Thien Long Bat Bo - Hoi 6-8

Hồi 6(a) : THÙY GIA TỬ ĐỆ THÙY GIA VIỆN

Chàng là con cái nhà ai,

Để cho thiếp phải trúc mai đi tìm?

*

* *

Hoi 6a.

Đoàn Dự ôm Mộc Uyển Thanh vào lòng, vừa hoan hỉ, vừa lo lắng hỏi:

- Mộc cô nương, vết thương của nàng ra sao rồi? Gã ác nhân kia không hiếp đáp nàng chứ?

Mộc Uyển Thanh hờn dỗi đáp:

- Thế em là gì của chàng? Sao vẫn cứ Mộc cô nương, Mộc cô nương gọi mãi thế?

Đoàn Dự thấy nàng phụng phịu lại càng xinh đẹp thêm vài phần, bảy ngày qua quả thực nhớ nhung khôn tả, choàng tay xiết lại dịu dàng nói:

- Uyển muội, Uyển muội! Ta gọi em như thế đã được chưa?

Nói xong ghé môi hôn lên môi nàng. Mộc Uyển Thanh “A” lên một tiếng, mặt đỏ bừng nhảy dựng lên kêu:

- Có người khác ở bên đây, chàng ... chàng ... sao lại thế? Ủa, những người đó đâu rồi?

Nàng nhìn chung quanh không thấy người áo thụng và bốn vị Chử, Cổ, Phó, Chu đâu cả, Tả Tử Mục cũng đã ôm con đi rồi, chung quanh không còn một ai.

Đoàn Dự ánh mặt lộ vẻ kinh hãi nói:

- Có ai đâu nào? Nam Hải Ngạc Thần ư?

. Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Chàng đến đã bao lâu rồi?

Đoàn Dự đáp:

- Cũng chỉ mới đến thôi. Ta lên trên đỉnh núi thấy nàng ngất đi nằm đây, ngoài ra có ai khác đâu. Uyển muội, hai đứa mình đi thôi để Nam Hải Ngạc Thần khỏi đuổi kịp.

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Phải lắm.

Nàng lẩm bẩm nói một mình: “Quả là kỳ quái, những người đó thoắt một cái đã biến đâu mất rồi”. Bỗng nghe từ phía sau tảng đá tiếng người ngâm nga:

Xách kiếm đi nghìn dặm,

Thân hèn có sá đâu.

Trượng kiếm hành thiên lý,

Vi khu cảm nhất ngôn.

Tiếng ngâm chưa dứt đã có một người bước ra, chính là một trong Tứ Đại Vệ Hộ Chu Đan Thần. Đoàn Dự reo lên:

- Chu huynh.

Chu Đan Thần tiến lên hai bước, khom lưng hành lễ, vui mừng nói:

- Công tử gia, thật may mắn công tử bình yên không sao cả, mới rồi cô nương đây nói mấy câu khiến cho ta sợ đến mất cả hồn vía.

Đoàn Dự cũng chắp tay đáp lễ nói:

- Thì ra hai bên đã gặp nhau rồi? Chu huynh ... Chu huynh sao lại tới nơi đây? Quả thực khéo quá.

Chu Đan Thần mỉm cười:

- Bốn anh em chúng tôi phụng mệnh đến đón công tử gia trở về chứ không phải may gặp nhau đâu. Công tử quả là lớn mật, một mình dám xông pha vào chốn giang hồ. Chúng tôi tìm đến nhà Mã Ngũ Đức rồi lại qua núi Vô Lượng, mấy hôm nay cả bọn thật là lo lắng.

Đoàn Dự cười nói:

- Ta quả cũng chịu không biết bao nhiêu khổ sở. Bá phụ và cha ta chắc giận lắm, phải không?

Chu Đan Thần đáp:

- Dĩ nhiên các vị không lấy gì làm hứng thú. Có điều khi chúng tôi ra đi thì hai vị gia đài đã hết giận, mấy hôm nay chắc là nhớ mong lắm. Về sau Thiện Xiển Hầu nghe tin Tứ Đại Ác Nhân cùng đến Đại Lý, sợ rằng công tử gia có thể chạm mặt với họ nên phải tự mình xuất mã.

Đoàn Dự nói:

- Cao thúc thúc cũng đi tìm ta ư? Nếu thế thì quả ta đáng trách thật. Ông ta đang ở đâu?

Chu Đan Thần nói:

- Mới rồi chúng tôi đều ở đây cả. Cao hầu gia ra tay đánh đuổi một mụ đàn bà, nghe tiếng công tử gọi, ai nấy đều yên tâm, bảo tôi ở đây chờ. Những người kia đuổi theo ác nữ nhân kia rồi. Công tử gia, thôi mình cũng cùng về phủ đi thôi, để cho hai vị gia đài khỏi thêm lo lắng.

Đoàn Dự nói:

- Thì ra ... thì ra Chu huynh nãy giờ vẫn ở đây.

Chàng nghĩ đến mình cùng Mộc Uyển Thanh nói năng thân mật đều bị y nhìn thấy nghe thấy cả, mặt liền đỏ bừng.

Chu Đan Thần nói:

- Mới đây ta ngồi sau tảng đá đọc bài thơ ngũ tuyệt của Vương Xương Linh:

Xách kiếm đi nghìn dặm,

Thân hèn có sá đâu.

Đã làm người khách trọ,

Há dám phụ ơn sâu.

Trượng kiếm hành thiên lý,

Vi khu cảm nhất ngôn.

Tằng vi Đại Lương khách,

Bất phụ Tín Lăng ân.

Chỉ vỏn vẹn có hai mươi chữ mà khẳng khái xiết bao khiến cho ai nấy đọc lên đều phải cảm thán ngậm ngùi.

Y nói xong rút trong bọc ra một quyển sách, chính là Vương Xương Linh thi tập. Đoàn Dự gật đầu:

- Người đời thường chỉ nói tới thất tuyệt của Vương Xương Linh, tưởng như ngũ tuyệt của ông ta không phải là sở trường. Thế nhưng bài ngũ tuyệt này quả là giai cấu. Còn như bài Tống Quách Tư Thương há chẳng phải vấn vương tha thiết lắm hay sao?

Chàng nổi hứng ngâm lên:

Một lần duyên gặp gỡ,

Nào dám coi như chủ.

Trăng sáng chiếu nóc nhà.

Sớm chiều luôn tưởng nhớ.

Ánh môn hoài thủy duyên,

Lưu kỵ chủ nhân tâm.

Minh nguyệt tùy lương chuyên,

Xuân triều dạ dạ thâm.

Chu Đan Thần vái một cái thật sâu nói:

- Đa tạ công tử.

Vừa rồi Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh hai người thân mật, tình ý dạt dào đều bị Chu Đan Thần nghe được có điều thấy Đoàn Dự có vẻ sượng sùng nên đem thơ Vương Xương Linh ra gỡ rối. Y dẫn câu “Tằng vi Đại Lương khách” vân vân là nói mình chẳng khác gì Hầu Doanh, Chu Hợi nhất định đem cái chết để báo đền công tử. Đoàn Dự lại dẫn bốn câu thơ của Vương Xương Linh ý tứ nói là chủ nhân đối với người dưới hết lòng hết dạ, coi như bạn bè. Hai người nhìn nhau mỉm cười lòng đầy thông cảm.

Mộc Uyển Thanh không đọc sách ngâm thơ nghĩ thầm: “Cái anh chàng đồ gàn này chẳng còn biết mình đang ở đâu, đàm luận đến thơ văn là thích thú mải mê. Còn gã võ quan này cũng giỏi tài bợ đít nên đi đâu cũng mang sách vở theo”. Nàng có biết đâu Chu Đan Thần văn võ toàn tài, thường ngày cũng đam mê thơ phú văn chương.

Đoàn Dự quay qua nói:

- Mộc ... Mộc cô nương, vị Chu Đan Thần Chu tứ ca đây là bạn thân nhất của ta đó.

Chu Đan Thần cung kính hành lễ nói:

- Chu Đan Thần tham kiến cô nương.

Mộc Uyển Thanh đáp lễ, thấy y đối với mình thật cung kính, trong lòng vui vẻ cất tiếng chào:

- Chu tứ ca.

Chu Đan Thần cười đáp:

- Không dám nhận tiếng xưng hô đó.

Y nghĩ thầm: “Cô gái này mặt mày xinh xắn, vừa mới ra tay tát công tử một cái, thủ pháp linh động, xem ra võ công cũng khá. Công tử gia bị một bạt tai vậy mà vẫn cười không giận. Anh chàng bỏ nhà đi tự bấy nay lại đối với cô ta như thế, chắc hẳn say mê nàng lắm. Không biết cô này lai lịch ra sao. Công tử gia tuổi còn trẻ không hiểu chuyện hiểm ác trên chốn giang hồ, nếu như sa vào vòng mỹ sắc e rằng thân bại danh liệt”. Y cười khì khì tiếp:

- Hai vị gia đài nhớ mong công tử, xin công tử trở về phủ ngay. Mộc cô nương nếu không có việc gì quan trọng xin được mời làm khách trong phủ công tử ít ngày.

Y sợ Đoàn Dự không chịu trở về nên mời luôn cả cô gái này cùng đi tin rằng thể nào chàng cũng thuận. Đoàn Dự ngập ngừng đáp:

- Ta ... ta biết nói sao với bá phụ, gia gia đây?

Mộc Uyển Thanh mặt đỏ bừng, quay đầu sang chỗ khác. Chu Đan Thần nói:

- Tứ Đại Ác Nhân võ công thật cao cường, vừa rồi Thiện Xiển Hầu đánh đuổi được Diệp Nhị Nương cũng bởi vì tấn công lúc mụ ta không phòng bị, lại thêm ba phần may mắn. Công tử gia thân đáng nghìn vàng, không nên xông vào hiểm địa, chúng mình đi ngay là hơn.

Đoàn Dự nghĩ tới thái độ hung ác của Nam Hải Ngạc Thần không khỏi ngán ngẩm, gật đầu nói:

- Được rồi, tất cả cùng đi. Chu tứ ca, kẻ đối đầu lợi hại như thế, tứ ca đi theo giúp đỡ Cao thúc thúc, ta cùng với Mộc cô nương về nhà được rồi.

Chu Đan Thần cười nói:

- Kiếm được công tử gia đâu có phải dễ, tại hạ phải tự mình hộ tống công tử về phủ mới được. Mộc cô nương võ công trác tuyệt thật nhưng xem thần tình dường như bị thương rồi chưa hoàn toàn bình phục, trên đường chẳng may gặp phải cường địch, e không tiện, xin để cho tại hạ phô chút công lao nhỏ mọn thì hơn.

Mộc Uyển Thanh hừ một tiếng nói:

- Ông nói chuyện với tôi không phải dùng những chữ nghĩa lý la lý lố ấy làm gì, tôi là con gái nhà quê, chưa từng đọc sách. Ông dùng những chữ văn chương quá, tôi chỉ hiểu được một nửa.

Chu Đan Thần cười nói:

- Đúng lắm! Đúng lắm! Tại hạ tuy là võ quan nhưng lại học đòi văn nhân, lâu ngày thành thói, xin cô nương đừng trách.

Đoàn Dự nào có muốn trở về nhà nhưng nay bị Chu Đan Thần tìm được rồi, xem ra không về không xong, chỉ còn cách trên đường đi sẽ tìm cách bỏ trốn thành thử ba người cùng xuống núi. Mộc Uyển Thanh chỉ chăm chăm muốn biết chàng bảy ngày qua ở đâu nhưng Chu Đan Thần ở ngay bên cạnh, tra vấn xem ra không tiện, đành cố nhịn. Chu Đan Thần có mang theo lương khô, lấy ra cho hai người cùng ăn.

Ba người xuống chân núi rồi, đi được vài dặm, thấy bên cạnh đường ở nơi một cây lớn buộc năm con tuấn mã vốn là ngựa của bọn Cổ Đốc Thành cưỡi đến đây. Chu Đan Thần đến tháo dây cương ba con, đỡ Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh lên ngựa rồi tự mình cưỡi một con đi theo sau. Đêm hôm đó ba người trọ lại một tiểu khách điếm, chia ra ba phòng. Chu Đan Thần đi mua một bộ quần áo về, Đoàn Dự thay xong bấy giờ mới thoát được cái cảnh “đít không khố”.

Mộc Uyển Thanh đóng cửa phòng lại, chống tay lên má ngồi nhìn ngọn nến đỏ trên bàn, trong lòng vui buồn lẫn lộn, ý nghĩ miên man: “Đoàn lang không nề nguy hiểm nhất định đi tìm ta, đối với ta quả là tình sâu ý nặng. Mấy ngày qua ta không ngớt chửi mắng chàng là kẻ bạc tình, hóa ra đã trách lầm rồi. Xem gã Chu Đan Thần cung kính như thế, hẳn chàng phải là con cái một đại quan. Một đứa con gái như ta, tuy có đính ước hôn nhân với nhau nhưng chẳng nguyên do gì theo chàng về nhà thật xấu hổ lắm thay. Xem chừng bá phụ và gia gia chàng khó tính lắm, nếu như họ coi ta chẳng ra gì, tỏ ý khinh thường thì biết phải làm sao? Chậc chậc, ta sẽ phóng tên độc giết sạch cả nhà chàng, chỉ để một mình Đoàn lang thôi”.

Nàng còn đang nghĩ tới biện pháp hung tợn đó, bỗng nghe hai tiếng gõ nhẹ ở ngoài cửa sổ. Mộc Uyển Thanh phất tay trái một cái dập tắt ngọn nến, nghe thấy tiếng Đoàn Dự ở bên ngoài:

- Ta đây!

Mộc Uyển Thanh thấy chàng đêm khuya canh vắng lại mò sang tìm mình, lập tức tim đập thình thình, trong bóng tối đôi má nóng bừng, hỏi nhỏ:

- Có chuyện gì thế?

Đoàn Dự đáp:

- Nàng mở cửa ra đã ta sẽ nói sau.

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Thiếp không mở đâu.

Nàng một thân đầy võ nghệ, lúc này lại e sợ một anh chàng văn nhược thư sinh, chính mình cũng thấy lạ lùng. Đoàn Dự không hiểu được nguyên do tại sao nàng lại không mở cửa bèn nói:

- Thế thì nàng ra đây, chúng mình phải chạy cho mau mới được.

Mộc Uyển Thanh giơ ngón tay chọc thủng giấy dán cửa sổ hỏi lại:

- Sao thế?

Đoàn Dự đáp:

- Chu tứ ca ngủ rồi, đừng làm y tỉnh dậy. Ta không muốn về nhà.

Mộc Uyển Thanh mừng lắm, nàng nghĩ đến chuyện phải gặp mặt cha mẹ Đoàn Dự mà buồn rười rượi, lập tức nhẹ nhàng mở cửa sổ nhảy ra ngoài. Đoàn Dự nói nhỏ:

- Để ta đi dắt ngựa.

Mộc Uyển Thanh xua tay, giơ tay cặp ngang hông chàng, đề khí nhảy lên đầu tường, rồi lại nhẹ nhàng nhảy ra bên ngoài, nói nhỏ:

- Một khi tiếng vó ngựa nổi lên, Chu tứ ca của chàng sẽ hay biết mất.

Đoàn Dự cũng cười khúc khích:

- Nàng nghĩ thế chu đáo lắm.

Hai người tay nắm tay đi về hướng đông. Đi được vài dặm không nghe thấy tiếng người đuổi theo lúc ấy mới yên tâm. Mộc Uyển Thanh nói:

- Vì cớ gì chàng lại không muốn về nhà?

Đoàn Dự nói:

- Một khi ta về nhà rồi, bá phụ và gia gia thể nào cũng nhốt lại, không cho ra ngoài nữa. Chỉ sợ rằng lúc đó gặp nàng một lần cũng không phải dễ.

Mộc Uyển Thanh thật là sung sướng, trong lòng dâng lên một nỗi êm đềm nói:

- Không về nhà chàng thì cũng hay. Từ nay hai đứa mình phiêu đãng giang hồ chẳng tiêu dao khoái hoạt hay sao? Thế hai đứa mình bây giờ đi đâu đây?

Đoàn Dự đáp:

- Việc đầu tiên là đừng để cho Chu tứ ca và Cao thúc thúc đuổi kịp, việc thứ hai là làm sao tránh không gặp Nam Hải Ngạc Thần.

Mộc Uyển Thanh gật đầu:

- Đúng lắm. Thôi mình đi về hướng tây bắc, tốt nhất là trốn nơi một nhà nông nào độ dăm bữa nửa tháng tránh họ đã, đợi vết thương trên lưng thiếp khỏi hẳn, lúc đó không còn sợ gì nữa.

Hai người bèn quay qua hướng tây bắc, trên đường chỉ cắm cúi mà đi không dám truyện trò, mong sao càng xa núi Vô Lượng càng sớm càng tốt.

Đi đến khi trời sáng, Mộc Uyển Thanh nói:

- Bọn đầy tớ nhà họ Vương ở Cô Tô chắc cũng còn đang đi kiếm thiếp. Vậy thì để tránh tai mắt mọi người, mình nên tìm chỗ nghỉ ngơi. Ban ngày thì ăn uống nằm ngủ, ban đêm thì lên đường.

Chuyện trên chốn giang hồ Đoàn Dự nào có biết gì bèn nói:

- Nàng muốn tính sao thì tính.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Để đến khi ăn cơm xong, chàng kể lại rành mạch cho thiếp nghe bảy ngày bảy đêm qua đi những đâu, nếu nói dối nửa nhời, thì chàng coi chừng ...

Nói chưa dứt câu bỗng nhiên “Ồ” lên một tiếng. Ngay đằng trước dưới tàn một cây liễu có buộc ba con ngựa, một người ngồi trên tảng đá, tay cầm một quyển sách, đang gật gù ngâm nga, chẳng phải Chu Đan Thần thì còn ai? Đoàn Dự cũng trông thấy rồi, giật mình hoảng hốt, nắm tay Mộc Uyển Thanh giục:

- Chạy mau.

Thế nhưng Mộc Uyển Thanh đã minh bạch, biết rằng đêm qua hai người lén trốn đi Chu Đan Thần đều biết cả. Y đoán được Đoàn Dự không biết khinh công, dĩ nhiên có chạy cũng không nhanh, định rõ đường đi của hai người, cưỡi ngựa vòng lên chặn trước nên nhíu mày nói:

- Chàng ngốc ơi! Bị y bắt được rồi còn chạy đường nào bây giờ?

Nàng bèn ngang nhiên đi tới nói:

- Gớm! Mới sáng sớm mà đã ngồi đây đọc sách, định đi thi Trạng Nguyên hay sao?

Chu Đan Thần cười, quay sang nói với Đoàn Dự:

- Công tử đoán xem tôi đang đọc sách gì nào?

Nói rồi y cao giọng ngâm:

Chim buồn cành cũ bi thương,

Núi hoang vượn hú đêm trường hư không.

Giá như nghìn dặm mắt trông,

Hoang mang chợt thấy hồn mong trở về.

Trăm gian ngàn hiểm dám nề,

Mang danh quốc sĩ chỉ bề tận trung.

Kìa người Quí Bố một lòng,

Hầu Doanh lời nặng sánh cùng Thái Sơn.

Cuộc đời chí khí lên cân,

Ai đem chức tước để phân sang hèn?

Cổ mộc minh hàn điểu,

Không sơn đề dạ viên.

Ký thương thiên lý mục,

Hoàn kinh cửu chiết hồn.

Khởi bất đạn gian hiểm?

Thâm hoài quốc sĩ ân.

Quí Bố vô nhị nặc,

Hầu Doanh trọng nhất ngôn.

Nhân sinh cảm ý khí,

Công danh thùy phục luận?

Đoàn Dự dáp:

- Phải chăng đây là bài Thuật Hoài của Ngụy Trưng ?

Chu Đan Thần cười đáp:

- Công tử gia bác lãm quần thư , quả thật đáng phục.

Đoàn Dự biết y sở dĩ dẫn bài thơ này, ý nói canh khuya không nề gian hiểm đi tìm là bởi vì đã chịu đại ân của bác và cha chàng, không dám phụ lời ủy thác. Mấy câu sau cũng có ý ám chỉ chàng đã bằng lòng trở về nhà rồi, nói ra sao lại không giữ lời?

Mộc Uyển Thanh đi đến cởi giây cương ngựa nói:

- Đi về Đại Lý, không biết chúng tôi đi đường này có đúng không?

Chu Đan Thần đáp:

- Hiện nay không có chuyện gì gấp, đi hướng đông cũng được, đi hướng tây cũng tốt, đường nào cũng đến Đại Lý cả.

Hôm qua y để cho Đoàn Dự cưỡi con ngựa khỏe nhất trong ba con, lần này y cầm cương con ngựa đó đề phòng Đoàn Mộc hai người phóng ngựa đào tẩu thì mình cũng còn đuổi kịp.

Đoàn Dự lên yên rồi, giục ngựa chạy về hướng đông. Chu Đan Thần sợ chàng bực mình, trên đường cùng chàng đàm luận thi từ ca phú, tiếc thay không biết Kinh Dịch nếu không hai người chắc nói chuyện càng thêm tương đắc. Thế nhưng Đoàn Dự thì cao hứng đàm luận thao thao, còn Mộc Uyển Thanh một câu chen vào cũng không được. Chẳng bao lâu đi ra đường cái, đến chừng buổi trưa, ba người liền ghé vào một cái quán gọi mì ăn.

Đột nhiên bóng người thấp thoáng, từ ngoài cửa một người vừa cao vừa gầy xông vào, vừa ngồi xuống ghế đã giơ tay vỗ mạnh lên bàn, quát lớn:

- Cho hai hồ rượu, hai cân thịt bò nóng, mau mau!

Mộc Uyển Thanh không cần phải nhìn, chỉ nghe giọng nói lúc thì ồm ồm lúc thì sắc nhọn cực kỳ khó nghe của y đã biết ngay chính là Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc. Cũng may nàng đang quay vào trong nên không đối diện với y, lập tức giơ ngón tay nhúng vào tô mì, viết lên bàn: “Đệ Tứ Ác Nhân”. Chu Đan Thần cũng viết lên: “Chạy mau, đừng chờ tôi”. Mộc Uyển Thanh giựt giựt tay áo Đoàn Dự, hai người đi vào nhà trong còn Chu Đan Thần lẻn ngay vào nơi khuất nẻo ở góc nhà.

Vân Trung Hạc từ khi vào trong quán chỉ ngồi hướng ra ngoài đường nghe thấy sau lưng có tiếng chân người vội quay lại thấy bóng Mộc Uyển Thanh lẻn vào trong nhà sau liền quát lớn:

- Ai đó! Đứng lại ta coi.

Y đứng lên xông vụt ra chộp vào lưng Mộc Uyển Thanh. Chu Đan Thần cầm bát mì, từ góc nhà đột nhiên nhào ra kêu lên:

- Ối chà!

Giả vờ làm như lỡ tay, bát mì nóng đổ ụp ngay lên mặt y. Hai người đứng quá gần nhau, Chu Đan Thần lại tạt thật nhanh, cái quán nhỏ nào thật khó mà xoay trở nhưng Vân Trung Hạc lập tức nghiêng qua tránh được một nửa, còn một nửa vẫn ập vào mặt, trước mắt nhạt nhòa không trông rõ, trong cơn cuồng nộ, vung tay chộp về phía Chu Đan Thần định banh ngực moi ruột y ra.

Thế nhưng Chu Đan Thần vừa vung bát mì ra, lập tức hất ngay cái bàn, bao nhiêu chén bát bay thẳng vào người Vân Trung Hạc. Chỉ nghe soạt một tiếng, năm ngón tay Vân Trung Hạc đâm ngập vào mặt bàn nhưng chén bát vẫn vùn vụt bay tới.

Ở trong cái quán nhỏ này chỉ trong chớp mắt bị cường địch tấn công, y tuy võ công cao cường thật nhưng tay chân cũng rối loạn, vội vận nội kình lên khắp thân thể, bao nhiêu đồ sành sứ văng vào người đều bật ngược trở lại nhưng nước canh, mì sợi cũng văng đầy người quả thật khó coi. Bỗng nghe bên ngoài có tiếng vó câu, nhìn ra thấy hai người giục ngựa chạy vọt về hướng bắc. Vân Trung Hạc vừa giơ tay chùi nước lèo dính trên mặt, bỗng thấy hơi gió ập tới, có vật gì đó đâm vào ngực mình. Y hít một hơi, lồng ngực đột nhiên hóp lại nửa thước, tay trái từ trên chém xuống, lật một cái biến luôn thành trảo, bốn ngón tay đã chộp được phán quan bút địch nhân điểm vào.

Chu Đan Thần vội vận kình đoạt lại, nội lực y vốn kém đối phương một mức, đáng lẽ giựt không được, món binh khí yêu quí sẽ bị cướp mất nhưng may nhờ tay Vân Trung Hạc dính đầy nước canh mỡ màng trơn tuột nên cầm không chắc nên y mới giựt được binh khí về.

Chỉ qua mấy chiêu, Chu Đan Thần thấy kẻ địch ứng biến nhanh nhẹn, võ công ghê gớm kêu lên:

- Người cầm cần, người cầm búa, mau chặn cửa lại đừng để cho tên sếu vườn chạy thoát.

Y từng nghe Chử Vạn Lý và Cổ Đốc Thành kể lại, đêm hôm trước đánh nhau với một người cao lênh khênh như cò hương, hai người hợp lực mới may mà thắng được nên hư trương thanh thế giả vờ gọi đồng bọn. Vân Trung Hạc biết đâu là kế nghĩ thầm: “Chết rồi! Tên cầm cần và tên cầm búa hóa ra mai phục bên ngoài, ta một địch ba, thể nào cũng thua mất.

Y không còn thiết tha gì đánh nữa vội chạy vào bên trong vượt tường mà chạy. Chu Đan Thần lại kêu lên:

- Tên sếu vườn chạy mất rồi, đuổi theo mau, lần này đừng để cho y chạy thoát.

Y chạy ra ngoài nhảy lên lưng ngựa đuổi theo Đoàn Dự.

Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh chạy được vài dặm liền ghìm cương cho ngựa chậm lại, chẳng mấy chốc nghe tiếng ngựa đuổi theo sau Chu Đan Thần giục ngựa chạy đến. Hai người dừng lại đứng chờ đang định lên tiếng hỏi thăm, Mộc Uyển Thanh bỗng kêu lên:

- Không xong! Gã kia đuổi đến kìa.

Chỉ thấy trên đường một người nhô lên hụp xuống lênh khênh như cây tre đang vùn vụt đuổi theo. Chu Đan Thần kinh hãi nói:

- Khinh công tên này ghê gớm thật.

Y giơ roi quất vào mông con ngựa Đoàn Dự đang cưỡi một cái, cả ba con ngựa cùng tung vó chạy vọt lên chẳng mấy chốc đã bỏ xa Vân Trung Hạc. Chạy được vài dặm, Mộc Uyển Thanh thấy con ngựa mình cưỡi thở phì phò, càng lúc càng chậm nhưng nếu ngừng chân, Vân Trung Hạc thể nào cũng đuổi kịp. Gã kia nếu một đoạn đường ngắn chạy không bằng ngựa nhưng đường dài thì sức lực miên miên bất tuyệt.

Chu Đan Thần biết rằng ngụy kế của mình đã bị y khám phá có hư trương dọa non dọa già cũng không đi đến đâu, xem ra trong vòng hai mươi dặm thể nào cũng bị y bắt kịp chỉ có nước tới được thành Đại Lý thì dù có đến đâu cũng không sợ. Thế nhưng ba con ngựa mỗi lúc một chậm, tình thế mỗi lúc một thêm khẩn cấp. Lại thêm vài dặm nữa, con ngựa Đoàn Dự cưỡi đột nhiên khuỵu chân trước, hất chàng ngã văng đi. Mộc Uyển Thanh phi thân nhảy xuống, không để cho Đoàn Dự chạm đất đã chộp ngay được lưng chàng, cũng may con ngựa nàng cưỡi vừa chạy tới ngang bên, tay trái liền ấn lên yên một cái, cả hai người cùng nhảy vọt lên trên mình ngựa.

Chu Đan Thần lẽo đẽo chạy theo phía sau cho tiện việc ngăn trở kẻ địch nên khi Đoàn Dự ngã xuống không cách nào cứu kịp, thấy Mộc Uyển Thanh ra tay không khỏi buột miệng khen:

- Thân pháp đẹp quá!

Đột nhiên phía sau có hơi gió, xem ra kẻ địch dùng binh khí tấn công. Chu Đan Thần vội vàng đưa phán quan bút về sau, nghe keng một tiếng gạt cương trảo ra. Vân Trung Hạc thừa thế đang nhảy tới năm ngón tay đúc bằng đồng chộp luôn vào mông ngựa khiến máu chảy ròng ròng. Con vật đau quá hí lên một tiếng càng chạy cho nhanh, chẳng mấy chốc đã bỏ Vân Trung Hạc một quãng. Thế nhưng trong tình hình một con ngựa phải mang hai người, một con bị thương không cách nào kéo dài được, Chu Đan Thần và Mộc Uyển Thanh đều cảm thấy hoang mang.

Đoàn Dự không biết đang lâm vào cảnh nguy hiểm hỏi:

- Người đó ghê gớm lắm phải không? Không lẽ Chu tứ ca lại thua y hay sao?

Mộc Uyển Thanh lắc đầu:

- Tiếc thay thiếp đang bị thương không sử lực khí được nên chẳng làm sao giúp Chu tứ ca chống lại ác nhân kia.

Đột nhiên nàng nghĩ ra một kế nói:

- Để em giả vờ ngã ngựa bị thương, nằm phục dưới đất nhắm khi y không phòng bị bắn y hai mũi tên độc may ra thành công. Chàng cưỡi ngựa cứ việc chạy tiếp đừng đứng lại đợi em làm gì.

Đoàn Dự quýnh quít, vòng ngược hai tay lại, tay trái bá cổ nàng, tay phải ôm ngang hông kêu bải hải:

- Không được! Không được! Ta không để nàng mạo hiểm như thế.

Mộc Uyển Thanh thẹn đến đôi má đỏ bừng, hờn dỗi nói:

- Chàng ngốc ơi! Có bỏ người ta ra không nào. Để Chu tứ ca nhìn thấy thì còn ra cái gì nữa?

Đoàn Dự hoảng hồn suýt soa:

- Ta xin lỗi! Nàng đừng trách nhé.

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Chàng là chồng em có gì mà phải xin lỗi?

Còn đang qua lại, quay đầu đã thấy Vân Trung Hạc vùn vụt chạy tới còn Chu Đan Thần thì luôn luôn xua tay ra hiệu cho hai người chạy cho mau rồi nhảy xuống ngựa đứng chắn giữa đường, dẫu biết rằng đánh không lại nhưng cố ngăn y được lúc nào hay lúc ấy để y không đuổi kịp Đoàn Dự. Ngờ đâu Vân Trung Hạc chủ tâm đuổi theo Mộc Uyển Thanh lập tức chạy vòng xuống ruộng, vượt qua Chu Đan Thần rồi tiếp tục đuổi theo Đoàn Mộc hai người.

Mộc Uyển Thanh hết sức ra roi con ngựa đang cưỡi, con vật mồm sùi bọt mép chạy thục mạng. Đoàn Dự nói:

- Giá như mình cưỡi con Hắc Mai Côi thì ác nhân kia không thể nào đuổi kịp được.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Cái đó thì còn phải nói.

Con ngựa vòng qua một vách núi, đằng trước là một con đường thẳng tắp, không có một chỗ nào có thể ẩn nấp được nhưng phía tây có một khu rừng liễu, bên cạnh một chiếc hồ nhỏ có một mảng tường vàng lộ ra. Đoàn Dự mừng rỡ nói:

- Hay lắm! Chúng mình chạy về đằng kia.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Không được, chỗ đó là tử địa, không có đường chạy.

Đoàn Dự nói:

- Nàng cứ nghe lời ta đi, không sao đâu.

Chàng cầm lấy giây cương kéo đầu ngựa chạy về phía đám cây liễu. Chạy đến gần, Mộc Uyển Thanh mới biết bức tường vàng đó là một đạo quan , trên biển ngạch viết dường như Ngọc Hư Quan thì phải, trong bụng tính thầm: “Anh chàng ngốc này chạy tới đây, không có lối thoát. Chi bằng ta náu ở một chỗ khuất nẻo, bắn cho tên sếu vườn kia một mũi tên”.

Trong chớp mắt con ngựa đã chạy đến trước cửa đạo quan, bỗng nghe phía sau có tiếng người cười sằng sặc, chính là tiếng của Vân Trung Hạc, cách nhau chỉ độ vài trượng. Chỉ nghe Đoàn Dự kêu to:

- Mẹ ơi! Mẹ ơi! Ra mau, mẹ ơi.

Mộc Uyển Thanh bực mình quát lên:

- Đồ ngốc, có câm mồm không nào?

Vân Trung Hạc cười nói:

- Đến giờ này có kêu ông kêu bà thì cũng chẳng đi đến đâu.

Y tung mình nhảy tới, Mộc Uyển Thanh giơ tay vận kình đẩy vào lưng Đoàn Dự kêu lên:

- Chạy vào trong quan đi.

Nàng vừa nói vừa giơ tay trái lên, một mũi tên bắn ngược về sau. Vân Trung Hạc rụt đầu tránh được, thấy Mộc Uyển Thanh đã nhảy ra khỏi yên, cương trảo trong tay trái liền tung ra, chộp vào đầu vai nàng. Mộc Uyển Thanh vội co người luồn xuống dưới bụng ngựa, soẹt soẹt soẹt bắn luôn ba mũi tên. Vân Trung Hạc né đông tránh tây rồi nhảy vụt về sau tránh được.

Ngay khi đó một đạo cô từ bên trong đạo quan đi ra, Đoàn Dự thấy thế liền reo lên, bà ta cũng tiến lên ôm lấy chàng cười nói:

- Lại nghịch ngợm trò gì nữa đây, sao mà gọi réo om sòm thế?

Mộc Uyển Thanh thấy đạo cô đó tuổi tác xem chừng lớn hơn Đoàn Dự một chút nhưng dung mạo xinh đẹp, lại thân mật với Đoàn Dự như thế, còn Đoàn Dự thì vòng tay ôm chặt lấy lưng đạo cô kia, vẻ mặt vui mừng khôn xiết, liền nổi cơn tam bành lục tặc, không còn kể gì đến cường địch ở sau lưng nhảy vọt qua, giơ chưởng đánh luôn vào mặt đạo cô, quát lớn:

- Sao bà lại ôm anh chàng ta? Mau bỏ ra nào.

Đoàn Dự vội kêu:

- Uyển muội, chớ có vô lễ.

Mộc Uyển Thanh thấy chàng bênh đạo cô lại càng tức hơn, chân chưa chấm đất chưởng lại gia tăng thêm ba thành kình lực. Đạo cô kia hất cây phất trần một cái, đuôi phất trần liền cuộn một vòng trên không, cuốn lấy cổ tay nàng. Mộc Uyển Thanh thấy lực đạo trên phất trần không phải nhẹ, tiếp theo lại bị kéo một cái khiến nàng không tự chủ nổi dạt sang mấy bước mới đứng lại được, vừa tức tối vừa nóng ruột liền mắng:

- Bà là kẻ xuất gia sao không biết xấu.

Vân Trung Hạc lúc thấy đạo cô kia bước ra, dung mạo xinh đẹp, trong bụng mừng thầm: “Hôm nay quả là số đỏ, một mũi tên bắn hai con chim , ta bắt luôn cả hai ả”. Đến khi đạo cô ra tay đánh phất trần nhẹ nhàng hóa giải chưởng thế mãnh liệt của Mộc Uyển Thanh, biết đạo cô này võ công ghê gớm liền tung mình nhảy lên yên ngựa, ngồi xem biến chuyển thế nào, bụng nghĩ thầm: “Cả hai cô nàng đều xinh, tiện người nào bắt người ấy cũng được rồi”.

Đạo cô giận đữ nói:

- Tiểu cô nương, cô nói năng láo lếu gì đó? Cô ... cô là ai mới được chứ?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Tôi là vợ của Đoàn lang, bà có thả y ra không?

Đạo cô kia liền ngẩn người, bỗng nhiên mặt mày tươi rói, véo tai Đoàn Dự cười hỏi:

- Có thực không?

Đoàn Dự cũng cười:

- Thực một phần mà giả cũng một phần.

Đạo cô lại véo trên mặt chàng một cái rõ mạnh, cười tiếp:

- Chẳng học được cha một tí võ công nào, nhưng cái trò phong lưu quấy quả thì không sót một li, ta phải đánh gãy đùi ngươi mới xong.

Bà nghiêng đầu ngắm Mộc Uyển Thanh rồi nói:

- Ồ, cô nương này đẹp thật nhưng quá ư là mộc mạc, phải quản giáo thật gắt gao mới được.

Mộc Uyển Thanh lại nổi cơn xung thiên nói:

- Tôi mộc mạc hay không kệ xác tôi, việc gì đến bà? Bà không chịu bỏ chàng ra. Tôi sẽ bắn tên đó.

Đạo cô cười:

- Cô bắn tên thử xem nào.

Đoàn Dự kêu to:

- Uyển muội, không thể được. Nàng có biết ai đây không?

Nói rồi giơ tay ra bá cổ đạo cô, Mộc Uyển Thanh thấy thế như điên như cuồng, tay vung lên, tách tách hai tiếng, hai mũi độc tiễn bắn thẳng vào người đàn bà. Đạo cô kia vốn dĩ mặt tươi như hoa, vừa thấy mũi tên nhỏ sắc mặt lập tức biến đổi hẳn, phẩy một cái đã cuộn được hai mũi tên vào trong phất trần, gằn giọng hỏi:

- Tu La Đao Tần Hồng Miên là gì của ngươi?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Cái gì mà Tu La Đao Tần Hồng Miên? Chưa nghe nói đến. Có thả Đoàn lang của ta ra không nào?

Nàng rõ ràng thấy Đoàn Dự lúc này ôm bà ta chứ đâu phải đạo cô giữ chàng lại nhưng vẫn cho rằng bà ta không ra gì. Đoàn Dự thấy đạo cô giận đến tái mặt, vội khuyên:

- Mẹ ơi, mẹ đừng giận.

Năm chữ “mẹ ơi, mẹ đừng giận” lọt vào tai Mộc Uyển Thanh khiến nàng không khỏi giật mình, tưởng chừng không tin ở mình nữa, ấp úng:

- Cái gì, bà này ... bà này là mẹ chàng đấy ư?

Đoàn Dự cười nói:

- Mới rồi ta đã gọi “mẹ ơi” nàng không nghe hay sao?

Chàng quay sang nói với đạo cô:

- Mẹ à, đây là Mộc Uyển Thanh cô nương. Hôm trước nhi tử bị kẻ ác hiếp đáp gặp hung hiểm liên tiếp, may được Mộc cô nương mấy lần cứu cho thoát chết.

Bỗng từ bên ngoài rặng liễu có tiếng vọng vào:

- Ngọc Hư tản nhân xin hãy hết sức cẩn thận. Đây là một trong Tứ Đại Ác Nhân.

Tiếng vừa dứt đã thấy một người hớt hải chạy vào, chính là Chu Đan Thần. Y thấy đạo cô mặt mày biến sắc lại tưởng bà ta đã bị lép vế dưới tay Vân Trung Hạc, run run hỏi:

- Bà đã động thủ với y rồi ư?

Vân Trung Hạc cười sằng sặc đáp:

- Bây giờ động thủ cũng chưa muộn.

Y nói chưa dứt câu, hai chân đã đứng phắt dậy trên yên ngựa tưởng như một cái cột cờ dựng trên yên ngựa, đột nhiên thân ngả về đằng trước, chân phải móc vào yên, hai chiếc cương trảo cùng bổ lên người đạo cô. Đạo cô nghiêng người lạng đến bên mình ngựa, phất trần hất luôn hai mũi tên độc còn nằm trong đó vào người y. Vân Trung Hạc nghiêng qua né tránh, đạo cô liền xông tới dùng phất trần đánh luôn vào đùi, Vân Trung Hạc không chống đỡ, cương trảo bên trái chộp vào lưng bà ta.

Đạo cô nghiêng qua tránh được, phất trần đánh ngược trở về, Vân Trung Hạc tiến lên một bước, chân trái đạp vào đầu ngựa cương trảo bên phải từ cao đánh tạt xuống. Chu Đan Thần tung mình nhảy lên mông ngựa quát lên: “Ngã này” phán quan bút bên trái điểm vào hông y. Vân Trung Hạc giơ trảo gạt được, lấy trường công đoản, phản kích trở lại. Ngọc Hư tản nhân lại múa phất trần đánh vào hạ bàn của địch thủ, Vân Trung Hạc hai tay hai trảo múa tít lên một mình đánh với hai nhưng không kém chút nào.

Mộc Uyển Thanh thấy y đứng trên mình ngựa nên không cần phải bảo vệ trên ngực có vẻ lợi thế nghe soẹt một tiếng bắn luôn một mũi tên vào mắt trái con ngựa. Con vật đau quá hí lên một tiếng thảm thiết ngã khuỵu xuống, Ngọc Hư tản nhân liền cuộn phất trần quấn chặt những ngón tay cương trảo bên phải của Vân Trung Hạc, hai người giằng co cố đoạt binh khí về còn Chu Đan Thần liều mạng xông vào, tấn công liên tiếp ba chiêu.

Vân Trung Hạc tuy nội lực mạnh hơn nhiều nhưng phải chia ra một nửa chống đỡ phán quan bút của Chu Đan Thần, lại phải đề phòng Mộc Uyển Thanh bắn tên độc, chỉ thấy cánh tay giựt mạnh, cả phất trần lẫn cương trảo cùng rời khỏi tay, bay vụt lên không.

Y liệu chừng hôm nay khó mà thành công liên chửi:

- Mẹ kiếp, bọn Đại Lý chỉ giỏi tài chó cậy gần nhà, lấy đông đánh một.

Y hai chân đạp vào yên ngựa, thân hình như một mũi tên bay vọt ra, cương trảo bên trái móc vào một cành liễu, uốn mình một cái đã ở cách xa mấy trượng. Mộc Uyển Thanh bắn theo một mũi tên, nghe bụp một tiếng cắm ngay vào cành cây, còn Vân Trung Hạc thì quả là “chim hồng bay vụt đã mờ mờ xa” không còn thấy tung tích đâu nữa. Tiếp theo là tiếng loảng xoảng vang lên, cả phất trần lẫn cương trảo cùng rơi xuống đất.

Chu Đan Thần phục xuống lạy Ngọc Hư tản nhân, cung kính hành lễ nói:

- Đan Thần hôm nay gặp phải nguy nan, tính mệnh khó mong bảo toàn, nhờ có tản nhân cứu cho.

Ngọc Hư tản nhân mỉm cười nói:

- Hơn chục năm nay không dùng binh khí, bao nhiêu công phu lâu nay gác một bên. Chu huynh đệ, gã này là ai đó?

Chu Đan Thần đáp:

- Nghe nói Tứ Đại Ác Nhân cùng đến Đại Lý, người này xếp hạng cuối cùng trong bốn người, võ công đã ghê gớm như thế, ba người kia ra sao cũng đã đoán được rồi. Xin mời ... xin mời bà quay trở về vương phủ tạm lánh ít lâu, đợi khi thanh toán xong bốn tên ác nhân rồi sẽ tính sau.

Ngọc Hư tản nhân sắc mặt hơi đổi, chậm rãi nói:

- Ta còn về vương phủ làm gì nữa? Tứ Đại Ác Nhân cùng đến nếu ta địch không lại, có chết cũng xong.

Chu Đan Thần không dám nói thêm, đưa mắt nhìn Đoàn Dự mong y tiếp lời. Đoàn Dự nhặt phất trần lên, đưa cho mẹ, cầm cương trảo của Vân Trung Hạc ném vào trong hồ nói:

- Mẹ ơi, bốn gã ác nhân này quả là hết sức hung dữ, nếu mẹ không chịu về nhà thì để con đưa mẹ sang bên bá phụ vậy.

Ngọc Hư tản nhân lắc đầu:

- Ta không đi đâu cả.

Đôi mắt bà đỏ lên rưng rưng dường như muốn khóc. Đoàn Dự nói:

- Thôi được, nếu mẹ không đi, để con ở lại đây với mẹ vậy.

Chàng quay sang nói với Chu Đan Thần:

- Chu tứ ca, phiền ông bẩm lại bá phụ và gia gia ta, hai mẹ con ta ở lại đây hợp lực chống lại Tứ Đại Ác Nhân.

Ngọc Hư tản nhân bật cười nói:

- Gớm sao con không biết thẹn, con có tài cán gì mà đòi hợp lực với ta để chống với Tứ Đại Ác Nhân?

Tuy bà bị con chọc cho bật cười nhưng những giọt lệ long lanh kia vẫn chảy dài xuống má, vội vàng quay người đi, đưa tay áo chùi nước mắt.

