Thien Long Bat Bo - Ban moi - Hoi 26>>30
hồi 26(a)
XÍCH THỦ ĐỒ HÙNG TRÓC HỔ
Xa xôi vạn dặm đường trường,
Tay không bắt cọp như tuồng mèo con.
Anh hùng giữa cảnh núi non,
Can vân hào khí vẫn còn như xưa.
*
* *
Tiêu Phong trong lúc ngàn cân treo trên sợi tóc thoát được hiểm nghèo
như thế, kêu thầm: Hú vía, ý niệm đầu tiên nghĩ đến là: Con tiểu yêu
nữ này tâm địa độc ác thật, dám dùng cách đó ám toán ta. Ông biết ám
khí phái Tinh Tú thật là lợi hại, độc địa đến cực điểm, nếu như bị bắn
trúng thì thật khó mà sống được, không khỏi tim đập thình thình.
Đến khi ông nhìn lại A Tử bị một chưởng đánh văng xa hơn chục
trượng, đột nhiên thất kinh: Chết rồi, chưởng đó cô ta làm sao chịu nổi?
E rằng bị mình đánh chết rồi. Ông nhún một cái phóng mình nhảy tới,
thấy nàng hai mắt nhắm nghiền, máu từ hai bên khóe miệng ứa ra, mặt
vàng khè như đồ hàng mã, lần này quả là ngừng thở thật rồi.
Tiêu Phong ngẩn ngơ nghĩ bụng: Ta đã đánh chết A Châu, bây giờ lại
giết luôn cả cô em gái của nàng. Nàng ... nàng khi sắp chết đã dặn ta lo
lắng cho muội muội, ngờ đâu ... ngờ đâu ... ta lại đánh chết luôn cả nó.
Tuy ý nghĩ đó chỉ vụt qua đầu nhưng bởi ông tâm thần hoảng hốt nên
tưởng như trải qua một thời gian thật dài. Ông lắc đầu, vội vàng giơ
chưởng đè vào sau lưng A Tử, đem chân khí nội lực hết sức truyền vào.
Một lúc sau, thân hình A Tử hơi rung động, Tiêu Phong mừng quá gọi:
- A Tử, A Tử, em đừng chết, bằng giá nào ta cũng nhất định sẽ cứu
em.
Thế nhưng A Tử chỉ cựa một cái rồi lại nằm yên. Tiêu Phong hết sức
bồn chồn, lập tức ngồi xếp bằng ngay trên mặt tuyết, nhè nhẹ đỡ A Tử
lên, để ngồi trước mặt đưa song chưởng để vào sau lưng, đem chân lực từ
từ truyền vào người cô gái. Ông biết rằng A Tử bị thương rất nặng, lúc
này chỉ cốt sao giữ cho nàng còn thoi thóp, tạm thời không chết rồi tìm
cách cứu chữa sau thành thử truyền chân khí vào người nàng cũng hết sức
chậm rãi. Độ chừng thời gian một bữa ăn, trên đầu ông tỏa ra những làn
hơi trắng đủ biết đã dùng toàn lực rồi.
Cứ như thế liên tục hành công chừng nửa giờ A Tử mới hơi động đậy,
rên khẽ lên một tiếng:
- Tỉ phu!
Tiêu Phong mừng quá, tiếp tục truyền vào nhưng không nói chuyện
với nàng, thấy thân thể cô ta dần dần ấm lại, mũi đã có hơi thở nhè nhẹ.
Tiêu Phong e ngại có chuyện không hay nên không dám ngừng chuyển
nội lực, đến mãi giữa trưa, hơi thở của A Tử mới đều đặn mặc dù mặt vẫn
xanh mét không một chút máu. Ông liền bồng ngang nàng trên tay, rảo
bước chạy đi.
Ông gia tăng cước bộ, cố sao vừa nhanh vừa ổn, tay trái vẫn để lên sau
lưng A Tử, không ngừng chuyển chân khí vào. Chạy đến hơn một giờ mới
đến một tiểu thị trấn, nơi đó không có khách điếm, đành phải tiếp tục đi
về hướng bắc, chạy đến hơn hai chục dặm, mới tìm ra được một nhà trọ
thật sơ sài. Khách điếm đó không có tiểu nhị, do chính chủ nhân tự hầu
hạ khách hàng. Tiêu Phong bảo người chủ đem lại cho ông một bát cháo
nóng, dùng thìa múc đút vào mồm A Tử. Thế nhưng nàng chỉ uống được
ba thìa, rồi lại ói ra cả, trong nước cháo có lẫn máu bầm.
Tiêu Phong cực kỳ lo lắng, nghĩ bụng A Tử bị thương kỳ này xem ra
khó mà trị được, Diêm Vương Địch Tiết Thần Y nào có biết đang ở nơi
nao, mà dẫu có ở gần bên, cũng chưa chắc đã làm được gì. Hôm trước A
Châu bị thương không trực tiếp do chưởng lực của phương trượng chùa
Thiếu Lâm mà đã nguy hiểm vạn phần, lại được bôi linh cao của Đàm
Công Thái Hàng sơn, rồi được Tiết Thần Y cứu chữa, có thế mới khỏi.
Tuy ông biết tính mạng A Tử khó mà bảo tồn nhưng không vì thế mà chịu
bó tay, chỉ nghĩ: Dù ta phải hết lòng hết sức, chân khí nội lực hao kiệt
hoàn toàn cũng cố còn nước còn tát. Không phải ta muốn cứu cô ta mà
chính là vì không muốn phụ lời trăn trối của A Châu.
Ông vẫn biết A Tử ra tay ám toán mình trước, trong hoàn cảnh đó, nếu
không đánh chưởng đó ra, tính mạng ắt không còn. Người võ công cao
cường như ông, mỗi khi gặp nguy đâu còn kịp suy nghĩ gì lập tức ra tay
chống đỡ giải nạn. Ông bị bắt buộc phải đả thương A Tử, ví như A Châu
có mặt nơi đây thì cũng không trách cứ gì được vì chính A Tử tự gây ra
họa cho mình chứ không liên quan đến ai, có điều vì A Châu không biết
nên ông cảm thấy có lỗi với nàng.
Đêm hôm đó ông không chợp mắt được chút nào, thâu đêm không
ngừng truyền chân khí để duy trì tính mạng cho A Tử. Hôm trước A Châu
bị thương, chỉ khi nào hơi thở thoi thóp Tiêu Phong mới ra tay, còn hiện
giờ bàn tay ông không lúc nào rời khỏi lưng A Tử, nếu không sẽ lập tức
chết ngay.
Tối hôm sau cũng y như thế. Tiêu Phong công lực tuy mạnh thật nhưng
hai ngày hai đêm hao tốn hơi sức cũng mệt mỏi vô cùng. Hai vò rượu mà
tiểu khách điếm trữ được đã bị ông uống sạch không còn một giọt, muốn
bảo chủ quán đi mua thêm nhưng túi đã cạn.
Ông một ngày không ăn cơm cũng chẳng hề gì nhưng một buổi không
có rượu thì thật khó chịu, lúc này trong bụng đang buồn bực lại càng cần
có rượu cho tỉnh táo, nghĩ thầm: Trên người A Tử ắt có mang theo tiền
bạc.
Ông cởi cái bị của nàng ra, quả nhiên có ba đĩnh vàng nhỏ, vài đĩnh
bạc lẻ. Ông lấy ra một đĩnh bạc, buộc cái túi lại, thấy cái túi có một sợi
dây vải màu tím, một đầu buộc vào ngang hông. Tiêu Phong nghĩ thầm:
Gớm cô bé này cẩn thận quá, sợ cái túi bị rơi mất, không biết cái gì mà
buộc dính chặt vào người thế này mới yên bụng. Ông cởi cái nút buộc
vào lưng, cái nút đó tết thật kỹ, dùng một tay phải mất bao nhiêu công
lao mới gỡ ra được. Cái dây vừa tuột ra dường như đầu kia còn có vật gì
dấu trong quần.
Ông buông tay ra nghe cách một tiếng, vật đó rơi xuống sàn, chính là
một chiếc đỉnh nhỏ bằng gỗ màu vàng sậm. Tiêu Phong thở dài, cúi
xuống nhặt lên đặt trên bàn. Chiếc đỉnh đó điêu khắc cực kỳ tinh mỹ
bằng một loại gỗ bóng loáng như ngọc, trong thớ có thấp thoáng vân đỏ.
Tiêu Phong biết ngay đây là vật mà phái Tinh Tú dùng để luyện Hóa
Công Đại Pháp, cảm thấy chán ghét nên chỉ liếc qua rồi không màng tới
nữa, nghĩ thầm: Tiểu cô nương này quả là giảo hoạt, mồm năm miệng
mười bảo là Thần Mộc Vương Đỉnh đã giao cho ta rồi, có ai ngờ vẫn dấu
trong ống quần. Có lẽ đồng môn của nàng tưởng đã giao lại cho ta thật,
hoặc giả không tiện tra xét đàn bà con gái nên trước sau không ai khám
phá ra được. Ôi, hôm nay tính mạng nàng cũng chẳng giữ được, cái thứ
thân ngoại chi vật này có làm gì?.
Ông bèn gọi chủ quán vào bảo y cầm lượng bạc đi mua rượu thịt, còn
mình tiếp tục dùng nội lực bảo trì tính mạng cho A Tử. Đến sáng ngày thứ
tư, ông không còn chịu đựng được nữa, chỉ còn nước hai tay nắm một bàn
tay A Tử, ôm nàng vào lòng cho dựa lên người mình, đem nội lực truyền
theo chưởng tâm, chỉ được một lát hai mắt không còn mở nổi, lơ mơ ngủ
luôn.
Thế nhưng ông khắc khoải tính mạng A Tử nên chỉ chợp mắt một tí rồi
lại choàng tỉnh, cũng may trong khi nằm ngủ, chân khí lưu động miễn sao
lòng bàn tay không xa rời A Tử nên hơi thở của cô ta không bị đứt quãng.
Cứ như thế thêm hai ngày nữa, tuy A Tử miễn cưỡng không tắt hơi
nhưng thương thế chẳng bớt chút nào, dẫu nằm chết bẹp trong tiểu điếm
này cũng chẳng đi đến đâu? Thỉnh thoảng A Tử cũng mở được mắt nhưng
thần thái lờ đờ, hiển nhiên không biết gì cả, cũng không nói năng được
câu nào. Tiêu Phong hết sức suy nghĩ nhưng không tìm ra kế sách, nghĩ
thầm: Thôi đành ôm nàng lên đường, may ra còn có cơ hội chứ ở trong
khách điếm này rồi cũng vô phương.
Ông bèn tay trái ôm A Tử, tay phải cầm cái túi của nàng bỏ vào bọc,
thấy cái đỉnh trên bàn nghĩ thầm: Cái thứ đồ này chỉ dùng để hại người,
chi bằng đập vỡ nó đi cho xong. Ông định giơ chưởng đánh xuống bỗng
chợt nghĩ lại: A Tử trăm đắng nghìn cay mới ăn trộm được cái vật này.
Bây giờ xem ra thương thế nàng không thể nào chữa được, lúc sắp chết
hồi quang phản chiếu, có thể tỉnh táo lại trong phút chốc, không chừng lại
hỏi đến cái mộc đỉnh, lúc đó ta đem ra cho nàng xem để nàng an tâm mà
chết còn hơn ôm hận xuống tuyền đài.
Ông bèn cầm cái đỉnh gỗ lên, vừa chạm phải cảm thấy dường như bên
trong có cái gì cựa quậy, hết sức lạ lùng, chăm chú nhìn, mới hay chung
quanh có năm cái lỗ to bằng đồng tiền, còn nơi cổ đỉnh có đường ngấn,
xem ra có thể tháo ra. Ông lấy ngón út và ngón vô danh kẹp chiếc đỉnh,
dùng ngón tay cái và ngón tay trỏ xoay phía trên qua bên trái, quả nhiên
chuyển động được. Xoay được mấy vòng, mở nắp nhìn vào trong không
khỏi ngạc nhiên, lại thấy kinh khiếp. Thì ra bên trong có hai con độc
trùng, một con rết và một con bò cạp, đang cắn nhau hết sức dữ dội.
Mấy hôm trước khi ông bỏ chiếc đỉnh trên bàn, trong đỉnh rõ ràng có
gì đâu, xem ra con rết và con bò cạp này mới ở đâu bò vào. Tiêu Phong
đoán chừng đây là phương pháp tìm bắt độc trùng độc vật của phái Tinh
Tú nên nghiêng chiếc đỉnh đổ hai con vật xuống đất, lấy chân dẵm chết,
sau đó đóng nắp lại, bỏ lại vào trong túi vải. Tiêu Phong tính toán tiền
nong xong xuôi rồi, ôm A Tử lên xông gió đạp tuyết đi về hướng bắc.
Ông kết oán thù cực kỳ sâu xa với hào kiệt Trung Nguyên, đường đi
càng lúc càng gần kinh đô Biện Lương nhà Đại Tống, thể nào cũng đụng
đầu nhân vật võ lâm. Ông không muốn giết người kết thêm thù oán, lại
không muốn cải trang, thêm trên tay ôm A Tử nếu phải động thủ với
người thực là bất tiện thành thử tránh đường lớn, chỉ tìm những đường
mòn hẻo lánh ở chốn sơn dã mà đi nên suốt mấy trăm dặm vẫn bình an
vô sự.
Hôm đó đến một thị trấn lớn, thấy một tiệm thuốc bên ngoài có treo
bảng: Nho y gia truyền Vương Thông Trị chẩn bệnh miễn phí, nghĩ
bụng: Địa phương nhỏ chắc không có danh y đâu nhưng mình cũng cứ
vào thử xem thế nào. Ông liền ôm A Tử đi vào xin chữa trị.
Nho y Vương Thông Trị cầm tay A Tử đưa mắt nhìn Tiêu Phong, lại
bắt mạch A Tử lần nữa, lại nhìn Tiêu Phong, vẻ mặt cực kỳ khác lạ, đột
nhiên đưa tay bắt mạch Tiêu Phong. Tiêu Phong bực tức nói:
- Này thầy lang, ta nhờ ông chữa bệnh cho em gái ta chứ nào có nhờ
thầy chữa cho ta đâu.
Vương Thông Trị lắc đầu nói:
- Ta xem ông cũng có bệnh, đầu óc khật khùng, tâm thần rối loạn
đảo điên, cần phải chữa trị ngay đi.
Tiêu Phong đáp:
- Ta làm gì mà đầu óc khật khùng?
Vương Thông Trị đáp:
- Vị cô nương này mạch đã ngừng, vốn dĩ chết rồi, có điều thân thể
chưa cứng đấy thôi. Ngươi ôm cô ta đi tìm thầy thuốc làm gì? Thế chẳng
phải tâm thần rối loạn hay sao? Này lão huynh, người chết không thể
sống lại, ngươi cũng chẳng nên quá thương tâm mà ôm xác lệnh muội, chi
bằng mau mau đem chôn, thế cũng là xong.
Tiêu Phong dở khóc dở cười nhưng ngẫm lại lời ông lang này cũng có
lý, đúng là A Tử chết rồi, chỉ còn nhờ chân khí của mình mà thoi thóp,
thầy lang tầm thường làm sao biết được? Ông đứng lên quay người đi ra.
Bỗng thấy một người ăn mặc theo lối quản gia hấp tấp chạy vào tiệm
thuốc giục giã:
- Mau lên! Mau lên! Cho loại lão sơn nhân sâm1 tốt nhất. Lão thái
gia nhà ta bị trúng phong, sắp tắt hơi đến nơi, cần nhân sâm để giữ cho
khỏi chết.
Dược điếm chưởng quĩ vội đáp:
- Có đây! Có đây! Thượng hảo hạng lão sơn nhân sâm đây.
Tiêu Phong nghe nói lão sơn nhân sâm để giữ cho khỏi chết lập tức
nhớ ra cũng từng nghe người bệnh nặng sắp tắt thở nếu cho uống mấy
ngụm sâm thang sắc đặc thì có thể cầm hơi, sống thêm được một lúc, trối
trăn vài câu, có điều không nghĩ tới để dùng cho A Tử. Gã chưởng quĩ lấy
ra một cái hộp gỗ gụ, trịnh trọng mở nắp trong đó có ba củ sâm to bằng
ngón tay. Tiêu Phong cũng nghe nói nhân sâm càng to càng tốt, bên
1 Nhân sâm mọc hoang lâu năm
ngoài nhăn nhúm càng quí nếu lại thành hình người, đủ cả đầu mình chân
tay ấy là loại già dặn cực phẩm. Ba củ sâm này chỉ là loại thường, trông
chẳng có gì đặc biệt, gã quản gia lấy một củ lật đật đi ngay.
Tiêu Phong lấy đĩnh vàng ra, mua luôn hai củ còn lại. Trong tiệm
thuốc có sẵn dụng cụ sắc thuốc giùm khách hàng, lập tức bảo nấu sâm
thang đút cho A Tử uống mấy hớp. Lần này may quá nàng không nôn ra.
Lại cho nàng uống thêm mấy ngụm nữa, Tiêu Phong cảm thấy mạch
nhảy mạnh hơn, hơi thở cũng đều hòa được một chút, trong bụng không
khỏi mừng thầm.
Gã nho y Vương Thông Trị đứng bên cạnh, liên tiếp lắc đầu nói:
- Lão huynh, nhân sâm không phải dễ kiếm, phí phạm thế thật uổng.
Nhân sâm cũng chẳng phải linh chi tiên thảo, nếu như cứu người chết
sống lại được thì kẻ có tiền chắc sống đời đời.
Mấy hôm nay Tiêu Phong không hề rời xa A Tử được lấy một bước,
trong lòng buồn bực đã lâu, nghe gã Vương Thông Trị đứng kế bên lèm
bèm rặt giọng bàn ra, tức khí xông lên, vung tay toan đánh cho y một
chưởng. Thế nhưng ông vừa cất tay thì cố nhịn: Đánh bừa bãi kẻ không
biết võ công thì đâu phải anh hùng hảo hán?. Ông bèn rụt tay về, ôm A
Tử lên đi ra khỏi tiệm thuốc bắc, văng vẳng nghe Vương Thông Trị vẫn
còn khinh khỉnh nói theo:
- Hán tử này quả là hồ đồ, ôm cái xác chết chạy ngược chạy xuôi,
xem ra tính mạng y cũng chẳng được bao lâu.
Ông thầy lang có biết đâu mình vừa đến quỉ môn quan lại quay trở lại,
nếu như Tiêu Phong tức giận đánh cho bõ tức thì dẫu có mười Vương
Thông Trị cũng thành bất trị.
Tiêu Phong ra khỏi dược điếm rồi nghĩ thầm: Nghe nói lão sơn nhân
sâm chỉ có ở nơi cực lạnh trong dãy Trường Bạch, chi bằng mình lên đó
cầu may. Vẫn biết cứu sống A Tử quả là thiên nan vạn nan, nhưng giữ
cho nàng sống thêm được ngày nào, A Châu ở trên trời có linh thiêng thì
trong lòng cũng vui vẻ thêm được chừng nấy.
Nghĩ thế ông chuyển qua bên phải tìm đường đi về phía đông bắc.
Trên đường đi mỗi khi gặp tiệm thuốc liền đi vào mua nhân sâm, đến sau
tiền bạc tiêu hết, chẳng ngại ngùng gì vào lấy không, vài tên phổ ky2 làm
gì ngăn nổi? A Tử uống một lượng lớn nhân sâm rồi, thỉnh thoảng cũng
có thể mở mắt ra, kêu khẽ: Tỉ phu! đến tối cũng ngủ được vài giờ
không cần tiếp chân khí mà vẫn tự mình thoi thóp được. Cứ như thế càng
đi càng lạnh, sau cùng Tiêu Phong cũng bế A Tử đến được núi Trường
Bạch. Tuy nói là trong dãy Trường Bạch có nhiều nhân sâm nhưng nếu
không phải là người chuyên môn đã quen thuộc địa thế, trong nghề sành
sỏi lâu năm, thì dẫu có một năm sáu tháng cũng chưa chắc tìm ra một củ.
Tiêu Phong tiếp tục lên hướng bắc, người đi đường càng lúc càng thưa,
đến sau chung quanh chỉ là rừng sâu cỏ dày, núi cao đồi tuyết, luôn mấy
ngày cũng không gặp một ai, trong lòng không khỏi kêu khổ thầm: Chết
rồi! Khắp nơi chỗ nào cũng băng tuyết, làm thế nào mà tìm được sâm?
Chi bằng trở về nơi nào có buôn bán, có tiền thì mua, không tiền thì
cướp. Nghĩ thế ông ôm A Tử tìm đường quay trở về.
Khi đó khí trời lạnh ngắt, mặt đất đầy băng, tuyết đóng cao mấy thước
thật là khó đi, nếu ông không phải là người võ công trác tuyệt thì dù
không chết cóng cũng bị sa lầy vào trong tuyết trắng chẳng thoát ra được.
Đi đến ngày thứ ba, trời u ám, xem ra bão tuyết đang kéo đến, đưa
mắt trái phải trước sau chỗ nào cũng trắng xóa, trên mặt đất không thấy
một dấu chân người, đến vết dã thú cũng không. Tiêu Phong trong bụng
hoang mang, tựa hồ đang ở giữa biển khơi bao la không bờ không bến chỉ
có tiếng gió rít thổi ù ù bên tai.
Tiêu Phong biết mình đã bị lạc, mấy bận nhảy lên trên cây cao nhìn
bốn bề, chung quanh chỉ toàn cây cối rậm rạp tuyết phủ trắng xóa nào có
biết đâu là đông, là tây, là nam, là bắc? Ông sợ A Tử bị lạnh, cởi trường
bao ra bọc nàng lại ôm vào lòng. Ông tuy trước nay không sợ trời sợ đất
gì cả nhưng lúc này ở chốn thiên địa mang mang, tưởng như chỉ còn lại
một thân một mình, không khỏi chột dạ. Nếu quả như chỉ mình ông thôi
thì cũng đành, biển tuyết tuy mênh mông nhưng cũng không đến nỗi
tuyệt vọng, thế nhưng khỗ nỗi trong tay lại ôm một nàng A Tử đang mê
man, sống dở chết dở.
2 khỏa kế, tức người giúp việc trong tiệm
Đã ba hôm nay ông không ăn uống gì, tính chuyện bắt một con gà
rừng hay con thỏ dại chi đó nhưng cũng không thấy nghĩ thầm: Mình cứ
chạy lung tung thế này chẳng đi đến đâu, chi bằng ngủ lại một đêm trong
rừng, đợi tuyết ngừng rơi, nhìn trăng sao sẽ có thể tìm ra phương hướng.
Ông kiếm một nơi khuất gió, kiếm ít củi khô, đốt một đống lửa. Lửa
cháy to rồi, trong lòng cũng cảm thấy ấm áp nhưng bụng đói đến sôi sùng
sục, nhìn dưới gốc cây có những cây nấm dại màu trắng xám xem chừng
không độc liền hái nướng lên ăn đỡ dạ.
Ăn đến hơn hai chục tai nấm rồi tinh thần cũng hơi phấn chấn, bèn đỡ
A Tử nằm dựa vào ngực mình để sưởi. Đang toan nhắm mắt ngủ bỗng
nghe một tiếng à uôm thật lớn, chính là tiếng hổ gầm. Tiêu Phong
mừng quá: Xem ra có thú lớn đến đây, mình có thịt hổ ăn rồi.
Ông lắng tai nghe, thấy có hai con hổ từ tuyết địa chạy tới, kế đó có
tiếng lao xao, dường như có người đang đuổi theo. Ông nghe thấy tiếng
người thật mừng hết cỡ, lắng tai nghe thấy hai con dã thú chạy về hướng
tây, lập tức đặt A Tử xuống bên cạnh đống lửa, thi triển khinh công, đi tắt
chặn đầu chúng lại. Khi đó tuyết đổ đang nhiều, gió bấc thổi mạnh, khiến
cho khắp trời chỗ nào cũng mù mịt.
Chỉ mới chạy được độ mươi trượng đã thấy trên mặt tuyết hai con hổ
vằn vện đang chạy thục mạng, phía sau là một đại hán lưng khoác da thú,
tay cầm đinh ba đang rượt nà theo. Hai con cọp đó thật lớn, chạy được
một quãng thì một con gầm lên quay phắt lại chồm vào người thợ săn.
Hán tử đó liền giơ chĩa lên, nhắm thẳng cổ họng mãnh thú đâm tới. Con
cọp đó hết sức nhanh nhẹn, hất đầu qua tránh được thiết xoa, cùng lúc đó
con hổ kia cũng xông tới vồ.
Người thợ săn lập tức đảo đinh ba lại, nghe bịch một tiếng đã dùng cán
chĩa quật ngang bụng con vật. Con vật bị đau, rống lên một tiếng, cụp
đuôi bỏ chạy. Con hổ còn lại cũng không màng lập tức chạy theo.
Tiêu Phong thấy người thợ săn thân thể cao to, cánh tay thật khỏe
nhưng không biết võ công, chỉ quen với tập tính dã thú nên hổ chưa vồ y
đã để thiết xoa đón trước, chính là cách liệu địch cơ tiên nhưng muốn
đâm chết hai con cọp quả không phải dễ.
Tiêu Phong kêu lên:
- Lão huynh, ta đến giúp ngươi đây.
Ông từ trong phóng ra chặn đường hai con hổ. Người thợ săn thấy Tiêu
Phong xông ra, hết sức kinh hãi, lớn tiếng la lối om sòm, không phải Hán
ngữ. Tiêu Phong chẳng hiểu y nói gì cũng chẳng để ý, giơ tay phải lên,
nhắm ngay đầu một con cọp đánh cho một chưởng, bình một tiếng, con
vật tung lên, lộn tùng phèo, kêu rống lên rồi phóng thẳng vào ông.
Chưởng mới rồi Tiêu Phong sử dụng đến bảy thành lực, dù là kẻ võ
công cao cường, nếu trúng đòn thì thể nào cũng vỡ đầu nhưng mãnh hổ sọ
cứng xương thô, chưởng lực liệt thạch khai bi kia cũng chỉ khiến nó lộn đi
một vòng rồi lại xông vào. Tiêu Phong khen thầm: Giỏi nhỉ, mi quả là
gớm thật! nghiêng người né qua, tay phải từ trên chém xéo xuống, nghe
bụp một tiếng, trúng ngay ngang sườn con vật.
Cú chém đó ông tăng thêm một thành công lực, con mãnh hổ loạng
quạng mấy bước, rồi bỏ chạy. Tiêu Phong tiến lên, tay phải vươn ra chộp
trúng ngay đuôi con cọp, tay trái cũng phụ vào, quát lên một tiếng, thi
triển thần lực kéo ghì con hổ lại. Con cọp đang phóng về phía trước bị
Tiêu Phong giữ ghịt, hai luồng lực đạo chõi nhau khiến con vật bị hất tung
lên.
Người thợ săn cầm đinh ba đang đấu với con hổ kia, thấy Tiêu Phong
quăng con cọp lên kinh ngạc không sao kể xiết. Con cọp ở trên không
nhe răng, giương vuốt, từ cao vồ xuống. Tiêu Phong lại quát lên một
tiếng, song chưởng cùng tung ra, nghe hự một tiếng, trúng ngay bụng dưới
con vật. Bụng hổ là nơi thịt mềm, chiêu Bài Vân Song Chưởng đó chính
là công phu đắc ý của Tiêu Phong, ngũ tạng con cọp liền vỡ nát, lăn lộn
một hồi trên mặt tuyết rồi chết tươi.
Người thợ săn trong lòng hết sức kính phục, người ta tay không đánh
cọp, mình dùng đinh ba giết một con không xong, chẳng khiến người ta
coi thường lắm ru? Nghĩ thế y bèn đâm trái một cái, đâm phải một cái,
hết nhát nọ đến nhát kia nhằm ngay mình hổ mà nhử. Con cọp bị trúng
mấy nhát, hung tính nổi lên, nhe hàm răng nhọn hoắt, tung mình vồ tới.
Gã thợ săn nghiêng qua tránh được, đinh ba đảo ngang, nghe phụp một
tiếng đã đâm ngay vào cổ con thú, hai tay đẩy một cái, con vật rống lên
thảm thiết ngã lăn ra đất. Người đó vận sức lên cánh tay, đè chặt con cọp
xuống mặt tuyết. Chỉ nghe tiếng soạt soạt liên tiếp, quần áo bằng da thú
trên người y đã bục ra một mảng lớn, để lộ cái lưng trần, bắp thịt cuồn
cuộn trông thật hùng vĩ.
Tiêu Phong nhìn thấy khen thầm: Hảo hán tử!. Con hổ nằm chổng
bốn chân lên trời, móng vuốt cào cấu vùng vẫy, chỉ một lát không còn
động đậy gì nữa. Người thợ săn rút chiếc đinh ba ra, cười lên ha hả, quay
người lại, nhìn Tiêu Phong giơ lên một ngón tay cái, nói xí xố mấy câu.
Tiêu Phong tuy không hiểu y nói gì nhưng nhìn thần tình của y cũng biết
đang khen ngợi mình quả là anh hùng, bèn bắt chước bộ dạng của y, cũng
giơ hai ngón tay cái lên nói:
- Anh hùng! Anh hùng!
Người đó mừng lắm, chỉ chỉ vào đầu mũi mình nói:
- Hoàn Nhan A Cốt Đả!
Tiêu Phong nghĩ chắc đây là tên y, cũng chỉ vào đầu mũi mình nói:
- Tiêu Phong!
Người kia hỏi lại:
- Tiêu Phong? Khất Đan?
Tiêu Phong gật đầu nói:
- Khất Đan! Ngươi?
Rồi đưa tay chỉ vào y để hỏi. Người kia đáp:
- Hoàn Nhan A Cốt Đả! Nữ Chân!
Tiêu Phong đã từng nghe ở phía đông nước Liêu, phía bắc nước Cao
Ly có một giống người tên gọi Nữ Chân, tộc nhân dũng mãnh thiện
chiến, thì ra gã Hoàn Nhan A Cốt Đả này là người thuộc giống này3. Tuy
ngôn ngữ không thông nhưng giữa cảnh tuyết trắng mịt mùng gặp được
một đồng bạn cũng vui mừng khôn xiết, lập tức hoa chân múa tay cho y
3 tức Mãn Châu sau này
biết là còn một người nữa, sau đó vác con hổ chết lên đi lại phía A Tử
đang nằm. A Cốt Đả cũng vác con hổ của y lên đi theo ở đằng sau.
Hổ mới chết máu chưa kịp đông, Tiêu Phong lật con thú lại cắt cổ cho
máu chảy vào mồm A Tử. A Tử không mở mắt được nhưng vẫn biết
uống, đến trên chục ngụm mới thôi. Tiêu Phong rất mừng, cắt hai đùi
nướng trên lửa. A Cốt Đả thấy ông tay không xé con vật như người ta xé
con gà, thủ kình như thế y chưa từng thấy, chưa từng nghe, ngơ ngẩn nhìn
hai cánh tay ông một hồi rồi nhẹ nhàng vuốt ve cổ tay, cánh tay ông, nét
mặt đầy vẻ kính phục.
Thịt hổ nướng chín rồi, Tiêu Phong và A Cốt Đả ăn đến no. A Cốt Đả
mới ra hiệu hỏi ông đến đây làm gì, Tiêu Phong cũng chỉ trỏ ý nói đi tìm
nhân sâm để trị bệnh cho A Tử nhưng bị lạc lối. A Cốt Đả cười ha hả, lại
múa may lung tung nói là muốn có nhân sâm thì rất dễ, đi theo y bao
nhiêu cũng có. Tiêu Phong mừng quá, đứng dậy, tay trái bồng A Tử, tay
phải xách một con hổ chết. A Cốt Đả giơ tay lên khen:
- Khỏe thật!
Địa thế vùng này A Cốt Đả rất quen thuộc tuy trời gió bão lớn nhưng
không lầm lẫn chút nào. Hai người đi đến chiều tối thì ngủ lại trong rừng,
đến sáng hôm sau lại đi. Cứ như thế đi về hướng tây hai ngày, đến trưa
ngày thứ ba, Tiêu Phong thấy trên mặt tuyết rất nhiều dấu chân. A Cốt
Đả liên tiếp ra hiệu nói là đã đến gần tộc nhân rồi. Quả nhiên đi qua hai
cái thung lũng, thấy bên triền núi phía đông nam lấm tấm đến mấy trăm
căn lều bằng da thú. A Cốt Đả chúm môi huýt một tiếng, từ trong doanh
trướng lập tức có người ra đón.
Tiêu Phong theo A Cốt Đả tới gần, thấy trước mỗi căn lền đều có một
đống lửa, vô khối đàn bà ngồi đầy chung quanh kẻ thì may da thú, người
thì sấy thịt khô. A Cốt Đả dẫn Tiêu Phong đến căn lều to nhất ngay chính
giữa, vén màn đi vào. Tiêu Phong cũng đi theo y. Bên trong lều có chừng
mươi người đàn ông ngồi thành vòng tròn, đang uống rượu, vừa thấy mặt
A Cốt Đả đã lớn tiếng reo hò ầm ỹ. A Cốt Đả chỉ vào Tiêu Phong, nói
huyên thuyên, nhìn bộ dạng đoán chừng đang kể lại chuyện ông tay
không đánh chết hổ.
Mọi người liền vây quanh Tiêu Phong, ai nấy giơ ngón tay cái lên,
không ngớt tấm tắc khen ngợi. Còn đang xôn xao, một gã người Hán ăn
mặc theo lối con buôn bước vào, quay sang hỏi Tiêu Phong:
- Vị gia đài này có nói được tiếng Hán không?
Tiêu Phong mừng rỡ đáp:
- Được chứ! Đươc chứ!
Hỏi ra mới biết căn lều này là doanh trướng của tộc trưởng Nữ Chân.
Người ngồi giữa có râu đen là trưởng tộc Hòa Lý Bố. Ông ta có cả thảy
mười một người con, người nào cũng anh hùng, A Cốt Đả là con trai thứ.
Người Hán đó tên là Hứa Trác Thành, năm nào đến mùa đông cũng tới
đây thu mua nhân sâm, da thú đến đầu mùa xuân mới quay về. Hứa Trác
Thành biết nói tiếng Nữ Chân nên làm thông dịch cho Tiêu Phong.
Người Nữ Chân với người Khất Đan thường thường vẫn đánh lẫn nhau
nhưng rất kính trọng những bậc anh hùng hảo hán. Hoàn Nhan A Cốt Đả
là người lanh lợi giỏi giang, rất được phụ thân yêu thích, người trong bộ
lạc cũng kính trọng y, nay luôn mồm ca ngợi Tiêu Phong nên không ai
hiềm rằng ông là người Khất Đan mà đều đối xử như khách quí.
A Cốt Đả nhường căn lều của mình cho Tiêu Phong và A Tử ở, Tiêu
Phong chối từ mấy câu nhưng A Cốt Đả nhất định không chịu. Tiêu
Phong thấy y thành thực nên đành chấp nhận.
Tối hôm đó người Nữ Chân mở một đại tiệc để đón chào Tiêu Phong,
thịt hai con mãnh hổ đương nhiên trở thành món ăn trân quí. Đã nửa
tháng nay môi Tiêu Phong không được chạm đến một giọt rượu, bây giờ
người Nữ Chân đem túi da này đến túi da khác, đến đâu hết đó, Tiêu
Phong được một bữa thỏa thuê. Rượu của người Nữ Chân vị cay sè cực
mạnh, người thường chỉ cần nửa bao đã say nhưng Tiêu Phong uống luôn
một chục túi mà sắc mặt vẫn như không. Người Nữ Chân xưa nay vẫn
xem lượng rượu uống nhiều ít mà coi là hảo hán, chuyện ông tay không
đánh cọp chỉ nghe kể chưa thấy tận mắt nhưng cách uống rượu thế này,
mười hảo hán Nữ Chân đến uống thi mà chẳng một ai hơn khiến tất cả
đều kính phục.
Hứa Trác Thành thấy người Nữ Chân nể sợ ông nên cũng hết sức
chiều đãi. Tiêu Phong nhàn rỗi không việc gì làm, ban ngày cùng với A
Cốt Đả đi săn, đến tối về lại học tiếng Nữ Chân với Hứa Trác Thành.
Học được bốn năm thành rồi, nghĩ bụng mình là người Khất Đan, không
lẽ không biết nói tiếng Khất Đan xem ra thật không phải nên lại nhờ y
dạy. Hứa Trác Thành đi lại nhiều nơi, chẳng nói tiếng Nữ Chân mà tiếng
Tây Hạ, tiếng Khất Đan cũng đều lưu loát. Tiêu Phong học ngôn ngữ vốn
không thông minh nhưng tiếng Nữ Chân và tiếng Khất Đan so với tiếng
Hán thì giản dị hơn nhiều, ngày rộng tháng dài rồi cũng đủ cho người ta
hiểu không cần phải thông dịch nữa.
Thấm thoát đã mấy tháng qua, đông đi xuân tới, A Tử ngày ngày dùng
nhân sâm thay cơm, thương thế cũng đỡ. Người Nữ Chân đào nhân sâm
nơi hoang sơn dã lãnh, đều là loại sâm già hạng nhất, còn quí hơn cả
hoàng kim. Mỗi lần Tiêu Phong đi săn đều giết được rất nhiều dã thú,
đem đổi lấy nhân sâm cho A Tử dùng, nếu vào người khác dẫu là hào
phú có một tiểu thư ăn uống sâm nhiều như thế e rằng cũng đến khánh
tận.
Tiêu Phong vẫn ngày ngày dùng nội lực giúp nàng vận khí, bây giờ
một ngày chỉ cần hai lần chứ không phải như trước đây chưởng bất ly
thân. A Tử cũng có lúc nói chuyện được vài câu nhưng chân tay tê bại
không cử động, thành thử đi đứng nằm ngồi, chuyện ăn chuyện uống đều
do Tiêu Phong lo liệu cả. Ông nghĩ đến mối thâm tình của A Châu nên
không hiềm lo toan mệt nhọc, ngược lại còn thấy chăm sóc A Tử thêm
một lần là báo đáp được A Châu thêm một chút nên trong lòng thấy thật
an ủi.
Ngày hôm đó A Cốt Đả dẫn mươi người cùng bộ tộc định đi lên miền
tây bắc săn gấu rủ Tiêu Phong đi cùng nói là gấu da dày lông rậm, rất
nhiều mỡ, bàn chân gấu ăn thật ngon còn mật gấu trị thương rất là linh
nghiệm. Tiêu Phong thấy A Tử tinh thần đã khá nhiều, cũng yên tâm đi
săn nên vui vẻ nhận lời. Đoàn người trời chưa sáng đã ra đi, thẳng đường
về hướng bắc.
Lúc đó đã vào đầu mùa hạ, băng tuyết đang tan đấy bùn trơn trượt,
trong rừng đầu những cành nát lá mục cực kỳ khó đi nhưng những người
Nữ Chân nhẹ nhàng nhanh nhẹn đi đứng vẫn thật mau. Đến khoảng trưa,
một người thợ săn già kêu lên:
- Gấu kìa! Gấu kìa!
Mọi người đưa mắt theo hướng tay y chỉ thấy ở xa xa trên đất lầy có
những vết chân lớn, cách không xa lại có một dấu nữa chính là dấu chân
gấu. Mọi người ai nấy cao hứng lập tức theo vết chân lần theo.
Vết chân gấu dẵm xuống bùn cái nào cái nấy sâu đến mấy tấc nên trẻ
con cũng theo được, cả đoàn người hò hét la ó, rảo bước tiến lên. Những
vết chân đó đi về hướng tây, về sau ra khỏi bùn lầy trong rừng ra ngoài
thảo nguyên mọi người đi càng nhanh hơn nữa.
Còn đang rảo bước đuổi theo bỗng nghe tiếng chân ngựa dồn dập, xa
xa đằng trước bụi bay mù mịt một đại đội nhân mã đang phóng tới. Lại
cũng thấy một con gấu đen thật lớn chạy lên, đằng sau là bảy tám người
cưỡi ngựa to cao vừa hét vừa đuổi, ai nấy tay cầm trường mâu, có kẻ tay
cầm cung tên ra chiều hăm hở.
A Cốt Đả kêu lớn:
- Người Khất Đan đó, bọn chúng đông người, chạy mau, chạy mau!
Tiêu Phong nghe thấy là người đồng bộ tộc với mình, trong lòng cảm
thấy thân cận, tuy bọn A Cốt Đả quay đầu bỏ chạy, nhưng không chạy
theo mà đứng lại xem ra thế nào. Thế nhưng bọn người Khất Đan đã hét
lên:
- Bọn mọi Nữ Chân, bắn tên! Bắn tên!
Chỉ nghe tiếng rít lên liên tiếp, vũ tiễn bắn tới như mưa. Tiêu Phong
trong bụng bực tức nghĩ thầm: Chẳng có lý do gì vừa thấy đã bắn là sao?
Cớ chi không hỏi cho rõ ràng?. Mấy mũi tên bắn đến mặt ông đều bị
ông đưa tay gạt ra cả. Bỗng nghe một tiếng A thảm thiết, người thợ săn
Nữ Chân già lưng đã trúng tên, gục xuống chết ngay.
A Cốt Đả cùng cả bọn chạy qua khỏi một ngọn đồi, nằm mọp xuống,
cũng lắp tên vào cung bắn gục hai gã Khất Đan. Tiêu Phong ở giữa,
không biết phải giúp bên nào cho phải. Vũ tiễn của bọn Khất Đan vẫn
tiếp tục bắn vào Tiêu Phong như mưa bấc, Tiêu Phong bắt lấy một mũi
tên thuận tay múa lên, bao nhiêu tên bắn tới đều bị gạt ra, lớn tiếng kêu:
- Làm gì đó? Không nói năng gì đã ra tay giết người là sao?
A Cốt Đả ở đằng sau cái gò gọi:
- Tiêu Phong, Tiêu Phong, chạy lại đây ngay! Bọn chúng không biết
ngươi là người Khất Đan đâu!
Ngay lúc đó, hai tên Khất Đan cầm trường mâu, giục ngựa xông vào
Tiêu Phong, hai ngọn giáo cùng giơ lên chia ra đâm vào hai bên tả hữu.
Tiêu Phong không muốn giết người cùng bộ tộc mình, hai tay chộp hai
cán giáo, hẩy nhẹ một cái, hai gã Khất Đan cùng từ trên yên ngựa ngã
phịch xuống đất. Tiêu Phong lại dùng cán mâu hất hai người lên, hai gã
kia kêu rú lên, tung bay trở về rơi xuống một hồi lâu không dậy nổi. A
Cốt Đả cùng bọn người Nữ Chân liền reo hò khen ngợi.
Một người trung niên mặc áo bào đỏ trong bọn Khất Đan liền lớn
tiếng xí xố ra lệnh gì đó. Mấy chục tên Khất Đan liền chia thành hai
cánh, bao vây bọn Nữ Chân lại để chặn đường rút lui của A Cốt Đả,
nhưng người áo đỏ vẫn còn mấy chục người đứng bảo vệ chung quanh.
A Cốt Đả thấy tình hình bất lợi, lớn tiếng kêu la, vẫy gọi tộc nhân và
Tiêu Phong bỏ chạy. Người Khất Đan bắn tên ra như mưa, chết thêm hai
người Nữ Chân nữa. Bên phía Nữ Chân cung mạnh tên cứng bắn không
trật mũi nào, trong khoảnh khắc đã bắn hạ được khoảng chục kỵ sĩ Khất
Đan, có điều quả bất địch chúng nên phải vừa bắn vừa chạy.
Tiêu Phong thấy bọn người Khất Đan ngang ngược chẳng biết phải trái
gì, tuy là người cùng bộ tộc với mình nhưng cũng chịu không nổi, cướp
lấy một cánh cung, vụt vụt vụt vụt, bắn liền bốn mũi tên, mũi tên nào
cũng trúng vai hay đùi một gã Khất Đan, cả bốn người đều ngã xuống
ngựa nhưng không ai chết. Người mặc hồng bào lại quát tháo lập tức có
kẻ phóng ngựa xông ra cực kỳ dũng mãnh.
Tiêu Phong thấy bên mình nay chỉ còn A Cốt Đả và năm thanh niên
đang hết sức bôn đào, vừa chạy vừa bắn trả còn những người khác bị
trúng tên chết cả rồi. Trên thảo nguyên không chỗ nào có thể ẩn nấp,
xem chừng nếu tiếp tục đánh thêm ngay cả A Cốt Đả cũng sẽ bị giết nốt.
Ông nghĩ người Nữ Chân trước nay đối với mình như quí khách, nay bạn
tốt cũng không bảo vệ được thì làm sao còn gọi là anh hùng hảo hán?
Thế nhưng ra tay đại sát một phen để cho bọn người Khất Đan thấy khó
mà lui ắt phải giết rất nhiều người cùng bộ tộc với mình, chi bằng bắt lấy
người thủ lãnh áo đỏ kia, ép y phải hạ lệnh triệt thoái thì mới mong hai
bên bãi đấu được.
Ông định bụng như thế rồi nên dùng tiếng Khất Đan kêu lớn:
- Này, các ngươi mau mau rút lui! Nếu không thoái binh ta sẽ không
nể nang gì nữa đâu nhé!
Soẹt soẹt soẹt ba tiếng, ba mũi giáo đã nhắm ngay mặt ông ném tới.
Tiêu Phong nghĩ thầm: Bọn chúng bay quả không còn biết phải quấy là
gì. Ông rùn mình xuống, xông thẳng về phía người mặc hồng bào. A Cốt
Đả thấy bạn mình mạo hiểm liền kêu lên:
- Tiêu Phong, không được đâu, mau quay lại!
Tiêu Phong không để ý tới, tiếp tục phóng tới thật nhanh. Bọn người
Khất Đan lập tức nhốn nháo, trường mâu vũ tiễn đều nhắm ông mà tấn
công tới. Tiêu Phong chộp lấy một thanh trường mâu, bẻ làm đôi cầm
thanh mâu gãy sử dụng như một thanh trường kiếm, gạt tất cả những binh
khí phóng tới, bước chân vẫn như bay, xông ngay đến trước ngựa người
áo đỏ.
Người đó mặt đầy râu ria, thần tình uy võ, thấy Tiêu Phong xông đến
không tỏ vẻ gì hoảng sợ, giựt lấy ba thanh tiêu thương4 của thủ hạ chung
quanh, vụt một tiếng phóng vào Tiêu Phong. Tiêu Phong khua tay bắt
được ngay mũi lao, mũi thứ hai bay đến cũng bắt luôn. Ông vung tay một
cái hai mũi lao bay ra, đâm luôn hai gã hộ vệ hai bên người áo đỏ ngã
xuống ngựa. Người mặc hồng bào kêu lên:
- Giỏi lắm!
Mũi thương thứ ba liền ném ra, Tiêu Phong giơ tả chưởng lên, đẩy đầu
mũi lao, tá lực đả lực, mũi lao vụt bay ngược lại bắn thẳng vào ức con
ngựa y đang cưỡi. Người áo đỏ hoảng hốt kêu lên: Ối trời! vội vàng
4 mũi lao (javelin)
nhảy khỏi lưng ngựa. Tiêu Phong tung mình xông tới, tay trái vươn ra
chộp ngay được đầu vai bên phải của y. Ông nghe phía sau có tiếng gió
ập tới, vội vàng nhún một cái, nhảy vụt về phía trước hơn một trượng,
nghe phập phập, hai thanh trường mâu đã cắm thẳng xuống đất. Tiêu
Phong ôm người áo đỏ nhảy sang bên tả, rơi xuống sau lưng một kỵ sĩ
Khất Đan, vung tay đánh y một chưởng văng xuống rồi giục ngựa chạy ra.
Người áo đỏ giơ quyền lên đấm vào mặt Tiêu Phong, ông giơ tay trái
lên kẹp một cái, gã đó không còn cử động gì được nữa. Tiêu Phong quát
lên:
- Ngươi bảo bọn chúng rút lui ngay, nếu không ta kẹp chết ngươi
chết tươi bây giờ.
Người mặc hồng bào không còn cách gì khác hơn, đành kêu lên:
- Tất cả lui ngay, không được đánh nữa.
Bọn người Khất Đan xôn xao tiến đến trước mặt Tiêu Phong, toan ra
tay cứu người. Tiêu Phong để mũi chiếc giáo gãy vào má gã áo đỏ, quát
lớn:
- Các ngươi muốn ta đâm chết y chăng?
Một lão già Khất Đan quát lên:
- Mau thả thủ lãnh của bọn ta ra, nếu không ngươi sẽ bị ngũ mã phân
thi ngay lập tức.
Tiêu Phong cười ha hả, vù một tiếng, nhắm ngay lão già kia lăng
không đánh ra một chưởng. Chưởng đó ông cố tình ra oai dọa cho bọn
chúng một mẻ để khỏi phải giết người nhiều hơn nữa nên kình lực sử
dụng đủ mười thành. Chỉ nghe bình một tiếng lớn, lão già Khất Đan kia
trúng chưởng, từ trên lưng ngựa ngã văng ra mấy trượng, hộc máu mồm
xem ra không còn sống được nữa.
Bọn Khất Đan xưa nay chưa từng chứng kiến thần kỹ phách không
chưởng, lực đạo vô ảnh vô tung thật chẳng khác gì yêu pháp, ai nấy
hoảng hốt ghìm cương lùi lại, vẻ mặt kinh hoàng, chỉ sợ Tiêu Phong đánh
trúng mình. Tiêu Phong quát lớn:
- Các ngươi không lui ra, ta sẽ một chưởng đánh y chết trước.
Nói xong giơ tay lên làm như định đánh xuống đầu người áo đỏ. Người
áo đỏ vội kêu:
- Các ngươi lùi ra ngay, ta sẽ ra sau!
Cả bọn lập tức lùi ra mấy bước nhưng không chịu bỏ đi. Tiêu Phong
nghĩ thầm: Khu vực này chỗ nào cũng là đồng cỏ mênh mông, nếu mình
thả thủ lãnh của chúng về, bọn họ cưỡi ngựa đuổi theo thì mình không thể
nào chạy thoát được. Ông quay sang nói với người áo đỏ:
- Ngươi bảo chúng đem lại đây tám con ngựa.
