúng ta, Lão tử sẽ không để cho bọn chúng được yên ổn, sẽ cho chúng nếm thử mùi vị của cổn đao”.

“Ha ha ha…”

Đám thuỷ quân hung hãn sau lưng Chu Thái phá lên cười.

Chu Thái giơ cao khảm đao, tiếng cười của đám thuỷ quân hung hãn đột nhiên dừng lại. Lúc này Chu Thái mới nhìn tên thân binh phía sau mình quát to: “Truyền lệnh các thuyền. Đợi nghe lệnh hành động của Lão tử. Tuyệt đối không được vội vã lao về phía trước”.

Hữu bộ tướng nhìn Cam Ninh nói: “Đại đô đốc, ước chừng có bốn, năm trăm chiếc mông trùng, đấu hạm đang tiến tới chỗ quân ta’.

“Hừ hư. Tới đúng lúc lắm. Bản đốc đang chờ bọn chúng” Cam Ninh quát to: “Truyền lệnh, tiền quân xuất kích, đánh tan thuỷ quân Đông Ngô”.

“Tiền quân xuất kích’.

Tên thân binh đứng nghiêm sau lưng Cam Ninh vội vàng ngẩng đầu nhìn tên lính truyền tin đứng ở trên tước thất gào to. Tên lính truyền tin thoáng rùng mình, hắn vội vàng giơ cây lệnh kỳ lên, gắng dức vẫy một cái. Hiệu kèn lệnh liên hồi bất chợt vang lên trong thuỷ trận quân Lương. Hơn một ngàn chiếc mông trùng, đấu hạm đang tuần tra tới lui trước trận quân Lương vội vàng quay mũi, tiến tới đón đội thuyền thuỷ quân Đông Ngô do Chu Thái chỉ huy.

Ngay lập tức trước trận hai bên vang lên tiếng reo hò như rời non lấp biển.

Trong tiếng reo hò trợ uy không ngừng làm người khác hít thở không thông, Chu Thái giơ cao khảm đao, hắn gào tới khàn cả giọng: “Truyền lệnh toàn quân. Mông trùng tiến vào trước, đấu hạm ở phía sau. Triển khai đội hình tấn công. Lấy tốc độ tấn công…Tấn công”.

Cái gọi là mông trùng này thật ra là thiết giáp hạm của cổ đại. Thân thuyền hẹp dài, khoang thấp bé, hơn nữa còn bị bít kín. Đầu thuyền rất chắc chắn, hơn nữa còn có chàng giác. Bên trong khoang thuyền ngoại trừ người chèo thuyền thì không có quân lính. Phương thức tấn công của mông trùng không phải là áp vào mạn thuyền của đối phương, cũng không dùng hoả tiễn mà chỉ thuần tuý xông tới. Trong khi đó đấu hạm chuyên để tiếp cận mạn thuyền đối phương. Bên mạn thuyền có lắp đặt tường chắn chống lại tên bắn. Trên thuyền ngoại trừ những người chèo thuyền còn có từ năm tới năm mươi tử sĩ. Tất cả những tử sĩ này đều được trang bị giây kéo móc dùng để cướp thuyền của đối phương.

Thuỷ quân Đông Ngô tuy bị ngược gió nhưng mông trùng, đấu hạm cũng không mượn lực của buồm nên sức gió không ảnh hưởng nhiều tới tốc độ.

Quân đội hai bên giống như một mũi tên nhọn lướt sóng, không tới thời gi­an uống xong một chung trà hai bên đã đối đầu với nhau. Chỉ nghe những âm thanh “binh binh binh” liên tục vang lên. Hơn mười chiếc mông trùng đã hung hăng va chạm vào nhau.

Dù sao thuỷ quân Đông Ngô cũng dày dạn kinh nghiệm sa trường, đương nhiên đã biết tận dụng ưu thế. Bởi vì quân hai bên đối đầu trực tiếp với nhau. Đội tàu mông trùng Tây Lương phối hợp không ăn ý với nhau, căn bản đều là tực lực chiến đấu nên rất khó gây ra sự uy hiếp nghiêm trọng đối với mông trùng Đông Ngô. Trong khi đó mông trùng Đông Ngô lại thành thạo phối hợp hai thuyền với nhau. Một chiếc mông trùng đụng mạnh vào hông thuyền bên này của chiếc mông trùng Tây Lương, chiếc còn lại đụng vào mạn thuyền bên kia.

Chiến thuyền mông trùng nhanh chóng va chạm vào nhau chỉ giống như kỵ binh trên mặt nước. Sau khi va chạm với nhau lại lướt qua nhau. Ngay khi mông trùng của hai bên quay đầu lại chuyển bị cho vòng đánh tiếp theo thì đấu hạm của hai bên đã ở vào thế không thể không xảy ra gi­ao tranh. Trên thực tế mông trùng đấu mông trùng chỉ là khúc dạo đầu của trận đánh thuỷ quân. Đấu hạm đấu với đấu hạm cùng với đó là tử sĩ hai bên liều chết đánh giết mới là vấn đề chính của trận chiến thuỷ quân.

“Toa toa toa…”

Hơn mười chiếc dây móc bay vút lên, ghim sâu vào mạn thuyền một chiếc đấu hạm của thuỷ quân Tây Lương. Hơn mười tên tử sĩ Đông Ngô cầm dây móc cùng hô to một tiếng và ra sức kéo. Hai chiếc đâu hạm nhanh chóng tiến lại gần nhau. Chu Thái lưng đeo khảm đao, tay cầm gậy trúc đứng ngạo nghễ trên đầu thuyền, ánh mắt của hắn hung ác như loài ác lang chăm chú theo dõi nhất cử nhất động của tên tiểu giáo Tây Lương.

“Mau ném lao”.

