THIỀN SƯ TRUNG HOA II-8
THIỀN SƯ TRUNG HOA
TẬP HAI
H.T THÍCH THANH TỪ
ĐỜI THỨ TÁM SAU LỤC TỔ
1.- TÔNG TÀO ĐỘNG ĐỜI THỨ TƯ
A.- Nối pháp Thiền sư Xử Chơn. Có 6 vị
1.- Thiền sư Trí Tịnh Ngộ Không ở Cốc Ẩn
2.- Thiền sư Hành Nhơn ở Phật Thủ Nham Lô Sơn
2.- TÔNG LÂM TẾ ĐỜI THỨ TƯ
A.- Nối pháp Thiền sư Bảo Ứng Nam Viện Ngung. Có 1 vị
1.- Thiền sư Diên Chiểu ở Phong Huyệt
3.- TÔNG QUI NGƯỠNG ĐỜI THỨ NĂM
A.- Nối pháp Thiền sư Huệ Thanh ở Ba Tiêu. Có 4 vị
1.- Thiền sư Thanh Nhượng ở Hưng Dương
2.- Thiền sư Pháp Mãn ở núi U Cốc
4.- NỐI PHÁP ĐỨC SƠN ĐỜI THỨ BA
A.- Nối pháp Huyền Sa Sư Bị. Có 13 vị
1.- Thiền sư Quế Sâm ở Viện La-hán
2.- Thiền sư Huệ Cầu ở Viện An Quốc
5.- TÔNG VÂN MÔN ĐỜI THỨ HAI. Có 61 vị
1.- Bạch Vân Tường Hòa thượng
2.- Thiền sư Trừng Viễn ở Viện Hương Lâm
3.- Thiền sư Tông Huệ ở Thủ Sơ Động Sơn
32. THIỀN SƯ TRÍ TỊNH NGỘ KHÔNG
Ở Cốc Ẩn
Có vị Tăng hỏi:- Thế nào là chỗ Hòa thượng chuyển thân?
Sư đáp:- Kẻ nằm riêng.
- Thế nào là đạo?
- Phụng lâm quan.
- Con chẳng hội.
- Thẳng đến Kinh Nam.
- Thế nào là đường chỉ qui?
- Chớ dụng y.
- Lại cho con đến cùng chăng?
- Chỗ nào để được ngươi.
- Một hội Linh Sơn đâu khác hiện giờ?
- Chẳng khác hiện nay.
- Việc chẳng khác là thế nào?
- Như Lai mật chỉ, Ca-diếp chẳng truyền.
33. THIỀN SƯ HÀNH NHƠN
Ở Lô Sơn Phật Thủ Nham
Sư người ở Nhạn Môn, không biết tên họ gì, chỉ biết thuở nhỏ học Nho. Một hôm, Sư xả tục xuất gia, chí cầu đạt đạo. Sư du phương, trước đến yết kiến Thiền sư Xử Chơn, thầy trò khế hợp.
Sau Sư tìm đến sông Hoài lên ngọn Lô Sơn. Phía bắc hòn núi này có đảnh như năm ngón tay, dưới đó có thất đá sâu hơn ba trượng, Sư ở yên tại đây. Nhân đó, Sư được hiệu là Hòa thượng Phật Thủ Nham.
Sư không thâu đệ tử, có vị Tăng am ở gần thường tới lui giúp đỡ. Quanh thất Sư thường có con nai lạ mình như đãy gấm và chim chóc đoanh vây. Quốc chủ Giang Nam là Lý Thị nghe danh Sư rất ngưỡng mộ, ba phen sai sứ đi thỉnh mà Sư chẳng chịu đến. Ông cố tình thỉnh cho được, buộc lòng Sư phải đến chùa Thê Hiền khai pháp hội.
Có vị Tăng hỏi:- Thế nào là đối hiện sắc thân?
Sư đưa một ngón tay lên.
Ở đây chưa đầy một tháng, Sư lén trốn về núi lại.
*
Một hôm, Sư có chút bệnh, bảo vị Tăng am bên cạnh rằng: ?Trời đúng ngọ, ta đi vậy.? Vừa đúng ngọ vị Tăng ấy thưa cho Sư hay. Sư liền bước xuống giường đi ít bước đứng sững mà tịch. Sư thọ hơn bảy mươi tuổi. Trên ngọn núi có một gốc tùng trong ngày Sư tịch nó cũng khô héo.
