Phần thứ nhứt ― CHƯƠNG THỨ NHÌ
LÝ-LUẬN LÀ GÌ ?
A. ― Tư-tưởng là gì :
NHÂN một phán-đoán nầy mà tìm ra một phán-đoán khác, đó là lý-luận.
Có kẻ định-nghĩa như vầy : lý-luận, là nhân từ chỗ đã biết để kết-luận đến chỗ chưa biết. Cách định-nghĩa nầy không đúng với sự thật, vì nếu nhận nó là đúng, thời lý-luận là phương-pháp để tìm chân-lý, hay phát-minh sáng-tạo sao ?
Phát-minh, là công-việc của trí tưởng-tượng hơn là của lý-trí. Lý-luận chỉ dùng để mà chứng-giải điều mình đã tìm kiếm ra kia mà thôi. Bởi vậy, ta không thể lầm-lẫn cái trách-nhiệm của sự phát-minh và chứng-giải.
Lý-luận mà được đầy-đủ hoàn-toàn, là một sự ‹‹ phán-đoán tổng-quát ›› và tổ-chức cách nào cho những phán-đoán đi sau phải tùng những phán-đoán đi trước một cách chặt-chẽ khít-khao. Những phán-đoán trước hết gọi là nguyên-lý ; phán-đoán sau chót gọi là kết-luận.
Người phải có lúc chết, Ông cả Hai là người, nhân đó ta kết-luận : Ông cả Hai phải có lúc chết như mọi người.
Quả đất, có nước và không-khí, cho nên có các loài động-vật ở. Hành-tinh Mars có nước và không-khí. Ta bèn nhân đó kết-luận : hành-tinh Mars có lẽ cũng có động-vật ở.
Nhà lý-luận, cần phải biết nhiều để định nguyên-lý, và tinh-thần hoạt-bát để khéo kết-luận.
B. ― Phân-loại :
Lý-luận, có ba loại :
Loại-Suy
Diễn-Dịch
Qui-Nạp
Loại-suy là lối luận đơn-sơ hơn hết, vậy lẽ thì phải bàn đến nó trước hết, nếu mình muốn theo con đường tự-nhiên của sự phát-triển của trí-huệ. Nhưng vì phương-tiện, ta hãy đam hai loại sau là Diễn-dịch và Qui-nạp mà bàn trước :
⁂
1. – DIỄN-DỊCH :
Diễn-dịch là gì ? Là do một sự lý rộng mà suy-cập đến các sự lý khác hẹp hơn, để tìm một kết-luận .
Tỉ như khi ta nói : Hễ là con người, thời phải có khi lầm-lẫn. Bởi vậy các ông quan tòa cũng phải có khi lầm-lẫn.
Như ta đã thấy ở chương trên, phán-đoán là đam một việc hay một tư-tưởng mới sắp vào một khái-niệm đã có biết trước. Đoán rằng : ‹‹ Không-khí nặng ››, là đam không-khí mà sắp vào loại đồ nặng mà ta đã biết trước. Phép luận theo diễn-dịch, cách-thức nó cũng một thế.
Diễn-dịch là đam một trường-hợp riêng mà loại vào một luật chung. Đó là lối sắp cái hẹp vào trong cái rộng hơn.
Như trên đây, nói rằng : ‹‹ hễ là con người thì phải có khi lầm-lẫn ››, đó là mình xem nó như một luật chung cho tất cả loài người ; còn nói đến ‹‹ các quan tòa ››, đó chỉ là một trường-hợp riêng trong cái luật chung ấy thôi.
Lối luận nầy, nếu đam nó ra sắp đặt lại cho ra vẻ của nó, thì phải phân ra làm ba chặng như sau đây :
1. – Hễ là con người, thời phải có khi lầm-lẫn ;
2. – Mà các quan tòa, là con người ;
3. – Bởi vậy, các ông ấy cũng phải có khi lầm-lẫn.
Nhà lý-luận-học gọi cách dàn-xếp nầy là tam-đoạn-luận. Cái lý của câu số hai và số ba đã nằm sẵn trong câu số một. Câu số một gọi là nguyên-lý, câu số ba gọi là kết-luận.
Phàm câu nguyên-lý mà đúng với sự thật, thì câu kết-luận cũng đúng với sự thật. Nếu nó mà định sai, thì câu kết cũng trật luôn. Tỉ như, nếu ta định cái nguyên-lý sai như vầy :
1. Hễ là con người, thời không bao giờ chết ;
2. Ông Xoài là người ;
3. Bởi vậy, ông Xoài không bao giờ chết. [13]
Câu số một đã sai với sự thật rồi, thì câu kết cũng nhân đó mà sai mất.
Theo tam-đoạn-luận của phép diễn-dịch, người ta không phải đi kiếm cái lý, vì lý đã có sẵn. Người ta chỉ ‹‹ tháo ›› cái lý đó ra, bày nó ra cho rõ-ràng mà thôi. Ăn thua cái nguyên-lý của mình định kia trúng cùng không trúng mà thôi, chớ câu kết-luận bao giờ cũng phải nằm ở trong nguyên-lý đó, không thể thoát ra khỏi nó mà thay đổi bản-chất được.
Theo phép của tam-đoạn-luận, thì nếu đã nhận đại-tiền-đề, tất nhiên cũng phải nhận kết-luận, nghĩa là không được mâu-thuẫn. Đã nhận cái lý nầy : ‹‹ Hễ là con người đều phải có khi lầm-lẫn ››, thì không được phép không nhận câu kết-luận, ‹‹ các quan tòa cũng phải có khi lầm-lẫn ››. Vì câu kết phải nằm trong câu đại-tiền-đề. Muốn luận cho đúng theo phép tam-đoạn-luận thì phải cho ‹‹ nhứt khí quán hạ ›› mới được. Cho nên có sai, là tại nguyên-lý của nó đã định sai, chớ không phải luận sai. Bởi vậy, muốn tránh sự lạc-lầm, phải xem-xét lại cho kỹ cái mối đầu của nó (đại-tiền-đề).
