Hồi mười bảy
Nhóc chó bẩn làm bẩn áo cưới
Đại anh hùng đại phá ngoại xâm
Trước kể đến đoạn Tửu Thôn đồng tử và đồng bọn trốn thoát khỏi cấm cung ngay trước mũi mọi người.
Thị vệ không ngờ rằng thích khách sẽ bay từ nóc điện ra, nhất thời ngây người không phản ứng kịp. Đến lúc giương cung cài tên... thì ba tên thích khách đã đi khuất bóng từ bao giờ rồi. Cuối cùng đành để một người vào phục mệnh với Chu Đệ, số khác chia nhau đuổi theo truy tìm tung tích ba người Tửu Thôn.
Vào cung phân trần còn có ba người Hồ Quý Li.
" Thực tình lúc đó chúng thần nghĩ... ba tên này lọt được vào đây ắt là có nội gian tiếp ứng. Mà không loại trừ khả năng, đám sâu mọt này thâm nhập được vào cấm vệ quân. Tiếng của thượng quốc loại ít học chúng thần lại không sõi, thành ra mới có hiểu nhầm này. "
Hồ Nguyên Trừng nói xong, lập tức cúi xuống chờ đợi phản ứng của Chu Đệ.
" Trẫm đã biết. Hai khanh nóng lòng muốn hỗ trợ Tạng Cẩu, có trách thì trách đám ngu xuẩn kia không phân biệt địch ta. Hôm nay ba vị khanh gia xứ An Nam hộ giá hết lòng, có công rất lớn. Chuyện trọng thưởng là điều tất nhiên. Song việc trẫm biết võ công càng ít người biết càng tốt. Hiểu không? "
Ba người cúi đầu vâng dạ.
Vĩnh Lạc lại tiếp:
" Hôm nay trẫm bị kinh động lớn, hiện tại không có tâm trạng nào xử lí công văn phê duyệt tấu sớ. Truyền bãi triều. "
Đám văn quan, võ tướng thì sớm đã bị hung uy của Tửu Thôn đồng tử dọa cho vỡ mật nát gan. Nay nghe hai tiếng bãi triều mà như được đại xá, tên nào tên nấy thi lễ vội vàng, rồi lủi thật nhanh. Duy chỉ có ba người bọn Hồ Nguyên Trừng là nán lại.
Chu Đệ cho truyền ngự y lo cho Liễu Thăng, rồi mới thở ra một hơi dài:
" Trẫm biết, các khanh muốn hỏi chuyện của Đại Y thiền sư. "
Ba người Nguyễn Phi Khanh thoáng thở chậm lại một nhịp. Quả thực, bọn họ cất công huyên náo đến thế, cuối cùng cũng chỉ muốn biết Tuệ Tĩnh thiền sư bây giờ ra sao mà thôi.
Vĩnh Lạc đan hai bàn tay vào nhau đỡ lấy cằm, hai khuỷu chống lên mặt bàn.
Ánh mắt y nghiêm túc dị thường.
" Các khanh chắc cũng biết chuyện xác tên Lý công công giả được tìm thấy trong Ngự Thư phòng. Đại Y thiền sư cũng ở đó, và cũng không giải thích hay phân trần gì thêm. "
" Thế nên... bệ hạ bắt giam ông lại, xét xử cùng tội với thích khách? "
Hồ Nguyên Trừng nghiêng đầu, nheo mắt, giọng đầy ngờ vực.
" Không sai. "
" Tại sao??? "
Chu Đệ thoáng dừng lại một chút.
Tại sao à??? Chẳng biết đã bao lâu rồi, có lẽ từ khi phụ hoàng y mất, đã không còn ai hỏi Vĩnh Lạc câu đấy nữa. Phần nhiều là vì không dám hỏi. Tất cả cứ răm rắp tuân theo y, giống như một lũ chó săn được thuần dưỡng vậy.
Nay được nghe lại, không thể không nói là có phần lạ tai.
Y từ tốn đáp:
" Trẫm là vua một nước. Mà đã là vua, thì phải có uy của đế hoàng. Nếu không nghiêm trị, thử hỏi từ nay về sau trẫm làm sao ngồi chắc trên cái ngai này được?? Thế nên ắt phải nghiêm trị, cho đám loạn thần tặc tử kia run sợ mà từ bỏ ý đồ. "
Hồ Quý Li, Nguyễn Phi Khanh không hé môi lấy dù chỉ một chữ.
Họ tin, Hồ Nguyên Trừng sẽ nói điều họ đang nghĩ trong đầu.
" Bệ hạ... Nguyên Trừng biết trong mắt thượng quốc các ngài, đám An Nam chúng tôi chỉ là những kẻ man di. Nhưng người nước Nam chúng tôi không hề ngu xuẩn. Ngài nghĩ tôi sẽ tin những gì ngài nói ư? Đường đường là Vĩnh Lạc đế, lại tầm thường như thế chăng?? "
Chu Đệ cười phá. Cười rất giòn giã, rất thoải mái. Đến nỗi chảy cả nước mắt.
Chỉ trong vòng có một ngày duy nhất là hôm nay, mà y thể hiện nhiều cung bậc cảm xúc hơn mấy chục năm cuộc đời cộng lại.
" Không sai! Không sai! Đúng là không giấu được ông tổ Thần Cơ. "
Hồ Nguyên Trừng thở phào.
Xem ra là chàng đoán đúng.
Chu Đệ vừa cười, vừa nói:
" Vẫn biết là thiền sư vô tội, song cũng cứ phải diễn cái màn kịch chém đầu để đám loạn thần tặc tử kia xem. Có như thế, chúng mới không làm phiền thiền sư nữa. Hừ, giả như thiền sư chết thật, Chu Đệ này sẽ mang cái tiếng làm vua hồ đồ. Chẳng phải mắc mưu của đám nhãi ranh ấy hay sao? "
" Bệ hạ anh minh. "
Ba người đồng thanh hô vang.
Đồng thời, trong lòng cũng phải chặc lưỡi thừa nhận.
Ấy là trong buổi binh đao loạn lạc này, nước Nam muốn trở mình được, thì cần có một vị đế vương sánh ngang được Chu Đệ.
Vĩnh Lạc đế phẩy tay, nói:
" Tạm thời đừng để mấy đứa nhóc biết, kẻo lại mồm năm miệng mười tai vách mạch rừng. Đúng rồi, trước khi rời cung, Đại Y thiền sư có nhờ trẫm chuyển thứ này lại cho thằng nhóc. "
Hồ Nguyên Trừng nhận tấm vải từ tay Chu Đệ, sau đó bèn tâu:
" Nay mọi chuyện đã xong xuôi, bản vẽ Thần Cơ sang pháo và thuyền Cổ Lâu cũng đã dâng cho bệ hạ, xin cho phép chúng thần được rời cung. "
" Chuẩn tấu! "
Dù rất phục tài Hồ Nguyên Trừng và muốn y phụng sự cho mình, song Chu Đệ biết thời cơ vẫn chưa chín muồi, thành thử ưng chuẩn cho cả năm rời cung về chờ ở căn biệt phủ.
Chỉ còn một mình, Chu Đệ mới hắng giọng, cất tiếng:
" Mật đạo bên dưới điện Thái Hòa mà nhà ngươi phát hiện xem chừng không có nguy hiểm gì. Thế nhưng... con bé ấy dầu gì cũng là công chúa cũ của nhà Hồ, có nghĩa quân thần với nhà ngươi. Sử dụng nó như thế, không phải quá tuyệt tình ư? "
Trong góc tối của đại điện bước ra một bóng người gầy nhỏ. Y chắp tay hành lễ với Chu Đệ một cái, nói:
" Thần chỉ tận nghĩa với công chúa, làm đúng như những gì được nhờ vả. Huống hồ năm xưa ở nước thần có trạng Nguyễn Hiền, từng dùng con kiến xâu sợi chỉ qua vỏ ốc. So với chuyện hôm nay cũng không khác nhau lắm. "
Chu Đệ nghe xong, gật gù ra vẻ hài lòng, lại cảm thán:
" Đúng là cái đám mắt mù, ngọc quý trong đá không biết đem mài, lại coi như đá sỏi bình thường mà đập vỡ. Nay ngươi đã là hoạn quan, chiếu theo lẽ thường không thể có quyền tước. Ài... Thôi ngươi tạm lui xuống trước, sau này trẫm sẽ có chỗ dùng đến. "
" Vậy thần xin lui... "
Y mới đi đến cửa, Chu Đệ đã gọi với theo:
" Khoan! Nhà ngươi tên gì?? "
" Hồi bẩm, thần tên A Lưu. "
" Trẫm hỏi: Nhà ngươi tên gì?? "
Chu Đệ nhắc lại câu hỏi một lần nữa, giọng đanh thép hơn hẳn bình thường.
" Dạ, thần là Nguyễn An. "
Người thái giám nọ khẽ cúi mình, đáp.
" Tốt! Nguyễn An của Đại Việt! Trẫm sẽ ghi nhớ cái tên này. Bây giờ cho lui. "
Rời khỏi điện Thái Hòa, Nguyễn Phi Khanh bèn cùng về nơi nghỉ tạm, ăn bữa cơm với hai cha con Hồ Quý Li.
Tạng Cẩu đánh đấm cả ngày, mấy lần mém chết, giờ đã lăn ra kéo gỗ trên giường, chắc có gọi nó cũng không tỉnh. Thế nên ba người quyết định ở lại trong cung một đêm cho nó yên tâm nghỉ ngơi, sáng mai xuất cung cũng chưa muộn.
Bữa tối hôm đó...
Chu Đệ căn dặn ngự thiện phòng chuẩn bị yến tiệc theo kiểu Đại Việt, gọi là tiễn chân cha con Hồ Nguyên Trừng. Bốn người xa quê đã lâu, đồ ăn của Tàu nhiều dầu mỡ, mọi người ăn không quen sớm đã hơi ngấy. Nay gặp đồ cố quốc, lại thấy cái vị thanh thanh hài hoà của ẩm thực Kinh Bắc, làm lòng ai cũng thấy bùi ngùi nao nao. Mặc dầu không thể so bằng món do chính tay người Việt nấu, song cũng ăn rất vui vẻ.
Vừa ăn, Hồ Phiêu Hương vừa thuật lại chuyện Nguyễn An và mật đạo bên dưới điện Thái Hòa. Cô bé kể chuyện mình gặp Liễu Thăng, hai người một vác trường thương một ôm đao Lĩnh Nam băng qua mật đạo tối thui. Để rồi phát hiện cửa ra của đường hầm được khéo léo giấu sau con sư tử đá trên bậc cao nhất của điện Thái Hòa.
Ba người nghe xong, đều tấm tắc sự đời lắm lúc cũng li kì chẳng kém gì tiểu thuyết, đồng thời cũng phải chặc lưỡi khen Nguyễn An là tài hoa.
" Mém nữa vui quá quên chuyện chính. Đây là vật mà thiền sư Tuệ Tĩnh căn dặn chuyển lại cho hai đứa. "
Nguyễn Phi Khanh ngà ngà say, mặt già đà ửng hồng, mới sưc nhớ ra chuyện chuyển lại miếng vải của Tuệ Tĩnh thiền sư cho Hồ Phiêu Hương. Cứ như lời Chu Đệ, thì thiền sư căn dặn phải đưa nó cho Tạng Cẩu. Thế nhưng thằng ranh này gần đây trọng võ khinh văn, còn chưa sõi mặt chữ, thành thử có cho nó cầm cũng chưa chắc nó biết thiền sư muốn nhắn nhủ điều gì. Nghĩ đi nghĩ lại, Nguyễn Phi Khanh quyết định giao cho Hồ Phiêu Hương. Dầu sao cô bé cũng từng tìm kiếm tung tích thánh tổ ở ngự thư phòng cùng thiền sư, biết đâu sẽ hiểu điều ông muốn gửi gắm.
" Con nhất định thay thiền sư hoàn thành di nguyện. "
Hồ Phiêu Hương nhẹ nhàng đỡ lấy miếng vải, nâng niu cẩn thận vô cùng.
" Con thử mở ra đọc, xem thiền sư viết gì trong đó? "
Hồ Quý Li lên tiếng nhắc.
Bản thân ông, cũng như hai người Phi Khanh Nguyên Trừng đều tò mò muốn biết Tuệ Tĩnh thiền sư sẽ nói gì với hai đứa nhóc.
Hồ Phiêu Hương trải tấm vải lên bàn, nhẹ nhàng mở các góc bị gấp ra.
Miếng vải không phải thư tuyệt mệnh hay di nguyện như trong tưởng tượng của cô bé, cũng chẳng phải chỉ dẫn khuyên răn như ba người Nguyên Trừng đã nghĩ. Trên miếng vải chỉ ghi độc bốn dòng cộc lốc, hai mươi tám chữ.
" Vạn lý thanh giang, vạn lý thiên,
Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên.
Ngư ông thuỵ trước, vô nhân hoán,
Quá ngọ tỉnh lai, tuyết mãn thuyền. "
Dịch nghĩa:
Trời xanh vạn dặm soi sông
Một thôn dâu biếc, một thôn khói dầy
Ngư ông ngủ, chẳng ai lay
Quá trưa tỉnh giấc, tuyết bay đầy thuyền.
( Bản dịch trên thivien.net )
Ấy là một bài thơ.
" Chẳng phải là bài " Túy Trước " của Hàn Ốc đời Đường hay sao? Nhưng... thánh tổ là người thời Lý – Tống kia mà. "
Nguyễn Phi Khanh đưa ngón tay gãi gãi cằm, ra chiều khó hiểu.
Hàn Ốc... có liên quan gì tới thành Cổ Loa?? Tại sao Tuệ Tĩnh thiền sư lại đề bài thơ này lên tấm vải?
" Thành Cổ Loa xây theo hình xoắn như con ốc, biết đâu lại có huyền cơ liên quan tới cái Hàn Ốc thì sao? "
" Ta lại thấy, có khi bài này gợi ý chúng ta nghĩ theo hướng khác. Túy trước nói lên cái nhàn của ngư ông, mà thánh tổ Khổng Lồ lại được ngư phu tôn làm thủy tổ. Trước giờ chúng ta vẫn tìm sử liệu liên quan đến chuyện rèn đúc. Phải chăng là nhầm hướng?? "
Cả bốn người lần lượt đưa ra giả thuyết của mình, xong lại im lặng nhìn nhau, rồi nhìn tấm vải.
Bài thơ quả thực là một nan đề.
Nghĩ đến quá nửa đêm cũng không có đột phá gì, thế nên bốn người quyết định đi nằm...
Sáng sớm tinh sương, gà còn chưa buồn gáy, cung tần thái giám cũng chỉ vừa mới thức dậy...
" AHHHHHHHHHHHHHHHHHHHHHH "
Tại chỗ ở tạm của cha con Hồ Quý Li, cất lên tiếng hét cao vút đầy hoảng loạn của một đứa trẻ.
Nguyễn Phi Khanh đang ở trong phòng, thưởng trà sớm đề thư pháp. Đang lúc tập trung tinh thần, hương trà nâng hồn thi sĩ, thì... bị Tạng Cẩu làm cho giật mình đánh thót một cái.
Xoẹt.
Lúc nhìn lại, thì trên giấy đã có thêm một nét mực xiên, khiến chữ nhân nghĩa ông viết hoàn toàn biến dạng.
Ngoài sân...
Trong tiểu đình, hai cha con Hồ Nguyên Trừng đang ngồi đánh với nhau một ván cờ, thì tiếng hét thất thanh của Tạng Cẩu bỗng bật lên, phá nát bầu không khí yên tĩnh giữa hai người.
" Thằng nhóc này lại làm sao thế nhỉ? " – Hồ Nguyên Trừng đặt một quân cờ đen xuống góc bên phải, rồi quay về phía buồng ngủ của thằng nhóc.
" Tập trung vào. "
Hồ Quý Li nhẹ giọng nhắc nhở.
Trên bàn cờ, thế cuộc đã nghiêng hẳn về quân đen của Hồ Nguyên Trừng. Quân cờ trắng của Hồ Quý Li phải co cụm một đám vào trung tâm, tử thủ gắt gao. Song... xem chừng cũng không được mấy nữa.
" Cha... đấy là cờ của con mà. "
Hồ Nguyên Trừng nhấp một ngụm trà, nén cười đáp.
Hồ Quý Li bấy giờ mới nhận ra, con cờ mình đang ướm lên bàn không phải quân trắng, mà là cờ đen.
Ngón tay ông run lên một cái, con cờ chạm xuống mặt bàn.
" Cha... một ván cờ thôi mà, không cần kinh động đến thế. "
Hồ Nguyên Trừng thấy sắc mặt cha già đột nhiên chuyển xấu, mồ hôi tứa đầm đìa, không khỏi có điều suy nghĩ. Chàng bèn lên tiếng an ủi, thầm nghĩ một lát nữa phải cố tình đi cờ kém sắc, bớt cao để ông được vui.
Hồ Quý Li không nói gì, chỉ lặng yên nhìn bàn cờ...
Trắng trắng – đen đen – trắng đen – đen trắng.
Căn buồng nơi Tạng Cẩu ngủ bây giờ chỉ còn là một mớ hỗn độn.
Giường chổng ngược, bàn đổ nghiêng, ghế thì mỗi góc phòng một cái. Chăn gối vứt tung toé, lẫn lộn cả vào nhau.
" Đâu...? Đâu rồi?? Ở đâu??? "
Cửa buồng mở ra, Hồ Phiêu Hương bước vào, trông thấy Tạng Cẩu đang hớt hơ hớt hải lục tung đồ đạc trong phòng lên, tưởng như chỉ hận không thể lật ngược căn buồng lại. Cô bé không khỏi lấy làm lạ.
" Này, đằng ấy tìm cái gì thế? "
" Ngọc... ngọc... ngọc bội của tớ mất rồi! "
" Ngọc bội?? Miếng ngọc ấy có gì đặc biệt không, Cẩu phải tả ra tớ mới tìm giúp được?? "
Hồ Phiêu Hương giữ gấu áo thằng nhóc, kéo nó ngồi xuống, lại dùng giọng ôn tồn để hỏi cho nó bình tĩnh đầu óc.
[ Tạng Cẩu bảo nó là cô nhi được dân chài trong thôn nuôi. Thôn Điếu Ngư đã nhỏ lại nghèo không đủ ăn, chắc không có ai chơi ngọc. Thế thì miếng ngọc bội ấy chắc có liên quan gì tới cha mẹ ruột của nó đây. ]
Tạng Cẩu khum khum hai bàn tay, nói:
" Ngọc màu xanh, to cỡ này này, hai mặt có khắc chữ gì ngoằn ngoèo lắm. "
" Chữ?? Nhưng là chữ gì mới được chứ. Ngọc bội màu xanh có khắc chữ, to bằng bàn tay nhiều vô số kể, Cẩu tả thế thì biết đâu mà lần? "
" Không biết. Hồi đấy tớ có biết chữ đâu mà... "
Tạng Cẩu chỉ chỉ hai ngón trỏ vào nhau, cúi gằm mặt.
Hồ Phiêu Hương thở dài.
Cô bé thực muốn nổi đoá lên, nhưng lại nghĩ thằng nhóc này giờ nó đang lo cuống cuồng sốt vó, giận lên chỉ tổ đổ dầu vào lửa.
Sau khi hít sâu thở đều vài lần, cuối cùng cô bé cũng hạ được nộ hoả.
" Thế mất từ bao giờ?? "
" Cũng không nhớ. Bình thường tớ hay nhét trong ngực áo. Lần cuối thấy nó là lúc gặp Hương ở bên bãi sậy. "
" Thế thì chết! "
Hồ Phiêu Hương vỗ trán, nói:
" Chắc nó rơi ra ngoài lúc Cẩu đi tắm đấy. "
Tạng Cẩu gãi gãi đầu, thở dài:
" Chắc thế thật. "
" Cũng phục Cẩu thật. Nhét trong ngực áo mà đi tắm mấy năm không mất. "
Hồ Phiêu Hương nói, đoạn vỗ vai Tạng Cẩu.
Cô bé đang định gọi thằng nhóc ra ăn cơm sáng, thì đã nghe giọng nói vô tội của thằng nhãi cất lên:
" Thì gần đây mới bắt đầu tắm, chứ từ trước đến giờ có làm đâu. "
Chát!!!
Bàn tay mềm để lên vai Tạng Cẩu lập tức gia tốc, tát một cú trời giáng vào má nó.
" Bẩn!! Quá bẩn!! Gọi là chó bẩn đúng là không oan!!! Ghê quá!! "
Hồ Phiêu Hương cho Cẩu một tát xong, lập tức rụt tay về chà lấy chà để lên vạt áo. Tạng Cẩu nay đã biết khống chế chân khí hộ thể của mình, thành ra cô bé không bị phản chấn cho tay sưng múp lên như hồi ở Kỳ La nữa.
Thằng nhóc ăn đòn oan, cũng chỉ nhún vai để đấy.
Dùng xong cơm sáng, năm người y lệnh của Chu Đệ xuất cung, bỏ lại sau lưng nơi điện rồng gác phượng chôn đầy những mưu mô toan tính.
Bốn người bộ hành chừng hai canh giờ thì đến bên sông Tần Hoài. Bấy giờ cũng đã chớm trưa, hàng quán tửu lâu bên đường bắt đầu nườm nượp khách vãng lai từ tứ xứ. Xèo xèo tiếng mỡ reo nơi mặt chảo, lục bục nồi nước sôi trên bếp than đưa hương thơm nức mũi phả khắp một con đường lớn tấp nập người lại qua.
Kim Lăng thành vẫn náo nhiệt như vậy, suốt từ xuân sang thu, từ đông qua hạ.
Dương liễu ngậm sương đêm, trông càng thêm mướt xanh.
Hồ Nguyên Trừng chợt dừng chân, nói:
" Trời bắt đầu chuyển lạnh, người Nam mình chắc sẽ không quen. Hay là đi mua mấy cái áo bông trước? "
Con gái thường thích mặc đẹp, Hồ Phiêu Hương dù là công chúa cũ của Đại Ngu, cũng không ngoại lệ. Cô bé đang định gật đầu đồng ý, thì phát hiện Tạng Cẩu đánh mắt ra hiệu với mình.
[ Thôi đúng rồi! Mẹ con chị bán tò he còn đương trốn ở biệt phủ. Không biết tên họ Lại nuốt nhục trong cung có mò đến làm khó không nữa... ]
Nghĩ thế, nên Hồ Phiêu Hương đành nói:
" Con muốn về chỗ ở trước. Tạng Cẩu đi với tớ nhé. "
Tạng Cẩu tất nhiên là không đợi ai lên tiếng, đồng ý ngay.
Hồ Nguyên Trừng nhíu mày:
" Sao hôm nay con đòi về sớm thế? Bình thường con thích đi may áo mới lắm cơ mà? "
" Cứ kệ chúng nó đi. Con bé nó cũng lớn rồi. "
Hồ Quý Li lên tiếng can, rồi nháy mắt đầy ẩn ý với Hồ Phiêu Hương. Nguyễn Phi Khanh ngoảnh đầu sang chỗ khác, coi như mình mắt đui tai điếc, lóc cóc đi mua rượu một mình.
Thấy cha già đã mở lời, Nguyên Trừng cũng không tiện căn vặn thêm nữa, thở dài:
" Thế thì hai đứa đi đi. "
Hai đứa nhóc chỉ chờ có thế, thi triển khinh công tót thẳng về biệt phủ.
Nhìn theo bóng lưng hai đứa nhóc tì, Hồ Nguyên Trừng quay sang nhìn cha, cười khổ:
" Cha càng ngày càng chiều hư cô cháu gái này. "
Chàng vốn chỉ nói đùa cho vui, nào ngờ Hồ Quý Li nghiêm sắc mặt lại, đáp bằng giọng rất nghiêm túc:
" Nguyên Trừng, con nghĩ xem... bây giờ Hương nó cũng không phải là công chúa gì nữa rồi. Có nên chăng chúng ta... để nó tự quyết định chuyện chung thân? "
Hồ Nguyên Trừng nghe vậy thì nhíu chân mày, ra chiều khó hiểu:
" Tại sao ạ? "
" Chuyện tình duyên vốn không thể miễn cưỡng. Phải sống đời với người mình không yêu... khổ không nói hết đâu con ạ. "
Hồ Quý Li dừng gót, hai tay chắp sau lưng, mắt chợt nhìn xa xăm.
Trông ông có vẻ tâm trạng như thể đang hồi tưởng lại chuyện năm xưa.
Ký ức nơi xa...
Hồ Nguyên Trừng nói:
" Cha à, sao thế được? Xưa giờ các cụ vẫn dạy " cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy ". Huống hồ trước giờ cha vẫn chủ trương gả Hương sang Ai Lao, Chiêm Thành để hoà thân kia mà. Sao tự nhiên bây giờ lại tiền hậu bất nhất như thế? "
Hồ Quý Li thoáng giật mình một cái, đôi vai khẽ run lên.
" Cha... không cần kích động. Coi như con lỡ lời. "
" Không sai... "
Hồ Quý Li thở dài, nhìn lên tầng không.
" Đúng là ta từng nghĩ thế, nên giờ ta muốn nhận là mình sai. Chính các cụ mình cũng nói đấy: " Con công ăn lẫn với gà / Rồng kia rắn nọ, xem đà sao nên ". Hay " môn đương hộ đối " vậy.
Hương bây giờ không còn là công chúa một nước, thậm chí... thứ dân bình thường nó cũng không bằng. Nó là dân vong quốc.
Tạng Cẩu lại là đứa hiền lành, thành thật. Hơn nữa con cũng thấy... về võ công nó là kì tài hiếm có.
Thế nên, cha nghĩ chúng ta đừng nên can thiệp vào. Cứ để mọi thứ tự nhiên, tuỳ duyên tuỳ phận của hai đứa nó. "
" Cha dạy phải. Sau này con sẽ không xen vào chuyện của chúng nữa. "
Hồ Quý Li gật gù, tay vuốt chòm râu dài.
Tạng Cẩu và Phiêu Hương thi triển khinh công, lượn giữa dòng người tấp nập. Trông từ xa hai đứa nó chẳng khác nào đôi chim chích khiêu vũ giữa đồng lúa chín vàng.
Trên đường lớn không thiếu lãng khách lăn lộn giang hồ cả chục năm, song nhìn thấy thân pháp của hai đứa nhóc chưa ráo máu đầu cũng phải tự thẹn không bằng. Ai nấy đều ra chiều khó hiểu, không rõ lũ cao thủ hỉ mũi chưa sạch này từ đâu chui ra.
Hai đứa chạy nhoáng một cái là đến bến sông, nhưng tiếc là vẫn chậm một bước.
Bấy giờ thuyền phu đã chống sào đẩy con đò theo dòng nước, cách bờ sông hơn một trượng ta. Mấy người lỡ đò đang ngồi tán gẫu bên bãi cỏ chờ chuyến sau với nhau. Thấy hai đứa nhóc lao tới bến đò mà đành công cốc, không khỏi phá lên cười.
Tạng Cẩu nhíu mày, cười khì:
" Hương, chuẩn bị này! "
Hồ Phiêu Hương gật đầu một cái, thì bàn tay đã bị thằng nhóc nắm chặt. Cảm giác ấm áp mà hơi ráp, nửa thoải mái nửa khó chịu, đúng là kì lạ.
Tạng Cẩu hít sâu một hơi, nhún chân lấy đà, rồi phốc một cái.