Y theo đúng thế ra lệnh, các kỵ sĩ Khất Đan liền dắt đến tám con tuấn
mã giao cho A Cốt Đả. A Cốt Đả căm hận bọn này giết đồng bọn mình,
đấm một tên dắt ngựa nghe bình một tiếng khiến y lăn chòng chọc. Bọn
Khất Đan tuy đông người nhưng không dám đánh trả. Tiêu Phong lại tiếp:
- Ngươi hạ lệnh bảo bọn chúng giết con ngựa đang cưỡi, không để
sót con nào.
Người mặc hồng bào cực kỳ dứt khoát, không tranh biện lớn tiếng
truyền lệnh:
- Mọi người xuống ngựa, giết ngay con ngựa của mình đi.
Tất cả các kỵ sĩ không ai chần chừ gì, lập tức nhảy xuống, kẻ dùng bội
đao, kẻ dùng trường mâu giết ngay con ngựa của mình. Tiêu Phong không
ngờ quân sĩ tuân lệnh lẹ làng đến thế, trong lòng ngầm bội phục nghĩ
thầm: Gã mặc áo đỏ này xem ra chức vị không phải là thấp, mở miệng
nói ra một câu, các võ sĩ không ai dám trái lệnh. Quân lệnh của người
Khất Đan nghiêm minh thật, thảo nào giao chiến với người Tống bao giờ
cũng thắng nhiều thua ít. Ông bèn nói:
- Ngươi bảo tất cả quay trở về, không ai được đuổi theo. Nếu một
người đuổi theo, ta chặt ngươi một cánh tay, hai người đuổi theo ta chặt
hai cánh tay, bốn người đuổi theo thì tứ chi đều chặt hết.
Gã áo đỏ tức đến râu ria dựng ngược lên, nhưng bị kẹp chặt không thể
làm gì khác chỉ đành truyền lệnh:
- Các ngươi quay trở về, điều động nhân mã kéo đến sào huyệt
người Nữ Chân.
Các võ sĩ hô to:
- Tuân lệnh!
Tất cả cùng khom lưng hành lễ. Tiêu Phong quay đầu ngựa, đợi cho
bọn A Cốt Đả sáu người lên yên rồi cả bọn theo đường cũ trở về. Đi được
mấy dặm, Tiêu Phong thấy người Khất Đan quả nhiên không đuổi theo,
bèn nhảy lên yên một con ngựa, để cho người áo đỏ cưỡi một mình một
con. Tám con ngựa không dừng bước chạy thẳng về đại doanh, A Cốt Đả
bẩm lại cho phụ thân Hòa Lý Bố việc gặp địch như thế nào, được Tiêu
Phong cứu, bắt được thủ lãnh bọn Khất Đan ra sao. Hòa Lý Bố rất vui
mừng nói:
- Hay lắm, đem tên chó Khất Đan lên đây ta xem.
Người áo đỏ bước vào trong trướng nhưng thần thái vẫn uy võ, đứng
hiên ngang không chịu khuất phục. Hòa Lý Bố biết y là quí nhân của
Khất Đan bèn hỏi:
- Ngươi tên gì? Tại nước Liêu làm chức quan chi?
Gã kia ương ngạnh đáp:
- Có phải ngươi bắt được ta đâu, làm gì có quyền hỏi ta?
Người Khất Đan và người Nữ Chân đều có tập quán, mỗi khi bắt được
ai thì kẻ đó là nô lệ của mình. Hòa Lý Bố cười ha hả nói:
- Ngươi nói đúng lắm!
Người áo đỏ đi đến trước mặt Tiêu Phong, khuỵu chân phải, một bên
gối quì xuống, tay phải để lên trán nói:
- Chủ nhân quả thực là anh hùng, ta đánh không lại ông, bên ta đông
mà vẫn thua. Ta bị ông bắt được, không có điều gì oán hận, nếu ông chịu
thả ta về, ta sẽ đền lại năm mươi lượng vàng, năm trăm lượng bạc, ba
chục con tuấn mã.
Chú của A Cốt Đả là Phả Lạp Tô nói:
- Ngươi là đại quí nhân của Khất Đan, tiền chuộc bấy nhiêu ít quá.
Tiêu huynh đệ, ngươi bảo y đem đến năm trăm lượng vàng, năm nghìn
lượng bạc, ba trăm con tuấn mã.
Phả Lạp Tô là người lanh lợi khôn ngoan, đem giá cả tăng lên gấp
mười, cốt để hai bên trả giá. Với lối sống giản dị của người Nữ Chân, cái
giá năm mươi lượng vàng, năm trăm lượng bạc, ba chục con tuấn mã đã
là một tài sản hãn hữu. Người Nữ Chân giao chiến với người Khất Đan
mấy chục năm qua, chưa bao giờ có món tiền chuộc nào lớn đến thế, nếu
người áo đỏ không chịu tăng thêm cứ theo đúng những gì y hứa trả đã là
một món hoạnh tài khổng lồ.
Ngờ đâu người áo đỏ không cần suy nghĩ đáp ngay:
- Được rồi, cứ thế mà tính.
Những người Nữ Chân trong trướng nghe vậy không khỏi giật mình,
tưởng như không tin ở tai mình nữa. Người Nữ Chân hay Khất Đan nói láo
để đánh lừa nhau không phải là không có, thế nhưng trong giao dịch mua
bán, hoặc đã hứa với ai điều gì thì một là một, hai là hai không bao giờ
nuốt lời. Huống chi đang nói đây là tiền chuộc, một khi người Khất Đan
không giao đủ, hoặc như nói rồi lại không muốn làm thì người áo đỏ
không thể nào trở về bản tộc được thành thử có hứa cuội cũng vô ích.
Phả Lạp Tô sợ rằng y bị bắt rồi kinh hoảng mất trí, đầu óc rối loạn
bèn nói:
- Này, ngươi đã nghe rõ chưa? Ta nói là hoàng kim năm trăm lượng,
bạch ngân năm nghìn lượng, tuấn mã ba trăm con!
Người áo đỏ vẻ đầy kiêu ngạo, lạnh lùng nói:
- Hoàng kim năm trăm lượng, bạch ngân năm nghìn lượng, tuấn mã
ba trăm con thì đã là bao? Nước Đại Liêu chúng ta giàu có bậc nhất thiên
hạ, con số đó coi chẳng vào đâu.
Y quay sang nói với Tiêu Phong, đổi sắc mặt cung kính nói:
- Chủ nhân, ta chỉ nghe lệnh một mình ông thôi, người khác nói ta
không thèm nghe đâu.
Phả Lạp Tô nói:
- Tiêu huynh đệ thử hỏi y xem y ở nước Liêu làm quan chức gì?
Tiêu Phong chưa kịp mở lời người kia đã nói:
- Chủ nhân nếu muốn hỏi thân thế lai lịch, ta sẽ đặt điều nói láo
đánh lừa ông, ông cũng không biết thật hay giả. Thế nhưng ông là anh
hùng hảo hán, ta cũng anh hùng hảo hán, ta không muốn lừa ông thành
thử xin đừng hỏi làm gì.
Tiêu Phong tay trái lật một cái, rút phắt thanh đao đeo nơi hông, tay
phải vỗ vào sống đao, nghe cạch một tiếng lưỡi đao đó liền cong lại, hầm
hè quát:
- Ngươi lớn mật không nói chăng? Nếu bàn tay ta chém xuống đầu
ngươi thì sẽ ra sao?
Người áo đỏ không tỏ vẻ gì sợ hãi, đưa ngón cái tay phải lên nói:
- Tài giỏi thật! Ghê gớm thật! Hôm nay ta được gặp đương thế đệ
nhất anh hùng, quả không uổng! Tiêu anh hùng, nếu ông dùng lực uy
hiếp muốn ta phải chịu khuất phục thì không xong đâu. Ông muốn giết cứ
việc giết, người Khất Đan tuy đánh không lại nhưng cũng cứng cỏi không
kém gì ông đâu.
Tiêu Phong cười ha hả nói:
- Giỏi, giỏi lắm! Ta không giết ngươi ở đây đâu. Nếu ta một đao giết
ngươi, ngươi chắc không tâm phục. Chi bằng mình ra chỗ xa xa, ác đấu
một trận nữa.
Hòa Lý Bố và Phả Lạp Tô cùng lên tiếng khuyên giải:
- Tiêu huynh đệ, người này giết đi thật uổng, chi bằng để y sống lấy
tiền chuộc tốt hơn. Nếu như ngươi tức giận, chi bằng dùng gậy gỗ roi da
đánh cho y một chập thật đau là được.
Tiêu Phong đáp:
- Không được! Y muốn cho mình là anh hùng hảo hán thì ta để cho y
toại nguyện.
Ông quay sang mượn người Nữ Chân hai cây trường mâu, hai bộ cung
tên, nắm tay người áo đỏ cùng ra khỏi trướng, nhảy lên ngựa ra lệnh:
- Lên ngựa mau!
Người mặc hồng bào không một chút sợ hãi, biết chắc đấu với Tiêu
Phong thì chỉ có chết mà thôi, y đòi đấu thêm một trận nữa chẳng qua chỉ
là mèo vờn chuột, muốn đùa rỡn một hồi rồi mới giết mình nhưng không
sờn lòng lập tức lên ngựa chạy về hướng bắc.
Tiêu Phong theo sau, hai người chạy được mấy dặm, Tiêu Phong nói:
- Quay qua hướng tây!
Người áo đỏ đáp:
- Nơi đây phong cảnh tuyệt đẹp, ta muốn chết tại nơi đây.
Tiêu Phong nói:
- Tiếp lấy!
Ông cầm trường mâu và cung tên ném qua, người kia đều bắt được cả,
lớn tiếng nói:
- Tiêu anh hùng, ta biết chắc không phải là đối thủ nhưng người Khất
Đan thà chết không chịu khuất phục! Ta ra tay đây!
Tiêu Phong đáp:
- Hãy khoan! Tiếp lấy đã!
Ông lại cầm cây giáo và cung tên còn lại trên tay mình thẩy qua, chỉ
còn hai tay không, môi nở một nụ cười khó hiểu. Người áo đỏ cực kỳ giận
dữ, gầm lên:
- Hừ, ngươi định tay không đấu với ta, chẳng phải làm nhục ta quá
lắm hay sao?
Tiêu Phong lắc đầu:
- Không phải thế! Tiêu mỗ bình sinh kính trọng bậc anh hùng, yêu
thích người hảo hán. Võ công ngươi tuy không bằng ta thật nhưng là kẻ
đại đại anh hùng, hảo hán, Tiêu mỗ muốn kết bạn với ngươi! Thôi ngươi
trở về bộ tộc của mình đi.
Người áo đỏ hết sức kinh ngạc, hỏi lại:
- Cái ... cái gì?
Tiêu Phong mỉm cười đáp:
- Ta nói Tiêu mỗ coi ngươi là một hảo bằng hữu, để cho ngươi bình
an quay trở về.
Người mặc hồng bào tưởng chết đến nơi lại bình yên vô sự, vui sướng
không sao kể xiết hỏi lại:
- Có thực ngươi thả ta về chăng? Ngươi ... chẳng hay ngươi ... muốn
gì? Ta về rồi sẽ đem tiền chuộc gấp mười, gửi sang cho ngươi.
Tiêu Phong hiên ngang đáp:
- Ta coi ngươi là bạn, sao ngươi lại không coi ta là bạn? Tiêu mỗ
đường đường hán tử thế này, lẽ đâu lại còn tham ngoại thân tài vật hay
sao?
Người áo đỏ đáp:
- Đúng thế!
Y ném binh khí đi, nhảy xuống ngựa, quì phục xuống đất vái lạy nói:
- Đa tạ ân công tha mạng!
Tiêu Phong quì xuống hoàn lễ đáp:
- Tiêu mỗ không giết bằng hữu, cũng không nhận bạn bè vái lạy.
Còn như là phận nô lệ, thì dẫu có lạy lục Tiêu mỗ, Tiêu mỗ cũng chẳng
tha đâu.
Người áo đỏ lại càng mừng hơn nữa, đứng lên nói:
- Tiêu anh hùng, ông luôn mồm nhận ta là bè bạn, vậy ta cùng ông
kết làm anh em, nên chăng?
Tiêu Phong học nghệ xong liền gia nhập Cái Bang. Trong bang vai vế
phân biệt thật nghiêm minh, từ bang chủ, phó bang chủ trở xuống, còn có
Truyền Công, Chấp Pháp, tứ đại hộ pháp trưởng lão, rồi đến hương chủ
các đà, xuống đến đệ tử tám túi, đệ tử bảy túi cho chí kẻ chưa được mang
túi nào. Thế nhưng ông chỉ lo lập công để được thăng cấp, chưa từng giao
bái anh em với ai, mãi đến sau này ở thành Vô Tích cùng Đoàn Dự đấu
rượu với nhau, có lòng cảm mến bấy giờ mới kết nghĩa kim lan. Bây giờ
nghe người mặc hồng bào nói như thế, nghĩ đến trước đây ở Trung
Nguyên giao thiệp với đủ mọi loại anh hùng, hôm nay lưu lạc, ăn nhờ ở
đậu nơi đất man di, quả thực thất thế biết bao. Bây giờ nghe đề cập đến
chuyện này, ông không khỏi cảm khái, lại thấy người áo đỏ khí độ hào
hùng, quả là một hảo hán liền đáp:
- Hay lắm! Hay lắm! Tại hạ Tiêu Phong, năm nay ba mươi mốt tuổi.
Tôn huynh quí canh bao nhiêu?
Người kia cười đáp:
- Tại hạ là Gia Luật Cơ, so với ân công thì lớn hơn mười ba tuổi.
Tiêu Phong nói:
- Huynh trưởng sao vẫn còn gọi tiểu đệ là ân công? Huynh trưởng là
đại ca, xin nhận một lạy của đệ.
Nói xong bèn phục xuống lạy, Gia Luật Cơ vội vàng hoàn lễ.
Hai người bèn lấy ba mũi tên cắm xuống đất, đốt cháy lông đuôi làm
hương, hướng lên trời lạy tám lạy, kết làm anh em. Gia Luật Cơ trong
lòng cực kỳ vui sướng nói:
- Huynh đệ họ Tiêu cũng chẳng khác gì người Khất Đan chúng ta.
Tiêu Phong đáp:
- Chẳng dấu gì huynh trưởng, tiểu đệ chính là gốc người Khất Đan.
Nói xong cởi áo ra, để lộ chiếc đầu sói xanh xâm trên ngực. Gia Luật
Cơ vừa thấy thật mừng nói:
- Quả nhiên đúng vậy, ngươi thuộc về họ bên hoàng hậu Khất Đan.
Huynh đệ, đất Nữ Chân lạnh lắm, chi bằng theo ta đi về Thượng Kinh,
chung hưởng phú quí.
Tiêu Phong đáp:
- Đa tạ hảo ý của ca ca, có điều tiểu đệ trước nay nghèo hèn, xem ra
không hợp đời sống giàu sang. Tiểu đệ sống với người Nữ Chân, săn bắn
uống rượu thấy tiêu dao khoái hoạt hơn. Ngày sau nếu nhớ ca ca, thể nào
cũng có lúc qua nước Liêu đi kiếm.
Ông xa cách A Tử cũng đã lâu, khắc khoải không hiểu thương thế
nàng thế nào bèn nói:
- Ca ca nên sớm quay về để người nhà và bộ thuộc khỏi trông đợi.
Sau đó hai người hành lễ cáo biệt. Tiêu Phong quay ngược đầu ngựa
đã thấy A Cốt Đả cùng hơn chục người nghênh tiếp. Thì ra A Cốt Đả thấy
Tiêu Phong đi lâu không về, e ngại không biết có trúng phải ngụy kế của
người áo đỏ hay chăng, trong bụng không an nên đến tiếp ứng. Tiêu
Phong kể lại đã thả y trở về nước Liêu, A Cốt Đả là kẻ rất hiểu biết, rất
anh hùng thấy Tiêu Phong khinh tài trọng nghĩa, khoan hồng đại lượng
như thế lại càng thán phục.
Một ngày kia, Tiêu Phong nhàn rỗi nói chuyện chơi với A Cốt Đả, cho
y hay sở dĩ A Tử thụ thương vì lỡ trúng phải chưởng lực của mình, tuy
dùng nhân sâm có thể duy trì tính mạng nhưng đã lâu không thuyên giảm,
hết sức buồn phiền. A Cốt Đả nói:
- Tiêu đại ca, thì ra cô em của đại ca bị ngoại thương, người Nữ Chân
chúng tôi trị ngoại thương sai khớp xưa nay vẫn dùng ba vị thuốc gân hổ,
xương hổ và mật gấu rất là hiệu nghiệm. Sao đại ca không thử xem thế
nào?
Tiêu Phong mừng quá nói:
- Cái gì chứ gân hổ, xương hổ ở đây thiếu gì? Còn như mật gấu ư, ta
sẽ cố gắng giết ít con là xong.
Ông hỏi kỹ cách dùng, lấy gân hổ, xương hổ nấu thành cao đút cho A
Tử. Sáng hôm sau, Tiêu Phong một mình đi vào núi hoang, đầm lớn kiếm
gấu. Ông đi một mình, có thể thi triển khinh công, so với cùng đi cả đoàn
tiện hơn nhiều. Hôm đầu không thấy dấu vết gấu, hôm thứ hai săn được
một con. Ông mổ lấy mật, chạy về nơi đóng doanh, đút cho A Tử uống.
Gân hổ, xương hổ, mật gấu và nhân sâm lâu năm kiếm nơi rừng sâu núi
thẳm đều là những dược phẩm cực kỳ trân quí dùng để trị thương, mật
gấu tươi lại càng khó kiếm bội phần. Tiết Thần Y tuy nói là y đạo như
thần nhưng không có thuốc thỉ cũng đành chịu, nếu phải dùng lão sơn
sâm cho bệnh nhân dùng thay cơm thì ông cũng không thể nào làm nổi,
còn như Tiêu Phong, cứ vài ngày đi đánh chết một con gấu lấy mật tươi
cho A Tử uống thì càng khó hơn.5
Hôm đó, Tiêu Phong đang ngồi trong trướng nấu xương hổ, gân hổ làm
cao, một gã Nữ Chân hấp tấp chạy đến nói:
- Tiêu đại ca, có khoảng chục tên Khất Đan đem lễ vật đến cho đại
ca.
Tiêu Phong gật đầu, biết là do nghĩa huynh Gia Luật Cơ sai người đem
tới. Chỉ nghe tiếng vó ngựa dồn dập, một đoàn ngựa chậm rãi tiến vào,
trên lưng ngựa chất đầy phẩm vật. Tên đội trưởng Khất Đan đi đầu đã
nghe Gia Luật Cơ mô tả diện mạo Tiêu Phong nên vừa trông thấy từ xa
đã vội vàng nhảy xuống ngựa, rảo bước tới trước mặt, lạy phục nói:
- Chủ nhân từ khi từ biệt Tiêu đại gia đến nay, nhớ nhung lắm lắm,
đặc biệt sai tiểu nhân Thất Lý đem chút bạc lễ, lại mời Tiêu đại gia đến
Thượng Kinh hàn huyên.
Nói xong khấu đầu mấy lượt, hai tay trình lễ đơn6, thần thái cực kỳ
cung kính. Tiêu Phong đưa tay cầm danh sách cười nói:
- Quả là có lòng, xin hãy đứng dậy đã.
Ông mở tờ lễ đơn ra thấy toàn là chữ Khất Đan liền nói:
- Ta không biết chữ, chẳng cần xem làm gì.
Thất Lý nói:
- Chút bạc lễ này gồm năm nghìn lượng hoàng kim, năm vạn lượng
bạch ngân, một nghìn súc cẩm đoạn, một nghìn thạch lúa mạch hạng
ngon, một nghìn con bò, năm nghìn con cừu, ba nghìn con tuấn mã, ngoài
ra còn một số quần áo đồ dùng.
Tiêu Phong càng nghe càng kinh ngạc, lễ vật như thế gấp mười tiền
chuộc Phả Lạp Tô đòi hôm trước. Ông thấy hơn chục con ngựa chở đến
5 sự thực nhân sâm, hùng đảm, hổ cốt là những vị thuốc, dược tính rất mạnh, việc điều
chế và dụng pháp phức tạp không phải là thực phẩm mà có thể dùng thay cơm. Ở đây
tác giả viết theo lối kết cấu của tiểu thuyết, xin độc giả đừng tin là thật.
6 lễ đơn là danh sách viết những vật phẩm mang tới
đã quá nhiều, nếu cứ theo đúng danh sách viết đây thì không biết phải
bao nhiêu ngựa xe mới đủ.
Thất Lý khom lưng nói:
- Chủ nhân sợ các sinh vật đi đường xa mất mát, cho nên cừu bò
ngựa đều sai mang thêm một phần trừ hao nhưng may nhờ hồng phúc chủ
nhân và Tiêu đại gia, bọn chúng tôi đi đường không bị gió bão dã thú,
sinh khẩu7 tổn thất rất ít.
Tiêu Phong thở dài:
- Gia Luật ca ca tính toán thật chu đáo, nếu ta không nhận thì phụ
tấm lòng tốt của anh ta, còn nếu nhận tất cả, thì e quá đáng, không biết
sao cho phải.
Thất Lý nói:
- Chủ nhân dặn đi dặn lại, nếu như Tiêu đại gia khách sáo không
nhận, tiểu nhân trở về thể nào cũng bị phạt nặng.
Bỗng nghe tiếng tù và u u thổi, người Nữ Chân các doanh trướng đều
cầm đao thương cung tên nhốn nháo chạy ra. Có tiếng truyền lệnh:
- Quân địch đến tấn công, dự bị nghênh chiến.
Tiêu Phong nhìn về phía tiếng tù và thổi thấy bụi bay mù mịt, tưởng
chừng vô số quân mã đang tràn đến. Thất Lý lớn tiếng kêu:
- Các vị đừng hoảng hốt, đây là bò cừu ngựa của Tiêu đại gia đó.
Y dùng tiếng Nữ Chân liên tiếp gọi mấy lần nhưng những người kia
chẳng ai chịu tin, Hòa Lý Bố, Phả Lạp Tô, A Cốt Đả chia nhau ra chỉ huy
tộc nhân dàn thành trận thế ở phía tây doanh trại.
Tiêu Phong lần đầu tiên thấy người Nữ Chân bố trí trận mạc, nghĩ
thầm: Bộ tộc Nữ Chân không đông nhưng người nào cũng nhanh nhẹn
dữ dằn, các kỵ sĩ Khất Đan dưới quyền Gia Luật ca ca xem chừng không
ghê gớm lắm, chưa bằng được khí thế người Nữ Chân, còn như quan binh
nhà Đại Tống thì còn kém hơn nữa. Thất Lý kêu lên:
7 con vật còn sống
- Để tiểu nhân đi bảo bộ thuộc tạm ngừng không tiến lên nữa để
khỏi hiểu lầm.
Y chuyển thân lên ngựa, phóng về hướng tây. A Cốt Đả giơ tay một
cái, bốn tên thợ săn Nữ Chân liền đuổi theo sau. Năm người rong ngựa
chầm chậm tiến tới thấy trên đồng cỏ bụi mù toàn là bò cừu ngựa, hơn
trăm mục nhân Khất Đan dùng sào dài xua đuổi, ngoài ra không có quân
sĩ.
Bốn người Nữ Chân cười rộ lên quay về, bẩm lại cho Hòa Lý Bố.
Chẳng bao lâu, đội gia súc đến gần hơn, tiếng bò kêu ngựa hí rầm rĩ, át
cả tiếng người không nghe thấy gì cả.
Tối hôm đó Tiêu Phong bảo người Nữ Chân giết cừu xẻ bò để đãi
khách phương xa. Hôm sau, ông lấy một phần vàng bạc gấm vóc, thưởng
cho bọn người đưa lễ vật đến. Đợi khi người Khất Đan cáo từ rồi, ông
đem hết tất cả bò cừu ngựa, vàng bạc giao lại cho A Cốt Đả bảo y chia
cho người trong bộ tộc. Người Nữ Chân tụ tập sống chung với nhau,
không có của riêng, một người được thì toàn thể bộ tộc hưởng chung, thấy
Tiêu Phong khẳng khái như thế không cho là lạ lùng nhưng tự nhiên ở
trên trời rơi xuống nhiều tài vật như thế, ai nấy đều vui vẻ. Toàn bộ tộc
ăn uống vui chơi mấy ngày liền, người người đều cảm kích lòng tốt của
Tiêu Phong.
Qua mùa hạ rồi sang mùa thu, bệnh của A Tử cũng đỡ được vài phần,
thần trí vừa tỉnh táo thấy ngày ngày phải nằm trong trướng dưỡng thương
thật chán ngán, thường bảo Tiêu Phong đưa nàng ra ngoài cưỡi ngựa rong
chơi cho thư thái tâm hồn. Hai người cưỡi chung một con, nàng ngồi đằng
trước dựa vào ngực Tiêu Phong nên không tốn một chút hơi sức nào. Tiêu
Phong chiều chuộng cô gái hết mực, trong mấy tháng liền, trừ những
ngày gió lớn, bão to hai người ngày nào cũng cùng nhau nhàn du. Về sau
những nơi gần đi mãi cũng chán, hai người mang theo cả lều chăn dựng
trại ngủ ở bên ngoài, mấy ngày liền không về. Tiêu Phong cũng nhân dịp
đó đánh hổ, săn gấu, đào nhân sâm. Chỉ vì A Tử bắn lén một mũi độc
châm, gấu đen, mãnh hổ cả một dãy Trường Bạch bị chết khá nhiều,
không biết bao nhiêu con táng mạng dưới chưởng của Tiêu Phong.
Tiêu Phong vì muốn đi đào sâm nên mỗi lần đều theo hướng đông
hoặc hướng bắc. Hôm đó A Tử bảo rằng phía đông phía bắc phong cảnh
coi đã nhiều, nay muốn qua phía tây chơi. Tiêu Phong nói:
- Phía tây chỉ là một thảo nguyên thật rộng, chẳng có núi non sông
ngòi gì mà coi.
A Tử đáp:
- Đại thảo nguyên cũng thích chứ, chẳng khác gì biển cả, tiểu muội
chưa từng được thấy biển cả thực bao giờ. Tinh Tú Hải tuy nói là biển
nhưng vẫn còn bến còn bờ.
Tiêu Phong nghe nàng đề cập đến biển Tinh Tú cũng thấy chột dạ.
Trong một năm qua sống chung với người Nữ Chân, những chuyện võ
lâm đã dần dần quên lãng, A Tử không hành động được, muốn làm
chuyện xấu xa cũng chẳng có cách gì. Còn ông chỉ cố hết sức giúp nàng
trị thương cứu mạng, nhưng lại sợ rằng một khi thuyên giảm, ác tính cả
nàng lại phát tác, lúc đó biết làm sao?
Ông quay đầu nhìn A Tử, thấy khuôn mặt tái mét không một chút
máu, má hóp lại, đôi mắt to đen lõm vào, dung sắc cực kỳ tiều tụy, người
gầy tong teo chỉ còn da bọc xương. Tiêu Phong không khỏi chua xót trong
lòng: Nàng vốn dĩ là một cô bé con khả ái hoạt bát biết là dường nào, bị
ta đánh đến chết đi sống lại, có khác gì một bộ xương khô, sao ta lại chỉ
nghĩ đến những điều xấu của nàng?. Ông bèn mỉm cười:
- Nếu cô thích đi qua hướng tây thì mình đi qua đó xem sao. A Tử,
khi nào bệnh em đỡ nhiều rồi, ta sẽ đưa em đến biên giới nước Cao Ly để
xem biển cả thực sự, nước biếc mênh mông, nhìn không thấy bến bờ,
cảnh đó coi mới thật là hùng vĩ.
A Tử vỗ tay reo lên:
- Hay quá! Hay quá! Thực ra chẳng cần phải đợi cho bệnh của em
khỏi hẳn lúc ấy mình mới đi.
Tiêu Phong kêu lên một tiếng, vừa mừng vừa sợ hỏi:
- A Tử, hai tay của em cử động được như thường rồi.
A Tử cười đáp:
- Nửa tháng trước hai tay tiểu muội đã cử động được, hôm nay lại
càng linh hoạt hơn nhiều.
Tiêu Phong mừng rỡ nói:
- Thế thì hay lắm! Ngươi quả là một con bé cứng đầu, vậy mà sao lại
dấu ta?
Đôi mắt A Tử lóe lên một vẻ tinh quái, mỉm cười đáp:
- Em chỉ mong được vĩnh viễn không cử động, có thế tỉ phu mới ngày
ngày ở bên cạnh em. Chú nếu như thương thế em khỏi rồi, tỉ phu sẽ lại
đuổi em đi.
Tiêu Phong nghe nàng nói thật chân thành, trong bụng không khỏi
thương hại nói:
- Ta là một hán tử lỗ mãng, hôm đó không cẩn thận, lỡ tay đánh cô
ra nông nỗi này. Cô ngày ngày ở bên cạnh ta có gì vui đâu?
A Tử không trả lời, một lát sau mới khẽ hỏi:
- Sao hôm đó tỉ phu xuất chưởng đánh em mạnh như thế?
Tiêu Phong không muốn nhắc lại chuyện cũ, lắc đầu đáp:
- Chuyện đó vốn đã qua rồi, nhắc lại làm gì? A Tử, ta đánh cô đến bị
thương như thế này, trong lòng cảm thấy thật áy náy, em có giận ta
không?
A Tử đáp:
- Lẽ dĩ nhiên tiểu muội không giận, có việc gì em phải giận tỉ phu
đâu? Em vốn chỉ mong được anh ở kề cận bên mình, bây giờ chẳng phải
được như thế hay sao? Trong lòng em hết sức sung sướng là khác.
Tiêu Phong nghe nàng nói như thế, tuy thấy ý nghĩ của tiểu cô nương
này thật là quái lạ, nhưng gần đây thấy nàng trở nên tử tế hơn trước, nghĩ
bụng mình hết sức lo lắng cho cô ta đã làm cái tính độc ác của nàng giảm
đi thật nhiều. Ông quay về dự bị ngựa xe, màn trướng, lương khô mọi thứ.
Sáng sớm hôm sau, hai người đi về hướng tây. Đi được trên chục dặm,
A Tử bỗng hỏi:
- Tỉ phu có đoán ra được chưa?
Tiêu Phong hỏi lại:
- Đoán ra cái gì?
A Tử nói:
- Hôm đó em đột nhiên dùng độc châm đả thương anh, tỉ phu có biết
vì cớ gì không?
Tiêu Phong lắc đầu nói:
- Tâm tư cô thần xuất quỉ một, làm sao ta đoán nổi?
A Tử thở dài một tiếng nói:
- Nếu anh không đoán ra, thì chi bằng đừng nghĩ tới nữa. Tỉ phu xem
thử sao những con vịt trời kia, sao lại làm thành một đoàn bay về hướng
nam là sao?
Tiêu Phong ngửng đầu lên, thấy bên trời hai đoàn đại nhạn, bay thành
hình chữ nhân, quả thực đang bay về hướng nam bèn nói:
- Trời sắp sang đông, chim nhạn sợ lạnh nên bay về phương nam
tránh tuyết.
A Tử hỏi:
- Thế sao đến mùa xuân, chúng lại bay trở về? Mỗi năm bay đi bay
lại chẳng khổ sở khó nhọc lắm ru? Bọn chúng nếu sợ lạnh sao không ở
luôn phương nam, cần gì phải quay lại.
Tiêu Phong trước nay chuyên tâm học võ, chưa bao giờ từng suy nghĩ
về tập tính của cầm thú côn trùng, bị nàng hỏi như thế, không sao trả lời
được, lắc đầu cười nói:
- Ta cũng chẳng hiểu sao chúng lại không ngại gian khổ, chắc có lẽ
là chim nhạn sinh nơi phương bắc, lưu luyến cố hương đấy thôi.
A Tử gật đầu nói:
- Chắc là thế. Anh xem con nhạn sau cùng kia, tuy còn nhỏ vậy mà
cũng ráng bay về phương nam. Mai này cha nó, mẹ nó, chị nó, anh rể nó
cùng bay về phương bắc, dĩ nhiên nó cũng đi theo.
Tiêu Phong nghe nàng nói "chị nó, anh rể nó", trong lòng chợt động
đưa mắt nhìn A Tử, thấy cô bé đang ngẩng đầu mơ màng nhìn về phía
đàn chim nơi chân trời, hiển nhiên câu đó nói ra không có ý gì, nghĩ
thầm: "Nàng buột miệng nói ra, vậy mà đem ta cùng với cha mẹ bỏ
chung một giỏ, đủ biết trong lòng nàng coi mình là một người rất thân, từ
nay không thể nào tùy tiện bỏ rơi nàng. Để đến khi nàng khỏi bệnh rồi, ta
sẽ đưa nàng trở về Đại Lý, giao lại cho cha mẹ, lúc đó gánh nặng trên vai
mới trút đi được.
Trên đường, hai người vừa đi vừa nói chuyện. Đến khi A Tử mệt mỏi,
Tiêu Phong liền bồng nàng từ trên lưng ngựa xuống, bỏ vào thùng xe ở
đằng sau cho nàng ngủ. Khi dêm xuống, hai người tìm rừng cây dựng lều.
Cứ như thế mấy ngày liền, đã đến bên bờ đồng cỏ. A Tử đưa mắt nhìn
quanh thấy đại thảo nguyên không bờ không bến, trong lòng hết sức cao
hứng nói:
- Mình nhìn qua hướng tây chẳng thấy đâu là tận cùng, còn như biển
cả mênh mông thì nhìn bốn bề đông tây nam bắc chỗ nào cũng không bờ
không bến.
Tiêu Phong biết A Tử muốn đi sâu vào giữa đồng cỏ, không muốn trái
ý nàng, giơ roi lên quất một cái giục ngựa đi tiếp về hướng tây.
Hai người đi trong đại thảo nguyên mấy ngày liền, quả đến lúc nhìn
chung quanh bốn phía, không còn thấy biên giới dồng cỏ là đâu. Khi đó
vào mùa thu khí hậu mát mẻ, nghe tiếng rì rào, xào xạc thật là dễ chịu.
Trong đồng cỏ những thú nhỏ rất nhiều, Tiêu Phong săn bắt con nào ăn
con đó, không lo không sầu.
Lại đi thêm mấy ngày nữa, hôm ấy đến trưa, nhìn đằng xa thấy có vô
số doanh trướng, lại thêm cờ xí mao tiết, dường như chỗ đóng quân, lại
trông như nơi bộ lạc sống chung với nhau. Tiêu Phong nói:
- Trước mặt đông người lắm, không biết họ đang làm gì, mình đi về
dể khỏi gây thêm rắc rối.
A Tử nói:
- Không! Không! Em muốn đến xem. Hai chân em còn chưa cử động
được, đâu có thể gây rắc rối gì cho anh?
Tiêu Phong cười nói:
- Chuyện rắc rối đâu có phải chỉ do ngươi mà ra, có khi người khác
gây cho mình, ngươi có muốn tránh cũng không được.
A Tử cười nói:
- Thế thì mình đến xem cũng chẳng sao cả.
Tiêu Phong biết cái tính trẻ con thích chỗ náo nhiệt của nàng nổi lên,
nên giục ngựa đi chầm chậm. Trên thảo nguyên địa thế phẳng lì, những
doanh trướng đó từ đằng xa đã nhìn thấy nhưng đi cho tới nơi, lộ trình
cũng không phải ngắn. Đi đến bảy tám dặm rồi, bỗng nghe tiếng kèn
hiệu thổi u u, tiếp theo bụi bay mù mịt, hai hàng nhân mã mở ra, một đội
đi về hướng bắc, một đội phóng về phía nam.
Tiêu Phong hơi kinh hãi nói:
- Không xong, đây là kỵ binh người Khất Đan.
A Tử nói:
- Là người của anh đấy ư? Thế thì hay quá chứ có gì bảo là không
hay?
Tiêu Phong đáp:
- Nhưng ta không biết họ là ai, thôi mình quay về.
Ông ghìm cương ngựa quay đầu, theo đường cũ để trở về. Chưa được
mấy bước, bỗng nghe tiếng trống đánh tùng tùng, lại có mấy đội kỵ binh
Khất Đan nữa xông ra. Tiêu Phong nghĩ thầm: Bốn bề không thấy có
địch nhân đâu cả, không lẽ họ thao luyện tập trận chăng?.
Chỉ nghe tiếng người vang lên:
- Bắn hươu đi! Bắn hươu đi!
Phía tây, phía bắc, phía nam chỗ nào cũng nghe tiếng người giục bắn
hươu. Tiêu Phong nói:
- Thì ra họ vây để săn thú, thanh thế như vậy quả không phải nhỏ.
Ông bèn bồng A Tử đặt lên yên ngựa, ghìm cương đứng ở phía đông
nhìn ra. Chỉ thấy kỵ binh Khất Đan người nào cũng mặc cẩm bào, bên
trong có áo giáp sắt. Cẩm bào màu sắc đội thì đỏ, đội thì xanh, đội thì
vàng, đội thì tím, cờ quạt với áo cùng màu, tới lui nhanh chậm, mã tráng
binh cường trông thật đẹp mắt, Tiêu Phong và A Tử đứng coi mà khen
ngợi thầm. Quân sĩ nghe theo quân lệnh dọc ngang tiến thoái, giơ trường
mâu ra xua hươu, trông thấy Tiêu Phong và A Tử, cũng chỉ liếc một cái
rồi không để ý gì tới nữa. Bốn đội kỵ binh chia ra bao vây bốn bên, dồn
mấy chục con hươu vào giữa. Thỉnh thoảng có một con theo khe hở chạy
được ra ngoài thì lập tức có một toán quân nhỏ đi ra cản, vây thành vòng
tròn đuổi trở lại vào trong.
Hồi 27(a)
KIM QUA ĐÃNG KHẤU AO BINH
Thiên quân vạn mã vào ra,
Trước là cứu chúa, sau là cứu thân.
Cuộc đời như giấc mộng lành,
Hôm nay khất cái mai thành đại vương.
*
* *
Tiêu Phong còn đang đứng xem bỗng nghe có người lớn tiếng gọi:
- Bên kia có phải Tiêu đại gia đấy chăng?
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Ai mà lại nhận ra ta nhỉ?”. Ông quay lại
thấy từ đội áo xanh một người phóng ngựa chạy thẳng tới, thì ra là gã
đội trưởng Thất Lý, người mấy tháng trước Gia Luật Cơ sai đem lễ vật
đến cho mình.
Y chạy đến còn cách Tiêu Phong hơn chục trượng đã vội vàng nhảy
xuống ngựa, đi bộ lên, quì đầu gối phải xuống nói:
- Chủ nhân chúng tôi đang ở đằng trước không xa là mấy. Chủ nhân
thường vẫn nhớ mong nhắc đến Tiêu đại gia luôn. Hôm nay không biết
ngọn gió lành nào thổi Tiêu đại gia đến đây? Xin mời đại gia đến gặp
chủ nhân chúng tôi.
Tiêu Phong nghe nói Gia Luật Cơ cũng ở gần đây, thật là hoan hỉ
nói:
- Ta chỉ tùy ý ngao du, có ngờ đâu nghĩa huynh cũng ở quanh đây,
thế thì hay lắm. Được rồi, nhờ ngươi dẫn đường đến gặp anh ta.
Thất Lý chúm môi huýt một tiếng, hai tên kỵ binh cưỡi ngựa chạy
đến. Y dặn dò:
- Các ngươi mau đi bẩm báo nói là Tiêu đại gia ở núi Trường Bạch
qua thăm.
Hai tên kỵ binh khom lưng nhận lệnh, phóng ngựa chạy đi ngay.
Những người còn lại tiếp tục cuộc săn hươu, riêng Thất Lý tất lãnh một
đội kỵ binh áo xanh, hộ tống Tiêu Phong và A Tử đi về hướng tây.
Khi Gia Luật Cơ gửi cho Tiêu Phong vàng bạc bò cừu, ông đã biết y
ắt phải là một đại quí nhân người Khất Đan, bây giờ lại thấy thanh thế
như vậy xem chừng vị nghĩa huynh này phải là tướng quân, đại quan chi
đó.
Trên thảo nguyên ngựa chạy đi chạy lại như mắc cửi, người nào
cũng y giáp mới tinh. Thất Lý nói:
- Tiêu đại gia hôm nay đến chơi quả là đúng lúc, sáng sớm mai ở
đây có một buổi hội thật là vui nhộn.
Tiêu Phong đưa mắt nhìn A Tử, thấy nàng mặt tươi hẳn lên liền hỏi:
- Cái gì mà vui nhộn?
Thất Lý đáp:
- Ngày mai là ngày hội diễn võ. Hai đội vệ quân Vĩnh Xương, Thái
Hòa đều khiếm khuyết chức vụ thống lãnh. Người Khất Đan chúng tôi ai
nấy sẽ ra sức biểu diễn võ nghệ để xem ai là người vận may, được giữ
hai chức vụ này.
Tiêu Phong nghe nói đến tỉ võ, tự nhiên thấy hào khí bừng bừng nổi
lên, hết sức cao hứng, cười nói:
- Thế thì đúng là khéo thật, được dịp xem võ nghệ người Khất Đan
như thế nào.
A Tử cười nói:
- Đội trưởng ơi, vậy ông ra đại hiển thân thủ, chúc mừng ông đoạt
được một chức thống lãnh.
Thất Lý lè lưỡi nói:
- Tiểu nhân nào có cái gan đó?
A Tử lại cười:
- Đoạt được chức thống lãnh thì đã sao? Chỉ cần tỉ phu ta dạy cho
ông dăm ba miếng võ là ông đoạt được chức đó ngay chứ gì.
Thất Lý vui mừng nói:
- Tiêu đại gia nếu bằng lòng chỉ cho tiểu nhân thì quả là cầu còn
không được. Còn chức thống lãnh gì kia, tiểu nhân không có phúc phận
chẳng dám mơ tưởng tới.
Đoàn người vừa đi vừa nói chuyện, đi độ mươi dặm đã thấy trước
mặt một đoàn kỵ binh gấp rút chạy tới. Thất Lý nói:
- Đây là đội Phi Hùng trong bì thất quân của đại trướng.1
Những người đó đều mặc áo, đội mũ làm bằng da gấu, áo ngoài
bằng lông gấu đen, mũ cao làm bằng lông gấu trắng, hình dáng thật là
uy võ. Đội binh đó chạy đến gần, cùng lên tiếng reo hò, đồng thời hạ
mã, chia ra đứng hai bên nói:
- Cung nghinh Tiêu đại gia.
Tiêu Phong đáp:
- Không dám! Không dám!
Ông giơ tay chào, giục ngựa chạy lên trước, đội Phi Hùng cũng lục
tục theo sau. Đi được hơn chục dặm, lại có một đội binh khác, mặc áo da
hổ, mũ da hổ là đội Phi Hổ Binh chạy đến nghinh tiếp. Tiêu Phong nghĩ
thầm: “Không biết Gia Luật ca ca làm chức quan gì lớn thế mà sao nghi
vệ rầm rộ thế này”. Có điều Thất Lý không nói, mà lần gặp trước Gia
Luật Cơ nhất định không thổ lộ thân thế mình, Tiêu Phong đành chịu
không hỏi nữa.
Đi đến xế chiều tới một nơi đóng quân thật lớn thì người trong đội
Phi Báo, tất cả đều mặc áo đội mũ da báo chạy ra nghinh tiếp, đón Tiêu
Phong và A Tử vào trong căn lều lớn ở chính giữa. Tiêu Phong vẫn
tưởng vào trong lều này ắt sẽ được gặp Gia Luật Cơ, ngờ đâu trong
trướng giường nệm khí mãnh đều là đồ sang trọng, trên bàn nhỏ để đầy
đồ ăn, hoa quả nhưng không thấy chủ nhân đâu. Đột trưởng đội Phi Báo
nói:
- Chủ nhân mời Tiêu đại gia ở đây nghỉ lại một đêm, ngày mai sẽ
tương kiến.
Tiêu Phong cũng không hỏi thêm, đến bên bàn cầm bát rượu lên
uống. Bốn tên quân sĩ, kẻ rót rượu, người cắt thịt, hầu hạ rất cung kính.
Sáng hôm sau trở dậy lại tiếp tục đi, ngày hôm dó đi về hướng tây phải
đến hai trăm dặm, đến tới lại ngủ lại một nơi đóng quân lớn.
Đến trưa ngày thứ ba, Thất Lý nói:
- Đi qua khỏi triền núi phía trước mặt thì mình sẽ tới.
Tiêu Phong thấy ngọn núi đó thật là hùng vĩ, một con sông lượn
dưới chân núi chảy cuồn cuộn về hướng nam. Cả đoàn người vòng qua
sườn núi, trước mắt cờ sí rợp trời, trên đại thảo nguyên chỗ nào cũng đầy
doanh trướng, có đến hàng vạn kỵ binh, bộ tốt, bao chung quanh một
khoảng đất trống ngay chính giữa. Các đội Phi Hùng, Phi Hổ, Phi Báo hộ
tống Tiêu Phong liền lấy kèn ra, thổi lên nghe u u u.
Đột nhiên tiếng trống đánh tùng tùng vang lên dữ dội, thêm tiếng
pháo hiệu nổ ầm ầm, trên bãi đất trống quan binh rẽ ra hai bên, một con
ngựa vàng cao to từ trong chạy ra, trên lưng là một đại hán râu xồm,
chính thị Gia Luật Cơ. Y giục ngựa thẳng đến chỗ Tiêu Phong kêu lớn:
- Tiêu huynh đệ, có nhớ ca ca chăng?
Tiêu Phong cũng phóng ngựa chạy lên, hai người cùng nhảy xuống,
bốn tay nắm chặt, mừng rỡ không sao kể xiết. Chỉ nghe bốn bề chung
quanh quân sĩ reo hò vang dội:
- Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế!
Tiêu Phong giật mình tự hỏi: “Binh sĩ lại kêu vạn tuế là sao?”. Ông
đưa mắt nhìn khắp nơi, thấy quân quan sĩ tốt ai nấy khom lưng, cầm đao
chống xuống đất, Gia Luật Cơ cầm tay ông đứng ngay chính giữa, nhìn
ngang nhìn ngửa, vẻ mặt cực kỳ đắc ý. Tiêu Phong hiểu ra lắp bắp:
- Ca ca, thì ra ca ca ... là ... là ...
Gia Luật Cơ cười ha hả nói:
- Nếu như ngươi biết ta là đương kim hoàng đế nước Đại Liêu, e
rằng sẽ chẳng cùng ta kết nghĩa đệ huynh đâu. Tiêu huynh đệ, tên thực
của ta là Gia Luật Hồng Cơ. Cái ơn cứu mạng của ngươi ta vĩnh viễn
không bao giờ quên.
Tiêu Phong tuy khoáng đạt hào sảng nhưng trong đời chưa từng diện
kiến hoàng đế bao giờ, hôm nay thấy nghi vệ như thế, không khỏi bối
rối, ấp úng:
- Tiểu nhân không biết bệ hạ, mạo phạm đã nhiều, quả là tội đáng
muôn thác.
Nói xong quì xuống. Ông là thần dân nước Khất Đan, gặp bản quốc
hoàng đế dĩ nhiên phải quì xuống.
Gia Luật Hồng Cơ vội đỡ dậy, cười nói:
- Không biết thì không có tội. Này huynh đệ, ngươi với ta là anh em
kim lan, ngày hôm nay chỉ tính chuyện nghĩa khí, ngày mai hãy dùng lễ
vua tôi cũng không muộn.
Ông ta giơ tay trái lên vẫy một cái, trong quân lập tức chiêng trống
đánh lên để chào mừng khách quí. Gia Luật Hồng Cơ dắt tay Tiêu Phong
hai người cùng đi vào đại trướng.
Doanh trướng của hoàng đế Khất Đan dựng thành mấy tầng toàn
bằng da bò, trang trí đủ loại màu sắc vàng bạc, cực kỳ rực rỡ, gọi là bì
thất đại trướng. Gia Luật Hồng Cơ ngồi ngay chính giữa, bảo Tiêu Phong
ngồi ngay bên cạnh, chẳng mấy chốc bách quan văn võ cũng lục tục vào
tham kiến, Bắc Viện Đại Vương, Bắc Viện Khu Mật Sứ, Vu Việt, Nam
Viện Khu Mật Sứ, Bì Thất Đại Tướng Quân, Tiểu Tướng Quân, Mã
Quân Chỉ Huy Sứ, Bộ Quân Chỉ Huy Sứ ... Tiêu Phong nhất thời không
thể nào nhớ cho hết tên bao nhiêu người.
Tối hôm đó mở đại tiệc ăn mừng, người Khất Đan tôn trọng đàn bà
con gái nên A Tử cũng được dự phần tại bì thất đại trướng. Quả đúng là
rượu đổ thành ao, thịt chất thành núi, A Tử thấy thế cực kỳ hứng thú, mặt
tươi như hoa. Rượu đã mềm môi, hơn chục tên võ sĩ Khất Đan ra trước
mặt vua vật nhau làm trò, người nào cũng cởi trần, bắt nắm khoèo vật,
thật là kịch liệt. Tiêu Phong thấy những võ sĩ Khất Đan ai nấy đều thân
hình rắn chắc, cánh tay cuồn cuộn, đưa tay thò chân đều có dáng con
nhà võ, biến hóa xảo diệu tuy không được bằng võ sĩ người Hán nhưng
miếng nào miếng nấy đều sát phạt, thẳng thừng dùng trong chiến trận
quần đấu xem chừng kiến hiệu hơn võ của Trung Nguyên.
Các quan viên văn võ nước Liêu tiến ra mời Tiêu Phong uống rượu.
Tiêu Phong thì ai cũng không từ chối, đến đâu cạn bôi đến đó, trước sau
phải đến hơn ba trăm chén, vậy mà sắc mặt vẫn như không, mọi người
hết sức kinh ngạc.
Gia Luật Hồng Cơ xưa nay vẫn tự phụ là người dũng lực, lần này bị
Tiêu Phong bắt, cả nước ai cũng biết nên cũng có ý muốn Tiêu Phong
biểu lộ cái năng lực phi phàm để che dấu cái nỗi thẹn bị thất bại. Ngờ
đâu chưa cần phải ngày hôm sau Tiêu Phong đại hiển tài nghệ võ công
nơi tỉ võ đại hội, bây giờ chỉ lộ chút tửu lượng đã áp đảo quần hùng
khiến ai nấy đều kính phục. Gia Luật Hồng Cơ cực kỳ sung sướng nói:
- Huynh đệ, ngươi là đệ nhất anh hùng hảo hán của nước Liêu ta.