⁂
Diễn-dịch dùng để mà chứng-minh, hoặc để mà cắt-nghĩa một việc gì.
a) Tỉ như một ông thầy kiện muốn chứng tỏ rằng thân-chủ mình là vô-tội trong vụ sát-nhân. Ông vịn vào cái nguyên-lý nầy, mà luật-pháp công-nhận là đúng : giết người vì tự-vệ, là vô-tội. Đặt ra một đại-tiền-đề như thế mà ai ai cũng phải nhận là phải. Bấy giờ ông chỉ còn tìm những bằng-cớ để tỏ rằng thân-chủ của ông chỉ vì tự-vệ mà giết người chớ không phải là cố-sát, để làm tiểu-tiền-đề. Thế là xong : Ông cứ ung-dung mà kết-luận : ‹‹ Thân-chủ tôi vô tội ›› thì không còn ai bắt-bẻ ông được nữa.
b) Cắt-nghĩa một việc gì, thì trước tìm một cái luật chung mà ai ai cũng nhận là đúng, rồi chỉ cho thấy việc ấy ở trong cái luật đó. Tỉ như, muốn cắt-nghĩa tại sao người kia uống thuốc độc chết, ông thầy thuốc tìm ra một cái luật chung, và luận như thế nầy :
Dầu nóng là một chất độc, uống vào thì chết ngay ;
Mà người nầy, uống phải dầu nóng ;
Thế nên, người ấy phải chết.
⁂
Trong đời sống hằng ngày, trong khi bàn-cãi hay bút-chiến, người ta hay dùng những phép diễn-dịch làm khí-giới để chiến-đấu rất đắc-lực. Miễn là mình làm sao cho người ta nhận cái đại-tiền-đề (nguyên-lý) của mình trước đi, thì người ấy đã ở trong tay mình rồi vậy. Thường những nguyên-lý mình đưa ra đó, toàn là những chân-lý thông-thường, ai ai cũng dễ nhận. Đã là nhận rồi, thì họ không thoát khỏi kết-luận mình, vì họ phải nhận luôn nó nữa, không thế thì họ tự mâu-thuẫn với họ còn gì !
⁂
Mạnh-Tử dường như rất sành cái lối luận nầy lắm. Trong chương Lương-Huệ-Vương sách Mạnh-Tử có thuật câu-chuyện như sau nầy :
‹‹ Mạnh-Tử hỏi Tề-Tuyên-Vương : Giả-sử có người bầy tôi của nhà vua, đam y-thực của vợ con ký-thác cho người bạn thân, nhờ trông nom giúp, để sang chơi nước Sở có việc, mà kịp đến khi về, mới biết bạn mình để cho vợ con đói rách, thì người ấy nên xử với bạn thế nào ?
Vua nói : Phải tuyệt-giao.
Mạnh-Tử lại hỏi : Giả-sử có người làm quan sĩ-tư không hay trông nom được thuộc-viên, để cho hình ngục sai-lầm, công-việc phế-khoáng, thì nhà vua nên xử như thế nào với viên quan ấy ?
Vua nói : Nên cách chức.
Mạnh-Tử nói : Thế thời, làm vua một nước mà không lo sửa-sang việc chánh-trị, giáo-dục, để đến nỗi trong nước không được bình-trị, thì trách-nhiệm tại ai, và nên xử-trí như thế nào ?
Vua nghe nói, ngảnh bên tả, bên hữu, nói lãng sang chuyện khác. ››
Tề-Tuyên-Vương đã vô-tình thừa-nhận cái đại-tiên-đề của Mạnh-Tử đưa ra rồi, thì không thế nào thoát khỏi kết-luận của ông. Bởi vậy, Tề-Tuyên-Vương phải bị ‹‹ câm ›› miệng, không một lời biện-bác gì nữa được.
⁂
Socrate, với cái tài hùng-biện của ông, rất ưa dùng lối luận nầy để bài-bác những ngụy-luận kẻ khác và làm cho họ phải ‹‹ cụt lối ››.
Thường thường, ông làm như vô-tình đưa ra những đại-tiên-đề mà địch-thủ phải nhận với một nụ cười khinh-thị, vì nó rất tầm-thường, hết sức tầm-thường. Nhưng mà phải coi chừng. Đã một khi nhận nó rồi, thì số phận mất còn ở trong tay của ông rồi vậy.
Ngày kia Antiphon, bắt-bẻ Socrate, gọi ông là người khùng, vì ông không chịu nhận tiền dạy học của các đệ-tử. Antiphon bảo : ‹‹ Trí-huệ, không thể lấy tiền bạc mà trả được. Đành như vậy. Nhưng theo tôi, tôi buộc các đệ-tử tôi phải trả tiền công cho tôi. Và nếu họ công-bình, biết rằng tiền bạc không đủ trả được công tôi, thì họ phải hoài-niệm ân tôi hằng buổi nơi lòng mới phải. Ông là người có danh là công-bình cớ sao ông lại để có sự bất-công như thế ? ›› Socrate không trả lời. Ông chỉ đam một đại-tiên-đề rất đơn-giản và dễ nhận, để nhử Antiphon vào rọ.
Ông hỏi : ‹‹ Nếu có một người đàn-bà kia, đam tình âu-yếm mình mà bán cho kẻ khác, bắt người phải trả tiền. Người đàn-bà ấy, Antiphon gọi là người gì ? ››
Antiphon : ‹‹ Người ấy là người gái đỉ, chớ còn gọi người gì nữa. Nhưng mà ăn thua gì đến câu hỏi nầy với vấn-đề kia tôi đã hỏi ông ? ››
Socrate nói : Có chứ ! Có chứ ! Nầy ông Antiphon, tình yêu và trí-huệ là những bảo-vật vô giá. Tôi nghĩ rằng, cái điều mà cô gái đỉ kia bán được, e không phải là tình-yêu thật, mà là cái tình-yêu giả. Một tay biện-luận mà đam bán lời nói của mình được, tôi cũng e lời nói ấy là lời dối-trá, không phải là trí-huệ vậy. Trong tình-yêu chân-thật, cũng như trong trí-huệ chân-thật, kẻ thi-thố ra cũng được sung-sướng như người thụ-hưởng có khi còn gắp bội phần là khác nữa.
