Thuong hai 6_7
Chương 6: Dũng Hiệp Gian
Thiên Thần Tông kêu thét đau đớn vô cùng, bất giác buông tay, quét ngược lên đỉnh đầu, nhưng Bắc Lạp Sư Môn một trảo đắc thủ, sớm đã nhảy ra phía ngoài xa. Một quét của Thiên Thần Tông rơi vào khoảng không, oai oái phẫn nộ rống lên. Lục Tiệm thừa cơ lăn xuống bàn cúng, vươn miệng ngậm lên một đoạn đao gãy, dùng khuỷu tay gãy kẹp chặt, nhô lên phía trước, đâm vào hông của Thiên Thần Tông.
Thiên Thần Tông trước sau liên tiếp gặp phải tổn thất nặng nề. Kim Cang Bất Hoại Thân sớm đã bị phá, chỉ cảm thấy phía sau hông mát lạnh, khí lực toàn thân đột nhiên tiêu tan, cũng không kháng cự lại Hồng Liên Hoá Thân Đoạn Diệt Đại Pháp được nữa, mắt tai mũi miệng, phàm là trong thất khiếu, hết thảy đều phun ra suối máu vài thước, xương cốt lạch cạch kêu loạn, bị đại lực của Ngư hoà thượng chấn đến nát vụn.
Lục Tiệm mắt thấy Thiên Thần Tông thân cao chín thước trong khoảnh khắc hoá thành một đống máu thịt bầy nhầy, chỉ biết kinh sợ bước lùi về sau mấy bước, ùm một tiếng, lại ngã ngược một cái.
Ngư hoà thượng lắc lư, ngã ngồi xuống đất, than dài nói: "Bắc Lạp Sư Môn, ba mươi năm không gặp, không ngờ đến hôm nay trùng phùng, lại nợ ngươi một tính mệnh".
Lục Tiệm nghe vậy trong lòng chấn động: "Vị đại sư này lại cũng quen biết Bắc Lạp Sư Môn? Đại sư nói ba mươi năm không gặp, con mèo này há chẳng phải sống được ba mươi năm rồi sao?". Nhưng nghĩ tuổi thọ của loài mèo mà nói, tuyệt khó mà sống đến từng ấy năm, nhất thời cảm thấy khó hiểu. Y đưa mắt nhìn, nhưng chỉ thấy con mèo Ba Tư đó cũng mệt mỏi vô cùng, uể oải nằm phục trên mặt đất, đôi mắt xanh thẳm ảm đạm vô thần.
Lục Tiệm chực gắng gượng đứng lên, lại cảm thấy không còn hơi sức, chỉ thấy Ngư hoà thượng chầm chậm đứng dậy, đi đến trước người của A Thị, nhẹ nhàng vặn gãy dây xích sắt trên tứ chi của nàng, bế nàng đến trên gối chăn gấm vóc, độ nhập chân khí, gò mát của A Thị dần dần chuyển thành hồng nhuận, trong mắt cũng có thần thái, có lẽ là đã thấy yên tâm, chỉ một lúc liền nhắm mắt thiếp đi.
Ngư hoà thượng sắp xếp ổn thoả cho A Thị xong, lại giúp Lục Tiệm tiếp lại cánh tay gãy. Lục Tiệm nói cảm ơn, Ngư hoà thượng chú thị nhìn y hồi lâu, trong mắt chợt có vẻ buồn rầu lo lắng, than nói: "Nơi này chứa đầy dơ bẩn, không thể lưu lại lâu, đám Cơ nữ này đều là do nghiệt đồ Bất Năng bắt lại, vận mệnh thê thảm. Nếu phơi bày thi thể ở nơi này, hoang dã cô hồn, càng thêm bi lương. Mong tiểu đàn việt giúp bần tăng một tay, để cho bọn họ nhập thổ vi an".
Lục Tiệm nói: "Đại sư nói đúng".
Hai người lập tức cùng nhau động thủ, đem đám Cơ nữ và đám người Kiều Bổn chôn gần thần xã, Ngư hoà thượng miệng tụng kinh văn, siêu độ cho bọn họ.
Xong việc, hai người quay lại thần xã, mắt thấy tàn hài của Thiên Thần Tông, Ngư hoà thượng nói: "Nghiệt đồ tuy tác ác đa đoan, nhưng rốt cuộc vẫn từng là sa môn, do đó cùng cách của Phật môn đồ diệt. Ngươi đưa vị tiểu cô nương này ra ngoài thần xã đợi".
Lục Tiệm ôm A Thị lên, lại đặt Bắc Lạp Sư Môn lên đầu vai, ra khỏi thần xã, chưa đi xa đã thấy ánh lửa ngút trời đằng sau rực cháy lên, Ngư hoà thượng chân không điểm đất, từ sau phiêu nhiên mà đến. Y vội kêu: "Đại sư".
Ngư hoà thượng gật gật đầu, nói: "Mọi người trước tiên tìm một nơi nghỉ ngơi".
Lập tức ba người ở nơi đồng không mông quạnh đốt lửa, Ngư hoà thượng hỏi đến A Thị bị bắt như thế nào, cho đến Lục Tiệm cứu viện như thế nào, không kềm được kinh ngạc nói: "Ngươi lại chém gãy Từ Hàng Đạo, phá thạch giáp của Bất Năng?".
Lục Tiệm lắc đầu nói: "Tại hạ cũng cảm thấy kỳ quái, cũng không biết như thế nào mà làm được".
Ngư hoà thượng hơi trầm ngâm một chút, mỉm cười nói: "Cũng không kỳ quái gì, chỉ bởi vì từ đầu đến cuối, không phải một mình ngươi tác chiến".
Lục Tiệm lấy làm lạ hỏi: "Còn ai nữa?".
Ngư hoà thượng nhìn Bắc Lạp Sư Môn ủ dột rầu rĩ một cái, than nói: "Đó chính là Bắc Lạp Sư Môn".
Lục Tiệm mù mờ không hiểu, Ngư hoà thượng nói: "Bắc Lạp Sư Môn chính là linh thú hãn hữu trong thiên hạ, có thể kích phát tiềm năng trong cơ thể của ngươi. Nếu ngươi chỉ có bốn năm thành bản lĩnh, Bắc Lạp Sư Môn có thể làm cho ngươi phát huy mười thành. Chỉ là, trước nay nó chỉ chịu sự điều khiển của nữ tử, không nhận nam tử làm chủ, lần này lại cùng ngươi sát cánh tác chiến, chính là chuyện kỳ quái a".
Lục Tiệm đem việc Bắc Lạp Sư Môn nhận A Thị làm chủ nhân kể lại. Ngư hoà thượng than nói: "Chẳng trách nào, nó tuy rằng là loài thú, nhưng việc gấp hộ chủ, cũng hiểu được đạo lý sự cấp tòng quyền".
Lục Tiệm gật gật đầu, chính đang định hỏi Ngư hoà thượng vì sao lại quen biết Bắc Lạp Sư Môn, chợt cảm thấy một cơn ngứa ngáy kỳ lạ xuyên tâm với một cảm giác trống rỗng cuồn cuộn từ ba mạch Tử Vi, Thái Vi, Thiên Thị đồng thời tuôn lên, nhanh chóng lan rộng ra toàn thân, thế đến mãnh liệt trước đây chưa từng có, trong đầu Lục Tiệm kêu lớn như sấm, chỉ kịp kêu lên một tiếng, liền mất đi tri giác.
Lúc hồi phục lại tri giác, Lục Tiệm cảm thấy thân thể rất nhẹ, trọng lượng hầu như mất hết, tất cả mọi thứ trước mắt lại dần dần trở nên rõ ràng, y phát hiện bản thân đang ở một nơi kỳ quái đặc biệt, một mặt ánh sáng mặt trời chói mắt, một mặt bóng tối thâm trầm, còn y thì ở nơi giữa bóng tối và ánh sáng, thân thể dường như vô hình chất, chập chờn bất định, đã không thể thuộc về bóng tối, cũng vô pháp dung nhập vào ánh sáng, duy chỉ có ở nơi giao giữa ánh sáng và bóng tối thung dung đi qua đi lại.
"Ta đã chết chưa?".
Lục Tiệm trở nên mê hoặc, trong bóng tối dường như có tia sáng lấp lánh, lần lượt rực sáng lên, Lục Tiệm nhận ra đó là những ánh sao. Trong vùng trời hắc ám, tinh đồ to lớn dần dần trở nên rõ ràng. Tử Vi, Thái Vi, Thiên Thị, đông phương Thương Long, tây phương Bạch Hổ, nam phương Chu Tước, tây phương Huyền Vũ, các ngôi sao mờ ảo, đẩu chuyển tinh dời, không bao giờ dừng lại.
Bỗng nhiên, một ngôi sao phương nam sáng rực lên, giống như một quả cầu lửa, thích thương mắt của y.
"Bắc Lạp Sư Môn!"
Lục Tiệm kêu to một tiếng, ánh sáng, bóng tối, các ngôi sao, đột nhiên biến mất, chỉ cảm thấy dưới chân trống rỗng, rơi vào vực sâu vạn trượng.
Lục Tiệm kêu to thảm thương, chợt cảm thấy xương sống chạm vào mặt đất, trước mắt hơi lờ mờ, lại chợt trở nên rõ ràng, gần ngay gang tấc, một gương mặt mỹ lệ tuyệt luân, hai gò má còn vương lệ, giống khóc mà lại không phải, giống cười mà lại cũng không phải cười.
"A Thị", Y chợt nhiên minh mẫn lại, thân thể vẫn trống rỗng như cũ, hoàn toàn không có khí lực: "Ta còn sống hay chết ...".
A Thị vội che miệng y lại, rưng rưng nước mắt cười nói: "Tất nhiên là còn sống rồi, may nhờ có đại sư cứu ngươi".
Lục Tiệm chực muốn đứng dậy, thì một ngón tay cũng không nhấc lên được.
"Ngươi đừng có quá dùng sức". Ngư hoà thượng chầm chậm bước đến. Khuôn mặt của Ngư hoà thượng càng trở nên tiều tuỵ, nếp nhăn ở khoé mắt cũng càng thấy hằn sâu: "Ta đã phong trụ Tam Viên Đế Mạch của ngươi, tạm thời trì hoãn lại Hắc Thiên Kiếp".
Lục Tiệm kinh ngạc nói: "Đại sư, người cũng biết Hắc Thiên Kiếp?".
"Chỉ biết sơ". Ngư hoà thượng nói: "Chỉ bới vì ngươi gặp phải cường địch trước nay chưa từng gặp. Mượn dùng kiếp lực quá nhiều, do đó bị kiếp lực cắn trả lại vô cùng lợi hại, gần như lấy tính mệnh của ngươi".
Trong lòng Lục Tiệm loé lên một tia hy vọng, nén không được hỏi: "Đại sư, người thần thông quảng đại, có thể giúp tại hạ tiêu trừ Hắc Thiên Kiếp không?".
Hai người dùng Hoa ngữ đối đáp, A Thị tuy rằng nghe không hiểu hai người nói việc gì, nhưng nàng thông minh, chỉ cần quan sát lời nói sắc diện, đoán ra là một việc quan hệ đến sinh tử Lục Tiệm. Nàng nhịn không được, song thủ chập lại, hướng về Ngư hoà thượng chầm chậm quỳ xuống, nói: "Nguyện đại sư đại phát từ bi, cứu lấy Lục Tiệm!".
Ngư hoà thượng hơi nhắm mắt lại, hồi lâu nói: "Hài tử, ngươi đã là kiếp nô, kiếp chủ là ai?".
Lục Tiệm nói ra, Ngư hoà thượng than nói: "Quả nhiên là người trong Bát Bộ, Hoả Tiên Kiếm Ninh Bất Không chính là kỳ tài hãn hữu, không phải là hạng dễ đối phó". Nói xong câu này, lão cũng không nói thêm nữa, ngồi xếp bằng tròn, chập tay minh tưởng.
Lục Tiệm, A Thị đều mệt mỏi không chịu nổi. A Thị phục ở trước ngực Lục Tiệm thiếp đi, sóng lòng cuồn cuộn, hồi lâu cũng không ngủ được, đến khi rạng sáng chợt cảm thấy mặt đất chấn động. Ngư hoà thượng đột nhiên mở mắt, song thủ mỗi tay nhấc một người, tung mình nhảy lên một cây lớn bên đường, ẩn nấp vào cành lá dày đặc.
Chưa được một lúc, liền thấy đội đội nhân mã đi qua dưới cây. A Thị quan sát phục sức của chúng, lấy làm lạ nói: "Đám binh sĩ này không phải là của nhà Chức Điền".
Ngư hoà thượng than nói: "Đây là đại quân của Kim Nguyên Nghĩa Nguyên, xem ra Đạp Huyện đã bị công phá, đám binh mã này đi về phía hai thành Thứu Tân, Hoàn Căn. Nghe nói lần này Kim Xuyên tiến công Vĩ Trương, hiệu xưng ba vạn đại quân, sự bại vong của nhà Chức Điền đã không thể tránh khỏi được".
A Thị nghe vậy khuôn mặt trắng bệch, run rẩy nói: "Kim Xuyên Nghĩa Nguyên? Đại ca và y vô oán vô thù, y tại sao lại tiến công chúng ta?".
Ngư hoà thượng nói: "Xuân Thu vô nghĩa chiến. Loạn thế giao chiến, chữ Lợi đứng đầu, đã không có đạo nghĩa, càng không có đạo lý để nói. Lệnh huynh Chức Điền Tín Trưởng tuy rằng chưa hỏi tội nhà Kim Xuyên, nhưng y thống nhất Vĩ Trương, tây nhập Kinh đô, phong đầu quá mạnh mẽ, đã trở thành nỗi e sợ của chư hầu các phương. Nhà Kim Xuyên xưng hùng Đông Hải, rất sợ Tín Trưởng lớn mạnh. Mấy ngày trước, phía đông Vĩ Trương gặp phải sóng thần, Kim Xuyên Nghĩa Nguyên thừa cơ xuất binh, chính là muốn ném đá xuống giếng, nhất cử diệt vong Vĩ Trương, nhổ bỏ cái gai trong lòng".
A Thị nghe vậy không đè nén được bi phẫn, nước mắt lấp lánh. Chợt nghe tiếng vó ngựa như sấm, một đội nhân mã hơn trăm người hò hét kéo đến, phần lớn người trong đội khoác giáp đội mũ, tay cầm chu thương, sau lưng cắm đầy cờ nhỏ. A Thị nhận ra đây là kỳ bổn của hộ vệ quốc chủ. Đến gần hơn, A Thị lại thấy trên cờ nhỏ viết danh hiệu của Kim Xuyên, bất giác hô hấp dồn dập, tim đập thình thịch.
Chỉ nghe một âm thanh già dặn cứng cáp gọi: "Rạng sáng lên đường vất vả cực nhọc, nghỉ ngơi một chút dưới gốc cây, dưỡng sức cho ngựa". Đội kỵ sĩ đó ghì cương dừng ngựa lại. Một tên võ tướng đội mũ sắt ngưu giác nhảy khỏi yên ngựa, sớm có tuỳ tùng mở ghế mềm ra. Võ tướng đó cũng không cởi giáp, tiện thể ngồi xuống luôn. Đám kỳ bổn thì hoành thương lập mã, vây quanh dưới thân cây như thùng sắt. Ba người trên cây nhất thời nín thở, không dám khinh cử vọng động.
Ngưu giác võ tướng đó tay cầm chiết phiến, vù vù quạt nói: "Thời tiết này thật là tà môn, mới tháng năm, tại sao lại nóng bức như vậy? Hoặc là gần đây đánh trận hơi ít, tinh thần thoải mái, người cũng phát phì, chịu không được nóng nực". Chúng tướng đều cười.
Võ tướng đó lại nói: "Tiền Điền Lợi Gia, có tin tức của Tín Trưởng không?".
Một tên võ tướng cao gầy đáp: "Bẩm Nghĩa Nguyên công, chỉ nghe nói y xuất quân ly khai Thanh Châu, hiện tại ở đâu thì không rõ ràng, hơn mười tên thám tử Lợi Gia phái đi, mà lại không có một tên nào quay lại".
A Thị chợt hiểu ra võ tướng ngồi cầm quạt dưới gốc cây, chính là đại địch của Vĩ Trương, Kim Xuyên Nghĩa Nguyên, bỗng nhiên cảm thấy tim đập nhanh, mười ngón tay thon thon bóp lại thành quyền, thân thể không kềm được run rẩy.
"Tín Trưởng lợi hại a!", Kim Xuyên Nghĩa Nguyên than nói: "Thống nhất Vĩ Trương, hàng phục Đạo Tam. Khi yết kiến tướng quân, Nghĩa Huy cũng tán thưởng y thông minh hiền năng. Nhân vật như vậy, như con hổ ngủ bên cạnh giường Kim Xuyên ta. Nếu không nhân cơ hội y còn đang ngủ say chưa tỉnh, mà diệt vong nó; chỉ sợ tương lai hối hận không kịp".
Y ngừng lại một lúc, lại hỏi: "Gia Khang, ngươi và Tín Trưởng là bằng hữu lúc nhỏ, ngươi nói xem, y đích thị là người như thế nào?".
Một võ tướng thấp lùn nói: "Y là một quái nhân, trước nay làm việc không tuân theo lẽ thường. Thích chơi Ấn Địa Đả (trò chơi ném đá), còn yêu nhảy múa, nhất là múa Đôn Thịnh Nhất Phiên, bởi vì y nói nhân sinh năm mươi năm, chẳng qua là mộng ảo mà thôi".
Chúng tướng đều cảm thấy thú vị, nhất thời cười ầm, Kim Xuyên Nghĩa Nguyên thì khe khẽ ngâm nga một khúc nhạc: "Nhân gian ngũ thập niên, dữ thiên tương bỉ, bất quá miêu tiểu nhất vật ...." Ngâm nga đến đây, y vỗ quạt cười nói: "Tín Trưởng là một người thông đạt a, có thể lấy được thủ cấp của y mới là lạc thú lớn nhất của nhân sinh".
Chúng tướng tề thanh nói: "Nguyện vì Nghĩa Nguyên hiến dâng sức lực".
"Được!". Kim Xuyên Nghĩa Nguyên cười nói: "Nghe nói Tín Trưởng có một vị muội tử tên là A Thị, trông rất xinh đẹp. Các ngươi ai lấy được thủ cấp của Tín Trưởng, ta đem A Thị thưởng cho".
A Thị nghe vậy tức giận, chợt cảm thấy Lục Tiệm vỗ nhẹ lên vai mình, quay đầu nhìn lại, chỉ thấy y liên tiếp lắc đầu. Cô không kềm nổi cười nhạt, trong lòng nghĩ: "Đồ ngốc, ngươi cho rằng ta sẽ xuống dưới liều mạng với bọn chúng sao? Ta đâu có ngốc như thế". Nghĩ vậy trong bóng tối tìm kiếm tay của Lục Tiệm, nắm chặt lấy, tuy rằng đang ở trong hiểm cảnh, trong lòng cũng cảm thấy vui sướng vô ngần.
Chợt nghe Kim Xuyên Nghĩa Nguyên lại nói: "Nói ra, Thiên Thần Tông vẫn chưa có tin tức gì. Quái vật đó khoác lác một tấc lên trời, nói tối qua đem đến thủ cấp của Tín Trưởng. Hừ, toàn là khoác lác bốc phét, chỉ tiếc số hoàng kim, mỹ nữ kia".
Chúng tướng xôn xao vâng dạ, Kim Xuyên Nghĩa Nguyên lại nói: "Thiên Thần Tông không thể lấy, chúng ta tự đi lấy. Đoán rằng Tín Trưởng thấy binh uy của ta, quyết không dám khinh cử vọng động, ta có thể triển khai thủ cước, dùng trọng binh công thành. Đức Xuyên Gia Khang, ngươi suất lãnh năm ngàn người công đả Hoàn Căn; Tiền Điền Lợi Gia, ngươi suất lĩnh năm nghìn người công đả Thứu Tân; Mao Lợi Hà Nội, Ngư Trụ Chuẩn Nhân, các ngươi mỗi người dẫn ba nghìn binh mã, tìm kiếm chủ lực của Tín Trưởng quyết chiến. Ta suất lĩnh dư bộ ở Dũng Hiệp Gian khống chế điều khiển toàn cục. Nghĩa Nguyên ở đây ước định, chập tối ngày kia, ở thành Thanh Châu, cùng các vị uống rượu vui sướng".
Chúng tướng xôn xao đứng dậy, oang oang nói: "Chập tối ngày kia, ở thành Kinh Châu, cùng chủ công uống rượu".
Âm thanh này uy vũ hùng tráng, A Thị nghe vậy tâm thần kích động, thân thể bất giác lay động, khuấy động cành cây, khiến lá cây xào xạc rơi xuống.
Kim Xuyên Nghĩa Nguyên ý lên một tiếng, nghiêm giọng nói: "Trên cây có người sao?". A Thị sợ đến nỗi mặt không còn chút huyết sắc, run lẩy bẩy. Lục Tiệm bất giác ôm chặt lấy nàng, chỉ sợ nàng không cẩn thận, rơi xuống dưới cây.
Lại nghe Tiền Điền Lợi Gia cười nói: "Chủ công quá lo âu rồi, ước chừng tiếng hô quá lớn, làm kinh động chim chóc trên cây".
Kim Xuyên Nghĩa Nguyên hừ lạnh nói: "Kệ y là người hay chim có súng Điểu chăm nom". Lạch cạch một tiếng, đám kỳ bổn rút ra súng Điểu, đốt hoả thằng. Lục Tiệm, A Thị trong lòng tuyệt vọng, cả hai nhắm chặt mắt, chợt nghe bên tai truyền đến âm thanh nhẹ như tiếng muỗi của Ngư hoà thượng: "Nghiêng lệch về bên trái, đến sau lưng của ta". A Thị đã sợ đến không thể động đậy. Lục Tiệm ngược lại cố hết sức tàn, kéo nàng lệch về bên trái.
Tiếng súng vang lên, tiếng gió thổi lướt qua bên tai Lục Tiệm mạnh mẽ, tiếng đạn chì trúng cây "xuỳ xuỳ" liên miên bất tuyệt, chỉ cảm thấy lòng bàn tay của A Thị mồ hôi đầm đìa, lại không còn chút hơi ấm, giống như một tảng băng vậy.
Qua một lúc, chợt nghe Kim Xuyên Nghĩa Nguyên than nói: "Thật là không có người sao? Xem ra niên kỷ của ta càng lớn, đảm tử càng nhỏ. Các vị xuất phát, nhất chiến tất thắng, thề diệt Vĩ Trương".
Chúng quân tề thanh ứng tiếng đáp: "Nhất chiến tất thắng, thề diệt Vĩ Trương". Xôn xao lên ngựa, giống như một trận toàn phong, kêu hò mà đi xa.
Đại quân Kim Xuyên lục tục đi qua, đủ nửa canh giờ, bốn bên đồng hoang mới yên tĩnh lại. Ngư hoà thượng xốc hai người nhảy xuống, áo bào rung một cái, vẫy rơi nhiều viên đạn chì. Thì ra Ngư hoà thượng dùng Đại Kim Cang Thần Lực chặn súng Điểu lại, giải quyết nguy khốn lúc đó.
"Đại sư!". Nước mắt của A Thị tuôn ra, đột nhiên cong gối chập tay nói: "Tiểu nữ cần tìm được đại ca, quốc vận Vĩ Trương sắp hết, A Thị không thể sống một mình".
Lông mi trắng của Ngư hoà thượng nhăn lại, quay về Lục Tiệm nói: "Hài tử, ý ngươi thế nào?".
Lục Tiệm nói: "Hắc Thiên Kiếp của tại hạ phát tác, không quay về cũng là chết. A Thị đã muốn quay về, bất luận sinh tử, tôi đều đi cùng nàng".
Trong lòng A Thị nóng bừng, nước mắt trào ra, dần dần khóc không thành tiếng. Lục Tiệm thấy vậy, móc khăn tay đưa cho nàng. A Thị lại không nhận lấy, ôm chặt lấy y bi thương khóc lớn. Lục Tiệm chỉ biết Vĩ Trương sắp diệt vong, khiến nàng sợ hãi, y vội nói: "Đừng sợ, có ta đây".
Ngư hoà thượng than nói: "Đã là như vậy, hoà thượng sẽ đưa các ngươi về Thanh Châu. Chỉ là các ngươi cần đáp ứng hoà thượng một việc".
A Thị nói: "Đại sư cứ nói".
Ngư hoà thượng nói: "Các ngươi cần phải phát thệ. Quay trở về nhà rồi, người khác hỏi quá trình thoát nạn, các ngươi không được nói ra hoà thượng, làm như là chưa từng gặp qua hoà thượng".
"Vậy thì sao được". Lục Tiệm vội nói, "Thiên Thần Tông là do đại sư giết, người khác hỏi đến, bọn tôi phải nói như thế nào?".