Quốc chủ sai họa hình Sư, dùng những cây thơm hỏa táng, xây tháp nơi đảnh núi này thờ linh cốt của Sư.
34. THIỀN SƯ DIÊN CHIỂU
Ở Phong Huyệt - (896 - 973)
Sư họ Lưu, quê ở Dư Hàn, thuở nhỏ đã tỏ ra lỗi lạc có chí khí anh tài. Các sách vở đời, Sư đều xem qua, mà không có ý kinh bang tế thế. Cha và anh cố ép Sư đi thi làm quan. Đi đến kinh đô, Sư sang chùa Khai Nguyên xin xuất gia với Luật sư Trí Cung. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư dạo qua các nơi giảng kinh luận, chuyên nghiền ngẫm bộ kinh Pháp Hoa Huyền Nghĩa, tập tu chỉ quán định tuệ. Sư phát chí du phương hành khước.
Trước đến Việt Châu yết kiến Thiền sư Cảnh Thanh. Cảnh Thanh hỏi: Vừa rời nơi nào? Sư thưa: Từ Chiết Đông đến. Cảnh Thanh hỏi: Có qua sông nhỏ chăng? Sư thưa: Thuyền to riêng bay bổng, sông bé chở được nào? Cảnh Thanh bảo: Nước cảnh núi Thái chim bay chẳng qua, ngươi chớ nói lời nghe lóm. Sư thưa: Biển cả còn kinh sức thuyền chiến, vượt Hán buồm bay khỏi Ngũ hồ. Cảnh Thanh dựng đứng phất tử hỏi: Cái này là sao? Sư thưa: Cái này là cái gì? Cảnh Thanh bảo: Quả nhiên chẳng biết. Sư thưa: Ra vào cuộn duỗi cùng Thầy đồng dụng. Cảnh Thanh bảo: Chiếc muỗng nghe tiếng rỗng, ngủ say mặc nói xàm. Sư thưa: Đầm rộng chứa núi, lý hay dẹp cọp. Cảnh Thanh bảo: Tha tội bỏ lỗi hãy mau đi ra. Sư thưa: Ra đi tức mất. Sư ra đến pháp đường, liền nghĩ: phàm người hành khước nhân duyên chưa tột chỗ cứu kính, không thể bèn thôi đi. Sư liền trở lại thưa: Con vừa rồi trình bày chỗ cạn hẹp có xúc chạm đến Thầy, mong Thầy từ bi tha thứ cho. Cảnh Thanh bảo: Vừa rồi ông nói từ Đông đến, đâu không phải từ Thúy Nham đến? Sư thưa: Tuyết Đậu tạm dừng đông Bảo cái. Cảnh Thanh bảo: Chẳng theo dê mất cuồng giải hết, trở lại trong ấy nhớ Chương thiên. Sư thưa: Gặp tay kiếm khách nên trình kiếm, chẳng phải nhà thơ chớ hiến thơ. Cảnh Thanh bảo: Thơ nên cất, tạm mượn kiếm xem? Sư thưa: Cúi đầu người sành mang gươm đi. Cảnh Thanh bảo: Chẳng những chạm phong hóa cũng tự bày lầm lẫn. Sư thưa: Nếu chẳng chạm phong hóa đâu thấy được tâm cổ Phật? Sư thưa: Lại hứa thật với Thầy, nay có gì? Cảnh Thanh bảo: Nạp tử (Thiền sinh) phương Đông đến chẳng rành đậu bắp, chỉ nghe chẳng thôi mà thôi, đâu được hay thôi mà thôi. Sư thưa: Sóng to vọt ngàn tầm, nước trong đâu rời biển. Cảnh Thanh bảo: Một câu bặt dòng muôn cơ nghĩ sạch. Sư liền lễ bái. Cảnh Thanh bảo: Nạp Tử trổi thay!
*
Sư đến Hoa Nghiêm, Hoa Nghiêm bảo: Ta có làm bài ca chăn trâu, mời Xà-lê hòa. Sư thưa: Nhịp trống huơ roi trâu cọp chạy, xa dồn cây biển mỏm thành nhà.
