THIỀN SƯ TRUNG HOA III-3
THIỀN SƯ TRUNG HOA
TẬP BA
H.T THÍCH THANH TỪ
ĐỜI THỨ MƯỜI BỐN SAU LỤC TỔ
I. TÔNG TÀO ĐỘNG ĐỜI THỨ MƯỜI
A. NỐI PHÁP THIỀN SƯ TỬ THUẦN CÓ 9 VỊ:
1. Thiền sư Chánh Giác ở Thiên Đồng
2. Thiền sư Thanh Liễu ở Trường Lô
B. NỐI PHÁP THIỀN SƯ DUY CHIẾU CÓ 9 VỊ:
1. Thiền sư Đức Chỉ ở Viên Thông
2. Thiền sư Cảnh Thâm Trí Thông
II. TÔNG LÂM TẾ ĐỜI THỨ MƯỜI
A. PHÁI HOÀNG LONG
a- NốI PHÁP THIềN SƯ Tổ TÂM CÓ 47 Vị:
1. Thiền sư Ngộ Tân ở Hoàng Long
2. Thiền sư Duy Thanh ở Linh Nguyên Hoàng Long
b- NốI PHÁP THIềN SƯ KHắC VĂN CÓ 38 Vị:
1. Thiền sư Tùng Duyệt ở Đẩu Suất
2. Thiền sư Hạo Phật Chiếu ở Pháp Vân
3. Thiền sư Văn Chuẩn ở Phần Đàm
B. PHÁI DƯƠNG KỲ
a- NốI PHÁP THIềN SƯ THủ ĐOAN CÓ 12 Vị:
1. Thiền sư Pháp Diễn ở Ngũ Tổ
2. Thiền sư Trí Bổn ở Vân Cái
b- NốI PHÁP THIềN SƯ NHƠN DŨNG CÓ 12 Vị:
1. Thiền sư Nhật Ích ở Thượng Phương
III. TÔNG VÂN MÔN ĐỜI THỨ BẢY
A. NỐI PHÁP THIỀN SƯ THIỆN BỔN CÓ 69 VỊ:
1. Thiền sư Sở Minh ở Tịnh Từ
2. Thiền sư Diệu Trạm Tư Huệ ở Tuyết Phong
3. Thiền sư Chí Tuyền ở Vân Phong
*
14. THIỀN SƯ CHÁNH GIÁC HIỆU HOẰNG TRÍ
Ở Thiên Đồng Minh Châu - (1069 - 1135)
Sư họ Lý, quê ở Thấp Châu, mẹ Sư mộng thấy một vị Tăng ở Ngũ Đài cởi chiếc vòng mang vào cánh tay mặt bà. Sau đó, bà thọ thai Sư. Trong lúc mang thai, bà gìn giữ trai giới cẩn mật. Sư sanh ra, cánh tay mặt nổi quầng giống chiếc vòng. Ông nội và cha Sư tham thiền với Thiền sư Phật-đà Tôn đã lâu. Phật-đà chỉ Sư nói với cha Sư rằng: Đứa bé này đạo vận rất tốt, chẳng phải là người ở trong trần ai. Nếu xuất gia ắt làm pháp khí. Năm mười một tuổi, Sư được độ ở Tịnh Minh Bổn Tông. Năm mười bốn tuổi, Sư thọ giới cụ túc. Năm mười tám tuổi, Sư đi du phương. Khi sắp ra đi, Sư thưa với ông nội rằng: ?Nếu con không phát minh việc lớn, thề không trở về.?
Sư đến Hương Sơn chùa Tịnh Nhơn của Thiền sư Thành. Thiền sư Thành một phen trông thấy Sư liền hứa nhận. Một hôm, Sư nghe vị Tăng tụng kinh Pháp Hoa đến câu ?con mắt do cha mẹ sanh hẳn thấy ba ngàn thế giới?, bỗng nhiên có tỉnh. Sư liền đến trượng thất trình bày chỗ ngộ. Thiền sư Thành chỉ hương trên đài hỏi: - Trong đây là vật gì?
Sư thưa: - Là tâm hạnh gì?
Thiền sư Thành hỏi: - Chỗ ngộ của ngươi lại thế nào?
Sư lấy tay vẽ một tướng tròn để trình, lại ném ra phía sau.
Thiền sư Thành nói: - Kẻ đùa hòn đất có giới hạn gì?
Sư thưa: - Lầm!
Thiền sư Thành bảo: - Phải thấy người khác mới được.
Sư thưa: - Vâng! Vâng!
*
Sư đến Thiền sư Tử Thuần Đơn Hà. Đơn Hà hỏi: - Thế nào là chính mình trước không kiếp?
Sư thưa: - Con ếch nuốt trăng nằm đáy giếng, canh ba chẳng mượn cuốn rèm lên.
Đơn Hà bảo: - Chưa phải, nói lại.
Sư suy nghĩ. Đơn Hà đánh một phất tử, nói:
- Lại nói chẳng mượn?
Sư ngay lời nói đó đại ngộ, liền đảnh lễ.
Đơn Hà bảo: - Sao chẳng nói lấy một câu?
Sư thưa: - Ngày nay con mất tiền bị tội.
Đơn Hà bảo: - Chưa rảnh để làm xong, ngươi hãy đi.
Đơn Hà nhận trụ chùa Đại Hồng, cử Sư giữ chức Thư ký. Sau Đơn Hà sai Sư thủ chúng, số người đắc pháp khá đông. Được bốn năm, Sư dời đến Viên Thông. Khi ấy, Thiền sư Chơn Yết mời đến trụ Trường Lô, sai Tăng đi rước Sư. Sư đến, chúng ra nghênh đón, trông thấy y phục của Sư rách rưới đều lấy làm lạ. Chơn Yết sai thị giả đổi giày mới cho Sư. Sư bảo: - Tôi vì giày mà đến sao?
