thom thuy
CHƯƠNG IV: BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG ĐẤT
A. Khắc phục ô nhiễm nông nghiệp
1. Biện pháp môi trường
Biện pháp này nhằm làm cho các điều kiện môi trường (vô sinh và hữu sinh) trở nên bất lợi cho các loài dịch hại. Vì biện pháp này dựa nhiều vào kiến thức hơn vào công nghệ, nên đặc biệt phù hợp cho các nước nghèo. Nhưng biện pháp này vẫn hữu hiệu trong các xã hội nông nghiệp hiện đại. Tăng cường đa dạng hoa màu bằng cách đa canh và luân canh, nhằm làm giảm nguồn thức ăn cho một loài dịch hại nào đó và giúp ngăn chận sự tăng trưởng nhanh của nó. Thay đổi thời gian gieo trồng. Vài loài thực vật tránh dịch hại một cách tự nhiên bằng cách mọc sớm hay trễ trong mùa tăng trưởng. Thí dụ ở các nước ôn đới, Cải hoang mọc sớm trước khi có sự xuất hiện của Bướm cải. Nông dân có thể gieo trồng một hoa màu nào đó sớm hoặc trễ hơn bình thường, lúc mà côn trùng chưa hay đã bộc phát rồi.
Thay đổi chất dinh dưỡng của cây và đất. Mức độ của vài chất dinh dưỡng trong đất và cây trồng cũng có thể ảnh hưởng số lượng quần thể dịch hại. Nitơ là nguồn dinh dưỡng quan trọng mà côn trùng và ký sinh nhận từ thực vật. Lượng Nitơ quá nhiều hay quá ít có thể làm thay đổi số lượng cá thể của nhiều loài dịch hại.
Thí dụ Rệp cây (Aphid) sinh sản nhiều hơn trên các hạt chứa nhiều Nitơ. Các côn trùng khác, như Thrips và Mites lại sinh sản ít hơn trên Mồng tơi (Spinach) và Cà tô-mát khi các rau quả này chứa nhiều Nitơ. Cho nên biết được nhu cầu dinh dưỡng của dịch hại, mức độ chất dinh dưỡng của đất và của thực vật có thể giúp kiểm soát dịch hại
2. Biện pháp hóa học
Bao gồm việc sử dụng nông dược khi thật cần thiết, pheromon, hormon và các chất trừ sâu tự nhiên.
Việc sử dụng nông dược phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây:
- Sử dụng hạn chế
- Sử dụng đúng thời điểm để hạn chế số lần phun xịt
- Nông dược ít gây hại cho thiên địch và các sinh vật lan can (non target organisms)
- Không phun xịt gần nguồn nước uống
- Ðã thử nghiệm cẩn thận độc tính
- Tránh dùng nông dược bền vững và có thể tích tụ sinh học
- Tránh tối đa việc nông dân phải tiếp xúc nông dược (tránh hít phải khi thao tác)
- Sử dụng để làm giảm số cá thể dịch hại tới dưới ngưỡng gây hại, sau đó kết hợp với các biện pháp khác để giữ cho quần thể này ở mức thấp
3. Biện pháp canh tác
Dùng nhiều biện pháp như trồng nhiều cây che không cho cỏ dại mọc; tiếng động và bù nhìn đe dọa chim ... Gần đây người ta dùng vi ba (microwaving) trừ một số côn trùng như dán, mối, con hai đuôi ăn giấy và hồ dán bìa sách (Chiras, 1991). Phòng trừ dịch hại tổng hợp tỏ ra có nhiều lợi ích về nhiều mặt, nhưng để bảo đảm cho sự thành công, cần sự nổ lực và đầu tư thích hợp. Ðiều quan trọng là chính nông dân, chớ không phải ai khác, là người đóng vai trò quyết định quan trọng nhất.
