THIỀN SƯ TRUNG HOA III-8

THIỀN SƯ TRUNG HOA

TẬP BA

H.T THÍCH THANH TỪ

ĐỜI THỨ MƯỜI SÁU SAU LỤC TỔ (tt)

44. THIỀN SƯ ĐOAN DỤ PHẬT TRÍ

Ở Dục Vương

Sư họ Tiền, quê phủ Thiệu Hưng. Từ khi được yếu chỉ nơi Thiền sư Viên Ngộ khắp trụ các ngôi chùa to. Ban đầu Sư phụng chiếu trụ Cảnh Sơn, vua ban hiệu Phật Trí Đại sư. Kế Sư dời trụ chùa Dục Vương.

*

Sư thường dạy chúng: Một pháp nếu có lớp lớp vách sắt núi bạc, muôn pháp nếu không chốn chốn chìm không kẹt lặng. Con mắt mình nếu chánh thấy gai nhọn cũng dẹp, một pháp chẳng rơi vào duyên trần, muôn pháp vốn không chướng ngại. Núi là núi nước là nước, tục là tục Tăng là Tăng, chẳng khác chẳng đồng. Dù cho thế ấy, vẫn là đóng cửa ráp xe, chưa phải mở cửa lắp trục. Lại phải biết trên đảnh để một cái, làm sao rõ? Xưa nay tròn trặn không vá thiếu, sức mạnh Ma-la mở chẳng ra.

Sư dạy: Khi đi bặt dấu đi, khi nói không vết nói, đi nói nếu đến thì ụ đất sanh tên (mũi tên), đi nói chưa rõ thì tên thần cũng gãy. Dù cho nói không rỉ chảy, đi chẳng quên đường, vẫn kẹt rỉ chảy. Nếu là chim đại bàng cánh vàng bay nhanh trăm ngàn do-tuần, ngựa thần mười bóng chạy tột bốn phương tám hướng, chẳng mắc chỗ ăn uống, chẳng tùy chỗ chôn thân, thảy không có chỗ nương tựa, lại có phần dẫm đạp hay không? Cõi cõi bụi bụi là yếu tân.

Sư dạy chúng nhắc: Nam Tuyền nói: Lão tăng mười tám tuổi đã biết tạo kế sống. Triệu Châu nói: Tôi mười tám tuổi liền biết tan nhà nát cửa. Hiểu chăng? Tạo kế sống mới hiểu tan nhà nát cửa, tan nhà nát cửa mới hiểu tạo kế sống. Giả sử vàng ròng làm thành, bạc trắng làm vách, thiền duyệt làm thức ăn, giải nghĩa làm nước tương, kẻ Thiền tăng bản sắc chẳng ưng ngó lại. Sao vậy? Há chẳng thấy nói: Kẻ mắt sáng vào hang ổ, dù cho muôn dặm không vắng tanh, nên khéo một chùy đều đập nát. Hãy nói một câu chẳng rơi vào tiến tu làm sao nói? Sư im lặng giây lâu nói: Cây dong cỏ lát nếu biết mặt xưa rực rỡ, dẹp hết đầy bồn đầu tử đỏ. Sư gõ phất tử một cái.

*

Sư dạy chúng: Khi chưa thế ấy, một câu siêu Thích-ca việt Di-lặc, đến lúc rõ phá chẳng được nửa phần. Sao vậy? Chỉ vì chấp thói quen. Nếu gọt vuông được tròn như đầu cọp mọc sừng lưng rồng sanh cánh, là điềm lành điều tốt. Nếu bình thản trầm lặng, buồn ngủ thì nhắm mắt, cơm đến thì há miệng. Hãy nói gọt vuông được tròn phải hay bình thản trầm lặng phải? Lại biện được chăng? Dù cho biện được cũng là gò chén bể.

*

Sư dạy chúng: Trọn đại địa là con mắt Sa-môn, trọn đại địa là ánh sáng chính mình, vì sao ở Đông Phất Vu Kiện đánh trống ở Tây Cù Da Ni chẳng nghe, ở Nam Thiệm Bộ Châu đốt đèn ở Bắc Uất Đơn Việt tối mò. Dù cho nhằm trong đây nói được thập toàn, vẫn là kế sống quang ảnh. Sư cầm phất tử đánh một cái nói: Trăm hỗn loạn thế nào là con đường xuất thân? Nếu thật chẳng thấy, theo đường hái hoa hướng dương.

*

Sư dạy chúng: Một chùy liền thành, chẳng phải kẻ tánh tháo, một nhảy ngàn dặm, chẳng phải con ngựa hạn huyết, mũi nhọn chẳng bày, chùy sắt không lỗ, tám mặt linh lung, nhiều rỗng ít thật. Dù được khuỷu tay treo dạ minh phù, đảnh môn đủ con mắt kim cang, tột đầu thấu đuôi sanh sát lẫn hành, mặc kia ma Phật hiện trước, liền khéo đao bén chặt hết. Hãy nói, căn cứ cái gì được như thế? Cần biết chăng? Ngọc bá nhẹ đưa núi biển tối.