Cả chúng nghe nói hết lòng kính phục cầu thỉnh thuyết pháp. Sư ở lại đây làm Đệ nhất tọa sáu năm.
Sư ra trụ trì chùa Phổ Chiếu ở Thất Châu kế bổ trụ chùa Viên Thông, chùa Năng Nhơn ở Thái Bình. Sau cùng đến Thiên Đồng ở Trường Lô. Nơi đây chật hẹp, Sư sửa sang khoáng đạt, Tăng chúng đua nhau đến tham vấn rất đông.
Sư thượng đường: Gác vàng rèm sổ ai truyền tin nhà, màn đỏ phủ tối ném chân châu, chính khi ấy thấy nghe có chỗ chẳng đến, nói năng có chỗ chẳng kịp, làm sao thông được tin tức? Mộng về đêm tối mờ mờ sáng, cười chỉ gia phong rực rỡ xuân.
Sư thượng đường: Tâm không thể duyên miệng không thể luận, dù cho lui bước gánh vác, tối kỵ đương đầu chạm húy. Gió mát trăng trong bến đò xưa, thuyền đêm chèo chuyển lưu ly dấy.
Sư thượng đường: Không kiếp có chân tông, trước tiếng hỏi chính mình, đỏ cùng kế sống mới, trong trắng gia phong xưa, quả thật ngoài tam thừa, lặng lẽ trong một ấn, trở lại đi dị loại, muôn dòng tự về đông.
Sư thượng đường: Hôm nay là ngày đức Thích-ca đản sanh, Trường Lô chẳng biết nói thiền cùng quí vị vẽ hình tướng, chỉ như khi còn ở trong thai bà Ma-da thì sao? Sư lấy phất tử vẽ tướng này ( ), nói: Chỉ như khi lấy nước trong tắm sắc thân lại thế nào? Sư lại vẽ tướng này ( ), nói: Khi đi bảy bước, mắt nhìn bốn phương, tay chỉ trời tay chỉ đất, thành đạo thuyết pháp thần thông biến hóa, trí tuệ biện tài bốn mươi chín năm hơn ba trăm hội, nói xanh luận vàng chỉ Đông vẽ Tây, khi nhập Niết-bàn lại là sao? Sư vẽ tướng này ( ), lại nói: Nếu là kẻ Thiền tăng đủ mắt ắt là nhận nhau, kia nếu chưa được thế, mỗi mỗi trải qua mới được.
Sư thượng đường, Tăng ra hỏi: - Thế nào là người nhằm đi?
Sư đáp: - Mây trắng gieo khe mất, núi xanh tựa không cao.
Tăng thưa: - Thế nào là người trở lại?
Sư đáp: - Tóc bạc đầy đầu lìa hang núi, đêm tối xuyên mây vào xóm làng.
Tăng thưa: - Thế nào là người không đi không lại?
Sư đáp: - Gái đá kêu về mộng tam giới, người gỗ ngồi bặt sáu cửa an.
Sư lại nói: - Trong câu sáng tông thì dễ, trong tông biện thấu ắt khó. Sư im lặng giây lâu nói: Lại hiểu chăng? Gà sương chưa gáy Gia Lâm sáng, thầm lặng hành nhân qua Tuyết Sơn.
Tăng hỏi: - Khi một mảy tơ chẳng mắc thì thế nào?
Sư đáp: - Hợp nhau thuyền khách thảy gay chèo.
Tăng hỏi: - Trong kia việc thế nào?
Sư đáp: - Đao bén búa bén chẻ chẳng vào.
Tăng hỏi: - Khi miệng đãy mở thì thế nào?
Sư đáp: - Mặc tình chận khe lấp suối.
Tăng hỏi: - Khi lý thanh hư cứu kính không thân thì thế nào?
Sư đáp: - Vân màu dấu chưa bày, tin tức khó truyền đến.
Tăng thưa: - Một bước thầm dời huyền lộ chuyển, khắp thân buông thõng kiếp hồ không.
Sư đáp: - Khi đản sanh đến cha toàn thân không sót chiếu.
Tăng thưa: - Lý đã như thế sự lại thế nào?
Sư đáp: - Rành rẽ kéo về việc phân hóa, mây ứng mười phương lại ngại gì.
Tăng thưa: - Thế ấy thì bụi bụi đều hiện thân bản lai rồi vậy?
Sư đáp: - Thấu tất cả sắc, siêu tất cả tâm.
Tăng thưa: - Như lý như sự lại là thế nào?
Sư đáp: - Rắn chết trên đường thôi chớ đập, chiếc giỏ không đáy bỏ mang về.
Tăng thưa: - Vào chợ khéo thổi dài, về nhà mặc áo ngắn.
Sư đáp: - Người gỗ trên núi ca, gái đá bên khe múa.
Sư thượng đường: - Chư Thiền đức! Người nuốt hết Phật ba đời, vì sao lại mở miệng chẳng được? Người soi thấu bốn thiên hạ, vì sao nhắm mắt chẳng được? Bảo người nhiều bệnh hoạn cùng ông đồng thời niêm xong vậy. Hãy làm sao được thập thành thấu suốt đi. Lại hiểu chăng? Chẻ bể Hoa Sơn sắc nối nhau, khai thấu Hoàng Hà tiến đến biển.
Sư trụ trì được cúng không mừng, cho ra không chán, gặp những năm khó khăn lương thực cạn mà vẫn nuôi hơn vạn chúng. Sư thường quá ngọ không ăn.
Đến niên hiệu Thiệu Hưng (1135) tháng chín năm Đinh Sửu, Sư đi ra mắt quan liêu và đàn việt trong quận, kế đến ra mắt Việt soái Triệu Công để lời từ biệt, ngày bảy tháng mười về núi. Hôm sau, Sư tắm gội mặc y phục ngồi ngay thẳng nói chuyện với chúng. Sư nhìn vị Tăng hầu đòi bút viết thơ, để lại cho Thiền sư Đại Huệ ỏ Dục Vương việc thỉnh người kế thừa. Thơ kệ rằng:
Mộng huyễn không hoa,
Sáu mươi bảy năm,
Chim trắng khói lặn,
Nước thu tiếp trời.