Mộc Uyển Thanh trong bụng ngạc nhiên: “Mẫu thân của Đoàn lang sao lại xuất gia? Xem chừng Vân Trung Hạc bỏ đi thể nào cũng gọi ba ác nhân đồng bọn của y tới cùng tấn công, mẹ chàng làm sao chống đỡ nổi? Tại sao bà ta nhất định không quay trở về nhà lánh nạn? À, ta hiểu rồi, đàn ông con trai bạc bẽo trên đời này thật nhiều, chắc là cha của Đoàn lang say mê người khác cho nên mẹ chàng mới giận dỗi bỏ đi tu”.

Nàng suy nghĩ như thế nên lòng nảy sinh ra mối đồng tình, cảm thấy bà ta thật đáng thương, bèn nói:

- Ngọc Hư tản nhân, để tiểu nữ giúp bà ngự địch.

Ngọc Hư tản nhân quan sát kỹ càng tướng mạo cô gái, đột nhiên nghiêm nghị hỏi:

- Cô nói thực cho ta nghe, Tu La Đao Tần Hồng Miên là gì của cô?

Mộc Uyển Thanh bực tức nói:

- Tôi đã nói rồi, từ xưa đến nay tôi chưa nghe cái tên đó bao giờ. Tần Hồng Miên là đàn ông hay đàn bà, là con người hay súc vật, tôi có biết đâu.

Ngọc Hư tản nhân nghe nàng nói: “là con người hay súc vật” lập tức an tâm, nghĩ thầm: “Nếu quả như cô ta là hậu bối của Tu La Đao thì đời nào đám dùng hai chữ “súc vật” bao giờ”. Tuy nghe cô nàng nói có vẻ đốp chát ngược ngạo, bà lập tức đổi mặt ôn hòa cười nói:

- Cô nương đừng trách. Ta vừa nhìn thấy thủ pháp phóng tên của cô lập tức liên tưởng đến một người đàn bà ta có biết, thậm chí đến mặt mũi cô cũng có đôi phần giống người đó thành thử mới nghi ngờ. Mộc cô nương, thế lệnh tôn, lệnh đường tên gọi ra sao? Võ công cô giỏi như thế, chắc hẳn dòng dõi danh môn.

Mộc Uyển Thanh lắc đầu:

- Tiểu nữ từ nhỏ mồ côi cả cha lẫn mẹ, do sư phụ nuôi dưỡng lớn khôn. Thành thử không biết tên cha tên mẹ là gì.

Ngọc Hư tản nhân hỏi gặng thêm:

- Như thế tôn sư là vị nào thế?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Sư phụ tiểu nữ tên là U Cốc Khách.

Ngọc Hư tản nhân trầm ngâm lẩm bẩm:

- U Cốc Khách? U Cốc Khách?

Bà quay sang Chu Đan Thần, liếc mắt có ý dò hỏi. Chu Đan Thần lắc đầu nói:

- Đan Thần sống lánh ở biên cương phương Nam, kiến thức hẹp hòi, những anh hiệp tiền bối đất Trung Nguyên, phần nhiều không biết đến. Vị tiền bối U Cốc Khách này hẳn là một cao sĩ ẩn dật chốn sơn lâm.

Y nói như thế chẳng qua chỉ là muốn bảo rằng cái tên U Cốc Khách chưa từng nghe đến. Còn đang nói chuyện bỗng nghe từ bên ngoài rặng liễu có tiếng chân ngựa gấp rút, từ xa có người kêu lên:

- Tứ đệ, công tử gia không việc gì chứ?

Chu Đan Thần vội đáp lời:

- Công tử gia đang ở đây, bình an đại cát.

Chỉ trong giây lát, ba con ngựa đã chạy tới ngừng ngay trước đạo quan, Chử Vạn Lý, Chu Đan Thần, Phó Tư Qui cùng nhảy xuống chạy vào, hướng về Ngọc Hư tản nhân phục xuống vái lạy.

Mộc Uyển Thanh từ nhỏ lớn lên nơi sơn dã, thấy lễ số hoa dạng, hơi bực mình, nghĩ thầm: “Mấy người này võ công đều cao minh, sao lại cứ gặp ai cũng lạy lục là thế nào?”.

Ngọc Hư tản nhân thấy ba người hình mạo tang thương, Phó Tư Qui trên mặt bị một vết thương, một nửa mặt buộc bằng vải trắng, còn Chu Đan Thần thì trên người đầy vết máu, còn cái cần dài của Chử Vạn Lý gãy mất một nửa vội hỏi:

- Chuyện gì thế? Địch nhân mạnh lắm hay sao? Vết thương của Tư Qui ra thể nào?

Phó Tư Qui nghe bà ta hỏi lập tức mặt hầm hầm, lớn tiếng đáp:

- Tư Qui này học nghệ chưa tinh, thật đáng hổ thẹn, phiền Vương Phi phải lo lắng.

Ngọc Hư tản nhân ngậm ngùi nói:

- Ông còn gọi ta là Vương Phi nữa sao? Trí nhớ của ông hơi lẫn rồi đó.

Phó Tư Qui cúi đầu nói nhỏ:

- Vâng! Xin Vương Phi thứ tội.

Y mở miệng gọi “Vương Phi” đã thành thói, không dễ gì sửa đổi. Chu Đan Thần nói:

- Cao hầu gia ra sao?

Chử Vạn Lý đáp:

- Cao hầu gia bị chút nội thương, không tiện cưỡi ngựa chạy nhanh, chắc cũng đã đến rồi.

Ngọc Hư tản nhân kêu lên một tiếng “A” nho nhỏ, nói:

- Cao hầu gia cũng bị thương ư? Không ... không nặng lắm chứ?

Chử Vạn Lý đáp:

- Cao hầu gia đối chưởng với Nam Hải Ngạc Thần, đang lúc kịch liệt, Diệp Nhị Nương lén đánh trộm từ phía sau, Hầu gia không cách nào phân thủ, nên sau lưng bị trúng một chưởng của con ác bà kia.

Ngọc Hư tản nhân cầm tay Đoàn Dự nói:

- Mình ra xem Cao thúc thúc thế nào!

Hai mẹ con cùng ra rừng liễu, Mộc Uyển Thanh cũng đi theo. Bọn Chử Vạn Lý cũng buộc ngựa vào cây liễu đi theo nốt. Từ đằng xa một con ngựa chầm chậm đi tới, một người nằm phục trên yên. Cả bọn Ngọc Hư tản nhân cùng rảo bước đi tới, người đó chính là Cao Thăng Thái. Đoàn Dự vội vã tiến lên trước hỏi:

- Cao thúc thúc thấy trong người ra sao?

Cao Thăng Thái đáp:

- Cũng chưa sao.

Ông ta ngẩng lên thấy Ngọc Hư tản nhân vội cố gượng xuống ngựa hành lễ. Ngọc Hư tản nhân nói:

- Cao hầu gia đang bị thương, chẳng cần đa lễ.

Thế nhưng Cao Thăng Thái đã xuống được ngựa khom lưng nói:

- Cao Thăng Thái kính thăm hỏi Vương Phi an hảo.

Ngọc Hư tản nhân đáp lễ nói:

- Dự nhi, con đỡ Cao thúc thúc.

Mộc Uyển Thanh bụng đầy nghi hoặc: “Ông họ Cao này võ công thật là kinh người, chỉ với một ống sáo sắt trong vài chiêu đã đánh đuổi được Diệp Nhị Nương sao gặp mẹ của Đoàn lang lại cung kính đến thế? Lại còn gọi bà ta là Vương Phi, không lẽ ... không lẽ Đoàn lang .. chàng là ... chàng là vương tử gì chăng? Có điều anh chàng đồ gàn này làm chuyện gì cũng không giống ai, đâu có vẻ gì là con vua cháu chúa?”.

Ngọc Hư tản nhân nói:

- Xin mời Hầu gia lập tức trở về Đại Lý nghỉ ngơi.

Cao Thăng Thái đáp:

- Vâng! Tứ Đại Ác Nhân cùng đến Đại Lý, tình thế cực kỳ hung hiểm, xin Vương Phi tạm thời quay về vương phủ.

Ngọc Hư tản nhân thở dài, nói:

- Ta đã nhất quyết kiếp này không trở về nữa rồi.

Cao Thăng Thái đáp:

- Nếu quả như thế, bọn chúng tôi đóng ở bên ngoài Ngọc Hư Quan canh gác vậy.

Ông quay sang nói với Phó Tư Qui:

- Tư Qui, ngươi mau quay về bẩm báo.

Phó Tư Qui đáp lời:

- Vâng!

Y vội vàng đi tới bên con ngựa buộc bên ngoài Ngọc Hư Quan. Ngọc Hư tản nhân nói:

- Khoan đã!

Bà cúi đầu trầm tư, Phó Tư Qui liền ngừng bước.

Mộc Uyển Thanh thấy sắc mặt Ngọc Hư tản nhân biến đổi liên tiếp, rõ ràng trong bụng gặp chuyện khó khăn không dễ gì quyết đoán. Ánh sáng xế trưa chiếu nghiêng nghiêng lên mặt bà ta, xinh tươi rạng rỡ, tuy đã vào tuổi trung niên nhưng nhan sắc chưa suy giảm, nghĩ thầm: “Mẹ của Đoàn lang đẹp quá chừng, trông thật chẳng khác gì Quan Âm bồ tát trong tranh vẽ”.

Qua một lúc sau, Ngọc Hư tản nhân ngửng đầu lên nói:

- Thôi được, tất cả chúng ta cùng về Đại Lý, nếu không chỉ vì mình ta mà bao nhiêu người phải mạo hiểm.

Đoàn Dự mừng quá, nhảy cỡn lên, chạy tới bá cổ mẹ, kêu lên:

- Có thế mới thực là mẹ yêu của con.

Phó Tư Qui nói:

- Thuộc hạ xin đi trước báo tin.

Y quay lại cởi giây buộc ngựa, xoay mình nhảy lên, chạy vụt về hướng bắc. Chử Vạn Lý dẫn ngựa lại để Ngọc Hư tản nhân, Đoàn Dự, Mộc Uyển Thanh ba người cưỡi.

Cả đoàn người cùng đi về hướng Đại Lý, Ngọc Hư tản nhân, Đoàn Dự, Mộc Uyển Thanh và Cao Thăng Thái bốn người cưỡi ngựa, Chử Vạn Lý, Chu Đan Thần, Cổ Đốc Thành ba người đi bộ bên cạnh. Đi được vài dặm thấy trước mặt là một đội kỵ binh chạy tới. Chử Vạn Lý vội vàng tiến lên trước nói với tên đội trưởng mấy câu. Gã đội trưởng liền quay lại ra lệnh, tất cả các kỵ binh cùng nhảy xuống, quì phục xuống đất. Đoàn Dự vẫy tay, cười nói:

- Khỏi phải đa lễ.

Tên đội trưởng ra lệnh nhường lại ba con ngựa cho bọn Chử Vạn Lý cưỡi, rồi chính mình tất lãnh kỵ binh đi trước mở đường, cả đoàn lộp cộp chạy về hướng thành Đại Lý.

Mộc Uyển Thanh thấy vậy biết rằng Đoàn Dự không phải người thường bỗng đâm lo: “Ta vẫn tưởng chàng chỉ là một thư sinh lang thang lưu lạc muốn lấy ai thì lấy. Xem đây thì thân thế anh ta không phải là hèn, nếu như chàng là hoàng thân quốc thích, hoặc là đại quan trong triều, e rằng có coi một đứa con gái rừng rú quê mùa như ta ra gì đâu. Sư phụ thường bảo, đàn ông càng phú quí thì càng vô lương tâm, lấy vợ lại còn đòi phải môn đăng hộ đối. Chậc chậc, nếu chàng bằng lòng lấy ta thì không nói gì, còn như thay lòng đổi dạ, tính chuyện nọ kia thì ta chém vài nhát cho biết tay. Ta chẳng cần biết anh chàng là hạng người gì!”.

Nàng nghĩ thế nhưng trong bụng vẫn thấy không xong giục ngựa chạy lên ngang Đoàn Dự hỏi nhỏ:

- Này, chàng là hạng người gì thế? Những gì mình thề hẹn với nhau trên đỉnh núi kia, liệu có tính đến hay không?

Đoàn Dự thấy chung quanh đầy người, bỗng nàng đề cập thẳng đến chuyện hôn nhân, không khỏi sượng sùng, cười nói:

- Để vào trong thành Đại Lý, thủng thẳng rồi ta sẽ nói cho nàng nghe.

Mộc Uyển Thanh hậm hực:

- Nếu như chàng phụ ... chàng phụ bạc ... thiếp ... thiếp ...

Chú thich

1 Thất tuyệt là thơ bốn câu mỗi câu bảy chữ (thất ngôn tứ tuyệt) còn ngũ tuyệt là thơ bốn câu mỗi câu năm chữ (ngũ ngôn tứ tuyệt)

2 Lương chuyên là cột nhà, xà nhà ý nói bề tôi lương đống

3 Vô Lượng là tên cả một dãy núi chạy dài từ Tây Tạng xuống tận miền Bắc nước ta chứ không phải chỉ là một ngọn núi mà thôi

4 tự Huyền Thành (580-643) một danh thần đời Đường, hình mạo xấu xí nhưng rất trung liệt, khẳng khái làm quan tới chức Trịnh Quốc Công

5 thông hiểu hết mọi sách vở

6 chùa, đền dành riêng cho đạo sĩ

7 nhất tiễn song điêu

8 hồng phi minh minh

Chàng là con cái nhà ai,

Để cho thiếp phải trúc mai đi tìm?

*

* *

Hoi 6b.

Nói hai chữ “thiếp” rồi không nói thêm được nữa. Đoàn Dự thấy nàng mặt đỏ bừng, nước mắt rưng rưng, trông thật kiều diễm, càng thấy yêu hơn nói nhỏ:

- Ta mong còn chưa được, nàng yên tâm, mẹ ta cũng thương em lắm.

Mộc Uyển Thanh sắp khóc bỗng bật cười hạ giọng:

- Mẹ anh có thích em hay không, điều đó đâu phải là chủ yếu.

Ý nàng muốn bảo là “chỉ cần anh yêu em thế cũng đủ rồi”. Đoàn Dự nghe vậy bỗng nổi sóng tình, đưa mắt thấy mẹ đang nhìn mình cười nửa miệng bối rối không để đâu cho hết.

Đến khoảng giờ thân thì chỉ còn cách thành Đại Lý chừng hai ba chục dặm thấy xa xa trước mặt bụi bay mù mịt, khoảng một nghìn kỵ binh xếp thành hàng ngũ chạy tới, hai bên hai lá cờ màu vàng nhạt phất phới bay, một bên thêu “Trấn Nam” hai chữ màu đỏ, còn một bên thêu hai chữ “Bảo Quốc” màu đen. Đoàn Dự kêu lên:

- Mẹ ơi, cha con đích thân ra đón mẹ kìa.

Ngọc Hư tản nhân hừ một tiếng ghìm cương đứng lại. Bọn Cao Thăng Thái tất cả lập tức xuống ngựa, đứng tránh ra hai bên đường. Đoàn Dự giục ngựa chạy lên, Mộc Uyển Thanh chần chừ rồi cũng đuổi theo sau.

Chỉ giây lát hai bên đến gần, Đoàn Dự kêu lớn:

- Gia gia, mẹ con về đây.

Hai tên kỳ thủ liền giạt qua hai bên, một người mặc áo bào tía, cưỡi một con ngựa trắng cao lớn chạy vọt lên, quát lớn:

- Dự nhi, mi quả thật quấy phá quá lắm, làm cho Cao thúc thúc phải bị trọng thương, ta phải đánh cho gãy hai đùi mi mới xong.

Người áo bào tía kia mặt hình chữ quốc , thần thái uy nghiêm, mắt to mày rậm, chỉ thoáng trông đã biết là bậc vương giả, thấy con lành lặn trở về, tuy ba phần giận dữ không khỏi bảy phần mừng rỡ. Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: “Cũng may Đoàn lang tướng mạo giống mẹ nhiều hơn, không giống cha. Nếu như chàng mặt mày cũng hầm hầm hung dữ như bố, ta thật chẳng ưa chút nào”.

Đoàn Dự giật cương vọt lên, cười nói:

- Cha ơi, lão nhân gia khỏe chứ?

Người áo bào tía vẫn hầm hầm:

- Khỏe ở chỗ nào? Chưa chết vì bực tức cũng là may.

Đoàn Dự cười giả lả:

- Nếu như con không đi ra ngoài thì làm sao đón được mẹ quay về. Nhi tử lập được chút công lao hãn mã này, cũng không phải nhỏ. Cha ơi, thôi thì lấy công chuộc tội, cha đừng giận con nhé.

Người áo bào tía hừ một tiếng nói:

- Dẫu ta có tha cho ngươi thì bá phụ ngươi cũng không dung cho đâu.

Ông kẹp hai chân thúc một cái, con bạch mã chạy tới như bay về phía Ngọc Hư tản nhân. Mộc Uyển Thanh thấy đội kỵ binh ai nấy mặc áo gấm, giáp trụ sáng choang, binh khí lấp loáng, hai chục người đi đầu tay cầm nghi trượng, một bên là tấm biển sơn son viết một hàng sáu chữ “Đại Lý Trấn Nam Vương Đoàn”, bên kia là một tấm biển vẽ đầu hổ trên viết sáu chữ “Bảo Quốc Đại Tướng Quân Đoàn”. Nàng tuy là loại gái ngang bướng không sợ trời đất gì cả nhưng thấy khí thế uy nghi, trong bụng không khỏi phập phồng, hỏi Đoàn Dự:

- Này, vị Trấn Nam Vương Bảo Quốc Đại Tướng Quân là cha chàng đấy ư?

Đoàn Dự mỉm cười gật đầu, nói sẽ:

- Đó là bố chồng em đó.

Mộc Uyển Thanh ghìm cương đứng lại thẫn thờ, trong phút chốc thấy lòng thật là trống trải. Nàng ngơ ngẩn hồi lâu rồi giục ngựa chạy đến bên cạnh Đoàn Dự. Trên đường trước sau trái phải đầy những người nhưng sao trong thâm tâm nàng thấy mình cô đơn lạ lùng nên phải nép vào bên Đoàn Dự mới thấy đôi chút bình an.

Trấn Nam Vương dừng ngựa trước Ngọc Hư tản nhân chừng một trượng, hai người đăm đăm nhìn nhau, không ai mở miệng trước. Đoàn Dự nói:

- Mẹ ơi, cha con đích thân ra đón mẹ đây.

Ngọc Hư tản nhân đáp:

- Con chạy lên thưa với bá mẫu rằng mẹ sang bên đó ở ít ngày, đẩy lui được địch nhân rồi ta sẽ quay về Ngọc Hư Quan.

Trấn Nam Vương cười góp:

- Phu nhân chưa hết giận hay sao? Để khi mình về nhà rồi, từ từ ta sẽ bồi lễ.

Ngọc Hư tản nhân sầm mặt xuống:

- Tôi không muốn về nhà, tôi muốn vào cung kia.

Đoàn Dự nói:

- Hay lắm, thôi mình tiến cung trước, bái kiến bá phụ, bá mẫu rồi tính sau. Mẹ ơi, lần này con trốn ra ngoài đi chơi, bá phụ nhất định giận lắm, cha con chắc chẳng thèm nói giúp con đâu. Mẹ giúp nhi tử nói chữa vài câu nhé!

Ngọc Hư tản nhân nói:

- Cậu ấm càng lớn càng hư, cứ để cho bác cậu đánh đòn một chập cho xong.

Đoàn Dự cười:

- Đánh vào thân con nhưng mẹ đau trong dạ, không đánh có phải hay hơn không?

Ngọc Hư tản nhân bị chàng trêu ghẹo bật cười nói:

- Gớm, đánh càng đau tôi càng mừng chứ tôi chẳng thương cậu đâu.

Trấn Nam Vương và Ngọc Hư tản nhân hai người đang ngượng ngùng, được Đoàn Dự chen vào pha trò mấy câu, bà tươi lên cười một tiếng, cục thế liền dịu lại. Đoàn Dự nói:

- Thưa cha, ngựa cha cưỡi đẹp quá, sao cha không nhường cho mẹ con cưỡi đi?

Ngọc Hư tản nhân nói:

- Ta không cưỡi.

Nói rồi giục ngựa chạy về trước. Đoàn Dự đuổi theo, giơ tay ghìm cương ngựa của mẫu thân lại. Trấn Nam Vương lúc này đã xuống ngựa, dắt con bạch mã đến. Đoàn Dự cười hì hì, nhắc mẹ để lên yên, cười nói:

- Mẹ à, một người xinh đẹp tuyệt thế vô song như mẹ cưỡi trên lưng con ngựa trắng này trông càng dễ coi hơn. Thật đúng là Quan Thế Âm bồ tát hạ phàm.

Ngọc Hư tản nhân cười đáp:

- Mộc cô nương của con mới thật là mỹ nhân tuyệt thế vô song, con trêu một bà già như mẹ đấy à?

Trấn Nam Vương quay sang nhìn Mộc Uyển Thanh. Đoàn Dự lắp bắp:

- Nàng ... nàng là Mộc cô nương, là ... là hảo bằng hữu ... nhi tử kết giao đó.

Trấn Nam Vương nhìn thần sắc của con, đã biết ý, thấy Mộc Uyển Thanh dung nhan xinh đẹp, tấm tắc khen thầm: “Dự nhi quả có con mắt tinh đời”.

Ông nhìn thấy ánh mắt Mộc Uyển Thanh đầy vẻ chất phác, cũng không đến bái kiến mình, nghĩ thầm: “Hóa ra là một cô gái nhà quê chẳng biết lễ nghi là gì”. Ông trong bụng lo cho thương thế của Cao Thăng Thái, vội vã đi đến bên cạnh ông ta hỏi:

- Thái đệ, nội thương hiền đệ ra sao?

Ông giơ tay bắt mạch. Cao Thăng Thái đáp:

- Đốc mạch tiểu đệ bị thương, nhưng cũng không sao. Vương huynh chẳng cần ... chẳng cần tổn hao công lực ...

Nói chưa dứt câu, Trấn Nam Vương đã giơ ngón tay trỏ bên phải, điểm luôn ba cái vào sau cổ, rồi đè tả chưởng vào ngang hông ông ta. Chỉ thấy trên đầu Trấn Nam Vương từng tia khí trắng li ti bốc lên, độ chừng uống một chén trà mới rút về. Cao Thăng Thái nói:

- Thuần ca, đại địch ở trước mặt, sư ca việc gì phải hao tốn công lực vì tiểu đệ trong lúc này?

Trấn Nam Vương cười nói:

- Nội thương của hiền đệ không phải nhẹ, trị sớm chút nào hay lúc ấy. Để khi gặp đại ca rồi chắc hẳn ông ấy không chịu để ta ra tay đâu mà thể nào cũng tự mình làm lấy.

Mộc Uyển Thanh thấy Cao Thăng Thái sắc mặt vốn tái mét trông thật đáng sợ nhưng chỉ trong giây lát, hai má đã có sắc hồng, nghĩ thầm: “Thì ra cha của Đoàn lang nội công thật là thâm hậu, vậy mà sao chàng ... chàng chẳng biết tí võ công nào?”. Chử Vạn Lý dắt một con ngựa tới, hầu Trấn Nam Vương lên yên. Trấn Nam Vương và Cao Thăng Thái hai người cưỡi ngựa đi song song, hỏi nhỏ địch tình thế nào. Hai mẹ con Đoàn Dự nói nói cười cười, đằng trước đằng sau có thiết giáp vệ sĩ tiền hô hậu ủng đi về phái thành Đại Lý, để Mộc Uyển Thanh lủi thủi một mình.

Đến khi chiều xuống, đoàn người tiến vào cửa thành phía nam. Hai lá cờ Trấn Nam, Bảo Quốc đi đến đâu, bách tính đều reo hò:

- Trấn Nam Vương Gia thiên tuế!

- Đại tướng quân thiên tuế!

Trấn Nam Vương liền giơ tay đáp lại. Mộc Uyển Thanh thấy trong thành Đại Lý dân cư đông đúc, chợ búa nhộn nhịp, đường sá đều lót đá xanh. Đi qua mấy con đường trước mặt là một con đường đá thẳng tắp, tận cùng đầu kia vô số cung điện ngói vàng cao vút lên, ánh tà dương chiếu vào lớp đá lưu ly quả thật rực rỡ xán lạn, khiến ai nấy lóa cả mắt.

Cả đoàn người đi đến trước một cái cổng vòm tất cả đều xuống ngựa. Mộc Uyển Thanh thấy trên tấm biển có bốn chữ vàng lớn: Thánh Đạo Quảng Từ, nghĩ thầm: “Đây chắc là hoàng cung nước Đại Lý. Bá phụ của Đoàn lang sống trong hoàng cung, chắc hẳn cũng là một vị quan lớn, vương gia, đại tướng quân chi đó!”.

Mọi người đi qua cái cổng vòm, Mộc Uyển Thanh thấy biển ngạch trên cửa cung viết ba chữ vàng: Thánh Từ Cung. Một người thái giám vội vã đi ra nói:

- Khải bẩm vương gia: Hoàng thượng và nương nương đang chờ ở vương gia phủ, xin mời vương gia, vương phi quay về Trấn Nam Vương phủ kiến giá.

Trấn Nam Vương đáp:

- Được.

Đoàn Dự cười nói:

- Hay lắm! Hay lắm!

Ngọc Hư tản nhân lườm chàng một cái, giận dỗi hỏi:

- Hay cái gì? Ta ở trong hoàng cung chờ nương nương cũng được.

Gã thái giám nói:

- Nương nương có dặn vương phi lập tức triều kiến ngay, nương nương có việc quan trọng cần phải bàn với vương phi.

Ngọc Hư tản nhân lẩm bẩm:

- Có việc gì mà bảo là quan trọng? Chỉ bày chuyện ra thôi.

Đoàn Dự biết rằng đây là hoàng hậu cố ý an bài, liệu rằng mẹ chàng ắt sẽ không chịu về vương phủ nên đến Trấn Nam Vương phủ trước để chờ, thực thì chỉ có ý tốt muốn cha mẹ chàng tái hợp nên trong lòng vui lắm.

Cả đoàn người lại ra khỏi cổng vòm, lên ngựa quay về hướng đông, đi khoảng chừng hai dặm, đến trước một tòa phủ đệ thật lớn. Trước phủ môn là hai lá đại kỳ, trên cờ thêu một bên Trấn Nam, một bên Bảo Quốc, còn trên phủ ngạch là bốn chữ Trấn Nam Vương Phủ. Trước cửa phủ đứng đầy thân binh, vệ sĩ thấy đoàn người liền khom lưng cúi chào, nghinh đón vương gia, vương phi trở về.

Trấn Nam Vương đi vào phủ đầu tiên, Ngọc Hư tản nhân đạp chân lên bậc thềm đầu tiên bỗng nhiên ngừng lại, mắt rưng rưng, nước mắt rơi lã chã. Đoàn Dự vừa dìu vừa đỡ mẹ đi vào đại môn nói:

- Thưa cha, nhi tử mời được mẫu thân trở về quả là đại công, cha thưởng con gì nào?

Trấn Nam Vương trong lòng vui sướng nói:

- Con hỏi xem mẹ muốn thưởng gì, ta cứ thế mà ban cho.

Ngọc Hư tản nhân đang khóc bật cười nói:

- Ta bảo thưởng cho ngươi mấy roi.

Đoàn Dự le lưỡi không nói gì. Bọn Cao Thăng Thái đến đại sảnh, chia ra đứng hai bên, Trấn Nam Vương nói:

- Thái đệ trên người bị thương, hãy ngồi xuống.

Đoàn Dự quay sang nói với Mộc Uyển Thanh:

- Uyển muội ngồi đây chờ một lát, ta bái kiến hoàng thượng, hoàng hậu rồi sẽ ra với nàng.

Mộc Uyển Thanh quả không muốn rời chàng ra phút nào nhưng không cách gì ngăn trở, chỉ đành miễn cưỡng gật đầu rồi ngồi xuống chiếc ghế đầu tiên. Những người còn lại ai nấy đều đứng, chờ cho vợ chồng Trấn Nam Vương và Đoàn Dự vào trong nội đường, khi ấy Cao Thăng Thái mới ngồi xuống, nhưng bọn Chử Vạn Lý, Chu Đan Thần, Cổ Đốc Thành vẫn thõng tay đứng thẳng.

Mộc Uyển Thanh chẳng để ý, đưa mắt nhìn đại sảnh, thấy ngay chính giữa là một tấm biển nằm ngang viết bốn chữ đại tự “Bang Quốc Trụ Thạch” , lạc khoản có thêm bốn chữ nhỏ “Đinh Mão ngự bút”. Trên các cột trong sảnh đường treo đầy tự họa, nhưng nàng chẳng coi được bao nhiêu, lại thêm nhiều chữ nàng không biết. Người hầu bưng trà lên, cung kính nâng cao quá đỉnh đầu. Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: “Những người này thật là lạ lùng”. Nàng thấy chỉ có mình và Cao Thăng Thái hai người là có trà uống, còn bọn Chu Đan Thần khi ngự địch uy phong biết bao nhiêu, đến Trấn Nam Vương phủ rồi, cung kính đứng sững đến thở mạnh cũng không dám, đâu còn gì là vẻ anh hùng hảo hán thân mang võ công thượng thừa?

Qua độ nửa giờ, Mộc Uyển Thanh đợi lâu quá không chịu nổi, kêu ầm lên:

- Đoàn Dự, Đoàn Dự, sao mãi chưa ra?

Trong đại sảnh tuy đầy những người nhưng ai nấy nín thở không dám nói tiếng nào, đột nhiên Mộc Uyển Thanh la lối ầm ỹ, khiến mọi người nhảy dựng lên vì sợ. Cao Thăng Thái mỉm cười nói:

- Cô nương đừng sốt ruột, tiểu vương gia ra ngay bây giờ.

Mộc Uyển Thanh kỳ lạ hỏi lại:

- Cái gì mà tiểu vương gia?

Cao Thăng Thái đáp:

- Đoàn công tử là thế tử của Trấn Nam Vương chẳng phải là tiểu vương gia hay sao?

Mộc Uyển Thanh lẩm bẩm nói một mình:

- Tiểu vương gia! Tiểu vương gia! Anh chàng đồ gàn ấy có vẻ gì là tiểu vương gia đâu nhỉ?

Chỉ thấy từ nội đường một người thái giám đi ra nói:

- Hoàng thượng có chỉ: Đòi Thiện Xiển Hầu và Mộc Uyển Thanh vào triều kiến.

Cao Thăng Thái thấy người thái giám đi ra vốn đã cung kính đứng lên, còn Mộc Uyển Thanh vẫn ngang nhiên ngồi đó, nghe tên thái giám gọi thẳng tên mình, trong bụng không vui, nói nhỏ:

- Không lẽ ta không đáng gọi một tiếng cô nương hay sao mà phải kêu réo tên của ta ra?

Cao Thăng Thái nói:

- Mộc cô nương, chúng ta cùng vào khấu kiến hoàng thượng.

Mộc Uyển Thanh tuy chẳng biết sợ trời sợ đất là gì nhưng nghe nói vào triều kiến hoàng đế, trong bụng cũng hơi chột dạ, chỉ lẽo đẽo đi theo Cao Thăng Thái, qua một hành lang dài, tới một đình viện đi hết phòng này sang phòng khác, sau cùng đến bên ngoài một hoa sảnh.

Người thái giám đó báo:

- Thiện Xiển Hầu, Mộc Uyển Thanh triều kiến hoàng thượng và nương nương.

Nói rồi liền vén màn lên. Cao Thăng Thái đưa mắt cho Mộc Uyển Thanh, tiến vào hoa sảnh, hướng về một người đàn ông và một người đàn bà ngồi ngay chính giữa quì xuống. Mộc Uyển Thanh không quì, thấy người đàn ông mặc hoàng bào, để râu dài, tướng mạo tuấn tú thanh nhã bèn hỏi:

- Ông là hoàng đế đó sao?

Người đàn ông ngồi ngay chính giữa đó chính là đương kim hoàng đế nước Đại Lý Đoàn Chính Minh, đế hiệu là Bảo Định Đế. Nước Đại Lý kiến quốc từ năm Thiên Phúc thứ hai nhà Hậu Tấn đời Ngũ Đại, còn sớm hơn vụ khoác áo hoàng bào lên người Triệu Khuông Dẫn trong binh biến Trần Kiều tới hai mươi ba năm.

Họ Đoàn nước Đại Lý vốn là người quận Võ Uy, thủy tổ là Đoàn Kiệm Ngụy, làm Thanh Bình Quan cho họ Mông nước Nam Chiếu, truyền sáu đời tới Đoàn Tư Bình thì làm chức Tiết Độ Sứ đất Thông Hải. Năm Đinh Dậu họ Đoàn chiếm được nước này xưng là Thái Tổ Thần Thánh Văn Võ Đế. Truyền được mười bốn đời thì tới Đoàn Chính Minh đến nay đã hơn một trăm năm mươi năm.

Đời bấy giờ nhà Tống ở Biện Lương vua Triết Tông đang tại vị, tuổi còn nhỏ, bà Thái Hoàng Thái Hậu Cao thị ngồi sau màn điều khiển việc triều chính. Bà Thái Hoàng Thái Hậu biết dùng những danh thần, loại bỏ những chính sách hà khắc khiến cho trăm họ an lạc, đất Trung Nguyên thanh bình, thật là vị nữ vương anh minh nhân hậu số một của Trung Quốc nên sử gọi là “bậc Nghiêu Thuấn nữ lưu” (nữ trung Nghiêu Thuấn). Nước Đại Lý ở riêng một cõi cương vực phương nam, các vị hoàng đế ai nấy sùng tín Phật pháp, tuy tự lập đế hiệu nhưng vẫn thần phục nhà Đại Tống nên hai bên chưa từng có việc can qua. Bảo Định Đế tại vị mười một năm đổi niên hiệu ba lần gồm Bảo Định, Kiến An, Thiên Tá. Lúc này đang vào thời Thiên Tá, bốn phương phẳng lặng, quốc thái dân an.

Bảo Định Đế thấy Mộc Uyển Thanh không quì lạy mình, mở miệng hỏi ngay mình có phải hoàng đế không, không khỏi nực cười, nói:

- Ta chính là hoàng đế đây. Cô đi chơi trong thành Đại Lý có thấy vui không?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Tiểu nữ vừa vào trong thành là đi gặp ông ngay, chưa từng đi chơi.

Bảo Định Đế mỉm cười:

- Thế thì sáng mai bảo Dự nhi dẫn cô đi mọi nơi để xem phong cảnh trong thành Đại Lý của chúng ta nhé.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Hay lắm, thế ông có đi chung với chúng tôi không?

Nàng vừa nói câu này ra, ai nấy không khỏi mỉm cười. Bảo Định Đế quay lại nhìn hoàng hậu đang ngồi bên cạnh mình, cười nói:

- Hoàng hậu, cô bé này bảo mình dẫn cô ta đi chơi, bà có chịu đi không?

Hoàng hậu mỉm cười chưa kịp trả lời, Mộc Uyển Thanh đưa mắt nhìn bà xem xét nói:

- Bà là hoàng hậu nương nương đấy ư? Thảo nào bà đẹp quá đi thôi.

Bảo Định Đế cười ha hả nói:

- Dự nhi, Mộc cô nương thành thực ngây thơ, thật là thú vị.

Mộc Uyển Thanh hỏi lại:

- Sao ông lại gọi anh ta là Dự nhi? Anh ấy thường nhắc đến bá phụ, có phải là ông không? Lần này anh ấy lén trốn nhà ra đi, chỉ sợ ông nổi giận, ông đừng đánh anh ấy có được không?

Bảo Định Đế mỉm cười:

- Trẫm vốn định đánh cho nó năm mươi roi nhưng cô nương đã xin thì tha cho y vậy. Dự nhi, con mau cảm tạ Mộc cô nương đi chứ!

Đoàn Dự thấy Mộc Uyển Thanh làm cho hoàng thượng cao hứng, trong lòng rất mừng, biết tính bác mình hiền hòa, nên quay sang vái Mộc Uyển Thanh một cái nói:

- Xin cảm tạ ân đức của Mộc cô nương đã xin giùm cho.

Mộc Uyển Thanh đáp lễ nói nhỏ:

- Bá phụ chàng bằng lòng tha cho chàng rồi, thiếp mới an tâm. Chẳng cần chàng phải tạ ơn làm gì.

Nàng quay sang nói với Bảo Định Đế:

- Tiểu nữ cứ tưởng hoàng đế là phải hung ác dễ sợ, có ngờ đâu ... ngờ đâu ông ... ông tốt quá.

Ngoại trừ khi còn bé được phụ hoàng, mẫu hậu khen ngợi, hơn mười năm qua Bảo Định Đế chỉ thấy người khác sợ hãi, cung kính chưa từng nghe ai bảo “ông tốt quá”, nay thấy Mộc Uyển Thanh hồn nhiên như vàng ngọc chưa mài, không thông thế sự nhân tình nên càng thêm yêu mến, quay sang nói với hoàng hậu:

- Bà có gì thưởng cho cô ấy không?

Hoàng hậu tháo chiếc vòng ngọc ở cổ tay ra, đưa cho nàng nói:

- Thưởng cho cô đây!

Mộc Uyển Thanh tiến lên tiếp lấy, đeo vào tay mình, nở một nụ cười nói:

- Cám ơn bà. Lần sau tôi sẽ đi tìm vật gì thật đẹp để tặng cho bà.

Hoàng hậu mỉm cười:

- Vậy thì ta cám ơn cô trước.

Bỗng nghe từ mé phái tây trên mái nhà cách chừng mấy căn có tiếng loạt soạt, tiếp theo mái nhà kế bên cũng nghe một tiếng động khác. Mộc Uyển Thanh kinh hãi, biết là có kẻ địch đến tấn công, người đó đi quả là nhanh. Lại nghe vèo vèo, đã có ai đó nhảy lên nóc nhà, rồi tiếng Chử Vạn Lý quát lên:

- Các hạ đêm khuya vào trong vương phủ là có ý gì?

Một giọng ồm ồm như nghẹt mũi cất lên:

- Ta đi kiếm học trò ta! Mau gọi học trò cưng của ta ra gặp ta.

Người đó chính là Nam Hải Ngạc Thần. Mộc Uyển Thanh càng kinh hãi hơn, tuy biết rằng vương phủ giới bị sâm nghiêm, vệ sĩ đông như kiến, Trấn Nam Vương, Cao Thăng Thái, Ngọc Hư tản nhân và Chử Cổ Phó Chu đều là những người võ công trác tuyệt nhưng Nam Hải Ngạc Thần quá ư lợi hại, nếu như lại có cả Diệp Nhị Nương, Vân Trung Hạc và cái kẻ được mệnh danh là ác nhất thiên hạ chưa từng gặp kia đến tiếp tay, tứ ác liên thủ, nhất định bắt Đoàn Dự cho bằng được thì e rằng khó mà ngăn trở.

Lại nghe Chử Vạn Lý hỏi tiếp:

- Cao đồ của các hạ là ai? Trong phủ Trấn Nam Vương làm gì có đồ đệ của các hạ? Mau đi ra đi.

Đột nhiên nghe soẹt một tiếng, từ trên không một bàn tay to lớn thò xuống xé toạc chiếc rèm che sảnh môn ra làm hai, rồi một bóng người thấp thoáng, Nam Hải Ngạc Thần đã đứng ngay giữa sảnh đường. Đôi mắt ti hí của y đảo vòng quanh, đã thấy ngay Đoàn Dự liền cười ha hả kêu lên:

- Lão tứ nói chẳng sai, học trò cưng của ta ở đây thật. Mau mau cầu ta thu ngươi làm đồ đệ để theo ta học công phu.

Y nói xong liền giơ bàn tay như chiếc chân gà chộp vào vai Đoàn Dự. Trấn Nam Vương thấy thế trảo của y đến thật nhanh, quả thực ghê gớm, sợ đứa con yêu bị thương, lập tức múa chưởng đánh ra. Hai người đụng nhau, nghe bình một tiếng, đều thấy chấn động. Nam Hải Ngạc Thần trong bụng kinh hãi thầm hỏi:

- Ngươi là ai? Ta đến đón học trò ta có liên can gì đến ông.

Trấn Nam Vương mỉm cười:

- Tại hạ Đoàn Chính Thuần. Thằng bé này là con trai ta, bái ông làm thầy hồi nào?

Đoàn Dự cười nói:

- Sao ông cứ khăng khăng muốn thu ta làm đồ đệ, ta đã nói ta có sư phụ rồi, ông cứ một mực không tin.

Nam Hải Ngạc Thần đưa mắt nhìn Đoàn Dự, rồi lại nhìn Trấn Nam Vương nói:

- Sao bố thì võ công cao cường, con thì một mảy không biết, ta không tin hai người là cha con. Đoàn Chính Thuần, thôi ta bỏ qua không bắt bẻ nhưng dẫu y có là con ông thật thì hoặc là ông dạy không đúng cách, hoặc là con ông quá chậm lụt. Tiếc quá, hà hà, tiếc quá.

Đoàn Chính Thuần hỏi lại:

- Tiếc cái gì?

Nam Hải Ngạc Thần nói:

- Con ông thật là giống ta, quả là một nhân tài hiếm có để học võ, chỉ cần theo ta mười năm, bảo đảm sẽ thành một cao thủ võ lâm thật ghê gớm.

Đoàn Chính Thuần vừa bực mình, vừa nực cười, thế nhưng vừa rồi đối chưởng với y, biết gã này võ công quả thực đáng nể, đang định trả lời, Đoàn Dự đã bước ra nói:

- Nhạc lão tam, nhà ngươi võ công có ra gì đâu, không thể nào bằng sư phụ ta được, mau quay về đảo Vạn Ngạc ngoài Nam Hải luyện thêm hai chục năm rồi hãy quay lại đây đàm luận võ học với ta.

Nam Hải Ngạc Thần nổi cáu, quát lên:

- Cỡ như ngươi mà dám chê bai võ công của ta không ra gì ư?

Đoàn Dự đáp:

- Ta hỏi ngươi: “Phong lôi, Ích. Quân tử dĩ kiến thiện tắc thiên, hữu quá tắc cải” là nghĩa thế nào?

Nam Hải Ngạc Thần đứng ngơ ngẩn, nổi cọc đáp:

- Làm đếch có nghĩa lý gì? Nói láo lếu thôi.

Đoàn Dự nói:

- Đến mấy câu ý nghĩa nông cạn như thế ngươi cũng không biết mà nói gì đến võ học? Ta hỏi thêm câu nữa: “Tổn thượng ích hạ, dân duyệt vô cương. Tự thượng hạ hạ, kỳ đạo đại quang” thế là nghĩa làm sao?

Bảo Định Đế, Trấn Nam Vương, Cao Thăng Thái tất cả thấy chàng đem Kinh Dịch ra để đùa rỡn gã này, không khỏi nực cười. Mộc Uyển Thanh tuy không hiểu chàng đang nói gì nhưng cũng đoán được là chàng đồ gàn đang xổ chữ nghĩa.

Nam Hải Ngạc Thần đứng ngẩn ngơ thấy ai nấy đang mủm mỉm cười chế nhạo mình, đoán chừng Đoàn Dự nói chẳng phải là điều hay ho gì, liền rống lên một tiếng, định tung chưởng đánh ra. Đoàn Chính Thuần tiến lên nửa bước, chặn ngay trước mặt con. Đoàn Dự cười nói:

- Ta nói đây toàn là võ công bí quyết, bên trong vô cùng ảo diệu, xem ra ngươi chẳng hiểu gì cả. Ngươi đúng là ếch ngồi đáy giếng, vậy mà đòi làm sư phụ ta, không sợ thiên hạ cười đến trẹo quai hàm hay sao? Ha ha! Những sư phụ ta từng bái gồm có Ngọc Động thần tiên, túc nho học rộng, đại đức cao tăng. Còn ngươi ư, có luyện thêm một chục năm nữa cũng chưa đáng học trò ta.

Nam Hải Ngạc Thần gầm lên:

- Sư phụ ngươi là ai? Mau mau gọi y ra đây, lộ chút tài nghệ ta xem nào.

Đoàn Chính Thuần thấy chỉ có một người trong tứ ác đến đây, võ công tuy cao cường thật nhưng so với mình vẫn còn kém một chút, cũng muốn nhân dịp này đùa rỡn y một phen để hoàng thượng, hoàng hậu và phu nhân giải trí nên thấy con mình huyên hoang khoác lác, ông vẫn để yên không ngăn trở.

Đoàn Dự thấy bá phụ cười hì hì, phụ thân cũng mặc kệ không nói gì, được thể làm già, quay sang nói với Nam Hải Ngạc Thần:

- Được, ngươi có gan thì chờ ở đây, ta đi mời sư phụ ta tới, chỉ sợ ngươi co giò chạy mất.

Nam Hải Ngạc Thần giận dữ đáp:

- Ta Nhạc lão nhị một đời tung hoành giang hồ, đã sợ ai chưa? Đi mau, đi mau.