Trong con mắt trợn ngược và cái miệng há hốc của đám người lỡ đò, thằng nhóc kéo Phiêu Hương lao vút lên không trung. Trai tiêu sái, gái thanh tao, tựa như tiên đồng ngọc nữ cưỡi mây.
Ngọc nữ thì dễ thương xinh xắn là đúng rồi, phải tội ông tiên đồng này trông không được gọn ghẽ cho lắm, mà hao hao đứa ăn mày. Thành ra hai đứa nó trông có vẻ giày lệch, có phần đũa mốc chòi mâm son.
Bịch. Bịch.
Đến lúc hai đứa nhẹ nhàng đáp xuống con đò bấy giờ đã ở giữa dòng, đám người bên bờ cũng vẫn còn chưa tin vào mắt mình.
" Quãng đó phải hơn một trượng rưỡi ấy chứ. "
" Thằng nhóc ấy nó là cái thứ quái thai gì vậy??? "
Tất nhiên, những lời trầm trồ tấm tắc ấy Tạng Cẩu chẳng nghe được, mà nó cũng chẳng quan tâm. Nó biết so với những người như Quận Gió, Khiếu Hoá tăng thì nó còn kém xa. Mấy lời khen của người dưng, tất nhiên nó không để vào tai, cũng không vì thế mà kiêu ngạo.
Hai đứa nhóc trả tiền đò, rồi ngồi ngay đuôi thuyền mà chuyện trò, mặc cho lão thuyền phu cứ trợn tròn mắt lên nhìn hai đứa như nhìn quái thú.
Thuyền cập bến, Tạng Cẩu đỡ Phiêu Hương xuống, rồi cứ theo lối cũ lao về căn biệt phủ.
" Sao Cẩu nhớ đường nhanh thế? "
Hồ Phiêu Hương cảm thấy kì lạ.
Tạng Cẩu cũng như cô bé, chỉ ở căn biệt phủ ấy đúng một đêm. Thế mà thằng nhóc nhớ đường đi lối về như nằm lòng, còn cô bé cố lắm cũng chỉ mường tượng được mang máng.
" Có gì đâu. So với chiêu số của thầy chả dễ hơn bao nhiêu à? "
Tạng Cẩu nhún vai.
Bộ pháp của Lăng Không Đạp Vân quả thực phức tạp thâm ảo đến đáng sợ.
[ Mình tuy thuộc hết biến hoá, nhưng áp dụng chưa thuần thục, so với tên kia kém xa.
Mà kể cũng lạ. Cùng là Lăng Không Đạp Vân, của thầy thì phóng khoáng, hắn thì hung bạo. Rốt cuộc Lăng Không Đạp Vân của mình là thế nào?? ]
Võ học là chết, người là sống.
Danh gia vẫn giảng cho học trò câu này, nhưng thầy hiểu một đằng trò nghĩ một nẻo.
Cách hiểu của tông sư nước Nam là, cùng một môn công phu, cũng chiêu đó thức đó, nhưng người luyện phả hồn vào chiêu thức mình đánh. Lâu dần, tạo nên bản sắc riêng.
Ấy mới là chiêu số sống.
Song... Tạng Cẩu còn xa mới hiểu được đạo lí này. Hiện tại nó chỉ ngờ ngợ thôi.
" Quái nhân. "
Hồ Phiêu Hương làu bàu.
Dù chả muốn tí ti ông cụ nào, song cô bé không thể không thừa nhận, ngộ tính của Tạng Cẩu quả thực cao đến nỗi có thể khiến nguyên một đám thiên tài chết vì xấu hổ.
Biệt viện đã ở phía trước.
Vừa mới vào đầu hẻm, hai đứa đã phải dừng gót vì không khí tiêu điều tang thương phả vào mặt.
" Không ổn! "
Tạng Cẩu quay sang Phiêu Hương, lại bắt gặp ánh mắt cô bé cũng đang nhìn mình. Hai đứa cùng gật đầu, rồi chạy về phía cửa chính.
Thấy cổng chính của biệt viện không cài then mà chỉ khép hờ, càng khiến hai đứa bất an.
[ Lẽ nào là tên quái nhân? ]
Tạng Cẩu bất giác nhớ đến Tửu Thôn đồng tử.
Một tên điên từ đầu đến chân, không thể chối cãi.
Cũng là một kẻ điên mạnh đến nỗi không thể tưởng tượng.
Nó nhớ đến lời hẹn tái ngộ của Tửu Thôn mà rùng mình...
Không phải nhanh như vậy chứ??
Tạng Cẩu hít sâu một hơi cho bình tĩnh, vận khí tống hai quả đấm nhỏ vào cánh cổng dày bằng gỗ!
Rầm!
Cả hai cánh cửa gãy lìa khỏi khung, bắn ngược vào trong sân tựa như được gắn bánh xe.
Tạng Cẩu thận trọng bước vào, nhìn quanh nhìn quất hồi lâu.
Liệu tên kia có mò đến tận đây giết nó cho bằng được hay không?? Và lần này nếu phải giã nhau thêm một trận thì nó thoát thân bằng cách nào??
Không thấy bóng dáng kẻ địch...
Ít nhất tạm thời chưa thấy.
Tạng Cẩu ra hiệu cho Phiêu Hương theo sát nó, rồi mới thận trọng dấn từng bước một vào nhà.
Chân bước qua khung cửa, nhẹ nhàng đặt lên con đường trải sỏi xuyên qua vườn hoa. Lá vàng rụng như trải thảm, điểm xuyết trong màu úa tàn của đài hoa rơi.
Trong sân nhỏ tĩnh mịch, trừ ngọn gió thỉnh thoảng vi vu thổi qua ra thì không còn một âm thanh nào dù là nhỏ nhất. Mấy cái lá con cuối cùng rời cành, xiên xiên vẹo vẹo rơi rồi vỡ tan nơi chân tường, vĩnh viễn không biết thế giới bên ngoài biệt phủ là như thế nào.
Căn biệt viện to lớn tựa như biến thành một nấm mồ hoang...
Tạng Cẩu men theo con đường trải đá, thận trọng tai căng ra hết cỡ. Tinh thần nó còn căng ra hơn cả tai, hơn cả dây đàn.
Đại sảnh đã ở trước mặt.
Nhưng cả hai đứa đều dừng gót, chẳng dám bước vào.
Sau lần cửa khép kín kia, ẩn giấu thứ gì??? Chẳng ai trong hai đứa biết.
Nên chúng do dự.
Chung quy thứ đáng sợ nhất vẫn luôn là thứ mà con người ta chưa biết.
Tạng Cẩu hít sâu một hơi.
Không khí ngày đầu đông mang theo cái lạnh lẽo của sương giá tràn vào phổi, thoáng chốc đã khiến đầu óc nó bình tĩnh trở lại.
Từ từ, nó đẩy cánh cửa đại sảnh ra.
Kéeeeeeet...
Tiếng cửa gỗ ghè khung nghe cọt cà cọt kẹt, sắc lẻm chẳng khác nào bàn tay quỷ ma bóp nghẹt trái tim hai đứa. Tạng Cẩu hầu như đã có thể nhìn thấy tấm mặt nạ quỷ lấp ló sau lần cửa nửa khép nửa mở, phảng bên tai tiếng cười điên dại...
Tạng Cẩu giật mình một cái.
Bàn tay của Phiêu Hương đặt hờ lên vai nó, còn trước mắt thì không có một tấm mặt nạ nào cả. Té ra nó thần hồn nát thần tính, nhìn sảnh đường trống hơ trống hoác cũng ra mặt kẻ thù...
" Ở chỗ kia có người kìa! "
Hồ Phiêu Hương chỉ tay về phía góc nhà.
Khuất sau cột nhà và bàn ghế ngổn ngang và lò hương nghiêng ngửa lạnh ngắt là hai bóng người nằm sát cạnh nhau, bất động. Lại gần, hai đứa nhóc mới phát hiện một người chính là cô bé Hằng từng đầu độc Hồ Nguyên Trừng...
Người còn lại là... Lí Bân.
Lam Sơn, Thanh Hóa
Vùng này vốn do ông Lê Hối họp dân mở ấp, khai khẩn đất hoang, lâu dần đã thành sản nghiệp. Bấy giờ cháu ông Hối là Lê Khoáng đối đãi kẻ nghèo đói bằng nhân nghĩa, rất được lòng người, gia nhân trong nhà chẳng mấy mà đã đông đến ngàn. Ông lấy bà Trịnh Thị Ngọc Thương, sinh được ba trai.
Rồi ông Khoáng mất, con cả là Lê Học cũng yểu mệnh táng thân ở Thăng Long. Cậu thứ tên Trừ, tư chất tầm thường nhưng được cái cần cù chịu khó, song không đủ tài đủ đức kế thừa tổ nghiệp.
Cậu út chính là Lê Hổ.
Bà Thương thấy cậu còn trẻ con, nên mới tạm quán xuyến hết chuyện trong nhà, mặt khác nhờ Phạm Ngũ Thư dẫn Hổ ra ngoài làm công chuyện liên lạc quần hào, chiêu mộ người tài. Qua đó cũng va chạm mà trưởng thành thêm.
Tính đến nay Đặng Tất đón Giản Định đế đã được bốn tháng.
Trong có bốn tháng ngắn ngủi mà bao nhiêu chuyện đã xảy ra.
" Kể đến ngày đó, vua Giản Định long nhan đại nộ, chém đầu Nhật Chiêu Thúc Giao và thuộc hạ vì tội hàng Minh, tổng cộng hơn sáu trăm người. Cứ nghe đến là mát lòng mát dạ. "
" Tiếc là vẫn không chống nổi Trương Phụ, chưa đánh được ra bắc tái chiếm Thăng Long. "
Nói đến tái chiếm Thăng Long, ai nấy đều vỗ đùi đánh đét một cái, ra chiều tiếc rẻ.
Bấy giờ phường săn mới xuống núi về, chính đang xếp cung thu tên ngồi ở hàng nước vệ đường mà nói chuyện thiên hạ. Mỗi người một bát nước chè thôi, ấy thế mà anh thợ săn ngày thường chỉ quen cung tên cạm bẫy thoắt cái hóa thành biết tuốt, chuyện trên trời dưới bể gì cũng nói, cũng tường. Quả thực là kì khôi.
Bà hàng nước bỗng nhiên xòe quạt mo cau phẩy mấy cái vào mấy tên thợ săn, cười lộ cả hai hàm răng đen không còn mấy cái:
" Cái chuyện đại sự như thế thế mà chả ra đây cho bà chia vui gì hết. "
" Chúng con mà có tiền, thì ra gặp cụ lâu rồi. "
Mấy ông thợ săn cũng cười, trêu lại.
" Hay là cụ cho bọn con uống chịu, bọn con ra kể chuyện cho cụ hàng ngày luôn. "
" Sư bố các anh, chỉ thế là nhanh! Các anh chân khỏe, đi được dài, nghe được chuyện ở xa. Bà lão này chân yếu mắt mờ, đi ra đến cái lũy tre là đứt cả hơi rồi, nếu không thì báu các anh lắm chắc? Thôi... sau quân ta mà thắng, ra đây tôi mời. "
" Thật không đấy, hay lại lời nói gió bay hở cụ? "
" Bay là bay thế nào, chắc như cái cọc buộc trâu thế này cơ mà. Nhưng phải thắng đấy nhá, bà mà biết mấy anh bịa chuyện lừa uống nước của bà thì cứ coi chừng bà đấy. "
" Cụ cho chúng con xin. Ai chẳng biết cụ chửi đổng giỏi nhất cái vùng Lam Sơn này?? "
Rồi cả chủ lẫn khách cùng cười, giòn tan.
Cà rộp, cà rộp.
Tiếng vó ngựa dồn đến từ phương xa...
" A. Cậu Hổ, cậu Thư, ngồi xuống uống miếng nước rồi hẵng đi không? "
Thấy người trên lưng ngựa là Lê Hổ và Phạm Ngũ Thư, bà hàng nước bèn cao giọng gọi với theo.
Xem chừng hai người này vừa mới đi đâu, nay mới quay lại Lam Sơn.
" Dạ thôi, chắc để khi khác cụ ạ. "
Lê Hổ ghìm cương, từ chối khéo.
" Ừ ừ. Đúng là người làm chuyện lớn có khác. Thôi đi đi, kẻo bà già này lại làm lỡ chuyện của các cậu. À mà nhớ nhắc thằng Lễ qua lấy đồ. "
" Dạ cháu biết rồi. "
" Nhớ chào bà lớn thay lão đấy! "
" Dạaaaaa "
Đến lúc này thì bóng người bóng ngựa đã khuất hẳn sau những cung đường đất rồi.
Mấy anh thợ săn cười, bảo:
" Ui, lấy lòng bà lớn kìa. Sắp tới cụ định mở thêm quán nước nữa hay sao thế? "
Bà lão hàng nước phẩy quạt mo cau thêm một cái, vừa cười vừa mắng:
" Phỉ phui các anh. Chỉ được cái nói bậy. "
Rồi bà nhìn ra xa, về phía căn nhà lớn trên đỉnh đồi.
" Cũng may có bà lớn, tôi với các anh mới được sống yên ổn đấy. "
Lê Hổ giục ngựa, băng qua quãng đường chính dẫn đến trang viên của nhà họ Lê. Hai bên yên ngựa đồng lúa trải dài, đòng đòng vàng ươm thơm mùi sữa, thoảng trong gió cuối xuân báo hiệu mùa thu hoạch.
Bờm ngựa tung bay, hoà trong tiếng vó rổn rang.
" Cậu lớn về rồi kìa!! "
Nông dân đang dở tay lom khom dưới rộng cũng ngưng công việc, ngẩng đầu lớn tiếng chào hai người.
" Không trách bà lớn nữa chứ??? "
Phạm Ngũ Thư chợt quay sang nhìn Lê Hổ, cười đầy ẩn ý.
" Chuyện ở Khoái Châu là anh và u em sắp xếp phải không? "
Lê Hổ vẫn giục ngựa, mắt vẫn cứ đau đáu lướt dọc theo con đường làng, đầu không ngoảnh lại.
Sau khi về nhà không lâu, vì bất đồng quan điểm với bà Thương mà cậu chàng lại bỏ nhà lang bạt lần nữa.
Giữa đường thì gặp Phạm Ngũ Thư giục ngựa đuổi theo, rủ đi Hàm Tử tìm lại thanh Thư kiếm, cũng để tìm người rèn lại Huyết Ẩm cho Trần Đĩnh.
Hai anh em lại có dịp bôn ba cùng nhau. Dẫu phải ăn gió nằm sương, ngủ bờ nghỉ bụi cũng không thấy gian khổ.
Nhưng vừa đến Khoái Châu thì lạc nhau, mất đến ba tháng ròng mới tái hợp...
Phạm Ngũ Thư không trả lời câu hỏi của Hổ ngay, mà nói:
" Xem cậu kìa. Ba tháng không gặp mà trưởng thành hơn nhiều rồi. "
Lê Hổ không nói không rằng.
Phạm Ngũ Thư cũng nhún vai, để câu chuyện dừng lại ở đó.
Song, nhìn theo bóng lưng cậu thanh niên rong ruổi trên lưng ngựa, y phát hiện cậu nhóc ngày nào cần y săn sóc giờ đã lớn thật rồi.
Lê Hổ và Ngũ Thư dừng ngựa trước trang viên của nhà họ Lê.
Trần Đĩnh đã đứng sẵn trước cửa chờ hai người.
Vì y tự ti về dung mạo khó coi của bản thân, thế nên bà Thương đã nhờ người rèn cho y một tấm mặt nạ sắt che kín mặt, mặt trong lót lụa. Mặt nạ khắc theo mặt ông hộ pháp trong chùa, chỉ lộ mắt, hai lỗ mũi và miệng.
Đĩnh nhận mặt nạ sắt, cảm tạ, rồi lui.
Thấy y có tài kiếm cung, bà Thương giao cho cái chuyện huấn luyện võ nghệ cho gia đinh trong nhà.
Y đã chờ suốt bốn tháng ròng... là vì một vật.
" Đón kiếm! "
Phạm Ngũ Thư bắt lấy cái bao da để sau yên ngựa, vận kình ném cho Trần Đĩnh.
Một thanh kiếm dài ba thước...
Trần Đĩnh bắt kiếm, tuốt vỏ. Lưỡi kiếm lóng lánh như mặt gươm, có thể soi rõ mặt nạ của y. Nhắm mắt, lắng nghe tiếng rít gào của trường kiếm, chiến trường của thép và lửa như hồi sinh trong đáy lòng nguội lạnh của kiếm chủ.
" Đây không phải Huyết Ẩm. "
Y nói, giọng trầm hẳn xuống.
" Đúng. Nó không phải, cũng sẽ không bao giờ là thanh Huyết Ẩm. "
Phạm Ngũ Thư nhún vai.
Huyết Ẩm đã gãy, có rèn lại cũng không thành thanh kiếm hoàn chỉnh được.
Thế nên, y mới cố tình tìm lại thanh Thư kiếm của mình, nhờ thợ rèn nổi tiếng đúc hai thanh làm một.
" Tên... "
" Linh Lang kiếm. "
Phạm Ngũ Thư nhún vai.
[ Anh Đỗ, anh Xạ, chắc không trách gì em đâu nhỉ? ]
Tính ra, Trần Đĩnh cũng từng quen biết hai người Đỗ Xạ, lại được Hồ Xạ dìu dắt trong thời gian đầu nhập ngũ.
Thế nên, Ngũ Thư mới nhân lúc thăm mộ, lấy thanh Thư kiếm để rèn thanh Linh Lang cho Đĩnh.
" Ha ha. Nhìn ta bằng ánh mắt này, chắc là ngứa nghề muốn thử nhau vài chiêu chứ gì?? Ra sân! "
Phạm Ngũ Thư gỡ thanh kiếm còn lại khỏi yên cương, rồi bá vai bá cổ Trần Đĩnh, kéo nhau ra sân đình tỉ kiếm.
Chỉ còn Hổ đứng một mình trước cánh cửa lớn của trang viên nhà họ Lê.
[ Cánh cửa này... chú phải tự bước qua thôi, Hổ ạ. ]
Lê Hổ thở ra một hơi dài...
Trước giờ, cậu chàng vẫn là đứa ngỗ nghịch nhất trong ba anh em, cũng là đứa quậy phá nổi loạn nhất.
Từ ngày thầy mất, chưa bao giờ cậu nói chuyện được với u mình một buổi nào nó ra ngô ra khoai, êm đềm cả.
Không phải u mắng cậu té tát, thì cậu chàng cũng hờn dỗi gắt gỏng mà bỏ đi.
Hít sâu một hơi, lấy dũng khí nhét đầy hai lá phổi...
Lê Hổ nhẹ nhàng bước vào trang viên.
" Cậu lớn về kìa. "
" Thực là cậu lớn về đấy. "
Kẻ ăn người ở trong nhà thấy Hổ xuất hiện, không quên chuyện chào hỏi lễ phép, nhưng hễ cậu rời gót là họ thấp giọng xì xào bán tán với nhau, nghe chừng rôm rả lắm.
Mặc dù Lê Hổ là người thừa kế của họ Lê, nhưng mười ngày thì hết tám cậu ta lang bạt ở ngoài, không tới những sản nghiệp khác trong nhà như trại ngựa, xưởng mộc thì cũng lang thang góc núi chân đèo. Thành thử, mỗi lần Lê Hổ về, trong nhà đều xôn xao hẳn lên.
" Mọi người có thấy lần này về, cậu lớn khang khác không? "
" Cô nhắc tôi mới để ý. "
Mới qua vài tháng, kẻ ăn người ở trong nhà bất giác nhận ra ở Lê Hổ một sự đổi khác, kể cả khi họ không biết cậu rõ lắm. Thay đổi hằn âu vào cốt tủy, thấm trong từng hơi thở.
Cái mà người ta gọi là...
" Lữ này, cô thấy thế nào?? "
Trong bếp có tiếng ai như oanh kêu nhạn hót vọng ra:
" Có lẽ là vì bây giờ cậu lớn đã trưởng thành rồi. "
" U. Hổ về rồi. "
Đứng trước căn buồng năm xưa của thầy u, tay chạm lên lần cửa khép kín, Lê Hổ không khỏi thở dài.
Cũng chính tại nơi này... Không! Chính xác mà nói là ở trên cái sập gụ kê sát với bàn thờ gia tiên vẫn dùng để tiếp khách, cậu và u đã không ít lần phải lời qua tiếng lại. Đến giờ, Lê Hổ nhớ kỹ mình từng nói những gì.
Tại sao anh Học được theo học y, mà con phải đọc binh thư? Con không muốn đọc!
Tại sao anh Trừ không cần phải luyện võ công. Đau lắm! Con không luyện đâu!
Từ thằng nhóc lên ba chưa ráo máu đầu, đến nay đã hai mươi năm trôi qua. Nhưng lần nào cũng như lần nào. Hễ u con to tiếng với nhau, thì kiểu gì Lê Hổ cũng bị nói cho cứng họng, song đùng đùng tự ái.
Chưa bao giờ cậu nhận sai. Không. Chưa bao giờ cậu nghĩ mình sai.
Bà Trịnh Thị Ngọc Thương được gia nhân dìu ra khỏi buồng. Bà đã phải bước lần từng bước, mà lại ho húng hắng mãi, thành ra đi rất chậm.
Lê Hổ bất giác nhận ra...
U mình đã già yếu đến thế.
Kể từ khi thầy cậu là Lê Khoáng qua đời vì bạo bệnh, anh trưởng Lê Học thì quyết tâm theo thầy Tuệ Tĩnh học y, còn u Lê Hổ không còn thấy bà rơi nước mắt nữa, cũng không thấy bà cười lần nào nữa. Kể cả khi anh trai cậu – Lê Học – mất, bà cũng chỉ tự chít khăn tang mà thôi.
Những tưởng gương mặt lạnh băng, ánh mắt đanh thép thường nhật là minh chứng của quả tim nay đã cứng trơ như đá.
" Về rồi hả? "
Lê Hổ gật đầu.
Bà Thương ừ ào một tiếng, ho thêm ba tiếng nữa. Lưng bà đã còng xuống, thời gian bẻ nó cong đi, hay áp lực khổng lồ của gia tộc đè lên... cậu cũng chẳng rõ. Lê Hổ chỉ im lặng, nhìn u mình lọ mọ đi vòng qua cái sập, đến ban thờ. Con sen của bà nay mới đôi tám, nhưng được cái tinh lanh, rất hiểu ý chủ. Bà chưa đứng vững, mà nó đã chuẩn bị sẵn cả nhang cả chè.
Bà Thương thắp nhang, khấn, lại rưới tách trà xuống sàn.
" Cả thầy mày, lẫn thằng Học, đều không hay rượu. Sau này giỗ chạp, đừng có dọn cái thứ cay cay ấy lên. "
Lê Hổ nuốt khan, nén cái cảm giác cay cay nơi sống mũi lại.
Đoạn, cậu chàng quỳ xuống, lạy u một cái:
" U à, con xin lỗi. "
Cậu chàng từng nhớ mình mắng u là tham sống sợ chết, đớn hèn luồn cúi trước giặc ra làm sao. Đến giờ, từng câu từng chữ vẫn văng vẳng bên tai cậu chàng, hiện về trong mỗi buổi chiều ăn năn.
" Đứng lên đi. "
Bà Ngọc Thương nói, chậm rãi, nhưng từng câu từng chữ sắc như dao cứa.
Lê Hổ ngẩng đầu, một gối vẫn chạm đất.
U cậu chàng đã ngồi trên sập, con sen đang têm trầu thay bà.
" Ừm... "
Bà Thương gật nhẹ đầu.
" Thế, ba tháng qua ở Khoái Châu, có học thêm được gì không? "
Lê Hổ chặc lưỡi một cái.
Quả nhiên...
Chuyện ở Khoái Châu là do u cậu chàng sắp đặt.
" Con học được, muốn làm chuyện lớn, không thể hành động theo cảm tính. Bởi lẽ, có những trách nhiệm mà kẻ cầm đầu phải gánh lấy... Bao gồm... nhục nhã, tai tiếng. Và cả sinh mạng của... mọi người. "
Bà Trịnh Thị Ngọc Thương nhai trầu, nhấp chén trà.
" Tốt. Đạo làm người, cuối cùng không ngoài bốn chữ " mềm nắn, rắn buông " này. Đáng tiếc, trong thiên hạ có mười người, thì hết tám chỉ thuộc đấy mà không hiểu. Còn gì nữa? "
Lê Hổ nghiến răng:
" Còn có... nỗi khổ làm phu, phen. "
Công việc dẫu có nặng nhọc, song với dân cày lam lũ quanh năm, chừng ấy vốn chẳng phải chuyện gì lớn. Mấy việc đào hào, đắp đất, chặt cây, giăng lưới...v.v... những kẻ chân cứng đá mềm ấy vốn đã làm quen. So với cuộc sống mưu sinh thường ngày, tay làm hàm nhai, thì đi phu đi phen có gì khác??
Trước giờ, Lê Hổ vẫn thắc mắc chuyện này.
Nhưng giờ thì cậu hiểu rồi.
Dân chưa bao giờ khổ về chuyện lao dịch. Đòn roi, mắng chửi của lũ chó săn cũng chẳng khiến họ sờn được.
Mọi thứ gói gọn trong hai từ " tự do " và " tôn nghiêm ".
Có thể mạt rệp, kiết xác, phải vắt cổ chày ra nước, làm đầu tắt mặt tối. Nhưng... quyết không làm nô lệ.
Điều này, chín trăm năm cũng chưa từng thay đổi.
Bà Thương nhấp trà, không nói thêm gì hết. Chỉ có người hầu đứng bên cạnh là mỉm cười. Chủ vui, tớ cũng vui lây. Vui niềm vui của chủ, buồn nỗi buồn của kẻ trên, ấy là đạo làm người dưới vậy. Dù không thể hiện ra, nhưng cô ta hiểu, hôm nay là ngày bà Thương vui nhất trong mấy năm qua.
" Ừ. Hổ, sang tháng u có sắp xếp cho con một chuyện vui. "
Bà Thương đột nhiên không hỏi chuyện ở Khoái châu nữa, mà lái sang chuyện khác.
Lê Hổ thở dài.
Ngoại trừ việc bà Thương đút lót cho đám Trương Phụ, Mộc Thạnh và thuộc cấp để trăm họ ở Lam Sơn được yên ổn, thì đây cũng là một nguyên do khác khiến cậu bỏ nhà lang thang đến tận Khoái Châu.
" U à, bây giờ con không có tâm trạng nào mà lo đến chuyện tình nhi nữ nữa. Huống hồ thân còn tu chưa xong, tề gia sao được? "
Lê Hổ thở dài.
Cậu chàng biết u muốn cậu yên bề gia thất sớm, để còn lo việc lớn.
" Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ ", ấy là điều bà vẫn dạy.
Bà Thương nói:
" Chuyện đó tùy mày, nhưng cũng đến xem mặt con gái người ta một chuyến chứ. Biết đâu lại đổi ý. Hay... mày ưng con gái nhà nào ở Khoái Châu rồi? "
Vừa nói, bà vừa quan sát cậu quý tử. Thấy cậu chàng cố tình dời ánh mắt khắp phòng, là bà biết ngay, thằng con út của mình bị cô nào hớp hồn rồi.
Biết là thế, nhưng bà Thương vẫn cười.
" Thực ra, u muốn mày áp tải mấy xe lương thực xuôi nam, ủng hộ nghĩa quân của Giản Định đế. Không phải mày vẫn chê u mày đớn hèn đút lót, dâng của cho giặc đấy ư? "
Lê Hổ cười khan, đưa tay gãi gáy liên hồi, ra chiều khó xử.