*

45. THIỀN SƯ PHÁP THỚI PHẬT TÁNH

Ở Đại Qui

Sư họ Lý, người đất Thục, thuở nhỏ chuyên nghiệp Nho, văn chương nổi tiếng. Bỗng Sư chán tục xuất gia thọ giới cụ túc. Sư dạo khắp các tùng lâm thân cận các bậc kỳ túc. Nơi Ngũ gia tông phái, Sư khéo được gia phong, riêng ở Viên Ngộ, Sư nhận được tủy. Khi Viên Ngộ ở Đạo Lâm, Tương Sơn đều cử Sư làm Thủ tọa. Sau Sư nhận khai pháp ở Đức Sơn.

*

Sư dạy chúng: Tổ Sư nói: Muốn được hiện tiền, chớ còn thuận nghịch. Ông già Thích-ca là cái gì, giày cỏ rách; một đại tạng giáo là giấy cũ lau ghẻ. Đạt-ma chín năm xây mặt vào vách ngủ vùi chưa tỉnh. Cả thảy các ông, trong da không máu trong mắt không gân, lại nhằm trong này tìm cái bát gì? Mời mỗi người trở về phòng đi.

Sư dạy: ?Dừng dừng chẳng cần nói, pháp ta diệu khó nghĩ?, ông già Thích-ca vô cớ nhằm trên đất sạch mà ỉa, các người tăng thượng mạn nghe ắt chẳng kính tin, kia kia kẻ trượng phu, các người nhằm chỗ nào thấy ông già Thích-ca? Nếu là thấy, được vào cửa Đức Sơn, chưa vào thất Đức Sơn. Hãy nói thất Đức Sơn làm sao vào? Sư im lặng giây lâu nói: - Ba mươi năm sau.

Sư dạy: Có khi mở miệng quấy, có khi mở miệng phải, lời thô và ngữ tế đều về đệ nhất nghĩa. Ông già Thích-ca tiếng chim hát, Đạt-ma Tây sang mùi phân hôi, chỉ có con trâu trước núi thân phóng hào quang soi trời đất.

Sư dạy: Pháp chẳng vậy mà vậy, tối đi sáng lại, đạo chẳng thế mà thế, sấm chạy mưa bay. Liền được ngàn sông đua chảy muôn suối giành trôi, đầu núi sóng bủa ngập trời, đất bằng người cá cùng ở, chớ hỏi mầm Tăng trưởng, như nay trên đầu mênh mông. Tuy nhiên nước đến thành đầm, đâu ngờ qua vẫn chẳng đến. May thay! Mây tan mưa tạnh sóng lặng mòi yên, mặt trời sáng lên không vạn tượng đồng vui. Hãy nói, công lớn chẳng chủ một câu làm sao nói? Lão quê chẳng biết sức Nghiêu Thuấn, đùng đùng đánh trống tế thần sông.

*

Sư dạy: Kiếm báu cầm lại liền dùng, há có nghi ngờ, lông mày dựng đứng liền đi, lại không xoay lại, tất cả chỗ vượt nay suốt xưa, tất cả chỗ cắt đứt lồng lưới, chẳng phạm mũi nhọn cũng chẳng đoái xem. Riêng vượt vật ngoại thì hãy gác, khi muôn cơ tan hết thì thế nào? Mùa thu tháng tám chỗ nào nóng?

*

Sư dạy: Thanh văn ngộ đạo chưa khỏi dính nước trong lỗ tai, thấy sắc sáng tâm cũng là ném cát trong con mắt. Dù được mảy may không chướng ngại, có không đồng là không, dưới bặt chính mình trên không vin ngưỡng, riêng xa vời bặt tình trần, cao vòi vọi lìa phân biệt, vẫn là việc bên kia. Hãy nói việc bên này lại làm sao? Thôi luyến đầm lạnh cây không bóng, hãy xem tháng sáu hoa tuyết bay.

*

Sư dạy: Động thì bóng hiện, giác thì băng sanh, chẳng động chă?g giác đất cây không khác. Thiền tăng đến trong đây phải có một con đường chuyển thân mới được. Nếu chuyển được chia ba thành sáu, xướng chín thành mười, nhét Tu-di trong hạt cải, ném Đại thiên ở phương ngoài. Nếu chuyển chẳng được, giữ hang quỉ ở núi người, chẳng khỏi là tinh linh.

*

Sư dạy: Đạt được nhân không pháp không, chưa gọi gia phong Tổ Phật, thấu được toàn dụng toàn chiếu, cũng chưa phải yếu diệu Thiền tăng. Cần phải đập phá cổng chắc biết được một lỗ hướng thượng? Thế nào là một lỗ hướng thượng? Xuân lạnh tuyết động đầu núi chết thiếu niên.

Sư thượng đường: ?Niết-bàn không đường khác, phương tiện cửa có nhiều.? Sư cầm gậy lên nói: Xem! Xem! Cây gậy của Sơn tăng, một ngụm hớp cạn nước Tây Giang. Cá lý ngư ở biển đông nhảy phóc trời Tam thập tam. Đế Thích nổi giận nắm núi Tu-di đấm một đấm tan nát, địa thần Kiên Lao chắp tay tán thán rằng: Xem kỹ pháp Pháp vương, pháp Pháp vương như thế. Sư cầm cây gậy gõ giường thiền một cái xuống tòa.