Đoàn Dự quay mình đi ra. Nam Hải Ngạc Thần đưa mắt nhìn mọi người, thấy ai nấy đều mỉm cười, nghĩ thầm: “Gã học trò ta võ công tệ hại dở như rắm chó, sư phụ y thì đã bằng ai? Lão tử chẳng đếch gì mà phải sợ”.

Chỉ nghe tiếng dép lẹp xẹp, Đoàn Dự đã dẫn một người tiến vào vừa tới ngoài cửa đã nói:

- Nhạc lão tam chạy mất chưa? Cha đừng để y chạy mất, sư phụ con tới đây.

Nam Hải Ngạc Thần gầm lên:

- Ta chạy đâu mà chạy? Con mẹ nó chứ, mau nói sư phụ ngươi vào đây. Ngươi không chịu theo học minh sư chắc là bởi vì gã ám sư của ngươi không chịu. Để ta bẻ cổ tên sư phụ chó chết kia trước, ngươi không có sư phụ, không thể không bái ta làm thầy, ý kiến đó cao minh hết nước nói.

Y còn đang tự mèo khen mèo dài đuôi, Đoàn Dự đã dẫn một người vào, vừa thấy mặt ai nấy cười sằng sặc. Người đó đầu đội tiểu mạo, thân mặc trường bào, râu cá chốt loe hoe vàng ệch, đôi mắt lờ đờ đỏ ngầu, so vai rụt cổ, hình dáng thật là bệ rạc. Ngọc Hư tản nhân cả bọn nhận ra y là Hoắc tiên sinh, một trong đám thủ hạ của người quản phủ. Người này suốt ngày lờ đờ, ngủ chẳng ra ngủ, thức chẳng ra thức, chỉ thích lê la bài bạc với đám đầy tớ trong vương phủ. Lúc này y nửa say nửa tỉnh, áo quần đầy dầu mỡ, bị Đoàn Dự nắm tay lôi lên, khép nép rụt rè không dám vào. Y vừa đến hoa sảnh vội vàng quì xuống khấu đầu bái kiến Bảo Định Đế và hoàng hậu. Bảo Định Đế không biết y là ai chỉ nói:

- Miễn lễ!

Đoàn Dự cầm tay Hoắc tiên sinh quay sang nói với Nam Hải Ngạc Thần:

- Nhạc lão tam, trong số các vị sư tôn, vị sư phụ này võ công kém nhất, ngươi phải thắng được ông ta đã rồi hãy nói chuyện tỉ võ với các vị sư phụ khác.

Nam Hải Ngạc Thần hầm hè nói:

- Trong ba chiêu mà Nhạc lão nhị này không đánh cho y gãy gối tối mặt thì ta sẽ lạy ngươi làm thầy.

Đoàn Dự ánh mắt lóe lên một tia hi vọng nói:

- Ngươi nói có thật chăng? Nam tử hán đại trượng phu nói ra mà không giữ lời, thì là đồ rùa đen, là quân đê tiện.

Nam Hải Ngạc Thần kêu lên:

- Lại đây! Lại đây! Lại đây!

Đoàn Dự nói:

- Nếu chỉ đánh ba chiêu thì chẳng cần phải sư phụ ta ra tay, để ta tiếp ngươi ba chiêu cũng được rồi.

Nam Hải Ngạc Thần nghe Vân Trung Hạc báo tin, lật đật chạy tới Trấn Nam Vương phủ quyết ý bắt cho bằng được Đoàn Dự để làm truyền nhân phái Nam Hải nhưng sau khi đối chưởng với Đoàn Chính Thuần rồi cũng hơi ngán ngẩm. Y thấy cao thủ đông đảo vây quanh thế này, muốn bắt Đoàn Dự đem đi quả không phải dễ, chỉ riêng cha của đứa học trò này, xem ra cũng đánh không lại, nay nghe Đoàn Dự tự nguyện động thủ với mình, thật mừng không để đâu cho hết. Y chỉ ra tay là bắt được chàng ngay, lúc đó bọn Đoàn Chính Thuần dù võ công cao cường đến đâu thì cũng phải chịp lép một bề không dám chống cự đành giương mắt nhìn mình xách tên học trò đi, bèn nói:

- Hay lắm, ngươi ra đây đỡ ta ba chiêu, ta không dùng nội lực, quyết không đả thương ngươi đâu.

Đoàn Dự đáp:

- Hai người mình phải nói rõ trước, trong vòng ba chiêu ngươi không đánh ngã được ta thì sẽ ra thế nào?

Nam Hải Ngạc Thần cười ha hả, y biết Đoàn Dự chỉ là một thư sinh trói gà không chặt, chẳng nói gì ba chiêu, chỉ sợ nửa chiêu cũng không chịu nổi bèn nói:

- Trong ba chiêu nếu không đánh ngã được ngươi, ta sẽ lạy ngươi làm thầy.

Đoàn Dự cười nói:

- Ở đây ai cũng nghe thấy cả, liệu ngươi có tính bài chây hay không?

Nam Hải Ngạc Thần giận dữ đáp:

- Nhạc lão nhị này xưa nay nói ra một là một, hai là hai.

Đoàn Dự nói:

- Nhạc lão tam!

Nam Hải Ngạc Thần cãi:

- Nhạc lão nhị!

Đoàn Dự lại nói:

- Nhạc lão tam!

Nam Hải Ngạc Thần nói:

- Mau lại đây động thủ, nói lảm nhảm cái đếch gì nữa?

Đoàn Dự tiến lên hai bước, đứng đối diện với y.

Những người trong sảnh từ Bảo Định Đế, hoàng hậu trở xuống trừ Mộc Uyển Thanh, ai nấy đều biết Đoàn Dự từ nhỏ đến lớn vốn thích văn chương ghét võ nghệ. Chàng trước nay chưa từng học võ công, mới đây vì Bảo Định Đế và Đoàn Chính Thuần ép học võ nên mới bỏ nhà ra đi, không nói gì ra tay đấu với một cao thủ hạng nhất mà ngay cả một vệ sĩ hay một người lính quèn cũng không thể nào địch lại.

Lúc đầu mọi người tưởng chàng cố ý chọc ghẹo gã ngốc nghếch này thế nhưng tới đây xem ra quả thực muốn cùng y giao đấu. Mặc dầu Nam Hải Ngạc Thần một lòng một dạ muốn thu chàng làm đồ đệ ắt không làm hại tính mạng nhưng y là người tính tình hung hăng, man dã, nhỡ khi cuồng tính phát tác, cái thân cành vàng lá ngọc của Đoàn Dự sao có thể khinh thị mạo hiểm được?

Ngọc Hư tản nhân là người đầu tiên lên tiếng ngăn con lại:

- Dự nhi không được phá rối, một gã sơn dã thất phu như y, việc gì phải dài dòng.

Hoàng hậu liền truyền lệnh:

- Thiện Xiển Hầu mau hạ lệnh bắt tên cuồng đồ này.

Thiện Xiển Hầu khom lưng đáp:

- Thần Cao Thăng Thái tiếp chỉ.

Ông ta quay lại quát lớn:

- Chử Vạn Lý, Cổ Đốc Thành, Phó Tư Qui, Chu Đan Thần bốn người nghe lệnh: Nương nương có chỉ dụ bắt ngay gã cuồng đồ phạm giá này.

Bọn Chử Vạn Lý tất cả khom lưng đồng thanh đáp lời:

- Thần tiếp chỉ.

Nam Hải Ngạc Thần thấy mọi người sắp sửa xông lên tấn công mình, quát lớn:

- Chúng bay tất cả cùng xông lên đi, lão tử có sợ đếch gì. Hai người là hoàng đế, hoàng hậu phải không? Cùng xông lên nốt cũng không sao.

Đoàn Dự vội xua tay nói:

- Khoan đã, khoan đã, để ta tỉ thí với y ba chiêu rồi tính sau.

Bảo Định Đế biết đứa cháu mình hành sự trước nay vốn khác người, xem chừng bên trong còn có cơ mưu gì, vả lại Nam Hải Ngạc Thần cũng không muốn hại đến tính mạng y, lại có hai anh em mình cùng Thiện Xiển Hầu ở bên cạnh hẳn không có gì đáng ngại bèn nói:

- Mọi người ngừng tay, để cho gã cuồng đồ này lãnh giáo cao chiêu của tiểu vương tử nước Đại Lý trước cũng không sao.

Bọn bốn người Chử Vạn Lý đang xông lên nghe thấy hoàng thượng hạ chỉ như thế vội vàng đứng lại. Đoàn Dự nói:

- Nhạc lão tam, chúng mình nói trước cho rõ ràng, nếu trong ba chiêu ngươi không đánh ngã được ta thì phải bái ta làm thầy. Ta dẫu có là sư phụ ngươi nhưng ngươi tư chất dốt nát, võ công ta không dạy ngươi được, ngươi có chịu hay không?

Nam Hải Ngạc Thần giận dữ nói:

- Ai cần ngươi dạy võ công? Ngươi biết võ quái gì mà nói?

Đoàn Dự nói:

- Được rồi, thế là ngươi bằng lòng. Sau khi bái sư rồi, lệnh của sư tôn truyền ra không được vi phạm, ta bảo ngươi làm gì, ngươi phải tuân lệnh mà làm, nếu không thì là khi sư diệt tổ, không hợp qui củ võ lâm, ngươi có chịu không thì bảo?

Nam Hải Ngạc Thần không nổi giận mà cười hềnh hệch nói:

- Lẽ dĩ nhiên là thế. Ngươi bái ta làm thầy thì cũng thế thôi.

Đoàn Dự nhẩm lại độ mươi bước Lăng Ba Vi Bộ đã học, xem ra muốn tránh được ba chiêu của y không phải là chuyện khó khăn nhưng trong đời chưa từng động thủ với người nào, Nam Hải Ngạc Thần võ công lại quá cao siêu, có hiệu nghiệm hay không thật chưa thể biết được nên phải thêm một đường lui cho chắc ăn. Chàng bèn nói:

- Nếu đã như thế, quả thực ngươi muốn thu ta làm đồ đệ thì phải đánh ngã được những sư phụ khác của ta đã, để cho thấy võ công ngươi cao hơn các thầy cũ của ta, lúc ấy ta mới bái ngươi làm thầy.

Chàng nghĩ thầm: “Nếu chẳng may trong ba chiêu y bắt được ta, ta sẽ kể hết những người cao cường ra là sư phụ để cho y tỉ thí một phen”. Nam Hải Ngạc Thần nói:

- Cũng được! Cũng được! Nếu như ngươi không để ta tỉ thí thì thật chẳng bằng lòng chút nào. Phái Nam Hải nhà ta nói đánh là đánh, không úp mở gì cả.

Đoàn Dự chỉ về phía sau lưng y mỉm cười nói:

- Một vị sư phụ của ta đã đứng sau lưng ngươi kìa ...

Nam Hải Ngạc Thần đâu có ngờ sau lưng mình lại có người vội quay đầu lại, Đoàn Dự liền đi xéo lên một bước nhẹ nhàng như gió thoảng, nhanh tay lẹ mắt chộp luôn vào huyệt Đãn Trung trên ngực y, ngón tay cái bấm ngay vào chính huyệt. Thủ pháp của chàng thật vụng về nhưng trong người Đoàn Dự có ngầm chứa nội lực của bảy đệ tử phái Vô Lượng, tuy không biết cách vận dụng nhưng chộp một cái kình đạo cũng không phải nhỏ. Nam Hải Ngạc Thần thấy trên ngực nhói một cái thì tay trái của Đoàn Dự đã lại chộp vào huyệt Thần Khuyết ở bên trên rốn. Bắc Minh thần công trong quyển trục vẽ rất nhiều huyệt đạo, Đoàn Dự chỉ mới luyện đến Thủ Thái Âm Phế Kinh và Nhâm Mạch, hai huyệt Đãn Trung và Thần Khuyết là hai đại huyệt của Nhâm Mạch.

Nam Hải Ngạc Thần kinh hãi, vội vận nội lực dẫu dụa thoát thân, đột nhiên thấy nội lực từ huyệt Đãn Trung tuôn ra, người rã rời lại càng hoảng hốt. Đoàn Dự lập tức nhấc bổng y lên, đầu lộn xuống, chân chổng lên dộng một cái, nghe ầm một tiếng, chiếc đầu sói to tướng đập xuống đất. Cũng may trong hoa sảnh có lót thảm nên y không bị thương. Trong cơn cuồng nộ, y dùng chiêu Lý Ngư Đả Đĩnh nhảy vọt lên, tay trái vươn ra chộp vào Đoàn Dự.

Mọi người trong sảnh thấy việc xảy ra như thế, ai nấy kinh ngạc vạn phần. Nam Hải Ngạc Thần ra chiêu thật độc địa, Đoàn Chính Thuần vừa toan chống đỡ đã thấy Đoàn Dự bước lệch qua bên trái, bộ pháp thật là kỳ quái, chỉ một bước đã tránh được bàn tay nhanh như điện của đối phương phóng tới, ông buột miệng khen con:

- Hay quá!

Chưởng thứ hai của Nam Hải Ngạc Thần liền tiếp theo, Đoàn Dự cũng không trả đòn, lại đi xéo qua hai bước, cũng tránh được ngay. Nam Hải Ngạc Thần hai lần ra tay không trúng, vừa kinh hoàng vừa giận dữ, thấy Đoàn Dự đứng ngay trước mặt mình, cách nhau chưa đầy ba thước, đột nhiên gầm lên một tiếng, hai tay cùng phóng ra, cả cánh tay, bàn tay, ngón tay đều dùng hết sức, giận quá mất khôn quên rằng nếu như chộp trúng thì “người truyền nhân tương lai của phái Nam Hải” kia sẽ banh ngực vỡ bụng chết tươi.

Bảo Định Đế, Đoàn Chính Thuần, Ngọc Hư tản nhân, Cao Thăng Thái bốn người cùng cất tiếng quát lớn:

- Coi chừng!

Chỉ thấy Đoàn Dự đạp qua bên trái, chân phải rút lên nhẹ nhàng lòn qua sau lưng y, giơ tay đập lên cái đầu hói của y một cái. Nam Hải Ngạc Thần thấy đối phương thần xuất quỉ một đánh vào đầu mình, kêu thầm: “Thôi mạng ta hết rồi!”. Thế nhưng bàn tay chàng đụng vào da thịt y thấy không có chút nội lực nào, tay trái liền vung lên, nghe rẹt một cái đã cào xước lưng bàn tay Đoàn Dự năm đường dài.

Đoàn Dự vội rụt tay về, trảo lực của Nam Hải Ngạc Thần chưa hết, năm ngón tay tiếp tục chộp xuống trúng ngay chính đầu y năm vết xước khác.

Đoàn Dự vốn đã tránh được ba chiêu, xem ra đã thắng nhưng vì tính trẻ con nổi lên, lại đánh vào đầu Nam Hải Ngạc Thần một cái. Chàng có biết đâu nội lực của mình không phải là ít nhưng vì không biết sử dụng suýt nữa bị y bắt được, lúc này vội vàng lẻn ra đằng sau phụ thân, sợ đến mặt cắt không còn hạt máu.

Ngọc Hư tản nhân lườm con một cái, nghĩ thầm: “Giỏi nhỉ, ngươi học được của bá phụ và gia gia môn công phu kỳ diệu như thế, vậy mà còn dấu cả ta”. Mộc Uyển Thanh lớn tiếng nói:

- Nhạc lão tam, ngươi ba chiêu đánh không ngã được người, chính mình còn bị vật ngã, sao không mau mau khấu đầu bái sư đi.

Nam Hải Ngạc Thần vò đầu bứt tai, mặt đỏ bừng nói:

- Y đã thực sự động thủ với ta đâu, cái đó không tính được.

Mộc Uyển Thanh giơ ngón tay lên má lêu lêu:

- Rõ không biết thẹn! Ngươi không bái sư, thì quả là đồ rùa đen, là quân khốn kiếp. Ngươi bằng lòng bái sư hay chịu làm đồ rùa đen khốn kiếp?

Nam Hải Ngạc Thần giận dữ đáp:

- Ta không chịu cái gì hết. Ta muốn đấu với y.

Đoàn Chính Thuần thấy con mình bộ pháp xảo diệu phi thường quả chưa nhìn ra quyết khiếu trong đó, ghé tai Đoàn Dự nói nhỏ:

- Con đừng giơ tay đánh y, chỉ thừa cơ nắm huyệt đạo y thôi.

Đoàn Dự đáp:

- Nhi tử sợ quá, e không làm nổi.

Đoàn Chính Thuần hạ giọng:

- Không việc gì phải sợ, ta đứng bên cạnh lo cho.

Đoàn Dự được phụ thân chiếu cố lại thấy can đảm hơn nhiều, từ sau lưng Đoàn Chính Thuần bước ra nói:

- Ngươi ba chiêu không đánh ngã được ta thì phải lạy ta làm thầy chứ?

Nam Hải Ngạc Thần gầm lên một tiếng, phóng chưởng đánh ra. Đoàn Dự bước về phía đông bắc một bước, nhẹ nhàng tránh được ngay, nghe lách cách, chưởng của Nam Hải Ngạc Thần trúng ngay một cái bàn uống trà vỡ tan. Đoàn Dự ngưng thần, miệng lẩm bẩm đọc: “Quan ngã sinh, tiến thoái. Cấn kỳ bối, bất hoạch kỳ nhân; hành kỳ đình, bất kiến kỳ nhân. Đỉnh nhĩ cách, kỳ hành tắc. Bác, bất lợi hữu du vãng. Đê dương xúc phiên, bất năng thoái, bất năng toại”.

Chàng không cần xem Nam Hải Ngạc Thần chưởng thế ra sao, cứ tự mình trái trên phải dưới, tiến thì xéo, lùi thì thẳng. Nam Hải Ngạc Thần song chưởng càng lúc càng nhanh, kình lực mỗi lúc một mạnh, trong hoa sảnh liên tiếp loảng xoảng, bình bành, lách cách bao nhiêu bàn ghế, ấm trà, chén uống bị chưởng lực của y làm tan nát cả thế nhưng vẫn không trúng được Đoàn Dự cái nào.

Chỉ chớp mắt đã hơn ba chục chiêu, hai anh em Bảo Định Đế và Trấn Nam Vương đã sớm thấy được cước bộ Đoàn Dự nhẹ tênh, đúng là không biết võ công nhưng không hiểu vì sao được cao nhân truyền thụ, học bộ pháp thần kỳ này, đi theo phương vị sáu mươi tư quẻ của Phục Hi, bước nào cũng khó mà ngờ nổi.

Nếu như thực sự đối địch với Nam Hải Ngạc Thần thì chỉ một chiêu cũng đã chết dưới tay kẻ địch rồi nhưng vì chàng chỉ nghĩ tới chuyện mình bước đi, chưởng lực của Nam Hải Ngạc Thần tuy mạnh mẽ thật nhưng vẫn không đánh trúng được chàng. Hai người coi thêm một hồi nữa, đưa mắt nhìn nhau, trên mặt lộ vẻ lo lắng, cùng nghĩ ra: “Gã Nam Hải Ngạc Thần này ví như bịt mắt lại, hoàn toàn không nhìn thấy Đoàn Dự bước đi đâu, chẳng theo quyền pháp chưởng pháp nào, cứ tiện tay đánh ra thì chỉ vài chiêu là trúng Đoàn Dự ngay”.

Chỉ thấy Nam Hải Ngạc Thần mặt càng lúc càng vàng ệch, mắt càng lúc càng mở trô trố, nhưng đâu có nghĩ được biện pháp đó, chưởng pháp thêm biến ảo, nhưng lúc nào cũng còn cách Đoàn Dự một hai thước. Hai bên đấu dây dưa như thế, Đoàn Dự tuy không tổn thương nhưng muốn đánh ngã đối phương thì không thể nào được. Bảo Định Đế coi thêm một hồi nữa, nói:

- Dự nhi, con đi chậm lại một chút, đi thẳng tới nắm lấy huyệt đạo trên ngực y.

Đoàn Dự đáp lời: "Vâng" bước chân chậm hơn xông thẳng vào Nam Hải Ngạc Thần, vừa nhìn vào đôi mắt dữ tợn và khuôn mặt vàng khè của y, trong bụng bỗng khiếp sợ, bước chân hơi khựng lại khiến cho lệch mất phương vị. Nam Hải Ngạc Thần giơ trảo chộp xéo từ đầu Đoàn Dự xuống trúng ngay tai chàng máu chảy ròng ròng. Đoàn Dự đau quá lại càng sợ hãi hơn gia tăng cước bộ xoay ngang lùi dọc trốn vào sau lưng Đoàn Chính Thuần, gượng cười:

- Bá phụ, cháu không làm được.

Đoàn Chính Thuần sẵng giọng quát:

- Con cháu họ Đoàn nước Đại Lý này, có ai lâm trận đối địch mà lại rụt rè bao giờ? Mau ra đánh đi, bá phụ chỉ con không sai đâu.

Ngọc Hư tản nhân thương con, chen vào:

- Dự nhi đã đấu với y ngoài sáu mươi chiêu rồi, nhà họ Đoàn có đứa con giỏi như thế, ông còn chưa vừa lòng hay sao? Dự nhi, con thế là thắng rồi, không cần đấu thêm nữa.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Phu nhân đừng lo, tôi đảm bảo y không chết đâu mà sợ.

Ngọc Hư tản nhân trong bụng xót xa, nước mắt rưng rưng dường như muốn trào ra. Đoàn Dự thấy mẫu thân như thế, trong lòng bất nhẫn, cố thu hết can đảm hăng hái bước ra, quát lên:

- Ta lại ra đấu với ngươi lần nữa.

Lần này chàng đã định tâm, nên đi xoay tròn lách trái lượn phải, càng lúc càng chậm, đến khi đối diện với Nam Hải Ngạc Thần, không chạm mắt chỉ vươn hai tay chộp lấy ngực y. Nam Hải Ngạc Thần thấy chàng ra tay mềm xèo không có sức, cười ha hả, nghiêng người trả đòn, chộp ngược lại vai chàng, ngờ đâu chân Đoàn Dự biến hóa không chừng, hai người cùng thay đổi vị trí, hai bên cùng ra tay nhưng Đoàn Dự đã chộp được ngực Nam Hải Ngạc Thần. Đoàn Dự đã nhìn kỹ đúng bộ vị các huyệt đạo, tay phải đúng vào huyện Đãn Trung, tay trái đúng vào huyệt Thần Khuyết. Chàng hoàn toàn không biết vận dụng nội lực, tuy chộp đúng hai nơi yếu huyệt rồi, nếu như Nam Hải Ngạc Thần chẳng thèm để ý, không vận nội lực mà chỉ lặng lẽ dẫy ra, Đoàn Dự không thể nào giữ y lại được.

Thế nhưng hai nơi yếu hại của Nam Hải Ngạc Thần vừa bị chế ngự, y hoảng hốt vươn tay đánh luôn vào mặt đối phương. Chiêu đó là một phương pháp chiến đấu rất cao siêu, lấy công làm thủ, trong võ học gọi là “tấn công vào nơi kẻ địch không thể không cứu”, địch nhân không thể không quay về tự cứu mình. Ngờ đâu Đoàn Dự hoàn toàn không có chút kinh nghiệm gì về ứng biến lâm địch, bàn tay đối phương đánh qua, chàng chẳng nghĩ gì đền việc tránh né chống đỡ, hai tay vẫn khư khư nắm lấy yếu huyệt của Nam Hải Ngạc Thần.

Đúng là sai lầm này đến sai lầm khác, khí huyết trong người Nam Hải Ngạc Thần bùng lên đổ ào vào hai nơi huyệt đạo đang bị bế tắc, đồng thời nội lực theo huyệt Đãn Trung tuôn ra, hai tay còn cách mắt Đoàn Dự chừng nửa thước thì như tê liệt, không sao vươn ra được. Y hít một hơi chân khí lại vận nội lực lần nữa.

Huyệt Thiếu Thương nơi ngón tay cái của Đoàn Dự bỗng thấy một luồng lực đạo tuôn vào. Nam Hải Ngạc Thần nội lực mạnh mẽ biết bao, nội lực của bảy gã đệ tử phái Vô Lượng làm sao sánh được, vì thế Đoàn Dự lập tức lảo đảo, chân đứng không vững. Chàng biết rằng cục thế nguy cấp, hai tay nếu rời khỏi huyệt đạo đối phương thì tính mạng mình khó mà bảo toàn nên dù thân thể nhộn nhạo khó chịu ghê gớm nhưng vẫn phải hết sức gắng gượng.

Đoàn Chính Thuần chỉ đứng cách Đoàn Dự vài thước, thấy mặt chàng đỏ gay, lập tức giơ ngón tay trỏ ấn vào huyệt Đại Trùy trên lưng chàng. Thần công Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn nước Đại Lý nổi danh thiên hạ, quả thực uy lực không phải tầm thường, một luồng khí ấm áp liền truyền vào, kích phát nội lực có sẵn trong người Đoàn Dự. Nam Hải Ngạc Thần toàn thân rung chuyển, mềm nhũn ngã lăn ra. Đoàn Chính Thuần giơ tay đỡ con, Đoàn Dự nội tức liền thuận trở lại, vội vàng dẫn nội lực Nam Hải Ngạc Thần vừa truyền sang qua Thủ Thái Âm Phế Kinh đưa về biển khí nhưng nhất thời không nói được thành lời.

Đoàn Chính Thuần dùng Nhất Dương Chỉ ngầm giúp con, hợp lực hai người mới chế ngự được Nam Hải Ngạc Thần, trong sảnh ai nấy đều thấy nhưng việc Nam Hải Ngạc Thần bị thua Đoàn Dự thì không thể nào cãi chầy cãi cối gì được.

Gã ta quả là tài giỏi, bàn tay Đoàn Dự vừa rời khỏi huyệt đạo, chỉ vận khí một chút, đã nhỏm ngay dậy, đôi mắt nhỏ như hạt đậu chăm chăm nhìn chàng, khuôn mặt thật là quái đản, vừa ngạc nhiên, vừa đau lòng, vừa phẫn nộ.

Mộc Uyển Thanh kêu lên:

- Nhạc lão tam, ta xem ngươi cam tâm làm đồ rùa đen, quân đê tiện chứ không chịu bái sư.

Nam Hải Ngạc Thần giận dữ đáp:

- Ta làm gì ngươi liệu thế chó nào được. Bái sư thì bái sư chứ Nhạc lão nhị này nhất quyết không làm giống rùa đen đê tiện đâu.

Nói xong đột nhiên y quay qua Đoàn Dự quì phục xuống, bình bình rập đầu tám cái liền, lớn tiếng nói:

- Sư phụ, đệ tử Nhạc lão nhị khấu đầu ra mắt.

Đoàn Dự ngơ ngẩn, chưa kịp trả lời, Nam Hải Ngạc Thần đã tung mình vượt sảnh bay lên mái nhà. Trên mái ngói nghe “A” một tiếng thảm khốc, rồi bình một tiếng, một người đã bị ném vào. Người đó là một vệ sĩ trong vương phủ, trên ngực máu chảy đầm đìa, trái tim đã bị móc đi nhưng chưa chết hẳn, tay chân còn dãy dụa trông thật gớm ghiếc. Võ công y tuy không bằng bọn Chử Vạn Lý nhưng cũng không phải tầm thường, ngờ đâu Nam Hải Ngạc Thần chỉ giơ tay ra đã móc được trái tim, Tứ Đại Vệ Hộ đứng ngay gần bên cũng không sao cứu kịp, mọi người không khỏi biến sắc.

Mộc Uyển Thanh căm hận nói:

- Lang quân, chàng thu được một tên học trò thật chẳng ra gì. Kỳ sau gặp lại y phải trừng trị y một phen cho đáng kiếp.

Đoàn Dự trống ngực đánh thòm thòm nói:

- Ta may mà thắng được toàn nhờ gia gia giúp cho, nếu gặp lại y chỉ e tim của ta cũng bị móc mất làm gì mà trừng trị y được?

Cổ Đốc Thành và Phó Tư Qui vội vàng khiêng thi thể tên vệ sĩ ra ngoài, Đoàn Chính Thuần dặn dò chôn cất trọng thể chu cấp hậu hĩ. Gã Hoắc tiên sinh bảy phần say ba phần tỉnh kia sợ đến mất vía, người run như cầy sấy lật đật lui ra.

Bảo Định Đế nói:

- Dự nhi, bộ pháp đó quả thật cao minh, đều từ phương vị trong sáu mươi tư quẻ của Phục Hi biến hóa ra, ai truyền thụ cho cháu đó?

Đoàn Dự đáp:

- Hài nhi học được trong một cái hang núi, chẳng biết có đúng hay không, xin bá phụ chỉ điểm cho.

Bảo Định Đế hỏi lại:

- Học trong hang núi là sao?

Đoàn Dự lược thuật chuyện chàng bị rơi vào sơn cốc trong núi Vô Lượng rồi đi vào sơn động tìm ra được một quyển trục có ghi bộ pháp. Thế nhưng việc chàng tìm thấy pho tượng ngọc, cùng những hình khỏa thân chàng không đề cập đến. Hình vẽ thần tiên tỉ tỉ trần truồng đâu có thể nào để cho bá phụ, gia gia, mẫu thân trông thấy được? Ngay đến Mộc Uyển Thanh nếu biết được chàng mê mẩn thần tiên tỉ tỉ thể nào cũng nổi cơn ghen. Bỏ qua không kể cũng chẳng khác gì Khổng phu tử cắt xén viết kinh Xuân Thu, thuật nhi bất tác đấy thôi.

Bảo Định Đế nghe Đoàn Dự kể xong nói:

- Trong bộ pháp sáu mươi quẻ này có ẩn một môn nội công thượng thừa, cháu đi từ đầu đến cuối cho ta xem.

Đoàn Dự đáp lời:

- Vâng.

Chàng suy nghĩ lại, từng bước từng bước đi ra. Bảo Định Đế, Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái tất cả đều là những người nội công thâm hậu, thế nhưng những áo diệu trong pho bộ pháp này cũng chỉ hiểu được hai ba thành. Đoàn Dự đi xong sáu mươi tư quẻ thì đã thành một vòng tròn lớn, trở về chỗ cũ.

Bảo Định Đế mừng lắm nói:

- Hay lắm! Bộ pháp này thiên hạ vô song, cháu ta quả gặp được một phúc duyên hiếm có. Hôm nay mẹ cháu về phủ, cháu tiếp mẹ cháu uống thêm một chén.

Nhà vua quay sang nói với hoàng hậu:

- Thôi mình về chứ!

Hoàng hậu đứng lên, đáp lời:

- Vâng!

Bọn Đoàn Chính Thuần cung kính tiễn đưa hoàng đế, hoàng hậu lên kiệu hồi cung, qua khỏi cổng phủ Trấn Nam Vương mới thôi.

Chú thich

9 mặt vuông vắn nhưng hơi dài hơn mặt chữ điền

10 cây cột đá chống đỡ đất nước

11 chính tay nhà vua viết năm Đinh Mão

12 cũng như vua nước ta thời ấy trên danh nghĩa nhà Tống chỉ phong làm Giao Chỉ quận vương, Nam bình vương nhưng tự mình thì vẫn xưng là Hoàng Đế ngang với vua Tàu.

13 Quẻ Ích, trên là tốn (gió), dưới là chấn (sấm). Người quân tử thấy điều thiện thì gắng mà làm theo, có điều sai lầm thì sửa đổi

14 giảm ở trên, tăng cho dưới mọi người đều vui vẻ vô hạn. Lấy bên trên làm lợi cho bên dưới thì đạo nghĩa đó càng thêm rực rỡ (Thoán truyện quẻ Ích)

15 Cá chép quẫy mình

16 Xét bản thân nên tiến hay lùi (Quán). Tĩnh như cái lưng không thấy thân mình cũng quên cả người (Cấn). Tai vạc đương thay chưa cất vạc lên được (Đỉnh). Hễ tiến tới thì không lợi (Bác). Dê đực húc vào dậu, mắc kẹt lui không được, tiến không xong (Đại Tráng). Đây là lời trong kinh Dịch.

Đã mang cái nghiệp đèo bòng,

Bên Tần bên Sở biết trông bên nào.

*

* *

Hoi 7a.

Bọn Đoàn Chính Thuần quay trở về vương phủ, nội đường đã bày tiệc xong. Trên bàn rượu ngoại trừ vợ chồng Đoàn Chính Thuần và Đoàn Dự chỉ có thêm một mình Mộc Uyển Thanh, chung quanh đầy tớ hầu hạ phải đến mười bảy mười tám người. Trong đời Mộc Uyển Thanh làm gì từng nhìn thấy khí tượng vinh hoa phú quí như thế này bao giờ? Những món ăn đem lên cũng toàn là những thừ nàng chưa từng nếm, đến nghe nói cũng chưa. Nàng thấy ông bà Trấn Nam Vương coi mình như người trong nhà, chỉ có hai người được ngồi ăn chung quả như mở cờ trong bụng.

Đoàn Dự thấy mẹ mình đối với phụ thân ra chiều lạnh nhạt, cũng không uống rượu, chẳng ăn mặn chỉ gắp mấy món chay, bèn rót một chén rượu, đứng lên bưng hai tay nói:

- Mẹ, con xin kính mẹ một chén. Mừng mẹ đã đoàn tụ với cha con, ba người một nhà chúng ta cùng hưởng cái vui xum họp.

Ngọc Hư tản nhân đáp:

- Ta không uống rượu.

Đoàn Dự lại rót một chén khác, đưa mắt cho Mộc Uyển Thanh, nói:

- Mộc cô nương cũng kính mẹ một chén.

Mộc Uyển Thanh liền cầm chén rượu đứng lên. Ngọc Hư tản nhân nghĩ mình không nên thái quá lãnh đạm đối với Mộc Uyển Thanh, liền mỉm cười nói:

- Cô nương, thằng bé nhà ta tính lông bông lắm, cha mẹ không trị nổi, sau này cô phải giúp chúng ta giữ rịt nó mới được.

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Nếu anh ấy không nghe lời, tiểu nữ sẽ nắm tai đánh cho một trận thật đau.

Ngọc Hư tản nhân phì cười, đưa mắt cho trượng phu, Đoàn Chính Thuần cười nói:

- Phải thế mới được.

Ngọc Hư tản nhân đưa tay trái ra đón lấy chén rượu trong tay Mộc Uyển Thanh. Dưới ánh nến, Mộc Uyển Thanh thấy bàn tay bà ta thuôn dài, trắng trẻo nhẵn nhụi như tạc bằng ngọc, trên lưng bàn tay gần cổ tay có một vết bớt đỏ như son, lập tức toàn thân chấn động, run run hỏi:

- Bà ... tên của bà ... có phải là Đao Bạch Phượng hay không?

Ngọc Hư tản nhân cười nói:

- Tên họ của ta thật khác thường, sao cô biết được?

Mộc Uyển Thanh run run hỏi tiếp:

- Bà là Đao Bạch Phượng đấy sao? Có phải bà là người Bãi Di, trước đây sử dụng nhuyễn tiên, đúng không nào?

Ngọc Hư tản nhân thấy nàng thần sắc khác thường nhưng cũng không quan tâm lắm chỉ mỉm cười:

- Dự nhi đối với cô thật hết lòng, đến cả khuê danh của ta cũng nói cho cô biết. Lang quân của cô có một nửa là Bãi Di nên tính tình nó mới bất kham thế đó.

Mộc Uyển Thanh gặng lần nữa:

- Thực sự bà là Đao Bạch Phượng sao?

Ngọc Hư tản nhân mỉm cười:

- Chính ta đây.

Mộc Uyển Thanh kêu lên:

- Ơn thầy sâu nặng, lệnh thầy đâu dám không theo.

Tay phải nàng vung lên, hai mũi tên bắn thẳng vào ngực Đao Bạch Phượng. Trong bàn tiệc mọi người nói nói cười cười thân thiết như trong nhà, ai ngờ đâu Mộc Uyển Thanh đột nhiên ra tay ám toán. Võ công Đao Bạch Phượng và Mộc Uyển Thanh cũng sàn sàn như nhau, lúc này hai người khoảng cách quá gần, biến cố quá bất ngờ không sao phòng bị kịp, hai mũi tên xem ra không thể nào tránh kịp. Đoàn Chính Thuần ngồi ngay trước mặt tức là sau lưng Mộc Uyển Thanh, kêu lên “Chao ôi!” một tiếng, giơ tay điểm ra. Thế nhưng chỉ đó chế ngự được Mộc Uyển Thanh nhưng làm sao cứu được vợ.

Đoàn Dự đã mấy lần thấy Mộc Uyển Thanh đang nói chuyện đột nhiên ra tay bắn độc tiễn giết người, mũi tên có tẩm thuốc độc cực kỳ lợi hại, có thể nói là “kiến huyết phong hầu” nên khi nàng vừa vung tay áo lên biết là không ổn, lúc này chàng đang đứng cạnh mẫu thân, nhưng lại không biết võ công nên không sao chống đỡ được, chân bèn sử dụng Lăng Ba Vi Bộ bước xéo qua, chắn ngay trước mặt mẹ. Bụp bụp hai tiếng, hai mũi tên độc cắm ngay vào ngực chàng, đồng thời Mộc Uyển Thanh thấy sau lưng tê tái, nằm gục xuống bàn, không còn động đậy gì được nữa.

Đoàn Chính Thuần ứng biến thật nhanh, phóng chỉ ra liên tiếp điểm vào tám chỗ huyệt đạo chung quanh nơi Đoàn Dự trúng tên để cho máu độc tạm thời không chạy vào tim, tay ngoặt lại, nghe cách một tiếng đã bẻ sái khớp tay phải của Mộc Uyển Thanh, để nàng không còn có thể bắn tiếp rồi mới giải khai huyệt đạo cho nàng, hầm hầm quát:

- Mau đưa giải dược ra đây.

Mộc Uyển Thanh run rẩy nói:

- Tiện thiếp chỉ muốn giết Đao Bạch Phượng, không muốn hại Đoàn lang.

Nàng thấy tay phải đau nhói nhưng cố gượng thò tay trái vào bọc lấy ra hai bình giải dược nói:

- Thuốc đỏ uống, thuốc trắng thoa, mau mau, chậm trễ cứu không được.

Đao Bạch Phượng thấy tấm chân tình của nàng đối với Đoàn Dự quả từ tâm khảm, đã đoán được phần nào nguyên do, giơ tay đoạt lấy thuốc giải, lấy ra hai viên thuốc đỏ nhét vào mồm con, còn thuốc trắng là bột, bà ta bèn cầm đuôi tên nhẹ nhàng rút hai mũi đoản tiễn ra, sau đó mới đắp thuốc vào. Mộc Uyển Thanh nói:

- Tạ trời tạ đất, chàng ... tính mệnh chàng không có gì đáng ngại, có điều tôi ... tôi...

Ba người hết sức hốt hoảng, có ai biết đâu Đoàn Dự đã ăn phải con Mãng Cổ Chu Cáp là vạn độc chi vương rồi, các loại độc không thể nào xâm nhập, chất độc trên mũi tên của Mộc Uyển Thanh không làm gì được chàng, dù không uống giải dược cũng chẳng hề hấn. Có điều chàng trúng phải tên độc thấy ngực đau nhói, ai nấy trúng phải chết liền chàng đã thấy nên tưởng mình phen này thể nào cũng chết nên kinh hoảng quá liền ngất đi trong lòng mẹ.

Vợ chồng Đoàn Chính Thuần chăm chăm nhìn vết thương, thấy máu chảy ra từ đen sang tía, từ tía sang đỏ, cùng thở phào ra biết rằng mạng con mình không đến nỗi nào. Đao Bạch Phượng bồng con lên, đem vào phòng riêng của chàng, đắp chăn xong cầm tay xem mạch, thấy nhảy đều đặn có sức, không có vẻ gì yếu ớt, trong bụng vui mừng nhưng cũng không khỏi lạ lùng nên vội quay về noãn các. Đoàn Chính Thuần hỏi:

- Không đáng ngại chứ?

Đao Bạch Phượng không trả lời, quay sang Mộc Uyển Thanh:

- Ngươi về nói với Tu La Đao Tần Hồng Miên rằng ...

Đoàn Chính Thuần nghe nói đến Tu La Đao Tần Hồng Miên, sắc mặt biến hẳn lắp bắp:

- Bà ... bà ...

Đao Bạch Phượng không ngó ngàng đến chồng, vẫn nói tiếp với Mộc Uyển Thanh:

- Ngươi nói với bà ta rằng nếu muốn giết ta thì nên quang minh chính đại đến đây, cái trò cắn trộm chỉ làm cho người ta cười vẹo quai hàm thôi!

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Nhưng tiểu nữ đâu có biết Tu La Đao Tần Hồng Miên là ai?

Đao Bạch Phượng lạ lùng:

- Thế thì ai sai ngươi đến đây giết ta?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Đó là sư phụ của thiếp. Sư phụ sai tiểu nữ đi giết hai người. Người thứ nhất là phu nhân, bà ấy nói trên bàn tay bà có cái bớt son, tên là Đao Bạch Phượng, là gái Bãi Di, tướng mạo thật xinh đẹp, dùng nhuyễn tiên làm binh khí. Sư phụ nào có ... nào có nói bà ăn mặc theo lối đạo cô. Tiểu nữ thấy bà sử dụng phất trần, lại tên là Ngọc Hư tản nhân, đâu có ngờ đó là người sư phụ tiểu nữ muốn giết ... cũng đâu ngờ bà lại là mẹ của Đoàn lang.

Nàng nói tới đây nước mắt ròng ròng chảy xuống. Đao Bạch Phượng hỏi thêm:

- Sư phụ ngươi còn sai ngươi đi giết một người nữa, có phải là Tiếu Dược Xoa Cam Bảo Bảo hay không?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Không! Không! Tiếu Dược Xoa Cam Bảo Bảo là sư thúc của thiếp. Chính bà ta sai người đưa thư tới sư phụ thiếp, nói rằng hai người đàn bà làm khổ đời sư phụ, thù không thể không báo ...

Đao Bạch Phượng kêu lên:

- À, phải rồi! Còn người kia họ Vương đang ở Tô Châu, phải không?

Mộc Uyển Thanh ngạc nhiên hỏi lại:

- Đúng đó! Sao phu nhân lại biết? Thiếp cùng với sư phụ đến đó giết bà ta trước nhưng người đàn bà khốn kiếp đó tay chân đầy tớ thật đông, nơi ở lại thật lạ lùng, thiếp chưa từng gặp mặt, ngược lại bị đám thủ hạ mụ ta đuổi đến tận Đại Lý.

Đoàn Chính Thuần cúi đầu lắng tai nghe, khuôn mặt lúc đỏ lúc xanh. Trên má Đao Bạch Phượng đột nhiên một dòng lệ rơi xuống, quay sang Đoàn Chính Thuần:

- Mong ông ráng chăm lo cho Dự nhi. Tôi ... tôi đi đây.

Đoàn Chính Thuần vội ngăn lại:

- Phượng Hoàng nhi, tất cả đều là chuyện quá khứ, nàng để trong lòng làm gì?

Đao Bạch Phượng ai oán đáp:

- Ông không để trong lòng, tôi cũng không để trong lòng nhưng người ta để trong lòng.

Đột nhiên phi thân nhảy lên, theo cửa sổ vọt ra ngoài. Đoàn Chính Thuần giơ tay nắm lấy tay áo, Đao Bạch Phượng quay lại múa chưởng đánh luôn vào mặt ông. Đoàn Chính Thuần nghiêng đầu né tránh, nghe soẹt một tiếng, tay áo bà ta đã bị xé rách một nửa. Đao Bạch Phượng quay đầu lại giận dữ nói:

- Ông muốn động võ chăng?

Đoàn Chính Thuần hạ giọng:

- Phượng Hoàng nhi, nàng ...

Đao Bạch Phượng hai chân nhún một cái, nhảy lên mái nhà đối diện, nhô lên hụp xuống vài cái đã cách xa mươi trượng rồi. Xa xa có tiếng Chử Vạn Lý quát lên:

- Ai đó?

Đao Bạch Phượng đáp:

- Ta đây!

Chử Vạn Lý nói:

- Ồ, thì ra Vương Phi ...

Sau đó không nghe gì thêm chắc bà ta đi đã xa rồi.

Đoàn Chính Thuần đứng lặng đi hồi lâu, thở dài một tiếng quay lại noãn các, thấy mặt Mộc Uyển Thanh trắng bệch, nhưng chưa bỏ đi. Đoàn Chính Thuần đi đến gần cô ta hai tay cầm lấy cánh tay phải, nghe cắc một tiếng đã tiếp lại khớp xương. Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: “Ta bắn tên độc vào vợ ông ta, không biết sẽ hành hạ mình cách nào?”.

Chỉ thấy ông ta ngồi trở lại ghế, chậm rãi rót một chén rượu, ực một cái uống cạn, nhìn ra cửa sổ nơi vợ vừa bỏ đi, ngẩn ngơ một hồi, rồi lại rót một chén rượu khác, lại ực một cái uống cạn. Cứ tự rót tự uống như thế liên tiếp mười hai mười ba chén, hết hồ này lại lấy hồ khác, rót thì thật chậm nhưng uống thì thật nhanh.