Antiphon giận đỏ mặt, nói : Socrate, ông lại mắng tôi sao ? Tôi đi đây, là vì tôi phải giữ mình cao-thượng hơn ông, không thì tôi phải mắng ông lại mới đã nư-giận của tôi cho.
⁂
Lối dùng tam-đoạn-luận như thế, thật là khôn-khéo. Kẻ nào vô-ý bơ-thờ, hay sa vào cái bẫy của kẻ nghịch, không phương gì ra khỏi.
Người ta nhân cái luận nầy, mà tạo ra một thể luận khác thay vì đam ra một, họ đưa ra hai đại-tiền-đề đối-đích để nhử địch-thủ vào chỗ không thể trốn-tránh được nữa. Nhà luận-lý-học gọi là Song-Quan-Luận.
⁂
Protagoras, nhà ngụy-luận đại-danh ở Abdère có dạy một anh học trò về khoa khẩu-biện với một số bạc nhứt-định là bao nhiêu đó, nhưng hẹn rằng phân nửa số bạc trả trước, còn phân nửa kia thì sẽ trả sau khi anh học trò thắng được vụ kiện đầu-tiên.
Anh đệ-tử sau khi học thành tài, không gặp cơ-hội nào để bào-chữa cả, nên không chịu trả tiền cho thầy. Protagoras, tức mình đưa anh ta ra cửa công, và đòi phân nửa số tiền còn thiếu ấy. Ông viện lẽ như vầy : ‹‹ Hoặc tòa xử tôi thắng hoặc tòa xử tôi thất trong vụ kiện nầy. Nhưng thế nào, tên học trò của tôi cũng phải trả số bạc nó còn thiếu. Nếu nó được kiện, thì theo lời giao-ước, nó thắng vụ kiện đầu tiên, nó cũng phải trả cho tôi. Còn nếu nó thất, thì chiếu theo luật, tôi được kiện, nó cũng phải trả cho tôi. ››
Anh đệ-tử, cũng không vừa gì, cãi lại : ‹‹ Nếu quan tòa xử tôi đặng, thì theo luật tòa, tôi không trả cho thầy đồng nào cả. Trái lại nếu tòa xử tôi thất, thì theo điều giao-ước của chúng ta, tôi cũng không phải trả cho thầy đồng nào nữa. ››
Dường như các quan tòa không biết phải xử cách nào, nên đình lại cái án ấy một trăm năm sau sẽ xử. [14]
Câu chuyện trên đây là cái mẫu của lối Song-Quan-Luận.
⁂
Có một tên lính kia, gác đồn, để binh giặc vào cướp thành mà không cho binh-lính trong thành hay, bị khép vào tội xử-tử.
Quan tòa luận-án như thế nầy :
Hoặc anh có mặt tại cửa thành ;
Hoặc anh không có mặt tại cửa thành.
Nếu anh có mặt tại cửa thành, sao quân giặc vào thành mà không cho hay ? Đó là làm phản. Anh phải bị xử-tử.
Nhược bằng trong lúc đó anh không có mặt tại cửa thành, đó là anh bỏ phận-sự tối-trọng người ta đã giao-phó cho anh. Anh cũng phải bị xử-tử.
Hai cái đại-tiền-đề đưa ra đây, đều là để kết án anh lính. Anh không thể thoát tội xử-tử.
⁂
Lắm khi lối luận nầy, người ta không đem ra để bắt kẻ nghịch, mà lại đưa ra để tự bắt mình.
Một nhà hiền-triết khuyên ta : ‹‹ Khi nghe tiếng đồn xấu kẻ khác, ta nên tự hỏi như vầy ; Ta không nên nghe những lời đồn-đãi xấu-xa của kẻ khác. Vì hai lẽ : Hoặc người bị nói xấu là ưng, hoặc người ấy bị oan. Nếu ưng, thì với sự phê-bình của mình đây, là thêm cho họ một sự đau-đớn nữa, đó là ta thiếu lòng nhân. Nếu người ấy bị oan, thì lời phê-bình của ta đây là lời phê-bình bất-công và phạm vào tội gièm-siểm. Bởi vậy nghe lời nói xấu kẻ khác mà nghe theo và phê-bình, thế nào ta cũng phạm một điều : bất-nhân hoặc bất-công. Bất-nhược ta đừng phê-bình tới là xong. ››
⁂
Đại-tiền-đề của phép luận song-quan, có hai mặt đối-đích để chận địch-thủ không cho thoát ra, cũng như nhà có cửa trước cửa sau ; hễ chận hai cửa ấy, thì địch-thủ phải chịu bó tay. Nhưng, cái nguy của song-quan-luận, là vì chỉ lo chận hai đầu, mà quên chỗ kẽ giữa. Cho nên lối luận nầy ít khi khả-cứu được.
⁂
Phép diễn-dịch theo tam-đoạn-luận có nhiều hình-thức khác nhau, nhưng tựu-trung cũng trở về một mối là tam-đoạn-luận. Đại khái như :
1.) Nhị-đoạn-luận, là một lối tam-đoạn-luận mà thiếu một trong hai cái tiền-đề.
Tỉ như : ‹‹ Trời đất chí công, cho nên thưởng kẻ lành, hành kẻ dữ ››. Ở đây, đại-tiền-đề thiếu. Nếu muốn luận đầy-đủ, thì phải lập như vầy :
1. – Công-bình, là thưởng kẻ lành phạt kẻ dữ.
2. – Mà Trời đất chí công.
3. – Cho nên, Trời đất thưởng kẻ lành, hành kẻ dữ.
Hoặc nói : Hễ là lễ phép thì dễ thương.
Bởi vậy, ông Ổi rất dễ thương ;
Ở đây, tiểu-tiền-đề thiếu. Nếu phải lập-luận lại cho đầy-đủ thì phải như vầy :
1. – Hễ là lễ phép thì dễ thương;
2. – Mà ông Ổi rất lễ phép;
3. – Cho nên ông Ổi rất dễ thương.
Cũng như câu luận : ‹‹ Đã là người, thì phải có khi lầm-lẫn, bởi vậy, các quan-tòa cũng phải có khi lầm-lẫn. ›› Ở đây câu tiểu-tiền-đề ‹‹ Mà các quan-tòa là người ›› không cần nhắc tới, vì ai ai cũng có thể hiểu ngầm được một cách rất dễ-dàng.