A Tử đột nhiên xen vào:
- Không đâu, anh ấy chỉ mới thứ nhì.
Gia Luật Hồng Cơ cười hỏi lại:
- Tiểu cô nương, y mới chỉ thứ hai thôi sao? Thế thì vị đệ nhất đại
anh hùng là ai?
A Tử đáp:
- Vị anh hùng hảo hán số một ư, cái dó dĩ nhiên phải là bệ hạ rồi.
Tài nghệ của tỉ phu tiểu nữ tuy giỏi thật nhưng vẫn phải nghe lời bệ hạ,
không dám trái lệnh, thế thì bệ hạ chẳng là đệ nhất anh hùng thì là gì?
Nàng là môn hạ của Tinh Tú lão nhân, nghệ thuật tâng bốc đã
thuộc hàng siêu đẳng, nói ra câu đó thật chẳng khác gì dùng dao mổ trâu
để giết gà. Gia Luật Hồng Cơ cười ha hả nói:
- Cô nói thế thật hay lắm! Tiêu huynh đệ, ta muốn phong cho ngươi
một chức quan thật lớn, để ta nghĩ xem đã, phong ngươi làm gì cho
xứng?
Khi đó y đã uống say đến bảy tám phần mười, đưa ngón tay gõ gõ
lên trán. Tiêu Phong vội nói:
- Không đâu! Không đâu! Tiển nhân tính tình giản phác, khó mà
hưởng phú quí được, xưa nay vẫn lang thang bốn phương, vãng lai vô
định, quả là không thích làm quan.
Gia Luật Hồng Cơ cười nói:
- Được rồi! Để ta phong ngươi một chức quan chỉ uống rượu không
phải làm gì cả...
Ông nói chưa dứt lời bỗng từ xa truyền lại một hồi tù và u u u inh ỏi,
nghe thật gấp rút. Những người Liêu vốn dĩ đang ngồi bệt dưới đất, uống
rượu ăn thịt, vừa nghe tiếng hiệu giác, ai nấy kêu toáng lên, cùng nhỏm
dậy, mặt lộ vẻ kinh hoàng. Tiếng tù và truyền đến thật nhanh, lúc mới
nghe còn cách khoảng hơn chục dặm, lần thứ hai đã gần thêm vài dặm,
lầm thứ ba lại gần thêm vài dặm nữa. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Trên đời
này làm gì có con ngựa nào chạy lẹ thế, dẫu có đệ nhất đẳng khinh công
thì cũng không thể nhanh như vậy được. Đúng rồi, chắc là có những trạm
truyền tin bố trí sẵn từ trước để cấp báo quân tình, một khi nghe tiếng tù
và lập tức truyền ngay xuống trạm kế tiếp”. Chỉ thấy tiếng hiệu giác cứ
truyền tới, trong nháy mắt đến ngoài bì thất đại trướng thì ngừng lại.
Mấy trăm người ngồi trong trướng vốn dĩ đang ăn uống hò reo, ồn ào
như chợ vỡ, lúc này đột nhiên lặng như tờ.
Gia Luật Hồng Cơ thần sắc trấn tĩnh, chầm chậm nâng kim bôi lên,
uống cạn chén rượu nói:
- Có phản đồ làm loạn ở Thượng Kinh, thôi mình đành phải về vậy.
Nhổ trại!
Hành quân đại tướng lập tức ra khỏi trướng truyền lệnh, hai tiếng
“Nhổ trại” truyền ra một thành mười, mười thành trăm, trăm thành nghìn,
thanh âm càng lúc càng lớn nhưng vẫn nghiêm chỉnh thứ tự không có vẻ
gì náo loạn mất trật tự. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Nước Đại Liêu ta lập
quốc đã hơn hai trăm năm, quốc uy vang dậy thiên hạ, lúc này tuy có nội
loạn nhưng không có vẻ gì bối rối, đủ biết Liêu chúa bình thời chỉ huy
quân đội có phép tắc hẳn hòi”.
Bỗng nghe tiếng chân ngựa dồn dập, đội tiền phong xích hậu quân2
ra trước, tiếp theo là hai đội tả hữu tiên phong cũng lên đường, rồi tiền
quân, tả quân, hữu quân từng đội từng đội đi về hướng nam hồi kinh.
Gia Luật Hồng Cơ nắm tay Tiêu Phong nói:
- Mình ra xem thế nào!
Hai người ra khỏi trướng, chỉ thấy trong đêm đen mỗi lá quân kỳ
đều có gắn một chiếc đèn lồng, đỏ, vàng, xanh, trắng màu sắc lấp lánh,
hơn một chục vạn quân xuôi nam nhưng chỉ nghe tiếng vó ngựa lộp cộp,
không một tiếng người. Tiêu Phong hết sức thán phục nghĩ thầm: “Trị
quân như thế này thì trong thiên hạ còn ai địch nổi? Hôm đó hoàng
thượng cậy mạnh đi săn một mình nên ta mới bắt được. Ví như đại quân
cùng đi, người Nữ Chân tuy dũng mãnh thật nhưng ít cũng không chống
nổi với số đông.
Hai người vừa ra khỏi trướng, các vệ sĩ lập tức rỡ lều, chỉ một
thoáng đã đâu đó gọn gàng sạch sẽ, hành lý tùy theo nặng nhẹ mà chất
lên xe ngựa, xe lạc đà. Trung quân nguyên soái liền ra lệnh, mọi người
lập tức khởi hành. Bắc Viện Đại Vương, Vu Việt, Thái Sư, Thái Phó
bách quan theo hầu đằng trước đằng sau Gia Luật Hồng Cơ, mặt mày ai
nấy nghiêm trọng nhưng cũng không nói lời nào. Tin tức về vụ nổi loạn
trong kinh tuy đã truyền ra nhưng nội vụ thế nào, tình huống ra sao hiện
giờ vẫn chưa rõ rệt.
Đại đội nhân mã theo đường về nam được ba ngày, tối hôm đó vừa
đóng quân xong thì một tên thám tử phóng ngựa chạy đến bẩm với Gia
Luật Hồng Cơ:
- Nam Viện Đại Vương nổi loạn, chiếm cứ hoàng cung, từ hoàng
thái hậu, hoàng hậu trở xuống đến các vương tử, công chúa cùng gia
quyến bách quan đều đã bị chúng bắt giữ cả rồi.
Gia Luật Hồng Cơ hoảng hốt, vẻ mặt lập tức biến sắc.
Việc quân quốc trọng sự nước Liêu do hai viện Nam Bắc chia ra
cáng đáng. Lần này Bắc Viện Đại Vương tùy giá đi săn để Nam Viện
Đại Vương ở lại trấn thủ kinh thành. Nam Viện Đại Vương Gia Luật
Niết Lỗ Cổ, tước phong Sở Vương, bản thân y không nói làm gì nhưng
cha y Gia Luật Trọng Nguyên, đương kim Hoàng thái thúc, quan phong
Thiên Hạ Binh Mã Đại Nguyên Soái, ấy mới thực là đáng ngại.
Ông nội của Gia Luật Hồng Cơ là Gia Luật Long Tự, Liêu sử gọi là
Thánh Tông. Con trai trưởng của Thánh Tông là Tông Chân, con trai thứ
là Trọng Nguyên. Tông Chân tính nết hiền lành, bụng dạ rộng rãi còn
Trọng Nguyên lại rất võ dũng, có tài thao lược. Khi Thánh Tông băng hà
có di mệnh truyền ngôi cho con trưởng Tông Chân. Thế nhưng hoàng
hậu lại thương con trai thứ hơn nên âm mưu lập Trọng Nguyên lên ngôi.
Nước Liêu từ xưa tới nay, hoàng thái hậu quyền thế rất lớn thành thử
ngôi vua của Tông Chân xem ra không vững, ngay cả tính mạng cũng
khó bảo toàn. Thế nhưng Trọng Nguyên đem mật mưu của mẫu hậu báo
cho huynh trưởng khiến cho bao nhiêu tính toán của hoàng thái hậu đều
không thành. Tông Chân vì chuyện đó nên đối với em cực kỳ cảm kích,
lập Trọng Nguyên lên làm Hoàng thái đệ, có nghĩa là sau này sẽ truyền
ngôi cho ông ta để báo đền ân đức.
Liêu sử gọi Gia Luật Tông Chân là Hưng Tông, nhưng khi ông ta
qua đời, hoàng vị lại không truyền cho Hoàng thái đệ Trọng Nguyên, mà
lại truyền cho con ruột là Hồng Cơ.
Sau khi Gia Luật Hồng Cơ tiếp vị, trong bụng cũng thấy bất an, nên
phong cho Trọng Nguyên làm Hoàng thái thúc, để minh định rằng chú
mình sẽ kế thừa ngôi vua của nước Liêu, lại phong thêm chức Thiên Hạ
Binh Mã Đại Nguyên Soái, lúc lâm triều miễn lạy, miễn xưng tên, ban
cho kim khoán thệ thư, mũ bốn chỏm, áo bào hai màu trong triều phải
nói là người được tôn sủng bậc nhất. Con ông ta là Niết Lỗ Cổ được
phong Sở Vương, chấp chưởng mọi việc quân chính yếu vụ Nam Viện
nên được gọi là Nam Viện Đại Vương.
Năm xưa Gia Luật Trọng Nguyên rõ ràng là được ngôi vua nhưng
nhường cho huynh trưởng đủ biết ông ta là người trọng nghĩa khí, lại tốt
nhịn. Mỗi khi Gia Luật Hồng Cơ ra ngoài đi săn, bao nhiêu việc quân
quốc trọng vụ ở kinh thành đều giao cho Hoàng thái thúc, không nghi
ngại chút nào. Bây giờ nghe tin truyền đến kẻ mưu phản là Nam Viện
Đại Vương Gia Luật Niết Lỗ Cổ, Gia Luật Hồng Cơ vừa lo lắng vừa kinh
hoàng, vốn biết tính tình Niết Lỗ Cổ hung ác bạo ngược, xử sự rất là tàn
nhẫn, nếu y mưu phản thì cha y ắt không đứng ngoài.
Bắc Viện Đại Vương tâu rằng:
- Bệ hạ đừng lo vội, Hoàng thái thúc ắt nhìn vấn đề rõ ràng, không
thể nào tha cho tên nghịch tử phạm thượng tạo phản, không chừng lúc
này đã đem quân bình loạn rồi.
Gia Luật Hồng Cơ đáp:
- Cũng mong là thế.
Mọi người ăn cơm tối xong, tên thám tử thứ hai lại đến bẩm báo:
- Nam Viện Đại Vương lập Hoàng thái thúc lên làm vua, đã ra
chiếu cáo tri thiên hạ.
Y không dám tâu tiếp phần bên dưới, chỉ hai tay dâng lên chiếu của
tân hoàng đế. Hồng Cơ cầm lấy xem qua thấy chiếu thư tố cáo đích danh
Gia Luật Hồng Cơ là soán vị ngụy đế, nói là tiên đế đã lập Gia Luật
Trọng Nguyên làm Hoàng thái đệ, trong hai mươi bốn năm ai ai cũng
biết, nhưng khi băng hà, Gia Luật Hồng Cơ sửa di chiếu, ăn trộm ngôi
đại bảo, người người ai ai cũng phẫn nộ, hiện Hoàng thái đệ đã chính vị
lên làm vua, đốc suất binh mã thiên hạ đi trừ nghịch ngụy ...
Gia Luật Hồng Cơ trong cơn cuồng nộ, cầm chiếu thư vứt luôn vào
đống lửa, nhưng trong bụng cực kỳ lo lắng nghĩ thầm: “Đạo ngụy chiếu
này lời đanh thép đâu ra đấy, quân dân Liêu quốc xem chỉ e lòng người
hoang mang. Hoàng thái thúc ở địa vị Thiên Hạ Binh Mã Đại Nguyên
Soái, trong tay cầm binh phù, có thể điều động hơn tám mươi vạn binh
mã, chưa kể thêm quân dưới tay con ông ta là Nam Viện Đại Vương. Ở
đây tùy giá ta chỉ có chưa đầy mười vạn, quả bất địch chúng, làm thế
nào bây giờ đây?”. Tối hôm đó ông trằn trọc cả đêm, không sao ngủ
được.3
Tiêu Phong nghe thấy Liêu đế định phong cho ông một chức quan
đã toan nhân lúc đêm khuya dẫn theo A Tử không từ biệt lẻn đi, thế
nhưng lúc này thấy nghĩa huynh gặp cảnh nguy nan, chẳng nỡ bỏ rơi ông
ta, bằng giá nào cũng phải ra tay giúp nhau một chuyến cho khỏi phụ
tấm lòng anh em kết nghĩa. Đêm hôm đó ông ra ngoài doanh dạo chơi,
nghe thấy các quan binh thì thầm to nhỏ, đều nói cha mẹ vợ con đang ở
Thượng Kinh bị Hoàng thái thúc bắt giữ cả, e rằng tính mạng không còn.
Có kẻ nghĩ đến gia đình, đột nhiên khóc rống lên. Tiếng khóc dao động
lòng người, quan binh khác trong doanh đồng cảnh ngộ cũng không ít kẻ
sụt sùi. Quan tướng thống binh tuy cực lực ngăn trở, chém đầu mấy kẻ
khóc to hơn cả làm gương nhưng cũng không sao dứt hết được.
Gia Luật Hồng Cơ nghe thấy tiếng khóc vang động biết rằng lòng
quân có chiều ly tán, lại càng lo lắng.
Sáng sớm hôm sau, thám tử lại đến báo rằng Hoàng thái thúc và Sở
Vương dẫn binh năm mươi vạn, đang tiến lên phía bắc mưu toan phạm
giá. Hồng Cơ nghĩ thầm: “Việc đến nước này chỉ có tiến chứ không còn
đường lui, nếu như bại trận thì cũng đành một phen tử chiến cho xong”.
Ông lập tức chiêu tập bách quan để thương nghị. Quần thần ai nấy một
lòng trung thành với Gia Luật Hồng Cơ, nguyện cùng chết với chủ nhưng
chỉ lo lòng quân không còn vững chãi.
Hồng Cơ truyền lệnh xuống:
Tất cả các quan binh hãy ra sức bình nghịch thảo tặc, khi dẹp yên
được giặc rồi, ngoài việc thăng quan còn được trọng thưởng.
Ông mặc giáp trụ bằng vàng, tự mình đốc suất ba quân nghinh chiến
với quân của Hoàng thái thúc. Các quan binh thấy hoàng thượng tự mình
cầm quân ra chống địch lập tức dũng khí bùng lên, hô vạn tuế ba lần
quyết lấy cái chết báo đền ơn chúa. Mười vạn quân chia thành bốn bộ
phận tiền quân, tả quân, hữu quân, trung quân, binh giáp sáng choang
tiến về phía nam, thêm những tiểu đội du kỵ đi tuần ở hai bên.
Tiêu Phong cũng đeo cung cầm mâu đi sau Gia Luật Hồng Cơ đóng
vai hộ vệ tùy giá. Thất Lý dẫn một đội Phi Hùng binh bảo hộ cho A Tử ở
hậu quân. Tiêu Phong thấy Gia Luật Hồng Cơ lông mày nhăn tít lại, biết
ông chưa có được kế hoạch gì trong trận chiến này.
Quân đi đến giữa trưa bỗng nghe đằng trước tiếng tù và nổi lên.
Tướng chỉ huy trung quân ra lệnh:
- Xuống ngựa!
Các kỵ binh ai nấy nhảy xuống, tay cầm cương dẫn ngựa đi, chỉ còn
Gia Luật Hồng Cơ và các đại thần là còn ngồi trên yên. Tiêu Phong
không hiểu sao các kỵ binh lại hạ mã, còn đang thắc mắc, Gia Luật
Hồng Cơ cười hỏi:
- Huynh đệ ở tại Trung Nguyên lâu ngày nên không biết phương
pháp hành quân của người Khất Đan, phải không?
Tiêu Phong đáp:
- Thần đang mong được bệ hạ chỉ điểm.
Hồng Cơ cười đáp:
- Ha ha, cái hai chữ bệ hạ kia không biết có còn được tới lúc mặt
trời lặn ngày hôm nay nữa hay không? Ta với ngươi dùng tình anh em
mà xưng hô, việc gì phải gọi là bệ hạ?
Tiêu Phong nghe tiếng cười của ông nhuốm vẻ cay đắng bèn nói:
- Hai bên chưa giao tranh, bệ hạ hà tất phải lo lắng quá như vậy.
Hồng Cơ nói:
- Giao phong trên đất bằng, quan trọng nhất là sức ngựa, sức người
chỉ đứng hàng thứ hai.
Tiêu Phong bấy giờ mới hiểu nói:
- À, thì ra thế! Kỵ binh xuống ngựa để cho tọa kỵ khỏi mệt mỏi.
Hồng Cơ gật đầu nói:
- Dưỡng sức cho ngựa khi lâm địch xung phong hãm trận vẫn còn
khỏe như lúc đầu. Người Khất Đan đông chinh tây thảo, đánh đâu thắng
đó chính là nhờ cái bí quyết quan trọng này.
Ông ta nói tới đây, từ xa xa đằng trước bụi bay mù mịt, bốc lên cao
đến mươi trượng, chẳng khác gì một đám mây vàng cuồn cuộn kéo tới.
Hồng Cơ chỉ roi về phía đó nói:
- Hoàng thái thúc và Sở Vương đều chinh chiến lâu năm, là những
tướng tài của nước Liêu ta sao lại xua binh kéo đến ầm ầm, không dưỡng
sức cho ngựa là sao? Hừ, thì ra bọn chúng hữu thị vô khủng4 cho rằng thể
nào cũng thắng nên không úy kỵ gì cả.
Ông còn đang trù trừ đã nghe tù và tả quân và hữu quân cùng trổi
lên. Tiêu Phong đưa mắt nhìn thấy phía đông cũng có hai cánh quân,
phía tây cũng có hai cánh quân, địch từ năm phía công tới. Gia Luật
Hồng Cơ mặt liền biến sắc quay sang vị tướng chỉ huy trung quân ra
lệnh:
- Kết trận lập trại mau!
Trung quân tướng quân đáp lời:
- Tuân lệnh!
Y giục ngựa chạy ra truyền lệnh, lập tức tiền quân, tả quân, hữu
quân cùng quay đầu lại đồng thời một toán quân dùng búa đóng các cột
dùng để dựng bì thất đại trướng xuống, căng da lên, bốn bề dựng chông,
chỉ chốc lát đã ghép gỗ thành một bức tường cực lớn giữa thảo nguyên,
tiền hậu tả hữu chỗ nào cũng có kỵ binh trấn thủ, mấy vạn cung thủ ẩn
sau thành, cung trong tay sẵn sàng, đợi giờ buông tên.
Tiêu Phong nhíu mày nghĩ thầm: “Trận đại chiến này dù cho ai
thắng ai bại thì người Khất Đan đồng tộc của ta cũng thây đầy đồng nội.
Hay hơn hết vẫn là nghĩa huynh đắc thắng, nếu như chẳng may thua trận
thì ta cũng cố tìm cách cứu cho được nghĩa huynh và A Tử đến được nơi
an toàn, còn chuyện có còn làm hoàng đế hay không cũng chẳng sao”.
Doanh trại của Liêu đế kết xong chưa bao lâu thì đội tiền phong của
loạn quân đã tới nhưng không tiến lên khiêu chiến mà dừng lại xa xa nơi
cung nỏ bắn không tới được. Thế nhưng vẫn nghe tiếng trống tiếng kèn
liên miên bất tuyệt, từng đội, từng đội loạn quân tiến đến vây quanh,
bốn phương tám hướng chỗ nào cũng kết thành trận thế. Tiêu Phong đưa
mắt nhìn ra thấy đầy mặt đất chỗ nào cũng là quân địch không biết đâu
là cùng nghĩ thầm: “Binh thế nghĩa huynh kém xa, quả bất địch chúng,
xem chừng thua mất thôi. Trời sáng không tiện xung đột trùng vây đào
tẩu, chỉ còn nước cố giữ cho đến tối lúc đó ta tìm cách cứu y”. Thế nhưng
bóng nắng những cây gỗ đóng trại chiếu xuống đất còn ngắn ngủn, mặt
trời đang chói chang chỉ mới xế trưa một chút.
Chỉ nghe tiếng cạp cạp cạp mấy tiếng, một đàn vịt nước bay thành
đội giữa lưng trời. Gia Luật Hồng Cơ ngửng đầu nhìn ngơ ngẩn, cười
gượng nói:
- Chỉ có nước biến thành con nhạn chứ có chắp cánh cũng không
bay khỏi nơi đây được.
Bắc Viện Đại Vương và Trung quân tướng quân nhìn nhau biến sắc,
biết là hoàng đế thấy binh thế loạn quân trong lòng khiếp sợ. Quân địch
đánh trống vang rền, mấy trăm chiếc trống da cùng gõ một lượt. Tướng
chỉ huy trung quân hét lớn:
- Đánh trống!
Mấy trăm chiếc trống trong ngự doanh cũng tùng tùng vang lên.
Phía bên kia tiếng trống bỗng ngưng bặt, mấy vạn kỵ binh gầm thét vang
trời dậy đất, cầm mâu xông thẳng qua. Khi thấy tiền phong quân của
địch sắp tới nơi, lệnh kỳ của Trung quân tướng quân phất xuống, tiếng
trống của ngự doanh lập tức ngừng, mấy vạn mũi tên đồng thời bắn ra,
quân tiền phong của địch lả tả ngã xuống. Thế nhưng quân địch kẻ trước
ngã người sau tiến lên, quân mã đi trước biến thành tấm mộc chắn cho
kẻ đi sau. Bộ binh cung tiễn của địch có thuẫn bài hộ thân xông được tới
nơi bắn tên vào ngự doanh.
Gia Luật Hồng Cơ lúc đầu quả có hơi khiếp sợ nhưng khi tiếp chiến
rồi, dũng khí lập tức tăng gia gấp bội, đứng trên cao tay cầm trường đao,
ra lệnh chỉ huy. Tướng sĩ ngự doanh thấy hoàng thượng đích thân đốc
chiến đều hô lớn:
- Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế!
Bên địch nghe thấy “Vạn tuế!” ngẩng đầu lên thấy Gia Luật Hồng
Cơ hoàng bào kim giáp, đứng ngay tại đài cao trong ngự doanh, nhất thời
sợ uy của ông nên ngần ngừ không dám tiến. Hồng Cơ thấy có dịp may
liền quát lớn:
- Kỵ binh tả quân xông ra vây lại.
Tả quân do Bắc Viện Khu Mật Sứ chỉ huy, nghe thấy hoàng thượng
ra lệnh, ba vạn kỵ binh liền từ ngang hông đánh ra vây quân địch. Loạn
quân còn đang do dự, ngự doanh quân đã tới nơi, trận thế lập tức đại
loạn. Trống của ngự doanh quân đánh liên hồi như sấm, quân địch chỉ
tiếp chiến được một lát phải rút về, ngự doanh quân liền xông lên truy
sát, khí thế cực kỳ hung tợn.
Tiêu Phong mừng lắm kêu lên:
- Đại ca, trận này mình đại thắng rồi.
Gia Luật Hồng Cơ xuống đài, nhảy lên ngựa đích thân đem quân
tiếp viện. Đột nhiên nghe tiếng tù và nổi lên, chủ lực của quân phản
loạn xông tới, tiền phong quân liền quay lại đánh, chỉ trong một thoáng
vũ tiễn trường mâu phóng tới vèo vèo, tiếng hò hét vang động cả bầu
trời, máu me vung vãi. Tiêu Phong xem mà trong bụng hãi thầm: “Cảnh
ác đấu như thế này ta bình sinh chưa từng thấy bao giờ. Một người dù võ
công thiên hạ vô địch, vào trong chốn thiên quân vạn mã thì cũng chẳng
dùng được vào việc gì, cùng lắm cũng chỉ tự bảo vệ được mình là may.
Cảnh đại quân giao chiến với cảnh tỉ đấu trong võ lâm, không thể nào có
thể so sánh với nhau được”.
Bỗng nghe tiếng phèng la từ phía sau phản quân vang lên ra hiệu
thu binh. Kỵ binh của đối phương rút lui rồi, tên chặn đường liền bắn ra
như mưa, Trung Quân tướng quân và Bắc Viện Khu Mật Sứ ba lần xung
phong nhưng không qua khỏi được trận thế của địch, ngược lại còn bị
bắn chết mấy ngàn binh sĩ. Gia Luật Hồng Cơ nói:
- Sĩ tốt chết nhiều quá, tạm thời thu binh.
Lập tức ngự doanh quân cũng gióng chiêng thu binh.
Phản quân thấy thế bèn phái hai đội kỵ binh xông đến tập kích
nhưng trung quân đã phòng bị trước, giả như thua chạy, hai cánh quân
liền đánh ập vào vây luôn ba nghìn quan quân vào giữa, còn mấy trăm
người khác xuống ngựa đầu hàng. Hồng Cơ vẫy tay một cái, ngự doanh
quân liền đâm trường mâu ra, giết sạch mấy trăm người. Trận ác đấu đó
chưa đầy một giờ nhưng chém giết nhau cực kỳ thảm khốc.
Chủ lực hai bên đều lui lại vài chục trượng, khoảng đất trống giữa
hai bên đầy xác người, những người bị thương rên rỉ kêu la thật là thê
thảm. Lại thấy hai bên mỗi bên xông ra một đội áo đen khoảng ba trăm
người, ngự doanh quân đầu đội mũ vàng còn bên địch đầu đội mũ trắng
kiểm tra những người bị thương. Tiêu Phong tưởng những người này ra
tìm người bị thương để cứu chữa, nào ngờ những quan binh áo đen kia rút
phắt trường đao, giết sạch thương binh của đối phương. Những người bị
thương chết cả rồi, sáu trăm người đó rống lên một tiếng hai bên liền
đấu với nhau.
Sáu trăm hắc y quân võ công ai nấy không phải dở, trường đao lấp
loáng, ra sức ác đấu, chẳng mấy chốc đã có hai trăm người bị chém chết
lăn ra. Những người áo đen đội mũ vàng thuộc đội ngự doanh võ công
tương đối cao hơn, số bị giết chỉ độ vài chục người khiến cục thế biến
thành hai ba người đánh một và như thế việc thắng phụ đã rõ ràng. Đấu
thêm một lúc nữa, biến thành ba bốn người hợp đấu một người. Thế
nhưng quan binh hai bên chỉ hò hét trợ oai, mấy chục vạn quân phản
loạn tụ thủ bàng quan chứ không cho thêm người ra tăng viện. Cuối cùng
ba trăm phản quân áo đen mũ trắng đều bị giết sạch, ngự doanh quân
còn sống sót khoảng hai trăm kéo về. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Chắc là
người Liêu có cái phép tắc như thế”.
Lần ác đấu dọn dẹp chiến trường này tuy qui mô không lớn như lần
trước nhưng lại kinh tâm động phách hơn nhiều. Hồng Cơ giơ cao trường
đao, lớn tiếng nói:
- Quân phản loạn tuy đông nhưng không có chí chiến đấu. Đánh
thêm một trận nữa, bọn chúng ắt phải thua chạy mà thôi.
Quân ngự doanh cùng la to:
- Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế!
Bỗng từ phía trong phản quân có tiếng tù và, năm người cưỡi ngựa
chầm chậm đi ra, người đi giữa hai tay bưng một mảnh da cừu, lớn tiếng
đọc bản chiếu thư của Hoàng thái thúc ban bố:
Gia Luật Hồng Cơ soán vị, là một ngụy quân, hiện nay Hoàng thái
thúc đã lên ngôi chính thống. Phàm là quan binh trung thành của nước
Liêu ta thì ngay hôm nay phải về kinh qui phục, ai nấy được thăng ba
cấp...
Quân ngự doanh lập tức có hơn một chục binh sĩ bắn tên ra, nghe
kêu vút vút. Bốn gã đứng bên liền giơ thuẫn lên bảo vệ. Gã kia vẫn tiếp
tục đọc, đột nhiên năm con ngựa cùng bị bắn ngã, nhưng năm người vẫn
đứng nấp sau thuẫn bài đọc cho hết “chiếu thư” của Hoàng thái thúc, lúc
đó mới quay về.
Bắc Viện Đại Vương thấy thuộc hạ nghe ngụy chiếu xong có vẻ
động lòng liền quát lớn:
- Ra chửi lại đi!
Ba chục tên lính liền bước ra hơn chục trượng, hai chục người cầm
thuẫn bài bảo hộ, còn lại là mười tên “thợ chửi”, đứa nào cũng mồm to
giọng lớn, tên thứ nhất liền bắt đầu, nào là “phản quốc gian tặc, chết
không có đất mà chôn” ... tên thứ hai lại tiếp, đến sau toàn những câu
hết sức thô tục. Tiếng Khất Đan Tiêu Phong biết chẳng bao nhiêu, ngôn
từ của những tay “thợ chửi” này ông phần lớn không hiểu nhưng thấy
Gia Luật Hồng Cơ luôn luôn gật gù, có vẻ thích thú, ắt là những “mạ
thủ” này chửi cũng có đầu có đuôi.
Tiêu Phong nhìn qua phía trận thế bên địch, thấy xa xa dưới lọng
vàng tiết mao rực rỡ có hai người cưỡi ngựa, tay cầm roi chỉ trỏ. Một
người toàn thân hoàng bào, đầu đội mũ xung thiên, râu hoa râm dài, còn
người kia mặc hoàng kim giáp trụ, gương mặt gầy choắt, dáng điệu tinh
anh. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Xem ra hai người này hẳn là cha con
Hoàng thái thúc và Sở Vương rồi”.
Đột nhiên mười tên “thợ chửi” kia hạ giọng thì thầm bàn tán một
hồi, rồi cùng cất cao giọng vạch trần những chuyện xấu xa của Hoàng
thái thúc và Sở Vương. Hoàng thái thúc dường như là người đứng đắn,
không có chuyện gì có thể bới móc thành ra cả mười tên chỉ lôi toàn
chuyện Sở Vương, nói y gian dâm phi tử của phụ thân, cậy quyền thế
cha làm điều càn rỡ. Những lời đó hiển nhiên cốt để đâm thọc, ly gián
cha con. Cả mười người cùng cao giọng, luận điệu cũng na ná như nhau
truyền ra xa đến mấy dặm nên trong đám mấy chục vạn quân không ít
người nghe rõ ràng.
Sở Vương giơ roi vẫy một cái, phản quân cùng gào lên một lượt,
người nào cũng a a ầm ỹ, ồn ào rức lác lập tức át hết giọng mười tên
“thợ chửi” kia.
Hai bên loạn lên một hồi, bên địch bỗng tẽ thành hai, đẩy ra mấy
chục chiếc xe đến trước quân ngự doanh thì ngừng lại. Những quân lính
đẩy xe lôi từ trong xa ra mấy chục người đàn bà, có người thì tóc trắng
như bông, có người tuổi còn non choẹt, quần áo ai nấy cực kỳ sang trọng.
Những người đó vừa ra khỏi xe, tiếng chửi hai bên lập tức ngừng bặt.
Gia Luật Hồng Cơ kêu lên:
- Mẹ ơi! Mẹ ơi! Thể nào con cũng sẽ bắt bọn phản đồ, băm chúng
ra thành vạn mảnh để cho mẹ vui lòng hả dạ.
Bà lão tóc bạc kia chính là Tiêu thái hậu, mẹ của Gia Luật Hồng
Cơ tức đương kim Hoàng Thái Hậu, ngoài ra là Tiêu hoàng hậu và các
phi tần, công chúa. Hoàng thái thúc và Sở Vương thừa cơ Hồng Cơ ra
ngoài đi săn nổi loạn, vây chặt cung cấm bắt Hoàng thái hậu và tất cả
những người kia.
Hoàng thái hậu lớn tiếng nói:
- Bệ hạ đừng nghĩ gì đến mẹ già vợ con, cứ ra sức trừ loạn giết giặc
đi.
Mấy chục tên quân sĩ liền rút trường đao nhứ vào cổ các hậu phi,
những phi tần tuổi trẻ ai nấy kinh hãi khóc òa lên. Gia Luật Hồng Cơ nổi
giận, quát lên:
- Bắn chết bọn đàn bà đang khóc cho ta!
Chỉ nghe vèo vèo, hơn chục mũi vũ tiễn bắn ra, những phi tần đang
khóc bị trúng tên ngã xuống chết ngay. Hoàng hậu reo lên:
- Bệ hạ bắn giỏi lắm, giỏi lắm! Cơ nghiệp tổ tông không thể nào để
hủy diệt trong tay gian tặc được.
Sở Vương thấy Hoàng thái hậu và Hoàng hậu đều cứng cổ như thế,
không thể bức bách được Hồng Cơ, ngược lại còn làm dao động quân
tâm bên mình bèn ra lệnh:
- Đẩy bọn đàn bà lên xe, lui lại.
Các binh sĩ liền áp giải Hoàng thái hậu, Hoàng hậu mọi người lên
xe đẩy về phía sau. Sở Vương lại hạ lệnh:
- Đem gia quyến quân địch ra.
Chỉ nghe tu tu tu tiếng còi tre thổi lên nghe thật thê lương, quân mã
lại giạt sang hai bên, rồi tiếng xích kêu loảng xoảng không ngớt, một
đoàn người già trẻ lớn bé từ phía sau được đưa ra. Chỉ giây lát tiếng
khóc hai bên vang dậy. Thì ra đây là gia quyến của ngự doanh quân.
Ngự doanh quân vốn là quân sĩ thân tín của Liêu đế, Gia Luật Hồng Cơ
đặc biệt ưu đãi nên cho gia đình của họ ở trong kinh thành, một là để cho
binh lính cảm kích, khi có việc ra sức liều thân, thứ nữa cũng để canh
chừng khiến đội quân tinh nhuệ này xuất chinh không dám hai lòng, ngờ
đâu lần này đi săn mầm họa lại ở ngay sát nách. Gia nhân quyến thuộc
của ngự doanh quân phải đến hơn hai chục vạn người, giải đến trận tiền
bất quá chỉ chừng ba vạn, trong đó vô khối người bị bắt oan nhưng chưa
phân biện được thành thử bồng con bế cháu, người nọ níu người kia loạn
cả lên.
Một tên tướng của Sở Vương giục ngựa chạy ra lớn tiếng nói:
- Chúng quan binh ngự doanh quân nghe đây: Người nhà các ngươi
lớn nhỏ đã bị bắt cả rồi, ai đầu hàng thì được xum họp với gia đình,
thăng quan ba cấp lại có thưởng. Còn như không đầu hàng thì tân hoàng
đế đã có chỉ dụ sẽ giết sạch hết gia quyến chúng bay.
Người Khất Đan xưa nay tàn nhẫn hiếu sát, nay nói đến “giết sạch”
thì không phải là chuyện dọa xuông. Trong đám ngự doanh quân có
người nhận ra thân thuộc mình “Cha ơi, mẹ ơi, con ơi, mình ơi, em ơi ...”
hai bên gọi nhau ơi ới rầm rĩ.
Trong đám phản quân trống đánh vang lừng, hai nghìn đao phủ thủ
hung hăng bước ra, tay cầm đao sáng quắc. Tiếng trống vừa ngừng lại,
hai nghìn thanh đao cùng giơ lên, nhắm ngay đầu gia thuộc của ngự
doanh quân. Gã tướng quân kia lại quát lên:
- Kẻ nào đầu hàng tân hoàng đế thì có trọng thưởng, bằng không,
bao nhiêu người thân bị giết sạch.
Y giơ tay lên, tiếng trống lại đánh inh ỏi. Ngự doanh quân biết rằng
một khi y phất tay, tiếng trống sẽ ngừng, hai nghìn thanh đao sáng quắc
kia sẽ chém xuống. Đám thân binh kia xưa nay trung thành với Gia Luật
Hồng Cơ, dẫu Hoàng thái thúc và Sở Vương có đem “thăng quan” “trọng
thưởng” ra dụ, cũng không ăn thua, nhưng lúc này thấy cha mẹ vợ con
vươn cổ chờ chém, làm gì mà không hoảng sợ?
Tiếng trống vẫn tùng tùng không ngớt, tim trong lồng ngực đám ngự
doanh quân cũng thình thình đập theo. Đột nhiên trong đám quân có kẻ
kêu lên:
- Mẹ ơi! Mẹ ơi! Đừng giết mẹ tôi!
Y quăng trường mâu xuống, chạy bổ nhào về một bà lão trong đám
địch quân. Vút một tiếng, một mũi tên từ phía ngự doanh quân bắn ra,
trúng ngay giữa lưng người nọ. Người đó chưa chết ngay vẫn còn tiếp tục
lao về phía người mẹ. Chỉ nghe thấy tiếng ”Mẹ ơi! Con ơi!” ồn ào vang
dậy, mấy trăm người trong ngự doanh quân cùng chạy ùa lên. Những
tướng lãnh thân tín của Gia Luật Hồng Cơ rút kiếm chém loạn xạ nhưng
làm sao ngăn nổi? Mấy trăm người đó chạy qua rồi, chẳng mấy chốc
thành mấy nghìn người. Sau mấy nghìn người đó trận thế liền hỗn loạn,
trong số mười lăm vạn thân quân của nhà vua có đến sáu bảy vạn người
qua bên kia.
Gia Luật Hồng Cơ thở dài một tiếng biết rằng đại thế đã hỏng, thừa
cơ thân quân gặp gỡ gia quyến tình hình đang náo loạn chặn lối đối
phương lập tức ra lệnh:
- Lui quân về phía đất bằng trên núi cao mạn tây bắc.
Các tướng trong quân lập tức truyền lệnh ra, số chưa chịu hàng cũng
còn khoảng hơn tám vạn người, hậu quân đổi thành tiền quân, rút lui về
hướng tây bắc. Sở Vương vội vàng sai kỵ binh đuổi theo nhưng trên
chiến trường toàn là đàn bà trẻ con và người già yếu, ngựa chạy không
nhanh được, đến khi dẹp được bọn họ ra thì Gia Luật Hồng Cơ cùng ngự
doanh quân đã đi xa rồi.
Tám vạn thân quân khi đến được chân núi thì đã về chiều, quân sĩ
vừa đói vừa mệt, đóng trại ở ngang sườn núi, từ cao trông xuống để làm
thế phòng ngự. Sau khi doanh trại đã xong, chưa kịp nấu cơm thì Sở
Vương đã dẫn quân tinh nhuệ đến chặn dưới chân núi, lập tức đánh lên.
Quân ngự doanh bắn tên lăn đá xuống như mưa, đẩy lùi quân phản loạn.
Sở Vương thấy từ dưới công lên không có lợi nên đành thu binh, an
doanh ở chân núi.
Tối hôm đó, Gia Luật Hồng Cơ đứng cạnh mỏm núi nhìn về phía
nam thấy lửa trong trại phản quân đầy như đom đóm, xa xa lại có ba con
rồng lửa ngoằn ngoèo, đó là ba đạo quân kéo đến tiếp viện vi công.
Hồng Cơ trong lòng buồn bã, đang định vào trướng thì Bắc Viện Khu
Mật Sứ đến bẩm:
- Một vạn năm nghìn quân của thần đã chạy xuống dưới núi đầu
hàng quân phản nghịch. Thần trị quân không ra gì, thật đáng chết.
Gia Luật Hồng Cơ xua tay, lắc đầu nói:
- Cái dó không phải lỗi nhà ngươi, thôi xuống đi nghỉ.
Ông quay đầu lại thấy Tiêu Phong đang xuất thần nhìn về phía xa
xa bèn nói:
- Khi trời sáng, phản quân sẽ đem toàn lực đánh lên, chúng mình sẽ
bị bắt cả. Ta là vua một nước, không thể nào chịu nhục với bọn phản đồ,
đành tự vẫn báo đền xã tắc. Huynh đệ nhân lúc trời tối xông ra đi, ngươi
võ nghệ cao cường, phản quân không ngăn nổi đâu.
Ông nói tới đây vẻ mặt cực kỳ buồn bã, lại tiếp:
- Ta vốn định phong cho ngươi một chức quan thật lớn để hưởng phú
quí, có ngờ đâu người anh này cái thân cũng chẳng bảo toàn được, lại
làm lụy đến cả ngươi.
Tiêu Phong đáp:
- Đại ca, đại trượng phu lúc co lúc duỗi, hôm nay chiến trận không
lợi, để tiểu đệ bảo vệ đại ca ra khỏi nơi đây, chiêu tập bộ thuộc cũ rồi
lại tính sau.
Hồng Cơ lắc đầu:
- Đến mẹ già vợ con ta còn không bảo vệ nổi, nói gì đến đại trượng
phu? Dưới mắt người Khất Đan, kẻ thắng là kẻ anh hùng, kẻ thua là kẻ
phản nghịch. Ta đã thua sạch rồi còn cách gì ngoi lên nổi nữa? Ngươi
hãy một mình đi thôi.
Tiêu Phong biết ông ta thực tình liền khẳng khái đáp:
- Nếu đã thế thì tiểu đệ nguyện cùng với ca ca, ngày mai một trận
tử chiến với bọn phản khấu. Ca ca và đệ nghĩa kết kim lan, ca ca là
hoàng đế cũng vậy, là dân thường cũng vậy, đối với Tiêu mỗ cũng đều
là nghĩa huynh. Huynh trưởng có nạn thì người em này nguyện cùng anh
đồng sinh cộng tử chứ lẽ nào lại bỏ chạy bao giờ?
Gia Luật Hồng Cơ nước mắt rưng rưng, nắm chặt hai tay ông nói:
- Hảo huynh đệ, cám ơn em.
Tiêu Phong quay trở vào trong trướng thấy A Tử nằm co tại một
góc, mở tròn đôi mắt to, hóa ra vẫn chưa ngủ. A Tử hỏi:
- Tỉ phu có giận em không?
Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi lại:
- Giận ngươi chuyện gì?
A Tử đáp:
- Cũng tại em chẳng ra đâu, nếu như em không đòi ra đại thảo
nguyên du ngoạn thì anh đâu có bị khốn khổ ở nơi đây. Tỉ phu, chúng
mình sẽ chết ở đây có phải không?
Ánh lửa từ bên ngoài lều chiếu lên mặt nàng, trong vẻ xanh xao có
thoáng một chút hồng đầy vẻ ngây thơ trẻ con. Tiêu Phong trong lòng
cực kỳ thương xót dịu dàng đáp:
- Ta lẽ nào lại trách em? Nếu như ta không đả thương cô thì chúng
mình đâu có đến chỗ này.
A Tử mỉm cười nói:
- Nếu không vì em bắn kim độc vào anh thì anh đâu có đả thương
em.
Tiêu Phong giơ bàn tay thô kệch vuốt tóc nàng. A Tử bị trọng
thương rồi, tóc rụng đến quá nửa, vừa vàng vừa thưa. Tiêu Phong thở dài
một tiếng nói:
- Em còn nhỏ quá vậy mà theo ta chi cho khổ.
A Tử nói:
- Tỉ phu ơi, trước kia em không hiểu vì lẽ gì tỉ tỉ lại thích anh, bây
giờ thì em hiểu rồi.
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Chị cô đối với ta tình nghĩa thật sâu nặng,
một đứa bé con như cô thì biết gì. Thực ra, vì cớ gì A Châu lại yêu một
kẻ thô lỗ như ta, chính ta cũng còn chưa rõ thì ngươi làm sao mà hiểu
được đây?”. Ông nghĩ tới đây buồn bã lắc đầu.
A Tử nghiêng ngó nhìn ông rồi nói:
- Tỉ phu có đoán được vì sao hôm đó em lại bắn độc châm vào anh
chưa? Em thực chẳng muốn bắn chết anh mà chỉ cốt anh không còn cử
động được để em được hầu hạ anh thôi.
Tiêu Phong lạ lùng:
- Thế để làm gì?
A Tử mỉm cười đáp:
- Anh không cử động được thì mãi mãi không bao giờ xa em. Nếu
không anh đâu có coi em vào đâu, lúc nào cũng bỏ em mà đi được,
không ngó ngàng gì đến em nữa.
Tiêu Phong nghe nàng nói thật rặt giọng trẻ con nhưng biết không
phải bạ đâu nói đấy, cảm thấy chột dạ nghĩ thầm: “Thôi thì đằng nào
sáng mai cũng chết hết, an ủi cô ta vài câu cũng chẳng sao”. Ông bèn
nói:
- Em thật đúng là trẻ con. Nếu quả như cô muốn theo ta thì cứ nói
thẳng lẽ nào ta lại không bằng lòng.
Đôi mắt A Tử đột nhiên sáng bừng lên, vui mừng nói:
- Tỉ phu ơi, sau khi em khỏi bệnh rồi, em muốn đi theo anh, mãi mãi
không quay lại với sư phụ và phái Tinh Tú nữa. Anh đừng bỏ rơi em nhé!
Tiêu Phong biết cô ta đã gây đại họa tại phái Tinh Tú, quả thực
chẳng dám quay lại đâu nên cười nói:
- Cô là truyền nhân đại sư tỉ của môn phái, nếu không quay về thì
quần long vô thủ biết làm sao bây giờ?
A Tử cười khanh khách đáp:
- Để cho bọn chúng loạn bát nháo lên cũng hay. Em mặc kệ họ.
Tiêu Phong cầm chiếc mền kéo lên đắp tới cổ cho cô gái, xong xuôi
rồi mới kiếm một góc trướng trải chăn da nằm ngủ. Lửa bên ngoài lúc
mờ lúc tỏ, lấp loáng bất định nghe có tiếng khóc văng vẳng, biết là ngự
doanh quân nhớ người thân. Ai cũng biết một trận sáng mai tính mạng sẽ
chẳng còn, có điều trung với hoàng thượng nên không phản bội.
Mới sớm hôm sau Tiêu Phong đã dậy rồi, dặn Thất Lý chuẩn bị
ngựa sẵn sàng lo cho A Tử, còn mình cũng xong xuôi, ăn một cân thịt
cừu, uống ba cân rượu rồi đi ra ngoài sườn núi. Khi đó chung quanh trời
còn tối mịt, nhưng chẳng bao lâu phương đông đã ửng hồng, ngự doanh
quân thổi tù và u u, tiếng leng keng của binh giáp võ khí chạm nhau
không dứt. Trong doanh từng đội binh mã đi ra, thủ ngự những nơi xung
yếu. Tiêu Phong từ cao nhìn xuống thấy phía đông, phía nam và phía
đông nam ba mặt chỗ nào cũng đầy người, đều là phản quân cả. Ở phía
xa xa một làn sương trải dài, thành thử loạn quân không biết đâu là cuối.
Ngay khi đó vầng thái dương từ chân trời nhô lên như một vòng
cung tỏa ra thành muôn ngàn tia nắng chiếu thẳng vào màn bạch lộ,
sương tan dần thấy ẩn dưới đám mây mù đâu đâu cũng là quân mã.
Khắp nơi tiếng trống đánh vang rền, từ trong quân địch hai đội cầm cờ
vàng chạy ra, sau đó là Hoàng thái thúc và Sở Vương cưỡi ngựa đến
dưới chân núi, cầm roi ngựa chỉ trỏ lên trên cao bàn tán.
Gia Luật Hồng Cơ dẫn thị vệ đứng ngay sườn núi, thấy tình hình đó
cơn giận dâng lên, cầm ngay cung tiễn trong tay lính hầu giương thẳng
cánh nhắm vào Sở Vương bắn ra một mũi tên. Từ trên cao nhìn xuống
tưởng chừng như hai bên không xa, thực ra còn cách đến mấy đường tên
mới tới, mũi tên chưa được nửa đường thì đã hết sức, rơi xuống rồi.
Sở Vương cười ha hả lớn tiếng nói:
- Hồng Cơ, ngươi soán đoạt ngôi vua của cha ta, làm ngụy quân bao
nhiêu lâu rồi, bây giờ phải nhượng vị thôi. Ngươi mau mau đầu hàng cha
ta sẽ tha cho khỏi chết, còn giả nhân giả nghĩa phong cho ngươi làm
Hoàng thái điệt nữa đấy! Ha ha ha!
Mấy câu đó hiển nhiên mỉa mai Hồng Cơ phong Trọng Nguyên làm
Hoàng thái thúc chỉ là giả nhân giả nghĩa. Hồng Cơ cơn giận xung thiên,
chửi lại:
- Đồ phản tặc vô liêm sỉ, còn bẻo mép nữa ư?
Bắc Viện Khu Mật Sứ kêu lên:
- Chúa bị nhục thì bầy tôi đành phải chết! Chúa thượng đối với thần
ơn nặng tày non, hôm nay chính là lúc bọn thần báo đền ơn nghĩa.
Y liền dẫn ba nghìn thân binh, cùng gầm lên từ trên cao xông
xuống. Ba nghìn người đó đều là dũng sĩ trong bộ tộc Khất Đan, lần này
có ý quyết tử thành thử một có thể đánh mười, chỉ nghe tiếng gào thét
vang trời động đất, máu chảy thịt rơi. Ba nghìn người càng đánh càng ít
dần, đến sau đều chết cả. Bắc Viện Khu Mật Sứ giết được vài người, rồi
tự cắt cổ mà chết. Hồng Cơ, Tiêu Phong cùng các đại thần từ trên cao
nhìn xuống thấy rõ ràng nhưng không làm sao cứu được nghĩ đến lòng
trung nghĩa của Bắc Viện Khu Mật Sứ, ai nấy đều nhỏ lệ.
Sở Vương lại giục ngựa đến chân núi cười nói:
- Hồng Cơ, ngươi có chịu hàng hay không thì bảo? Cái đám quân
lưa thưa của ngươi thì làm được gì? Thủ hạ ngươi đều là dũng sĩ Đại
Liêu, sao nỡ để họ phải chết theo ngươi? Là nam nhi đại trượng phu, hãy
cho đâu ra đấy, hàng thì hàng, chiến thì chiến, còn như biết rằng khí số
hết rồi, sao chưa tự vẫn để tạ thiên hạ, khỏi làm chết thêm sĩ tốt.
Gia Luật Hồng Cơ thở dài một tiếng, hổ nhãn rưng rưng, rút đao
cầm tay nói:
- Giang sơn gấm vóc này thôi đành nhường cho cha con chúng bay
vậy. Ngươi nói quả không sai, chúng ta chú cháu anh em, cốt nhục tương
tàn, việc gì phải làm chết thêm dũng sĩ Khất Đan.