Dĩ nhiên tên tiểu giáo Tây Lương không sợ hãi. Đấu hạm của quân Tây Lương có hình dáng to lớn hơn, tướng sĩ thuỷ quân trên đấu hạm cũng có hơn một trăm người, đương nhiên không coi năm mươi người của Chu Thái vào mắt. Hắn lập tức điều ngay hơn hai mươi tên lính ném lao đứng thành hàng chữ nhất ngay trước mạn thuyền. Tên tiểu giáo vừa mới hô lên một tiếng, một loạt lao đã đồng loạt phóng ra hướng về đấu hạm quân Đông Ngô. Chu Thái tức giận hét lên một tiếng, hắn vung đao đánh bay mấy cây lao bay tới người hắn.

Một tiếng rên “hự” bi thảm vang lên phía sau Chu Thái, tiếng “thùm” nho nhỏ vang lên. Không cần quay đầu lại Chu Thái cũng biết nhất định có tên lính trúng lao rơi xuống nước. Trong lúc này chiến thuyền hai bên chỉ còn cách nhau chia tới mười bước. Cây gậy trúc trong tay Chu Thái khẽ điểm nhẹ một cái, thân hình khổng lồ của Chu Thái đã như chim bay lên, hướng tới đấu hạm của quân Tây Lương, nặng nề rơi xuống đầu thuyền.

Ngay khi người Chu Thái còn ở trên không trung, thanh khảm đao sắc bén của hắn đã nằm trong tay. Hắn dùng một chiêu chém thẳng, không hề hoa mĩ bổ xuống đầu tên tiểu giáo Tây Lương. Tên tiểu giáo Tây Lương hét lên một tiếng, hắn giương đao chống đỡ. Chỉ nghe ‘cạch” một tiếng rất to, Chu Thái đã đánh cả người và đao tên tiểu giáo Tây Lương ngã quỵ xuống bong thuyền. Ngay khi tên tiểu giáo Tây Lương chưa kịp đứng dây, Chu Thái đã lia ngang đao, chém tên tiểu giáo Tây Lương thành hai đoạn.

“Giết giết giết!”

Trong tiếng reo hò. Ba tên lính thuỷ quân Tây Lương mãnh liệt đánh tới. Trên mặt Chu Thái đột nhiên xuất hiện một nụ cười đanh ác, hắn ngửa mặt lên trời gào lên một tiếng. Khảm đao trong tay hắn biến thành một vòng quanh ảnh tròn, rít lên xẹt qua thắt lưng của ba tên lính Tây Lương. Thân hình của ba tên lính Tây Lương đang liều mạng xông lên đột nhiên đứng khựng lại sau đó chúng khó nhọc cúi đầu xuống, kinh hoảng khi nhận ở ở thắt lưng mình có một suối máu đang bắn ra.

“Phốc phốc phốc…”

Ba thân thể từ từ gập xuống.

Một tên lính Tây Lương nằm trong vũng máu, vẫn chưa tắt thở, lấy hết sức tàn kêu lên: “A mụ, con phải về nhà”.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 363: Cuộc chiến Xích Bích ( chương cuối ) (2)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Rốt cuộc chiến thuyền hai bên đã đụng vào nhau. Một tên tiểu giáo Đông Ngô nhảy lên chiến thuyền Tây Lương trước nhất. Thanh khảm đao trong tay hắn thuận thế quét ngang, binh lính Tây lương gào lên một tiếng ứ nghẹn, rốt cuộc hồn phách đã quay về quê cũ. Chỉ trong chốc lát mấy tên lính thuỷ quân Đông Ngô cũng đánh giết tới sau lưng Chu Thái. Hơn trăm binh lính Tây Lương không địch nổi, liên tiếp thối lui trước sự tấn công của quân Đông Ngô.

Cuộc trình diễn đẫm máu liên tục diễn ra trên mặt sông. Mấy trăm đấu hạm của hai quân Lương, Ngô đã dính sát vào nhau. Gần một vạn binh lính vì chính sinh tồn của mình ra sức chém giết. Trong cuộc chém giết không ngừng nghỉ này, không sống thì chính là chết. Ánh đao lập loè, huyết hoa bắn lên, những mảnh thân thể rơi xuống nước, máu tươi loang khắp mặt sông.

Rốt cuộc, ngay cả tên lính quân Lương cuối cùng cũng bị Chu Thái chém chết tại chỗ.

“Ngao cáp…”

Chu Thái giơ cao khảm đao, gào lên.

“Ngao cáp…”

“Ngao cáp…”

“Ngao cáp…”

Hơn một ngàn tên lính Đông Ngô may mắn còn sống sót gào lên phụ hoạ. Mặc dù bị thương vong nặng nề nhưng dù gì đi nữa trong trận đầu này thuỷ quân Đông Ngô đã thắng.

“Đáng hận!”.

Cam Ninh hung hăng đấm mạnh một quyền vào lan can, sắc mặt hắn đột nhiên trở nên tái xanh.

Mặc dù Cam Ninh đã sớm đoán biết trước kết quả đó nhưng Cam Ninh vẫn khó có thể chấp nhận điều này khi cứ giương mắt nhìn thuỷ quân do chính mình huấn luyện thất bại trong tay thuỷ quân Đông Ngô mà không thể làm gì. Nếu như Cam Ninh có thể tự mình dẫn quân xuất kích, có lẽ kết quả đã thay đổi nhưng đáng tiếc thay Mã Dược đã ra nghiêm lệnh không cho Cam Ninh dẫn quân xuất kích.

Thấy thế Lữ Mông vui mừng nhìn Chu Du nói: “Đại đô đốc, gió đông nam đã nổi”.

“Thật tốt quá., Gió đông nam cũng đã nổi” Lục Tốn cũng không kìm nén được sự vui mừng của mình nói: “Quả nhiên ông trời đã giúp Đông Ngô ta. Ha ha ha”.