Ngư hoà thượng lắc đầu nói: "Ai nói Thiên Thần Tông là do hoà thượng này giết. Hắn rõ ràng là chết trong tay ngươi và Bắc Lạp Sư Môn. Nếu dựa vào tính tình của hoà thượng, không những giết không được, nói không chừng, còn chết trong tay hắn".
Nghĩ đến lúc đó nếu không phải Bắc Lạp Sư Môn hại mất một mắt của Thiên Thần Tông, bản thân ông có lẽ đã thật sự thu tay lại, rơi vào cảnh nhất bại đồ địa rồi, bất giác than dài một hơi, lại nói: "Hai người các ngươi nếu không đáp ứng, Ngư hoà thượng sẽ không đi".
Lục Tiệm, A Thị đối mắt nhìn nhau, trong lòng biết đại quân Kim Xuyên trùng điệp, nếu không có Ngư hoà thượng hộ trì, tuyệt đối khó quay về Thanh Châu. Hai người chỉ biết nói: "Nguyện nghe lời của đại sư".
Thương nghị đã xong, ba người đi về hướng Thanh Châu thành. Lục Tiệm thân thể hư nhược, lúc này lại phải do A Thị nâng dìu. Ngư hoà thượng đi đằng trước, không ngừng ho. Trên đường gặp phải vài nhân mã của Kim Xuyên, đều bị Ngư hoà thượng chế phục, nhưng vì nhân mã nhiều lên, ba người chỉ còn biết đi đường vòng, tránh gặp quân Kim Xuyên.
Đi được một ngày, sắc trời dần tối, ba người nghỉ chân ở một con suối nhỏ. Ngư hoà thượng thuỷ chung ho không ngớt, Lục Tiệm toàn thân nóng bừng, nằm ngửa trên đất hồ ngôn loạn ngữ, nói đều là Hoa ngữ. A Thị không cách gì nghe hiểu, chỉ nghe trong lời nói của y lâu lâu xuất hiện hai tiếng "A Tình", trong lòng nhất thời thấy kỳ lạ, nhưng tại sao như vậy thì không hiểu rõ cho lắm.
A Thị vốn được nuông chiều từ bé, nhưng đến lúc này cũng tìm mọi cách hết sức cứu chữa Lục Tiệm. Nàng lấy khăn tay ra, thấm ướt nước, lau chùi thân thể cho Lục Tiệm, chợt thấy Ngư hoà thượng ngồi bên bờ suối, khi ho từng cục đỏ ối thuận theo dòng nước chảy xuống, bất giác kinh hãi nói: "Đại sư, người thụ thương rồi sao?".
Ngư hoà thượng mỉm cười nói: "Không cần hải lo lắng, chỉ là vết thương cũ mà thôi". Nói xong, ông khoanh chân dã toạ, điều dưỡng hơi thở.
A Thị giúp Lục Tiệm uống một chút nước sạch, ôm gối ngồi bên cạnh y, trong lòng nghĩ trong đời chưa từng trải qua nhiều việc như vậy, đi qua nhiều đường như vậy. Lại cúi xuống nhìn Lục Tiệm, trong lòng cô càng vui thích vô cùng, không kềm được nghĩ thầm: "Trong cuộc đời của ta, cũng chưa từng gặp người con trai nào đáng để phó thác như vậy". Nàng vuốt ve trán của Lục Tiệm, chăm chú nhìn lông mày đen thẳm của y, sống mũi cao cao, hai gò má gầy guộc, hãy còn đôi môi nhợt nhạt, gần như vĩnh viễn nhìn không đủ, thật muốn cả đời này kiếp này đều cứ nhìn như thế.
Cứ nhìn như vậy, nàng trở nên mệt mỏi và buồn ngủ, phủ phục trên người Lục Tiệm, mơ mơ hồ hồ thiếp đi.
Đột nhiên tiếng nước chảy làm nàng kinh tỉnh, đưa mắt nhìn, chỉ thấy đồng ruộng mênh mông bốn phía lờ mờ tối, bất giác trong lòng sợ hãi, thất thanh nói: "Đại sư, đại sư". Nhưng không nghe thấy có người trả lời. A Thị hoảng loạn, xoa xoa dưới người thì cảm thấy Lục Tiệm đang yên lành hô hấp bình ổn, cơn sốt cũng gần như giảm đi nhiều, bất giác hơi định tâm một chút. Đột nhiên, phía trước có ánh lửa lấp loáng, kèm theo có tiếng người.
A Thị quay người, mò được một cành cây, nghĩ thầm: "Lục Tiệm liều chết cứu ta, bây giờ y bị bệnh, đến lượt ta liều mạng cứu y rồi". Nghĩ xong vươn người đứng dậy, đưa cành cây hoành ngang trước ngực, mặc tưởng lại kiếm thuật trước đây huynh trưởng dạy qua, ước đoán chiêu đầu tiên xuất thủ thế nào.
Mắt thấy ánh lửa tiếng người càng lúc càng gần, tim của A Thị càng đập càng nhanh. Chợt thấy vài tên mặc giáp đội mũ sắt từ trong bụi cây chui ra, ngay tức thì cô quát một tiếng, nhảy phóc lên trước, nhưng việc đến trước mắt, tất cả kiếm thuật đều quên hết, chỉ biết giơ cao cành cây, liều chết vụt xuống. Mấy người đó đột nhiên gặp phải tập kích, liền ôm đầu kêu lớn. A Thị quất được vài cái, liền cảm thấy kiệt lực, sơ xuất bị một người tóm chặt cành cây, lớn tiếng kêu: "Công chúa, công chúa, là ta a, ta là Thắng Gia".
A Thị bối rối, dưới ánh lửa, nhìn ra người mới đến, không kềm được kinh ngạc vui mừng nói: "Sài Điền đại nhân, ngươi tại sao lại đến đây?".
Sài Điền Thắng Gia bưng trán cười khổ nói: "Khi Thắng Gia đang tuần đêm, có giọng nói chợt vang bên tai, nói công chúa đang ở đây. Thắng Gia nhìn khắp nơi, nhưng không thấy người nào, cũng không biết là yêu hay là thần, nhưng lại sợ vạn nhất công chúa ở đây, há không phải là bỏ qua sao? Không ngờ công chúa quả nhiên ở đây, xem ra thật là thần linh hiển thánh rồi".
A Thị thở phào, nghĩ thầm: "Người truyền lời nhất định là Ngư hoà thượng rồi". Lại hỏi: "Đại ca đâu?".
Sài Điền Thắng Gia nói: "Quốc chủ ở Thiện Chiếu Tự đằng trước không xa". A Thị
chỉ Lục Tiệm nói: "Các ngươi dìu y lên, đưa ta đi gặp đại ca".
Sài Điền Thắng Gia định nhãn nhìn, thất thanh nói: "Đây không phải là tiểu tử cấu kết với Thiên Thần Tông sao?".
A Thị tức giận nói: "Cái gì gọi là câu kết với Thiên Thần Tông?".
Sài Điền Thắng Gia liền đem sự tình lúc trước kể lại. A Thị tức đến nỗi sắc mặt biến trắng, nói: "Nếu không phải là y giết Thiên Thần Tông, ta cũng không thể ở đây được".
"Y giết được Cửu Thước Đao Ma Vương?" Sài Điền Thắng Gia trợn mắt líu lưỡi. A Thị vội thúc y đi về Thiện Chiếu Tự. Sài Điền Thắng Gia không dám kháng lệnh, để một tên võ sĩ cõng Lục Tiệm lên, lại đem ngựa của mình cho A Thị cưỡi.
A Thị trên đường thấy chúng nhân buồn bã không vui, bất giác lấy làm lạ, nói: "Sài Điền, các ngươi tại sao lại không vui? Đánh trận không thuận lợi sao?".
"Đánh trận?". Sài Điền Thắng Gia than nói: "Trận này làm sao đánh? Kim Xuyên có ba vạn nhân mã, chúng ta có không quá hai vạn. Đánh hay không đánh, đều là thua. Lúc nãy nghe nói Hoàn Căn, Thứu Tân hai thành đều mất rồi. Thanh Châu thành hiện tại giống như nữ nhân cởi hết y phục ... khụ ... Công chúa thứ tội. Thắng Gia nhất thời sốt ruột, nói năng không văn nhã".
A Thị đỏ mặt tía tai, xì nhẹ một tiếng, trong lòng thì dần dần trầm xuống: "Vĩ Trương thật là sắp vong sao?". Lại hỏi: "Đại ca nói thế nào?".
Sài Điền Thắng Gia than nói: "Tính khí của quốc chủ, công chúa không phải là không biết. Trời không sợ, đất không sợ, ở thời điểm then chốt này, quốc chủ vẫn cùng Ninh Bất Không tiên sinh chơi cờ vây";
A Thị lấy làm lạ, nói: "Bất Không tiên sinh là một người mù, làm sao có thể chơi cờ?".
Sài Điền Thắng Gia thấp giọng nói: "Công chúa, Thắng gia luôn cảm thấy Bất Không tiên sinh là giả mù. Không những tiên sinh có thể chơi cờ, lúc Thắng gia ly khai, quốc chủ đã thua hai ván rồi".
Trong lúc đàm luận, đã đến Thiện Chiếu Tự, sớm có người vào trong thông báo. Chức Điền Tín Trưởng nhanh chóng bước ra đó, huynh muội hai người kiếp hậu trùng phùng, vui mừng vô cùng. A Thị càng là lớn tiếng vui mừng mà khóc.
Chúng nhân vào tự ngồi xuống, Tín Trưởng hỏi rõ quá trình thoát nạn, kinh ngạc không ngớt, lại nghe nói Lục Tiệm liều chết khổ chiến, trước chém Lộc, Xà, sau lại giết Thiên Thần Tông, trong lòng vừa ngạc nhiên vừa cảm động.
Chợt thấy Ninh Bất Không chống trượng bước ra, Chức Điền Tín Trưởng than nói: "Bất Không tiên sinh, ta thật là gặp việc hồ đồ, tí nữa là trách lầm ngoại sinh của ngài rồi".
Ninh Bất Không chấn động, tắc nghẹn nói: "Tiểu tử đó cũng quay về, đang ở đâu?".
Tín Trưởng đem lời của thi thuật lại sơ lược, rồi nói: "Lục Tiệm thụ thương, phạm phải trọng bệnh, ta để y quan khám bệnh cho y rồi".
Ninh Bất Không nói: "Vậy thì không cần, tại hạ cũng thông hiểu chút y thuật, đợi tại hạ trông qua rồi hãy nói". Ngay lập tức đi đến trước người Lục Tiệm, bắt mệnh môn của y, đột nhiên lông mày nhăn lại, đỡ y dậy, độ nhập chân khí. Chân khí của Ninh Bất Không một khi vào cơ thể, tinh lực của Lục Tiệm dần dần hồi phục, tỉnh lại, tiếp kiến mọi người.
Chức Điền Tín Trưởng cười nói: "Lục Tiệm a, ngươi cứu A Thị, công lao không nhỏ. Ta luận công thăng ngươi làm Phụng Hành, theo hầu bên ta, ngươi thấy thế nào?".
Lục Tiệm bất giác ngây người. A Thị lúc này đã thay y sam, trong hậu đường nghe hai người đối đáp, chạy vội ra vui mừng nói: "Lục Tiệm, còn không mau bái tạ đại ca".
Lục Tiệm lắc đầu nói: "Tôi không làm Phụng Hành".
Chức Điền Tín Trưởng không vui, hỏi: "Ngươi chê chức quan quá nhỏ sao?".
Lục Tiệm nói: "Gia gia từ bé đã nói với tôi, bất luận thế nào, cũng không được làm hải tặc Oa khấu. Nhà Chức Điền tuy không phải là Oa khấu, nhưng cũng là Oa nhân. Ta vốn là người Minh, tuyệt đối không làm quan của Oa nhân".
Nói đến hai câu cuối, giọng nói của Lục Tiệm đột ngột dương cao. Chúng gia thần liên tiếp cúi đầu, trông trộm Tín Trưởng. Chỉ thấy Tín Trưởng hai tay nắm quạt, sắc diện âm trầm vô cùng. A Thị hoa dung thất sắc, vội nói: "Ca ca, người đừng trách y. Y ngờ nghệch, cái gì cũng không hiểu, để muội chầm chậm chỉ bảo y, thì y sẽ đáp ứng".
Chức Điền Tín Trưởng nghe thấy vậy, thần sắc hơi dịu lại, cười nói: "Cũng được, Lục Tiệm, khó được A Thị coi trọng ngươi như vậy, toàn nói lời tốt cho ngươi. Ta gã A Thị cho ngươi được không? Như vậy ngươi có thể làm gia thần của nhà Chức Điền ta được rồi".
Chúng gia thần đều biến sắc, A Thị tuyệt sắc hãn hữu, chúng nhân không ai không thèm nhỏ dãi, chỉ hận vô duyên đắc thủ, không ngờ lại bị Lục Tiệm giành lấy. Trong chốc lát, hơn mười cặp mắt oán độc nhìn lên người Lục Tiệm, hận không thể chọc thành mấy cái lỗ, lại còn nghĩ: "Một miếng thịt chim sẻ thơm ngon, lại rơi vào miệng chó".
A Thị vừa hổ thẹn vừa vui mừng, xì nói: "Đại ca người chỉ biết lấy người ta ra để tìm vui. Từ giờ về sau, muội mặc kệ huynh".
Chức Điền Tín Trưởng cười nói: "Được a, ngươi đã không đáp ứng, ta liền thu lại mệnh lệnh đã ban ...". A Thị thẹn thùng sốt ruột vạn phần, đột nhiên đứng dậy, dậm chân nói: "Đại ca hư chết đi được, thật tồi tệ, muội, muội ....". Nhất thời sốt ruột, nước mắt đã chảy xuống.
Chức Điền Tín Trưởng than thầm, y vốn muốn đem A Thị gả cho thiếu chủ nước khác, để liên kết chư hầu. Nhưng lúc này thấy nàng đối với Lục Tiệm tình thâm như vậy, nếu là tuyển chọn lang quân khác, chỉ sợ có việc ầm ĩ. Y vốn là người phóng đãng ngỗ ngược. Theo tục pháp, gia thế của A Thị và Lục Tiệm hơn kém như trời với đất, không thể kết hôn, nhưng trong mắt y, toàn bộ thường pháp thế tục đều không đáng giá một đồng. Hơn nữa, người này có thể giết Thiên Thần Tông, nếu được người này, còn hơn được nghìn quân. Y trước nay có tài thì dùng, ngay lập tức khẳng khái hứa hôn, mắt thấy A Thị sốt ruột, bất giác cười nói: "Được rồi, ta chỉ chọc ngươi chơi thôi".
A Thị lúc này mới ngừng khóc, trong lòng biết việc lớn đã thành, không kềm được vui mừng, vội vàng quay người đi vào trong, nhưng lại nhịn không được, nấp sau bình phong nghe trộm.
Lại nghe Chức Điền Tín Trưởng cười nói: "Thế nào, A Thị phối với ngươi thì có hơn. Lục Tiệm ngươi cũng không có lời gì để nói đúng không?".
Vẫn nghe Lục Tiệm thuỷ chung trầm mặc, A Thị trong lòng sốt ruột, thầm mắng: "Đồ ngốc, vui quá ngốc rồi sao?".
Chợt nghe Lục Tiệm thở ra một hơi, tấm lòng của A Thị giãn ra, tim đập thình thịch, nhưng chỉ nghe Lục Tiệm đờ giọng nói: "Chức Điền quốc chủ, ta không thể lấy A Thị ...".
A Thị ngàn tính vạn tính, cũng không tính đến sẽ là câu này, chỉ cảm thấy hai mắt hoa lên, giống như lộn nhào, may mà thị nữ kịp thời đỡ lấy, văng vẳng nghe Lục Tiệm ấp úng nói: "Ta rất thích một người con gái, ngoại trừ nàng ta, ai ta cũng không lấy ...". Trái tim A Thị giống như bị vạn mũi tên xuyên qua, trong miệng có vị mặn của máu, đột nhiên hai mắt tối sầm, mất đi tri giác.
Trong Phật đường tĩnh mịch như chết, trên mặt Chức Điền Tín Trưởng như có sương mù bao trùm, trong mắt phát ra hung quang khiếp người.
"Tình chi nhất vật, đa ngộ thế gian". Ninh Bất Không đột nhiên mở miệng: "Người Minh có thơ nói: đa tình tự cổ không dư hận. Người có tình chưa chắc có thể thành quyến thuộc, hơn nữa đứa cháu này của Ninh mỗ đã có người khác, cùng với A Thị công chúa khó cùng giấc mộng uyên ương, không lấy gì là kỳ lạ. Quốc chủ vốn là người thông đạt, tự nhiên là hiểu cái đạo lý này".
Chức Điền Tín Trưởng quát nói: "Cái này thì dễ dàng, tìm nữ tử kia rồi giết đi, xem y có lấy hay không lấy A Thị?".
Ninh Bất Không bật cười nói: "Cái này sợ rằng có chút khó khăn, nữ tử kia xa ở Đại Minh, quốc chủ giết nàng ta như thế nào?".
Chức Điền Tín Trưởng tức giận muốn điên lên: "Vậy thì giết xuẩn tiểu tử này".
Ninh Bất Không nói: "Giết y thì dễ dàng, nhưng chỉ sợ A Thị công chúa càng thêm thương tâm".
Chức Điền Tín Trưởng nghe thấy có lý, tuy rằng giữa lúc cuồng nộ, cũng nỗ lực trấn định lại. "Cạch" một tiếng, chiết phiến trong tay y bị bẻ gãy thành hai đoạn. Y nghiêm giọng nói: "Lục Tiệm, thủ cấp của ngươi, ta tạm thời lưu lại, đừng để ta trông thấy ngươi, càng không được xuất hiện trước mặt A Thị".
Lục Tiệm cự tuyệt hôn sự, trong lòng áy náy, chực chuyển thân ly khai, chợt lại nhớ đến một chuyện, nói: "Chức Điền quốc chủ, khi Lục Tiệm và A Thị quay về, nhìn thấy Kim Xuyên Nghĩa Nguyên". Bèn đem lời của Kim Xuyên Nghĩa Nguyên nói lại, giống như nói ra những lời này, áy náy trong lòng có thể giảm ít đi vài phần.
Chức Điền Tín Trưởng nghe xong, trầm ngâm nói: "Dũng Hiệp Gian?".
Ninh Bất Không cười nói: "Thời cơ thắng bại đã xuất hiện, quốc chủ nếu không xuất binh, còn đợi đến lúc nào?".
Lúc này, một tên gia thần chợt nhiên đứng dậy. Lục Tiệm nhận ra đó là Tá Cửu Gian Tín Thịnh, chỉ nghe y nghiêm giọng nói: "Bất Không tiên sinh, ngài có rắp tâm gì? Xuất hay không xuất binh, đó cũng là việc của quốc chủ, đến lượt ngài nói xen vào sao? Như hôm nay Hoàn Căn, Thứu Tân đều đã bị đánh chiếm, ba vạn đại quân Kim Xuyên đang hướng về Thanh Châu tiến đến. Lúc này xuất binh, chẳng lẽ ngài cho rằng nước Vĩ Trương diệt vong chưa đủ nhanh sao?".
Ninh Bất Không nói: "Tá Cửu Gian, lời này của ngươi thật không có chí khí".
Tá Cửu Gian cười lạnh nói: "Người Minh các ngươi năm xưa bị người Mông Cổ đánh bại, thì có chí khí cái gì? Người Mông Cổ hai lần chinh thảo Nhật Bản, thì đều bị chúng ta đánh bại, nói đến chí khí, Nhật Bản chúng ta so với Đại Minh ngươi còn mạnh hơn nhiều. Giống như năm xưa, Hoàng Thái Tổ Chu Nguyên Chương kia, viết thư cho Thân Vương Hoài Lương ta, muốn nước ta xưng thần. Kết quả Thân Vương Hoài Lương hồi thư khiêu chiến, không chấp nhận yêu cầu của Chu Nguyên Chương. Chu Nguyên Chương dẫu rằng tức giận, nhưng cũng không làm được gì".
Chúng Oa nhân nghe nói việc vui của bổn triều, tất cả đều gật đầu liên tục.
Ninh Bất Không vẫn không cáu giận, mỉm cười nói: "Nói đến bức hồi thư đó của Hoài Lương gửi cho Thái Tổ triều ta, Tá Cửu Gian đại nhân còn nhớ không? Nếu không ngại, ngài đọc ra cho nghe".
Tá Cửu Gian Tín Thịnh ngẩn ra, cáu giận nói: "Thư đó không phải là do ta viết, làm sao mà nhớ rõ ràng được? Chẳng lẽ ngươi lại nhớ".
"Rất không may". Ninh Bất Không cười nói: "Ninh mỗ vừa hay ghi nhớ, cần ta đọc cho ngài nghe không?".
Tá Cửu Gian Tín Thịnh khuôn mặt ửng đỏ, nói: "Được a, ngươi đọc đi, đọc không ra là rắm chó". Nói xong nhổ phì một cái.
Ninh Bất Không cười cười, chầm chậm đứng dậy, khoan thai nói: "Thần nghe Tam Hoàng lập cực, Ngũ Đế thiện tông, chỉ có Trung Hoa có chủ, há di địch không có quân. Càn khôn mênh mông, không phải độc quyền của một chủ, vũ trụ hồng hoang, tác chư bang dĩ phận thủ. Người lấn áp thiên hạ, thiên hạ chính là của thiên hạ, không phải là thiên hạ của một người. Thần ở nơi thấp bé xa yếu, là nước nhỏ hẹp, thành trì không đến sáu mươi, phong cương không đến ba ngàn, còn biết thoả mãn. Bệ hạ làm chủ Trung Hoa, vạn thửa chi quên, thành trì hơn ngàn, phong cương trăm vạn dặm, vẫn còn chưa biết thoả mãn, thường khởi ý diệt tuyệt. Trời nổi sát cơ, di tinh hoán túc, Đất nổi sát cơ, rồng rắn rời khỏi. Người nổi sát cơ, trời đất nghiêng đổ. Xưa Nghiêu, Thuấn có đức, tứ hải lai tân. Thang, Vũ thí nhân, bát phương phụng cống".
"Thần nghe Thiên Triều có sách lược hưng chiến, tiểu bang cũng có mưu đồ ngự địch. Luận văn có văn chương đạo đức của Khổng, Mạnh. Luận võ có binh pháp thao lược của Tôn, Ngô. Lại nghe bệ hạ tuyển cánh tay đắc lực làm tướng, dùng tinh nhuệ làm sư, đến xâm phạm biên cảnh của thần. Thành trì chi địa, sơn hải chi châu, tự có phòng bị, há chịu quỳ gối dâng lên? Thuận theo chưa chắc đã sống, nghịch theo chưa chắc đã chết. Tương phòng trước núi Hạ Lan, tán gẫu ở Bác Hi, thần sao phải sợ hãi chứ. Ví như Quân thắng thần bại, thoả mãn ý của thượng quốc. Ví thần thắng Quân bại, ngược lại làm chuyện cười cho tiểu bang. Tự cổ giảng hoà vi thượng, bãi chiến vi cường, tránh cho sinh linh đồ thán, lê dân bá tánh đau khổ. Đặc phái sứ thần, kính khẩu đan bệ, duy thượng quốc đồ chi".
Ninh Bất Không diễn cảm đọc xong, trong Phật đường tiếng kim rơi cũng có thể nghe thấy. Tá Cửu Gian Tín Thịnh dĩ nhiên vừa hổ thẹn, phẫn nộ giao nhau, những người ngồi trong Phật đường, ai cũng ngượng toát mồ hôi. Bức hồi thư của Hoài Lương tự lấy làm đắc ý, Oa nhân trong Phật đường không ai nhớ được, ngược lại bị người Minh một chữ cũng không sót đọc ra, có thể gọi là kỳ sĩ đại nhục.
Chỉ nghe Ninh Bất Không tiếp tục nói: "Thái Tổ hoàng đế của ta, dùng một tấm áo vải, khởi binh ở đất Lũng, lại đẩy lùi hàng chục vạn thiết kỵ của Mông Cổ, trục xuất khỏi Trung Nguyên, phục hưng Hoa Hạ, nhật nguyệt vĩnh chiếu, uy đức vượt khỏi Hán Minh. Lương Hoài lúc đó chỉ là một Thân Vương, đã không phải là tướng quân, cũng không phải là Thiên Hoàng, lại dám hạ chiến thư khiêu chiến Thái Tổ, bất luận thành bại, gan dạ và thông minh quả thật hơn người. Trong đó có hai câu nói rất hay: "Ví như Quân thắng thần bại, thoả mãn ý của thượng quốc. Ví thần thắng Quân bại, ngược lại làm chuyện cười cho tiểu bang". Chuyện đến hôm nay mà nói, Kim Xuyên Nghĩa Nguyên hiệu xưng Đông Hải Đệ Nhất Danh Tướng, dựa vào binh lực hơn gấp mười lần đến công đả. Nếu như diệt được Vĩ Trương, chẳng qua cũng là cái lẽ tất nhiên; nhưng nếu như không cẩn thận, ngược lại bị nước Vĩ Trương tiêu diệt, lại là để lại chuyện chê cười nghìn năm. Năm xưa Thái Tổ ta không phải là không dám công đả Nhật Bản, sợ là sợ nếu như không cẩn thận, giống như người Mông Cổ gặp phải thần phong, thuyền chìm người chết không đủ lấy làm tiếc, nếu như biến thành chuyện cười và đề tài câu chuyện của nước các ngươi, chính là nỗi nhục khó rửa của Đại Minh triều ta".