Nói xong ông giơ đao lên đâm vào cổ mình. Tiêu Phong vươn tay ra,
đoạt ngay con dao nói:
- Đại ca, kẻ anh hùng hảo hán có chết cũng chết nơi chiến trường,
lẽ nào lại tự tận bao giờ?
Hồng Cơ thở dài:
- Huynh đệ, bao nhiêu tướng sĩ đây theo ta đã lâu, ta đành chết còn
hơn là để cho họ phải vì ta mà bỏ mạng.
Sở Vương lại lớn tiếng giục:
- Hồng Cơ, ngươi còn chờ đến bao giờ mới tự vẫn?
Ngọn roi trong tay y chỉ thảng vào mặt, thái độ cực kỳ phách lối.
Tiêu Phong thấy y càng đến càng gần, trong lòng chợt động, nói nhỏ:
- Đại ca nói chuyện cầm chừng với y, tiểu đệ lẻn tới gần, bắn y một
mũi.
Hồng Cơ biết ông tài nghệ cao cường, mừng rỡ nói:
- Thế thì hay lắm, nếu bắn chết được y rồi ta có chết cũng nhắm
mắt.
Nói rồi cao giọng kêu lên:
- Sở Vương, ta đãi cha con ngươi không bạc, nếu cha ngươi quả
muốn làm vua thì có gì là không được, việc gì phải làm chết bao nhiêu
dũng sĩ, dân đen bản quốc, làm tổn thương nguyên khí cho nước Đại
Liêu?
Tiêu Phong cầm một bộ cung cứng, lấy mười mũi lang nha trường
tiễn, dẫn một con tuấn mã len lén qua bên núi, rùn người xuống chui
dưới bụng ngựa, hai chân quặp vào yên, lấy gót chân dậm một cái, con
vật liền chạy thẳng xuống.
Phản quân dưới núi thấy một con ngựa trên lưng không có người, lại
tưởng bị sút dây cương đi lạc là chuyện cực kỳ tầm thường nên chẳng ai
để ý. Thế nhưng chẳng mấy chốc quân sĩ đã thấy dưới bụng ngựa có
người lập tức hô hoán rầm rĩ.
Tiêu Phong dùng đầu ngón chân thúc ngựa, xông thẳng vào Sở
Vương, thấy chỉ còn cách y chừng hai trăm bước, nằm dưới bụng ngựa
giương cung lên, nghe vút một tiếng bắn y một mũi. Vệ sĩ đứng bên cạnh
Sở Vương liền giơ thuẫn bài lên đỡ được mũi tên. Tiêu Phong giục ngựa
chạy tới, tên bắn liên tiếp, giết ngay tên vệ sĩ kia, mũi tên thứ hai lại
nhắm vào ngực Sở Vương.
Sở Vương mắt tinh tay lẹ, roi ngựa vung ra gạt mũi tên. Thuật dùng
roi gạt tên vốn dĩ là bản lãnh của Sở Vương, nhưng có ngờ đâu người
bắn tên không những sức cánh tay đã mạnh, lại thêm nội kình đưa vào
đầu tên, roi ngựa tuy đánh trúng đuôi nhưng chỉ làm cho đầu tên lệch đi
một chút, nghe soẹt một tiếng đã cắm ngay vào vai y. Sở Vương kêu lên
“Chao ôi!” một tiếng, đau đến gục xuống yên ngựa.
Vũ tiễn của Tiêu Phong lại tiếp theo, lần này khoảng cách thật gần,
mũi tên trúng vào hông, xuyên thẳng qua ngực. Sở Vương chỉ dãy được
một cái, từ trên ngựa ngã xuống ngay.
Tiêu Phong vừa ra tay đã thành công, nghĩ thầm: “Sao mình không
thừa cơ bắn chết luôn Hoàng thái thúc”.
Sở Vương trúng tên ngã ngựa, quân địch ai nấy kêu la, mấy trăm
mũi tên nhắm ngay Tiêu Phong mà bắn, chỉ nháy mắt con ngựa đã trúng
đầy tên thật chẳng khác gì một con nhím. Tiêu Phong lăn dưới đất mấy
vòng, lòn ngay dưới bụng ngựa một tên quân, thi triển công phu tiểu xảo,
cứ lăn một vòng lại luồn từ bụng con ngựa này sang bụng con ngựa khác.
Quan binh không sao bắn tên được, lập tức dùng trường mâu mà chọc.
Tiêu Phong lẻn qua trái, lách qua phải, toàn là ẩn dưới bụng ngựa. Quân
địch loạn cả lên, mấy nghìn quân người nọ xô người kia tưởng chừng như
dẫm phải nhau nhưng không làm sao đâm trúng ông được.
Tiêu Phong sử dụng chẳng qua chỉ là địa đường công phu thật tầm
thường của võ lâm Trung Nguyên. Dù là địa đường quyền, địa đường
đao, hay địa đường kiếm cũng đều là lăn lộn dưới đất, tấn công vào hạ
bàn bên địch. Bây giờ ông dùng vào trong chiến trận, mắt sáng tay
nhanh, tránh khỏi không bị ngựa giày. Ông nhắm kỹ nơi Hoàng thái thúc
đang đứng, lăn về hướng đó, nhắm thẳng vào y vút vút vút bắn ra ba mũi
tên.
Vệ sĩ của Hoàng thái thúc đã nhìn thấy Sở Vương bị trúng tên rồi
nên đã phòng bị, hơn ba chục người cùng giơ mộc lên chặn trước Hoàng
thái thúc kín mít, nghe keng keng keng ba mũi tên đều đụng phải thuẫn
bài rơi xuống đất. Mười mũi tên Tiêu Phong đem theo đã bắn hết bảy
mũi rồi, chỉ còn lại ba, thấy ba chục tên quân dùng thuẫn bảo vệ chủ, ba
mũi tên bắn chết ba tên vệ sĩ đã khó, huống hồ lại bắn được Hoàng thái
thúc.
Lúc này Tiêu Phong đã vào sâu trong trận của địch, phía sau mấy
nghìn người cầm mâu đuổi tới, trước mặt là thiên quân vạn mã quả đúng
là rơi vào tuyệt cảnh. Hôm xưa ông một mình chống lại quần hùng Trung
Nguyên đối phương chẳng qua chỉ vài trăm người, cũng đã cực kỳ hung
hiểm, may có người khác cứu còn hôm nay bi mấy vạn người vây khốn
làm sao chạy thoát được đây?
Trong tình hình nguy ngập đó, ông hú lên thật to, tung mình nhảy
lên, nghe vù một tiếng đã nhảy vọt qua ba chục người cầm thuẫn, rơi
xuống ngay trước đầu ngựa Hoàng thái thúc. Hoàng thái thúc hoảng hốt,
giơ roi ngựa lên đánh luôn vào mặt ông. Tiêu Phong nghiêng người rơi
xuống đúng ngay yên ngựa Hoàng thái thúc đang cưỡi, giơ tay chộp luôn
sau lưng y, giơ lên cao kêu lớn:
- Ngươi muốn sống hay muốn chết? Mau mau bảo mọi người bỏ
binh khí xuống.
Hoàng thái thúc sợ đến cứng đơ người, những gì ông nói y không
nghe thấy gì cả. Lúc đó tiếng xôn xao của loạn quân inh ỏi điếc cả tai,
hàng nghìn vạn người ai cũng lắp tên giương cung nhắm ngay Tiêu
Phong nhưng Hoàng thái thúc bị ông bắt giữ rồi ai mà dám vọng động
khinh suất?
Tiêu Phong vận khí vào đan điền kêu lớn:
- Hoàng thái thúc có lệnh, ba quân mau bỏ binh khí xuống để nghe
tuyên đọc thánh chỉ. Hoàng đế khoan hồng đại lượng, xá tội cho tất cả
quan binh, không truy cứu bất cứ ai.
Mấy câu đó át hết tất cả tiếng người đang ồn ào, qua đến mấy dặm
còn nghe thấy, đến quá nửa trong số mấy chục vạn người trước núi sau
núi nghe được rõ ràng. Tiêu Phong đã trải qua kinh nghiệm người trong
Cái Bang nổi loạn chống lại mình, biết rõ tâm tư loạn quân, sau khi thoát
khỏi nghịch cảnh rồi, việc đáng quan tâm nhất là làm sao được miễn tội,
nếu như được bảo đảm không truy cứu lỗi lầm thì ý chí chiến đấu lập tức
tiêu tan. Hiện giờ phản quân thế mạnh, bên cạnh Gia Luật Hồng Cơ
chẳng qua chỉ bảy tám vạn người, bên ít bên nhiều làm sao địch lại,
trong lúc cục diện khẩn cấp không kịp thỉnh thị ý kiến Hồng Cơ nên nói
liều mấy câu cho bên phản loạn yên tâm.
Mấy câu đó vang vang truyền ra, bao nhiêu tiếng huyên náo của
quân phản loạn liền lắng xuống, người nọ nhìn người kia, không ai định
được chủ ý ra thế nào. Tiêu Phong biết rằng tình thế hiện nay cực kỳ
nguy hiểm, trong đám quân địch chỉ cần một người kêu lên không phục,
mấy chục vạn quân như rắn mất đầu kia sẽ đại biến, thành thử không thể
diên trì một giờ khắc nào, lại lớn tiếng nói:
- Hoàng thượng có chỉ dụ, trong đám phản quân bất luận quan chức
lớn bé thế nào chăng nữa, tất cả đều vô tội, hoàng đế khai ân quyết
không truy cứu. Quan quân binh lính ai giữ nguyên chức ấy, tất cả hãy
mau mau bỏ binh khí xuống.
Tất cả lặng như tờ, đột nhiên loảng xoảng, loảng xoảng, có mấy
người liệng bỏ trường mâu. Tiếng vứt bỏ binh khí kia dường như lây qua
người khác, chỉ trong giây lát, loảng xoảng vang dậy, có đến một nửa số
người vứt binh khí, phần còn lại trù trừ chưa quyết định.
Tiêu Phong tay trái cầm Hoàng thái thúc giơ lên cao, giục ngựa
chạy lên núi, quân phản loạn nào ai dám ngăn trở, ngựa ông đến đâu lập
tức tránh ra nhường đường đến đó. Tiêu Phong cưỡi ngựa đến lưng chừng
núi rồi, hai toán ngự doanh quân liền chạy xuống nghinh tiếp, trên núi
trống chiêng đồng thời nổi lên. Tiêu Phong nói:
- Hoàng thái thúc, ông mau mau ra lệnh, bảo bộ thuộc bỏ binh khí
xuống đầu hàng thì sẽ được tha mạng.
Hoàng thái thúc run run hỏi lại:
- Ngươi đảm bảo tha mạng cho ta chứ?
Tiêu Phong nhìn xuống chân núi, thấy vô số phản quân vẫn còn
cung tên trường mâu trong tay, lòng quân chưa định, nguy hiểm chưa hết
nghĩ thầm: “Bây giờ an lòng quân là việc quan trọng nhất. Hoàng thái
thúc một người sống chết có đáng gì đâu, chỉ cần cho người canh gác kỹ
càng, để từ rày y không còn làm điều càn rỡ được nữa”. Ông liền nói:
- Đây là cơ hội duy nhất để ông đái tội lập công. Bệ hạ biết rằng
chỉ tại con ông tệ hại, nhất định sẽ tha chết cho ông.
Hoàng thái thúc vốn không có lòng tranh đoạt ngôi vua, chỉ vì con
ông ta Sở Vương có dã tâm mà gây họa, lúc này rơi vào tay người ta rồi,
chỉ mong sao khỏi chết bèn đáp:
- Được, ta sẽ làm theo lời ngươi.
Tiêu Phong để ông ta an tọa trên yên ngựa rồi mới sang sảng nói:
- Ba quân nghe đây, Hoàng thái thúc có lời nhắn nhủ.
Hoàng thái thúc lớn tiếng nói:
- Sở Vương gây nên họa loạn hiện đã đền tội rồi. Hoàng thượng
khoan hồng đại lượng tha cho tất cả mọi người. Các ngươi mau mau bỏ
binh khí xuống, quay về phía hoàng thượng mà cầu xin.
Hoàng thái thúc đã nói như thế, đám loạn quân trở thành như rắn
mất đầu, tuy cũng có kẻ hung hăng ngoan cố nhưng không người nào
dám chống lại, lập tức nghe thấy loảng xoảng liên hồi, bao nhiêu loạn
quân đều vứt binh khí xuống đất.
Tiêu Phong áp giải Hoàng thái thúc lên tới khu núi trống trải, Gia
Luật Hồng Cơ mừng không để đâu cho hết, chẳng khác gì đang nằm mơ,
tiến đến bên cạnh Tiêu Phong cầm hai tay ông nói:
- Huynh đệ, huynh đệ, giang sơn này của ca ca từ nay cùng ngươi
chung hưởng.
Ông nói đến đây tâm thần khích động, tự nhiên nước mắt ròng ròng.
Hoàng thái thúc quì gục dưới đất nói:
- Kẻ loạn thần này cầu xin bệ hạ thứ tội, xin bề trên nhủ lòng
thương xót.
Gia Luật Hồng Cơ trong lòng hết sức vui sướng quay sang hỏi Tiêu
Phong:
- Huynh đệ nghĩ mình phải làm sao đây?
Tiêu Phong đáp:
- Phản quân người nhiều thế mạnh đang cần an định quân tâm, cầu
xin bệ hạ tha tội chết cho Hoàng thái thúc để cho mọi người yên lòng.
Gia Luật Hồng Cơ cười nói:
- Hay lắm! Hay lắm! Ngươi nói sao thì làm vậy!
Ông quay lại nói với Bắc Viện Đại Vương:
- Ngươi truyền thánh chỉ, phong Tiêu Phong làm Sở Vương, giữ
chức Nam Viện Đại Vương đốc suất phản quân trở về Thượng Kinh.5
Tiêu Phong hoảng hốt, ông giết Sở Vương, bắt Hoàng thái thúc
chẳng qua chỉ mong cứu mạng nghĩa huynh đâu phải có lòng ham muốn
tước lộc, Gia Luật Hồng Cơ phong cho chức quan lớn như thế khiến cho
chân tay luống cuống, sững sờ không biết phải nói sao. Bắc Viện Đại
Vương quay sang chắp tay chào Tiêu Phong:
- Chúc mừng! Chúc mừng! Tước vị Sở Vương xưa nay không phong
cho người ngoài hoàng tộc, Tiêu đại vương mau mau tạ ơn hoàng thượng
đi.
Tiêu Phong nói với Gia Luật Hồng Cơ:
- Mọi việc hôm nay toàn nhờ hồng phúc của ca ca, lòng quân hướng
về bệ hạ nên bình định được quân phản loạn, tiểu đệ chỉ bỏ chút hơi sức
nhỏ nhoi, đâu có gì gọi là công lao. Huống chi tiểu đệ không biết làm
quan, lại cũng chẳng muốn làm quan, xin ca ca thu hồi thành mệnh.
Gia Luật Hồng Cơ cười vang, giơ tay nắm vai Tiêu Phong nói:
- Chức Sở Vương, Nam Viện Đại Vương ở nước Liêu ta là tước lộc
cao quí nhất rồi, nếu như huynh đệ hiềm là chưa đủ không chịu thần
phục thì người anh này ngoài việc nhường ngôi cho ngươi không còn
cách nào khác nữa.
Tiêu Phong lại càng kinh hãi, nghĩ thầm: “Ca ca vui quá, nói năng
chẳng giữ gìn gì nữa, xem ra có chiều lung tung, mọi việc lúc này cần
quả quyết gấp rút, không thể chần chờ gì nữa để khỏi sinh họa”. Ông
đành quì xuống nói:
- Thần Tiêu Phong lãnh chỉ, đa tạ ân điển vạn tuế.
Gia Luật Hồng Cơ vui vẻ đưa tay đỡ dậy. Tiêu Phong nói:
- Thần không dám vi chỉ nên phải lãnh nhận quan tước. Có điều là
kẻ thô bỉ thảo dã, không hiểu pháp độ triều đình, nếu có điều gì sai sẩy
xin bệ hạ rộng lòng tha thứ.
Gia Luật Hồng Cơ giơ tay vỗ lên vai ông mấy cái cười nói:
- Quyết không sao cả.
Ông quay sang nói với Tả quân tướng quân Gia Luật Mạc Ca:
- Gia Luật Mạc Ca, ta phong ngươi làm Nam Viện Khu Mật Sứ, phò
tá Tiêu đại vương trông coi quân quốc trọng sự.
Gia Luật Mạc Ca mừng rỡ vội vàng quì xuống tạ ơn, sau đó quay
sang Tiêu Phong tham bái nói:
- Tham kiến đại vương!
Hồng Cơ nói:
- Mạc Ca, ngươi theo lệnh Tiêu đại vương, đốc suất quân phản loạn
quay trở về Thượng Kinh. Chúng ta đi thăm Hoàng thái hậu nào.
Trên núi liền chiêng trống nổi lên, Gia Luật Hồng Cơ cùng đoàn
người đi xuống. Lãnh binh tướng quân phe phản loạn lập tức mời Hoàng
thái hậu, Hoàng hậu các người ra, cung kính an trí trong doanh. Gia Luật
Hồng Cơ vào trong trướng rồi, mẹ con vợ chồng gặp nhau, quả là chết đi
sống lại, tưởng chừng như từ một kiếp khác quay về, ai nấy tấm tắc khen
ngợi công lao vĩ đại của Tiêu Phong.
Gia Luật Mạc Ca lại đưa Tiêu Phong đi gặp tất cả các bộ thuộc
Nam Viện. Mới đây Tiêu Phong trong chốn thiên quân vạn mã vào ra,
thần dũng không ai địch nổi, ai nấy đã thấy cả rồi. Các quan quân Nam
Viện tuy đều là cựu bộ thuộc của Sở Vương nhưng một là Tiêu Phong
thần uy lẫm lẫm, mọi người sợ ông là kẻ anh hùng không dám không
phục, thứ nữa Sở Vương bình thời tính tình nóng nảy, không có ân huệ gì
với kẻ dưới, thứ ba mình là kẻ làm loạn phạm thượng, trong bụng đang
nơm nớp lo lắng thành thử Tiêu Phong vừa đến ai ai cũng nhất tề nghe
lệnh của ông.
Tiêu Phong nói:
- Hoàng thượng đã tha tội theo kẻ nghịch mưu phản cho các ngươi,
từ nay tất cả phải ăn năn sám hối, không người nào được có dạ phản
trắc.
Một viên tướng đầu râu tóc bạc tiến lên bẩm:
- Bẩm cáo đại vương, Hoàng thái thúc và thế tử bắt giữ gia quyến
chúng tôi, ép chúng tôi phải theo, nếu như chống lại, thế tử sẽ chém đầu
tất cả, thành thử không biết làm sao, xin đại vương tâu cho vạn tuế rõ.
Tiêu Phong gật đầu:
- Nếu thế, những chuyện đã qua từ nay không nhắc đến nữa.
Ông quay lại nói với Gia Luật Mạc Ca:
- Cho ba quân ai đâu ở đó, nghỉ ngơi ăn uống xong thì nhổ trại hồi
kinh.
Sau đó các quan chức Nam Viện từ lớn xuống nhỏ tiến lên tham
kiến. Tiêu Phong tuy chưa làm quan bao giờ nhưng đã từng là bang chủ
Cái Bang lâu năm, thống lãnh quần hào nên cũng có uy. Thống lãnh hào
kiệt Cái Bang với chỉ huy quân Khất Đan không khác nhau nhiều lắm,
nhưng Liêu binh có qui củ riêng mà Tiêu Phong phải để ý còn ngoài ra
mọi sự do Gia Luật Mạc Ca điều động giải quyết cho nên cũng đâu vào
đấy.
Tiêu Phong dẫn đại quân xuất phát chưa bao lâu thì Hoàng thái hậu
và Hoàng hậu đã sai sứ tới trung quân ban tặng áo đai vàng bạc. Tiêu
Phong tạ ơn xong, Thất Lý cũng đưa A Tử đến. Nàng mặc áo gấm ngồi
trên tuấn mã, nói là những thứ đó đều do Hoàng thái hậu ban cho. Tiêu
Phong thấy thân hình mảnh mai của nàng lọt thỏm vào trong cẩm bào
rộng thùng thình, khuôn mặt thon thon dường như bị cổ áo che khuất đến
một nửa không khỏi tức cười.
A Tử không chính mắt trông thấy Tiêu Phong bắn chết Sở Vương,
bắt sống Hoàng thái thúc chỉ nghe Thất Lý kể lại mà thôi. Hễ ai kể lại
chuyện gì, không khỏi thêm mắm thêm muối nên công lao của Tiêu
Phong lại càng tăng thêm vài phần thần bí.
A Tử vừa gặp ông đã cằn nhằn:
- Tỉ phu lập đại công như thế, sao không nói trước để tiểu muội
đứng ở sườn núi xem đại ca xông ra rồi lại trở về có phải vui không?
Làm em lo ơi là lo.
Tiêu Phong đáp:
- Cái đó là nhờ may mà lập được chút công lao chứ ta nào có định
trước đâu? Cô nói nghe thật trẻ con quá.
A Tử nói:
- Tỉ phu qua đây.
Tiêu Phong đi đến bên cạnh nàng, thấy khuôn mặt xanh xao của
nàng hơi ửng hồng ra chiều phấn khởi, súng sính trong bộ áo váy hoa
gấm kia, trông thật chẳng khác gì một con rối nhỏ, vừa kháu khỉnh lại
vừa dễ thương, khiến ông bật cười ha hả.
A Tử vẻ mặt phụng phịu nói dỗi:
- Em nói chuyện đứng đắn sao anh lại cười, có gì khôi hài đâu?
Tiêu Phong đáp:
- Ta thấy cô mặc y phục này, trông thật chẳng khác gì một hình
nhân, thú vị quá.
A Tử bực bội đáp:
- Anh lúc nào cũng chỉ coi em là một đứa trẻ con, cứ trêu em hoài.
Tiêu Phong vẫn cười:
- Đâu có phải vậy! A Tử ơi, lần này ta tưởng hai anh em mình chắc
chết mười mươi, ai ngờ chết đi sống lại nên mới vui đùa một chút đấy
thôi. Chứ còn cái gì Nam Viện Đại Vương, Sở Vương những tước vị đó ta
nào có ham gì, được khỏi chết là mừng lắm rồi.
A Tử nói:
- Tỉ phu cũng sợ chết sao?
Tiêu Phong chưng hửng rồi gật đầu:
- Gặp lúc hiểm nguy ai mà chẳng sợ chết.
A Tử nói:
- Em lại tưởng anh là anh hùng hảo hán, không sợ chết chứ. Nếu
quả là anh sợ chết, sao trong đám phản quân hàng nghìn hàng vạn lại
dám xông vào?
Tiêu Phong đáp:
- Cái đó gọi là vào chỗ chết để tìm đường sống. Nếu ta không xông
vào thì cầm chắc cái chết, thành thử chẳng có gì là dũng cảm hay không
dũng cảm mà là vào nước đường cùng. Nếu mình vây một con gấu hay
một con cọp, nó chạy không được thể nào cũng liều mạng quay đầu lại
cắn thôi.
A Tử bật cười:
- Anh so sánh mình với loài súc vật.
Lúc đó hai người đang ngồi trên lưng ngựa đi song hàng, đưa mắt
nhìn ra thấy cả một vùng thảo nguyên cờ sí rợp trời, những đội ngũ dài
như rắn bò tới tận cuối trời không biết đâu mới hết, trước sau trái phải
chỗ nào cũng là vệ sĩ bộ thuộc.
A Tử hết sức vui lòng nói:
- Hôm trước anh giúp em đoạt được chức truyền nhân của phái Tinh
Tú, em nghĩ bũng trong phái Tinh Tú từ nhị đại đệ tử, tam đại đệ tử tất
cả mấy trăm người, ngoài sư phụ ra thì em là lớn nhất, đã hết sức đắc ý.
Thế nhưng so với anh chỉ huy thiên quân vạn mã thật chẳng thấm gì. Tỉ
phu ơi, bọn Cái Bang không chịu để anh làm bang chủ, hứ, một cái bang
hội nhỏ xíu, có làm cái quái gì đâu? Anh đem binh mã tới giết sạch bọn
chúng cho được việc.
Tiêu Phong liên tiếp lắc đầu nói:
- Chỉ trẻ con thôi! Ta là người Khất Đan, Cái Bang không chịu cho
ta làm bang chủ là phải rồi. Trong Cái Bang toàn là cựu bộ thuộc, bạn
bè ta, sao lại giết họ?
A Tử đáp:
- Bọn chúng trục xuất anh ra khỏi bang rồi, đối xử tệ bạc nên giết
chúng đi là phải. Tỉ phu, không lẽ giờ này mà họ còn là bằng hữu của
anh nữa hay sao?
Tiêu Phong không biết trả lời thế nào, chỉ lắc đầu, nghĩ đến việc
mình đoạn nghĩa tuyệt giao với bạn bè cũ nơi Tụ Hiền Trang, bao nhiêu
hào khí đều tiêu ma. A Tử lại hỏi tiếp:
- Nếu như bọn chúng nghe tin anh làm Nam Viện Đại Vương nước
Liêu đâm ra hối hận, lại mời anh về làm bang chủ Cái Bang, anh về hay
không về?
Tiêu Phong mủm mỉm cười:
- Trên đời này làm gì có chuyện đó bao giờ? Anh hùng hảo hán
nước Đại Tống coi người Khất Đan là gian đồ chuyện ác gì cũng chẳng
từ, ta ở nước Liêu làm quan càng lớn thì họ lại càng hận ta.
A Tử nói:
- Hứ, thế thì đã sao? Bọn chúng ghét mình thì mình cũng ghét lại.
Tiêu Phong đưa mắt nhìn về hướng nam thấy nơi đất trời giao tiếp ở
xa xa núi non trùng điệp nghĩ bụng: “Qua khỏi dãy núi kia là Trung
Nguyên”. Ông tuy là người Khất Đan nhưng từ nhỏ lớn lên tại phương
nam, trong lòng quả là yêu Đại Tống rất nhiều mà yêu Đại Liêu chẳng
bao nhiêu, nếu như Cái Bang cho ông làm một bang chúng vô danh
không chức phận, không túi nào, e rằng còn sung sướng hơn là chức Nam
Viện Đại Vương.
A Tử nói tiếp:
- Tỉ phu, em thấy hoàng thượng thật là thông minh nên mới phong
anh làm Nam Viện Đại Vương. Từ nay về sau mỗi khi nước Liêu đánh
với nước nào, anh đem quân xuất chinh thì thể nào cũng bách chiến bách
thắng. Chỉ cần anh xông vào quân địch, đánh chết nguyên soái bên kia,
đại đa số quân địch sẽ vứt đao thương, quì xuống đầu hàng, thế là mình
chẳng thắng thì là gì?
Tiêu Phong mỉm cười nói:
- Bộ hạ của Hoàng thái thúc đều là quan binh người Liêu, xưa nay
quen nghe lệnh hoàng thượng rồi thành thử một khi Sở Vương chết đi,
Hoàng thái thúc bị bắt tất cả mới đầu hàng. Còn như hai nước giao tranh
thì chuyện lại khác hẳn. Giết được nguyên soái thì có phó nguyên soái,
giết được tướng này thì còn tướng kia, ai nấy hết sức tử chiến. Ta đơn
thương độc mã xông vào chẳng đi đến đâu.
A Tử gật đầu nói:
- Ồ, thì ra là thế! Tỉ phu ơi, anh bảo là xông vào bên địch, bắn chết
Sở Vương, bắt sống Hoàng thái thúc cũng chưa phải là dũng cảm, thế thì
trong đời anh việc gì mới gọi là dũng cảm thực sự? Nói cho em nghe có
được không?
Tiêu Phong xưa nay không thích kể lại cho người ta nghe những sự
tích võ dũng của mình. Khi xưa còn ở trong Cái Bang ra tay tiêu diệt đại
gian đại ác, dù cho kịch chiến ác đấu cỡ nào, quay trở về bang cũng chỉ
nói gọn một câu: “Đã giết được những ai những ai ...” còn như bao nhiêu
gian hiểm từng trải qua, dù cho người khác vặn hỏi thế nào chăng nữa
ông cũng không chịu nói. Lúc này nghe A Tử hỏi thế, nghĩ mình trong
đởi trải qua hàng trăm trận, khi lâm địch chẳng lúc nào tính chuyện tháo
lui, chuyện dũng cảm quả là chẳng cần nhắc nữa, bèn nói:
- Ta phải đấu với người phần lớn là bị người ta ép, không đấu không
được chứ chẳng có gì gọi là dũng cảm.
A Tử nói:
- Thôi em biết rồi, trong đời anh dũng cảm nhất là trận ác đấu tại
Tụ Hiền Trang.
Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi lại:
- Làm sao cô biết?
A Tử đáp:
- Hôm trước nơi bờ hồ Tiểu Kính, anh đi một lúc rồi, cha em, mẹ
em cùng các thủ hạ của cha em nói chuyện về anh, ai cũng bội phục võ
công ghê gớm, một thân một mình dám đến đại hội ở Tụ Hiền Trang độc
đấu quần hùng, chỉ cốt để trị thương cho một thiếu nữ. Thiếu nữ đó dĩ
nhiên là chị em rồi. Lúc đó mọi người chưa biết A Châu chính là con
ruột của cha mẹ em, nói anh đối với nghĩa phụ, nghĩa mẫu và thụ nghiệp
ân sư cực kỳ tàn độc nhưng với đàn bà lại một mối tình trường; vong ân
phụ nghĩa, tàn nhẫn hiếu sắc quả là một kẻ tệ hại xấu xa bất cận nhân
tình.
Nói tới đây cô gái bật cười khanh khách. Tiêu Phong lẩm bẩm nhắc
lại:
- Ôi, “vong ân phụ nghĩa, tàn nhẫn hiếu sắc”, anh hùng hảo hán
Trung Nguyên đã bình phẩm Tiêu Phong này tám chữ đó sao?
A Tử an ủi ông:
- Tỉ phu đừng tức tối làm chi. Riêng mẹ em hết lời ca tụng anh, nói
là đàn ông miễn sao si tình đã đủ tốt rồi, còn ngoài ra không có gì quan
trọng cả. Mẹ em bảo cha em cũng là loại “vong ân phụ nghĩa, tàn nhẫn
hiếu sắc”, nhưng đối với tình nhân thì lại cũng “phụ nghĩa hiếu sắc”, đối
với con cái thì “tàn nhẫn vô tình” chẳng sao bì kịp với đại ca. Tiểu muội
đứng một bên vỗ tay tán thành.
Tiêu Phong gượng gạo cười lắc đầu.
Đại quân đi mấy ngày thì đến Thượng Kinh. Bách quan và dân
chúng đã nghe tin rồi, đi ra tận xa nghinh tiếp. Lá cờ soái của Tiêu
Phong đến đâu, bách tính thắp hương lạy phục xuống, ca tụng không
ngớt lời. Ông ra tay bình được đại biến loạn khiến cho vô số quân sĩ
nước Liêu bảo toàn tính mạng, tại Thượng Kinh gần nửa dân số là gia
quyến của ngự doanh quân nên đối với ông xiết bao cảm kích. Ngựa
Tiêu Phong đến đâu dân chúng tung hô đến đấy:
- Đa tạ Nam Viện Đại Vương cứu mạng.
- Cầu trời phù hộ cho Nam Viện Đại Vương sống lâu trăm tuổi, đại
phú đại quí!
Tiêu Phong nghe những lời chúc tụng đó thấy dân chúng người nào
người nấy mắt rưng rưng, quả thực thành tâm thành ý nghĩ thầm: “Kẻ ở
trên ngôi cao, nhất cử nhất động đều liên quan đến họa phúc của muôn
vạn người. Khi ta bắn chết Sở Vương, chẳng qua chỉ là sính cái dũng
nhất thời, trước là cứu nghĩa huynh, sau là cứu mình, có ngờ đâu đối với
bách tính lại tốt lành đến thế. Ôi, ở Trung Nguyên ta hết sức làm điều
tốt, vậy mà người ta lại thù oán sàm báng biết bao nhiêu, thành kẻ đệ
nhất đại gian đại ác trên giang hồ. Qua đến Bắc quốc, vô ý lại thành cứu
tinh của muôn dân. Thị phi thiện ác quả là khó nói”.
Ông lại nghĩ: “Nơi đây là đất nước cha mẹ ta, năm xưa cha mẹ chắc
thường qua lại con đường này. Ôi, ta nào có biết hình dáng tướng mạo
cha mẹ ta ra sao, hai ông bà cưỡi ngựa cùng nhau rong ruổi thế nào lại
càng khó tưởng ra nổi”.
Thượng Kinh là kinh đô của nước Liêu. Khi đó Liêu quốc là nước
lớn nhất trong thiên hạ, so với Đại Tống cường thịnh hơn nhiều. Thế
nhưng người Khất Đan du mục là chính, sống rày đây mai đó, tại Thượng
Kinh dân cư, quán xá thật giản lậu thô sơ, so với Trung Nguyên còn kém
xa.
Quan chức thuộc Nam Viện liền ra nghinh đón Tiêu Phong vào Sở
Vương phủ, phủ đệ to lớn, bên trong trần thiết cực kỳ hoa lệ giàu sang.
Tiêu Phong một đời nghèo khổ đã từng ở nơi sang trọng như thế bao giờ?
Ông vào đi rảo một hồi bỗng thấy không quen liền sai quân sĩ thiết lập
hai tòa doanh trướng ở ngay trong quân, ông và A Tử mỗi người ở một
cái, sống thật giản phác chẳng khác gì khi trước.
Đến ngày thứ ba, Gia Luật Hồng Cơ và Hoàng thái hậu, Hoàng hậu,
tần phi, công chúa mọi người mới về đến Thượng Kinh, Tiêu Phong tất
lãnh bách quan tiếp giá. Trong triều liên tiếp bận rộn luôn mấy ngày.
Đầu tiên là lễ mừng bình được đại nạn, luận công thăng thưởng, phủ tuất
các gia đình Bắc Viện Khu Mật Sứ và quan binh mới tử trận. Hoàng thái
thúc tự thấy mình không còn mặt mũi nào nên trên đường về tự tử chết
rồi.
Hồng Cơ tuy vậy vẫn giữ lời, đối với quan binh phản nghịch không
hề truy cứu, chỉ tru sát hai mươi tên thuộc hạ của Sở Vương đầu sỏ mưu
việc phản loạn. Trong hoàng cung mở tiệc khao thưởng công lao binh sĩ,
đại yến liên tiếp ba ngày. Tiêu Phong trở nên anh hùng đệ nhất nơi bàn
tiệc. Các món thưởng của Gia Luật Hồng Cơ, Hoàng thái hậu, hoàng
hậu, các phi tần, công chúa kể cả tặng phẩm của văn võ bách quan, quả
thật chất cao như núi.
Khao thưởng xong rồi, Tiêu Phong mới đến Nam Viện xem xét
công việc. Mấy chục tộc trưởng trong các bộ tộc nước Liêu đều đến
tham kiến, nào là Ô Ngỗi, Bá Đức, Bắc Khắc, Nam Khắc, Thất Vi, Mai
Cổ Tất, Ngũ Quốc, Ô Cổ Lạp ... nhất thời không nhớ hết được. Sau đó là
quan quân bì thất đại trướng của hoàng đế, san quân thuộc hoàng hậu,
rồi các cấp Hoằng Ninh Cung, Trường Ninh Cung, Vĩnh Hưng Cung, Tích
Khánh Cung, Diên Xương Cung lần lượt đến chào. Thuộc quốc của nước
Liêu tổng cộng năm mươi chín nước, bao gồm Thổ Cốc Hỗn, Đột Quyết,
Đảng Hạng, Sa Đà, Ba Tư, Đại Lương, Hồi Cốt, Thổ Phồn, Cao Xương,
Cao Ly, Vu Khuých, Đôn Hoàng ... Những nước đó đều có sứ thần tại
Thượng Kinh, nghe tin Tiêu Phong nắm giữ quân quốc trọng quyền, đều
đến tặng những món quí giá lạ lùng để lấy lòng làm quen.
Tiêu Phong ngày ngày khi thì tiếp khách, khi gặp bộ thuộc, mắt
thấy toàn là vàng bạc châu báu, tai nghe những điều xưng tụng tán
dương, không khỏi chán chường. Cứ như thế đến hơn một tháng Gia Luật
Hồng Cơ mới vời vào điện, bảo:
- Huynh đệ, chức phận ngươi là Nam Viện Đại Vương nên tọa trấn
Nam Kinh6, chờ thời tiến đánh Trung Nguyên. Người anh này tuy không
muốn xa cách ngươi, nhưng để lập kỳ công thiên thu vạn thế, ngươi mau
sớm đem binh xuống phía nam.
Tiêu Phong nghe hoàng thượng sai mình đem quân nam chinh, trong
bụng kinh hoảng nói:
- Tâu bệ hạ, nam chinh là chuyện đại sự, cực kỳ quan trọng, thần
Tiêu Phong chỉ là một võ dũng thất phu, quân lược quả không phải là sở
trường.
Gia Luật Hồng Cơ cười nói:
- Nước ta vừa trải qua một cơn họa loạn, cần cho sĩ tốt nghỉ ngơi. Ở
Đại Tống hiện nay Thái hậu đang nắm quyền, trọng dụng Tư Mã Quang,
cải cách triều chính không có sơ hở nào để khai thác, chúng ta chưa thể
tính chuyện nam chinh được. Này huynh đệ, ngươi đến Nam Kinh, trong
đầu lúc nào cũng phải nghĩ đến việc thôn tính Nam triều. Chúng ta cần
phải lựa gió phất cờ, hễ Nam triều có nội biến là lập tức đưa binh xuống
phương nam. Còn như nội bộ họ tốt lành không có gì, nước Liêu đem
binh đến đánh có phải là dùng sức nhiều mà thành công ít hay sao?
Tiêu Phong đáp:
- Vâng! Quả là như thế!
Hồng Cơ nói:
- Thế nhưng sao ta lại biết được Nam triều nội chính khéo léo, trăm
họ nhân tâm qui phục?
Tiêu Phong đáp:
- Thần mong được bệ hạ chỉ điểm.
Hồng Cơ cười sằng sặc nói:
- Từ xưa đến nay cũng đều thế cả, cốt sao đem nhiều tiền bạc tài
bạch mua kẻ gian tế gián điệp. Người nam tham tiền, bọn hèn hạ xấu xa
đông lắm, ngươi hãy ra lệnh cho Nam Bộ Khu Mật Sứ đừng tiếc tài bảo,
cố mua được càng nhiều càng tốt.
Tiêu Phong vâng lệnh từ biệt ra về, trong lòng buồn bã. Ông xưa
nay chỉ kết giao anh hùng hào kiệt, tuy những chuyện lén hãm hại nhau,
mai phục hạ độc chứng kiến đã nhiều, nhưng toàn là những việc giết
người đốt nhà một cách sảng khoái chứ chưa từng đem tiền bạc đi mua
chuộc người ngoài bao giờ. Hơn nữa tuy ông là người Liêu nhưng từ nhỏ
lớn lên ở Nam triều, hoàng đế sai ông tính toán tiêu diệt nhà Đại Tống,
trong lòng quả hết sức miễn cưỡng nghĩ thầm: “Ca ca có lòng tốt phong
ta làm Nam Viện Đại Vương, nếu ta chỉ vì chuyện này từ quan, không
khỏi phụ thịnh tình của anh ta, thương tổn nghĩa khí huynh đệ. Đợi ta
xuống Nam Kinh, làm quan sáu tháng một năm, hãy xin từ chức cũng
kịp. Khi đó nếu nghĩa huynh không chịu thì ta mới treo áo, buộc ấn bỏ đi
anh ta không trách gì được”. Nghĩ thế ông tất lãnh bộ thuộc, dắt A Tử
xuống Nam Kinh.
Nam Kinh thời nhà Liêu tức là Bắc Kinh ngày nay, khi đó gọi là
Yên Kinh, còn gọi là U Đô, là kinh đô của U Châu. Thạch Kính Đường
nhà Hậu Tấn tự lập xưng đế được nước Liêu hết sức phù trì nên cắt Yên
Vân mười sáu châu để đền ơn. Yên Vân mười sáu châu bao gồm U, Kế,
Trác, Thuận, Đàn, Doanh, Mạc, Tân, Quy, Nho, Võ, Úy, Vân, Ứng,
Hoàn, Sóc đều là những nơi quan trọng ở Ký Bắc, Tấn Bắc.
Từ khi cắt đất cho nước Liêu rồi, các đời Hậu Tấn, Hậu Chu, Đại
Tống ba triều đại nhiều năm tranh đoạt nhưng vẫn không sao lấy lại
được. Mười sáu châu Yên Vân địa thế hiểm yếu, nước Liêu trú đóng
trọng binh, mỗi lần đem binh xuống đánh phương nam chạy thẳng một
mạch, toàn là bình nguyên khiến Đại Tống không có cách gì thủ ngự.
Tống Liêu giao binh hơn trăm năm qua, nhà Tống không thắng trận nào,
dĩ nhiên chủ yếu là vì binh giáp không bằng nhưng người Liêu từ cao
đánh xuống khống chế được chiến trường quả là đã chiếm được tiện nghi
thật lớn.
Tiêu Phong vào thành rồi, thấy đường sá ở Nam Kinh rộng rãi, thị tứ
phồn hoa hơn xa Thượng Kinh, người qua kẻ lại đều là dân chúng Nam
triều, nghe toàn là tiếng nói Trung Nguyên, thật chẳng khác gì đã quay
về Trung Thổ. Tiêu Phong và A Tử đều rất vui mừng, hôm sau liền ăn
mặc giản dị, đi du ngoạn khắp các nơi.
Thành Yên Kinh vuông vức ba mươi sáu dặm, bao gồm tám cửa.
Phía đông là cửa An Đông, cửa Nghinh Xuân; phía nam là cửa Khai
Dương, cửa Đan Phượng; phía tây là cửa Hiển Tây, cửa Thanh Tấn; còn
phía bắc là cửa Thông Thiên, cửa Củng Thần. Hai cửa phía bắc sở dĩ gọi
là Thông Thiên, Củng Thần7 ý nói thần phục, tuân theo thánh chỉ của
hoàng đế. Vương phủ của Nam Viện Đại Vương ở phía tây nam. Tiêu
Phong và A Tử du ngoạn hồi lâu, thấy phố chợ, công thự, chùa chiền,
đạo quan san sát khắp nơi đi xem một lúc không hết được.
Khi đó Tiêu Phong giữ chức Nam Viện Đại Vương, Yên Vân mười
sáu châu đều dưới quyền ông cai quản, cả phủ Đại Đồng ở Tây Kinh,
phủ Đại Định ở Trung Kinh cũng đều phải nghe hiệu lệnh. Uy vọng lớn
như thế không thể nào ở một chỗ doanh trướng bé nhỏ nên đành phải
dọn vào vương phủ.
Ông coi việc mấy ngày đầu váng mắt hoa, thật là khổ sở thấy Nam
Viện Khu Mật Sứ Gia Luật Mạc Ca tinh minh mẫn cán, quen thuộc chính
vụ nên bao nhiêu việc giao cho y cả.
Thế nhưng làm quan to cũng có chỗ hay, trong vương phủ những
dược phẩm quí giá nhiều không biết bao nhiêu mà kể, A Tử dùng làm
thức ăn hàng ngày. Nhờ bổ dưỡng như thế, nội thương của nàng mỗi
ngày một đỡ, đến đầu mùa đông đã có thể đi lại một mình. Nàng du
ngoạn trong thành Yên Kinh đã nhiều, về sau lại bảo Thất Lý theo hầu,
đưa đi chơi khắp các nơi chung quanh thành mười dặm.
Hôm đó tuyết đổ vừa ráo hạt, A Tử mặc điêu cừu, đến Tuyên Giáo
Điện nơi Tiêu Phong cư ngụ nói:
- Tỉ phu ơi, em ở trong thành này chán muốn chết, anh đưa em đi
săn nhé.
Tiêu Phong ở trong cung điện đã lâu, cũng thấy phiền muộn, nghe
nàng nói thế, trong bụng cũng mừng bèn sai thuộc hạ chuẩn bị ngựa để
ra ngoài săn bắn. Ông không muốn rềnh rang, chỉ đem theo vài tùy tòng
phục thị A Tử, lại ngại bách tính dòm ngó nên thay áo lông cừu quân sĩ
thường mặc, đem theo một cánh cung, một túi tên, nhảy lên ngựa cùng A
Tử đi ra cửa Thanh Tấn ở phía tây.
Đoàn người ra khỏi thành hơn chục dặm, chỉ săn được vài con thỏ.
Tiêu Phong nói:
- Bọn mình đến biên giới phía nam xem thế nào.
Ông chuyển đầu ngựa, quay sang hướng nam, lại đi hơn hai chục
dặm, thấy một con cheo8 từ trong bụi chạy ra. A Tử cầm mũi tên trên tay
để vào dây, ngờ đâu cánh tay hoàn toàn không có chút hơi sức nào, cánh
cung không giương lên được. Tiêu Phong đưa cánh tay trái từ phía sau
nàng thò qua nắm thân cung, tay phải cầm tay nàng kéo dây, buông tay
nghe vút một tiếng, vũ tiễn phóng ra, con cheo liền ngã ngay xuống.
Những người đi theo reo ầm cả lên.
Tiêu Phong bỏ tay ra nhìn A Tử mỉm cười, thấy nàng mắt rưng rưng,
lạ lùng hỏi:
- Sao thế? Không thích ta giúp em bắn dã thú ư?
A Tử nước mắt chảy dài xuống má thổn thức:
- Em ... em thành phế nhân rồi, đến giương cung ... mà cũng chẳng
xong.
Tiêu Phong dỗ dành:
- Đừng có nóng ruột, từ từ rồi sẽ hồi phục lực khí. Nếu như quả là
tương lai không khỏi, ta sẽ truyền cho cô cách tập nội công, thể nào cũng
tăng gia sức khỏe.
A Tử đang khóc bật cười nói:
- Tỉ phu đã nói thế thì phải giữ lời, thể nào cũng dạy em nội công
đấy nhé.
Tiêu Phong đáp:
- Được mà! Thể nào ta cũng dạy cho cô.
Trong khi đang nói chuyện, bỗng nghe từ phương nam có tiếng chân
ngựa rầm rập, một đại đội nhân mã từ trên mặt tuyết chạy tới. Tiêu
Phong đưa mắt nhìn về phía đó thấy đội này toàn là quan binh người
Liêu nhưng không giương cờ. Bọn quan quân vừa đi vừa nói chuyện xôn
xao, ca hát cực kỳ khoái trá, sau ngựa buộc khá nhiều tù binh, tưởng
chừng như vừa thắng trận trở về. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Mình làm gì có
giao chiến với ai, những người này đánh trận ở đâu trở về thế này?”.
Ông thấy đoàn quan binh chuyển qua phía đông trở về thành liền quay
sang nói với kẻ tùy tòng:
- Ngươi ra hỏi xem đội lính kia làm gì về thế?
Gã tùy tòng liền đáp: “Vâng” rồi hỏi:
- Có phải các anh em “đi gặt” về đấy chăng?
Y giục ngựa chạy thẳng đến chỗ bọn kia. Khi tới gần y nói mấy câu,
bọn quan binh nghe thấy có Nam Viện Đại Vương đang ở tại đây liền
lớn tiếng reo hò, lập tức nhảy xuống ngựa, dây cương cầm tay rảo bước
đi tới trước Tiêu Phong, khom lưng hành lễ cùng nói:
- Đại vương thiên tuế!
Tiêu Phong giơ tay chào lại đáp:
- Miễn lễ!
Ông thấy đội binh này chừng hơn tám trăm người, trên lưng ngựa
chất đầy quần áo khí vật, số người bị bắt cũng phải đếm bảy tám trăm,
phần lớn là đàn bà còn trẻ nhưng cũng có một số thanh niên, ăn mặc đều
theo lối người Tống, người nào người nấy khóc khóc mếu mếu.
Gã đội trưởng nói:
- Hôm nay đến lượt đội Hắc Lạp Đốc chúng tôi “đi gặt”, nhờ phúc
đại vương nên thu được cũng kha khá.
Y quay lại quát:
- Các ngươi đem những thiếu nữ xinh đẹp nhất, vàng bạc châu báu
quí giá nhất tất cả dâng lên, xin đại vương thiên tuế thu dụng.
Các quan binh cùng reo lên:
- Tuân lệnh!
Đem ra hơn hai chục cô gái đẩy đến trước đầu ngựa Tiêu Phong, lại
lấy ra rất nhiều kim ngân trang sức bỏ đầy một tấm chăn da. Các quan
binh chăm chú nhìn Tiêu Phong, ánh mắt đầy vẻ sùng kính trọng vọng,
hiển nhiên nếu được Nam Viện Đại Vương thu dụng đám con gái và
những món ngọc ngà này thì quả là vinh hạnh.
Hôm xưa Tiêu Phong ở ngoài Nhạn Môn Quan đã thấy quan binh
nhà Đại Tống bắt người Khất Đan, lần này lại thấy người Khất Đan đi
bắt người Đại Tống, những người bị giải đi ai nấy thê thảm khốn khổ
chẳng khác gì nhau. Ông ở nước Liêu đã lâu, hiểu biết quân tình Liêu
quốc. Triều đình nước Liêu không cấp lương cho lính, cũng chẳng trả
tiền, quan binh cần gì đều phải sang đoạt của bên địch, mỗi ngày sai lính
qua cướp của dân bên Đại Tống, Tây Hạ, Nữ Chân, Cao Ly các nước lân
cận, gọi là “gặt hái”, thực ra so với cường đạo cũng chẳng khác gì. Quan
binh Tống triều cũng lại đi qua “gặt hái” của người Liêu để trả thù.
Thành thử dân chúng ở vùng biên giới khốn khổ vô cùng, ngày nào cũng
nơm nớp, sáng lo chiều lo. Tiêu Phong thấy phương thức đó tàn nhẫn vô
đạo, có điều mình không tính chuyện lâu dài nên định bụng sẽ chỉ vờ vịt
làm việc một thời gian rồi xin từ quan ẩn cư, thành thử các việc quân
quốc đại sự không đưa ra chủ trương gì, bây giờ chính mắt thấy thảm
trạng những người bị bắt, không khỏi chạnh lòng thương hại bèn hỏi gã
đội trưởng:
- Các ngươi ở đâu ... “gặt hái” ở đâu về thế?