Mộc Uyển Thanh sau cùng không còn chịu nổi, kêu lên:

- Ông muốn nghĩ cách nào thảm khốc quái đản để trị tội tôi thì mau mau hạ thủ.

Đoàn Chính Thuần ngửng đầu lên, chăm chăm nhìn vào nàng một hồi lâu, chầm chậm lắc đầu, thở dài:

- Giống quá! Giống quá! Thế mà ta không nhìn ra, hình dáng đó, tính tình đó ...

Mộc Uyển Thanh nghe xong chẳng hiểu gì, hỏi lại:

- Ông bảo cái gì? Chỉ nói quấy nói quá.

Đoàn Chính Thuần không trả lời, đứng lên đột nhiên tả chưởng chém xéo về đằng sau, nghe bụp một tiếng nhỏ, một ngọn nến đã bị chưởng phong đánh tắt, tiếp theo lại chém tay phải một cái, thêm một ngọn nến khác bị tắt ngúm. Ông liên tiếp vung tay năm lần, đánh tắt năm cây nến đỏ, mắt vẫn nhìn về trước, ra tay chẳng khác gì nước chảy mây bay, tiêu sái lạ thường.

Mộc Uyển Thanh kinh ngạc lắp bắp:

- Cái này ... cái này có phải là Ngũ La Khinh Yên Chưởng, làm sao ông biết?

Đoàn Chính Thuần cười buồn:

- Sư phụ cô có dạy cho cô chưa?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Sư phụ tôi bảo là môn chưởng pháp đó quyết không truyền cho ai, ngày sau mang theo xuống quan tài.

Đoàn Chính Thuần hỏi lại:

- Ồ, nàng bảo không truyền cho ai, mai này mang xuống tuyền đài ư?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Đúng vậy! Thế nhưng sư phụ chỉ khi nào không có tôi ở đó chỉ luyện một mình thôi, tôi coi lén thấy được.

Đoàn Chính Thuần hỏi:

- Nàng một mình vẫn thường luyện pho chưởng pháp này?

Mộc Uyển Thanh gật đầu:

- Phải rồi. Mỗi khi sư phụ luyện chưởng pháp này hay nổi giận mắng chửi tôi. Ông ... ông làm sao biết được? Xem ra ông sử dụng còn giỏi hơn sư phụ tôi nữa.

Đoàn Chính Thuần thở dài một tiếng nói:

- Pho Ngũ La Khinh Yên Chưởng này chính ta dạy cho sư phụ cô đó.

Mộc Uyển Thanh hốt hoảng nhưng không thể không tin, nàng thấy khi sư phụ chém những ngọn nến, thường thường một lần không tắt, phải đến hai ba lần mới được, không phải như Đoàn Chính Thuần làm đâu được đó, tiêu sái nhẹ nhàng, lắp bắp hỏi lại:

- Thế ra ông là sư phụ của sư phụ tôi, là thái sư phụ của tôi sao?

Đoàn Chính Thuần lắc đầu:

- Không phải vậy.

Ông chống tay lên cằm, lẩm bẩm nói một mình:

- Nàng mỗi khi luyện pho chưởng pháp này, thường nổi cơn tam bành lục tặc, lại quyết không truyền cho ai, nguyện mang theo xuống chốn cửu tuyền ...

Mộc Uyển Thanh gặng thêm:

- Thế thì ông là ...

Đoàn Chính Thuần xua tay bảo nàng đừng nhiều lời, một hồi sau, đột nhiên hỏi lại:

- Cô năm nay mười tám tuổi, sinh vào khoảng tháng chín, có phải không nào?

Mộc Uyển Thanh nhảy phắt lên, lạ lùng hỏi:

- Sao việc gì ông cũng biết, ông đích thực là gì của sư phụ tôi?

Đoàn Chính Thuần vẻ mặt đầy thống khổ, thanh âm nghẹn ngào:

- Ta ... ta thật không phải với sư phụ con. Uyển nhi, con ...

Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Vì sao vậy? Tôi xem ông là người thật ôn hòa, thật tốt bụng mà?

Đoàn Chính Thuần hỏi thêm:

- Thế tên thực của sư phụ con, nàng không nói cho con nghe sao?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Sư phụ tôi bảo rằng tên bà ta là U Cốc Khách, còn đích thực tên gì, họ gì, tôi quả không biết.

Đoàn Chính Thuần lẩm bẩm:

- U Cốc Khách! U Cốc Khách ...

Ông chợt nhớ đến bài thơ “Giai Nhân” của Đỗ Phủ, từng chữ từng chữ như đâm vào tim...

Năm xưa có một giai nhân,

Hang cùng hiu quạnh trơ thân náu mình.

Cũng dòng thế phiệt trâm anh,

Lênh đênh lưu lạc phận đành cỏ cây ...

Tuyệt đại hữu giai nhân,

U cư tại thâm cốc.

Tự vân lương gia tử,

Linh lạc y thảo mộc ...

Chồng em bạc bẽo vô tình,

Chỉ còn biết đến người mình vừa quen ...

Phu tế khinh bạc nhi,

Tân nhân mỹ như ngọc ...

Vui vầy người mới nói cười,

Biết đâu người cũ ngậm ngùi xót xa.

Đãn kiến tân nhân tiếu,

Na văn cựu nhân khốc ...

Một hồi sau, ông lại hỏi:

- Thế trong bao nhiêu năm nay, sư phụ con sinh sống bằng cách nào? Hai người ở nơi đâu?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Tôi và sư phụ ở tại một sơn cốc, đằng sau một ngọn núi cao, thành thử sư phụ mới tự gọi mình là U Cốc Khách, tới lần này hai thầy trò mới ra khỏi nơi đây.

Đoàn Chính Thuần hỏi thêm:

- Thế cha mẹ con là ai? Sư phụ con có bao giờ nhắc tới không?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Sư phụ tôi nói rằng tôi là một đứa con hoang bị cha mẹ bỏ rơi. Sư phụ tôi nhặt được tôi ở bên đường đem về nuôi cho tới khi khôn lớn.

Đoàn Chính Thuần gặng thêm:

- Thế con có hận cha mẹ con không?

Mộc Uyển Thanh nghiêng đầu, cắn ngón tay ngẫm nghĩ. Đoàn Chính Thuần trông thấy tình cảnh đó, trong lòng dâng lên một nỗi chua xót nghẹn ngào. Mộc Uyển Thanh thấy hai hàng lệ ròng ròng chảy trên má ông, thật là lạ lùng hỏi lại:

- Sao ông lại khóc?

Đoàn Chính Thuần quay mặt đi, lau khô nước mắt, gượng cười:

- Ta nào có khóc đâu? Chắc tại uống quá chén, hơi rượu bốc lên đấy mà.

Mộc Uyển Thanh không tin, nói:

- Rõ ràng tôi thấy ông khóc mà. Đàn bà con gái mới khóc, đàn ông con trai cũng khóc nữa hay sao? Từ xưa tới nay tôi chưa thấy đàn ông khóc bao giờ, trừ trẻ con thôi.

Đoàn Chính Thuần thấy nàng chẳng biết gì chuyện đời, lại càng đau lòng nói:

- Uyển nhi, từ giờ trở đi ta sẽ đối với con thật tử tế để bù lại những gì ta thiếu sót bấy nay. Con có tâm nguyện gì, nói cho ta nghe, ta sẽ hết lòng làm cho con.

Mộc Uyển Thanh từ khi bắn tên độc vào Đoàn phu nhân, trong lòng hết sức lo sợ, nghe ông ta nói thế, vui mừng nói:

- Tôi bắn tên vào phu nhân của ông, ông không oán trách gì sao?

Đoàn Chính Thuần nói:

- Sư ân thâm trọng, sư mệnh nan vi. Chuyện của đời trước, nào có liên can gì đến con đâu. Ta không oán trách gì con cả. Có điều từ nay trở đi con không được vô lễ với phu nhân của ta nữa.

Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Thế sau này sư phụ hỏi ra thì biết nói thế nào?

Đoàn Chính Thuần nói:

- Con đưa ta đến gặp sư phụ, ta sẽ nói cho bà ta nghe.

Mộc Uyển Thanh vỗ tay reo lên:

- Thế thì hay lắm.

Đột nhiên nàng nhíu mày nói:

- Sư phụ thường nói rằng đàn ông trên đời này đều là kẻ vô tình bạc nghĩa, trước nay không muốn gặp ai.

Trên mặt Đoàn Chính Thuần lộ vẻ kinh ngạc, hỏi lại:

- Trước nay sư phụ con không gặp đàn ông ư?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Đúng thế! Mỗi khi cần mua gạo mua muối, sư phụ đều sai Lương a bà đi. Có một lần Lương a bà bị bệnh, sai con bà ấy đem đến, sư phụ giận lắm, bắt y bỏ ở xa xa ngoài cửa, không cho y vào trong nhà.

Đoàn Chính Thuần thở dài:

- Hồng Miên, Hồng Miên, sao nàng tự mình làm khổ mình đến thế.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Ông lại nói đến Hồng Miên, vậy thì Hồng Miên là ai vậy?

Đoàn Chính Thuần hơi ngần ngừ nói:

- Chuyện này cũng không có thể nào dấu con mãi được, tên thật của sư phụ con là Tần Hồng Miên, có cái ngoại hiệu là Tu La Đao.

Mộc Uyển Thanh gật đầu:

- Ồ, hèn gì phu nhân vừa thấy thủ pháp bắn tên độc của tôi đã hầm hầm hỏi ngay Tu La Đao Tần Hồng Miên là người liên quan thế nào. Lúc đó quả thực tôi không biết, chứ không phải là cố ý nói dối. Thế ra tên sư phụ tôi là Tần Hồng Miên, cái tên đẹp quá nhỉ? Chẳng hiểu sao bà ta không nói cho tôi biết.

Đoàn Chính Thuần hỏi thâm:

- Hồi nãy ta làm sái cánh tay con, bây giờ còn đau không?

Mộc Uyển Thanh thấy ông thần sắc ôn hòa trìu mến, mỉm cười nói:

- Đỡ nhiều lắm rồi. Thôi mình đi xem ... xem con trai ông đã khỏe chưa? Tôi sợ chất độc trên mũi tên chưa hết hẳn.

Đoàn Chính Thuần đứng lên nói:

- Hay lắm.

Ông tiếp:

- Con có tâm nguyện gì nói cho ta nghe.

Mộc Uyển Thanh đột nhiên mặt đỏ lên, thần sắc hơi e thẹn, cúi đầu nói nhỏ:

- Chỉ sợ ... chỉ sợ con bắn phu nhân rồi, bà ấy ... bà ấy giận con thôi.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Thể để từ từ rồi mình sẽ năn nỉ, chắc tương lai cũng sẽ không giận nữa đâu.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Con xưa nay chưa từng van xin ai điều gì nhưng vì Đoàn lang mà phải năn nỉ bà ấy thì cũng được.

Đột nhiên nàng thu hết dũng khí nói:

- Trấn Nam Vương, con nói tâm nguyện của con ra, ông ... ông thực sự giúp con hoàn thành chứ?

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Chỉ nếu ta có thể làm được, ta sẽ làm cho con ngay.

Mộc Uyển Thanh hỏi thêm:

- Ông nói ra rồi sau không nuốt lời đấy chứ?

Đoàn Chính Thuần nở một nụ cười, đi đến bên cạnh Mộc Uyển Thanh, giơ tay vuốt ve tóc nàng, ánh mắt đầy vẻ thương yêu, nói:

- Ta dĩ nhiên không nuốt lời đâu.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Hôn nhân của con và anh ấy, ông đứng lo liệu cho đừng để anh ta phụ bạc con.

Nàng nói mấy câu đó rồi, khuôn mặt bừng lên một vẻ rạng rỡ. Đoàn Chính Thuần mặt biến sắc, từ từ lùi lại, ngồi phịch xuống ghế, một hồi thật lâu, không nói lời nào. Mộc Uyển Thanh cảm thấy không ổn, run run hỏi:

- Ông ... ông không bằng lòng ư?

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Con không thể nào lấy Đoàn Dự được.

Giọng ông ậm ừ nhưng chắc nịch. Mộc Uyển Thanh như bị dội nước đá lên người, ai oán hỏi:

- Sao lại thế? Ông ... chính miệng nói bằng lòng giúp con mà.

Đoàn Chính Thuần chỉ chép miệng:

- Oan nghiệt! Oan nghiệt!

Mộc Uyển Thanh nói:

- Nếu anh ấy không bằng lòng lấy con, con ... con sẽ giết anh ấy, rồi tự sát, con ... con đã lập trọng thệ trước mặt sư phụ rồi.

Đoàn Chính Thuần chầm chậm lắc đầu, nói:

- Không được đâu.

Mộc Uyển Thanh hấp tấp nói:

- Để con đi hỏi anh ta xem, vì cớ gì mà không được?

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Dự nhi ... chính nó ... cũng không biết.

Ông thấy Mộc Uyển Thanh thần sắc thê lương, chẳng khác gì Tần Hồng Miên mười tám năm trước nghe tin chẳng lành, không còn nhẫn nại thêm được nữa chặn lại:

- Con không thể thành hôn với Dự nhi, mà cũng không giết nó được.

Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Sao vậy?

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Vì chưng ... vì chưng ... vì chưng Đoàn Dự chính là anh ruột của con.

Mộc Uyển Thanh há hốc mồm, mắt mở trừng trừng dường như không tin ở tai mình, lắp bắp hỏi lại:

- Cái ... cái gì? Ông nói Đoàn lang là anh ruột của tôi ư?

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Uyển nhi, con có biết sư phụ con là ai không? Bà ta chính là mẹ ruột con đó. Còn ta ... ta chính là cha của con đây.

Mộc Uyển Thanh vừa kinh khủng, vừa phẫn nộ, mặt tái nhợt, dậm chân kêu lên:

- Tôi không tin! Tôi không tin! Tôi ... nhất định không tin.

Đột nhiên từ ngoài song cửa vọng vào một tiếng thở dài rồi giọng một người đàn bà cất lên:

- Uyển nhi! Mình về đi thôi.

Mộc Uyển Thanh quay phắt lại kêu lên:

- Sư phụ.

Cửa sổ đột nhiên mở tung, đứng đó là một người đàn bà trung niên, khuôn mặt trái xoan, lông mày hơi dài, tướng mạo cực kỳ xinh đẹp, có điều ánh mắt chứa đựng ba phần dữ tợn, ba phần ngang bướng.

Đoàn Chính Thuần thấy người tình năm xưa Tần Hồng Miên bất ngờ hiện thân, vừa ngạc nhiên, vừa vui mừng, kêu lên thảng thốt:

- Hồng Miên! Hồng Miên, bao nhiêu năm nay, ta ... ta nhớ em biết chừng nào.

Tần Hồng Miên gọi:

- Uyển nhi ra đây! Nhà của con người phụ phàng bạc bẽo kia đừng ở lại thêm một khắc nào.

Mộc Uyển Thanh nhìn thấy thần tình sư phụ và Đoàn Chính Thuần, trong lòng băng giá, nói:

- Sư phụ, ông ta ... ông ta lừa con, nói sư phụ là mẹ con, còn ông ta là ... là cha con.

Tần Hồng Miên đáp:

- Mẹ con chết rồi, cha con cũng chết rồi.

Đoàn Chính Thuần tiến đến bên cửa sổ, dịu dàng nói:

- Hồng Miên, nàng vào đây, để ta được nhìn nàng lâu thêm một chút. Từ nay nàng đừng bỏ đi nữa, đôi ta vĩnh viễn chung sống bên nhau.

Ánh mắt Tần Hồng Miên đột nhiên rạng rỡ, vui mừng hỏi:

- Chàng bảo từ nay mình vĩnh viễn bên nhau, có thật thế không?

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Thật chứ! Hồng Miên, chẳng ngày nào ta không nhớ đến em.

Tần Hồng Miên hỏi thêm:

- Chàng bỏ được Đao Bạch Phượng chứ?

Đoàn Chính Thuần chần chừ không trả lời, trên mặt lộ vẻ khó nghĩ. Tần Hồng Miên nói:

- Nếu chàng thương đến đứa con gái mình thì ông đi theo thiếp, vĩnh viễn không còn ngó ngàng gì tới Đao Bạch Phượng, vĩnh viễn không quay về nhà.

Mộc Uyển Thanh nghe hai người đối đáp, trong lòng mỗi lúc một thêm thất vọng, nước mắt doanh tròng, chỉ thấy hình bóng của sư phụ và Đoàn Chính Thuần đều nhòe đi. Nàng biết hai người trước mặt quả đích thực là cha mình mẹ mình, dẫu không muốn tin cũng không được. Thời gian qua nàng tình yêu sâu nặng, ngày đêm mơ tưởng đến Đoàn lang, ngờ đâu chàng lại là anh em cùng cha khác mẹ với mình, chuyện hai người như chim liền cánh, chung sống với nhau đến lúc bạc đầu chỉ chớp mắt tan ra mây khói.

Chỉ nghe Đoàn Chính Thuần dịu dàng nói:

- Có điều ta là Trấn Nam Vương của Đại Lý, nắm hết mọi việc cơ yếu văn võ trong tay, bỏ đi ngay không tiện ...

Tần Hồng Miên hậm hực nói:

- Mười tám năm trước chàng đã nói thế rồi, nay mười tám năm sau cũng lại một câu đó. Đoàn Chính Thuần ơi là Đoàn Chính Thuần, chàng là người phụ tâm bạc hãnh, em ... em hận chàng không biết đâu mà kể ...

Đột nhiên trên mái nhà phía đông bốp bốp bốp ba tiếng vỗ tay, nóc nhà phía tây lập tức có tiếng đáp lại. Tiếp theo là tiếng của Cao Thăng Thái và Chử Vạn Lý cùng cất lên:

- Có thích khách. Các anh em ở đâu yên đó, không được vọng động.

Tần Hồng Miên quát lên:

- Uyển nhi, con còn chưa chịu ra hay sao?

Mộc Uyển Thanh vội đáp:

- Vâng.

Nàng phi thân vọt qua cửa sổ, sà vào lòng người mẹ hiền mà cũng lại là ân sư. Đoàn Chính Thuần nói:

- Hồng Miên, nàng bỏ ta mà đi thực hay sao?

Giọng nói của ông thê lương đau đớn biết chừng nào. Giọng Tần Hồng Miên đột nhiên trở lại dịu dàng:

- Thuần ca, chàng đã làm vương gia mấy chục năm rồi, chưa đủ hay sao? Chàng theo em đi, từ nay về sau, em đối với chàng thiên y bách thuận, không dám nói nặng chàng nửa câu, không dám đánh chàng nửa cái. Đứa con gái dễ thương thế này, chẳng lẽ chàng không thương nó hay sao?

Đoàn Chính Thuần trong lòng rộn ràng, nhảy vọt ra nói:

- Được, ta theo nàng đi.

Tần Hồng Miên mừng rỡ vô cùng, đưa bàn tay cho ông ta nắm. Đột nhiên phía sau lưng có tiếng đàn bà lạnh lùng nói:

- Sư tỉ, chị ... chị lại vào tròng của y rồi. Y chỉ ôm ấp chị vài ngày, rồi lại trở về với chức vương gia đấy thôi.

Đoàn Chính Thuần bàng hoàng, kêu lên:

- Bảo Bảo, chính nàng rồi. Nàng cũng đến ư?

Mộc Uyển Thanh ngoảnh ra thấy người đàn bà vừa nói mặc áo dài màu toàn xanh, chính là Chung phu nhân của Vạn Kiếp Cốc, sư thúc của mình Tiếu Dược Xoa Cam Bảo Bảo. Đằng sau bà ta có bốn người, một người là Diệp Nhị Nương, một người là Vân Trung Hạc, người thứ ba đã đi rồi giờ quay lại Nam Hải Ngạc Thần, nhưng người thứ tư mới khiến nàng hoảng hốt, chính là Đoàn Dự, bàn tay Nam Hải Ngạc Thần cầm ngay cổ chàng, tưởng như lúc nào cũng có thể lách cách một tiếng bẻ gẫy ngay lập tức. Mộc Uyển Thanh kêu lên:

- Đoàn lang, chàng có sao không?

Đoàn Dự đang nằm trên giường dưỡng thương, đang mơ mơ hồ hồ thì bị Nam Hải Ngạc Thần nhảy vào bồng ra ngoài. Chàng vốn không bị trúng độc, mũi tên của Mộc Uyển Thanh có độc là ở thuốc tẩm chứ tiễn đầu nhỏ như thế chỉ làm thành một vết thương nhẹ, có đáng gì đâu. Chàng kinh hãi liền tỉnh dậy, đứng bên ngoài noãn các nghe hết tất cả những gì cha mình nói với Mộc Uyển Thanh và Tần Hồng Miên, tuy không nghe hết từ đầu chí cuối nhưng mười phần cũng hiểu tám chín. Chàng nghe Mộc Uyển Thanh vẫn gọi mình là “Đoàn lang”, trong lòng chua xót, nói:

- Muội tử, từ nay trở đi mình tương thân tương ái, ... là anh em với nhau.

Mộc Uyển Thanh bực tức đáp:

- Không, không phải như thế. Chàng là người đàn ông đầu tiên nhìn thấy mặt em.

Nàng bỗng nghĩ tới mình và Đoàn Dự cũng đều là con của Đoàn Chính Thuần, anh trai em gái làm sao lấy nhau được? Nếu trên đời này có ai ngăn trở hôn nhân của hai người, nàng chỉ một mũi tên giết là xong ngay, còn bây giờ cái trở ngại chắn ngang lại là ý trời thăm thẳm, dù nàng võ công cao đến đâu, dù cho quyền thế đến đâu cũng không làm sao thay đổi được. Trong chớp mắt nàng thấy bao nhiêu ước mơ đều tan biến, hai chân dậm một cái nhảy vọt ra ngoài. Tần Hồng Miên vội kêu:

- Uyển nhi, con đi đâu thế?

Mộc Uyển Thanh đến sư phụ nàng cũng không thèm ngó đến, nói:

- Bà hại đời tôi, tôi không biết tới bà nữa.

Nàng lại càng chạy nhanh hơn. Một tên vệ sĩ trong vương phũ giang hai tay chặn lại, quát hỏi:

- Ai đó?

Mộc Uyển Thanh bắn tên độc ra, trúng ngay yết hầu tên lính. Chân nàng không chậm lại chút nào, trong khoảnh khắc đã tan biến vào trong bóng đêm.

*

* *

Đoàn Chính Thuần thấy con trai mình bị Nam Hải Ngạc Thần bắt được, không kể đứa con gái chạy đi đâu, giơ ngón tay về phía Nam Hải Ngạc Thần điểm tới. Diệp Nhị Nương múa chưởng đánh ra, chém vào cổ tay ông ta. Đoàn Chính Thuần vòng tay lại chộp, Diệp Nhị Nương cười khanh khách, ngón tay giữa búng ngay vào lưng bàn tay đối phương. Chỉ nháy mắt hai người đã trao đổi ba chiêu, Đoàn Chính Thuần trong bụng kinh hãi ngầm: “Con mụ này quả là ghê gớm”.

Tần Hồng Miên giơ tay để lên đỉnh đầu Đoàn Dự, kêu lên:

- Thế chàng muốn con chàng sống hay chết?

Đoàn Chính Thuần kinh hãi ngừng tay, biết bà ta tính tính cực kỳ bạo tợn, hận vợ cả của mình là Đao Bạch Phượng thấu xương, chỉ cần nhả nội lực ra là giết chết Đoàn Dự ngay nên vội vàng nói:

- Hồng Miên, con ta trúng phải độc tiễn của con nàng, bị thương không phải nhẹ.

Tần Hồng Miên đáp:

- Y đã uống giải dược rồi, không chết được đâu, thiếp tạm thời mang y đi. Để xem chàng muốn làm vương gia hay muốn toàn mạng cho con.

Nam Hải Ngạc Thần cười ha hả, nói:

- Tên tiểu tử này rồi ra thể nào cũng phải bái ta làm thầy.

Đoàn Chính Thuần hấp tấp nói:

- Hồng Miên, việc gì ta cũng chịu hết, nàng ... nàng thả con ta ra.

Mối tình của Tần Hồng Miên đối với Đoàn Chính Thuần, tuy xa nhau đã mười tám năm nhưng không hề phai nhạt, nghe ông ta nói thiết tha như thế, thấy mềm lòng hỏi:

- Có thật là chàng ... chàng bằng lòng sao?

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Thật, thật chứ.

Chung phu nhân vội xen vào:

- Sư tỉ, lời gã bạc tình này, chị còn tin được nữa hay sao? Nhạc nhi tiên sinh, thôi mình đi.

Nam Hải Ngạc Thần tung mình nhảy lên, ôm Đoàn Dự trên không trung quay người một cái đã rơi xuống ngay mái nhà bên kia. Kế đó nghe bình bình hai tiếng, Diệp Nhị Nương và Vân Trung Hạc đã đánh hai tên vệ sĩ trong vương phũ ngã lăn xuống đất.

Chung phu nhân kêu lên:

- Đoàn Chính Thuần, đêm nay ngươi có muốn đánh nhau một trận hay chăng?

Đoàn Chính Thuần tuy biết rằng tập trung tất cả nhân lực trong vương phủ, chưa chắc đã không thể không ngăn giữ được bọn người này nhưng vì con mình đang ở trong tay đối phương, ném chuột sợ vỡ đồ, không phải chỉ lấy võ công mà hơn thua được, huống chi hai sư tỉ sư muội này trước đây đã từng có quan hệ mật thiết với mình, bèn dịu dàng nói:

- Bảo Bảo, nàng ... nàng cũng tới đây gây sự với ta sao?

Chung phu nhân đáp:

- Ta nay là vợ của Chung Vạn Cừu, ngươi còn mồm năm miệng mười gọi tên ta là sao?

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Bảo Bảo, trong những ngày tháng ta, ta vẫn thường nhớ tới nàng.

Chung phu nhân rưng rưng nước mắt dịu giọng đáp:

- Từ khi biết được Đoàn công tử là con của ông rồi, trong lòng tôi ... lòng tôi xiết bao trăn trở ...

Tần Hồng Miên vội lêu lên:

- Sư muội lại vào tròng của y sao?

Chung phu nhân nắm tay Tần Hồng Miên, kêu lên:

- Thôi, chúng ta đi.

Bà ta quay lại nói:

- Ông đem thủ cấp con tiện nhân Đao Bạch Phượng, nhất bộ nhất bái đến Vạn Kiếp Cốc thì bọn ta sẽ giao trả con lại cho ông.

Đoàn Chính Thuần lẩm bẩm:

- Vạn Kiếp Cốc.

Lúc ấy Nam Hải Ngạc Thần đã ôm Đoàn Dự chạy càng lúc càng xa. Cao Thăng Thái và bọn Chử Vạn Lý thì chia nhau bốn phía vây lại, Đoàn Chính Thuần thở dài một tiếng nói:

- Cao hiền đệ, cứ thả cho họ đi.

Cao Thăng Thái kêu lên:

- Tiểu vương gia ...

Đoàn Chính Thuần nói:

- Để từ từ rồi tính sau.

Ông vừa nói vừa phi thân nhảy tới trước mặt Cao Thăng Thái, ra lệnh:

- Thích khách đi rồi, tất cả về chỗ cũ.

Thân hình lắc một cái, lạng tới ngay bên cạnh Chung phu nhân, đầm ấm nói:

- Bảo Bảo, lâu nay nàng có được khỏe không?

Chung phu nhân đáp:

- Có gì mà không khỏe?

Đoàn Chính Thuần lật tay một cái không nghe một tiếng động đã điểm trúng ngay huyệt Chương Môn ở bên hông bà ta. Chung phu nhân không kịp đề phòng, người mềm nhũn ngã lăn ra. Đoàn Chính Thuần giơ tay nắm lấy bà ta, giả vời kinh hoàng kêu lên:

- Chao ôi! Bảo Bảo, nàng ... nàng sao thế này?

Tần Hồng Miên có biết đâu là mưu kế, vội vàng chạy tới, hỏi dồn:

- Sư muội, chuyện gì thế?

Nhất Dương Chỉ của Đoàn Chính Thuần lại tung ra, trúng ngay huyệt Chương Môn. Tần Hồng Miên và Chung phu nhân bị điểm huyệt rồi bị Đoàn Chính Thuần hai tay nắm hai người, hậm hực nhìn ông ta, cùng nghĩ: “Lại bị y đánh lừa, sao mình lại hồ đồ đến thế? Trong đời bị y lừa bao nhiêu lần rồi, hôm nay việc đến nước này cũng không biết đề phòng”.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Cao hiền đệ nội thương chưa khỏi, mau về phòng nghỉ ngơi. Vạn Lý, ngươi tất lãnh binh lính canh gác các nơi.

Cao Thăng Thái và Chử Vạn Lý cùng khom lưng đáp lời. Đoàn Chính Thuần cắp hai người đàn bà quay trở vào noãn các, gọi đầu bếp thị tì bày tiệc rượu, sắp dọn chén bát. Sau khi đầy tớ đã lui ra, Đoàn Chính Thuần liền điểm những huyệt Hoàn Khiêu, Khúc Tuyền trên đùi nhị nữ để họ không thể nào chạy trốn được, sau đó mới hề hề vỗ lưng giải huyệt Chương Môn. Tần Hồng Miên kêu lên:

- Đoàn Chính Thuần, ngươi ... ngươi còn định hiếp đáp ta ...

Đoàn Chính Thuần quay lại, chắp tay vái hai người một cái thật sâu nói:

- Quả là đắc tội, ta xin bồi lễ trước.

Tần Hồng Miên giận dữ đáp:

- Ai cần ngươi xin lỗi? Mau thả bọn ta ra.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Ba người chúng ta hơn một chục năm qua không gặp nhau, hôm nay trùng phùng, có biết bao nhiêu điều muốn chia xẻ. Hồng Miên, sao tính nàng vẫn còn nóng nảy thế? Bảo Bảo, nàng càng ngày càng xinh đẹp, so với hồi đó xem ra còn trẻ hơn.

Chung phu nhân chưa kịp trả lời, Tần Hồng Miên đã nổi cáu:

- Ngươi thả ta ra đi. Sư muội ta thì ngày càng trẻ ra, còn ta thì càng ngày càng xấu, thế ngươi còn muốn gặp mụ già xấu xí này làm gì?

Đoàn Chính Thuần thở dài:

- Hồng Miên, nàng thử soi gương mà xem, nếu như nàng là một mụ già xấu xí thì khi viết văn tả một tuyệt sắc giai nhân sẽ viết là:

Bà già xấu xí làm sao,

Chim sa cá lặn dễ đâu sánh bằng.

Tần Hồng Miên nhịn không nổi cười khúc khích, đang định dậm chân, nhưng thấy đùi tê dại, không thể nào cử động được, hờn dỗi nói:

- Ai thèm đùa cợt với ông? Cười nói cợt nhả còn gì là thể thống vương gia nữa?

Dưới ánh đèn lung linh, Đoàn Chính Thuần thấy bà ta phụng phịu, nhớ đến năm xưa đêm nào hai người gần gũi, trong lòng không khỏi xốn xang, tiến đến ghé môi hôn lên má người tình cũ một cái. Tần Hồng Miên nửa thân trên cử động được, tay trái liền quạt một cái tặng ngay cho ông ta một cái bạt tai thật kêu. Đoàn Chính Thuần nếu như muốn né tránh thật chẳng có gì khó khăn, nhưng cố ý để cho nàng đánh một chưởng, ghé bên tai nói nhỏ:

Để anh chết dưới chân nàng,

Dẫu cho thành quỉ lại càng phong lưu.

Tần Hồng Miên toàn thân run rẩy, nước mắt đầm đìa, khóc rấm rứt, vừa khóc vừa nói:

- Chàng ... chàng lại ghẹo thiếp nữa rồi.

Thì ra năm xưa Tần Hồng Miên một đôi Tu La Đao hoành hành giang hồ, cho nên có cái ngoại hiệu là Tu La Đao, đêm đó thất thân với Đoàn Chính Thuần xong, ông ta bèn hôn lên má, nàng giơ tay tát yêu chàng một cái, Đoàn Chính Thuần cũng đọc hai câu này. Mười tám năm qua, hai câu “Tu La Đao hạ tử, Cố quỉ dã phong lưu” văng vẳng trong đầu nàng không biết bao nhiêu nghìn vạn lần, bây giờ lại nghe chính người tình thốt ra, trong lòng Tần Hồng Miên vừa vui sướng, vừa phẫn nộ, vừa ngọt ngào, vừa đắng cay, ngổn ngang trăm mối.

Chung phu nhân hạ giọng nói nhỏ:

- Sư tỉ, gã này chỉ giỏi mật ngọt chết ruồi, khéo làm người khác vui lòng, chị đừng tin y nữa.

Đoàn Chính Thuần đi đến bên cạnh Chung phu nhân, cười nói:

- Bảo Bảo, để ta “mi” nàng một cái, có chịu không nào?

Chung phu nhân nghiêm giọng đáp:

- Ta là gái có chồng, quyết không làm hủy hoại thanh danh của chồng ta. Ngươi chỉ động đến người ta, ta lập tức cắn lưỡi, chết ngay trước mặt ngươi.

Đoàn Chính Thuần thấy bà ta thần sắc cương quyết, nói như chém đinh chặt sắt, không dám sàm sỡ, hỏi lại:

- Bảo Bảo, nàng lấy người đó là hạng người như thế nào?

Chung phu nhân đáp:

- Chồng ta hình dạng xấu xí, tính nết lạ lùng, võ công cũng không bằng ngươi, tài hoa cũng kém, không được vinh hoa phú quí như ngươi. Thế nhưng y một lòng một dạ đối với ta, ta cũng một lòng một dạ với y. Nếu như ta có nửa phần không phải, thì xin trời tru đất diệt Cam Bảo Bảo này, vạn kiếp chẳng được siêu sinh. Để ta nói cho ngươi biết, ta cùng chồng ta ở một nơi gọi là Vạn Kiếp Cốc, cái tên đó cũng là vì lời thề độc đó mà ra.

Đoàn Chính Thuần dâng lên một nỗi kính trọng, không dám nhắc đến tình cũ nghĩa xưa, miệng tuy không nói ra nhưng thấy Cam Bảo Bảo khuôn mặt trắng hồng xinh đẹp như ngày nào, đôi môi đỏ thắm cong cong, trong lòng làm sao quên được chuyện ngày trước? Ông nghe nàng tiết liệt đối với chồng, lòng không khỏi xót xa, thở dài một tiếng nói:

- Bảo Bảo, ta thật không may, không được nàng một lòng một dạ với ta như thế. Vẫn hay ... vẫn hay ta là người đến trước, nhưng, than ôi, cũng bởi ta không phải mà ra.

Chung phu nhân nghe ông ta nói thật thê lương, tình ý thật đậm đà, quyết không thể là lời ngon ngọt để lừa dối người, không khỏi rưng rưng cảm thán. Ba người nhìn nhau, ai cũng nghĩ đến chuyện xưa, đầu mày khóe mắt, lúc thì vui lúc thì buồn.

Một hồi sau, Đoàn Chính Thuần dịu dàng nói:

- Các người bắt con ta đi là để làm gì thế? Bảo Bảo, Vạn Kiếp Cốc của nàng ở nơi nào?

Ngoài cửa sổ bỗng có tiếng người ồm ồm nói:

- Đừng nói cho hắn nghe.

Đoàn Chính Thuần kinh hãi, nghĩ thầm: “Bên ngoài có bọn Chử Vạn Lý canh gác, sao lại có người lẻn vào đây được?” Chung phu nhân mặt sầm xuống nói:

- Thương thế của ông chưa lành, đến đây làm chi?

Tiếp theo là tiếng đàn bà nói:

- Chung tiên sinh, thôi vào đi.

Đoàn Chính Thuần lại càng hoảng hốt, tự nhiên mặt đỏ bừng. Chiếc màn cửa của noãn các vén lên, Đao Bạch Phượng từ ngoài bước vào, mặt hầm hầm, đằng sau là một người đàn ông thật xấu xí, mặt dài như mặt ngựa.

Thì ra Tần Hồng Miên đi đến Cô Tô hành thích không xong, hai mẹ con lại lạc nhau nên theo đúng ước định xuôi nam về Đại Lý, đến gặp nhau ở nhà sư muội. Nhà họ Vương ở Cô Tô sai bọn Thụy bà bà, Bình bà bà toàn lực đuổi theo Mộc Uyển Thanh khiến cho Tần Hồng Miên đi sau đến tám chín ngày nhưng trên đường bình an vô sự. Bà ta đến Vạn Kiếp Cốc rồi, hỏi rõ sự tình lập tức cùng Chung phu nhân đi dò thám, trên đường gặp bọn Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần và Vân Trung Hạc tam ác. Bọn tam ác này chính là do Chung Vạn Cừu mời đến tiếp tay đối phó với Đoàn Chính Thuần nên cho Chung phu nhân hay mọi việc xảy ra. Chuyện đáng xấu hổ của Nam Hải Ngạc Thần phải làm môn hạ Đoàn Dự, lẽ dĩ nhiên y không kể. Tần Hồng Miên nghe nói Mộc Uyển Thanh bị rơi vào tay Trấn Nam Vương phủ, vội vàng chạy tới trước.

Chung Vạn Cừu yêu vợ hơn cả yêu thân, lại cả ghen nên khi Cam Bảo Bảo đi rồi y đứng ngồi không yên, trong bụng nóng như lửa đốt nên chẳng kể đến vết thương chưa khỏi, ban đêm ban hôm cũng chạy đến nơi. Y ở bên ngoài phủ Trấn Nam Vương trông thấy Đao Bạch Phượng hầm hầm chạy ra, oán khí không biết đổ vào ai nên gặp nhau chẳng nói chẳng rằng liền động thủ ngay. Hai bên đấu đến lúc gay go, Đao Bạch Phượng xem chừng không chống nổi, đột nhiên có một bóng đàn bà áo đen chạy vụt qua, tay ôm mặt khóc nức nở, chính là Mộc Uyển Thanh. Hai người cùng lên tiếng gọi, Mộc Uyển Thanh không thèm để ý cứ lầm lũi chạy đi.

Chung Vạn Cừu kêu lên:

- Ta còn phải đi kiếm vợ ta, không hơi đâu mà đấu lằng nhằng với ngươi.

Đao Bạch Phượng nói:

- Ngươi đi đâu để tìm vợ?

Chung Vạn Cừu đáp:

- Thì đến nhà tên cẩu tặc Đoàn Chính Thuần chứ đâu. Vợ ta mà gặp Đoàn Chính Thuần rồi thì hỏng bét.

Đao Bạch Phượng hỏi thêm:

- Sao lại hỏng bét?

Chung Vạn Cừu nói:

- Đoàn Chính Thuần mồm mép lắm, là một thằng nhãi mặt trắng chuyên dụ đàn bà, lão tử thể nào cũng phải giết nó.

Đao Bạch Phượng nghĩ thầm: “Chính Thuần đã ngoài bốn mươi, râu đầy mặt, sao lại còn là một “thằng nhãi mặt trắng” được? Thế nhưng y quen thói gió trăng, lời của gã mặt ngựa này cũng đáng đề phòng lắm”. Bà bèn hỏi kỹ tính danh lai lịch vợ Chung Vạn Cừu, ngờ đâu lại chính là Cam Bảo Bảo. Bà vốn biết Tiếu Dược Xoa Cam Bảo Bảo là một trong những nhân tình cũ của chồng nên máu ghen càng bừng bừng liền cùng Chung Vạn Cừu đến vương phủ.

Phủ Trấn Nam Vương bốn bề canh gác nghiêm nhặt nhưng vệ sĩ trông thấy vương phi không dám ngăn trở thành thử hai người đến bên cạnh noãn các mà vẫn chưa một ai lên tiếng báo động. Đoàn Chính Thuần lúc ấy đang cùng hai sư tỉ muội Tần Hồng Miên, Cam Bảo Bảo ngỏ lời ong bướm, người thì tát tai người thì cự tuyệt, bên ngoài nghe thấy cả khiến cho Đao Bạch Phượng dường như muốn nổ tung lồng ngực. Còn Chung Vạn Cừu nghe thấy vợ đoan trinh tiết liệt thật mừng không để đâu cho hết.

Chung Vạn Cừu chạy đến bên cạnh Cam Bảo Bảo, vừa cao hứng vừa thương xót cứ ôm vợ mà xoay qua xoay lại, luôn mồm nói:

- Bảo Bảo, cám ơn nàng, nàng đối với ta thật tốt. Nếu như y dám ức hiếp nàng, ta thề sẽ thí mạng cùng y.

Một hồi sau y mới nhớ ra là vợ mình bị điểm huyệt liền quay sang nói với Đoàn Chính Thuần:

- Mau mau giải khai huyệt đạo cho vợ ta.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Con trai ta bị các ngươi bắt đi, ngươi quay về thả nó ra, lúc ấy ta sẽ giải cứu tôn phu nhân.

Chung Vạn Cừu đưa tay vỗ lên bên sườn và eo của vợ, tuy nội công y hùng mạnh thật nhưng Nhất Dương Chỉ nhà họ Đoàn thủ pháp có một không hai trong thiên hạ, người ngoài không ai có thể giải được, thành thử y vỗ đến lúc trán nổi gân xanh, còn Chung phu nhân bị y vỗ vừa đau vừa nhột, huyệt đạo nơi chân vẫn không mở được chút nào. Chung phu nhân giận dữ nói:

- Ngốc ơi, thôi đừng giở xấu ra nữa!

Chung Vạn Cừu vội vàng ngừng tay, bực tức không để đâu cho hết lớn tiếng quát tháo:

- Đoàn Chính Thuần, có giỏi cùng ta đấu con mẹ nó ba trăm hiệp coi nào.

Y xăn tay ra bộ tịch tưởng như muốn xông lên đánh nhau đến nơi. Chung phu nhân lạnh lùng nói:

- Đoàn vương gia, công tử bị bọn Nam Hải Ngạc Thần bắt đi, chuyết phu dẫu có nói thả, bọn ác nhân kia chưa chắc đã nghe. Để tôi và sư tỉ về rồi tùy cơ giải cứu may ra còn có hi vọng, ít ra cũng khiến cho bọn chúng không làm khó cho công tử.

Đoàn Chính Thuần lắc đầu:

- Ta không tin được. Chung tiên sinh, xin ông đi về, đem con tôi tới đây đổi lấy phu nhân.

Chung Vạn Cừu nổi cơn lôi đình, hầm hầm quát:

- Trấn Nam Vương phủ nhà ngươi là chỗ hoang dâm vô sỉ, vợ ta ở đây nguy hiểm vạn phần.

Đoàn Chính Thuần mặt đỏ lên, quát lớn:

- Ngươi còn mở miệng nói năng vô lễ, họ Đoàn này thẳng tay thì đừng trách.

Đao Bạch Phượng từ khi vào phòng tới giờ không nói nửa lời, bỗng dưng xen vào:

- Ông giữ hai người đàn bà lại là có dụng ý gì đây? Vì Dự nhi hay vì chính bản thân ông?

Đã mang cái nghiệp đèo bòng,

Bên Tần bên Sở biết trông bên nào.

*

* *

Hoi 7b.

Đoàn Chính Thuần thở dài nói:

- Đến bà cũng không còn tin ở tôi nữa hay sao?

Ông vung tay một cái điểm vào ngang hông Tần Hồng Miên, lập tức giải huyệt cho bà ta, xong rồi tiến lên một bước giơ tay toan điểm vào hông Chung phu nhân. Chung Vạn Cừu lạng người chắn trước mặt vợ, xua hai tay lớn tiếng nói:

- Tên kia ngươi thập thò gì, lại toan chấm mút đàn bà con gái nữa chăng? Thân thể vợ ta không để cho ngươi đụng tới được.

Đoàn Chính Thuần cười khẩy nói:

- Công phu điểm huyệt của tại hạ tuy thô thiển thật nhưng người ngoài không giải nổi đâu. Để lâu thêm nữa, e rằng hai chân của tôn phu nhân phải tàn phế mất thôi.

Chung Vạn Cừu hầm hầm nói:

- Vợ ta như hoa tựa ngọc đang khỏe mạnh, nếu như thành người què thì ta sẽ băm thằng chó đẻ con ngươi ra thành muôn nghìn mảnh.

Đoàn Chính Thuần cười:

- Ngươi muốn ta giải huyệt cho tôn phu nhân nhưng lại không cho đụng vào người thì ta biết làm thế nào đây?

Chung Vạn Cừu không sao trả lời được, bỗng dưng nổi cơn thịnh nộ, quát lớn:

- Ai bảo ngươi điểm huyệt vợ ta làm chi? Chết rồi, hỡi ôi, khi ngươi điểm huyệt vợ ta, ngươi đã đụng vào người nàng rồi. Đã thế ta cũng điểm vợ ngươi một cái để bù lại.

Chung phu nhân lườm chồng, giận dỗi nói:

- Lại nói lăng nhăng, không sợ người ta cười cho sao?