Bởi vậy, lối luận nầy thông-dụng trong khi luận hằng ngày, vì người ta kết-luận mau-lẹ, không phải ‹‹ cù cưa ›› cho lâu-lắc.
2.) Phụ-chứng tam-đoạn-luận : là lối tam-đoạn-luận mà mỗi tiền-đề đều có chứng-cứ của nó cả.
Bài Cicéron biện-hộ cho Milon sau đây là một kiểu-mẫu về lối ‹‹ phụ-chứng tam-đoạn-luận ›› [15]
Đại-tiền-đề : Người ta có quyền giết chết kẻ nào lừa mình vào cạm-bẫy mà không phải tội.
(Bằng cứ : theo luật của thiên-nhiên, theo luật của con người ; và tỉ-dụ phụ vào để làm chứng cho câu đại-tiền-đề nầy [16].)
Tiểu-tiền-đề : Mà Clodius lừa Milon vào cạm-bẫy để giết đi.
(Bằng cứ : Cicéron đam hết những chứng-cứ chỉ rằng Clodius lừa Milon vào cạm-bẫy để giết đi.)
Kết-luận : Bởi vậy, Milon có quyền giết Clodius, mà không phải tội gì cả.
Lối luận nầy, các trạng-sư hay dùng để biện-hộ cho thân-chủ mình. Đại-tiền-đề của họ thường là một đạo-luật có thể đưa bị-cáo ra khỏi vòng pháp-luật. Tiểu-tiền-đề, là những bằng-cứ tỏ ra người bị-cáo là người có thể hưởng được đạo-luật ấy.
3.) Liên-châu-luận : là một lối luận có rất nhiều mạng-đề tiếp-tục nhau mãi.
Cái cuối của mệnh-đề thứ nhứt, là cái đầu của mạng-đề thứ hai ; cái cuối của mạng-đề thứ hai, là cái đầu của mạng-đề thứ ba, và luôn-luôn như thế mãi... Cái sau rốt, trở nối lại với đoạn đầu... như các hột châu trong một xâu chuỗi vậy, nên gọi là liên-châu-luận.
Plutarque nói, con chồn trước khi đi ngang qua giá hay lóng tai nghe coi phía dưới có nước chảy không. Nếu không nghe tiếng nước thì nó đi qua, bằng nghe có tiếng nước thì nó không đi. Dường như nó suy-nghĩ như vầy :
Dưới miếng giá nầy, nghe có tiếng ;
Cái gì có tiếng, thì động ;
Cái gì động, thì chưa lạnh đặt ;
Cái gì chưa lạnh đặt, thì lỏng ;
Cái gì lỏng thì bở và sẽ bể tan ra.
Vậy, miếng giá nầy không thể chịu được sức nặng vì nó bở và sẽ bể tan ra.
Đó là phép luận liên-châu.
4.) Tiền-trí tam-đoạn-luận : là lối luận có hai hoặc có nhiều mạng-đề, mà câu kết của mạng-đề nầy, là câu tiền-đề của câu kế... tiếp-tục nhau mãi.
Tỉ như câu nầy trong Đại-Học :
‹‹ Vật cách nhi hậu tri chí ;
Tri chí nhi hậu ý thành ;
Ý thành nhi hậu tâm chánh ;
Tâm chánh nhi hậu thân tu ;
Thân tu nhi hậu gia tề ;
Gia tề nhi hậu trị quốc ;
Trị quốc nhi hậu thiên hạ bình. ››
(Cái lý của vật thấu rồi thì sự hiểu biết mới đến nơi ;
Sự hiểu biết đến nơi rồi thì ý mới thành ;
Ý thành rồi, thì tâm mới chánh ;
Tâm chánh rồi, thì thân mới tu ;
Thân tu rồi, thì nhà mới tề ;
Nhà tề rồi, thì nước mới trị ;
Nước trị rồi, thì thiên-hạ mới bình.)
⁂
2. – QUI-NẠP
Phép luận nầy bằng-cứ nơi sự thật ở nhiều nơi nhiều lúc mà gom-góp lại, lập thành một cái luật chung. Người ta quan-sát thấy hễ đốt lửa lên, thì có khói. Một lần, hai lần, ba lần, năm lần, mười lần... mà lần nào như lần nấy, người ta liền qui-nạp thành cái luật chung là : hễ có khói tất có lửa.
Dùng phép qui-nạp là nhận rằng vạn vật trong đời đều bị sống dưới quyền chỉ-huy của một số ít nhiều định-luật bất-di bất-dịch. Nguyên-tắc của phép qui-nạp là : ‹‹ những nguyên-nhân giống nhau đều sanh ra luôn-luôn những kết-quả giống nhau ››. Nó là biến-thể của cái luật Nhân-Quả. Hễ nhân nào sanh quả nấy. Như thấy có khói, là biết có lửa. Lửa là nhân, khói là quả, đi đôi nhau luôn như bóng với hình.
Lối luận nầy trước khi thành một lối luận khoa-học là một lối luận đơn-giản, lối luận bằng loại-suy rất đơn-sơ tự-nhiên. Con trẻ, suốt ngày, luận bằng lối qui-nạp. Bất-kỳ là cái gì nó gặp một vài lần, là nó qui-nạp thành luật chung : ông nội nào cũng có râu (như ông nội nó) ; con mèo nào cũng đen (như con mèo của nó)... v.. v... Chơi than lửa bị phỏng tay nhiều lần, sau hễ thấy than lửa là sợ phỏng tay. Cũng như ta, hễ thấy có mây đen, là nghĩ đến mưa. Lối luận nầy không phải là lối qui-nạp theo khoa-học, mà là cái thai của nó.
⁂
Qui-nạp là lối luận rất thiết-yếu của các khoa-học về thực-nghiệm. Người thường hễ thấy một việc xảy ra nhiều lần đều có một kết-quả như nhau, liền qui-nạp thành một cái luật chung. Tỉ như thấy có sao chỗi, là có giặc-giã. Nhiều lần như vậy, họ bèn lập thành một thuyết chung là : sao chỗi hiện ra là có giặc. Đó là lối qui-nạp thông-thường.
