CHƯƠNG 5
580 bức thư, một tấm ngân phiếu
Hãy để nỗi khát khao phiền muộn ở trong trái tim bạn.
Đừng bao giờ từ bỏ, đừng bao giờ mất hy vọng.
Thánh Alla nói: "những người đau khổ là những người mà ta yêu quý."
Hãy nghiền nát trái tim bạn. Hãy đau khổ.
- Shaihk Abu Saeed Abil Kheir, aka Nobody, son of Nobody -
Chiếc máy đánh chữ quá nhỏ so với đôi bàn tay của Mortenson. Anh gõ trúng hai phím một lần, xé vụn bức thư rồi bắt đầu gõ lại, điều đó làm tăng thêm chi phí. Một đô la mỗi giờ để thuê chiếc máy đánh chữ IBM Selectric cũ nghe có vẻ hợp lí, nhưng sau năm giờ tại trung tâm sao chép Krishna ở khu phố chính của Berkeley, anh chỉ hoàn thành được bốn bức thư.
Vấn đề là, ngoài sự bất tiện về cách bố trí các phím quá gần nhau của chiếc máy đánh chữ IBM, còn do Mortenson không biết chắc mình phải nói gì. "Bà Winfrey thân mến." Anh gõ bằng các đầu ngón tay, bắt đầu bức thư thứ năm. "tôi là một người hâm mộ chương trình của bà. Nó khiến tôi nghĩ rằng bà là người thực sự quan tâm đến điều tốt đẹp nhất cho mọi người. Tôi đang viết để kể cho bà nghe về một ngôi làng nhỏ có tên Korphe ở Pakistan và về ngôi trường mà tôi đang cố gắng xây dựng ở đó. Bà có biết rằng nhiều trẻ em ở vùng Himalaya xinh đẹp đó chưa hề có trường học?"
Đến đây, anh không biết phải viết gì nữa. Anh không biết nên đề cập ngay đến tiền bạc hay chỉ yêu cầu giúp đỡ. Và nếu anh đề cập đến tiền thì có nên đề nghị một con số cụ thể hay không? "tôi dự định xây một ngôi trường với năm phòng học để dạy dỗ 100 học sinh cho đến lớp năm." Mortenson gõ. "Lúc ở Pakistan để leo lên K2, ngọn núi cao thứ nhì thế giới (tôi đã không lên được đến đỉnh), tôi đã hỏi ý kiến các chuyên gia địa phương. Nếu sử dụng vật liệu lao động tại chỗ, tôi tin chắc mình có thể hoàn thành ngôi trường với 12.000 đô la."
Và đến phần khó khăn nhất. Anh có nên hỏi xin toàn bộ hay không? "bất cứ khoản tiền nào mà bà có thể đóng góp vào số tiền đó cũng là điều tốt đẹp." Mortenson quyết định viết. Nhưng những đầu ngón tay của anh đã không tuân theo ý chủ nhân và chữ cuối cùng được gõ thành "chảy máu". Anh lôi tờ giấy ra và bắt đầu lại.
Vào thời điểm phải đi đến San Francisco để trực ca đêm tại phòng cấp cứu ở Trung tâm Y tế UCSF, anh đã hoàn tất, dán kín và dán tem sáu bức thư. Một gửi cho Oprah Winfrey, một cho nhãn hàng uy tín, bao gồm Bernard Shaw của CNN, vì anh hình dung rằng CNN đang trở thành một hãng tin lớn như các hãng lớn khác, và một bức thư anh viết một cách tự phát cho diễn viên Susan Sarandon vì bà dường như quá tốt và tận tâm với việc nghĩa.
Anh lái chiếc La Bamba xuyên qua guồng giao thông trong giờ cao điểm, lái chiếc Buick với chỉ một ngón tay trỏ. Đó là cỗ máy phù hợp hoàn hảo với đôi tay của Mortenson. Anh đỗ xe, nghiêng người ra ngoài cửa và nhét những lá thư vô khe hòm thư bên lề đường ở bưu điện Berkeley.