Chung Vạn Cừu nói:

- Có gì đáng cười nào? Ta đâu có để y chơi trèo được.

Trong khi hai bên còn đang đôi co, màn cửa bỗng vén lên, một người chậm rãi bước vào. Người đó mặc trường bào bằng gấm vàng, râu ba chòm, mi thanh mục tú, chính là hoàng đế nước Đại Lý Đoàn Chính Minh.

Đoàn Chính Thuần cất tiếng chào:

- Hoàng huynh!

Bảo Định Đế gật đầu, hơi nghiêng mình từ xa vung ngón tay chỉ về ngực và bụng Chung phu nhân. Chung phu nhân thấy đan điền nóng hổi, hai luồng khí ấm truyền vào hai bên đùi, huyết mạch lập tức điều hòa, đứng lên ngay được.

Chung Vạn Cừu thấy ông ta để lộ chút thần kỹ Cách Không Giải Huyệt, kinh ngạc vạn phần, há hốc mồm không nói lên được lời nào, không ngờ trên đời này lại có công phu cao siêu đến thế.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Hoàng huynh, Dự nhi bị người ta bắt cóc rồi.

Bảo Định Đế gật đầu, nói:

- Thiện Xiển Hầu đã cho ta hay. Thuần đệ, con cháu nhà họ Đoàn nếu lạc vào tay người thì cha mẹ chú bác phải đi cứu ra, chúng ta không thể bắt người để đánh đổi được.

Đoàn Chính Thuần mặt đỏ lên, đáp lời:

- Chính thế.

Mấy câu nói đó của Bảo Định Đế thật quang minh lỗi lạc, đầy vẻ biết mình biết người, ý muốn là: “Nếu như mình bắt người làm con tin để đổi lại thì chẳng hóa ra làm mất thanh danh của họ Đoàn Đại Lý hay sao? Chúng ta đường đường con vua cháu chúa sao lại coi như ngang hàng với mấy con đàn bà đầu đường xó chợ?”.

Ông ngừng lại một chút, quay sang nói với Chung Vạn Cừu:

- Xin ba vị cứ việc ra đi. Trong vòng ba ngày, họ Đoàn ắt sẽ đến Vạn Kiếp Cốc để đòi người lại.

Chung Vạn Cừu đáp:

- Vạn Kiếp Cốc chúng tôi cực kỳ khó tìm, chưa chắc các người đã kiếm được, có muốn chúng tôi chỉ vẽ đường đi nước bước chăng?

Y chắc rằng Bảo Định Đế thể nào cũng mở miệng hỏi thăm, lúc ấy mình sẽ không nói để làm khó ông ta một phen. Nào ngờ Bảo Định Đế không thèm trả lời, phất tay áo một cái ra lệnh:

- Tống khách!

Chung Vạn Cừu tính tình nóng nảy nhưng trước mặt vị hoàng đế bất nộ nhi uy này cũng cảm thấy chân tay luống cuống, vừa nghe ông ta nói “Tống khách” hậm hực nói:

- Thôi được, mình đi thôi. Lão tử hận nhất trên đời này là họ Đoàn. Trên đời này chẳng có người họ Đoàn nào ra cái quái gì.

Y cầm tay vợ, mặt hầm hầm hung hăng ra khỏi phòng. Chung phu nhân giật áo Tần Hồng Miên nói:

- Thư thư, thôi mình đi.

Tần Hồng Miên đưa mắt liếc Đoàn Chính Thuần một cái, thấy ông ta mặt lạnh như tiền không nói một lời, trong lòng chua chát, trừng mắt nhìn Đao Bạch Phượng rồi lủi thủi đi ra. Ba người vừa ra khỏi phòng lập tức phi thân lên mái nhà.

Cao Thăng Thái đứng ở một bên góc nhà hơi cúi mình nói:

- Tống khách.

Chung Vạn Cừu ở trên mái ngói nhổ toẹt một bãi nước bọt, hậm hực nói:

- Chỉ vờ vịt, làm bộ làm tịch, chẳng đứa nào ra cái đếch gì.

Y đề khí nhảy qua một mái nhà, hết căn nọ đến căn kia, trước mắt đã thấy bức tường bao quanh vương phủ. Y tung mình nhảy lên, đưa chân đặt xuống đầu tường. Đột nhiên ngay lúc đó, trước mặt đã có thêm một người mặc áo thụng đai vòng, đứng ngay chỗ y vừa định đáp xuống, chính là Cao Thăng Thái vừa đứng ngoài tiễn chân y.

Người này vốn ở sau Chung Vạn Cừu, không biết làm sao mà không nghe một tiếng động đã vượt qua trước mặt, đứng ngay đúng chỗ y vừa tính đặt chân.

Chung Vạn Cừu đang ở trên lưng chừng, nhảy lại thì không được, xoay qua cũng không xong, quát lên:

- Tránh ra!

Hai bàn tay y cùng tung ra, đánh thẳng vào Cao Thăng Thái. Y nghĩ thế chưởng của mình có sức vỡ bia tan đá, đối phương nếu như cố gượng chống trả thể nào cũng bị ngãn văng xuống đất, dù cho hai bên có ngang ngửa nhau thì cũng có thể mượn sức để chuyển hướng nhảy qua bên cạnh.

Song chưởng của y xem ra đánh trúng ngay ngực người kia, Cao Thăng Thái thân hình đột nhiên ngã ngửa về sau, sử dụng Thiết Bản Kiều chông chênh, hai chân bám chặt vào đầu tường, tránh khỏi thế đánh của Chung Vạn Cừu.

Chung Vạn Cừu đánh không trúng, kêu thầm: “Không xong!”. Thân hình y bay vụt qua người Cao Thăng Thái nhưng người đã mất thế, chân tay ngực bụng tênh hênh trống trải để cho địch nhân muốn làm gì thì làm. Cũng may Cao Thăng Thái không thừa cơ tập kích, Chung Vạn Cừu hai chân chạm đất kêu lên:

- Hú vía!

Quay lại thấy Chung phu nhân và Tần Hồng Miên hai người nhẹ nhàng vượt tường nhảy qua. Cao Thăng Thái đứng thẳng trở lên, cúi người vái chào nói:

- Xin thứ lỗi không tiễn xa hơn được.

Chung Vạn Cừu hừ một tiếng, đột nhiên thấy quần tụt xuống, vội vàng đưa tay giữ lại cho khỏi ê mặt, mò tay vào mới hay dây lưng đứt tự bao giờ. Thì ra khi y bay ngang người Cao Thăng Thái đã bị ông ta thọc tay cắt đứt nếu đối phương không nhẹ đòn, ngón tay đó đâm vào huyệt Đan Điền thì lúc này đã chết đứ đừ rồi. Y vừa kinh hoàng vừa phẫn nộ, khạc một cái quay lại nhổ toẹt một cục đờm lên tường, nghe bộp một cái, vừa nhanh vừa chính xác.

*

* *

Mộc Uyển Thanh hoang mang nửa mê nửa tỉnh từ phủ Trấn Nam Vương chạy ra, Đoàn vương phi cùng Chung Vạn Cừu vẫy gọi, nàng nghe mà như bỏ ngoài tai, vẫn chạy vùn vụt. Nàng thấy trời đất mênh mang nhưng sao không có một chỗ dung thân, trong hoang sơn dã lãnh chạy lung tung đến khi trời sáng, hai chân mỏi nhừ, lúc ấy mới ngừng bước, tựa lưng vào một thân cây, dậm châm kêu lên:

- Ta còn sống làm gì, thôi chết quách cho xong.

Tuy trong lòng nàng đầy oán hận nhưng chẳng biết đổ cho ai: “Đoàn lang nào có phụ tình đâu, chỉ vì trời xui đất khiến biến thành người anh cùng cha khác mẹ với ta. Sư phụ hóa ra chính là mẹ ruột, mười mấy năm qua mẹ ta chịu biết bao cay đắng nuôi dưỡng ta nên người, ơn nặng tày non, oán trách gì được ... Trấn Nam Vương hóa ra là cha ta, tuy ông đối với mẹ ta có lỗi nhưng hẳn bên trong cũng có biết bao nhiêu điều cực chẳng đã không nói ra được. Cha ta với ta thật dịu dàng, hết sức thương yêu, bảo ta dù có tâm nguyện gì, thể nào cũng hết sức làm cho kỳ được mới thôi. Thế nhưng điều ta muốn đâu phải ở sức người mà xong. Mẹ ta không được cùng cha ta nên vợ nên chồng, chắc cũng tại Đao Bạch Phượng bên trong ỏn thót nên mẹ ta mới sai ta giết bà ta ... thế nhưng nếu lấy bụng ta suy ra bụng người, ví thử ta lấy được Đoàn lang rồi, quyết chẳng để cho chàng có người thứ hai, huống chi Đao Bạch Phượng đã xuất gia làm đạo cô, hẳn là cha ta cũng có điều gì đáng trách khiến bà phải đau lòng. Ở ngoài Ngọc Hư Quan ta bắn bà ấy hai mũi tên, bà ấy không nổi giận, trong vương phủ bắn thêm hai mũi tên nữa khiến đứa con một yêu quí của bà ta suýt chết, bà ta cũng chẳng làm khó mình, xem ra ... xem ra bà ấy cũng không phải là người hung ác ...”.

Nàng suy đi nghĩ lại, càng thêm đau lòng, nói:

- Ta đành phải quên Đoàn lang đi, từ nay không nhớ tới chàng nữa.

Thế nhưng nói ra thì dễ nhưng dẫu chỉ trong giây lát không nghĩ tới chàng cũng không xong, mỗi khi hình bóng tuấn tú, cao thon của Đoàn Dự hiện ra thì ngực nàng chẳng khác gì bị người ta đánh một chưởng. Một lúc sau nàng đành tự an ủi: “Từ nay chàng có là anh trai ta thì cũng được. Ta vốn là đứa mồ côi không cha không mẹ, bây giờ có cha, có mẹ lại có thêm một người anh trai, thật còn gì sung sướng hơn. Con ngốc ơi, ngươi còn đau lòng nỗi gì?”.

Thế nhưng đã vướng mắc vào trong lưới tình rồi, dây mềm buộc chặt, càng vùng vẫy càng rứt không ra, trên đỉnh núi cao trong dãy Vô Lượng bảy ngày bảy đêm nàng vò võ ngóng trông khiến cho tình càng thâm trọng, làm sao có thể một sớm một chiều mà xong. Tiếng nước chảy ào ào, gầm thét từ xa vọng tới khiến cho Mộc Uyển Thanh trong cơn tuyệt vọng đột nhiên muốn tìm cái chết nên lần theo tiếng ỳ ầm mà tới. Nàng vòng qua một ngọn núi thấy dòng sông Lan Thương đang cuồn cuộn chảy dưới chân, thở dài một tiếng, nghĩ thầm: “Ta chỉ cần nhảy xuống là bao nhiêu phiền não sạch trơn”. Nàng men theo triền núi đến bên bờ sông, mặt trời vừa lên chiếu trên giòng nước xanh như bích ngọc thành muôn ngàn con rắn vàng lộng lẫy, nếu như nhảy một cái thì bao nhiêu cảnh sắc đẹp đẽ kia sẽ không còn bao giờ thấy nữa.

Nàng đứng chết lặng, trong đầu ý nghĩ trồi lên hụp xuống, bỗng thấy trên một tảng đá cách chừng mươi trượng có ai đó đang ngồi. Người kia mặc một chiếc áo dài xanh, trước sau không hề động đậy, cùng một màu với đất đá nên tuy nàng đứng bên bờ sông đã lâu vẫn không nhìn ra. Mộc Uyển Thanh quan sát một hồi nghĩ thầm: “Chắc là một cái xác chết”.

Nàng vốn dĩ giơ tay ra là giết người lẽ nào lại sợ tử thi nên nổi cơn hiếu kỳ, vội vàng đi tới xem xét. Người kia là một ông già, râu đen nhánh dài tới ngực, hai mắt mở trừng trừng nhìn ra ngoài sông, đến chớp mắt cũng không. Mộc Uyển Thanh buột miệng:

- Thì ra là một cái xác chết.

Nàng nhìn kỹ một hồi thấy quả thực người đó hoàn toàn không cử động chút nào, đến con ngươi cũng không chuyển, quả không phải là người sống liền nói:

- Quả đúng là người chết.

Nàng coi kỹ thêm thấy cái xác kia đôi mắt hữu thần, trên mặt lại ửng hồng nên đưa tay ra để dưới mũi thăm dò thử, hơi thở như có như không, bèn đưa tay sờ mặt, thì lại lúc nóng lúc lạnh, sờ tay vào ngực thì trái tim lúc đập lúc ngừng. Nàng ngạc nhiên quá đỗi, buột miệng:

- Người này lạ thật, bảo là người chết rồi thì lại dường như còn sống, thế nhưng bảo là còn sống thì lại giống như chết rồi.

Bỗng có tiếng nói đâu đó:

- Ta là người sống đấy chứ.

Mộc Uyển Thanh hoảng hồn, vội quay đầu nhìn lại nhưng sau lưng nào có ai. Bờ sông toàn những hòn đá lớn bằng trứng ngỗng, nhì ra xa xa không nơi nào có thể ẩn náu. Lúc đó rõ ràng nàng đang nhìn quái nhân kia, khi âm thanh vào tai, không thấy môi y mấp máy gì cả. Nàng gọi lớn:

- Ai đùa rỡn với cô nương đó? Bộ ngươi không muốn sống hay sao?

Nàng lùi lại hai bước, quay lưng về phía giòng sông, mắt nhìn chung quanh. Lại nghe giọng kia nói tiếp:

- Ta quả là không muốn sống đó.

Mộc Uyển Thanh bấy giờ kinh hãi không để đâu cho hết, trước mắt chỉ thấy quái nhân kia nhưng đôi môi y mím chặt có thấy động đậy gì đâu, không thể nào là y nói được. Nàng cao giọng quát lên:

- Ai nói đó?

Tiếng nói kia đáp:

- Chính ngươi nói chứ còn ai.

Mộc Uyển Thanh hỏi lại:

- Thế thì ai đang nói chuyện với ta?

Tiếng nói kia đáp:

- Chẳng ai nói chuyện với ngươi cả.

Mộc Uyển Thanh quay người nhìn chung quanh mấy bận, ngoài cái bóng của chính nàng ra đâu có ai khác. Nàng liệu chừng chính người áo xanh kia giở trò quái dị nên đến gần, thu hết can đảm, đưa tay bịt mồm ông ta lại, hỏi:

- Phải ông nói chuyện với tôi chăng?

Tiếng nói kia đáp:

- Không phải.

Bàn tay Mộc Uyển Thanh không thấy động đậy chút nào, liền hỏi tiếp:

- Rõ ràng có người nói chuyện với tôi, sao lại bảo là không có ai?

Tiếng nói kia đáp:

- Ta không phải là người, ta cũng chẳng phải là ta, trên thế gian này không còn ta nữa.

Mộc Uyển Thanh nghe vậy người nổi gai ốc, nghĩ thầm: “Chẳng lẽ mình nói chuyện với ma?”. Bèn hỏi:

- Ông ... ông là ma chăng?

Tiếng nói kia đáp:

- Ngươi không muốn sống nữa tức là muốn thành ma, sao lại còn sợ ma?

Mộc Uyển Thanh cố gượng đáp:

- Ai bảo ta sợ ma? Ta trời không sợ, đất không kiêng.

Tiếng nói kia đáp:

- Thế nhưng ngươi sợ một thứ.

Mộc Uyển Thanh hừ một tiếng:

- Ta chẳng sợ gì cả.

Tiếng nói kia đáp:

- Có một thứ ngươi sợ chứ, sợ lắm chứ. Ấy là ngươi sợ người chồng mình nay lại biến thành người anh.

Câu nói đó chẳng khác nào người ta giáng lên đầu nàng một gậy, hai chân Mộc Uyển Thanh nhũn ra, ngồi phệt xuống. Nàng chết sững một hồi bấy giờ mới lẩm bẩm:

- Ngươi là ma quỉ, ngươi là ma quỉ!

Tiếng nói kia tiếp:

- Ta có cách làm cho Đoàn Dự không còn là anh ngươi nữa, mà là chồng ngươi.

Mộc Uyển Thanh run rẩy nói:

- Ngươi ... ngươi lừa ta. Đây là chuyện ông trời đã định, thay đổi ... thay đổi thế nào được.

Tiếng nói kia lại tiếp:

- Ông trời đáng chết lắm, làm chuyện tầm phào, mình việc gì phải nói đến. Ta đã có cách, có thể biến anh ngươi thành chồng ngươi, ngươi có chịu không?

Trong lòng Mộc Uyển Thanh vốn đã nguội lạnh, không còn thiết tha gì nữa, nay nghe câu đó thật đúng là trên trời rơi xuống, tuy nửa tin nửa ngờ nhưng cũng hấp tấp nói:

- Tôi muốn chứ, tôi muốn chứ!

Tiếng nói kia không còn nghe thấy tiếp nữa. Một lúc sau, Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Thế ông là ai vậy? Có thể cho tôi xem hình dáng được không?

Tiếng nói kia trả lời:

- Ngươi nhìn ta từ nãy giờ, chưa đủ hay sao?

Tiếng người đó từ trước tới sau lúc nào cũng ngang phè không lên giọng xuống giọng. Mộc Uyển Thanh nói:

- Ông ... ông ... là ... chính là ông đấy ư?

Tiếng kia đáp:

- Ta cũng chẳng biết ta có phải là ta không nữa. Ôi!

Chỉ mãi đến khi nghe y thở dài mới biết lòng y đầy vẻ sầu muộn, chán chường. Mộc Uyển Thanh không còn hoài nghi gì nữa, biết là tiếng nói kia chính là từ ông già áo xanh bèn hỏi:

- Môi ông không mấp máy sao lại nói được?

Tiếng nói kia đáp:

- Ta giở sống giở chết, miệng không cử động được, thanh âm từ trong bụng phát ra.

Mộc Uyển Thanh tuổi còn nhỏ vẫn còn tính trẻ con, vừa mới đây bụng dạ ưu sầu bây giờ nghe nói ông ta không cần mấp máy môi mà vẫn nói được nên không khỏi tò mò, cảm thấy thật lạ lùng bèn hỏi:

- Dùng bụng cũng nói chuyện được sao? Thật là kỳ lạ.

Người áo xanh nói:

- Ngươi thử đưa tay sờ vào bụng ta thì biết ngay.

Mộc Uyển Thanh giơ tay để lên bụng người nọ, thanh bào khách nói:

- Bụng ta rung động ngươi cảm thấy chăng?

Bàn tay Mộc Uyển Thanh quả nhiên thấy bụng y tùy theo tiếng nói mà lên xuống, cười nói:

- Ha ha, thật là lạ lùng.

Nàng có biết đâu người áo xanh đã luyện được môn nói bằng bụng , trò này những người làm trò hát rong nhiều người biết nhưng muốn nói cho được rõ ràng như y thì thật không phải dễ, không có nội công thâm hậu thì không sao làm được.

Mộc Uyển Thanh đi vòng quanh người áo xanh mấy bận, chăm chú quan sát hỏi thêm:

- Thế môi ông không mấp máy được thì làm sao ăn cơm?

Người áo xanh đưa hai tay, một tay cầm môi trên, một tay cầm môi dưới kéo mồm mình ra, sau đó lấy hai ngón tay bên trái chống lên, tay phải bỏ cái gì đó vào mồm, nghe trệu trạo mấy tiếng nuốt vào bụng nói:

- Như thế đó.

Mộc Uyển Thanh thở dài:

- Chao ôi, tội nghiệp quá, thế thì có còn biết gì là ngon ngọt nữa đâu?

Bấy giờ nàng mới thấy rằng tất cả các bắp thịt trên mặt y đều cứng đơ, mi mắt không nhắm lại được nên không tỏ ra buồn vui giận ghét, thành thử thoạt mới gặp ai cũng tưởng là một xác chết.

Tuy nàng không còn sợ hãi nữa nhưng chợt nghĩ ra người này quả là khốn khổ không sao thoát được cảnh sống giở chết giở này nhưng sao y lại có thể biến anh trai mình thành chồng được? Xem ra những lời y nói ra chẳng qua chỉ là những câu nói bá láp lăng nhăng. Nàng trầm ngâm rồi thở dài, quay mình lặng lẽ bỏ đi. Tiếng nói kia lại vọng tới:

- Ta muốn biến Đoàn Dự thành chồng mi, mi không bỏ đi được.

Mộc Uyển Thanh cười nhạt, đi về hướng tây thêm mấy bước, đột nhiên quay phắt lại hỏi:

- Ông không hề quen biết với tôi, làm sao ông biết được bụng dạ tôi? Ông ... ông quen với Đoàn lang ư?

Người áo xanh nói:

- Tâm sự ngươi thế nào ta biết chứ.

Từ trong hai tay áo y thò ra hai chiếc gậy sắt nhỏ đen sì, nói:

- Thôi mình đi.

Gậy bên trái ấn lên tảng đá, thân hình y đã tung lên nhẹ nhàng rơi cách xa cả trượng. Mộc Uyển Thanh thấy hai chân y rời mặt đất tuy chỉ mới chống một cây gậy nhưng thân thể thật là vững chãi, lạ lùng hỏi:

- Thế hai chân ông ...

Người áo xanh nói:

- Hai chân ta tàn phế đã lâu. Thôi nhé, từ nay trở đi việc của ta ngươi không được hỏi nữa.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Nếu tôi cứ hỏi thì sao?

Mấy tiếng đó vừa nói xong đột nhiên hai chân nhũn ra, khuỵu ngay xuống. Thì ra người áo xanh đã phất phới bay tới, cây gậy bên tay phải điểm luôn vào hai bên khoeo chân nàng, tiếp theo quất ngang một cái khiến nàng đau thấu xương, "A" lên một tiếng. Thiết trượng của y lại liên tiếp điểm vào giải khai huyệt đạo cho nàng, thủ pháp nhanh nhẹn thật không ngờ nổi. Mộc Uyển Thanh đứng bật lên, bực bội nói:

- Sao ông vô lễ thế.

Nàng vung tay lên toan bắn độc tiễn ra. Người áo xanh nói:

- Ngươi bắn ta một mũi tên, ta đánh cho một roi vào mông, bắn ta mười mũi tên, ta đánh cho mười roi, cứ thử thì biết.

Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: “Nếu ta bắn trúng y một mũi tên thì y đã chết đứ đừ rồi còn đâu, lấy gì mà đánh mình? Thế nhưng người này thần thông quảng đại, võ công còn cao hơn cả Nam Hải Ngạc Thần, xem ra bắn không trúng được y đâu. Người này nói là làm, để y đánh vào đít thì thật hỏng bét”.

Lại nghe y nói tiếp:

- Ngươi không dám bắn ta thì ngoan ngoãn nghe lời ta, không được trái lời.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Tôi không nghe lời ông đâu.

Nàng tuy nói thế nhưng tay đã buông cơ quan bắn tên trong tay áo ra. Người áo xanh dùng hai cây gậy sắt thay chân, chạy thẳng về phía trước. Mộc Uyển Thanh chạy theo sau thấy hai cây gậy đó đều dài bảy, tám thước, mỗi khi đi một bước bằng mấy bước người thường. Mộc Uyển Thanh đề khí chạy thật nhanh cố gắng lắm mới theo kịp. Người áo xanh lên non vượt ngàn thật chẳng khác gì đi trên đất bằng, nhưng lại không đi vào những noi có đường mòn sẵn, mà dù cho đất đá gai góc, chỉ điểm thiết trượng một cái là vượt qua ngay, khiến cho Mộc Uyển Thanh chạy theo quần áo bị gai xé rách từng mảng, nhưng nhất định không lên tiếng thở than tỏ ra kém thế.

Đi qua dăm ngọn núi nhìn thấy xa xa một khu rừng rậm tối mò. Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: “Đến Vạn Kiếp Cốc rồi” bèn lên tiếng hỏi:

- Mình đến Vạn Kiếp Cốc làm gì đây?

Người áo xanh quay đầu lại đột nhiên vung thiết trượng ra, nghe vút một cái đã đánh trúng ngay đùi nàng, nói:

- Ngươi có còn láu táu nữa thôi?

Cứ như tính tình Mộc Uyển Thanh thì dù nàng biết địch không lại cũng không đời nào chịu cho người ta ức hiếp như thế nhưng trong lúc này trong đáy lòng mơ hồ nẩy ra một tia hi vọng, bản lãnh người áo xanh kia cao cường như thế, biết đâu giúp được nàng đạt tâm nguyện thì sao, nên chỉ nói:

- Cô nương chẳng sợ gì nhà ngươi đâu, tạm nhường ngươi một bận.

Người áo xanh nói:

- Thôi đi!

Y không đi theo cái cửa hang nơi gốc cây mà đi vòng qua sườn núi ở bên cạnh sơn cốc, chạy về phía sau. Đường đi nước bước trong Vạn Kiếp Cốc y quen thuộc lắm, mấy lần Mộc Uyển Thanh định lên tiếng hỏi nhưng lại sợ y vung gậy đánh nên lời đến cửa miệng lại phải nhịn không nói ra. Chỉ thấy y quẹo trái quẹo phải, đi vào hậu sơn càng lúc càng xa. Khi Mộc Uyển Thanh đến Vạn Kiếp Cốc thăm sư thúc Cam Bảo Bảo đã ở đây mấy hôm bây giờ người áo xanh dẫn nàng đến những nơi nàng chưa từng đi qua bao giờ, đâu có ngờ trong Vạn Kiếp Cốc có những nơi hoang lương u tịch đến như thế.

Đi thêm mấy dặm lại đi vào trong một khu rừng rậm, toàn những cây cổ thụ cao vút, tuy ban ngày ban mặt ánh mặt trời sáng sủa mà vẫn tối mờ mờ như buổi chiều tà, càng vào sâu cây càng dày, đến sau phải nghiêng người mới len đi được. Đi thêm vài mươi trượng bỗng thấy những câu cổ thụ mọc thành một hàng dài trông như một bức tường cây, không còn làm sao qua được. Người áo xanh giơ gậy sắt tạt vào lưng Mộc Uyển Thanh hất một cái, người nàng bay vụt lên không, rơi ngay lên một tàn cây. Lại thấy người ấy cũng bay bổng lên, cầm thiết trượng điểm vào một cây to, thân hình bay lên nữa vượt qua luôn bức tường. Mộc Uyển Thanh đâu có tài ba như thế, đành phải trèo qua bám vào cành cây nhảy xuống.

Đằng trước mặt là một khoảng đất bằng, ngay chính giữa có một căn nhà đá. Thạch thất đó hình dáng lạ lùng, dùng toàn những tảng đá nặng hàng nghìn cân xếp chồng lên nhau, chỗ lồi chỗ lõm, đúng là một hòn núi nhỏ lộ ra một cái cửa trông như một cái hang. Người áo xanh quát lớn:

- Vào đi!

Mộc Uyển Thanh nhìn vào trong căn nhà đá thấy tối om không biết bên trong có cái quái quỉ gì làm sao dám ngang nhiên đi vào? Đột nhiên nàng thấy một bàn tay để lên lưng, vội tránh ra nhưng kình lực của người áo xanh đã đẩy nàng vào trong hang đá.

Nàng giơ tay trái lên bảo vệ thân mình, sử dụng chiêu Hiểu Phong Phất Liễu che trước mặt sợ từ trong hang có con quái vật gì xông ra, nghe thấy đằng sau một tiếng ầm lớn, cửa hang đã bị vật gì nặng chặn lại rồi. Nàng kinh hoảng, vội quay lại chỗ cửa cố sức đẩy thấy chỗ bàn tay chạm vào xù xì lạ thường, hóa ra đó là một phiến đá hoa cương lớn.

Nàng vận sức vào hai cánh tay, hết sức đẩy ra nhưng chẳng khác gì chuồn chuồn đẩy cột nhà, tảng đá không hề nhúc nhích. Mộc Uyển Thanh lớn tiếng gào:

- Này, ngươi nhốt ta ở đây làm gì đó?

Chỉ nghe tiếng người áo xanh vọng vào:

- Ngươi xin ta làm gì bộ quên rồi sao?

Thanh âm theo kẽ hở của khối đá truyền vào nghe rõ ràng như thường. Mộc Uyển Thanh định thần nhìn lại khối đá thấy bên trên thì sát trần nhà, hai bên tuy có khe hở nhưng chỗ thì vài tấc, chỗ độ một thước nhưng không cách nào đủ chỗ để chui qua được.

Mộc Uyển Thanh lại kêu lên:

- Thả tôi ra, thả tôi ra!

Bên ngoài không thấy tăm hơi gì, nàng theo khe cửa nhìn ra chỉ thấy người áo xanh đã nhảy vọt lên trông chẳng khác gì một con chim xanh đang bay vượt qua bức tường cây. Nàng quay trở lại giương to mắt thấy một góc nhà có bàn có giường, trên giường có một người ngồi đó. Nàng kinh hãi kêu lên:

- Ngươi ... ngươi ...

Người kia đứng lên, đi tới mấy bước kêu lên:

- Uyển muội, em cũng đến ư?

Trong giọng nói vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, chính là Đoàn Dự. Mộc Uyển Thanh trong cơn tuyệt vọng lại gặp được tình lang, vui mừng tưởng như trái tim ngừng đập, vội vàng nhào tới sà vào lòng chàng. Trong thạch thất ánh sáng yếu ớt, Đoàn Dự thấy nàng mặt tái nhợt, hai giòng lệ chảy dài trên má, trong lòng thật xót xa, giơ tay ôm chặt lấy nàng, thấy đôi môi nàng mấp máy, nhịn không nổi cúi xuống hôn một cái. Hai người vừa chạm vào nhau đột nhiên cùng nghĩ: “Mình là anh em ruột thịt, đâu có thế được”. Thân thể cùng giật một cái, lập tức buông nhau ra.

Hai người dựa lưng vào vách đá, ngơ ngẩn nhìn nhau, Mộc Uyển Thanh khóc òa lên. Đoàn Dự dịu dàng an ủi:

- Uyển muội, cái đó là trời đã an bài, em cũng đừng quá đau khổ. Anh nay được một cô em như thế này, thật vui mừng biết bao.

Mộc Uyển Thanh liên tiếp dậm chân, khóc nói:

- Em vẫn thấy đau khổ, em không thấy vui mừng. Chàng trong lòng vui mừng, chàng là kẻ vô lương tâm.

Đoàn Dự thở dài:

- Mình đâu có cách nào khác? Giá như anh không gặp em có phải hay biết bao nhiêu.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Cũng có phải em muốn gặp chàng đâu? Ai bảo anh đi kiếm em làm gì? Nếu khi đó anh không quay lại báo tin thì cùng lắm là chết trong tay người ta thôi. Anh làm chết con Hắc Mai Côi của em, làm cho lòng em biết bao đau đớn, làm cho sư phụ em biến thành mẹ ruột em, làm cho cha anh thành cha em, làm cho chính mình thành anh của em. Em không muốn thế, em nhất định không muốn thế. Anh làm em bị nhốt nơi đây, em muốn đi ra khỏi đây, ra khỏi đây ngay.

Đoàn Dự nói:

- Uyển muội, quả đúng là anh không ra gì. Em đừng giận nữa, chúng mình từ từ tìm cách trốn ra khỏi nơi đây.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Em không đi đâu hết, em chết ở trong này cũng thế mà chết ở ngoài kia cũng thế có khác gì đâu. Em không ra, nhất định không ra.

Nàng mới vừa gào lên: “Em muốn ra khỏi nơi đây” đến bây giờ lại đòi “em nhất định không ra”. Đoàn Dự biết nàng tâm tình khích động, không thể nào khuyên bảo gì đành ngồi im.

Mộc Uyển Thanh hờn giận thấy chàng không nói năng gì bèn hỏi:

- Sao anh không nói gì cả?

Đoàn Dự đáp:

- Thế em bảo anh nói gì đây?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Thì anh nói xem anh ở đây để làm gì?

Đoàn Dự đáp:

- Tên học trò anh bắt anh đưa đến đây ...

Mộc Uyển Thanh lạ lùng:

- Học trò anh?

Nàng lập tức nghĩ ra, tuy đang khóc không khỏi bật cười, nói:

- Đúng rồi, là Nam Hải Ngạc Thần. Y bắt anh đến nhốt tại đây ư?

Đoàn Dự đáp:

- Đúng thế.

Mộc Uyển Thanh cười:

- Thế thì anh phải ra oai sư phụ, bảo hắn thả anh ra chứ.

Đoàn Dự đáp:

- Ta nói đâu phải chỉ một lần mà thôi, thế nhưng hắn nào có nghe, ngược lại còn nói là chỉ khi nào ta chịu lạy hắn làm thầy thì mới thả ta ra.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Hừ, chắc là anh lên mặt không đúng cách.

Đoàn Dự thở dài:

- Chắc hẳn là thế. Uyển muội, còn cô bị ai bắt đến đây thế?

Mộc Uyển Thanh đem chuyện người áo xanh kể lại sơ qua nhưng chuyện chính mình muốn “anh trai biến thành chồng” không đề cập đến. Đoàn Dự nghe nói người này môi không động đậy mà lại nói bằng bụng, hai chân tàn phế mà chạy như bay, không khỏi thích thú, liên tiếp hỏi cho ra, tấm tắc khen là lạ lùng.

Hai người nói chuyện một lúc lâu, bỗng nghe bên ngoài nhà có tiếng lách cách, một cái bát theo khe hổng đưa vào, có tiếng nói:

- Ăn cơm này.

Đoàn Dự đưa tay đón lấy, thấy trong bát là thịt quay thơm phức, kế đến đưa thêm vào độ mươi cái bánh hấp. Chàng đem hết đồ ăn đặt trên bàn, hỏi nhỏ:

- Em liệu xem họ có bỏ thuốc độc trong thức ăn chăng?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Họ muốn giết mình thì dễ như chơi, việc gì phải hạ độc.

Đoàn Dự nghĩ quả thực không sai, bụng đang đói cồn cào liền nói:

- Thế thì ăn thôi.

Chàng đem bánh kẹp thịt quay vào giữa, đưa cho Mộc Uyển Thanh ăn trước rồi tới lượt mình. Người bên ngoài nói:

- Ăn xong đem bát bỏ ra ngoài sẽ có người đến lấy.

Nói rồi y đi mất. Mộc Uyển Thanh từ trong hang nhìn ra thấy gã kia trèo lên cây lên đến trên mới nhảy qua phía bên kia nghĩ thầm: “Người này thân thủ cũng thường thôi”. Nàng quay lại ngồi bên cạnh Đoàn Dự, hai người cùng ăn bánh với thịt quay. Đoàn Dự vừa ăn vừa nói:

- Em cũng đừng lo, bá phụ và gia gia thể nào cũng đến cứu mình ra. Nam Hải Ngạc Thần, Diệp Nhị Nương bọn họ võ công tuy cao cường thật nhưng chưa chắc đã là địch thủ của cha mình. Còn nếu như bá phụ đích thân ra tay thật chẳng khác nào gió thổi lá rơi, sẽ đánh cho chúng một trận thất điên bát đảo.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Hừ, ông ấy là hoàng đế Đại Lý, võ công được bao nhiêu? Em không tin là ông ấy đánh thắng được quái nhân áo xanh kia đâu. Chắc phải đem theo vài nghìn kỵ binh thiết giáp tấn công vào.

Đoàn Dự liên tiếp lắc đầu, nói:

- Không được, không được! Họ Đoàn chúng ta tổ tiên vốn là nhân sĩ võ lâm Trung Nguyên, tuy ở Đại Lý làm vua một cõi nhưng quyết không quên qui củ võ lâm. Nếu như ỷ thế chèn ép người, lấy đông để thắng chẳng khiến anh hùng thiên hạ chê cười họ Đoàn Đại Lý hay sao?

Mộc Uyển Thanh nói:

- Ồ, thì ra trong nhà anh tuy làm đến hoàng đế, vương gia nhưng vẫn không để mất thân phận anh hùng hảo hán.

Đoàn Dự nói:

- Bá phụ và gia gia vẫn thường nói rằng làm người không được quên nguồn cội.

Mộc Uyển Thanh hừ một tiếng nói:

- Sí, mồm thì nói nhân nghĩa đạo đức, đến việc thì lại đê tiện vô liêm sỉ. Cha anh đã có mẹ anh rồi, sao lại ... sao lại còn gian díu với sư phụ em?

Đoàn Dự chưng hửng nói:

- Hử, sao em dám nói nặng cha anh? Cha anh không phải là cha em sao? Hơn nữa, trên đời này vương công quí tộc, có người nào không có mấy vị phu nhân? Dẫu có tám người, mười người thì đã sao đâu.

Thời đó là đời Bắc Tống, miền bắc là Khiết Đan, giữa là Đại Tống, tây bắc là Tây Hạ, tây nam là Thổ Phồn, nam là Đại Lý. Trong năm nước các vương công ngoài chính thất ra ai ai cũng có cơ nhân thị thiếp, nhiều thì mấy chục người, ít cũng ba bốn, đến dưới một mức như hầu bá, quan to, cũng còn có vợ lẽ, nàng hầu. Từ xưa đến nay, đời nào cũng thế, người đời coi như đó là chuyện đương nhiên.

Mộc Uyển Thanh nghe thế, cơn giận bừng bừng nổi lên, bốp một tiếng giơ tay tát ngay trên má chàng khiến cho Đoàn Dự há hốc mồm, miếng bánh ăn dở còn cầm trên tay rơi bịch xuống đất. Chàng lắp bắp:

- Cô ... cô ...

Mộc Uyển Thanh giận dữ nói:

- Em không gọi ông ấy là cha. Đàn ông lấy nhiều thê thiếp là người không có lương tâm. Người nào lòng nọ dạ kia là kẻ vô tình vô nghĩa.

Đoàn Dự xoa xoa chỗ má sưng, cười gượng:

- Ta là huynh trưởng của cô, cô là em gái của ta, phận là em không được vô lễ với anh như thế.

Mộc Uyển Thanh trong lòng uất ức chưa tan, giơ tay toan đánh nữa. Lần này Đoàn Dự đã đề phòng, chân liền bước ra sử dụng Lăng Ba Vi Bộ đã lòn ra sau lưng cô nàng. Mộc Uyển Thanh giơ tay đánh ngược trở về nhưng Đoàn Dự đã tránh được. Trong thạch thất chỉ chừng một trượng vuông nhưng Lăng Ba Vi Bộ quả thực thần diệu, Mộc Uyển Thanh xuất chưởng càng lúc càng nhanh nhưng không sao đánh trúng được chàng.

Mộc Uyển Thanh càng bực tức hơn, đột nhiên kêu lên “Ôi chao” một tiếng, làm như bị ngã, Đoàn Dự kinh hoảng nói:

- Sao thế?

Chàng vội cúi xuống đỡ lên. Mộc Uyển Thanh nằm thõng trong tay chàng đột nhiên tay trái vòng lên ôm lấy cổ, vít mạnh một cái, cười nói:

- Anh còn chạy nữa thôi?

Tay phải vung lên tát chàng một cái đích đáng. Đoàn Dự bị đau chỉ kêu được “A” một tiếng, bỗng thấy trong Đan Điền một luồng nhiệt khí bốc lên, chỉ giây lát huyết mạch bừng bừng, tình dục dâng lên như sóng biển, không sao kiềm chế được. Chàng thấy thiếu nữ đang nằm trong lòng mình thon thon xinh đẹp, hương thơm ngây ngất bốc lên, trong lòng đại loạn, liền ghé miệng hôn lên môi nàng.

Nụ hôn đó khiến cho Mộc Uyển Thanh người nhũn ra. Đoàn Dự bồng nàng lên để nằm trên giường, giơ tay cởi áo. Mộc Uyển Thanh nói nhỏ:

- Chàng ... chàng là anh trai của thiếp mà!

Thần trí Đoàn Dự tuy loạn nhưng câu nói đó thật chẳng khác nào một tiếng sét giữa ban ngày, ngơ ngẩn rồi vội vàng buông nàng ra, lùi lại mấy bước, xoạc chân giơ hay tay bốp bốp bốp bốp, tự đánh lên mặt mình bốn cái tát liền, chửi:

- Đáng chết thật, đáng chết thật.

Mộc Uyển Thanh thấy chàng hai mắt đỏ ngầu, phóng ra những tia sáng kỳ lạ, trên mặt bắp thịt giựt giựt liên tiếp, lỗ mũi phập phồng, kinh hoảng kêu lên:

- Chao ôi! Đoàn lang, trong thức ăn có độc, chúng mình bị trúng kế người ta rồi.

Đoàn Dự lúc ấy toàn thân nóng như sôi, chẳng khác nào bị người ta bỏ trong một cái lò hấp, nghe Mộc Uyển Thanh nói đồ ăn có độc, trong lòng lại thấy vui mừng: “Thì ra độc dược đó làm loạn bản tính mình, nên mới định làm trò loạn luân với Uyển muội, không phải mình uổng công đọc sách thánh hiền, đột nhiên táng tâm hóa điên hành động như loài cầm thú”.

Thế nhưng trong thân nóng dường như không chịu nổi, từng món từng món y phục cởi cả ra sau cùng chỉ còn một chiếc quần, một chiếc áo cánh, lúc ấy mới không cởi tiếp, ngồi xuống xếp bằng, mắt nhìn mũi, mũi tập trung vào tâm, hết sức khắc chế không để cho ý niệm loạn động. Chàng ăn phải Mãng Cổ Chu Cáp vốn dĩ vạn độc không thể nào xâm nhập, nhưng trong thịt quay lại trộn với những loại thuốc không làm hại tính mạng con người, mà chỉ là xuân dược kích phát tình dục mà thôi. Tình dục trai gái vốn là bản tính trời sinh, thuốc khích dâm này chẳng qua chỉ để thúc đẩy cái tính tự nhiên của con người khiến cho người uống phải thấy thèm khát không sao chế ngự nổi. Còn chất kịch độc của Mãng Cổ Chu Cáp là lấy độc công độc, có thể trừ mọi loại độc dược nhưng xuân dược lại không phải thuốc độc nên Mãng Cổ Chu Cáp không có tác dụng gì.

Mộc Uyển Thanh cũng thấy trong lòng bồn chồn nóng nảy, đến sau không chịu nổi bèn cởi áo ngoài ra. Đoàn Dự kêu lên:

- Em không được cởi thêm nữa, dựa lưng vào tường cho hạ bớt xuống.

Hai người cùng ngồi dựa lưng vào vách đá, sau lưng tuy mát, nhưng trong ngực bụng tứ chi, đầu cổ chỗ nào cũng nóng bừng bừng. Đoàn Dự thấy hai má Mộc Uyển Thanh đỏ au, trông thật kiều diễm đáng yêu, đôi mắt long lanh hiển nhiên chỉ muốn nhảy vào lòng mình. Chàng nghĩ thầm: “Lúc này hai người mình quyết tâm chống lại dược tính nhưng sức người có hạn, nếu như mình giở trò loạn luân thì thanh danh họ Đoàn vứt đi hết, dù chết trăm lần cũng không chuộc được tội lỗi”. Chàng bèn nói:

- Em cho anh một mũi độc tiễn.

Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Để làm gì thế?

Đoàn Dự đáp:

- Ta ... ta nếu như không chống nổi với sức thuốc, thì một mũi tên tự kết liễu đời mình, khỏi làm hại đời em.

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Em không cho anh đâu.

Hai người có biết đâu thuốc độc trên mũi tên không làm hại được chàng. Đoàn Dự nói:

- Em hãy bằng lòng làm cho anh một việc.

Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Việc gì?

Đoàn Dự nói:

- Nếu như ta giơ tay ra đụng đến người cô thì cô bắn ta một mũi tên cho chết liền.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Em không bằng lòng đâu.

Đoàn Dự nói:

- Anh van em, bằng lòng đi. Thanh danh của họ Đoàn nước Đại Lý mấy trăm năm nay, không thể để hỏng trong tay anh. Nếu không khi anh chết đi rồi còn mặt mũi nào nhìn liệt tổ liệt tông?

Bỗng nghe từ ngoài thạch thất một giọng nói truyền vào:

- Họ Đoàn Đại Lý vốn dĩ có ra gì đâu, đến tay Đoàn Chính Minh, miệng nói nhân nghĩa đạo đức, nhưng trong lòng thì khác nào lang sói, có còn gì mà bảo là thanh danh?

Đoàn Dự nổi giận đáp:

- Ngươi là ai? Sao dám nói lếu láo.

Mộc Uyển Thanh nói nhỏ:

- Y chính là thanh bào quái nhân.

Chỉ nghe người áo xanh kia nói:

- Mộc cô nương, ta làm cho nàng rồi đó, biến ông anh trai thành đức ông chồng, việc cô đã nhờ đến ta là phải xong.

Mộc Uyển Thanh giận dữ nói:

- Ngươi hạ độc hại người, nào có liên quan gì đến việc ta nhờ cậy ngươi?