Qui-nạp theo khoa-học, thì có hơi khác. Là vì, ở đây, người ta không qui-nạp ‹‹ bướng ›› như trên, nghĩa là thay vì xem qui-nạp ấy là một qui-luật, nhà khoa-học chỉ coi nó như một ức-thuyết nghĩa là một cái thuyết tạm để quan-sát và thí-nghiệm lại. Chừng nào ức-thuyết ấy có được nhiều lần thí-nghiệm, có nhiều chứng-cứ đàng-hoàng không sai chạy, bấy giờ mới được xem là qui-luật. Bằng không, thì ức-thuyết ấy phải bỏ đi.
Địa-vị của ức-thuyết trong khoa-học thực-nghiệm, thật là to-tát.
Không có một cuộc thí-nghiệm nào về khoa-học mà không có một ức-thuyết để làm chân đứng, để làm hướng-đạo. Theo khoa-học thời qui-nạp và ức-thuyết có cái nghĩa tương-tợ nhau, nhưng sự thật thời qui-nạp tức là ức-thuyết mà đã được thí-nghiệm rồi, còn ức-thuyết là qui-nạp mà chưa thí-nghiệm, hoặc thí-nghiệm chưa được đầy-đủ.
Một ức-thuyết mà muốn được gọi là khoa-học, phải có đủ những điều-kiện sau nầy :
1. – Nó phải căn-cứ vào thực-sự ;
2. – Nó không bị phản-đối vì một thực-sự nào cả, nghĩa là trong khi thí-nghiệm, không bị phải một thí-nghiệm nào phản-đối nó cả.
3. – Nó phải là một nguyên-lý dồi-dào phong-phú, nghĩa là gợi ra được nhiều cuộc tìm kiếm mới-mẻ, gây ra được nhiều cuộc thí-nghiệm.
4. – Nó phải đơn-giản. Chính vì lý-thuyết của Ptolémée rất phiền-phức nên Copernic mới nghĩ ra một ức-thuyết khác đơn-giản hơn. Đơn-giản là điều-kiện cốt-yếu của một ức-thuyết hay.
⁂
Ức-thuyết, mà người thường hay xem là một lý-thuyết, – cần phải thí-nghiệm lại mới được xem là một lý-thuyết, đối với nhà khoa-học. Nhà thông-thái nhất, là người tìm ra được nhiều ức-thuyết kiểm-chứng được. Thiên-tài biểu-lộ, chính nơi đó. Edison, là người rất giàu ức-thuyết. Cho nên ông là người phát-minh sáng-tạo rất nhiều món thần-tình.
Tuy-nhiên, nhà thông-thái, cần phải biết phân-biệt, ức-thuyết và qui-nạp, như trên kia đã có nói. Nghĩa là, họ phải biết hoài-nghi những ức-thuyết của mình. Họ phải đợi một thời-gian để thí-nghiệm, tìm chứng-cứ, cho thật xác-đáng mới chịu qui-nạp thành qui-luật. Các nhà trinh-thám cũng thường dùng phép qui-nạp để tìm thủ-phạm [17].
Tóm lại, phương-pháp của nhà khoa-học bao giờ cũng phải trải qua ba giai-đoạn nầy :
1. – Quan-sát cho thật tinh-tế
2. – Nhân những điều mình quan-sát ấy, tìm cách qui-nạp, nghĩa là tưởng-tượng một nguyên-nhân chung cho tất cả các sự-kiện rời-rạt kia, làm thành một ức-thuyết. Ức-thuyết ấy phải cắt-nghĩa được tất cả những hiện-tượng mình đã quan-sát kia, mà không phải bị một thực-sự nào phản-đối được, chừng ấy mới được xem là đúng-đắn thôi. Bằng không, phải bỏ đi, và tìm một ức-thuyết khác đủ lý hơn và ăn khớp với sự thật hơn.
3. – Nhà khoa-học, bấy giờ, tìm cách kiểm-tra, thí-nghiệm ức-thuyết ấy lại.
Qui-nạp theo nhà khoa-học, là tư-tưởng mà biết huỡn lại sự phán-đoán của mình, không kết-luận ‹‹ bướng ››, không hấp-tấp, vội-vàng. Hoài-nghi của nhà khoa-học, là hoài-nghi để mà chiêm-nghiệm, không phải lối hoài-nghi của người theo chủ-nghĩa hoài-nghi triệt-để đâu. Muốn tập tư-tưởng cho đúng-đắn ít bị lầm-lạc, cần phải theo phương-pháp làm việc và suy-nghiệm của nhà khoa-học về thực-nghiệm, vì phương-pháp ấy tự buộc phải giữ luôn-luôn sự liêm-khiết đối với mình. Người ta thường hay có bụng thiên-vị, cho nên chỉ nhớ những điều gì thuận với lòng mình ao-ước thôi. Nhà khoa-học, dầu sao cũng trước hết là người như mọi người, lẽ cố-nhiên cũng có những sự thiên-kiến đối với lý-thuyết của mình. Bởi vậy, những bằng-chứng, những lý-lẽ nghịch với lý-thuyết mình, họ thường hay bỏ qua không để-ý đến. Darwin cũng vì lẽ ấy, tập tánh hay biên ra liền, và biên một cách thành-thật những ý-kiến, những bằng-cứ nghịch với lý-thuyết của ông, vì theo ông, những ý-kiến ấy dễ quên lắm. Đó ông gọi là đức ‹‹ liêm-khiết khoa-học ››.
Tôi, thời thường, thích cái học của Lão-Trang. Nhưng đọc sách, lại rất ưa đọc những sách bài-bác Lão-Trang. Những lý-lẽ người ta đã viện ra để kích-bác cái học ấy, tôi hay biên ra để cho dễ nhớ. Là vì tôi muốn đi sâu vào học-thuyết ấy mà khỏi phải bị một thiên-kiến gì cả. Khi mình đã có ưa thích một điều gì, mình phải biết lo ngừa có sự thiên-lệch về điều ấy. Bất-kỳ là học cái chi, tôi nhớ đến phương-pháp nầy luôn, đến nó đã thành một thói-quen rồi vậy.