Dừng lại Hoa Nghiêm, Sư làm Duy-na. Nhân có thị giả Khoách từ Nam Viện đến, Sư nhận được những đặc điểm nên kết làm bạn và thầm ngộ được chỉ yếu tam huyền. Sư than: Chỗ dùng của Lâm Tế như thế ư? Thị giả Khoách bảo Sư đến yết kiến Nam Viện.
*
Đến Nam Viện vừa gặp, Sư không lễ bái. Nam Viện bảo: Vào cửa phải rành chủ. Sư thưa: Quả nhiên thỉnh Thầy phân. Nam Viện lấy tay vỗ gối trái một cái. Sư liền hét. Nam Viện vỗ gối mặt một cái. Sư lại hét. Nam Viện bảo: Vỗ bên trái gác lại, vỗ bên mặt là sao? Sư thưa: Mù. Nam Viện liền nắm gậy. Sư thưa: Chớ gông mù gậy tối. Giựt gậy đập Hòa thượng, chớ bảo chẳng nói. Nam Viện ném gậy, nói: Ba mươi năm làm trụ trì, hôm nay bị gã Chiết mặt vàng vào cửa hãm lại. Sư thưa: Hòa thượng in tuồng ôm bát chẳng được, nói gạt là chẳng đói. Nam Viện hỏi: Xà-lê từng đến Nam Viện lúc nào? Sư thưa: Là lời nói gì? Nam Viện bảo: Lão tăng hỏi ông rõ ràng. Sư thưa: Cũng chẳng được bỏ qua. Nam Viện bảo: Hãy ngồi uống trà.
Sư uống nhà tăng xong, trở lên đảnh lễ tạ lỗi. Nam Viện hỏi: Xà-lê đã từng gặp người nào rồi đến đây? Sư thưa: Ở Nhượng Châu chùa Hoa Nghiêm cùng nhập hạ với Thị giả Khoách. Nam Viện bảo: Gần kẻ tác gia. Nam Viện lại hỏi: Phương Nam một gậy thương lượng thế nào? Sư thưa: Thương lượng rất kỳ đặc. Sư lại hỏi: Hòa thượng ở đây một gậy thương lượng thế nào? Nam Viện cầm gậy lên bảo: Dưới gậy vô sanh nhẫn, gặp cơ chẳng thấy Thầy. Ngay câu nói này Sư triệt ngộ, Sư ở lại đây sáu năm.
*
Một hôm, Nam Viện gọi Sư bảo: Ngươi nương nguyện lực đến gánh vác đại pháp, chẳng phải ngẫu nhiên. Lại hỏi: Ngươi nghe Lâm Tế khi sắp tịch nói chăng? Sư thưa: Nghe. Nam Viện bảo: Lâm Tế nói ?ai biết chánh pháp nhãn tạng của ta đến bên con lừa mù diệt?. Lại, Ngài lúc bình sanh như con sư tử thấy liền giết người, đến khi sắp tịch cớ sao lại bó gối xuôi đuôi như vậy? Sư thưa: Mật phó sắp tịch, toàn chủ tức mật. Nam Việt lại hỏi: Tại sao Tam Thánh Huệ Nhiên cũng không nói? Sư thưa: Con thật đã gần gũi nhận lãnh vào thất, chẳng đồng với người đi ngoài cửa. Nam Viện gật đầu, lại hỏi: Ngươi nói bốn thứ liệu giản là liệu giản pháp gì? Sư thưa: Phàm nói ra chẳng kẹt nơi phàm tình liền rơi vào thánh giải, là bệnh lớn của học giả. Bậc thánh trước vì thương xót mở bày phương tiện như lấy chốt tháo chốt.
Sư hỏi: Thế nào là đọat nhân chẳng đoạt cảnh?
Nam Viện đáp: Cung vàng vừa ra khỏi lò hồng, bắn bể Xà-lê da mặt sắt (tân xuất hồng lô kim đàn tử, sứu phá xà-lê thiết diện bì).
- Thế nào đọat cảnh chẳng đoạt nhân?
- Cắt cỏ chợt chia đầu sọ tét, mây dồn mới tụ bóng vẫn còn (sô thảo tạt phân đầu não liệt, loạn vân sơ trán ảnh du tồn).
- Thế nào nhân cảnh đều đoạt?