Ngoài ra còn một số phương pháp cũng mang lại hiệu quả cao như:
a) Phương pháp ảnh hưởng tử suất
Nhằm làm tăng tử suất bằng cách dựa vào kẻ thù tự nhiên của loài gây hại, như thiên địch hay ký sinh của nó.
Lịch sử mà nói thì từ năm 1888, nhà côn trùng học Riley đã giải quyết vấn đề sâu rầy Icerya purchari bằng cách nhập vào California, một trong những kẻ thù tự nhiên của nó là Bọ rùa Novius cardinalis.
Nhiều sự nhập nội như thế đã cho nhiều kết quả tích cực. Nhưng cũng có khi những loài nhập nội không thích nghi: trường hợp nhập những kẻ thù của doryphore (phá hoại Khoai tây) .
Phương pháp sử dụng các loài ăn côn trùng (entomophages) cho nhiều kết quả khả quan. Người ta cũng chú ý các loài ăn trứng (oophages). Kế đến, người ta chú ý các vi sinh vật gây bịnh cho loài gây hại (nấm ăn côn trùng và vi khuẩn diệt trùng).
Ngoài ra, người ta cò sử dụng cả siêu khuẩn, như trường hợp virus Sanarelli, gây bịnh Myxomatose cho thỏ, đã tiêu diệt 99% số thỏ ở Pháp năm 1952. Chuyện cũng xảy ra như vậy ở Úc
b) Phương pháp ảnh hưởng đến sinh suất
Nhằm làm giảm sinh suất của những loài không muốn có. Lần đầu tiên, năm 1954, Knippling đã thả những cá thể cái của Cochliomyia hominivorax làm bất thụ bởi Co60 ở đảo Curacao, đã tiêu diệt hoàn toàn loài 2 cánh này, là tác nhân của bịnh myiases.
Kỹ thuật này dựa trên nguyên tắc theo đó thì một cá thể bị bất thụ sẽ bành trướng sự bất thụ trong quần thể bởi vì nó gây cảm ứng (induction) cho bạn tình của nó. Trong trường hợp của Cochliomyia, thành công dễ dàng là do các con cái chỉ giao phối một lần trong đời.
Người ta còn sử dụng các chất gây bất thụ như tia bức xạ ion trong hóa học.
Hiện người ta sử dụng Phéromone và chất dẫn dụ. Năm 1960, Jacobson đã ly trích chất Giplure, phéromon sinh dục của Lymantria dispar, có thể thu hút những con đực của loài này ở nồng độ cực nhỏ (10 - 9 ug/lít không khí).
Chế tạo các bẩy có feromone (chất dẫn dụ) và chất bất thụ gốc hóa học là trong những cách hay để dẫn dụ những loài gây hại.
4. Quản lý tổng hợp các loài dịch hại (IPM)
a. Vài ví dụ
Mục đích của IPM là làm tăng sản lượng nông nghiệp đồng thời giúp nông dân giảm chi phí mua nông dược và giảm tác hại do nông dược. IPM sử dụng nhiều hình thức quản lý đồng ruộng như là một hệ sinh thái.
Sự luân canh là cách canh tác làm cho đất chỉ có các cây trồng khác nhau trong mỗi mùa. Ðiều này làm cho các dịch hại không có cơ may sinh sản liên tục. Chiến thuật này cần thiết để hoa màu tránh được các loài phá hại.
Ở vài nơi chiến thuật tránh né này không thực hiện được, nên canh tác một vụ một năm là có lợi hơn. Ðặc biệt, ruộng lúa nước ở Ðông nam á phải gieo cấy nhiều vụ một năm, và không hoa màu nào khác có thể cho một lượng thực phẩm sánh bằng. Cuộc cách mạng xanh đã dùng các giống thần kỳ, gia tăng sử dụng phân bón và nông dược. Trong những năm 1960 đầu 70, cách làm này tỏ ra thành công nhưng tốn kém. Khi đó chánh phủ trợ giá việc dùng phân bón và nông dược để thúc đẩy kỹ thuật mới. Hậu quả của việc trợ giá là nông dược giảm giá và được dùng lung tung. Một tác động bất ngờ của việc dùng quá nhiều nông dược là chúng tiêu diệt các thiên địch hữu ích. Ngay sau đó, các trận dịch, như dịch rầy nâu xảy ra. Rầy nâu trở nên kháng thuốc, nhưng thiên địch của chúng thì không. Rầy nâu bất trị phá hại ruộng lúa Indonesia, gây thiệt hại hơn một triệu tấn lúa vào năm 1977. Cách sửa chữa ngắn hạn là trồng các giống lúa kháng rầy, nhưng trong ít năm, rầy nâu lại thay đổi tính kháng một lần nữa và trở nên chiếm lợi thế trong ruộng lúa. Năm 1986, Tổng thống Indonesia đã cấm 57 trong tổng số 66 loại nông dược sử dụng cho lúa và không trợ giá các loại nông dược khác. Sự tiêu thụ nông dược ít đi và rầy nâu cũng giảm đi. Các thiên địch của rầy nâu như ong (Wasps) và nhện, gia tăng đủ để hạn chế rầy. Sau năm 1986, lượng nông dược giảm 60%, chánh phủ tiết kiệm được 120 triệu USD cho việc trợ giá nông dược và sản lượng lúa gia tăng 15%. Trường hợp của Indonesia cung cấp bằng chứng điển hình là IPM có thể là giải pháp về giá cả - hiệu quả (cost-effective solution) cho vấn đề các loài dịch hại(Bush, 1997).
Một thí dụ về IPM áp dụng cho các đồn điền Dừa dầu ở Malaysia. Hàng ngàn mẫu rừng nhiệt đới đã chuyển thành đồn điền Dừa trong vùng bình nguyên Malaysia. Dầu dừa dùng trong gia đình và kỹ nghệ, và là nguồn thu nhập quan trọng. Thiệt hại sau thu hoạch do chuột làm giảm thu nhập của người trồng dừa, trong khi thuốc diệt Chuột thì mắc và không hữu hiệu. Người ta du nhập chim Cú mèo là thiên địch của chuột. Không bao lâu, quần thể Chuột giảm thiểu và người ta tiết kiệm được tiền mua thuốc trừ Chuột.
b. Tóm lược phương pháp quản lý dịch hại tổng hợp
Phương pháp này sử dụng tổng các biện pháp kiểm soát dịch hại: môi trường, di truyền, hóa học và canh tác. Nhưng biện pháp này cần phải có sự tập huấn cho người áp dụng và sự quan trắc các loài dịch hại (Chiras, 1991).
• Tập huấn (giáo dục) và theo dõi (quan trắc)
Khi có sâu rầy xuất hiện trên đồng ruộng, người nông dân nghĩ ngay tới việc dùng nông dược để sớm tiêu diệt chúng. Nhưng họ cũng nghĩ cách làm sao có thể bảo vệ hoa màu mà không cần dùng đến các chất độc này. Từ xa xưa người ta đã biết nuôi Kiến vàng trong các vườn cam quít chẳng hạn. Các kinh nghiệm dân gian là rất cần nhưng chưa đủ. Các cơ sở nghiên cứu, các trường đại học có thể giúp nông dân hiểu biết nhiều hơn. Cần phải nhận thấy rằng hiện nay nông dân nhận hằng khối lời khuyên của các nhà sản xuất và những người bán nông dược. Cho nên có nhiều khúc mắc trong vấn đề này.
Nông dân cần được tập huấn nhiều điều để áp dụng IPM. Hiểu biết về sinh học côn trùng, kỹ năng nhận biết côn trùng và cải thiện việc theo dõi quần thể côn trùng có thể giúp nông dân quản lý đồng ruộng tốt hơn.
Tập huấn và theo dõi là những điều tiên quyết cho IPM. Nếu không, sự lệ thuộc nặng nề vào nông dược sẽ vẫn cứ tiếp tục.
• Biện pháp môi trường
Biện pháp này nhằm làm cho các điều kiện môi trường (vô sinh và hữu sinh) trở nên bất lợi cho các loài dịch hại. Vì biện pháp này dựa nhiều vào kiến thức hơn vào công nghệ, nên đặc biệt phù hợp cho các nước nghèo. Nhưng biện pháp này vẫn hữu hiệu trong các xã hội nông nghiệp hiện đại.
Tăng cường đa dạng hoa màu bằng cách đa canh và luân canh, nhằm làm giảm nguồn thức ăn cho một loài dịch hại nào đó và giúp ngăn chận sự tăng trưởng nhanh của nó.
Thay đổi thời gian gieo trồng. Vài loài thực vật tránh dịch hại một cách tự nhiên bằng cách mọc sớm hay trễ trong mùa tăng trưởng. Thí dụ ở các nước ôn đới, Cải hoang mọc sớm trước khi có sự xuất hiện của Bướm cải. Nông dân có thể gieo trồng một hoa màu nào đó sớm hoặc trễ hơn bình thường, lúc mà côn trùng chưa hay đã bộc phát rồi.
Thay đổi chất dinh dưỡng của cây và đất. Mức độ của vài chất dinh dưỡng trong đất và cây trồng cũng có thể ảnh hưởng số lượng quần thể dịch hại. Nitơ là nguồn dinh dưỡng quan trọng mà côn trùng và ký sinh nhận từ thực vật. Lượng Nitơ quá nhiều hay quá ít có thể làm thay đổi số lượng cá thể của nhiều loài dịch hại. Thí dụ Rệp cây (Aphid) sinh sản nhiều hơn trên các hạt chứa nhiều Nitơ. Các côn trùng khác, như Thrips và Mites lại sinh sản ít hơn trên Mồng tơi (Spinach) và Cà tô-mát khi các rau quả này chứa nhiều Nitơ. Cho nên biết được nhu cầu dinh dưỡng của dịch hại, mức độ chất dinh dưỡng của đất và của thực vật có thể giúp kiểm soát dịch hại.
Kiểm soát hoa màu và cỏ dại lân cận. Hoa màu và cỏ dại có thể là nguồn thức ăn và nơi ở của dịch hại, nhất là côn trùng. Cho nên cần kiểm soát hoa màu và cỏ dại lân cận là cần thiết. Ðôi khi hoa màu kém giá trị lân cận được dùng làm bẫy (trap crop) để lôi kéo côn trùng. Khi cây linh lăng (alfalga) trồng cạnh cây bông vải, sẽ thu hút rầy bông, làm giảm thiệt hại cho bông vải.
Du nhập thiên địch, ký sinh và vật gây bệnh. Trong thiên nhiên hàng ngàn loài côn trùng là dịch hại tiềm tàng, nhưng không trở thành dịch hại thật sự, bởi vì sự kiểm soát tự nhiên do thiên địch, ký sinh và bịnh tật. Nông dân có thể sử dụng sự hiểu biết này của đấu tranh sinh học hay kiểm soát chuỗi thức ăn để quản lý cỏ dại, côn trùng, gậm nhấm và các dịch hại khác. Có rất nhiều thí dụ về việc kiểm soát dịch hại bằng thiên địch hay ký sinh.
VD: cổ điển như côn trùng diệt xương rồng ở Úc. Nông dân Việt Nam đã dùng kiến vàng kiểm tra sâu rầy cho vườn tược. Trung quốc dùng vịt con thả vào ruộng lúa ăn bớt côn trùng phá lúa. Siêu khuẩn và vi khuẩn cũng đã được nghiên cứu và ứng dụng ở nhiều nơi.
• Biện pháp di truyền
Có hai chiến lược chủ yếu, là làm cho con đực trở nên bất thụ và tạo các cây trồng và vật nuôi kháng bịnh về phương diện di truyền.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top