*

Sư dạy: Vào cửa Đức Sơn liền đánh, đất bằng sanh gò. Vào cửa Lâm Tế liền hét, không gió nổi sóng. Câu Chi chỉ dựng một ngón tay, chưa khỏi mập mờ. Tuyết Phong đánh ra ba chiếc cầu, trẻ con đùa thích. Đến trong đây thảy dùng chẳng được. Đâu bằng tháng sáu tam phục cam lồ khắp ướt, nước đủ đồng cao lúa xanh nam khoảnh, nông phu vỗ bụng tiều già ca to, gia phong Cổ Phật nghiễm nhiên như còn. Nơi đây hội được cùng vui thăng bình, nếu như chưa được, chỉ biết ? việc đi qua trước mắt?, chẳng ngờ ?trên đầu già đến rồi?.

*

46. THIỀN SƯ AN DÂN MẬT ẤN

Ở Hoa Tạng

Sư họ Chu quê ở phủ Gia Định. Buổi đầu Sư giảng kinh Lăng Nghiêm ở Thành đô, là bậc được trọng vọng trong hàng nghĩa học. Khi ấy Viên Ngộ ở Chiêu Giác, Sư cùng Thiền sư Thắng kết bạn cùng đi đến.

*

Sư nghe Viên Ngộ tiểu tham nhắc: - Việc Quốc sư ba phen gọi thị giả. Triệu Châu niêm rằng: Như người viết chữ trong tối, chữ tuy chẳng thành văn thể đã bày. Trong kia chỗ nào là văn thể đã bày?

Sư tâm nghi, thắp hương vào thất. Viên Ngộ hỏi: - Tọa chủ giảng kinh gì?

Sư thưa: - Kinh Lăng Nghiêm.

Viên Ngộ hỏi: - Kinh Lăng Nghiêm có bảy chỗ hỏi tâm, biện thấy có tám hoàn, cứu kính tâm ở chỗ nào?

Sư trình nhiều kiến giải, Viên Ngộ đều chẳng nhận. Sư lại thưa thỉnh, Viên Ngộ dạy: - Tất cả chỗ dùng văn thể đã bày hội. Bỗng gặp vị Tăng thưa hỏi về Thập huyền đàm, mới nhắc hỏi tâm ấn anh nhan mạo gì? Viên Ngộ gằn giọng nói: - Văn thể đã bày.

Sư nghe liền có tỉnh, bèn cầu ấn chứng.

Viên Ngộ bảo: - Dùng bản sắc kiền chùy.

Sư lại mờ mịt. Một hôm Sư bạch Viên Ngộ: - Hòa thượng thôi nhắc thoại đợi con nói xem.

Viên Ngộ chịu. Sư thưa: - Bình thường cầm chùy dựng phất, há chẳng phải trong kinh nói, tất cả thế giới đã có các tướng đều là Bồ-đề diệu minh chân tâm.

Viên Ngộ cười bảo: - Ông xưa nay ở trong đây làm kế sống.

Sư lại thưa: - Khi hét hay gõ giường thiền, há chẳng phải phản văn văn tự tánh, tánh thành vô thượng đạo.

Viên Ngộ bảo: - Ông đâu chẳng thấy trong kinh nói ?Diệu tánh viên minh lìa các danh tướng?.

Sư ngay câu này liền thấu hiểu.

Viên Ngộ ra đất Thục trụ Giáp Sơn. Sư liền thôi giảng đi theo hầu. Viên Ngộ vì chúng dạ tham, nhắc nhân duyên ?buồm xưa chưa treo?. Sư nghe chưa lãnh ngộ bèn cầu quyết nghi. Viên Ngộ bảo: - Ông hỏi ta.

Sư nhắc thoại trước. Viên Ngộ bảo: - Cây bá trước sân.

Sư liền thấu suốt, thưa với Viên Ngộ: - Cổ nhân nói một giọt nước gieo vào hồ to, đâu chẳng biết biển cả gieo vào giọt nước.

Viên Ngộ bảo: - Làm gì được kẻ này.

Chưa bao lâu, Viên Ngộ cử làm Đệ nhất tọa. Viên Ngộ nói bài kệ:

Thôi khoa Tứ phần bãi Lăng Nghiêm.

Dưới án đầu mày triệt để tham.

Chớ học Lương Công gần Mã Tổ.

Lại như Đức Sơn hỏi Long Đàm.

Bảy năm qua lại dạo Chiêu Giác.

Tam tải bay lên thẳng Bích Nham.

Kim nhật phiền mời đệ nhất tọa.

Hoa trắng rặng tùng hiệu Ưu-đàm.

Sau Sư đến yết kiến Phật Giám ở Tương Sơn. Phật Giám hỏi: - Phật Quả có câu chẳng vì người loạn nói, từng vì ông nói chăng?

Sư thưa: - Ngậm lấy miệng chó.

Phật Giám gằn giọng nói: - Chẳng phải đạo lý này.

Sư thưa: - Không người cướp túi muối trà của Thầy, kêu to làm gì?

Phật Giám bảo: - Nếu Phật Quả chẳng nói, ta vì ông nói.

Sư thưa: - Hòa thượng nghi thì thối viện riêng tham đi.

Phật Giám cười: Hả! Hả!

*

Sư khai pháp ở Bảo Ninh, kế dời sang Hoa Tạng, xoay lại lãnh Trung Phong.