“Được” Chu Du khẽ gật đầu nói: “Truyền lệnh, đội thuyền của Tưởng Khâm xuất kích, chuẩn bị hoả công”.

“Đô đốc” Phó tướng Trương Báo đột nhiên kêu to: “Gió đã đổi hướng”.

“Hả?” Nghe vậy Cam Ninh vội vàng ngẩng đầu nhìn, quả nhiên tinh kỳ trên phi lư đã đổi hướng bay. Hắn trầm giọng quát to: “Thật không ngờ trong tháng mười, ông trời lại nổi gió đông nam, phải cẩn thận đề phòng liên quân đánh hoả công. Truyền lệnh của bản đốc, ba trăm mông trùng loại mới tiến lên trước thành hình chữ nhất. Các mông trùng, đấu hạm còn lại tiến theo sau, tuỳ cơ tiếp ứng”.

Lữ Mông lại hưng phấn gào lên: “Đại đô đốc mau nhìn, sương mù đang lên, sương mù đang lên’.

“Thật tốt quá” Lục Tốn cũng mừng rõ reo hò như điên: “Quả thật sương mù đang lên”.

“Hả?”

Chu Du vội vàng quay đầu lại nhìn, quả nhiên sương trắng mờ mịt đang nổi lên trên mặt sông phía đông, kéo sang bên này. Mặt sông Trường Gi­ang mênh mông cùng với dãy núi hai bên bờ sông dần dần biến mất trong biển sương mù mênh mông. Trên mặt Chu Du thoáng hiện lên vẻ vui mừng không dễ gì phát hiện ra. Gió tây bắc chuyển sang gió đông nam đã cho liên quân một cơ hội. Bây giờ trên mặt sông lại tràn ngập sương mù, đây lại càng là cơ hội trời cho.

Một khi trên mặt sông tràn ngập sương mù, thuỷ quân hai bên sẽ hoàn toàn mất sự chỉ huy. Chiến thuyền hai bên sẽ chỉ còn cách tự lực chiến đấu. trong tình hình như này, không còn nghi ngờ gì nữa thuỷ quân Ngô, Sở được huấn luyện nghiêm chỉnh, dày dạn kinh nghiệm sa trường, hơn nữa lại có ưu thế về chiến thuyền sẽ cực kỳ có lợi thế. Quả thật mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, thái độ tuyệt đối không từ bỏ ngay cả khi đã biết rất rõ của Chu Du tựa như đã làm cảm động ông trời.

Một khi ông trời đã không chối bỏ liên quân Ngô, Sở, Chu Du cảm thấy thắng lợi đã tới rất gần với liên quân Ngô, Sở.

Trong giây phút ngẩn người đó, Chu Du tựa như nhìn thấy trong sương mù dầy đặc, lửa bốc lên ngập trời, từng dãy chiến thuyền liên hoàn của thuỷ quân Tây Lương đang bốc cháy rừng rực. Lửa bốc lên mạn thuyền, vô số thuỷ quân Tây Lương như kiến bò quanh chảo, hoảng loạn chạy tới lui. Trong tiếng reo hò như trời long đất lở, chiến thuyền nhỏ của thuỷ quân Ngô, Sở thừa cơ hội tập kích.

Nhiều đội tử sĩ Gi­ang Đông miệng ngậm đao nhọn dùng dây thừng trèo lên chiến thuyền Tây Lương may mắn không bị hoả công đốt cháy.

“Truyền lệnh toàn quân” Chu Du đột nhiên rút bảo kiếm ra quát to: “Bắt đầu từ lúc này từng người một tự chiến. Tấn công’.

“Tiến công!”

“Tiến công!”

“Tiến công!”

Tên lính truyền tin đứng nghiêm sau Chu Du ngẩng đầu nhìn tên lính truyền tin đứng trên tước thất gào lên.

Chỉ một thoáng sau, quân lệnh của Chu Du đã lần lượt được truyền xuống. Từng mảng cột buồm của chiến thuyền liên quân đã lần lượt được dựng lên. Gió đông nam thổi càng lúc càng mạnh, thổi cánh buồm của chiến thuyền liên quân bay phần phật. Trong cơn cuồng phong thổi điên cuồng, gần một vạn chiến thuyền lớn nhỏ của liên quân lập tức nhổ neo, hướng tới đội chiến thuyền của quân Tây Lương.

Phó tướng Trương Báo đột nhiên hoảng sợ kêu lên: “Đại đô đốc, không hay rồi. Xuất hiện sương mù”.

“Cái gì?” Nghe vậy Cam Ninh lập tức hít một hơi thật dài, hắn thất thanh hỏi: “Sương mù nổi lên?”

“Đại đô đốc mau nhìn phía đông” Trương Báo vội vàng la lên. “Sương mù dầy đặc đang nổi lên ở mặt sông phía đông, theo hướng gió đang tràn tới đây. Xem ra chỉ trong thời gi­an chưa tới một nén nhang, sương mù đã tràn ngập mặt sông Xích Bích. Đại đô đốc, chiến thuyền của quân ta lâm vào thế yếu, hơn nữa lại đang bị ngược gió. Nếu như chúng ta hỗn chiến với thuỷ quân Ngô, Sở trong sương mù thì nhất định sẽ thua. làm sao bây giờ? Hay chúng ta liều chết rút lui về đại trại?”

“Thuỷ quân Ngô, Sở đã bắt đầu dốc toàn lực tấn công. Hiện tại muốn rút lui không còn kịp nữa rồi”.

Cam Ninh nghiêm nghị nói: “Nếu như gượng ép rút quân về sau, kết quả chỉ có thể là thất bại nhanh hơn”.

Trương Báo lạnh lùng nói: “Vậy liều mạng!”.