Người áo xanh nói:

- Trong bát thịt quay kia, ta đã trộn khá nhiều Âm Dương Hòa Hợp Tán, ai ăn phải rồi, nếu như không điều hòa âm dương, trai gái thành vợ thành chồng thì da thịt sẽ nứt ra, thất khổng ứa máu mà chết. Dược tính của hòa hợp tán kia, càng ngày càng ghê gớm, đến ngày thứ tám thì dù có là Đại La thiên tiên cũng không chịu nổi.

Đoàn Dự giận đữ nói:

- Ta với ngươi không thù không oán, sao lại dùng kế độc ác như thế để hại ta? Ngươi muốn ta sau này không còn mặt mũi nào nhìn ai, để bá phụ và phụ mẫu ta suốt đời nhục nhã, ta ... ta thà chết trăm lần, nhưng nhất quyết không làm trò loạn luân vô sỉ.

Người áo xanh nói:

- Ta với ngươi không oán không thù thật nhưng ta với bá phụ ngươi thì thù sâu như bể. Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần hai tên tiểu tử đó suốt đời nhục nhã không còn dám nhìn mặt ai thì thật tốt quá rồi còn gì. Hay lắm, hay lắm! Ha ha! Ha ha!

Miệng y không cử động được, giọng cười từ cổ họng thoát ra thật là cổ quái khó nghe.

Đoàn Dự còn đang toan cãi tiếp, liếc mắt nhìn thấy Mộc Uyển Thanh mặt như đóa hải đường mùa xuân mơn mởn, thân hình chẳng khác gì bông phù dung hé nhụy, tim đập thình thình, đến như chính mình cũng nghe được, đầu óc mơ hồ nghĩ thầm: “Uyển muội và ta vốn có ước định hôn nhân, nếu như không về Đại Lý, thì có ai biết đâu hai đứa lại là anh em cùng chung một bọc? Oan nghiệt kia đúng là trời xui đất khiến đời trước kết thành, với mình có liên quan gì đâu”.

Chàng nghĩ đến đó, chập choạng đứng lên, thấy Mộc Uyển Thanh cũng tựa tay vào tường, đang chầm chậm trỗi dậy, đột nhiên trong lòng như một ánh chớp lóe lên: “Không được, không được! Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, cái khác biệt giữa con người và cầm thú chỉ là một ý niệm mà thôi, nếu hôm nay ngươi sẩy chân rồi, không phải chỉ mình thân bại danh liệt, mà cả bá phụ và cha mẹ ngươi cũng bị vạ lây”.

Chàng bèn quát lớn:

- Uyển muội, ta là anh trai của nàng, cô là em gái của ta, biết chứ? Cô có biết Kinh Dịch không nào?

Mộc Uyển Thanh đang cơn mơ mơ màng màng, đột nhiên nghe chàng hỏi, liền đáp:

- Cái gì Dịch Kinh? Em không biết.

Đoàn Dự nói:

- Được, để ta dạy cho cô. Học Dịch Kinh rất là khó khăn, cô phải lắng tai nghe cho kỹ.

Mộc Uyển Thanh lạ lùng hỏi lại:

- Em học để làm gì?

Đoàn Dự đáp:

- Cô cứ học đi mai này có nhiều ích lợi lắm. Không chừng mình nhờ đó mà thoát được cảnh ngộ khó khăn.

Chàng biết rằng dục niệm của mình đang sôi sục, giữa người với thú chỉ là nghìn cân treo trên sợi tóc, nếu như Mộc Uyển Thanh sà vào lòng mình khêu gợi thì bờ đê chống giữ thể nào cũng lở nên chỉ có cách dạy cho nàng kinh Dịch, một người dạy, một người học, hai người chuyên chú, không nghĩ gì đến việc gái trai. Chàng nói:

- Cơ bản của Dịch Kinh là từ thái cực. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Em có biết hình vẽ bát quái như thế nào không?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Không biết, nghe chán quá mất thôi. Đoàn lang, chàng lại đây, em có chuyện muốn nói với chàng.

Đoàn Dự đáp:

- Ta là anh trai của cô, không được gọi ta là Đoàn lang mà phải gọi là đại ca. Để ta đọc ca quyết đồ hình bát quái cho cô nghe, cô cố mà ghi nhớ.

Quẻ Càn ba vạch liền ngang,

Quẻ Khôn đứt đoạn ba hàng sáu que.

Quẻ Chấn chén ngửa giống ghê,

Quẻ Cấn bát úp chớ hề nhớ sai.

Quẻ Ly ở giữa đứt đôi,

Quẻ Khảm chính giữa là nơi vạch liền.

Quẻ Đoài chia hai bên trên,

Quẻ Tốn dưới đứt còn nguyên phía ngoài.

Mộc Uyển Thanh theo đúng thế đọc lại một lượt, hỏi:

- Chén uống nước với bát ăn cơm là cái gì thế?

Đoàn Dự đáp:

- Đó là nói về hình dáng của quẻ. Còn như nghĩa lý bên trong bát quái, trời đất vạn vật cái gì cũng bao trùm cả, chẳng hạn như trong một nhà, Càn là cha, Khôn là mẹ, Chấn là con trai lớn, Tốn là con gái lớn ... hai đứa mình là anh em, ta là quẻ Chấn, còn cô là quẻ Tốn.

Mộc Uyển Thanh lại nhơn nhơn nói:

- Không phải, chàng là quẻ Càn, thiếp là quẻ Khôn, hai ngưới kết thành vợ chồng, sinh con đẻ cái, mới sinh ra quẻ Chấn, quẻ Tốn chứ ...

Đoàn Dự nghe nàng ăn nói lả lơi, không khỏi động lòng, kinh hãi nói:

- Cô chớ nên suy nghĩ lăng nhăng, nghe tiếp ta nói đây.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Chàng ... chàng ngồi cạnh bên em, em sẽ nghe chàng nói.

Chỉ nghe người áo xanh từ bên ngoài nói vọng vào:

- Hay lắm, hay lắm! Hai đứa ngươi thành đôi lứa rồi, sinh ra con cái lúc ấy ta sẽ thả cho ra. Ta sẽ không giết hai đứa bay mà lại truyền cho hai người một thân võ công để hai vợ chồng dọc ngang thiên hạ.

Đoàn Dự giận dữ đáp:

- Nếu đối đế lắm ta sẽ đập đầu vào tường mà chết, con cháu họ Đoàn Đại Lý, thà chết chứ không chịu nhục, ngươi mong dùng ta để báo thù thì đừng hòng.

Người áo xanh đáp:

- Ngươi chết hay sống thì ta cũng chẳng cần. Nếu hai đứa ngươi tìm đường chết, ta sẽ lột sạch quần áo không còn một mảnh vải che thân, viết rõ là cháu trai và cháu gái của Đoàn Chính Minh, con trai và con gái Đoàn Chính Thuần nước Đại Lý, hai đứa thông gian bị người ta bắt được nên xấu hổ tự sát. Ta sẽ đem xác hai đứa bay ra ướp muối, treo nơi thành Đại Lý ba ngày, sau đó đem đi Biện Lương, Lạc Dương, Lâm An, Quảng Châu các nơi cho mọi người đều biết.

Đoàn Dự giận quá, lớn tiếng quát:

- Họ Đoàn chúng ta có tội tình gì với ngươi mà ngươi trả thù độc ác đến thế?

Người áo xanh đáp:

- Việc của ta nói với bọn trẻ con chúng bay làm gì?

Đến đây không còn nghe gì thêm nữa. Đoàn Dự biết rằng còn nói chuyện với Mộc Uyển Thanh câu nào thì chỉ càng thêm nguy hiểm, ngồi quay vào vách ôn lại Lăng Ba Vi Bộ từng bước từng bước những chỗ phức tạp, mơ mơ màng màng hồi lâu đột nhiên nghĩ tới: “Thần tiên tỉ tỉ trong hang núi kia so với Uyển muội xinh đẹp gấp mười lần, nếu ta có lấy vợ, phải lấy được người như thần tiên tỉ tỉ mới khỏi uổng đời”. Trong cơn mê man Đoàn Dự quay đầu lại, thấy dung nhan trang sức của Mộc Uyển Thanh từ từ biến thành ngọc tượng trong thạch động, kêu lên:

- Thần tiên tỉ tỉ, ta thật khổ, nàng cứu ta với.

Chàng quì gục xuống đất, ôm chặt lấy chân Mộc Uyển Thanh. Ngay lúc đó bên ngoài có tiếng người gọi:

- Cơm chiều đây.

Y đưa vào khe hở một ngọn nến đỏ cười nói:

- Mau cầm lấy, đêm động phòng phải có hoa chúc chứ!

Đoàn Dự kinh hãi đứng phắt dậy, dưới ánh nến thấy Mộc Uyển Thanh sóng mắt đưa tình, xinh đẹp không sao tả hết. Chàng liền thổi tắt phụp ngọn nến quát lên:

- Trong cơm có chất độc, mau đem đi. Bọn ta không ăn đâu.

Người kia cười nói:

- Ngươi vốn trúng độc rồi, phân lượng đã đủ, cần gì phải thêm.

Y nói rồi đẩy cơm và đồ ăn vào. Đoàn Dự ngơ ngẩn cầm lấy đặt lên bàn, nghĩ thầm: “Người ta chết đi rồi muôn việc đều xong, chuyện thị phi trên đời còn nghĩ tới làm gì?” Nhưng chàng chợt nghĩ lại: “Cha mẹ và bá phụ cưng chiều ta biết là nhường nào, làm sao lại để cho họ Đoàn bị người đời cười chê cho được?”.

Đột nhiên Mộc Uyển Thanh nói:

- Đoàn lang, thiếp muốn dùng tên độc tự sát để khỏi làm hại đến chàng.

Đoàn Dự kêu lên:

- Khoan đã! Dẫu cho hai anh em mình cùng chết, tên vạn ác chi đồ kia cũng không buông tha. Người này âm hiểm độc địa, so với Diệp Nhị Nương giết trẻ con, Nam Hải Ngạc Thần vặn cổ người còn tệ hơn nhiều, không biết y là ai?

Chỉ nghe tiếng người áo xanh ở ngoài truyền vào:

- Tiểu tử quả có đôi chút hiểu biết. Lão phu chính là Ác Quán Mãn Doanh đứng đầu trong Tứ Đại Ác Nhân đây!

Sơn lâm uy chấn cõi ngoài,

Cung đình vương giả tranh tài hơn thua.

Hổ gầm tiếng vọng canh khuya,

Rồng thiêng giương vuốt dễ đùa được sao?

*

* *

Hoi 8a.

Thiện Xiển Hầu Cao Thăng Thái quay về noãn các trong phủ Trấn Nam Vương báo cáo, vợ chồng Chung Vạn Cừu và Tần Hồng Miên đi đã xa. Trấn Nam Vương phi Đao Bạch Phượng lo cho đứa con yêu liền hỏi:

- Tâu hoàng thượng, Vạn Kiếp Cốc ở đâu hoàng thượng đã biết chưa?

Bảo Định Đế Đoàn Chính Minh đáp:

- Cái tên Vạn Kiếp Cốc hôm nay ta nghe đến mới là lần đầu, nhưng chắc cũng không xa thành Đại Lý bao nhiêu.

Đao Bạch Phượng vội vàng nói:

- Nghe như Chung Vạn Cừu nói thì địa phương này rất là kín đáo, e rằng tìm được không phải dễ. Dự nhi nếu lọt vào tay kẻ địch lâu ngày ...

Bảo Định Đế mỉm cười nói:

- Dự nhi được nuông chiều đã quen không hiểu cái hiểm ác của người đời, nếu trải qua một ít gian nan, có dịp giũa mài, biết đâu lại chẳng có ích cho nó.

Đao Bạch Phượng trong bụng nóng như lửa đốt nhưng không dám nhiều lời. Bảo Định Đế quay sang Đoàn Chính Thuần:

- Thuần đệ, mau bày rượu thịt ra đây khao thưởng mọi người một phen khổ sở.

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Vâng!

Ông quay ra dặn dò, chỉ giây lát đã mang lên đủ mọi loại sơn trân hải vị. Bảo Định Đế ra lệnh cho tất cả mọi người cùng ngồi vào ăn uống chung.

Đại Lý là một nước nhỏ ở tận cùng phương nam, trong nước có rất nhiều sắc dân, người Hán chẳng có mấy, Trấn Nam Vương phi Đao Bạch Phượng là người Bãi Di, dân chúng chưa ảnh hưởng văn hóa Trung Nguyên bao nhiêu, triều nghi lễ pháp so với Đại Tống thì giản dị hơn nhiều. Bảo Định Đế tính tình từ hòa, trừ khi ở trong triều đình ra ngoài thường không thích đa lễ thành ra vợ chồng Đoàn Chính Thuần và Cao Thăng Thái đều ngồi ở hạ thủ để bồi tiếp.

Trong khi ăn uống, Bảo Định Đế tuyệt nhiên không đề cập gì đến mọi chuyện, Đao Bạch Phượng lông mày nhíu lại, ăn chẳng thấy ngon. Đến khi trời sáng, thị vệ ngoài cửa vào bẩm:

- Ba Tư Không tham kiến hoàng thượng.

Đoàn Chính Minh nói:

- Cho vào!

Rèm cửa vén lên, một người da đen nhẻm, vừa thấp bé vừa gầy guộc bước vào, khom lưng hành lễ với Bảo Định Đế, nói:

- Khải tấu hoàng thượng, Vạn Kiếp Cốc ở bên kia Thiện Nhân Độ, qua chiếc cầu treo là tới, cửa vào là một cái hốc ở một cây cổ thụ.

Đao Bạch Phượng vỗ tay reo lên:

- Ba Tư Không ra tay thì lẽ nào lại tìm không ra sào huyệt của địch? Nếu sớm biết thế ta đã không phải lo cả đêm.

Người da đen kia hơi cúi mình nói:

- Vương phi quá khen, Ba Thiên Thạch này không dám nhận.

Ba Thiên Thạch tuy hình dáng khó coi nhưng là một nhân vật cực kỳ tinh minh mẫn cán, lập được nhiều công lao hiện đang làm quan Tư Không ở Đại Lý. Tư Đồ, Tư Mã, Tư Không là Tam Công rất tôn vinh trong triều đình. Ba Thiên Thạch võ công trác tuyệt, có sở trường về khinh công, được Bảo Định Đế sai đi dò thám nơi chốn của kẻ địch, y bí mật theo dõi Chung Vạn Cừu, quả nhiên tìm ra được Vạn Kiếp Cốc.

Bảo Định Đế mỉm cười:

- Thiên Thạch, ngươi ngồi xuống ăn cho no rồi mình cùng lên đường.

Ba Thiên Thạch biết hoàng thượng không muốn người khác quỳ lạy, đối với bầy tôi chẳng khác gì anh em bạn bè, nếu người dưới quá ư cung kính, ông lại không vui, nên lập tức vâng một tiếng, bưng bát lên ăn ngay. Y không uống một giọt rượu nhưng ăn rất khỏe, chỉ chốc lát đã ăn hết tám bát cơm đầy. Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái biết y đã lâu nên không lấy gì đáng ngạc nhiên.

Ba Thiên Thạch ăn xong, đứng dậy, giơ tay áo chùi mồm, nói:

- Thần Ba Thiên Thạch dẫn đường.

Nói xong y liền đi trước. Bảo Định Đế, vợ chồng Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái một dọc đi theo. Ra khỏi phủ Trấn Nam Vương thấy Chử Cổ Phó Chu Tứ Đại Vệ Hộ đã dắt ngựa đứng chờ sẵn cùng mấy chục người tùy tùng mang binh khí cho Bảo Định Đế đứng phía sau.

Họ Đoàn là thế gia võ lâm Trung Nguyên chiếm được Đại Lý, mấy trăm năm nay vẫn không quên phong cách của ông cha. Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần tuy phú quí đến cực điểm nhưng vẫn thường ăn mặc như dân dã ra ngoài du ngoạn, gặp người trong võ lâm đến thăm viếng báo thù đều theo qui củ giang hồ mà tiếp đãi chứ không dùng nghi vệ hoàng đế. Cho nên lần này Bảo Định Đế ngự giá thân chinh, những người đi theo đều đã quen không ai lạ lùng gì. Từ Bảo Định Đế đổ xuống, ai nấy thay đồ thường phục, nếu không quen biết thì chỉ tưởng là một nhà phú hộ nào đó ra ngoài du ngoạn mà thôi.

Đao Bạch Phượng thấy trong đám tùy tòng của Ba Thiên Thạch có đến hai chục người mang theo búa lớn cưa dài, cười hỏi:

- Ba Tư Không, mình mang theo thợ mộc để cất nhà hay sao?

Ba Thiên Thạch đáp:

- Đễ cưa cây phá nhà.

Những con ngựa cưỡi toàn là tuấn mã, chạy như bay, chưa đến giờ ngọ đã đến khu rừng bên ngoài Vạn Kiếp Cốc. Ba Thiên Thạch chỉ huy bộ thuộc chặt hết những cây to chắn đường. Đến cốc khẩu, Bảo Định Đế chỉ vào tấm biển sơn “Ai họ Đoàn vào đây sẽ bị giết không tha” trên cây, cười nói:

- Chủ nhân của Vạn Kiếp Cốc này thù mình quá đỗi.

Đoàn Chính Thuần biết Chung Vạn Cừu sợ mình vào Vạn Kiếp Cốc thăm Cam Bảo Bảo, liếc mắt nhìn vợ, thấy bà ta cười khẩy.

Bốn người liền vác đại phủ tiến tới, chỉ chốc lát đã chặt ngã cái cây chu vi mấy người ôm kia. Ba Thiên Thạch dặn mọi người dắt ngựa đứng chờ ngoài cốc khẩu. Chử, Cổ, Phó, Chu Tứ Đại Vệ Hộ liền đi trước, kế đó là Ba Thiên Thạch và Cao Thăng Thái, sau đó là vợ chồng Trấn Nam Vương, Bảo Định Đế đi sau cùng. Vào trong Vạn Kiếp Cốc rồi, thấy bốn bề vắng lặng không một ai ra nghinh đón. Ba Thiên Thạch theo qui củ giang hồ, tay cầm danh thiếp hai anh em Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần, hăng hái tiến đến trước căn nhà, lớn tiếng nói:

- Anh em họ Đoàn nước Đại Lý đến xin được gặp Chung cốc chủ.

Nói chưa dứt câu, trong tùm cây phía trái đột nhiên nhảy xổ ra một người cao gầy, nhanh nhẹn lạ thường giơ tay chộp danh thiếp trên tay Ba Thiên Thạch. Ba Thiên Thạch lách qua ba bước, quát lên:

- Tôn giá là ai?

Người đó chính là Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc. Y chộp không trúng nhưng không bỏ cuộc lại xông về hướng Ba Thiên Thạch lần nữa. Ba Thiên Thạch thấy y lanh lẹ dị thường nên định bụng sẽ so tài khinh công lập tức chạy tới ba bước, Vân Trung Hạc cũng đuổi theo ba bước. Ba Thiên Thạch liền co giò chạy, Vân Trung Hạc cũng đuổi theo sau.

Một người cao, một người thấp chỉ chốc lát đã chạy quanh nhà ba vòng. Bước chân của Vân Trung Hạc rất xa, còn Ba Thiên Thạch lúc nhảy lúc chạy, nhún lên hụp xuống so với đối phương còn nhanh hơn nhiều, thành thử hai người lúc nào cũng cách nhau mấy thước. Vân Trung Hạc dĩ nhiên đuổi không kịp nhưng Ba Thiên Thạch thì chạy cũng không thoát. Hai người trước nay ai cũng cho rằng mình khinh công thiên hạ không ai bằng, bây giờ gặp được kình địch, trong bụng đều kinh hãi thầm. Hai người càng chạy càng nhanh, gió thốc vào quần áo nghe phần phật, tuy chỉ có hai người chạy đua nhưng ở bên ngoài nhìn vào tưởng chừng năm sáu người cùng đuổi theo nhau.

Càng về sau khoảng cách hai người càng xa, biến thành chạy vòng quanh nhà, không biết là Vân Trung Hạc đuổi theo Ba Thiên Thạch hay là Ba Thiên Thạch đuổi theo Vân Trung Hạc. Nếu Ba Thiên Thạch đuổi đến sau lưng Vân Trung Hạc thì cuộc tỉ thí khinh công này y đã thắng. Thế nhưng Vân Trung Hạc cũng hết sức chạy cho nhanh thành ra Ba Thiên Thạch lại xa y đến mấy trượng.

Chỉ nghe kẹt một tiếng, cánh cửa mở toang, Chung Vạn Cừu từ trong nhà bước ra. Ba Thiên Thạch vẫn không dừng chân, ám vận nội kình, tay phải liệng một cái, tờ danh thiếp tà tà bay về phía Chung Vạn Cừu.

Chung Vạn Cừu đưa tay đón lấy, giận dữ nói:

- Họ Đoàn kia, nếu như ngươi theo qui củ giang hồ đến bái sơn, sao lại hủy mất cửa vào sơn cốc của ta?

Chử Vạn Lý quát lớn:

- Hoàng thượng là bậc chí tôn, không lẽ chui vào cái hang chuột của nhà ngươi sao?

Đao Bạch Phượng khắc khoải lo cho con, nhịn không nổi lên tiếng hỏi:

- Con ta đâu? Các ngươi dấu nó ở chỗ nào?

Từ trong nhà nhảy ra một người đàn bà, giọng rít lên:

- Ngươi đến chậm một bước. Tiểu tử họ Đoàn bọn ta đã băm vằm mổ xẻ vứt cho chó ăn rồi.

Mụ ta hai tay cầm hai thanh đao, lưỡi đao mỏng như lá liễu, lấp lánh màu xanh, chính là Tu La Đao tẩm thuốc độc dính máu là chết. Hai người đàn bà này mười tám năm trước vì ghen mà thành ghét thù nhau cực sâu xa. Đao Bạch Phượng cũng biết lời của Tần Hồng Miên không phải thực nhưng nghe mụ ta rủa đứa con yêu của mình như thế, chuyện cũ chưa qua, chuyện mới đã tới cơn giận bùng lên, lạnh lùng nói:

- Ta hỏi là hỏi Chung cốc chủ, ai thèm nói chuyện với thứ đàn bà hư thân mất nết như ngươi cho bẩn mồm.

Chỉ nghe hai tiếng leng keng, song đao của Tần Hồng Miên nhắm ngay Đao Bạch Phượng cùng chém ra nhanh như gió cuốn. Đòn Thập Tự Khảm là tuyệt kỹ thành danh của bà ta, không biết bao nhiêu giang hồ hảo hán bỏ mạng vì độc chiêu Tu La Đao này, Đao Bạch Phượng vung phất trần lên gạt, thân hình nhích ra cán phất trần điểm luôn vào sau lưng kẻ địch.

Đoàn Chính Thuần thật xấu hổ, một người là vợ yêu, một người là tình cũ, với Đao Bạch Phượng thật là sâu đậm, còn đối với Tần Hồng Miên thì cũng khó quên, nay thấy hai người vừa ra tay đã dùng ngay sát thủ, quyết sống mái, dù ai bị thương thì ông cũng một đời mang hận, bèn quát lên:

- Khoan hãy động thủ.

Ông nghiêng người tiến tới, rút phắt trường kiếm toan gạt binh khí của hai người ra.

Chung Vạn Cừu vừa nhìn thấy Đoàn Chính Thuần thì đã điên tiết, loảng xoảng một tiếng, rút ngay Đại Hoàn Đao vung lên chém xuống đầu tình địch. Chử Vạn Lý nói:

- Không cần vương gia phải ra tay, để tiểu nhân thanh toán y được rồi.

Chiếc cần sắt của y vung ra, quật xuống đầu Chung Vạn Cừu. Chiếc cần của y vốn đã bị Diệp Nhị Nương bẻ gãy rồi, đây là chiếc mới y vừa đúc. Chung Vạn Cừu chửi:

- Ta biết ngay họ Đoàn nhà chúng bay chỉ giỏi tài lấy thịt đè người.

Đoàn Chính Thuần cười nói:

- Vạn Lý lui ra, ta đang muốn xem võ công Chung cốc chủ đến cỡ nào.

Ông giơ kiếm lên, gạt chiếc cần sắt của Chử Vạn Lý ra, thuận thế phất xuống sống thanh Đại Hoàn Đao rồi hớt lên mấy ngón tay Chung Vạn Cừu. Ba thức gạt ra, phất xuống rồi hớt lên liền lạc với nhau không cần khoảng cách nào để biến chiêu khiến Chung Vạn Cừu kinh hãi nghĩ thầm: “Tên giặc họ Đoàn này kiếm pháp ghê gớm thật”. Y vội vàng nén cơn giận, vung ngang thanh đao bảo vệ trước ngực, không dám coi thường cường địch chút nào.

Đoàn Chính Thuần giơ kiếm lên đâm tới, Chung Vạn Cừu thấy thế kiếm lợi hại, không dám đỡ vội vàng nhảy lùi lại ba bước. Đoàn Chính Thuần chỉ mong y không dám đấu dây dưa, lập tức vọt qua chỗ Đao Bạch Phượng và Tần Hồng Miên, thấy đao pháp Tần Hồng Miên xem ra núng thế bị Đao Bạch Phượng từng bước ép phải lùi. Bỗng nghe soẹt soẹt soẹt ba tiếng, Tần Hồng Miên đã bắn ra ba mũi tên độc, những mũi tên đó cùng một hình dạng với độc tiễn của Mộc Uyển Thanh nhưng thủ pháp cao minh hơn nhiều, chia ra trái phải giữa khiến đối phương khó mà tránh né.

Đao Bạch Phượng tung mình nhảy lên cao, ba mũi tên bay vọt dưới chân, ngờ đâu khi thân hình bà ta còn đang lơ lửng trên không, lại có ba mũi tên khác bắn tới. Mũi tên thứ nhất bắn vào dưới bụng, mũi tên thứ hai bắn vào chân còn mũi tên thứ ba bắn vào dưới bàn chân. Đao Bạch Phượng không còn cách nào nhảy lên được nữa, vội vung phất trần ra đỡ, cuốn được mũi tên thứ nhất, thân hình liền rơi xuống, xem ra mũi tên thứ hai và thứ ba bắn vào bụng và ngực không sao có thể tránh né hay đỡ gạt. Đột nhiên một lằn ánh sáng lấp lánh, một thanh trường kiếm từ dưới gạt lên, chặt hai mũi tên đó thành bốn mảnh chính là Đoàn Chính Thuần nhảy tới chặn ngay trước mặt Đao Bạch Phượng,. Ví thử ông ta ra chiêu kém chính xác không chém đứt được hai mũi tên thì những mũi tên đó đã ghim vào người ông ta rồi.

Biến cố đó khiền cả Đao Bạch Phượng lẫn Tần Hồng Miên đều mặt xanh như tàu lá, tim đập thình thình. Đao Bạch Phượng kêu lên:

- Tôi không cần ông phải giúp tôi.

Bà lạng người vọt ra trước mặt trượng phu, múa phất trần đánh với Tần Hồng Miên lần nữa. Bà hận Tần Hồng Miên ra tay độc ác, chiêu số phất trần thật nhanh, quét xéo đâm thẳng, khiến đối phương không hở tay để có dịp bắn tên độc. Còn Tần Hồng Miên mới rồi bắn tên suýt nữa thì trúng phải Đoàn Chính Thuần, thấy ông ta liều mạng ra tay cứu vợ, thiên vị quá đỗi, vừa hoảng hốt lại vừa đau lòng thành thử không chống đỡ nổi phất trần của đối phương.

Đao Bạch Phượng sử dụng chiêu Phượng Thê Ư Ngô đánh thẳng xuống đầu kẻ địch, Tần Hồng Miên vội tránh qua bên phải ngờ đâu tả chưởng của Đao Bạch Phượng cùng đánh ra, xem chừng sẽ trúng ngực Tần Hồng Miên thể nào cũng phải hộc máu. Bàn tay còn cách ngực Tần Hồng Miên chừng nửa thước ngờ đâu có một bàn tay đàn ông gạt ra ngoài, chính là Đoàn Chính Thuần cứu người tình cũ, nói:

- Phượng Hoàng Nhi, chớ có như thế.

Tần Hồng Miên ngỡ ngàng, giận dữ nói:

- Cái gì mà phượng với chả công, gọi nhau thân mật nhỉ?

Đao bên trái của bà ta liền chém xuống vai Đoàn Chính Thuần. Đao Bạch Phượng cũng đang bực chồng ra tay cứu tình nhân, gạt tay mình ra nên cũng múa phất trần đánh luôn vào mặt ông ta.

Hai người đàn bà cùng tấn công Đoàn Chính Thuần nhưng lại cũng cùng thấy đối phương ra tay nên cùng kêu lên:

- Ối chao!

Ai cũng muốn ra tay bảo vệ cho lang quân. Phất trần của Đao Bạch Phượng chuyển hướng quay sang gạt thanh Tu La Đao, còn Tần Hồng Miên thì phóng một ngọn cước vào người Đao Bạch Phượng cốt để bà ta rút phất trần về.

Đoàn Chính Thuần nghiêng người né tránh, nghe bình một tiếng, cước của Tần Hồng Miên đã đá trúng mông ông ta. Đao Bạch Phượng hậm hực quát lên:

- Sao ngươi dám đá chồng ta?

Tần Hồng Miên nói:

- Đoàn lang, thiếp không cố ý, chàng ... chàng có đau không?

Đoàn Chính Thuần giả vờ nhăn nhó, kêu lên:

- Đau quá, đau quá, đau đến chết mất.

Nói xong giả vờ ngồi thụp xuống. Chung Vạn Cừu thấy cơ hội, giơ đao lên chém xuống đầu Đoàn Chính Thuần, Đao Bạch Phượng kêu lên:

- Ngừng tay!

Tần Hồng Miên cũng kêu lên:

- Đánh hắn.

Cả Tu La Đao lẫn phất trần cùng quay sang tấn công Chung Vạn Cừu. Chung Vạn Cừu đành phải thu đao hộ thân, kêu lên:

- Tên giặc thối tha họ Đoàn kia, cái đồ mặt thớt phải để cho đàn bà ra tay cứu, còn gì là hảo hán?

Đoàn Chính Thuần cười ha hả, từ đất nhảy lên, soẹt soẹt soẹt ba chiêu kiếm ép cho Chung Vạn Cừu phải lùi lại. Tần Hồng Miên ngạc nhiên giận dữ nói:

- Hóa ra ông không bị thương, chỉ giả vờ.

Đao Bạch Phượng cũng tiếp lời:

- Cái đồ này chỉ chuyên đi lừa người ta, còn ai mà chẳng biết.

Tần Hồng Miên quát lớn:

- Xem đao đây.

Đao Bạch Phượng cũng kêu:

- Đánh cho lão một trận.

Thế là hai người đàn bà liền liên thủ xông vào tấn công Đoàn Chính Thuần. Bảo Định Đế thấy em trai dây dưa mãi với hai người đàn bà, lắc đầu cười thầm, quay sang nói với Chử Vạn Lý:

- Các ngươi đi tra xét xem sao.

Chử Vạn Lý đáp:

- Tuân lệnh.

Chử, Cổ, Phó, Chu bốn người liền chạy đến cửa vào nhà, Cổ Đốc Thành chân vừa đạp vào ngạch cửa đột nhiên cảm thấy gió lạnh trên đầu ập xuống. Chân trái y mới để hờ lên thềm, chân phải vội búng một cái lập tức nhảy vọt trở ra, thấy một thanh đao vừa rộng vừa mỏng chém vụt xuống, chỉ cách mặt chừng vài tấc, nếu như chậm một chút dù đầu không bị xẻ làm đôi, thì ít ra cũng vẹt mất mũi. Cổ Đốc Thành lưng toát mồ hôi lạnh, nhìn lại người vừa ra tay ám toán mình là một thiếu phụ trung niên, mặt mũi xinh xắn, chính là Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương. Thanh bạc đao của bà ta hình vuông, mỏng dính, bốn bề đều sắc, tay cầm chỉ là một cái cán ngắn, vừa múa lên đã thành một vòng tròn sáng choang.

Cổ Đốc Thành sau cơn hoảng vía định thần lại, quát lên một tiếng vung búa lên chém xuống thanh bạc đao, Diệp Nhị Nương vội vàng múa tít không để cho chạm vào món binh khí nặng nề ấy. Cổ Đốc Thành sử dụng bảy mươi hai đường Loạn Phi Phong phủ pháp, hai búa hai nơi chém trên chém dưới.

Diệp Nhị Nương giở trò pháp thuật miệng lẩm bẩm mấy câu thần chú. Chu Đan Thần thấy mụ ta đánh như trò chơi nhưng đao pháp thật là ngụy bí khó mà lường được sợ rằng để lâu, Cổ Đốc Thành sẽ không chống nổi bèn múa phán quan song bút xông vào tiếp tay.

Lúc đó Ba Thiên Thạch và Vân Trung Hạc hai người vẫn đang đuổi nhau, hai người khinh công hơn kém ai cũng biết rằng không phải chỉ một lúc mà biết được. Ba Thiên Thạch chạy được trên trăm vòng rồi, thấy Vân Trung Hạc công phu hạ bàn nhẹ nhàng có thừa nhưng không đủ vững chãi, không được như mình mỗi lần nhún chân đều còn để lại dư lực phòng hờ chỉ cần đứng lại tấn công y ba chưởng là y sẽ chịu không nổi. Thế nhưng Ba Thiên Thạch nhất định muốn cùng y tỉ thí khinh công xem ai hơn, không muốn dùng quyền cước mà thủ thắng nên cứ tiếp tục chạy vèo vèo.

Bỗng nghe tiếng người ồm ồm chửi:

- Tiên sư mẹ chúng mày làm bố mất ngủ, đứa chó nào tới đây phá rối thế?

Nam Hải Ngạc Thần tay cầm ngạc chủy tiễn ở đâu huỳnh huỵch chạy ra. Phó Tư Qui quát lại:

- Thì bố của sư phụ ngươi tới chứ còn ai!

Nam Hải Ngạc Thần quát lên:

- Cái gì mà bố của sư phụ ta?

Phó Tư Qui chỉ vào Đoàn Chính Thuần nói:

- Trấn Nam Vương là cha của Đoàn công tử, Đoàn công tử là sư phụ của ngươi, bộ tính đánh nước bài bây hả?

Nam Hải Ngạc Thần tuy chuyện ác đã nhiều nhưng cũng còn được một điều tốt là đã nói thì làm nên vừa nghe thế, giân đến mặt vàng ệch nhưng không dám công nhiên chối bèn quát lên:

- Ta bái sư là chuyện của ta liên quan đếch gì đến thằng con rùa đen kia?

Phó Tư Qui cười:

- Ta có phải con ngươi đâu mà bảo ta là thằng con rùa đen?

Nam Hải Ngạc Thần ngơ ngẩn, nghĩ một lúc mới biết là y nói bóng gió chửi mình là đồ ô qui. Nghĩ ra được rồi, y gầm lên, soẹt soẹt soẹt chém luôn ba nhát ngạc chủy tiễn. Gã tuy đầu óc chậm lụt nhưng võ công không đến nỗi tệ, những răng nhọn trên thanh ngạc chủy tiễn chẳng khác gì những móc trên lang nha bổng. Phó Tư Qui giơ thanh thục đồng côn đánh luôn ba chiêu, thấy chối cả tay, Chử Vạn Lý vội vàng vung cần lên, sợi dây tơ liền vụt ra chẳng khác gì nhuyễn tiên quất vào mặt Nam Hải Ngạc Thần, Nam Hải Ngạc Thần đưa ngạc chủy tiễn gạt ra được.

Bảo Định Đế nhìn cuộc thế thấy bên mình không ai có gì nguy hiểm nói với Cao Thăng Thái:

- Ngươi đứng đây lược trận.

Cao Thăng Thái đáp:

- Vâng!

Y chắp tay sau lưng đứng một bên coi sóc. Bảo Định Đế đi vào trong nhà, gọi:

- Dự nhi, cháu có ở đây không?

Ông không nghe tiếng đáp lại, đẩy cửa vào sương phòng bên trái, lại gọi nữa:

- Dự nhi! Dự nhi!

Chỉ thấy một cô gái chừng mười lăm, mười sáu từ sau cánh cửa bước ra, mặt ngơ ngác, hỏi lại:

- Ông ... ông là ai?

Bảo Định Đế đáp:

- Đoàn công tử ở đâu?

Thiếu nữ đáp:

- Ông kiếm Đoàn công tử làm chi?

Bảo Định Đế đáp:

- Ta muốn cứu y ra.

Cô gái lắc đầu:

- Ông không cứu nổi đâu. Đoàn công tử bị người ta lấy đá lớn nhốt trong thạch thất, bên ngoài lại có người canh.

Bảo Định Đế nói:

- Cô đưa ta tới, ta sẽ đánh ngã người canh gác, đẩy đá cứu y ra ngoài.

Thiếu nữ lại lắc đầu:

- Không được. Nếu tôi đưa ông tới, cha tôi giết tôi mất.

Bảo Định Đế hỏi:

- Thế cha cô là ai?

Cô gái đáp:

- Tôi họ Chung, cha tôi là chủ nhân của sơn cốc này.

Cô gái đó chính là Chung Linh mới trốn được từ núi Vô Lượng trở về đây. Bảo Định Đế gật gù, nghĩ thầm đối với một cô gái nhỏ tuổi như thế này, dù là dùng lời dụ dỗ hay dùng võ lực uy hiếp đều không khỏi thất giảm thân phận, nếu như Đoàn Dự có ở trong sơn cốc này, sớm muộn gì mình cũng tìm ra nên đi ra khỏi căn nhà để tìm người dẫn đường.

*

* *

Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh ở trong thạch thất nghe thấy người áo xanh ở bên ngoài tự xưng là thiên hạ đệ nhất ác nhân Ác Quán Mãn Doanh thì hết sức kinh hoàng, hai người nép lại bên nhau. Đoàn Dự nói nhỏ:

- Thì ra mình rơi vào tay kẻ ác nhất thiên hạ, thật hết nước nói.

Mộc Uyển Thanh ứ ự một tiếng dụi đầu vào lòng chàng. Đoàn Dự giơ tay vuốt ve tóc nàng, an ủi:

- Đừng sợ.

Áo hai người đẫm mồ hôi chẳng khác gì vừa ở dưới nước trồi lên còn toàn thân thì nóng như lửa, hơi bốc lên phà vào mũi lại càng thêm kích thích. Một người thì là trai mới lớn huyết khí phương cương, một người thì gái đương tơ ái tình nồng cháy, dẫu không uống phải xuân dược cũng chịu không nổi, huống chi Âm Dương Hòa Hợp Tán bá đạo vô cùng, trai chính trực cũng thành kẻ trăng hoa, gái đoan trang cũng thành đứa lăng loàn, tâm thần một khi mờ ám rồi thì thánh hiền cũng ra loài cầm thú.

Giờ đây chỉ còn trông chờ Đoàn Dự một điểm thiên lương, chăm chăm không quên cái thanh danh của họ Đoàn mà miễn cưỡng khắc chế. Người áo xanh cực kỳ đắc ý, cất tiếng cười quái đản nói:

- Hai anh em chúng bay mau làm cho xong việc đi, sinh con đẻ cái sớm một ngày thì ra khỏi lao lung sớm một ngày. Ta đi đây!

Nói xong y vượt qua bức tường cây đi mất. Đoàn Dự kêu lớn:

- Nhạc lão tam, Nhạc lão nhị! Sư phụ ngươi mắc nạn, mau đến cứu ta ra.

Chàng gọi đến khản cổ nhưng nào thấy ai trả lời? Đoàn Dự nghĩ thầm: “Trong lúc nguy cấp này thôi đành bái y làm thầy, biết làm sao? Chọn lầm thầy bất quá chỉ là chuyện một mình ta chịu khỏi phải liên lụy đến bá phụ và gia gia”. Nghĩ như thế chàng lại gào lên:

- Nam Hải Ngạc Thần, ta cam tâm bái ngươi làm thầy, tình nguyện làm kẻ truyền nhân của phái Nam Hải, ngươi mau đến cứu đồ đệ đi thôi. Nếu không ta chết đi thì ngươi không có đệ tử nữa đó.

Chàng kêu réo om sòm một hồi lâu vẫn không nghe tiếng Nam Hải Ngạc Thần đáp lại, chợt nghĩ ra: “Chao ôi hỏng rồi! Nam Hải Ngạc Thần sợ nhất là lão đại Ác Quán Mãn Doanh, dù y có nghe ta gọi chăng nữa cũng chẳng dám tới cứu”. Chàng càng thấy trong lòng bối rối.

Mộc Uyển Thanh đột nhiên nói:

- Đoàn lang, chàng với thiếp thành hôn rồi, đứa con đầu của chúng mình, chàng thích con trai hay con gái?

Đoàn Dự mơ mơ màng màng đáp lại:

- Con trai!

Đột nhiên ở bên ngoài thạch thất có tiếng một thiếu nữ vọng vào:

- Đoàn công tử, công tử là anh của cô ta, không thể nào lấy nhau được.

Đoàn Dự ngạc nhiên, hỏi lại:

- Cô ... cô có phải Chung cô nương đó không?

Cô gái đó chính là Chung Linh, nàng nói:

- Chính em đây, em nghe lén người áo xanh nói nên đang tìm cách cứu anh và Mộc tỉ tỉ ra.

Đoàn Dự mừng lắm nói:

- Thế thì hay quá, cô mau mau đi kiếm thuốc giải độc dược cho ta đi.

Mộc Uyển Thanh giận dữ nói:

- Con tiểu quỉ Chung Linh kia, mau mau cút đi, ai cần ngươi cứu?

Chung Linh đáp:

- Để em tìm cách đẩy tảng đá cứu hai người ra trước đã.

Đoàn Dự vội nói:

- Chớ, chớ, cô mau mau đi ăn trộm thuốc giải, ta ... ta chịu không nổi nữa rồi, mau ... mau không thì chết mất.

Chung Linh kinh ngạc hỏi lại:

- Anh chịu không nổi cái gì? Đau bụng hả?

Đoàn Dự đáp:

- Không phải đau bụng.

Chung Linh lại hỏi:

- Hay là nhức đầu?

Đoàn Dự đáp:

- Cũng không phải nhức đầu.

C hỏi thêm:

- Thế nơi nào trên người khó chịu?

Đoàn Dự đang cơn tình dục nổi lên, làm sao nói cho một cô gái nhỏ hiểu được? Chàng đành nói:

- Ta khắp người chỗ nào cũng khó chịu, cô cứ đi trộm thuốc giải là được.

Chung Linh nhíu mày nói:

- Anh không nói bệnh trạng làm sao em biết đường đâu mà mò để kiếm thuốc giải. Cha em có nhiều loại thuốc giải lắm nhưng phải biết anh bị đau bụng, nhức đầu hay đau tim thì mới lấy được.

Đoàn Dự thở dài:

- Ta không đau gì cả, chỉ có ... chỉ có uống phải thứ thuốc độc tên là Âm Dương Hòa Hợp Tán mà thôi.

Chung Linh vỗ tay reo lên:

- Em biết được tên thuốc độc thì dễ lắm. Đoàn đại ca, để em đi kiếm cha em hỏi thuốc giải.

Nàng lật đật trèo qua bức tường cây đi kiếm phụ thân để hỏi thuốc giải Âm Dương Hòa Hợp Tán. Âm Dương Hòa Hợp Tán là thuốc của người áo xanh nhưng Chung Vạn Cừu vừa nghe tên biết ngay là loại gì, khuôn mặt ngựa xụ xuống mắng con:

- Đồ nhãi ranh, đến hỏi ấm ớ cái gì? Chỉ được cái lếu láo, ta lại nắm tai đánh cho một trận bây giờ.

Chung Linh hốt hoảng nói:

- Không phải lếu láo đâu ...

Ngay khi đó, Bảo Định Đế và tùy tùng đã tấn công vào Vạn Kiếp Cốc, Chung Vạn Cừu vội vàng chạy ra ứng chiến, bỏ mặc Chung Linh ở trong phòng. Nàng nghe thấy ở bên ngoài tiếng binh khí chạm nhau, hai bên đấu đến hồi kịch liệt nhưng chẳng thèm để ý, vẫn tiếp tục ở trong phòng thuốc của phụ thân lục lọi. Mấy trăm bình thuốc của Chung Vạn Cừu đều có ghi rõ tên nhưng kiếm mãi không ra thuốc giải của Âm Dương Hòa Hợp Tán. Nàng còn đang phân vân chưa biết tính sao bỗng nghe có người vào phòng, vội đi ra xem liền gặp phải Bảo Định Đế.

Bảo Định Đế chưa tìm ra ai dẫn đường bỗng nghe đằng sau có tiếng chân người, quay lại thì ra Chung Linh chạy tới, vội đứng lại chờ. Chung Linh dến gần nói:

- Tôi không kiếm được thuốc giải, thôi dẫn ông đến đó vậy. Chẳng hiểu ông có đẩy nổi tảng đá lớn đó không.

Bảo Định Đế mừng quá hỏi lại:

- Giải dược gì? Tảng đá nào vậy?

Chung Linh đáp:

- Ông đi theo tôi, nhìn là biết ngay.