Gã đội trưởng cung kính đáp:
- Bẩm cáo đại vương, chúng tôi “đi gặt” tại bên ngoài cảnh giới
Trác Châu, phía bên Đại Tống. Từ khi đại vương tới đây, thuộc hạ không
dám đi kiếm lương thực gần quanh bản châu nữa.
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Nghe y nói, trước đây bọn họ đi cướp của
người Tống ngay tại bản châu”. Ông dùng tiếng Hán hỏi một thiếu nữ
đang đứng trước đầu ngựa:
- Cô là người ở đâu?
Người con gái kia lập tức quì xuống, khóc nói:
- Tiểu nữ là người ở Trương gia thôn, cầu đại vương khai ân, thả cho
tiểu nữ trở về đoàn tụ với cha mẹ.
Tiêu Phong quay đầu nhìn những người kia. Tất cả mấy trăm người
bị bắt đều quì xuống nhưng trong đám người có một thanh niên đứng
sừng sững không chịu quì.
Thanh niên đó trạc độ mười sáu, mười bảy, mặt dài mà gầy, cằm
nhọn, đôi mắt láo liên bất định. Tiêu Phong liền hỏi:
- Cậu bé kia, nhà ngươi ở đâu?
Thanh niên kia đáp:
- Tiểu nhân có một bí mật đại sự, muốn bẩm riêng lên đại vương.
Tiêu Phong đáp:
- Được, ngươi lại đây!
Thanh niên đó hai tay bị dây thừng trói chặt, nói:
- Xin đại vương đứng xa bộ thuộc, việc này không thể để người
khác nghe thấy được.
Tiêu Phong nổi bụng hiếu kỳ nghĩ thầm: “Một đứa bé thế này làm
gì mà biết được chuyện cơ mật đại sự? Phải rồi, ngươi từ biên giới phía
nam qua đây, chắc là biết chuyện gì về quân tình Đại Tống chăng?”. Y
là người Tống, đem chuyện cơ mật bẩm báo cho người Khất Đan, là loại
Hán gian vô liêm sỉ nên ông đã có bụng khinh khi, nhưng y nói là có
chuyện trọng đại, có nghe cũng không mất mát gì, bèn phóng ngựa ra
cách khoảng chục trượng, giơ tay vẫy:
- Lại đây!
Gã thanh niên kia liền đi theo, giơ hai tay lên nói:
- Xin đại vương cắt dây trói, tiểu nhân có vật để trong túi muốn
trình lên.
Tiêu Phong rút phắt yêu đao, giơ lên chém xuống, thế đao tưởng
chừng chặt y ra làm đôi, nhưng lại thật chuẩn xác, chỉ cắt đúng sợi dây
thừng trói hai tay. Gã thanh niên hoảng hốt, lùi lại hai bước, nhìn Tiêu
Phong xuất thần. Tiêu Phong mỉm cười, tra đao vào vỏ hỏi:
- Ngươi có cái gì?
Gã thanh niên đưa tay vào túi, lấy một vật gì đó ra cầm trên tay nói:
- Đại vương xem thì biết.
Nói xong y đến trước đầu ngựa Tiêu Phong, ông liền đưa tay ra đón
lấy. Đột nhiên, gã thanh niên cầm vật ở trong tay ném thẳng vào mặt
Tiêu Phong, Tiêu Phong liền vung roi lên đánh văng vật đó ra ngoài, thì
ra đó là một cái túi nhỏ. Cái túi đó rơi xuống đất, phấn trắng tung tóe
khắp nơi, là một túi bột vôi sống, nếu trúng mặt vào mắt thì sẽ mù ngay.
Đây là một vật thấp hèn mà bọn giang hồ hạng ba, trộm gà bắt chó
thường dùng.
Tiêu Phong hừ một tiếng, nghĩ thầm: “Thằng bé này lớn mật, thì ra
không phải là Hán gian”. Ông gật đầu hỏi:
- Ngươi tên chi? Cớ sao lại có bụng hại ta?
Thanh niên đó mím chặt môi, không trả lời. Tiêu Phong dịu mặt nói:
- Ngươi mau nói ta nghe, ta sẽ tha mạng cho.
Thanh niên đáp:
- Ta báo thù cho cha mẹ không xong, còn gì để nói nữa.
Tiêu Phong hỏi:
- Cha mẹ ngươi là ai? Không lẽ bị ta giết sao?
Gã thanh niên bước tới hai bước, mặt đầy vẻ bi phẫn, chỉ vào mặt
Tiêu Phong lớn tiếng nói:
- Kiều Phong, ngươi giết chết cha ta, mẹ ta, cả bác ta, ta ... ta giận
không được ăn thịt, rút gân lột da, băm vằm ngươi thành vạn mảnh.
Tiêu Phong nghe y gọi cái tên cũ ngày xưa của mình, lại bảo mình
giết cha mẹ và bá phụ, ắt hẳn là kẻ thù ngày trước ở Trung Nguyên, bèn
hỏi:
- Bá phụ ngươi là ai? Phụ thân là ai?
Thanh niên đáp:
- Ta chẳng muốn sống làm gì nên cũng cần cho ngươi biết, nam nhi
họ Du ở Tụ Hiền Trang có phải là phường tham sống sợ chết đâu!
Tiêu Phong “À” lên một tiếng nói:
- Thì ra ngươi là con cháu của Du thị song hùng, lệnh tôn có phải là
Du Câu Du nhị gia không?
Ông ngừng lại một chút nói tiếp:
- Hôm đó ta bị quần hùng Trung Nguyên vây đánh ở quí trang, bắt
buộc phải ứng chiến, không thể làm cách nào khác hơn. Lệnh tôn và
lệnh bá phụ đều tự vẫn mà chết.
Ông nói tới đây lắc đầu tiếp:
- Ôi, tự vẫn hay bị giết thì cũng vậy. Hôm đó ta đoạt binh khí của
bá phụ và gia gia ngươi để đến nỗi ép họ phải tự vẫn. Tên ngươi là gì?
Gã thanh niên ưỡn ngực, lớn tiếng đáp:
- Ta tên là Du Thản Chi. Ta không cần ngươi phải giết, ta học được
cái gương sáng của bá phụ và gia gia rồi.
Nói xong y thò tay vào ống quần, lấy ra một thanh đoản đao, giơ lên
đâm luôn vào ngực. Roi ngựa của Tiêu Phong lại vung ra, cuốn lấy con
dao, đoạt luôn. Du Thản Chi giận dữ, chửi liền:
- Ta muốn tự vẫn cũng không cho hay sao? Tên Liêu cẩu đáng chết
kia, bụng dạ ngươi độc ác thật.
Lúc này A Tử đã giục ngựa chạy đến bên Tiêu Phong, quát lên:
- Thằng tiểu quỉ kia, sao dám mở miệng nhục mạ người khác?
Ngươi muốn chết ư, ha ha, đâu có dễ thế.
Du Thản Chi đột nhiên nhìn thấy một cô gái xinh đẹp thanh tú, ngơ
ngẩn nhìn, không nói ra lời. A Tử hỏi:
- Tiểu quỉ, cái cảnh mù lòa thật thích thú, rồi đây ngươi sẽ được
nếm mùi.
Nàng quay lại nói với Tiêu Phong:
- Tỉ phu, tên tiểu tử này tàn độc quá, dám dùng vôi sống để hại anh,
vậy mình lấy ngay vôi đó phế đôi mắt nó cho biết.
Tiêu Phong lắc đầu, quay sang nói với tên lãnh binh đội trưởng:
- Bọn người Tống đi gặt bắt được hôm nay, giao lại cho ta có được
chăng?
Gã đội trưởng mừng rỡ không để đâu cho hết vội đáp:
- Được đại vương để mắt tới thì còn gì hơn, xin đa tạ ân điển đại
vương.
Tiêu Phong nói:
- Những quan binh nào hiến tù binh bắt được cho ta, trở về nhớ đến
vương phủ lãnh thưởng.
Các quan binh vui vẻ đáp:
- Chúng bộ thuộc thành tâm dâng lên đại vương, không cần phải
thưởng.
Tiêu Phong nói:
- Các ngươi để những kẻ bắt được lại đây, về thành trước đi, nhớ
đến lãnh thưởng.
Bọn quan binh khom lưng tạ ơn. Gã đội trưởng hỏi:
- Nơi đây dã thú không có bao nhiêu, chắc đại vương muốn dùng
bọn Tống chư làm bia sống chứ gì? Trước đây Sở Vương vẫn thích trò
này lắm. Chỉ tiếc hôm nay chúng tôi bắt được phần lớn là đàn bà, chạy
không nhanh. Lần sau chúng tôi sẽ cố bắt những con lợn Tống khỏe
mạnh.
Nói xong hành lễ dẫn binh đi. “Muốn dùng bọn Tống chư làm bia
sống chứ gì”, câu đó lọt vào tai, Tiêu Phong không khỏi rùng mình, trước
mắt như hình dung ra cái cảnh tàn bạo của Sở Vương năm xưa: mấy trăm
người Tống chạy thục mạng trên mặt tuyết chẳng khác gì dã thú, trong
khi quí nhân người Khất Đan cười sằng sặc, giương cung lắp tên bắn chết
từng người một. Nếu như có người Tống nào chạy được xa, người Khất
Đan cưỡi ngựa rượt theo, chẳng khác gì săn nai, đuổi chồn, rồi thì ai ai
cũng chết cả. Cái thảm cảnh đó, người Khất Đan thuận mồm nói ra,
chẳng có gì là lạ, hẳn là trước đây đã quen. Ông đưa mắt nhìn qua bọn
người bị bắt, thấy ai nấy mặt tái mét, run lẩy bẩy trong gió lạnh. Những
người dân nơi biên tái này có kẻ biết tiếng Khất Đan, đã từng nghe
chuyện “bắn bia sống”, bây giờ sợ đến mất vía.
Tiêu Phong thở dài nhìn xuống núi non trùng điệp ở phương Nam
nghĩ thầm: “Nếu như không có người tiết lộ thân thế thì đến giờ này ta
vẫn nghĩ mình là dân Đại Tống. Ta cùng bọn người này nói chung một
thứ tiếng, ăn cùng một thứ cơm, có khác gì đâu? Vì sao ai cũng là người,
lại phải gượng gạo chia ra nào là Khất Đan, Đại Tống, Nữ Chân, Cao Ly
làm chi? Ngươi sang đất ta ngươi “gặt lúa”, ta sang đất ngươi ta đốt nhà?
Ngươi chủi ta là chó Liêu, ta mắng ngươi là lợn Tống?”. Trong nhất thời,
lòng ông cảm khái dạt dào như sóng biển.
Ông nhìn lại thấy đám quan binh đi kiếm lương kia đã khuất nẻo
không còn đâu nữa bèn quay qua nói với đám nạn dân:
- Hôm nay ta thả các ngươi về, mau mau chạy đi thôi.
Bọn người bị bắt vẫn tưởng Tiêu Phong thả cho họ chạy, sau đó sẽ
bắn chết nên vẫn chần chờ không chịu đi. Tiêu Phong lại tiếp:
- Các ngươi về rồi, tốt nhất rời xa biên giới, để khỏi bị người ta đi
“gặt lúa” bắt lần nữa. Ta chỉ cứu các ngươi được một lần, không cứu
được lần thứ hai đâu.
Những nạn nhân bây giờ mới tin là thật, vui mừng reo hò, tất cả
cùng quì xuống khấu đầu nói:
- Đại vương ân đức tày non, tiểu dân về nhà khấn vái cầu cho đại
vương sống lâu giầu bền, ngôi cao mãi mãi.
Bọn họ sớm biết người dân Tống bị bọn Liêu binh “gặt lúa” bắt
được rồi, trừ người thật giàu có có tiền bạc gấm vóc đem ra chuộc mạng,
còn không đều bỏ thân xứ người đến nắm xương cũng không mang được
về nhà. Tống Liêu hai bên giao tranh lâu năm, người có tiền sớm chạy
vào sâu nội địa rồi, còn lại sống nơi biên cảnh chỉ toàn là dân nghèo
khổ, làm gì có ai giàu có mà đem tiền chuộc mạng? Ai cũng biết mình
thật không bằng con cừu con ngựa, được vị đại vương nước Liêu tha cho
về thật mừng rỡ không đâu kể xiết.
Tiêu Phong thấy những nạn dân mặt tươi rói, người nọ dìu người kia
đi về hướng nam nghĩ thầm: “Người Khất Đan ta bắt họ tới đây, rồi lại
thả cho về, trên đường đi kinh hoàng một phen, lại chịu biết bao khổ sở,
ta nào có gì gọi là ân đức đối với họ?”.
Ông thấy những người khốn khổ kia đi đã xa, còn Du Thản Chi vẫn
đứng sừng sững tại chỗ, bèn nói:
- Sao ngươi không chạy đi? Ngươi trở về Trung Nguyên có tiền bạc
gì không?
Ông vừa nói vừa thò tay vào túi, định cho y ít kim ngân, nhưng trong
mình không mang theo tiền tài, mò vào chỉ thấy một cái bao giấy dầu
nhỏ. Ông trong lòng chua xót, trong chiếc bao chỉ có một bộ Dịch Cân
Kinh viết bằng chữ Phạn mà hôm trước A Châu ăn trộm được ở chùa
Thiếu Lâm, ép mình phải cầm lấy, mà nay người mất kinh còn, làm sao
không buồn bã? Ông tiện tay bỏ chiếc bao trở lại vào túi nói:
- Ta hôm nay đi săn, không mang theo tiền, nếu ngươi không có gì
tiêu thì theo ta vào thành mà lấy.
Du Thản Chi lớn tiếng nói:
- Họ Kiều kia, ngươi muốn giết thì cứ giết, muốn lóc da xẻ thịt thì
cứ việc chứ đừng dùng ngụy kế làm nhục ta? Họ Du này dù có chết đói
cũng không thèm nhận một văn tiền của ngươi đâu!
Tiêu Phong nghĩ lại y nói không sai, mình là kẻ thù giết cha, mối
thâm cừu bất cộng đái thiên kia làm sao hóa giải, có nói thêm cũng vô
ích bèn bảo:
- Ta không giết ngươi đâu! Ngươi muốn báo thù thì lúc nào đến
kiếm ta cũng được.
A Tử vội nói:
- Tỉ phu, thả y không được. Tên tiểu tử này báo thù không dùng
cách thức đàng hoàng chân chính, chỉ dùng thủ đoạn hạ lưu hèn hạ. Chi
bằng nhổ cỏ nhổ tận rễ để khỏi di họa về sau.
Tiêu Phong lắc đầu:
- Trên giang hồ đâu đâu cũng đầy chông gai, chỗ nào cũng toàn
hung hiểm, ta đều đi qua cả rồi. Cỡ người như y không làm gì nổi ta đâu.
Hôm xưa ta khiến cho bá phụ và cha y phải tự vẫn, quả thực không phải
chủ mưu, nhưng món nợ máu đó ta thiếu đã lâu rồi, việc gì phải giết cả
con cháu Du thị song hùng nữa làm chi?
Ông nói tới đây, thấy lòng nguội lạnh bèn bảo:
- Thôi mình đi về, hôm nay chẳng có gì mà săn nữa.
A Tử bĩu môi nói:
- Em thấy nếu như được bắt gã này về hành hạ một phen cho bõ
ghét thì cũng thú vị! Anh thả y rồi, về thành còn có gì để vui đâu?
Thế nhưng nàng không dám cãi lời Tiêu Phong, đành quay đầu
ngựa, cùng Tiêu Phong sóng cương trở về, đi được mấy trượng quay đầu
nói:
- Tiểu tử kia, ngươi về luyện thêm một trăm năm nữa, lúc đó hãy
kiếm tỉ phu ta báo thù.
Nói xong nàng cười khẩy, giơ roi quất ngựa chạy đi.
Hôi28(a)
THẢO MỘC TÀN SINH LÔ CHÚ THIẾT
Chết đi sống lại mấy lần,
Một thân gánh chịu muôn phần khổ đau.
Kim chi ngọc diệp còn đâu,
Đầu đeo lồng sắt xiết bao thảm hình.
*
* *
Du Thản Chi thấy Tiêu Phong cùng đoàn người đi thẳng về hướng
bắc, không thấy quay lại, lúc ấy mới chắc rằng mình thoát chết, nghĩ
thầm: Tên gian tặc này sao không giết ta nhỉ? Hừ, chắc là y coi ta chẳng
vào đâu, giết mình chỉ thêm bẩn tay. Y ... y ở nước Liêu làm cái chức đại
vương quái gì đó, mình sau này báo thù xem ra còn khó hơn. Thế nhưng ít
nhất mình cũng biết được tên gian tặc đó ở chỗ nào.
Y cúi xuống nhặt cái túi vôi sống lên, rồi đi kiếm con dao của y mà
Tiêu Phong đoạt bằng roi ngựa vứt ra, bỗng thấy trong bụi cỏ ở bên trái
có một cái bao vải dầu nhỏ, chính là của Tiêu Phong lấy từ trong bọc ra
rồi lại bỏ trở vào, liền nhặt lên, mở ra thấy bên trong là một cuốn sách,
thuận tay lật lật mấy trang, trang nào cũng viết đầy những chữ ngoằn
ngoèo, không đọc được lấy một chữ.
Thì ra Tiêu Phong thấy vật lại nhớ người, tâm hồn lãng đãng, bỏ bản
Dịch Cân Kinh vào trong túi không kỹ nên khi ngựa lồng lên, cái bao liền
văng ra rơi vào trong đám cỏ mà không hay biết gì cả.
Du Thản Chi nghĩ thầm: Chắc cái này là chữ Khất Đan đây. Quyển
sách này tên gian tặc luôn luôn mang theo trong người, hẳn rất quan
trọng. Ta lấy luôn không trả lại, để y khổ một phen cho đáng kiếp. Y
cảm thấy có phần nào báo được thù nên trong bụng khoái chí, lấy bao vải
dầu gói cuốn sách lại, bỏ vào túi rồi thẳng đường xuôi nam.
Y từ nhỏ theo cha học võ, có điều thân thể gầy gò, cánh tay yếu ớt,
không hợp với công phu cương mãnh ngoại gia của Du Thị Song Hùng,
học ba năm võ công nhưng tiến bộ chẳng mấy tí, thật chẳng đáng gọi là
con cháu danh môn. Y học đến năm mười hai, Du Câu chán nản hết hi
vọng, mới bàn với ca ca là Du Ký. Hai người cùng tính:
- Nếu con cái nhà họ Du mình ra ngoài mà võ nghệ quều quào như
thế chẳng khiến người ta cười đến sái quai hàm hay sao? Huống chi nếu
ai nghe y là con cháu Du Thị Song Hùng, không động thủ thì thôi chứ ra
tay thì phải toàn lực, ngay chiêu đầu đã lấy mạng y rồi. Chi bằng cho y
học văn, có thế mới bảo toàn được tính mạng.
Thành thử Du Thản Chi từ mười hai tuổi trở lên thì không học võ
nữa, Du Câu mới mời một vị túc nho dạy y văn chương. Thế nhưng y học
chữ cũng không chuyên cần, lúc nào hồn vía cũng để đâu đâu. Thầy đồ
dạy:
- Tử viết: Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ?1 Y liền đáp:Cái
đó cũng còn phải xem học cái gì mới biết được, gia gia dạy đệ tử đánh
quyền, con học rồi tập luyện, có thấy vui sướng gì đâu.
Thầy đồ cáu tiết nói:
- Khổng phu tử nói là nói chuyện học đạo thánh hiền, đại nghiệp
kinh bang tế thế chứ nào phải là chuyện múa quyền đánh gậy đâu?
Du Thản Chi nói:
- Được, thầy bảo cha con, bác con múa quyền đánh gậy là chẳng ra
gì, để con đi nói cho cha con biết.
Cứ như thế y làm cho thầy đồ tức quá phải bỏ đi. Y liên tiếp chọc
giận hết thầy đồ này tới thầy đồ khác không ai chịu nổi, Du Câu đánh nó
không biết bao nhiêu trận, nhưng thằng bé này càng đánh càng lỳ lợm.
Du Câu thấy con chẳng vâng lời, cứng đầu khó dạy chẳng biết làm sao
chỉ còn nước thở dài sườn sượt, để ra sao thì ra. Thành thử năm nay Du
Thản Chi đã mười tám rồi, tuy dòng dõi danh môn mà thật đúng là văn
dốt võ dát, đến khi bá phụ và phụ thân tự vẫn, mẫu thân đập đầu vào cột
tuẫn phu, y cô khổ lênh đênh, đi lang thang không nhà không cửa, trong
đầu lúc nào cũng chỉ nghĩ đến việc làm sao kiếm được Kiều Phong để
báo thù.
Trận đại chiến Tụ Hiền Trang hôm đó, y náu ở góc nhà xem đánh
nhau, tướng mạo hình dạng Kiều Phong y đã ghi nhớ kỹ càng, nghe nói
ông người Khất Đan bèn tất tưởi đi lên miền bắc. Y thấy trên giang hồ
một tên du thủ du thực ném vôi sống làm mù mắt địch nhân, cảm thấy
cách này có thể dùng được, nên cũng học theo tìm một gói vôi bột dắt
trong người. Y ở biên giới chạy đôn chạy đáo để sao bọn quan binh Khất
Đan đi gặt lúa bắt được thành ra mới gặp Tiêu Phong, có dịp ném bao
vôi bột ra quả thực là cơ hội ngàn năm một thuở.
Y trong bụng nghĩ thầm: Việc trước mắt là chạy sao cho càng xa
càng tốt đừng để y bắt lại được. Rồi mình sẽ tìm cách đi bắt một con rắn
độc hay một con rết lớn, len lén vứt vào giường y, y vừa chui vào chăn là
nó cắn chết tươi. Còn tiểu cô nương kia ... còn tiểu cô nương kia, chao ôi,
sao ... sao mà có người đẹp thế!.
Y vừa nghĩ đến khuôn mặt A Tử, lồng ngực thấy nóng hổi, rồi mặt
cũng bừng bừng chỉ còn nghĩ: Không biết đến bao giờ mình mới được
gặp lại cô gái xinh đẹp có khuôn mặt xanh xao, thân hình ẻo lả kia.
Y cúi đầu rảo bước, chẳng mấy chốc đã vượt qua đoàn người vừa
được Tiêu Phong thả ra. Có người tử tế gọi y nhập bọn đi chung, y cũng
chẳng thèm để ý, cứ lầm lũi mà đi. Đi được hơn chục dặm, bụng đói đến
kêu lên ùng ục, y đưa mắt nhìn ngang nhìn ngửa xem có gì ăn được không
nhưng trên thảo nguyên ngoài cỏ khô và tuyết trắng ra chẳng còn gì khác
nghĩ thầm: Nếu như mình là con bò, con cừu thì tốt biết mấy. Ăn cỏ
uống tuyết thật sung sướng bao nhiêu. Ôi, nếu như mình chỉ là một con
cừu non, người ta đem cha mẹ mình hai con vật già ấy xẻ thịt ăn thì liệu
mình có báo thù không nhỉ? Thù cha mẹ không đội trời chung, dĩ nhiên
phải trả rồi. Thế nhưng báo thù cách nào đây? Lấy hai cái sừng húc gã đồ
tể giết cha mẹ mình ư? Người ta nuôi bò nuôi cừu, vốn là để xẻ ra làm
thịt ăn, sao lại nói đến chuyện trả thù được?.
Y nghĩ ngợi gần xa, lại cất bước đi, đột nhiên nghe tiếng chân ngựa
lộp cộp, ba gã kỵ binh Khất Đan từ trên mặt tuyết chạy tới, vừa thấy y đã
lớn tiếng reo hò. Một tên Khất Đan vung sợi dây thòng lọng trên tay ra,
nghe soạt một tiếng quàng ngay vào cổ Du Thản Chi, kéo một cái sợi dây
liền xiết lại. Du Thản Chi đưa tay toan gỡ, tên Khất Đan huýt một tiếng,
con ngựa liền chạy tới. Du Thản Chi đứng không vững, ngã lăn ra, bị gã
kia lôi đi xềnh xệch. Du Thản Chi kêu lên thảm thiết nhưng chỉ được mấy
tiếng thì cổ họng đã bị dây thừng chẹn rồi, không còn ú ớ được nữa.
Tên Khất Đan cũng sợ y chết ngạt nên dừng cương lại. Du Thản Chi
ở dưới đất cố gắng lồm cồm đứng lên, gỡ chiếc dây đang buộc nơi cổ. Gã
Khất Đan kéo mạnh một cái, Du Thản Chi lảo đảo, lại ngã phịch xuống,
ba tên Khất Đan cùng cười sằng sặc. Tên Khất Đan cầm sợi dây buộc cổ
Du Thản Chi nói mấy tiếng nhưng y không hiểu được câu nào, chỉ biết
lắc đầu. Gã Khất Đan vẫy tay một cái, lại giục ngựa chạy tiếp nhưng lần
này không chạy nhanh. Du Thản Chi sợ bị xiết cổ lần nữa, không thở
được nên đành đi hai bước lại chạy ba bước cho kịp.
Y thấy ba tên lính Khất Đan đi về hướng bắc, trong bụng chột dạ:
Tên khốn kiếp Kiều Phong miệng nói nghe thật dễ nghe, bảo thả mình
về, vừa quay đi quay lại đã sai bộ thuộc bắt lại. Lần này bị bọn chúng bắt
rồi, mạng mình còn sao được nữa?. Khi y bỏ nhà đi lên mạn bắc, trong
bụng chăm chăm lo việc báo thù, chẳng biết trời cao đất dày là gì, nên
khi gặp được Tiêu Phong, hình ảnh thê thảm của cha mẹ hiện ra trước
mắt, cơn giận bùng lên, định dùng vôi bột ném mù mắt ông ta, rồi sẽ rút
dao đâm ông chết. Thế nhưng tấn công mà không trúng, nhuệ khí tiêu
tan, chỉ mong sao thoát thân, ngờ đâu lại bị lính Khất Đan bắt lại.
Khi trước y bị bọn lính Khất Đan đi gặt lúa bắt được, để lẫn trong
đám đàn bà con gái, nữ nhân đi đứng không được nhanh, cước bộ của y
cũng theo kịp nên không bị hành hạ mấy tí, ngoài một sống dao chém
vào lưng lúc bị bắt mà thôi. Lần này thì khác hẳn, bước thấp bước cao,
chạy lên chạy xuống, thở hồng hộc, chưa được mấy bước lại vấp một cái,
mỗi lần vấp ngã xuống, dây thừng lại xiết vào sau ót một đường lằn. Gã
kỵ binh Khất Đan nào có chịu ngừng, cũng chẳng thèm xem coi y còn
sống hay đã chết, kéo y một mạch tới thành Nam Kinh. Vào trong thành
rồi, Du Thản Chi người đầy máu me, chỉ mong sao chết sớm chừng nào
đỡ khổ chừng nấy.
Ba tên lính Khất Đan vào trong thành còn chạy thêm mấy dặm nữa,
lúc ấy mới lôi y vào trong một tòa nhà to. Du Thản Chi thấy dưới đất lót
toàn phiến đá xanh, cột cao cửa rộng, không biết là nơi nào. Ở ngoài cửa
ngừng lại chưa đến thời gian uống một chén trà, tên kỵ binh kéo y vào
trong một tòa đại sảnh, đột nhiên chúm môi huýt một tiếng, hai chân kẹp
thúc mạnh, con ngựa liền chồm tới trước. Du Thản Chi đâu có ngờ gã kia
vào trong viện rồi lại phóng ngựa chạy nhanh, nên chỉ được ba bước đã
ngã lăn ra.
Tên lính Khất Đan luôn mồm giục ngựa, lôi Du Thản Chi chạy ba
vòng trong tòa nhà đó, càng lúc càng nhanh, có thêm mấy chục tên quan
binh đứng chung quanh hò hét trợ uy. Du Thản Chi nghĩ thầm: Thì ra y
định kéo mình lê dưới đất cho chết. Trán, chân tay, thân thể y đụng vào
đá dưới sàn, không chỗ nào không đau.
Trong tiếng reo vang của bọn quan binh Khất Đan, có lẫn tiếng cười
trong trẻo của một thiếu nữ. Du Thản Chi trong cơn mơ mơ màng màng,
loáng thoáng nghe cô gái cười nói:
- Ha ha, cái diều người này e rằng không thả nổi.
Du Thản Chi tự hỏi: Diều người là cái gì thế nhỉ?. Ngay lúc đó y
thấy dây buộc cổ xiết chặt, thân hình tung lên không, lập tức hiểu ra, tên
lính Khất Đan kia cưỡi ngựa chạy cho nhanh để y bay bổng lên, làm như
thả con diều bằng giấy.
Y toàn thân lăng không, sau ót đau buốt, mồm miệng bị gió thổi vào
thật ngộp thở, không còn biết gì nữa, lại nghe thiếu nữ kia vỗ tay reo lên:
- Hay quá! Hay quá! Quả thực đã phóng được con diều người lên
rồi.
Du Thản Chi nhìn ra phía có tiếng nói thấy người vỗ tay reo hò kia
chính là cô gái xinh đẹp mặc áo tím. Y vừa thấy nàng lập tức ngực như bị
chấn động mạnh, không biết nên buồn hay vui, thân hình trên không bay
lạng vù vù không cách gì suy nghĩ được.
Cô gái mỹ miều kia chính là A Tử. Nàng thấy Tiêu Phong thả cho
Du Thản Chi đi, trong bụng không vui, cưỡi ngựa đi được một quãng liền
cố ý tụt ra sau, khẽ dặn tùy tòng quay lại bắt Du Thản Chi đem về nhưng
không được để cho Tiêu đại vương hay biết. Bọn tùy tòng biết nàng được
Tiêu Phong cực kỳ sủng ái, nên vui vẻ tuân lời, giả vờ sửa lại dây buộc
yên ngựa, đứng lại ở triền núi, đợi Tiêu Phong và cả đoàn đi xa mới quay
lại bắt Du Thản Chi.
A Tử trở về Nam Kinh liền đến nơi xa Tiêu Phong ở là Hựu Thánh
Cung ngồi chờ. Đến khi bắt được Du Thản Chi về, nàng mới hỏi bọn Khất
Đan xem có trò gì đánh đập, hành hạ tội nhân mới mẻ thú vị không. Có
người đề nghị thả diều người, trò đó quả là hợp ý A Tử, nàng ra lệnh
thi hành ngay, nên bọn chúng liền đem Du Thản Chi ra thả diều.
A Tử xem thấy thú vị quá, luôn mồm khen hay, nói:
- Để cho ta thả diều một tí.
Nàng nhảy lên yên ngựa tên lính kia, cầm lấy dây thừng nói:
- Ngươi xuống đi.
Tên lính kia liền nhảy xuống ngựa để cho A Tử thả diều người. A
Tử cầm dây thừng giục ngựa chạy một vòng, miệng reo hò, suýt soa:
- Thích quá! Thích quá!
Thế nhưng nàng bị thương mới đỡ, tay vẫn còn yếu, cổ tay chùng ra,
chiếc thừng liền hạ xuống, nghe bình một tiếng, Du Thản Chi rơi bịch
xuống một cái thật đau, lăn trên nền đá, trán va phải góc nhọn của bậc
thềm, sứt thành một cái lỗ, máu chảy túa ra. A Tử cụt hứng, bực tức nói:
- Cái thằng ngốc này sao nặng thế?
Du Thản Chi tưởng chừng ngất xỉu, nghe nàng trách mình thân thể
nặng quá, đang định giãi bày mấy câu nhưng đau quá không nói thành
lời. Một tên quân Khất Đan bước tới, cởi chiếc thòng lọng buộc trên cổ,
một tên khác xé vải trên áo y, buộc qua quít vết thương, nhưng máu tươi
vẫn tiếp tục chảy thấm ra ngoài, làm sao ngừng được?
A Tử nói:
- Thôi thế được rồi, được rồi! Mình thả diều thêm lần nữa cho
vui, càng cao càng thích.
Du Thản Chi không hiểu nàng nói tiếng Khất Đan những gì, nhưng
thấy nàng hoa chân múa tay, chỉ lên trên cao xem ra không phải chuyện
tốt lành. Quả nhiên một tên Khất Đan cầm chiếc dây thừng luồn dưới
nách y, vòng một vòng để y khỏi bị xiết cổ ngộp thở, quát lên một tiếng:
- Lên nào!
Y giục ngựa chạy cho nhanh, kéo lê Du Thản Chi dưới đất mấy
vòng, rồi lại phóng lên. Sợi dây thừng trong tay tên lính Khất Đan mỗi
lúc một dài thêm, thân hình Du Thản Chi cũng mỗi lúc một cao.
Tên lính Khất Đan đột nhiên buông tay, nghe vèo một tiếng, Du
Thản Chi thật chẳng khác gì tên rời khỏi dây cung, bay vút lên trời. A Tử
và các quan binh đều reo hò khen ngợi. Du Thản Chi thân hình tự nhiên
bật văng lên không, trong bụng chỉ nghĩ được: Thôi lần này chết thật
rồi!.
Khi sức văng đã hết, y đầu lộn xuống đất, chân chổng lên trời lao
thẳng xuống, xem ra thể nào cũng lao vào nền đá xanh, bốn tên quan
binh Khất Đan cùng tung thòng lọng ra, buộc chặt ngay hông y, cùng kéo
ghì về bốn phía. Du Thản Chi khi đó đã ngất đi, nhưng bốn luồng lực đạo
giữ y bông bênh giữa trời, chỉ còn cách đất chừng ba thước. Cái cảnh đó
quả thực nguy hiểm cùng cực, trong bốn người chỉ cần một người ra tay
hơi chậm, lực đạo không cân, đầu Du Thản Chi thể nào cũng rơi thẳng
xuống vỡ sọ ngay. Người Khất Đan thường thường đem người Tống ra để
làm trò vui, tù binh bị đem ra thả diều, mười người thì đến tám chín
người chết. Nếu như ở ngoài thảo nguyên đất mềm, từ trên cao như thế
đâm bổ xuống, ví như không vỡ đầu thì cũng gãy cổ chết như nhau.
Trong tiếng hò reo, bốn tên lính Khất Đan hạ Du Thản Chi xuống. A
Tử lấy tiền, thưởng cho mỗi đứa năm lượng bạc. Các quan binh lớn tiếng
tạ ơn, hỏi thêm:
- Cô nương có còn muốn thêm trò vui gì nữa không?
A Tử thấy Du Thản Chi đã ngất xỉu, cũng chẳng biết y còn sống hay
chết rồi, mới đây nàng thả diều, dùng sức quá độ, ngực ngâm ngẩm
đau, không còn hơi đâu mà vui chơi thêm nữa bèn nói:
- Vui thế đủ rồi. Gã tiểu tử này nếu chưa chết, ngày mai lại mang y
đến cho ta, để ta nghĩ cách nào tiêu khiển. Tên này định ám toán Tiêu
đại vương, không thể để y chết dễ dàng quá như thế được.
Các quan binh cùng vâng lời, lôi cổ Du Thản Chi mình mẩy đầy máu
me ra.
Khi Du Thản Chi tỉnh lại, thấy một mùi ẩm mốc hôi hám xông thẳng
vào mũi, mở choàng mắt ra thấy chung quanh tối đen như mực, không
nhìn thấy một chút gì. Ý niệm đầu tiên y nghĩ đến là Không biết mình
đã chết chưa? nhưng lập tức thấy toàn thân chỗ nào cũng đau nhức, cổ
họng khô ran không sao chịu nổi liền rên lên mấy tiếng:
- Nước! Nước!
Thế nhưng nào có ai ngó ngàng gì đến y?
Y kêu được mấy tiếng, lại mơ mơ màng màng ngủ thiếp đi, thấy nào
bá phụ, phụ thân cùng Kiều Phong đại chiến, giết nhau đến máu văng
đầy mặt đất, rồi mẫu thân ôm mình trong lòng, dịu dàng an ủi, bảo mình
đừng sợ. Rồi kế đó A Tử hiện ra với khuôn mặt thật tú lệ, đôi mắt trong
veo với quang thái thật lạ lùng. Khuôn mặt bỗng nhiên thu nhỏ lại, thành
đầu một con rắn hình tam giác, lè chiếc lưỡi dài đỏ au, lộ hai chiếc nanh
nhọn hoắt mổ vào người y. Du Thản Chi hết sức vùng vẫy nhưng không
cách nào động đậy được, con rắn đó cứ day từng miếng thịt, trên tay, dưới
đùi, cạnh cổ chỗ nào cũng cắn, khi đến trán lại càng đau hơn. Y thấy
mình từng miếng thịt bị nhả xuống, muốn kêu toáng lên, nhưng không
phát ra một tiếng nào ...
Cứ như thế trằn trọc cả đêm, tỉnh dậy thì bị hành hạ đã đành mà
trong giấc mộng cũng thật là khổ sở. Hôm sau hai tên lính Khất Đan lại
áp giải y đến gặp A Tử. Cơn sốt đêm qua chưa lui, bước một bước lại ngã
bổ nhào về trước. Hai tên lính Khất Đan chia nhau xốc hai bên, lớn tiếng
chửi rủa, kéo lê y vào một tòa nhà lớn. Du Thản Chi tự hỏi: Không biết
chúng đưa mình đi đâu? Đem mình đi giết chăng?. Đầu y mê mê mẩn
mẩn, không thể nào suy tính gì được, thấy đi xuyên qua hai hành lang dài,
đến trước một sảnh đường. Hai tên lính Khất Đan đứng ngoài cửa bẩm
báo gì đó mấy câu, bên trong có tiếng một thiếu nữ đáp lại một tiếng,
sảnh môn đẩy ra, lính Khất Đan liền đưa y vào.
Du Thản Chi ngẩng đầu lên, thấy trong sảnh trải một tấm thảm cực
lớn, thêu hoa văn sặc sỡ, một thiếu nữ xinh đẹp ngồi trên một tấm nệm
ngay đầu đằng kia, chính là A Tử. Hai bàn chân nàng để trần, để trên
thảm. Du Thản Chi vừa nhìn thấy hai bàn chân nhỏ nhắn trắng trẻo, mịn
màng như ngọc, mềm mại như gấm của nàng lập tức tim đập thình thình,
hai mắt đăm đăm dính chặt đôi chân, thấy tưởng chừng lưng đôi chân cô
gái có phát ra ánh sáng, lờ mờ mấy đường gân xanh quả muốn chạy đến
vuốt ve cho thỏa dạ.
Hai tên lính Khất Đan thả y ra, Du Thản Chi lảo đảo một hồi, sau
cùng cũng gượng đứng được nhưng mục quang không lúc nào rời bàn
chân A Tử, thấy mười đầu ngón chân nàng sơn màu hồng nhạt, trông
chẳng khác gì mười cánh hoa.
A Tử cũng nhìn ra gã thanh niên xấu xí toàn thân đầy máu me,
khuôn mặt nhăn nhúm, cằm vêu vao kia ánh mắt hau háu một vẻ thèm
thuồng. Nàng nhớ lại một con sói đói mà nàng cùng hai sư huynh săn
được khi còn ở biển Tinh Tú, nàng bắn trúng con vật một mũi tên nhưng
chưa chết hẳn. Con vật đó bị trọng thương, mắt gườm gườm nhìn mình,
lúc bấy giờ chẳng khác gì Du Thản Chi, dường như chỉ muốn xông lên
cắn chết nàng, tuy không nhảy lên được, nhưng vẫn nhe hàm răng nhọn
hoắt gầm gừ.
A Tử thích thú nhìn ánh mắt đầy dã tính đó, lại nghe tiếng gừ gừ
nhưng chẳng làm gì được mình, tiếc rằng Du Thản Chi yếu đuối quá rồi,
không phản kháng gì được nữa quả thực chẳng còn gì thú vị. Ngày hôm
qua y ném túi vôi bột vào Tiêu Phong, lại không chịu quì lạy, ăn nói ra
vẻ ngang tàng, không chịu nhận tiền của Tiêu Phong, A Tử thích thú lắm
tưởng như bắt được một con thú dữ lợi hại. Nàng muốn hành hạ y cho
người y bị thương nhiều như vẩy cá, để y mỗi khi bị thương lại muốn xông
lên cắn mình một cái nhưng dĩ nhiên nàng không để cho y cắn trúng
được.
Đến khi bắt được y làm cái diều người rồi, con dã thú này lại
không chống cự, chết dở sống dở, thật chẳng có gì thích thú. Nàng hơi
nhíu lông mày nghĩ thầm: Có cách nào mới mẻ để hành hạ y cho vui
đây?.
Đột nhiên cổ họng Du Thản Chi phát tiếng hà hà, cũng không biết
một luồng lực đạo từ đâu đến, y chẳng khác gì một con báo nhanh nhẹn
lạ thường phóng đến A Tử, ôm chặt lấy bắp chân nàng, cúi đầu hôn hít
lưng bàn chân cô gái. A Tử hoảng hốt, kêu toáng lên. Hai tên lính Khất
Đan và bốn tì nữ phục thị A Tử cùng quát mắng, xông lên lôi gã ra.
Thế nhưng hai tay y cứ ôm chặt, chết cũng không buông. Tên lính
Khất Đan vừa kéo một cái, kéo luôn cả A Tử tuột khỏi chiếc nệm bông,
ngồi phệt xuống dưới thảm. Hai binh sĩ Khất Đan vừa sợ vừa tức, không
dám kéo thêm nữa, một tên đấm lên lưng y mấy cú thật mạnh, còn một
đứa thì đánh vào mặt. Người Du Thản Chi vẫn còn sưng vều, lại thêm cơn
sốt chưa hết, thần trí mê loạn không khác gì một người điên, những gì
đang gánh chịu dường như không biết đến. Y vẫn ôm chặt lấy chân A Tử,
tiếp tục hôn chân nàng.
A Tử cảm thấy đôi môi vừa nóng hổi, vừa khô khan của y chạm vào
chân mình, trong bụng sợ lắm, lại thêm cảm giác nhột nhạt2 lạ lùng, đột
nhiên kêu hoảng lên:
- Ối trời! Y cắn ngón chân ta.
Nàng quay sang nói với hai tên lính Khất Đan:
- Các ngươi mau ra chỗ khác, người này nổi cơn điên, ối chao, đừng
để y cắn đứt ngón chân ta.
Du Thản Chi mơn man ngậm ngón chân cô gái, A Tử tuy không thấy
đau nhưng lại sợ y bất thần cắn mạnh một cái, trong cơn gấp gáp, biết là
không thể dùng sức mà xong, sợ hai tên lính đánh y, y không kể sống
chết cắn một cái thì khốn.
Hai tên lính Khất Đan không biết làm sao, đành phải buông tay. A
Tử lại kêu:
- Đừng có cắn, ta tha ngươi khỏi chết, ối ối, ta sẽ thả ngươi ra.
Du Thản Chi bấy giờ tâm thần cuồng loạn, có còn biết nàng nói
những gì? Một tên lính Khất Đan cầm chặt yêu đao, định bụng bất thần
rút ra khỏi vỏ chém xuống ót y một nhát, chặt đứt đầu y, nhưng có điều y
ôm chân A Tử chặt quá, một đao chém xuống lại sợ làm nàng bị thương
cho nên ngần ngừ không dám.
A Tử lại tiếp:
- Này này, ngươi nào có phải là dã thú sao lại cắn người là sao?
Mau nhả ra, ta sẽ sai người trị thương, thả ngươi trở về Trung Nguyên.
Du Thản Chi vẫn không lý tới nhưng răng không cắn xuống nên
không làm nàng đau chút nào, hai tay vuốt ve lưng bàn chân, trong lòng
lâng lâng bay bổng, thật chẳng khác gì một cánh diều đang lững lờ giữa
từng mây.
Một tên lính Khất Đan chợt nảy ra một ý, xông vào bóp cổ Du Thản
Chi. Du Thản Chi bị nghẹt thở, tự nhiên há mồm, A Tử vội vàng rụt chân
lại, rút được ngón chân ra khỏi miệng y, đứng phắt dậy, lại sợ y nổi cơn
điên cắn nữa, dấu hai chân vào sau tấm nệm. Hai tên lính Khất Đan liền
giữ chặt Du Thản Chi, đấm liên tiếp vào ngực gã, đánh được độ mươi
quyền, y oa oa há mồm hộc ra mấy ngụm máu, làm bẩn cả tấm thảm rực
rỡ kia.
A Tử quát:
- Ngừng tay! Đừng đánh y nữa.
Sau một trận kinh hoàng, nàng cảm thấy gã tiểu tử này có điều quái
lạ thật vui nên không muốn đánh chết y ngay. Tên lính Khất Đan không
đánh nữa, A Tử ngồi xếp bằng trên tấm nệm, để ngoặt hai bàn chân trần
dưới mông, trong bụng tính toán: Có cách nào hành hạ y cho thật bõ
nhỉ?.
A Tử ngửng đầu lên, thấy Du Thản Chi mắt vẫn chăm chăm nhìn
mình, liền hỏi:
- Ngươi nhìn ta làm chi?
Du Thản Chi vốn chẳng còn kể sống chết vào đâu liền đáp:
- Cô nương đẹp quá đỗi, cho nên tôi thích nhìn.
A Tử bẽn lẽn nghĩ thầm: Tên tiểu tử này lớn mật thật, dám nói với
ta những lời khinh bạc. Thế nhưng trong đời nàng, chưa bao giờ có một
chàng trai nào dám ca tụng nàng đẹp ngay tận mặt. Khi nàng học nghệ ở
phái Tinh Tú, chư sư huynh đều coi nàng là một cô bé con ngang ngược
lanh lợi, còn khi đi cùng với Tiêu Phong, nếu không sợ nàng gây chuyện
thì cũng lo nàng chết bất ngờ, chưa bao giờ để ý xem nàng đẹp hay xấu.
Những lời ca ngợi sống sượng của Du Thản Chi, quả là xuất tự đáy lòng,
nàng không khỏi vui sướng ngầm nghĩ thầm: Ta giữ y lại ở gần bên,
thỉnh thoảng đem ra tiêu khiển cũng thích lắm. Có điều tỉ phu đã bảo là
thả y về, nếu như biết ta sai người bắt lại ắt sẽ bực mình. Chỉ dấu được
anh ấy hôm nay nhưng làm sao dấu được mãi. Nếu muốn tỉ phu không thể
nào biết được thì làm gì đây? Không cho ai nói thì cũng còn được, nhưng
nếu tỉ phu bất thần đi vào, bắt gặp y thì làm sao?.
Nàng trầm ngâm một hồi, bỗng chợt nghĩ tới: A Châu rất giỏi hóa
trang, giả làm cha ta đến nỗi tỉ phu còn không nhận ra, ta đem tiểu tử này
thay hình đổi dạng, anh ta sẽ không nhận ra được. Thế nhưng nếu y
không tự nguyện, mình hóa trang y rồi y sẽ rửa sạch đi, trở lại hình dáng
cũ thế thì có ích gì đâu?.
Đôi hàng mi cong của nàng hơi nhíu lại, lập tức tìm ra ngay, vỗ tay
reo lên:
- Hay lắm! Thật là hay! Cứ thế mà làm.
Nàng quay sang hai tên Khất Đan nói một hồi, hai tên lính đó có chỗ
nào chưa rõ lại hỏi lại. A Tử giải thích thêm rồi gọi thị nữ lấy ra năm
chục lượng bạc đưa cho họ. Hai tên Khất Đan cầm lấy, khom lưng hành
lễ, xốc Du Thản Chi ra khỏi sảnh.
Du Thản Chi kêu lên:
- Ta muốn ngắm nàng! Ta muốn ngắm cô gái xinh đẹp tàn ác kia.
Lính Khất Đan và thị nữ nào có hiểu tiếng Hán nên chẳng ai hiểu y
đang nói gì. A Tử cười mủm mỉm nhìn theo sau lưng y, nghĩ đến chủ định
thông minh của mình, càng thêm đắc ý.
Du Thản Chi bị đem trở về địa lao, vứt trên một đống cỏ khô. Đến
chiều hôm đó, có người đem đến cho y một bát thịt cừu, vài cái bánh bao.
Cơn sốt của Du Thản Chi chưa hạ, luôn mồm lảm nhảm khiến gã kia sợ
quá bỏ vội thức ăn xuống, chạy vội ra ngoài. Du Thản Chi không biết đói
nên chẳng đụng tới thịt hay bánh bao.
Tối hôm đó có ba tên Khất Đan đi vào. Du Thản Chi thần trí mơ hồ,
thấy vẻ mặt ba gã kia đầy vẻ quái đản, xem ra không phải tốt lành gì, chỉ
mang máng biết là nguy đến nơi nên cố gắng lồm cồm đứng lên, tính
chuyện đào tẩu. Hai gã Khất Đan xông đến đè nghiến y xuống, lật ngửa
mặt lên. Du Thản Chi chửi toáng lên:
- Quân Khất Đan chó má, chết đường chết chợ, đại gia sẽ băm vằm
chúng bay ra.
Vừa tới đó, gã Khất Đan thứ ba bưng một cái gì trăng trắng, trông
tựa như bông, lại giống như tuyết, dùng sức ập lên mặt y. Du Thản Chi
thấy mặt mình vừa ẩm vừa mát, đầu óc tỉnh lại nhưng không thở nổi, nghĩ
thầm: Thì ra bọn chúng bịt chặt thất khiếu cho mình chết ngạt.
Thế nhưng xem chừng y đoán không đúng, gã kia lại châm cho thủng
mũi mồm khiến y vẫn thở được nhưng mắt mở không ra, chỉ thấy mặt
dính đầy thứ gì nhão nhoẹt, rồi ai đó nắn khắp mặt y, tưởng như trát lên
một lớp bột nát. Du Thản Chi mơ mơ hồ hồ nghĩ thầm: Không biết tên
ác tặc này dùng cách quái ác gì giết mình đây?.
Một hồi sau, lớp bùn mềm trên mặt được người ta nhẹ nhàng gỡ ra,
Du Thản Chi mở mắt nhìn, thấy một khối bột mì in thành hình một mặt
người, chính là vừa ở mặt mình ra. Tên Khất Đan đó trịnh trọng bưng cái
vật đó, dường như sợ hư mất. Du Thản Chi lại chửi:
- Đồ Liêu cẩu thối tha, chúng mày rồi sẽ chết không có đất mà
chôn.