Cam Ninh cau mày lại, hắn quát to: “Truyền lệnh toàn quân, mông trùng tiến lên trước, đấu hạm ở giữa. Lâu thuyền, tẩu khả ( chiến thuyền nhẹ ) ở phía sau. Tất cả chiến thuyền liên hoàn phân chia trước sau. Tập trung tất cả quân cung thủ lên bong thuyền. Không ngừng bắn hoả tiễn về phía trước, bắn cho tới lúc không còn một mũi tên nào mới thôi. Tất cả máy bắn đá trên chiến thuyền liên hoàn cũng hoạt động không ngừng nghỉ, ném tất cả dầu lửa ra”.

Một khi ông trời cũng không trợ giúp thì Cam Ninh cũng không còn cách nào khác.

Hôm nay hắn chỉ có thể quyết tâm hỗn chiến một trận với liên quân Ngô, Sở trong sương mù dày đặc. Ngay cả khi biết rõ sẽ thất bại, Cam Ninh cũng không còn lựa chọn nào khác. Ai ngờ trong thời khắc mấu chốt của trận đánh trên mặt sông lại xuất hiện sương mù dày đặc như vậy.

Mã Dược leo lên trên lâu thành nhìn về chân trời xa xa ở hướng nam.

Mặc dù không nhìn thấy rõ ràng những Mã Dược vẫn cảm thấy lúc này thuỷ quân dang quyết chiến một cách tuyệt vọng trên mặt sông Xích Bích. Vì không muốn để Cam Ninh phải phân tâm chú ý bảo vệ an toàn cho hắn nên Mã Dược không đích thân ngự giá tới Ô Lâm đốc chiến. Hơn nữa chính vì cuộc chiến Xích Bích này có thể nói quần thần trên giới của nước Lương đã hao tổn tâm cơ. Kết quả liệu có như ý muốn của người không đây?

Tin báo tiệp chưa tới, tin dữ đã tới trước.

“Bệ hạ”Trưởng tử của Giả Hủ là Giả Mục lảo đảo chạy lên lâu thành. Sau khi quỳ dạp dưới chân Mã Dược, hắn gào lên than khóc: “Bệ hạ, gia phụ không được nữa rồi. Người nói muốn gặp mặt Bệ hạ một lần cuối cùng. Hu hu hu”.

Mã Dược tái mặt, hắn vội vàng nhìn Điển Vi nói: “Mau, chuẩn bị ngựa cho Trẫm’.

“Bệ hạ” Điển Vi lo lắng nhìn mưa bụi đầy trời nói: “Trời vẫn đang mưa, hay nên ngồi xe hơn”.

“Câm!” Mã Dược quát to: “Lập tức chuẩn bị ngựa cho Trẫm”.

“Khách lạt lạt…”

Một tia chớp loang loáng xẹt ngang trời cao, bất chợt trong lúc đó tiếng sấm rền rĩ vang vọng khắp đất trời. Trong gió bắc lạnh thấu xương, những hạt mưa to như hạt đậu tầm tã trút xuống. Cả toà thành Kiến Nghiệp trong khoảnh khắc chìm trong mưa gió.

Ngu Phiên đang đứng nghiêm sau lưng Tôn Quyền hoảng hốt nói: “Bây giờ đang là tháng mười, tại sao lại có sấm sét?”

Trương Chiều thì thào: “Trời sinh dị tượng, tất là điềm đại hung”.

Tôn Quyền không nghĩ vậy, hắn nói: “Tất cả chỉ là chuyển mùa, tất nhiên đi kèm với dị tượng, biết đâu lại là liên quân Ngô, Sở đánh bại quân Lương ở cuộc chiến Xích Bích’.

Tất cả quần thần đều lặng im không biết nói gì.

Hai mươi tám mỹ nhân tôn nhân ngồi trên đài cao. Đàn tranh đặt trên án, mười ngón tay thon dài nhẹ nhàng lướt trên dây đàn tranh. Âm thanh du dương, trầm bổng, êm tai vút lên, giống như tiếng nước chảy róc rách ở khe đá làm lòng người vui vẻ thoải mái. Tào Chân cầm bảo kiếm trong tay đang múa theo tiếng đàn. Hắn vừa múa kiếm vừa ngâm bài Cai Hạ ca thê lương:

Sức bạt núi chừ, khí trùm đời

Thời chẳng lợi chừ, chuy chẳng ruổi

Chuy chẳng ruổi chừ biết làm sao

Ngu Cơ em ơi, biết làm sao ?

“Phựt”.

Dây đàn tự nhiên đứt đoạn, tiếng đàn ngừng lại. Tôn nhân chậm rãi ngẩng gương mặt lúm đồng tiền nhưng đầm đìa lệ châu.

…………………………………………� � �…………………..

Tưởng Khâm tự tay cởi bỏ dây thừng buộc tẩu khả vào mông trùng, quay đầu lại quát to: “Châm lửa”.

“Phốc phốc phốc…”

Mấy cây đuôc cháy hừng hực được vất xuống mông trùng đã được giội mỡ từ trước. Ngọn lửa lập tức bốc lên, trong ánh lửa nuốt vào nhả ra, ngọn lửa lan tới khoang thuỳên nhỏ, đốt cháy cỏ khô, củi khô và các chất dẫn lửa chất cao trong khoang thuyền. Ngọn lửa vì thế càng trở nên mãnh liệt. Những mông trùng quân Đông Ngô ẩn hiện trong sương mù ở cách đó không xa cũng bắt đầu châm lửa.

“Thình”.

Ngay sau khi phóng mông trùng đã bốc cháy về phía quân Lương, chiến thuyền nhẹ quân Đông Ngô tiến theo sau.