Ninh Bất Không quét mắt nhìn chư tướng, dương cao giọng nói: "Mọi người đều cho rằng quốc vận của Vĩ Trương sắp hết sao? Nếu đã là như vậy, Ninh mỗ ngược lại nguyện liều mạng, đâm thẳng vào tim gan của Kim Xuyên, có lẽ nhất chiến tất thắng, để Kim Xuyên Nghĩa Nguyên lưu lại nỗi nhục không có cách gì gột rửa được. Đây chính là gọi là: "Thuận theo chưa chắc đã sống, nghịch lại chưa chắc đã chết".
"Nói rất hay". Chức Điền Tín Trưởng đột nhiên vỗ tay cười lớn, đứng thẳng người lên, múa quạt dẫm chân, nhảy lên điệu Đôn Thịnh Nhất PHiên, miệng hát nói:
"Nhân gian ngũ thập niên, dữ thiên địa tương bỉ, bất qua miểu tiếu nhất vật
Khán thể sự, mộng huyễn tự thuỷ.
Nhâm nhân sanh nhất độ, nhập diệt tuỳ tức đương tiền.
Thử tức bồ đồ chi chủng, ảo não chi tình, mãn hoài vu tâm hung.
Nhữ thử khắc tức thượng Kinh Đô, nhược kiến Đôn Thịnh lang chi thủ cấp ...."
(Nhân gian năm mươi năm, so với trời đất chẳng qua chỉ là một vật bé nhỏ mà thôi. Nhìn sự đời, mộng ảo như nước. Mặc đời người trôi qua, nhập diệt ở ngay trước mắt. Lúc này giác ngộ, buồn bực, chứa đầy trong lồng ngực. Bọn các ngươi lúc này cho dù lên Kinh đô, nếu thấy thủ cấp của Đôn Thịnh Lang ...)
Nhảy xong điệu múa này, Chức Điền Tín Trưởng mặc giáp nhảy lên ngựa, một mình phóng ngựa đi, đám thị đồng, gia thần đều cả kinh, cưỡi ngựa chạy theo, bám theo sát là hai trăm sĩ tốt.
Chức Điền Tín Trưởng ngựa không dừng vó, ven đường tụ tập hai nghìn binh mã, đến trưa ngày hôm sau, đột nhiên xuất hiện ở cốc địa dài hẹp Dũng Hiệp Gian. Đại quân Kim Xuyên đắc ý kiêu ngạo luôn đắc thắng, chính đang nghỉ trưa, không kịp mặc giáp lên ngựa, không kịp nhấc thương phát súng, bị quân của Chức Điền đánh phá đến tán loạn, thây phơi đồng hoang. Như vậy, toàn quân đại doanh của Kim Xuyên bị đánh tan tành ở Dũng Hiệp Gian. Kim Xuyên Nghĩa Nguyên bốn mươi hai tuổi, bị Chức Điền Tín Trưởng cắt lấy thủ cấp. Còn Chức Điền Tín Trưởng hai mươi bảy tuổi, dùng ít thắng nhiều, nhất chiến thành danh, bắt đầu cuộc chiến tranh dài đằng đẵng thống nhất Nhật Bản.
oOo
Trong Phật đường, thị vệ gia thần của nhà Chức Điền đều đã đi hết, Ninh Bất Không thì không hề nhúc nhích. Lục Tiệm nhịn không được hỏi: "Tiên sinh không đi sao?".
Ninh Bất Không thờ ơ nói: "Thắng bại đã phân, ta hà tất phải đi góp vui chứ?".
Lục Tiệm lấy làm lạ nói: "Thắng bại đã phân? Ai thắng ai bại?".
Ninh Bất Không nói: "Từ lúc ngươi nói ra đại bản doanh của Kim Xuyên ở đâu, ngày cuối cùng của nhà Kim Xuyên đã đến rồi. Ngươi tuy không nguyện làm gia thần của Chức Điền, nhưng công lao hôm nay của ngươi với nhà Chức Điền thì còn hơn nhiều chúng nhân".
Lục Tiệm nghe vậy ngây người, chợt nghe Ninh Bất Không nói: "Ngươi theo ta đến đây". Nói xong, chống gậy chầm chậm bước đk. Lục Tiệm không biết tâm ý của y, trong lòng thấp thỏm lo lắng, mặc nhiên đi theo.
Đi đến khu rừng rậm phía sau tự, Ninh Bất Không dừng chân quay lại, vươn bàn tay khô gầy ra, vuốt ve đầu của Lục Tiệm cười nói: "Hài tử ngoan, ngươi trước nay rất nghe lời ta, tất nhiên sẽ không lừa ta phải không?".
Lục Tiệm đáp: "Ta làm sao có thể lừa tiên sinh chứ?".
Ninh Bất Không than dài, nói: "Lục Tiệm a, ngươi càng lúc càng không thật thà rồi. Thiên Thần Tông hiệu xưng là Nhật Bản đệ nhất kiếm khách, dựa vào bản lĩnh của ngươi, làm sao giết được y? Cho dù ngươi có mượn kiếp lực, nhưng có mượn có trả, muốn giết Thiên Thần Tông, phải mượn bao nhiêu kiếp lực? Đừng nói ngươi tu vi chưa thâm hậu, kiếp lực không đủ, cho dù kiếp lực có đủ, trong lúc vội vã hoàn trả không được, ngươi cũng sớm đã chết rồi, làm sao còn có thể quay về Thiện Chiếu Tự cơ chứ?".
Lục Tiệm tuy rằng biết Ninh Bất Không tinh minh vô cùng, nhưng không ngờ lòng nghi ngờ của Ninh Bất Không lại nhạy như vậy. Chỉ cảm thấy bàn tay đó di chuyển đến giữa cổ, hơi bóp chặt lại, bất giác hoảng hốt nói: "Tiên sinh, ta đã đáp ứng qua người, không thể nói ra người đó".
"Cả ta cũng không thể nói được?". Ninh Bất Không thâm nghiêm nói: "Khắp thiên hạ này, ngoại trừ kiếp chủ, người có thể phong bế Tam Viên Đế Mạch chẳng có là bao. Ngươi không nói, ta cũng đoán ra được. Chỉ là, Lục Tiệm a, nếu ngươi không nói thật với ta, thì là đối với ta bất trung, nếu ngươi đối với ta bất trung, ta làm sao lại có thể yên tâm lưu lại ngươi trên thế gian này chứ?".
Lục Tiệm lâm vào thế khó, nhưng lời chân thành khuyên bảo của Ngư hoà thượng còn như bên tai, nếu bản thân nói ra đại sư, há không phải trở thành loại vô tín vô nghĩa. Lục Tiệm nghĩ đến đây, cao giọng nói: "Ninh Bất Không, không phải ta không thành thực. Ta đã phát thệ, chết cũng không thể nói ra người đó".
Ninh Bất Không cười nói: "Nếu muốn chết, còn không dễ dàng". Trên tay đột nhiên tăng kình, cổ Lục Tiệm muốn gãy, thở không ra được, trong tai vang lên ù ù, vươn tay muốn tóm lấy cánh tay của Ninh Bất Không, nhưng lại không đề được khí lực, chỉ cảm thấy kim tinh trước mắt dần dần hoá thành một vùng sáng chói, khí lực toàn thân tiết ra. Mắt thấy sắp đoạn khí, chợt nghe Phật hiệu vọng vào tai, đồng không mông quạnh đều vang. Lục Tiệm chợt cảm thấy trên cổ họng lỏng ra, Ninh Bất Không buông tay ra, Lục Tiệm cuối cùng có thể hít thở, kềm không được, ôm cổ ngồi xuống, thở hổn hển.
"Tây Thành Chi Chủ, Đông Đảo Chi Vương, Kim Cang Nộ Mục, Hắc Thiên Bất Tường". Ninh Bất Không cười ha hả: "Thiên hạ hiện giờ, người có thể phong bế Tam Viên Đế Mạch, ngoại trừ kẻ hèn là kiếp chủ này, thì chỉ có ba người. Túc hạ miệng tụng Phật hiệu, chính là Kim Cang Nộ Mục Ngư hoà thượng rồi".
Lục Tiệm ngước mắt nhìn đi, chỉ thấy Ngư hoà thượng khuôn mặt khô gầy, lông mày bạc trắng, lặng lẽ đứng phía xa, chắp tay than nói: "Túc hạ động một chút giết người, phải nói là quá tàn nhẫn".
Ninh Bất Không cười nói: "Nếu không sử dụng khổ nhục kế này, làm sao có thể làm cho đại sư hiện thân chứ? Đại sư ẩn thân trong bóng tối, còn không phải là muốn thừa cơ mưu toan hại Ninh mỗ?".
Ngư hoà thượng nói: "Túc hạ mưu toán ám hại người khác trước, Ngư hoà thượng tại sao không thể mưu toan ám hại túc hạ. Chỉ cần túc hạ trừ tận gốc Hắc Thiên Kiếp trên người hài tử này, hoà thượng liền không làm khó túc hạ".
Lục Tiệm hoảng nhiên đại ngộ, thì ra Ngư hoà thượng bảo mình và A Thị không được nói ra đại sư, chính là muốn giấu mình trong bóng tối, nhất cử chế phục Ninh Bất Không, bức Ninh Bất Không giải trừ Hắc Thiên Kiếp, bất giác cảm động vô cùng.
Ninh Bất Không cười cười, nhưng không phải trả lời, nói: "Năm xưa trận chiến giữa đại sư với Vạn Thành chủ ở Thiên Trụ Sơn, đại sư lại có thể may mắn thoát nạn, đủ thấy Phật pháp tinh thâm".
Ngư hoà thượng lắc đầu nói: "Hổ thẹn thay, trên Thiên Trụ Sơn, bần tăng vẻn vẹn tiếp được ba chiêu của Vạn Thành chủ. Sau đó bị buộc phải lưu lạc di bang, có thể nói là người chán ngán".
Thần sắc của Ninh Bất Không u ám, than nói: "Đại sư hà tất tự khiêm. Ví phỏng Thành chủ còn trên nhân thế, thiên hạ hiện thời, ai lại có thể tiếp được ba chiêu của Thành chủ?".
Ngư hoà thượng cả kinh nói: "Vạn thành chủ đang thời tráng niên, tại sao không còn ở nhân thế? Thử hỏi thiên hạ, ai có thể thắng được Vạn thành chủ?".
Ninh Bất Không cười khổ nói: "Thành chủ tuy rằng thiên hạ vô địch, nhưng không địch lại được thiên ý".
Ngư hoà thượng động dung nói: "Dám hỏi cho kỹ".
Ninh Bất Không nói: "Mười lăm năm trước, thành chủ và đại sư tương hội ở Thiên Trụ Sơn, sau đó quay về Tây Thành, triệu tập lục bộ Địa, Hoả, Phong, Lôi, Sơn, Trạch, cùng thương nghị việc tảo diệt dư đồ Đông Đảo".
Ngư hoà thượng than: "Vạn thành chủ thống nhất bát bộ, liên tiếp đả bại Đông Đảo, sau lại đày bần tăng đi, đã là võ công cái thế, tội gì phải tạo thành sát nghiệp như vậy?".
Ninh Bất Không cười lạnh nói:"Thành chủ hùng tài đại lược, đệ tử không môn như đại sư há có thể lĩnh hội".
Ngư hoà thượng nói: "Hùng tài cũng vậy, đại lược cũng vậy, đều như giấc mộng hão huyền. Nhưng vì sao chỉ có lục bộ tụ hội, lại không có nhị bộ Thiên, Thuỷ".
Ninh Bất Không nói: "Thiên bộ Trầm sư huynh hành tẩu không tiện, do đó lưu lại ở đông nam, giám thị dư nghiệt Đông Đảo, còn Thuỷ bộ bởi vì tu luyện cấm thuật Thuỷ Hồn Chi trận, thành chủ trong lúc phẫn nộ, xuất thủ tiêu diệt. Cho nên lúc đó chỉ có lục bộ tụ hội. Đêm trước đại hội, Thành chủ lệnh người đứng đầu lục bộ vào Trịch Chẩm Minh, nói: 'Thiên bộ đưa tin tức đến, hạ tuần tháng sáu dư nghiệt Đông Đảo mật hội tại Linh Ngao đảo. Trước kia bọn chúng ỷ cậy biển lớn mênh mông, cùng ta chơi trò đuổi bắt. Lần này chúng đã tụ tập đầy đủ, nhất định phải một lưới bắt hết, không để một tên nào chạy thoát ....'. Lúc đó Ninh mỗ vừa khéo cũng ở đó, nghe đến chỗ này, chợt thấy Thành chủ chau mày, môi run lẩy bẩy, cơ mặt hơi co lại. Địa mẫu cũng nhìn thấy, nàng ta là dị nữ Tây Dương, lòng dạ ngay thẳng, bèn hỏi thân thể của Thành chủ có phải có bệnh. Lúc đó trong lòng mọi người còn cho rằng Thành chủ và đại sư nhất chiến, thụ phải ám thương, không ngờ rằng thành chủ thốt nhiên phẫn nộ, lần đầu tiên trách mắng Địa Mẫu: 'Phiên bà tử ngươi lôi thôi lắm điều, biết cái gì?'. Lại trục xuất Địa Mẫu ra khỏi Trịch Chẩm Minh, phạt chung thân không được nhập đường nghị sự. Nào biết sau khi Địa Mẫu đi khỏi, thành chủ run rẩy càng lợi hại, thậm chí nói không ra lời, chỉ còn biết để cho mọi người quay về".
Ngư hoà thượng miệng niệm Phật hiệu, lắc đầu liên tục. Lại nghe Ninh Bất Không tiếp tục nói: "Đến ngày hôm sau, mọi người chính thức tụ hội. Thành chủ lại giống như đã phục hồi sức khoẻ, thần thái rực rỡ, dặn dò xong việc tiêu diệt Đông Đảo, lại chợt nói: 'Ta gần đây tu luyện Chu Lưu Lục Hư Công, tương đối có sở đắc, hôm nay thuận tiện biểu diễn một lần, để cho chư vị đại khai nhãn giới'. Nói xong vận chuyển huyền công, quả nhiên là châu lưu lục hư, pháp dụng vạn vật, làm cho bọn tại hạ quáng mắt lên. Không ngờ trong lúc đó, đột nhiên chân khí của thành chủ đảo lộn kịch liệt, tiếp đó đất lở núi sạt, nước lửa chợt bốc lên. Thành chủ trước sau gặp phải lục kiếp là thổ yểm, hoả phần, thuỷ tẩm, phong liệt, thạch vũ, lôi cúc; trước mặt đệ tử, hoá thành tro bụi".
Ngư hoà thượng nghe đến đây, nhất thời yên lặng, hồi lâu mới than, nói: "Bát đại thiên kiếp, Vạn thành chủ thân lại gặp phải sáu, có thể nói là chết quá đau khổ. Nhưng Vạn thành chủ bất ngờ mất đi, Tây Thành bát bộ há không phải chìm vào hỗn loạn vô cùng?".
"Đại sư thần toán". Ninh Bất Không than nói: "Thành chủ vừa mất đi, Thiên bộ tây phản, dư nghiệt Thuỷ bộ cũng tro tàn lại cháy. Nhưng trong bát bộ, ai cũng không phục ai, rề rà không cách gì tuyển ra tân nhiệm thành chủ. Mỗi lần tụ hội, đều nổ ra ác chiến, chém giết đến thiên hôn địa ám, cao thủ bát bộ tử thương thê thảm vô cùng. Trận chiến cuối cùng ở Thiên Sơn Dao Trì, Hoả bộ của tại hạ vốn chiếm thượng phong, không ngờ lại trúng phải quỷ kế, toàn quân bị tiêu diệt, duy chỉ có Ninh mỗ may mắn đào thoát đi hết nơi này đến nơi khác, lưu lạc Oa quốc". Nói xong rầu rĩ vô cùng.
Ngư hoà thượng nghĩ ngợi một lúc, chợt nói: "Ninh thí chủ nói với hoà thượng nhiều nội tình như thế, không biết có dụng ý gì?".
"Đại sư quả nhiên trí tuệ uyên thâm". Ninh Bất Không cười nhẹ một cái: "Đại sư là cao thủ tề danh với thành chủ, năm xưa bị buộc phải ly khai Trung Nguyên, tất nhiên oán hận trong lòng. Hiện nay bát bộ đại loạn, chính là cơ hội, đại sư sao không cùng liên thủ với Ninh mỗ, phản hồi Trung thổ, hoành tảo Tây Thành, trút cơn giận năm xưa".
Ngư hoà thượng lắc đầu nói: "Hoà thượng vốn là người xuất gia, oán hận chỉ là mây khói qua mắt. Há có thể để trong lòng?".
Ninh Bất Không trầm mặc một lúc, chợt cười nói: "Nói như vậy, đại sư không nguyện liên thủ với Ninh mỗ rồi".
Ngư hoà thượng nói: "Năm xưa, hoà thượng khiêu chiến Vạn thành chủ, chẳng qua bởi vì thành chủ tự thị thần thông, sát nghiệp quá nặng. Tỉ võ là hư, khuyên bảo là thật. Nếu như hôm nay nghe lời của túc hạ, há không phải lại tạo vô số sát nghiệp? Đừng nói bát bộ ngoạ hổ tàng long, cao nhân bối xuất, hoà thượng vị tất có thể thắng? Cho dù võ công của hoà thượng có lợi hại hơn mười lần, há lại là đao trong tay túc hạ, giúp túc hạ sát hại đồng môn?".
Sắc diện Ninh Bất Không nặng như nước, hăng hắc cười âm hiểm. Ngư hoà thượng lại nói: "Hoà thượng hôm nay đến đây, chỉ bởi vì hài tử họ Lục này. Ninh Bất Không, túc hạ giải hay không giải Hắc Thiên Kiếp này?".
"Giải trừ Hắc Thiên Kiếp?". Ninh Bất Không ha hả cười lớn: "Sợ rằng đại sư đề cao Ninh mỗ rồi".
Ngư hoà thượng chau mày nói: "Tại sao lại nói là đề cao?".
Ninh Bất Không nói: "Đại sư được nhìn qua Hắc Thiên Thư chưa?".
Ngư hoà thượng lắc đầu nói: "Hắc Thiên Thư vốn là bí truyền của Tây Thành, hoà thượng có nghe nói qua, nhưng vẫn chưa tự mắt nhìn thấy".
Ninh Bất Không nói: "Tôn chỉ phần mở đầu của Hắc Thiên Thư nói rõ, liền định ra Hữu Vô Tứ Luật. Đệ nhất luật gọi là vô chủ vô nô, nói chính là quan hệ của kiếp chủ và kiếp nô. Phàm là kiếp nô không được ly khai kiếp chủ. Kiếp chủ chết thì kiếp nô chết. Đệ nhị luật, gọi là Hữu Tá Hữu, nói chính là đạo lý kiếp lực không mượn thì không dùng được, luật này loan truyền rộng rãi, đoán rằng đại sư cũng đã có nghe qua. Nhưng người biết về đệ tam luật thì ít đi rất nhiều, gọi là Vô Hưu Vô Chỉ".
Lông mày trắng của Ngư hoà thượng nhảy lên một cái: "Vô Hưu Vô Chỉ?".
"Không sai". Ninh Bất Không nói: "Hắc Thiên Thư ám hợp thiên tượng, chư thiên tinh đẩu vận chuyển theo thời gian, không nghỉ ngơi không dừng lại. Dám hỏi đại sư, cho dù Như Lai tái thế, lại có thể pháp nghịch thiên địa, làm cho chư thiên tinh đẩu dừng lại bất động không?".
Ngư hoà thượng nói: "Nhất định là không thể".
Ninh Bất Không nói: "Hắc Thiên Thư cũng như vậy. Sau khi luyện thành ba mươi mốt mạch, cho dù không tiếp tục tu luyện, kiếp lực trong cơ thể cũng sẽ như chư thiên tinh đẩu, tự hành vận chuyển. Kiếp lực đã vĩnh viễn không thể tiêu vong, vậy thì Hắc Thiên Kiếp cũng vĩnh viễn không nghỉ ngơi không dừng lại. Tuy rằng đại sư có thể phong bế Tam Viên Đế Mạch của tiểu tử này, nhưng cũng chỉ được nhất thời. Kiếp lực trong người y sớm muộn gì rồi cũng sẽ xung phá cấm chế, lại một lần nữa rơi vào thiên kiếp vô biên".
Lục Tiệm nghe vậy, trong lòng lạnh tựa băng. Ngư hoà thượng than dài, nói: "Tây Thành Bát Bộ dùng ma công luyện nô như vậy, thật là tội lỗi vô cùng. Nhưng mà, đã là Hữu Vô Tứ Luật, thì đệ tứ luật là gì?".
Ninh Bất Không cười cười, thờ ơ nói: "Đệ tứ luật không cần kíp, không nói cũng vậy".
Ngư hoà thượng ngẫm nghĩ: "Chỉ sợ rằng đệ tứ luật này là mấu chốt quan trọng giải thoát Hắc Thiên Kiếp. Người này giảo quyệt âm hiểm, tất không chịu nói. Chi bằng nghĩ cách khác". Suy nghĩ tìm tòi một lúc, vừa lắc người, ông đã đến bên cạnh Ninh Bất Không. Ninh Bất Không tuy rằng mắt không nhìn thấy, nhưng trong lòng có cảm giác, nhè nhẹ điểm ra một chỉ. Ngư hoà thượng hoàn toàn cũng không quay đầu, tay từ trong ống tay áo vung ra, ngón tay trỏ cũng điểm ra như vậy. Mũi tay hai người chạm nhau. Ninh Bất Không hừ nhẹ một tiếng, lùi sau hơn trượng. Ngư hoà thượng cũng lắc lư, vươn tay nâng Lục Tiệm lên, than nói: "Đáng tiếc, Chu Lưu Hoả Kình của túc hạ xuất thần nhập hoá, nhưng lại không dùng vào chính đạo".
Ninh Bất Không cười lạnh nói: "Ngư hoà thượng, đại sư muốn cái gì?".
Ngư hoà thượng nói: "Năm xưa, sau khi hoà thượng thua trận ở Thiên Trụ Sơn, bị buộc phải lập lời thề. Chỉ cần Vạn Quy Tàng tại thế, thì chung thân không dẫm bước trung thổ. Như hôm nay Vạn Quy Tàng đã quy tiên, lời thề đã không còn hiệu lực, hoà thượng cần đem hài tử này đi đến Côn Lôn Sơn, tìm kiếm cách giải thoát Hắc Thiên Kiếp".
Ninh Bất Không thần sắc âm trầm, một lúc mới nói: "Nói như vậy, đại sư muốn làm khó Ninh mỗ rồi".
Ngư hoà thượng nói: "Thí chủ tội gì ngoan cố, hoà thượng đem hài tử này đi, thí chủ chẳng qua chỉ bớt đi một tên kiếp nô, đối với bản thân thí chủ không có tổn hại. Đệ nhất luật của Hữu Vô Tứ Luật là Vô Chủ Vô Nô, lại không phải là Vô Nô Vô Chủ".
Ninh Bất Không tĩnh mặc chốc lát, chợt cười mà nói: "Lời của hoà thượng phải vô cùng, Ninh mỗ nể mặt đại sư, phóng thích tên kiếp nô này".
Ngư hoà thượng trong lòng vui mừng, chắp tay nói: "Khó được thí chủ có lòng thương xót như vậy, tuy chỉ là nhất niệm chỉ thiện, cũng là sự giác ngộ vô thượng".
Ninh Bất Không cười cười, chuyển thân chực đi. Lúc y phất tay áo, bạch quang trong tay áo loé ra, phóng nhanh vào diện môn của Ngư hoà thượng. Ngư hoà thượng chau mày, tay trái giơ lên, ngũ chỉ như nhặt cành hoa, tóm lấy bạch quang kia. Lục Tiệm đưa mắt nhìn xem, lại là một mũi tên ngắn bằng gỗ trắng, khảm mũi sắt, lập tức cả kinh kêu lên: "Đại sư cẩn thận".
"Không phải lo lắng". Ngư hoà thượng cười nhẹ: "Mộc Phích Lịch này còn chưa thể làm gì được hoà thượng".
Lục Tiệm thấy mộc tiễn đó không phát nổ, trong lòng rất bồn chồn.
Ninh Bất Không cười gượng hai tiếng, nói: "Chỉ cái nhấc tay của đại sư, liền đem Chu Lưu Hoả Kình hoá thành vô hình, thật là làm cho người ta bội phục". Nói xong, từ trong tay áo, y rút ra một cái Gia Cát Liên Nỏ, cười nói: "Nhưng nếu nhất phát bát tiễn, đại sư đỡ được sao?".
Lời nói chưa dứt, tám mũi mộc tiễn phá không đến, mỗi một mũi đều chứa đựng Chu Lưu Hoả Kình, mà còn khảm mũi sắt. Một khi phát nổ, vụn gỗ và mũi sắt đều bay, càng có uy lực.
Ngư hoà thượng thở dài một tiếng, hai tay đều xuất, trên không trung rạch một nửa hình cung. Tám mũi mộc tiễn trắng kia như con chim yến non về tổ, tự bay vào giữa các kẽ tay của Ngư hoà thượng. Đồng thời, Đại Kim Cang Thần Lực đã như nước lạch liên miên, làm hoả kình trong mộc tiễn nhẹ nhàng tắt đi, mộc tiễn không cách gì phát nổ, thì không khác gì so với nỏ tiễn tầm thường.
Soạt soạt soạt, lượt mộc tiễn thứ hai lại phóng đến, Ngư hoà thượng không đợi các mũi mộc tiễn bắn đến, giành lên trước một bước, lại tiếp lấy tám mũi mộc tiễn. Ai ngờ mộc tiễn vào tay, lại hoàn toàn không có hoả kình, trong mũi ngầm ngửi thấy mùi tiêu hoàng.
Một tiếng vang dội, tám mũi mộc tiễn nhất tề phát nổ, khói mù mạt vụn nhất thời bao trùm lấy Ngư hoà thượng. Ninh Bất Không cười dài nói: "Đại sư chớ trách, lần này không phải là Chu Lưu Hoả Kình, mà là hoả dược, hàng thật giá thật".
Thì ra, Ninh Bất Không biết Ngư hoà thượng tất có thể hoá giải Chu Lưu Hoả Kình, do đó chín mũi mộc tiễn trước, cố ý dùng Mộc Phích Lịch. Ngư hoà thượng liên tục tiếp hai lần, đã tồn tại định kiến: "Mỗi một mũi tên đều là như vậy". Không ngờ tám mũi mộc tiễn sau lại là hoả tiễn đặc chế, trong thân tên tàng chứa hoả dược. Chín mũi tên trước chẳng qua chỉ là hoặc địch chi kế, tám mũi mộc tiễn sau mới là sát chiêu trí mạng.
Lục Tiệm bi phẫn vô cùng, chực nhào lên liều mạng với Ninh Bất Không, chợt thấy khói bụi đột nhiên tản ra bốn phía, giọng nói của Ngư hoà thượng thong dong: "Ninh thí chủ không cần khách khí, còn có loại mánh khoé nào, có thể sử ra luôn thể đi!".
Lục Tiệm vừa kinh vừa mừng, đưa mắt nhìn, chỉ thấy y sam của Ngư hoà thượng tuy rách nát, da thịt lại không thương tổn chút nào.
Ninh Bất Không khen ngợi nói: "Như như bất động, vạn ma hàng phục, đại sư hảo thần thông". Trong lúc nói cười, nỏ tiễn nhất tề bắn ra, dày đặc như châu chấu, trong đó hoặc là có Mộc Phích Lịch, hoặc là hoả tiễn đặc chế, giao tương hỗn tạp, khó mà phân biệt được.
Ngư hoà thượng thì lại không tiếp tiễn nữa, hai chân phân khai, chắn trước người Lục Tiệm, song quyền vung lên, cùng mưa tên va đụng vào nhau, trong nhất thời, rơi xuống trước mắt Lục Tiệm hơn trượng, như đắp lên một bức tường chắn vô hình, hoả quang như mưa ngoài bức tường, rực rỡ còn hơn khói lửa.
Bỗng nhiên mưa lửa đột nhiên ngưng lại, Ninh Bất Không ném nỏ tiễn đi, lùi sau hai bước, chống tay vào một gốc cây lớn, thở dốc. Lục Tiệm trong lòng vui mừng: "Tên của y dùng hết sạch rồi".
Ngư hoà thượng lắc đầu than, nói: "Ninh thí chủ, hoà thượng mang đi tên kiếp nô này, tuy rằng đối với thí chủ không có lợi, nhưng cũng không có tổn hại. Thí chủ tội gì cố chấp đến như vậy?".
"Đại sư cho rằng chắc thắng rồi sao?". Ninh Bất Không tay đè đại thụ, cười nhẹ nói: "Nên biết mộc trung tàng hoả, tiến vào rừng này, là đã tiến vào luyện ngục vô biên".
Lông mày trắng bạc của Ngư hoà thượng giương lên, chợt hiểu ra, nói: "Thì ra là như vậy, Ninh thí chủ bố cục có thể nói là thâm viễn". Lục Tiệm đang cảm thấy không hiểu, chợt nghe Ninh Bất Không cười dài một tiếng, cây đại thụ lớn bằng một vòng tay ôm bên cạnh đột nhiên nổ trung ra, mạt gỗ bắn tung toé. Ngư hoà thượng khoa nhanh tay áo, ngăn cản mạt gỗ, thân thể lại bị sóng khí xung kích, lắc lư một cái.
Trong chốc lát, gỗ cây xung quanh bốn phía lần lượt nổ tung, song quyền của Ngư hoà thượng càng vung càng nhanh, Lục Tiệm chỉ cảm thấy hai luồng khí lưu mạnh mẽ, một hướng ra ngoài, một hướng vào trong, xé lẫn nhau, bản thân mình thì lại ở giữa, chịu đựng đau khổ. Lục Tiệm dần dần hiểu "bố cục thâm viễn" trong lời nói của Ngư hoà thượng, thì ra Ninh Bất Không dẫn mình vào rừng rậm, đã bố trí cạm bẫy, chỉ bởi vì Ninh Bất Không có kỹ năng Mộc Phích Lịch, cành lá của cây cối trong rừng rậm rịt giao nhau, rễ cây um tùm, Chu Lưu Hoả Kình lại không cần biết ở đâu đều có thể vận dụng được, chỉ cần mượn một gốc cây truyền công, liền có thể qua cành lá gốc rễ, dẫn nổ cả khu rừng rậm.
Ánh lửa rực trời, tiếng nổ lần lượt vang lên. Ngư hoà thượng tuy nhờ vào Đại Kim Cang Thần Lực ngăn cách ánh lửa và mạt gỗ ngoài một trượng, nhưng thuận theo thế lan của nội kình Ninh Bất Không, cành nhỏ lá vụn đều thành hoả khí, du tẩu bên ngoài quyền kình của Ngư hoà thượng, luôn tìm khe hở mà vào, lại giống như một quả cầu lửa to lớn, bọc quanh Ngư hoà thượng và Lục Tiệm, lửa cháy rừng rực. Chưa được một lúc, đông nam nổi gió, lửa mượn hướng gió, thế lửa càng mạnh, khí nóng đốt người cuồn cuộn tuôn đến, vòng tròn uy lực của Đại Kim Cang Thần Lực ngày càng thu hẹp, chỉ chốc lát, đã thu hẹp lại sáu thước.
Chợt nghe trong tiếng nổ, tiếng cười của Ninh Bất Không truyền đến: "Đại sư chắc cũng biết Chu Lưu Lục Hư Công cả thảy có ngũ yếu: Thời, Thế, Pháp, Thuật, Khí. Như hôm nay nổi gió đông nam là Thiên Thời, nơi này rừng rậm là Địa Thế, Mộc Phích Lịch là Công Pháp, mưu kế của Ninh mỗ là Tâm Thuật, tuy không có hoả khílợi hại, nhưng đã được tứ yếu trong Chu Hư Ngũ Yếu. Chu Hư Ngũ Yếu, đắc tứ yếu giả vô địch, đại sư còn không nhận thua, còn đợi đến lúc nào?".
Khi Ninh Bất Không nói, vòng tròn uy lực của Đại Kim Cang Thần Lực đã bị áp bức đến trong năm thước, Lục Tiệm như ở luyện ngục vô biên, miệng lưỡi khô khan, lông tóc khô cháy, quả thực nóng khủng khiếp muốn chết.
Chợt nghe Ngư hoà thượng thở dài một tiếng, nói: "Vạn thành chủ ...".
Ninh Bất Không cười lạnh nói: "Đại sư nóng đến nỗi mụ mẫm rồi sao? Thành chủ quy tiên đã lâu, đại sư gọi Thành chủ làm gì?".
Ngư hoà thượng nghe mà như không thấy, vẫn thờ ơ nói: "Vạn thành chủ, nếu Thành chủ ra tay, chỉ cần tam yếu, hoà thượng liền chấp tay nhận thua, lại hà tất cần tứ yếu? Ninh thí chủ Hoả bộ tuy được tứ yếu, hoà thượng vẫn có cơ hội có thể lợi dụng".
Ninh Bất Không nghe vậy, đột nhiên nóng lòng, quát nói: "Lão hoà thượng điên, có cái gì có thể thừa cơ chứ, có gan cho Ninh mỗ xem xem".
Khoé miệng Ngư hoà thượng có nét cười, quát một tiếng "Hữu", đột nhiên hữu quyền vòng quanh người, quét sạch thế lửa, ngón tay cái bàn tay trái rạch lên không một nét, ngọn lửa bên ngoài như bị xé nát trên cao, lộ ra một chữ Hữu.
Ninh Bất Không như nhận ra, thất thanh nói: "Ngươi ...".
Không đợi Ninh Bất Không nói hết, Ngư hoà thượng lại quát một tiếng: "Bất". Lại viết một chữ "Bất" trên tấm màn lửa. Ngư hoà thượng quát một tiếng, viết một chữ, ngón tay trỏ như rồng như rắn, từ chữ "Hữu" trở đi, từ trên xuống dưới, trong bức màn lửa liên tục viết ra bảy chữ lớn. Đại Kim Cang Thần Lực hồi lâu không dứt, một hơi viết xong, mấy chữ vẫn là xuyên qua lửa mà ra, hình dáng quái dị, nét bút hùng mạnh kỳ lạ, thật như khoái kiếm trảm trận, cường nỏ phá quân, núi cao sóng cả, sấm sét tương tranh.
Lục Tiệm đưa mắt nhìn, chợt nhận ra cả câu: "Hữu bất hài giả ngô kích chi".
"A ...". Bảy chữ này viết trên lửa, nhưng lại giống như viết trong lòng Ninh Bất Không, mắt của y tuy không nhìn thấy, nhưng lại tựa như sinh ra một đôi tâm nhãn, nhìn rõ ràng vô cùng, không kềm được kêu lên một tiếng thảm thương: "Thành chủ, không phải ta ....". Kêu xong đã kinh hoàng vô cùng, hai tay khua loạn, kêu thảm: "Thành chủ, không phải ta ... không phải ta, đều là bọn họ .... Không phải ta, đều là bọn họ ....". Y kêu lớn hét lớn, như điên như cuồng, loạng choạng liều mạng chạy về phía trước, cho dù lửa cháy lan vào áo quần đầu tóc, cũng không dừng chân. Trong khoảnh khắc, y biến mất trong nơi sâu thẳm khu rừng rậm.
Ngọn lửa không có người thao túng, thế lửa giảm yếu. Những nơi quyền kình của Ngư hoà thượng đi đến, ngọn lửa đều bị dập tắt. Chỉ thấy Ngư hoà thượng quyền trái dập lựa, tay phải nhấc Lục Tiệm lên, bước nhanh về phía không có lửa, khoanh chân ngồi xuống, sắc mặt trắng xám toát ra hắc khí nồng đậm.
Lục Tiệm hít một hơi, chợt thấy sắc diện Ngư hoà thượng khác lạ, buột miệng nói: "Đại sư, ngài không sao chứ?".
Ngư hoà thượng mở mắt cười nói: "Hoà thượng không sao. Hài tử, ngươi thật muốn cùng hoà thượng đi sao?".
Lục Tiệm gật gật đầu.
Ngư hoà thượng than nói: "Nói thực, giải trừ Hắc Thiên Kiếp, hoà thượng hoàn toàn không nắm chắc mười phần".
Lục Tiệm lớn giọng nói: "Tại hạ thà chết, cũng không làm kiếp nô cho Ninh Bất Không nữa". Y vốn thống hận thân phận kiếp nô này, chỉ là trước đây một người lại không có kế sách, vô lực đối kháng Ninh Bất Không. Lúc này được Ngư hoà thượng xuất thủ tương trợ, làm cho tuyệt vọng trong lòng y lại bắt đầu dấy lên hy vọng, chỉ cảm thấy từ nay về sau, bản thân không còn phải một mình đối mặt với Hắc Thiên Kiếp nữa, do đó sợ hãi giảm đi, dũng khí tăng lên bội phần.
Ngư hoà thượng gật đầu cười nói: "Rất tốt, ngươi là một hài tử có cốt khí, từ lúc nghe ngươi và Chức Điền Tín Trưởng đối thoại, hoà thượng liền biết, với bản tính của ngươi, cho dù trở thành kiếp nô, cũng sẽ không chịu khuất phục quyền uy của Ninh Bất Không. Hắc Thiên Kiếp gọi là thiên kiếp, thực ra là tâm kiếp. Nếu không có tâm chí kiên cường mạnh mẽ, khó thoát khỏi nạn kiếp; nếu ngươi không có tâm chí như vậy, hoà thượng dù có lòng cứu ngươi, cũng là uổng công".
Lục Tiệm lúc này mới hiểu ra, Ngư hoà thượng sớm không chịu lộ diện trước, cũng là thăm dò ý tứ bản thân. Chợt nghe tiếng guốc gỗ vang lên, đưa mắt nhìn, chỉ thấy một đám thị vệ thị nữ vây quanh A Thị đang đi đến, có lẽ bị tiếng nổ lúc nãy dẫn dụ đến.
Lục Tiệm vừa thấy A Thị, liền cảm thấy hổ thẹn áy náy, muốn nói, nhưng lại không biết bắt đầu từ đâu.
Hai người im lặng nhìn nhau hồi lâu. Lục Tiệm cuối cùng nói: "A Thị công chúa, ta cần phải quay về Đại Minh rồi, nàng bảo trọng nhiều".
A Thị đờ đẫn nghe, nhãn thần dần dần trở nên sầu đau. Một lúc lâu, nàng nhè nhẹ đặt Bắc Lạp Sư Môn xuống. Con mèo Ba Tư đó đi lên trước hai bước, lại quay đầu lại nhìn A Thị một cái, cuồi cùng đi đến trước người Lục Tiệm. Lục Tiệm cúi người bế nó lên, chợt nhiên nhìn thấy, hai giọt nước mắt trong suốt long lanh, rơi xuống trước chân của A Thị. Lúc ngửng đầu lên, người con gái áo trắng đó đã quay người lại, hai bờ vai gầy nhỏ nhè nhẹ run lên, như lá rụng trong gió.
Lục Tiệm cắn chặt răng, đứng thẳng người lên, thì thấy Ngư hoà thượng đã ở đằng xa chờ đợi. Y hít dài một hơi, bước lên phía trước, đi được ước khoảng mười bước, chợt nghe thấy từ phía sau truyền lại một tiếng gọi sầu thương "Lục Tiệm!".
Thân hình Lục Tiệm chấn động, nhưng lại không có dũng khí quay đầu lại, ngước mắt nhìn ra, rừng cây rậm rạp xa thẳm đằng trước, vẫn còn tro tàn sau ngọn lửa, khi ẩn khi hiện, soi sáng con đường phía trước trong đêm tối, còn tiếng kêu gọi phía sau, cuối cùng lại hoá thành tiếng khóc nức nở.
Lục Tiệm không biết trong cái quốc gia liên tiếp chiến loạn này, người con gái dịu dàng yếu đuối này sẽ gặp phải vận mệnh khôn lường thế nào, y chỉ biết, từ nay về sau, bất luận là kiếp nạn gì, bản thân cũng không còn cách gì cùng nàng kề vai đối mắt với nhau nữa.
Nghĩ đến đây, Lục Tiệm chỉ cảm thấy trong lòng trống trải, một loại thương cảm không thể miêu tả tuôn lên, nước mắt nhạt nhoà đôi mắt của y.
Ngân hà lấp lánh, cái lạnh mờ sáng hơi rét, bóng đêm chiếu xuống mặt đất hơi chút xuề xoà, liên miên vô tận.
Con đường trước khi trời sáng dài đằng đẵng, Ngư hoà thượng bước đi phía trước, cũng không biết đi được bao lâu, khi phía đông hơi hừng sáng, hai người nghỉ chân ở một con đèo. Ngư hoà thượng nhắm mắt nhập định, Lục Tiệm thì cảm xúc đau thương khi ly biệt, không có lòng nói chuyện, lại thêm khổ chiến liên tiếp hai đêm, trong khoảnh khắc đã thiếp đi.
Trong lúc nằm mơ, chợt cảm thấy toàn thân giật nảy, Lục Tiệm đột nhiên vùng bật dậy, thấy trong sắc trời bình minh, ba đạo nhân ảnh, một tĩnh hai động, quấn lấy nhau ở phía đằng xa. Hai tên cử động nhanh đến kỳ lạ, lượn vòng quanh người đứng yên rất nhanh. Lục Tiệm nhận ra người đứng yên chính là Ngư hoà thượng. Thấy đại sư bị người vây công, trong lúc cả kinh, y cầm một cành cây bên cạnh lên, chực nhào lên tương trợ, chợt thấy hai tên địch nhân thân pháp đình trệ, chệnh choạng nhè nhẹ, thân hình chợt thấp xuống, biến mất không thấy đâu nữa.
Lục Tiệm vội vàng phóng lên phía trước, nhưng thấy Ngư hoà thượng cúi đầu đứng nhìn, cạnh chân có nhiều dấu chân vết đao, chỉ không thấy hai tên địch nhân đó đâu nữa. Y bất giác quay đầu nhìn tứ phía, lại nghe Ngư hoà thượng than nói: "Không cần phải tìm nữa, đó là nhẫn giả của Hạ Y, một kích không trúng, sớm đã trốn xa rồi".
Lục Tiệm nghe đến kinh ngạc, chợt nghe Ngư hoà thượng nói: "Lục Tiệm, ngươi đỡ ta đến tảng đá đằng kia".
Lục Tiệm nghe giọng nói của hoà thượng run lẩy bẩy, càng cảm thấy kinh dị, quay người đỡ lấy Ngư hoà thượng, ngồi lên một tảng đá ngầm. Ngư hoà thượng che miệng ho, Lục Tiệm nhìn thấy rõ máu tươi đỏ thẫm từ kẽ ngón tay của đại sư tuôn ra, bất giác kinh hãi nói: "Đại sư thụ thương rồi sao? Là nhẫn giả lúc nãy sao?".
Ngư hoà thượng lắc đầu nói: "Hạ Y nhẫn giả chẳng là cái gì, không thể đả thương hoà thượng được?". Lục Tiệm nói: "Vậy thì là Thiên Thần Tông, hoặc là Ninh Bất Không?".
Ngư hoà thượng nói: "Thiên Thần Tông chỉ là loại ăn sương, không đáng để nói. Ninh Bất Không thần thông tuy mạnh, nhưng cũng không có cách gì đả thương hoà thượng đến mức độ này. Vết thương của hoà thượng, đã có từ rất lâu rồi".
Lục Tiệm thấy thần sắc Ngư hoà thượng u ám, không tiện hỏi nhiều, chỉ biết nói: "Đại sư, Lục Tiệm tôi từ đầu đến cuối vẫn không nghĩ ra, Ninh Bất Không vì sao vừa thấy bảy chữ đó trong lửa, liền sợ đến như vậy?".
Ngư hoà thượng nói: "Bảy chữ đó, là ta mô phỏng bút tích của Tây Thành Chi Chủ Vạn Quy Tàng mà viết, sau đó lại dụng thần thông của Tha Tâm Thuật, đưa bút ý thấm vào trong lòng của Ninh Bất Không. Hoà thượng vốn chỉ muốn mượn thần uy của Vạn Quy Tàng, nhiếp chấn Ninh Bất Không, làm cho tuyệt học Hoả bộ của y lộ ra sơ hở. Không ngờ y vừa thấy bảy chữ đó, liền sợ đến bỏ chạy vào rừng, quả thực là kỳ lạ. Hoà thượng đến hôm nay cũng chưa hiểu được".
Lục Tiệm nói: "Vậy 'Hữu bất hài giả ngô kích chi' có ý nghĩa gì? Lục Tiệm trên hoạ tượng tổ sư của Ninh Bất Không cũng từng thấy qua".
Ngư hoà thượng cả kinh nói: "Ngươi từng thấy qua hoạ tượng tổ sư của Tây Thành?".
Lục Tiệm nói: "Họa tượng của Hỏa bộ, Thuỷ bộ, Sơn bộ, Trạch bộ, Lục Tiệm đều thấy qua". Nói xong bèn đem lại quá trình hôm ấy nghe lệnh của Ninh Bất Không, quan sát hoạ tượng nói lại cho Ngư hoà thượng.
"Thì ra là vậy". Ngư hoà thượng than nói: "Chẳng trách Ninh Bất Không nhất quyết sinh tử với hoà thượng, cũng không chịu bỏ qua cho ngươi, nếu y không thể hàng phục được ngươi, cũng chỉ còn một cách là giết ngươi".
Lục Tiệm cả kinh nói: "Tại sao?".
Ngư hoà thượng nói: "Chỉ bởi vì trong những bức hoạ tượng tổ sư kia ẩn chứa một bí mật kinh người. Ninh Bất Không bất luận thế nào, cũng không muốn ngươi tiết lộ ra ngoài. Đây cũng là thiên ý. Nếu không phải thuỷ hoả ngâm đốt, thì không có cách gì hiển lộ ẩn ngữ trong bức hoạ. Nếu không phải hai mắt của Ninh Bất Không bị huỷ, ngươi cũng không cách gì nhìn thây bốn bức hoạ tượng đó". Ngư hoà thượng nói xong nhắm mắt lại, như đang suy nghĩ.
Được một lúc, Ngư hoà thượng chợt mở mắt cười nói: "Hài tử, ngươi có thích nghe một câu chuyện không?".
"Tại sao không thích cơ chứ?". Lục Tiệm cũng cười lên: "Trước đây gia gia thường kể cho Lục Tiệm nghe một số câu chuyện xuất hải, kỳ kỳ lạ lạ, nhưng lại thú vị".
Ngư hoà thượng nói: "Rất tốt, lần đi hải cảng này, lộ trình ước khoảng bốn ngày, hoà thượng sẽ kể cho ngươi nghe bốn câu chuyện. Bốn câu chuyện này kéo dài hơn ba trăm năm, tác động đến vạn vạn thương sinh, trong đó ân oán tình tình, quả thực là khả bi khả thán".
Chương 7: Cố sự
Ngư hoà thượng nói xong, ngẩng đầu nhìn đi, phía đông bắt đầu rạng sáng, mây nhẹ vẫn còn u ám, một đàn cò trắng chầm chậm bay về phía đông.
"Đây là câu chuyện thứ nhất, nói về một loại vũ khí". Ngư hoà thượng thong thả nói: "Ba trăm năm về trước, trung thổ có một nơi rất phi thường, gọi là Thiên Cơ Cung, trong cung cất chứa ngàn vạn quyển sách, những người tài trong cung, đa phần được gọi là toán gia. Bọn họ học cửu thi6n nhân, trí tuệ cao siêu. Tiếc thay, trí tuệ này không làm cho bọn họ vô ưu cả đời, rốt cuộc có một ngày đã dẫn đến tai hoạ to lớn.
Khi ấy vừa hay chính là lúc Tống diệt Nguyên hưng binh mã khắp nơi, loạn lạc khắp chốn. Thiên Cơ Cung dựa vào kỳ kỹ dị năng, giàu có nhất nước, trở thành niềm hy vọng duy nhất phục hưng Hán thất. Trong đám đệ tử của Thiên Cơ Cung có rất nhiều người kiệt xuất, luôn luôn dấy lên nghĩa quân ở phía nam, đối kháng triều đình. Nhưng bởi vì trong cung có gian tế, cuối cùng triều đình Nguyên biết nơi toạ lạc của Thiên Cơ Cung, phái thuỷ lục đại quân công đánh. Trận đánh đó hết sức kịch liệt thảm khốc, năm vạn tinh giáp của quân Nguyên tử thương quá nửa, thậm chí con trai của hoàng đế Nguyên triều cũng chết trong cung. Nhưng chung quy đơn quyền khó chống lại tứ chưởng, trăm vạn quyển sách của Thiên Cơ Cung rốt cuộc bị thiêu dưới kiếp lửa rừng rực, hoá thành tro bụi ...."
Lục Tiệm nhịn không được hỏi: "Vậy người trong cung thì sao?"
Ngư hoà thượng nói: "May mà tiền bối của Thiên Cơ Cung sớm đã có phòng bị, lưu lại một đường mật đạo, do đó phần lớn trong cung đều chạy thoát được ra ngoài". Lục Tiệm thở phào một hơi, gật đầu liên tiếp.
"Lúc đó rợ Hồ tung hoành Trung thổ, đám toán gia may mắn sống sót kia không còn chỗ dung thân, chỉ còn biết ngồi thuyền chạy đến một hòn đảo ở biển Đông. Đám toán gia này trí tuệ xuất chúng, lúc này lại ôm trong lòng nổi thù huỷ cung, nhất trí quyết ý báo phục người Nguyên. Mà trong đám toán gia này, lại có một vị đại toán gia tài giỏi nhất, tài trí và võ công của người này, đều thông thiên đạo. Tiếc là, y thụ trọng thương khi Thiên Cơ Cung bị huỷ, đợi vết thương lành khỏi thì việc phục thù đã được quyết định rồi.
Vị đại toán gia này biết rõ oan oan tương báo, không bao giờ kết thúc, vốn không muốn tham gia vào việc này, nhưng bởi vì y là người rất trọng tình nghĩa, trải qua nhiều lần trắc trở, rốt cuộc không kháng lại được sự khẩn cầu của người thân và bạn bè, tham gia vào hàng ngũ phục thù. Lúc này thế lực của người Nguyên như mặt trời giữa trưa, còn Thiên Cơ Cung mới gặp phải tổn thương nặng nề, nếu như dựa sức người để đối kháng, thì chẳng khác nào lấy trứng chọi đá. Do đó vị đại toán gia này sau khi suy nghĩ kỹ càng sâu xa, bèn đề nghị kiến tạo một loại thần binh lợi khí có uy lực to lớn. Mà lần chế tạo ấy, tốn mất mười lăm năm thời gian."
Lục Tiệm cả kinh nói: "Mười lăm năm? Lâu như vậy sao?"
"Đấy cũng không coi là lâu lắm". Ngư hoà thượng nói: "Thời Xuân Thu, Việt Vương Câu Tiễn phục thù, còn dùng mười năm sinh tồn tụ tập, mười năm răn dạy, trước sau dùng mất hai mươi năm thời gian. Thiên Cơ Cung so với nước Việt ngày ấy, còn nhỏ yếu hơn rất nhiều. Hơn nữa vũ khí đó quy mô to lớn, cấu tạo tinh xảo, tuy rằng trí giả và danh tượng như mây tụ, nhưng trong nhất thời cũng khó mà tạo thành."
Lục Tiệm tò mò hỏi: "Vũ khí đó thật ra là như thế nào?"
Ngư hoà thượng lắc đầu nói: "Hoà thượng cũng chưa từng nhìn thấy, chỉ là nghe tổ sư đời trước thoảng nhắc đến, nghe nói nó có thể làm cho mạch suối dưới lòng đất nổ tung, sông hồ trên mặt đất chảy ngược, hình thành hồng thuỷ ngất trời, nhấn chìm đô thị, còn có thể kích phát gió lốc, từ mặt biển thổi vào lục địa, còn có thể tụ mây thành mưa, hàng tháng không ngừng".
Lục Tiệm nghe đến trợn mắt líu lưỡi, những lời này nếu không phải từ miệng Ngư hoà thượng nói ra, y nhất định cho đó là những câu chuyện kỳ lạ ngoài biển mà Lục Đại Hải vẫn nói, tuy rằng thú vị, nhưng lại không chân thực. Nhưng lúc này Ngư hoà thượng phong độ nghiêm nghị, có thể thấy tuyệt không phải là lời dối trá, mà đích thực là có việc đó.
Ngư hoà thượng nói tiếp: "Ngày hôm đó, vũ khí chung quy hoàn thành, bọn họ thử nghiệm trên mặt biển, một hơi đã phá huỷ ba hòn đảo hoang không người. Công sức mười lăm năm cuối cùng cũng đại thành, chúng nhân ai cũng nhảy nhót hoan hô. Duy chỉ có vị đại toán gia đó là buồn bã không vui, y từ lúc bắt đầu thiết kế vũ khí, liền thấy do dự, bởi vì vũ khí này uy lực quá lớn, một khi vận dụng, tử thương nhất định kinh người. Nhưng cho dù y là tuyệt thế trí giả, chìm đắm trong tham cứu trí tuệ, tuy biết rõ như vậy, vẫn nhịn không được muốn tạo ra vũ khí, nghiên cứu đến cùng, lúc này thấy vậy, bất giác trong lòng sinh ra sợ hãi.
Vũ khí đã thành, chúng nhân lập tức quyết ý lấy máu trả máu, trước tiên phá huỷ kinh thành Đại Đô của người Nguyên, nếu như Đại Đô bị dẹp bằng, thiên hạ tất loạn, đến lúc đó có thể tranh thủ thời cơ phục hưng Hán thất. Phải biết quân dân Đại Đô trăm vạn hộ, một khi vận dụng vũ khí đó, trong thành hầu như không có ai có thể may mắn thoát nạn. Chỉ tiếc là, khi ấy chúng nhân cố chấp ý nghĩa phục thù, sớm đã không quan tâm đến những điều này". Nói đến đây, Ngư hoà thượng không kềm được than dài một tiếng.
Lục Tiệm không kềm được hỏi: "Vũ khí đó thật là đã dùng rồi sao?".
Ngư hoà thượng nói: "Nếu là ngươi, ngươi sẽ dùng sao?".
Lục Tiệm lắc đầu nói: "Lục Tiệm không dùng".
Ngư hoà thượng nói: "Dẫu cho ngươi không dùng, người khác chung quy cũng sẽ dùng, nếu như là vậy, ngươi lại ứng phó như thế nào?".
Lục Tiệm nghĩ ngợi, nói: "Lục Tiệm hoặc là đem vũ khí huỷ đi, hoặc là đem nó cất giấu đi".
Ngư hoà thượng im lặng một hồi lâu, than: "Không ngờ ngươi lại có phần hiểu biết này, cùng với vị đại toán gia đó không bàn mà khớp hợp. Y vừa thấy uy lực của vũ khí, liền động ý niệm huỷ bỏ, nhưng mười lăm năm tâm huyết, chung quy không nhẫn tâm trong một sớm huỷ bỏ. Y mâu thuẫn nhiều lần, sau khi cùng thê tử thương nghị, bày ra một trò bịp, lừa chúng nhân rời khỏi vũ khí. Sau đó, phu phụ hai người bọn họ điều khiển vũ khí, rời đảo đi xa. Khi ấy chúng nhân phát hiện bị lừa, tới tấp ngồi thuyền đuổi theo, nhưng vũ khí đó một khi vận chuyển rồi, mặc cho bất kỳ là loại thuyền lớn nào cũng đừng mong tiếp cận được, chúng nhân chỉ còn biết trừng mắt nhìn phu phụ bọn họ đi về phía xa, từ đó về sau, cũng không quay trở lại".
Lục Tiệm nghe xong, bất giác thở phào một tiếng, nhưng trong lòng lại buồn rầu, mường tượng đôi phu phụ đó, bội bỏ người thân bạn bè, rời xa quê hương, cũng không biết ôm ấp tâm tình như thế nào nữa. Nghĩ một lúc, lại hỏi: "Đôi phu phụ đó mang vũ khí đi khỏi, những người còn lại không tạo thêm một cái sao?".
"Tạo thì tạo rồi", Ngư hoà thượng nói, "Nhưng vị đại toán gia đó trước khi rời khỏi, mang theo tất cả hoạ đồ. Hơn nữa, không có tính toán thần diệu của vị đó, vũ khí mà chúng nhân tạo, hoàn toàn không có uy lực. Lại qua mười mấy năm, chúng nhân trên đảo không làm được tích sự gì, cuối cùng nản lòng nhụt chí, vứt bỏ đi ý niệm phục thù. Chỉ là, vị đại toán gia đó mang trên người vô số tội danh, suốt cả cuộc đời, đều bị thế nhân oán hận".
Ngư hoà thượng nói đến đây, không nói thêm nữa, đứng dậy đi về phía tây. Hai người đi được một đoạn, mặt trời đã giữa trưa. Lục Tiệm thấy bên đường đằng xa có một toà lữ xá, tường trúc mái thấp, trước cửa vắng lặng, lập tức đề nghị nghỉ ngơi ở đây.
Ngư hoà thượng đồng ý, hai người đến trước cửa, Lục Tiệm thấy trong nhà lờ mờ tối, bèn cao giọng nói: "Có người không?".
Gọi liền hai tiếng, từ trong cửa mới đi ra một bà lão lưng còng, mặt đầy nếp nhăn, hai mắt vẩn đục vô cùng, tựa hồ có chút e sợ, nhìn hai người một cái, bèn lùi lại nửa bước, thụt lại dưới mái tranh, rít giọng nói: "Thì ra là hoà thượng xin cơm".
Nên biết Oa quốc sùng tín Phật pháp, tăng nhân hành tẩu ở trong nước, không bao giờ phải lo đói khát, do đó lão bà đó vừa thấy cách ăn mặc của Ngư hoà thượng, liền biết mục đích đến, hừ nhẹ một tiếng, nói: "Vào đi".
Ngư hoà thượng thi lễ nói: "Nữ thí chủ, làm phiền rồi". Lão bà im lặng lùi lại. Hai người vào trong, mũi ngửi thấy một mùi cũ kỹ, vấn vít không bay đi, đoán là lâu rồi không có người đến, tro bụi rải rác trên góc tường bệ cửa sổ. Chợt thấy lão bà đó từ phòng trong đi ra, bưng ra một mâm tre, trên mâm đặt mấy nắm cơm trắng.
Lục Tiệm thấy lão bà này cùng khổ như vậy, lại còn ân cần đãi khách, trong lòng cảm kích, mò ra trên người mấy đồng tiền, nhét vào tay của lão bà, nói: "Lão bà bà nhận lấy".
Lão bà đó cầm lấy tiền, mắt cũng không nhìn lên, thì thầm nói nhỏ: "Trước giờ chỉ có hoà thượng xin tiền, lại có hoà thượng cho tiền sao?".
Lục Tiệm nói: "Ta không phải là hoà thượng, tự nhiên cần cho tiền."
Lão bà chỉ Ngư hoà thượng, nói: "Ngươi không phải hoà thượng, nhưng y thì phải, ngươi đi theo hoà thượng, thì là hoà thượng".
Lục Tiệm thấy lão bà tuổi cao lẩm cẩm, không có cách gì biện giải, thấy lão bà đó lùi lại, bèn vươn tay lấy một nắm cơm, nắm cơm vừa vào tay, Lục Tiệm trong lòng đột nhiên kinh hãi, mắt thấy Ngư hoà thượng cũng đang chực lấy nắm cơm, vội nói: "Đại sư, cơm này không ăn được".
Ngư hoà thượng nghe thấy vậy kinh ngạc, chợt thấy Lục Tiệm quẳng nắm cơm lên bàn, hạt cơm văng tung toé, từ bên trong bò ra một con rết dài ba tấc, trong sắc tím toát ra ánh vàng, lộ rõ là vật kịch độc.
Ngư hoà thượng sắc diện sa sầm, đưa mắt nhìn lão bà đó, lại thấy trên khuôn mặt lão bà lộ ra nét cười quỷ dị. Lục Tiệm quát lớn một tiếng, nắm lấy một nắm cơm, ném về phía lão bà. Nắm cơm đập trúng lão bà, chỉ nghe xoạt một tiếng, thân hình của lão bà đó lại theo thế đến của nắm cơm, đổ ập xuống, biến thành một tấm mỏng.
Lục Tiệm chưa từng nhìn thấy việc nào quỷ dị như vậy, kinh ngạc vô cùng, bước nhanh lên trước, nhưng chỉ thấy trên mặt đất chỉ lưu lại một bộ áo quần, một tấm mặt nạ da người. Lục Tiệm nhấc tấm mặt nạ lên, tấm mặt nạ vào tay ướt đẫm, đưa mắt nhìn qua, gần như muốn nôn, thì ra phía sau mặt nạ đó máu thịt bầy nhầy, có lẽ vừa mới lột từ trên thân người ra.
"Cẩn thận", Ngư hoà thượng chợt quát một tiếng, sau cổ Lục Tiệm chợt hẫng, đã bị Ngư hoà thượng nhấc lên, khoé mắt thấy ánh đao loé lên khắp nơi, một đạo đao quang trắng sáng phá đất mà ra, nếu bản thân còn ở tại đó, tất bị đao này chém đứt hai chân.
Tiếp đó thân thể trầm xuống, đã lên đến xà nhà, đưa mắt nhìn đi, chỉ thấy Ngư hoà thượng đang nhìn xuống dưới, sắc diện nghiêm trang. Lục Tiệm tay ấn vào xà nhà, chợt thấy có biến động, hô lớn: "Xà nhà là rỗng".
Tiếng kêu mới dứt, mấy đạo ánh sáng từ trong xà nhà vọt ra, Ngư hoà thượng nghe tiếng, sớm đã có chuẩn bị, phất tay áo quét bay ba mũi cương đao, hữu quyền sấm sét kích trúng xà ngang.
Xà gỗ vỡ vụn, một đạo hắc ảnh vọt ra ngoài, đâm mạnh vào tường, xoạt một tiếng, tường tre bị đâm thủng thành một lỗ to, đạo hắc ảnh đó chỉ chớp lên một cái, thì không thấy nữa.
Xà ngang bị huỷ, Ngư hoà thượng và Lục Tiệm cùng rơi xuống đất, vẫn còn chưa đứng vững, từ trong lòng đất chợt nhiên loé lên ánh sáng trắng, trường đao đã chờ chực ở đó. Ngư hoà thượng quát lớn một tiếng, không né không tránh, chân trái đạp trúng mũi đao, một loạt tiếng leng keng vang lên, trường đao đoạn đoạn vỡ vụn. Hai chân của Ngư hoà thượng lún vào đất nửa thước, toà lữ xá rộng lớn bị chấn động một cái, từ trong đất truyền ra một tiếng kêu thảm, một đạo hắc ảnh đột nhiên từ ngoài hai trượng phá đất nhảy ra, nhanh như chớp giật, vùn vụt lao đi.
Lục Tiệm nhấc chân, muốn đuổi theo, Ngư hoà thượng kéo lấy y, lắc đầu nói: "Không cần phải đuổi, đi vào phòng trong xem sao".
Lục Tiệm chỉ biết đi theo Ngư hoà thượng vào trong phòng, vừa mới vào cửa, liền cảm thấy mùi máu xộc vào mũi. Lúc đưa mắt nhìn, chỉ thấy một thi thể đàn ông máu thịt bầy nhầy phủ phục gần cửa, bên cạnh thi thể đàn ông, chính là thi thể của một lão bà, toàn thân trần truồng, da mặt từ trán đến cổ đã bị lột mất.
Lục Tiệm vừa nhìn thấy, liền nhịn không được, dựa vào thành cửa, nôn thốc nôn tháo. Ngư hoà thượng cũng liền miệng niệm: "tội lỗi".
Lục Tiệm vừa hết kinh hãi, phẫn nộ nói: "Đám người này độc ác vô cùng, đại sư nhận ra bọn họ sao?".
"Hoà thượng biết". Ngư hoà thượng lộ ra vẻ rầu rĩ, "Đám người này truy sát hoà thượng đã gần mười năm, không ngờ hôm nay lại tàn nhẫn đến vậy, đến cả người già cũng không tha."
Lục Tiệm nhìn Ngư hoà thượng, trong lòng đầy nghi hoặc, đang định hỏi ngọn nguồn, Ngư hoà thượng đã nói: "Trước tiên để hai người này nhập thổ vi an đã". Lục Tiệm đồng ý, cúi người ôm lấy thi thể người đàn ông, vừa mới chạm đến y sam của người đàn ông, chợt sinh dị cảm. Trong sát na, thi thể đó cũng cử động, một vầng đao quang, từ dưới háng thi thể lướt ngược ra, đâm thẳng vào bụng dưới của Lục Tiệm.
Lục Tiệm vừa sinh dị cảm, đã thi triển thuật Khiêu Ma, nhảy phốc lên vài thước. Đao quang lướt không, thi thể đó lại lộn nhào ngược lại, đó là một người đàn ông bịt mặt, chực chuyển đao kích thẳng vào Ngư hoà thượng, không ngờ Lục Tiệm lăng không một cước, đá mạnh vào cổ tay hắn.
Tên đàn ông giả chết bị đau, trường đao rời khỏi tay. Hắn thấy tình thế bất diệu, rùn người một cái, nửa người đã chui vào đất, chợt nghe bên tai một tiếng quát mạnh mẽ, eo lưng hơi lạnh, tiếp đó đau đớn không nhịn được, nửa thân trên dán đất lăn ra, keng một tiếng, đâm mạnh lên chum gạo ở góc tường.
Người đó vẫn chưa chết, trợn mắt nhìn Ngư hoà thượng, khàn khàn nói: "Hoà thượng, ngươi giết ta ... Ngươi lại giết ta ...". Trong lúc y kêu hét, máu tươi như suối từ trong miệng ồng ộc tuôn ra.
Ngư hoà thượng lắc đầu than: "Nhẫn Tam lang, đao đó không phải là hoà thượng chém". Tên đàn ông đó nhịn đau đưa mắt nhìn, chỉ thấy Lục Tiệm tay cầm trường đao, máu tươi thuận theo mũi đao nhỏ xuống từng giọt, bất giác hiểu ra, cười thảm nói: "Ngươi là ai mà có thể giết được Nhẫn Tam Lang ta?".
Lục Tiệm nói: "Ta tên là Lục Tiệm". Nhẫn Tam Lang nói: "Hảo hán tử, mong ngươi giúp ta giới thác". Giới thác chính là giúp võ sĩ Oa quốc mổ bụng mà chết, chặt đi đầu lâu, giúp cho người ấy siêu thoát. Lục Tiệm chưa từng giúp người giới thác, có chút do dự, chợt thấy hai mắt của Nhẫn Tam Lang trợn ngược, sắc mặt tái dần, ngoẹo đầu một cái, đã tắt thở.
Ngư hoà thượng và Lục Tiệm quan sát bốn phía, thấy không còn địch nhân nữa, mới đem thi thể trong phòng chôn đi, lại tìm được một chút bột gạo, tạm thời ăn no bụng. Dùng cơm xong, hai người khởi hành đi về phía đông, trên đường đi sắc mặt của Ngư hoà thượng lãnh đạm, một lời cũng không nói, Lục Tiệm đoán hoà thượng rất đang bực tức mình giết Nhẫn Tam Lang, nhưng nghĩ đến tình cảnh lúc đó, bản thân lòng đầy căm phẫn, nếu như không xuất đao, trái lại sinh mệnh khó bảo toàn. Ngư hoà thượng nếu như có oán trách, vậy thì cũng đành chịu.
Lúc vào đêm, hai người tìm một huyệt động dung thân. Ngư hoà thượng toạ thiền một lúc lâu, mở miệng than dài nói: "Lục Tiệm, ngươi có biết rằng, ngươi dùng một lần kiếp lực, thì giống như thiếu một khoản nợ, chiếu theo đệ nhị luật của Hắc Thiên Thư, về sau nhất định phải hoàn trả, kiếp lực càng mượn dùng nhiều, thì khi Hắc Thiên Kiếp phát tác càng đau khổ".
Lục Tiệm nói: "Cái này thì Lục Tiệm biết, Ninh Bất Không có nói qua".
Ngư hoà thượng nói: "Ngươi đã biết vậy, tại sao còn xuất thủ giết Nhẫn Tam Lang chứ? Một đao nhanh như thế, phải mượn không ít kiếp lực".
Lục Tiệm không cần nghĩ ngợi, liền buột miệng nói: "Đám người này tàn nhẫn như thế, đến lão bà bà cũng không buông tha, nếu không giết chết, há không phải càng hại chết nhiều người sao? Cho dù Hắc Thiên Kiếp có đáng sợ gấp mười lần, gặp phải việc như thế này, Lục Tiệm cũng không thể khoanh tay đứng nhìn".
Ngư hoà thượng lắc đầu, cười khổ nói: "Lục Tiệm à, ngươi rốt cuộc là người trong trần thế, quá cố chấp ý nghĩa thiện ác. Cũng được, hoà thượng truyền cho ngươi một môn công phu, tương lai nếu như gặp phải kình địch, có lẽ có thể giúp ngươi bảo toàn tính mạng".
Ngư hoà thượng đứng dậy, hai tay đan chéo, tay trái xoay ngược lại, đến tận dưới nách phải, tay phải thì thẳng tắp hướng xuống dưới, nắm lấy đầu gối phải. Lục Tiệm thấy thân thể của Ngư hoà thượng cong queo như vậy, chỉ biết nhìn đến ngây người.
Chỉ nghe Ngư hoà thượng thong thả nói: "Ngươi ghi nhớ cho kỹ, đây là 'Ngã Tướng"". Nói xong lại bày một tư thế quái dị, chân phải đá ngược ra sau, tay phải hướng xuống dưới, tóm lấy cổ chân trái, nói: "Đây gọi là Nhân Tướng". Sau đó lại xoay chuyển tứ chi, tiếp tục biến hoá ra mười sáu các loại tướng thái như "Thọ Giả Tướng", "Mã Vương Tướng", "Hầu Vương Tướng", "Tước Mẫu Tướng", "Hùng Trư Tướng", "Thần Ngư Tướng", "Bán Sư Nhân Tướng", "Bạch Hào Tướng", "Chư Thiên Tướng", biểu diễn đã xong, lệnh cho Lục Tiệm theo đó luyện tập.
Lục Tiệm lúc đầu tu luyện, cảm thấy khó khăn vô cùng, nhưng kiếp lực đến nơi, dần dần liền cảm thấy trở nên dễ dàng, đến nửa đêm, đã học được mười hai tướng. Ngư hoà thượng chợt nói: "Hôm nay đến đây là được, đi ngủ đi". Lục Tiệm đang lúc phấn khởi, liền nói: "Luyện thêm hai tướng nữa, rồi ngủ cũng không muộn".
Ngư hoà thượng thờ ơ nói: "Hắc Thiên Thư một khi luyện thành, bất luận luyện công, động võ, vào tay đều cực nhanh. Như mười hai tướng này, cho dù thiên tư trác tuyệt, luyện được cũng mất nhiều năm, mà ngươi luyện ba canh giờ đã có tiểu thành, là bởi vì mượn kiếp lực của Hắc Thiên Thư. Chiếu theo đệ nhị luật của Hữu Vô Tứ Luật, kiếp lực trong người ngươi đã trống rỗng, cần phải hoàn trả gấp. Tuy nói 'Tam Viên Đế Mạch' đã bị phong bế, Hắc Thiên Kiếp chẳng đến nỗi phát tác, nhưng nếu luyện tiếp, thân thể của ngươi rốt cuộc cũng bị tổn hại".
Lục Tiệm chỉ biết dừng lại, điều tức một lát, ngả lưng ngủ luôn.
Trong lúc ngủ say, Lục Tiệm chợt cảm thấy thân thể nhẹ hẫng, phiêu phiêu diêu diêu, rời mặt đất bay lên, được một lúc mới dần dần tỉnh táo, thì ra lại đến nơi nửa sáng rực, nửa đen tối, các vì sao trong vùng tối vẫn như cũ, duy chỉ có tam viên "Tử Vi", "Thái Vi", "Thiên Thị", bị một đám mây mù trắng xám bao phủ, mơ hồ không rõ.
"Lục Tiệm ...". Chợt có một giọng nói vang lên bên tai. Lục Tiệm nghe thấy quen tai, ngờ nghệch nhìn đi bốn phía, lại không thấy ai, chỉ nghe giọng nói đó kêu nói: "Lục Tiệm ....". Lục Tiệm nhịn không được, theo giọng nói hướng về phía trước, chỉ nghe giọng nói đó không dứt, thoắt trên thoắt dưới, thoắt đông thoắt tây. Lục Tiệm theo giọng nói mơ hồ mà đi, cũng không biết đi được bao xa, chợt nghe một tiếng mèo kêu, Lục Tiệm cúi đầu nhìn xuống, chỉ thấy một con mèo Ba Tư ngồi trước chân, lặng lẽ nhìn y.
"Bắc Lạp Sư Môn?" Lục Tiệm lấy làm lạ nói: "Tại sao ngươi lại ở đây?".
"Lục Tiệm ...." Tiếng gọi kia lại vang lên, gần như cùng lúc, Bắc Lạp Sư Môn kêu dài một tiếng, tiếng mèo kêu sắc nhọn như đao, cắt vụn tiếng kêu kia thành vô số mảnh vỡ, trong sát na, bốn phương tám hướng đều là thanh âm đứt đoạn "Lục ... Lục ... Lục ... Tiệm .... Tiệm ... Tiệm ....", dần dần nhẹ đi nhỏ đi, cuối cùng như bông liễu theo gió, nhẹ nhàng bay mất.
Tinh thần và tâm trí của Lục Tiệm hơi ngưng đọng, ngẩng đầu nhìn đi, chợt thấy Bắc Lạp Sư Môn không biết từ lúc nào lại lớn lên hàng trăm lần, cao như núi Nhạc, hai mắt xanh óng ánh, giống như nhật nguyệt chiếu vào mình.
Gan ruột của Lục Tiệm như muốn rách toạc, thất thanh kêu thảm, bỗng nhiên cảm thấy trời đất xoay chuyển, ánh sáng và bóng tối, các vì sao và Bắc Lạp Sư Môn khổng lồ đều biến mất, hai chân lại một lần nữa chạm vào mặt đất, y mở mắt nhìn ra, chỉ thấy bốn bề tối đen, bóng cây chằng chịt, như yêu ma quỷ quái đi lại, trên người đều ướt đẫm mồ hôi lạnh, bỗng nhiên một trận gió thổi qua, bất giác lạnh rùng mình.
Y véo mạnh một cái vào đùi, cảm thấy rất đau, mới tin lúc này không phải trong mơ. Y hồi tưởng lại, bản thân đang ngủ ngon trong sơn động, nhưng không biết vì sao lại đến đây. Đang cảm thấy khó hiểu, chợt nghe thấy một tiếng mèo kêu, đưa mắt nhìn, thì thấy Bắc Lạp Sư Môn ngồi chổm phía đằng xa, đang liếm móng vuốt của mình. Lục Tiệm nghi hoặc không dứt, tự hỏi: "Tại sao ta lại đến đây?".
Bỗng nhiên nghe giọng nói của Ngư hoà thượng văng vẳng vọng đến: "Ngươi chạy được hơn hai mươi dặm, chẳng lẻ tự mình không biết sao?". Lục Tiệm quay đầu lại, chỉ thấy Ngư hoà thượng đứng thẳng ngoài trượng, sắc mặt lo buồn, bất giác ngơ ngác nói: "Đại sư, ta đang nằm mơ, trong mơ có người gọi ta, ta bèn đi theo giọng nói đó". Lập tức đem sự tình trong mơ kể lại rõ ràng.
Ngư hoà thượng nói: "Ngươi có nhớ giọng nói gọi ngươi không?". Lục Tiệm trầm ngâm nói: "Nghe rất quen tai, giống như, giống như ...". Chợt nhiên sắc mặt trắng bệch, trợn mắt cứng lưỡi.
Ngư hoà thượng thấy thần sắc của y, hỏi: "Giống của ai?". Lục Tiệm khó nhọc nói: "Giống ... giống Ninh Bất Không".
Ngư hoà thượng thì không kinh ngạc, gật đầu nói: "Quả nhiên là 'Triệu Nô' chi thuật, chiếu theo đệ nhất luật của Hắc Thiên Thư, kiếp chủ sống thì kiếp nô sống, kiếp chủ chết thì kiếp nô chết, do đó kiếp chủ ngộ hiểm, có thể dùng thần thức kêu gọi kiếp nô đến cứu. Phương pháp này tuy rằng ta có nghe qua, nhưng chưa từng đích thân nhìn thấy. Lúc này, chắc hẳn là Ninh Bất Không dùng phương pháp này, gọi ngươi quay về".
Lục Tiệm nghe vậy toát mồ hôi lạnh, cả kinh nói: "Vậy há không phải Ninh Bất Không bất kỳ lúc nào đều có thể gọi ta quay về".
Ngư hoà thượng lắc đầu nói: "Cũng không hoàn toàn là vậy, ta tự có cách phá giải".
Lục Tiệm lấy lại tinh thần, được một lúc hỏi: "Nhưng ... nhưng tại sao trong mơ Lục Tiệm lại thấy Bắc Lạp Sư Môn?". Ngư hoà thượng trầm ngâm nói: "Việc này Ngư hoà thượng cũng không hiểu. Con mèo này quá nhiều cổ quái, ví như y vốn chỉ nhận con gái là chủ nhân, tại sao lại đi theo ngươi? Như hôm nay lại vào trong mộng của ngươi, phá giải Triệu Nô chi thuật của Ninh Bất Không, thực là làm cho người ta không có cách gì hiểu được".
Lục Tiệm trong lòng bất giác sinh kính sợ, ôm Bắc Lạp Sư Môn, than: "Bắc Lạp Sư Môn, cám ơn ngươi nhiều". Bắc Lạp Sư Môn vẫn uể oải, chỉ lo thè lưỡi liếm lông trắng mềm nhỏ.
Lại nghe Ngư hoà thượng nói: "Ngươi nói trong mơ nhìn thấy Tam Viên đế tinh sao?". Lục Tiệm gật đầu nói: "Đúng vậy, chỉ là bị sương mù bao phủ, nhìn không được rõ".
Ngư hoà thượng cúi đầu nghĩ ngợi một lúc, than: "Rất tốt, quay về thôi".
Hai người quay về huyệt động, Lục Tiệm lại nằm xuống. Y trong mơ chạy hai mươi dặm, mệt mỏi không chịu được, chốc lát đã ngủ thiếp đi, lần này không có dị mộng, mờ mờ ảo ảo cảm thấy một luồng ấm áp to lớn dần dần lưu chuyển trong cơ thể, thập phần dễ chịu.
Lần này ngủ đến khi mặt trời lên ngọn cây, y mới tỉnh lại. Đưa mắt nhìn, chỉ thấy Ngư hoà thượng quay lưng lại phía mình, nghiêm túc ngồi phía xa, trông ở phía sau lưng, càng thấy gầy nhỏ khô đét.
"Ngươi tỉnh rồi sao?". Sau đầu Ngư hoà thượng giống như mọc mắt: "Hôm nay chúng ta nói đến câu chuyện thứ hai, nói về một môn võ công".
Lục Tiệm lấy làm lạ hỏi: "Võ công?"
Ngư hoà thượng nói: "Nếu nói về môn võ công này, cần phải bắt đầu nói về một đôi nam nữ. Người con trai trong họ, biệt hiệu 'Kính Thiên', thiên sinh thông tuệ, tập hợp sở trường của nhiều nhà, lúc y ba mươi tuổi, thiên hạ đã không có địch thủ; còn người con gái đó, lại là đệ tử duy nhất của vị đại toán gia nói đến hôm qua, mọi người gọi là 'Phong Hậu'. Kính Thiên, Phong Hậu vang danh nhân thế, nếu luận võ công, Kính Thiên hơn một bậc, nhưng không may là Kính Thiên lại một mực yêu thương người con gái có biệt hiệu Phong Hậu kia".
"Tương Vương hữu mộng, thần nữ vô tâm. Kính Thiên mến mộ Phong Hậu, trong lòng Phong Hậu thì lại có người khác. Nhưng cũng rất không may, người mà nàng mến mộ lại là sư phụ đã có hôn phối, do đó đoạn tình duyên này như hoa trong gương, như trăng đáy nước, không bao giờ nắm bắt được. Sau đó, cũng không biết do nguyên cớ gì, người thân bằng hữu của Kính Thiên và Phong Hậu phát sinh xung đột to lớn, lúc đầu sư phụ của nàng vẫn còn ở trung thổ, còn có thể áp chế được tâm ma của nàng. Không ngờ vị đại toán gia đó vì tiêu trừ tai kiếp thần binh, rốt cuộc cáo biệt cố thổ, cùng thể tử viễn tẩu hải ngoại. Phong Hậu lúc đó ở xa Tây Vực, sau đó biết được, bi thống vô cùng, tiếp đó từ bi thương chuyển thành oán hận, một mực cho rằng thân bằng của Kính Thiên bức sư phụ rời đi. Lời nói hai bên không hợp, xuất thủ giao chiến, thân bằng của Kính Thiên không có ai địch được Phong Hậu, nhiều người thân thụ trọng thương, Kính Thiên bất đắc dĩ đích thân ra tay. Hai người giao đấu kịch liệt một trận, Phong Hậu chung quy bại trận, nhưng Kính Thiên lại không cách gì ra tay giết nàng, thậm chi không lo đắc tội với người thân, phóng thích nàng đi".
Lục Tiệm nghe đến đây, trong lòng nghĩ: "Phong Hậu này, nghe ra cũng là một người con gái thông tuệ, nhưng vì sao cố chấp như vậy; còn như vị Kính Thiên kia, lại là một người si tình". Nghĩ đến đây, bất giác nhớ đến Diêu Tình, tưởng tượng bản thân nếu như là Kính Thiên, Diêu Tình lại là Phong Hậu, đối mặt với tình trạng bế tắc như vậy, lại như thế nào?
Tâm trí của y thoăn thoắt, chìm đắm trong tưởng tượng, chợt nghe Ngư hoà thượng nói: "Hài tử, ngươi đang nghĩ gì vậy?".
Lục Tiệm cả kinh, lại thấy Ngư hoà thượng đã quay người lại, nhìn chăm chăm vào mình, sắc mặt bất giác hồng lên, lúng búng nói: "Không, không nghĩ gì cả".
Ngư hoà thượng nói: "Câu chuyện này liên quan rất lớn đến ngươi, ngươi cần phải dụng tâm nghe cho kỹ". Lục Tiệm lấy làm lạ hỏi: "Có liên quan gì với Lục Tiệm?".
Ngư hoà thượng vẫn không trả lời, cười cười, tiếp tục nói: "Hãy nói sau khi Phong Hậu thua trận, trong lòng căm phẫn, khổ luyện võ công, sau đó lại khiêu chiến với Kính Thiên vài lần, nhưng đều thua. Phong Hậu dưới sự hổ thẹn và tức hận, quyết ý mở một lối đi khác, sáng tạo ra một môn võ công mới, xuất kỳ chế thắng. Dưới sự suy tưởng của nàng, liền nghĩ đến 'Ẩn Mạch'".
Lục Tiệm nhịn không được hỏi: "Cái gì gọi là Ẩn Mạch?".
Ngư hoà thượng nói: "Tự cổ, người học võ trong trung thổ tu luyện nội công, luyện đều là Thiếu Âm, Thiếu Dương, Thái Âm, Thái Dương, Quyết Âm, Dương Minh mười hai kinh mạch các loại và kỳ kinh bát mạch. Võ học của Thiên Trúc và Thổ Phồn luyện thì là 'Tam Mạch Thất Luân', tên gọi tuy không giống nhau, nhưng đại để giống nhau, không có nhiều khác biệt, là dùng những kinh, mạch, luân, đều gọi chung là 'Hiển Mạch'. Chỉ là, vạn sự vạn vạn vật, có chính tất có phản, có hiển tất có ẩn. Nếu như nói Hiển Mạch là giang hà hồ hải trên mặt đất, vậy thì Ẩn Mạch chính là ám lưu âm hà trong lòng đất sâu, khác hẳn bất kỳ một kinh, một mạch, một luân nào trong Hiển Mạch, tự thành thể hệ, ẩn giấu ở nơi sâu nhất thần bí nhất trong cơ thể người, tự cổ đến nay, chưa từng có người phát hiện, cũng chưa từng ký tải ở bất kỳ điển tích của y gia nào".
Lục Tiệm nghe đến nhập thần, hỏi: "Đã không có người phát hiện, Phong Hậu làm sao lại phát hiện được?".
Ngư hoà thượng nói: "Đó không phải Phong Hậu phát hiện ra, mà là do sư nương của nàng phát hiện. Sư nương của nàng một vị đại thần y, tinh thông kinh mạch. Nàng ta trong lúc ngẫu nhiên, phát hiện ở nơi kinh mạch bình thường, còn có mạch lưu ẩn giấu khác, lập tức tham cứu, trước sau phát hiện ba mươi mốt mạch lưu ẩn, bởi vì mạch tính đó khác nhau rõ ràng với kinh mạch bình thường, do đó gọi là Ẩn Mạch. Trượng phu của nàng ta chính là vị đại toán gia đó sau khi nghe nói, cho rằng ba mươi mốt Ẩn Mạch này ám hợp thiên số, bèn dùng 'Tam Viên nhị thập bát tú' đặt tên".
Lục Tiệm nghe nói đến đây, tim bất giác đập mạnh, hô hấp cũng trở nên dồn dập, những lời này của Ngư hoà thượng nói không phải là cái khác, chính là nói về lai lịch của Hắc Thiên Thư.
Lại nghe Ngư hoà thượng tiếp tục nói: "Y đạo của nữ thần y đó thần thông, đương thế vô song. Nàng ta biết rõ Ẩn Mạch và Hiển Mạch khắc chế lẫn nhau, nếu như tuỳ tiện mở Ẩn Mạch ra, chỉ có hại không có lợi, do đó tuy rằng phát hiện, nhưng bí mất không nói ra ngoài, chỉ ghi lại trên chổ trống của một bộ y thư, để cho mai sau tra cứu. Không ngờ bộ y thư này, thần xui quỷ khiến, lại rơi vào tay Phong Hậu. Phong Hậu thất bại nhiều lần, bèn tìm cách mở Ẩn Mạch ra, muốn luyện ra một môn kỳ công trước nay chưa từng có, mà người có tư chất duy nhất trong thiên hạ, ngoại trừ sư phụ của nàng, chính là Kính Thiên, người có thể thắng nàng.
Phong Hậu biết rõ Kính Thiên đối với mình tình ý thâm sâu, liền hẹn Kính Thiên cùng xem xét nghiên cứu, tìm phương pháp mở Ẩn Mạch, Kính Thiên bị tình kềm hãm, không nghi ngờ gì, người này cũng là kỳ tài cái thế, hai người đồng tâm hiệp lực, chung quy tìm được biện pháp mở Ẩn Mạch ra, ghi chép lại, cũng chính là Hắc Thiên Thư sau này.
Ngư hoà thượng nói đến đây, ngừng lời không nói, Lục Tiệm không nhịn được hỏi: "Sau đó thì sao?".
Ngư hoà thượng lắc đầu nói: "Sự việc sau đó, hoà thượng cũng không biết. Hoà thượng chỉ biết, từ đó về sau, Kính Thiên và Phong Hậu tuyệt tung tuyệt tích, cũng không còn bất kỳ tin tức gì".
Lục Tiệm thất vọng vô cùng, vốn cho rằng có thể từ trong câu chuyện tìm được cách giải thoát Hắc Thiên Kiếp, không ngờ kết cục lại như vậy. Nhưng xoay chuyển ý nghĩ, lại cảm thấy vui mừng thanh thản, nói: "Có lẽ Kính Thiên, Phong Hậu sau khi trải qua việc đó, chung quy kết thành phu phụ, không cần phải xuất đầu lộ diện nữa".
Ngư hoà thượng lắc đầu nói: "Sợ là sợ hai người bọn họ không phải là phu phụ, mà là chủ nô". Lục Tiệm trong lòng trầm xuống, chợt nhớ đến đệ nhất luật của Hắc Thiên Thư. Hắc Thiên Thư một khi do hai người hợp sáng, vậy thì hai người chưa chắc có thể thoát khỏi luật thép này, nếu như là vậy, thật là bi kịch vô cùng.
Ngư hoà thượng nói xong câu chuyện, liền lập tức khởi hành, khi Ngư hoà thượng hành tẩu, bước đi trầm trệ, không còn nhanh nhẹn như trước, Lục Tiệm thì thần khí sung túc, hai ba bước đã giành lên trước mặt Ngư hoà thượng, quay đầu cười nói: "Đại sư, đêm qua ngủ không đủ sao? Tinh thần của đại sư hôm nay không được tốt lắm".
Ngư hoà thượng cười cười: "Hoà thượng cao tuổi rồi, không như ngươi trẻ tuổi lực cường".
Lục Tiệm hích hích cười mãi, chợt nghe Bắc Lạp Sư Môn trong lòng kêu một tiếng, bèn nói: "Bắc Lạp Sư Môn, ngươi đói rồi sao? Đợi chút mà có khe suối nhỏ, ta bắt cá cho ngươi ăn". Giọng nói còn chưa dứt, Bắc Lạp Sư Môn lại kêu hai tiếng, không biết tai sao, Lục Tiệm bèn cảm thấy rùng mình sởn tóc gáy, loại dị cảm này, hôm ấy khi nghĩ cách cứu viện A Thị cũng từng xuất hiện.
Lục Tiệm nghĩ ngợi, bỗng nhiên hiểu ra, buột miệng nói: "Đại sư cẩn thận". Kêu xong nhảy nhanh về phía sau, đẩy Ngư hoà thượng ngã trên mặt đất, tiếng nổ vang lên bên tai, nơi hai người đứng lúc trước, khói bụi bắn lên mù mịt.
"Súng Điểu". Tâm niệm của Lục Tiệm loé lên, đỡ Ngư hoà thượng, nhấc chân chạy nhanh. Tiếng súng Điểu phía sau vang lên hết đợt này đến đợt khác, bỗng nhiên thân thể của Ngư hoà thượng chấn động, biến thành thập phần nặng nề, nhưng Lục Tiệm không kịp nghĩ nhiều, chỉ lo chạy nhanh.
Tai nghe tiếng súng Điểu kia dần dần thưa lại, đằng trước bỗng truyền lại tiếng nước róc rách, đi vòng qua một khoảnh rừng trúc xanh biếc, chỉ thấy sông lớn phía trước cuộn chảy, nước trong như dải lụa trắng, ánh mặt trời dọi sáng mặt nước, toé ra vạn điểm vụn màu vàng.
Lục Tiệm thở dốc một hơi, quay đầu nhìn lại, bất giác thất sắc kinh ngạc, chỉ thấy chân phải của Ngư hoà thượng bị máu tươi nhuộm đỏ, lỗ đạn từ trong vết máu lộ rõ ràng. Nên biết Ngư hoà thượng thân mang Đại Kim Cang Thần Lực, kim cang bất hoại, hôm đó từng dựa vào tấm thân máu thịt đó, chặn đứng loạt súng Điểu của Kim Xuyên, không ngờ hôm nay lại không cản được một viên đạn chì. Lục Tiệm vừa kinh hãi vừa bi thương, bất giác buột miệng nói: "Đại sư, người làm sao ...".
Ngư hoà thượng không đợi y nói hết, chặn miệng cười nói: "Không sao cả, hoà thượng sơ ý một chút".
Chợt nghe Bắc Lạp Sư Môn lại kêu lên một tiếng, dị cảm trong lòng Lục Tiệm lại xuất hiện, hai tay vội vàng tiếp xúc mặt đất, bỗng nhiên cảm nhận được: bốn người tám chân, đang dùng cước bộ nhỏ nhẹ rời rạc chạy lại gần, gần đến nơi, đột nhiên phân thành hai đội, trái phải lướt ra.
Lục Tiệm nhắm mắt lặng lẽ đếm: "Hai người lên cây trúc, một người trong đất, còn một người ..." . Ý nghĩa chưa dứt, một tiếng nước vang lên, một đạo hắc ảnh từ trong sông nhảy vọt lên, Oa đao trong tay nhằm đầu bổ thẳng xuống, thì ra trong chớp nhoáng, địch nhân đã vòng đến sau lưng hai người.
Nhưng hắn nhanh, Lục Tiệm lại càng nhanh, không phải là hướng về trước, mà là nghênh theo mũi đao đâm ra phía sau, nhẫn giả đó không ngờ đao chưa bổ xuống, địch nhân trước mắt đã biến mất, tiếp đó lồng ngực bị đụng mạnh, cổ họng hơi ngọt, chuôi đao trong tay nện mạnh lên vai của Lục Tiệm.
Lục Tiệm rên thảm một tiếng, hai tay giơ lên, nắm lấy hai tay của nhẫn giả. Rắc một tiếng, nhẫn giả đó thất thanh kêu thảm, hai ngón tay út bị Lục Tiệm vặn gẫy, trường đao rời tay, Lục Tiệm một tay đón lấy, nghĩ cũng không nghĩ, ra sức ném, ném vào ba thước bên phải của Ngư hoà thượng, ngập vào đất đến tận chuôi. Trong sát na, một dòng suối máu thuận theo chuôi đao trào ra, chỗ đất đó lay động, bất thình lình toạc ra, một tên đàn ông bịt mặt nhảy lên, hậu tâm lộ ra một đoạn chuôi đao, hắn xiêu xiêu vẹo vẹo đi được hai bước, đổ rầm xuống đất, không động đậy nữa.
Lục Tiệm lúc này đã rơi vào trong nước. Lục Tiệm lớn lên ở ven biển, thường ngày mò tôm bắt cá, công phu bơi lặn một tuần trà cũng là bình thường, một khi vào nước, liền quấn chặt lấy nhẫn giả kia mà đánh. Nhẫn giả đó thuỷ tính không phải là cực giỏi, cảm thấy vướng chân vướng tay, sốt ruột muốn giải quyết đối thủ, bèn vội xuất thủ, muốn lấy binh khí. Lục Tiệm nhờ vào hai tay, tình cảnh dưới nước hiểu rõ như lòng bàn tay, vừa cảm thấy được ý đồ của người đó, bèn giành trước mò ra từ hông của y hai mũi cương tiêu. Người đó vừa mò nhưng bị hẫng, chợt cảm thấy bên hông đau nhói, hai mũi cương tiêu đã xộc vào người, lập tức nhịn đau, mò truỷ thủ sau lưng, không ngờ một lần nữa lại bị hẫng, sau lưng lại nhói đau.
Nhất thời, Lục Tiệm nhờ vào nhanh tay, đoán trước tiên cơ, mò loạn trên toàn thân người đó, phàm mò được truỷ thủ, cương lăng đều đâm lên người tên nhẫn giả đó. Đợi đến khi đâm lần thứ bảy, tên nhẫn giả đó không còn động đậy nữa, trợn trừng mắt chìm xuống đáy sông. Hắn đến chết vẫn không hiểu vì sao binh khí của mình đang yên đang lành, đều lọt vào tay đối phương.
Lục Tiệm chui ra khỏi mặt nước, chỉ cảm thấy kiệt sức, thấy Ngư hoà thượng ngồi bên bờ phía đằng xa, đang nhìn vào trong nước, thấy Lục Tiệm chui lên, mới thở phào một hơi. Lục Tiệm bò lên bờ, lải nhải nói: "Đại .. .đại sư, còn hai tên trong rừng trúc".
Ngư hoà thượng than: "Nhẫn giả đều là thích khách, một kích không trúng, thế tất trốn xa. Ngươi giết chết Nhẫn Nhị và Nhẫn Thập Nhất, những người khác đã chạy xa rồi".
Lục Tiệm định thần nhìn lại, chỉ thấy góc áo của thi thể trên mặt đất kia thêu một chữ "nhị" màu bạc, tưởng rằng là Nhẫn nhị; còn như nhẫn giả trong nước kia, chắc hẳn là Nhẫn thập nhất. Lục Tiệm nhớ lại ác chiến sinh tử khi nãy, hai tay bất giác run rẩy, sống mũi bỗng nhiên cay cay, nằm phục xuống đất khóc lóc.
Ngư hoà thượng biết y liên tiếp giết ba người, lòng hổ thẹn day dứt, bèn vuốt đầu y, than: "Hảo hài tử, đừng khóc, đám nhẫn giả này, ngươi không giết y thì y giết ngươi, trong lúc sống chết, vốn dĩ không chú ý được nhiều".
Lục Tiệm khóc một trận, mới bình tĩnh, lau nước mắt hỏi: "Đại sư, đám nhẫn giả này tại sao lại truy sát người?".
Ngư hoà thượng than: "Đó là câu chuyện thứ tư". Vừa nói vừa đưa mắt nhìn ra con sông lớn kia, nói: "Hôm nay tạm thời không đi nữa, ngươi đỡ ta đi rừng trúc, chúng ta nói câu chuyện thứ ba".
Lục Tiệm rút trường đao trên lưng của nhẫn giả kia ra, đỡ Ngư hoà thượng vào trong rừng trúc, chặt trúc, đốt lên một đống lửa. Ngư hoà thượng cũng lấy một mũi cương tiêu không độc, moi đan chì trên đùi ra, dùng vải băng bó lấy, chợt thấy Lục Tiệm vừa từ ngoài rừng trúc quay về, tay cầm cần trúc vót nhọn, phía trên xâu mấy con cá lớn, bất giác cười nói: "Bản lãnh bắt cá của ngươi cũng không tệ".
Lục Tiệm nói: "Không biết vì sao, Hắc Thiên Thư luyện thành, Lục Tiệm không cần dùng mắt, dùng tay liền có thể cảm nhận được tình hình dưới nước, có cá đi qua, một đâm liền trúng".
Ngư hoà thượng gật đầu nói: "Nếu không có Hắc Thiên Kiếp, bộ võ kinh Hắc Thiên Thư này có thể nói là thiên hạ đệ nhất lưu".
Hai người nướng cá ăn, Lục Tiệm thấy sắc khí của Ngư hoà thượng suy bại vô cùng, bèn nói: "Đại sư người ngủ một lúc đi, Lục Tiệm giúp người trông chừng".
Ngư hoà thượng cười nói: "Không cần, hoà thượng sợ một khi ngủ, thì không tỉnh lại được". Chợt thấy sắc diện của Lục Tiệm lộ ra vẻ kinh hãi, hai mắt ửng đỏ, vội nói: "Hài tử, đừng lo lắng, hoà thượng nói đùa thôi, chẳng lẽ ngươi không muốn nghe câu chuyện thứ ba này sao?".
Lục Tiệm thấy Ngư hoà thượng cười nói vui vẻ, lúc này mới yên tâm lại, nói: "Tự nhiên là muốn nghe rồi".
Ngư hoà thượng nói: "Câu chuyện thứ ba chính là nói về một toà thành". Ngư hoà thượng nói đến đây, nhè nhẹ thở dài, "Hai trăm năm trước, người Nguyên vô đạo, chung quy dẫn tới trăm vạn hồng quân khởi nghĩa. Khi đó, nghĩa quân nổi dậy khắp nơi, cả trung thổ to lớn chìm trong hỗn loạn vô cùng. Quân đội người Nguyên cố nhiên hung tàn ác độc, trong nghĩa quân cũng là xấu tốt lẫn lộn. Ngươi từng gặp Thiên Thần Tông, chắc hẳn cũng biết y tự thị võ công, không gì không làm; thủ lĩnh nghĩa quân lúc đó phần lớn cũng như vậy, lòng không có chí lớn, chỉ ham hố dục vọng riêng, trước sau không ước thúc chặt chẽ binh sĩ. Có câu 'Sư hành như hoả', quân đội nếu không có kỷ luật ước thúc, so với ngọn lửa cháy cả cánh đồng còn đáng sợ gấp mười lần. Thường thường là quân Nguyên vừa mới tàn sát thiêu đốt, đám ô hợp nghĩa quân lại xúm xít đến, tự ý cướp bóc. Lão bá tánh khi đó trải qua những ngày tháng rất khổ, rất khổ".
Lục Tiệm nhịn không được nói: "Chẳng lẽ không có nghĩa quân tốt sao?"
Ngư hoà thượng nói: "Nghĩa quân tốt không phải không có. Nhưng trong loạn thế, thuật pháp gian lận lừa dối còn có tác dụng hơn nhân nghĩa đạo đức. Nếu không có thực lực hơn người, chỉ dựa vào đức hạnh, thì không thể sinh tồn được. Đám thủ lĩnh nghĩa quân có nhân có đức, không chết trong tay quân Nguyên, thì cũng chết trong tay đồng bào, bộ tướng, thực làm cho người ta đau lòng. Cứ như vậy, qua mấy lần chinh chiến, đồ thán ngàn vạn sinh linh, chung quy đổi được chút biến chuyển".
Ngư hoà thượng dừng lại, hỏi: "Lục Tiệm, còn nhớ hòn đảo ở biển đông trong câu chuyện thứ nhất không?".
Lục Tiệm nói: "Nhớ".
Ngư hoà thượng nói: "Dân đại Tống sống sót sau khi Tống bị vong trên đảo đó, không lúc nào không mưu toan khôi phục Hán thất. Mạt Nguyên đại loạn, đệ tử trên đảo bèn khởi binh ở đông nam, công phá châu huyện, cát cứ một phương, nổi danh thì có Trương Sĩ Thành và Phương Quốc Trân. Nhưng trải qua nhiều đời, hậu duệ của đám dân sống sót này, sớm đã quên đi ý niệm ban đầu của tiền nhân, một mực tham đồ quyền thế, tự cho là đúng, không những không nghĩ đến cơ đồ xã tắc, giải thoát dân khỏi vòng nguy khốn, ngược lại chạy theo dục vọng riệng, tự đánh lẫn nhau, cứ thế bị quân Nguyên đập tan từng cái một. Cuối cùng, đại thừa tướng Nguyên triều Thoát Thoát đích thân suất lĩnh trăm vạn đại quân, vây chặt Trương Sĩ Thành ở Cao Bưu Thành, chuẩn bị một trận bình định tây nam, triệt để quét sạch nghĩa quân phía nam".
"Lúc đó sinh tử tuyệt cảnh, cao sĩ trí giả trên biển đông bị bức gạt bỏ hiềm khích, kết thành một khối. Tất cả đệ tử Đông Đảo, bất luận thân sơ quý tiện, tới tấp kéo về Cao Bưu. Trận chiến đó, có thể nói là kinh thiên động địa, nhật nguyệt vô quang. Quân Nguyên người đông thế mạnh, ngoài thành Cao Bưu gần như bị dẹp yên, trong thành cũng hết sức nguy ngập. Ai ngờ đệ tử Đông Đảo không chỉ xem nhẹ cái chết, mà còn chế tạo ra nhiều vũ khí đáng sợ, nhiều lần gây thiệt hại nặng cho quân Nguyên. Song phương giằng co khổ chiến, được mấy tháng, đại quân Nguyên triều chung quy bị đánh tan. Thoát Thoát cũng bị miễn chức. Từ đó về sau, triều đình nhà Nguyên không còn sức tụ tập trọng binh, bị bức phải vứt bỏ đông nam, lùi lại thủ phía bắc".
"Giả sử lúc đó, đệ tử Đông Đảo vẫn có thể đồng tâm hiệp lực, có thể thừa thắng bắc phạt. Nào ngờ, cường địch mới rút, trong đảo lại bởi vì công thưởng bất nhất, sinh ra bất đồng. Trong chớp mắt, phương nam lại một lần nữa chìm vào hỗn chiến, bá tánh lại rơi vào trong nước sôi lửa bỏng. Cũng tại lúc này, một thanh niên trẻ tuổi, một mình một thuyền, từ hải ngoại quay về, đặt chân lên vùng đất Giang Nam ...".
Lục Tiệm buột miệng nói: "Là vị đại toán gia kia sao?".
Ngư hoà thượng cười nói: "Nếu tính niên kỷ, vị đại toán gia kia đã hơn trăm tuổi, làm sao có thể gọi là thanh niên?".
Lục Tiệm hơi cảm thấy thẹn thùng, ngượng ngùng nói: "Vậy là hậu nhân của vị đại toán gia kia?".
Ngư hoà thượng nói: "Rất nhiều người đều cho rằng như vậy. Nhưng bởi vì nhiều nguyên nhân, thân thế của người này từ đầu đến cuối vẫn là một câu đố, cho dù nhiều năm sau đó, y đối với sự việc cũ trước khi đến trung thổ cũng không mở miệng nhắc đến, thậm chí danh tánh của y, cũng không có mấy người biết đến. Năm đó hoà thượng trẻ tuổi hiếu sự, nghe sư phụ nói đến người này, lấy làm ngưỡng mộ, đi khắp nơi sưu tầm thân thế của y, thậm chí lén vào hoàng cung đại nội, lật xem tư liệu".
"Lén vào hoàng cung đại nội?", Lục Tiệm thất thanh nói: "Đại sư thật can đảm a!".
Ngư hoà thượng lắc đầu nói: "Hoàng cung đại nội cũng không phải là long đàm hổ huyệt gì. Nói đến gan dạ, hoà thượng so sánh với người thanh niên kia thì còn kém xa. Vì điều tra rõ thân thế của y, hoà thượng trước sau ra vào đại nội bảy lần, chung quy cũng có phát hiện, trong một tấu chương cũ rách, khi nhắc đến y, gọi là 'Lương nghịch', đủ thấy y và vị đại toán gia kia cùng họ; ngoài ra, lại có một tờ tấu gọi y là 'Tặc Tư Cầm', đủ thấy y họ Lương tên Tư Cầm".
Lục Tiệm lầm rầm nói: "Lương Tư Cầm sao?".
Ngư hoà thượng gật đầu nói: "Lại nói vị Tư Cầm tiên sinh quay về trung thổ, mắt thấy chiến loạn thê thảm, trong lòng như dao cắt, liền động ý định cứu vớt thiên hạ. Nhưng tính tình của y lạnh nhạt, hoàn toàn không có dã tâm vương bá, nhìn chung quần hùng phương nam, phần lớn tham lam bạo ngược, duy chỉ có Thái Tổ bản triều, Hồng Võ đế Chu Nguyên Chương ôm ấp chí lớn, đối đãi lương thiện với bá tánh, chỉ khổ là địa thế bất lợi, bị quần hùng Đông Đảo bao vây, đầu đuôi không chăm lo được cho nhau, tình thế thập phần bất lợi.
"Tư Cầm tiên sinh thấy tình hình như vậy, bèn đầu nhập dưới trướng Hồng Võ đế, giúp Hồng Võ đế trị quân chỉnh võ, kiến tạo lợi khí công thủ, liên tiếp đả bại đệ tử Đông Đảo. Quần hùng Đông Đảo cảm thấy bất diệu, lại một lần nữa liên hợp với nhau, vây giết Hồng Võ đế. Trong nhất thời, hai bên đều kiến tạo vũ khí đáng sợ đồ sộ, huy động hàng chục vạn đại quân, đánh đến khó phân thắng bại, nhưng rốt cuộc Tư Cầm tiên sinh trí cao hơn một bậc, vô luận Đông Đảo vận dụng bất kỳ mưu kế cơ quan nào, đều bị phá giải, lại thêm Hồng Võ đế hùng tài vĩ lược, trải qua vài trận đại chiến, cuối cùng bức được quần hùng Đông Đảo vào tuyệt cảnh. Lúc này người trong Đông Đảo mới biết là Tư Cầm tiên sinh ngấm ngầm gây khó khăn, liền đoán ra lai lịch của y, song phương trăm năm thù cũ, lại thêm hận mới, lập tức theo quy cũ võ lâm, ký đao lưu giản, hẹn mười năm tháng tám, trên đảo Linh Ngao, tỉ võ luận đạo, nhất chiến sinh tử".
Ngư hoà thượng nói đến đây, bất giác thở dài một tiếng, nói: "Nói đến Đông Đảo nhất mạch, vốn là trí tuệ uyên thâm, võ công thông huyền, nếu như dùng vào chính đạo, chính là phúc của cõi đời. Nhưng bọn họ nhập thế quá sâu, một khi có liên quan đến quyền lực tài phú, liền không thể khắc chế được dục vọng riêng, dần dần hủ hoá mà tự mình không biết, tất cả tài trí võ công, ngược lại thành lợi khí gây hoạ cho thiên hạ. Thậm chí đến tình cảnh ấy, còn muốn nhờ vào võ lực, gắn chặt lấy quyền thế của Đông Đảo, có thể gọi là tẩu hoả nhập ma, đến chết vẫn không tỉnh ngộ".
Lục Tiệm cũng cho là đúng, liên tiếp kêu phải.
"Trận chiến Linh Ngao đảo, không chỉ quan hệ đến hưng suy của thiên hạ, mà còn có liên quan đến vận thế của võ lâm. Tổ sư Đại Khổ phái ta cũng từng có vinh hạnh quan chiến. Nghe nói lúc đó, tuyệt đỉnh cao thủ của Đông Đảo dốc toàn lực mà ra, tiến hành bày bố thế trận trước, chuẩn bị để Tư Cầm tiên sinh có đến mà không có về. Cho đến khi đêm khuya sắp tàn, trăng tròn lặn phía tây, Tư Cầm tiên sinh cũng chưa lộ diện, các đại cao thủ của Đông Đảo đều cho rằng Tư Cầm tiên sinh không dám đến, đang xôn xao nghị luận, chợt nghe trên biển truyền lại tiếng tiêu, Tư Cầm tiên sinh một người một tiêu, chân đạp một chiếc thuyền lá mảnh mai, ung dung lướt đến".
Lục Tiệm cả kinh nói: "Một mình Tư Cầm tiên sinh sao?".
Ngư hoà thượng nói: "Tư Cầm tiên sinh ở trung thổ không có bằng hữu thân thích, dẫu cho có bà con họ hàng xa thì cũng ở Đông Đảo. Chỉ là, Đông Đảo tuy rằng người đông thế mạnh, nhưng cũng không ngờ đến một việc".
Lục Tiệm vội nói: "Việc gì?".
"Đó chính là 'Chu Lưu Lục Hư Công'!". Ngư hoà thượng nói: "Môn võ học này, trên Linh Ngao đảo, lần đầu tiên hoành không xuất thế, làm cho người của Đông Đảo trở tay không kịp. Võ công tầm thường bất qaú nhờ vào lưỡi đao quyền cước, nhưng Chu Lưu Lục Hư Công này lại có thể chế ngự các loại năng lượng lớn trong thiên hạ, thiên địa sơn trạch, phong lôi thuỷ hoả, không gì không thành lợi khí, có thể nói đã không phải là võ công của nhân gian. Trận chiến này, Đông Đảo đối với Chu Lưu Lục Hư Công không có cách nào có thể thi triển, bị Tư Cầm tiên sinh liên tiếp đả bại chín đại cao thủ, cuối cùng tất cả đều lên công kích, vẫn thất bại thảm hại, Tư Cầm tiên sinh trên thạch nhai bên bờ đảo rạch đá viết: 'Hữu bất hài giả ngô kích chi'. Từ đó về sau, bảy chữ này uy chấn võ lâm, còn Đông Đảo thì lại ngã gục không gượng dậy được, không còn sức tranh đoạt thiên hạ nữa.
Sau đó Hồng Võ đế không còn địch thủ nữa, lần lượt bình định phía nam, đồng thời dựa vào thế như chẻ tre, xuất quân bắc phạt, diệt vong Nguyên triều, khôi phục Đại Hán. Nhưng đến lúc này, giữa Hồng Võ đế và Tư Cầm tiên sinh lại có sự chia rẽ vô cùng lớn, cuối cùng trở mặt thành thù".
Lục Tiệm kinh ngạc nói: "Tư Cầm tiên sinh giúp Hồng Võ đế nhiều như vậy, giao tình nhất định rất tốt, tại sao lại sinh ra sự chia rẽ chứ?".
Ngư hoà thượng than: "Đối với đế vương mà nói, giao tình có sâu đậm thêm nữa, cũng không quan trọng bằng quyền thế. Khi đó, Tư Cầm tiên sinh có nói hai câu, phạm đến đại kỵ của Hồng Võ đế".
Lục Tiệm hỏi: "Hai câu gì?".
Ngư hoà thượng nói: "Câu thứ nhất gọi là 'Ức Nho thuật', câu thứ hai chính là 'Hạn hoàng quyền'".
Lục Tiệm nghe vậy, cũng không thấy có gì đặc biệt, ngờ nghệch không biết vì sao hai câu nói cỏn con này, có thể làm cho bằng hữu trước kia trở mặt thành thù.
Ngư hoà thượng nhìn ra tâm tư của y, nói: "Hai câu này tuy chỉ vỏn vẹn sáu chữ, lại liên can đến hai hủ tục lớn của Hoa Hạ ta tự cổ đến nay. Từ 'Bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật' triều Hán đến nay, kiểm tra đánh giá nhân tài, đều dựa vào Nho học làm tiêu chuẩn. Mà Tư Cầm tiên sinh lại cho rằng, Nho học bảo cổ biếm kim (ca ngợi người xưa, chê bai hiện nay), ngu dân tâm trí, lẽ nên phải tiến hành ức chế, thừa dịp tân triều vừa mới thành lập, khi chế độ còn chưa thành, đề xuất khoa cử tuyển sĩ không thể chỉ dựa vào Nho học làm khuôn mẫu, cần phải lập cửu khoa, toán khoa, cách vật khoa, thiên văn khoa, y khoa, nhạc khoa, hoạ khoa, thương khoa, tề dân khoa, bách công khoa các loại, phân biệt môn loại, kén chọn nhân tài".
Lục Tiệm hớn hở nói: "Như thế rất tốt a, tỉ như ra biển đánh cá, thì có rất nhiều cách, theo lý mà nói, còn phải lập một 'Xuất hải đả ngư khoa'".
Ngư hoà thượng lắc đầu nói: "Nếu phân chia như vậy, thì cũng quá tường tận. Chỉ cửu khoa đó thôi, thì đã gây chấn động trong triều ngoài nội. Không chỉ Hồng Võ đế tức giận, nho sinh trong triều càng nhao nhao nổi lên công kích, cho đến khai quốc danh thần như Từ Đạt, Lý Thiện Trường, Lưu Bá Ôn cũng gia nhập vào hàng ngũ phản đối. Hai bên trước triều biện luận nhiều lần, đều không có kết quả. Tư Cầm tiên sinh tính tình cô ngạo, trong lúc phẫn khích, rốt cuộc tự ý một mình mở quán thu đồ đệ, đồng thời thiết lập chín khoa trong quán. Cứ như thế, càng rước lấy oán hận của nho sinh. Như vậy cũng không nói, thật sự chọc tức Hồng Võ đế chính là câu sau 'Hạn hoàng quyền'".
"Nên biết, tự cổ đến nay, quân quyền là trời cho, thiên hạ này chính là đồ vật của một nhà một họ. Cha làm hoàng đế, tất nhiên con cũng là hoàng đế. Làm hoàng đế, tự nhiên cũng là muốn gì làm nấy. Khai quốc chi chủ, gọi là anh minh có lẽ hợp lý, còn con cháu đời sau thường thường người thông minh đảm đang lại ít, người bạo ngược vô đạo lại nhiều. Tỉ như Tần Nhị Thế, Tuỳ Dượng Đế đều là thiên cổ bạo quân, tự ý làm xằng làm bậy, không thương xót sức dân. Tư Cầm tiên sinh xét thấy như vậy, cho rằng nếu như không hạn chế quyền lực của hoàng đế, tất yếu là tai hoạ của quốc gia, do đó đề ra 'Pháp tự dân xuất, quân quyền pháp thụ', cũng tức là nói, từ trong tứ dân 'Sĩ, nông, công, thương' chọn ra người đức cao vọng trọng, ký kết luật pháp, luật pháp một khi định thành, cho quyền quý như đế vương, cũng phải tuân theo, nếu không tuân theo, có thể theo pháp chế truất phế".
Lục Tiệm nghe vậy trợn mắt líu lưỡi, lầm rầm nói: "Vậy thì không hay rồi".
Ngư hoà thượng lấy làm lạ hỏi: "Vậy ngươi nói xem, không hay ra sao?".
Lục Tiệm nói: "Nếu là như vậy, Hồng Võ đế không cẩn thận phạm phải luật pháp, há không phải cũng bị phế truất!".
Ngư hoà thượng than: "Lời này vừa khéo cắt trúng chỗ cốt lõi. Lục Tiệm, là ngươi tự nghĩ ra sao?".
Lục Tiệm lắc đầu nói: "Đấy là Ninh Bất Không nói, y thường nói với Tín Trường, làm Hoàng đế không thể buông lơi nhất chính là quyền lực, một khi mất quyền lực, tất nhiên cũng mất mạng".
Ngư hoà thượng than: "Ninh Bất Không nói hoàn toàn không phải không có lý. Hơn nữa vị Hồng Võ đại đế này, tuy nói hùng tài đại lược, nhưng lại là vị hoàng đế đầu tiên từ xưa đến nay coi quyền lực như tính mạng, vừa thấy tấu chương của Tư Cầm tiên sinh, long nhan chấn nộ, bác bỏ ngay tại chỗ. Nếu đổi lại là người khác, tự nhiên biết khó mà lùi, ai ngờ vị Tư Cầm tiên sinh này lại có chút khí ngốc khác với phàm tục, lại viết tấu chương một lần nữa, còn thỉnh cầu quần thần định nghị. Như vậy, Hồng Võ đế đem lòng nghi ngờ, hoài nghi Tư Cầm tiên sinh muốn mượn vào luật pháp này, đoạt đi quyền lực của y. Nhưng Hồng Võ đế lo sợ bản lĩnh cao cường của Tư Cầm tiên sinh, bề ngoài không lộ thanh sắc, ngược lại còn bày tửu yến trong cung, mời tiên sinh dự tiệc. Tư Cầm tiên sinh không nghi ngờ gì, vui vẻ phó yến, không ngờ Hồng Võ đế đã cho mai phục ba ngàn giáp binh trong cung, đồng thời trong rượu tiên sinh uống, hạ tuyệt độc kiến huyết phong hầu".
Lục Tiệm thất thanh nói: "Có lý nào lại như vậy?".
Ngư hoà thượng cười khổ nói: "Đây cũng chưa là gì, lòng nghi ngờ của Hồng Võ đế lúc cuối đời càng nặng, gần như đem công thần ngày trước tàn sát hết, chỉ hai vụ nghịch án Hồ Duy Dung và Lam Ngọc, đã liên quan giết hại hơn bốn vạn người. Ừ, chuyện phiếm không bàn nữa, lại nói Tư Cầm tiên sinh nhận lời vào cung, Tư Cầm tiên sinh vốn dĩ uống rượu giỏi, rượu rót vào chén, hoàn toàn không từ chối, nửa buổi liên tiếp uống cạn ba bình ..."
"Không đúng". Lục Tiệm vội nói, "Đại sư không phải nói là trong rượu có độc sao? Tư Cầm tiên sinh sao có thể uống hết ba bình rượu?".
Ngư hoà thượng mỉm cười: "Câu hỏi này của ngươi, vừa vặn cũng là nghi hoặc của Chu Nguyên Chương lúc đó. Y chỉ sợ thái giám của mình hồ đồ lỡ việc, lấy nhầm rượu, bèn lệnh mang thêm rượu độc. Cứ thế, chúng nhân từ giờ Mùi uống đến giờ Hợi, rượu độc cất giấu bí mật trong cung đều đã dùng hết, bình rượu rỗng trên bàn của Tư Cầm tiên sinh cũng hơn mười mấy cái, nhưng Tư Cầm tiên sinh từ đầu đến cuối vẫn nói cười như không, chỉ là ngoại trừ tiên sinh, những người khác không ai không biến sắc, Hồng Võ đế càng giống như ngồi trên lửa".
"Tư Cầm tiên sinh vẫn thong dong không vội, uống xong bình rượu cuối cùng, chợt nhiên cười hỏi: 'Chu Quốc Thuỵ, còn rượu không? Nếu như còn rượu, có thể uống thêm'. Quốc Thuỵ là tên của Hồng Võ đế, Tư Cầm tiên sinh gọi thẳng họ tên của Hồng Võ đế, đủ thấy không còn lòng kính trọng. Hồng Võ đế thông minh ra sao, vừa nghe liền biết âm mưu bị vạch trần, lập tức im lặng không nói. Lúc này, Tư Cầm tiên sinh mới chầm chậm đứng dậy, nói: "Chu Quốc Thuỵ, ta muốn giết ngươi dễ như trở bàn tay. Ngươi tuy rằng ích kỷ độc ác, nhưng vẫn có thể được coi là cái thế kiêu hùng. Như hiện giờ thiên hạ mới định, một khi ngươi chết, thiên hạ này chỉ sợ lại rơi vào chiến loạn, nhưng nếu ngươi còn sống một ngày, bá tánh thiên hạ có thể hưởng thêm một ngày thái bình. Ngươi đã không chịu trao quyền cho dân, vậy mong học theo thánh vương ngày trước, tự xét tự kiểm, tự mình làm cho đúng'. Nói xong quăng chén, ung dung bước đi".
"Hồng Võ đế bị những lời đó của Tư Cầm tiên sinh nói đến nỗi vừa thẹn vừa giận, thấy tiên sinh đi xa, quăng chén làm hiệu, ba ngàn giáp binh nhất thời cùng xông ra, nhưng Chu Lưu Lục Hư Công của Tư Cầm tiên sinh xuất thần nhập hoá, lên trời xuống đất, gặp nước hoá rồng, giáp binh tuy đông, nhưng cũng không chạm được bóng của Tư Cầm tiên sinh".
"Tư Cầm tiên sinh chạy ra khỏi cung, triệu tập người trong chín khoa tình nguyện theo mình, đánh phá ra ngoài Nam Kinh. Hồng Võ đế phái binh truy đuổi, Tư Cầm tiên sinh vừa đánh vừa chạy một mạch về hướng tây, tuy có thiên quân vạn mã vây đuổi chặn đường, vẫn bị Tư Cầm tiên sinh chạy thoát. Hồng Võ đế nghe tin đại nộ, y đối với toán học và cơ quan học của Tư Cầm tiên sinh hết sức lo sợ, biết rõ tài trí của tiên sinh đến từ chín khoa, nếu người người trong thiên hạ đều như tiên sinh, giang sơn họ Chu của y há có thể vững vàng? Lập tức hạ chiếu, bắt giết những người của chín khoa chưa kịp rời khỏi, những người đã tháo chạy thì giết hết cả nhà, đồng thời cấm tuyệt chín khoa, đến toán khoa đã có từ đời Tuỷ Đường cũng đồng thời bị phế, dùng bát cổ để tuyển chọn nhân sĩ. Từ đó về sau, người đọc sách trong thiên hạ đều chìm đắm trong tứ thư ngũ kinh, không còn đột phá kiến thức mới, phần lớn trở thành hủ nho không biết quyền biến". Nói xong, Ngư hoà thượng thong thả than dài, lộ ra vẻ đáng tiếc.
"Sau đó thì sao?". Lục Tiệm nhịn không được hỏi: "Tư Cầm tiên sinh thế nào rồi?".
Ngư hoà thượng nói: "Tư Cầm tiên sinh trải qua mấy trận huyết chiến liên tục, khi chạy đến Tây Vực, ngoại trừ bảy người đệ tử, chỉ còn lại một nàng tiểu tì kè kè bên người. Tư Cầm tiên sinh thấy tình cảnh như vậy, thương tâm đau khổ, bất giác chảy nước mắt, thế là đem Chu Lưu Lục Hư Công, một phân thành tám, biến hoá thành 'Thiên, Địa, Phong, Lôi, Sơn, Trạch, Thủy, Hoả' tám loại thần thông, phân biệt ban cho tám người, đồng người sáng lập bát bộ, lệnh cho tám người mỗi người thống lĩnh một bộ, dùng thần thông của bát bộ, xây dựng một toà thành rộng lớn khoáng đạt trên núi Côn Lôn. Ngày thành trì hoàn thành, tiên sinh lấy tên là 'Để Chi Hạ Đô', ý tức là đô thành ở hạ giới của thiên đế, còn người trong võ lâm, lại so sánh nó với Đông Đảo, gọi là Tây Thành".
"Từ đó về sau, Tư Cầm tiên sinh ẩn cư trong thành, không dẫm chân vào thế tục nữa, cả ngày nghiên cứu toán đạo, truy cứu vật tính, thanh nhàn trải qua thời gian ba mươi năm. Ngày hôm đó, tiên sinh gọi người trong bát bộ vào trong đường nói: 'Ta lúc đầu tuổi trẻ bốc đồng, từ hải ngoại quay về trung thổ, muốn dùng tài học của mình tạo phúc cho bá tánh, đúng lúc mạt Nguyên tang tóc loạn lạc, thương sinh đau khổ, do đó phản lại tổ huấn, lạm dụng trí tuệ, tạo thành giết chóc vô biên. Tuy rằng về sau thống nhất thiên hạ, nhưng cũng chỉ lấp đầy lòng tham của kẻ thống trị tàn bạo, đại đạo của 'Ức Nho thuật' và 'Hạn hoàng quyền' rốt cuộc không thể thi hành".
"Tư Cầm tiên sinh nói xong, lấy ra bản thảo ghi chép nghiên cứu toán học, vật tính mà mình soạn, nói: 'Hiện nay dùng bát cổ lựa chọn nhân sĩ, ngu lộng vạn dân. Song dân trí một khi bị phong bế, muốn khai mở lại khó biết chừng nào. Tiên tổ nói rất đúng, trí tuệ chỉ có thể dùng đúng lúc thích hợp, đúng chỗ thích hợp. Nhược bằng không, thì giống như xuân khai thu cúc, đông phòng đào lý, trở thành yêu hồng không đúng thời tiết. Hiện nay dân trí không khai mở, còn chưa đủ để vận dụng trí tuệ của ta, nếu như rơi vào tay kẻ bất lương, chỉ thêm hậu hoạ vô cùng. Kẻ nghịch lại trời bất tường, hiện giờ ta đã biết, thiên cơ nhất mạch, cắt đứt tại hôm nay". Nói xong đem bản thảo tâm huyết cả đời đốt hết. Nhìn theo ánh lửa rừng rực, Tư Cầm tiên sinh chợ vỗ tay cười lớn, liên tục nói: 'Yêu Hồng đã rụng, thiên hạ thái bình, Yêu Hồng đã rụng, thiên hạ thái bình ....".
"Đốt xong bản thảo ghi chép, Tư Cầm tiên sinh lại lấy ra tám bức hoạ tượng, phân ra ban cho tám tên đệ tử, nói: 'Tám bức hoạ tượng tổ sư này, các bộ phải giữ gìn cẩn thận, không được để mất. Nếu không phải bất đắc dĩ, quyết không được để bát đồ hợp nhất, bởi vì bát đồ hợp nhất, thiên hạ vô địch. Hãy nhớ, hãy nhớ!'. Nói đến đây, Tư Cầm tiên sinh chợt vỗ giường thở dài: "Tích hồ hậu thế chi nhân, bất phục tri ngã dã; tích hồ hậu thế chi nhân, bất phục tri ngã dã ...'. Kêu liên tiếp ba tiếng như vậy, bỗng nhiên tóm lấy gối mềm bên cạnh người, ném mạnh xuống đất, lại có ánh lửa toé ra, tiếng vang như sấm. Sau ánh lửa tiếng sấm, vị nhất đại kỳ nhân này bàn toạ quy tiên".
Ngư hoà thượng nói đến đây, im lặng không nói rất lâu. Lục Tiệm cũng đắm chìm trong câu chuyện, quên cả lời nói.
Qua nửa buổi, Ngư hoà thượng mới nói: "Lục Tiệm, ngươi nghe câu chuyện này, có cảm tưởng gì?". Lục Tiệm nghĩ ngợi rồi nói: "Cách làm của vị Tư Cầm tiên sinh này rất kỳ lạ, làm cho người ta không thể hiểu được, nói ví dụ, y tại sao lại đem tâm huyết cả đời mình đốt đi, còn vỗ tay cười lớn?".
Ngư hoà thượng nói: "Cái vỗ tay cười lớn này, lại so với gào thét khóc nức nở kia còn tuyệt vọng gấp mười lần. Khi Tư Cầm tiên sinh phát giác, đại đạo 'Ức nho thuật, hạn hoàng quyền' tôn sùng cả đời của mình trên cái thế gian này rốt cuộc không có biện pháp gì thi hành, mà đại đạo không thể thi hành, trí tuệ đi cùng với đại đạo đó không những khó mà thực hiện rộng rãi, ngược lại có thể thành công cụ của đế vương tham lam tàn bạo. Thà huỷ nó dưới ngọn lửa còn hơn di hại cho thế nhân. Y ngoài mặt tuy cười, nhưng trong lòng đau khổ có ai hay, do đó trước khi lâm chung kêu lớn 'Tích hồ hậu thế chi nhân, bất phục tri ngã dã'. Câu nói này, mới là lời tận đáy tim y".
Lục Tiệm nghe vậy, vẫn không hiểu hết, chực hỏi nữa, chợt sinh lòng cảnh giác, vươn tay vịn vào một cây tre xanh, trúc xanh trong rỗng, rễ cây gắn liền mặt đất, đem động tĩnh trong hai dặm xung quanh truyền lại không sót, chỉ thấy có vài người ẩn nấp trên thân tre, thoắt xa thoắt gần, di động qua lại bất định.
Lục Tiệm trầm tư một chút, vung đao chặt vài cành tre, vót thành trúc tiễn, hướng về phía một người ẩn thân, ra sức ném, nhưng chỉ ném được hai chục bước chân, thì rơi xuống đất.
Ngư hoà thượng đoán ra tâm tư của y, nói: "Ngươi dùng 'Ngã Tướng' thử xem". Lục Tiệm lại lấy một mũi trúc tiễn, chiếu theo 'Ngã Tướng' xoay chuyển thân hình, dồn lực đã xong, bất thình lình ném đi.
Tiếng vang sắc nhọn phá không, trúc tiễn đó phóng đi như chớp giật, loé lên trong rừng trúc, liền nghe một tiếng kêu thảm, trên cây tre xanh rơi xuống một người áo đen bịt mặt, tứ chi cong queo, trên trán còn thấy đuôi của trúc tiễn.
Lục Tiệm vốn chỉ muốn người đến kinh chạy, nào ngờ lại bắn chết một người, lập tức ngây người ra. Ta nghe thấy rừng tre xào xạc, đám nhẫn giả còn lại bị trúc tiễn làm khiếp sợ, chớp mắt đã chạy xa.
Ngư hoà thượng cũng rất kinh ngạc, than: "Việc này ngoài ý muốn, hoà thượng cũng không ngờ đến".
Lục Tiệm trong một ngày giết ba người liên tiếp, trong lòng rất đau buồn, ngây người ra một lúc, mới chọn một cây tre thô to và chắc chắn, giơ đao chém vót.
Ngư hoà thượng lấy làm lạ nói: "Ngươi làm cái gì?".
Lục Tiệm nói: "Gia gia từng nói, sông lớn hồ lớn, tất thông ra biển, Lục Tiệm làm một cái bè trúc trước, đợi đến tối khuya, chúng ta lặng lẽ xuôi dòng mà đi, đến bờ biễn. Đám nhẫn giả đó nhất định không ngờ được".
Ngư hoà thượng im lặng gật đầu, ngẫm nghĩ trên đất liền tiến đến đâu nguy cơ đến đấy, nơi nơi đều là cạm bẫy của nhẫn giả, nếu như đổi đi đường sông, có thể thu được hiệu quả bất ngờ. Mắt thấy cây tre thô to vững chắc dẻo dai, Lục Tiệm tốn sức chặt phá, cơ hồ bị cần tre bật trở lại, làm trường đao xiêu vẹo, bèn nói: "Ngươi dùng 'Thọ Giả Tướng' xuất thủ, đao đến thân tre lại dùng 'Hầu Vương Tướng'".
Lục Tiệm theo cách đó thi triển, nơi lưỡi đao đi đến, tre gãy tựa như cắt cỏ, biến thành thập phần dễ dàng, chỉ là thân hình vặn đi vặn lại, rất là kỳ cục.
Ngư hoà thượng nói: "Mới tập 'Tam thập nhị tướng', cần phải mượn các loại tướng thái, kích phát kình lực. Về sau luyện lâu rồi, tướng thái đều bị hoá đi, chỉ còn thần ý, thần ý nhất động, kình lực tự sinh, cho dù ngồi ngay ngắn cũng có thể đả thương người, đến lúc đó, sẽ không kỳ quặc như vậy".
Lục Tiệm chặt được mười mấy cây tre lớn, vót đi cành lá, đồng thời chẻ một cây trong đó, tước dứt thành sợi, bện thành chão tre. Ngư hoà thượng bèn dạy y "Chư Thiên Tướng" kết chão, dùng "Đa Đầu Xà Tướng" để buộc bè tre, quả nhiên làm ít lợi nhiều. Lục Tiệm chốc chốc cảm biết tình hình xung quanh, đoán là đám nhẫn giả kia tổn binh hại tướng, nhất thời không có người đến nữa.
Đêm đã vào khuya, Lục Tiệm kéo bè trúc xuống nước, đỡ Ngư hoà thượng ngồi ở đầu bè, chống sào xuôi dòng mà đi.
Khi ấy không ánh trăng sao, tiếng nước như tiếng người nỉ non, thấp nhỏ thê lương, mõm đá sườn dốc hai bên bờ sông, phác hoạ ra hình bóng mơ hồ rất nhỏ ở chân trời, hoặc như ngựa khát, hoặc như lân chạy, hoặc như sư tử, hoặc như hổ đói, thiên hình vạn trạng, khó mà miêu tả được.
Lục Tiệm trước sau thấp thỏm, chỉ sợ bõm một tiếng, lại có người từ trong nước ra. May mà hơn nửa đêm trải qua không có động tĩnh, mắt thấy sắc trời sắp sáng, mới tin chắc mưu kế thành công, bèn ngồi xuống bè, chực đánh một giấc, đột nhiên nghe Ngư hoà thượng ho một tiếng, dùng Oa ngữ cao giọng nói: "Lục Tiệm, ngươi có biết nhẫn giả giết người rất có kiến thức, nếu như không nắm chắc nhất định giết được, quyết không khinh cử vọng động, hiện giờ nguy hiểm mới bắt đầu, ngươi ngàn vạn lần không được sơ ý".
Lục Tiệm đứng bật đậy, buộc miệng hỏi: "Có địch nhân sao?"
Ngư hoà thượng cao giọng: "Yếu chỉ của nhẫn thuật chỉ ở tám chữ 'Xuất kỳ bất ý, công kỳ bất bị'. Y động thủ lúc nào, xuất thủ khi nào, mà bị ngươi đoán được, thì không được tính là cao minh. Còn như thời cơ, tất ở lúc ngươi không đề phòng nhất. Mà lúc người bình thường lơ là nhất, chính là khi trời sáng".
Âm thanh chưa dứt, chợt nghe bờ trái truyền lại một tiếng tiêu thấp, mấy đạo hắc ảnh thong thả vọt lên, như khói nhẹ mờ nhạt, chập chờn biến mất. Lục Tiệm bất giác toát mồ hôi lạnh. Y tự cho rằng đắc kế, nào ngờ đám nhẫn giả này sớm đã theo đuôi, đoán là định động thủ lúc trời sáng, nhưng bị một lời của Ngư hoà thượng phá giải, chỉ còn biết tạm thời từ bỏ.
Lục Tiệm ngay tức khắc phấn chấn tinh thần, gắng sức chống sào mấy cái, đẩy bè tre lướt nhanh đi, lại nghe Ngư hoà thượng than nói: "Ngươi tạm thời ngồi xuống, ta có lời muốn nói". Lục Tiệm chỉ còn cách vứt sào trúc ra, ngồi xuống.
Ngư hoà thượng nói: "Hiện giờ tạm thời không có nguy hiểm, chúng ta nói đến câu chuyện thứ tư. Câu chuyện này, chính là nói về bản thân hoà thượng". Lục Tiệm chấn động trong lòng, ngưng thần lắng nghe.
Lại nghe Ngư hoà thượng thong thả nói: "Hoà thượng ta thuộc về Thiền Tông. Người trong phái ta vân du tứ hải, trước nay không đại khai sơn môn, cũng không thuộc Thiền Môn Ngũ Tông là Lâm Tế, Vân Môn, Vị Ngưỡng, Tào Động, Pháp Nhãn, tự thành một phái, tiêu diêu tự tại".
"Từ lúc Cửu Như tổ sư mở ra tông môn, Hoa Sinh đại sĩ phát dương quang đại đến nay, trong ba trăm năm, đã truyền sáu đời. Mỗi đời đều là một sư một đồ, đơn mạch độc truyền. Tại sao như vậy? Chỉ bởi vì sau khi luyện thành 'Đại Kim Cương Thần Lực', được như đại lực của Bồ Tát, siêu việt tam giới, nếu như truyền phải kẻ bất lương, tất nhiên tạo thành tội nghiệt vô biên. Đến đời này của hoà thượng, đại thể võ lâm biến đổi mạnh mẽ, Đông Đảo Tây Thành đối đầu giằng co, thế như nước với lửa".
"Nhớ năm xưa, sau khi Tư Cầm tiên sinh toạ hoá, bởi vì cả đời tiên sinh không vợ, tuyệt không có con. Cho nên chiếu theo di pháp của tiên sinh, thành chủ Tây Thành do Bát Bộ công khai tuyển chọn, mười năm đổi một lần, luân lưu thống lĩnh Tây Thành ...".
Lục Tiệm lấy làm lạ hỏi: "Tư Cầm tiên sinh tại sao lại không có con?"
Ngư hoà thượng nói: "Việc này cũng khá kỳ lạ, có lẽ bởi vì y ghét thói xấu phụ tử tương truyền, cố ý cả đời không lấy vợ, cũng chưa biết được. Nhưng Đông Đảo sau khi thất bại, trước sau vẫn ôm hận, khi Tư Cầm tiên sinh còn tại thế, bọn họ không có biện pháp gì, tiên sinh vừa quy tiên, liền dấy lên tiến công Tây Thành. Tuy nói Tư Cầm tiên sinh đem Chu Lưu Lục Hư Công một phân thành tám, nhưng vẫn không phải vừa, mấy lần giao chiến, Đông Đảo đều không chiếm được thượng phong. Nhưng mối tranh chấp này một khi khai mở, Đông Đảo Tây Thành giao chiến là kéo dài hai trăm nay, bởi vì giành thắng, không từ một thủ đoạn nào. Một trăm năm trước, Tây Thành không biết từ đâu có được Hắc Thiên Thư, vì đối kháng với Đông Đảo, bắt đầu đi ngược lại thiên lý, bắt đầu tích trữ và nuôi dưỡng kiếp nô ...".
Lục Tiệm buộc miệng hỏi: "Từ một trăm năm trước đã bắt đầu nuôi dưỡng, kiếp nô há không phải là rất nhiều?".
Ngư hoà thượng rầu rĩ gật đầu, tiếp tục nói: "Trải qua nhiều năm tranh đấu, Đông Đảo cũng vậy, Tây Thành cũng vậy, đều thương vong cực nặng, cừu hận đời đời tự nhiên cũng càng kết càng sâu. Không ngờ bốn mươi năm trước, trong Tây Thành xuất hiện một đệ tử của Thiên Bộ gọi là Vạn Quy Tàng, chỉ bởi vì người này thiên tư trác tuyệt, cơ duyên xảo hợp, y lại từ trong tuyệt học của bát bộ, phát hiện ra bí mật của Chu Lưu Lục Hư Công, từ đó quán thông tuyệt học của bát bộ, Chu Lưu Lục Hư, pháp dụng vạn vật, đạt đến cảnh giới của Tư Cầm tiên sinh. Nhưng y không chỉ ngộ tính siêu phàm, mà dã tâm cũng bất phàm, trước tiên dựa vào võ lực phế đi Thành chủ công khai tuyển chọn là Tả Mộng Trần, đăng lên ngôi Thành chủ, sau đó lại toàn lực công đả Đông Đảo. Đệ tử Đông Đảo gần như bị tuyệt diệt, những người may mắn sống sót đều lần lượt chạy ra hải ngoại tránh nạn. Hoà thượng tuy là người thế ngoại, cũng thấy không thể khoanh tay đứng nhìn, suy cho cùng Đông Đảo Tây Thành ba trăm năm trước vốn là một nhà, đuổi tận giết tuyệt như vậy là trái với tình lý, do đó hẹn Vạn Quy Tàng, tương hợp trên Thiên Trụ Sơn, khuyên y dừng tay".
Lục Tiệm lo lắng nói: "Người này tàn nhẫn độc ác như vậy, đại sư gặp y há không phải là rất nguy hiểm sao?".
Ngư hoà thượng than: "Trước khi gặp Vạn thành chủ, hoà thượng cũng cho rằng y hẳn là kẻ kiêu ngạo tự đại, hung hãn tàn ác, nhưng thực sự gặp rồi thì hoàn toàn không phải vậy. Vạn Quy Tàng không chỉ tiêu sái như thần, phong độ siêu dật, mà tài trí tuyệt cao, lời nói dễ gần, so đi sánh lại thì giống như Thuần Nhưỡng ngàn năm, không uống cũng say. Hoà thượng tuy là đệ tử Không môn, nhưng mới gặp cũng đã thập phần ngưỡng mộ, trò chuyện vui vẻ hợp ý. Cũng có thể nói, hoà thượng chưa giao chiến mà trên khí độ đã thua cho y rồi".
"Đã vui vẻ trò chuyện, hoà thượng bèn khuyên y bỏ qua cho bộ hạ còn sót lại của Đông Đảo, không ngờ lại bị một mực cự tuyệt. Khuyên bảo đã lâu, cuối cùng không tránh khỏi đại động can qua; nhưng Chu Lưu Lục Hư Công đã phá thiên đạo, hoà thượng dùng hết toàn lực, cũng chỉ tiếp được ba chiêu. Từ đó về sau, không những công lực chỉ còn lại một nửa, mà thương thế trước sau cũng không cách gì hồi phục".
Lục Tiệm trong lòng đại chấn: "Vết thương cũ của đại sư lại là do Vạn Quy Tàng gây nên? Hiện giờ công lực của đại sư giảm đi một nửa, vẫn lợi hại như vậy, năm xưa khi toàn thịnh thì không biết còn lợi hại ra sao? Cho dù như vậy, cũng chỉ tiếp được ba chiêu. Vạn Quy Tàng kia thật không biết là nhân vật như thế nào?".
Trong khi nghĩ thầm, lại nghe Ngư hoà thượng than: "Hoà thượng đã bại, tự nhiên là thúc thủ chờ chết. Nhưng không ngờ Vạn Quy Tàng nói: 'Huynh ta hai phái, uyên nguyên thâmm sâu. Kim Cương nhất môn lại là nhất mạch đơn truyền, tên tiểu đồ đệ này của huynh thần công chưa thành, đạo huynh mà chết, hương khói của Hoa Sinh đại sĩ đoạn tuyệt, tiểu đệ ở dưới cửu tuyền không có mặt mũi nào gặp tổ sư bản phái. Đông Đảo thì khác, tranh đấu với phái của đệ hai trăm năm, thù sâu như biển, nếu không phải một phái diệt tuyệt, không bao giờ dừng lại, do đó chỉ có thể dùng giết để ngăn giết. Đạo huynh nếu như nhìn không quen, có thể rời xa trung thổ, hoặc là thần công tinh tiến, có thể thắng được tiểu đệ, bằng không ngày nào còn tiểu đệ, xin đừng quay về".
"Y nói rất khách khí, thực ra đã đày hoà thượng. Nhưng theo thủ đoạn nhổ cỏ tận gốc của y, có thể tha hoà thượng một con đường sống, quả thực là nhìn vào giao tình của Hoa Sinh đại sĩ và sư tổ của y. Đủ thấy người này tuy là nhất đại kiêu hùng, nhưng cũng không phải hoàn toàn là kẻ vô tình".
Lục Tiệm thấy Ngư hoà thượng bị Vạn Quy Tàng đả thường, đày đi, mà nơi nơi trong lời nói vẫn gỡ tội cho y, trong lòng lấy làm khó hiểu vô cùng.
Lại nghe Ngư hoà thượng than nói: "Hoà thượng nghe những lời này, không còn lời nào để nói, chỉ còn biết dắt tiểu đồ Bất Năng đi đến Đông Đảo. Khi đến nơi, thì phát hiện ra tiểu quốc này khói lửa liên miên, đang lúc loạn thế. Vậy cũng bỏ qua. Chưa bao giờ nghĩ Phật pháp của Đông Đảo trong lúc loạn thế lại cũng hủa hoá sa đoạ hết chỗ nói. Tăng nhân xuất gia không chịu tu hành, ngược lại ỷ trượng tín đồ đông, xa hoa dâm loạn, lấy vợ sinh con, tích trữ nuôi dưỡng loan đồng; thậm chí cưỡng đoạt ruộng của dân, bóp nặn tàn tệ. Phật pháp vốn là tế thế chi pháp, lại thành mánh khoé lừa đảo để bọn gian đồ lừa phỉnh thế nhân, mưu cầu tư lợi".
"Hoà thượng mắt thấy các loại tội ác, nhịn không thể nhịn, cùng tiểu đồ đi lên Bỉ Duệ Sơn, lý luận với tăng nhân của Đông Đảo. Bỉ Duệ Sơn hiệu xưng là vương thành Phật pháp của Đông Đảo, cư trú rất nhiều kẻ gọi là cao tăng. Hoà thượng bèn trên Bỉ Duệ Sơn cùng chúng tăng biện luận Phật pháp, tranh luận đúng ba ngày ba đêm. Đám tăng nhân đó chìm đắm trong hưởng lạc, Phật pháp thô thiển, sao có thể đương nổi hoà thượng, trong lúc đuối lý không nói vào đâu được, hổ thẹn quá thành tức giận, lại tuyên bố hoà thượng là 'Phật Địch', phái xuất tăng quân truy sát".
"Việc đã như vậy, tuy hoà thượng không để tâm, nhưng trong lòng tiểu đồ Bất Năng lại có biến hoá vô cùng lớn. Tâm địa y vốn thuần tịnh, căn tính mạnh mẽ sắc bén, nhưng không tốt là ở chỗ tôn sùng võ học, thấy hoà thượng bại cho Vạn Quy Tàng, liền đối với Phật pháp sinh ra dao động to lớn. Đến Đông Đảo, y mắt thấy chiến loạn, tính xấu tàn nhẫn háo sát của Oa nhân lại hợp với lòng sùng võ của y, lại thấy chúng tăng của Đông Đảo say sưa hưởng lạc, y không những không lấy làm nhục, ngược lại còn thầm ngưỡng mộ".
"Năm đó, sư đồ ta bị tăng binh của Nhất Hướng Tông truy sát, khi chạy đến Bắc Y Thế, vết thương cũ của hoà thượng phát tác, không còn sức tháo chạy, bị tăng binh chặn ở bên bờ Mộc Tằng. Thủ lĩnh của đám tăng binh là một tên lực sĩ, dùng một thanh trường đao chín thước được gọi là 'Nhật Bản đệ nhất đại đao', diễu võ dương uy, nhìn sư đồ ta như cá nằm trên thớt. Bất Năng bị y sỉ nhục, chung quy không thể nhịn được, khi đó thần thông của y đã thành, chỉ một chiêu liền đánh chết tên thủ lĩnh đó, đoạt lấy trường đao, sau đó không nghe hoà thượng quát dừng, xông vào trong trận. Trận chiến đó ma tính của y đại phát, đem hơn nghìn tăng binh giết không sót một người, đến cả nước sông Mộc Tằng cũng bị nhuộm đỏ. Sau đó y giắt đao mà đi, tự xưng Thiên Thần Tông, hoành hành Nhật Bản, không việc ác nào không làm".
"Hoà thượng đợi cho thương thế hơi lành, liền đi tìm y. Tên nghiệt chướng đó tự biết không địch được hoà thượng, ẩn náu khắp nơi, thậm chí trong mười năm, cũng không dám công nhiên tác ác. Đáng hận là khi đó hoà thượng cũng gặp nhiều rắc rối, sau trận Bắc Y Thế, Bỉ Duệ Sơn tuy không phái xuất tăng binh, nhưng lại mua nhẫn giả Y Hạ, treo giải thưởng lớn, thích sát hoà thượng. Đám nhẫn giả này thủ pháp nguỵ dị, lại vô cùng kiên nhẫn, mười năm nay cũng không chịu từ bỏ, hoà thượng mấy độ ngộ hiểm, cũng nhiều lần chế ngự được bọn chúng, nhưng rốt cuộc không nhẫn tâm giết hại. Nào ngờ bọn chúng biết hoà
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top