Đó không phải là thành tích lớn lao để khoe khoang cho một ngày làm việc. Nhưng ít nhất anh cũng đã bắt đầu ở nơi nào đó. Mình sẽ nhanh hơn, anh tự nhủ. Anh phải nhanh hơn vì đã tự đặt cho mình một mục tiêu phải đạt được 500 bức thư. Nhẹ nhàng lái chiếc La Bamba vào guồng giao thông ở bờ tây cầu Bay, anh cảm thấy lâng lâng như thể vừa châm một ngòi nổ và những tin tức tốt lành sẽ sớm bùng cháy.
-o0o-
Ở phòng cấp cứu, cả ca trực có thể biến mất trong sự mờ ảo của những vết thương do dao và những vết áp xe chảy máu. Hoặc trong khoảng thời gian ngắn ngủi, khi không có những ca nguy hiểm đến tính mạng nhập viện, thời gian có thể trôi dần sang buổi sáng mà không thể nhận ra. Những lúc ấy, Mortenson chợp mắt một chút trên chiếc giường nhỏ hoặc nói chuyện với mấy vị bác sĩ như Tom Vaughan. Cao, gầy và đeo kính, Vaughan là bác sĩ chuyên về bệnh phổi và là nhà leo núi. Ông đã leo lên núi Aconcagua trong dãy Andes, là ngọn núi cao nhất bên ngoài châu Á. Nhưng chính kinh nghiệm của ông với tư các một bác sĩ trong đoàn leo núi người Mỹ năm 1982, nỗ lực lên đến Gasherbrum II ở Pakistan, đã tạo nên sự gắn bó giữa y-bác sĩ.
“Anh có thể thấy K2 từ Gasherbrum II.” Vaughan nói. “Nó đẹp không thể tả và rất đáng sợ. Và tôi đã đặt nhiều câu hỏi với Greg về cảm giác của cậu ấy khi leo lên đó.” Vaughan đã tham gia trong một nỗ lực leo lên ngọn núi thường được xem là dễ dàng nhất trong những đỉnh núi nghìn mét. Nhưng trong thời gian đó, không thành viên nào trong đoàn lên được đến đỉnh và một thành viên trong đoàn, Glen brendeiro đã bị quét khỏi vách đá bởi một đợt tuyết lở và không bao giờ được tìm thấy.
Vaughan ý thức được thành tích lên gần đến đỉnh một ngọn núi giết người như K2 là như thế nào. Giữa những ca cấp cứu, họ nói về sự vĩ đại và cô độc của Baltoro mà cả hai đều tin là nơi hùng vĩ nhất trên trái đất. Và Mortenson đã hỏi Vaughan rất nhiều chi tiết về nghiên cứu mà ông đã thực hiện về chứng phù phổi, sự sưng viêm phổi do độ cao, vốn đã gây ra quá nhiều cái chết và thương tích cho các nhà leo núi.
“Greg hết sức nhanh nhẹn, điềm tĩnh và tháo vác trong phòng cấp cứu.” Vaughan nhớ lại. “Nhưng khi bạn nói với anh ấy về y học, dường như anh ấy không thực sự quan tâm. Ấn tượng của tôi lần đầu tiên gặp anh ấy là dường như anh ấy chỉ làm qua ngày cho đến khi có thể trở lại Pakistan.”
Tâm trí Mortenson có thể đã tập trung vào một ngôi làng miền núi cách xa mười hai nghìn dặm. Nhưng anh không hề rời mắt khỏi một nữ bác sĩ gây mê nội trú, bác sĩ Marina Villard, người đã làm anh mất cân bằng khi gặp cô. “Marina mang vẻ đẹp tự nhiên.” Mortenson nói: “Cô là một nhà leo núi. Cô không trang điểm. Cô có mái tóc đen nhánh và đôi môi đầy đặn làm tôi không dám nhìn vào. Tôi hết sức đau khổ mỗi khi làm việc cùng cô ấy. Tôi không biết mình nên mời cô đi chơi hay tránh gặp cô để có thể suy nghĩ đúng đắn.”