Cái đức đầu-tiên, mà phương-pháp khoa-học thực-nghiệm đam lại cho con người, là đức khiêm-tốn. Nó giúp ta bỏ bớt cái lòng tự-đắc kiêu-căng đi. Qui-nạp mà cho đúng phép, nghĩa là hoàn-toàn theo khoa-học thực-nghiệm, giúp cho tư-tưởng mình được sáng-suốt và đúng-đắn, dẫu không phải là chân-lý, cũng không xa chân-lý mấy. Qui-nạp theo thói thường hay biến thành ra ngụy-luận, sẽ bàn ở một nơi khác trong quyển nầy.
⁂
3. – LOẠI-SUY
Loại-suy, là lối luận đơn-sơ hơn hết.
Nhân hai vật, vừa giống nhau mà cũng vừa khác nhau ; nhưng phần giống nhiều hơn, ta kết-luận cho cái nầy giống như cái kia.
Đó là phép loại-suy.
Tỉ như : Trái đất, là một hành-tinh có người ở ; ta bèn nghĩ ngay đến hành-tinh Mars có lẽ cũng có người ta ở.
Chất sắt đốt nóng giãn ra ; ta bèn kết-luận : chất đồng mà đốt nóng có lẽ cũng giãn ra.
a) Bản-chất :
Loại-suy, bản-chất nó như thế nào ? Ta hãy so-sánh nó với phép diễn-dịch và qui-nạp sẽ thấy dễ-dàng hơn.
a') Diễn-dịch và Loại-suy, mới thấy sơ qua thì mường-tượng với nhau, nhưng nếu đam cái kết-luận của hai phương-pháp ấy mà quan-sát lại kỹ, ta sẽ thấy nó khác nhau xa.
Ví như, cùng một câu kết-luận : ‹‹ Chất đồng, hễ đốt nóng thì giãn ra ››, mà dùng phép diễn-dịch để tìm ra, thì phải dùng đến một tiền-đề rộng-rãi và gồm nắm cái kết-luận ấy ở trong. Phải lập-luận như vầy :
Phàm kim-khí, hễ đốt nóng, thì giãn ra ;
Mà chất đồng, là kim-khí ;
Bởi vậy, chất đồng, hễ đốt nóng cũng giãn ra.
Trái lại, nếu dùng phép loại-suy, thì chỉ dùng đến một tiền-đề thường nghĩa là không rộng hơn và không gồm nắm cái kết-luận ở trong. Chỉ luận sơ-sài như vầy :
Chất sắt, đốt nóng thì giãn ra ;
Chất đồng, đốt nóng cũng sẽ giãn ra.
Câu kết và câu ở tiền-đề vẫn như nhau, nghĩa là tiền-đề không rộng hơn, không hàm chứa kết-luận ở trong.
b') Qui-nạp và Loại-suy cũng không giống nhau. Thử đam hai lối luận nầy mà so-sánh như trên, ta sẽ thấy chỗ khởi-điểm của hai lối luận nầy tuy đồng nhau, mà tới chỗ kết lại không giống nhau.
Tỉ như, cùng một chỗ khởi-điểm là ‹‹ Chất sắt, đốt nóng giãn ra ›› mà nếu dùng phép qui-nạp thì phải kết-luận như vầy :
Chất sắt, đốt nóng giãn ra ;
Bởi vậy, bất-kỳ là những cái gì thuộc về loại sắt, đốt nóng cũng giãn ra.
Trái lại, nếu dùng phép loại-suy thì phải kết-luận như vầy :
Chất sắt đốt nóng giãn ra ;
Bởi vậy, chất đồng đốt nóng cũng sẽ giãn ra.
Qui-nạp thì nhân chỗ đồng-nhất mà kết qua chỗ đồng-nhất, nghĩa là từ chất sắt kết qua chất sắt nhưng rộng hơn ; còn loại-suy, thì nhân chỗ tương-tợ mà kết qua chỗ tương-tợ, nghĩa là từ chất sắt kết qua chất đồng, hai chất tuy cùng một loại là kim-khí nhưng khác nhau.
Thế thì, loại-suy rất khác xa diễn-dịch và qui-nạp. Vậy, thì nó là gì ?
⁂
Dường-như lối luận của loại-suy là lối luận vượt bực, luận từ chất rắn vượt qua chất đồng mà không cần đến một trung-gian nào cả. Nhưng thật sự, thời không phải vậy. Trong lối luận loại-suy có hai giai-đoạn :
Giai-đoạn thứ nhứt : Nhân thấy chất sắt nóng, giãn ra, ta bèn nghĩ ngược lại một đại-tiền-đề rộng hơn : phàm là kim-khí, hễ nóng thì giãn ra.
Giai-đoạn thứ hai : Bắt đầu đại-tiền-đề ấy, ta cứ luận theo phép diễn-dịch : phàm là kim-khí hễ nóng thì giãn ra ; mà chất đồng là kim-khí ; cho nên, chất đồng, hễ nóng cũng giãn ra.
Nếu xét cho kỹ, ta thấy giai-đoạn thứ hai nầy, là một lối luận theo phép diễn-dịch thường rất dễ hiểu. Chỉ có giai-đoạn thứ nhứt, là có hơi khó giải-thích một chút. Thật vậy, mới xem qua, dường như nó là một lối qui-nạp :
Chất sắt, nóng thì giãn ra ;
Bởi vậy, loài kim-khí nào nóng cũng giãn ra.
Nhưng, như thế, thì lý-luận không mấy được chính-xác, vì nếu thật theo phép qui-nạp, phải luận như vầy mới đúng :
Sắt, nóng thì giãn ra ;
Bởi vậy, bất-kỳ là ở đâu và bao giờ, sắt hễ nóng thì giãn ra.
Theo phép qui-nạp, ta không có quyền kết-luận từ chất nầy qua chất kia, nghĩa là từ chất sắt qua chất đồng mà chỉ được phép kết từ bây giờ đến sau nầy và mãi-mãi nghĩa là từ một thời-gian ngắn đến một thời-gian dài hơn. Ta phải luận như vầy : Giờ đây, miếng sắt nầy, đốt nóng thì giãn ra ;
Vậy, bất-kỳ là ở vào buổi nào, nếu đam chất sắt mà đốt, thì nó cũng sẽ giãn ra như bây giờ. Đây mới thật là luận theo phép qui-nạp. Còn luận như trên : bắt từ chất sắt mà kết-luận đến tất cả loài kim-khí, đâu còn gọi được là qui-nạp nữa, mà là một lối vừa qui-nạp vừa loại-suy mà trộn lộn lại thôi.