Sư thượng đường: ?Chúng mua hoa chừ ta mua tùng, xanh xanh nhan sắc chẳng bă?g hồng, tính ra trọn chẳng cùng thời hợp, về lại đi chừ trong rừng xanh.? Tức cười cổ nhân nói thế ấy, giống như trốn núi nhảy xuống hồ, tránh chìm gieo vào lửa, chi bằng tùy phần đến đầu cuốc thước tám, thước năm thảo luận một cái nửa cái. Tuy nhiên như thế, Bảo Ninh nửa cái cũng chẳng cần. Cớ sao? Giàu hiềm ngàn miệng thiếu, nghèo hận một thân nhiều.

*

Đông chí, Sư thượng đường nhắc: Hòa thượng Hạo ở Ngọc Tuyền nói: Tuyết tuyết mảnh mảnh chẳng rơi chỗ khác, đến tháng chạp lại theo, năm sau tháng giêng tháng hai tháng ba tháng tư tháng năm tháng sáu tháng bảy tháng tám tháng chín tháng mười, như trước chẳng thôi, chết lạnh chết đói, khỏi bảo nói hồ nói loạn. Sư bảo: Chẳng phải mắng người cũng chẳng tán thán, cao xuất Lâm Tế Đức Sơn, chẳng giống Vân Cư La-hán. Hãy nói, Ngọc Tuyền ý chỉ thế nào? Sư im lặng giây lâu nói: - Chỉ được tuyết tiêu đi, tự nhiên xuân lại về.

*

Sau Sư thị tịch ở Bổn Sơn, trà-tỳ lưỡi và tim không cháy.

*

47. THIỀN SƯ TỔ GIÁC HOA NGHIÊM TRUNG NHAM

Sư họ Dương, quê ở Gia Châu, thuở nhỏ thông minh sách sử qua mắt thành tụng, viết sách bài Phật giáo. Bỗng thấy ác cảnh hiện, Sư liền hối cải đi xuất gia. Sư nương theo Thiền sư Năng ở Huệ Mục, chưa bao lâu bị bệnh ung thư ở đầu gối, năm năm mà trị chẳng lành. Nhân Sư viết Hoa Nghiêm Hiệp Luận xong, ban đêm mộng thấy điềm lạ, sáng ra bỏ gậy đi bộ. Một hôm, Sư tụng đến phẩm Hiện Tướng nói: ?thân Phật không có sanh, không đứng cũng không đi, chốn chốn đều thấy Phật?, Sư liền ngộ tông chỉ kinh Hoa Nghiêm. Gặp khi Sư đăng tăng tịch, Phủ soái thỉnh giảng ở Thiên Bộ đường. Sư giảng lời lẽ khoáng đạt, cả chúng đều kính phục. Chợt Thiền sư Tỉnh ở Nam Đường đi qua cửa, bảo Sư rằng: Xem Thầy giảng nói vượt cả mọi người, rất tiếc chưa lìa tướng văn tự. Nếu đi hỏi đạo ở xứ ngoài tức là Chu Kim Cang hiện nay. Sư vui vẻ bãi giảng Nam du.

*

Sư nương Viên Ngộ ở Chung Phụ. Một hôm Sư vào thất, Viên Ngộ nhắc La Sơn nói: ?khi có nói, chận đầu cọp nắm đuôi cọp, dưới câu thứ nhất rõ tông chỉ; khi không nói, thấy bày máy nhọn như đồng điện chớp?, làm sao hội? Sư không thể đáp, ngày đêm tham cứu bỗng nhiên có tỉnh, Sư làm kệ trình Viên Ngộ:

Nhà ở đảnh Cô Phong,

Hằng năm đóng nửa cửa,

Tự than thân đã già,

Kế sống giao con cháu.

Viên Ngộ xem hứa khả. Hôm sau vào thất, Viên Ngộ lại hỏi: - Hôm qua công án thế nào?

Sư nghĩ đáp. Viên Ngộ liền hét bảo:

- Phật pháp chẳng phải đạo lý này. Sư lưu lại năm năm, lại càng mê muộn.

*

Sau Sư đến chùa Thê Hiền ở Lô Sơn xem bộ luận Tỏa Chấp của Thiền sư Viễn ở Phù Sơn đến câu: ? nếu nói ngộ có thân sơ, đâu có trong rừng chiên-đàn lại sanh cỏ thối?, Sư hoát nhiên khế ngộ, làm kệ gởi Viên Ngộ rằng: ?Ra rừng như cũ vào bồng hao, lưới trời lồng lộng trốn được nào, ai tin nghiệp duyên không thể trốn, trở về chẳng sợ lời nói cao.? Viên Ngộ rất vui, đem đến bảo chúng: - Giác Hoa Nghiêm đã triệt vậy.

*

Sau Sư trụ viện có vị Tăng hỏi: - Tối sơ Phật Oai Âm Vương rốt sau Phật Lâu-chí, chưa biết tham thấy người nào?

Sư đáp: - Nhà ở thành Đại Lương lại hỏi đường Trường An.

Tăng hỏi: - Như Đức Sơn gánh bộ Sớ Sao đi hành cước ý ở chỗ nào?

Sư đáp: - Đè vỡ tròng mắt ông.

Tăng hỏi: - Cùng Hòa thượng ngộ tông chỉ Hoa Nghiêm cách nhau bao nhiêu?

Sư đáp: - Đồng đường chẳng đồng dấu.

Tăng nói: - Ngày xưa Đức Sơn ngày nay Hòa thượng.

Sư đáp: - Trời chiều về Tây nước chảy về Đông.