-o0o-
Để tiết kiệm tiền trong khi đang cố gầy dựng ngân quỹ cho trường học, Mortenson quyết định không thuê một căn hộ. Anh có khoảng không gian kho và băng ghế sau của chiếc La Bamba có kích thước của một chiếc ghế nằm. So với chiếc lều đơn sơ ở Baltoro, thì đó có vẻ là một nơi tiện nghi để ngủ. Anh tiếp tục là thành viên của City Rocks, để có thể tắm vòi sen cũng như để leo trèo lên vách, vì trong hầu hết mọi ngày anh đều leo trèo để giữ được vóc dáng. Mỗi đêm, anh đi quanh khu Berkeley, khu nhà kho ở bên vịnh, tìm một tòa nhà tối và yên tĩnh để có thể ngủ mà không bị quấy rầy. Quấn mình trong túi ngủ, hai chân duỗi thẳng ra trên băng ghế sau của chiếc La Bamba, anh thấy Marina lượn quanh trong những suy nghĩ của mình trước khi chìm vào giấc ngủ.
Những ngày không làm việc, Mortenson viết dần dần hàng trăm bức thư. Anh viết cho từng thượng nghị sĩ Mỹ. Anh thường xuyên đến thư viện công cộng, lướt qua những tạp chí văn hóa pop mà anh sẽ không bao giờ đọc nếu không phải là để tìm các tên ngôi sao điện ảnh, các ca sĩ nhạc pop và thêm vào bản danh sách cất trong chiếc túi dây kéo Ziploc. Anh chép lại các địa chỉ từ cuốn sách liệt kê một trăm người Mỹ giàu nhất. “Tôi không biết mình đang làm gì.” Mortenson nhớ lại. “Tôi chỉ giữ một danh sách bất cứ ai có vẻ như có quyền lực, hay nổi tiếng, hay quan trọng, và đánh máy thư gửi cho họ. Tôi đã ba mươi sáu tuổi và vẫn chưa biết cách sử dụng máy vi tính. Tôi vô dụng như vật đó.”
Một ngày kia, Mortenson đến của hàng sao chép Krisha và cửa hàng này bất ngờ đóng cửa. Anh đi sang cửa hàng khác gần nhất, Lazer Image trên đại lộ Shattuck và hỏi thuê một máy đánh chữ.
“Tôi nói với anh ấy, chúng tôi không có máy đánh chữ.” chủ của hàng Lazer Image, Kishwar Syed, nhớ lại “Giờ là năm 1993, sao anh không thuê máy vi tính?” và anh ấy nói với tôi rằng anh không biết sử dụng máy vi tính.
Mortenson nhanh chóng biết rằng Syed là người Pakistan, đến từ Bahawal Puy, một làng nhỏ miền trung Punjab. Và khi biết vì sao Mortenson muốn đánh máy những bức thư, anh ấy bảo Mortenson ngồi xuống trước một máy Apple Macintosh và dạy miễn phí cho đến khi người bạn mới của mình dùng được máy tính.
“Ngôi làng ở Pakistan của tôi không có trường học, do đó tầm quan trọng của công việc mà Greg đang nỗ lực thực hiện là rất đáng quý đối với tôi.” Syed nói: “Động cơ của anh quá lớn lao khiến tôi có nhiệm vụ phải tận tình giúp đỡ.”
Mortenson sửng sốt với những chức năng cắt, dán và sao chép của máy tính. Anh nhận ra rằng mình có thể tạo ra ba trăm bức thư vốn đã chiếm mất của anh nhiều tháng đánh máy trong một ngày. Chỉ một ngày cuối tuần có cà phê trợ lực, với sự chỉ dẫn của Syed anh đã cắt và dán lời kêu gọi gây quỹ của mình một cách say sưa cho đến khi đạt được mục tiêu năm trăm bức thư. Rồi anh sôi nổi hẳn lên, khi cùng Syed động não nghĩ ra một danh sách hàng chục người nổi tiếng, cho đến khi có được 580 lời kêu gọi. “Thật đáng ngạc nhiên.” Mortenson nói: “Một người Pakistan đã giúp tôi sử dụng máy tính để tôi có thể giúp những đứa trẻ ở Pakistan biết chữ.”
Sau khi gửi những bức thư, Mortenson quay trở lại tiệm của Syed vào những ngày nghỉ và thực hành những kĩ năng máy tính mới học của mình, viết ra sáu mươi đơn xin trợ cấp để tìm kiếm ngân quỹ cho ngôi trường ở Korphe.