Tưởng Khâm tay cầm đơn đao đứng ở mũi thuyền. Hắn đang chờ đợi hoả thuyền xông vào thiêu đốt đội thuyền của quân Lương thì đột nhiên có một tiếng rít chói tay vang lên. Hình như đã có vật gì đó rơi vào trong nước. Hắn vội vàng quay đầu nhìn thì thấy một cột nước dựng cao ngút trời ngay bên cạnh mình. Cột nước bốc lên cao mấy trượng mới ụp xuống, biến thành thuỷ châu bay đầy trời. Tưởng Khâm và binh sĩ Đông Ngô trên chiến thuyền nhẹ bị xối nước ướt sũng.

“Xảy ra chuyện gì?”

“Xảy ra chuyện gì?”

Hơn mười tên lính Đông Ngô trên chiến thuyền nhẹ đưa mắt nhìn nhau. Chúng cũng không biết chuyện gì đã xảy ra.

“Hưu…”

Lại một âm cuối của một tiếng rít sắc lạnh vút không bay tới. Tưởng Khâm và binh lính Đông Ngô trên chiến thuyền chỉ kịp nghe thấy một tiếng vang rất lớn ầm ầm bên tai, ngay khi bình tĩnh nhìn lại thì thấy một tên lính trên thuyền đã ngã xuống trong vũng máu. Đáng thương thay đầu của tên lính đó đã bị một hòn đá xanh, bốn góc mài sắc đập nát bấy, thuận thế hòn đá còn đập vỡ bong thuyền của chiến thuyền, phá vỡ một mảng lớn của đáy chiến thuyền.

Nước sông lạnh như băng lập tức tràn vào.

“Mẹ…” Tưởng Khâm cáu tiết chửi một câu, hắn đang chuẩn bị nhảy xuống sông thì bất chợt một tên lính sau hắn hoảng sợ là rầm lên: “Tướng quân mau nhìn, vật gì kia?”

“Hả?”

Tưởng Khâm vội vàng ngẩng đầu nhìn. Sương mù dầy đặc lúc trước tràn ngập mặt sông đã tản mát đi, lộ ra một khe hở. Trong khe hở của sương mù đó, những ngọn lửa bốc cháy hừng hực giống như lưu tinh từ trên không trung rơi xuống. Trong sương mù đã tản mát, một chiếc mông trùng chưa đốt lửa đã bị ngọn lửa đó nện trúng. Một tiếng “ầm” rất lớn vang lên, ngọn lửa đó vỡ ra biến thành vô số ngọn lửa nhỏ. Chiếc mông trùng đã được bôi mỡ từ trước lập tức chìm trong lửa từ đầu thuyền tới đuôi thuyền.

Đáng thương thay mười mấy tên binh lính Đông Ngô vẫn chưa kịp chuyển sang chiến thuyền nhẹ đã bị ngọn lửa nuốt gọn.

…………………………………………� � �..

Lữ Mông đột nhiên quay đầu lại, hắn khiếp sợ nhìn Chu Du, hắn khàn khàn nói: “Đại đô đốc, sương mù đã tản ra”.

Ánh mắt Chu Du vô cùng thê lương, không cần Lữ Mông nhắc nhở hắn cũng đã nhìn thấy. Màn sương mù quỷ dị kia xuất hiện nhanh mà biến mất cũng cực nhanh. ông trời tựa như đang muốn trêu đùa liên quân. Ý niệm chắc thắng vừa mới xuất hiện trong lòng Chu Du lập tức đã bị nện một cú trời giáng. Mất đi màn sương mù che chở, ngay cả khi liên quân có chiến thắng thì chỉ e cũng phải trả một cái giá vô cùng đắt.

“Đã không còn quan trọng nữa rồi’ Lục Tốn hăng hái nói: “Đội hoả thuyền của Tưởng Khâm tướng quân đã đốt lửa, đang tăng tốc nhằm đội thuyền quân lương xông tới. Chỉ còn hơn mười bộ nữa là có thể chạm vào đội thuyền quân Lương. Thắng lợi của quân ta vẫn nằm trong tầm tay’.

HỖN TẠI TAM QUỐC LÀM QUÂN PHIỆT

Tác giả: Tịch Mịch Kiếm Khách

Quyển 2: Bát Bách Lưu Khấu khởi lang yên

Chương 363: Cuộc chiến Xích Bích ( chương cuối ) (3)

Nhóm dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Vip­van­dan

Vừa lúc đó, một đội mông trùng từ trong đội thuyền thuỷ quân Tây Lương vọt ra, chúng dùng tốc độ cao nhất hung hăng đập vào đội hoả thuyền của liên quân. Mặc dù ở khoảng cách hơn ba trăm bộ nhưng tựa hồ Chu Du vẫn có thể nghe thấy tiếng ván gỗ vỡ vụn của những chiếc hoả thuyền bị đâm võ vụn. Có một số hoả thuyền bị đâm nghiêng thì bất chợt lại có một đội mông trùng thứ hai sống tới, hung ác đâm vào mạn thuyền của những chiếc hoả thuyền bị nghiêng.

Ngay cả khi có mấy chiếc hoả thuyền tránh được những chiếc mông trùng đâm phải nhưng không đợi cho chúng tiến gần tới đội thuyền lớn của quân Lương, chúng đã bị đấu hạm ở phía sau đội mông trùng của quân Lương chặn lại. Một đội chiến thuyền của liên quân Ngô, Sở tiến lên với ý đồ dẹp tan đội thuyền mông trùng, đấu hạm hộ vệ cho đội thuyền lớn của quân Lương nhưng vận mệnh bi thảm nhất đã đang đón đợi chúng. Mất đi sự che chở của màn sương mù, mấy trăm máy bắn đá trên chiến thuyền liên hoàn đã phát huy lực sát thương khủng khiếp của mình.