- Bước nhẹ tiến lên cần gấp gấp, nắm roi cầm cương chớ chậm chậm (niếp túc tiến tiền tu cấp cấp, tróc tiên đương ưởng mạc trì trì).
- Thế nào nhân cảnh đều chẳng đoạt?
- Thường nhớ Giang Nam trong tháng ba, vườn hoa thơm ngát chá cô hót (thường ức Giang Nam tam ngoạt lý, chá cô đề xứ bách hoa hương).
*
Đến niên hiệu Trường Hưng năm thứ hai (931) hậu Đường, Sư sang Nhữ Thủy ở chùa Phong Huyệt. Ngôi chùa này hiện đang hư hoại chỉ còn mấy tấm tranh che kèo cột. Sư dừng ở đây một mình ban ngày lượm trái rụng ăn, tối lại đốt dầu thông, suốt bảy năm tròn như thế. Sau này, đàn việt biết được, góp công chung sức cất thành ngôi chùa mới, liền trở thành ngôi đại tùng lâm. Niên hiệu Thiên Phúc năm thứ hai (937) Ngụy Tấn, ngày rằm tháng giêng Sư khai pháp.
*
Sư thượng đường bảo chúng:
- Phàm con mắt người tham học gặp cơ liền phải đại dụng hiện tiền, chớ tự ràng buộc nơi tiết nhỏ. Giả sử lời nói trước tiến được, vẫn còn kẹt vỏ dính niệm, dù là dưới câu liền được tinh thông, chưa khỏi chạm đến lại là thấy cuồng. Xem thấy hết thảy các ông đều là nhằm đến nương người tìm hiểu, sáng tối hai lối vì các ông một lúc quét sạch, dạy thẳng mỗi người các ông như sư tử con gầm gừ rống lên một tiếng, đứng thẳng như vách cao ngàn nhẫn, ai dám để mắt nhìn đến, nhìn đến là mù mắt y.
*
Sư đến Dỉnh Châu ở trong Nha môn lên tòa dạy chúng:
- Tâm ấn của Phật Tổ in tuồng như máy trâu sắt, đi liền ấn đứng, đứng liền ấn phá, chỉ như chẳng đi chẳng đứng ấn tức là phải hay chẳng ấn tức là phải? lại có người nói được chăng?
Khi ấy, có Trưởng lão Lô Pha bước ra hỏi:
- Học nhân có máy trâu sắt, thỉnh Thầy chẳng ấn vào?
Sư bảo:
- Quen câu kình nghê dầm trong rộng, lại than ếch nhảy ngựa lăn bùn (quán điếu kình nghê trừng thủy tẩm, khước nha oa bộ triển nê sa).
Lô Pha trầm ngâm, Sư hét rằng: Trưởng lão sao chẳng nói lên? Lô Pha suy nghĩ. Sư đánh một phất tử, nói: Lại nhớ được thoại đầu chăng thử nêu lên xem? Lô Pha vừa mở miệng, Sư lại đánh một phất tử.
Mục chủ nói: mới biết Phật pháp cùng Vương pháp một loại. Sư hỏi: Thấy đạo lý gì? Mục chủ nói: Đương cơ chẳng đoạn, lại chuốc loạn kia. Sư xuống tòa.
*
Sư thượng đường.
Có vị Tăng hỏi:
- Thầy xướng gia khúc tông phong ai? Nối pháp người nào?
Sư đáp:
- Siêu nhiên vượt khỏi ngoài Oai Âm, kiễng chân luống nhọc khen đất cát.
- Hát xưa không âm vận, thế nào hòa được bằng?
- Gà gỗ gáy nửa đêm, chó rơm sủa hừng sáng.
*
Tăng hỏi:- Thế nào là Phật?
Sư đáp:- Thế nào chẳng phải Phật?
- Chưa hiểu huyền ngôn, thỉnh Thầy chỉ thẳng?
- Nhà ở châu Hải Môn, Phù Tang (Nhật Bản) chiếu trước nhất.
*
Tăng hỏi:- Gương xưa khi chưa lau thì thế nào?
Sư đáp:- Thiên ma bể mật.
- Sau khi lau thì thế nào?
- Huỳnh đế không đạo?
*
Tăng hỏi:
- Phàm có hỏi ra đều là niết quái, thỉnh Thầy chặt thẳng cội nguồn?