Sư ném bút liền tịch. Sư thọ sáu mươi bảy tuổi, vua sắc thụy là Hoằng Trí, tháp hiệu Diệu Quang.
*
15. THIỀN SƯ THANH LIỄU CHƠN YẾT
Ở Trường Lô Chơn Châu
Sư họ Ung, quê ở Tả Miên. Lúc còn bồng nách cha mẹ đem vào chùa thấy tượng Phật, Sư vui mừng chớp mắt nhướng mày. Đến mười tám tuổi, Sư thi kinh Pháp Hoa được độ làm Tăng. Sư đến Thành đô chùa Đại Từ học tập kinh luận, lãnh hội được đại ý. Sư ra đất Thục đến Miến Hán vào thất Thiền sư Tử Thuần ở Đơn Hà.
Đơn Hà hỏi: - Thế nào là chính mình trước không kiếp?
Sư suy nghĩ để đáp. Đơn Hà bảo: - Ngươi còn ồn hãy đi.
Một hôm, Sư lên ngọn Bát Vu bỗng nhiên khế ngộ, thẳng về đứng hầu.
Đơn Hà tát bảo: - Sẽ bảo ông biết có. Sư vui vẻ lễ bái.
Hôm sau, Đơn Hà thượng đường nói: - Nhật soi Cô Phong biếc, nguyệt đến nước khe trong, Tổ sư huyền diệu quyết, chớ hướng tất lòng an. Liền xuống tòa.
Sư tiến đến trước thưa: - Ngày nay đăng tòa lại chẳng lừa được con.
Đơn Hà hỏi: - Ngươi thử nhắc lại ngày nay ta đăng tòa xem? Sư im lặng giây lâu.
Đơn Hà bảo: - Sẽ nói ông khắp đất.
Sư liền đi ra.
*
Sau Sư đi dạo Ngũ Đài Sơn, Kinh Sư, Phù Biện, thẳng đến Trường Lô yết kiến Tổ Chiếu, qua một lời nói khế hợp. Tổ Chiếu cho làm thị giả, qua một năm liền chia phần giáo hóa, không bao lâu Tổ cáo bệnh dưỡng già, giao phần giáo hóa lại Sư. Học giả qui tụ như trước. Đến cuối niên hiệu Kiến Viêm (1127), Sư đến Tứ Minh, trụ Phổ Đà, Thiên Phong ở Thai Châu, Tuyết Phong ở Mân. Vua ra chiếu mời Sư trụ trì chùa Dục Vương, kế chùa Long Tường ở Ôn Châu, chùa Từ Ninh Cảnh Sơn ở Hàn Châu. Hoàng thái hậu mời khai sơn chùa Sùng Tiên ở Cao Ninh.
*
Sư thượng đường: Tôi ở chỗ Tiên sư ngay một tát so sánh đều dứt, tìm chỗ mở miệng không thể được. Hiện nay lại có người sống vui chẳng cùng thế ấy chăng? Nếu không, hàm sắt mang yên mỗi người tự đeo.
Sư thượng đường: Trên đảnh Cô Phong qua cây cầu độc mộc, đi thẳng thế ấy vẫn là chỗ chân cao chân thấp của thời nhân. Nếu thấy được triệt chẳng ra khỏi cửa mà thâu khắp mười phương, chưa vào cửa mà thường ở trong thất. Nếu kia chưa như thế, nhân trời mát bửa một gốc củi.
*
Sư thượng đường: Bên khóe miệng lên meo trắng, mới được vào cửa; khắp chân thối nát đi, mới biết có việc trong cửa. Lại phải biết có cái chẳng ra cửa. Sư bảo: - Gọi cái gì là cửa?
Có vị Tăng hỏi: - Chư Phật ba đời nhằm trong đống lửa xoay bánh xe đại pháp, lại quả thật đấy chăng?
Sư cười to bảo: - Tôi lại nghi đấy.
Tăng thưa: - Hòa thượng vì sao lại nghi?
Sư đáp: - Hoa đồng thơm đầy đất, chim rừng chẳng biết thơm.
Tăng thưa: - Chẳng rơi phong thể lại nhận chuyển thân hay không?
Sư đáp: - Chỗ đi người đá chẳng đồng công.
Tăng thưa: - Hướng thượng việc thế nào?
Sư đáp: - Diệu ở trước hòn bọt, há che mắt ngàn thánh. Tăng lễ bái.
*
Một hôm, Sư vào nhà trù xem làm bún, chợt thùng thông lủng đáy. Chúng đều la hoảng: - Uổng lắm!
Sư bảo: - Thùng thông lủng đáy tự nên vui mừng, vì sao lại phiền não?
Chúng thưa: - Hòa thượng thì được.
Sư nói: - Quả thật đáng tiếc một thùng bún.
*
Sư thượng đường: Rêu phong lối cũ chẳng rơi hư ngưng, mù phủ rừng xanh nhận bày phong yếu, kim móc kín đáo, ai bảo ông chài về tổ, chỉ thế thừa đương, chính là bình thường sống thích lại có người đủ con mắt thấu cổng chăng? Sư im lặng giây lâu nói: - Dù cho sớm nghe liền trở về, đâu bằng từ lâu chẳng ra cửa.
*
Sư thượng đường: Chợt mưa chợt tạnh chợt lạnh chợt nóng, cái của Sơn tăng thì Sơn tăng tự biết, cái của quí vị thì quí vị tự nói. Hãy nói miệng của Tuyết Phong (Sư) trừ ngoài ăn cơm cần làm gì?
*
Sư hỏi vị Tăng: - Trên điện Lưu-ly Ngọc nữ phóng thoi để rõ bên việc gì?