*

Sư thượng đường nhắc: Hòa thượng Thạch Sương thiên hóa, chúng thỉnh Thủ tọa nối tiếp trụ trì, thị giả Kiền hỏi công án. Sư nói: - Chỗ tông sư đi như lửa đốt băng, thấu qua cổng thị phi, toàn cơ quên, được tột đạo. Thủ tọa kẹt ở một sắc. Thị giả tri kiến vượt thầy, đáng gọi thể diệu mất tông toàn mê hướng bối. Đâu chẳng biết Thủ tọa như cò trắng đứng trong tuyết, phẩm loại chẳng đồng. Thị giả dường chim phượng bay trong không chẳng dính lưới vàng. Một người đứng trên chót vót núi cao, một người đi tận đáy biển sâu. Mỗi vị tự theo phương mà đến, đồng hội trong thành cửu trùng. Hiện nay cần biết hai người này chăng? Sư dựng đứng phất tử lên nói: - Rồng nằm đầm biếc gió ầm ầm. Sư hạ phất tử xuống nói: - Hạc về không rộng lưng mài trời.

Có vị Tăng hỏi: - Thế nào một hét như Kim Cang Vương bảo kiếm?

Sư đáp: - Máu đẫm Phạm Thiên.

Tăng hỏi: - Thế nào một hét như sư tử ngồi xổm?

Sư đáp: - Chồn hoang hoảng hốt.

Tăng hỏi: - Thế nào một hét như sào dò bóng cỏ?

Sư đáp: - Nghiệm được xương của ông.

Tăng hỏi: - Thế nào một hét chẳng có dụng một hét?

Sư đáp: - Phải nên biết rõ người cầm kim, chớ nói oan ương lông cánh tốt.

*

48. THIỀN SƯ HUỆ VIỄN HẠT ĐƯỜNG LINH ẨN

Phủ Lâm An

Sư họ Bành, quê ở trấn Kim Lưu My Sơn. Năm 13 tuổi, Sư theo tăng Tông Biện viện Dược Sư xuất gia. Sau đó đến Thành đô học kinh luận. Sư lại trở về Nga My tại chùa Vân Nham, là nơi Thiền sư Trưng trụ trì. Thiền sư Trưng là cháu đời thứ tư của Thiền sư Huệ Nam Hoàng Long, tri kiến khá cao. Sư mới vào cửa gặp Trưng thọ trai xong đi dạo hành lang chùa. Vừa gặp, Sư liền để túi vải xuống hỏi: - Văn-thù là thầy bảy đức Phật, chưa biết người nào là thầy Văn-thù?

Trưng đáp: - Cát vàng bờ khe Mã Lang về.

Khi ấy có Thiết Phất Khởi làm Thủ tọa, Sư cũng đến thân cận. Khởi thường nhắc nhở Sư, trải qua hai năm mà không sở đắc. Một hôm, Sư tĩnh tọa có một vị Tăng đi một mình tự nói: - Mượn tứ đại để che đậy, duyên sáu trần mà sanh tâm, chợt gặp sáu trần liền dứt, gọi cái gì là tâm? Sư nghe bỗng dưng có tỉnh. Sư đứng dậy trình với Thủ tọa, Thủ tọa nhận đó, đến phương trượng trình với Trưng, Trưng cũng nhận đó. Ngày sau liền từ giã đi, đồng học giữ lại. Sư không chịu nói: - Thầy tôi cho là được, mà tôi trọn chưa hài lòng.

*

Bấy giờ Viên Ngộ từ Vân Cư trở về Thục trụ ở Chiêu Giác, Sư liền đến đó. Mỗi khi hỏi thoại ý chỉ rất cao vót, Viên Ngộ thầm nhận. Một hôm Viên Ngộ phổ thuyết nhắc Bàng Cư sĩ hỏi Mã Tổ: - Chẳng cùng muôn pháp làm bạn là người gì? Mã Tổ bảo: - Đợi ông hớp một ngụm cạn nước Tây Giang liền nói với ông.

Sư nghe nói bỗng nhiên đại ngộ, ngã tại trong chúng, chúng cho là trúng gió cùng dìu dậy. Sư nói: - Tôi mộng hay thức?

Đến tối Viên Ngộ tiểu tham, Sư ra hỏi: - Sạch trọi trơn rỗng không một vật, thân trần nghèo tột không một tiền, cửa nát nhà tan xin Thầy cứu giúp?

Viên Ngộ đáp: - Bảy trân tám bảo một lúc lấy.

Sư thưa: - Làm sao cướp chẳng vào nhà cẩn thận?

Viên Ngộ đáp: - Cơ chẳng rời vị rơi trong biển độc.

Sư theo tiếng liền hét. Viên Ngộ lấy cây gậy gõ giường thiền nói: - Ăn được gậy hay chưa?

Sư lại hét. Viên Ngộ hét liên tiếp hai tiếng. Sư lễ bái. Viên Ngộ rất vui làm kệ tặng Sư. Có cựu Thiết Thiệt có lời tháo chốt cửa, chúng gọi Sư là Thiết Thiệt Viễn. Từ đây cơ phong cao vót không ai chống lại.