Sư đáp:- Ít gặp người tai phủng, thường thấy kẻ khắc thuyền.
- Chính khi ấy thì làm sao?
- Rùa mù gặp bộng (cây) tuy an ổn, cây khô trổ hoa vật ngoại xuân.
*
Tăng hỏi:- Khi một niệm muôn năm thì thế nào?
Sư đáp:- Áo tiên lau đá rách.
- Hồng chung khi chưa đánh thì thế nào?
- Đầy dẫy đại thiên đều âm vận, diệu hợp thầm thông đâu hay phân.
- Sau khi đánh thì thế nào?
- Vách đá núi sông đâu chướng ngại, mù tiêu thông suốt mong thầm nghe.
*
Nhà Tống niên hiệu Khai Bảo năm thứ sáu (973) ngày mùng một tháng tám, Sư lên tòa nói kệ:
Đạo tại thừa thời tu tế vật
Viễn phương lai mộ tự đằng đằng
Tha niên hữu tẩu tình tương tợ
Nhật nhật hương yên dạ dạ đăng.
Dịch:
Phải thời truyền đạo lợi quần sanh
Chẳng quản phương xa tự vươn lên
Năm khác có người dòng giống đó
Ngày ngày hương khói đêm đêm đèn.
Đến ngày rằm, Sư ngồi kiết già thị tịch, thọ bảy mươi tám tuổi, năm mươi chín tuổi hạ. Trước đó một ngày, Sư viết thơ từ giã đàn việt.
35. THIỀN SƯ THANH NHƯỢNG
Ở núi Hưng Dương
Có vị Tăng hỏi Sư:
- Phật Đại Thông Trí Thắng mười kiếp ngồi đạo tràng, Phật pháp chẳng hiện tiền chẳng được thành Phật đạo, khi ấy thế nào?
Sư đáp:- Lời hỏi này rất thích đáng.
Tăng hỏi:- Đã là ngồi đạo tràng, vì sao chẳng được thành Phật đạo.
Sư đáp:- Vì y chẳng thành Phật.
36. THIỀN SƯ PHÁP MÃN
Núi U Cốc
Có vị Tăng hỏi:- Thế nào là đạo?
Sư lặng thinh giây lâu, hỏi:- Hội chăng?
Tăng thưa:- Học nhân chẳng hội.
Sư bảo:- Nói đạo dưới lời không thinh,
Nêu cao áo chỉ đinh ninh,
Thiền cốt như nay hội lấy,
Chẳng cần riêng sau mất dừng.
37. THIỀN SƯ QUẾ SÂM
Ở viện La-hán - (867-928)
Sư họ Lý quê ở Thường Sơn, thuở bé mỗi ngày chỉ ăn một bữa cơm chay, nói ra những lời lạ thường. Đến lớn, Sư xin cha mẹ theo Đại sư Vô Tướng ở chùa Vạn Tuế tại bản phủ xuất gia. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư chuyên học luật.
Một hôm, vì chúng lên tòa nói giới bản Bồ-tát xong, Sư nói: Trì phạm chỉ giữ thân mà thôi, chẳng phải chân giải thoát; y văn sanh hiểu đâu thể phát thánh trí?
Sư phát chí tham vấn Thiền tông. Trước, Sư đến Vân Cư, Tuyết Phong thưa hỏi rất cần mẫn, nhưng vẫn chưa thâm đạt. Sau, Sư đến Huyền Sa yết kiến Đại sư Tông Nhất, vừa nghe một câu khai phát liền rỗng suốt không ngờ.
Huyền Sa hỏi Sư: Tam giới duy tâm, ngươi hội thế nào? Sư chỉ cái ghế dựa, hỏi: Hòa thượng kêu cái ấy là gì? Huyền Sa đáp: Ghế dựa. Sư thưa: Hòa thượng không hội tam giới duy tâm. Huyền Sa bảo: Ta gọi cái ấy là tre gỗ, ngươi kêu là gì? Sư thưa: Con cũng gọi là tre gỗ. Huyền Sa bảo: Tận đại địa tìm một người hội Phật pháp cũng không có. Sư do đây càng được khích lệ thêm.