Tăng thưa: - Hồi hỗ chẳng đương cơ.
Sư bảo: - Lại có đứt nối hay không?
Tăng thưa: - Xưa nay chưa từng gián đoạn.
Sư bảo: - Chính khi chẳng từng gián đoạn là sao?
Tăng trân trọng rồi đi ra.
*
Sư thượng đường: Thân không huyễn hóa tức pháp thân. Sư múa bảo: - Thấy chăng? Thấy chăng? Thế ấy thấy được ?qua cầu thôn rượu quí?. Sư múa bảo: - Thấy chăng? Thấy chăng? Thế ấy chẳng thấy ?cách bờ hoa rừng thơm?.
*
Sư thượng đường: Lại có người không bị huyền diệu ô nhiễm chăng? Sư im lặng giây lâu nói: - Một điểm này nghiêng nước bốn biển, đã là rửa đi chẳng rơi.
Tăng hỏi: - Thế nào là chính mình trước không kiếp?
Sư đáp: - Ngựa trắng vào hoa lau.
*
Sư thượng đường: Tột nhiệm tan gốc, thể diệu mất tông, một câu đứt dòng, sâu huyền cùng tột, bởi vì chỗ kín kim vàng chẳng bày sáng nhọn chỉ ngọc xuyên qua thầm bày sắc lạ. Tuy nhiên như thế vẫn là xen lẫn hai sáng, hãy nói chỗ khéo vụng chẳng đến làm sao hiểu nhau? Sư im lặng giây lâu nói: - Mây thưa soi thấu xanh mờ nhạt, cây núi thấp cao khóa biếc sâu.
Sư thượng đường: Chuyển công đến vị là người nhằm đi, ngọc ẩn Kinh Sơn quí. Chuyển vị đến công là người trở lại, lò hồng mảnh tuyết xuân. Công vị đều chuyển, khắp thân chẳng kẹt, buông tay quên áo, gái đá đêm lên máy, thất kín không người quét. Chính khi ấy bặt khí tức một câu làm sao hiểu nhau? Sư im lặng giây lâu nói: - Về cội gió rơi lá, soi tột trăng đầm không.
Sư tịch tại chùa Sùng Tiên ở Cao Ninh. Vua sắc thụy là Ngộ Không.
*
16. THIỀN SƯ ĐỨC CHỈ CHƠN TẾ
Ở Viên Thông Giang Châu
Sư họ Lý, là con Kim Tử Từ Hoành, gia thế sang trọng, đôi mắt Sư trông xanh biếc sáng lóng lánh. Năm mười tuổi, Sư chưa biết học chỉ thích ngủ, cha Sư gọi là bé u mê. Đến khôn lớn, Sư nhớ giỏi học tài. Khoảng hai mươi tuổi, Sư mộng thấy vị Tăng lạ trao cho bốn câu kệ và bức tượng của Nham chủ Nam An, bên cạnh có ghi bài kệ Thông Minh. Từ đây Sư trì niệm chẳng quên. Sau năm năm, Sư theo Kim Tử đến Tây Lạc, một đêm chợt đại ngộ, làm luôn mấy bài kệ. Một bài rằng: ?Chẳng bởi ngôn cú chẳng bởi người, chẳng bởi vật sắc chẳng bởi tiếng, đêm tối thổi đèn bèn đến gối, bỗng nhiên trong ấy đã sáng rồi.? Mỗi bài ca đều như thế, mọi người đều không hiểu. Sư cố xin xuất gia cha chẳng cho muốn nối tiếp làm quan. Sư thưa: Con sắp thoát khỏi lưới đời chẳng mắc trong tam giới, há lại vùi đầu trong danh lợi sao? Sư xin theo anh là Giác, rồi thế phát xuất gia thọ giới cụ túc. Sư tu chưa mấy năm mà đã nổi tiếng ở Kinh sư. Niên hiệu Tuyên Hòa thứ ba (1121) vào mùa xuân, vua Huy Tông ban hiệu là Chơn Tế. Sư nương với Thiền sư Duy Chiếu ở Viên Thông.
*
Sư thượng đường: Sơn tăng hai mươi năm về trước hai mắt đều mù không thấy chi cả, chỉ là nghe người nói đạo, trên bầu trời trong có mặt nhật to, soi thấu tam thiên đại thiên thế giới, không chỗ nào mà chẳng khắp, bởi sách vở muôn thứ trọn không thể thấy. Sau hai mươi năm mắt sáng từ từ mở, lại gặp màu trời mờ tối mây dầy nổi dậy, xem xét bốn phương trên dưới suy cùng, khi thấy mây bay liền theo chỗ đi mà suy tính, khi thấy mây dừng liền ở chỗ dừng làm hang ổ. Chính trong khoảng ấy, chợt gặp được người biết nhiều, hỏi rằng: Có phải cần thấy mặt trời chăng? Sao chẳng nhìn trên đảnh núi cao đi? Sơn tăng lại hỏi kia rằng: Chỗ nào là đảnh núi cao? Kia đáp: Chỗ hồng trần chẳng đến. Chư nhân giả! Tin tức này rất chính xác. Lại hiểu chăng? Nằm dài trên bàn Phật Đà Gia.
*
Sư thượng đường: Đêm qua ngài Cù-đàm đem tam thiên đại thiên thế giới đến, một hớp nuốt hết, như người uống nước nóng dấu vết chẳng còn liền đó tiêu tan. Chính khi ấy chư vị đại Bồ-tát, Thanh văn, La-hán và tất cả chúng sanh thảy đều chẳng hay chẳng biết. Chỉ có ngài Văn-thù, Phổ Hiền bỗng nhiên thấy được. Tuy nhiên thấy được mênh mông mênh mông dường như nhìn trên biển cả chợt nổi chợt chìm. Quí vị hãy nói, là tin tức gì? Nếu kiểm điểm được vỡ, nhận quí vị trên đảnh môn đủ một con mắt.