*

Mùa xuân năm Ất Mão hiệu Thiệu Hưng, Huyện thú My Sơn mời Sư trụ núi Tượng Nhỉ, Sư chẳng nhận. Năm ấy Viên Ngộ thị tịch, Sư than: Triết nhân đã mất nối đó là ai? Sư đóng một chiếc thuyền nhỏ xuống núi. Ban đầu đến Hoài Nam, Sư trụ ở Long Bàng tám năm, kế dạo Lang Nha lại sang Phổ Tế, Định Nghiệp. Từ Sư phát minh tâm yếu liền được du hí, như gió đại tự tại tam-muội.

*

Sư khai pháp đăng tòa nói: Trời không cửa đất không vách, trên gác hồ lô trồng đông qua, hai tay kéo cày nước đến gối, nhảy chuồn vàng nuốt dạ gai lật, vỗ bản thổi sáo không lỗ, thua! Thua! Sơn tiêu một chân giỏi nhảy đôi, năm rồi mùa đông không than đốt, năm nay định là không lửa hơ, khi đói đói đến tròng mắt vàng, khi nghèo nghèo đến thân trần đứng, thua! Thua! Hãy nói thua cái gì? Tại sao Giám tự, Phó tự, Duy-na, Điển-tọa, Trực-tuế? lại cùng thợ bùn nước thương lượng, thả ra chim cú hai đầu, nhai nát xương sống Phật điện.

*

Sư thượng đường nhắc: ?Hòa thượng Chơn Tịnh dạy chúng: Trời đất cùng ta đồng gốc, vạn vật cùng ta đồng thể, đầu gót chân đuôi gót chân ngang ba dọc bốn, Bắc Câu-lô Châu nổi lửa đốt lông mày Đế Thích, Đông Hải Long vương không thể nhịn được, sấm vang một tiếng ầm ầm, liền được hồ nghiêng núi ngã mây đầy không dài, chữ thập đầu đường con nhà họ Liêu họ Hồ, trong lúc ngủ mê trỗi dậy vỗ tay cười hả! Hả! Nói: Trong thành Quân Dương gần đây ít cướp. Hòa thượng cầm cây gậy nói: Cướp! Cướp!? Sư nhắc xong nói: Phải thì một trường bán buôn chẳng ít, nào ngờ lỗ mũi tròng mắt mỗi người còn có chủ. Cớ sao? Trong gò sắn bìm lấy trộm chưa phải kẻ cướp ban ngày, trước cửa quán rượu bỏ sót chẳng phải chánh cướp. Khi ấy ở đông lang đường có tiếng chó sủa, Sư liền gọi cư sĩ xem: Trước cửa có quan khách nào. Đại chúng đều xoay đầu nhìn. Sư bảo: Cần thấy chánh cướp chăng? Sư bèn huýt sáo một tiếng, chao tay xuống tòa.

*

Khi ấy Đại Huệ ở Mai Châu có người truyền kệ tụng và đề xướng của Sư đến, Đại Huệ ngạc nhiên nói: Lão sư về già có đứa con như thế ư? Nhân đây Đại Huệ biên thơ thông tin và gởi tặng pháp y của Viên Ngộ. Sư làm tụng nghênh đón, hai vị gặp nhau rất vui. Đại Huệ hết lời khen ngợi, lại đề ảnh Sư: Cái võ Xuyên này không chân không giả, một cây gậy trắng Phật đến cũng đánh, lại có một chỗ rất hay, giỏi nhằm trên bát bồn chạy ngựa.

Kế Sư dời trụ Quang Hiếu trải mười năm. An định quân vương Triệu Biểu Chi cùng Sư làm bạn ngoài đời. Thị lang Tă?g Khai theo Sư thưa hỏi. Tă?g tuy là sĩ đại phu mà đã bảo tham nơi chư kỳ lão, theo Đại Huệ dạo đi rất lâu mà chưa thâm giải thoát, đến gặp Sư mới dứt các nghi.

*

Sau Sư dời đến Nam Nhạc trụ ở Nam Đài. Khi đó Thiền sư Liêu ở Long Vương, Thiền sư Phương ở Quãng Hạnh đều là cao đệ của Nguyệt Am, đạo đức nổi tiếng ở Hồ, Tương. Hai vị nói với nhau: Khoảng này vách đứng ngàn nhẫn, Viễn chỗ nào tá túc ư? Nhân thỉnh Sư đang tòa, lập hơn ba mươi câu hỏi đều là hóc búa nguy hiểm, chỗ học giả khó đến. Sư tùy cơ giải đáp lời lẽ thâm áo nghĩa luận siêu việt, mọi người rất thán phục. Liêu dẫn đồ chúng đảnh lễ nói: Gối này chẳng cúi nơi người đã lâu.