*
Sư hầu Huyền Sa nơi phương trượng nói thoại đêm quá khuya, thị giả đóng cửa hết. Huyền Sa nói: Cửa đã đóng hết, ngươi làm sao ra được? Sư thưa: Gọi cái gì là cửa?
*
Huyền Sa dạy bảo chúng, có những người sắp được chánh định đều nhờ Sư trợ phát. Sư tuy tàng ẩn trong chúng, nhưng tiếng tăm vang xa.
*
Mục Vương Công ở Chương Châu có xây cất một tịnh xá tên Địa Tạng trên Thạch Sơn phía tây thành Mân, thỉnh Sư trụ trì. Sư ở đây được khoảng mười năm, sau dời đến ở viện La-hán. Nơi đây, xiển dương huyền yếu, học chúng tấp nập kéo đến.
Đang cấy lúa ngoài ruộng, thấy Tăng đến, Sư hỏi: Ở đâu đến? Tăng thưa: Nam Châu đến. Sư hỏi: Trong ấy Phật pháp thế nào? Tăng thưa: Bàn tán lăng xăng. Sư bảo: Đâu như ở đây, ta chỉ cấy lúa, nấu cơm ăn. Tăng hỏi: Thế nào là tam giới? Sư bảo: Gọi cái gì là tam giới?
*
Sư hỏi vị Tăng mới đến: Ở đâu đến? Tăng thưa: Phương nam đến. Sư hỏi: Các bậc tri thức phương nam có lời gì dạy chúng? Tăng thưa: Các Ngài nói: ?mạt vàng tuy quí dính trong con mắt cũng chẳng được?. Sư bảo: Ta nói núi Tu-di ở trong con mắt của ông.
*
Tăng hỏi:- Thế nào là một câu của La-hán?
Sư đáp:- Ta nói với ngươi, liền thành hai câu.
*
Sư thượng đường:
- Tông môn huyền diệu chỉ là thế ấy sao? hay riêng có chỗ kỳ đặc? Nếu riêng có chỗ kỳ đặc, các ông hãy nên xem cái gì? Nếu không, chẳng nên đem hai chữ bèn cho là tông thừa. Thế nào là hai chữ? Nghĩa là Tông thừa và Giáo thừa. Các ông vừa nói đến Tông thừa liền thành Tông thừa, nói đến Giáo thừa liền thành Giáo thừa.
Chư Thiền đức! Phật pháp tông thừa nguyên lai do miệng các ông an lập danh tự, làm lấy nói lấy bèn thành. Lẽ ấy cần phải nhằm trong đó nói bình nói thật nói viên nói thường.
Thiền đức! các ông gọi cái gì là bình thật? nắm cái gì làm viên thường? Kẻ hành khước nhà bên cần phải biện rành, chớ để chôn vùi; được một ít thanh sắc danh tự chứa trong đầu tâm, nói ta hội giải khéo hay giản biện. Các ông hội cái gì? ghi nhớ được danh tự ấy, giản biện được thanh sắc ấy. Nếu chẳng phải thanh sắc danh tự, các ông làm sao ghi nhớ giản biện? Gió thổi thông reo cũng là thanh, tiếng nhái ếch chim quạ kêu cũng là thanh, sao chẳng trong ấy lắng nghe để giản trạch đi. Nếu trong ấy có hình thức ý tứ thì, cũng như trong miệng các thầy già, có bao nhiêu ý tứ cùng các Thượng tọa. Chớ lầm! hiện nay thanh sắc dẫy đầy, là đến nhau hay chẳng đến nhau? Nếu đến nhau, thì linh tánh kim cang bí mật của ông nên có hoại diệt. Vì sao có như thế? Vì thanh xỏ lủng lỗ tai ông, sắc đâm đui con mắt ông, duyên thì lấp mất huyễn vọng của ông, càng chẳng dễ dàng vậy. Nếu chẳng đến nhau, thì chỗ nào được thanh sắc? Hội chăng? Đến nhau, chẳng đến nhau thử biện rành xem!