Cho nên, giai-đoạn thứ nhứt nầy cũng chưa giải-quyết được. Ta quả-quyết nó không phải cùng một loại với qui-nạp. Vậy, nó là loại gì ?
Nó, thật ra, cùng một loại với diễn-dịch, nhưng diễn-dịch nghịch-hành nghĩa là diễn-dịch nhân kết-luận mà trở ngược về đại-tiền-đề. Như ta đã thấy ở trên : nhân thấy miếng sắt nóng giãn ra, ta bèn nghĩ đến một đại-tiền-đề rộng hơn : phàm là kim-khí, hễ nóng thì giãn ra.
Đến khi tìm được đại-tiền-đề của nó rồi, bấy-giờ ta cứ theo con đường diễn-dịch thuận-hành mà đi như thường :
Phàm là kim-khí, hễ đốt nóng thì giãn ra ;
Mà chất đồng là kim-khí ;
Vậy, chất đồng đốt nòng cũng giãn ra.
Tóm lại, luận theo loại-suy, có hai giai-đoạn : diễn-dịch nghịch-hành, và tiếp theo đó diễn-dịch thuận hành, nghĩa là theo con đường tự-nhiên của phép diễn-dịch. Hay, nói một cách khác, luận theo phép loại-suy không có vượt bực, nghĩa là, nhảy từ ‹‹ ca ›› thứ nhất qua ‹‹ ca ›› thứ hai, từ chất sắt nhảy qua chất đồng, mà là luận theo một lối diễn-dịch ngược lên để tìm đại-tiền-đề, rồi diễn-dịch thuận xuống để kết-luận.
b) Giá-trị :
Muốn định giá-trị của phép luận nầy, nghĩa là muốn biết nó đáng tin nhiều ít như thế nào, thì phải căn-cứ vào đâu ?
Cố-nhiên là phải căn-cứ nơi chỗ sai-biệt của hai ‹‹ ca ›› mà ta muốn dung-hiệp đó. Nếu chỗ sai-biệt nhiều hơn chỗ giống nhau thì kết-luận của ta đáng hoài-nghi. Nhược bằng, chỗ giống nhau lấn hơn chỗ sai-biệt, thì kết-luận của ta đáng tin hơn là ngờ-vực. Nhưng tin một cách quả-quyết tuyệt-đối thì không nên, vì lối luận nầy bao-giờ cũng đáng ngờ, bởi hai vật đều giống nhau đến đâu, bao-giờ cũng có chỗ khác nhau. Trong vạn-vật không bao-giờ có hai vật giống nhau như một đặng.
Tỉ như : ta nhân con người có trí-huệ, có tình-cảm mà kết-luận rằng con thú cũng có trí-huệ và tình-cảm. Lẽ cố-nhiên là cái kết-luận nầy đáng ngờ lắm. Tại sao ? Vì giữa con người và con thú, biết bao là điều khác nhau.
Tuy-nhiên, không phải chỉ đếm cho được nhiều sự sai-biệt là đủ, ta còn phải biết cân-nhắc nó nữa. Một chỗ sai-biệt thôi, lắm khi cũng đủ làm cho ta ngờ-vực và không dùng đến loại-suy được. Ví như loại-suy với trái đất mà ta quả-quyết rằng trên mặt trăng cũng có người ở như ở đây, ta đâu có cần phải thấy được nhiều chỗ sai-biệt để phá-hoại câu kết-luận. Chỉ cần biết rằng trên đó không có không-khí như đây, là đủ cho câu kết kia tự-hủy. Cho nên, một điểm sai-biệt thôi, nếu nó thật quan-trọng cũng đủ thủ-tiêu kết-luận của ta liền. Cái phẩm, thường trọng hơn cái lượng.
Lại còn một nguyên-nhân nữa làm cho lối luận nầy đáng ngờ, là chỗ mù-mờ ta chưa khám-phá được hết về sự sai-biệt giữa hai vật, mà ta muốn dung-hợp kia. Như giữa thần-trí con người và thần-trí con vật, còn có nhiều chỗ sai-biệt vô-hình mà ta chưa khám-phá được hết, làm cho sự so-sánh của ta rất khó lòng mà quyết-đoán được. Luận bằng loại-suy thật là một lối luận mong-manh hết sức.
c) Công-dụng :
Trong các lối luận, chỉ có loại-suy là thường dùng hơn hết. Trong ngôn-ngữ hằng ngày, trong đời sống của ta hằng buổi đây, dường như luôn-luôn, ta chỉ có lý-luận bằng loại-suy thôi : ta thấy người kia có cặp mắt hay giọng nói giống em ta, ta liền tưởng cho họ cũng có một tánh-tình như em ta vậy. Ta thường tưởng cho ai cũng có một tánh-tình như ta : nếu ta là người chân-chất thật-thà, ta tưởng cho ai cũng chân-chất thật-thà. Nếu ta là người ưa dối-trá xảo-ngụy, thì lại tưởng cho ai cũng dối-trá xảo-ngụy như mình. Ở đời, bao giờ có hai cục đá giống nhau, hoặc hai cọng lá giống nhau. Ở nơi con người, thì sự sai-biệt lại còn rõ-rệt hơn nữa.
Về lịch-sử, người ta cũng hay dùng phương-pháp loại-suy lắm, vì ở đây, nếu không dùng loại-suy thì không thể nào làm gì mà rõ biết được thời xưa ra sao cả. Ở đây, người ta không thể dùng phương-pháp thí-nghiệm được, nên phải buộc lòng dùng phép loại-suy. Nhân nay mà xét xưa, thật là mơ-hồ không dám trọn tin, như ta tin ở các ngành khoa-học khác.