Khi cùng nhau cúi người trên bàn phím, Mortenson và Syed đã bàn luận về phụ nữ. “Đó là khoảng thời gian đẹp và rất buồn trong cuộc đời chúng tôi.” Syed nói: “chúng tôi thường nói về sự cô đơn và tình yêu.” Syed đã đính hôn với người phụ nữ mà mẹ anh chọn cho anh ở Karachi. Và anh đàng dành dụm tiền tổ chức đám cưới trước khi đưa vợ sang Mỹ.
Mortenson thú nhận mình phải lòng Marina và Syed đã vạch ra những chiến lược bất tận, nghĩ ra những cách mà bạn mình có thể mời cô ấy đi chơi. “Hãy nghe Kish.” Anh ấy khuyên. “Anh đang già đi và anh cần có một gia đình. Anh còn chần chờ gì nữa?”
Mortenson thấy như bị cóng lưỡi mỗi khi anh muốn mời Marina đi chơi. Những lúc rảnh rỗi ở trung tấm y tế USCF, anh bắt đầu kể cho Marina nghe những câu chuyện về Karakoram và những kế hoạch xây dựng trường học của mình. Cố không để bị lạc trong đôi mắt của người phụ nữ này, Mortenson đã rút mình vào những kí ức khi nói chuyện. Nhưng khi anh nhìn lên, sai khi kể lại cuộc cứu hộ Etienne, những ngày lạc lối ở Baltoro, hay khoảng thời gian ở Korphe dưới sự chăm sóc của Haji Ali, đôi mắt Marina bừng sáng lên và sau hai tháng với những cuộc trò chuyện như vậy, nàng đã kết thúc tình thế thê thảm của Mortenson bằng cách mời anh đi chơi.
Sau khi trở về từ Pakistan, Mortenson sống khắc khổ như một thầy tu. Hầu như mọi ngày anh ăn sáng với suất ăn 99 cent – cà phê và bánh quai vạt - ở một tiệm bánh Campuchia trên đại lộ MacArthur. Thông thường anh không ăn gì cho đến bữa tối, khi đó anh lấp đầy cái bụng đói meo bằng món burrito với giá ba đô la ở một trong các quầy taquerias (quầy bán thức ăn nhanh) ở khu thương mại Berkeley.
Trong ngày hẹn hò đầu tiên của họ, Mortenson đã chở Marina đến nhà hàng hải sản bên bờ Sausalito và gọi một chai rượu vang trắng, nghiến răng vì cái giá của nó. Anh tự ném mình vào cuộc đời của Marina một cách chóng mặt, nhảy bằng cả hai chân. Marina đã có hai con gái trong cuộc hôn nhân trước, Blaise năm tuổi và Dana ba tuổi. Mortenson sớm cảm thấy gắn bó với chúng như gắn bó với mẹ chúng.
Vào những ngày cuối tuần khi hai cô con gái trở lại cùng cha ruột, anh và Marina lái xe đến Yosemite, ngủ đêm trong chiếc La Bamba và leo lên những đỉnh núi như Cathedral Sprire suốt ngày cuối tuần. Khi hai con gái ở nhà, Mortenson đưa mọi người đến Indian Rock, một phong cảnh lộ thiên ngoạn mục ở Berkeley Hills, ở đó, anh đã dạy chúng những điều cơ bản về việc leo vách đá. “Cảm giác như mình đột nhiên có một gia đình riêng.” Mortenson nói: “Gia đình mà tôi biết mình thực sự cần. Và nếu việc gây quỹ cho trường học diễn biến tốt hơn, tôi đã có thể hạnh phúc hoàn toàn.”