Bà Thương cũng thấy lòng nhẹ hơn. Nhiều năm rồi, cuối cùng không khí giữa hai mẹ con mới bình thản lại, bắt đầu ra dáng người thân hơn.
" Quên. Lần này nhớ dẫn thằng Lễ theo. Để thằng cu này ở nhà, nó đập gãy giò gia nhân nhà mình mất. "
" Đinh Lễ?? Con trâu điên ấy ư?? "
Lê Hổ bước lui lại một bước, mặt xám ngoét như nuốt phải mật gấu.
Hai chữ Đinh Lễ... ở cái đất Lam Sơn này là hiện thân của hai từ " rắc rối ".
" Hổ, đừng bảo nó là trâu điên. Nó chỉ... hiếu động một tí thôi. "
Nghe ngữ khí, thì có vẻ bà Thương cũng phải đau đầu nhức óc vì cái tên này. Người đàn bà giải quyết êm đẹp toàn những tên có vấn đề về đầu óc như Nguyễn Xí, Trần Đĩnh... mà còn thấy bó tay bó chân trước Đinh Lễ.
Đủ hiểu tên này rắc rối đến mức nào.
" Dạ. Dạ. Nhưng nếu nó có nổi xung thiên vác côn vụt gãy giò con trai u không thì con không biết đâu đấy."
Lê Hổ nhún vai, cúi đầu chào, rồi rời nhà.
Mặc dù quan hệ giữa cậu và bà Thương đã ổn hơn trước, nhưng Lê Hổ vẫn khoái ở ngoài kết giao với hào kiệt các nơi hơn là trong căn nhà lớn, hưởng chăn ấm đệm êm như một cậu quân trưởng con.
Bà Thương chờ con trai đi khuất, rồi mới quay sang bảo con sen của mình:
" Con ra gọi chị Lữ lên đây, bảo bà có chuyện cần hỏi. "
" Dạ. "
Vừa đi làm chuyện được giao, cô ả vừa nghĩ:
[ Chắc bà lại cho chị Lữ ra ngoài mấy tháng đây. ]
Lê Hổ ra khỏi nhà, luẩn quẩn quanh cây đa mấy vòng liền, rồi mới quyết định tiếp theo nên làm gì. Thế là cậu chàng đổi hướng, ra sân đình trước.
[ Gọi anh Đĩnh hoặc anh Thư đi cùng mình mới mong kiểm soát được tên khùng kia. ]
Trong sân đình...
Lê Hổ vừa mon men đến cổng tam quan thì đã thấy thanh âm huyên náo vọng ra từ sân đình. Hai người về chưa lâu, chắc Trần Đĩnh và Ngũ Thư mới chỉ vừa đánh tiếng muốn tỉ thí thôi, thế mà hương thân phụ lão đứng xem đông nghẹt. Trong sân đông tới độ ai trẻ thì trèo cả lên cây, lên bờ rào để nhường chỗ cho người giả cả với trẻ em. Thậm chí, Lê Hổ còn có thể loáng thoáng thấy có người làm nhà cái mở sới đánh cược.
Nhưng khán giả cũng hiểu đao kiếm vô tình, nên rất tự giác để lại một khoảng sân rộng cho hai đối thủ.
Phạm Ngũ Thư và Trần Đĩnh đứng đối diện nhau, bàn tay đặt hờ lên chuôi kiếm.
Đảo mắt nhìn quanh sân đình một lượt, Long Thành kiếm khách thở dài:
" Này, Huyết Kiếm thiên công đổi tính từ bao giờ thế? "
Trước giờ Trần Đĩnh vốn không phải người khoe mẽ. Tỉ đấu ở hồ Linh Lang cũng chỉ hai người bọn họ biết với nhau mà thôi. Nay thấy y hưng sư động chúng, gọi nhiều người đến xem như thế, Ngũ Thư không khỏi lấy làm lạ.
Vì có cái mặt nạ, biểu cảm của Trần Đĩnh không lộ ra ngoài, song qua ánh mắt bối rối cũng thấy... té ra hắn cũng không biết sẽ có nhiều khán giả thế này.
[ Thế thì... ]
Đôi vai Trần Đĩnh đang run lên bần bật.
Điều này càng khẳng định giả thuyết mà Ngũ Thư đang nghĩ tới là chính xác.
Phựt.
Cờ ngũ sắc thi nhau phất lên, hua qua lại trên đỉnh đầu Trần Đĩnh...
" Giáo đầu cố lên! "
" Cho hắn đo đất! "
Tiếng người hét lên bai bải trợ chiến quyện cùng tiếng chiêng khua trống đánh làm huyên náo cả một góc đình. Bầu không khí của người quan chiến càng lúc càng nóng lên theo tiếng reo hò dữ dội. Chân trần lấm lem bùn đất thi nhau dậm lên nền gạch theo nhịp phách, bình bình bịch, bình bình bịch...
Phạm Ngũ Thư giơ tay lên miệng, cố nhịn không bật cười thành tiếng. Y liếc Đĩnh một cái, nói:
" Ồ. Xem ra chỉ mấy tháng không gặp, mà Huyết Kiếm thiên công đây đã có danh tiếng lừng lẫy khắp Lam Sơn rồi nhỉ. "
" Cái đám này... "
Trần Đĩnh nghiến răng, bàn tay đặt lên chuôi thanh Linh Lang càng siết chặt thêm.
Té ra những gia nhân được Đĩnh dạy võ nghệ cho hay tin y sắp tỉ thí với Phạm Ngũ Thư, bèn kháo nhau loạn lên, còn vác nồi niêu xoong chảo trong nhà theo cổ vũ hò hét trợ uy cho giáo đầu. Mà, ở cái đất An Nam này, có việc nào trong nhà đã tỏ mà ngoài ngõ chưa tường đâu? Thế là, dân tình được buổi mãi võ miễn phí, không cao hứng chạy đến góp vui mới lạ...
Trần Đĩnh quay đầu, định quát đám gia nhân im lặng, nhưng rồi bất giác lại nhớ chuyện hồi còn ở trong quân ngũ.
Mỗi lần Hồ Xạ tỉ thí với Hồ Đỗ, lính tráng trong quân cũng chia thành hai phe, rồi cổ vũ ầm ĩ như vậy.
Chuyện xưa như tái hiện trước mắt, thành ra Trần Đĩnh cũng chẳng còn tâm trạng nào mắng đám gia nhân nữa.
" Đánh đi. "
Trần Đĩnh rút thanh Linh Lang ra.
Kiếm xé bao, hướng thẳng trời cao, tiếng kiếm ngâm nga như rồng kêu phượng hót. Thân kiếm có một đường ánh đỏ, rất mờ, chạy từ mũi đến tận hộ thủ, chính là phần còn lại của thanh Huyết Ẩm.
Ánh kiếm của đối thủ phả vào mặt, tựa như thiêu đốt bầu nhiệt huyết của người kiếm khách. Bàn tay Ngũ Thư đặt trên chuôi kiếm như có điện xẹt qua, khẽ di động, khiến bao kiếm lách ra một chút. Hồn kiếm như theo kẽ hở toát lên, cơ hồ muốn tranh hùng cùng tiếng kiếm ngâm càng lúc càng rõ.
Bảo kiếm kêu gào, muốn chủ nhân lấy kiếm hội kiếm.
" Đấy không phải Thư kiếm. "
Trần Đĩnh nhíu mày, thấp giọng.
Quả vậy. Thanh trường kiếm trên tay Ngũ Thư hiện giờ mặc dù sắc bén cứng cỏi, dẻo mà không giòn, cũng coi là kiếm báu khó cầu. Song không phải Thư kiếm.
Lưỡi kiếm uốn lượn như con rắn đang trườn ở hồ Linh Lang, không thể lẫn đi đâu được.
Còn thanh Ngũ Thư đang cầm trên tay, một mũi hai lưỡi, dài đúng hai thước rưỡi, trông quả thực không khác gì một thanh kiếm tiêu chuẩn lò rèn nào cũng làm ra được.
Trần Đĩnh thở dài, thu kiếm vào bao.
" Nếu đối thủ không phải một trong Thư Hùng, kiếm của ta không rời vỏ. "
" Vậy... Phạm Ngũ Thư ta không xứng làm đối thủ của ngươi ư? "
Phạm Ngũ Thư thấp giọng.
Ngữ khí y đã có phần khiêu khích.
" Phạm Ngũ Thư không có Thư Hùng cổ kiếm, còn là Long Thành kiếm khách mà ta biết hay không?? "
" Cứ thử đi là biết! "
Soạt!!
Linh Lang kiếm rời vỏ, thay câu trả lời.
Hai kiếm khách sáp vào nhau, tái hiện trận chiến mười năm trước bên hồ Linh Lang.
Cuối chiều...
Tỉ đấu đã xong, đám đông đã vãn, chỉ còn hai kiếm thủ ngồi gối lên thanh kiếm cắm nơi sân đình, lưng đối lưng.
Lá cứ rơi, mặt trời cứ lặn...
" Lần này nhà ngươi thắng rồi. "
Phạm Ngũ Thư nói.
Trần Đĩnh khịt mũi:
" Không tính. Không có Thư Hùng cổ kiếm, Đảo Nam Nghịch Bắc của ngươi không thể hiện được quá bảy phần uy lực. "
" Thua là thua... không có lí do lí trấu gì cả. Coi như hai ta huề. "
" Ừ... coi như huề. "
Hai người ngửa mặt nhìn bầu không nhuộm nắng chiều, mà bật cười ha hả.
Trong lòng họ, nói cùng một câu.
Lần sau tái đấu... quyết phân thắng bại.
Sau bữa cơm tối, hai người Phạm Ngũ Thư và Trần Đĩnh đến gặp Lê Hổ đúng theo lời hẹn.
Chẳng là cậu chàng thấy hai người tỉ thí một trận mãn nhãn, nay đã mệt lả, thành ra chỉ nhờ người báo tin rồi về.
" Gì chứ?? "
" Tìm Đinh Lễ?? "
Phạm Ngũ Thư và Trần Đĩnh nhìn nhau, rồi lại nhìn Lê Hổ.
Trong mắt hai người họ, Đinh Lễ chỉ là đứa trẻ xú danh vang xa, ngỗ nghịch lại khó bảo. Muốn làm chuyện lớn e là không thể.
" Chính u em đã lên tiếng, bằng không em cũng không muốn gọi nó theo. "
Lê Hổ vừa nói, vừa thở dài thườn thượt.
" Nếu bà Thương đã mở lời, thì chúng ta cứ làm theo đi. Hôm nay chủ công cứ nghỉ ngơi cho sớm, ngày mai Đĩnh sẽ đi theo cậu gặp tận mặt tên Đinh Lễ này. Xem hắn rốt cuộc có ba đầu sáu tay, hay biết gọi gió phun lửa mà ai cũng sợ một phép. "
Nghe Trần Đĩnh nói, Lê Hổ mới an tâm thở phào.
Ọoooooot...
Tảng đá trong lòng chủ vừa được đẩy đi, cái bụng rỗng tuếch lập tức lên tiếng biểu tình.
" Ây chà, xem ra chuyện Đinh Lễ khiến Lê Hổ lo quên ăn quên ngủ luôn đấy. "
Phạm Ngũ Thư cười vang, tay vỗ đùi đánh đét một cái.
Lê Hổ gãi gãi gáy, cúi đầu ra chiều khó xử lắm. Lúc nãy cậu cứ lo lên lo xuống, tâm trạng đâu mà nhét đồ ăn xuống họng.
Trần Đĩnh thì thấp giọng:
" Giờ này hàng quán cũng nghỉ hết rồi. Lam Sơn mình quán xá lại không bán buổi chiều. Chi bằng cậu về nhà, xem trong bếp có gì còn thừa thì lấy mà ăn lót dạ. "
[ Bây giờ cũng chỉ còn cách đó. ]
Lê Hổ thở dài, đoạn từ biệt hai anh, lóc cóc mò về nhà.
Đường làng từ chỗ cậu hẹn hai người anh về trang viên của họ Lê phải đi qua một cái ao bèo.
Đêm trăng mờ tỏ, con đường lãng đãng vương vấn hơi lạnh của miền sơn cước. Bóng lưng cô độc dấn bước, về nhà, và vào miền ký ức.
Đi làm phu, phen, cũng phải đến tối mịt thế này mới được về trại mà nghỉ. Gió lùa qua tấm ảo mỏng, tựa như cứa thêm vào những vết thương chưa lành do đòn roi để lại. Buốt. Lạnh. Nhưng cũng chỉ biết chịu đựng.
Hơi lạnh se lại miệng vết thương, lành nhanh hơn đấy.
Đến giờ, Lê Hổ vẫn biết ấy chỉ là lời nói an ủi cho qua lúc gian truân, song cậu chàng vẫn chẳng thể quên được. Bàn tay thuốc thang, ân cần săn sóc cậu chàng... mặc dù có chai sần, nhưng còn mềm mại dịu dàng hơn bất kì ngọc thủ nào của mĩ nhân trong thiên hạ.
Bỗng...
Lê Hổ ngừng chân bên ao sen.
Có một mùi gì thơm phức, quện hương nghệ xả điếc cả mũi phả vào trong cơn gió miền núi, níu chân cậu chàng.
Một mùi hương mà cậu đã quen được ngửi từ lúc còn làm phu phen ở Khoái Châu.
Lê Hổ bước về phía có mùi thơm theo bản năng.
Cậu chàng rẽ cỏ cây, nhón chân thật nhẹ, chỉ sợ mình đánh động người đang nướng đồ ăn.
Bên hồ sen phản chiếu nửa khuôn mặt trái xoan, một bếp lửa gác mấy ống nứa đã đốt đen đen vàng vàng quá lửa. Nước rỉ ra, nhỏ xuống bếp lửa tí tách, tí tách.
Phía xa, trên các chạc cây, bốn bóng đen mỗi người ôm một ống đã cắt đôi, tay bốc thịt bên trong cho vào mồm ăn nhồm nhoàm ra chiều thích thú lắm.
Lê Hổ điếng người...
Dung nhan cậu chàng ngày nhớ đêm mong ở Khoái Châu, nay đột nhiên lại xuất hiện ở Lam Sơn...
Lại kể chuyện của Tạng Cẩu.
Lí Bân tại sao lại xuất hiện ở biệt phủ!??
Cả Tạng Cẩu, lẫn Hồ Phiêu Hương đều thắc mắc chuyện này. Dù sao y cũng là một trong ba tướng được lệnh áp giải họ về Kim Lăng, thế nên hai đứa hãy còn nhớ mặt.
" Cái tên lúc nào cũng cau cau có có này sao lại ở đây? "
Tạng Cẩu làu bàu.
Có lẽ vì lúc nào Lí Bân cũng tỏ ra chán chường, hận đời, kiểu như mình là " nhân tài không được trọng dụng " nên thằng nhãi có phần không ưa.
Hồ Phiêu Hương nhún vai:
" Không biết. Có khi cùng một giuộc với tên họ Lại. "
Hai đứa biết chúng nó có đoán mò thêm nửa ngày cũng chỉ tự làm bản thân thêm rối mà chẳng được gì. Thế nên Tạng Cẩu quyết định vỗ má đánh thức hai người đang bất tỉnh kia dậy, đặng hỏi cho ra ngô ra khoai.
" Ắt xì. "
Thôi cung quá huyệt một lúc, thì cả Lí Bân lẫn cô bé Hằng đều tỉnh lại.
" Hai người!!! "
Lí Bân cũng đã nhận ra hai đứa nó.
Có bao nhiêu thằng bé lên tám suýt nữa thì giết được Trương Phụ??? Kể cả hồi đó lão khinh địch, nhưng ngoại trừ Tạng Cẩu, trước giờ chưa có một ai khiến lão ta cận kề cái chết đến thế.
Trong mắt Lí Bân...
Thằng nhóc này là quái vật.
" Long Ngạo Thiên??? "
" Ngươi mê sảng cái gì đó?? Ta là Tạng Cẩu. Long gì Ngạo gì?? "
Tạng Cẩu thò tay, tát Lí Bân thêm một cái cho chắc. Nó sợ tên này còn đang nửa tỉnh nửa mê.
" Có nói ngươi cũng không biết. "
Lí Bân làu bàu.
Hồ Phiêu Hương chống nạnh, hỏi:
" Nói!!! Nhà ngươi đến đây làm gì??? Hai mẹ con họ đâu?? "
" Hai... hai mẹ con... nào?? "
Lí Bân ho khục khặc, má vẫn còn ê ẩm.
" Cô, cậu, mau đi cứu người!! "
Đúng lúc này, cô bé Hằng thốt lên.
" Hả!!!??? Cậu nói được rồi ư??? "
Cả hai đứa nhóc đều giật mình. Từ hồi ở Kỳ La, cô bé cứ đi theo mọi người, nhưng không nói không rằng. Cả hai còn tưởng cô bé bị câm.
Tạng Cẩu và Phiêu Hương nghe cô bé Hằng giải thích.
Thì ra, hôm trước bà mẹ chẳng rõ nghe phong thanh ở đâu mà biết chuyện tên Lại Bố Y muốn lấy con gái mình.
Sau đó, gia nhân nhà tên quan lớn đến tận biệt phủ " đón " cô gái bán tò he về. Tiện thể khiến phủ đệ bát nháo hết cả lên như vậy. Nguyên nhân do ai, không nói cũng biết.
Cô bé Hằng thì bị thương, nằm gục ở ngoài cửa, vừa vặn có Lí Bân chạy qua, đỡ vào nhà.
Phiêu Hương cắn chặt răng, khua quả đấm mà chửi:
" Thấy lợi quên nghĩa!! Mèo mả gà đồng! Đúng là nuôi ong tay áo!! Hổ dữ còn không ăn thịt con, thế mà... "
Rầm!!!!
Đầu quyền của Tạng Cẩu in một vết ngấn sâu cỡ nửa tấc lên nền nhà. Lí Bân nằm cách đó hơn ba thước, ấy vậy mà vẫn cảm nhận được xung chấn truyền lên từ dưới chân. Lúc thằng nhóc nhấc người dậy, bụi đá rơi lả tả xuống từ năm ngón.
Tóc bị Tửu Thôn chém đã mất nếp, phủ xuống che hết khuôn mặt nó.
Chẳng ai nhìn thấy biểu cảm trên mặt Tạng Cẩu, chỉ có đôi tròng mắt tròn xoe sáng lên qua đám tóc.
Hic!!
Cả ba, tính cả Hồ Phiêu Hương, đều phải hoảng hốt nhìn sang hướng khác, tránh né ánh mắt nhuộm đẫm bằng lửa giận của Tạng Cẩu.
Nhất thời, cả bọn đều thấy không được tự nhiên, bầu không khí trong phòng thoắt cái trở nên là lạ, trùng hẳn xuống.
" Hương! Đi nào! "
Tạng Cẩu lên tiếng.
Giọng nó đã trở nên è è, khàn khàn.
" Đi đâu?? "
Hồ Phiêu Hương, bấy giờ vẫn còn đang thảng thốt vì ánh mắt của Tạng Cẩu, lắp bắp hỏi lại theo bản năng. Cô bé chẳng giữ nổi một nửa sự lanh trí thường ngày nữa.
" Đi ăn cưới. "
Tạng Cẩu nhấn giọng, gằn từng chữ một.
Nói đoạn, không đợi cô bạn phản ứng lại, nó quay ngoắt về phía cửa.
" Này!!! Không chờ ông, bác về hả?? "
Tiếng nói rơi xuống dấu chân. Từng âm. Từng bước. Chỉ có tiếng chân người sấn bước đi càng lúc càng xa, chứ không có giọng nói ngố ngố bình thường cất lên đáp lại.
Pháo trúc.
Đèn lồng.
Cờ phướn.
Câu đối.
Chũm choẹ đánh vào nhau loẻng xoẻng, trống kèn thổi tùng cheng, cả một khu dân nghèo hôm nay nháo nhào huyên náo hẳn lên. Kể cả căn nhà hoang nằm dưới góc tửu lâu, cũng thoáng chốc trở nên bớt hẳn vẻ âm u quỷ khí.
Hôm nay Lại Bố Y cưỡi một con bạch mã oai vệ, thân mặc giá y hồng thắm, túc tắc dẫn đường. Sau lưng y, đoàn rước dâu rồng rắn kéo nhau đi thành một hàng dài đến nửa con phố.
Kiệu rước dâu đóng bằng gỗ gụ chắc nịch, được phủ điều đỏ, phải bốn người cường tráng mới khiêng nổi.
Gian nhà ọp ẹp của mẹ con cô gái bán tò he đã ở ngay phía trước, chỉ còn cách độ một sào ruộng mà thôi.
Ngồi trên lưng ngựa, là đã có thể thấy nào đèn lồng, nào trướng lụa trang trí cầu hỷ đỏ hồng từ xa.
Suốt hai bên đường, tiếng xì xào tấm tắc ngợi khen mẹ con cô hàng rong có phúc của người lại qua càng khiến Lại Bố Y thêm phổng mũi.
Song... hống hách chẳng phải do mỹ mạo của người sắp nên duyên cầm sắt với hắn. Họ Lại khoa trương thanh thế như bấy giờ, chẳng qua là để cho hai đứa nhãi ranh dám trõ mũi vào chuyện của hắn hôm nay phải tiu nghỉu cúp đầu xuống.
[ Lại Bố Y ta muốn tuyên bố với đám dân đen hạ tiện ấy rằng, chỉ cần là thứ ta muốn, thì chắc chắn sẽ chiếm được. Không bằng cách này, thì bằng cách khác. ]
Lại Bố Y dạm ngựa vào ngõ.
Vó ngựa đánh lên bậc cửa nghe lộp cộp.
Y phủi phủi yên cương, mặt hếch lên, chẳng buồn xuống ngựa.
Bà mẹ của cô gái hàng rong đon đả đón y xuống ngựa, nói:
" Đại nhân, cần gì phải hạ mình rồng đến nhà tôm thế này? Ngài chỉ nói một tiếng thôi, tôi đưa con nha đầu nhà tôi đến tận phủ cũng được nữa là. "
" Hừm. Nghé con chớ có lo cho cọp. Chuyện nạp thiếp mà thôi, Lại Bố Y ta làm rình rang gấp mười lần còn sợ chưa đủ khoa trương. "
" Dạ dạ, là tôi lắm mồm. "
Bà mẹ cúi đầu, cười đầy giả lả.
Tất nhiên, trong bụng thì mụ thầm rủa tên họ Lại ăn nói ba hoa khoác lác. Dầu gì đây cũng là đất kinh đô, dưới chân thánh thượng. Thách hắn mười cái mạng cũng không dám làm náo động thái quá.
Nhưng chung quy suy nghĩ gì là chuyện của cái đầu, yêu ghét ra sao là chuyện của quả tim... còn lời ăn tiếng nói, đối nhân xử thế, đối với mụ ấy là chuyện của túi tiền.
" Thôi, nhanh còn rước dâu. "
Lại Bố Y phẩy tay, ra chiều nóng vội.
Kì thực, chuyện nạp thiếp thời xưa, qua loa thì chỉ cần một tờ văn tự bán thân. Còn rình rang, thì cũng chỉ cần đón rước gọi là cho có là được. Làm lớn chuyện lên như họ Lại, thật đúng là trước nay hiếm thấy.
Hôm nay y làm rùm beng lên, không khác gì rước dâu kết tóc thực sự. Bây giờ nghĩ lại, không khỏi có phần giận quá mất khôn. Y trước giờ là cái kho tiền của Chu Đệ, vốn dĩ phải điệu thấp.
Nhưng thẹn trước nhục sau cùng do một đôi nhóc tì vắt mũi chưa hết hơi sữa tống tiễn đánh úp lại, khiến hắn cơ hồ hoá điên.
" Coi như bỏ tiền ra mua thống khoái đi. "
Lại Bố Y làu bà làu bàu một hồi, lại hỏi:
" Con gái bà trang điểm sao lâu thế?? Hỷ nương a hoàn đâu mà để ta chờ giữa trưa trờ trưa trật thế này?? "
Giờ đang là đầu đông.
Y kêu gào như thế, hoàn toàn là khoa trương, khác gì gã râu quặp đòi nước mắm hâm?
" Chết thật. Cái đám đàn bà này làm ăn chậm chạp, lề mà lề mề thế không cơ chứ. Đại nhân chờ cho một chốc, tôi vào giục. "
" Đây đây đây. Tân nương ra đây. "
Hỷ nương mặc áo lụa đi trước, tay cầm chỉ đỏ dẫn đường. Theo sau, tân nương vận giá y thêu phượng, đầu phủ khăn hồng, lững thững bước theo sau. Cơ hồ nếu không phải có hỷ nương và sợi chỉ dẫn đường, e là nàng ta sẽ đứng trôn chân tại chỗ.
Ấy là cô gái bán tò he.
Lại Bố Y nắm chỉ đỏ, đỡ tân nương lên hoa kiệu. Suốt cả quãng đường, chẳng ai nói với ai câu nào. Cái vẻ hớn hở trên mặt tên quan lớn nọ, nào có phải sự hạnh phúc của tân lang tìm được một nửa xứng đôi se duyên kết tóc với mình?? Có chăng, chỉ là cảm giác lâng lâng khi dục vọng chiếm hữu được thỏa mãn, như đứa trẻ được món đồ chơi vậy thôi.
" Khởi kiệu. "
Nghe tiếng hỷ nương xướng lên thánh thót, mà kiệu hoa giật lên đánh kịch một cái.
Kiệu hoa nấc lên, là tại người nghẹn ngào chăng? Hay còn vì lí do khác?
Lại Bố Y ghé vào rèm kiệu, nói chỉ vừa đủ cho người bên trong nghe:
" Hối hận rồi ư? Muộn rồi. "
Nói đoạn, giục ngựa đi trước.
Người hai bên đường đã được trả công từ trước. Nay vừa nhác thấy kiệu rước dâu quay đầu, là bắt đầu tung hoa nổ pháo, chúc mừng xôn xao cả lên. Nào là " bách niên giai lão ", " loan phượng trình tường "...v.v...
Làm Lại Bố Y khoái trá nhất, là không thấy hai đứa nhóc tì chết tiệt kia xuất hiện phá bĩnh. Hắn nghĩ gia đình hai bên đã " thuận mua vừa bán " rồi, thì tất nhiên hai đứa tiểu yêu kia sẽ chả có lí gì mà chõ mũi vào hết. Bà mẹ đi sau đoàn người cũng được thể mà thẳng lưng lên. Mụ định sau vụ này, nhận của nhận tiền bán con làm thiếp rồi, sẽ chuồn đi biệt xứ là xong. Cũng thầm cảm ơn cái đám người An Nam nọ tự nhiên lại chõ mũi vào, khiến mụ vớ bẫm vụ này.
Lại phủ...
Phủ đệ của Lại Bố Y té ra lại cách biện viện mấy người Hồ Nguyên Trừng đang ở chỉ một con đường cái, ngay cái chỗ phồn hoa đô hội nhất bên sông Tần Hoài. Có câu ngưu tầm ngưu mã tầm mã, xung quanh nhà tên Lại Bố Y chỉ toàn thấy thanh lâu kỹ viện, thực là xứng đôi, như thể Tú Bà với Mã Giám Sinh vậy.
Nếu thôn dân xóm nghèo coi vụ cưới xin này là chuyện vui hiếm có, thì những mại hoa nương xung quanh nhà Lại Bố Y lại lấy đó làm chuyện quái lạ.