Đường trong Vạn Kiếp Cốc tuy loằng ngoằng thật nhưng có Chung Linh dẫn lộ, chỉ một lát là tới ngay. Bảo Định Đế cầm tay Chung Linh, không nhún chân đột nhiên vọt lên nhẹ nhàng đáp xuống bức tường cây. Chung Linh vỗ tay reo lên:

- Hay thật, hay thật! Tưởng chừng như ông biết bay. Ối chao, không xong rồi.

Đã thấy ngoài thạch thất có một người ngồi đó, chính là quái khách áo xanh. Chung Linh rất sợ con người sống dở chết dở này, nói nhỏ:

- Thôi mình ra đằng khác, đợi cho người đó đi rồi quay lại sau.

Bảo Định Đế thấy người áo xanh không đến nỗi gì quái dị lắm, vội an ủi cô gái:

- Có ta ở đây, cô không việc gì phải sợ. Đoàn Dự ở trong căn nhà đó, có đúng không?

Chung Linh gật đầu, nép vào sau lưng ông. Bảo Định Đế chậm rãi bước tới, nói:

- Xin tôn giá tránh ra một bước.

Người áo xanh như không nghe không thấy, vẫn ngồi yên không cử động. Bảo Định Đế nói:

- Nếu như tôn giá không chịu nhường đường, tại hạ có vô lễ cũng đừng trách.

Ông lách qua người áo xanh giơ chưởng phải lên để vào tảng đá, đang định vận kình đẩy, bỗng từ dưới tay người áo xanh thò ra một cây thiết trượng nhỏ, điểm vào huyệt Khuyết Bồn. Cây gậy sắt đến còn cách ông ta chừng một trượng bỗng ngừng lại, không ngớt rung động, nếu Bảo Định Đế tiếp tục sử kình thì thiết trượng sẽ đâm tới ngay, không còn đường nào tránh né. Bảo Định Đế trong bụng hơi bàng hoàng: “Người này công phu điểm huyệt thật là cao minh, vậy là ai đây?”. Tay phải hơi giơ lên đánh luôn vào cây gậy đồng thời bàn tay trái lòn xuống dưới đặt luôn lên tảng đá. Người áo xanh lập tức nhích cây gậy sang chỉ vào huyệt Thiên Trì. Bảo Định Đế liên tiếp đánh ra như gió biến đổi bảy phương vị liền nhưng cây gậy sắt của người áo xanh cũng liên tiếp hư điểm các nơi huyệt đạo, chế ngự cuộc thế.

Hai người liên tiếp biến chiêu, công phu nhận huyệt của người áo xanh thật chuẩn xác khiến cho Bảo Định Đế không cách nào có thể vận kình đẩy tảng đá. Ông thấy y với mình cũng tám lạng nửa cân, xem ra còn hơn em mình là Đoàn Chính Thuần một mức. Tả chưởng ông đánh xéo ra, đột nhiên từ chưởng biến thành chỉ, nghe sùy một tiếng, sử dụng Nhất Dương Chỉ điểm vào thiết trượng, nếu như điểm thực cây gậy thể nào cũng cong lại. Ngờ đâu cây gậy sắt củng sùy một tiếng điểm trở ra, hai luồng lực đạo trên không đụng vào nhau, Bảo Định Đế phải lùi một bước, còn thân hình người áo xanh cũng lảo đảo.

Trên mặt Bảo Định Đế ánh lên sắc hồng còn người áo xanh thoánh hiện một màu xanh nhưng hai người vừa bừng lên là biến đi ngay. Bảo Định Đế lạ lùng, nghĩ thầm: “Võ công người này không những cực kỳ cao cường, nhưng xem ra với ta có chút uyên nguyên. Trượng pháp của y với Nhất Dương Chỉ rõ ràng có liên quan”.

Ông liền chắp tay nói:

- Tôn tính đại danh tiền bối là gì, làm ơn cho biết.

Chỉ nghe một thanh âm vọng lên:

- Nhà ngươi là Đoàn Chính Minh hay là Đoàn Chính Thuần?

Bảo Định Đế thấy y không mấp máy môi chút nào, vậy mà vẫn nói chuyện được, càng thêm ngạc nhiên, nói:

- Tại hạ là Đoàn Chính Minh.

Người áo xanh hừ một tiếng nói:

- Thì ra ngươi là đương kim Bảo Định Đế nước Đại Lý?

Bảo Định Đế đáp:

- Chính thị.

Người áo xanh hỏi:

- Võ công ngươi so với ta, ai hơn ai kém?

Bảo Định Đế trầm ngâm giây lát đáp:

- Võ công tiền bối có hơn chút đỉnh nhưng nếu thực sự động thủ thì ta sẽ thắng.

Người áo xanh nói:

- Đúng vậy, ta dẫu sao cũng bị thiệt thòi là thân thể tàn phế. Ôi, có ngờ đâu ngươi ở ngôi vị cao như thế nhưng trong bao nhiêu năm nay vẫn không chểnh mảng việc luyện công.

Tuy thanh âm y phát xuất từ trong bụng nghe quái lạ nhưng nghe ngữ âm vẫn đầy vẻ tiếc nuối và thất vọng. Bảo Định Đế không đoán được lai lịch của y, trong bụng nảy ra bao nhiêu mối nghi ngờ. Bỗng từ trong thạch thất truyền ra tiếng gào thét nóng nảy, chính là của Đoàn Dự. Bảo Định Đế kêu lên:

- Dự nhi, cháu đấy ư? Không việc gì phải hoảng hốt, ta đến cứu cháu đây.

Chung Linh cũng kinh hãi kêu lên:

- Đoàn công tử! Đoàn công tử!

Thì ra Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh bị xuân dược thôi thúc mãnh liệt, càng lúc càng khó mà kháng cự lại được tình dục. Về sau Mộc Uyển Thanh thần trí mơ hồ, quên mất Đoàn Dự là anh của mình, luôn mồm gọi:

- Đoàn lang, ôm em đi, ôm chặt lấy em đi!

Nàng là gái còn tân, việc trai gái chưa từng biết đến, chỉ thấy người nóng như thiêu không chịu nổi, chỉ muốn Đoàn Dự ôm lấy mình cho hạ xuống nên xông vào chộp lấy chàng. Đoàn Dự kêu lên:

- Không được đâu!

Chàng lách người tránh ra, chân tự nhiên sử dụng Lăng Ba Vi Bộ. Mộc Uyển Thanh vồ không trúng, ngã lăn lên giường ngất đi. Đoàn Dự liên tiếp đi thêm mấy bước, nội tức trong người thuận theo kinh mạch mà vận hành, càng chạy càng nhanh khiến cho mỗi lúc càng thêm ngộp thở, tưởng như không hút nổi khí trời nữa nên nhịn không nổi phải rống lên một tiếng. Nhờ tiếng gào đó mà ngực thấy dễ thở hơn, nên chàng cứ đi vài bước lại hét lên một tiếng, ý niệm tình dục cũng vì thế mà giảm dần nhưng những câu đối đáp của Bảo Định Đế với người áo xanh cũng như tiếng gọi của bá phụ chàng lọt vào tai mà không nghe gì cả.

Người áo xanh nói:

- Tên tiểu tử này định lực giỏi thật, uống phải Âm Dương Hòa Hợp Tán của ta rồi, vậy mà còn giữ được tới giờ phút này.

Bảo Định Đế kinh hãi, hỏi lại:

- Thứ độc dược đó là gì thế?

Người áo xanh đáp:

- Không phải độc dược, chỉ là một loại xuân dược cực mạnh thôi.

Bảo Định Đế hỏi:

- Ngươi cho y uống loại thuốc đó là có ý gì?

Người áo xanh đáp:

- Trong thạch thất còn có một người nữa, chính là em gái nó.

Bảo Định Đế vừa nghe qua biết ngay âm mưu độc kế của người nọ. Ông tu dưỡng đã cao nhưng nghe thế không khỏi nổi cơn thịnh nộ, tay áo liền vung lên, nghe soẹt một tiếng đã phóng ra một chỉ. Người áo xanh giơ trượng lên gạt ra, chỉ thứ hai của Bảo Định Đế đã tung ra nhắm ngay vào huyệt Thất Đột dưới yết hầu, là một huyệt chí mạng liệu rằng y sẽ phải giở toàn lực ra chống đỡ.

Ngờ đâu người áo xanh chỉ cười ha ha, không tránh né cũng chẳng chống đỡ. Bảo Định Đế thấy y không chống trả, cũng không tránh né, trong bụng nghi ngờ, lập tức thu chỉ hỏi:

- Sao ngươi lại chịu chết là sao?

Người áo xanh đáp:

- Ta chết dưới tay ngươi thì thật tốt quá, tội nghiệt nhà ngươi càng dầy thêm một tầng.

Bảo Định Đế hỏi lại:

- Ngươi thực sự là ai vậy?

Người áo xanh hạ giọng nói nhỏ một câu gì đó. Bảo Định Đế nghe qua, sắc mặt lập tức biến đổi nói:

- Ta không tin.

Người áo xanh đưa cây gậy từ tay phải sang tay trái, ngón tay trỏ bên phải sùy một tiếng, điểm về phía Bảo Định Đế. Bảo Định Đế nghiêng người tránh qua, trả lại một chỉ. Người áo xanh ngón tay giữa búng ra, Bảo Định Đế mặt mày trịnh trọng cũng lấy ngón giữa đáp lễ. Chiêu thứ ba của người áo xanh dùng ngón tay vô danh quét ngang, còn chiêu thứ tư dùng ngón út khẩy nhẹ. Bảo Định Đế từng chiêu từng chiêu đáp lại.

Đến chiêu thứ năm, người áo xanh lấy ngón tay cái miết xuống, trong năm ngón ngón tay cái ngắn nhất, cũng chậm chạp không linh hoạt nhưng lực đạo lại mạnh nhất, Bảo Định Đế không dám coi thường cũng giơ ngón cái của mình lên bật qua đối phương.

Chung Linh đứng bên cạnh coi thấy lạ lùng, quên cả sợ hãi người áo xanh, cười nói:

- Hai người đang đánh đố tay chăng? Bên này giơ một ngón, bên kia giơ một ngón xem ai thắng chứ gì?

Nàng vừa nói vừa đi tới gần. Bỗng đâu một luồng kình phong lặng lẽ xô tới, Chung Linh còn đang ngạc nhiên, vai trái đau nhói lên tưởng như muốn ngất đi. Bảo Định Đế hất tay về sau nhẹ nhàng đẩy nàng ra ngoài, tiếp đó nhảy lùi về sau đỡ lấy nàng nói:

- Đứng yên đừng cử động.

Chung Linh sững sờ hỏi:

- Ông ta ... ông ta định giết tôi ư?

Bảo Định Đế lắc đầu:

- Không phải. Ta cùng y đang tỉ thí võ công, người ngoài không đến gần được.

Ông giơ tay vỗ nhẹ lên lưng nàng mấy cái. Người áo xanh hỏi:

- Ngươi đã tin chưa?

Bảo Định Đế tiến lên mấy bước khom lưng nói:

- Chính Minh tham kiến tiền bối.

Người áo xanh nói:

- Ngươi gọi ta là tiền bối tức là không nhận ta hay vì chưa tin hẳn?

Bảo Định Đế đáp:

- Chính Minh này thân làm chủ một nước, lời nói hành vi lúc nào cũng phải cẩn thận. Chính Minh không có con, Đoàn Dự kia trên vai chất gánh nặng tông miếu xã tắc, xin tiền bối thả y ra.

Người áo xanh nói:

- Ta đang muốn cho họ Đoàn Đại Lý làm loạn nhân luân, bại hoại đạo đức, đoạn tử tuyệt tôn. Ta phải đợi bao lâu mới có ngày này, lẽ nào lại dễ dàng buông tay?

Bảo Định Đế gay gắt đáp:

- Đoàn Chính Minh này nhất quyết không thể bằng lòng.

Người áo xanh cười ha hả nói:

- Ngươi tự xưng là hoàng đế nước Đại Lý, đối với ta thì chỉ là kẻ soán vị đoạt triều, loạn thần tặc tử mà thôi. Nếu ngươi có gan thì việc quay về đem tay chân quân lính tới đây. Ta bảo cho ngươi biết, thế lực ta kém xa ngươi thật nhưng muốn giết tên tiểu tặc Đoàn Dự thì thật dễ như trở bàn tay. Còn như bây giờ ngươi ra tay đánh với ta, trong vài trăm chiêu chưa chắc đã thắng, muốn giết ta cũng thật khó vô cùng. Nếu ta không chết thì ngươi đâu có cứu nổi tính mạng Đoàn Dự.

Khuôn mặt Bảo Định Đế lúc thì xanh, lúc thì trắng biết lời của y quả không sai, không nói gì trở về đem binh lính tới mà chỉ cần mình có thêm một người tiếp tay thì người áo xanh cũng đã không chống đỡ nổi rồi nhưng y sẽ ra tay làm hại Đoàn Dự ngay, huống chi thân phận người này mình không thể nào ra tay giết y được. Ông bèn hỏi:

- Ông muốn thế nào thì mới chịu thả y ra?

Người áo xanh đáp:

- Dễ lắm, dễ lắm! Ngươi chỉ cần bằng lòng lên chùa Thiên Long xuất gia làm sư, đem hoàng vị nhường lại cho ta, ta sẽ cho Đoàn Dự uống thuốc giải, trả lại cho ngươi đứa cháu ngoan khỏe mạnh bình thường, đức hạnh vẹn toàn.

Bảo Định Đế đáp:

- Cơ nghiệp của tổ tông, đâu có lý nào tùy tiện dâng cho người khác được?

Người áo xanh cười ha hả nói:

- Thế đây là cơ nghiệp của ngươi hay là cơ nghiệp của ta? Vật qui nguyên chủ hay là tùy tiện dâng cho người? Ta không truy cứu tội mưu triều soán nghịch của nhà ngươi cũng đã là khoan hồng đại lượng lắm rồi, nếu như chấp nê không nghe thì cứ việc ngồi chờ, đợi đến bao giờ Đoàn Dự cùng với em gái y sinh được đứa con thì lúc ấy ta sẽ thả cho ra.

Bảo Định Đế đáp:

- Thế thì ngươi giết nó đi còn hơn.

Người áo xanh nói tiếp:

- Ngoài chuyện đó ra còn hai đường khác nữa.

Bảo Định Đế hỏi:

- Đường gì?

Người áo xanh nói:

- Cách thứ nhất là ngươi đột nhiên ám toán ta, nhân khi ta không phòng bị giết quách đi thì cứu được y ra ngay.

Bảo Định Đế nói:

- Ta không thể ám toán ngươi được.

Người áo xanh lại tiếp:

- Nếu như ngươi có muốn ám toán cũng dễ gì thành công. Con đường thứ hai là bảo Đoàn Dự đem Nhất Dương Chỉ công phu ra tỉ thí với ta, nếu thắng thì lúc ấy đi đâu chẳng được. Ha ha! Ha ha!

Bảo Định Đế bực tức, cơn giận đường như không còn nhịn nổi nhưng rồi cố dằn xuống nói:

- Đoàn Dự không biết chút võ công nào, lại chưa từng học công phu Nhất Dương Chỉ.

Người áo xanh cười khẩy:

- Cháu Đoàn Chính Minh nước Đại Lý mà lại không biết Nhất Dương Chỉ thì ai mà tin cho được?

Bảo Định Đế đáp:

- Đoàn Dự từ bé đọc sách vở thánh hiền, tụng kinh niệm Phật, bụng dạ từ bi, không chịu học võ.

Người áo xanh đáp:

- Thế thì lại chỉ là một đứa giả nhân giả nghĩa, ngụy quân tử mua danh hão. Người như thế nếu mà làm vua nước Đại Lý này đâu có phải là phúc của dân đen, giết sớm ngày nào tốt ngày đó.

Bảo Định Đế gằn giọng nói:

- Tiền bối, có phải là không còn đường nào khác nữa chăng?

Người áo xanh nói:

- Năm xưa nếu như ta còn một con đường nào khác thì đâu đến nỗi sống dở chết dở như thế này. Người khác không cho ta con đường sống, lẽ nào ta lại mở đường cho hươu chạy?

Bảo Định Đế cúi đầu suy nghĩ một lát, đột nhiên ngửng đầu lên, mặt đầy vẻ cương nghị kêu lên:

- Dự nhi, ta sẽ tìm cách cứu cháu ra. Cháu chớ quên rằng mình là con cháu nhà họ Đoàn.

Chỉ nghe từ trong nhà đá vọng ra tiếng của Đoàn Dự:

- Bá phụ, bác tiến vào một ngón tay ... một ngón tay đâm chết cháu đi.

Lúc này chàng đã ngừng bước, ngồi dựa vào vách đá nghỉ ngơi nên nghe rõ ràng từng lời đối đáp của người áo xanh và Bảo Định Đế. Bảo Định Đế nghiêm giọng hỏi:

- Cái gì? Ngươi làm bại hoại môn phong tư cách nhà họ Đoàn rồi sao?

Đoàn Dự đáp:

- Không! Không đâu, điệt nhi ... điệt nhi nóng quá chịu không nổi, chắc ... chắc không sống được.

Bảo Định Đế đáp:

- Sinh tử hữu mệnh, hãy để thuận theo tự nhiên.

Ông giơ ra nắm tay Chung Linh đi ra khoảng đất trống, nhảy lên tường cây nói:

- Tiểu cô nương, cám ơn cô đã dẫn đường, ngày sau thể nào cũng báo đáp.

Ông theo đường cũ quay trở lại ngôi nhà chính. Chỉ thấy Chử Vạn Lý và Phó Tư Qui hai người đánh với Nam Hải Ngạc Thần, chưa biết bên thắng bên nào bại. Chu Đan Thần và Cổ Đốc Thành thì bị thanh phương đao của Diệp Nhị Nương ép cho càng lúc càng kém thế dường như không chịu nổi. Còn ở góc bên kia Vân Trung Hạc tuy chân không chậm lại chút nào nhưng thở hổn hển như bò rống, còn Ba Thiên Thạch nhún nhảy vẫn nhẹ nhàng như không.

Cao Thăng Thái chắp tay sau lưng đi qua đi lại làm như không quan tâm gì đến những trận đấu kịch liệt đang diễn ra chung quanh, thực ra mắt ông nhìn khắp sáu phía, tai nghe khắp tám phương, tinh thần tập trung theo dõi toàn cục, bên mình nếu như ai bị nguy hiểm gì sẽ lập tức ra tay giúp đỡ. Còn vợ chồng Đoàn Chính Thuần và Tần Hồng Miên, Chung Vạn Cừu thì không thấy đâu.

Bảo Định Đế hỏi:

- Thuần đệ đâu?

Cao Thăng Thái đáp:

- Trấn Nam Vương đánh đuổi được Chung cốc chủ rồi cùng vương phi đi tìm Đoàn công tử.

Bảo Định Đế cao giọng truyền lệnh:

- Chuyện nơi đây có nhiều khúc mắc, mọi người lui lại đã.

Ba Thiên Thạch bèn đứng lại, Vân Trung Hạc bị lỡ trớn xông tới, nghe bình một tiếng, Ba Thiên Thạch đã đánh ra một chưởng. Vân Trung Hạc song chưởng giơ lên đỡ, thấy trên ngực khí huyết nhộn nhạo tưởng chừng hộc máu ra. Y cố gắng nén lại, mắt chỉ thấy hoa lên không còn nhìn rõ chiêu số của địch nữa. Ba Thiên Thạch không thừa thắng đánh tiếp, cười khẩy mấy tiếng nói:

- Lãnh giáo vậy đủ rồi.

Từ khu rừng ở bên cạnh có tiếng Đoàn Chính Thuần vọng ra:

- Ở đây không thấy gì, thôi mình đi ra đằng sau xem sao.

Đao Bạch Phượng nói:

- Đi kiếm xem có ai hỏi thăm nhưng chẳng thấy người nào cả.

Có tiếng Tần Hồng Miên:

- Sư muội ta bảo họ tránh đi cả rồi.

Bảo Định Đế nhìn Cao Thăng Thái, Ba Thiên Thạch mỉm cười, thấy Trấn Nam Vương quả là thần thông quảng đại, không biết làm cách nào mà khiến cho hai người đàn bà không đội trời chung kia cùng đi kiếm Đoàn Dự. Chỉ nghe Đoàn Chính Thuần nói:

- Vậy thì mình đi kiếm sư muội bà hỏi thăm, thể nào nàng cũng biết Dự nhi đang ở đâu.

Đao Bạch Phượng nổi cáu nói:

- Không để cho ông đi kiếm Cam Bảo Bảo được, chẳng có ý tốt lành gì.

Tần Hồng Miên nói:

- Sư muội tôi có nói rằng từ rày về sau không bao giờ gặp lại ông nữa.

Ba người vừa nói vừa từ đằng sau lùm cây bước ra, Đoàn Chính Thuần thấy anh bèn hỏi:

- Đại ca, có cứu ... có tìm được Dự nhi chưa?

Ông vốn định hỏi “có cứu được chưa” nhưng không thấy Đoàn Dự ở đó nên vội nói trớ đi. Bảo Định Đế gật đầu:

- Tìm thấy rồi, mình về nhà sẽ nói chuyện sau.

Chu Đan Thần, Chử Vạn Lý nghe thấy hoàng thượng xuống chỉ bảo ngừng tay đều muốn bãi chiến nhưng Diệp Nhị Nương và Nam Hải Ngạc Thần càng đánh càng hăng, vẫn xáp tới không hở tay chút nào. Bảo Định Đế hơi nhướng lông mày nói:

- Thôi mình đi!

Cao Thăng Thái nói:

- Tuân mệnh.

Ông lấy thiết địch trong bọc ra, giơ sáo điểm vào yết hầu Nam Hải Ngạc Thần, tiếp theo nhấc tay lật một cái, vung ra tạt vào Diệp Nhị Nương. Hai chiêu đó đều thật lợi hại nhằm toàn chỗ sơ hở của địch nhân mà tấn công. Nam Hải Ngạc Thần lập tức lộn một vòng nhảy ra bên ngoài, nghe bộp một tiếng thiết địch đã đánh trúng tay Diệp Nhị Nương, mụ ta kêu oái lên một tiếng vội vàng nhảy vọt ra.

Thực ra Cao Thăng Thái võ công không giỏi hơn hai người này bao nhiêu, có điều ông ta đứng ngoài quan sát đã lâu, trong bụng đã tính toán cách đối phó với hai người. Hai chiêu đó tưởng như chỉ để tấn công Nam Hải Ngạc Thần kỳ thực chỉ là đánh nhứ, đột nhiên xuất kỳ bất ý đánh vào Diệp Nhị Nương để trả thù mụ ta đánh ông một chưởng hôm trước.

Trông ông ra tay tưởng như làm chơi ăn thiệt, nhẹ nhàng như không nhưng thực ra mỗi chiêu đều tính toán không biết bao nhiêu lần, dùng tất cả công lực bình sinh.

Nam Hải Ngạc Thần mở tròn đôi mắt hí, vừa kinh hoàng vừa bội phục nói:

- Tiên sư nó chứ, quả là giỏi thật, trông ngươi biết thế chó nào ...

Y không nói tiếp khúc dưới nhưng mọi người đều hiểu là “Trông ngươi đâu biết được lợi hại đến thế, xem chừng ta không phải là đối thủ”. Đao Bạch Phượng hỏi Bảo Định Đế:

- Hoàng thượng, Dự nhi ra thế nào?

Bảo Định Đế trong lòng hết sức lo lắng nhưng mặt vẫn điềm tĩnh như thường, thản nhiên nói:

- Không sao cả. Trước mắt hãy để cho nó có dịp rèn mài một phen, sau một vài ngày thì sẽ ổn thỏa, những chuyện khác về cung ta sẽ tính.

Ông nói rồi quay mình ra đi. Ba Thiên Thạch vượt lên trước dẫn đường, vợ chồng Đoàn Chính Thuần đi sát ngay sau huynh trưởng, kế đến là Chử, Cổ, Phó, Chu tứ hộ vệ, sau cùng là Cao Thăng Thái. Y vừa mới ra một tuyệt chiêu trấn nhiếp kẻ địch, Nam Hải Ngạc Thần tuy hung hăng bạo tợn nhưng cũng không dám đuổi theo gây sự.

Đoàn Chính Thuần đi được mươi trượng rồi, nhịn không nổi quay đầu đưa mắt nhìn Tần Hồng Miên, Tần Hồng Miên cũng đang ngơ ngẩn nhìn theo, bốn mắt chạm nhau hai người đều mê mẩn.

Chung Vạn Cừu tay cầm Đại Hoàn Đao thở hồng hộc từ sau nhà chạy ra ậm ọe:

- Đoàn Chính Thuần, lần này ngươi không gặp vợ ta là may cho ngươi lắm đó, có thế ta mới không cho ngươi một trận. Phu nhân ta đã thề rồi, từ rày trở đi không thèm nhìn mặt ngươi. Chẳng qua ... chẳng qua cũng chẳng phải gì, nàng sợ gặp cái đồ mặt mẹt ngươi, biết đâu chừng con mẹ nó lại ... nói qua nói lại một điều là ngươi không gặp được nàng nữa là xong.

Y đấu với Đoàn Chính Thuần được vài chiêu biết là không cách gì thắng được vội vàng quay vào canh chừng vợ, đề phòng Đoàn Chính Thuần đến tán tỉnh, nghe phu nhân lập lời thề không nhìn mặt Đoàn Chính Thuần mừng không để đâu cho hết vội vàng chạy ra nhắc lại những câu đoạn tình đoạn nghĩa ấy cho tình địch nghe.

Sơn lâm uy chấn cõi ngoài,

Cung đình vương giả tranh tài hơn thua.

Hổ gầm tiếng vọng canh khuya,

Rồng thiêng giương vuốt dễ đùa được sao?

*

* *

Hoi 8b.

Đoàn Chính Thuần trong lòng bồi hồi, nhủ thầm: “Thì đã sao? Vì sao lại không nhìn mặt ta nữa? Nàng nay là kẻ ván đã đóng thuyền, ta lẽ nào còn làm bại hoại danh tiết nàng hay sao? Đoàn nhị nước Đại Lý tuy phong lưu hiếu sắc thật nhưng nào có phải là kẻ hạ lưu vô sỉ. Nếu ta gặp lại nàng mà hai người chỉ lạnh nhạt không nói được với nhau một câu thì thà không gặp còn hơn”. Ông quay lại thấy vợ lạnh lùng nhìn mình không khỏi chột dạ, vội vàng rảo bước đi ra khỏi cốc.

*

* *

Đoàn người về đến Đại Lý rồi, Bảo Định Đế nói:

- Tất cả vào cung thương nghị.

Vào đến thư phòng trong hoàng cung, Bảo Định Đế ngồi tại một chiếc ghế bành lớn lót da báo ngay chính giữa, vợ chồng Đoàn Chính Thuần ngồi bên dưới còn Cao Thăng Thái và những người khác thõng tay đứng hầu. Bảo Định Đế sai nội thị đem ghế lên cho mọi người cùng ngồi rồi vẫy tay cho những người hầu lui ra, đem chuyện Đoàn Dự bị rơi vào tay địch như thế nào kể hết cho mọi người cùng nghe.

Ai nấy đều biết tất cả chẳng qua từ người áo xanh mà ra, nghe Bảo Định Đế kể lại y không những biết Nhất Dương Chỉ, mà công lực còn cao cường hơn ông nên không ai dám nhiều lời, ai cũng cúi đầu trầm ngâm. Nhất Dương Chỉ là công phu thế đại tương truyền của họ Đoàn, chỉ dạy cho con trai mà không dạy cho con gái, không truyền cho người ngoài, người áo xanh biết công phu này thì nhất định phải là giòng dõi họ Đoàn.

Bảo Định Đế quay sang nói với Đoàn Chính Thuần:

- Thuần đệ, chú thử nghĩ xem người này là ai?

Đoàn Chính Thuần lắc đầu đáp:

- Tiểu đệ đoán không ra, không lẽ chùa Thiên Long có người nào hoàn tục cải trang chăng?

Bảo Định Đế lắc đầu:

- Không phải, đó là thái tử Diên Khánh.

Lời đó vừa nói ra, mọi người ai nấy giật mình. Đoàn Chính Thuần nói:

- Thái tử Diên Khánh đã chết rồi, người này chắc là mượn danh để làm càn thôi.

Bảo Định Đế thở dài:

- Tên tuổi có thể giả mạo nhưng công phu Nhất Dương Chỉ thì giả mạo làm sao được. Dẫu có học lén chăng nữa thì cũng là chuyện thường trong võ lâm thôi nhưng nội công tâm pháp thì làm sao học trộm được? Người này là thái tử Diên Khánh không còn nghi ngờ gì nữa.

Đoàn Chính Thuần trầm ngâm một hồi, hỏi thêm:

- Thế thì y chính là một giòng họ Đoàn nhà ta, sao lại muốn làm bại hoại môn phong thanh dự chúng mình?

Bảo Định Đế thở dài:

- Người này một thân tàn tật cho nên tính tình thật khác thường, không thể lấy thường lý mà đo lường được. Huống chi ta đang ở ngôi đế vương nước Đại Lý nên bụng y thù hận càng muốn làm cho anh em ta thân bại danh liệt cho hả lòng.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Đại ca lên ngôi đã lâu, thần dân ai nấy kính ngưỡng, bốn phương thanh bình, chẳng nói gì chỉ Diên Khánh thái tử mà dẫu vua Thượng Đức có sống lại cũng không thể trở lên ngôi được.

Cao Thăng Thái đứng bật dậy tâu:

- Lời của Trấn Nam Vương quả thật xác đáng. Thái tử Diên Khánh nếu như giao lại Đoàn công tử thì không nói gì, còn không chúng ta sẽ không coi y là thái tử hay không thái tử, chỉ biết y là kẻ đứng đầu Tứ Đại Ác Nhân trong thiên hạ ai nấy đều có quyền tru diệt. Võ công y tuy cao cường thật nhưng không thể nào đánh lại được số đông.

Thì ra hơn mười năm trước vào năm Thượng Đức ngũ niên, Thượng Đức Đế Đoàn Liêm Nghĩa đang tại vị triều đình bỗng sinh đại biến, nhà vua bị gian thần Dương Nghĩa Trinh giết chết. Cháu vua Thượng Đức là Đoàn Thọ Huy được các cao tăng chùa Thiên Long và trung thần Cao Trí Thăng giúp đỡ nên bình diệt được Dương Nghĩa Trinh lên nối ngôi xưng là Thượng Minh Đế. Thượng Minh Đế không thích làm vua nên chỉ ở ngôi một năm rồi bỏ ngai vàng đi tu ở chùa Thiên Long, nhường ngôi cho em họ là Đoàn Chính Minh tức Bảo Định Đế. Vua Thượng Đức vốn có một người con trai là thái tử Diên Khánh nhưng khi gian thần Dương Nghĩa Trinh soán ngôi đất nước đại loạn, y không biết đi đâu mất, ai nấy cho rằng đã bị Dương Nghĩa Trinh sát hại rồi, ngờ đâu bao nhiêu năm nay đột nhiên xuất hiện.

Bảo Định Đế nghe Cao Thăng Thái nói lắc đầu:

- Hoàng vị vốn dĩ là của thái tử Diên Khánh, khi xưa vì không kiếm thấy y, Thượng Minh Đế mới phải lên ngôi, sau đó mới truyền lại cho ta. Thái tử Diên Khánh nếu quay lại, ngôi vua này phải trả lại cho y mới phải.

Ông quay đầu nói với Cao Thăng Thái:

- Lệnh tôn nếu như còn tại thế ắt cũng một ý đó thôi.

Cao Thăng Thái là con của đại công thần Cao Trí Thăng năm xưa trừ gian diệt bạo toàn là công lao của ông ta. Cao Thăng Thái tiến lên một bước, phục xuống tâu:

- Tiên phụ trung với vua, yêu thương dân, thanh bào quái khách này là kẻ đứng đầu tứ ác, nếu như ngồi trên ngôi cửu ngũ, đứng trên trăm họ, muôn dân nước Đại Lý sẽ phải chịu không biết bao nhiêu khốn khổ. Việc hoàng thượng hỏi ý nhường ngôi, thần Thăng Thái dẫu chết vạn lần cũng không dám phụng chiếu.

Ba Thiên Thạch cũng phục xuống đất tâu:

- Mới rồi thần Thiên Thạch nghe Nam Hải Ngạc Thần gọi người đứng đầu trong tứ ác là Ác Quán Mãn Doanh. Ác nhân đó nếu không phải thái tử Diên Khánh thì dĩ nhiên không thể nào giành ngôi đại bảo, còn như nếu y thực sự là thái tử Diên Khánh, một kẻ hung ác gian hiểm như thế làm sao có thể để y cai trị trăm họ nước Đại Lý? Nếu như vậy ắt quốc gia sẽ sụp đổ, xã tắc sẽ luân vong.

Bảo Định Đế xua tay nói:

- Hai vị đứng lên, những điều các ngươi nói quả là hữu lý. Có điều Dự nhi rơi vào tay họ, trừ khi ta nhường ngôi cho chúng, có cách nào đưa được Dự nhi về đâu?

Đoàn Chính Thuần nói:

- Đại ca, từ xưa đến nay chỉ có khi quân phụ gặp nạn, thần tử xả thân ra cứu. Dự nhi tuy được đại ca yêu thương nhưng đâu có vì nó mà phải từ bỏ ngôi báu? Nếu làm như thế thì dù cho Dự nhi thoát hiểm cũng thành kẻ đại tội của nước Đại Lý này.

Bảo Định Đế đứng lên, giơ tay trái vuốt bộ râu dài dưới cằm, tay phải giơ hai ngón tay gõ gõ trên trán, chậm rãi đi bách bộ trong thư phòng. Mọi người biết ông khi gặp chuyện lớn khó khăn quyết định đều như thế để suy nghĩ nên không ai dám lên tiếng làm cản trở giòng tư tưởng của ông. Bảo Định Đế đi qua đi lại, một hồi thật lâu mới nói:

- Gã Diên Khánh thái tử kia thủ đoạn thật là độc ác, cho Dự nhi uống Âm Dương Hòa Hợp Tán, dược tính thật là lợi hại, người thường khó mà đề kháng. Chỉ sợ ... chỉ sợ ... giờ phút này y đã bị thuốc làm cho mê man, thật không biết thế nào. Ôi, đây là gian kế của người ta bày ra, không thể nào trách Dự nhi được.

Đoàn Chính Thuần cúi đầu, xấu hổ vô cùng, nghĩ thầm đầu dây mối nhợ cũng chỉ vì mình có tính phong lưu mà ra. Bảo Định Đế quay trở lại chiếc ghế đang ngồi nói:

- Ba Tư Không, truyền hạ chỉ ý, ra lệnh cho Hàn Lâm Viện thảo chiếu phong cho em ta Chính Thuần làm Hoàng Thái Đệ.

Đoàn Chính Thuần hoảng hốt, vội vàng quì xuống tâu:

- Đại ca đang lúc thân thể cường tráng, công đức ban bố cho toàn dân, trời cao thể nào cũng phù hộ để cho con đàn cháu đống. Chức Hoàng Thái Đệ kia xin hãy khoan bàn đến.

Bảo Định Đế giơ tay đỡ lên nói:

- Anh em ta như thể tay chân, giang sơn Đại Lý này vốn do cả hai chúng mình cùng chấp chưởng, không nói gì ta không có con, dẫu như có con có cháu thì cũng truyền ngôi cho em. Thuần đệ, ta vốn đã có ý lập chú làm người kế thừa từ lâu, trong nước người người ai cũng biết. Hôm nay phải sớm định danh phận cốt để cho thái tử Diên Khánh tiêu tan hi vọng.

Đoàn Chính Thuần suy từ thêm mấy lần nữa nhưng đều không được, đành phải khấu đầu tạ ơn. Bọn Cao Thăng Thái liền tiến lên chúc mừng. Bảo Định Đế không có con cái, ngôi vua về sau ắt sẽ truyền cho Đoàn Chính Thuần, việc đó ai cũng đã biết nên không ai ngạc nhiên. Bảo Định Đế nói:

- Thôi mọi người lui về nghỉ ngơi. Việc thái tử Diên Khánh chỉ nên cho Hoa Tư Đồ, Phạm Tư Mã hai người biết mà thôi, không được tiết lậu cho người khác.

Mọi người lên tiếng đáp ứng, khom mình cáo biệt. Ba Thiên Thạch lập tức đi xuống Hàn Lâm Viện truyền chiếu chỉ của nhà vua.

*

* *

Bảo Định Đế dùng cơm xong, ngủ một chốc, lúc tỉnh dậy nghe thấy ngoài cung vọng vào tiếng reo hò, chuông trống, tiếng pháo trúc ầm ỹ. Nội giám tiến vào phục vụ nhà vua thay quần áo, bẩm báo:

- Bệ hạ sách phong Trấn Nam Vương làm Hoàng Thái Đệ, dân chúng hoan hô chúc mừng thật là náo nhiệt.

Nước Đại Lý trong những năm gần đây không có việc binh đao, triều chính sáng suốt, dân chúng an cư lạc nghiệp, dân chúng cực kỳ kính mến hoàng đế, Trấn Nam Vương, Thiện Xiển Hầu và những quan chức. Bảo Định Đế nói:

- Truyền chỉ ý của trẫm ngày mai mở hội hoa đăng, trong thành Đại Lý bãi bỏ lệnh ngăn sông cấm chợ, khao thưởng ba quân, đem rượu thịt thưởng cho những người già cả cô nhi.

Đạo chỉ ý đó truyền xuống, dân chúng trong thành Đại Lý ai nấy đều mừng rỡ. Đến tối hôm đó, Bảo Định Đế thay quần áo thường, một mình ra khỏi cung. Ông kéo sụp mũ xuống che kín lông mày chỉ hở hai con mắt. Trên đường đi đâu đâu cũng thấy trăm họ vỗ tay hát hò, thanh niên nam nữ vừa múa vừa ca. Thời đó nhân sĩ Trung Nguyên coi Đại Lý là nước man di, lễ nghi so với trung thổ hoàn toàn khác hẳn, trên đường trai gái dắt díu nhau đi chơi, cười cợt nô đùa chẳng phải để ý đến ai, cũng chẳng ai coi là chuyện lạ. Bảo Định Đế trong bụng khấn thầm: “Cầu mong cho dân chúng nước Đại Lý ta đời đời kiếp kiếp được hoan lạc như thế này”.

Ông ra khỏi thành rồi lập tức rảo bước đi thêm chừng hai mươi dặm thì lên trên một ngọn núi, càng lúc càng hoan tịch, đi vòng qua bốn thung lũng đến trước một cái miếu cổ nho nhỏ, trên đề ba chữ Niêm Hoa Tự. Phật giáo là quốc giáo của nước Đại Lý nên trong ngoài kinh thành chùa lớn cũng vài chục còn chùa nhỏ tính hàng trăm, ngôi Niêm Hoa Tự này ở nơi hẻo lánh, ít người khói hương, ngay cả người Đại Lý phần lớn cũng chẳng ai biết đến.

Bảo Định Đế đứng trước cửa chủa trầm ngâm khấn nguyện một hồi sau đó mới tiến tới nhẹ nhàng gõ vào cửa ba tiếng. Một lúc lâu sau, một chú tiểu mở cửa chùa chắp tay hỏi:

- Tôn khách quang lâm chẳng hay có chuyện gì?

Bảo Định Đế đáp:

- Xin phiền thông báo cho Hoàng Mi đại sư là có cố nhân Đoàn Chính Minh đến viếng.

Chú tiểu nói:

- Xin mời vào.

Nói xong quay mình dẫn đường cho khách. Bảo Định Đế tiến vào trong chùa, bỗng nghe hai tiếng chuông boong boong từ hậu viện truyền ra, lập tức cảm thấy thân thể nhẹ nhàng, thần nhàn ý tĩnh. Hai người đạp trên những lá khô rơi trên thềm đi đến phía sau, chú tiểu nói:

- Xin tôn khách ở đây chờ một chút để tôi đi bẩm cho sư phụ biết.

Bảo Định Đế đáp:

- Được.

Ông chắp tay sau lưng đứng giữa sân nhìn lá vàng từ trên cây ngân hạnh lả tả rơi. Trong đời ông hiếm khi nào phải đứng ngoài cửa chờ người khác thế nhưng khi bước chân vào Niêm Hoa Tự này, bao nhiêu tục niệm đều tiêu tan, quên hẳn mình là chúa tể của cả một cõi trời nam.

Bỗng nghe một giọng già nua cười nói:

- Đoàn hiền đệ có chuyện gì khó khăn thế?

Bảo Định Đế quay đầu nhìn lại thấy một nhà sư già thân thể cao to, mặt đầy vết nhăn đang từ trong căn nhà nhỏ bước ra. Vị lão tăng đó có đôi lông mày dài vàng cháy, mi mao rủ xuống, chính là hòa thượng Hoàng Mi.

Bảo Định Đế chắp hai tay nói:

- Đến quấy quả việc thanh tu của đại sư.

Hoàng Mi hòa thượng mỉm cười nói:

- Xin mời vào.

Bảo Định Đế tiến vào trong căn nhà nhỏ thấy hai nhà sư trung niên đứng vái chào, biết đó là đệ tử của Hoàng Mi nên cũng giơ tay đáp lễ rồi xếp bằng ngồi xuống chiếc bồ đoàn ở phía tây, đợi cho hòa thượng Hoàng Mi ngồi ngay ngắn nơi chiếc đệm phía đông mới lên tiếng nói:

- Tôi có một đứa cháu tên là Đoàn Dự, năm lên bảy tuổi đã từng đem nó đến đây nghe sư huynh giảng kinh.

Hoàng Mi tăng mỉm cười:

- Thằng bé đó có ngộ tính khá, quả là đứa ngoan, ngoan lắm.

Bảo Định Đế nói:

- Nó nhờ được Phật pháp điểm hóa nên tính tình từ bi, không chịu học võ để khỏi sát sinh.

Hoàng Mi tăng nói:

- Không biết võ công vẫn có thể giết người, biết võ công chưa chắc đã giết người.

Bảo Định Đế đáp:

- Phải lắm!

Ông đem chuyện Đoàn Dự kiên quyết không chịu học võ, bỏ nhà trốn đi, làm sao gặp được Mộc Uyển Thanh, rồi bị Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân là thái tử Diên Khánh bắt giam trong thạch thất kể lại. Hoàng Mi tăng mỉm cười lắng tai nghe, không xen vào nửa lời còn hai đệ tử đứng sau lưng ông thõng tay hầu thầy mặt lạnh như tiền các bắp thịt trên mặt không hề rung động chút nào.

Đến khi Bảo Định Đế nói xong, Hoàng Mi tăng mới chậm rãi nói:

- Nếu như thái tử Diên Khánh là đường huynh của hiền đệ, hiền đệ không tiện động thủ với y mà sai hạ thuộc đến cứu người thì cũng không ổn.

Bảo Định Đế nói:

- Sư huynh nhận định sáng suốt lắm.

Hoàng Mi tăng nói tiếp:

- Trong các cao tăng chùa Thiên Long cũng có người võ công giỏi hơn hiền đệ nhưng bọn họ cũng đều trong họ Đoàn mà ra, không tiện tham dự tranh chấp trong nội tộc mà giúp hiền đệ thành thử không thể lên đó cầu cứu được.

Bảo Định Đế đáp:

- Chính thế!

Hoàng Mi tăng gật đầu chậm rãi đưa ngón tay giữa ra, điểm vào ngực Bảo Định Đế. Bảo Định Đế mỉm cười, đưa ngón tay trỏ điểm ngay vào đầu ngón tay giữa của ông ta, hai người đều lắc lư một cái lập tức thu chỉ về. Hoàng Mi tăng nói:

- Đoàn hiền đệ, Kim Cương chỉ của ta không thắng nổi Nhất Dương Chỉ của hiền đệ đâu.

Bảo Định Đế nói:

- Sư huynh đại trí đại tuệ, không cần phải dùng chỉ lực mà thủ thắng.

Hoàng Mi tăng cúi đầu không nói. Bảo Định Đế đứng lên nói:

- Năm năm trước đây, sư huynh bảo tiểu đệ miễn thuế muối cho dân Đại Lý, nhưng một là quốc dụng chưa đủ, hai nữa tiểu đệ định đợi cho đứa em Chính Thuần tiếp vị rồi mới thi hành nhân chính đó để dân chúng hướng về y. Thế nhưng ngay sáng mai, tiểu đệ sẽ ra lệnh bãi bỏ thuế muối.

Hoàng Mi tăng đứng bật dậy, khom lưng vái lạy, cung kính đáp:

- Hiền đệ tạo phúc cho muôn dân, lão tăng cảm kích ân đức không để đâu cho hết.

Bảo Định Đế cũng cúi xuống vái trả lễ, không nói thêm lời nào, lặng lẽ đi ra khỏi chùa. Ông về đến cung lập tức sai nội giám truyền lệnh đòi Ba Thiên Thạch vào chầu, cho y hay việc bãi bỏ thuế muối. Ba Thiên Thạch khom mình tạ ơn nói:

- Hồng ân của hoàng thượng thực là phúc của toàn dân.