Từ căn nhà mới của mình ở River Falls, Wisconsin Jerene Mortenson đã lo âu theo dõi cuộc phiêu lưu của con trai. Sau khi hoàn tất chương trình tiến sĩ, bà được thuê làm hiệu trưởng trường tiểu học Westside. Jerene thuyết phục con trai đến thăm mình, trình chiếu hình ảnh và nói chuyện với sáu trăm học sinh ở trường của bà. “Tôi đang trong thời kì thực sự khó khăn với việc giải thích cho người lớn lí do tôi muốn giúp đỡ những học sinh Ở Pakistan.” Mortenson nói: “Nhưng những đứa trẻ lại hiểu ngay. Khi nhìn thấy những bức hình, chúng không thể tin rằng có một nơi mà trẻ em ngồi ngoài trời trong thời tiết giá lạnh và cố gắng duy trì lớp học mà không có thầy giáo. Chúng quyết định phải làm gì đó cho chuyện này.”
Một sáng sau khi trở lại Berkeley, Mortenson nhận được một bức thư của mẹ anh. Bà giải thích rằng học sinh của bà đã tự động phát phòng trào “Những đồng xu cho Pakistan". Gom đầy hai thùng một trăm năm mươi lít, chúng đã có được 62.345 xu. Khi gửi ngân hàng tấm ngân phiếu 623,45 đô la mẹ gửi kèm, Mortenson cảm thấy như vận may cuối cùng đã đổi chiều. “Những đứa trẻ đã thực hiện bước đầu tiên hướng về việc xây dựng ngôi trường.” Mortenson nói: “ và chúng thực hiện điều đó với một thứ gần như không có giá trị gì trong xã hội của chúng ta - những đồng xu. Nhưng ở nước ngoài, những đồng xu có thể dời núi.”
Những bước đi khác đến quá chậm, sáu tháng đã trôi qua từ khi Mortenson gửi 580 bức thư đầu tiên và cuối cùng anh chỉ nhận được một bức thư trả lời. Tom Brokaw, như Mortenson, là một cựu sinh viên đại học Nam Dakota. Khi còn là những cầu thủ bóng bầu dục, họ đều được huấn luyện bởi Lars Overskei, điều này đã được anh viết rõ trong bức thư ngắn của mình, Brokaw gửi tấm ngân phiếu một trăm đô la và một bức thư ngắn chúc anh may mắn. Và dần dần từng lá thư một từ những quỹ tài trợ như những nhát búa đập vào niềm hy vọng của anh, báo với anh rằng mười sáu lá thư xin tài trợ của anh đều đã bị từ chối.
Mortenson đưa bức thư ngắn của Brokaw cho Tom Vaughan xem và thú nhận những nỗ lực gây quỹ của anh đang tiến triển tồi tệ như thế nào. Vaughann là người ủng họ cho Quỹ Himalaya Mỹ và quyết định thử xem tổ chức này có thể giúp gì không. Ông đã viết một bài ngắn về chuyến leo núi K2 của Mortenson và những nỗ lực của anh để xây dựng một ngôi trường cho Korphe, được in trên bản tin AHF, và ông nhắc nhở các thành viên AHF, nhiều người là những nhà leo núi xuất sắc của Mỹ, về di sản của Sir Edmund Hillary ở Nepal.
Sau khi chinh phục đỉnh Everest với Tenzing Norgay vào năm 1954, Hillary thường xuyên quay lại thung lũng Khumbu và ông tự đặt cho mình một nhiệm vụ mà ông mô tả còn khó hơn leo lên đỉnh ngọn núi cao nhất thế giới – xây dựng trường học cho các cộng đồng người nghèo người Sherpa, những người khuân vác đã làm cho chuyến leo núi của ông có thể xảy ra.
Trong quyển sách về những nỗ lực nhân đạo của mình năm 1954, Schoolhouse in the Clouds, Hillary đã nói với cái nhìn tiên tri về những nhu cầu của các dự án hỗ trợ ở những nơi nghèo nhất và xa xôi nhất trên thế giới. Những nơi như Khumbu và Korphe. “Chậm chạp và đau đớn, chúng tôi đang nhìn thấy sự chấp nhận của thế giới trước sự thật rằng các quốc gia giàu hơn và tiến bộ hơn về kĩ thuật phải có trách nhiệm giúp đỡ cá quốc gia chưa phát triển.” Ông viết. “Không chỉ bởi ý nghĩa từ thiện mà còn bởi chỉ bằng cách này chúng ta mới có thể hy vọng nhìn thấy hòa bình vĩnh viễn và an ninh cho chúng ta.”