*
Sư thị tịch trà-tỳ được xá-lợi rất nhiều, xây tháp thờ tại núi Tư Không.
*
17. THIỀN SƯ CẢNH THÂM
Ở Trí Thông Hưng Quốc
Sư họ Vương, quê ở Thai Châu, từ nhỏ Sư đã xuất chúng. Năm mười tám tuổi, Sư theo ngài Đức Chỉ ở viện Quảng Độ xuất gia. Trước Sư đến yết kiến Thiền sư Tượng ở Tịnh Từ. Một hôm nghe Tượng nói: Nghĩ mà biết, suy mà hiểu đều là kế sống nhà quỉ, dấy lên không thể tự ngăn. Sư đến Bảo Phong chỗ Thiền sư Duy Chiếu xin vào thất. Bảo Phong bảo: Cần phải dứt niệm khởi diệt, nhằm trước không kiếp quét sạch huyền lộ, chẳng dính Chánh, Thiên dẹp sạch hiện nay, toàn thân buông hết, buông hết lại buông mới có phần tự do. Sư nghe qua liền đốn ngộ huyền chỉ. Bảo Phong đánh trống bảo chúng: Cảnh Thâm được đạo Xiển đề đại tử, kẻ hậu học nên nương y. Nhân đây, Sư được hiệu Đại Tử Ông.
Đến niên hiệu Kiến Viêm (1127), Sư khai pháp ở Trí Thông. Sư thượng đường: Lại chẳng vào cổng, đi chẳng ra cửa, đi lại không vết làm sao đề xướng. Dù được cổ lộ rêu phong, dê nai bặt dấu; ngô đồng trăng phủ phụng đỏ chẳng đậu. Vì thế nói: ?Chỗ ẩn thân không dấu vết, chỗ không dấu vết chớ ẩn thân.? Nếu hay như thế, đi đứng không nương trọn không hướng bối, lại thông cảm chăng? Mà nay phân tán như mây hạc, anh tôi đều mất chỗ chạm huyền.
*
Tăng hỏi: - Thế nào là Chánh trung thiên?
Sư đáp: - Bà lão mặt đen mặc lụa trắng.
Tăng hỏi: - Thế nào Thiên trung chánh?
Sư đáp: - Ông già đầu bạc mặc áo đen.
Tăng hỏi: - Thế nào là Chánh trung lai?
Sư đáp: - Trong phân bèn nhảy nhào.
Tăng hỏi: - Thế nào là Kiêm trung chí?
Sư đáp: - Đao tuyết thân lồng chẳng tự đứt.
Tăng hỏi: - Thế nào là Kiêm trung đáo?
Sư đáp: - Côn Lôn trong đêm đi.
Tăng hỏi: - Hướng thượng lại có việc hay không?
Sư đáp: - Bắt được rùa đen gọi là trạnh.
Tăng thưa: - Xin Thầy lại bày phương tiện.
Sư đáp: - Vào núi gặp cọp nằm, ra hang quỉ lại dẫn.
Tăng thưa: - Đâu được chiến tranh đãi nhau.
Sư đáp: - Ba lượng chỉ, một cân gai.
Niên hiệu Thiệu Hưng năm đầu (1131), Sư về trụ tại Bảo tàng Nham. Đến năm Nhâm Thân, Sư có chút ít bệnh, nói: Thế duyên hết vậy. Đến ngày mười ba tháng ba, Sư vì chúng tiểu tham, nói kệ:
Chẳng cần cạo tóc,
Nào phiền tắm gội,
Một đống lửa đỏ,
Ngàn chân muôn chân.
Tuy nhiên như thế, hướng thượng lại có việc hay không?
Sư liền nhắm mắt mà tịch.
*
18. THIỀN SƯ NGỘ TÂN TỬ TÂM
Ở Hoàng Long - (1044 - 1115)
Sư họ Vương, quê ở Khúc Giang Thiều Châu, dáng người cao lớn mặt đen giống như vị Tăng Ấn Độ. Sư xuất gia tại viện Phật-đà, khí tiết xuất chúng tư cách hơn người.
*
Ban đầu Sư đến yết kiến Tú Thiết Diện ở Thê Hiền. Tú hỏi: - Thượng tọa người xứ nào?
Sư thưa: - Quảng Nam Thiều Châu.
Tú hỏi: - Từng đến Vân Môn chăng?
Sư thưa: - Từng đến.
Tú hỏi: - Từng đến Linh Thọ chăng?
Sư thưa: - Từng đến.
Tú hỏi: - Thế nào là cành lá Linh Thọ?
Sư thưa: - Dài tự dài, ngắn tự ngắn.
Tú bảo: - Kẻ Mán ở Quảng Nam chớ nói loạn.
Sư thưa: - Đến Bắc Lô chỉ thế ấy.
Sư liền phủi áo ra đi. Tú thừa nhận, mà Sư không lưu ý.
Sư đến Hoàng Long yết kiến Thiền sư Bảo Giác, đàm luận không có chỗ ngộ. Bảo Giác bảo: - Nếu tài năng chỉ thế, nói ăn đâu hay no bụng người?
Sư bế tắc không lời nói được, bình thản bạch:
- Con đến đây cung gãy tên hết, cúi mong Hòa thượng từ bi chỉ chỗ an lạc.
Bảo Giác bảo: - Một hạt bụi bay hay che trời, một hạt cải rơi hay phủ đất, chỗ an lạc tối kỵ Thượng tọa có bao nhiêu thứ tạp nhạp. Cần phải chết toàn tâm từ vô thủy kiếp đến nay mới nên vậy.
Sư ra đi. Một hôm Sư ngồi lặng lẽ dưới tấm bảng, chợt gặp Tri sự đánh cư sĩ, Sư nghe tiếng roi bỗng nhiên đại ngộ. Đứng dậy quên mang giày chạy đến phương trượng thấy Bảo Giác, Sư tự khen: - Người trong thiên hạ thảy là học được, con đã ngộ được rồi.