Tiếng xe gió thê lương không ngừng vang lên trong không trung. Những tảng đá đen ngòm ùn ùn kéo tới, những chiến thuyền con của liên quân Ngô, Sở ngay khi còn cách đội thuyền lớn của quân Lương hai trăm bộ đã bị đập nát vụn. Có mấy chiếc mông trùng đột phá được qua sự phong toả của máy bắn đá trên chiến thuyền liên hoàn. Tuy nhiên chờ đợi chúng lại là mười vạn quân cung thủ trên chiến thuyền liên hoàn cùng bắn hoả tiễn một lần.

“Ôi, không” Gương mặt anh tuấn của Lục Tốn hiện lên sự kinh ngạc, hắn gào lên: “Tuyệt đối không thể nào”.

“Chỉ dựa vào mông trùng, đấu hạm sẽ không đủ để chiến thắng. Bong thuyền của chúng căn bản là không thể chống đỡ được máy bắn đá của quân Lương” Lữ Mông vội vàng quay đầu nhìn Chu Du nói: “Đại đô đốc, hãy cho toàn quân xuất kích. Thắng bại chính là ở chỗ này”.

“Ừ” Chu Du gật đầu, hắn cao giọng nói: “Truyền lệnh, toàn quân xuất kích”.

…………………………………………� � �……….

“Bệ hạ, Bệ hạ”.

Ánh sáng cuối cùng trong đôi mắt Giả Hủ cũng tiêu tan hết. Bàn tay hắn nắm lấy ống tay áo Mã Dược buông lỏng ra. Hơi thở của hắn cũng tiêu tan.

Nhìn sắc mặt thanh thản của Giả Hủ, Mã Dược dường như hoá đá. Hắn ngồi một lúc rất lâu, hai mắt mở trừng trừng. Ngay khi Điển Vi gọi mấy tiếng”Bệ hạ” Mã Dược mới chớp mắt, hắn buồn rầu nói: “Đi ra ngoài. Tất cả các ngươi đi ra ngoài. Trẫm muốn ở lại một mình với Văn Hoà”.

Điển Vi thở dài một tiếng, hắn phất tay với Giả Mục, Mã Chinh, Mã Chiến.

Mọi người lần lượt rời khỏi trướng. Điển Vi là người lui ra sau cùng. Tiện tay hắn bỏ màn trướng xuống.

Ánh sáng trong trướng trở nên âm u. Mã Dược khẽ thở dài một tiếng, hắn ngồi xuống cạnh giường của Giả Hủ, nắm lấy hai bàn tay giá lạnh của Giả Hủ, nói như đang mơ ngủ: “Văn Hoà, nếu như Trẫm không nhớ nhầm. Ngươi và Trẫm gặp nhau mà mùa xuân năm Trung Bình thứ hai. Thời gi­an trôi đi quá mau, chỉ trong chớp mắt mà đã hai mươi lăm năm rồi. Ai, ngươi và Trẫm đều già rồi…”.

Một tảng đá nặng nề đập vào cột buồm ở sau lưng Chu Du, chỉ nghe mấy tiếng ‘răng rắc’ vang lên. Cột buồm bị nện đứt ngang, nửa thân trên của cột buồn đổ xuống, giáng thẳng xuống chỗ Chu Du đang đứng.

“Đại đô đốc cẩn thận”.

Lữ Mông nhanh mắt, chân tay nhanh nhẹn. Hắn vội vàng tiến lên đẩy Chu Du một cái, trong khi đó chính bản thân hắn lại bị cột buồm đập vào người.

Chu Du vội vàng bò dậy, hắn và Lục Tốn cùng đỡ Lữ Mông dậy. Chu Du ân cần hỏi: “Tử Minh, ngươi không sao chứ?”

“Mạt tướng không có…không có việc gì”.

Lữ Mông mới há mồm nói nửa câu, một dòng máu tươi từ trong miệng hắn trào ra.

“Mau…” Chu Du vội vàng quay đầu nhìn đám thân binh đứng sau quát to: “Mau đỡ Lữ Mông tướng quân xuống dưới”.

“Rầm”.

Chu Du vừa mới nói xong, một khối đá to lăng không đập tới, trực tiếp đập ngã Chu Du xuống bong thuyền. Lục Tốn vội vàng quay đầu lại nhìn, hắn chỉ thấy Chu Du đã bị ép chặt xuống bong thuyền trên phi lư. Trên lưng hắn là một khối đá xanh bốn mặt nặng chừng ba, bốn trăm cân. Góc nhọn của khối đá xanh đã xuyên qua lưng Chu Du, đâm xuyên qua bong thuyền. Máu tươi đỏ thẫm đã nhuộm đỏ chiếc thanh sam của Chu Du.

“Đại đô đốc! Đại đô đốc”.

“Đại đô đốc”.

Lục Tốn và một đám thân binh kinh hoàng chạy tới. Chúng chỉ thấy khoé miệng Chu Du trào máu. Lỗ mũi, khoé mắt và lỗ tai Chu Du máu trào ra nhưng trên mặt hắn vẫn còn đọng lại một nụ cười nhẹ nhàng, vui vẻ. Bản thân là một tướng quân khó tránh khỏi thương vong, bản thân là một người lính, có thể chết trên chiến trường, coi như đó là một vinh hạnh rất lớn.

Lữ Mông giãy giụa bò mấy bước về phía trước. Đột nhiên đầu hắn không còn sức nữa, rũ xuống. Từ lúc đó không còn ngẩng lên được nữa.