Sư dừng giây phút, lại nói: Viên thường bình thật ấy là người gì? nói thế nào? Chưa phải là kẻ ở trong thôn Hoàng Di thì biết nói thế nào? Đó là các vị Thánh xưa bày chút ít giúp đỡ hiển phát. Thời nay không hiểu phải quấy liền cho là toàn thật, nói ta riêng có tông phong huyền diệu. Phật Thích-ca không chót lưỡi, chẳng giống với các ông có chút ít bèn chỉ hông chỉ ngực. Nếu luận về tội sát, đạo, dâm, tuy nặng mà vẫn còn nhẹ, vì có khi hết. Kẻ này chê bai Bát-nhã làm mù mắt chúng sanh, vào địa ngục A-tỳ, nuốt hoàn sắt nóng chớ bảo là thong thả. Do đó, cổ nhân nói: ?lỗi tại hóa chủ, chẳng can hệ việc ông?. Trân trọng!
*
Sư thượng đường nói:
- Chư Thượng tọa! Chẳng cần cúi đầu suy nghĩ, suy nghĩ chẳng đến bèn nói chẳng dùng giản trạch, đến được chỗ buông lời chăng? Các ông nhằm chỗ nào buông lời, thử nói xem! Lại có một pháp gần được ông, lại có một pháp xa được ông chăng? đồng với ông khác với ông chăng? Đã như thế, tại sao lại thật gian nan?
*
Sư cùng Trường Khánh, Bảo Phước vào Châu thấy một đóa hoa mẫu đơn. Bảo Phước nói: Một đóa hoa mẫu đơn đẹp. Trường Khánh bảo: Chớ để con mắt sanh hoa. Sư bảo: Đáng tiếc một đóa hoa.
*
Sư có bài kệ minh đạo:
Chí đạo uyên quảng
Vật dĩ ngôn thuyên
Ngôn thuyên phi chỉ
Thục vân hữu thị?
Xúc xứ giai cừ
Khởi dụ chân hư
Chân hư thiết biện
Như cảnh trung hiện,
Hữu vô tuy chướng
Tại xứ vô ngụy
Vô ngụy vô tại.
Hà câu hà ngại?
Bất dã công thành
Tương hà pháp nhỉ
Pháp nhỉ bất nhỉ
Câu vi thần xỉ.
Nhược dĩ tư trần
Mai một tông chỉ
Tông phi ý trần
Vô dĩ kiến văn.
Kiến văn bất thoát
Như thủy trung nguyệt
Ư thử bất minh
Phiên thành thắng pháp.
Nhất pháp hữu hình
Ế nhữ nhãn tình
Nhãn tình bất minh
Thế giới tranh vanh.
Ngã tông kỳ đặc
Đương dương hiển hách
Phật cập chúng sanh
Giai thừa ân lực.
Bất tại đê đầu
Tư lương nan đắc
Tạt phá diện môn
Cái phú càn khôn.
Quyết tu tiến thủ
Thoát khước căn trần
Kỳ như bất hiểu
Mạn thuyết như kim.
Chí đạo sâu rộng
Chớ dùng lời bàn
Lời bàn phi chỉ
Ai rằng có phải?
Chạm đến đều y
Đâu dụ giả thật
Giả thật lập bày
Như bóng trong gương,
Có không tuy hiện
Tại chỗ không dối
Không dối không tại
Nào câu nào ngại?
Chẳng nhờ công thành
Đem gì pháp nhỉ
Pháp nhỉ chẳng nhỉ
Đều là môi răng.
Nếu lấy đây bày
Chôn vùi tông chỉ
Tông không ý bày
Không dùng thấy nghe.
Thấy nghe chẳng thoát
Như trăng đáy nước
Nơi đây chẳng rõ
Trở thành thắng pháp.
Một pháp có hình
Che đậy mắt mình
Mắt mình chẳng sáng
Thế giới lăng xăng.
Tông ta kỳ đặc
Nêu bày hiển hách
Phật và chúng sanh
Đều nhờ ân lực.
Chẳng ở cúi đầu
Suy nghĩ khó được
Vạch tét cửa mặt
Che đậy càn khôn.
Hẳn phải tiến lấy
Vượt khỏi căn trần
Nếu mà chẳng hiểu
Dối nói như nay.
*
Đời hậu Đường niên hiệu Thiên Thành năm thứ ba (928) mùa thu, Sư trở về thành Mân ở chùa xưa, đi thăm hết các chùa chung quanh thành. Sau đó, Sư bệnh ít hôm rồi tắm gội, từ giã chúng, ngồi ngay thẳng thị tịch. Sư thọ sáu mươi hai tuổi, bốn mươi tuổi hạ. Vua sắc thụy là Chơn Ứng Đại sư.