Bảo Giác cười bảo: - Tuyển Phật được người đứng đầu bảng, ai dám đương.
Từ đây Sư được hiệu là ông già Tử Tâm, bảng chỗ Sư ở để là Tử Tâm thất. Sư ở lại đây thời gian lâu.
*
Kế đến, Sư đi dạo Tương Tây. Khi ấy Thiền sư Triết lãnh Nhạc Lộc, Sư đến ra mắt.
Triết hỏi: - Là phàm là thánh?
Sư đáp: - Phi phàm phi thánh.
Triết hỏi: - Là cái gì?
Sư đáp: - Đưa mắt nhìn lên.
Triết bảo: - Thế ấy là núi nam khởi mây núi bắc rơi mưa.
Sư đáp: - Hãy nói là phàm là thánh?
Triết bảo: - Tại sao trên đầu mênh mang dưới chân mênh mang?
Sư ngước nhìn trên thất thốt ra tiếng hư.
Triết bảo: - Hơi gấp giết người.
Sư đáp: - Dường phải. Phủi áo liền đi.
Sư đến yết kiến Thiền sư Ngộ ở Pháp Xướng. Ngộ hỏi: - Vừa rời chỗ nào?
Sư đáp: - Tôi từ Hoàng Long lại.
Ngộ hỏi: - Lại thấy Thiền sư Tổ Tâm chăng?
Sư đáp: - Thấy.
Ngộ hỏi: - Thấy ở chỗ nào?
Sư đáp: - Thấy ở chỗ ăn cơm ăn cháo.
Ngộ cầm đũa gắp lửa đẩy trong lò nói: - Cái này lại là sao?
Sư lôi đũa gắp lửa ra, rồi đi.
*
Sư ban đầu trụ Vân Nham, kế dời trụ Thúy Nham. Tại Thúy Nham xưa có miếu Thần, dân trong làng cúng kính rượu thịt liên miên. Sư sai Tri sự phá miếu. Tri sự từ không dám chuốc họa. Sư bảo: Nếu hay tác họa, ta tự làm đó. Đích thân Sư đến phá hủy cái miếu. Chợt thấy một con rắn to nằm khoanh đưa đầu như muốn mổ. Sư quở nó, nó bò đi. Sư về nghỉ an ổn. Không bao lâu, Sư trở lại trụ Vân Nham. Dựng lập Kinh tàng, Thứ sử Huỳnh Công Đình Kiên làm lời ký. Ông có đem lời ghi mộ của người thân khắc bên cạnh cái bia. Sư không bằng lòng nói: - Cái mộ mà xem thường không sợ họa sao? Sư nói chưa dứt, bỗng làn điện chớp sấm nổ vỡ tấm bia, song tàng ký vẫn an nhiên không tổn hại.
*
Về già, Sư trụ Hoàng Long học giả tụ họp rất đông. Sư mắc bệnh lui về ở Hối Đường. Dạ tham, Sư đưa cây phất tử lên nói: Xem! Xem! Phất tử bệnh hay Tử Tâm bệnh? Phất tử an hay Tử Tâm an? Phất tử xỏ thấu Tử Tâm, Tử Tâm xỏ thấu phất tử. Chính ngay khi này gọi phất tử lại là Tử Tâm, gọi Tử Tâm lại là phất tử, cứu kính phải nói thế nào? Sư im lặng giây lâu nói: Chớ đem phải quấy đến ta biện, phù sanh xuyên tạc chẳng can nhau. Có vị Tăng hỏi câu rốt sau. Sư nói kệ:
Một câu ở rốt sau,
Cần phải đường tâm dứt,
Cửa sáu căn đã không,
Muôn pháp không sanh diệt,
Nơi đây thấu được nguồn,
Chẳng cần cầu giải thoát,
Bình sanh thích mắng người,
Chỉ vì thường ưa sống.
Niên hiệu Chánh Hòa thứ năm (1115) tháng mười hai ngày mười ba, buổi chiều Tiểu tham, Sư nói kệ xong. Đến ngày mười lăm, Sư an nhiên thị tịch, thọ bảy mươi hai tuổi, bốn mươi lăm tuổi hạ. Tháp Sư ở sau Hối Đường.
*
19. THIỀN SƯ DUY THANH LINH NGUYÊN
Ở Hoàng Long
Sư họ Trần ở Bổn Châu, được tâm ấn nơi Hối Đường Tổ Tâm. Mỗi khi vì người, Sư bảo: Học giả thời nay chưa thoát sanh tử, bệnh tại chỗ nào? Lỗi tại tâm trộm chưa chết. Song không phải tội tại họ, mà tội ở thầy. Như Hán Cao Đế giết Hàn Tín. Hàn Tín tuy chết mà tâm kia thật chết ư? Học giả thời xưa ngay một lời nói liền thoát sanh tử, công hiệu tại chỗ nào? Tại tâm trộm đã chết, song không phải học giả tự hay như thế, thật là do thầy rèn luyện diệu mật. Như Lương Võ Đế ngự ở đại điện thấy Hầu Cảnh chẳng đổi sắc mặt, mà tâm Hầu Cảnh đã khô kiệt không còn. Các nơi nói ra đâu không có mỹ lệ, cốt như Triệu Xương vẽ hoa, hoa tuy giống như thật mà chẳng phải hoa thật.
*
Sư thượng đường: Tiếng trống vừa đánh đại chúng tụ hội, máy trời vô hạn một lúc tiết lộ. Chẳng cõi chánh nhãn liền nên qui đường, lại đợi lắm lời chôn vùi tông chỉ. Dù bảo: ?Thích-ca chẳng xuất thế, bốn chín năm thuyết pháp, Đạt-ma chẳng Tây sang, Thiếu Lâm có diệu quyết.? Tu Sơn Chủ cũng giống như ở chỗ cao trông về quê nhà. Lại nói: ?Người nào biết Phật Tổ, ngay đây liền siêu việt.? Dù cho thế ấy ngộ nhập thân thiết, lại có một con đường chuyển thân. Khám qua rồi vậy, Sư lấy phất tử gõ giường thiền xuống tòa.