Ba gã Khất Đan không thèm để ý đến y, bưng cái khối bột nhão đó
đi mất. Du Thản Chi chợt nghĩ ra: Đúng rồi, bọn chúng nó tô lên mặt
mình một lớp thuốc độc, rồi chẳng bao lâu, mặt mình sẽ lở loét thối tha,
da thịt vỡ nát, biến thành quỉ quái .... Y càng nghĩ càng kinh, nghĩ thầm:
So với để bọn chúng hành hạ mình đến chết, chi bằng mình đập đầu
chết còn hơn. Y bèn húc đầu vào tường, bình bình bình ba cái. Ngục tốt
nghe tiếng vội vàng chạy vào, trói chặt chân tay y lại. Du Thản Chi đập
đầu đã thành sống dở chết dở, nay đành nằm yên chịu vậy.
Qua luôn mấy ngày, mặt y không hề đau đớn, cũng không lở lói,
nhưng y đã quyết ý chết, bụng tuy đói nhưng nhất định không ăn thức ăn
ngục tốt mang vào. Đến ngày thứ tư, ba gã Khất Đan kia lại trở vào địa
lao, lôi y đi. Trong cơn đau đớn, Du Thản Chi bỗng nảy ra một ý vị ngọt
ngào, nghĩ thầm chắc A Tử sai đem mình ra xỉ vả đánh đập, tuy thân thể
có phải khổ sở nhưng lại có cơ hội được nhìn khuôn mặt tú lệ kia, trên
khuôn mặt nhăn nhúm thoáng hiện một nụ cười.
Ba tên Khất Đan dẫn y đi qua mấy ngõ hẹp rồi vào trong một căn
nhà đá tối om om. Chỉ thấy lửa bập bùng chiếu sáng một bên vách đá,
một gã thợ rèn gân guốc cởi trần, đứng bên cạnh một cái đe sắt lớn, đang
xăm xoi xem một vật gì đen sì trên tay. Ba tên Khất Đan đẩy Du Thản
Chi đến trước mặt người thợ rèn, hai người chia ra nắm hai tay y, còn một
người giữ chặt sau lưng. Người thợ rèn nghiêng đầu qua, nhìn mặt y, lại
đăm đăm nhìn vào vật trong tay, dường như muốn so sánh.
Du Thản Chi nhìn vào vật trên tay y, thấy đó là một cái mặt nạ bằng
sắt mới đúc xong, trên có đục hai mắt mũi mồm bốn cái lỗ. Y còn đang
suy nghĩ, không biết cái này để làm gì thì tên thợ rèn đã cầm mặt nạ lên,
chụp vào mặt Du Thản Chi. Du Thản Chi tự nhiên hất đầu về sau tránh,
nhưng sau ót đã bị người ta giữ chặt, không cách gì thoát được, chiếc mặt
nạ liền áp vào mặt y. Y cảm thấy trên mặt lạnh ngắt, da thịt chạm vào
kim loại, mà kỳ lạ làm sao, cái mặt nạ đó thật khít khao kể cả mắt mũi
mồm, tưởng chừng như chế riêng cho y vậy.
Du Thản Chi chỉ ngạc nhiên giây lát lập tức hiểu ngay nguyên do,
một làn hơi lạnh chạy thẳng từ đỉnh đầu xuống xương sống: Chết rồi, cái
mặt nạ này chính là để cho ta, hôm trước bọn chúng dùng bột mì nhồi
thành khuôn. Bọn chúng làm cái mặt nạ sắt đó để làm gì? Không lẽ ...
không lẽ .... Y đã đoán ra cái dụng ý ác độc của người Khất Đan, nhưng
để làm gì thì không biết, không còn dám nghĩ thêm chỉ hết sức vùng vẫy
mong sao thoát ra được.
Người thợ rèn bỏ chiếc mặt nạ ra, gật gù tỏ vẻ hài lòng, rồi dùng
một chiếc kìm lớn kẹp bỏ vào lò lửa nung cho đỏ lên, tay phải cầm búa,
đập xuống choang choang. Y đập chiếc mặt nạ một lúc, đưa tay rờ rẫm
xương gò má và trán Du Thản Chi, rồi sửa những chỗ chưa được hoàn
toàn ăn khớp.
Du Thản Chi kêu lên:
- Bọn Liêu cẩu trời đánh kia, các ngươi làm chuyện thương thiên
hại lý, hung tàn ác độc thế này, ông trời sẽ giáng họa xuống tất cả chúng
bay không được chết yên chết lành, đến cả bò ngựa nhà bay cũng chết
nốt, con nít cũng chết non.
Y ngoác mồm chửi rủa nhưng người Khất Đan chẳng hiểu câu nào.
Gã thợ rèn đột nhiên quay phắt lại, hầm hầm nhìn y, cầm chiếc kìm sắt
đang nóng đỏ, dí vào mắt y khiến Du Thản Chi sợ đến hét ầm lên.
Thế nhưng gã thợ rèn chỉ dọa y một mẻ, cười sằng sặc, rút chiếc kìm
về, lại lấy ra một khối sắt hình cong ướm thử vào sau ót Du Thản Chi.
Sau khi gõ cho vừa, tên thợ rèn bèn đem cả mặt nạ lẫn cái chụp hình bán
cầu bỏ vào lửa nung cho đỏ, lớn tiếng nói mấy câu. Ba tên Khất Đan liền
kéo Du Thản Chi lên bắt nằm trên một cái phản gỗ, để đầu y thò ra ngoài
bìa. Lại có thêm hai người Khất Đan khác đến giúp, dùng sức giữ chặt
đầu tóc y, khiến cho y không thể nhúc nhích. Năm người kẻ giữ chân
người nắm tay, thử hỏi Du Thản Chi còn cục cựa làm sao được?
Tên thợ rèn kẹp chiếc mặt nạ nóng đỏ lên, ngừng lại một chút cho
nguội bớt, quát lớn một tiếng, rồi áp lên mặt Du Thản Chi. Khói trắng
xèo xèo bốc lên đồng thời mùi thịt cháy khét bay tứ tán. Du Thản Chi chỉ
kêu lên được một tiếng rồi ngất xỉu. Năm tên Khất Đan lật người y lại, gã
thợ rèn lại kẹp nửa đầu bên kia, để vào sau ót, hai mảnh bán cầu ráp lại
thành một trái cầu sắt bao chặt đầu Du Thản Chi lại. Cái lồng sắt còn
nóng lắm, đụng vào thịt liền đốt cháy thành một khối bầy nhầy. Gã thợ
rèn đó là thiết công khéo léo vào bậc nhất ở thành Yên Kinh, hai nửa
chiếc lồng sắt dính chặt làm một chỗ nào cũng thật khít khao.
Du Thản Chi chẳng khác gì rơi vào địa ngục, bị thiêu đốt trong vạn
trượng lửa không biết bao lâu mới dần dần tỉnh lại nhưng trước mặt và
sau ót đau đớn khôn cùng chịu không nổi, lại ngất đi. Cứ như thế ba lần
tỉnh lại, ba lần ngất xỉu, y lớn tiếng kêu gào nhưng chỉ phát ra những
tiếng ú ớ không ra tiếng người.
Y đành nằm yên cố gắng không suy nghĩ gì khác, nghiến răng cố
chịu đựng nỗi đau đớn ở mặt và ót phải đến hơn hai giờ mới đưa được tay
lên sờ thử, tay đụng phải vật gì vừa cứng vừa lạnh, biết ngay những gì
mình đoán không sai, cái mặt nạ kia đã chụp lên đầu mình rồi. Trong cơn
phẫn khích, y cố giằng nó ra nhưng cái lồng sắt đó đúc thật kiên cố,
không hề suy suyển chút nào. Y càng nghĩ càng thêm tuyệt vọng nhịn
không nổi khóc òa lên.
Thế nhưng dẫu sao y tuổi cũng còn trẻ, nỗi thống khổ tuy lớn lao
nhưng rồi cũng chịu được không đến nỗi chết, qua mấy ngày sau vết
thương dần dần se da, đau đớn cũng bớt, bụng cảm thấy đói. Y ngửi thấy
mùi thịt cừu và bánh bao nhịn không nổi cầm lấy ăn. Lúc này y đã mò kỹ
biết rõ chiếc lồng sắt ấy bao chặt đầu mình như thế nào, không thể nào
thoát ra được, mấy ngày đầu nổi cơn cuồng nộ nhưng rồi cũng bình tĩnh
lại, tự hỏi: Tên cẩu tặc Kiều Phong chụp lên đầu ta cái lồng sắt này,
không biết có dụng ý gì?.
Y vẫn nghĩ tất cả đều do lệnh của Tiêu Phong làm sao có thể đoán ra
rằng sở dĩ A Tử làm cái đầu sắt chính là che dấu để ông không nhận ra y.
Cái công trình đó, tất cả đều do đội trưởng Thất Lý theo lệnh A Tử mà thi
hành.
Ngày ngày A Tử đều hỏi Thất Lý xem Du Thản Chi sau khi đeo cái
lồng sắt tình hình ra sao, lúc đầu thì lo y chết sẽ mất vui, về sau biết y
vẫn còn sống, trong bụng hết sức hoan hỉ. Hôm đó nàng nghe tin Tiêu
Phong đi xuống Nam Giao duyệt binh liền bảo Thất Lý đem Du Thản Chi
đến Đoan Phúc Cung. Gia Luật Hồng Cơ vì muốn cho Tiêu Phong vui
lòng nên đã phong nàng là Đoan Phúc quận chúa, tòa Đoan Phúc Cung
này là ban riêng cho nàng ở.
A Tử vừa nhìn thấy hình dạng Du Thản Chi liền cảm thấy một niềm
vui vô bờ bến từ đáy lòng dâng lên, nghĩ thầm: Cái cách này của ta thật
được việc. Tiểu tử này đeo cái mặt nạ thì tỉ phu dẫu có đứng trước mặt y
cũng không thể nào nhận ra. Du Thản Chi lại đi tới mấy bước, A Tử vỗ
tay khen ngợi nói:
- Thất Lý, cái mặt nạ này đúc khéo quá, ngươi đem năm chục lạng
bạc thưởng thêm cho gã thợ rèn.
Thất Lý đáp:
- Vâng! Đa tạ quận chúa.
Du Thản Chi từ trong hai cái lỗ mắt nhìn ra, thấy A Tử mặt mày tươi
rói, cực kỳ kiều diễm, lại được nghe tiếng nói thanh tao của nàng, không
khỏi ngơ ngẩn như trời trồng. A Tử thấy y đội chiếc mặt nạ, thần tình quái
lạ, nhưng mắt vẫm đăm đăm nhìn mình nên cũng biết được bèn hỏi:
- Này thằng ngốc kia, ngươi nhìn ta làm gì thế?
Du Thản Chi đáp:
- Tôi ... tôi ... không biết nữa. Cô ... cô nương đẹp quá.
A Tử mỉm cười:
- Ngươi đeo cái mặt nạ đó, thích hay không thích?
Du Thản Chi hậm hực hỏi lại:
- Thế cô nghĩ có thích hay không?
A Tử cười khanh khách đáp:
- Ta không nghĩ ra.
Nàng thấy miệng trên cái mặt nạ của y chỉ mở một đường thật hẹp,
miễn cưỡng có thể húp canh ăn cơm, còn như muốn ăn thịt thì phải dùng
tay xé nhỏ mới đút vào được, có muốn cắn ngón chân mình thì cũng
không được bèn cười nói:
- Ta đeo cho ngươi cái mặt nạ đó để ngươi mãi mãi không thể nào
cắn ta được.
Du Thản Chi trong lòng chợt mừng hỏi lại:
- Cô nương sẽ cho tiểu nhân ... cho tiểu nhân ... được ... luôn luôn ở
gần bên hầu hạ hay sao?
A Tử đáp:
- Hứ, ngươi là một tên tiểu tử xấu xa, ở gần bên lúc nào cũng tính
chuyện hại ta thì sao mà chịu được.
Du Thản Chi đáp:
- Tiểu nhân ... tiểu nhân ... nhất quyết không bao giờ hại cô nương.
Kẻ thù của tiểu nhân chỉ một mình Kiều Phong thôi.
A Tử nói:
- Ngươi muốn hại tỉ phu ta ư? Thế thì cũng như hại ta vậy? Có khác
gì đâu?
Du Thản Chi nghe nàng nói vậy thấy một nỗi chua xót dâng lên
trong lòng, không biết phải trả lời sao. A Tử cười nói:
- Ngươi muốn hại anh rể ta thật còn khó hơn lên trời. Này thằng
ngốc, ngươi có muốn chết không?
Du Thản Chi đáp:
- Lẽ dĩ nhiên tiểu nhân không muốn chết. Thế nhưng bây giờ trên
đầu đeo cái đồ chết tiệt này, người không ra người, quỉ không ra quỉ, so
với chết thì có khác gì bao nhiêu?
A Tử nói:
- Nếu ngươi quả là thà chết sướng hơn, thì cũng được, ta sẽ giúp
ngươi tròn tâm nguyện, có điều không phải muốn chết là chết ngay đâu.
Ta chặt tay trái ngươi trước đã.
Nàng quay sang Thất Lý đang đứng hầu bên cạnh truyền lệnh:
- Thất Lý, ngươi đem y ra, chặt tay trái trước.
Thất Lý đáp lời:
- Vâng!
Y đưa tay ra nắm lấy cánh tay Du Thản Chi. Du Thản Chi sợ quá kêu
lên:
- Đừng! Đừng! Cô nương, tiểu nhân không muốn chết, cô nương ...
cô nương đừng chặt tay tôi.
A Tử cười nhạt nói:
- Ta đã nói rồi không lẽ không tính, trừ phi ... trừ phi ... ngươi quì
xuống khấu đầu.
Du Thản Chi còn hơi ngần ngừ, Thất Lý đã cầm tay y lôi đi. Du Thản
Chi không còn dám lần khân nữa, khuỵu hai đầu gối, lập tức quì xuống
rập đầu, cái lồng sắt đập vào nền gạch, nghe boong một tiếng. A Tử cười
khanh khách nói:
- Tiếng khấu đầu sao dễ nghe quá, ta chưa từng nghe thấy bao giờ,
ngươi sụp lạy ta thêm vài cái nữa xem nào.
Du Thản Chi là tiểu trang chủ của Tụ Hiền Trang, tuy học văn không
được, học võ không thông, trong trang ai cũng biết y là loại ăn hại đái nát
nhưng Du Ký có con lại chết non, Du Câu thì chỉ có một cậu con vàng con
ngọc này, tiểu trang chủ nhất hô bách nặc3, từ nhỏ đã được nuông chiều
tôn kính, có bị khinh khi như thế này bao giờ đâu? Y mới gặp Tiêu Phong
vẫn còn một chút ngạo khí thà chết không chịu khuất phục nhưng mấy
hôm nay, thân thể cũng như tâm linh đều bị những vết thương cực kỳ lợi
hại, bao nhiêu hào khí của tuổi thanh niên đều tiêu tán không còn gì nữa,
nghe A Tử nói như vậy, lập tức liên tiếp khấu đầu, leng keng vang dội,
được vị cô nương trông như nàng tiên này khen mình sụp lạy dễ nghe,
trong lòng thầm hoan hỉ.
A Tử nở một nụ cười duyên dáng nói:
- Hay lắm! Từ nay ngươi phải vâng lời ta, không cưỡng lại thì
không sao, bằng không ta sẽ chặt tay ngươi, nhớ không nào?
Du Thản Chi đáp:
- Vâng! Vâng!
A Tử lại tiếp:
- Ngươi đúng là một thằng ngu, ta cứu mạng ngươi, ngươi lại không
biết ơn. Tiêu đại vương muốn băm vằm ngươi ra, ngươi không biết hay
sao?
Du Thản Chi đáp:
- Y là kẻ thù giết cha tôi, dĩ nhiên không thể tha tôi được.
A Tử nói:
- Ông ta giả vờ tha ngươi ra, nhưng lại sai người đuổi theo bắt lại
để băm ngươi ra thành tương. Ta thấy ngươi không đến nỗi tệ lắm, giết đi
thật tội nghiệp, nên cố gắng che đậy cho ngươi. Thế nhưng nếu như Tiêu
đại vương bắt gặp thì liệu ngươi có sống được hay chăng? Ngay cả ta
cũng phải chịu liên lụy rất lớn.
Du Thản Chi lập tức hiểu ra bèn đáp:
- À, thì ra cô nương đúc cái đầu sắt này cho tiểu nhân đội chính là
vì có lòng tốt, cốt để cứu mạng cho tôi. Tiểu nhân ... tiểu nhân thật là
cảm kích, thật thế ... hết sức cảm kích.
A Tử đánh lừa được y khiến cho y biết ơn mình nên rất đắc ý, mỉm
cười nói:
- Vì thế lần sau ngươi gặp Tiêu đại vương thì không được nói năng
gì để ông ta không nhận ra tiếng ngươi. Nếu như ông ta biết được là
ngươi, hừ, hừ, thì sẽ chặt ngay tay trái, một hồi sau lại chặt luôn tay phải.
Thất Lý, ngươi mau đem y ra thay đổi y phục Khất Đan, tắm cho y một
cái chứ người đầy máu mủ tanh hôi, nặng mùi quá.
Thất Lý đáp lời dẫn y ra ngoài. Chẳng mấy chốc, Thất Lý lại đưa Du
Thản Chi vào, đã thay đổi quần áo Khất Đan cho y. Thất Lý muốn A Tử
vui lòng cố ý mặc cho y thật sặc sỡ, nam chẳng ra nam, nữ chẳng ra nữ,
trông như một thằng hề.
A Tử nhếch mép cười:
- Để ta đặt cho ngươi một cái tên, gọi là ... gọi là ... Hề Sắt. Từ nay
ta gọi Hề Sắt ngươi phải dạ nghe chưa. Hề Sắt!
Du Thản Chi vội vàng đáp:
- Dạ!
A Tử cực kỳ sung sướng, đột nhiên nghĩ ra một việc nói:
- Thất Lý, nước Đại Lương bên Tây Vực có đem qua một con sư tử,
phải không? Ngươi bảo huấn sư đem nó qua đây, lại gọi thêm mười vệ sĩ.
Thất Lý vâng lời ra ngoài truyền lệnh. Mười sáu tên vệ sĩ tay cầm
trường mâu tiến vào trong điện, quay về phía A Tử khom lưng hành lễ,
rồi đứng lên, mười sáu mũi giáo chĩa ra ngoài, bảo vệ chủ nhân. Chẳng
mấy chốc đã nghe ngoài cửa điện có tiếng sư tử gầm, tám người đàn ông
khỏe mạnh khiêng một cái chuồng bằng sắt lớn, trong chuồng là một con
sư tử đực đi qua đi lại, chòm lông đuôi dài rủ xuống, răng nhọn vuốt sắc,
thần tình thật là uy võ. Người luyện thú đi trước, tay cầm roi da.
A Tử thấy con sư tử đó thật là hung dữ đáng sợ, vui mừng nói:
- Hề Sắt, mồm ngươi nói thì nghe hay lắm nhưng chẳng biết có thật
hay không. Để ta thử xem cho biết, coi ngươi có nghe lời ta chăng.
Du Thản Chi đáp:
- Vâng!
Y vừa trông thấy con mãnh sư đã hoảng thầm, không biết có dụng ý
gì nghe nàng nói thế, lập tức tim đập thình thình. A Tử nói:
- Không biết chiếc lồng trên đầu ngươi có chắc chắn hay không,
ngươi thử thò đầu vào trong chuồng cho sư tử cắn mấy cái, xem nó có cắn
vỡ được cái lồng sắt đó hay không?
Du Thản Chi hoảng hốt ấp úng:
- Cái đó ... cái đó chẳng nên thử làm gì. Nếu nó cắn vỡ thì đầu tiểu
nhân ...
A Tử nói:
- Cái đồ ngươi thật là vô dụng. Có một việc như thế mà cũng sợ,
nam tử hán đại trượng phu thì phải xem cái chết như trở về nhà4 mới phải
chứ. Ta xem chừng nó cắn không vỡ được đâu.
Du Thản Chi năn nỉ:
- Cô nương, việc này đâu phải trò đùa, ví như nó cắn không vỡ, con
súc sinh này lại làm cái lồng méo đi thì cái đầu tiểu nhân ...
A Tử cười khanh khách nói:
- Thì cùng lắm cái đầu ngươi cũng bị méo thôi. Tên tiểu tử này thật
lắm chuyện, vốn dĩ ngươi cũng đâu có đẹp đẽ gì, dù đầu có méo thì cũng
vẫn còn ở trong cái lồng có ai nhìn thấy đâu mà lo, sợ gì đẹp hay xấu.
Du Thản Chi vội đáp:
- Tiểu nhân nào có thích đẹp hay không đẹp ...
A Tử mặt sầm xuống nói:
- Ngươi không nghe lời ta, được, thôi ta biết rồi. Ngươi có ý đánh
lừa ta, vậy ta sẽ vứt ngươi vào trong lồng cho sư tử ăn thịt.
Nàng dùng tiếng Khất Đan dặn dò Thất Lý, Thất Lý liền đáp:
- Vâng!
Rồi lập tức xông lên nắm tay Du Thản Chi. Du Thản Chi nghĩ thầm:
Nếu như mình bị đẩy vào chuồng sư tử thì còn sống sao nổi, chi bằng
nghe lời cô nương, đút cái đầu sắt vào thử, may nhờ rủi chịu. Y liền kêu
lên:
- Đừng kéo! Đừng kéo! Cô nương, tôi xin nghe lời.
A Tử cười nói:
- Có thế mới ngoan ngoãn chứ! Ta bảo này, từ rày ta bảo ngươi làm
gì là phải làm ngay, đừng có lừng khừng để cô nương phải bực mình. Thất
Lý, đánh cho y ba chục roi.
Thất Lý đáp:
- Tuân lệnh!
Y cầm chiếc roi da trong tay người dạy sư tử, nghe chát một tiếng đã
quất vào lưng Du Thản Chi. Du Thản Chi đau quá, kêu lên oai oái. A Tử
nói:
- Hề Sắt, ta bảo này, ta sai người đánh ngươi là coi trọng ngươi đó.
Ngươi kêu toáng lên như thế tức là không thích ta đánh chứ gì?
Du Thản Chi đáp:
- Tiểu nhân thích lắm chứ, đa tạ ân điển cô nương.
A Tử nói:
- Thế thì được, đánh đi.
Thất Lý đánh chát chát luôn một chập mười roi, Du Thản Chi chỉ
đành nghiến răng cố chịu, không dám hé răng, thế nhưng nhờ có chụp cái
lồng sắt nên roi không đánh vào đầu, còn roi da đánh vào ngực bụng
cũng đành phải ráng chịu. A Tử thấy y không kêu nữa cảm thấy vô vị nói:
- Hề Sắt, ngươi bảo ngươi thích ta cho người đánh ngươi, phải
không nào?
Du Thản Chi đáp:
- Chính thế!
A Tử nói:
- Ngươi nói thế là thật hay giả? Hay chỉ là nói quấy nói quá để lừa
ta?
Du Thản Chi đáp:
- Đúng là thế, tiểu nhân nào dám đánh lừa cô nương.
A Tử nói:
- Nếu quả là ngươi thích thú, sao không cười lên? Sao không nói là
được đánh thật sướng quá?
Du Thản Chi bị nàng hành hạ đến hết hồn hết vía, quên cả phẫn nộ,
chỉ đành xuôi theo:
- Cô nương đối với tiểu nhân thật là tử tế, lại sai người đánh thật là
sướng đời.
A Tử nói:
- Nói thế nghe được đấy, để thử xem sao.
Chát một tiếng, y lại bị thêm một roi, Du Thản Chi vội kêu:
- Đa tạ ơn cứu mạng của cô nương, roi này đánh sướng lắm.
Chẳng bao lâu đã bị đánh hơn hai chục roi, tính cả trận đòn trước thì
đã quá ba chục. A Tử xua tay nói:
- Thôi hôm nay thế đủ rồi. Ngươi mau đút đầu vào chuồng ta coi.
Du Thản Chi toàn thân đau như dần, khập khiễng bước tới bên
chuồng sư tử, nghiến răng đút đầu qua song sắt. Con sư tử thấy y dám tiến
lên khiêu khích như thế, sợ quá giật mình lùi lại hai bước, lom lom nhìn
chiếc đầu sắt một hồi, lại lùi thêm hai bước nữa, miệng gừ gừ ra oai. A
Tử quát:
- Bảo sư tử cắn đi, sao nó chưa cắn?
Gã dạy thú quát lên mấy tiếng, sư tử nhận được hiệu lệnh, liền chồm
tới, há mồm ra, ngoạm vào đầu Du Thản Chi, tiếp theo là tiếng kèn kẹt
răng sư tử cạ vào lồng sắt. Du Thản Chi nhắm chặt hai mắt, cảm thấy một
luồng hơi nóng theo lỗ mắt, lỗ mũi, lỗ mồm phà vào, biết rằng đầu mình
đã lọt thỏm trong mồm con mãnh thú, rồi sau ót và trán đau nhói lên.
Khi y bị chụp cái lồng sắt vào đầu, mặt mũi đầu tóc y đã bị chiếc
lồng nóng đỏ đốt cháy, sau mấy ngày bắt đầu liền da, bây giờ lại bị sư tử
cắn, bao nhiêu vết thương lại vỡ tung ra.
Con sư tử cố sức cắn mấy cái nhưng không được, ngược lại răng còn
bị ê ẩm, bèn ra oai giơ chân phải lên chộp lên vai Du Thản Chi. Du Thản
Chi đầu vai đau điếng, kêu A lên một tiếng. Con sư tử đột nhiên thấy
vật trong mồm mình bỗng rống lên, kinh hoảng nhả đầu y ra, lùi về nép
tại một góc lồng.
Gã dạy sư tử lớn tiếng quát tháo, giục sư tử xông đến cắn Du Thản
Chi lần nữa. Du Thản Chi giận quá, đột nhiên vươn tay ra, chộp luôn ót
gã huấn sư, đẩy mạnh một cái, dúi luôn đầu y vào trong chuồng sư tử,
khiến gã kêu lên inh ỏi. A Tử vỗ tay reo hò nói:
- Hay quá! Hay quá! Không ai được can thiệp, để hai đứa vật nhau
xem ai sống ai chết.
Bọn lính Khất Đan đang định tiến lên nắm tay Du Thản Chi lôi ra,
nghe A Tử nói thế đều đứng tại chỗ không động tĩnh gì. Gã dạy sư tử hết
sức dãy dụa, nhưng dã tính của Du Thản Chi nổi lên, nói gì thì nói nhất
định không buông. Gã huấn sư chỉ còn nước nhờ sư tử giúp mình, kêu lên:
- Cắn! Cắn y ngay!
Con sư tử thấy y thúc giục, gầm lên một tiếng chồm tới. Con vật chỉ
nghe chủ nhân bảo nó cắn đi, nhưng nào có biết cắn cái gì, hai hàm răng
nhọn hoắt há ra ngoạm luôn một nửa đầu gã dạy thú, khiến cho máu lẫn
óc tung tóe đầy mặt đất.
A Tử cười nói:
- Hề Sắt thắng rồi!
Nàng bèn bảo sĩ binh đem cái xác gã dạy thú và lồng sư tử ra ngoài,
nói với Du Thản Chi:
- Thế là phải! Ngươi làm cho ta hoan hỉ, phải thưởng gì mới được!
Thưởng cái gì đây nhỉ?
Nàng chống tay vào cằm nghiêng đầu suy nghĩ. Du Thản Chi nói:
- Cô nương, tiểu nhân không mong cô thưởng tiền, chỉ cầu xin một
việc.
A Tử hỏi:
- Ngươi cầu xin gì?
Du Thản Chi đáp:
- Xin cô cho tiểu nhân được ở bên cạnh hầu hạ, làm đầy tớ cho cô
nương.
A Tử ngạc nhiên:
- Làm đầy tớ cho ta ư? Sao lại thế? Có gì thích thú đâu? Ồ, ta biết
rồi, ngươi định đợi Tiêu đại vương đến thăm ta, thừa cơ hạ thủ, báo thù
cho cha mẹ chứ gì?
Du Thản Chi vội đáp:
- Không! Không! Không phải thế đâu.
A Tử nói:
- Không lẽ ngươi không định báo thù hay sao?
Du Thản Chi đáp:
- Không phải không nghĩ đến, có điều một là báo thù không được,
hai là không muốn để cô nương bị dính líu vào.
A Tử hỏi:
- Thế sao ngươi lại thích làm đầy tớ cho ta?
Du Thản Chi đáp:
- Cô nương là tiên trên trời hạ phàm, là người đẹp nhất trong thiên
hạ. Tiểu nhân ... tiểu nhân ... mong được ngày ngày trông thấy cô nương.
Câu đó cực kỳ vô lễ, ở vào tình trạng y lúc này, thì lại cũng thật là
lớn mật. Thế nhưng A Tử nghe vào tai thì lại rất vừa ý. Nàng tuổi còn
nhỏ, dung mạo tuy đẹp đẽ thật nhưng thân thể chưa trưởng thành, lại
thêm trọng thương mới khỏi, tiều tụy xanh xao mà bảo là người đẹp nhất
trong thiên hạ thì thật quá đáng, nhưng nghe một người vì nhan sắc mình
mà đắm đuối như thế cũng không khỏi mở cờ trong bụng.
Nàng đang toan bằng lòng lời thỉnh cầu của Du Thản Chi thì bỗng
nghe một tên cung vệ lên tiếng báo:
- Đại vương đến thăm.
A Tử đưa mắt cho Du Thản Chi, hạ giọng hỏi:
- Tiêu đại vương đến rồi kìa, ngươi có sợ không?
Du Thản Chi sợ đến mất vía nhưng vẫn run run nói cứng:
- Không sợ!
Điện môn mở toang ra, Tiêu Phong mặc khinh cừu đai lỏng5, chậm
rãi đi vào. Ông vừa vào cửa điện đã thấy trên sàn đầy những máu tươi,
lại thêm Du Thản Chi đầu đeo lồng sắt đứng đó, hình dáng hết sức lạ
lùng bèn vừa cười vừa hỏi A Tử:
- Hôm nay khí sắc cô trông tươi tỉnh lắm, lại có trò chơi gì mới
chăng? Người này trên đầu đeo cái gì lạ thế?
A Tử cười đáp:
Bối cảnh xã hội đời Tống
- Đây là người đầu sắt do nước Cao Xương bên Tây Vực tiến
cống, tên là Hề Sắt. Đầu y cứng lắm, đến sư tử cắn còn không vỡ, anh coi
nè, đây là vết răng sư tử đó.
Tiêu Phong coi kỹ chiếc lồng sắt, quả nhiên còn dấu răng mãnh thú
thật. A Tử lại tiếp:
- Tỉ phu, anh có cách gì gỡ cái lồng sắt này ra được không?
Du Thản Chi nghe nói thế, sợ đến hồn phi phách tán. Y đã từng
chính mắt trông thấy thần dũng của Tiêu Phong một mình đấu với quần
hùng Trung Nguyên, song chưởng đánh ra khiến cương thuẫn của cả bá
phụ và phụ thân đều văng đi, nếu như muốn gỡ cái lồng trên đầu mình thì
thật dễ như trở bàn tay. Khi bị người ta gắn chiếc lồng sắt vào đầu, y đau
khổ thất vọng, đến bây giờ thì lại mong rằng cái lồng sắt đó sẽ mãi mãi ở
trên đầu mình để Tiêu Phong không nhìn thấy bộ mặt thật.
Tiêu Phong giơ ngón tay búng nhẹ vào cái lồng sắt mấy cái, phát
tiếng leng keng cười nói:
- Cái lồng sắt này thật chắc chắn, thật tinh vi, làm hỏng thì uổng
lắm.
A Tử nói:
- Sứ giả nước Cao Xương nói rằng, gã đầu sắt này sinh ra mặt xanh
nanh vàng, ba phần người, bảy phần quỉ, ai trông thấy cũng phải hoảng
hồn tránh xa thành thử cha mẹ y mới đúc cái lồng này cho y đội để khỏi
làm cho người khác tởn thần. Tỉ phu ơi, em muốn xem bộ mặt thực của y
thế nào, có thực là kinh khủng dễ sợ hay không?
Du Thản Chi sợ quá run lẩy bẩy, răng đánh bò cạp kêu lách cách.
Tiêu Phong thấy y kinh hoảng dị thường bèn nói:
- Gã này sợ đến mất vía, thôi đừng bửa đầu y ra làm chi. Người này
từ nhỏ đội đã quen, nếu cố gắng lấy ra e rằng y không sống được.
A Tử vỗ tay reo lên:
- Thế thì thật thú vị. Mỗi khi em thấy con rùa em đều bắt nó đem
lột mai ra để xem rùa không mai có sống được không?
Tiêu Phong chau mày, nghĩ đến con rùa bị lột vỏ, quả là tàn nhẫn
nói:
- A Tử, sao ngươi lại cứ thích những trò tàn ác khiến cho người ta
sống dở chết dở như thế?
A Tử hứ một tiếng nói:
- Anh không thích em chứ gì? Em làm sao tốt được như chị A Châu?
Em mà được như chị A Châu thì đâu có đến nỗi mấy ngày anh không
thèm đến thăm.
Tiêu Phong nói:
- Làm cái chức khốn khổ Nam Viện Đại Vương này, suốt ngày bận
tối tăm mặt mũi. Thế nhưng chẳng phải ngày nào ta cũng đến chơi với cô
một lúc hay sao?
A Tử phụng phịu:
- Chơi với cô một lúc? Hứ, chơi với cô một lúc? Em chẳng thích cái
lối vờ vĩnh đến chơi với cô một lúc cho có chuyện của tỉ phu đâu? Giá
như em là chị A Châu thì ắt hẳn anh luôn luôn ở bên cạnh em không rời
một bước chứ đâu phải chỉ một lúc, nửa lúc mà thôi.
Tiêu Phong nghe nàng nói quả không sai nên không sao trả lời được,
chỉ đành cười trừ nói:
- Tỉ phu là người lớn, đâu có thích chơi đùa với trẻ con, sao em
không kiếm một cô gái nhỏ tuổi nào để trò truyện giải sầu?
A Tử hậm hực đáp:
- Trẻ con, trẻ con ... em nào có còn là trẻ con nữa? Anh không thích
chơi với em, sao còn đến đây làm gì?
Tiêu Phong đáp:
- Ta đến xem cô đã khỏe chưa? Hôm nay uống mật gấu rồi chứ?
A Tử cầm chiếc nệm trên ghế quăng mạnh xuống đất, giơ chân đá
một cái nói:
- Trong lòng em không được vui, dù mỗi ngày uống hàng trăm cái
mật gấu thì cũng chẳng khỏe được.
Tiêu Phong thấy nàng lại giở trò hờn mát, nếu là A Châu ông ắt sẽ
dỗ dành để nàng bớt giận làm lành, còn cô bé điêu ngoa ác độc này thì
càng nghĩ càng chán ghét nên chỉ nói:
- Thôi em đi nghỉ đi thôi.
Ông đứng lên đi ra. A Tử nhìn theo sau lưng ông, ngơ ngẩn muốn
khóc, chợt nhìn thấy Du Thản Chi, cơn giận bùng lên, bao nhiêu bực dọc
muốn trút lên đầu y bèn quát:
- Thất Lý, đánh thêm cho nó ba mươi roi nữa.
Thất Lý vội đáp:
- Vâng!
Y cầm chiếc roi lên. Du Thản Chi thất thanh kêu lên:
- Cô nương, tôi làm lầm lỗi gì thế?
A Tử không đáp, vẫy tay nói:
- Đánh mau!
Vút một tiếng, Thất Lý liền đánh xuống. Du Thản Chi lại kêu:
- Cô nương, quả thực tiểu nhân phạm tội gì, xin cô cho biết để lần
sau khỏi tái phạm.
Thất Lý cứ vút một roi rồi lại một roi nữa. A Tử nói:
- Ta muốn đánh là đánh, ngươi không được hỏi là tội gì, không lẽ ta
đánh sai hay sao? Ngươi hỏi là mình phạm tội gì ư? Thì chính vì ngươi hỏi
cho nên ta mới đánh.
Du Thản Chi nói:
- Tại cô nương đánh trước, tiểu nhân mới hỏi. Tôi chưa hỏi cô
nương đã sai đánh rồi mà.
Vút một roi, lại vút vút vút thêm ba roi nữa. A Tử cười nói:
- Ta đoán là ngươi sẽ hỏi cho nên ta sai người đánh trước. Quả
nhiên ngươi hỏi thật, có đúng là ta liệu sự như thần hay không? Cái đó
chứng minh là ngươi đâu có hết lòng hết dạ với ta. Cô nương bỗng nhiên
muốn đánh người, nếu quả ngươi trung thành thì phải xông lên, tự động
hiến thân cho ta đánh mới phải. Ngươi lầu bầu như thế đủ biết trong lòng
không phục. Được rồi, ngươi không thích ta đánh, thì thôi không đánh
cũng chẳng sao.
Du Thản Chi nghe nàng nói không đánh cũng chẳng sao mà sợ run
lên, người nổi da gà, biết rằng A Tử sẽ nghĩ ra những hình phạt còn đau
đớn khổ sở gấp mười lần đánh, chi bằng ngoan ngoãn chịu ba chục roi
còn hơn, vội nói:
- Tiểu nhân biết sai rồi! Cô nương đánh là đại ân đại đức, có ích
cho thân thể tiểu nhân, xin cô nương đánh thêm nữa, càng nhiều càng tốt.
A Tử nở một nụ cười tươi như hoa nói:
- Xem ra ngươi kể cũng thông minh nhưng ta đâu có để cho người
khác giăng bẫy được, ngươi bảo đánh càng nhiều càng tốt là để cho ta
cao hứng tha cho ngươi chứ gì?
Du Thản Chi đáp:
- Nào có dám thế, tiểu nhân quả không dám giăng bẫy đánh lừa cô
nương.
A Tử nói:
- Thế ngươi bảo đánh càng nhiều càng tốt là phát xuất tự đáy lòng
đấy chăng?
Du Thản Chi đáp:
- Quả đúng như thế, chính là tâm nguyện của tiểu nhân.
A Tử nói:
- Nếu đúng như vậy thì thôi ta cũng chiều ý ngươi. Thất Lý, đánh
cho nó một trăm roi, y thích đánh cho thật nhiều.
Du Thản Chi sợ đến mất mật, nghĩ bụng: Đánh một trăm roi thì
mạng mình còn sao nổi?. Thế nhưng việc đã đến nước này, dù y bảo
mình không muốn, nhưng người ta đánh là đánh cãi lại có ích gì đâu, nên
đành lặng thinh không dám nói gì cả.
A Tử hỏi:
- Sao ngươi không nói gì cả? Có phải trong lòng không phục chứ
gì? Ta sai người đánh ngươi, ngươi thấy không công bình chăng?
Du Thản Chi đành gượng đáp:
- Tiển nhân vui lòng thành khẩn, biết là cô nương đánh là do lòng
tốt muốn thành toàn cho tiểu nhân.
A Tử nói:
- Thế sao ngươi không nói gì cả?
Du Thản Chi không còn cách gì trả lời, ngập ngừng một hồi rồi đáp:
- Cái đó ... cái đó ... tiểu nhân nghĩ đến ơn đức cô nương nặng tày
non, trong lòng cảm kích, không còn biết nói sao nữa, chẳng biết tương lai
làm thế nào để báo đáp.
A Tử nói:
- Tốt lắm! Ngươi hỏi làm cách nào báo đáp ta ư? Mỗi roi ta đánh
ngươi, ngươi lại thêm hận thù một chút nhớ kỹ trong lòng chứ gì.
Du Thản Chi liên tiếp lắc đầu:
- Không! Không! Không đâu! Tiểu nhân nói báo đáp là nói chuyện
báo đáp chân chính. Tiểu nhân một lòng một dạ mong được vì cô nương
tan xương nát thịt, dẫu phải nhảy vào nước sôi, xông vào lửa bỏng cũng
không từ.
A Tử nói:
- Được, thế thì đánh đi.
Thất Lý vội đáp:
- Vâng.
Nghe chát một tiếng, roi da đã quất xuống. Đánh đến hơn năm chục
roi thì Du Thản Chi đau đến tê người, hai đầu gối nhũn đi, từ từ sụm
xuống. A Tử cười khì khì đứng coi, chỉ đợi cho y mở miệng van xin một
tiếng là nàng sẽ kết tội y nói láo, tăng thêm năm chục roi đòn. Có ngờ
đâu lúc này Du Thản Chi đã nửa tỉnh nửa mê, chẳng còn biết gì nữa, chỉ
rên khe khẽ nhưng không van xin câu nào. Đánh đến bảy chục roi thì y đã
ngất xỉu, Thất Lý vẫn không nương tay, đánh cho đủ một trăm roi lúc đó
mới ngừng.
A Tử thấy Du Thản Chi chỉ còn thoi thóp, chín chết một sống không
khỏi cụt hứng. Nàng nghĩ đến thái độ của Tiêu Phong chẳng thèm để ý
đến mình, trong bụng ấm ức nói:
- Lôi y đi! Gã này chẳng có gì vui! Thất Lý, có trò chơi mới nào
nữa không?
Du Thản Chi bị trận đòn đó phải dưỡng thương một tháng trời mới
khỏi. Người Khất Đan thấy A Tử đã quên y rồi nên không lôi y ra hành
hạ nữa, bỏ y vào ở chung với một đám người Tống bị bắt khác, bắt y phải
làm những việc hạ tiện nặng nhọc hơn cả, dọn hố xí, rửa chuồng cừu,
nhặt phân bò, phơi da thú chuyện gì cũng đến tay.
Du Thản Chi đầu đội cái lồng sắt nên ai ai cũng đem y ra chửi mắng
làm trò cười, đến cả đồng bào người Hán cũng coi y như con quái vật.
Thế nhưng y việc gì cũng nhịn, tưởng như biến thành người câm. Người
khác đánh chửi, y cũng không kháng cự, chỉ có khi nào có ai cưỡi ngựa đi
qua thì mới ngửng đầu lên nhìn, trong lòng khắc khoải duy nhất một
chuyện: Không biết đến chừng nào cô nương mới gọi mình lên đánh
đòn?. Y chỉ mong được nhìn thấy A Tử cho dù phải chịu roi vọt cũng
cam lòng chứ tuyệt nhiên chưa bao giờ có ý định đào tẩu.
Cứ như thế hơn hai tháng trời, khí hậu ấm dần. Hôm đó Du Thản Chi
theo mọi người ra phía nam thành Nam Kinh xúc đất khiêng gạch để đắp
thêm cho tường thêm chắc chắn, bỗng nghe thấy tiếng chân ngựa lộp cộp,
mấy người từ trong Nam môn đi ra, có tiếng cười trong trẻo nói:
- Ô kìa, tên Hề Sắt còn sống nhỉ? Ta vẫn tưởng y chết ngỏm từ đời
nào! Hề Sắt, ngươi lại đây.
Chính là tiếng của A Tử. Du Thản Chi ngày mong đêm nhớ, canh
cánh mong tới giờ phút này, nghe tiếng A Tử gọi, hai chân như đóng chặt
xuống đất, không sao di động được, chỉ thấy tim trong ngực đập thình
thình, lòng bàn tay toát mồ hôi.
A Tử lại gọi:
- Hề Sắt, đáng chết thực! Ta gọi ngươi lại đây, ngươi điếc hay sao?
Du Thản Chi lúc ấy mới đáp:
- Thưa cô nương, vâng.
Y đi đến trước đầu ngựa của cô gái. A Tử trong lòng thật vui vẻ, cười
nói:
- Hề Sắt, sao ngươi chưa chết hả?
Du Thản Chi đáp:
- Tiểu nhân vẫn mong ... vẫn mong báo đáp ân điển cô nương mà
chưa được nên không thể chết.
A Tử càng thêm vui, cười khanh khách mấy tiếng nói:
- Ta đang đi tìm một đứa đầy tớ trung thành một lòng một dạ để
làm một chuyện, chỉ sợ người Khất Đan chân tay vụng về làm hỏng việc,
nếu ngươi chưa chết thì thật tốt quá. Ngươi đi theo ta.
Du Thản Chi đáp ngay:
- Vâng!
Lập tức đi theo sau ngựa nàng. A Tử vẫy tay bảo Thất Lý và ba tên
vệ sĩ Khất Đan quay trở về, không phải theo nữa. Thất Lý biết rằng nàng
đã nói gì thì người khác không thể nào khuyên giải được, cũng may tên
đầu sắt này nhút nhát khiếp nhược, đi theo nàng ắt không có chuyện gì
xẩy ra bèn nói:
- Xin cô nương sớm quay về phủ.
Bốn người bèn nhảy xuống ngựa đứng đợi bên cửa thành. A Tử giục
ngựa chạy chậm chậm, đi chừng bảy tám dặm, càng lúc càng hoang dã rẽ
vào một sơn cốc tối om om, gió lạnh từ một khe núi thổi qua khiến hai
người da thịt như se lại.
A Tử nói:
- Thôi, ở đây được rồi!
Nàng ra lệnh cho Du Thản Chi buộc ngựa tại một gốc cây rồi bảo:
- Những chuyện ngươi trông thấy ngày hôm nay, không được tiết lộ
cho ai một tí gì, ngay cả với ta cũng không được đề cập tới, nhớ chưa?
Du Thản Chi vội đáp:
- Vâng! Vâng!
Trong bụng vui muốn phát điên, A Tử chỉ cho một mình mình đi
theo, đến một nơi hẻo lánh như thế, dẫu cho nàng có đánh cho y một chập
thật đau thì cũng vẫn còn cảm thấy ngọt như đường. A Tử cho tay vào bọc
lấy ra một chiếc đỉnh nhỏ bằng gỗ màu vàng sậm, để trên mặt đất nói:
- Lát nữa nếu có côn trùng gì quái lạ bò ra, ngươi không được la lối
om sòm, nhất định không được lên tiếng nghe chưa?
Du Thản Chi vội vàng đáp:
- Vâng!
A Tử lại cho tay vào túi lấy ra một cái gói vải nhỏ, mở ra thấy có
mấy cục hương liệu màu vàng, màu đen, màu tím, màu đỏ. Nàng bẻ mỗi
cục một miếng nhỏ, bỏ vào trong đỉnh, dùng hỏa đao, hỏa thạch đánh lên
châm lửa đốt, sau đó đậy nắp lại nói:
- Mình ra dưới gốc cây kia ngồi rình xem.
A Tử ngồi dưới gốc cây, Du Thản Chi đâu dám ngồi bên cạnh nàng,
ra một tảng đá dưới chiều gió. Gió lạnh hiu hiu, trong hơi gió có thoang
thoảng mùi thơm từ người nàng bay ra, Du Thản Chi không khỏi mê mẩn
tâm hồn, thấy rằng được một lúc như thế này, bao nhiêu khổ sở dày vò y
phải chịu những ngày qua kể cũng không uổng. Y mong sao A Tử vĩnh
viễn ngồi dưới gốc cây, còn mình được đời đời kiếp kiếp ở nơi đây hầu
bên cạnh.
Y còn đang say sưa lãng đãng, bỗng nghe thấy có tiếng loạt soạt,
một vật gì đỏ chót đang động đậy trong bụi cỏ xanh, chính là một con rết
thật lớn, toàn thân lấp lánh, trên đầu lồi ra một cái bướu nhỏ, trông khác
xa những con rết thường.
Con rết đó ngửi thấy mùi hương trong mộc đỉnh lập tức trườn tới,
chui theo cái lỗ dưới chiếc đỉnh mà vào rồi không thấy ra nữa. A Tử lấy
trong bọc ra một vuông gấm dày, rón rén tới gần, chụp mảnh gấm lên
trên chiếc đỉnh bao lại thật chặt sợ con rết chui ra mất rồi bỏ vào trong
chiếc bao da treo bên cổ ngựa cười nói:
- Thôi đi!
Nàng lập tức lên ngựa khởi hành. Du Thản Chi lẽo đẽo theo sau nghĩ
thầm: Cái tiểu mộc đỉnh đó thật là kỳ quái, nhưng chắc hẳn là vì đốt
hương liệu mà dụ được con rết đó chui vào. Không biết con rết đó có cái
gì vui mà cô nương lại lận đận vào tận trong sơn cốc để bắt nó?.
A Tử về đến Đoan Phúc Cung sai thị vệ dọn một cái phòng nhỏ ở
bên cạnh làm nơi ở cho Du Thản Chi. Du Thản Chi mừng quá, biết rằng
rồi đây mình sẽ được gặp A Tử luôn. Quả nhiên sáng hôm sau, A Tử đã
sai gọi Du Thản Chi đến, dẫn y vào bên cạnh điện, tự tay đóng cửa, trong
điện chỉ còn hai người. A Tử sang phía tây lấy một chiếc hũ bằng sành,
mở nắp ra cười nói:
- Ngươi xem này, coi có hùng tráng không?
Du Thản Chi thò đầu vào nhìn, thấy chính là con rết bắt được hôm
qua đang chạy lăng quăng trong đó. A Tử lấy ra một con gà trống đã để
san bên cạnh, rút đoản đao chặt đứt mỏ và cựa, vứt vào trong hũ. Con rết
kia liền nhảy lên đầu con gà cắn cổ hút máu, chẳng bao lâu con gà trúng
độc chết liền. Mình con rết từ từ căng lên, cái đầu màu đỏ tưởng như
muốn bật máu ra. A Tử vẻ mặt đầy vui sướng nói nhỏ:
- Thành rồi! Thành rồi! Môn công phu này có thể luyện thành công
được rồi!
Du Thản Chi nghĩ thầm: Thì ra cô đi bắt rết là để luyện một môn
công phu. Công phu đó chắc tên là Ngô Công Công. Cứ như thế nàng
nuôi nó bảy ngày, mỗi ngày cho con rết hút máu một con gà trống lớn.
Đến ngày thứ tám, A Tử lại gọi Du Thản Chi vào trong điện, cười hì hì
hỏi:
- Hề Sắt, ta đối với ngươi thế nào?
Du Thản Chi đáp:
- Cô nương đối đãi tiểu nhân ơn nặng tày non.
A Tử hỏi thêm:
- Ngươi từng bảo sẽ vì ta tan xương nát thịt, nhảy vào nước sôi,
xông vào lửa bỏng cũng không từ, cái đó thực hay giả thế?
Du Thản Chi đáp:
- Tiểu nhân chẳng dám nói láo cô nương. Cô nương sai bảo chuyện
gì tiểu nhân nhất định không từ chối.
A Tử nói:
- Thế thì hay lắm. Để ta nói cho ngươi hay, ta muốn luyện một môn
công phu nhưng phải có người giúp mới xong được. Ngươi có bằng lòng
giúp ta luyện công không? Nếu như luyện thành rồi, ta thể nào cũng
trọng thưởng cho ngươi.