Nhưng theo một ý nghĩa,, con đường của Hillary dễ dàng hơn hẳn cuộc tìm kiếm viễn vông của Mortenson. Chinh phục được ngọn núi cao nhất hành tinh, Hillary đã trở thành một trong những người nổi tiếng nhất trên thế giới. Khi ông tiếp xúc những nhóm người giúp lập quỹ hỗ trợ cho “Đội xây dựng trường học Himalaya" của ông. Sách bách khoa Thế giới đăng kí làm nhà tài trợ chính, cung cấp cho Hillary 52.000 đô la vào năm 1963. Và Sears Roebuck gần đây đã bắt đầu bán những chiếc lều và túi ngủ mang thương hiệu Sir Edmund Hillary, đã trang bị cho đoàn và gửi một đội quay phim để ghi lại công việc của Hillary. Nhiều nguồn trài trợ khác được tích lũy khi những đại diện của Hillary bán bản quyền phim và báo chí châu Âu, và thu được khoản tạm ứng cho một quyền sách về chuyến thám hiểm trước khi Hillary trên đường đi Nepal.
Mortenson không chỉ thất bại trong việc lên đỉnh K2, anh đã trở về nhà trong túng quẫn. Và vì lo ngại sẽ làm hỏng mọi chuyện nếu dựa quá nhiều nếu dựa vào Marina, anh vẫn tiếp tục trải qua hầu hết những đêm trên chiếc La Bamba. Anh bắt đầu bị cảnh sát chú ý, và họ dựng anh dậy giữa đêm bằng đèn pin, khiến anh phải chạy vòng vòng kiếm chỗ ngủ quanh Berkeley Flats, nửa thức nửa tỉnh trên tay lái tìm những điểm đậu xe để cảnh sát không tìm thấy trước khi trời sáng.
Gần đây Mortenson cảm thấy có một sự rạn nứt đang phát triển với Marina về chuyện tiền bạc. Việc ngủ trên chiếc La Bamba trong những chuyến leo núi cuối tuần rõ ràng đã mất đi sức hấp dẫn đối với cô. Anh xử lí một cách kém cỏi khi vào một buổi tối lạnh mùa xuân, trên đường họ đến Yosemite, cô gợi ý xài sang và nghỉ tại khách sạn Ahwahnee nổi tiếng, một viên ngọc kiến trúc kiểu đồng quê miền tây thời nội chiến. Chỉ một ngày cuối tuần tại Ahwahnee sẽ tốn một khoảng xấp xỉ bằng tất cả số tiền mà anh đã gom góp được đến lúc đó cho ngôi trường. Sau khi Mortenson từ chối thẳng thừng, ngày nghỉ cuối tuần của họ trong chiếc xe hơi ẩm ướt đã sục sôi với sự căng thẳng ngấm ngầm.
Vào một ngày lạnh, đầy sương mù đặc trưng vào mùa hè ở San Francisco, Mortenson đến cho một ca làm việc và Tom Vaughan đưa cho anh một trang giấy xé ra từ quyển sổ ghi toa thuốc của mình. “Người này đọc về anh trên bản tin và gọi cho tôi.” Vaughan nói: “Ông ta là một nhà leo núi kiểu khoa học gia gì đó. Ông ta cũng khỏe mạnh, thẳng thắn như một công nhân. Ông ta hỏi liệu anh có phải là một anh chàng chơi ma túy sẽ tiêu phí hết số tiền của ông không? Nhưng tôi nghĩ ông ta giàu có. Anh nên gọi cho ông ta". Mortenson nhìn tờ giấy. Trên đó có ghi “Tiến sĩ Jean Hoerni" kế bên là một số điện thoại ở Seattle. Anh cảm ơn Vaughan và nhét mẩu giấy vào túi trên đường đến phòng cấp cứu.
Ngày hôm sau, ở thư viện công cộng Berkeley, Mortenson tìm tên tiến sĩ Jean Hoerni. Anh ngạc nhiên vì tìm thấy hàng trăm mục từ, chủ yếu là trong những tờ báo về công nghệ bán dẫn.
Hoerni là một nhà vật lí gốc Thụy Sĩ có học vị ở Cambridge. Cùng một nhóm nhà khoa học California, tự gọi mình là “Tám kẻ phản bội" sau khi rời bỏ phòng thí nghiệm của nhà khoa học được giải Nobel nhiều tai tiếng William Shockley, ông ta đã phát minh ra một loại mạch tích hợp mở đường cho con chip silicon. Một ngày kia, trong khi đang tắm vòi sen, Hoerni giải được bài toán làm thế nào để chứa thông tin vào một mạch. Quan sát nước chảy thành từng dòng nhỏ trên bàn tay mình, ông nêu giả thuyết rằng silicon có thể được ghép lớp theo cách tương tự vào một mạch dẫn, làm tăng rất nhiều diện tích bề mặt và công suất của mạch. Ông gọi đó là “quy trình mặt phẳng" và đã đăng kí phát minh đó.
Hoerni, người mà vinh quang cũng bằng với tính tình kì quái, cứ sau vài năm lại nhảy từ chỗ làm này sang chỗ làm khác, luôn luôn đối đầu với những đối tác kinh doanh. Nhưng trên con đường sự nghiệp đáng nể của mình, ông đã thành lập hơn nửa chục công ty mà sau cùng khi ông ra đi đều lớn mạnh thành những công ty khổng lồ như Faichild Semiconductors, Teledyne và Intel. Lúc Hoerni gọi cho Vaughan để thăm dò về Mortenson, ông đã bảy mươi tuổi và tài sản cá nhân của ông đã phát triển đến hàng trăm triệu đô la.
Hoerni cũng là một nhà leo núi. Khi còn trẻ, ông đã nỗ lực leo lên đỉnh Everest và những đỉnh núi khắp năm châu. Với cơ thể dẻo dai như đầu óc của mình, ông đã từng sống sót qua một đêm lạnh trên núi cao bằng cách nhồi giấy báo chiếc túi ngủ của mình. Sau đó ông viết một bức thư cho ban biên tập của tờ Wall Street Journal, ca ngợi “đây là tờ báo ấm nhất từng được phát hành".
Hoerni đặc biệt yêu thích Karakoram, nơi ông đã trải qua một chuyến đi vất vả và nói với bạn bè rằng ông bị sốc bởi sự khác biệt giữa khung cảnh núi non tuyệt đẹp và cuộc sống thô thiển của những phu khuân vác người Balti.
Mortenson đổi mười đô la thành những đồng hai lăm xu và gọi cho Hoerni ở nhà ông tại Seattle từ máy điện thoại trả tiền của thư viện. “Xin chào", anh nói sau vài phút tốn kém trôi qua và sau cùng Hoerni đến bên điện thoại. “Tôi là Greg Mortenson, Tom Vanghau đã cho tôi số điện thoại của ông và tôi gọi vì...”
“Tôi biết anh muốn nói gì". Một giọng nói sắc bén với giọng Pháp ngắt lời. “Hãy cho tôi biết, nếu tôi đưa tiền cho anh xây trường, anh sẽ không tiêu hoang ở một bãi biển nào đó tại Mexico, hút ma túy và làm tình với bạn gái chứ?”
“Tôi...” Mortenson nói.
“Anh nói sao?”
“Không thư ông, dĩ nhiên là không. Tôi chỉ muốn giáo dục bọn trẻ". Anh phát âm chữ “giáo dục" với giọng điệu chất phát miền trung tây mà anh luôn sử dụng cho từ ưa chuộng của mình. “Giáo... dục". Ở Karakoram, chúng thực sự cần sự giúp đỡ của chúng ta. Ở đó chúng khá gian khổ".
“Tôi biết", Hoerni nói: “Tôi đã ở đó năm 74, trên đường đến Baltoro".
“Vậy, nói chính xác, ngôi trường của anh tốn hết bao nhiêu?” Hoerni hỏi vặn lại. Mortenson cho thêm những đồng hai mươi lăm xu vào điện thoại.
“Tôi đã gặp kiến trúc sư và nhà thầu ở Skardu, và tính giá mọi nguyên vật liệu”. Mortenson nói: “Tôi muốn trường có năm phòng, bốn lớp học và một phòng chung để...”
“Cho một con số". Hoerni cắt ngang.