Bởi vậy, người ta dụ-dự không chịu đam lịch-sử mà gọi là khoa-học. Những quan-niệm về siêu-hình, nhứt là cái học về huyền-bí thời lại phải dùng toàn phương-pháp loại-suy [18]. Ở đây cũng như ở lịch-sử, người ta nhân đời sống kiếp nầy mà nghĩ đến đời sống kiếp sau, tóm lại, nhân cái chỗ thấy được để độ chỗ không thấy được, vì thế mà những cái học nầy, không đủ cho người ta tin cậy.
⁂
Dùng đến loại-suy, thường là để tiên-liệu hoặc lý-giải một điều gì.
Nhân thấy ‹‹ gió heo may chuồng-chuồng bay ›› thì định là sẽ có bão-tố. Là vì ta nhớ một khi kia đã có xảy ra một vụ như vậy. Lối dự-liệu như thế thì không mấy được chắc-chắn, bởi còn nhiều điều-kiện khác mà ta bỏ qua hay thiếu-sót. Nhưng mà lối dự-liệu nầy, người ta lại ưa dùng nhất trong khi tiên-đoán những sự sẽ xảy ra trong lịch-sử.
Theo khoa-học thực-nghiệm, loại-suy chỉ dùng để tạo ức-thuyết mà thôi, vì nó không phải là một lối luận chặt-chẽ khít-khao như qui-nạp. Nó là một sự ước-định, và chỉ là một sự ước-định thôi.
Nhà khoa-học, cũng dùng nó để dự-đoán. Vì đã có nhiều lần chứng-kiến, hễ cho uống thuốc xổ là sẽ đi sông. Cho nên, khi ông thầy thuốc cho bệnh-nhân uống thuốc xổ, ông tin rằng, người ấy sẽ đi sông như các bệnh-nhân khác mà ông đã mục-kích. Cho người bệnh uống một món thuốc nào, là ông chỉ chờ người ấy báo tin cho ông biết nó sẽ như lòng ông đã tiên-liệu. Nhà thí-nghiệm, mỗi khi đam hai chất mà phối-hợp với nhau trong nồi, là đã dự-đoán nó sẽ hóa-chuyển như thế nào, vì dưới mắt ông đã thấy nhiều lần sự hóa-chuyển như thế. Cho nên loại-suy, là để mà dự-đoán.
Loại-suy, cũng dùng để cắt-nghĩa. Đam một lý-giải về một việc đã qua mà đã biết rõ, để cắt-nghĩa một ‹‹ ca ›› mới, giống như ‹‹ ca ›› trước. Nhiều chứng bệnh cấp-tính người ta đã tìm thấy nguyên-nhân nơi cái độc của vi-trùng. Nay thấy một chứng bệnh cấp-tính mới khác người ta cũng vịn theo cái thuyết vi-trùng mà cắt-nghĩa. Cũng như người ta thể theo điển-học mà cắt-nghĩa những hiện-tượng của thiên-thời như : gió, mưa, sấm, chớp...
⁂
Tuy-nhiên, ta nên để-ý kỹ điều nầy : tiên-liệu theo khoa-học không giống với cách tiên-liệu của thường-tình, tiên-liệu như nhà tiên-tri. Lối tiên-đoán nầy không có cắt-nghĩa gì được cả. Nhà tiên-tri chỉ thấy trước và công-bố vậy thôi, chớ không cần phải cắt-nghĩa vì sao sự-tình ấy phải xảy ra. Nhà khoa-học thì khác : Vừa tiên-đoán mà cũng vừa cắt-nghĩa. Nhà thiên-văn tiên-đoán sẽ có nhựt-thực, không phải tiên-đoán theo lối nhà tiên-tri. Trái lại, họ cắt-nghĩa vì sao nhựt-thực phải có ở tại chỗ ấy, ngày ấy và giờ ấy. Cho nên muốn loại-suy mà khỏi phải bị sai-lầm nhiều, nên bắt-chước theo phép loại-suy của nhà khoa-học.
⁂
Phép loại-suy, cũng có khi gọi là tỉ-luận. Tỉ-luận, tuy cũng gọi là ‹‹ analogie ›› nhưng ‹‹ analogie ›› nầy khác với ‹‹ analogie ›› nghĩa loại-suy.
Tỉ như câu : ‹‹ Trời không lường trưa, sớm, nắng, mưa.
Người, đâu biết hôm, mai, họa, phước. ››
Đó là lấy việc trời đát, mà ‹‹ ví ›› với việc người.
Lại như câu : ‹‹ Vừng trăng khi khuyết khi tròn ;
Người đời lúc thạnh e còn lúc suy. ››
Đây là nói, đời người lúc thạnh lúc suy, giống như cái cách vừng trăng khi tròn khi khuyết. Ấy là chỉ cái ‹‹ cách ›› giống, chớ không phải chỉ cái ‹‹ thể ›› giống.
Nhà viết văn thường hay dùng lối nầy, là muốn giúp để suy-nghĩ, chớ không phải muốn chứng-giải một điều gì. Khi đọc sách, phải coi chừng lối tỉ-luận cho lắm, bởi có nhiều nhà văn hay lợi-dụng phép nầy để chứng-giải những lý-thuyết lờ-mờ của mình.
Có kẻ lại dùng phép tỉ-luận đam vật có hình để ‹‹ ví ›› với sự vô-hình. Như nói :
Cá không ăn muối cá ương,
Con không nghe mẹ, trăm đường con hư.
Cái đó chưa ắt, vì nó còn tùy... Còn phải coi cách cá ương có trăm phần trăm giống cái cách con hư hay không ; còn phải coi hiệu-quả của lời cha mẹ đối với con, có được hiệu-quả như muối đối với cá hay không.
[13] Câu số 1 gọi là Đại-tiền-đề
Câu số 2 gọi là Tiểu-tiền-đề
Câu số 3 gọi là Kết-luận
[14] Dictionnaire Universel (Lachâtre) Art. Dilemme.
[15] Plaidoyer pour Milon (CICÉRON)
[16] Ở đây, xin bỏ những chứng-cứ cho bớt sự dông-dài, dễ bề nhận thấy mạch-lạc của tam-đoạn-luận.
[17] Xem chương Trí Tưởng-Tượng trong quyển Óc sáng-suốt.
[18] Traité élémentaire de la Science Occulte (Papus), trang 1 và 5 bài tựa của ANATOLE FRANCE.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top