Đúng thật. Có ai đời cưới vợ gả chồng, mà lại cho gia đinh cầm sẵn gậy gốc xếp hàng từ hoa viên ra tới tận cổng, mặt mũi hằm hằm thủ thế như thể lâm đại địch. Người qua đường không biết, còn tưởng nước nhà có ngoại xâm.
" Lấy vợ về nhà, mà làm như đánh trận không bằng. "
Mấy cô gái phong trần vẫn rỉ tai nhau thế. Trong lòng họ quả thực cũng có chút ghen ghét ước mong, nhưng chủ yếu vẫn là do sau này, vị khách quen kế ngõ của họ sẽ ít lui tới hơn một chút. Dù sao cũng là người đã thành gia thất.
" Dừngggg kiệuuuu! "
Lễ quan đã được Lại Bố Y căn dặn sẵn, thế nên lúc xướng cũng cố tình ngân dài giọng ra. Chủ yếu là để dằn mặt hai đứa Tạng Cẩu, Phiêu Hương vẫn chưa thấy xuất hiện.
Y cứ có cảm giác đang đấm bịch bông.
Đồng thời, dự cảm của Lại Bố Y hiếm khi sai. Ngồi trên yên ngựa, mà y cứ thấy bồn chồn nôn nao làm sao, giống như sắp có chuyện chẳng lành.
Tân khách đã vào nhà trong cả, chỉ chờ gia chủ nữa là nhập tiệc.
Ấy thế mà hai tên nhóc kia vẫn chưa chịu lòi mặt ra.
Nhất thời, Lại Bố Y cảm thấy con ngựa mình đang cưỡi đã hoá thành hùm dữ, y muốn leo xuống cũng đã muộn.
" Nhập tiệc! "
Được ánh mắt ra hiệu của chú rể, lễ quan mới cao giọng lên xướng.
Lại Bố Y lần theo sợi chỉ đỏ, đến vén màn kiệu hoa toan bế tân nương xuống ra mắt khách khứa.
Thì...
Bum!!!
Chờ sẵn cái mặt hắn là bàn chân nhỏ xíu toàn bùn với đất.
Tân khách trong nhà đã ngồi chờ từ sáng, bụng dạ đói meo, bao tử chỉ thiếu điều đánh trống khua chiêng biểu tình inh ỏi cả lên một chặp. Mọi người nghe xướng " nhập tiệc ", là đã mừng thầm trong dạ. Ấy thế mà bỗng nhiên chú rể lại lăn tròn như quả bóng, từ cửa chính vào tận bậc thềm đại sảnh, trái hẳn với quy cách thường tình.
Ai cũng lấy làm lạ, nhưng lại nghĩ:
[ Chắc là phong tục ở quê của tân lang rồi. ]
Lại Bố Y lồm cồm bò dậy, bưng kín miệng. Chắc y nghĩ làm vậy đủ lâu, thì răng cửa bị đạp gãy sẽ liền chân đứng thẳng dậy chăng?
Y hằm hằm nhìn về phía cỗ kiệu hoa, sắc mặt lúc tái lúc xanh, lại vận đồ đỏ, trông loè loẹt chẳng khác gì con gà trống thiến.
Trong kiện bỗng có tiếng người cất lên:
" Nghe đâu Cao Biền năm xưa có thuật giấm đậu trồng binh, nào ngờ hôm nay lại gặp được truyền nhân của y ở đây. Cẩu này, biết thuật hắn đang dùng là gì không? "
" Là gì?? "
" Giấm lợi trồng răng. "
Nghe tiếng cười sang sảng vọng vào nhà, Lại Bố Y càng thêm tức tối.
" Phiết... phiết pho pha... "
Y cố gắng quát lên, nhưng vừa mở miệng, là đã cảm nhận được răng cửa lộm cà lộm cộm nơi lòng bàn tay. Mà cứ nói, là hơi lại luồn ra từ kẽ răng hở toang hoang, nghe cứ phều phà phều phào, chẳng ai hiểu nổi.
May là đám thị vệ chưa phải ngu lắm.
Thấy chủ tự nhiên bị đánh lăn đùng ngã ngửa, lại có tiếng giễu cợt phát ra trong kiệu. Thế là ai nấy đã sẵn gậy gộc trong tay, vừa giơ lên toan vụt vào chiếc kiệu, vừa tri hô:
" Có kẻ phá đám cưới!! "
Trong đám người đứng xem có mấy hảo thủ võ lâm. Thấy cả lũ manh động như thế, bèn phi thân lên trước, can ngăn:
" Đừng vội! Tân nương còn trong kiệu! "
Nói đoạn, y lại quay về phía kiệu hoa, lên tiếng một cách dè dặt và khách sáo:
" Hai vị tiểu bằng hữu là tiên đồng ngọc nữ chốn nào, sao lại phá hoại chuyện vui của người ta thế?? "
Người trong nghề nhìn qua là biết. Y lăn lộn giang hồ đã lâu, kinh nghiệm nhìn người nhìn việc phong phú. Liếc mắt qua là thấy sự lạ, bàn chân tung ra đạp chú rể lăn lóc rõ ràng là của một đứa con nít. Thế nhưng nội lực hàm súc, kình lực hùng hồn, dễ nặng đến nghìn cân. Chứng tỏ công phu nội gia của kẻ ra tay sâu đến mức y không chọc nổi.
Lúc âm thanh châm chọc vang lên, thì y càng khẳng định, trong kiệu là trẻ con. Chất giọng của một đứa con nít thì không lẫn đi đâu được cả.
Y còn đang cố gỡ trăm mối hiềm nghi trong đầu, thì kiệu hoa có tiếng cười khúc khích vọng ra đáp lại:
" Phá hoại??? Đâu có?? Chúng ta đến chúc mừng mà. "
Hồ Phiêu Hương và Tạng Cẩu nhẹ nhàng vén màn kiệu, bước xuống trong ánh mắt ngạc nhiên của quần hào.
Cái nhìn căm phẫn của Lại Bố Y bắn về phía chúng nó, đụng phải lửa giận phản chiếu nơi đáy mắt Tạng Cẩu, bao nhiêu uất hận đều lập tức cháy thành tro bụi. Y co rụt cổ, thu vội ánh mắt lại nhìn sang chỗ khác, lảng tránh cái nhìn của thằng bé.
Người nọ nhíu mày:
" Tân lang bị đánh thành ra thế kia, giá y nhuộm máu, thế mà là chúc mừng ư? "
Nếu được chọn, thực tình y không muốn chọc hai đứa nhãi ranh quái lạ này. Nhưng người trên giang hồ, nói đạo nghĩa, quan trọng nhất vẫn là một chữ nghĩa này. Bằng không họ có khác gì cường đạo??
Thế nên y phải nhúng tay.
Tạng Cẩu coi như không thấy cả đám gia đinh lẫn tráng hán. Ngay cả Lại Bố Y, nó cũng chỉ liếc có một cái. Ánh mắt của nó thuỷ chung vẫn khoá chặt lấy người đàn bà – nguồn cơn của mọi chuyện.
Bị thằng bé nhìn chòng chọc với ánh mắt lạnh lẽo, bà mẹ không khỏi rùng mình. Nhưng bả vốn không hiểu võ nghệ, cậy bên mình người đông thế mạnh, bèn thẳng lưng ưỡn ngực, giọng nói tự tin hẳn:
" Hai đứa man di phía nam chúng bay muốn sống thì cút ngay, đừng có ở đây phá hoại chuyện tốt của lão nương. "
Bả cố tình nhấn mạnh hai đứa nhóc là người Nam, tăng thêm uy thế cho mình.
" Khôn ngoan đá đáp người ngoài \ Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau "
Đạo lí này không chỉ có tổ tiên người Nam truyền dạy cho hậu thế, mà người phương bắc cũng hiểu. Biết hai đứa Tạng Cẩu là người tộc khác, nhất thời ánh mắt chán ghét bủa vây lấy chúng từ bốn phía chung quanh.
" Mẹ kiếp! Nào có cái lí này??? "
" Người phương Nam man di lại dám hống hách như thế? Người Hán chúng ta mà lại bị hiếp đáp ngay trên đất của chúng ta thì còn ra cái thể thống gì nữa??? "
" Đánh! Dạy cho chúng nó biết thế nào là sức mạnh của thiên triều thượng quốc! "
Tạng Cẩu thấp giọng:
" Tớ đánh được chưa? "
Hồ Phiêu Hương nói thầm:
" Địch đông ta ít, vọng động không phải cách hay. Trước tiên phải tìm cách đẩy mũi dùi mụ kia chĩa vào mình ra cái đã. "
Cô bé đảo mắt một vòng, song cũng không nghĩ ra được cách gì hay ho.
Có ai sẽ nghe người ngoài giãi bày đây??
[ Con mụ này chanh chua, nhưng lọc lõi thật. Mình và Tạng Cẩu còn trẻ con đúng là không bì được. Phải làm sao đây?? ]
Tạng Cẩu bỗng nhiên lên tiếng:
" Thầy dậy đánh rắn phải đánh dập đầu... "
" Này! Chờ đã! "
Phiêu Hương vội đưa tay ra muốn cản nó, nhưng đã muộn. Tạng Cẩu vùng chạy, nhún chân một cái đã vọt xa ba bốn trượng.
" Thân pháp thật đáng sợ! "
Nó vừa ra tay, mấy tay giang hồ đang đứng lố nhố xem trò vui đều phải buột miệng trầm trồ kinh ngạc.
Bọn họ là kẻ lăn lộn trên giang hồ, thân pháp khinh công chẳng khác nào báu vật giữ mạng. Thế mà... nay lại phát hiện, công lao mình khổ tu mấy năm ròng rã thậm chí còn không bằng một góc của tên nhóc tì chưa ráo máu đầu.
Thế là gương mặt cả lũ vốn đỏ bừng vì kinh ngạc, chuyển thành tái xám do hổ thẹn.
Rồi, cảm giác đố kị và ghen ghét bắt đầu bốc lên ngùn ngụt.
[ Nếu mình cũng học được thân pháp này thì tốt quá... ]
Ánh mắt cả lũ lập loè, di động từ bóng lưng thoắt ẩn thoắt hiện Tạng Cẩu sang chỗ Hồ Phiêu Hương đang đứng.
Ai cũng biết thằng nhỏ kia khó gặm, nhưng còn cô bé này e là sẽ khác.
Khống chế được nó, thì vừa có thể ép thằng nhỏ phải để yên, vừa có thể tra khảo nguồn cội võ công môn phái... coi như là một công hai chuyện, công tư cùng giải quyết một lượt. Vừa được tiếng nghĩa khí thấy chuyện bất bình rút đao tương trợ, vừa thu được kì công khoáng thế. Chỉ cần không phải thằng ngu cũng biết, đây là chuyện làm ăn một vốn bốn lời.
Dù sớm nhìn ra ý định của họ, Hồ Phiêu Hương vẫn thản nhiên như không. Dù sao nếu không tính chênh lệch về nội lực, thân pháp tổ truyền của cô bé cũng tinh diệu không kém gì Lăng Không Đạp Vân Tạng Cẩu đang dùng.
" Đợi tớ. "
Hồ Phiêu Hương nhún chân, lướt về phía nhà trong. Quần hào thấy vậy lập tức ra tay, nào chưởng nào trảo do đủ các loại môn phái thi nhau xồ tới toan chộp lấy cô bé.
Sòn Phiêu Hương chẳng hề nao núng, lượn trái lách phải như bướm vờn cánh hoa, chuồn chuồn lướt nước. Tà váy áo tung bay theo gió, khiến quần hào trố mắt ra tưởng rằng tiên nữ giáng phàm.
Quần hào đều rụt nhanh tay mình lại, nhìn nhau một cái đầy ẩn ý.
Ta không nhìn thấy ngươi ra tay, ngươi cũng chưa từng nhìn thấy ta xuất thủ. Chuyện vừa rồi vùi vào quên lãng.
Gia đinh của Lại Bố Y đã cắp gậy gộc, chạy vào nhà hộ chủ, tất nhiên không rảnh rỗi mà nhìn đám người này.
Quần hào thấy bộ dáng hớt hải của gia đinh, lòng hiếu kì nổi lên. Thành ra cũng chạy theo vào nhà, xem xem hai đứa nhóc này rốt cuộc muốn làm gì. Hơn nữa ý định cũ cũng chưa bỏ.
Trong sân bấy giờ đã bát nháo hỗn loạn lắm rồi, bàn ghế lật nghiêng ngửa, đồ ăn thức uống nhoe nhoét đầy đất lẫn trong tiếng người hô hoán nhau í a í ới...
Trước đó ít lâu.
Tạng Cẩu dùng khinh công nhảy vào trong sân, mắt khoá chặt lấy Lại Bố Y. Nó biết thủ phạm là bà mẹ, nhưng đầu sò thì tất là tên quan họ Lại này. Thế nên vừa ra tay, nó đã có ý bắt người.
Nói thì chậm mà diễn ra thì nhanh, Tạng Cẩu vào trong sân vắng lập tức hú lên một tiếng, dùng chiêu " Nhất Chó Sủa Dai, Nhì Người Nói Lặp ". Mục đích không ngoài thăm dò.
Nói Lại Bố Y không bỏ tiền tài thuê cao thủ ẩn náu trong nhà hòng trấn áp lại cục diện, đánh chết nó cũng không tin.
Quả nhiên, chín phần số tân khách bị tiếng sủa của nó làm cho đầu óc xoay vần, đất trời trong mắt đảo lộn, thi nhau ngã lăn bổ ngửa ra.
" Xem đao!!! "
Quả nhiên, không để Tạng Cẩu đứng vững chân, một gã cao to đã nhảy xổ ra từ phía sau cái bàn đổ nghiêng, vung đao bổ xuống đầu nó. Lưỡi đao bóng lên sắc lẻm, thân dày cả tấc, trông còn to hơn cả người thằng nhỏ nữa. Sống đao gắn chìn vòng tròn, người bên này gọi là Bát Cương Cửu Hoàn Đao, là một loại đao lớn.
Đại đao súc thế đã lâu, bổ ra một đòn thế như sấm vang chớp giật.
Có người nói sát thủ là kẻ liều mạng nhất, thạo cái ngón " nhất kích tất sát " nhất. Thực ra không phải. Kẻ dùng " một chiêu đoạt mạng " nhuần nhuyễn nhất, là đao khách.
Một khi thế đã mất, đao vốn nặng nề, huy động sẽ gặp trở ngại lớn.
Khắc tinh của đao khách, chính là cái loại đối thủ trơn như trạch lách như lươn giống Tạng Cẩu.
Thằng bé đã đề phòng từ trước, thế nên nhát đao này không thể làm nó bất ngờ được.
Tạng Cẩu nhẹ nhàng xoay mình, lăn một vòng dưới đất, tránh thoát lưỡi đao phóng xuống.
Rầm!!!
Cửu hoàn đao đánh cho mặt sân nứt toác ra một cái rãnh sâu.
Còn kẻ ra tay???
Lúc lưỡi đao chém hụt, hai má của hắn đã lập tức trúng hai đạp của Tạng Cẩu.
Chiêu Chó Chui Gầm Chạn.
Nội lực của nó rất sâu, hơn tên đao khách nhiều. Hôm nay Tạng Cẩu lại đang nổi giận, nên ra tay có phần nặng hơn bình thường. Gã nọ trúng hai cước liên tiếp, đã gãy cả răng, ù tai hoa mắt.
Tạng Cẩu không hề hay biết, trên một tửu lâu cách đó không xa, bọn người Tửu Thôn đang quan sát nó.
Lúc này cả ba đã cởi mặt nạ quỷ, lộ ra diện mạo thật, thế nên quan quân triều đình lại bị một phen công cốc.
Thấy tên nọ tung nhát đao ra, Tửu Thôn đồng tử bèn nhíu mày:
" Phế vật, con trâu húc mả, làm ô danh thanh đao trong tay hắn rồi. "
Đao là thứ binh khí nặng.
Dùng đòn bổ đầu từ trên xuống khi chưa biết thực hư mạnh yếu của kẻ thù là chuyện ngu xuẩn nhất trong những chuyện ngu xuẩn của đao khách.
Nếu trảm ngang, chém trượt, vẫn có thể lợi dụng bước chân và đà xoay của eo để ổn định thanh đao, tìm một thế chém có lợi hơn.
Nhưng nếu trảm từ trên xuống, trừ phi lưỡi đao là quỷ ảnh đi xuyên qua được vật cứng. Bằng không chỉ có nước mắc vào đất, muốn thu đao thủ thế lại, thì cách duy nhất là dùng sức trâu mà nhấc lên. Tốn thời cơ lại tốn sức lực, phí cả đà chém.
" Tửu Thôn này... ngươi bỏ lỡ cơ hội giết chết Vĩnh Lạc vì thằng nhóc này, không giống cách hành xử bình thường cho lắm thì phải. "
Thiếu nữ bên cạnh lên tiếng.
Nàng ta lợi dụng tay áo dài, che đi thiết trảo gắn ở cổ tay của mình.
" Tỳ Mộc, nói chắc ngươi không tin... Không đấu với nó một trận, thắng nó bằng danh dự là trái với võ sĩ đạo... Trái với đao hồn của ta. "
Tửu Thôn đồng tử vỗ nhẹ thanh đao đeo bên hông.
" Huống hồ, Trảm Quỷ bị thương bởi một thanh đao khác. Thử hỏi, ta làm sao có thể để chuyện này qua như thế được?? "
" Thế nên ngươi muốn chờ cho đến lúc nó lớn thêm một tí? Ít nhất là đến khi nó học được đao thuật của ai đó xứng tầm?? "
Gã to con trầm giọng, âm thanh của hắn nghe cứ lục bục ở cổ, như tiếng thú gầm gừ.
Thanh lang nha bổng dùng trong cung hắn đã vứt đi từ lâu, nên hiện giờ đang lang thang tay không.
" Ôhhh... không sai. Tỳ Mộc, ta bảo cô là Hổ Hùng Quỷ rất thông minh, thông minh tuyệt đỉnh mà cô cứ không tin. "
Tửu Thôn đồng tử cười, giơ chén rượu về phía gã to con.
Hổ Hùng Quỷ làu bàu:
" Cái thứ gọi là dù lượn do tên Lí Bân chế tạo quả nhiên thần kỳ. Tiếc là phải vứt bỏ, đốt trụi đi xoá dấu vết. "
Trong Đại Giang Sơn, hắn vốn dĩ là kẻ phát triển khí giới cho đám tặc phỉ, rất được coi trọng. Chẳng thế mà người ta vẫn gọi hắn là Biện Khánh ( Benkei ) tái sinh.
" Đúng là dùng rất được, tác dụng không ngờ, không uổng công tên Lý công công giả đích thân đến nhờ một phen. Cơ mà Lý Bân nọ chẳng qua là một con mọt sách, ý tưởng chắp vá lung tung chẳng ra một cái thể thống gì. Không nhờ có ngươi ra tay, dù lượn sao mà thành hình? "
Tửu Thôn nhún vai.
Mấy thứ linh tinh này hắn vốn dĩ chẳng quan tâm.
Trong mắt hắn trước giờ chỉ có ba thứ: đao, rượu, và giết.
Tỳ Mộc nói:
" Tửu Thôn, tên này vừa hay tin Lý công công mưu phản bị giết, là lập tức bỏ trốn khỏi cung. Ngươi đã biết hắn náu ở chỗ hai đứa bé, không mất công tìm, sao không giết luôn để trừ tai hoạ?? Nếu ngươi ngại giết hắn làm bẩn đao, thì để ta... "
" Lý Bân ấy ư?? Một con mọt sách, ngoại trừ mấy cái ý tưởng kì lạ chẳng cái nào ra đầu ra đũa thì hắn có cái gì? Quan sát một thời gian nữa, xem có đáng giết hay không đã. Còn bây giờ cơm no rượu say rồi, lo hoàn thành xong cuộc mua bán của chúng ta với lũ dã man trên lưng ngựa kia đi. "
Tửu Thôn phẩy tay.
Đến Vĩnh Lạc hắn còn dám chém, huống chi một tên võ quan tầm thường.
Lại kể chuyện trong sân...
Tạng Cẩu nháy mắt đã đánh ngã viện thủ của Lại Bố Y, tóm gọn y đã chẳng phải chuyện khó khăn gì.
Thấy cao thủ mình thuê về trước mặt thằng bé lại vô dụng không đáng một đồng, chú rể không khỏi tức giận dậm chân, thở dài thăn vắn thườn thượt. Cái ngày đáng lí ra phải là ngày vui của hắn, nay lại có thêm một chuyện trái với lẽ thường.
Tạng Cẩu điểm huyệt, tay tóm nghẹt cổ Lại Bố Y.
Lúc này đám gia nhân đã xộc vào, gậy gộc lăm lăm trên tay. Chúng cứ đứng nhìn nó trân trân, nhưng lại không dám tiến thêm bước nào cả.
Thằng nhóc này quá tà môn.
Theo sau, Phiêu Hương cũng nhẹ nhàng lướt đến chỗ Tạng Cẩu. Thấy thằng nhóc ra tay gọn ghẽ đến thế, cô bé chẳng những không vui, mà còn thấy bất an.
Còn nhớ, lần gần nhất thằng nhóc này bỗng dưng hết ngố là lúc nó suýt nữa cho Trương Phụ nằm lên nóc tủ ngắm phao câu gà luộc.
Cuối cùng...
Quần hào mới vào trong sân.
Chứng kiến cảnh hỗn loạn do một mình thằng nhỏ tạo nên, ai nấy đều hít một hơi khí lạnh.
Không ít người kinh nghiệm phong phú, đã nhận ra thân phận của kẻ bị đánh ngã.
" Có phải Kim Đao Thành Bất Ưu của tiêu cục Đông Phong không?? "
" Đúng rồi! Đúng y! Cửu hoàn đao nặng chừng kia kia sao mà lẫn đi đâu được?? Cả thành Kim Lăng chỉ có mình y dùng được thôi. "
" Trời... vết chân trên mặt y... không phải của nó chứ?? "
Bây giờ, cho dù Lại Bố Y không nằm trong tay Tạng Cẩu thì quần hào cũng thoái chí lắm rồi. Cả bọn chẳng ai là đối thủ của Thành Bất Ưu, mà y lại bị thằng ranh có một mẩu này đánh cho bất tỉnh nhân sự cơ hồ chỉ trong nháy mắt.
Một đám lãng khách rảnh rỗi tụ tập xem hỉ sự, cơ hội để Tạng Cẩu đụng phải cao thủ đích thực còn nhỏ hơn là sợi tóc.
" Hương... giữ hắn cho tớ. "
Tạng Cẩu quăng Lại Bố Y xuống đất. Giá y mới may dính bê bết nào dầu nào mỡ, nào đất nào bùn, thoáng cái trở nên bèo nhà bèo nhèo còn thua đống giẻ lau.
Hồ Phiêu Hương hơi lưỡng lự, nhưng rồi cũng tuốt đao kề lên cổ tên Lại Bố Y.
Cô bé cứ thắc mắc mãi, không biết Tạng Cẩu đang muốn làm gì.
" Chạy thử bước nữa xem... "
Tạng Cẩu lạnh giọng, đoạn quát lên một tiếng.
Tiếng quát rền vang như thiết kị tung hoành, ai nấy đều phải bịt tai le lưỡi khiếp đảm.
Bà mẹ đang muốn nhân lúc hỗn loạn đánh bài chuồn lập tức cứng người lại.
Bả biết, nếu bây giờ mình nhúc nhích một ngón chân thôi, Tạng Cẩu sẽ chẳng ngại ngần đánh gãy luôn xương chân của mình.
[ Mẹ ơi, thằng này nó là ác quỷ đầu thai. Chắc chắn vậy rồi. ]
Dù run lên cầm cập, nhưng bà mẹ vẫn lên tiếng gọi đám gia đinh:
" Còn đứng đực ra đấy làm gì?? Mau! Mau đánh nó cứu chủ! "
" Ông!! Khô... không! Ngừng... ngừng tay! "
Lại Bố Y vội vàng quát to.
Miệng y gãy răng đứt lợi, hãy còn chảy máu ròng ròng, khó khăn lắm mới nói được tròn vành rõ chữ.
Đao Lĩnh Nam kề kè kè ở cổ, thì làm sao y không sợ cho được?
Tạng Cẩu nói, chậm rãi mà rõ ràng:
" Xem ra bà hết chỗ dựa rồi... "
Người đàn bà nọ trợn to mắt, toan hét lên kêu cứu, thì bàn tay Tạng Cẩu đã vồ đến, tóm chặt lấy cổ họng bả.
" Ặc... ặc... ặc... "
Bà mẹ nào ngờ được bàn tay bé xíu kia vừa xiết lại quanh cổ mình thì còn cứng hơn cả khoá sắt. Nhất thời bả không thở nổi, cứ ú ú ớ ớ thốt chẳng nên tiếng.
Hồ Phiêu Hương thấy Tạng Cẩu ra tay không thèm phân nặng nhẹ, như thể có thâm cừu đại hận gì với bà ta thì cũng hơi hốt. Xong lại nghĩ đến những chuyện bà ta làm với cô gái bán hàng rong, lửa giận lên bốc lên. Thế là không thèm khuyên can gì nữa, cứ mặc kệ quan sát.
Chỉ khổ tên Lại Bố Y bị đao sắc kề cổ, muốn cựa cũng không dám cựa.
Tạng Cẩu hơi lỏng bàn tay ra, lại lườm người đàn bà một cái:
" Cô ấy chỉ vừa thoát ra khỏi đầm rồng, chưa kịp ấm yên được mấy hôm, ấy thế mà kẻ làm mẹ như ngươi đã chính tay đẩy con mình xuống nước. Loại người bạc nghĩa như ngươi thì đáng tội gì, HẢ!!!!!??? "
Tiếng quát của nó rung chuyển, vang dội, chẳng khác nào tiếng hổ gầm.
" Đừng! Dừng tay! "
Bóng dáng cô hái hàng rong trong tà áo tân nương thướt tha... lảo đà lảo đảo xuất hiện ở cửa.
Thì ra nàng vừa lên kiệu, thì đã bị hai đứa nhóc nấp sẵn trong thành kiệu điểm huyệt ngủ, rồi cho yên vị ngăn ngắn chính giữa. Còn chúng thì chui xuống dưới chân nàng nấp.
Lại Bố Y chủ quan, không nhìn vào kiệu hoa, thế nên không biết là hai đứa nó đã ngồi trong kiệu từ đầu.
Tân nương có hận mẹ mình không??
Có lẽ là có, chí ít cũng phải ấm ức trong lòng. Dầu sao cũng là hạnh phúc cả đời, chung thân đại sự, nay bị tống ra ngoài như một món hàng. Có ai mà không thấy tủi phận??
Nhưng vừa thấy mẹ mình quằn quại trong tay Tạng Cẩu, là bao nhiêu hờn tủi bay biến sạch. Trong đầu cô gái bán hàng rong giờ chỉ nghĩ làm sao cứu mẹ mình ra. Sau đó, phải gả cho Lại Bố Y, hay gả sang Mông Cổ Cao Ly...v.v... thì để sau tính.
Gương mặt nàng, hoa nương vốn đã không dám thoa phấn bôi son, sợ hàng rèm lệ rửa trôi trang điểm. Lúc này vì lo và sợ mà càng trở nên tái mét cả đi.
Bà mẹ không nghe thấy con, cũng chẳng còn tâm trí đâu để mà nhìn sang chỗ khác. Nỗi sợ choán đầy lấy óc bà ta. Giờ bả chỉ mong thổ hết ra bí mật giấu trong lòng đã gần hai mươi năm nay, những mong được nó tha mạng.
" Cậu hận ta vì ta bán con phải không?? Ah... ah... ta xin cậu, tha cho ta. Nó... nó không phải con ruột của ta. "
Tay Tạng Cẩu bỗng lỏng ra.
Hiển nhiên, chẳng ai trong trang viên này ngờ được người đàn bà nọ có thể thốt ra những lời như thế.
Bịch. Bịch.
Hai tiếng động lớn cùng vang lên.
Một là bà mẹ gục xuống đất, đôi chân mềm nhũn vì sợ.
Còn lại chính là tân nương.
Toàn thân nàng rũ ra, vô lực trượt xuống theo khung cửa. Thành gỗ cứng cũng không thể trở thành chỗ dựa cho người con gái ấy.
Trong lòng nàng đang có tư vị gì??? Không ai biết, cũng chẳng thể nói rõ.
Dù sao, mặc kệ câu nói kia là thật hay giả thì quan hệ của họ cũng đã bị dẫm nát.
Hồ Phiêu Hương thở dài một tiếng.
Nếu bà ta nói thật, tức là mối quan hệ mẹ con tưởng chừng thân thiết không rời hai mươi năm qua... té ra chỉ là bong bóng tưởng tượng.
Nếu bà ta nói dối... một người mẹ phủi sạch quan hệ với con ruột để giữ mạng? Âu cũng chẳng khá hơn là mấy.
Song bây giờ mọi người nghĩ gì, với bà mẹ cũng chẳng còn quan trọng.
Tạng Cẩu nghĩ sao mới đáng để bà lưu tâm.
Tạng Cẩu thì sao??
Nó tin lời bà ta là thật, rằng hai người họ vốn chỉ là người dưng??? Hay sẽ cho là bà ta đớn hèn phủi sạch quan hệ mẹ con??
" Điều đó là sự thật?? "
Tạng Cẩu trầm giọng xuống.
Như chỉ chờ có thế, mặt bà mẹ rạng rỡ hẳn lên.
Mụ ta vừa gật đầu như vái sao, vừa thề thề thốt thốt:
" Thật! Là thật! Nếu cậu không tin, tôi có thể thề độc. "
Tạng Cẩu hướng ánh mắt của mình về phía cánh cửa, nhìn vào cô gái trong bộ giá y ngồi một đống bên bậc cửa, thẫn thờ như kẻ đã mất hồn.
Ngày thành hôn, đáng ra phải là ngày vui mừng nhất trong cuộc đời.
Người con gái kia, khổ đau đến nỗi trái tim quặn khóc, mà đôi mắt không chảy ra nổi một giọt lệ...
Nó thở dài...
Cũng may, từ bé nó đã biết mình là cô nhi lưu lạc, may mắn được người trong thôn Điếu Ngư cưu mang.
Bằng không, đổi lại vị trí của hai người...
Chắc nó cũng không khá hơn cô ấy.
Tạng Cẩu vì đồng cảnh ngộ mà suy nghĩ miên man, nhất thời không chú ý đến cử động của đám tân khách.
Chỉ nghe Hồ Phiêu Hương bất giác kêu " ối " một tiếng, sau đó lui nhanh mấy bước. Từng tiếng leng keng, leng keng vang lên. Nhìn đi nhìn lại đã có năm thanh phi đao rơi dưới đất. Lại Bố Y nhân cơ hội này, lồm cồm bò trốn đi mất.
Té ra cái kẻ lên tiếng ngăn đám gia nhân dùng loạn côn đánh kiệu vừa xuất thủ.
Y vẫn chưa hề bỏ ý định nhúng tay.
Tạng Cẩu thấy vậy nhíu mày, vận lực quăng một viên phi châu về phía hắn.
Gã nọ thấy ám khí của thằng nhóc là một viên sắt tròn vo không mũi nhọn, bay lại chậm, không khỏi lấy làm khinh khi.
" Nội lực thì mày ghê gớm, nhưng luận việc chơi ám khí thì mày còn phải học nhiều! "
Gã thủ sẵn phi đao vào tay, chỉ chờ phi châu bay đến cách người ba thốn sẽ nhích sang bên phải một bước, rồi dùng công phu ám khí độc môn giải vây nốt cho bà mẹ.
Nào ngờ...
Chỉ nghe đánh cạch một cái, phi châu đột nhiên tăng tốc giữa bán không.
Cốp!!!
Viên bi sắt quấn theo kình phong hùng hậu như sóng dữ quật thẳng vào ngực, đánh cho gã dùng phi đao bay xa cả trượng mới dừng lại.
Quỷ Diện Phi Châu của các đời Quận Gió lấy uy lực và tốc độ thành danh.
Nó chưa bao giờ là binh khí dùng để đánh lén.
Còn tuyệt học Tạng Cẩu vừa dùng là áo nghĩa tối cao của phi châu mà Quận Gió từng sử dụng trên đàn Nam Giao để đối phó Thiên Cơ lão đạo giả.
Hôm Mai Vượt Bể...
Hôm, Mai, Vượt là ba tên gọi của cùng một tinh tú lần lượt khi nó xuất hiện vào chiều tối, sáng sớm và đêm.
Nếu coi phi châu là sao Hôm tuy ba mà một, một lại là ba. Thì hoàn toàn có thể quy tụ sức mạnh của từng viên lại thành một.
Nguyên bản, chiêu này dùng ba viên phi châu, viên trước yếu hơn viên sau. Nếu làm được, cơ hồ khiến phi châu đánh ra với uy lực hai mươi mốt thành công lực.
Quận Gió thầy dạy Tạng Cẩu, biến tấu thành năm viên. Độ phức tạp tăng lên rất nhiều, nhưng uy lực cũng theo đó tăng thêm bốn thành.
Hiện tại Tạng Cẩu mới phối được hai viên, nhưng nhiêu đó cũng là quá đủ để thu phục tên dùng phi đao.
Bà mẹ thấy nó sử dụng thần kỹ Hôm Mai Vượt Bể, thì buột miệng:
" Là nó! Là nó!! "
Tạng Cẩu âm thầm lấy làm lạ.
Tuyệt học này ngoại trừ các đời Quận Gió, đáng lẽ không ai nơi phương bắc này biết dùng mới phải. Lẽ nào núi cao còn có núi cao hơn?
Bèn lên tiếng:
" Bà già, bà nhìn thấy chiêu này của ta, chắc cũng biết tội mình rồi... "
Thằng nhỏ biết, bây giờ nó mà hỏi bà ta tại sao lại biết chiêu này, thì quá bằng đưa đằng chuôi cho người ta nắm. Thành thử, mới phô trương thanh thế như vậy.
Bà mẹ lắp bắp:
" Biết tội. Biết tội. Sư thừa của cậu giao đứa bé cho tôi, mà tôi chăm sóc không đến nơi đến chốn. Trăm sai ngàn sai đều là do tôi... "
Bị Tạng Cẩu lườm cho một cái, mụ chỉ biết run lên cầm cập.
" Con... con bé thực ra họ Trương. Ông nội là tử tù, trước đây từng sống ở căn nhà hoang dưới lầu Phỉ Thuý... Năm đó có dịch tả, mẹ nó không may nhiễm bệnh mất khi nó còn nằm nôi. Sư... sư phụ của tiểu anh hùng mới đưa cho ta nuôi nấng. Đúng rồi.
Trong nhà tôi hãy còn một con chuỷ thủ, nghe bảo là có kì nhân đưa cho mẹ ruột của nó. "
Cô gái, giờ đã biết mình họ Trương, khóc nấc lên. Nhưng liễu yếu đào thơ chẳng biết phải làm gì, chỉ có đường kinh hô:
" Xin cậu! Tha cho bà ấy đi!! "
Lúc bấy giờ bà mẹ nuôi cũng đã nghe được tiếng cô. Bả thấy mặc dù mình bán đứng con, nhưng lúc tính mạng như chỉ mành treo chuông nàng ta vẫn cầu xin cho mẹ, không khỏi hối hận.
Bà ta lại ngẫm: [ Công sinh thành thua ơn dưỡng dục. Sao mày có thể vì phú quý phù hoa trước mắt mà làm cái chuyện tày trời này kia chứ? Một lát nữa mình phải dập đầu tạ lỗi với con, yêu nó như con ruột mới phải... ]
Nhân chi sơ, tính bản thiện. Ấy là lời dạy của thánh hiền.
Non sông dễ đổi, bản tánh khó dời. Ấy lại là lời của cha ông.
Tiếc là bà ta vĩnh viễn không có cơ hội để mà chuộc lại tội lỗi hôm nay.
Bốp!!
Lửa giận bốc cao, chưởng phong áp xuống.
Một chưởng Chó Cậy Gần Nhà cơ hồ đánh ra hoàn toàn bằng bản năng. Bà mẹ nuôi của Trương thị không biết võ công, làm sao mà tránh nổi? Chỉ nghe bịch một cái, bà ta chẳng kịp kêu tiếng nào, ngoẹo cổ ngã lăn ra đất.
Đến lúc định thần...
Thì bà mẹ đã nằm một đống dưới chân Tạng Cẩu.
Hồ Phiêu Hương lướt đến bên cạnh Tạng Cẩu, lớn tiếng:
" Mọi người cũng nghe rồi đấy! Bà ta chỉ là nghĩa mẫu của Trương thị, theo lí không có quyền bán con cho họ Lại làm thiếp! "
Nói đoạn giơ cao tờ khế ước bán con của bà mẹ viết với Lại Bố Y.
Té ra lúc kề đao vào cổ họ Lại, cô bé đã nhanh tay chộp luôn tờ khế ước.
" Lập thiếp ư?? "
" Thế mà làm rùm beng như lấy chính thê không bằng. "
Lại Bố Y vốn dĩ muốn khoa trương thanh thế, vậy mà vì chuyện này người ta lấy làm chủ đề bàn tán lao xao, không khỏi hổ thẹn. Có cảm giác như vừa tự bắn tên vào chân mình, gậy ông lại đập lưng ông.
" Coi như bản quan xui, lập thiếp lập thê gì đều huỷ hết! Ai về nhà nấy! "
Tạng Cẩu còn chưa muốn buông bỏ chuyện này, nhưng Hồ Phiêu Hương đã vội vàng ngăn lại.
Cô bé thì thầm:
" Thôi đi Cẩu, hắn là mệnh quan triều đình. Hạ nhục hắn một chút thì không sao, nhưng giết gã thì lại thành to chuyện đấy. "
" Nhưng... "
" Mình đang ở trên xứ người, lại còn không nể mặt hoàng đế của họ thì chỉ thiệt thân mà thôi. Di nguyện của Tuệ Tĩnh thiền sư là phá giải bí mật của miếng đồng, cậu quên rồi à? "
Hồ Phiêu Hương biết thằng nhóc này đang nóng đầu.
Nó là cô nhi, từ nhỏ không có tình thương cha mẹ, cũng may được bà con chòm xóm ở thôn Điếu Ngư cưu mang bảo bọc. Thế nên hôm nay bà mẹ kia đối xử với con gái mình như thế, chẳng khác nào xát muối lên vết thương lòng của Tạng Cẩu cả.
Ngộ nhỡ bố mẹ nó cũng như thế???
Thả nó trôi theo dòng sông cũng khác gì bán con vào nhà quyền quý đâu?
Tạng Cẩu nghĩ sang chuyện của sư phụ và nhà họ Trương.
Nó cố đánh lạc hướng mình, để bản thân khỏi nghĩ tới những gì tên họ Lại đã làm.
[ Nghe đồn sư tổ truyền vị xong, bèn quắp áo lên đường vân du, chẳng còn tin tức gì nữa. ]
Xâu chuỗi các sự kiện nó biết lại, thì có lẽ mấy năm về trước Quận Gió chắc có bắc tiến thăm người xưa, rồi mới ngấm ngầm điều tra thân thế của cô gái nọ.
Chắc là sau đó ông đã phát hiện con dao năm của sư phụ năm xưa ném cho cô gái.
Thế nên mới cố tình dạy cho người ta cách làm tò he, bù đắp một phần tội lỗi năm nào.
[ Mình cứ nghĩ cô bé năm nào tha mạng cho thầy, đến nay cũng phải ba mươi mấy gần tứ tuần rồi mới đúng. Lại không nghĩ đến chuyện người ta có con. Đúng là ngu. ]
Hồ Phiêu Hương thì lại nghĩ:
[ Năm đó mẹ Trương thị tha mạng cho thầy, bây giờ Tạng Cẩu cứu con của cô ta khỏi phải làm lẽ mọn cho họ Lại, chắc không phải trùng hợp. ]
Nhân quả vốn xoay vần, gieo gió thì gặt bão. Cũng như cái câu đi với phật mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy đấy thôi. Cái cách đối nhân xử thế của mình, cũng quyết định cách người ta đối xử lại với mình.
Phải chăng nhân trong nhân quả phải là " nhân cách "??
Tài sơ học thiển, nào dám bàn nhiều...
Chỉ biết sau chuyện ở Lại gia trang, Tạng Cẩu và Phiêu Hương dìu tân nương ra bến sông, trong lòng mỗi người một ý nghĩ.
Chuyện kế tiếp, cũng xảy ở bên một con nước cách sông Tần Hoài cả ngàn dặm.
" Bốn vị tiền bối đây là?? "
Lê Hổ thấy bốn ông già ngồi trên chạc cây bộ dạng quái lạ, nhìn qua lại giống như quen biết cô gái kia, bèn cung kính khom lưng thi lễ.
Phốc.
Một trong bốn lão nói:
" Bèo nước gặp nhau, bọn ta lại chẳng phải tội phạm hay trộm cướp mà phải tra khảo thẩm vấn, thế thì cần gì hỏi rõ danh tính nhau ra như vậy?? "
Dưới ánh trăng tỏ mờ, Lê Hổ phát hiện cái mũi gắn trên mặt ông ta là giả.
Cô gái nọ bèn mỉm cười, giới thiệu:
" Đây là bốn lão tiền bối Ngu Si Đần Độn. Anh đừng có nhìn họ tàn tật, ngoại hiệu quái lạ mà coi thường. Võ công của họ cao lắm đấy. "
Tất nhiên trên đời chẳng có ai có ngoại hiệu là Ngu Si Đần Độn cả. Tên ấy hoàn toàn là bịa đặt.
Cô gái nọ cũng biết, nhưng vì mấy lão cứ kiên quyết không tiết lộ thân phận thật, cô cũng lấy cái tên giả này đi chọc các lão một phen.
Bốn lão tàn tật này chính là Thiên Tàn Địa Khuyết.
Thì ra sau khi tiễn chân Tạng Cẩu, bốn người vẫn âm thầm dò la tin tức về cái chết oan khuất của Quận Gió. Mọi manh mối đều chỉ vào Thiên Cơ lão đạo giả, nhưng lão ta giống như biết phép lên trời độn thổ, tìm gần một năm trời mà không thấy tăm hơi.
Cuối cùng bốn lão mới quyết định sẽ lên sơn trang Bách Điểu tìm hiểu.
Lê Hổ thầm nghĩ:
[ Bốn lão tiền bối không báo ngoại hiệu, có thể là có ẩn tình. Không nên hỏi nữa. ]
Rồi cũng ngồi xuống bên đống lửa.
Bấy giờ cô gái nọ đã nướng xong thêm một ống nứa, bèn lấy que củi khều ra, thảy sang chỗ Lê Hổ.
" Vừa gặp bữa, chi bằng cùng xơi. Vẫn nhớ cách ăn món này chứ? "
Lê Hổ đáp:
" Mĩ vị như thế sao lại quên nổi? "
Nói rồi lấy đao, cắt lóng nứa ra.
Bên trong là một thứ thịt vàng ươm, thơm điếc cả mũi.
Tàn lão khinh khỉnh:
" Mĩ vị, ta thấy là không quên được mĩ nhân thì có. "
Địa lão trầm giọng:
" Kìa, đã nói đúng tim đen chúng nó lại cứ oang oang cái mồm ra như thế, chả biết giữ ý gì cả. "
Mồm nói, nhưng lão cố tình không đè âm thanh xuống gì cả.
Ngoại trừ Khuyết lão đã điếc, hai người còn lại đều nhìn lão với cặp mắt nửa tròn nửa dẹt.
Lão này hình như không chỉ mất đi thị lực, liêm sỉ cũng bắt đầu bớt đi rồi.
Cô gái đỏ chín cả đôi má, quay vội mặt sang hướng khác. Lê Hổ thì ho khan mấy cái liền, chỉ biết vục mặt vào ống nứa mà ăn lấy ăn để.
Tranh thủ lúc Thiên lão không để ý, Tàn lão bèn nhón ngay một miếng thịt.
Lập tức, ánh mắt như điện xẹt khoá chặt lấy cái mồm đang nhai nhồm nhoàm với chòm râu đầy mỡ. Hai người Lê Hổ không bị nhìn trực tiếp, nhưng ánh mắt của chí tôn trong giới sát thủ năm nào cũng khiến cả hai phải rùng mình.
Nhưng cái kẻ nên sợ nhất thì chẳng làm sao, lại cứ cười phe phé:
" Anh ba à, anh như phật sống ăn hương ăn hoa là được, món thịt thơm này cứ để em xử cho. Chu choa. Lươn nướng ống tre, hoàng đế trong cung cũng làm chó gì được thưởng thức thứ này chứ. "
Thấy lão buông lời phạm thượng như không, lại còn văng tục, Lê Hổ cũng hơi thấy phản cảm. Dù sao cậu đọc sách thánh hiền từ bé, tư tưởng trung quân vẫn còn đấy.
Thiên lão lưỡi có tật, chẳng nói năng bình thường được, lại càng không nói đến chuyện cảm nhận được năm vị chua cay mặn đắng ngọt. Thịt lươn có ngon gấp mười, với lão cũng chỉ như bột gạo sống mà thôi. Bình thường lão ta vẫn mím chặt môi không mở là vì thế.
Song bị người ta giành ăn, với lão vẫn là xúc phạm.
Địa lão tai thính, nghe thấy có vẻ như hai em sắp giã nhau đến nơi thì bảo ban:
" Hai đứa không nên làm mất hoà khí, đánh đến gần chết là được rồi. Nếu không bốn anh em chỉ còn ba, sau này làm sao làm việc được? "
Lê Hổ đổ mồ hôi:
[ Chẳng phải nên khuyên em mình đừng đánh nhau sao? ]
Bốn lão ăn no nê, sau đó Tàn lão nói:
" Bé con nấu nướng càng ngày càng khá. Lần sau bốn ông già sẽ quay lại ăn chực tiếp. Cáo biệt! "
Nói đoạn chân nhún nhẹ lên cành cây, vèo một cái đã mất hút vào ánh trăng.
" Bốn ông lão này đúng là quái dị. "
Lê Hổ vừa ăn, vừa nhận xét.
" Kì nhân trong thiên hạ, đều cổ quái như thế. Có người nói thiên tài là kẻ bị điên một nửa mà. "
Cô gái cũng cười đáp.
Hai người ngồi dưới ánh trăng, rất vui vẻ, cơ hồ quên đi những chuyện buồn bã ngày trước.
Thế rồi, Lê Hổ bỗng hỏi:
" Đúng rồi. Hồi đó từ biệt ở Hoá châu, vẫn chưa biết được tên cô nương. Tôi họ Lê, cứ gọi là Lê Hổ là được. "
" Lê Hổ? Cái tên nghe oai quá nhỉ? Tôi họ Trịnh, tên Ngọc Lữ. Cậu cứ gọi tôi là Lữ được rồi. "
Cô nàng bèn tiếp.
Cậu chàng bén gãi gãi gáy, nói:
" Thực ra Hổ là tên người trong nhà vẫn gọi. Năm xưa tiên phụ đặt cho tôi cái tên là Lợi. "
" Lê Lợi??? "
Trịnh Ngọc Lữ nghe vậy, bất giác đỏ mặt lên.
" Làm sao?? "
Lê Hổ quay sang, tỏ vẻ quan tâm.
" Không! Không có gì! "
Hai người lại im lặng một hồi. Cái im lặng này không có cảm giác mất tự nhiên chút nào, ngược lại ai cũng thấy ấm áp, nửa muốn nói nửa lại không, rất kì diệu.
Được một lúc, Lê Hổ chợt lên tiếng gợi chuyện:
" Hồi đó tôi trốn đi gấp, không kịp chào nhau lấy một câu. Tại sao cô lưu lạc đến tận đất Lam Sơn này?? "
Trịnh Ngọc Lữ nghĩ thầm:
[ Bà lớn dặn mình đến Hoá Châu âm thầm tiếp tế cứu trợ cho thôn dân bị giặc bắt đi lao dịch, té ra là có dụng ý từ trước. Trời ơi là trời, mình gặp cậu lớn rồi mà cũng không biết... Nhưng... nhưng sao mà nói cho cậu ấy biết được? ]
Thế là nàng hắng giọng một cái, bịa:
" Hồi đó cậu kêu gọi mọi người nổi dậy, tôi nhân lúc hỗn loạn mới trốn xuống bãi sậy. Lang thang thế nào lại tìm đến đây. Thấy chỗ này có vẻ thanh bình, yên ổn hơn chỗ khác nên quyết định dừng chân. "
Lê Hổ gật gù, đầu cúi gằm, không giấu nổi tiếng thở dài:
" Thì ra là thế. "
Trịnh Ngọc Lữ đã từng cùng cậu trải qua chuyện ở Hoá Châu, tất nhiên là biết trong lúc cao hứng nhất thời mình nói hớ. Nàng ta bèn nói:
" Không phải lỗi của cậu đâu mà. "
" Vậy sao?? Nếu không có tôi, họ có phải chết một cách vô ích như thế không? Không thành công, cũng thành nhân? Có phải cô định nói như thế không???
Chiến tranh ắt có thương vong. Nhưng ai!? Ai cho ta cái quyền quyết định vận mạng của người khác??? "
Lê Hổ càng nói, tâm tình càng bất ổn. Đến mấy câu sau cùng thì âm thanh đã ngâm nga cao vút lên tưởng như muốn chạm đến vòm trời mà hỏi.
Cuối cùng, câu hỏi vỡ thành tiếng khóc, rơi xuống vỡ vào ánh trăng loang loáng mặt hồ.
Trịnh Ngọc Lữ nghe cậu ta cảm thán, bất giác tâm ý tương thông, chợt hiểu ra Lê Hổ đang ân hận chuyện ở Hoá Châu. Rồi hối hận đâm ra cả nghĩ, đọc thấy những câu như " nhất tướng công thành vạn cốt khô " trong binh pháp mà thấy mất niềm tin.
Trịnh Ngọc Lữ nhất thời im lặng.
Lê Hổ khóc lên một hồi, lệ chảy đầy mặt, chui cả vào miệng. Thế rồi nước mắt kết thành hai câu đối, vọng ra ngoài:
" Kì La hải khẩu ngâm hồn đoạn
Cao Vong sơn đầu khác tứ sầu "
Trịnh Ngọc Lữ cảm động trước ý cảnh tê tái tang thương trong hai câu đối, cũng bật khóc theo. Nàng chợt nhận ra, những điều mình tưởng Hổ không biết, té ra cậu ta đã nghĩ đến từ lâu.
" Ta không hiểu. Thực sự không hiểu... "
Lê Hổ thở dài, lại thấy rầu rĩ.
Cậu mãi vẫn chưa thể nghĩ thông suốt cho nổi.
Lẽ nào cái gọi là thế thiên hành đạo, vì dân trừ hại chẳng qua là lời nói sáo rỗng mà kẻ muốn đảo điên thiên hạ áp lên đầu dân chúng, như cách người ta chăn ngựa chăn dê thôi sao??
" Có thế thôi cũng không hiểu ư?? "
Ọoooooooo...
Giọng ai cười sang sảng, vang lên ở phía bờ ao đối diện. Ngay sau đó tiếng trâu hú khoẻ khoắn trầm đục cũng vang lên hoà với tiếng người. Hai thứ âm thanh bện vào nhau, tựa như dùi gỗ gặp mặt trống, thoáng cái đã ầm vang như tiếng trống xuất quân khiến mặt ao cũng phải gợi lên từng con sóng.
" Võ công của cô trên tôi một bậc, có nghe thấy người đó nói gì không? "
Lê Hổ khịt mũi, nghiêng tai.
Trịnh Ngọc Lữ lắc đầu:
" Chịu thôi. Con trâu ở đâu rống khoẻ quá. "
" Ngươi gọi ai là trâu??? "
Bỗng nhiên, một bóng người vọt ra từ trong lùm cây đối diện, nhảy phốc một cái đã đến chỗ hai người đang ngồi. Chỉ nghe ầm một tiếng, đôi chân y như cột sắt giáng xuống, đánh lõm vào đất thịt ven ao tạo thành hai cái hố sâu đến cổ chân.
Hai người Lê Hổ cùng hít một hơi khí lạnh.
Người này nhảy phốc một cái, băng qua mặt ao hơn ba trượng, đến trước bếp lửa chỉ trong có một tích tắc. Đã thế lắng nghe hơi thở, thì dường như nội công của y không lấy gì làm cao minh cho cam.
Dưới ánh lửa, lộ ra gương mặt của một thiếu niên nhỏ hơn Lê Hổ mấy tuổi. Cổ đeo một cái vòng xích bằng bạc, treo thêm một con trâu trắng không biết làm bằng thứ gì.
Hai người Lê Hổ chẳng kịp bình tĩnh lại, đã thấy kẻ nọ khoa chân múa tay:
" Ta đây đã có lòng tốt lên tiếng cởi bỏ khúc mắc trong lòng cho, thế mà lại chửi ta là trâu?? Rõ là muốn ăn đòn! "
Lê Hổ vội vàng nuốt khan, xua tay:
" Anh bạn bình tĩnh, bình tĩnh một chút đã nào. Hạ hoả. Chớ nóng nảy. "
Trong lòng cậu lại nghĩ thầm:
[ Người này lúc thì nói đạo lí như học sinh, lúc lại giơ nắm tay doạ đánh như phường đạo tặc. Đến là khó hiểu... ]
Giải thích một hồi, quái nhân mới sực tỉnh.
" Ôi té ra là con súc sinh đấy. Xin lỗi hai vị, ta lỗ mãng rồi. "
Nói đoạn, y lắc nhẹ một cái, rút bàn chân khỏi hố đất. Liền đó chẳng thèm lấy đà, nhún một cái lại bay vèo sang bên kia ao.
Ít lâu sau...
" Cái con súc sanh khó dạy này. Mày là trâu mà sao mày ngu như con bò thế hả?? Tao bảo bao nhiêu lần là cấm có được át lời tao cơ mà! "
Hai người Lê Hổ ngơ ngác nhìn nhau, thực sự á khẩu không biết phải nói cái gì cho đúng.
Phốc.
" Ha ha ha... "
Nói rồi nam nữ cùng bật cười, lả tả tiếu thanh rơi, chạm đất vỡ tan theo từng giọt sương đêm.
Trong trẻo...
Chừng thêm một chốc thì quái nhân đã cưỡi một con trâu lớn đến, thúc chân vào bụng bắn nó lọp bọp lội ao sang. Con trâu lông trắng như mây, sừng không bè bè dẹt dẹt mà nhọn hoắt lên, đôi mắt long đỏ hung dữ như phun lửa. Dù có chiến mã bất trị, hay hùm beo lang sói gặp con trâu hung tợn này e cũng phải nép sang nhường đường.
Ruỳnh. Ruỳnh.
Con trâu trắng lội lên bờ ao chỗ Lê Hổ, rồi đứng sững lại. Lúc ấy nó đứng nhàn nhã chưa lồng lên, mà Lê Hổ đứng thẳng dậy cũng chỉ có thể cao bằng đầu vai của nó. Thực là quái dị trong quái dị.
Trịnh Ngọc Lữ như nhớ đến chuyện gì, chợt thốt lên:
" Chẳng lẽ là nó? "
Lê Hổ không khỏi tò mò:
" Nó?! "
Quái nhân thấy hai người có vẻ nhận ra lai lịch con trâu của mình, thế là nhảy phốc xuống đất.
Trịnh Ngọc Lữ nói mà giọng run run, tựa hồ như vẫn chưa thể tin vào mắt mình:
" Nghe đồn Đại Thắng Minh Hoàng Đế lúc còn trẻ con đi chăn trâu dùng cờ lau đánh trận, từng thuần phục một con trâu thần lội lên từ dòng sông mùa lũ. Sau này nó theo hoàng đế dẹp loạn thập nhị sứ quân, dân gian vẫn gọi là Đại Thắng Thần Ngưu.
Theo sử quan tả lại thì trâu thần lông trắng như mây, hai mắt như mặt trời ban trưa, vai cao tới bốn xích, nghe hiểu tiếng người. Một khi xung trận thì hung hăng hơn cả hùm beo sư tử, nghe đồn voi chiến cũng từng bị nó húc chết. Cứ theo miêu tả ấy thì... giống hệt như con trâu này vậy. "
Quái nhân vỗ tay vào nhau đánh bốp một cái, nói:
" Không sai! Cái thằng nhóc ngu như bò này chính là hậu duệ của Đại Thắng Thần Ngưu. "
Trâu trắng rống lên " ọo " một tiếng, xem ra là bất mãn vì bị chủ nhân mắng là ngu như bò.
Trịnh Ngọc Lữ nói:
" Nhưng sau khi Đinh Tiên Hoàng băng hà, Đại Thắng Thần Ngưu đã lao đầu xuống sông Hoàng Long tự vẫn để theo chủ nhân, sao lại... "
Quái nhân xua tay:
" Nói nhiều cũng chẳng ích gì, cứ thế này là nhanh nhất. "
Nói đoạn gỡ cái gói lá chuối trong tay nải ra, đưa trước mõm trâu. Trâu trắng mắt mở to, đuôi ngoáy tít lên như thể gặp món ưa thích. Rồi nó vục đầu, đớp lấy đớp để.
" Thịt?? "
Thấy con trâu quái lạ này xung quanh toàn cỏ non không thèm ăn, mà lại ăn thịt, hai người không khỏi kinh ngạc.
Quái nhân lại nói:
" Tiên Hoàng chém đầu địch, thần ngưu ăn chiến mã, chẳng phải sách sử vẫn nói như thế hay sao? Giờ trâu của ta ăn thịt thì có gì mà phải kinh ngạc? "
Lê Hổ vẫn cho là hoang đường, nhưng chỉ thấy Trịnh Ngọc Lữ lầm bầm bên cạnh:
" Đúng là có chuyện này. "
Nên đành im lặng.
Quái nhân lại lấy hai quả bầu khô ra, lắc lắc:
" Người uống một quả, một quả phần trâu. Thế là rượu ngon đã cạn. "
Quả nhiên con quái ngưu ham thịt, lại háo cả men cay nữa. Trông nó thành thạo lấy môi quắp lấy vỏ bầu, ngửa cổ dốc cạn mà hai người Lê Hổ chỉ biết há hốc mồm vì kinh ngạc.
Con trâu này thiếu điều thành tinh đến nơi, thế mà vẫn bị chửi là ngu kia đấy.
Đang lúc này thì quái nhân nọ đã bá cổ hai người, đưa quả bầu ra trước mặt.
" Nào nào, thịt nướng chưa nguội, rượu ngon vẫn nồng. Đánh chén đi chứ. "
Rồi y chặc lưỡi đánh tách một cái, bàn tay khép lại chặt một phát ra chiều tâm đắc lắm:
" Không nên hoãn cái sự... tặc... sung sướng đó lại. "
Trịnh Ngọc Lữ hơi tránh sang một bên, lại lườm quái nhân một cái, tựa hồ trách y thô lỗ.
Bấy giờ có rượu có thịt, có hoa có trăng. Được men say trợ hứng, ba người nói chuyện rất vui, càng nói càng thấy hợp.
Chỉ nghe quái nhân nói:
" Thí dụ như câu " nhất tướng công thành vạn cốt khô " trong binh pháp, vốn dĩ được dùng để nói cho người sau cái sự đáng sợ của chiến tranh.
Thế nhưng sau này đám tướng lĩnh bất nhân bất nghĩa, háo thắng lập công lấy câu này ra để bao biện cho việc giết dân lành, thí binh đổi tốt của mình. Ầy. Chúng nó cứ nghĩ mình trưởng thành, quyết đoán, nhưng thực chất là cái đám máu lạnh chả hơn chả kém. Thực đúng là làm người ta tức muốn phát điên, ngứa răng ngứa lợi lên được. "
Lê Hổ nghe thấy vậy, không khỏi gật gù.
Té ra cùng một câu của thánh hiền, kẻ có dạ tiểu nhân sẽ hiểu theo một cách, mà người có lòng quân tử sẽ hiểu theo kiểu khác. Tiếc thay sự đời vốn dĩ éo le, nhân sâm thì ít, rễ tre thì nhiều...
Nhưng buồn ở chỗ, thánh hiền chắc chắn không phải tiểu nhân.
" Thế thì câu " kẻ thức thời là trang tuấn kiệt " e là cũng bị đám tiểu nhân xuyên tạc đi mất rồi! "
Lê Hổ đánh vào đùi mình một cái, nghe đét một tiếng thật to.
" Chính thế! Con mẹ nó chứ! Cứ để cho cái đám sâu bọ mang đi khắp nơi khuyên người ta hàng, thành ra người đời lại hiểu sai. "
Ngọc Lữ tiếp:
" Thức thời, tức là biết thời thế, không phải sao? "
" Thời thế do trời tạo? Do đất làm?? Hay do nhân tâm mà sinh? "
Lê Hổ và quái nhân đồng thanh hỏi.
Trịnh Ngọc Lữ vốn rất thông minh, nghe hai người kia nói là hiểu ra ngay:
" Tức là biết mình phải làm gì, vào lúc nào, cũng chính là thức thời. Thiên thời, địa lợi là chuyện con người chẳng khống chế được. Chỉ có nhân hoà là có thể nắm trong tay, tự mình quyết định.
Nghe qua thì tưởng như thiếu, nhưng ngẫm lại thấy đã vừa đủ. Hay quá, hôm nay được nói chuyện với hai người, thực là mở rộng tầm mắt. "
Lại thấy hai người họ không để bụng chuyện mình là thân nữ nhi, bàn luận rất bình đẳng, trong lòng nàng cũng thầm lấy làm vui.
Lê Hổ nhìn sắc trời, nghe tiếng trống canh văng vẳng dồn đến từ xa.
Thế là đã qua canh ba.
" Trời cũng đã khuya, có lẽ cũng nên về rồi. "
Lê Hổ phủi quần áo đứng dậy.
" Ây, nói còn chưa sướng miệng, đúng là không sảng khoái gì cả. Sao lại hoãn cái sự... tặc... sung sướng đó lại cơ chứ. "
Quái nhân vừa chặt một cái, vừa lắc đầu tỏ ra tiếc rẻ.
Trịnh Ngọc Lữ cũng đứng dậy:
" Nếu hai người chưa muốn dừng thì cứ tiếp tục, đừng vì tôi mà làm mất nhã hứng. "
Lê Hổ khoát tay, nói:
" Không phải. Thực cũng chẳng dám giấu, ngày mai tôi có chút việc phải đi sớm, thành ra không tiện nán lại. "
Quái nhân nhún vai:
" Người ta không muốn nói chuyện thâu đêm rồi, chúng ta đi thôi. "
Nói rồi nhảy lên con trâu trắng, thúc vào bụng nó một cái.
Con trâu rống lên, sau đó lao đi. Bốn chân giộng xuống mặt đường những cú nặng tựa nghìn cân, nháy mắt đã mất dạng.
Lê Hổ đang định ngăn lại hỏi danh tánh người ta, mà chẳng còn kịp nữa, không khỏi thấy tiêng tiếc.
Sau đó cậu chia tay với Ngọc Lữ, ai về nhà nấy.
Sớm hôm sau...
Lê Hổ đang phẩm trà sáng, hầu chuyện u già, thì bỗng có kẻ dưới hớt hơ hớt hải chạy vào.
" Bà lớn... bà lớn... có chuyện rồi. "
" Trời chưa sập, cứ bình tĩnh. Nói đi, làm sao? "
" Có... có người... đánh đến cửa... hỏi... hỏi tội... "
Hạ nhân vừa đưa tay ôm ngực, vừa thở hổn hển ra chiều khó nhọc. Lê Hổ giờ đã không còn là đứa trẻ mới ra đời, tự nhiên là phát hiện y bị nội thương không nhẹ.
" Hỏi tội? Sao lại hỏi tội? "
" Bẩm... y nói... bà hối lộ... cho giặc. Thế nên... nên... không xứng đáng làm quân trưởng nữa. Hắn... hắn nói nếu bà không chịu kháng Minh, thì để hắn đến làm thay. "
Bà Trịnh Thị Ngọc Thương khẽ cười:
" Tên này cũng có khí phách đấy chứ. "
Lê Hổ thấy đại địch đánh đến cửa mà u vẫn bình chân như vại, không khỏi lấy làm lạ. Song, cậu chàng cũng không phải đứa trẻ con hiếu kì năm nào. U cậu tự biết cân nhắc lúc nào nên nói cho cậu.
" Đi. Chúng ta đi xem mặt vị hào kiệt này, để coi y có bản lĩnh gì mà đòi làm chức quân trưởng. "
U con Lê Hổ dìu nhau ra đến cửa phủ, phát hiện lúc bấy giờ tình hình đã loạn lắm rồi.
Gia nhân bị đánh ngã la liệt, nằm cả dưới đất. Trần Đĩnh đang giao thủ với kẻ địch, nhưng xem chừng cũng đã phải xuống chiếu dưới.
Lê Hổ nhíu mày.
Người đến hơn cậu chàng mấy tuổi, thân cao hơi gầy. Y vác theo một thanh trường thương có hai đầu, chính đang múa tít mù.
Chiêu số dùng thương của y rất đặc biệt. Lúc thì như cương trượng, khi thì như đại đao, lúc lại thành kiếm chiêu, thỉnh thoảng lại dùng như hoạ kích.
Nhìn ánh thương vũ lộng thành từng đoá hoa, rồi như cùng lúc diễn hoá thành mấy nhà trong thập bát ban võ khí liền, không khỏi khiến người ta ngợp cả mắt.
Đáng sợ nhất là chiêu số của hắn cực kì kín kẽ, dung hợp hết tinh hoa các nhà, bỏ hết nhược điểm, hầu như đạt đến trạng thái hoàn mĩ vô khuyết.
Lê Hổ còn phát hiện một điều nữa.
Đòn thế của hắn ác liệt mười phần, ngay cả hư chiêu đánh nhứ ra cũng tràn đầy sát khí, khiến người ta không biết đâu mà lần.
Trần Đĩnh thân làm tướng, cũng chưa gặp ai có khí sát lục nặng như người này. Chưa phân cao thấp, thì về thế y đã bị áp chế ba phần. Tên ốm o nọ quả thực như là ma thần bước ra từ địa ngục, tắm trong biển máu, ngủ trên núi xương.
Gã kia càng đánh càng thắng thế, đã lên tiếng giễu cợt:
" Giáo đầu của họ Lê mà cũng chỉ có thế, thì hãy bảo bà Thương mau chóng giao quan ấn ra đây! "
" Trịnh Thị Ngọc Thương ở đây. Không biết anh hùng phương nào hạ cố, rồng ghé nhà tôm!? "
" Gia chủ ra rồi sao? "
Kẻ gầy ốm cười vang, dậm chân xoay thương đánh ra một chiêu. Chiêu ấy đánh hất từ phía dưới lên, có đến bảy phần giống bổng pháp Bạch Đằng Giang.
Trần Đĩnh quả nhiên không biết đón đỡ ra sao, buộc phải nhảy lui để tránh.
" Ta nói cho bà biết, anh hào Lam Sơn còn nhiều, không phải ai cũng muốn luồn cúi tạm bợ mà sống dưới chân giặc tạo như bà, đất Lam Sơn cũng chẳng phải do một mình họ Lê của bà làm chủ. Nếu phải dung túng lũ cướp nước, Lê Sát này là người đầu tiên không đồng tình!! "
" Ra là Lê Sát. Cái tên rất đặc biệt. "
Bà Trịnh Thị Ngọc Thương gật đầu.
Kì thực bà rất thưởng thức tài năng của Lê Sát.
Ngay từ khi quyết định học theo họ Khúc lấy lui làm tiến, thư sức dân để lo đại sự, bà sớm đã tiên liệu được đám hào kiệt sẽ không phục.
Đã không phục, tất sẽ có phản kháng. Chín trăm năm Bắc thuộc, đạo lí này người nước Nam sớm đã thuộc nằm lòng.
Nhân tài, có cốt khí mới là nhân tài.
" Nhưng chỉ không biết Lê Sát ngài có bản lĩnh này không! Đinh Lễ!! "
Bà Thương nói, đầy bí ẩn.
Ù ù ù ù!
Lời vừa dứt, kình phong như núi sập đã quật vào mặt Lê Sát. Tóc và tà áo y theo đó mà bay phấp phới, áp lực bổ tới khiến y cơ hồ không hô hấp nổi.
Chỉ thấy một cây côn to như cây tre đực từ bên cạnh đánh úp lại. Côn sắt thế đại lực trầm, khi bay phát ra tiếng trầm đục rợn người, ước chừng nặng đến năm sáu mươi cân ta, tính ra là gần một trăm hai mươi cân Tàu.
Kẻ dùng được cây côn này làm binh khí, chỉ sợ là có thần lực hiếm có, so với Hồ Đỗ phải mạnh hơn ba bậc.
Lê Sát bị cây côn làm bất ngờ, nhưng không hề nao núng. Y múa thương, điểm liên tiếp vào thân gậy, dùng xảo kình từ từ chúc đầu cây côn xuống đất. Côn sắt này cực nặng, thế nên chỉ cần làm một đầu hơi trầm xuống, cả cây gậy lập tức cắm vào đất.
Ruỳnh!!
Thiết côn đâm xuống, khiến mặt đất rung rinh, lá rụng lả tả. Gạch ngói trên bờ rào thi nhau đổ vỡ. Quả thực là đáng sợ.
Ọoooooo!
Tiếng trâu ở đâu rú lên nghe inh tai nhức óc, sau đó có tiếng người la lên eo éo:
" Con trâu ngốc, ngu như bò!! Đã bảo đừng có át tiếng tao rồi!! "
Ruỳnh. Ruỳnh.
Mặt đường cũng rung chuyển theo từng bước chân của trâu thần. Đại Thắng Thần Ngưu dừng lại ngay trước mặt mọi người, bộ lông trắng phau không sợi tạp rung rinh theo gió.
" Y là Đinh Lễ!!! "
Thì ra... quái nhân mà Lê Hổ gặp lại chính là Đinh Lễ.
Chỉ thấy cậu thiếu niên nọ nhảy xuống khỏi lưng ngựa, đến rút phứt cây côn ngoại cỡ lên gác lên vai như gánh đòn gánh. Sau lưng trâu trắng còn quảy hai cái chum kiệu lớn, dùng một cây song xuyên qua.
Đinh Lễ hất hàm nhìn Lê Sát, nói:
" Bộ xương khô, ngươi liệu chịu nổi mấy côn của ta? "
" Mãng phu chỉ biết sức trâu, xem ta thu phục ngươi ra sao! "
" Chuyện đó để sau. "
Đinh Lễ nói, đoạn tháo hai cái chum kiệu đặt xuống đất, rồi quay sang chỗ bà Thương, vẫy tay:
" Có hai vò nước mắm, con mang đến biếu bà. "
Nói rồi nhìn về phía Lê Sát, mặt đầy vẻ thách thức. Đoạn, Đinh Lễ nắm tay vào vách chum, quát một tiếng:
" Lên! "
Kịch!
Chum kiệu nặng mấy chục cân chứa đầy nước mắm cứ thế bắn lên không trung mấy trượng. Đinh Lễ ghé vai, kịch một cái, chum kiệu rơi xuống yên vị để cậu khiêng, vẻ mặt hết sức nhẹ nhàng.
Nói đoạn, Đinh Lễ nhảy một cái, đạp lên đầu tường mà vào nhà.
Lê Sát bị thách thức, máu háo thắng nổi lên, bèn quát:
" Sợ ngươi chắc. "
Nói đoạn lộn một vòng, đã đến bên chum mắm. Y không có thần lực vô song như Đinh Lễ, chỉ có thể dùng trí.
Y lấy song đầu thương ghé vào dưới đáy chum, lấy đầu gối làm đòn bẩy, dùng sức nhấn một cái.
Chum mắm cũng bay lên một đoạn.
Lê Sát không dám lãng phí thời gian, lấy chân đá vào đáy chum hất nó bay lên. Sau đó chống thương lấy đà, tung người nhảy theo sau. Y cứ vừa bay vừa tung chân đá vào đáy chum, mỗi cước lại khiến nó văng lên không thêm một đoạn.
Mọi người ngước mắt trầm trồ, nói đoạn đều rút cả vào trong nhà chờ xem hai người quyết đấu.
" Nhãi ranh vô tri, tiếp chiêu! "
Đạp ba bốn phát, thì đã đến đầu tường. Lê Sát quát to, rung tay nhấn một cái, chum mắm kiệu đã từ trên không đánh úp xuống đầu Đinh Lễ.
Đinh Lễ cười lạnh, chân móc ngược lên trúng vào đáy chum. Theo lí mà nói, sức lực của hai người đều rất lớn. Một từ trên úp xuống như mãnh hổ hạ sơn, một từ dưới đánh lên như giao long xuất động. Nếu va chạm xung kích, thì ắt chum lớn phải tan vỡ mới là lẽ thường.
Thế nhưng, không như người khác, Lê Hổ thì biết Đinh Lễ không phải kẻ lỗ mãng tầm thường đầu óc ngu si tứ chi phát triển. Trái lại, y là kẻ trong thô có tế, biến tiến biết lùi.
Quả nhiên Đinh Lễ chợt vặn eo, hoá cương lực thành xảo kình tiếp lấy chum mắm từ trên giáng xuống. Chỉ nghe kịch một tiếng, chum mắm dừng giữa không trung, còn dòng nước đậm đà màu cánh gián hơi sánh ra, văng trúng vạt áo Lê Sát. Mùi hăng của nước mắm khiến y rất khó chịu, bèn buông tay nhảy xuống.
Đinh Lễ từ từ hạ chum mắm xuống, cười khì.
Trước là Đinh Lễ dùng cương, Lê Sát dùng nhu khắc chế, theo quy củ thì Lê Sát đã thắng nửa chiêu. Bây giờ đổi lại vị trí cho nhau, Đinh Lễ lại thắng nửa chiêu.
" Thú vị lắm! Tới đây!! "
Đinh Lễ cười ha ha, vác côn xông tới quất vào Lê Sát.
Đúng là
Trên lưỡi đao nhận thức anh hùng
Dưới mũi kiếm hoá thù thành bạn.
Bấy giờ tiết trời đã từ hạ chuyển sang thu, tiết trung thu qua chưa được mấy bữa. Bên con đường làng lơ thơ hương lúa mới gặt, bấy giờ chỉ còn gốc rạ. Lá vàng rơi xuống mặt ao, khung cảnh đầy thi vị.
Một đoàn người độ trên dưới năm mươi dẫn theo một trăm con lừa khoẻ, thồ từng bao từng bao lương thực đi dọc theo con đường núi. Thóc mới thu hoạch từ vụ mùa tháng tư, đã đãi sạch trấu, cách một lớp vải vẫn có thể ngửi thấy mùi gạo mới thoang thoảng.
Lê Hổ ngồi trên lưng con la, tay cầm quyển binh thư chăm chú đọc. Nhớ hồi tháng sáu vừa qua quân của nhà Hậu Trần tiến ra chiếm Nghệ An. Sau Trần Ngỗi lại để Đặng Tất dẫn đại binh đánh Tân Bình.
Tân Bình bấy giờ do Phạm Thế Căng quản hạt. Y vốn là hàng tướng theo hàng Trương Phụ, được y giao cho làm tri phủ ở đây. Căng được quyền có thế đâm ra kiêu, nhân lúc Trương Mộc về nước, binh hoang mã loạn bèn chiếm núi An Lại tự phong làm Duệ Vũ đại vương.
Cứ như người ta đồn rằng Giản Định đế đã phái người đến chiêu an, cùng họp sức đánh đuổi quân Minh. Nhưng Thế Căng chẳng những xé thư, còn chém sứ giả. Trần Ngỗi mới cất quân tiến đánh.
Tin đồn này rốt cuộc có bao nhiêu phần là thật, bao nhiêu phần là giả, Lê Hổ không biết. Cậu chàng chỉ biết là sau khi Phạm Thế Căng và cháu bị bắt, quân Hậu Trần đã có một dải lãnh thổ rộng lớn. Nam ở mãi mạn Lệ Thuỷ Quảng Bình bây giờ, phía bắc thì đã rục rịch đánh đến Bình Than, Hàm Tử và ngoại vi Đông Quan.
Tiếng lành theo đó đồn xa, bấy giờ dân Nam mười người thì có năm sáu đã nghe tiếng Trần Ngỗi. Rồi chuyện y bị đuổi giết vì là con cháu họ Trần thế nào, quân Minh lật lọng ra sao cũng dần lan toả trong dân gian.
Dân chúng nhiều nơi vốn đã bất bình vì thuế sưu lao dịch, được nhân sĩ giang hồ kích động, nên nổi dậy quy tụ dưới trướng Giản Định rất đông. Thanh thế nghĩa quân lên nhanh như diều gặp gió.
Bà Thương tuy thấy nghĩa quân thắng liên tiếp mấy trận như chẻ tre, song chưa vội phát binh ủng hộ ra mặt. Bất kể Lê Sát cứ ra ra vào vào cửa phủ đòi xuất chinh mỗi ngày, bà vẫn đợi đến vụ lúa, cho thu hoạch xong xuôi đâu đấy, rồi mới bảo Lê Hổ theo đường núi mang mấy trăm thạch gạo trắng đến ủng hộ nghĩa quân. Còn nghĩa binh ở Lam Sơn thì vẫn án binh bất động.
Lê Sát trong bụng không vui vẻ gì, thấy có cơ hội tìm đến nghĩa quân bèn giơ tay xung phong lãnh trách nhiệm áp tải lương thực.
Bà Thương mới nói:
" Cậu không phải gia tướng của nhà họ Lê, đi lúc nào mà chẳng được?? "
Không đánh không quen nhau. Anh hùng biết anh hùng, chỉ sau mấy ngày, Lê Sát đã thấy rất hợp cạ với Đinh Lễ. Mà Lễ thì bảo sao cũng không chịu xuất chinh. Y khuyên không được, bấy lâu nay vẫn bụng bảo dạ tự hỏi chẳng lẽ mình nhìn nhầm?
Lê Sát lại nghĩ:
[ Luận về lược thao võ nghệ mình hơn hẳn, nhưng nội chính thì mấy tháng nay mình đã nhìn thấy nhiều, tự nhận không bằng một góc của bà ta. Liệu có phải bà ta có dụng ý khác? ]
Nghĩ thông suốt, y cũng không hỏi nhiều nữa.
Bà Thương phái Đinh Lễ đi theo hộ tống đoàn lương thực, Lê Sát cũng không nói một câu nào cả.
Trở lại với đoàn binh tải lương...
Lê Hổ ngồi trên con ngựa đốm, điều động mọi người làm việc. Vì tránh tai mắt quân Minh và bè lũ hàng tướng, nên đoàn lừa phải đi trong núi rừng, đường xá gập ghềnh, cây cối lô nhô rất khó đi.
Đinh Lễ đang nằm khểnh, chân vắt chữ ngũ trên lưng Đại Thắng Thần Ngưu thì chợt nhỏm dậy, chép miệng:
" Xem ra phải mua đường. "
Lê Hổ còn chưa kịp lên tiếng hỏi, thì đã có tiếng hô hào inh ỏi:
" Giết!! Giếttttt!! "
Trong rừng bỗng có một đám người túa ra, đuốc ở tay cháy sáng, rọi lên bộ dáng tức cười của họ. Người nào người nấy mình mặc áo vải, đầu chít khăn, quần thì ống cao ống thấp. Vũ khí trên tay không đồng nhất tí nào. Dao có, rựa có, cuốc thuổng có, gậy gộc có, tre vót nhọn một đầu làm giáo cũng có luôn.
Đinh Lễ cười nhạt, thúc vào bụng trâu một cái. Đại Thắng Thần Ngưu rống lên, lừng lững bước về phía cường đạo. Bước chân của nó chẳng lấy gì làm nhanh, nhưng từng bước từng bước đều nặng đến ngàn cân. Dẫm lên mặt đất, cơ hồ khiến rễ cây xung quanh bật gốc. Đoàn la của Lê Hổ còn phải run rẩy nằm bẹp xuống, nữa là con người.
Thần ngưu hiển uy, đám cường đạo chưa kịp làm nên trò trống gì đã ngã lăn quay cả.
Đinh Lễ lại vung gậy, gõ mạnh một cái xuống khiến nền rừng nổ ra một cái hố sâu bằng quả bưởi.
Một người, một trâu đều triển lộ bản lĩnh, đám người kia buông hết cả vũ khí quỳ mọp xuống đất xin tha.
Những người này không có kinh nghiệm đi cướp, kẻ đần cũng đoán được chắc chắn họ là dân phu phen chạy trốn, hoặc là cùng quẫn rời quê tha hương cầu thực. Nhưng cái thời buổi này, nhà khá khẩm còn chẳng mấy người đủ gạo ăn, đâu có dư tài dư của mà cưu mang người khác? Cùng quẫn, cả bọn mới rủ nhau lên núi làm cướp.
Lê Hổ nghe mọi người kể xong, bèn phát gạo cho ăn, dặn rằng:
" Sức khoẻ dẻo dai, sao lại tự đánh dân mình như thế? Ở phía nam cách đây không xa có thành Tràng An. Giản Định đế đang tạm đóng ở đấy mấy ngày chỉnh đốn quân ngũ, chờ ngày tấn công ra bắc đánh đuổi giặc. Bây giờ đang là lúc cần người. Chi bằng mọi người dùng sức dài vai rộng đuổi ngoại xâm, chém phản trắc chẳng sảng khoái hơn sao? Nếu các người muốn theo nghĩa quân, ta sẽ dẫn đến gặp. "
Dân cày bị quân Minh dồn đến nỗi tha hương tứ xứ, đã đến cảnh sơn cùng thuỷ tận, mới chó cùng dứt dậu đi làm cướp. Nay nghe có người dám đứng lên chống giặc, lòng như mở cờ. Một người đầu lĩnh mới đứng ra hỏi:
" Sau khi đuổi giặc, có về được làng cũ không? "
Lê Hổ bèn cười:
" Xua giặc ra ngoài biên ải, thì sẽ thái bình. Lúc đó đi đâu mà không được? "
Mọi người nghĩ một lúc, rồi đồng thanh:
" Thế thì đi gia nhập quân của Giản Định đế đi bà con ơi. "
Mọi người rồng rắn theo đoàn xe tải lương, tìm về đất Tràng An. Đường núi vốn khó đi, giờ có thêm đoàn nạn dân mới gia nhập, mất chừng năm sáu ngày đường mới tới nơi.
Lê Hổ dõi mắt theo dải tường thành quanh co ôm lấy dãy núi xanh rờn, in bóng hình xuống dòng sông Hoàng Long uốn lượn, trong lòng không khỏi nhớ lại chuyện cũ. Tháng mười năm trước, Giản Định xưng đế ở Mô Độ, còn cậu thì đến nơi này du ngoạn, còn gặp được Trần Đĩnh. Vậy mà chớp mắt, gần một năm đã trôi qua.
" Này! Ai đến đấy? "
Đi đến dưới chân thành, thì thấy có một tên lính đứng trên chòi canh cầm giáo dài lên tiếng quát. Y lườm Lê Hổ một cái, cằm huớng lên ra chiều hống hách lắm.
Lê Hổ chắp tay, nói:
" Tôi là Lê Hổ, người Lam Sơn. Xin anh vào báo với bệ hạ một tiếng, rằng có bạn cũ y hẹn đến góp một chút quân lương. "
" Vậy thì chờ cho một lát. "
Tên lính nói vọng xuống, đoạn biến mất khỏi đầu thành.
Đinh Lễ khịt mũi, vỗ vào lưng trâu, nói:
" Quá vô lễ. Này, tao với mày húc thủng tường thành cho y tức chơi một phen không? "
Đại Thắng Thần Ngưu kêu ọoooo, đầu hất lên, nhại theo dáng vẻ của tên lính gác. Lê Hổ biết hai đứa này cái gì cũng dám làm, vội vàng xua tay can.
Qua thời gian uống hết chung trà, cổng thành mở toang.
" Ha ha. Lần trước ở sông Vân không kịp chào từ biệt. Hổ vẫn khỏe chứ? "
Trần Ngỗi bước từng bước dài về phía cậu, oai nghiêm nhưng vẫn không mất phong độ của kẻ cầm đầu. Y giang rộng hai tay, vỗ vai Lê Hổ mấy cái liền.
" Nhờ phúc của bệ hạ, Hổ không có bề gì. "
" Sao nói thế được? Nếu hôm ấy không có cậu và thuộc hạ liều mạng hộ giá, e là ta không có ngày hôm nay. Mau. Mau vào đây. "
Giản Định đế dẫn Lê Hổ vào, tiếp nhận hết lương thảo và nạn dân, sau đó phong cho cậu chàng chức Kim Ngô tướng quân. Lê Hổ gật đầu cảm tạ, sau đó lui về nơi ở tạm.
Đinh Lễ bực bội nói:
" Xem chừng phải ở đây mấy ngày. "
" Đúng vậy. Thật là không may. "
Lê Hổ gật đầu thở dài một tiếng, có cùng ý nghĩ với Lễ.
Cậu vừa được phong tướng, xin về Lam Sơn ngay thì thực là không nể mặt Giản Định đế tí nào.
Huống hồ tin ấy chẳng phải bí mật quân cơ gì, trên đường về Lê Hổ đã nghe người ta bàn tán mãi.
Minh thành tổ hay tin Trần Ngỗi xưng đế ở Mô Độ, xua binh đánh quân Minh, bèn phong Mộc Thạnh làm chinh di đại tướng quân, đem đại binh từ Vân Nam sang bình định Giao Chỉ.
Đặng Tất hay tin, lập tức cho quân ngày đêm thao binh luyện mã, bó cỏ tích lương chờ quân của Thạnh. Đến nay cũng đã được ngót ba bốn ngày rồi.
" Mấy vạn binh mã không hề gì cả, đáng sợ là họ Mộc. Hắn là hãn tướng từng đánh bại quân Hồ, kiêu dũng thiện chiến lại lắm mưu, là một đối thủ khó nhằn. "
Lê Hổ chậm rãi.
Người ngoài có thể không biết, nghĩ Thạnh giống Hồ Đỗ chỉ có sức trâu, đầu óc u tối. Chỉ có người từng ra vào doanh trại quân Minh như Quận Gió mới biết, thực ra sách lược hành quân bảy phần do Mộc Thạnh đề ra. Trương Phụ cũng là tướng giỏi, nhưng lão hơi nhỉnh hơn Thạnh trong chuyện việc đối nhân xử thế, đoán biết nhân tâm.
Thành thử tạo nên hai phong cách đánh trận trái ngược. Mộc Thạnh thường chiếm lấy thế chủ động, khiến đối phương không kịp trở tay. Trương Phụ thì thường ở vào thế phản công. Y tiên liệu trước đường đi nước bước của địch, chuẩn bị sẵn kế sách ứng phó.
Lê Hổ nghĩ thầm:
[ Cũng may ngày trước ở Tây Đô Quận Gió từng nói cho mình bí mật này. ]
Vua trộm cũng dặn, sau này nếu có bậc nhân nghĩa phải đối phó với quân Minh, thì hãy kể bí mật này cho họ nghe.
Sáng hôm sau Lê Hổ đến tìm Trần Ngỗi, kể chuyện này ra, lại bảo y đề phòng cẩn thận. Bấy giờ Đặng Tất lo chăm công nghìn việc, trong điện chỉ còn Nguyễn Cảnh Chân đứng mé hữu của Trần Ngỗi. Số còn lại đều là quan tướng mới chiêu mộ, Lê Hổ chẳng biết một ai.
Nghe cậu kể xong, văn võ bá quan đều chê là chưa hiểu chuyện.
" Chưa ra sa trường bao giờ, thấy ai mà chả coi là tướng giỏi, hiểm nham... "
" Ài, nếu cứ vác đao sẽ thành Quan công, cứ xách kích sẽ thành Lã Bố thì trong thiên hạ còn ai là kẻ tầm thường? "
Lê Hổ không để tâm tới những tiếng cười nhạo của bọn họ.
Giản Định mới cười, nói:
" Cậu có điều không biết, thám tử hồi báo thì Thạnh trúng một rìu của Hồ Đỗ, bị chặt đứt một cánh tay khiến chiến lực giảm mạnh. Thế nên ngay cả khi hắn có thành thạo mưu lược như cậu nói cũng không hề gì cả. "
Nguyễn Cảnh Chân bèn khuyên:
" Cẩn tắc vô áy náy. Nghĩa quân giờ đã khác xưa, song cũng chớ nên khinh địch. "
Giản Định bèn xua tay:
" Đạo quân bắc tiến do con trai của khanh, và con trai của Đặng đại nhân cầm đầu. Lẽ nào khanh không tin tưởng con mình? "
Nguyễn Cảnh Chân thở dài.
Đặng Dung – con của Đặng Tất và con ông Nguyễn Cảnh Dị đều có thể coi là tướng tài. Nhưng kinh nghiệm còn non, không biết có chống đỡ được tên sói già Mộc Thạnh hay không.
Ba ngày sau...
Quả như y sợ.
Khoái mã truyền tin về, rằng quân Hậu Trần đóng ở Tam Giang và những vùng chung quanh Đông Quan đã bị Mộc Thạnh quét sạch. Tàn binh tứ tán khắp nơi như kiến vỡ tổ, không được mấy người về đến Thanh Nghệ.
" Thế còn hai vị tướng quân? "
Trần Ngỗi cũng phải bật nhổm dậy khỏi ghế, sắc mặt lo lắng.
" Bẩm bệ hạ. Hai vị tướng quân Đặng, Nguyễn vẫn chưa có tung tích gì. Chỉ e... "
Gã kia ngập ngừng, rồi gúi gằm mặt xuống điện.
" Đúng! Đúng rồi! Mau... mau cho truyền Hoàng đảo chủ! "
Bấy giờ Trần Ngỗi mới sực nhớ đến người đã đưa y đến gặp Đặng Tất, Cảnh Chân. Y nghĩ với võ công của vị đảo chủ này, giải cứu hai người Đặng Dung, Cảnh Dị chắc không phải vấn đề.
Thị vệ dạ ran một tiếng, lóc cóc đi ra ngoài.
Trong điện bàn tán lao xao, duy có Nguyễn Cảnh Chân là trầm mặc không nói lấy một lời. Văn võ bá quan thấy y trầm ổn như bức tượng, con trai bặt vô âm tín cũng không hề nao núng, không khỏi vừa nể vừa sợ.
Chỉ có Nguyễn Cảnh Chân là mãi loay hoay với ý nghĩ:
[ Nếu thằng Dị bị bắt thì phải làm sao?? Nếu trận tới chúng lấy nó làm con tin thì phải đánh thế nào để vẹn cả đôi đường? Vạn nhất chỉ có thể chọn một, thì nên bỏ bên nào buông bên nào? ]
Hổ dữ không ăn thịt con, còn con người thì sao???
Than ôi sao mà so sánh cho nổi? Con hổ nó có phải gánh vác trọng trách cứu nước, giúp dân như con người đâu? Con hổ nó chỉ biết đến nó, đâu có giống con người ngoài tính vị kỷ còn có cả tính vị tha? Bản chất đã khác, đành đồng sao cho nổi?
Thế rốt cuộc bên nào nặng? Bên nào nhẹ?? Người ngoài cuộc hẳn sẽ nói: " vì nghĩa quên thân ". Nghe thì hay lắm... nhưng phải đến lúc đứng trong hoàn cảnh ấy mới thấy một chữ " vị tha " khó như thế nào.
Cuối cùng vẫn phải xem vào một chữ tâm.
Cách đại điện không xa, có ba gian nhà gỗ nằm giữa rừng tre um tùm.
Bấy giờ có một nam một nữ, trông đã có vẻ luống tuổi, ngồi trước hiên nhà. Nam thổi sáo, nữ gảy đàn, có vẻ thanh bình lạ thường.
Tựa vào gốc cây là một trung niên. Mái tóc y chỗ bạc chỗ đen, hai mai tóc thật dài chấm vào hộ vai đầu cá. Ăn diện cái kiểu văn không ra văn, võ chẳng ra võ này, ngoại trừ Hoàng đảo chủ ra thì còn ai nữa?
Đảo chủ nhắm mắt, tai lắng nghe điệu hoà tấu, trên gương mặt khi thì bình thản, lúc thì nhăn lại vẻ sầu đau.
Đôi vợ chồng vẫn đàn sáo như không ngó ngàng đến y.
Lạ thay. Hai người đều không biết võ công, đảo chủ chỉ cần hơi nổi giận, ắt sẽ lấy được mạng cả hai. Nhưng y không hề động thủ.
Hai người cũng chẳng động dung.
Tin tức tựa sét đánh Hoàng đảo chủ truyền tới... với họ cũng như gió thoảng.
Rốt cuộc.
Đảo chủ gầm lên một tiếng, thanh âm hung hãn như sóng thần quất vào bờ đá. Chỉ nghe tạch một tiếng, dây đàn bầu đã đứt lìa, còn ống sáo cũng vỡ toè cả một đầu.
Thế rồi y thẫn thờ cả người, ngồi sụp xuống...
" Ta thực sự không hiểu. "
Thấy y cứ mãi lẩm bẩm, người nam bèn tiến tới, kéo dậy.
" Tấm lòng của hai người dành cho nhau, họ Hoàng này sớm đã hiểu. Nhưng cái ta không hiểu, là sự tin tưởng đó... Mù quáng như vậy ư? "
Nói rồi nhìn sang phía người nữ.
Câu nói của y không đầu, không cuối, người ngoài chẳng thể hiểu nổi. Y cũng không có ý định để ai, ngoại trừ đôi vợ chồng kia, nghe hiểu.
Người phụ nữ mới đứng dậy, nhẹ giọng:
" Quả thực, nếu chỉ có mình anh Tất, thiếp đây cũng không dám tin vào chuyện đứa con còn mạng về gặp mẹ nó. Nhưng có anh thì khác. "
Hoàng đảo chủ cười.
Cười rất thê lương.
Đặng Tất cũng thở dài, khuyên:
" Anh Hoá. Em nói thật. Với tài năng nhân phẩm của anh, kiếm một cô gái tốt không khó. Sao cứ phải làm khổ mình? "
Suốt nhiều năm y đã khuyên Hoàng Thiên Hoá – đảo chủ đảo Bạch Long – rất nhiều lần. Nhưng y chẳng hề lung lay.
Hoàng đảo chủ nói:
" Cô ấy với cậu ra sao, với tôi cũng như vậy. Chẳng lẽ cậu còn không hiểu? "
Đặng Tất thở dài:
" Đúng. Em lại nói sai. Dù ngoài kia có mấy trăm, mấy ngàn tài nữ tốt hơn xếp hàng... em cũng không chọn ai khác. "
Hoàng Thiên Hoá phủi áo đứng dậy, gác gươm lên vai, nói vọng ra sau:
" Sư muội, đệ muội... hai người cứ yên tâm. Chuyện của thằng nhỏ để đó ta lo. "
Y không ngoái đầu, thoắt cái đã biến mất nơi hàng rào. Cổng còn chưa kịp đóng, cứ lung la lung lay, cót ca cót két mãi thôi.
Ba người đều hiểu vì sao y không ngoái đầu lại.
Đặng Tất quay sang, vỗ vai vợ, nhủ:
" Muốn khóc thì cứ khóc đi. "
Bà Phạm Kim Chi không nín nổi nữa, tiếng nấc ứ nghẹn ở cổ bật ra thành tiếng khóc:
" Mình ơi. Em cứ có cảm giác chúng ta lợi dụng tình cảm của sư huynh, mấy năm nay chẳng thể nào yên. "
" Aizz... Thật không ngờ. Vì một chữ tình, đại sư huynh văn võ toàn tài lại bị đuổi cổ khỏi môn phái. Cũng lại vì chữ tình? kẻ bị trục xuất khỏi sư môn lại là người chưa từng từ bỏ hi vọng tìm kiếm sư phụ suốt hai mươi năm. Ôi... anh Hoá chẳng phải si tình, mà là điên vì tình rồi. "
Nói rồi Đặng Tất lại nhìn vợ một cái, hỏi khẽ:
" Nếu năm đó không phải vì lời thề với cha, liệu em có đến với anh Hoá?! "
Bà Phạm Kim Chi nhắm mắt, từ từ thuật lại chuyện quá khứ.
Năm đó, cha bà, cũng là sư phụ của Hoàng đảo chủ: một trong hai võ lâm chí tôn thời bấy giờ là Hoả Công đã bắt con gái thề rằng không bao giờ được đến với thứ phản đồ Hoàng Thiên Hoá.
Nguyên nhân? Hoàng Thiên Hoá và Phạm Kim Chi từng không giữ lễ, ăn cơm trước kẻng với nhau.
Hoàng đảo chủ vốn là người cao ngạo. Ông ta thề sẽ tự thành một phái, dùng võ công chính mình tự sáng tạo ra đánh bại sư phụ để ông rút lại lời thề, rồi đường đường rước Phạm Kim Chi về làm vợ.
Thế nhưng lời hứa chưa kịp hoàn thành, Hoả Công mất tích. Đến giờ đã hai mươi mấy năm.
Đệ tử trong môn phái tứ tán khắp nơi, ai cũng tự xưng là được trân chuyền của Hoả Công. Thế rồi đánh lẫn nhau, đánh cả với đồ đệ của Băng Bà.
Bản thân Phạm Kim Chi vì tìm cha cũng bị cuốn vào tranh đấu chốn giang hồ, suýt nữa thì mất mạng. Sau cùng mới được Đặng Tất cứu sống, trao thân gửi phận.
Đêm hai người nên vợ nên chồng, Hoàng Thiên Hoá tìm tới, bàn tay đầy máu. Té ra y đã thay sư phụ giết hết lũ lấy danh nghĩa của Hoả Công làm những chuyện thương thiên hại lí.
Thật nực cười. Kẻ bị trục xuất khỏi sư môn, tự thề sẽ đánh bại sư phụ mình, hoá ra lại luôn là người kính trọng ông nhất.
Y chứng kiến tất cả.
Rèm hoa, pháo trúc, mâm cỗ gia tiên... từng thứ từng thứ đều như dao đâm vào lòng, cứa vào tim.
Nổi điên, Hoàng Thiên Hoá bèn cười nhạo. Rằng Đặng Tất có mắt như mù, lấy người đàn bà đã trao thân cho y. Phạm Kim Chi nổi giận bật khóc, gương mặt trắng bệt đi. Hoàng Thiên Hoá như kẻ vô cảm, chẳng thèm nhìn nàng ta lấy một cái.
Lúc ấy Đặng Tất mới lên tiếng:
" Tôi kính anh là sư huynh của Kim Chi, mới nhịn anh mang đôi tay đầy máu vào tân phòng hô hô hoán hoán không đuổi khách. Giờ thì mời anh cút, chuyện của vợ chồng tôi chẳng cần anh lo? "
" Ngươi không để ý? "
Hoàng Thiên Hoá nhấn từng chữ. Giọng y đã run lên từng cơn.
" Đặng Tất này chẳng phải thứ hủ Nho! Người tôi cưới là cô ấy, vì chúng tôi hợp bụng hợp dạ, chẳng phải vì vệt máu đào ấy đâu! "
Phạm Kim Chi tưởng y sẽ nổi xung thiên, bèn đứng ra chắn cho chồng. Nàng ta biết sư huynh vốn là người nóng nảy, cao ngạo. Chuyện hôm nay đối với y mà nói, chẳng khác nào cái tát vào mặt.
Hoàng Thiên Hoá thấy nàng ta che cho Đặng Tất, sát ý tiêu tan, chỉ có ruột gan là quặn đau từng cơn từng cơn một. Y thở dài:
" Mừng cho em lấy được tấm chồng tử tế. Quà cưới ta sẽ gửi sau. "
Chuyện cũ kết thúc theo bóng lưng xa dần của Hoàng Thiên Hoá.
Bà Phạm Kim Chi kể lại mọi chuyện một lần, rồi thở dài:
" Lời cha dặn chẳng dám không tuân. Huống hồ anh Hoá là người cố chấp, chưa thể tự bắt ông rút lại lời thề sẽ không chịu thành gia thất. Đời người con gái được mấy lần hai mươi kia chứ? Lại nói, đổi lại vị trí của hai người, chắc chắn mình cũng sẽ làm thế thôi. "
Đặng Tất siết chặt tay.
Tin mà Hoàng Thiên Hoá mang đến chính là: " Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị đã bị Mộc Thạnh tóm được. Y đang tiến quân tới bến Bô Cô, muốn vượt sông đánh sâu vào Thanh Nghệ. "
Hay tin, Trần Ngỗi cho kéo quân năm trấn từ Thanh Hoá trải vào Thuận Hoá ra nghênh địch. Sĩ tốt ngồi trên thuyền con đi dọc theo bờ biển, không phải trèo đèo lội suối nên chỉ mấy ngày là đã hội họp với chủ lực ở Tràng An. Số lượng đếm sơ sơ cũng đông đến năm sáu vạn.
Trong đó không thiếu hào kiệt các nơi hưởng ứng.
Nhân sĩ võ lâm các trấn thấy Trương – Mộc lật lọng không chịu thừa nhận Giản Định là tông thất nhà Trần, khăng khăng đổi Đại Việt trở về thành quận huyện như thời bắc thuộc thì tức lắm. Bấy giờ mới thấy hối hận tại sao hồi đó lại phù Minh diệt Hồ.
Nhưng lúc này Thiên Cơ lão đạo đã biến mất, sơn trang Bách Điểu thì đóng chặt cửa không tiếp khách, quần hào càng thêm phẫn uất.
Lại được tin Hoàng đảo chủ đứng ra kêu gọi mọi người giúp hậu Trần đánh Minh trả thù, nên người ta theo đông lắm.
Giản Định đế tự mình xuất chinh, cho Đặng Tất làm chủ soái cầm đầu đại quân, Nguyễn Cảnh Chân thì ở lại giữ đầu não phía nam đề phòng quân Ai Lao, Chiêm Thành thừa cơ làm loạn.
Đặng Tất bèn chỉ lên bản đồ, nói:
" Trận Bô Cô này muốn thắng được, ắt phải chiếm được địa lợi là núi Dục Thuý. Chốn này có thể bao quát chiến trường mấy chục dặm, hơn nữa đường núi gập ghềnh. Muốn công phá khó hơn lên trời. "
" Thế thì phải làm sao? "
Trần Ngỗi nhíu mày.
Đây quả thực là điều đáng lo.
Nếu để quân Minh chiếm được bờ nam của sông, lấy được núi Dục Thuý, thì doanh trại của họ sẽ được thế nhìn sông dựa núi trong binh pháp. Sau lưng lại còn có thành Cổ Lộng, tiếp ứng được cho nhau. Đồng nghĩa với việc Mộc Thạnh sẽ có thể đánh sâu vào Thanh Nghệ với thế như chẻ tre quét lá, khó bề ngăn cản.
Cũng đồng nghĩa, muốn cản bước Mộc Thạnh, phe Hậu Trần buộc phải chiếm trước tiên cơ, lấy cho kì được núi Dục Thuý.
Nhưng nói thì dễ, làm mới khó.
Đặng Tất lại nói:
" Mộc Thạnh ắt cũng đã biết chuyện này. Dưới trướng lão từng có một đội thiết kị tinh nhuệ. Tuy đã bị Hồ Nguyên Trừng phá tan, song cũng chứng tỏ Thạnh là kẻ biết dùng kị binh. Lão ta ắt sẽ cho thiết kị dùng chiến mã tìm tới Bô Cô, vượt sông lên núi trước chúng ta. "
Y vốn là quan cũ của nhà Hồ. Chuyện quân tình cơ mật kháng Minh năm xưa, Đặng Tất cũng có biết.
Trần Ngỗi nghe xong không khỏi trầm mặc:
" Ngựa quân giặc nhanh, khoẻ hơn ngựa ta một bậc, phải làm sao mới ngăn nổi bọn kị binh này? "
Đặng Tất thở dài:
" Đây cũng là chuyện mà thần đang băn khoăn mãi. Cách khả thi nhất là gửi bồ câu nhờ người Ai Lao một chuyến, hứa hẹn nhiều chỗ tốt cho họ. "
" Người Ai Lao? Ai biết chúng có phản phúc hay không. Khéo lại nhận lợi lộc của Mộc Thạnh rồi ấy chứ. "
Lúc bấy giờ lại có người lên tiếng phản bác.
Đặng Tất nhíu mày, chỉ thấy ấy là một gã thư sinh mặt mũi trắng trẻo, lông mày sắc như lưỡi đao, môi mỏng như hai lá liễu.
" Không biết Mộng Trang có sách hay kế giỏi gì, sao cứ phải bàn lui như thế? "
Chỉ nghe gã kia nói rất nhẹ, như gió đêm luồn vào xương sống kẻ khác:
" Muôn tâu, trong quân có vị Kim Ngô tướng quân người Lam Sơn. Y có thể ngăn địch. "
" Chuyện này... "
Trần Ngỗi mở miệng muốn nói gì đó, nhưng đã bị Nguyễn Mộng Trang cắt ngang.
" Bệ hạ, thần xin lấy đầu mình ra đảm bảo, tiểu tướng ấy sẽ ngăn được cơn nước lửa. "
Đặng Tất quát:
" Một cái đầu của nhà ngươi đáng bao nhiêu? Ngộ nhỡ quân Minh đánh phá được Bô Cô, tiến thẳng vào Thanh Nghệ, chiếm phăng Hoá Châu thì sao? Một cái đầu của ngươi đáng bao nhiêu chứ? "
Thư sinh nọ bèn cười khẩy.
Nét cười của y khiến người ta bất an.
Gió đêm âm u ngoài lều đang thổi.
" Thế ngài đánh cược với tôi chứ, ngài Đặng Tất? "
" Đánh cược thế nào??? "
Đặng Tất mím môi, gằn.
Nguyễn Mộng Trang thản nhiên tiếp:
" Rất đơn giản. Ngài gửi thư cho Ai Lao của ngài, ta nhờ tiểu tướng của ta. Nếu như quân Ai Lao cản bước thiết kị, đầu của ta sẽ để lại đây. Ngược bằng nếu tiểu tướng nọ may mắn, còn quân Ai Lao lại phản trắc thì sao? "
" Thì đầu của Đặng Tất này xin rơi xuống đất! "
Đặng Tất rũ cánh tay, nói.
" Không dám. "
Nguyễn Mộng Trang cúi đầu, điệu cười trên môi vẫn âm lãnh như cũ.
Thoạt nhìn, điều kiện của y rất có lợi cho Đặng Tất. Vừa phải chiếm trước một bước đến Bô Cô hãn, vừa phải đảm bảo quân Ai Lao sẽ phản bội lúc khẩn yếu. Đúng là đã khó càng thêm khó.
Thế nhưng mọi người đâu có ngờ, tiểu tướng mà Nguyễn Mộng Trang nói đến không phải Lê Hổ mà chính là Đinh Lễ. Cậu có con Đại Thắng Thần Ngưu ngày đi ngàn dặm, thế nên một nửa điều kiện coi như đã thành. Đáng thương cho Đặng Tất, bản thân dẫm một chân vào quan tài mất rồi vẫn không hay biết!
Vì sao Nguyễn Mộng Trang phải đẩy Đặng Tất vào chỗ chết? Làm thế y được gì?
Chẳng ai biết.
Đôi khi kẻ hại người khác mà chẳng biết vì lí do gì mới thực sự đáng sợ. Vì khi đó không ai biết phải đề phòng y ra sao.
Kể tiếp chuyện ở Tràng An thì sau khi Nguyễn Mộng Tranh đánh cược với Đặng Tất bèn đích thân đến gặp Lê Hổ, truyền khẩu dụ của Trần Ngỗi. Y đã bàn với Đặng Tất từ trước, muốn làm thế để Đinh Lễ có thể tận tâm tận lực, đánh cược của họ mới có ý nghĩa.
Tất nhiên ai cũng có tự trọng của mình, nhất là người đội trời đạp đất ngư Đặng Tất. Y chẳng nhíu mày lấy một cái, đồng ý luôn, rồi tự mình viết một phong thư gửi cho Ai Lao, hứa hẹn nhiều mắm muối vàng lụa, vũ khí nông cụ.
Trên vùng cao, muối rất quý. Nên lúc trao đổi với người miền ngược, không thể thiếu thứ này được.
Còn Nguyễn Mộng Trang thì đến chỗ Lê Hổ, vái chào tôn cậu chàng là Kim Ngô tướng quân, rồi mới giải thích phân trần cặn kẽ vì sao nghĩa quân phải chiếm cho kì được núi Dục Thuý.