“Mười hai nghìn đô la". Mortenson nói một cách sợ hãi, “Nhưng bất cứ khoản đóng góp nào của ông cho ngôi trường cũng...”
“Chỉ có vậy thôi sao?” Hoerni hỏi lại, có vẻ hoài nghi. “Anh không nói chuyện phiếm chứ, anh thực sự có thể xây một ngôi trường chỉ với mười hai nghìn đô la?”
“Vâng thưa ông", Mortenson nói, anh có thể thấy nhịp đập của tim mình. “Điều này tôi chắc chắn”.
“Vậy địa chỉ của anh?” Hoerni hỏi.
“Ôi, thật là một câu hỏi đáng quan tâm".
-o0o-
Mortenson bước đi ngây ngất qua đám đông sinh viên trên đại lộ Shattuck để tiến về xe của mình. Anh hình dung đêm nay mình có một lý do rất chính đáng để không ngủ trong La Bamba.
Một tuần sau, Mortenson mở hộp thư của mình. Bên trong là chiếc phong bì chứa một biên nhận cho tấm ngân phiếu mười hai nghìn đô la do Hoerni gửi, theo tên của Mortenson, cho AHF và một lá thư ngắn viết nguệch ngoạc trên mảnh giấy kẻ ô: “Đừng làm loạn nhé. Chúc tốt lành. J.H".
-o0o-
Những ấn bản đầu tiên ra đi trước. Mortenson đã bỏ nhiều năm dạo cửa hàng sách Black Oak ở Berkeley, đặc biệt là trong căn phòng phía sau, nơi anh tìm thấy hàng trăm quyển sách lịch sử về leo núi. Từ xe mình, anh mang vào sáu giỏ sách cùng với vài quyển sách quý hiếm của cha anh ở Tanzania, người mua trả chưa đến sáu trăm đô la.
Trong khi đợi rút tiền từ ngân phiếu của Hoerni, Mortenson đã chuyển bất cứ thứ gì khác mà mình sở hữu thành tiền mặt, đủ để mua vé máy bay và chi tiêu trong khoảng thời gian dài phải có mặt ở Pakistan. Anh báo cho Marina biết anh sắp tiếp tục công việc đã bị gián đoạn từ khi gặp cô – cho đến khi hoàn thành lời anh đã hứa với những đứa trẻ ở Korphe. Anh hứa với cô, khi quay trở về mọi việc sẽ khác. Anh làm việc toàn thời gian, tìm một nơi thực sự để sống và sống một cuộc sống ít bừa bãi hơn.
Anh bán lại dụng cụ leo núi của mình cho cửa hàng Wilderness Exchange trên đại lộ San Pablo, một nơi mà hằng năm anh chi tiêu phần lớn thu nhập mà mình có được kể từ khi trở thành một nhà leo núi tận tụy. Từ nhà kho của anh chỉ mất bốn phút để lái xe đến cửa hàng, nhưng anh nhớ rằng đoạn đường đó dài tương tự một chuyến hành trình xuyên quốc gia. “Tôi cảm thấy như mình đang lái xe đi xa khỏi cuộc sống mà mình đã từng sống kể từ khi đến California", anh nói. Anh ra đi với gần một nghìn năm trăm đô la nữa trong túi.
Buổi sáng trước khi lên máy bay, Mortenson chở Marina đi làm, rồi thực hiện việc chia tay khó khăn nhất của mình. Tại một bãi xe cũ ở Oakland, anh lái chiếc La Bamba vào bãi và bán lấy năm trăm đô la. Chiếc xe ngốn xăng đã chở anh một cách trung thành từ miền trung tây đến với cách sống mới như một nhà leo núi ở California. Nó là nhà của anh trong một năm khi anhh đấu tranh để tìm ra con đường của mình qua việc gây quỹ một cách vô vọng. Giờ đây, tiền thu được từ chiếc xe sẽ giúp đưa anh đến bên kia trái đất. Anh vỗ vào cái mui xe to lớn màu rượu chát, cho tiền vào túi và đeo chiếc túi vải của mình đi về phía chiếc taxi đang đợi để đưa anh sang một chương mới của đời mình.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top