Sư thượng đường: ?Gió thổi tùng, trăng rọi sông, canh khuya đêm vắng lại là ai? Sương mù mây ráng che chẳng được, trong đây dù nói chẳng bằng về.? Lại về đâu? Lá sen tròn tròn tròn giống gương, góc ấu nhọn nhọn nhọn như dùi.
*
Sư thượng đường: Chư Phật ba đời chẳng tri hữu, ân không nặng đáp. Mèo hoang trâu trắng lại tri hữu, công chẳng uổng bày, rõ đại dụng hiểu toàn cơ, bặt dấu vết chẳng nghĩ nghì, về đi tốt, không người biết, vọt thấu bầu trời tùng ngàn thước, cắt đứt hồng trần nước một khe.
*
Sư thượng đường: Chí đạo không khó, chỉ hiềm giản trạch, chớ có yêu ghét, rõ ràng minh bạch. Tổ sư nói thoại thế ấy làm mù hết con mắt người trong thiên hạ. Thiền tăng biết phải quấy rành Tăng tục, đến trong đây làm sao biện minh. Nước cùng chỗ ấy chưa hay đến, khó bảo ngồi xem khi mây bay.
*
20. THIỀN SƯ TÙNG DUYỆT
Ở Đẩu Suất phủ Long Hưng - (1044 - 1091)
Sư họ Hùng, quê ở Cám Châu. Buổi đầu Thủ chúng ở Đạo Ngô, lãnh một số chúng đến yết kiến Hòa thượng Trí ở Vân Cái. Trí đàm luận với Sư chưa bao nhiêu đã biết chỗ uẩn tích, bèn cười bảo: - Xem Thủ tọa khí chất phi phàm, tại sao thốt ra lời dường như kẻ say?
Sư đỏ mặt xuất mồ hôi thưa: - Cúi mong Hòa thượng chẳng tiếc từ bi.
Trí lại dùng lời châm chích thêm. Sư mờ mịt, liền xin nhập thất. Trí hỏi: - Từng thấy Hòa thượng Ngộ ở Pháp Xướng chăng?
Sư thưa: - Từng xem Ngữ lục của Ngài, tự hiểu rõ cũng không mong thấy.
Trí hỏi: - Từng thấy Hòa thượng Văn ở Động Sơn chăng?
Sư thưa: - Người Quan Tây không đầu não, mang một cái quần vải khai nước đái, có chỗ nào hay?
Trí bảo: - Ông chỉ đến chỗ khai nước đái tham lấy.
Sư theo lời dạy đến yết kiến Hòa thượng Văn thâm nhận được áo chỉ. Sư trở lại yết kiến Hòa thượng Trí. Trí hỏi: - Sau khi thấy người Quan Tây đại sự thế nào?
Sư thưa: - Nếu chẳng được Hòa thượng chỉ dạy đã luống qua một đời.
Sư bèn lễ tạ. Sư trở lại yết kiến Chơn Tịnh.
*
Sau Sư khai pháp ở chùa Lộc Uyển, có Thiền sư Thanh Tố là người đã tham vấn lâu nơi Từ Minh, tạm ở một cái thất chưa cùng Sư giao tiếp. Sư nhân ăn trái vải, gặp Thanh Tố qua cửa. Sư gọi: - Này ông già! Đây là hương quả mời cùng ăn.
Tố nói: - Sau khi Tiên sư tịch đã lâu không được ăn thứ này.
Sư hỏi: - Tiên sư là ai?
Tố nói: - Từ Minh, tôi hầu hạ người mười ba năm.
Sư nghi sợ nói: - Mười ba năm kham nhẫn hầu hạ, chẳng được đạo kia là sao?
Từ đây nhân ăn quả, Sư thường thường thân cận. Tố hỏi: - Thầy đã thấy người nào?
Sư thưa: - Động Sơn Văn.
Tố hỏi: - Văn thấy người nào?
Sư thưa: - Hoàng Long Nam.
Tố bảo: - Nam tấm biển thấy Tiên sư chẳng lâu, pháp đạo chấn hưng như thế.
Sư càng nghi sợ, bèn sắm hương đèn đến lễ Tố. Tố đứng tránh nói: - Tôi do phước mỏng Tiên sư thọ ký chẳng cho vì người.
Sư càng thêm cung kính. Tố bảo: - Vì thương lòng thành của ông, trái lời ký của Tiên sư. Ông bình sanh sở đắc thử nói ta xem?
Sư thưa đủ sở kiến.
Tố bảo: - Khả dĩ vào Phật mà không thể vào ma.
Sư thưa: - Vì sao vậy?
Tố bảo: - Há chẳng thấy cổ nhân nói một câu rốt sau mới đến lao quan.
Như thế mấy tháng, Tố mới ấn khả, bèn răn rằng: - Văn dạy ông đều là chánh tri chánh kiến, song ông lìa Văn quá sớm nên không thể tột chỗ diệu kia. Nay tôi vì ông điểm phá, khiến ông thọ dụng được đại tự tại, ngày khác chớ có nối pháp tôi.
Sau Sư nối pháp Chơn Tịnh.
*
Tăng hỏi: - Cầm binh khiển tướng phải nhờ hổ phù của vua, lãnh chúng dạy đồ thầm mang Tổ sư tâm ấn, thế nào là Tổ sư tâm ấn?
Sư đáp: - Đầy miệng nói chẳng được.
Tăng hỏi: - Chỉ cái này hay lại có cái khác?