“Đại đô đốc, đô đốc Lữ Mông. Hai người hãy yên tâm ra đi. Chỉ cần còn có một tia hy vọng, mạt tướng tiếp tục chỉ huy liên quân chiến đấu” Lục Tốn chậm rãi đứng dậy. Sắc mặt hắn trở nên vô cùng nghiêm nghị. Đột nhiên hắn giơ cao bảo kiếm của Chu Du, ngửa mặt lên trời gào to: “Truyền lệnh toàn quân tiếp tục tấn công. Tuyệt đối không để quân địch có cơ hội nghỉ ngơi. Nhất cổ tác khí đánh bại thuỷ quân Tây Lương (một tiếng trống làm tinh thần hăng hái thêm - “Tả Truyện” Trang Công thập niên: ‘phu chiến, dũng khí dã. Nhất cổ tác khí, tái nhi suy, tam nhi kiệt’. Khi đánh trận dựa vào dũng khí, đánh một tiếng trống, dũng khí tăng lên, đánh hai tiếng trống, dũng khí suy giảm, đánh ba tiếng trống, dũng khí không còn. Sau này ví với nhân lúc đang hăng hái làm một mạch cho xong việc)

Phó tướng Trương Báo vội vàng tiến tới trước mặt Cam Ninh nói to: “Đại đô đốc, thuỷ quân liên quân Ngô, Sở đang dùng chiến thuật đồng quy ư tận. Hiện tại chiến thuyền hai bên đang đan xen vào nhau. Địch, ta rất khó phân biệt. Rối loạn. Hoàn toàn rối loạn”.

“Đã biết” Ánh mắt Cam Ninh trở nên vô cùng đanh ác, hắn lạnh lùng nói: “Chỉ cần có thể cùng thuỷ quân Ngô, Sở ngọc đá đều vỡ nát, coi như là chúng ta đã thắng cuộc chiến Xích Bích này. Không có thuỷ quân phong toả Trường Gi­ang, trăm vạn đại quân của Bệ hạ có thể dễ dàng vượt qua Trường Gi­ang. Sự diệt vong của hai nước Ngô, Sở cũng chỉ trong nay mai. Truyền lệnh toàn quân không được phép rút lui về sau. Cuộc chiến hôm nay không phải địch chết thì là ta chết”.

“Tuân lệnh” Nghe vậy, Trương Báo hung hăng vung cây lưu tinh chuỳ trong tay, hắn quát to: “Con mẹ nó, liều mạng với đám nam man Gi­ang Đông. Các huynh đệ, xông lên đánh giết cho lão tử”.

Bất chợt tiếng vó ngựa vang lên kinh động, phá tan sự yên tĩnh của trời đêm. Điển Vi, Mã Chinh, Mã Chiến đang canh giữ bên ngoài trướng vội vàng quay đầu lại nhìn, cả ba chỉ thấy một chiến mã đang phóng tới bên này nhanh như gió cuốn.

“Báo, Ô Lâm cấp báo”.

“Đứng lại”.

Mã Chinh khẽ quát to một tiếng, Mã Chiến lập tức bước tới nắm lấy cương ngựa ghìm chặt. Chiến mã đang phóng nhanh tới trước bị Mã Chiến dùng hết sức bình sinh cản lại. Tên tiểu giáo quân Lương cưỡi trên lưng chiến mã, theo đà quán tính nhào người lên trước, bàn tay còn lại của Mã Chiến vung lên túm lấy tên tiểu giáo, hắn tiện tay vứt tên tiểu giáo xuống mặt đất.

Tên tiểu giáo giãy giụa bò dậy, hắn vội la lên: “Ô Lâm cấp báo”.

Mã Chinh cao giọng nói: “Mau nói”.

Tên tiểu giáo giật mình rồi hắn vội vàng quỳ xuống, cung kính hành lễ, thở hổn hển nói: “Đại đô đốc thuỷ quân Cam Ninh bẩm báo Hoàng thượng. Cuộc chiến Xích Bích đã kết thúc”.

“A, cuộc chiến Xích Bích đã chấm dứt?” Mã Chinh thất thanh hỏi: “Kết quả như thế nào?”

Tên tiểu giáo đang định trả lời thì một giọng nói mệt mỏi truyền ra từ bên trong trướng: “Cuộc chiến Xích Bích đã kết thúc rồi sao?”

Tên tiểu giáo vội vàng quỳ dạp xuống nói: “Dạ, đúng vậy”.

“Vào đi” Giọng nói đó lại vang lên: “Vào trong trướng nói lại tỉ mỉ”.

“Tuân chỉ”.

Tháng mười năm Thái Bình thứ chín, Lương Thái Tổ.

Cuối cùng cuộc chiến Xích Bích với quy mô lớn chưa từng có cũng kết thúc với thất bại thảm hại của thuỷ quân Tây Lương. Phần lớn bảy vạn thuỷ quân cùng với mười vạn quân cung thủ Tây Lương lên thuyền trợ chiến đều táng thân dưới đáy sông. Đại đô đốc thuỷ quân Cam Ninh chỉ huy hơn một trăm chiến thuyền nhẹ chật vật trốn về đại trại Ô Lâm.

Thế nhưng tuy thuỷ quân Ngô, Sở thắng lợi nhưng cũng phải trả một cái giá nặng nề hơn nhiều. Đại đô đốc Đông Ngô là Chu Du, Đô đốc thuỷ quân Lữ Mông. Đô đốc thuỷ quân nước Sở là Sái Mạo đều chết trận. Tám vạn thuỷ quân tinh nhuệ cùng với năm vạn quân cung thủ lên thuyền trợ chiến phần lớn chết trận. Trong số gần một vạn chiến thuyền lớn nhỏ cũng tổn thất hơn một nửa. Cuối cùng Lục Tốn chỉ huy hơn tám ngàn tàn binh, sáu mươi chiếc lâu thuyền, hơn ba mươi chiếc mông trùng cùng với hơn năm trăm chiếc chiến thuyền nhẹ quay về đại trại Xích Bích.