Du Thản Chi đáp:
- Tiểu nhân đương nhiên nghe cô nương bảo gì làm nấy, chẳng cần
phải thưởng.
A Tử nói:
- Thế thì hay lắm, mình luyện công được rồi.
Nàng ngồi xuống xếp bằng, hai tay xoa vào nhau, nhắm mắt vận khí,
một hồi sau mới nói:
- Ngươi thò tay vào trong hũ, con rết đó thể nào cũng cắn ngươi,
ngươi giá nào cũng không được động đậy, phải để cho nó hút máu, càng
nhiều càng tốt.
Bảy ngày qua ngày nào Du Thản Chi cũng thấy con rết đó hút máu
gà, chỉ giây lát, một con gà trống đang khỏe mạnh đã ngã ra chết ngay,
đủ biết con rết này độc kinh khủng, nghe A Tử bảo thế, không khỏi ngần
ngừ không trả lời. A Tử mặt sầm xuống hỏi lại:
- Chờ gì nữa? Ngươi không muốn làm hay sao?
Du Thản Chi đáp:
- Không phải không muốn, có điều ... có điều ...
A Tử ngắt ngang:
- Cái gì? Có điều con rết này độc tính lợi hại, ngươi sợ chết chứ gì?
Ngươi là người hay ngươi là gà trống?
Du Thản Chi đáp:
- Tiểu nhân không phải là gà trống.
A Tử nói:
- Đúng thế, gà trống bị rết hút máu thì chết, ngươi không phải là
gà, sao lại chết được? Ngươi bảo san lòng vì ta nhảy vào nước sôi, xông
vào lửa bỏng, tan xương nát thịt, vậy mới để rết hút có một chút máu thì
đã gọi là tan xương nát thịt hay chưa?
Du Thản Chi ứ họng không trả lời được, ngẩng đầu nhìn A Tử, thấy
nàng khóe miệng hơi trĩu xuống ra chiều khinh miệt, lập tức ý loạn tình
mê như bị ma nhập liền khẳng khái đáp:
- Được, tiểu nhân nghe lời sai bảo của cô nương.
Y nghiến chặt hàm răng, nhắm mắt lại, tay phải chầm chậm thò vào
trong cái chóe. Bàn tay y vừa lọt vào trong hũ, đầu ngón tay giữa liền bị
đau nhói như kim chích khiến y nhịn không nổi rụt tay lại. A Tử kêu lên:
- Giữ yên đó! Không được động đậy!
Du Thản Chi cố gắng chịu đựng, mở mắt ra, thấy con rết kia đang
cắn đầu ngón tay giữa của mình hút máu. Du Thản Chi toàn thân nổi gai
ốc, chỉ muốn kéo tay ra vẩy cho con rết rơi xuống lấy chân đạp cho chết.
Thế nhưng tuy y không quay đầu lại cũng biết đôi mắt sắc như dao của A
Tử đang nhìn sau lưng mình, chẳng khác gì hai lưỡi kiếm đâm tới thì làm
sao dám cử động?
Cũng may khi con rết hút máu không đau lắm chỉ thấy con vật từ từ
phồng lên, còn đầu ngón tay giữa của Du Thản Chi thì mờ mờ phủ một
lớp màu tím thẫm. Màu tím đó từ nhạt chuyển sang đậm, rồi từ từ biến
thành màu đen, một lát sau, từ ngón tay lan sang bàn tay, rồi chạy lên
cánh tay.
Du Thản Chi lúc này không còn coi sống chết vào đâu, ngược lại còn
thản nhiên như không, mép nở một nụ cười, có điều nụ cười đó dấu sau
tấm mặt nạ thép nên A Tử không nhìn thấy được.
A Tử hai mắt đăm đăm nhìn con rết, hết sức chăm chú không dám
sao nhãng chút nào. Sau cùng con rết nhả tay Du Thản Chi ra, nằm bất
động dưới đáy hũ. A Tử kêu lên:
- Ngươi nhè nhẹ bắt con rết bỏ vào mộc đỉnh cho ta, cẩn thận đó,
đừng làm nó tổn thương.
Du Thản Chi y lời nhặt con rết lên, bỏ vào trong chiếc tiểu mộc đỉnh
để ở trước cẩm đôn. A Tử liền đóng nắp lại, chỉ trong giây lát, từ trong
chiếc lỗ có những giọt máu đen nhỏ ra. A Tử vẻ mặt vui mừng, vội đưa
tay hứng máu đó, ngồi xếp bằng vận công, hút những giọt máu độc đó
vào trong lòng bàn tay. Du Thản Chi nghĩ thầm: Đây là huyết dịch của
ta, bây giờ đi vào trong người nàng. Thì ra cô nương đang luyện Ngô
Công độc chưởng.
Một lúc lâu sau, máu đen từ chiếc đỉnh đã chảy ra hết, A Tử mở nắp
ra thấy con rết kia đã chết rồi. A Tử hai tay xoa vào nhau, nhìn lại bàn
tay thấy chẳng khác gì bạch ngọc không một tì vết, cũng không có vết
máu, biết rằng phương pháp luyện công nàng nghe lóm được của sư phụ
không sai chút nào, trong bụng sung sướng, bưng chiếc một đỉnh lên, trút
con rết ra rồi hấp tấp ra khỏi điện, chẳng thèm nhìn nhõi gì đến Du Thản
Chi, coi y không khác gì con rết chết, không còn dùng vào việc gì được
nữa.
Du Thản Chi nhìn theo sau lưng A Tử cho tới khi nàng đi khuất, lúc
ấy mới cởi áo ra xem thấy sắc đen đã lan lên tới nách, đồng thời cả cánh
tay ngứa ngáy khó chịu, chỉ giây lát đã tưởng chừng như có muôn ngàn
con rận cùng cắn một lượt.
Y kêu rầm lên, nhảy choi choi, đưa tay gãi, nhưng càng gãi thì càng
ngứa, tưởng như từ trong xương tủy, phế phủ đều có sâu bọ chui vào, ngo
ngoe ngọ ngoạy khắp nơi. Đau thì có thể chịu đựng nhưng ngứa lại thật
khó mà nín nhịn. Y nhảy lên nhảy xuống, vừa nhảy vừa kêu, lấy chiếc
đầu sắt húc mạnh vào tường, nghe kêu boong boong, chỉ mong mình ngất
đi, mất hết tri giác, để khỏi phải chịu cái cơn ngứa ngáy kinh khủng này.
Đập đầu thêm mấy cái nữa, nghe cạch một tiếng, cái gói bằng vải
dầu từ trong bọc rơi ra, lộ ra một cuốn sách bìa đã vàng, chính là bản kinh
thư bằng tiếng Phạn hôm nọ y nhặt được. Lúc này trong cơn ngứa ngáy
kịch liệt, y cũng chẳng nghĩ tới chuyện nhặt lên làm gì, chỉ thấy cuốn
sách mở tung. Du Thản Chi toàn thân khó chịu, lăn lộn dưới đất vùng vẫy
như con cá mắc lưới. Một lúc sau, y chỉ còn nằm gục một chỗ thở hồng
hộc, nước mắt, nước mũi, nước dãi từ các chỗ hổng trên chiếc lồng sắt
chảy ra, rơi cả xuống cuốn kinh chữ Phạn.
Trong cơn mơ màng, y thiếp đi không biết bao lâu, cuốn sách dính
đầy dãi nhớt, không hiểu vì sao bỗng từ trên những hàng chữ cong cong
quẹo quẹo, hiện ra hình của một nhà sư. Tăng nhân đó tư thức cực kỳ
quái dị, đầu cúi xuống chui qua háng thò ra ngoài, hay tay đưa xuống nắm
hai cổ chân.
Y nào còn tâm trí đâu mà xem hình thế cổ quái trong sách, chỉ thấy
người ngứa ngáy tưởng chừng thở không nổi, đành lăn ra đất, cào gãi lung
tung, xé vụn quần áo đang mặc trên người để cọ da thịt lên nền đá cho đỡ
ngứa, chỉ chốc lát da dẻ đã rướm máu. Y lăn qua lộn lại ma sát như thế,
đột nhiên vô ý sao, đầu chui tọt vào giữa hai bắp đùi. Đầu y có mang cái
rọ sắt, trong cơn gấp gáp không rút lại được, giơ tay tính đẩy trở ra, tay
phải quều quào sao nắm ngay cổ chân.
Đến lúc đó Du Thản Chi đã mệt ngất ngư chẳng còn hơi sức gì nữa,
không thể động đậy, chỉ đành nghỉ một chốc thở vài hơi, vô tình sao nhìn
thấy cuốn sách mở dưới đất, trong sách vẽ hình một nhà sư gầy gò, tư
thức cũng na ná như y đang làm, trong bụng vừa kinh dị lại cảm thấy tức
cười. Kỳ quái làm sao, y theo tư thức này, tuy thân thể vẫn còn ngứa ngáy
như cũ nhưng hơi thở đã dễ dàng hơn, thành thử cũng không vội chui đầu
ra khỏi háng, mà đành nằm phục dưới đất như hình vẽ, tay trái cũng đưa
ra nắm luôn cổ chân phải, cằm chống xuống đất. Thế là y và đồ hình của
nhà sư trong sách hoàn toàn giống nhau, hơi thở lúc này đã dễ dàng hơn
nhiều.
Y nằm phục như thế, đôi mắt để gần ngay cuốn sách, nhìn vào tăng
nhân thấy ở bên cạnh nhà sư có hai chữ màu vàng cực lớn, hình dáng
quái lạ cong cong quẹo quẹo, nhưng trong nét bút lại có vô số những mũi
tên đỏ nhỏ xíu bắn ra. Du Thản Chi lúc này đang nằm gục xuống hết sức
mỏi mệt nên buông tay ra đứng lên. Y vừa đứng dậy, lập tức lại ngứa đến
ngạt thở, vội vàng lại cúi xuống chui đầu vào giữa hai đùi, hay tay nắm
cổ chân, cằm chống xuống đất. Chỉ có tư thế cổ quái đó y mới lại thấy dễ
chịu mà thôi.
Du Thản Chi không dám động đậy gì nữa, một lúc sau không có việc
gì làm, đưa mắt nhìn nhà sư vẽ trên sách rồi nhìn qua hai chữ quái dị ở
bên cạnh đồ hình. Y xem những mũi tên trên hai chữ đó, tự nhiên đưa
mắt theo những đầu mũi tên quan sát nét bút, bỗng thấy những chỗ ngứa
trên tay phải biến thành một luồng khí ấm, từ cổ họng chạy xuống ngực
bụng, chạy quanh vài vòng theo hai vai lên đỉnh đầu rồi chầm chậm biến
mất.
Y thử nhìn vào đầu mũi tên trên hai chữ quái dị vài bận, lần nào
cũng có một luồng khí ấm chạy lên trên óc, còn cánh tay thì lại bớt ngứa
đi một chút. Du Thản Chi kinh ngạc nhưng chẳng hơi đâu nghĩ đến
nguyên nhân vì sao, cứ theo thế mà làm đến hơn ba chục lần thì cánh tay
chỉ còn hơi ngứa, làm thêm mươi lần nữa, ngón tay, lòng bàn tay, cánh
tay không chỗ nào còn cảm giác gì khác lạ.
Y rút đầu ra khỏi hai đùi, giơ tay xem, hắc khí trên bàn tay đã hoàn
toàn biến mất, y vui mừng khôn xiết đột nhiên kinh hoảng kêu lên:
- Chết rồi, không xong. Chất kịch độc của con rết đều chạy lên óc
cả rồi.
Thế nhưng lúc đó cơn ngứa quái lạ kia đã hết, y nghĩ thầm nếu sau
này có chuyện gì thì cũng không đến nỗi nào. Du Thản Chi tự hỏi: Cuốn
sách này rõ ràng nào có hình vẽ gì đâu, sao tự nhiên lại có một hòa
thượng cổ quái hiện ra? Ta chỉ vô ý sao lại thành tư thế giống hệt như nhà
sư này? Nhà sư này hẳn là bồ tát đến cứu mạng ta đây. Y bèn quì xuống
đất, cung kính khấu đầu trước vị quái tăng trong quyển sách, chiếc lồng
sắt gõ xuống đất kêu boong boong.
Y nào có biết hình trong quyển sách vẽ bằng một chất thảo dược pha
với nước, khi ướt thì hiện ra, còn khô thì biến mất, thành thử cả A Châu
lẫn Tiêu Phong đều không nhìn thấy. Thực ra tuyến lộ luyện công của
hình vẽ trong quyển sách đều có chú thích rõ ràng ở bên cạnh, những nhà
sư Thiếu Lâm thời trước biết chữ Phạn tuy không biết bí mật của đồ hình
vẫn theo đúng lời chỉ bằng chữ luyện thành Dịch Cân Kinh thần công. Du
Thản Chi khi bị cơn ngứa kỳ quái không chịu nổi kia, nước mắt ràn rụa
rơi xuống trang sách nên làm hình vẽ hiện ra. Đây là một môn diệu pháp
trong việc hóa giải ma đầu từ bên ngoài xâm nhập, là bí thuật trong phép
Du Già6 của Thiên Trúc thời cổ.
Y đột nhiên làm được tư thức đó cũng chẳng phải ngẫu nhiên xảo
hợp mà ăn nhanh thì nghẹn, ăn quá thì ói. Trong khi y bị ngứa quá đỗi,
đầu chúi xuống đất cũng là tự nhiên không có gì lạ, có điều nước mắt y
chảy vào đúng quyển sách thì cái đó mới thật khéo làm sao. Y ngơ ngẩn
một hồi, mệt mỏi quá lăn ra đất ngủ thiếp đi.
Sáng sớm hôm sau khi y còn chưa trở dậy, A Tử hấp tấp đi vào trong
điện thấy y trần truồng nằm đó, kêu lên một tiếng hỏi:
- Sao ngươi còn chưa chết?
Du Thản Chi kinh hãi ấp úng:
- Vì ... tiểu nhân ... tiểu nhân còn sống.
Y trong lòng chua xót: Thì ra cô nương mong ta chết cho rồi. A Tử
nói:
- Ngươi chưa chết thì càng hay. Mau đi kiếm quần áo mặc vào theo
ta đi bắt độc trùng lần nữa.
Du Thản Chi đáp:
- Vâng!
Đợi cho A Tử đi ra khỏi điện, y mới đi kiếm mấy tên lính Khất Đan
hỏi xin quần áo. Binh sĩ Khất Đan thấy quận chúa có vẻ tử tế với y hơn
một chút liền đi kiếm một bộ quần áo khô sạch cho y mặc.
A Tử dẫn Du Thản Chi đến một nơi hoang dã, lại dùng Thần Mộc
Vương Đỉnh để bắt độc trùng, dùng máu gà để nuôi, sau đó lại cho hút
máu Du Thản Chi rồi dùng để luyện công. Lần thứ hai là một con nhện
màu xanh, lần thứ ba là một con bò cạp lớn. Du Thản Chi lần nào cũng
theo đúng đồ hình trong quyển sách hóa giải chất độc.
Năm xưa A Tử nhìn trộm sư phụ luyện thần công, lần nào cũng thấy
có người chết, đều là dân chúng trong vùng bị đệ tử bản môn theo lệnh sư
phụ đi bắt về, nên tưởng Du Thản Chi trúng độc thể nào cũng chết, ngờ
đâu thấy y vẫn bình thường, không khỏi lấy làm lạ.
Cứ như thế liên tiếp bắt độc trùng luyện công, ba tháng sau, chung
quanh thành Nam Kinh trong vòng hơn mười dặm độc vật càng lúc càng
hiếm, những con bị hương khí dụ được toàn là con nhỏ bé yếu đuối,
không vừa ý A Tử chút nào. Hai người đi bắt độc trùng càng lúc càng
phải đi xa hơn.
Hôm đó họ đi về hướng tây thành Nam Kinh hơn ba chục dặm, A Tử
đốt hương trong mộc đỉnh rồi, chờ đến hơn một giờ, mới nghe tiếng sột
soạt trong cỏ, xem ra có rắn rết gì đây. A Tử kêu lên:
- Nằm xuống!
Du Thản Chi y lời nằm mọp xuống, thấy tiếng động càng lúc càng
lớn, xem ra không phải bình thường. Tiếng động lạ đó kèm theo một mùi
tanh hôi khiến người ta muốn mửa. Du Thản Chi nín hơi không cử động,
thấy đám cỏ cao rẽ ra, một con đại mãng xà7 mình trắng vằn đen lượn
mình bò tới. Đầu con trăn hình tam giác, trên mọc một cục bướu sần sùi.
Phương bắc rắn rết vốn không nhiều, con mãng xà này hình dáng lạ lùng
như thế xưa nay chưa từng thấy.
Con rắn bò đến bên cạnh chiếc đỉnh, trườn quanh. Mãng xà dài đến
hai trượng, to bằng bắp tay, làm sao chui vào trong đỉnh được? Thế nhưng
nó ngửi thấy mùi hương liệu cùng mùi chiếc đỉnh nên không ngớt đưa cái
đầu to lớn húc vào.
A Tử có ngờ đâu lần này lại dụ được một con vật to đến thế, hết sức
kinh hãi, nhất thời không biết phải làm sao, rón rén bò đến bên cạnh Du
Thản Chi nói nhỏ:
- Làm sao đây? Nếu như con trăn làm vỡ mất chiếc đỉnh thì thật hỡi
ôi!
Du Thản Chi nghe nàng ăn nói dịu dàng như thế quả không ngờ tới,
tự nhiên hăng máu lên nói cứng:
- Cô nương chớ lo, để tôi ra đuổi con rắn đi.
Y bèn đứng lên, hùng dũng đi ra chỗ con trăn. Con mãng xà nghe
thấy có tiếng động, lập tức nằm cuộn lại, vươn cao đầu, le chiếc lưỡi đỏ
chót, phát tiếng sì sì, thủ thế mổ ra. Du Thản Chi thấy nó hung dữ như
thế, chột dạ không dám tiến tới nữa.
Ngay lúc đó, bỗng có một trận gió lạnh thổi qua, từ phía tây bắc có
một đường lửa cháy thẳng tới, chỉ giây lát đã tới ngay trước mặt. Đốm
sáng đó chạy tới nơi, nhìn rõ hơn thì ra không phải là một vệt lửa, mà là
trong đám cỏ có một con gì đó chạy tới, cỏ xanh gặp phải lập tức sém
vàng, đồng thời hàn khí càng lúc càng nhiều.
Y lùi lại mấy bước, thấy đường sém vàng đó chạy tới chiếc đỉnh, hóa
ra là một con tằm. Con tằm đó trắng tinh như ngọc, hơi ẩn sắc xanh, so
với tằm thường phải to gấp đôi, lại dài như một con giun, thân hình sáng
bóng như thủy tinh. Con mãng xà vốn dĩ thật hung tợn, lúc này lại xem
chừng sợ đến mất vía, rút đầu chui vào dưới thân.
Con tằm trong như thủy tinh kia nhanh nhẹn dị thường bò thẳng một
mạch lên người con trăn, chẳng khác gì một đường lửa nóng xẻ dọc theo
xương sống con mãng xà, đến đầu thì con rắn đã bị cắt ra làm hai. Con
sâu liền rúc vào túi nọc độc ở hai bên mang con mãng xà hút độc dịch,
chỉ giây lát thân đã căng phồng lên, từ xa nhìn tới thấy giống như một cái
bình trong suốt chứa đầy một thứ nước màu xanh tím.
A Tử vừa mừng vừa sợ, nói nhỏ:
- Con tằm này lợi hại đến thế, xem ra là chúa của các loài độc vật.
Du Thản Chi bụng lại lo thầm: Một con tằm kịch độc như thế này
nếu như hút máu ta thì lần này tính mạng mình chắc không còn. Còn sâu
đó chạy vòng quanh chiếc mộc đỉnh rồi bò lên, chỗ nào nó đi qua, chiếc
đỉnh liền hiện ra một cái ngấn cháy sém. Thế nhưng dường như nó có linh
tính, bò quanh chiếc đỉnh một vòng, biết là nếu chui vào trong đỉnh thì chỉ
còn nước chết nên lại bò xuống chạy về hướng tây bắc.
A Tử vừa cao hứng vừa nóng ruột, kêu lên:
- Đuổi theo ngay! Đuổi theo!
Cô ta lấy vuông gấm bọc cái đỉnh lại rồi chạy đuổi theo con sâu. Du
Thản Chi theo sát đằng sau, cứ theo đường lửa cháy sém mà đuổi. Con
tằm đó tuy nhỏ bé như thế nhưng bò nhanh như gió, chỉ nháy mắt đã xa
đến mấy trượng, cũng may nó đi đến đâu đều để lại một cái ngấn nên
không mất dấu.
Hai người chỉ một thoáng đã đuổi đến ba bốn dặm, nghe phía trước
có tiếng nước chảy róc rách đến bên một dòng suối. Vết cháy sém đến
suối liền biến mất, nhìn qua bờ bên kia không thấy ngấn bò của con tằm
đâu, hiển nhiên con vật đã chui xuống nước trôi đi rồi. A Tử dậm chân
than thở:
- Ngươi đuổi chậm quá, bây giờ biết đi đâu mà tìm? Ta không biết,
ngươi phải tìm cách bắt nó đem về cho ta.
Du Thản Chi trong lòng lo lắng, nhìn ngang nhìn ngửa nhưng nào có
thấy bóng dáng nó đâu? Hai người tìm kiếm một hồi lâu, trời đã sâm sẩm
tối, A Tử cảm thấy mỏi mệt, lại không kiên tâm, giận dữ nói:
- Bằng giá nào ngươi cũng phải bắt nó đem về cho ta, nếu không
thì đừng gặp ta nữa.
Nói xong nàng quay trở về đường cũ một mình về thành. Du Thản
Chi thấp thỏm đành men theo bờ suối đi xuôi xuống hạ lưu, tìm kiếm đến
bảy tám dặm, trong ánh sáng lờ mờ bỗng thấy bờ trên mặt cỏ bên kia lại
có dấu cháy sém. Du Thản Chi mừng quá, mở miệng gọi to:
- Cô nương! Cô nương! Tôi tìm thấy rồi!
Thế nhưng A Tử đã đi thật xa. Du Thản Chi lội nước đi qua, lần theo
vết cháy khô. Chỉ thấy đường sém đó chạy thẳng đến một thung lũng ở
phía trước. Y ráng sức đuổi tới mãi tận cuối thì ra là một tòa cổ miếu kiến
trúc hùng vĩ, rảo bước đến gần thấy biển ngạch trên đề năm chữ Sắc
Kiến Mẫn Trung Tự thật lớn. Du Thản Chi không có thì giờ đâu mà xem
xét miếu này ra thế nào, chỉ tiếp tục đi theo đường ngấn cháy. Vết cháy
sém đó vòng quanh một bên miếu, chạy ra phía sau. Chỉ nghe thấy tiếng
chuông, tiếng mõ, tiếng tụng kinh ở trong chùa vang lên từng chập, tiếng
này dứt tiếng kia nổi lên, quần tăng chính đang vào giờ công khóa.
Y đầu đội lồng sắt, tự xấu hổ mình hình dạng không ra gì, sợ người
trong chùa nhìn thấy, nên chỉ men theo tường mà lần đi, thấy vết cháy
vượt qua một khu đất lầy lội, chạy vào một vườn rau.
Y trong lòng thật vui mừng, chắc mẩm hẳn không có người, chỉ có
con tằm ăn rau mà thôi thì thể nào cũng bắt được nó. Y đi đến bên hàng
rào nghe văng vẳng bên trong vườn rau ai đó đang lớn tiếng chửi mắng
vội vàng đứng lại. Chỉ nghe người kia nói:
- Ngươi cớ sao không biết giữ qui củ, một mình dám đi ra ngoài
chơi khiến cho ông phải lo lắng cả buổi, chỉ sợ mày đi mất không quay
về. Ông đường sá xa xăm mang mày từ đỉnh núi Côn Lôn tới đây, vậy mà
mày chẳng biết phải quấy, không hiểu được rằng lão tử chăm lo cho mày
biết là dường nào. Cứ cái ngữ này, đời mày còn ra thế nào nữa, mai sau
chắc chẳng làm nên trò trống gì, không ai thương đâu con ạ!
Ngữ khí người kia đầy vẻ phẫn nộ nhưng lại có ẩn chút lòng thương
xót kỳ vọng, tưởng chừng như lời của phụ huynh dạy dỗ con cái. Du Thản
Chi nghĩ thầm: Y nói gì mà từ đỉnh núi Côn Lôn xa xôi diệu vợi đem
đến đây, xem chừng chắc là sư phụ hay trưởng bối chứ không phải phụ
thân. Y rón rén đến sát bờ giậu, thấy người đang nói kia là một nhà sư.
Nhà sư đó thật là mập mạp, thân hình lại lùn xủn, trông chẳng khác gì
một trái cầu thịt thật lớn, tay chỉ xuống đất, mồm thì rủa sả liên hồi. Du
Thản Chi theo tay y nhìn xuống, vừa mừng vừa lo, hòa thượng mập kia
đang mắng chửi chính là một con sâu lớn sáng lấp lánh.
Hình dáng nhà sư lùn mập kia kỳ dị thì đã đành nhưng cái lối chửi sa
sả con tằm kia lại còn lạ lùng hơn. Con sâu chạy loăng quăng dưới đất
cực kỳ nhanh nhẹn, tưởng chừng như toan đào tẩu. Có điều dường như nó
chạm phải một bức tường vô hình nào đó nên lại quay đầu qua hướng
khác. Du Thản Chi cố gắng nhìn kỹ hơn, thấy dưới đất có vẽ một cái
vòng màu vàng, con tằm tả xung hữu đột nhưng vẫn không sao qua khỏi
được cái vòng đó, lập tức hiểu ra: Cái vòng đó dùng một loại thuốc vẽ
thành, dược vật hẳn là khắc tinh của con sâu.
Gã hòa thượng lùn mập chửi một hồi xong, lôi trong bọc ra một vật
gì đó, đưa lên miệng ăn nhồm nhoàm, hóa ra một cái đầu dê đã luộc chín,
xem chừng ngon lành lắm. Y lại lấy từ trên cột xuống một cái hồ lô, mở
nắp ra, ngửa cổ lên, ọc ọc uống một mạch. Du Thản Chi ngửi thấy tửu
hương, biết là quả bầu đó đựng đầy rượu nghĩ thầm: Hóa ra đây là một
nhà sư hổ mang. Xem ra con tằm này là của y nuôi, được y cưng chiều
lắm lắm. Làm cách nào ăn trộm được đây?.
Còn đang nghĩ ngợi bỗng nghe từ phía bên kia vườn rau có tiếng
người gọi:
- Tuệ Tịnh! Tuệ Tịnh!
Gã sư lùn mập nghe thế giật mình hoảng hốt, vội vàng đem cái đầu
dê và bầu rượu dấu vào trong bụi cỏ. Lại nghe người kia giục giã:
- Tuệ Tịnh! Tuệ Tịnh! Sao ngươi không tụng kinh chiều, trốn ở đây
làm gì?
Nhà sư lùn mập vội vàng vớ ngay cái cuốc dưới chân, bổ hùng hục
lên luống rau đáp:
- Đệ tử ở đây đang cuốc rau.
Người đi đến là một hòa thượng trung niên, khinh khỉnh nói:
- Kinh sớm kinh chiều, ai ai cũng phải dự. Sao lúc khác không
trồng rau, đến lúc đọc kinh chiều thì lại giở giói ra cuốc đất? Mau lên!
Mau lên! Bao giờ tụng kinh chiều xong, trở lại cuốc cũng vừa. Ở chùa
Mẫn Trung chấp tác thì phải theo qui củ của chùa Mẫn Trung, không lẽ
chùa Thiếu Lâm nhà ngươi không có miếu qui gia pháp gì hay sao?
Nhà sư lùn mập tên Tuệ Tịnh vội đáp:
- Vâng!
Y bỏ cuốc xuống, lật đật đi theo, không dám quay đầu lại nhìn con
tằm, xem chừng sợ nhà sư trung niên phát giác. Du Thản Chi nghĩ thầm:
Gã sư lùn mập này vốn ở chùa Thiếu Lâm. Sư chùa Thiếu Lâm ai ai
cũng biết võ công, mình ăn cắp con tằm của hắn thì phải thật cẩn thận
mới được!.
Y đợi cho hai người đi xa, nghe ngóng chung quanh không có gì, vội
vàng chui qua hàng rào, thấy con tằm vẫn chạy loanh quanh trong cái
vòng màu vàng, tự hỏi: Làm sao bắt được nó đây?. Y suy nghĩ một hồi
tìm ra một cách, lấy trong bụi cỏ cái bầu rượu ra, lắc lắc thử mấy cái, còn
chừng nửa bình bèn uống luôn mấy ngụm, còn bao nhiêu đổ vào luống
rau, đưa cái miệng hồ lô đến gần cái vòng màu vàng. Miệng bầu rượu
vừa lọt vào trong vòng tròn, chỉ nghe tách một tiếng, con tằm đã chui tọt
vào trong hồ lô. Du Thản Chi mừng quá, vội vàng lấy cái nắp gỗ đóng
chặt lại, hai tay bưng bầu rượu, chui qua hàng rào, ba chân bốn cẳng chạy
về đường cũ.
Ra khỏi chùa Mẫn Trung chừng vài chục trượng bỗng thấy chiếc hồ
lô lạnh một cách khác thường, xem ra còn hơn cả một khối băng, Du
Thản Chi đưa cái bầu rượu từ tay trái sang tay phải, rồi lại từ tay phải đưa
qua tay trái nhưng vẫn lạnh thấu xương không sao chịu nổi. Y không còn
cách gì khác hơn bèn để hồ lô đội lên đầu nhưng lại càng khó chịu, khí
lạnh truyền qua chiếc lồng sắt chui vào trong óc khiến y chịu không nổi,
tưởng như huyết dịch toàn thân đã đóng thành băng. Tình cấp trí sinh, y
liền cởi dây lưng buộc vào chỗ thắt trên hồ lô xách trên tay. Dây lưng
không truyền hơi lạnh nên y cầm được, thế nhưng khí lạnh từ trong cái
bầu tỏa ra, chỉ trong giây lát bên ngoài hồ lô đã bao phủ một tầng sương
mỏng.
Hồi 29(a)
TRÙNG NGÃI NGƯNG HÀN CHƯỞNG TÁC BĂNG
Ngoài điện nắng hè dường đổ lửa,
Trong nhà lạnh buốt nước thành băng.
Trùng lạ xem chừng chưa đáng sợ,
Dẫu độc sao bằng dạ sói lang.
*
* *
Du Thản Chi xách chiếc hồ lô, rảo bước đi về thành Nam Kinh, bẩm
lại cho A Tử là đã bắt được con băng tàm. A Tử mừng lắm vội vàng bảo y
bỏ con tằm vào trong chiếc hũ sành để nuôi. Lúc đó đang vào tháng bảy,
giữa mùa hè trời nóng gắt ngờ đâu vừa nuôi con băng tàm ở điện phụ, lập
tức trong nhà càng lúc càng lạnh, chẳng bao lâu nước trong bình trà chén
trà cũng kết thành băng.
Đêm hôm đó, Du Thản Chi nằm trong chăn mà run lẩy bẩy, không
sao ngủ được, nghĩ thầm: Con tằm này thật lạ trên đời ít có. Nếu như cô
nương đem nó hút máu mình thì dù không chết vì chất độc, cũng lạnh
cóng mà chết.
A Tử liên tiếp bắt mấy con rắn độc, trùng độc đem đến đấu với nó,
đều bị con băng tàm chạy quanh vài vòng là đông cứng chết ngay để cho
nó hút hết trấp dịch. Đến hơn mười ngày, không giống độc trùng nào
đương cự nổi.
Hôm đó A Tử đến điện phụ nói:
- Hề Sắt, hôm nay mình phải giết con băng tàm, ngươi thò tay vào
trong hũ để cho con tằm hút máu.
Du Thản Chi những ngày qua lúc nào cũng lo ngay ngáy, đêm trằn
trọc sợ cái giờ phút này, quả nhiên cô nương chẳng chút dung tình, rồi
cũng bắt y và con băng tàm cùng hi sinh, trong lòng buồn bã, quay sang
nhìn A Tử một lát không nói năng, không cử động. Về phần A Tử nàng
chỉ nghĩ: Ta vô tình được bảo vật hiếm có này, độc chưởng công phu khi
luyện thành rồi e rằng so với sư phụ còn ghê gớm hơn. Nàng liền giục:
- Ngươi thò tay vào hũ đi thôi.
Nước mắt Du Thản Chi nhỏ ròng ròng, quì xuống khấu đầu nói:
- Cô nương luyện thành độc chưởng rồi, đừng quên tiểu nhân vì cô
nương mà phải chết. Tôi họ Du, tên Thản Chi chứ không phải là Hề Sắt.
A Tử mỉm cười nói:
- Được, tên ngươi là Du Thản Chi, ta nhớ rồi. Ngươi trung thành với
ta, tốt lắm, đúng là một đứa đầy tớ hết lòng với chủ.
Du Thản Chi được nàng khen ngợi mấy câu như thế, cảm thấy hết sức
an ủi, lại khấu đầu thêm hai lần nữa nói:
- Đa tạ cô nương!
Thế nhưng y vẫn không muốn bó tay chịu chết bèn rùn người, vòng
xuống chui đầu qua hai đùi, tay trái nắm cổ chân, tay phải thò vào trong
hũ, trong đầu nghĩ đến những mũi tên nhỏ ở hai chữ quái dị bên cạnh nhà
sư khỏa thể trong cuốn sách. Đột nhiên đầu ngón tay trỏ hơi ngứa, một
làn khí lạnh như băng chạy thẳng lên như tên bắn, theo cánh tay vào
trong ngực. Du Thản Chi trong đầu chỉ nhớ đến hướng của mũi tên, luồng
hàn khí kia đi đúng theo những kinh mạch y đang nghĩ tới, từ ngón tay lên
cánh tay rồi từ ngực chạy lên đỉnh đầu, sợi dây nhỏ đó đi đến đâu tỏa hơi
lạnh buốt thấu xương.
A Tử thấy tư thế cổ quái của Du Thản Chi thật tức cười, qua một lúc
sau, thấy y đứng lộn tùng phèo như thế, không khỏi ngạc nhiên, đến gần
xem thấy con băng tàm vẫn cắn chặt ngón tay trỏ. Thân con tằm óng ánh
trong suốt như thủy tinh, nhìn kỹ thấy có một dòng máu chạy từ miệng đổ
vào, đi vòng qua phía tả, quấn quanh một vòng, rồi từ bên phải chảy
ngược trở về ngón tay trỏ Du Thản Chi.
Thêm một lúc nữa, trên chiếc đầu sắt, y phục, chân tay Du Thản Chi
đều phủ một làn sương mỏng, A Tử nghĩ thầm: Tên nô tài này chắc là
chết rồi. Người sống trên mình phải có hơi ấm, làm sao kết thành sương
được?. Thế nhưng trong người con băng tàm máu vẫn còn lưu chuyển,
hiển nhiên hút máu chưa xong. Đột nhiên trên mình con tằm có những sợi
nhiệt khí như tơ bốc ra.
A Tử còn đang kinh ngạc thì đã nghe bộp một tiếng, con tằm từ ngón
tay Du Thản Chi rơi xuống đáy hũ, vội dùng cây gậy cầm sẵn trong tay
giã xuống một cái. Nàng vẫn tưởng con tằm bản thể linh dị, một gậy như
thế chưa chắc đã giết được nó, ngờ đâu khi rơi xuống rồi, con vật chỉ nằm
phơi bụng không lật lại nổi, thành thử một gậy của A Tử đã đâm băng
tàm nát ngướu.
A Tử mừng lắm vội vàng thò tay vào hũ, bôi huyết dịch con tằm vào
lòng bàn tay, nhắm mắt hành công, hút hết vào trong người. Nàng cứ xoa
lên hết lần này sang lần khác đến khi không còn tí gì mới thôi.
Hành công lâu như thế trong người mệt mỏi, A Tử ngáp dài một
tiếng, đứng dậy, thấy đầu Du Thản Chi vẫn còn lộn ngược chui giữa hai
đùi, toàn thân trắng xóa, kết đầy băng sương. Nàng hết sức sợ hãi, đưa
tay sờ thử người y thấy lạnh buốt, quần áo đóng băng cứng ngắc. Nàng
vừa lạ lùng vừa tức cười, gọi Thất Lý vào bảo đem Du Thản Chi đi chôn.
Thất Lý liền cùng hai tên lính Khất Đan nữa, vứt xác Du Thản Chi
lên một chiếc xe ngựa, chạy ra khỏi thành. A Tử không dặn y phải chôn
cất cho chu đáo, Thất Lý cũng chẳng phí sức đào một cái huyệt, thấy bên
cạnh đường có một khe nước, liền vứt luôn xuống suối, rồi quay về.
Thế nhưng cũng chính vì Thất Lý làm biếng một chút mà lại cứu được
mạng Du Thản Chi. Thì ra ngón tay y bị băng tàm cắn rồi bèn dùng phép
vận công của Dịch Cân Kinh để hóa giải độc khí, huyết dịch bị con tằm
hút ra lại theo ngón tay quay ngược trở về huyết quản đem bao nhiêu tinh
hoa kịch độc của con băng tàm vào người. A Tử sau đó hút huyết tương
của con tằm chỉ mất công toi chứ không còn hiệu dụng gì cả.
Nếu như Du Thản Chi đã học toàn bộ phép hành công của Dịch Cân
Kinh thì sẽ có thể tiêu giải chất độc của con băng tàm nhưng vì y chỉ mới
học được có một pháp môn, thu vào mà không biết đẩy ra nên chất kỳ
độc đệ nhất âm hàn của con sâu kia đã khiến cho người y bị đông cứng.
Còn như Thất Lý đem y chôn xuống đất thì sẽ thành một cái xác ướp
dù có vài trăm năm sau cũng chưa chắc đã rữa được. Du Thản Chi bị vứt
xuống suối trôi theo dòng, hơn một chục dặm sau gặp chỗ uốn khúc,
vướng vào một đám lau sậy. Chẳng bao lâu, nước chung quanh người y đã
biến thành băng chẳng khác gì một chiếc quan tài thủy tinh. Nước suối
tiếp tục soi mòn, tiêu giải từng chút từng chút hàn khí khiến cho khối
băng bao quanh y dần dần tan hết.
Cũng may đầu Du Thản Chi có cái lồng sắt, kim loại mau nóng mà
cũng mau nguội nên đá trên đầu tan ra trước. Nước suối ọc vào mồm y
khiến Du Thản Chi ho sặc sụa, đầu óc tỉnh táo liền từ dưới khe nước bò
lên, nước đá trên người chạm vào nhau kêu loong coong.
Khi thân thể mới biến thành băng không phải y hoàn toàn không biết
gì cả mà chỉ vì bị kết trong khối băng không cử động được mà thôi. Đến
sau y hôn mê không còn biết gì nữa, bây giờ chết đi sống lại thật không
khác một giấc mộng dài.
Du Thản Chi ngồi trên bờ suối, nghĩ mình đối với A Tử một lòng
trung thành sắt son cam nguyện đem thân nuôi độc trùng để giúp nàng
luyện công, vậy mà khi mình chết đi, A Tử chẳng thèm thở dài lấy một
tiếng. Y từ trong băng nhìn ra thấy A Tử mặt mày hớn hở có được huyết
tương của con băng tàm đem chà vào lòng bàn tay, chỉ nghiêng đầu nhìn
mình, thấy y chết xem chừng thú vị, lại hơi kỳ quái, hoàn toàn chẳng có
chút gì thương xót.
Y lại nghĩ: Băng tàm độc địa như thế, đã từng hút chất độc của hàng
nghìn độc trùng độc xà, cô nương nay hút hết vào trong lòng bàn tay rồi,
độc chưởng chắc đã luyện thành. Nếu như ta quay về... Y đột nhiên run
bắn người lên, nổi gai ốc nghĩ thêm: Cô ta vừa thấy mình thể nào chẳng
đem ra thử độc chưởng. Nếu như đã luyện thành thể nào đánh một cái là
mình chết tươi. Còn như luyện chưa xong, thì lại sai mình đi bắt rắn độc,
trùng độc nữa cho đến bao giờ luyện xong một chưởng đánh chết mình
lúc ấy mới thôi. Hai đằng đằng nào cũng chết, quay về làm gì?.
Du Thản Chi đứng lên, nhảy nhót vài cái rũ hết những mảnh băng
còn bám trên người nghĩ thầm: Bây giờ mình biết đi đâu đây?. Đi tìm
Kiều Phong báo thù cho cha ư, điều đó y nào dám nghĩ đến. Nhất thời y
không biết tính sao, chỉ đành lang thang trong đồng rộng núi hoang, hái
trái dại, bắt chim chóc, thú nhỏ mà ăn. Đến chiều hôm sau, không có việc
gì làm, y bèn mang cuốn Dịch Cân Kinh bằng tiếng Phạn ra định học theo
tư thức của nhà sư trần truồng trong sách.
Cuốn sách đó khi rơi xuống suối đã ướt mèm, đến giờ vẫn chưa khô.
Y cẩn thận giở từng tờ, chỉ sợ rách, thấy trang nào cũng có hình một quái
tăng, tư thức mỗi người một khác. Y suy nghĩ một hồi rồi cũng hiểu ra,
hình trong quyển sách gặp nước thì lộ ra chứ chẳng phải bồ tát hiện thân
cứu mạng gì cả, bèn làm theo tư thức thứ nhất trên trang đầu tiên, lần
theo mũi tên đỏ trên những chữ quái lạ thấy có một sợi chỉ nhỏ thật lạnh
chạy ngang chạy dọc khắp tứ chi và xương cốt, chẳng khác gì con băng
tàm còn sống bò trong cơ thể mình. Y kinh hãi vội vàng đứng lên, lập tức
con tằm lạnh trong người liền biến mất.
Suốt hai giờ sau y chỉ nghĩ đến: Không biết con tằm chui vào người
mình đã chạy đi chưa?. Thế nhưng y không sờ thấy, cũng chẳng mò ra,
không hình không bóng, sau cùng nhịn không nổi lại tập theo tư thức cổ
quái kia rồi nghĩ theo mũi tên đỏ trên hai chữ quái lạ, chẳng bao lâu lại
thấy có một con băng tàm bò trong cơ thể. Y kêu lên một tiếng, vội
ngừng lại không còn dám nghĩ thêm lập tức con tằm biến mất nhưng cứ
vừa nghĩ đến thì nó lại bò ra.
Mỗi lần con tằm bò một vòng, y lại thấy toàn thân thoải mái không
biết đâu mà kể. Trong cuốn sách hình những nhà sư khỏa thể rất nhiều, từ
những chữ lạ lùng kia những mũi tên đỏ cái cong cái thẳng, biến hóa
phức tạp. Y cứ theo những tư thức khác nhau mà gọi con tằm, trong người
khi nóng khi lạnh, mỗi lúc có một lối thư thái riêng.
Cứ như thế luôn mấy tháng trời, tay chân y bắt cầm thú càng lúc càng
linh hoạt, nhảy nhót cũng xa hơn, chạy thêm nhanh nhẹn mà trước kia
không thể nào bì kịp. Một buổi chiều, một con chó sói đói ở đâu đi kiếm
mồi, chồm đến vồ Du Thản Chi. Y kinh hãi, đang định bỏ chạy nhưng con
sói đã giương vuốt ra chộp vào đầu vai, nhe răng nhọn hoắt, định ngoặp
vào cổ họng. Du Thản Chi hết sức kinh hoàng, tiện tay đánh một chưởng
trúng ngay đầu con vật. Con chó sói đó văng ra xa, quằn quại mấy cái rồi
nằm thẳng cẳng. Du Thản Chi quay người chạy ra mấy trượng thấy con
chó sói vẫn nằm đó, trong bụng lạ lùng, nhặt một cục đá ném trúng ngay
thân nhưng con lang vẫn nằm yên. Y vừa mừng vừa sợ, rón rén đến gần
xem hóa ra con chó sói đã chết tự bao giờ.
Y thật không dám nghĩ tới chuyện mình chỉ tiện tay đánh một cái mà
ghê gớm đến thế, giơ tay lên lật qua lật lại xem kỹ, không thấy có gì
khác, nhịn không nổi kêu lên:
- Hồn ma con tằm này thiêng quá!
Y vẫn tưởng con tằm kia chết rồi hồn nó nhập vào người mình nên
mới có tài phép như thế chứ có ngờ đâu đó hoàn toàn do công lực từ Dịch
Cân Kinh, lại thêm băng tàm là vật kịch độc hãn hữu, luồng âm hàn ghê
gớm đó bị y hút vào trong người, chứa vào nội công thượng thừa của Dịch
Cân Kinh nên mỗi khi đánh ra đều có chứa âm kình cực kỳ ghê gớm.
Dịch Cân Kinh là bảo điển chí cao vô thượng trong võ học, có điều
pháp môn tu tập không phải dễ dàng, cần phải phá được cảnh giới ngã
tướng, nhân tướng, trong bụng không còn nghĩ đến chuyện tu tập võ
công. Thế nhưng tăng lữ tập môn thượng thừa này, ai chẳng muốn tinh
tiến thật nhanh, mong cho chóng thành để công phu được ích lợi? Muốn
đến được tâm vô sở trụ1 quả thật là thiên nan vạn nan.
Trong mấy trăm năm qua, các cao tăng chùa Thiếu Lâm tu tập Dịch
Cân Kinh không phải là ít, thế nhưng dụng công năm chày tháng tận, vẫn
không mấy ai đạt được thành thử các nhà sư cho rằng kinh này không linh
hiệu, hôm trước A Châu ăn cắp mất, tăng chúng trong chùa tức giận thật
nhưng cũng không coi là chuyện lớn.
Hơn một trăm năm trước, chùa Thiếu Lâm có một nhà sư, xuất gia từ
thuở bé, tâm trí đần độn, điên điên khùng khùng. Sư phụ ông ta khổ công
tu tập Dịch Cân Kinh không thành, giận quá mà tọa hóa2. Nhà sư điên kia
nhặt được quyển kinh ở bên cạnh di thể của sư phụ, hăm hăm hở hở đem
ra luyện, ngẫu nhiên sao thành một đại cao thủ. Thế nhưng võ công ông
ta tại sao cao cường như thế, đến lúc viên tịch tây qui, cũng vẫn không
sao giải thích được, chẳng một ai biết đó là công phu Dịch Cân Kinh.
Đến bây giờ Du Thản Chi vô tâm luyện công phu này, chỉ tưởng là
gọi con băng tàm trong người bò ra bò vào cho đỡ buồn, có biết đâu ngày
một tiến bộ, chính là theo được con đường của nhà sư khùng hồi trước.
Mấy hôm sau y lại liên tiếp đánh chết thêm mấy con dã thú khác, bấy
giờ mới biết chưởng lực của mình rất mạnh, trong bụng cũng can đảm
thêm được một chút. Du Thản Chi tiếp tục đi về hướng nam, trong bụng
ngay ngáy sợ rằng nếu mình bỏ quên không gọi hồn con băng tàm một
ngày, ma tằm sẽ bỏ đi mất, thành thử ngày nào cũng phải kêu nó ra,
không dám lơ là. Com ma tằm bây giờ cực kỳ linh dị, gọi là ra ngay.
Du Thản Chi đi càng lúc càng xa, hôm đó đã đến địa giới tỉnh Hà
Nam ở trung châu. Y cũng biết cái đầu sắt của mình làm người ta sợ hãi
nên ban ngày chỉ ẩn náu tại những sơn động hoang dã hay rừng sâu, bao
giờ trời tối mới mò ra nhà dân chúng ăn trộm đồ ăn. Lúc này thân thủ y
mẫn tiệp dị thường nên không bao giờ bị người ta phát giác.
Ngày hôm đó y chui vào một chiếc miếu hoang bên vệ đường nằm
ngủ, bỗng nghe thấy tiếng bước chân, có ba người đi vào trong am. Y vội
vàng chui xuống dưới bệ thờ, không dám để cho người ta thấy. Ba người
đó đi vào trong miếu, ngồi xuống đất, lục đục ăn uống, nói năng chuyện
trên giang hồ. Bỗng nhiên một người hỏi:
- Ngươi thử nghĩ Kiều Phong bây giờ trốn ở đâu, sao hơn một năm
nay, không ai nghe thấy tin tức gì của y cả?
Du Thản Chi vừa nghe thấy hai tiếng Kiều Phong liền chột dạ, vội
vàng cố lắng tai nghe. Lại nghe một người khác nói:
- Tên đó tác ác đa đoan bây giờ rụt đầu rụt cổ như con rùa, chắc
không kiếm được y đâu.
Người nói lúc nãy lại tiếp:
- Chưa hẳn thế đâu. Y đợi đúng lúc mới ra tay, một khi người ta lơ là,
lúc ấy mới hạ thủ. Ngươi thử nghĩ mà xem, sau khi đại chiến Tụ Hiền
Trang rồi, y còn giết thêm bao nhiêu người nữa? Từ trưởng lão, vợ chồng
Đàm công, Đàm bà, Triệu Tiền Tôn, toàn gia Thái Sơn Thiết Diện Phán
Quan Đơn lão anh hùng, Trí Quang lão hòa thượng của núi Thiên Thai,
rồi Mã phu nhân của Cái Bang, trưởng lão Bạch Thế Kính, ôi, quả là đếm
không hết.
Du Thản Chi nghe đến đại chiến Tụ Hiền Trang, trong lòng đau xót
nên những gì người đó nói sau không nghe thấy gì cả, một lúc sau mới
nghe một giọng già nua:
- Kiều bang chủ xưa nay đãi người nhân nghĩa, không ngờ... ôi...
không ngờ... quả thật là số kiếp nó làm ra thế. Thôi mình đi.
Nói xong ông ta đứng lên. Người kia nói:
- Này lão Uông, ông bảo bản bang đang bầu tân bang chủ, thế thì
phải cử ai đây?
Người già cả kia đáp:
- Nào ta có biết! Bầu tới bầu lui, đã hơn một năm rồi cũng chưa tìm
ra một anh hùng hảo hán nào được toàn bang bội phục. Thôi, chúng mình
đi xem sao.