*

Sư lại sang Thiên Thai trải trụ trì ba chùa Hộ Quốc, Quốc Thanh, Hồng Phước. Khoảng niên hiệu Càn Đạo (1165-1174) Thượng thơ Trần Đức Hòa trấn thú Bình Giang do đại đạo tràng Hổ Khưu gần đây không có người, tận tâm mời Sư trụ trì. Sư đến đây hết lòng mở mang đạo pháp. Sư lại vâng chiếu trụ chùa Sùng Tiên ở núi Cao Đình. Chưa bao lâu, Sư thối viện đến trụ am Nghinh Chiếu. Sư lại vâng chiếu trụ Linh Ẩn. Ngày khai đường có Trung sứ niêm hương chúc Thánh xong. Sư niêm hương rằng: - Một cây hương này trời đất không thể che đậy, mắt Phật không thể xem lường, đưa lên diệt chủng tộc Ấn Độ, nắm lại mờ mịt giết người, lụy ta ba mươi năm, trong cỏ hoang nằm ngang, đến khiến một đời làm kẻ chẳng nghẹn ngào, tựu trung có chút sai lầm, đối chúng cũng phải nói phá. Sơn tăng hai mươi năm trước, bị gió nghiệp thổi đến dưới núi Dân Nga trong rừng gai góc, chạm đến chiếc chùy không lỗ, bị kia một đập nửa say nửa tỉnh, sẽ bảo câm miệng một đời không thể mở. Hai mươi năm sau, lại bị gió nghiệp thổi đến rửa giặt ở đầu Cẩm Giang, trong gò sắn bìm gặp được cái đuôi đỏ trăng trắng, khi ấy chính bị cắn một cái, liền không tán đảm vong hồn, mở được miệng đến nay thọ dụng chẳng hết. Hãy nói, hương này vì thiện tri thức hai mươi năm trước là phải, vì thiện tri thức hai mươi năm sau là phải? Một con hạc chẳng đậu hai cây, một người khách chẳng phiền hai nhà. Đâu chẳng thấy nói: Trước đi chẳng đến, rốt sau vượt xa. Ngày nay thân cướp đã bày tang vật hiện tại. Phụng vì Thành đô phủ Chiêu Giác tiên Viên Ngộ Thiền sư Đại Hòa thượng. Chẳng trọng Thầy đối ngự bàn không, hoành hành hải thượng, chỉ trọng Thầy trong ngực không vật trong bụng không thiền, khói nhằm trong lò dùng đều pháp nhũ.

*

Khi ấy, vua Hiếu Tông để tâm về Thiền học, nhiều phen mời Sư vào triều, ban hiệu là Phật Hải Thiền sư. Vua làm bài tụng tặng Sư:

Bát bồn chạy ngựa đến thiên đình,

Quen đạp ven trời ngựa chẳng sợ,

Xoay đầu bay lại núi cao vót,

Mây trắng bao trùm đế đô xuân.

Một hôm đánh trống đăng tòa xong, Sư vẫn ngồi trong màn. Thị giả tìm Sư chẳng thấy. Sư vạch màn ra nói: - Chỉ ở trong này vì sao chẳng thấy?

Thị giả không đáp được. Sư đáp thay: - Búa lớn bửa ba cửa.

Có vị Tăng Nhật Bản tên Giác A, thông Thiên Thai giáo và các sách, hay nói các thứ tiếng. Ban đầu đến yết kiến Sư tỏ ra rất lanh lợi, Sư đem Thiền tông chỉ dạy. Giác ở ba năm liền đốn ngộ làm tụng đầu cơ trình Sư. Nhân đây có phái thiền truyền sang Nhật Bản.

Niên hiệu Thuần Hy thứ hai (1175) năm nhuần sáng tháng chín, Sư thượng đường nói kệ:

Thuần Hy thứ hai nhuần,

Cuối thu sáng tháng chín,

Chỗ ồn chớ xuất đầu,

Đất lạnh để mắt thấy

Tối sáng chẳng tương can,

Kia đây phân một nửa,

Một thứ làm người quí,

Bảo ai bán củi than.

Nói với ông, không thể chê không thể khen, thể dường hư không chẳng bờ mé, gọi nhau kêu nhau về lại đi, năm tới định là tháng giêng nữa.

*

49. THIỀN SƯ TÂM ĐẠO

Ở Văn-thù phủ Thường Đức

Sư con nhà họ Từ, quê ở My Châu. Năm ba mươi tuổi được độ làm Tăng, Sư đến Thành đô học tập Duy thức tự cho là tột cùng. Có vị Tăng đồng chùa hỏi: - ?Ba cõi duy tâm, muôn pháp duy thức, nay vạn tượng trước mắt rõ ràng, tâm thức ở đâu??

Sư mờ mịt không đáp được, bèn ra đi đến sông Giang sông Hoài, rồi đến chùa Thái Bình. Sư nghe Thiền sư Phật Giám dạ tham nhắc thoại cây bá trước sân của Triệu Châu, đến Giác Thiết Chùy nói: - Tiên sư không lời này, chớ chê bai Tiên sư.

Nhân đây, Sư nghi rất thiết để khởi khá lâu, một hôm bỗng nhiên khai ngộ. Sư liền chạy đến trượng thất trình sở ngộ. Phật Giám thấy Sư đến liền đóng cửa. Sư thưa: - Hòa thượng chớ lừa con.

Phật Giám bảo: - Mười phương không tường vách sao chẳng vào cửa?

Sư liền thoi phủng cửa sổ giấy. Phật Giám liền mở cửa, nắm đứng bảo: - Nói! Nói!

Sư lấy hai tay vòng quanh đầu Phật Giám dùng miệng cạp một cái rồi đi, làm bài kệ trình:

Triệu Châu có một thoại cây bá,

Thiền khách truyền nhau khắp thiên hạ,

Phần nhiều vạch lá với tìm cành,

Không thể thẳng đến cội nguồn hiểu.

Giác Công nói rằng không lời này,

Chính là lời ác ngay mặt mắng,

Thiền nhân nếu đủ thông phương mắt,

Khéo nhằm trong đây biện chân giả.

Phật Giám thâm nhận đó, mỗi khi nói chuyện khách thường khen ngợi Sư, sau lại chia tòa cùng giáo hóa.