Sau cuộc chiến Xích Bích, thực lực thuỷ quân hai nước Ngô, Sở không còn đủ lực phong toả phòng tuyến Trường Gi­ang. Tới lúc này biên giới nước Sở đã hoàn toàn rộng mở.

Tháng mười một năm Thái Bình thứ chín Lương Thái Tổ, cầu phao được bắc xong.

Cùng tháng Lương Thái Tổ Mã Dược tự mình thống lĩnh sáu mươi vạn đại quân kỵ bộ vượt qua Gi­ang Hạ.

Tháng mười hai, trọng trấn Ba Lăng ở phía bắc của nước Sở thất thủ. Đại tướng quân Trương Liêu chết trận. Ba vạn quân Sở tinh nhuệ bị tiêu diệt hoàn toàn.

Tháng hai năm Thái Bình thứ mười ( năm 211 ) Lương Thái Tổ, Tào Chân dẫn quần thần hoảng sợ chạy trốn về Quế Dương bị Thái tử nước Lương là Mã Chinh thống lĩnh khinh kỵ binh đuổi theo và bị vây khốn ở Hành Dương. Tào Chân đem nhốt tất cả tôn nhân, cung phi vào biệt cung và châm lửa đốt. Đến tối quân Sở trong thành Hành Dương bất ngờ làm phản. Gia Cát Lương, Thừa tướng nước Sở, Đại tướng Trương Cáp cùng tất cả văn võ bá quan đều chết trong đám loạn quân. Nước Sở chính thức diệt vong.

Tháng ba, Mã Dược cử Trần Đăng làm Thứ sử Kinh Châu sau đó hắn ban sư hồi kinh.

Tháng giêng năm Thái Bình thứ mười hai ( năm213 ) Lương Thái Tổ Mã Dược thoái vị. Thái tử Mã Chinh kế vị, tôn Mã Dược làm Thái thượng hoàng, cải niên hiệu là Khai Nguyê, sử sách gọi là Lương Văn Đế.

Tháng ba Khai Nguyên nguyên niên ( năm đầu ) Lương Văn Đế cử Chinh Đông tướng quân Cao Thuận, Chinh Nam tướng quân Từ Hoảng mỗi người thống lĩnh mười vạn đại quân chia binh làm hai đường tấn công Gi­ang Đông.

Tháng sáu, Từ Hoảng công phá Sài Tang. Đại tướng nước Ngô là Thái Sử Từ chết trận.

Tháng Chín, Cao Thuận đánh chiếm Kiến Nghiệp. Tôn Quyền đầu hàng, nước Ngô diệt vong, thiên hạ thống nhất.

Từ năm Khai Nguyên nguyên niên tới năm Khai Nguyên thứ bốn mươi sáu, Lương Văn Đế Mã Chinh tại vị bốn mươi sáu năm, áp dụng chính sách dưỡng dân, cổ vũ canh nông, khích lệ công thương, đồng thời miễn giảm sưu thuế, tinh giản cơ cấu quan lại, giảm bớt chi tiêu ngân khố quốc gia. Dưới sự trị vì dốc sức vì nước của Lương Văn Đế, đế quốc Đại Lương đã xây dựng đất nước từ cảnh tượng thê lương chiến trạnh nhiều năm, dần dần trở nên hưng thịnh. Sử sách gọi là thời Khai Nguyên thịnh trị.

Năm Khai Nguyên thứ bốn mươi sau Lương Văn Đế Mã Chinh băng hà, Hoàng thái tôn Mã Thác kế vị, cải niên hiệu là Dương Vũ, sử sách gọi là Lương Vũ Đế.

Sau khi Lương Vũ Đế kế vị thì bắt đầu thay đổi chính sách bãi binh cùng với dưỡng dân của Lương Văn Đế. Đế quốc Đại Lượng bắt đầu chính sách xâm lược các vùng chung quanh với mức độ chưa từng có. Từ năm Dương Vũ nguyên niên tới năm Dương Vũ ba mươi bảy, trong thời kỳ tại vị ba mươi bảy năm của Lương Vũ Đế, đế quốc Đại Lương tiến hành ba mươi bảy cuộc chiến tranh cướp bóc đẫm máu các vùng đất xung quanh. Trước sau cướp đoạt hơn một triệu nô lệ, tàn sát hơn hai ngàn chín trăm linh bảy các bộ tộc lớn nhỏ.

Năm Dương Vũ thứ chín, Dương Vũ thứ mười ba cùng Dương Vũ thứ hai mươi sáu, ba lần Lương Vũ Đế ngự giá tây chinh, ba lần thống lĩnh thiết kỵ Mạc Bắc tấn công vào cường quốc phương tây Parthia. Trong đó có hai lân công chiếm thủ đô của Parthia là thành Spin. Hai sủng phi cùng toàn bộ bảy công chúa của quốc vương Parthia trở thành nô lệ của Lương Vũ Đế. Năm Dương Vũ thứ ba mươi bảy, Lương Vũ Đế mắc bệnh nặng qua đời trên đường tây chính đánh La Mã

Sau khi Lương Vũ Đế qua đời, ba vạn hộ Mạc Bắc khởi binh làm phản, đế quốc Đại Lương lâm vào cảnh phân chia trong một khoảng thời gi­an ngắn.

Nhưng người kế vị Lương Minh Đế Mã Ý lại chính là nhà chính trị, quân sự kiệt xuất nhất từ sau thời Lương Thái Tổ Mã Dược. Gần như không tới ba năm, Lương Minh Đế đã khôi phục lại quyền thống trị thảo nguyên Mạc Bắc, duy trì sự thống nhất của đế quốc Đại Lương.

Từ đó về sau đế quốc Đại Lương kéo dài hơn tám trăm năm, trải qua ba mươi sáu vị Hoàng đế rồi bị thay thế bởi nhà Đại Đường.

HẾT

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: