thuc thi cstt

I.Tổng quan kinh tế Việt Nam qua 3 năm: (liên quan gần nhất đến c/s tài chính tiền tệ)

1. Năm 2007:

Lạm phát tăng cao Năm 2007, tốc độ phát triển kinh tế chưa đạt đến mức 8,5% như kỳ vọng, trong khi đó, chỉ số giá đã vượt quá xa mục tiêu kiềm chế. Theo Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2007 đã ở mức hai chữ số 12,6% (so với tháng 12/2006) và là mức cao nhất trong 11 năm qua. Trong khi đó GDP chỉ tăng 8,48%. Theo nhiều chuyên gia kinh tế, nguyên nhân chính khiến lạm phát tăng mạnh là do việc điều hành chính sách tiền tệ không theo kịp diễn biến kinh tế trong nước. Dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam tăng cao Những con số kỷ lục mới được thiết lập trong năm 2007: thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 20,3 tỉ đô la Mỹ (năm ngoái là 12 tỉ đô la), vốn đầu tư gián tiếp khoảng 5,3 tỉ đô la, vốn ODA cam kết tài trợ 5,4 tỉ đô la Mỹ, và kiều hối cũng xấp xỉ 8 tỉ đô la. Vốn vào nhiều cho thấy Việt Nam là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư, nhưng cũng nổi lên mối lo ngại về khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Thị trường chứng khoán nhiều biến động Mặc dù được xem là năm thành công, chỉ số VN-Index tăng từ 741 điểm vào ngày 2-1-2007 lên 918,43 điểm vào ngày 25-12, tức tăng gần 25%, tổng lượng vốn huy động qua thị trường chứng khoán trong năm 2007 đạt 90.000 tỉ đồng, tăng gấp ba lần so với năm 2006, nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn phát triển trong trạng thái phập phù, thiếu vững chắc. Sau đợt tăng mạnh vào những tháng đầu năm, thị trường rơi vào tình trạng ảm đạm kéo dài xen lẫn những đợt bùng phát trở lại nhưng rất ngắn. Tổng giá trị vốn hóa thị trường tính đến cuối năm 2007 đã hơn 40% GDP. Năm 2008

Tình hình kinh tế có dấu hiệu đi lên Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2008 theo ước tính tăng 6,23 so với năm 2007,%. GDP bình quân đầu nguời lần đầu tiên vượt qua mốc 1000 USD. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước tuy thấp hơn tốc độ tăng 8,48% của năm 2007 và mục tiêu kế hoạch điều chỉnh là tăng 7% nhưng trong bối cảnh tài chính thế giới khủng hoảng kinh tế của nhiều nước suy giảm mà nền kinh tế nước ta vẫn đạt tốc độ tăng tương đối cao như trên là một cố gắng rất lớn.

Chỉ số giá tiêu dùng diễn biến phức tạp Giá tiêu dùng năm 2008 diễn biến phức tạp, khác thường so với xu hướng giá tiêu dùng các năm trước. Giá tăng cao ngay từ quý I và liên tục tăng lên trong quý II, III những các tháng quý IV liên tục giảm. Nhưng nhìn chung giá tiêu dùng vẫn ở mức cao, giá tiêu dùng tháng 12/2008 so với 12/2007 tăng 19,89% và giá tiêu dùng bình quân năm 2008 so với năm 2007 tăng 22,97%.

Thực hiện đồng bộ 8 nhóm giải pháp đ/c kinh tế đạt hiệu quả bước đầu Việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội đạt được kết quả bước đầu quan trọng, nền kinh tế đạt mức tăng trưởng 6,7%; tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm đạt trên 65 tỷ USD, là mức tăng cao nhất trong 10 năm qua. với trên 60 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký mới, năm 2008, lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng gấp 6 lần so với năm 2007 và đạt mức cao nhất trong vòng 20 năm qua. Tuy nhiên, chỉ số giá tiêu dùng (Cpi) tăng ở mức 22%, cao nhất trong 10 năm qua và những tháng cuối năm phải đối mặt với suy giảm kinh tế. Nhưng nền kinh tế cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém. Tăng trưởng kinh tế có xu hướng chậm lại và thấp hơn mục tiêu kế hoạch đã điều chỉnh và so với các năm trước. Giá cả các sản phẩm tăng đột biến trong 6 tháng đầu năm, sau đó đồng loạt giảm giá gây thua lỗ cho các doanh nghiệp. khu vực dịch vụ cũng bị tác động mạnh; việc làm và thu nhập của người dân gặp nhiều khó khăn. Tình trạng tái nghèo có chiều hướng gia tăng.

Năm 2009

Kinh tế gặp nhiều khó khăn

Năm 2009, kinh tế nước ta phát triển trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn hơn các năm trước. Ở trong nước, thiên tai, dịch bệnh xẩy ra trên diện rộng với mức độ rất nặng nề. Ở ngoài nước, thị trường giá cả thế giới biến động phức tạp. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động trực tiếp đến nhiều ngành kinh tế nước ta như công nghiệp, xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư, du lịch. Thuận lợi tuy có nhưng không nhiều.

Phục hồi kinh tế và lấy lại đà tăng trưởng Tổng sản phẩm trong nước (GDP) cả năm tăng 5,2%, vượt chỉ tiêu Quốc hội đề ra (5%). Tuy tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp nhất trong vòng 10 năm gần đây (năm 2008 tăng 6,18%, năm 2007 tăng 8,46%, 2006 tăng 8,23%...), nhưng Việt Nam vẫn được thế giới đánh giá là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực châu Á (sau Trung Quốc tăng 7,8%). Diễn biến trong năm, xu hướng tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước: quý I tăng 3,14%, quý II tăng 4,46%, quý III tăng 5,76% và quý IV ước tăng 6,8%. Cả 3 khu vực kinh tế đều đạt tốc độ tăng trưaởng dương, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5% và khu vực dịch vụ tăng trên 6,5%. Tình hình tài chính ổn định Do tăng trưởng kinh tế khá nên tình hình tài chính ổn định. Tổng thu ngân sách cả năm ước đạt 390 nghìn tỉ đồng. Các khoản thu lớn đều đạt và vượt dự toán cả năm và tăng so với năm 2008. Thu nội địa tăng 5%, thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu tăng 3,5%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 10%, thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng 90%, thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài nhà nước tăng 3%, thu phí xăng dầu tăng 45%, thu phí và lệ phí tăng 5%. Khái quát về chính sách tiền tệ

Là việc thực hiện tổng thể các biện pháp, sử dụng các công cụ của NHTW nhằm góp phần đạt được các mục tiêu của chính sách KT Vĩ mô thông qua việc chi phối dòng chu chuyển tiền va khối lượng tiền.

Các phuơng thức điều tiêt: Trên thế giới, có 2 truờng phái

Thực hiẹn theo huớng chống lạm phát.

Lãi suất đuợc thả linh hoạt để điều chỉnh nhu cầu về tiền trong nền kinh tê. Với lượng cung ứng tiền cố định, giá cả sẽ ổn định hoặc mức làm phát nhỏ.

Nền kinh tế sẽ thiếu vốn và tăng truởng chậm

Trường phái điều tiết theo hướng chống suy thoái.

Coi trọng việc kích thich tăng truởng với kì vọng tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ lớn hơn tỉ lệ lạm phat.

Sự khác nhau giữa hai phương thức trên chỉ khác nhau cơ bản trong dài hạn, còn trong ngắn hạn, mọi phương thức điều tiết đều được sử dụng linh hoạt tuỳ từng mục đích kinh tế

Mục Tiêu của CSTCTT

Tạo việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên trong nền KT

Tăng trưởng kinh tế.

Kiểm soát giá cả và lạm phát.

Ổn định thị trường tài chính, tỷ giá và lãi suất.

Cá công cụ để thực hiện CSTCTT

Nghiệp vụ thị trường tự do

Thay đổi lãi suất chiết khấu.

Yêu cầu về tỷ lệ dự trữ bắt buộc.

II. GIAI ĐOẠN LẠM PHÁT TỪ NĂM 2007 ĐẾN THÁNG 10-2008

1. Nguyên nhân lạm phát.

Lạm phát ở Việt Nam là do sự tác động tổ hợp của cả ba dạng thức lạm phát: lạm phát tiền tệ (đây là dạng thức chủ yếu) lạm phát cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy.

Lạm phát tiền tệ: Đây là dạng thức lạm phát lộ diện khá rõ. Năm 2007, với việc tung một khối lượng lớn tiền đông để mua ngoại tệ từ các nguồn đổ vào nước ta đã làm tăng lượng tiền trong lưu thông với mức tăng trên 30%, hạn mức tín dụng cũng tăng cao, mức tăng 38%. Ấy là chưa kể sự tăng tín dụng trong các năm trước đã tạo nên hiện tượng tích phát tác động đến năm 2007 và có thể cả những năm sau.

Lạm phát cầu kéo: Do đầu tư bao gồm đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp tăng, làm nhu cầu về nguyên liệu, nhiên liệu và thiết bị công nghệ tăng; thu nhập dân cư, kể cả thu nhập do xuất khẩu lao động và người thân từ nước ngoài gửi về không được tính vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cũng tăng, làm xuất hiện trong một bộ phận dân cư những nhu cầu mới cao hơn. Biểu hiện rõ nhất của lạm phát cầu kéo là nhu cầu nhập khẩu lương thực trên thị trường thế giới tăng, làm giá xuất khẩu tăng (giá xuất khẩu gạo bình quân của nước ta năm 2007 tăng trên 15% so với năm 2006) kéo theo cầu về lương thực trong nước cho xuất khẩu tăng. Trong khi đó, nguồn cung trong nước do tác động của thiên tai, dịch bệnh không thể tăng kịp. Tất cả các yếu tố nói trên gây ra lạm phát cầu kéo, đẩy giá một số hàng hoá và dịch vụ, nhất là lương thực thực phẩm tăng theo.

Lạm phát chi phí đẩy: Giá nguyên liệu, nhiên liệu ( đặc biệt là xăng dầu, các sản phẩm hoá dầu, thép và phôi thép...) trên thế giới trong những năm gần đây tăng mạnh. Trong điều kiện kinh tế nước ta phụ thuộc rất lớn vào nhập khẩu ( nhập khẩu chiếm đến 90% GDP ) giá nguyên liệu nhập tăng làm tăng giá thị trường trong nước.

2. Chính sách kiềm chế lạm phát

Thực hiện ý kiến chỉ đạo nêu trên, NHNN trong thực thi CSTT đã bám sát mục tiêu hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, đảm bảo sự ổn định tiền tệ, ổn định hệ thống ngân hàng, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, bền vững trong môi trường hội nhập kinh tế quốc tế - nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít thách thức. Trên cơ sở đánh giá và dự báo kịp thời chiều hướng biến động của kinh tế tiền tệ trong nước và quốc tế, trong năm 2007, NHNN đã thực hiện các giải pháp điều hành CSTT như sau:

- Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, NHNN đã hút được một lượng tương đối lớn vốn khả dụng dư thừa của các TCTD, đồng thời vẫn điều tiết kịp thời sự thiếu hụt vốn mang tính thời điểm của một số TCTD, đảm bảo duy trì ổn định tiền tệ, ổn định lãi suất thị trường.

Ngày 15/2/2008 NHNN công bố quyết định phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt buộc Điều đặc biệt nữa, nếu như các loại tín phiếu trước đây được giao dịch trên thị trường mở với NHNN để được vay tái cấp vốn thì quyết định lần này NHNN nói rõ là không được vay tái cấp vốn

Trên thị trường mở, NHNN liên tục thực hiện các phiên chào mua GTCG với các kỳ hạn thích hợp và với lãi suất linh hoạt phù hợp với cung cầu vốn và lãi suất cơ bản của NHNN. NHNN cũng thực hiện tái cấp vốn ngắn hạn cho các nhằm tạo điều kiện cho các NHTM hạ lãi suất huy động và cho vay

- Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc 2007 tăng gấp 2 lần so với mức của năm 2006 để hạn chế mức độ dư thừa vốn khả dụng của các TCTD

Năm 2008 NHNN điều chỉnh tăng tiền gửi dự trữ bắt buộc từ 1,2%/năm lên 3,6%/năm

- Chính sách lãi suất chính thức do NHNN công bố, nhằm phát tín hiệu ổn định lãi suất thị trường. Đồng thời, trong điều kiện nguồn cung ngoại tệ dồi dào, từ 01/03/2007, NHNN đã chính thức thực hiện bỏ qui định về trần lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại TCTD để hoàn toàn tự do hóa lãi suất thị trường, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế.

2008 Từ tháng 2/2008, các loại lãi suất chủ đạo của NHNN tăng cao hơn trước. Theo đó, lãi suất cơ bản tăng từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm; lãi suất tái cấp vốn tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm và lãi suất chiết khấu tăng từ 4,5%/năm lên 6,0%/năm.

Khi thị trường tiền tệ có dấu hiệu tích cực, NHNN dỡ bỏ trần lãi suất huy động VND và thay cơ chế điều hành lãi suất cơ bản. Trước xu hướng tăng chậm lại của chỉ số giá tiêu dùng, NHNN đã ba lần giảm các loại lãi suất chỉ đạo như lãi suất cơ bản giảm từ 14%-13%-12%-11%/năm, lãi suất tái cấp vốn từ 15%-14%-13%-12%/năm, lãi suất chiết khấu từ 13%-12%-11%-10%/năm

NHNN đã quản lý an toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước Tổng dự trữ ngoại hối Nhà nước tính theo tuần nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ mức 13,6 tuần vào thời điểm cuối năm 2006 lên gần 18 tuần năm 2007.

Năm 2008, NHNN công bố mức dự trữ ngoại hối 20,7 tỷ USD, can thiệp trên thị trường ngoại hối, ban hành Quy chế Bàn thu đổi ngoại tệ, giám sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh ngoại tệ, cấm thu phí giao dịch, cấm các TCTD không được giao dịch USD thông qua đồng tiền thứ 3

Xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh Ngoại hối; triển khai thực hiện Đề án nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc phục tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Thực hiện các giải pháp kiểm soát chất lượng và tốc độ tăng trưởng tín dụng, tăng tổng phương tiện thanh toán nhằm kiểm soát lạm phát.

3. Kết quả của chính sách kiềm chế lạm phát

Với việc thực thi CSTT như trên về cơ bản đạt được mục tiêu đề ra là ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ vốn tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Điều này thể hiện ở những kết quả sau:

- Qui mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không để xẩy ra những cú sốc về lãi suất và tỷ giá trước những biến động khó lường của tình hình thị trường tài chính quốc tế

+ Lãi suất thị trường liên ngân hàng mặc dù có biến động mạnh trong vài ngày giữa tháng 11/2007, song, nhìn chung, mặt bằng lãi suất trong năm ổn định: lãi suất huy động và cho vay của TCTD vẫn giữ được ổn định và có xu hướng giảm nhẹ so với cuối năm 2006, tạo điều kiện cho việc huy động vốn và đầu tư cho tăng trưởng kinh tế. Tính đến cuối tháng 9/2007, huy động vốn của các TCTD tăng 31,2%, ước cả năm tăng 39,6%, cao hơn tốc độ tăng 33,1% của năm 2006; tín dụng đến cuối tháng 9 tháng tăng 30,9%, ước cả năm tăng 37,8%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng 22,8% của năm 2006).

+ Tỷ giá danh nghĩa giao động nhẹ và có xu hướng giảm (VND lên giá nhẹ), trong bối cảnh lạm phát gia tăng đã góp phần tích cực trong việc ổn định lãi suất VND và ổn định thị trường tiền tệ. Mặt khác, tỷ giá thực thấp hơn tỷ giá hối đoái danh nghĩa trên thị trường, cho nên tác động khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, hỗ trợ ổn định lãi suất VND.

- Diến biến tổng phương tiện thanh mặc dù tăng cao, nhưng cơ cấu thay đổi theo chiều hướng tích cực

+ Tỷ lệ tiền mặt trên TPTTT giảm từ mức 19,3% năm 2006 xuống mức 17,8% năm 2007.

+ Tỷ lệ ngoại tệ trên tổng tiền gửi từ mức 25,9% năm 2007 xuống còn 22,6% năm 2007 - giảm mức độ đô la hoá của nền kinh tế.

Năm 2008

Lạm phát đã có xu hướng giảm dần ngoại trừ tháng 5 tăng 3,91% chủ yếu do sốc giá gạo vào tháng 4/2008. Cụ thể CPI các tháng là: Tháng 1: +2,38%; tháng 2: +3,56%; tháng 3: +2,99%; tháng 4: +2,2%; tháng 5: +3,91%; tháng 6: +2,14%; tháng 7: +1,13%; tháng 8: +1,56%, tháng 9: + 0,18%, tháng 10: -0,19%, tháng 11: -0,76% là mức thấp nhất so với các tháng trước đó.

(ii) Tổng phương tiện thanh toán và tín dụng được kiểm soát phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát; 10 tháng đầu năm, Tổng phương tiện thanh toán tăng 9,48% chỉ bằng ¼ của cùng kỳ năm ngoái, tốc độ tăng tín dụng chậm dần (10 tháng tăng gần 18% so với cuối năm 2007), từ đó tác động kiềm chế tăng tổng cầu và giá tiêu dùng.

(iii) Tỷ giá VND so với USD trên thị trường liên ngân hàng tăng ở mức độ hợp lý. Tính đến ngày 28/11/2008: 16.483VND/USD, tăng 2,76% so với đầu năm, phù hợp với cung-cầu ngoại tệ, yêu cầu kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, cùng với cơ chế hỗ trợ vay vốn và mua bán ngoại tệ đối với xuất khẩu, cho phép thanh toán bằng ngoại tệ của doanh nghiệp chế xuất; kiểm soát cho vay bằng ngoại tệ để nhập khẩu và can thiệp bán ngoại tệ tập trung cho nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu, góp phần bình ổn thị trường ngoại hối và giảm đáng kể nhập siêu.

(iv) Lãi suất có xu hướng giảm: Sau những động thái hạ các mức lãi suất chủ đạo của NHNN, hiện nay lãi suất huy động và cho vay của các TCTD đã giảm, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vốn vay của ngân hàng dễ dàng hơn. Hiện nay lãi suất cho vay của NHTM Nhà nước khoảng 12-14%/năm, của NHTM cổ phần phổ biến ở mức 14-16%/năm. Các TCTD hoạt động an toàn, khả năng thanh toán được đảm bảo. Cho đến nay các TCTD của Việt Nam chưa chịu tác động lớn từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, hiện đang hoạt động bình thường và ổn định, do thị trường tài chính và mức độ liên kết của các ngân hàng trong nước với hệ thống tài chính quốc tế còn hạn chế.

(v) Nhập siêu được cải thiện trong những tháng gần đây: Mức nhập siêu giảm mạnh từ mức bình quân 2,4 tỷ USD/tháng trong 6 tháng đầu năm xuống trung bình trên 500 triệu USD/tháng từ tháng 7 đến nay (Q1/08: 8,35 tỷ USD; 6T/08: 14,2 tỷ USD; 10T/08: 16,4 tỷ Usd

(vi) Luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam tiếp tục tăng mạnh: Vốn FDI tiếp tục gia tăng: 10T/2008, FDI đăng ký đạt 58,3 tỷ USD, cả năm đạt 60,3 tỷ USD gấp 5 lần so với cùng kỳ năm 2007; vốn thực hiện đạt 9,1 tỷ USD, cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài vẫn tin tưởng vào sự ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam về trung hạn và dài hạn

3. Đánh giá việc thực thi chính sách tiền tệ trong giai đoạn này.

1. Những yếu kém trong dự báo, phân tích và điều hành chính sách tiền tệ, như kết luận của Thủ tướng "lạm phát một phần vì lúng túng trong chỉ đạo tiền tệ" là điều mà hầu hết các chuyên gia đều nhất trí cao.Nhưng điều đáng ngại là những nhận định như thế không hẳn chỉ mới xuất hiện trong năm nay mà còn từ nhiều năm trước đó. Nguồn gốc thực sự của những bất cập, được lặp đi lặp lại nhiều lần, là do đâu? Để trả lời câu hỏi này, thì những thành công mà các nước đạt được trong việc kiểm soát lạm phát trong bối cảnh giá dầu tăng kỷ lục sẽ giúp cho các cơ quan chức năng tập trung để tìm ra vấn đề mấu chốt nhất Cách điều hành như thế khiến thị trường dễ dàng suy luận đây là những quyết định chưa hoàn toàn dựa trên những gì đã được suy tính cẩn thận.

2. Nhìn bên ngoài, lạm phát tăng tốc trong năm là do lúng túng trong chỉ đạo chính sách tiền tệ, nhưng nguyên nhân sâu xa chính là NHNN đã không có được tính độc lập tương đối cần thiết. Không khó để nhìn thấy, do là một cơ quan của Chính phủ nên NHNN vẫn còn "nhìn tới nhìn lui" trong điều hành chính sách tiền tệ.Chưa giải quyết được điểm mấu chốt này, không loại trừ khả năng sẽ còn lặp lại những kịch bản tương tự trong tương lai.

3. Đối phó là chính

Lạm phát tăng tốc còn do chất lượng hoạch định chính sách còn quá yếu. Tuyên bố mang tính đánh cược của một lãnh đạo ngành ngân hàng cho là lạm phát dự kiến cả năm 2007 không thể vượt quá hai con số không chỉ đơn thuần hàm chứa dự báo sai. Việc khẳng định như đinh đóng cột như thế cho thấy chất lượng hoạch định chính sách còn có quá nhiều vấn đề cần bàn. Nhưng thắc mắc lớn nhất, phải chăng hoạch định chính sách ở ta phần nhiều do cảm tính?

4. Chính sách tiền tệ can thiệp quá mức

III. GIAI ĐOẠN KHỦNG HOẢNG - PHỤC HỒI CUỐI 2008 - 2009

Chính sách tiền tệ của NHNN giai đoạn khủng hoảng kinh tế ( từ tháng 10/2008 - 2/2009 )

1. Chính sách tiền tệ của NHNN giai đoạn khủng hoảng ( từ tháng 10 năm 2008 đến tháng tháng 2/2009

Hai cuộc khủng hoảng giá nhiên liệu, giá lương thực sắt thép trên thế giới đồng thời với cuộc khung hoảng địa ôc, cho vay dưới chuẩn ở Mỹ bùng phát vào giữa tháng 9 đã nhanh chóng lan nhanh sang sang các khu vực và các nước, đông thời đã tác động tiêu cực đến kinh tế Việt Nam, Chỉ số giá tiêu dùng tăng cao từ quý I, liên tục tăng trong quý II, quý III, nhưng các tháng trong quý IV liên tục giảm( so với tháng trước, tháng 10 giảm 0.19%, tháng 11 giảm 0.76%. tháng 12 giảm 0.68%) Chỉ số giá tiêu dùng giảm, cùng với tỉ lệ thất nghiệp gia tăng, GDP trong 3 tháng cuối năm 2009 liên tục giảm là những dấu hiệu rõ nét của cuộc suy thoái kinh tế nước ta.

Kể từ tháng 10/2008, khi Chính phủ lựa chọn mục tiêu hàng đầu là chống suy giảm kinh tế, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh chính sách tiền tệ theo hướng "nới lỏng có kiểm soát"

Theo đó, một loạt các động thái hỗ trợ TTTT của NHNN có hiệu lực từ 21/10/08 được kì vọng có thể tiếp sức cho nên kinh tế.

1. Lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác.

a. Lãi suất cơ bản:

NHNN đã từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ và lãi suất vẫn là một công cụ hết sức quan trọng. LSCB đã hạ dần từ đỉnh 14% xuống 13% (từ 21/10/08), 12% (từ 05/11/08) và liên tiếp được điều chỉnh tới 3 lần trong vòng 1 tháng cuối năm 2008 (11% từ 21/11/08, 10% từ 05/12/08, 8,5% từ 22/12/08) trước khi giữ ổn định ở mức 7% (từ 01/02/09)

b. Lãi suất tái cấp vốn:

Được điều chỉnh giảm từ 15% xuống 14% kể từ ngày 21/10/08 và xuống còn 11% kể từ 5/12/08

c. Lãi suất tiền gửi DTBB: Điều chỉnh tăng từ 5%-10% từ 21/10/08 và giảm xuống 8.5 % vào 5/12/08. Đây là mức điều chỉnh khá mạnh. Với mức lãi suất này, NHNN sẽ bơm cho NHTM khoảng 8000 tỷ/năm. Nhờ đó, tính thanh khoản được cải thiện và chi phí vốn giảm.

d. Lãi suất chiết khấu: Được điều chỉnh giảm từ 13% xuống 12% vào cuối năm 2008.

Nhờ đó, khả năng tiếp cận vốn đối với NHNN của các NHTM cao hơn, đảm bảo khả năng đáp ứng vốn đối với các DN, các tổ chức cá nhân có nhu cầu.

2.Tỷ lệ dự trữ bắt buộc: NHNN cũng điều chỉnh dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng. Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc bằng VND 1%, bằng ngoại tệ 2% đối với các loại tiền gửi quy định ngày 16/1/2008

Động thái trên đã thỏa mãn các yêu cầu đặt ra từ nhiều hiệp hội, nhiều ngành nghê, và doanh nghiệp. Các lãi suất điều hành chủ chốt giảm cùng với giảm bớt lượng tiền bắt buộc dự trữ của các NHTM đã làm cho vốn và cơ hội tiếp cận vốn của các doanh nghiệp được cải thiện..

3. Nghiệp vụ thị trường mở: NHNN đã thực hiện thanh toán trước hạn 20300 tỷ đồng tín phiếu NHNN. Với lượng tiền được thanh toán trước hạn này, các NHTM sẽ bớt căng thẳng về vốn để có điều kiện giảm lãi suất đầu vào và đầu ra.

4. Chính sách điều hành tỷ giá:

Diễn biến tỉ giá ngoại tệ của VN từ đầu năm 08 là hết sức phức tạp. Biên độ dao động của tỷ giá được nới lỏng ở mức +/- 2%. Đồng thời, kiểm soát các đại lý thu đổi ngoại tệ, tăng cường truyền thông công bố dự trữ ngoại hối của VN.

Chính sách trên đã giúp tỉ giá dịu lại và duy trì ở mức 16.500 cho đến hết quý III năm 08.

Từ cuối 08 đến tháng 2/09, suy thoái kinh tế tác động mạnh đến nguồn cung ngoại tê, đồng thời với tâm lý găm giữ ngoại tệ của dân cư và các TPKT dẫn đến tình trạng khan hiếm ngoại tệ, tỷ giá ngoại tệ đầu năm 09 luôn nóng và ở mức 18000

6/11/08, NHNN đã điều chỉnh biên độ dao động ở mức +/- 3%

Tỷ giá ngoại tệ dần đi vào ổn định, nhu cầu ngoại tệ trong thanh toán các mặt hàng thiết yếu được đáp ứng.

Thành công của chính sách TT trong giai đoạn khủng hoảng:

Các công cụ trên đã tác động mạnh tới thị trường, làm tăng dần mức cung tiền cho nền kinh tế. Tăng trưởng tín dụng 2008 đạt ~ 23% (bằng gần ½ mức tăng của năm 2007) Tăng trưởng tín dụng đã góp phần chặn đà suy giảm, ổn định kinh tế vĩ mô.

Trong quý I năm 2009, tình hình TCTT tương đối ổn định. Trong tháng 3/2009, tổng phương tiện thanh toán tăng 5,55% so với cuối 2008..

Đến cuối tháng 2, nến kinh tế VN đã đạt đên đáy cuộc khủng hoảng, Đến tháng 3, những chính sách hỗ trợ nền kinh tế của NHNN tiếp tục được thực hiện, nền kinh tế nước ta bước sang giai đoạn mới - giai đoạn phục hồi

IV. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN HẬU KHỦNG HOẢNG

Vào tháng 2/2009, chỉ số giá tiêu dùng và GDP đã tăng trở lại. Dường như mọi quan tâm lúc này đều hướng về chính sách tiền tệ. Có nên tiếp tục nới lỏng một cách thận trọng hay thắt chặt.

Nếu tiếp tục nới lỏng thì tổng lượng tiền trong nền kinh tế sẽ tăng thêm, trong khi các yếu tố tiềm ẩn của lạm phát như chi phí đẩy, cầu kéo vẫn hiện hữu và thúc đẩy lạm phát trở lại.

Nếu thực hiện thắt chặt chính sách tiền tệ thì sản xuất chưa kịp thoát khỏi trì trệ, DN đã phải đối mặt với thiếu vốn đúng vào lúc cần vốn. Hoạt động của hệ thống NH là vô cùng khó khăn khi cùng một lúc phải giải quyết những bất cập về tỷ giá, lãi suất, ngăn chặn lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng

Trươc tình hình trên, NHNN đã quyết định tiếp tục thực hiện chính sách nới lỏng một cách thận trọng, tiếp tục tiếp sức cho nên kinh tê.

1. Lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác:

Lãi suất cơ bản:

Từ tháng 2/09 - tháng 11/09. Liên tục trong 9 tháng liên tiếp, lãi suất cơ bản được NHNN ấn định ở mức 7%.

Đây thực sự là 1 quyết tâm của NHNN. Điều này một mặt cho thấy sự ổn định của thị trường tiện tệ. Mặt khác, mức lãi suất thấp có tác dụng tích cực trong kích thích đầu tư, giảm khó khăn cho các doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vĩ mô - yếu tố rất cần thiết trong giai đoạn "hậu suy thoái"

Lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh giảm từ 11 xuống 7%

Lãi suất được điều chỉnh giảm còn 5%/ năm

2. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc:

Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiếp tục được điều chỉnh giảm. từ 11% xuống 5%

Cho đên tháng 7, ngoại trừ tháng 1 tăng trưởng âm, 6 tháng còn lại đều có tốc độ tăng trưởng dương và tính chung 7 tháng, giá trị sản xuất công nghiệp đã tăng 5,1%. GDP 7 tháng đầu năm tăng 4,4%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 7 tháng tăng 18,1% so với cùng kỳ 2008. Thị trường tiền tệ từng bước được bình ổn.

3. Nghiệp vụ thị trường mở.

- Ngày 15/1, Ngân hàng Nhà nước đã tiến hành ký "Hợp đồng mua lại giấy tờ có giá" với các tổ chức tín dụng là thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở theo Quyết định 27/2008/QĐ-Ngân hàng Nhà nước.

- NHNN đã bơm thêm 17,2 nghìn tỉ đồng vào nền kinh tế Hạn chế của chính sách tiền tệ giai đoạn này:

Do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VND và việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp không muốn vay ngoại tệ mà chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ, dẫn đến nhu cầu mua ngoại tệ tăng mạnh, tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng

7 tháng đầu năm 2009, thị trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi. Do áp lực từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, lo ngại rủi ro biến động tỷ giá, các doanh nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại tệ. .

Trươc tình hình đó NHNN đã áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp và người dân như đẩy mạnh công tác tuyên truyền và công bố công khai, rộng rãi các thông tin về tình hình ngoại hối, tỷ giá; yêu cầu các NHTM nhà nước giảm lãi suất cho vay và huy động bằng ngoại tệ (lãi suất cho vay giảm từ mức 6-6,5%/năm xuống không quá 4%/năm kể từ ngày 15/4/2009 và giảm tiếp xuống mức không quá 3%/năm kể từ ngày 01/6/2009, lãi suất huy động giảm xuống mức không quá l,5%/năm kể từ ngày 01/6/2009)

Tuy nhiên, diễn biến kinh tế những tháng cuối năm vẫn tiếp tục là thách thức cho thực thi CSTT như thâm hụt cán cân thương mại không được cải thiện mà vẫn tiếp tục gia tăng (theo số liệu của Tổng cục Hải quan 11 tháng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước đạt 113,6 tỷ USD, giảm 14,7% so với cùng kỳ năm 2008, trong đó, xuất khẩu là 51,33 tỷ USD, giảm 11,5% và nhập khẩu là 62,28 tỷ USD, giảm 17%.

Thêm vào đó, thâm hụt ngân sách tăng cao, năm 2009 mức thâm hụt ngân sách ở mức 6,5% GDP buộc ngân sách phải vay nợ nhiều, qua đó mà gây áp lực giảm giá VND.

Trên thị trường tiền tệ xuất hiện những hiện tượng bất cập, mâu thuẫn nhau: Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao, nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp, VND vẫn khan hiếm, biểu hiện ở áp lực tăng lãi suất, thanh khoản VND mỏng manh.

Sự khan hiếm tiền đồng về mặt lý thuyết là làm cho VND lên giá. Nhưng chính sách điều tiết vĩ mô thì lãi suất lại thấp (lãi suất cho vay hỗ trợ, trần lãi suất cho vay..) gây áp lực giảm giá VND, đồng thời kích thích nhu cầu sử dụng tiền đồng, tăng nhu cầu tín dụng, gây ra vòng xoáy khan hiếm tiền đồng, gây áp lực cho NHNN phải cung ứng thêm tiền đồng. Điều này tiếp tục gây áp lực giảm giá VND. Đồng thời, sự biến động mạnh của giá vàng cũng có những tác động bất lợi đến tỷ giá.

Trước tình hình này, ngày 26/11, NHNN đã kịp thời điều chỉnh tỷ giá, nâng tỷ giá công bố lên 17.980 đồng/usd, tăng 5,4% so với ngày trước đó, thu hẹp biên độ tỷ giá từ +/-5% xuống còn +/-3%, đồng thời yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm biên độ tỷ giá.

Đồng thời với điều chỉnh tỷ giá, NHNN đã thực hiện nâng các mức lãi suất chỉ đạo lên thêm 1%.

Theo đó, lãi suất cơ bản tăng từ 7% lên 8 %

Lãi suât tái cấp vốn tăng từ 7% đến 8%

Lãi suất chiết khấu cũng tăng từ 5% đến 6%

Đây là giải pháp có tính đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế, vừa có tác dụng tiếp tục duy trì tăng trưởng của nền kinh tế đồng thời chủ động ngăn chặn nguy cơ lạm phát và trước mắt ổn định thị trường ngoại hối.

Lãi suất cơ bản tăng giúp đồng nội địa hấp dẫn và giảm lo ngại về sự mất giá của VND.. Các nhà đầu tư sẽ cớ xu hướng nắm giữ VND và giảm sức ép về nhu cầu USD.

Quyết định thay đổi các loại lãi suất cùng với tỷ giá đã đưa đến những phản ứng tích cực của thị trường, cụ thể là: Ngay sau khi mức lãi suất cơ bản mới có hiệu lực, các NHTM đồng loạt đều tăng lãi suất huy động lên mức cao (10,5 % sau đó giảm xuống 10,499 %). Lãi suất cho vay ở các kỳ hạn đều tăng trần lên mức 12%. Như vậy lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng đã gần tiến gần tới lãi suất thực của thị trường; Tín dụng đối với nền kinh tế tháng 12/2009 ước tăng 0,87% so với mức tăng 3,57% của tháng 11 và mức tăng 2,04% của tháng 10. Ngoài ra, Sự điều chỉnh tỷ giá lần này của NHNN đã lập tức có hiệu quả, tác động ngay đến giá USD trên thị trường tự do. Ngay trong ngày 25/11/2009, khi NHNN công bố thông tin về việc điều chỉnh tỷ giá, giá USD trên thị trường tự do đã giảm từ mức 19.750-19.800 buổi sáng xuống còn 19.500-19.700 vào buổi chiều. Sang ngày 26/11, tỷ giá tự do tiếp tục giảm còn 19.300-19.500 VND/USD.

Đánh giá hiệu quả của chính sách tiền tệ giai đoạn hậu khủng hoảng

Trước những quyết định điều chỉnh của NHNN cũng như hiệu quả từ những quyết định này mang lại, cộng đồng quốc tế đã dành cho Việt Nam sự đánh giá cao cũng như những nhận định lạc quan về tình hình kinh tế sắp tới. Ông Benedict Bingham - đại diện thường trú cao cấp của của IMF tại Việt Nam phát biểu: "Tôi nghĩ rằng quyết định này của NHNN Việt Nam cho thấy họ đã quyết tâm ngăn chặn các rủi ro kinh tế vĩ mô mà họ đang phải đối mặt, và tôi cho rằng quyết định này mang tính tích cực." Báo cáo của Goldman Sachs (Mỹ) ngày 25/11/2009 cũng cho rằng lần điều chỉnh này là cần thiết: "Lần can thiệp này của NHNN Việt Nam là cần thiết để ổn định thị trường tiền tệ trong nước", "động thái tăng lãi suất cơ bản là cần thiết để kiểm soát các rủi ro do tăng trưởng quá nóng và lạm phát cao gây ra. Lãi suất cơ bản được nâng lên sẽ cải thiện sức hấp dẫn cho đồng tiền nội địa, qua đó ổn định tỷ giá VND/ USD và "việc thu hẹp biên độ giao dịch là nỗ lực của NHNN nhằm làm chậm lại sự mất giá của VND so với đồng USD". Báo cáo của Standard Chartered Bank (Anh) về kinh tế Việt Nam đặc biệt đánh giá cao quyết định tăng lãi suất cơ bản của NHNN: "lãi suất cơ bản tăng giúp đồng tiền nội địa hấp dẫn hơn và giúp giảm các quan ngại về sự mất giá của VND. Các nhà đầu tư sẽ có xu hướng nắm giữ VND hơn là USD do lãi suất VND tăng, qua đó, giảm sức ép lên cung USD". Phát biểu tại Hội nghị CG tháng 12 năm 2009, bà Victoria Kwakwa, Giám đốc Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam khẳng định: " Những ngày gần đây, Việt Nam đã công bố những biện pháp kinh tế vĩ mô quan trọng mà tất cả đều đúng hướng xét về mặt bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, điều mà tất cả chúng ta đều cho là quan trọng để tiếp tục có được tăng trưởng. Thành công này đã được các đối tác nói riêng và cộng đồng toàn cầu nói chung ghi nhận".

Như vậy với quan điểm điều hành và những diễn biến trong điều hành CSTT của NHNN từ giai đoạn kinh tế suy giảm do ảnh hưởng khủng hoảng tài chính toàn cầu và trong giai đoạn hậu khủng hoảng hiện nay cho thấy nguyên tắc linh hoạt và thận trọng đã trở thành nguyên tắc quan trọng, thể hiện tính đúng đắn, kịp thời để ổn định thị trường tiền tệ nói riêng và nền kinh tế nói chung. Thống đốc Nguyễn Văn Giàu khẳng định: "mục tiêu chính sách tiền tệ của NHNN bên cạnh hỗ trợ tăng trưởng kinh tế còn phải kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý để ổn định kinh tế vĩ mô. Kinh tế vĩ mô ổn định chính là tiền đề vững chắc cho tăng trưởng bền vững".

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #hang