*

Thái thú họ Tương thỉnh Sư khai pháp ở Thiên Ninh, chưa bao lâu lại cử trụ trì chùa Văn-thù.

Sư thượng đường nói: Sư tử ngáp voi chúa rống, Vân Môn trong Bắc Đẩu ẩn thân, Bạch Vân vì sao gọi tác thủ, chư Phật ba đời không thể biết, chồn hoang trâu trắng lại biết có. Hãy nói thế nào là việc kia biết có? Mưa xối hoa lê con bướm bay, gió đưa tơ liễu lông cừu chạy.

Sư thượng đường cầm gậy chỉ lên nói: Khi thế ấy đâm phủng gót chân Kiều-thi-ca. Sư lia một cái nói: Khi thế ấy lia vỡ xương đầu vua Diêm-la. Sư chỉ bờ Đông nói: Khi thế ấy xỏ qua tròng mắt cá lý ngư ở biển đông. Sư chỉ bờ Tây nói: Khi thế ấy bít mất lỗ mũi Tây Vương Mẫu. Hãy nói khi thảy không thế ấy thì sao? Năm nay mưa nước nhiều mỗi người nên phơi mắt.

Niên hiệu Tuyên Hòa (1119) Cải Nguyên ra chiếu đổi hiệu Tăng là Đức Sĩ. Sư thượng đường nói: Tây sang việc Tổ ý, ngày nay mới hoàn toàn, xưa là Tỳ-kheo tướng, nay làm hình Lão quân. Lông hạc kết áo bạc, đầu quấn khăn lá xanh, lâm tuyền khách vô sự, hai lần thọ quân ân. Sở dĩ nói: muốn biết nghĩa Phật tánh phải quán thời tiết nhân duyên. Hãy nói hiện nay là thời tiết gì? Tỳ-lô-giá-na đầu đội bảo quan, vì bày trong chân có tục, ông già Văn-thù thân mặc áo lông hạc. Cốt phải tùy thuận thời nghi, một người đã vậy đông người cũng vậy, cả đoàn thành lập tùng lâm, mừng được quần tiên tụ hội. Cùng rót rượu tiên mê, đồng xướng từ Thiệp hư, hoặc xem kinh Linh Bảo độ nhân, hoặc nói thuốc trường sanh bất tử. Đàn cầm dưới trăng, ngón tay phát ấm rất xưa, cờ bày trước hiên, diệu đến vượt ngoài thần cơ. Tiến một bước liền đến trên trời Đại La, lùi một bước lại vào trong thành Cửu U. Chỉ như không tiến không thối một câu lại làm sao nói? Dù cho lông hóa tam thanh lộ, cũng vẫn luân hồi một huyễn thân.

Năm thứ hai, Sư thượng đường nói: Chẳng đắp điều y, mặc áo lông, Lão quân hình tướng lại tương đồng, một năm rưỡi ấy tư tưởng rảnh, đại để hưng suy mỗi có thời. Phật Như Lai của ta dự biết pháp có nạn, trong kinh chép rõ thảy đều rành rành, so sánh niên đại chính là khi này, ma được tiện kia mê loạn chánh tông, Tăng đổi hình tục Phật lại danh tự, vọng sanh tà giải cắt sửa văn kinh, chuông khánh im tiếng bát bồn thêm chân, nhiều loại dối trá gạt lừa thánh quân, nhờ hoàng đế bệ hạ ta thánh đức sáng tỏ, chẳng quên dặn dò chẳng phế giáo kia, đặc tứ chấn chương ban hành khắp thiên hạ, vẫn cho Tăng Ni cạo tóc đắp y như trước. Thật là lò tàn nổi lửa cây khô lại tươi, chẳng lìa hình tục mà làm hình Tăng, chẳng ra ma giới mà vào Phật giới. Tiếng trống pháp vang lại chỉnh đốn suy đồi. Rượu tiên mê biến làm huỳnh tương cam lồ, từ Thiệp hư đổi thành bản nhạc Hoàn hương, buông đi ngàn mộc giản đưa lên Ni sư đoàn, ngày trước cúi đầu vòng tay, hôm nay hòa nam chẳng xét. Chỉ đổi tướng thời xưa chă?g đổi người thời xưa. Dám hỏi đại chúng, người thời xưa là một là hai? Sư im lặng giây lâu nói: - Gió thu cũng hiểu hiềm lan tịch, thổi hết năm này đạo giáo tro.

*

Niên hiệu Kiến Viêm năm thứ ba (1129) mùa xuân, Sư dạy chúng nhắc nhân duyên Lâm Tế sắp nhập diệt dặn dò Tam Thánh. Sư bảo: ?Chánh pháp nhãn tạng lừa mù diệt, Lâm Tế đâu từng có nói thế, xưa nay thời nhân đều vọng truyền, chẳng tin chỉ xem sau tam ngoạt.? Đến tháng ba nhuần giặc Chung làm phản, đồ chúng muốn dời Sư chạy sang miền Nam, Sư bảo: Học đạo sở dĩ liễu sanh tử nào có chạy đi đâu. Giặc đến, Sư bảo: Chóng thấy được giết, để vui tâm ngươi. Giặc liền đưa giáo giết Sư, máu tuôn ra đều thành sữa trắng. Bọn giặc kinh sợ lấy chiếu đậy lại rồi đi.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top