Bảo Định Đế đáp:

- Mọi việc tiêu dùng trong cung nên cố giảm thiểu tiết kiệm. Nhà ngươi cùng Hoa Tư Đồ, Phạm Tư Mã bào thảo cho kỹ càng, xem những gì mình có thể cắt xén được.

Ba Thiên Thạch tuân lệnh, từ biệt ra khỏi cung lập tức hẹn với Tư Đồ Hoa Hách Cấn cùng đến phủ Tư Mã Phạm Hoa thông báo việc bãi bỏ thuế muối, còn việc Đoàn Dự bị bắt cóc thì Ba Thiên Thạch đã nói cho hai người biết rồi. Phạm Hoa trầm ngâm rồi nói:

- Trấn Nam thế tử bị rơi vào tay kẻ gian, hoàng thượng hạ chỉ miễn trừ thuế muối chắc là để cầu trời thương xót phù hộ cho thế tử được trở về bình an. Bọn thần tử chúng ta nếu chẳng chia xẻ cái nỗi lo của đấng chí tôn thì còn mặt mũi nào đứng ở trong triều?

Ba Thiên Thạch nói:

- Chính thế, nhị ca có diệu kế gì có thể cứu được thế tử chăng?

Phạm Hoa đáp:

- Nếu như đối thủ là thái tử Diên Khánh, hoàng thượng thật không muốn chính diện coi y là thù địch. Ta có một cách này nhưng có điều phải làm phiền đến đại ca thôi.

Hoa Tư Đồ vội hỏi:

- Cái gì mà phải làm phiền? Nhị đệ mau mau nói ra.

Phạm Hoa đáp:

- Hoàng thượng nói rằng võ công của Diên Khánh thái tử còn hơn ngài một bậc, nếu như mình tới xông vào cứu thì không thể nào làm được. Đại ca, nghề cũ của đại ca hai mươi năm trước nay thử lại một lần được chăng?

Khuôn mặt rám nắng của Hoa Tư Đồ hơi đỏ lên, cười nói:

- Nhị đệ lại trêu ta nữa rồi.

Quan Tư Đồ Hoa Hách Cấn vốn tên là A Căn, xuất thân nghèo hèn, nay làm tới chức Tam Công ở Đại Lý nhưng khi chưa thành đạt thì làm nghề đào mả trộm kiếm ăn, chuyên đi đào mồ những vương công cự phú. Những người giàu có sau khi chết thường chôn theo những đồ vật quí giá, Hoa A Căn từ xa đào hầm thông vào phần mộ để lấy bảo vật. Tuy làm thế mất nhiều công thật nhưng vì thế không ai phát giác. Một hôm y đào trúng một mộ phần trong quan tài có võ công bí cấp chôn theo, theo đó mà tu luyện thành một môn ngoại công trác tuyệt mới bỏ cái nghề hạ tiện này, quay sang phò tá Bảo Định Đế, lập được nhiều công lao thăng lên đến chức Tư Đồ.

Khi làm quan rồi ông thấy tên cũ khó nghe, đổi thành Hách Cấn, ngoại trừ Ba Thiên Thạch và Phạm Hoa là hai người sinh tử chi giao, rất ít người biết rõ thân phận của ông. Phạm Hoa đáp:

- Tiểu đệ nào có dám đùa cợt đại ca? Tiểu đệ nghĩ bọn mình lẻn vào trong Vạn Kiếp Cốc, đào một đường hầm thông vào trong thạch thất giam Trấn Nam thế tử, lẳng lặng cứu y ra thì không ai có thể nào biết được.

Hoa Hách Cấn vỗ đùi reo lên:

- Hay lắm! Hay lắm!

Cái nghề đào mả trộm của y thật là tài trời cho, hơn hai mươi năm qua không còn dùng để mưu sinh nữa nhưng thỉnh thoảng nghĩ đến không khỏi ngứa ngáy chân tay, có điều thân đang giữ chức vụ cao, cực điểm phú quí, lại đi đào mả trộm thì còn ra thể thống gì nữa? Bây giờ nghe Phạm Hoa đề cập đến trong bụng mừng thầm.

Phạm Hoa cười nói:

- Đại ca đừng mừng vội, bên trong còn nhiều chuyện khó khăn. Tứ Đại Ác Nhân đều ở trong Vạn Kiếp Cốc, vợ chồng Chung Vạn Cừu và Tu La Đao cũng là những nhân vật cực kỳ lợi hại, muốn tránh không để họ biết thực không phải dễ. Hơn nữa, gã thái tử Diên Khánh kia ngồi canh ngoài thạch thất, đào hầm dưới chân y làm sao không để y phát giác được?

Hoa Hách Cấn trầm ngâm một hồi mới nói:

- Thế thì phải đào từ sau thạch thất mà vào để tránh chỗ của thái tử Diên Khánh.

Ba Thiên Thạch nói:

- Trấn Nam thế tử thời khắc nào cũng đều gặp phải hiểm nguy, chúng ta đào hầm e rằng công trình không phải nhỏ sợ không kịp chăng?

Hoa Hách Cấn đáp:

- Thế thì cả ba anh em mình cùng làm, hai vị hiền đệ chịu khó học ta cái nghề đào mồ ăn trộm vậy.

Ba Thiên Thạch cười nói:

- Chúng ta làm đến Tam Công nước Đại Lý, nhưng sự bất đắc dĩ vì nghĩa mà phải làm cái việc đào mồ trộm mả đấy thôi.

Cả ba cùng vỗ tay cười ha hả. Hoa Hách Cấn nói:

- Việc không nên chậm trễ, nói là làm liền đi.

Nói xong Ba Thiên Thạch vẽ đồ hình trong Vạn Kiếp Cốc, Hoa Hách Cấn tính toán cửa hầm và đường đi, làm cách nào để tránh tai mắt người ngoài, làm thế nào chuyên chở được đất cát đem đi đổ mọi việc y đều tinh thông không ai sánh kịp.

*

* *

Trong một ngày một đêm qua, Đoàn Dự mỗi khi thấy trong người bứt rứt liền thi triển thân pháp Lăng Ba Vi Bộ ở trong thạch thất đi qua đi lại, chỉ cần một hai vòng là thấy dịu hẳn xuống. Thế nhưng Mộc Uyển Thanh thì người phát sốt, thần trí mơ hồ, phần lớn thời gian chỉ tựa lưng vào tường đá mà ngủ mê mệt.

Hôm sau vào khoảng giữa trưa, Đoàn Dự lại đi rảo bước trong căn phòng bỗng nghe bên ngoài thạch thất có tiếng người già cả ngâm:

Dọc ngang mười chín vạch,

Biết bao người mê say.

Cư sĩ nếu có thanh hứng, cùng với lão tăng đánh chơi một ván được chăng?

Đoàn Dự trong bụng lạ lùng vội vàng đi chậm lại, đi thêm mươi bước nữa rồi ngừng hẳn, ghé mắt nhìn qua cái lỗ hổng vẫn dùng để đưa cơm nhìn ra ngoài.

Chỉ thấy một nhà sư già mặt mũi nhăn nheo, lông mày vàng hoe, tay trái cầm một cái mõ to bằng miệng bát, tay phải cầm một chiếc dùi đen nhánh, gõ lên cái mõ mấy tiếng cốc cốc cốc, nghe âm thanh thì ra cái dùi đó đúc bằng sắt. Ông ta vừa niệm: “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật!” vừa cúi xuống phiến đá xanh ngay trước căn nhà đá dùng dùi mõ vạch, nghe xạo xạo, bột đá bay tung tóe đã vạch thành một đường thẳng.

Đoàn Dự thấy lạ lùng, khuôn mặt vị lão tăng này chàng dường như có gặp ở đâu rồi, kình lực bàn tay ông ta mạnh thật, chỉ tiện tay vạch lên mà trên nền đá thành một hằn sâu chẳng khác gì đục bằng dùi sắt của người thợ tiện, chiếc dùi mõ chỉ chầm chậm vạch qua thành một đường thẳng tắp còn người thợ nếu muốn đục được thẳng như thể không thể không vạch trước bằng mực đen.

Trước căn nhà đá một giọng nói uất nghẹn vang lên:

- Kim Cương chỉ lực, công phu giỏi lắm.

Chính là tiếng của người áo xanh Ác Quán Mãn Doanh. Thiết trượng của y liền thò ra vạch một đường ngang thẳng góc với đường của Hoàng Mi tăng, cũng ăn sâu vào đá thẳng băng. Hoàng Mi tăng cười nói:

- Thí chủ bằng lòng tứ giáo, hay lắm, hay lắm!

Ông ta liền đưa dùi lên vẽ thêm một đường thẳng nữa, người áo xanh liền vẽ một đường ngang. Cứ như thế bên này khắc một đường, bên kia khắc một đường, hai người ngưng tụ công lực, chùy trượng càng vẽ càng chậm dần để cho đường mình vẽ không có chỗ nông chỗ sâu hay cong vẹo thì thua đối phương hay sao.

Độ chừng ăn xong một bữa cơm, một bàn cờ dọc ngang mười chín đường đã ngay ngắn khắc xong, Hoàng Mi tăng nghĩ thầm: “Chính Minh hiền đệ nói không sai, gã thái tử Diên Khánh này nội lực quả là cao cường”. Thái tử Diên Khánh không phải như Hoàng Mi tăng đã chuẩn bị rồi mới đến nên trong bụng cũng hãi thầm: “Ở đâu lại nhảy ra một lão hòa thượng lợi hại đến thế này? Hẳn là Đoàn Chính Minh mời đến tiếp tay. Gã hòa thượng này cầm chân ta để cho Đoàn Chính Minh thừa cơ vào cứu Đoàn Dự, ta đâu có cách nào phân thân ra đối địch được”.

Hoàng Mi tăng nói:

- Đoàn thí chủ công lực cao thâm, bội phục, bội phục. Kỳ lực của thí chủ ắt cũng phải gấp mười lão tăng, lão tăng muốn thí chủ nhường cho bốn quân.

Người áo xanh ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Chỉ lực của ngươi ghê gớm như thế hẳn là thân phận cao nhân. Ngươi đến thách ta đấu vừa mở miệng lại đòi nhường là sao?”. Y bèn nói:

- Đại sư việc gì phải khiêm tốn quá như thế! Nếu muốn hơn thua thì phải đánh ngang tay chứ.

Hoàng Mi tăng đáp:

- Bốn quân không nhường được hay sao?

Người áo xanh thản nhiên đáp:

- Nếu đại sư tự biết kỳ thế không bằng thì còn tỉ đấu làm gì nữa.

Hoàng Mi tăng khẩn khoản:

- Thế thì ba quân được chăng?

Người áo xanh đáp:

- Chỉ nhường đi trước cũng đã là quá rồi.

Hoàng Mi tăng cười ha hả nói:

- Hóa ra tài đánh cờ của ông cũng chẳng đến đâu, thôi thì để ta chấp ông ba quân vậy.

Người áo xanh đáp:

- Không cần phải thế, cứ đấu ngang tay mỗi người đi trước một lần là được rồi.

Hoàng Mi tăng càng thêm ngại ngùng nghĩ thầm: “Người này không kiêu căng mà cũng không nóng nảy, quả là kình địch, dù ta có khích cách nào cũng vẫn điềm tĩnh như không”.

Thì ra Hoàng Mi tăng không có cách nào chắc ăn, biết người thích cờ thường hiếu thắng, mình mở miệng xin y chấp ba quân, bốn quân thường là đối phương bằng lòng, nhưng người này tính tình khác hẳn, không coi cái hư danh đó vào đâu, nếu như thái tử Diên Khánh tự phụ là mình cao cờ bằng lòng chấp quân thì mình thật là lợi thế, đấu cờ phần thắng sẽ nhiều hơn. Ngờ đâu thái tử Diên Khánh không chịp chấp quân mà cũng chẳng để ai nhường mình, không sơ hở chút nào, cực kỳ nghiêm cẩn.

Hoàng Mi tăng nói:

- Được rồi, ngươi là chủ, ta là khách, vậy ta đi trước.

Người áo xanh nói:

- Không được, rồng mạnh không đè nổi rắn đất, để ta đi trước.

Hoàng Mi tăng đáp:

- Thôi thế thì đánh đố để định xem ai đi trước. Vậy ngươi đoán thử lão tăng năm nay bao nhiêu tuổi, chẵn hay lẻ? Đoán trúng thì ngươi đi trước; còn đoán sai thì lão tăng đi trước.

Người áo xanh nói:

- Ta có đoán trúng chăng nữa ông cũng giở thói bài bây.

Hoàng Mi tăng nói:

- Được rồi, thế này thì ngươi đoán lão tăng không có thể chây được. Ngươi đoán thử sau năm bảy mươi tuổi, số ngón chân lão tăng hai bên tổng cộng là số chẵn hay số lẻ?

Câu đố dó quả thật quái lạ, người áo xanh nghĩ thầm: “Người bình thường có mười ngón chân, dĩ nhiên là chẵn rồi. Y nói rõ là sau năm bảy mươi tuổi chắc là để cho ta tưởng rằng sau năm bảy mươi tuổi y mất đi một ngón chứ gì? Binh pháp có nói là: Thực ấy là hư mà hư ấy là thực. Y còn đủ mười ngón chân nhưng cố tình giở trò đánh lạc hướng, ta đâu có trúng kế lão?”. Y bèn nói:

- Số chẵn.

Hoàng Mi tăng đáp:

- Sai rồi, số lẻ.

Người áo xanh nói:

- Cởi giày ra xem nào!

Hoàng Mi tăng cởi giày vớ bên chân trái ra thấy đầy đủ năm ngón không thiếu ngón nào. Người áo xanh chăm chăm nhìn mặt đối phương thấy ông ta miệng mỉm cười, thần tình trấn tĩnh nghĩ thầm: “Thì ra chân phải y chỉ có bốn ngón”. Lại thấy nhà sư từ từ cởi giày vải chân phải ra, giơ tay cởi vớ đang định nói: “Thôi khỏi cần kiểm chứng, ông đi trước đi” thì lại chợt nghĩ: “Không thể mắc hỡm y”.

Hoàng Mi tăng lại cởi nốt vớ chân phải, chân phải cũng đầy đủ năm ngón, có tàn khuyết gì đâu?

Trong giây phút đó bao nhiêu ý nghĩa hiện ra trong đầu người áo xanh, không biết đối phương có ý định gì. Chỉ thấy nhà sư già giơ chiếc dùi sắt lên đánh mạnh xuống, nghe cách một tiếng chặt gãy luôn ngón chân út của mình. Hai người đệ tử đứng sau lưng thấy sư phụ tự hủy hoại thân thể, máu chảy vọt ra nhịn không nổi kêu “Ối” lên một tiếng. Đại đệ tử Phá Nghi vội lấy thuốc kim sang trong bọc ra rịt cho thầy, xé một mảnh tay áo băng lại.

Hoàng Mi tăng cười nói:

- Lão tăng năm nay sáu mươi chín tuổi, đến khi bảy mươi thì ngón chân ta là số lẻ.

Người áo xanh đáp:

- Quả đúng thế, đại sư đi trước đi.

Y có cái tên là Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân, bao nhiêu chuyện hung ác tàn bạo đã từng thấy cả rồi thì việc chặt đứt một ngón chân có đáng gì đâu nhưng nghĩ thầm nhà sư này chỉ vì muốn tranh tiên một nước mà đã ra tay như thế đủ biết ông ta nhất định phải thắng ván cờ này, một khi mình thua thì những điều kiện ông ta đưa ra sẽ thật là gay go.

Hoàng Mi tăng nói:

- Xin phép.

Ông ta cầm cái dùi lên khắc xuống điểm tứ tứ ở hai góc đối diện mỗi bên một cái vòng tròn nhỏ thế là coi như đã đi hai quân cờ trắng. Người áo xanh giơ cây gậy sắt ra ấn vào hai bên cạnh hai điểm tứ tứ còn lại mỗi bên một cái, lập tức nền đá xanh lõm xuống hai lỗ tức là đi hai quân đen. Cả bốn góc điểm tứ tứ đều có quân đen trắng thì gọi là “thế tử” là một phép đánh cổ của vi kỳ Trung Quốc, trắng đi trước đen đi sau ngược lại với phép đánh sau này của hậu thế.

Hoàng Mi tăng kế đến đặt tại Bình Vị lục tam một quân, người áo xanh bèn đi một nước nơi chỗ cửu tam. Lúc đầu hai người đi rất nhanh, nhà sư không tỏ ra kém sút chút nào, quả có mất một ngón chân để đi trước một nước kể cũng đáng.

Đi đến nước thứ mười bảy mười tám, hai bên cáng lúc càng gay go, tranh nhau thật kịch liệt, kình lực trên tay cũng mỗi lúc một tiêu hao, một mặt suy nghĩ mong thắng, một mặt vận khí tăng gia kình lực thành thử càng lúc càng chậm.

Người đệ tử thứ hai của Hoàng Mi tăng Phá Sân cũng là một tay cờ khá thấy sư phụ dùng đoản binh đấu với người áo xanh hai bên toàn những thế kỳ lạ không khỏi bội phục ngầm. Đi đến nước thứ hai mươi bốn, người áo xanh đột nhiên tung ra kỳ binh, bàn cờ đột nhiên biến đổi nếu như nhà sư không đối phó kịp thì góc bên phải thể nào cũng nguy còn như nếu cố giữ thì lợi thế đi trước không còn nữa.

Hoàng Mi tăng suy nghĩ một hồi lâu chưa biết phải làm thế nào bỗng nghe từ bên trong thạch thất có tiếng truyền ra:

- Tấn công vào Khứ Vị thì không bị mất thế đi trước.

Thì ra Đoàn Dự từ bé đã ham đánh cờ lúc này thấy hai bên đến chỗ gay go nên buột miệng “gà” cho Hoàng Mi tăng. Người đời thường nói: “Cờ ngoài bài trong”, người đứng xem thường sáng nước hơn người đang đánh, kỳ lực của Đoàn Dự vốn đã cao hơn Hoàng Mi tăng lại đứng ngoài nên nghĩ ngay ra được những nước lạ. Hoàng Mi tăng đáp:

- Lão tăng vốn cũng đã có ý đó rồi nhưng chưa đặt xuống được, thí chủ nói thế khiến giải quyết được nghi nan trong lòng.

Bèn đặt nơi Khứ Vị ngay chỗ thất tam một quân. Trong phép đánh cờ ngày xưa của Trung Quốc, Bình Thượng Khứ Nhập là bốn chỗ, Khứ Vị ở góc trên bên phải.

Người áo xanh lạnh lùng đọc:

Đứng ngoài chẳng nói là quân tử,

Tự mình suy tính mới trượng phu.

Đoàn Dự kêu lên:

- Ngươi đem ta nhốt ở nơi đây mà còn dám nói gì chân quân tử hay chăng?

Hoàng Mi tăng mỉm cười:

- Ta là đại hòa thượng chứ nào phải đại trượng phu đâu?

Người áo xanh cười khẩy:

- Vô sỉ thật, vô sỉ thật.

Y suy nghĩ một hồi rồi cũng đi một quân nơi Khứ Vị. Đi được thêm mấy nước, nhà sư già lại gặp thế bí, Phá Sân hòa thượng nóng ruột không nghe Đoàn Dự nhắc gì vội chạy lại trước thạch thất hỏi:

- Nước cờ này phải đi thế nào đây?

Đoàn Dự đáp:

- Ta đã tính ra đến bảy nước rồi nhưng nếu nói ra e rằng kẻ địch nghe được thì không còn hiệu nghiệm nữa thành thử cứ ngần ngừ không muốn nhắc.

Phá Sân giơ bàn tay ra, tay trái viết lên hai chữ:

- Xin viết ra.

Nói xong đưa bàn tai vào trong cái khe, miệng nói:

- Nếu đã thế thì thôi đành chịu vậy.

Y biết người áo xanh nội công thâm hậu dù cho Đoàn Dự có ghé tai nói nhỏ cũng có thể bị y nghe được. Đoàn Dự thấy kế này hay lắm, liều đưa ngón tay viết vào bàn tay y bảy nước đi nói:

- Tôn sư kỳ lực cao minh ắt sẽ có nước hay, chẳng cần tại hạ chỉ điểm.

Phá Sân suy nghĩ một chút thấy bảy nước cờ đó quả thật là cao nên quay trở lại bên sư phụ, đưa tay viết lên lưng ông. Tăng bào của y che hết bàn tay, nên người áo xanh không sao nhìn thấy y giở trò láu cá. Hoàng Mi tăng ngẫm nghĩ một hồi rồi cứ theo đúng thế mà đi.

Người áo xanh hừ một tiếng nói:

- Cái này là có người ngoài mách nước, cứ như sức cờ của đại sư xem ra không thể tới mức này được.

Nhà sư cười:

- Đánh cờ chẳng qua là trò đấu trí, trong cái giả có cái thật, người giỏi thì làm như không giỏi. Nếu như kỳ lực của lão tăng thí chủ biết hết cả rồi thì còn đánh cờ làm gì?

Người áo xanh đáp:

- Chơi trò giảo hoạt ném đá dấu tay.

Y thấy Phá Sân hòa thượng chạy qua chạy lại, lại dấu tay ở sau lưng nhà sư già, ắt hẳn có điều gì quái đản nhưng vì chú tâm đánh cờ thành ra chuyện chung quanh không nhìn rõ được.

Hoàng Mi tăng theo đúng lời Đoàn Dự chỉ, cứ thế mà đi đủ bảy nước. Sáu nước sau không cần phải suy nghĩ gì cả, chỉ chuyên chú vận công nên những cái lỗ do dùi đục vào đá xanh vừa sâu vừa tròn, đủ biết thần khí đầy đủ, nội lực dạt dào không dứt.

Người áo xanh thấy những nước cờ càng sau càng ghê gớm, nước nào cũng phải suy nghĩ cách chống đỡ nên nét đục của thiết trượng nông sâu không đều. Đến khi Hoàng Mi tăng đi xong nước thứ sáu rồi, người áo xanh xuất thần suy nghĩ một hồi đột nhiên đặt một quân vào Nhập Vị.

Quân cờ đó đi thật bất ngờ không liên quan gì đến lối tính toán của Đoàn Dự, Hoàng Mi tăng ngạc nhiên nghĩ thầm: “Bảy nước cờ của Đoàn công tử thật là tinh vi đi đến nước thứ bảy thì ta từ đi trước một nước đã thành hơn tới hai nước. Thế nhưng vào tình thế này thì ta không đi nước này được nữa rồi, chẳng hóa ra bao nhiêu nước trước thành công cốc hay sao?". Thì ra người áo xanh thấy tình hình bất lợi ứng phó cách nào xem ra cũng không xong thành ra không thèm lý đến nữa nên bỏ luôn thế thủ tiến lên công ngay một quân, cái đó chính là “lấy cái không để chống với cái có” quả thực là một nước lợi hại.

Hoàng Mi tăng nhíu mày không nghĩ ra được cách nào cho ổn. Phá Sân thấy thế cờ đột nhiên biến đổi khiến sư phụ bị lâm vào thế bí vội chạy lại thạch thất. Đoàn Dự cũng đã nghĩ chín liền viết cho y sáu nước cờ rõ ràng từng nước một. Phá Sân chạy lại chỗ Hoàng Mi tăng đưa tay viết lên lưng sư phụ. Người áo xanh đã nổi danh là Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân lẽ nào lại dung cho y liên tiếp phá bĩnh mình? Thiết trượng từ tay trái liền tung ra hư điểm vào vai Phá Sân, quát lên:

- Đứa hậu sinh kia, mau đứng lại!

Thiết trượng điểm ra phát xuất tiếng vù vù. Hoàng Mi tăng thấy thế biết là đệ tử mình không sao chống đỡ nổi, thể nào cũng trọng thương lập tức giơ tả chưởng chộp vào đầu trượng. Đầu trượng của người áo xanh liền rung động điểm luôn vào huyệt đạo dưới vú nhà sư. Hoàng Mi tăng biết trảo thành cương đao chém xuống đầu gậy, thiết trượng liền biến chiêu. Chỉ trong khoảnh khắc hai người đã trao đổi bảy tám thức.

Hoàng Mi tăng nhận thấy cánh tay mình ngắn còn thiết trượng của địch dài, nếu tiếp tục hóa ra chỉ thủ mà không công, chỉ thua chứ không có đường thắng nên vừa thấy trượng điểm tới liền tung ra một chỉ nhắm ngay đầu trượng đâm vào. Người áo xanh không rút về tránh, đầu trượng và ngón tay đụng nhau, hai người cùng dùng nội lực để đấu, lập tức cả hai bên đều đứng sững lại.

Người áo xanh nói:

- Đại sư nước cờ kia nhùng nhằng không đi, bàn cờ này chịu thua rồi phải không?

Hoàng Mi tăng cười ha hả nói:

- Các hạ là tiền bối cao nhân, sao lại ra tay đánh trộm đệ tử của ta? Như thế có mất thân phận lắm chăng?

Tay phải cầm chiếu dùi sắt khắc một vòng tròn nhỏ dưới phiến đá. Người áo xanh cũng không nghĩ ngợi, tiện tay cũng đặt một quân. Từ đó trở đi, hai người tay thì vận nội lực không cách nào có thể lơi được, nhưng thế cờ mỗi lúc một gay go, hai bên tranh giành từng chút một.

Năm năm trước đây, Hoàng Mi tăng vì bách tính nước Đại Lý cầu xin Bảo Định Đế bãi bỏ thuế muối, đến tận bây giờ nhà vua mới bằng lòng, hai người hiểu ý nhau nên ông nhất định ra tay cứu Đoàn Dự. Hoàng Mi tăng nghĩ thầm: “Ta dẫu có bỏ mạng cũng không thành vấn đề, nhưng nếu không cứu được Đoàn Dự ra thì còn ra gì với Chính Minh hiền đệ nữa?”.

Kẻ tu tập võ học nội công cần nhất là không được có một chút tạp niệm nào, cái đó gọi là “phản chiếu không minh, vật ngã lưỡng vong ” nhưng đánh cờ thì lại luôn luôn muốn hơn người một bước, trên bàn cờ ba trăm sáu mươi mốt điểm, điểm nào cũng phải nghĩ tới, quả đúng là đến một sợi tóc cũng không thể bỏ qua thì mới tính toán cho đến nơi đến chốn được.

Hai món đó gần như tương phản chống chỏi lẫn nhau. Hoàng Mi tăng công phu thiền định tuy cao thâm, nước cờ lại không cao bằng đối phương, chú tâm vào việc vận nội lực kháng địch thì lại sao nhãng nước cờ, còn như tập trung nghĩ nước cờ thì nội lực lại giảm đi trở thành núng thế, thấy cục diện hôm nay hung hiểm lạ thường nên quyết tâm lấy cái chết báo đền người tri kỷ nên không còn nghĩ gì đến việc an nguy của mình nữa. Cổ nhân có nói: “quân đang nguy ngập thì dễ thắng”, thế nhưng Hoàng Mi tăng lúc này nguy thì có nguy còn chuyện tất thắng thì chưa thấy đâu cả.

*

* *

Tam Công nước Đại Lý là Tư Đồ Hoa Hách Cấn, Tư Mã Phạm Hoa và Tư Không Ba Thiên Thạch tất lãnh ba chục thuộc hạ biết võ công, đem gỗ, xẻng, đèn treo các món tiến vào khu rừng rậm trong Vạn Kiếp Cốc, chọn địa thế rồi đào đường hầm vào. Ba mươi ba người đào cả đêm đã được một con đường hầm dài đến vài chục trượng. Qua hôm sau lại đào thêm nửa ngày nữa đến xế trưa, tính toán ra không còn cách thạch thất bao xa. Hoa Hách Cấn bảo bộ thuộc lui lại phía sau để chuyển đất, chỉ còn ba người thay phiên đào. Ba người biết rằng thái tử Diên Khánh võ công rất cao cường nên khi đào chỉ nhè nhẹ ấn xẻng xuống không dám để phát ra chút thanh âm nào. Chính vì thế mà tiến triển rất chậm. Ba người có biết đâu lúc này người áo xanh đang hết sức chú tâm đánh cờ với Hoàng Mi tăng, lại đấu nội lực làm gì còn để ý đến âm thanh dưới đất.

Đào đến khoảng giờ Thân, tính ra đã đến nơi thạch thất Đoàn Dự đang bị cầm tù. Nơi này và nơi Diên Khánh đang ngồi cách nhau chỉ độ một trượng nên lại càng hết sức cẩn thận không để lộ chút thanh âm nào. Hoa Hách Cấn bỏ xẻng xuống, dùng mười ngón tay moi đất, thi triển Hổ Trảo Công, mười ngón tay chẳng khác nào mười cái móng sắt, móc lên từng tảng đất lớn. Phạm Hoa và Ba Thiên Thạch hai người ở sau chuyền những tảng đất y đào ra ngoài. Lúc này Hoa Hách Cấn không còn đào ngang nữa mà đã đào dọc từ dưới lên trên. Công trình đã gần xong, chỉ giây lát là biết có cứu được Đoàn Dự không, ba người không khỏi tim đập thình thịch.

Việc đào đất từ dưới lên tốn chẳng bao nhiêu công sức, đất vừa gỡ ra là rơi ngay xuống, Hoa Hách Cấn đã đứng thẳng lên được rồi ra tay càng nhanh nhẹn, cứ đào một lát lại lắng tai nghe ngóng xem bên trên có tiếng gì không. Đào như thế chừng tàn hai nén hương, xem ra chỉ còn cách mặt đất chừng một thước, Hoa Hách Cấn tay liềm chậm lại, nhẹ nhàng gạt đất ra sau cùng đụng phải một phản gỗ, trong bụng mừng thầm: "Dưới sàn thạch thất có lát ván xem ra càng tiện cho mình".

Y tập trung sức vào ngón tay, vạch vào tấm phản một hình vuông mỗi bề chừng hai thước, tay giữ tấm ván vừa buông ra một miếng gỗ vuông lập tức rơi xuống thành một cái miệng hầm đủ cho một người chui lọt. Hoa Hách Cấn đưa cái xẻng lên múa múa một vòng để phòng có người đột kích, bỗng nghe có tiếng đàn bà hoảng hốt kêu “A” lên. Hoa Hách Cấn nói nhỏ:

- Mộc cô nương chớ kêu, đây là phe bạn đến cứu hai người đây.

Y tung mình vọt từ dưới hầm lên. Vừa đưa mắt nhìn quanh thì lại càng hoảng hơn, nơi đây nào có phải thạch thất đâu mà là một căn phòng sạch sẽ đồ đạc tươm tất, đầy những kệ để đủ các loại bình lớn bé, một thiếu nữ mặt mày kinh hoàng, nép vào một góc.

Thạch thất kia toàn do Bảo Định Đế nói cho Ba Thiên Thạch nghe, Ba Thiên Thạch nói lại cho y nghe, y sợ mưu kế bại lộ nên đâu có dám đến tận nơi quan sát. Thành thử Hoa Hách Cấn tính toán sai, cái sai một li kia tuy không phải đi một dặm nhưng cũng không đúng chỗ.

Nơi y đào đến đúng ngay nhà Chung Vạn Cừu, thiếu nữ kia là Chung Linh, nàng đang ở trong phòng phụ thân lục lọi tìm giải dược để đi cứu Đoàn Dự, ngờ đâu từ dưới đất lại có một người đàn ông chui lên làm sao nàng không khỏi sợ đến mất cả hồn vía?

Ý nghĩ của Hoa Hách Cấn hiện ra thật nhanh: “Hóa ra mình đào lầm chỗ rồi, phải đào đường khác. Có điều tung tích đã lộ, nếu giết cô gái này để diệt khẩu, ngươi trong Vạn Kiếp Cốc thấy xác cô ta, lập tức sẽ tra xét mọi nơi, mình đào chưa tới thạch thất thì địa đạo này đã bị phát giác. Thôi đành tạm thời bắt cô ta xuống dưới hầm, nếu người nào đi tìm ắt sẽ ra ngoài sơn cốc”.

Ngay lúc đó bỗng nghe thấy phòng ngoài có tiếng chân người đi đến. Hoa Hách Cấn đưa tay xua xua Chung Linh ý bảo cô ta không được lên tiếng, xoay người lại chân trái thò vào miệng hầm, tưởng chừng như định chui trở xuống, đột nhiên lật người nhảy vọt lên, tay trái đưa ra bịt ngay miệng cô gái, tay phải vòng ra ôm ngay lưng cô ta kéo lại gần cửa hầm tống xuống bên dưới. Phạm Hoa giơ tay đỡ lấy, bốc ngay một nắm đất nhét vào mồm Chung Linh. Hoa Hách Cấn nhảy trở vào hầm, cầm miếng gỗ vừa cắt ra để trở lại chỗ cũ rồi ghé tai vào khe nghe ngóng tiếng động bên trên.

Chỉ thấy hai người đi vào trong phòng, có tiếng đàn ông nói:

- Hẳn là nàng đối với y “tình cũ nghĩa xưa” vẫn còn nên khi ta muốn cho họ Đoàn bại hoại thanh danh mới hết sức ngăn trở chứ gì?

Có tiếng đàn bà giận dữ đáp:

- Cái gì mà tình cũ nghĩa xưa? Ta đối với y nào có tình ý gì đâu?

Tiếng đàn ông nói:

- Thế thì hay lắm. Hay lắm!

Trong giọng nói đầy vẻ vui mừng. Người đàn bà nói:

- Có điều Mộc cô nương là con của sư tỉ ta, cũng là người bên mình, sao ông lại giở trò làm khó nàng ta như thế là sao?

Hoa Hách Cấn nghe đến đây, biết ngay đây là vợ chồng Chung cốc chủ, thấy họ bàn cãi với nhau có liên quan đến Đoàn Dự vội lắng tai nghe. Chung Vạn Cừu nói:

- Sư tỉ nàng toan len lén đến thả Đoàn Dự ra, may có Diệp Nhị Nương phát giác thành ra sư tỉ nàng bây giờ là kẻ địch của chúng ta, nàng còn lo cho con gái mụ ta làm gì? Phu nhân, khách tại đại sảnh toàn là những nhân vật thành danh trong võ lâm nước Đại Lý sao nàng chẳng coi ai ra gì, chỉ lườm họ một cái rồi bỏ xuống đây, chẳng ... chẳng hóa ra mình ... thiếu lễ độ quá hay sao?

Chung phu nhân hậm hực đáp:

- Ông mời bọn đó tới đây để làm gì? Những người đó với mình chẳng có giao tình gì lắm, liệu bọn họ có dám đắc tội với đương kim hoàng đế nước Đại Lý không?

Chung Vạn Cừu đáp:

- Ta nào có mời họ đến để tiếp tay đâu, nào có phải muốn họ chống đối tạo phản Đoàn Chính Minh? Cũng may là bọn họ đều ở trong thành Đại Lý nên ta tiện thể mời đến uống rượu, để cho mọi người làm chứng tận mắt thấy rõ con trai và con gái Đoàn Chính Thuần ở chung một phòng, dâm uế loạn luân chẳng khác gì loài cầm thú. Hôm nay những tân khách mình mời đến có cả mấy hào kiệt từ Trung Nguyên phương bắc. Sáng sớm mai bọn ta sẽ mở cửa thạch thất cho tất cả mọi người nhìn rõ ràng đức tính của truyền nhân Nhất Dương Chỉ họ Đoàn như thế nào, có phải thú vị lắm không? Thế có phải truyền khắp giang hồ hay sao?

Nói xong y cười sằng sặc ra chiều đắc ý lắm. Chung phu nhân hừ một tiếng nói:

- Hèn hạ, hèn hạ! Vô liêm sỉ, vô liêm sỉ!

Chung Vạn Cừu nói:

- Nàng chửi ai là hèn hạ vô liêm sỉ vậy?

Chung phu nhân đáp:

- Kẻ nào làm những việc hèn hạ vô liêm sỉ thì là đồ hèn hạ vô liêm sỉ, cần gì phải chửi đích danh những người đó.

Chung Vạn Cừu nói:

- Đúng rồi, tên ác đồ Đoàn Chính Thuần tính tình trăng gió tạo nhiều oan nghiệt, để đến nỗi con ruột mình với con gái gian dâm, thật quả là đồ hèn hạ vô liêm sỉ hết nước nói.

Chung phu nhân cười khẩy hai tiếng, không trả lời. Chung Vạn Cừu nói:

- Sao nàng lại cười khẩy? Thế không phải nàng chửi Đoàn Chính Thuần là hèn hạ vô liêm sỉ hay sao?

Chung phu nhân lại cười khẩy nói:

- Mình đánh không lại họ Đoàn, cả đời chui rúc ở trong sơn cốc không dám thò đầu ra thì cũng còn được, ấy gọi là biết xấu hổ cũng đã gần được đức dũng , cũng khá gọi là làm người. Ngờ đâu lại đi dùng thủ đoạn dàn dựng con trai con gái người ta, thiên hạ anh hùng cười đâu có cười y mà sẽ cười Chung Vạn Cừu.

Chung Vạn Cừu nhảy nhổm lên, giận dữ hỏi lại:

- Nàng ... nàng chửi ta là hèn hạ vô liêm sỉ chăng?

Chung phu nhân chảy nước mắt, nghẹn ngào đáp:

- Có ngờ đâu tôi lấy được ông chồng, gửi gấm chuyện trăm năm, lại là ... lại là một người như thế. Sao ... sao tôi khổ thế này?

Chung Vạn Cừu vừa thấy vợ khóc liền cuống quít chân tay nói:

- Được rồi, được rồi! Nàng muốn chửi ta thì cứ chửi cho thỏa thích.

Y đi qua đi lại trong phòng, tính nói vài câu xin lỗi vợ nhưng nhất thời không nghĩ ra cách nào, chỉ nói:

- Cái đó có phải chủ ý ta đâu! Đoàn Dự là do Nam Hải Ngạc Thần đem về, Mộc Uyển Thanh thì do Ác Quán Mãn Doanh bắt giữ, còn Âm Dương Hòa Hợp Tán cũng nào phải của ta? Ta làm gì có loại dược vật hèn hạ xấu xa đó?

Lúc này y chỉ nghĩ được chuyện đổ trách nhiệm qua người khác, Chung phu nhân cười khẩy:

- Nếu như ông biết được thế là hèn hạ xấu xa thì cũng tốt rồi. Nếu quả ông không tán thành chủ ý đó sao không thả Mộc Uyển Thanh ra đi?

Chung Vạn Cừu nói:

- Đâu có được, đâu có được. Nếu thả Mộc Uyển Thanh ra, một mình tên tiểu quỉ Đoàn Dự thì còn có làm được cái trò gì nữa?

Chung phu nhân cười gằn:

- Được rồi, ông đã hèn hạ vô liêm sỉ, tôi cũng sẽ làm trò hèn hạ vô liêm sỉ cho ông thấy.

Chung Vạn Cừu kinh hãi quá vội hỏi rối rít:

- Nàng ... nàng ... nàng làm cái trò gì thế?

Chung Vạn Cừu run run hỏi:

- Nàng ... nàng lại định cùng với Đoàn Chính Thuần ... tên ác tặc Đoàn Chính Thuần tư thông ư?

Chung phu nhân giận dữ hỏi lại:

- Cái gì mà bảo rằng lại định là sao?

Chung Vạn Cừu vội vàng cười làm lành:

- Phu nhân, nàng đừng giận. Ta nói sai, nàng trước nay đâu có ... đâu có đi lại gì với y. Nàng bảo sẽ làm điều hèn hạ vô liêm sỉ cho ta coi, chắc là ... chắc là để đùa chứ gì?

Chung phu nhân không trả lời. Chung Vạn Cừu trong lòng thảng thốt, liếc mắt nhìn thấy trong phòng chai lọ ngổn ngang liền nói:

- Ồ, Cái con bé Linh Nhi thật nghịch ngợm hết nước nói, mới tí tuổi đầu mà đã dám hỏi ta Âm Dương Hòa Hợp Tán là cái gì, không biết nó nghe được ở đâu, rồi vào đây lục lọi tùm lum.

Nói xong y tới bên giá thuốc xếp lại những bình, chân đạp lên miếng gỗ mới bị cắt đứt. Hoa Hách Cấn vội vận kình đỡ lên sợ y phát giác. Chung phu nhân nói:

- Linh Nhi đâu? Nó đi đâu rồi? Sao ông lại muốn đưa nó lên trên sảnh chào khách?

Chung Vạn Cừu cười nói:

- Chúng mình sinh được đứa con xinh đẹp như thế, sao không để cho bằng hữu được thấy qua?

Chung phu nhân đáp:

- Bộ ông muốn đem mỡ nhử mèo chăng? Tôi nhìn thấy đôi mắt hau háu của gã Vân Trung Hạc, nhìn Linh Nhi chăm chăm nhỏ nước dãi, ông phải coi chừng y đó.

Chung Vạn Cừu cười nói:

- Ta chỉ coi chừng có một mình nàng, người đẹp hoa nhường nguyệt thẹn như bà, ai mà chẳng thèm nhỏ dãi?

Chung phu nhân chép miệng gọi lớn:

- Linh Nhi! Linh Nhi!

Một con a hoàn chạy lên bẩm:

- Tiểu thư vừa mới ở đây mà.

Chung phu nhân gật đầu nói:

- Ngươi đi mời tiểu thư lên, ta có chuyện cần nói.

Chung Linh ở dưới hầm tất cả những gì cha mẹ nói với nhau nghe rõ từng câu từng chữ, khổ nỗi không có cách nào lên tiếng cầu cứu, trong bụng hoảng hốt, mồm bị nhét đầy đất thật là khó chịu. Chung Vạn Cừu nói:

- Nàng nghỉ một lát, ta ra ngoài tiếp khách.

Chung phu nhân lạnh lùng hỏi lại:

- Sao ông không nghỉ để tôi ra tiếp khách?

Chung Vạn Cừu đáp:

- Thôi cả hai vợ chồng cùng ra vậy.

Chung phu nhân nói:

- Thế khách muốn nhìn khuôn mặt hoa da phấn của tôi hay là muốn nhìn cái mặt ngựa của ông? Bao giờ đến lúc tôi nhìn cũng chán ngấy ông sẽ biết ngay nó thế nào!

Mấy hôm nay Chung Vạn Cừu thật là vô vị, dẫu nói gì ra cũng bị vợ cằn nhằn một chập, biết rằng nàng cùng Đoàn Chính Thuần hai người xa nhau lâu ngày nay gặp lại, gợi nhớ tình xưa nên trong lòng khó chịu. Trong bụng y tuy giận lắm nhưng nào có dám nói lại nửa câu, chỉ đành cười hì hì đi ra đại sảnh, vừa đi vừa nghĩ: “Không biết nàng làm cái gì mà hèn hạ vô liêm sỉ cho ta thấy đây? Nàng lại nói “đến lúc tôi nhìn cũng chán ngấy”, như thế nghĩa là hiện giờ nàng chưa chán, cũng không có gì đáng ngại. Chỉ sợ tên cẩu tặc Đoàn Chính Thuần ...”

1 Chim phượng làm tổ trên cây ngô đồng

2 Lời chú của Kim Dung: Mãi về sau tới đời Đoàn Trí Hưng tức Nhất Đăng đại sư vì tình thế phải chế ngự Âu Dương Phong nên mới phá lệ tổ tiên đem công phu này truyền cho Vương Trùng Dương và Ngư Tiều Canh Độc bốn đại đệ tử (xem Xạ Điêu Anh Hùng truyện)

3Hoàng Thái Đệ là người em nhưng được thừa kế ngôi vua. Trong sử quả có chép Bảo Định hoàng đế tại vị 15 năm rồi xuất gia nhường ngôi cho em là Đoàn Chính Thuần tức là Trung Tông hoàng đế. Trung Tông làm vua 12 năm rồi cũng đi tu. Nước ta vào thời kỳ này cũng có nhiều vị hoàng đế bỏ ngôi vào chùa tu nhất là đời Trần các vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông, Minh Tông đều trở thànhø những cao tăng thâm hiểu Phật pháp.

4Theo quan chế ngày xưa Tư Không, Tư Đồ, Tư Mã gọi là Tam Công. Tư Không coi về việc đất đai, lãnh thổ tức thượng thư Bộ Công. Tư Đồ trông coi về nhân dân, hành chánh nên còn gọi là Tướng Quốc (sau gọi là Thừa Tướng). Tư Mã coi về quân sự, binh bị sau gọi là thượng thư Bộ Binh. Ngoài ra còn một chức vụ nữa là Tư Khấu trông coi việc pháp luật (thượng thư Bộ Hình). Nếu đúng nguyên tắc thì việc công bố lệnh bãi bỏ thuế muối phải do quan Tư Đồ đảm trách mới phải.

5 Đây là cờ vây chứ không phải cờ tướng

6Bàng quan bất ngữ chân quân tử,

Tự tác chủ trương đại trượng phu.

7Giữ cho tâm thanh tịnh quên hết cả ta lẫn vật

8 tri sỉ cận hồ dũng

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #trungthông