Đinh Lễ nghe xong bèn vỗ bàn:
" Nếu chuyện chỉ có thế, xin ngài báo lại với bệ hạ cứ yên tâm để ta lo! "
Nguyễn Mộng Trang ra chiều khúc mắc:
" Có được không? Thằng nhóc chưa ráo máu đầu thế này thì làm gì được quân địch? Tướng quân xin hãy xuất phát cho mau. "
Đinh Lễ bực tức trong bụng, nhưng lại thầm nghĩ:
[ Cũng tốt, cứ để cậu lớn lập công. Dù sao mình cũng chả có ý định gia nhập quân Hậu Trần. ]
Lê Hổ tạ từ, rồi nói:
" Việc quân cấp bách, cậu hãy chở ta cùng đi đến Bô Cô hãn một chuyến. "
Đinh Lễ nói:
" Phải xem thế nào. Chỉ hi vọng Mộc Thạnh chủ quan khinh ngựa nước Nam ta. Nếu lão cẩn thận phái cả trăm kị binh, Lễ cũng chỉ đành cưỡi trâu chạy trước. Chức bách nhân địch này để ngài làm đi. "
Lê Hổ nghe thấy bèn phì cười:
" Lúc ấy chẳng cần cậu cưỡi, tôi cõng con Đại Thắng dong thẳng về Lam Sơn, cho cậu ở với giặc chơi. "
Hai người chỉnh trang y giáp, rồi phốc lên lưng Đại Thắng thần ngưu, đi thật nhanh về phía bắc. Dọc đường, hai người thấy từng tốp nạn dân kéo nhau trốn về nam. Kẻ thì hừng hực khí thế, tay gậy tay bừa chỉ chờ hội họp cũng nghĩa quân. Người lại ôm nhau khóc ròng. Chưa đầy một năm, thế mà đã phải tha hương lần nữa. Nếu bảo trong lòng không có ý nghĩ khác, e thực là khó.
Con trâu thần đi nhanh hơn ngựa, sớm hôm sau là núi Dục Thuý đã loáng thoáng hiện ra trước mặt.
Một vùng non xanh nước biếc, rất mực tú lệ, nhưng hai người chẳng còn tâm tư nào mà thưởng ngoạn. Lê Hổ thì thầm lấy làm kinh ngạc vì tốc độ của Đại Thắng thần ngưu, còn Đinh Lễ thì giục trâu chạy nhanh lên núi.
Núi Dục Thuý nằm ở bờ nam con sông lớn mà bây giờ ta vẫn gọi là sông Đáy. Xung quanh chân núi có rừng cây bao bọc, thành thử muốn lên hay xuống núi chỉ có hai con đường mòn, một ở sườn nam, một ở sườn tây. Phía tây núi vắt ngang một dải nước biếc, quanh co uốn khúc, chính là sông Vân.
Đinh Lễ đứng trên đỉnh núi, mày cau lại, cười khổ:
" Giờ sao?? Tôi bỏ anh, hay anh cõng con Đại Thắng về phục mệnh? "
Lê Hổ nheo mắt.
Lác đác ở bờ bắc đã có bóng ngựa phi, cuốn tung bụi đất lên mù mịt cả một góc trời. Lê Hổ không có kinh nghiệm trận mạc, nhưng lăn lộn trên giang hồ nhiều, cũng từng thấy cảnh một đàn ngựa hoang trăm con phi từ trên núi xuống.
Thanh thế lần này của quân Minh e còn lớn hơn.
Thế là, cậu quay sang, gõ vào đầu Đinh Lễ một cái, cười mà mặt mếu méo xẹo đi như sắp khóc, than:
" Cái thứ thổ tả, mồm miệng gì xui thấy ông bà ông vải. "
Cãi nhau một hồi, hai người cũng tự biết phải tìm kế phá địch, không cho chúng lên núi. Bàn một lúc, cuối cùng bảo nhau tìm xem trên núi còn hộ tiều phu, thợ săn nào không, để cùng bàn kế phá giặc.
Trước họ xuống phía nam, nơi có phủ viện lúc nhúc hai bên sông, đồng lúa trải dài. Con trâu là đầu cơ nghiệp, thế nên ở phương nam nơi chân cứng đá mềm này, hễ nơi nào có ruộng, chỗ đó có người.
Thế nhưng trang viên bề thế nay vắng tanh vắng ngắt, đến một tiếng chó sủa gà gáy cũng chẳng có nữa là tiếng người. Té ra đây vốn là một nhà phú hộ. Ruộng nương mấy dặm quanh đây đều là của họ. Nhưng nghe tin quân Mộc Thạnh đánh xuống, chắc đã kéo nhau chạy cả.
Hai người thở dài, vốn đã muốn bỏ cuộc, song lại nghĩ:
[ Phú hộ chỉ có ruộng sâu trâu nái, chứ mấy ai chịu chân lấm tay bùn?? Chứng tỏ ắt có người làm công làm rễ, ở đợ chăn trâu sống chung quanh. Mình cứ tìm quanh núi, kiểu gì cũng thấy thôn xóm. ]
Tìm một hồi, mới phát hiện một thôn nhỏ nằm náu dưới chân núi, khuất ở mặt đông. Chốn này chẳng phải hiểm địa, vách núi lởm chởm đá tai mèo dốc đứng, cheo leo, lắm hang lắm hốc. Từ phía này khó lòng tấn công lên núi được, nên đoán chừng quân Minh cũng sẽ bỏ qua.
Lê Hổ và Đinh Lễ vào thôn, thấy toàn là người già ốm yếu không chạy nổi, trong lòng không khỏi thất vọng.
Bấy giờ, lại có tiếng người cười khanh khách vang lên, ngân nga như tiếng suối róc rách dưới thềm lá.
Lê Hổ ngẩng đầu nhìn về phía tiếng cười phát ra, nhưng không thấy lấy một sợi tóc. Chỉ nghe Đinh Lễ quát một tiếng, đoạn nắm đầu trâu giật mạnh.
Đại Thắng thần ngưu rống giận, lồng hẳn người lên.
" Đừng! Đừng có dẫm! "
Té ra người kia đã vịn vào sừng trâu, nhảy bật lên tự lúc nào.
Lê Hổ nhìn qua đầu vai Đinh Lễ, chỉ thấy bóng người yểu điệu như tiên nữ từ từ hạ xuống lớp lá cây mục. Váy áo màu tím than, thêu từng hàng từng hàng hoạ tiết được cách điệu rất lạ mắt. Người ngọc khẽ động, hoa văn trên áo cũng như sống dậy khiêu vũ trong cơn mưa lá vàng lá tả.
Cô gái ấy cũng đi chân trần như ngươi Kinh, nhưng cổ tay cổ chân đều đeo lắc bạc, tai xỏ khuyên vàng. Nhìn xiêm áo trang sức, Lê Hổ đoán nàng là người miền ngược, nhưng dân tộc nào thì chịu. Hoa văn trên áo được cách điệu hao hao cái của người Ai Lao cậu vẫn thấy ở Lam Sơn, nhưng không giống hoàn toàn.
Đinh Lễ bèn vỗ cổ thần ngưu, cho nó nhẹ nhàng đặt hai chân trước xuống.
Cô gái nói, tiếng Kinh của cô khá trôi chảy, hai người nghe cũng hiểu được:
" Những người này không đánh nhau được. Để tôi giúp các anh. "
Đinh Lễ tỏ vẻ hồ nghi, nói:
" Địch có đến hai trăm kị binh tinh nhuệ, cô bé nhỏ con như cô thì làm gì được? "
Cô nàng le lưỡi, vặn lại:
" Cái ngữ nhãi ranh như cậu lớn hơn được ai? "
Còn Lê Hổ thì coi như cô gái ấy chẳng tồn tại, chỉ tập trung nghĩ cách phá địch.
Tiếng nhạc ngựa nện lên đá cứng cà rộp, cà rộp từ bốn phía dồn lại càng lúc càng gần. Ánh lửa hừng hực thi nhau phất lên, nhấp nhô nhấp nhô.
Chưa đầy một khắc thì đã có năm tên cưỡi ngựa, mình mặc giáp xông vào làng, vung đao chửi ì xèo, thần tình hung hãn như sắp chém người tới nơi. Người già trong làng sợ hãi ôm lấy nhau ngồi thụp xuống, run lẩy bẩy. Riêng Lê Hổ, Đinh Lễ và cô gái bí ẩn đều là những kẻ cứng cựa, tất nhiên là không sợ. Họ chỉ tiếc mình không biết tiếng Trung, nên chả hiểu đối phương nói gì.
Đinh Lễ thấy đối phương chỉ có năm người, chẳng đủ cho mình xỉa răng nên cứ đứng lì ở đó không nhúc nhích, mặt câng câng lên ra chiều thách thức.
Quả nhiên, tên quan binh nọ quát to, bổ đao thẳng xuống đầu một người già trong làng như để thị uy với Đinh Lễ.
Chỉ thấy cậu ta cười lạnh:
" Chém người không chớp mắt thế này không biết dưới đao đã có bao nhiêu vong hồn người Nam... loại như mi không đáng sống! "
Nói rồi động thủ lướt nhanh tới, phát sau mà đến trước, một đấm tống thẳng vào trán con ngựa chiến.
Chỉ nghe rắc một cái, sau đó đầu con ngựa nổ tung, toàn thân cứng đờ ra rồi đổ sập. Tên kị binh còn chưa kịp phản ứng, thì đã thấy cậu tung người lên, tung cước. Chớp mắt thôi ngực hắn đã trúng một đạp, giáp sắt vỡ toác ra, xương sườn gãy không còn cái nào lành lặn, chỉ biết nằm sụi lơ dưới đất.
Đinh Lễ hút sáo một tiếng dài, lại rút cây gậy sắt lao tới đánh. Con Đại Thắng hiểu ý chủ, lập tức rống lên phóng tới.
Bụp.
Sừng trâu nhọn hoắt xuyên thủng bụng ngựa, sức mạnh của trâu thần như dời non lấp bể cơ hồ xé toạc cả con ngựa chiến lưng cao ba thước thành hai mảnh. Chỉ thấy trâu thần lắc cổ, cả người lẫn ngựa cộng lại gần năm trăm cân mà bị nó quăng lên không trung cả năm trượng, chẳng khác nào mớ rẻ rách.
Cô gái nọ thấy Đinh Lễ thân mang thần lực, con trâu trắng lại càng hung hãn vô song thì kinh ngạc lắm, cứ vỗ tay reo lên như để trợ uy.
Nói đoạn nhìn sang, chỉ thấy Lê Hổ vẫn đang trầm ngâm suy nghĩ chẳng ngó ngàng đến cuộc chiến xung quanh, trong lòng thầm lấy làm phục.
[ Ngày xưa Phạm Ngũ Lao vì nghĩ kế phá giặc mà bị giáo đâm vào đùi cũng không biết, xem ra cậu chàng này cũng không tệ. ]
Lúc mọi người còn đang kinh ngạc, Đinh Lễ đã phi vào giữa trận. Cậu khẽ trầm hông vung cây gậy sắt, phang mạnh ngang sang hai bên. Hai tên kị binh bị kình phong quật cho không mở nổi mắt, há mồm không thở nổi, như thể kình phong nhồi âm thanh xuống sâu tận cuống họng.
Bốp! Bốp!
Cả hai văng khỏi mình ngựa, tắt hơi ngay trên không trung.
Hai kẻ còn sống hú lên kinh hoàng, sau đó giục cương ép ngựa quay đầu, vội vội vàng vàng chạy cho nhanh. Đinh Lễ nghiến răng, nói:
" Không biết ông mày là vua đánh khăng à? "
Nói đoạn, bấm vào một cái chốt ở đầu gậy, chỉ thấy cây côn sắt chợt rơi ra thành hai đoạn một dài một ngắn, gọi là gà mẹ gà con. Cậu chàng dộng thanh côn xuống thành cái lỗ, trong chơi khăng gọi là lò, rồi gác thanh ngắn xuống, một đầu gà con ghếch lên miệng hố.
Nói rồi, Đinh Lễ vụt mạnh gà mẹ vào đầu kênh lên của con, khiến nó bắn tung lên không, xoay tròn như cái chong chóng. Cậu chàng lại chuyển eo đẩy vai, đánh mạnh một nhát vào đúng đầu của gà con, khiến nó lao vù đi như một mũi tên.
Bụp!
Gà con giáng xuống như sấm chớp, từ phía sau giộng vào lưng kị binh, xuyên thủng cả áo giáp, cắm phập vào cổ ngựa. Cả người lẫn ngựa lung la lung lay, rồi đổ sập.
" Lại để hắn chạy! Chết! "
Địn Lễ đang định gọi con Đại Thắng đuổi theo, thì cô gái thần bí đã nói:
" Chớ lo! "
Đoạn lấy trong vạt áo ra một cái còi, đưa lên miệng thổi, song kì lạ ở chỗ không có tiếng kêu nào vang lên cả. Mọi người trong làng, bao gồm cả Đinh Lễ, đều thấy ngạc nhiên.
Nhất là Đinh Lễ, cậu chàng chỉ cười khẩy, không thèm nói gì.
Nói rồi toan nhảy lên lưng Đại Thắng, muốn truy đuổi tướng địch.
Chỉ có Lê Hổ là giật mình, thoáng lẩm bẩm:
" Ngự thú thuật?? "
Loại còi câm này Nguyễn Xí cũng có một cái. Thực ra không phải nó không kêu ra tiếng, " bị câm ", mà do âm thanh nó phát ra tai người không tài nào nghe thấy. Nhưng động vật thì khác. Thính giác của chúng nhạy bén, nghe được những thứ con người không thể. Người xưa dựa vào đặc điểm này, tạo ra ngự thú thuật để điều khiển thú dữ trong vô hình.
Chỉ thấy cô gái thổi hai cái, con ngựa của gã kị binh đã đứng sững, sau đó lóc ca lóc cóc đi về phía mọi người, mặc kệ chủ nhân ra sức thúc bụng giật cương cũng không suy xuyển.
Nói rồi, cô gái cất cái còi, nhìn Lê Hổ:
" Không nhìn ra, cậu này mới là người học rộng hiểu nhiều, ai mà như tên kia? "
Đinh Lễ xì một tiếng, gác côn lên vai:
" Ba cái thứ tạp nham, sao có thể so với côn trong tay ta được? "
Cô gái nọ bèn giơ nắm đấm:
" Thách ngươi dám đổi trâu đánh với ta đấy. "
Té ra con Đại Thắng là trâu thần có linh tính, tự chọn chủ. Ngoài người nó nhận làm chủ của nó ra, không ai có thể điều khiển nó, kể cả ngự thú sư.
Lúc hai người vào làng, cô gái nọ đã thử thổi chiếc còi câm, nhưng con trâu chỉ quạt tai khịt mũi ra chiều khinh thường lắm. Thế nên nàng ta mới hiếu kì nhảy ra xem.
Cô gái thấy Lê Hổ cứ mãi trầm tư, bèn mở hàng tranh lấy miếng trầu đã têm sẵn ra, mời:
" Cậu xơi một miếng đi, biết đâu lại nghĩ ra cách hay. "
Lê Hổ đón miếng trầu, lại cười:
" Người miền ngược cũng ăn trầu à? "
Cô gái nọ chống nạnh, cổ hơi hếch lên, tựa như ra uy mà lại tựa như làm nũng:
" Đâu phải chỉ có người Kinh mới có văn hiến? "
Nói là nói thế, nhưng quả thực cách têm trầu cánh phượng này là cô học của người trong làng.
Lê Hổ chậm rãi nhai trầu, bóng lưng một người bất giác hiện lên trong óc. Nói rồi nhìn về phương xa, nơi có dòng sông Vân chảy qua...
" Thực ra phá địch không khó, nhưng phải nhờ cô giúp cho một tay. "
" Không thành vấn đề. "
Cô gái nọ khảng khái.
Đinh Lễ thì nhíu mày, nói khẽ:
" Này anh Hổ... anh tính làm thế nào đấy? "
Té ra lần đầu hội ngộ ở Lam Sơn, Đinh Lễ không hề biết thân phận thật của Hổ, chỉ nghĩ là anh hùng hào kiệt nào đi ngang. Bây giờ tuy đã nhận nhau, bà Thương cũng nói cho hai người biết họ là họ hàng, nhưng Đinh Lễ vẫn nhất quyết không chịu gọi " chú " cho đúng vai đúng vế, chỉ gọi là " anh ".
Lê Hổ là người thoáng đạt, nên chẳng để tâm lắm.
Sáng hôm sau...
Đám kị binh phương bắc hội họp nhau bên bờ sông, kiểm lại quân số, phát hiện thiếu năm người.
" Không phải đám tàn đảng của đám Giản Định giở trò quỷ, thì ắt là lũ dân đen không biết an phận thủ thường rồi. "
Tên bách phu trưởng kết luận.
Hôm qua những tên này phát hiện một cây cầu phao bắc ngang qua khúc hẹp nhất của sông Vân, cách núi Dục Thuý cỡ năm sáu dặm. Bọn chúng chia nhau xộc vào căn nhà lớn đã bỏ hoang của tên phú hộ hòng kiếm chác, chỉ có năm kẻ tách đoàn đi về chân núi phía đông.
Thấy đám thuộc cấp nhao nhao lên, như chẳng thể chờ được lập công, gã mới nói:
" Cứ y theo sách lược đã định, bắt đầu qua sông. Nhớ phải cẩn thận. Đám người Nam này có nghề lặn rất thiện nghệ, hết sức đề phòng chúng bất ngờ đánh lén. "
Đoàn kị binh mấy trăm người tức tốc xuôi nam, chừng thời gian uống cạn chung trà thì đến trước một chiếc cầu vắt ngang qua dòng nước. Phía đầu đối diện là hai khóm tre mọc dày thành cụm che hai bên, chỉ để lại chính giữa một con đường nhỏ vừa đủ hai người đi ngược chiều nhau.
Tên bách hộ trưởng những tưởng sẽ có cả một đạo quân gồm cung tiễn, thuẫn binh hoặc ít nhất cũng phải có dân địa phương đào hào, phá cầu, sau đó lăm lăm cung nỏ nấp trong lùm tre hai bên. Người khác có thể không biết, nhưng hắn đọc qua binh thư, tự nhiên hiểu được tính chiến lược của núi Dục Thuý. Trọng địa như thế, nên Mộc Thạnh mới cử hẳn một trăm kị mã tinh nhuệ đến chiếm lĩnh bằng được.
Tức cười ở chỗ chặn ngang đầu cầu bên kia lại chỉ có độc một cậu nhóc chỉ cỡ mười sáu tay vác gậy sắt, cưỡi trên lưng con trâu trắng.
" Ố? "
" Lũ người Nam này bị điên rồi chăng? "
" Còn tưởng Giản Định, Đặng Tất thế nào. Té ra là hai tên ấm đầu. "
Trông thấy Đinh Lễ đứng cản đường, cả bọn đều cười ầm lên, ra vẻ khinh thường, nhưng trong dạ thì âm thầm cảnh giác.
Cứ chiếu lẽ thường mà nói, một thằng nhóc thì lấy đâu ra lá gan mà đứng trước mấy trăm kị binh kia chứ. Sau lưng nó ắt hẳn có chỗ dựa.
[ Chẳng phải khóm tre đằng kia sau? ]
Tên bách hộ giơ tay, sau đó chặt một cái.
Đó là lệnh bắn tên.
Vút. Vút.
Nhất thời, cả bọn đồng loạt rút nỏ, nhắm vào rừng tre mà bắn. Thứ nỏ cứng ấy lực bắn chẳng coi là mạnh, càng không thể so với mũi tên bắn bởi người Mông Cổ. Song... bắn qua khúc sông chỉ độ mười trượng thì dư sức.
Chúng cố ý không nhắm vào Đinh Lễ, ấy là muốn xem vẻ mặt kinh hoảng của cậu.
Rừng tre rất dày, nhưng cứ mười mũi thì ắt có hai, ba xuyên qua được. Cả bọn lắng tai, chờ đợi. Tiếng thiết tiễn cắm vào lóng tre xanh mướt phầm phập, khiến máu của chúng như sôi lên. Thế rồi thình lình nghe ai hét thất thanh, vang vọng xem chừng đau đớn lắm. Nhưng rồi tiếng kêu lập tức im bặt, như thể miệng người nọ bị bịt lại.
" Ha ha! "
Cả lũ chống nạnh cười phá lên.
Tên bách hộ chẳng buồn quát tháo chửi rủa. Hắn không biết tiếng Đại Việt, đối phương cũng chẳng hiểu tiếng Trung. Thế thì mở miệng xuông làm gì, chỉ tổ tốn nước bọt. Với loạt mưa tên vừa rồi, hắn đã thể hiện rất rõ ràng quan điểm của mình.
Chống lại là chết.
Đinh Lễ vẫn gác cây côn lên vai, không nói gì.
Cậu chàng chỉ khẽ nhún vai, chặc lưỡi một cái nể phục khổ nhục kế của Lê Hổ.
Trong rừng tre...
" Anh... anh bị điên à? "
Cô gái nọ hoảng hồn, vội vàng lấy đao rạch miệng vết thương ở vai cho Lê Hổ, rút mũi tên ra, rồi mới bôi thuốc và băng bó cầm máu.
Lê Hổ cười, nụ cười méo xẹo vì đau trông còn khó coi hơn là khóc...
" Nếu không làm cho thật... sao khiến chúng chủ quan? "
Cô gái nọ mím môi, lấy khăn lau mồ hôi đang túa ra từng cơn cho cậu.
Té ra, lúc nãy cậu chàng đã rút mũi tên ở dưới đất ra, cắm phập vào vai mình. Đoạn hét ầm lên vì đau, rồi lại tự bịt mồm mình lại. Đây vốn là kế tung hỏa mù, đánh lừa quân Minh khiến cho chúng chủ quan. Như thế, chúng sẽ nghĩ con bài tẩy của cậu là cánh phục binh không hề tồn tại trong rừng trúc.
Nhưng thực ra...
Là Đinh Lễ.
Nhưng chẳng lẽ để Đinh Lễ đương đầu với hai trăm kị mã lại khả thi ư?
Chỉ thấy Lê Hổ nháy mắt với cô gái.
Nàng ta nhẹ nhàng rút cây còi câm ra, đặt lên miệng.
Chỉ nghe tiếng Đinh Lễ cười vang.
Ba tiếng.
Ha!
Ha!
Ha!
Quân Minh không khỏi ngơ ngác, chẳng hiểu vì sao cậu lại làm thế.
Chẳng phải bọn chúng đã lật tẩy " mai phục " của người Nam ư? Tại sao thằng nhóc kia lại cười phá lên, như thể đã nắm chắc thắng lợi trong tay kia chứ?
Đinh Lễ chậm rãi hít vào một hơi dài.
" Bọn cướp nước chúng bay...
CÚTTTTTT!!!!! "
Con Đại Thắng thần ngưu cũng ngửa cổ lên, rống một hồi như sấm nổ.
Tiếng người quện cùng tiếng trâu, ầm vang chấn động cả một vùng. Lá tre xào xạc rơi lả tả, đậu xuống mặt nước đục ngầu.
Chiến mã bị thần uy của Đại Thắng doạ, nhao nhao chồm lên như muốn dứt đứt dây cương. Cũng may kị thuật của những người này rất tốt, nên mới ghìm ngựa lại được.
" Làm đi! "
Lê Hổ nói khẽ.
Cô gái bèn phồng má, thổi vào cây còi câm bằng hết sức bình sinh. Giai điệu tai người nghe không thấu vang lên lúc cao lúc thấp.
Đám kị binh còn đang vỗ về ngựa yêu để chúng bình tĩnh lại, thì chợt thấy toàn thân chiến mã cứng đờ ra như tượng. Nói đoạn, chúng lại lồng lên lần nữa. Lần này mắt ngựa đỏ quạch, mồm văng nước dãi, bờm ngựa tung bay trong gió hoà vào tiếng vó ngựa khua.
Nói đoạn, bầy ngựa phi thẳng xuống dòng sông đang chảy xiết.
Ngựa là loài sống theo bầy, chăn thả. Trong đám ngựa, luôn có một con đầu đàn. Cái còi câm chỉ đơn giản là giả mạo hiệu lệnh của con ngựa đầu đàn, khiến lũ chiến mã tuân phục.
Ngự thú thuật của cô bé kia, khác với những môn trôi nổi trên giang hồ về bản chất là vậy.
Cũng là nguyên nhân cô ta có thể ra lệnh cho lũ ngựa lạ chưa từng tiếp xúc, điều mà ngự thú sư bình thường tuyệt nhiên không thể làm được.
Chính vì lẽ này, Lê Hổ mới cất công bày ra nhiều trò như thế.
Trước tiên dùng khổ nhục kế khiến đám binh sĩ hạ thấp cảnh giác.
Sau đó dựa vào hung uy của Đinh Lễ và Đại Thắng thần ngưu để làm lũ ngựa hoảng hồn. Chúng là chiến mã, chắc chắn gan dạ cứng cỏi hơn ngựa thường. Cho dù đêm qua cô gái nọ đã kiểm soát được một con trót lọt, nhưng cẩn tắc vô áy náy.
Cuối cùng, là nước!
Mọi thứ diễn ra quá nhanh, đám kị sĩ cơ hồ chỉ vừa mới phóng ra loạt mưa tên đầu tiên, sau đó đón chúng đã là dòng nước chảy xiết.
Ngựa vào nước, chân không chạm đá, bắt đầu vùng vẫy theo bản năng. Đám người trên lưng bị quăng qua quật lại, nước sông lại ồ ạt xối vào mặt khiến không ít kẻ buông cương tuột khỏi yên ngựa.
Đinh Lễ thúc gót vào bụng trâu ra hiệu.
Con Đại Thắng tung mình phi xuống nước.
Kể cũng lạ, con quái ngưu này vừa chạm vào mặt sông, thì lập tức trở nên dũng mãnh khác thường. Nó bì bõm bơi giữa dòng nước xiết mà thoải mái như thể kéo cày trên đất bằng. Đinh Lễ một tay nắm chặt sừng trâu, tay kia cứ vung vẩy thanh côn sắt.
Côn của Đinh Lễ nặng hơn năm chục cân, cứ vụt một phát là nước sông bắn lên tung toé thành cột nước cao cả thước. Mũi côn huơ đến đâu, là người ngã ngựa đổ, xương gãy thịt nát đến đó. Nháy mắt thôi, cả một khúc sông rộng loang đỏ, dòng chảy có xối xả cũng không thể rửa trôi hết trong nháy mắt được.
Đại Thắng thần ngưu ngửi thấy hơi máu, càng hung tợn. Đầu nó thúc trái, đánh phải, giáp trụ dày đến mấy trước cặp sừng của nó cũng yếu ớt như tờ giấy. Không hổ danh thứ quái vật húc chết được cả voi chiến. Đinh Lễ tắm trong dòng nước, tiếng hét la và binh khí khua loẻng xoẻng cuộn trào trong từng cơn sóng đỏ sủi bọt, quất tới quất lui vào thân trâu thần. Cây côn trong tay cậu chàng múa tít, kị binh nhà Minh không ai đỡ nổi một gậy, binh khí đã bị phang gãy rời, mất mạng ngay.
Người kêu la, gào thét dữ dội mấy, cũng chẳng thể át nổi tiếng gầm thét của tự nhiên. Sóng đánh tới tấp, ập cả vào họng vào miệng, khiến phân nữa tiếng la thất thanh chẳng bao giờ thoát ra khỏi cuống họng... Cuối cùng chìm xuống đáy sông, cùng với tử thi lạnh buốt.
Đinh Lễ giết một hơi năm chục lính tinh nhuệ, con Đại Thắng húc chết ba mươi người. Số còn lại không bị nước cuốn trôi, thì cũng bị ngựa chiến của mình đạp chết. Đội kị binh tiên phong Mộc Thạnh phái đi... bị đánh cho không còn manh giáp.
Cũng từ trận chiến đó, chiến thần của đất Lam Sơn chính thức bước lên vũ đài của lịch sử. Cái tên Đinh Lễ khảm sâu một nét vào nội tâm của không chỉ quân Minh, mà còn cả phe Hậu Trần.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top