Sư đáp: - Chớ đem hạc chạy trốn, gọi là ngỗng cầm quân.
Tăng hỏi: - Thế nào là cảnh Đẩu Suất?
Sư đáp: - Một nước nổi màu lam, ngàn núi gọt ngọc biếc.
Tăng hỏi: - Thế nào là người trong cảnh?
Sư đáp: - Bảy trũng tám gò không người thấy, trăm tay ngàn đầu chỉ tự biết.
*
Sư thượng đường: Tai mắt một bề trong, ở yên trong hang vắng, gió thu vào cổ tùng, trăng thu sanh sông biếc. Thiền tăng khi ấy lại cầu chân, hai con khỉ đột bốn đuôi duỗi. Sư hét một tiếng.
*
Sư thượng đường: Đẩu Suất trọn không biện biệt, lại kêu rùa đen là trạnh, không thể nói diệu bàn huyền, chỉ biết khua môi động lưỡi, khiến cho Thiền tăng trong thiên hạ xem thấy trong mắt một giọt máu, chớ có đổi sân làm hỉ người tiếu ngạo Yên Hà đó chăng? Sư im lặng giây lâu nói: Thổi lên một bản thăng bình nhạc, mong được sanh bình chưa hết sầu.
Sư thượng đường: Mới thấy tân xuân lại sang đầu hạ, bốn mùa dường tên sáng tối như thoi, bỗng chợt mặt hồng trở thành đầu bạc, cần phải nỗ lực riêng dụng tinh thần, cày lấy vườn ruộng của mình, chớ phạm lúa mạ của người, tuy nhiên như thế kéo cày mang bừa, phải là con trâu trắng ở núi Tuyết mới được. Hãy nói lỗ mũi ở chỗ nào? Sư im lặng giây lâu nói: - Bậy! Bậy!
Sư thượng đường: Thường cư vật ngoại qua thời rỗi, cầm ngang ống sáo thổi lưng trâu, một bản tự yên núi tự biếc, tình này chẳng với mây trắng bay. Rất thích, chư Thiền đức! Nhớ lại Phạm Lãi dối vượt sóng to, nhân nghĩ Trần Đoàn ngủ rỗng trên ngọn Thái Hoa, đâu từng mộng thấy luống được cao danh, thật chưa thần đạo nhàn du dấu quê. Tuy nhiên như thế, Thiền tăng mắt sáng chớ nói, Long An tự kỷ kia. Tốt!
*
Thượng đường: Không pháp cũng không tâm, không tâm lại gì xả, cần chân trọn thuộc chân, cần giả toàn về giả, trên đất bằng chèo thuyền, trong hư không cỡi ngựa, người chín năm nhìn vách, có miệng lại như câm. Tham!
Thượng đường: ?Đêm đêm ôm Phật ngủ, ngày ngày cùng Phật đi, ngồi đứng cùng theo nhau, nói nín đồng chung ở, muốn biết chỗ Phật đi, chỉ lời nói này vậy.? Chư Thiền đức! Cả nhà Phó Đại sĩ chỉ biết ôm cột cầu, tắm rửa đeo dây neo thuyền trên bản in đập đem lại, trong khuôn mẫu gỡ đem đi. Đâu biết nói: Thiền tăng bản sắc lấp bít hang Phật Tổ, đập nát cửa huyền diệu, nhảy ra hầm đoạn thường, chẳng nương cảnh thanh tịnh, trọn không một vật riêng vận dụng hai nắm tay, trên biển đi ngang dựng nhà lập nước. Có một nhóm, cần nhằm trên đầu sào trăm thước ngồi yên lặng lẽ, đến lúc thân nhào bỏ mạng không được. Đâu chẳng thấy Đại sư Vân Môn nói: Biết là việc này, ném qua một bên, dù cho thôi động tinh thần mắc chút gân cốt, nhằm trước khi hỗn độn chưa phân tiến được vẫn là kẻ độn, đâu kham ở trên đầu lưỡi người nếm được mùi vị, trọn không có ngày liễu ngộ. Chư Thiền khách! Cần hội chăng? Vén đứng lông mày có khó gì, rõ ràng chẳng thấy một mảy tơ, gió thổi bầu trời mây nổi nát, trên trăng núi biếc ngọc một hòn. Sư hét một hét xuống tòa.
*
Một hôm, Tào Sử Vô Tận cư sĩ Trương Công Thương Ưởng đi thanh tra qua Phần Minh thỉnh Trưởng lão năm viện đến Vân Nham thuyết pháp. Sư đăng tòa rốt sau, cầm ngang cây gậy nói: Chư thiện tri thức mới đến, nắm ngang buông dọc, đứng thẳng ném xiên, đổi bước dời thân dấu đầu bày sừng, đã ở trước mặt học sĩ mỗi vị nhận bại quyết, chưa khỏi ăn gậy đau trong tay Đẩu Suất (Sư), đến trong đây chẳng do ngọt cho ngọt. Cớ sao? Vì thấy sự bất bình đâu nhẫn được. Thiền tăng chánh lệnh tự phải hành, chao cây gậy xuống tòa.
*
Trong thất Sư dùng ba câu nói để nghiệm học giả:
1. Vạch cỏ xem gió chỉ mong thấy tánh, chính nay Thượng tọa tánh ở chỗ nào?
2. Biết được tự tánh mới thoát sanh tử, khi chết rồi làm sao thoát?
3. Thoát được sanh tử liền biết chỗ đi, bốn đại phân ly nhằm chỗ nào đi?
*
Niên hiệu Nguyên Hựu thứ sáu (1091) vào mùa đông, Sư tắm gội xong, họp chúng nói kệ:
Bốn mươi tám năm,
Thánh phàm giết sạch,
Chẳng phải anh hùng,
Long An đường trơn.
Sư ngồi yên thị tịch, thọ bốn mươi tám tuổi. Vua sắc phong Chơn Tịnh Thiền sư.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top