38. THIỀN SƯ HUỆ CẦU
Ở viện An Quốc núi Ngọa Long - (? - 915)
Sư quê ở Bồ Điền, xuất gia trên núi Qui Dương. Ở tại hội Huyền Sa, Sư là người đứng đầu. Nhân Sư hỏi Huyền Sa: Thế nào là mặt trăng thứ nhất? Huyền Sa bảo: Dùng mặt trăng của ngươi làm gì? Sư nhân đó ngộ nhập.
Nhà Lương niên hiệu Khai Bình năm thứ hai (908), Huyền Sa sắp thị tịch, Mân soái họ Vương sai con đến thăm bệnh, đồng thời hỏi kín ai là người kế thừa sau này. Huyền Sa nói: Huệ Cầu.
Sau khi Huyền Sa tịch, đến ngày khai giảng, quan liêu tăng lữ câu hội tại pháp tòa, họ Vương chợt hỏi chúng: Ai là Thượng tọa Huệ Cầu? Chúng chỉ Sư ra. Họ Vương liền thỉnh Sư đăng tòa.
Sư lên tòa im lặng giây lâu nói:
- Chớ hiềm lặng lẽ, chớ nói chẳng kham, chưa rành bờ mé làm sao luận bàn? Sở dĩ bình thường dùng tiếng vang ấy, nhờ vạch một hai cái giúp người phát minh đạo lý. Tột mười phương thế giới tìm một người làm bạn không thể có.
Tăng hỏi:- Đại ý Phật pháp từ phương tiện gì chóng vào?
Sư đáp:- Vào là phương tiện.
- Mây từ núi nào dậy, gió từ khe nào sanh?
- Tận lực lập bày chẳng rời Trung Tháp (chỉ chỗ Sư trụ).
Sư thượng đường bảo chúng:
- Ta khoảng này do nhân duyên cơm cháo vì huynh đệ nếu xướng trọn là bất thường. Nếu muốn được chỗ tỉnh yếu thì núi sông đất liền vì các ông phát minh. Đạo ấy đã thường cũng là cứu kính. Nếu từ cửa Văn-thù vào, tất cả cây cối đất cát ngói gạch giúp ông phát minh. Nếu từ cửa Quan Âm vào, tất cả tiếng vang ếch nhái ve dế giúp ông phát minh. Nếu từ cửa Phổ Hiền vào, chẳng dở chân bước mà đến. Ta dùng ba cửa phương tiện này chỉ bày các ông, như lấy một chiếc đũa bếp khuấy nước biển cả, khiến cá rồng kia biết nước là mạng sống. Hội chăng? Nếu không có con mắt trí mà xét kỹ đó, dù ông trăm ngàn thứ xảo diệu cũng chẳng phải là cứu kính.
*
Tăng hỏi:- Con mới vào tùng lâm chẳng rõ việc mình, xin Thầy chỉ dạy?
Sư lấy gậy chỉ, hỏi:- Hội chăng?
- Chẳng hội.
- Ta thế ấy là vì ông trở thành người co cúi, lại biết chăng? Nếu nhằm trên phần của người hiện tại, việc từ xưa đến giờ chẳng nói mới vào tùng lâm, đến chư Phật thuở quá khứ cũng chưa từng thiếu sót. Như nước biển cả, tất cả cá rồng từ mới sanh đến già chết, thọ dụng nước thảy đều bình đẳng.
*
Sư thượng đường bảo chúng:
- Các người! Nếu cần thương lượng đến xương sọ tìm lấy tin tức đem lại cùng nhau thương lượng, trong ấy chẳng từng chướng ánh sáng của người.
*
Sư hỏi Viện chủ Liễu:
- Tiên sư nói ?tột mười phương thế giới là thể người chân thật?, ông hiện thấy nhà tăng chăng?
Liễu đáp:- Hòa thượng chớ để con mắt sanh hoa.
Sư bảo:- Tiên sư đã thiên hóa mà thịt vẫn còn ấm.
*
Nhà Lương niên hiệu Càn Hóa năm thứ ba (915), nhằm năm Quí Dậu ngày mười bảy tháng tám, Sư không bệnh liền tịch.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top