Người kia nói:
- Thôi tôi biết bụng ông rồi, chắc ông mong Kiều Phong quay trở lại
làm bang chủ chứ gì? Thôi đừng mơ mộng hão huyền nữa, lỡ chuyện đó
truyền ra đến tai Toàn đà chủ thì ông khó sống đó!
Ông già họ Uông hốt hoảng nói:
- Tiểu Tất, câu đó là ngươi nói chứ ta có bao giờ bảo là mong Kiều
bang chủ trở lại làm bang chủ bản bang đâu?
Tiểu Tất cười khẩy:
- Ông mở miệng ra là Kiều bang chủ này, Kiều bang chủ nọ chẳng
phải bụng mong y về làm bang chủ hay sao?
Lão Uông bực tức đáp:
- Ngươi mà còn nói bậy nói bạ xem ta có đập chết cái đồ chó đẻ như
ngươi không?
Người thứ ba can:
- Thôi được rồi! Mình là chỗ anh em, đừng để mích lòng nhau, đi
nhanh lên không lại trễ. Kiều Phong làm sao làm bang chủ của mình
được? Y là giống Khất Đan chó má, mình gặp y là hai bên nhất định một
sống một chết rồi. Vả lại, ví như mình mời y về làm bang chủ, chắc gì y
đã chịu?
Lão Uông thở dài một tiếng nói:
- Ngươi nói thế phải lắm.
Nói xong cả ba người cùng đi ra khỏi miếu. Du Thản Chi nghĩ thầm:
Cái Bang muốn kiếm Kiều Phong mà kiếm không ra, bọn họ có biết đâu
gã đó đang ở nước Liêu làm Nam Viện Đại Vương, ta phải nói cho họ
biết mới được. Cái Bang người nhiều thế mạnh, lại ước định thêm anh
hùng hảo hán Trung Nguyên may ra có thể giết được tên ác tặc đó. Ta sẽ
theo bọn họ đi giết Kiều Phong. Y nghĩ đến quay lại Nam Kinh sẽ gặp A
Tử, trong ngực lập tức nóng bừng bừng.
Du Thản Chi rón rén từ trong miếu đi ra, thấy ba tên đệ tử Cái Bang
đi đường núi về hướng tây, liền lẳng lặng theo sau. Lúc này trời đã tối
mịt, hoang sơn không một bóng người, đi được vài dặm đến một thung
lũng, nhìn xa xa nơi sơn cốc có một đống lửa. Du Thản Chi nghĩ thầm:
Cái đầu sắt của mình thật quái đản, bọn họ trông thấy thể nào cũng hô
hoán rầm rĩ lên, chi bằng trốn trong bụi cỏ nghe ngóng rồi hãy tính.
Y chui vào trong đám cỏ dày, bò dần đến gần đống lửa. Bò được mấy
trượng, ngừng lại một chút, lại bò tiếp, nghe thấy tiếng người xôn xao,
xem ra người tụ tập chung quanh đám lửa không phải là ít. Du Thản Chi
lâu nay từng chịu biết bao nhiêu hành hạ dày vò nên không dám sơ sẩy
chút nào, bò càng gần càng chậm lại, tới sau một tảng đá cách chừng vài
trượng thì không dám tiến xa hơn nữa nên nằm phục tại đó lắng tai nghe.
Những người chung quanh đống lửa ai nấy đều đứng nói chuyện, Du
Thản Chi nghe một hồi mới biết ra đây là người của Đại Trí phân đà tụ
hội thương nghị về việc đại hội Cái Bang sắp tới sẽ suy cử ai lên làm
bang chủ. Có người chủ trương đề cử Tống trưởng lão, có người lại muốn
Ngô trưởng lão. Một người nói:
- Nói đến trí dũng song toàn thì phải bầu cho Toàn đà chủ của bản
bang, tiếc rằng Toàn đà chủ hôm trước đã bị tên Kiều Phong giả công vi
tư đuổi ra khỏi bang rồi, việc quay trở lại bang chưa ổn thỏa.
Lại một người khác nói:
- Gian mưu của Kiều Phong chính là do Toàn đà chủ đứng ra vạch
trần, Toàn đà chủ lập được đại công cho bản bang, việc trở lại thật dễ
dàng. Một khi đại hội khai mạc, chúng ta trước hết lo việc Toàn đà chủ
qui bang, sau đó mới nói đến công lao khi trước, rồi bầu ông ta lên làm
bang chủ.
Một giọng sang sảng cất lên:
- Việc bản nhân trở lại bang cũng là chuyện thuận lý. Thế nhưng
việc các huynh đệ bầu mỗ lên làm bang chủ thì chưa nên đề cập đến vội,
nếu không người khác lại tưởng huynh đệ vạch trần gian mưu của Kiều
Phong là có ý đồ riêng tư.
Một người khác lớn tiếng nói:
- Toàn đà chủ, nếu gặp việc thì đương nhân bất nhượng3. Ta xem
trong mấy vị trưởng lão của bản bang, võ công tuy cao cường thật nhưng
kể về mưu trí thì không ai bì kịp với ông được. Chúng ta đối phó với tên
gian tặc Kiều Phong, là việc đấu trí chứ không phải đấu sức, Toàn đà
chủ...
Gã Toàn đà chủ kia ngắt lời:
- Thi huynh đệ, ta chưa chính thức trở lại bang, ba chữ Toàn đà chủ
xin đừng gọi thế vội.
Hơn hai trăm người ăn mày đang đứng quanh đống lửa nhao nhao lên:
- Tống trưởng lão đã có dặn rằng nhờ ông tạm thời giữ chức đà chủ
bản đà, ba chữ Toàn đà chủ kia có gì mà không được?
- Tương lai ông lên làm bang chủ, thì chẳng còn hơn chức đà chủ hay
sao?
- Toàn đà chủ nếu chưa đảm đương bang chủ thì ít nhất cũng phải
lên chức trưởng lão, nhưng khi đó cũng phải kiêm lãnh cả bản đà.
- Đúng lắm, dẫu Toàn đà chủ có làm bang chủ vẫn có thể kiêm luôn
cả chức đà chủ Đại Trí phân đà.
Còn đang bàn luận xôn xao, một bang chúng từ cửa sơn cốc chạy vào,
lớn tiếng báo:
- Khải bẩm đà chủ, Đoàn vương tử nước Đại Lý xin bái phỏng.
Toàn đà chủ Toàn Quan Thanh lập tức đứng bật dậy hỏi:
- Đoàn vương tử nước Đại Lý ư? Bản bang trước nay có giao thiệp gì
với nước Đại Lý đâu?
Y liền lớn tiếng nói:
- Các vị huynh đệ, Đoàn gia nước Đại Lý là thế gia trứ danh trong võ
lâm, Đoàn vương tử tự mình đến đây, tất cả cùng đứng lên nghênh tiếp.
Nói xong tất lãnh mọi người cùng đi ra ngoài sơn khẩu đón khách.
Chỉ thấy một thanh niên công tử mặt mày tươi tỉnh đứng ngay tại đó, đằng
sau có bảy tám người tùy tòng. Thanh niên đó chính là Đoàn Dự, hai
người chắp tay chào, hóa ra biết nhau rồi, đã từng gặp ở trong rừng hạnh
ngoài thành Vô Tích. Toàn Quan Thanh lúc đó chưa biết lai lịch, thân
phận Đoàn Dự, nghĩ lại khi đó mình bị Kiều Phong đuổi ra khỏi bang
Đoàn Dự đều biết cả, không khỏi ngượng ngùng, nhưng lập tức trấn tĩnh
ngay, ôm quyền nói:
- Không biết Đoàn vương tử tới thăm nên không ra xa nghinh tiếp,
xin lượng thứ cho.
Đoàn Dự cười đáp:
- Không dám! Không dám! Vãn sinh phụng mệnh gia phụ, có một
việc muốn phụng cáo quí bang cho nên mới đến làm phiền.
Hai người nói mấy câu khách sáo, Đoàn Dự giới thiệu đi cùng là Cổ
Đốc Thành, Phó Tư Qui, Chu Đan Thần ba người. Toàn Quan Thanh mời
Đoàn Dự đến ngồi tại một phiến đá trước đống lửa, sau đó bang chúng
đem rượu ra mời. Đoàn Dự tiếp lấy uống cạn rồi nói:
- Mấy tháng trước4, gia phụ ở tại Trung Châu có đến phủ của cố Mã
phó bang chủ quí bang, gặp một kỳ sự, chính mắt trông thấy cái chết của
Bạch Thế Kính Bạch trưởng lão. Việc này có liên can trọng đại đến quí
bang, lại cả đến anh hùng võ lâm Trung Nguyên nữa nên muốn trình cho
các nhân vật thủ não của quí vị. Có điều gia phụ thụ thương, dưỡng bệnh
đến nay mới đỡ mà các trưởng lão trong bang hành tung vô định, không
sao gặp được, khiến cho phong thư gia phụ viết vẫn chưa có cách nào
trình lên. Mấy bữa trước gia phụ nghe tin quí đà tụ hội nơi đây nên mới
sai vãn sinh đưa tới.
Nói xong chàng lấy trong tay áo ra một phong thư, đứng lên đưa ra.
Toàn Quan Thanh cũng vội vàng đứng dậy, hai tay nhận lấy nói:
- Phải phiền đến Đoàn công tử đích thân đưa thư, cái tấm lòng
thương yêu của Đoàn vương gia khiến cho tất cả tệ bang từ trên xuống
dưới ai ai cũng cảm đại đức.
Y nhìn thấy phong thư đó gắn rất kỹ, trên phong bì viết tám chữ lớn:
Cái Bang chư vị trưởng lão thân khải5
Y nghĩ thầm tự mình không tiện mở ra xem bèn nói:
- Tệ bang không lâu nữa sẽ khai đại hội, các trưởng lão sẽ đều đến
cả, tại hạ sẽ đem thư của Đoàn vương gia trình lên cho chư vị thủ lãnh.
Đoàn Dự nói:
- Như thế xin phiền vậy, vãn sinh cáo biệt.
Toàn Quan Thanh luôn mồm cảm ơn, tiễn khách ra rồi mới nói:
- Bạch trưởng lão và Mã phu nhân của tệ bang bất hạnh bị gian tặc
Kiều Phong hạ độc thủ, hôm đó chính mắt Đoàn vương gia trông thấy hay
sao?
Đoàn Dự lắc đầu:
- Bạch trưởng lão và Mã phu nhân không phải do Kiều đại ca giết
hại đâu, sát hại Mã phó bang chủ cũng là người khác. Trong phong thư
này của gia phụ có nói rất rõ ràng, sau này Toàn đà chủ đọc thư sẽ biết
rõ mọi chuyện.
Chàng trong bụng nghĩ thầm: Việc này nói ra dài dòng, nhà ngươi
đâu phải là người tốt, không nên nói nhiều làm chi. Ta đoán chừng ngươi
không dám dấu lá thư của cha ta đâu. Đoàn Dự quay sang ôm quyền
chào Toàn Quan Thanh nói:
- Sau này gặp lại, không dám phiền chư vị tiễn ra xa.
Chàng quay mình đi ra sơn cốc, vừa trở đầu đã thấy hai tên bang
chúng Cái Bang dẫn hai hán tử tiến vào. Hai người đó đưa mắt cho nhau,
đi lên mấy bước khom lưng hành lễ với Đoàn Dự, trình lên một tờ danh
thiếp màu đỏ chói. Đoàn Dự cầm lấy xem qua, thấy trên tờ thiếp viết bốn
hàng chữ:
Tô Tinh Hà cung kính mời những vị tinh thông kỳ nghệ6 trong thiên hạ,
đến ngày mồng tám tháng hai giá lâm hang Thiên Lung Địa Á, núi Lôi Cổ,
tỉnh Hà Nam để gặp gỡ một phen.
Đoàn Dự vốn thích đánh cờ thấy bốn hàng chữ đó, tinh thần phấn
chấn vui vẻ nói:
- Thế thì hay lắm, nếu vãn sinh không có chuyện tục vụ gì vướng
bận, thể nào cũng đến. Thế nhưng xin hỏi tại sao hai vị lại biết vãn sinh
thích đánh cờ?
Hai hán tử lộ vẻ vui mừng, mồm ú ớ, giơ tay múa chân, hóa ra hai
người đó bị câm. Đoàn Dự không hiểu hai người đó chỉ trỏ ra hiệu những
gì, mỉm cười hỏi Chu Đan Thần:
- Núi Lôi Cổ có xa lắm không?
Nói xong chàng giao tờ thiếp lại cho ông ta. Chu Đan Thần cầm lấy
xem qua, trước hết vòng tay hành lễ với hai người kia nói:
- Trấn Nam Vương thế tử Đoàn công tử nước Đại Lý, xin gửi lời
chào đến Thông Biện tiên sinh, trước hết tạ ơn bao giờ đến kỳ sẽ đến bái
phỏng.
Ông ta chỉ vào Đoàn Dự, chỉ trỏ mấy cái biểu thị sẽ đến phó hội. Hai
hán từ khom lưng hành lễ với Đoàn Dự, sau đó lại lấy ra một tờ thiếp nữa
đưa cho Toàn Quan Thanh. Toàn Quan Thanh cầm lấy xem qua, cung
kính trả lại xua tay nói:
- Người tạm lãnh chức Phân Đà Chủ Đại Trí phân đà của Cái Bang
là Toàn Quan Thanh, xin kính chào Thông Biện tiên sinh núi Lôi Cổ,
Toàn mỗ kỳ nghệ kém cỏi, chẳng bõ làm trò cười, không dám phó hội,
xin Thông Biện tiên sinh tha lỗi cho.
Hai hán tử khom lưng hành lễ, sau đó quay qua chào Đoàn Dự,
chuyển thân đi ra. Chu Đan Thần lúc đó mới trả lời Đoàn Dự:
- Lôi Cổ Sơn ở phía nam Tung Huyện, đông bắc Khuất Nguyên
Cương, đến đó cũng không xa lắm.
Đoàn Dự từ biệt Toàn Quan Thanh rồi, ra khỏi thung lũng lúc đó mới
hỏi Chu Đan Thần:
- Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà là người thế nào? Là quốc thủ về
đánh cờ ở Trung Nguyên hay sao?
Chu Đan Thần đáp:
- Thông Biện tiên sinh chính là Lung Á tiên sinh7.
Đoàn Dự ồ lên một tiếng, cái tên Lung Á tiên sinh chàng ở Đại Lý đã
từng nghe bá phụ và phụ thân nhắc tới, biết đó là một cao thủ kỳ túc của
võ lâm Trung Nguyên, vừa điếc vừa câm nhưng nghe nói võ công lại rất
cao cường, khi đề cập đến ông ta giọng của bác chàng xem chừng kính
trọng. Chu Đan Thần lại tiếp:
- Lung Á tiên sinh tuy tàn tật nhưng nhất định tự xưng mình là Thông
Biện tiên sinh, cho rằng mình tâm thông, bút biện còn hơn xa người
thường nhĩ thông, thiệt biện.8
Đoàn Dự gật đầu nói:
- Kể cũng có lý.
Chàng đi thêm mấy bước bỗng cất tiếng thở dài. Đoàn Dự nghe Chu
Đan Thần nói Lung Á tiên sinh tâm thông, bút biện hơn cả người thường
nhĩ thông, thiệt biện không khỏi chạnh lòng nhớ tới Vương Ngữ Yên
đánh võ miệng còn giỏi hơn người ta đánh võ tay chân binh khí.
Chàng ở thành Vô Tích cùng A Châu cứu được bọn người Cái Bang
rồi, chẳng bao lâu Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác hai người đến tụ hội với
Vương Ngữ Yên. Năm người đó muốn lên miền bắc đi kiếm Mộ Dung
công tử, Đoàn Dự dĩ nhiên cũng muốn đi theo, Phong Ba Ác nhớ ơn
chàng đã dùng mồm hút nọc độc con bò cạp nên rất hoan nghênh, có điều
Bao Bất Đồng ăn nói cực kỳ sỗ sàng, trách cứ Đoàn Dự giả trang làm Mộ
Dung công tử làm bại hoại tiếng tăm y đi. Đến sau y tỏ ý ngươi không
cút đi, ta sẽ đập cho một trận, trong khi Vương Ngữ Yên chỉ lo bàn với
Phong Ba Ác cách nào kiếm được biểu ca, coi tình cảnh quẫn bách của
Đoàn Dự như không biết đến.
Đoàn Dự chẳng còn biết sao hơn đành phải chia tay cùng Vương Ngữ
Yên nhưng cũng đi lên miền bắc nghĩ bụng: Các ngươi muốn đi Hà Nam
tìm Mộ Dung Phục, ta cũng đang định đi Hà Nam. Hà Nam là đất trung
châu chứ có phải của riêng nhà Mộ Dung các ngươi đâu, Mộ Dung Phục
và Bao Bất Đồng đến được, chẳng lẽ Đoàn Dự không đến được? Nếu như
trên đường chạm trán họ thì cũng là ý trời, Bao tam tiên sinh kia làm sao
trách mình được?.
Thế nhưng trời già nào có cho Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên giải cấu
tương phùng, suốt thời gian đó, Đoàn Dự ở Hà Nam lang thang đi khắp
mọi nơi, tiếng là du sơn ngoạn thủy, nhưng thực ra đến đâu mắt cũng dáo
dác, chỉ mong sao được nhìn thấy mớ tóc dài óng ả, một chéo áo của
Vương Ngữ Yên, còn núi non sông nước chàng nào có để mắt đến.
Một hôm, Đoàn Dự đang ở chùa Bạch Mã thành Lạc Dương đàm luận
với phương trượng về kinh A Hàm, nghiên thảo việc đức Phật giảng về
truyện chuyển luân thánh vương có bảy bảo vật. Đoàn Dự nghe nói
bảo vật ngọc nữ không dài không vắn, không trắng không đen, mùa đông
thân thể ấm áp, mùa hạ thân thể mát mẻ cực kỳ hứng thú nhưng phương
trượng lắc đầu quầy quậy nói:
- Đoàn cư sĩ, đó chẳng qua là thí dụ của nhà Phật đấy thôi, huống chi
Phật dạy thất bảo cũng đều là vô thường...
Vừa nói tới đây, bỗng có ba người vào chùa, chính là Phó Tư Qui, Cổ
Đốc Thành và Chu Đan Thần. Thì ra sau khi Đoàn Chính Thuần rời nhà
họ Mã ở phủ Tín Dương, gặp lại Nguyễn Tinh Trúc, mới đi tìm chỗ dưỡng
thương, nghĩ đến việc Tiêu Phong bị Cái Bang đổ tiếng oan giết Mã Đại
Nguyên không thể không biện bạch giùm cho ông ta nên mới viết một
phong thư, sai bọn Phó Tư Qui ba người đem tới đưa cho Cái Bang.
Bọn Phó Tư Qui đến Lạc Dương tìm tổng đà Cái Bang, không gặp
nhân vật thủ lãnh nào, lại nghe phân đà Đại Trí tụ hội gần bên nên dự
định đem thư đến. Ngờ đâu khi ở tại tửu lâu họ nghe lỏm người ta kể
chuyện một chàng thư sinh gàn dở, hình dáng có phần tương tự như Đoàn
Dự nên mới hỏi xem công tử đó nơi đâu rồi tìm đến Bạch Mã tự.
Bốn người gặp nhau hết sức mừng rỡ. Đoàn Dự nói:
- Để ta theo các vị đi đưa thư, rồi chư vị đưa ta đến bái kiến phụ
vương.
Chàng nghe nói cha mình cũng đang ở Hà Nam nên càng nóng lòng
muốn gặp, nhưng bao lâu nay không nghe tin tức gì về Vương Ngữ Yên
ngày đêm nhung nhớ, chỉ mong nơi Đại Trí phân đà có các nhân vật
giang hồ, may ra thấy được ngọc dung tiên nhan của người đẹp nhưng hỡi
ôi tất cả đều chỉ là một chữ không.
Chu Đan Thần thấy chàng thở vắn than dài, lại tưởng chàng mong
nhớ Mộc Uyển Thanh, việc này không thể nào khuyên giải gì được, nghĩ
bụng cách tốt nhất là làm cho chàng phân tâm qua chuyện khác nên nói:
- Vị Thông Biện tiên sinh này phát thiếp rộng rãi mời thiên hạ đến
đánh cờ, kỳ lực ắt phải cao lắm. Công tử gia sau khi bái kiến Trấn Nam
Vương rồi, cũng nên đến gặp Thông Biện tiên sinh đánh vài ván xem
sao!
Đoàn Dự gật đầu đáp:
- Đúng đó! Cuộc đen trắng cũng là cách tiêu khiển khiến cho con
người bớt ưu phiền. Có điều tuy nàng tinh thông các môn phái võ công
thiên hạ, bụng chứa binh giáp, muôn nhà muôn vẻ nhưng lại không biết
đánh cờ. Buổi hội ngộ đấu cờ của Thông Biện tiên sinh, chắc nàng không
tới đâu!
Chu Đan Thần ngơ ngẩn hoang mang, không biết chàng đang nói đến
ai, trên đường đi thấy công tử hồn vía đâu đâu, câu trước đầu Ngô, câu
sau mình Sở nghe cũng đã nhiều nên không tiện gặng hỏi.
Cả đoàn người rong ruổi chạy về hướng tây bắc. Đoàn Dự ngồi trên
lưng ngựa, lúc thì nhíu tít lông mày, lúc lại cười mủm mỉm, lẩm bẩm một
mình:
- Kinh Phật có dạy rằng: Khi nghĩ đến mỹ nữ thì hãy nhớ thân thể ai
thì cũng chỉ là máu mủ, một trăm năm sau thì cũng thành một bộ xương
trắng mà thôi. Lời nhà Phật tuy không sai nhưng người như nàng dù có
một trăm năm nữa hóa thành bạch cốt, thì mớ xương đó cũng đẹp hơn
những bộ xương người thường.
Chàng còn đang mơ màng nghĩ đến bộ xương trong người Vương Ngữ
Yên ra thế nào, bỗng nghe thấy phía sau có tiếng chân dồn dập, hai con
ngựa ở đâu chạy tới, trên yên mỗi con nằm phục một người, trong lúc trời
tối không nhìn rõ là hạng người nào.
Hai con ngựa đó dường nhưng không ai cầm cương, chạy xông đến
bọn Đoàn Dự. Phó Tư Qui và Cổ Đốc Thành hai người chia ra mỗi người
giữ một con lại, thấy người nằm trên đó không còn cử động gì nữa. Phó
Tư Qui hơi kinh hãi, lại gần xem cho kỹ hóa ra chính là hai sứ giả của
Lung Á tiên sinh, trên mặt nở một nụ cười kỳ bí, đều đã chết cả rồi. Hai
người này vừa mới đây đưa thiếp mời Đoàn Dự còn khỏe như vâm, sao
chỉ quay đi quay lại đã lăn ra chết là sao? Họ đều là sứ giả của Lung Á
tiên sinh, sao nét mặt lại kỳ lạ như thế? Phó Tư Qui vừa thoạt nhìn biết
ngay hai người bị trúng chất cực độc vội kéo cương ngựa lùi lại hai bước
không dám đứng gần hai cái tử thi.
Đoàn Dự giận dữ nói:
- Gã họ Toàn của Cái Bang độc ác thật, tại sao lạ hạ thủ những
người này? Ta phải hỏi cho ra lẽ.
Chàng trở đầu ngựa, toan quay lại tra vấn Toàn Quan Thanh. Phía
trước trong bóng tối có người lên tiếng hỏi:
- Tên tiểu tử kia chẳng biết trời cao đất dày là gì, khắp thiên hạ trừ
môn hạ Tinh Tú lão tiên ra thì có ai mà giết người một cách vô hình như
thế được? Lão già câm điếc rụt đầu rùa trốn một chỗ thì còn được chứ
nếu thò mặt ra thì Tinh Tú lão tiên không tha cho y đâu. Này, thằng bé
kia, chuyện không liên can gì đến ngươi, mau cút đi nơi khác.
Chu Đan Thần ghé tai Đoàn Dự nói nhỏ:
- Công tử, đây là người của phái Tinh Tú, mình không nên dây dưa
với họ, đi thôi!
Đoàn Dự kiếm không thấy Vương Ngữ Yên nên đang rảnh rỗi, hai sứ
giả của Lung Á lão nhân gặp chuyện nguy hiểm, chàng thể nào cũng
xông lên cứu viện, nhưng lúc này lại chết rồi, nên cũng không muốn rắc
rối, thở dài một tiếng nói:
- Nếu chỉ mới miệng câm tai điếc thì cũng chưa đủ, còn phải thêm
mắt mù, mũi không ngửi thấy mùi hương, trong lòng không còn ý niệm gì
thì mới mong giải thoát khỏi phiền não.
Chàng nói đây là nói về nếu gặp lại Vương Ngữ Yên, giọng nói hình
dáng, nhất cử nhất động của nàng đã ăn sâu vào tâm khảm mình rồi, dẫu
có vừa câm vừa điếc thì nỗi nhớ mong cũng đâu có vì thế mà dứt được.
Ngờ đâu người phía bên kia nghe chàng nói thế lại cười hềnh hệch, vỗ
tay nói:
- Đúng đó! Đúng đó! Ngươi nói thật có lý, phải chọc mù mắt y đi, cắt
mũi y đi, rồi đánh cho y đến khi nào phải đổi ý mới xong.
Đoàn Dự thở dài:
- Ngoại lực dù có ép thế nào chăng nữa thì cũng chẳng đến đâu. Phải
chính bản thân mình tu hành sao cho tâm không bám vào những gì nhìn
thấy, nghe thấy, ngửi thấy, nếm thấy, sờ thấy mà phải đạt tới chỗ vô trụ xứ
9 có thế mới rời xa được hình tướng, trở thành bồ tát. Chúng ta là kẻ
phàm phu tục tử, làm sao tu đến mức đó được? Ghét nhau mà phải ở gần
nhau, yêu nhau mà phải xa nhau, muốn mà không được10 năm nhóm11 đó
thiêu đốt con người cho nên sống trên đời mới đầy đau khổ.
Du Thản Chi nằm trong đám cỏ phía sau tảng đá thấy bọn Đoàn Dự đi
rồi quay trở lại, sau đó phía trước có tiếng người quát tháo, vừa lúc đó hai
tên đệ tử Cái Bang chạy đến, nói nhỏ với Toàn Quan Thanh:
- Toàn đà chủ, hai gã câm kia không hiểu sao bị người ta giết rồi, kẻ
hạ thủ tự xưng là thủ hạ của cái gì Tinh Tú lão tiên phái Tinh Tú.
Toàn Quan Thanh kinh hãi, mặt liền biến sắc. Y đã từng nghe tiếng
Tinh Tú Lão Quái ở biển Tinh Tú chuyên sử chất độc cực mạnh, võ công
cũng thật cao cường nghĩ thầm: Bọn họ giết sứ giả của Lung Á lão nhân,
chuyện này không liên can gì đến mình, chẳng nên gây chuyện với họ
làm gì. Y liền nói:
- Ta biết rồi, bọn chúng hai đằng quỉ đánh với ma, mình chẳng dây
vào.
Đột nhiên trước mặt có tiếng người nói:
- Bọn chúng bay ăn nói láo lếu, đã biết ta là môn hạ của Tinh Tú lão
tiên, sao dám chửi ta là ma là quỉ? Bộ ngươi không muốn sống hay sao?
Toàn Quan Thanh kinh hãi, giật mình lùi lại một bước, dưới ánh lửa
thấy một người đứng sừng sững trước mặt, chính là một tên bang chúng
thủ hạ. Y chăm chú quan sát kỹ, gã đó trông cười mà chẳng ra cười, hình
dạng thật kỳ bí, dường như sau lưng y còn có ai nữa thì phải, bèn quát
lên:
- Các hạ là ai, giả ma giả quỉ dọa người để làm gì thế?
Người nấp ở sau gã đệ tử Cái Bang giọng lạnh như tiền nói:
- Quả là to gan! Ngươi lại nói thêm một chữ quỉ. Lão tử là môn hạ
Tinh Tú lão tiên, Tinh Tú lão tiên giá lâm Trung Nguyên, đang cần ngay
hai chục con rắn độc, một trăm con trùng độc. Các ngươi trong Cái Bang
xưa nay lúc nào cũng sẵn độc trùng, độc xà, mau mau dâng lên coi. Tinh
Tú lão tiên thấy các ngươi ngoan ngoãn dễ bảo may ra tha cho bọn ăn
mày khốn khó. Còn nếu không, hà hà, tất cả cũng như tên này thôi.
Nghe bình một tiếng, tên đệ tử Cái Bang đột nhiên bay tung lên, rơi
bịch xuống cạnh đống lửa, không còn động đậy gì nữa, hóa ra chết từ bao
giờ. Gã đệ tử đó vừa văng đi, để lộ ra một gã thấp bé mặc áo vải, không
biết y đã lẻn tới từ lúc nào mà lại giết được một đệ tử Cái Bang rồi náu ở
đằng sau như thế.
Toàn Quan Thanh vừa kinh hãi vừa tức giận, trong giây lát trong đầu
xoay chuyển bao nhiêu ý nghĩ: Tinh Tú Lão Quái đổ lên đầu Cái Bang,
việc trước mắt nếu không khuất phục thì đến phải một mất một còn. Việc
này tuy hung hiểm thật nhưng nếu y chỉ mới dọa một câu, ta đã đem rắn
độc trùng độc dâng lên thì anh em trong bang từ nay còn coi ta vào đâu
nữa. Ta dĩ nhiên không còn dám tơ tưởng cái chức bang chủ mà cũng
chẳng còn mặt mũi nào ở trong bang. Cũng may Tinh Tú Lão Quái chưa
đích thân đến đây, chỉ mới có một mình gã này, không có gì phải sợ cả.
Y nghĩ thế nên cười khì khì nói:
- Thì ra đây là nhân huynh của phái Tinh Tú, cao tính đại danh các
hạ là chi?
Gã lùn đáp:
- Pháp danh ta là Thiên Lang Tử. Ngươi mau mau dự bị cho đủ độc
trùng độc xà đi thôi.
Toàn Quan Thanh cười đáp:
- Các hạ nếu cần độc trùng độc xà thì cũng chỉ là chuyện cỏn con, có
gì mà phải lo lắng?
Y tiện tay cầm một chiếc túi vải ở dưới đất lên nói:
- Trong đây có mấy con rắn, xin các hạ xem thử xem Tinh Tú lão
tiên dùng có được không?
Gã lùn Thiên Lang Tử kia thấy Toàn Quan Thanh mở miệng một điều
Tinh Tú lão tiên hai điều Tinh Tú lão tiên, trong lòng cực sung
sướng, thấy y thần thái cung thuận, nghĩ thầm: Nghe nói gì Cái Bang là
bang lớn số một của Trung Nguyên, vừa nghe tên của sư phụ lão nhân gia
đã sợ đến mất vía. Ta đem mấy con rắn độc trùng độc về, chắc sư phụ
hoan hỉ lắm, sẽ khen ta chu đáo, được việc. Nói gì thì nói, cũng là nhờ uy
danh của sư phụ lão nhân gia.
Nghĩ thế y bèn thò đầu vào túi vải để xem. Đột nhiên mắt tối sầm,
cái túi đó đã chụp lên đầu y, Thiên Lang Tử kinh hãi, vội vàng múa
chưởng đánh ra nhưng không trúng vào đâu cả. Vừa khi đó, trên mặt, trên
trán, sau ót đều đau nhói lên, đã bị độc vật trong túi cắn trúng rồi. Thiên
Lang Tử không kịp bỏ chiếc túi trên đầu xuống, vội đánh ra hai chưởng
nữa rồi bỏ chạy thục mạng. Y trên đầu vẫn còn chiếc túi nên không thấy
đường, tay đánh loạn xạ, chỉ thấy khắp đầu, khắp mặt chỗ nào cũng bị
cắn, càng hoảng hốt thêm cứ tiếp tục chạy cho nhanh, ngờ đâu bước hụt
một cái, lục tục từ trên triền núi lăn xuống, rơi tõm ngay vào khe suối
dưới thung lũng, theo dòng trôi đi.
Toàn Quan Thanh vốn dĩ định giết y bịt miệng, ngờ đâu y lại chạy
mất, tuy y đã bị bò cạp cắn trúng rồi, lại rơi xuống suối, tính mạng khó
bảo toàn, nhưng phái Tinh Tú vốn giỏi sử dụng độc vật, rất có thể y có
cách giải độc, còn ở vùng biển Tinh Tú thì chắc biết bơi. Nếu như gã này
không chết, phái Tinh Tú hay được, thể nào cũng tới báo thù.
Y trầm ngâm giây lát rồi nói:
- Chúng ta bố trí Cự Mãng Trận, hơn thua với phái Tinh Tú một
phen. Không lẽ Kiều Phong đi khỏi, Cái Bang chúng ta không còn đứng
vững được nữa, ai sai bảo gì cũng được hay sao? Phái Tinh Tú biết sử
dụng chất độc, mình không nên dùng quyền cước binh khí mà cũng phải
dĩ độc công độc.
Người của Cái Bang nhao nhao khen phải, lập tức giàn ra bốn bề, bố
trí trận thế cách đống lửa mấy trượng, người người ngồi xuống xếp bằng.
Du Thản Chi thấy Toàn Quan Thanh dùng túi vải đuổi được Thiên
Lang Tử chạy mất nghĩ thầm: Thì ra trong cái túi của y có độc vật, bọn
họ có nhiều túi vải như thế, túi nào cũng toàn là rắn độc trùng độc hay
sao? Bọn ăn mày giỏi nghề bắt trùng bắt rắn không có gì lạ. Nếu mình ăn
cắp được vài cái túi đem về cho A Tử cô nương chắc cô ta vui mừng
lắm.
Y thấy người của Cái Bang ngồi xuống rồi không ai nói năng một lời,
người nào bên cạnh cũng để mấy cái túi, có cái thì thật lớn, bên trong có
gì cục cựa, Du Thản Chi nhìn mà lạnh người. Lúc này bốn bề hoàn toàn
yên tĩnh, nếu như y bò ra thể nào cũng bị người của Cái Bang phát giác,
nghĩ thầm: Nếu bọn họ chụp chiếc túi lên đầu mình, mình có cái lồng
sắt không việc gì phải sợ, thế nhưng nếu chúng bắt mình bỏ luôn vào bao
chung với rắn rết thì mới thực là hỡi ôi!.
Mấy giờ sau đó vẫn không thấy động tĩnh gì, lại thêm một hồi nữa,
trời bắt đầu tờ mờ sáng rồi mặt trời nhô lên, chiếu khắp núi đồi. Trên đầu
cành chim hót líu lo, bỗng nghe Toàn Quan Thanh kêu khẽ:
- Đến rồi! Tất cả anh em đề phòng!
Y ngồi xếp bằng trên một phiến đá bên ngoài xà trận, bên cạnh cũng
để mấy cái túi, tay cầm thiết địch. Chỉ nghe phía tây bắc văng vẳng tiếng
đàn tiếng sáo, một đoàn người chậm rãi đi lên, trong tiếng nhạc có lẫn cả
chiêng trống, nghe rất là réo rắt. Du Thản Chi tự hỏi: Có đám cưới
chăng?.
Tiếng nhạc càng lúc càng gần, đến cách xa chừng mươi trượng thì
ngừng lại, có tiếng mấy người cùng cất lên:
- Tinh Tú lão tiên pháp giá Trung Nguyên, đệ tử Cái Bang mau mau
tiến lên quì xuống nghênh tiếp.
Câu nói vừa dứt, lập tức trống đánh tùng tùng tùng. Ba hồi trống vừa
dứt, thanh la đánh choang một cái, tiếng trống liền ngưng bặt, mấy chục
người cùng cao giọng:
- Cung thỉnh Tinh Tú lão tiên hoằng thi đại pháp, hàng phục bọn tiểu
xú Cái Bang.
Du Thản Chi nghĩ thầm: Nghe như đạo sĩ làm phép trừ tà bắt ma. Y
len lén từ sau tảng đá thò đầu ra nhìn, thấy nơi phía tây bắc có đến hơn
hai chục người xếp thành hàng ngang, kẻ thì cầm chiêng trống nhạc khí,
kẻ thì cầm phướn cầm cờ, cái xanh cái đỏ trông thật đẹp đẽ, xa xa thấy
thấp thoáng trên những lá cờ đó có thêu: Tinh Tú lão tiên, thần thông
quảng đại, pháp lực vô biên, uy chấn thiên hạ... nhiều câu khác
nhau. Trong tiếng tơ tiếng sáo dặt dìu, một ông lão chậm rãi bước ra,
những người đứng sau lưng lập tức chia thành hai hàng, lẽo đẽo đi theo
cách xa ông ta chừng vài trượng.
Ông lão đó tay cầm một chiếc quạt bằng lông ngỗng, ánh mặt trời
chiếu vào, thấy mặt mũi hồng hào, tóc trắng như bông, dưới cằm là ba
chòm râu trắng như cước, đồng nhan hạc phát, thật chẳng khác gì người
trong truyện thần tiên.
Ông lão đó đi đến còn cách bọn ăn mày chừng ba trượng thì ngừng
lại, đột nhiên chúm môi thổi mấy cái, phát ra tiếng thật chói tai, giơ quạt
phất một cái đẩy tiếng sáo tới (?), bốn tên bang chúng Cái Bang ngồi
dưới đất lập tức ngã ngửa ra.
Du Thản Chi kinh hãi: Tinh Tú lão tiên này pháp thuật quả nhiên
quảng đại thật. Ông lão nở một nụ cười, thổi toe một tiếng, quạt phẩy ra,
lại có một người ngã, xem chừng tiếng thổi là một loại ám khí vô hình
cực kỳ lợi hại, chỉ trong phút chốc trong Cái Bang đã có sáu bảy người
lăn quay ra. Lập tức đằng sau ông lão, tiếng người ca tụng rộn lên:
- Công lực sư phụ chói lọi cổ kim! Bọn ăn mày kia dám đối đầu với
mình, thật đúng là đom đóm lập lòe đua tranh cùng vầng nhật nguyệt.
- Châu chấu đá xe quả không biết lượng sức mình, thật tức cười quá
đỗi!
- Sư phụ chỉ nói nói cười cười mà đưa cả bọn yêu ma tiểu xú Cái
Bang vào chỗ chết, thật dễ như bẻ củi mục mà được toàn thắng, đồ nhi
thật chưa từng thấy, đến nghe cũng chưa nghe tới bao giờ.
- Đây là công nghiệp vĩ đại trên đời chưa từng có, nếu sư phụ lão
nhân gia không lộ một chút thân thủ thì bọn võ học Trung Nguyên nào có
biết trên đời lại có công phu ghê gớm đến mức này.
Trong khi cả bọn ca công tụng đức, nghe chối cả tai thì tiếng ti trúc
quản huyền vẫn tấu lên thật là réo rắt. Đột nhiên có mấy tiếng tu tu,
Toàn Quan Thanh đã đưa sáo sắt lên môi thổi mấy tiếng. Du Thản Chi
nghĩ thầm: Y thổi sáo làm gì thế? Để nghênh đón Tinh Tú lão tiên
chăng?.
Bỗng nghe dưới đất có tiếng sột soạt, từ trong những chiếc túi vải
mấy con rắn lớn vằn vện ngũ sắc bò thẳng tới chỗ ông lão. Những đệ tử
chung quanh ông lão kinh hoảng kêu lên:
- Rắn kìa! Có rắn độc!
- Chao ôi! Không xong, sao lắm rắn độc thế này.
- Sư phụ ôi, những con rắn độc này lại xông tới mình là sao?
Chỉ thấy tất cả những cái túi của bọn ăn mày đâu đâu cũng có rắn bò
ra, con lớn con bé đủ cả, phùng mang lè lưỡi, xông tới chỗ ông lão và bọn
đệ tử. Bọn chúng đứa nào đứa nấy quýnh quáng kêu la ỏm tỏi.
Đệ tử phái Tinh Tú liền cầm cương trượng lên, đập túi bụi những con
rắn đang lúc nhúc bò tới, chỉ riêng ông lão thần sắc vẫn bình thường, lại
chúm môi huýt một tiếng, vẫy quạt đánh ra. Toàn Quan Thanh cũng thổi
địch liên tiếp, người trong Cái Bang cũng hò hét trợ uy.
Đàn rắn càng lúc càng đông, chỉ trong phút chốc chung quanh phải
đến hàng trăm con, trong đó có dăm con trăn lớn. Mấy con mãng xà bò
tới gần, dùng đuôi cuốn được hai người, tiếp theo lại quấn chết thêm hai
người nữa. Nếu đệ tử phái Tinh Tú bỏ chạy, những con rắn chắc không
theo kịp, thế nhưng sư tôn còn đang nghinh địch, quần đệ tử nào ai dám
bỏ đi một bước, chỉ đành múa binh khí, đâm chém loạn cả lên, khiến rắn
độc bị chúng giết chết cũng phải đến tám chín chục con, còn người bị rắn
cắn cũng đến bảy tám người.
Những con trăn lớn kia càng lợi hại hơn nữa, da thô thịt dày, gậy đập
vào không thấm đâu, quấn được ai rồi càng lúc càng xiết chặt, nhất định
không buông. Theo tiếng sáo, từ trong túi bò ra mỗi lúc một nhiều, tổng
cộng phải đến hai mươi bảy, hai mươi tám con cự mãng.
Ông lão thấy tình thế không ổn, toan tấn công Toàn Quan Thanh để
rút lui, thì có hai con rắn nhỏ phóng tới cắn vào mặt ông ta. Ông lão quát
lên:
- Gớm nhỉ!
Quạt trong tay phất lên, kình phong đổ ra, đánh bạt hai con rắn
xuống, bỗng thấy một vật gì mềm nhũn cuốn lấy gót chân, biết là không
xong, phi thân vọt lên, bỗng nghe tiếng địch vi vu, bốn con trăn cùng
vung đuôi lên, quật vào người ông ta. Ông lão đang ở trên không, bình
bình đánh ra hai chưởng, đánh bật hai con trăn phía trước và phía trái,
người lắc một cái đã vọt ra ngoài hai trượng. Ngay lúc đó con rắn thứ ba
và thứ tư cùng dùng đuôi tấn công tới. Trong cơn nguy cấp, ông lão vận
kình đánh ra, chưởng phong đánh nát đầu một con trăn lớn.
Thế nhưng bầy rắn vẫn xông vào, ông lão tuy đánh chết được ba con
cự mãng nhưng hông và đùi bên phải đã bị hai con trăn quấn được. Ông
ta vận nội lực lên, quát lớn một tiếng, giơ ngón tay chộp vào bụng con
trăn đang quấn ngang lưng khiến cho máu me tung tóe đầy người. Ngờ
đâu trăn là giống rất dai, tuy bụng đã bị vỡ nhưng không chết ngay, bị
đau liền xiết người lại, tưởng chừng quấn nát người ông lão. Ông ta dùng
sức dãy hai lần, kế đó lại có hai con mãng xà xông tới, quấn thêm mấy
vòng nữa trên người ông ta, đến cánh tay cũng cuốn luôn vào, khiến cho
không còn cách nào kháng cự. Du Thản Chi nằm trong đám cỏ chứng
kiến trận đấu kinh tâm động phách, tưởng chừng thở không ra hơi.
Toàn Quan Thanh trong bụng mừng lắm, thấy bên địch ai nấy bị trăn
quấn cả rồi, chỉ còn rên rỉ, chửi rủa, không còn cách gì kháng cự nữa nên
không tiếp tục thổi sáo, tiến lên cười khì khì hỏi:
- Tinh Tú Lão Quái, phái Tinh Tú ngươi và Cái Bang ta trước nay
đường ai nấy đi, nước sông không phạm nước giếng, sao lại đến gây sự
với bọn ta là sao? Bây giờ còn gì để nói nữa không?
Ông lão đồng nhan hạc phát kia chính là người mà võ lâm nhân sĩ
Trung Nguyên ghét cay ghét đắng Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu. Vì
một trong tam bảo của phái Tinh Tú là Thần Mộc Vương Đỉnh bị nữ đệ tử
A Tử ăn cắp mất, liên tiếp phái các đệ tử ra đuổi bắt, thậm chí cả đại đệ
tử Trích Tinh Tử cũng sai đi nhưng lần nào bồ câu đem thư về cũng thấy
tình thế thật là bất lợi. Về sau ông ta nghe nói A Tử dựa vào thế anh rể là
Kiều Phong của Cái Bang, đánh bại Trích Tinh Tử, Đinh Xuân Thu vừa
tức tối vừa kinh hoàng, biết Cái Bang là bang hội lớn nhất trong võ lâm
Trung Nguyên không dễ gì đối phó, lại nghe Lung Á lão nhân tái xuất
đầu lộ diện cũng đang hoành hành trong võ lâm vài năm qua, mối lo
trong gan ruột kia chưa trừ được thì không yên tâm, một khi đoạt lại được
vương đỉnh rồi phải thừa cơ thanh toán cho xong chuyện cũ, thành thử
đem hết đệ tử đích thân đi vào Trung Nguyên.12
Môn Hóa Công Đại Pháp y luyện thường phải dùng các loại chất độc
của rắn rết bôi lên lòng bàn tay, hút vào trong người, nếu bảy ngày không
có thì không những công lực giảm thiểu mà chất độc tích tụ trong cơ thể
mấy chục năm qua không có chất mới khắc chế có thể dần dần phát tác,
họa hại ghê gớm khó mà hình dung.
Chiếc Thần Mộc Vương Đỉnh trời sinh có một mùi kỳ lạ, lại thêm
hương liệu đốt ở trong đỉnh, chỉ trong giây lát là có thể dẫn dụ độc vật
đến, trong vòng mười dặm chung quanh khó có con vật nào gượng lại nổi
sức thu hút của nó. Đinh Xuân Thu có chiếc kỳ đỉnh đó trong tay nên bắt
trùng độc chẳng khó khăn gì, thành thử Hóa Công Đại Pháp càng luyện
càng cao thâm, càng luyện càng tinh tiến. Năm xưa Đinh Xuân Thu có
một tên đệ tử đắc ý được y đích thân truyền dạy Hóa Công Đại Pháp, đã
có chút thành tựu, ngờ đâu về sau ỷ mình có tài, không còn cung thuận
như trước. Đinh Xuân Thu chế ngự được y rồi, không cần phải dùng đến
đao trượng xử tội, chỉ nhốt y vào một gian thạch thất, khiến y không cách
nào bắt được các loại trùng độc tu luyện thêm, kết quả độc tố trong người
phát tác, nhịn không nổi tự mình cấu từng miếng thịt, rên rỉ mãi, bốn chục
ngày sau mới chết. Tinh Tú Lão Quái tuy đắc ý nhưng cũng thêm phần
cẩn thận, môn Hóa Công Đại Pháp từ đó không truyền cho người nào
nữa. Thành thử bọn Trích Tinh Tử không một ai biết, A Tử muốn luyện
môn thần công này đành phải học lén, ăn cắp bảo đỉnh trốn đi.
A Tử tính toán thật kỹ, ngay hôm sư phụ mới bắt được độc vật luyện
công liền trốn về phương đông, đến khi Tinh Tú Lão Quái phát giác ra
Thần Mộc Vương Đỉnh bị ăn trộm thì đã bảy ngày, A Tử đi đã xa lắm rồi.
Nàng đi toàn theo đường nhỏ, các sư huynh truy nã tuy võ công cao hơn
cô ta nhiều nhưng mưu kế lại kém xa, bị A Tử liên tiếp dùng ngụy kế hư
trương thanh thế, thanh đông kích tây nên đều trốn thoát được.
Vùng Tinh Tú Lão Quái ở là một thâm cốc rậm rạp tối tăm, độc xà
độc trùng không hiếm gì, tuy mất Thần Mộc Vương Đỉnh nhưng muốn đi
bắt rắn để thêm chất độc cũng chẳng khó khăn, nhưng chỉ bắt được những
loại tầm thường, còn những loại đặc biệt, hiếm quí quái lạ, kịch độc lợi
hại như trước thì chỉ còn nước cầu may.
Một chuyện khác cũng khiến ông ta lo lắng là nếu như võ lâm Trung
Nguyên biết được lai lịch chiếc đỉnh thì ai cũng có thể lập tức hủy ngay,
thành thử một ngày chưa lấy lại được thì thêm một ngày không an tâm.
Ông ta gặp lại bọn đệ tử ở Thiểm Tây, đại đệ tử Trích Tinh Tử tuy
không chết nhưng võ công mất hết13 bị bọn đệ tử kia trên đường lăng
nhục chửi bới không còn ra người nữa, còn nhị đệ tử là gã mũi lân Sư
Hống Tử tạm thời lên thay đại sư huynh.
Bọn đệ tử thấy đích thân sư phụ ra tay, ai nấy vừa kinh hoàng vừa sợ
hãi, biết rằng sư mệnh không hoàn thành, tội vạ kỳ này chắc là phải ghê
gớm khó mà chịu nổi. Cũng may Tinh Tú Lão Quái đang cần người nên
tạm thời gác việc trách phạt sang một bên để mọi người có cơ đái tội lập
công.
Đoàn người vừa đi vừa thăm dò tin tức của Cái Bang nhưng một là
bọn họ hình tướng kỳ dị, ngôn ngữ khiến cho người ta ghét bỏ nên chẳng
ai tiết lộ cho họ chuyện gì, thứ nữa Tiêu Phong đã sang nước Liêu làm
Nam Viện Đại Vương, trong võ lâm chẳng mấy ai hay, thành thử dò hỏi
mãi mà không ra đến cả tổng đà Cái Bang dọn đi đâu cũng không biết.
Một hôm Thiên Lang Tử vô tình nghe được phân đà Đại Trí tụ hội,
muốn tâng công liền một thân một mình xông vào nên bị Toàn Quan
Thanh ám toán. Thế nhưng người y vốn đầy chất độc nên nọc bò cạp
không giết nổi, thoát chết rồi liền cấp báo sư phụ. Đinh Xuân Thu lập tức
đi tới, ngờ đâu một thân đầy chất độc và võ công thâm hậu như thế nhưng
bị trăn quấn cũng không sao thoát ra được.
Đinh Xuân Thu không trả lời câu hỏi của Toàn Quan Thanh, chỉ khinh
khỉnh hỏi:
- Trong Cái Bang chúng bay có một gã tên Kiều Phong, bây giờ ở
đâu? Mau gọi y ra gặp ta.
Toàn Quan Thanh trong lòng chợt động, hỏi lại:
- Các hạ muốn gặp Kiều Phong là để làm gì?
Đinh Xuân Thu ngạo mạn hỏi lại:
- Tinh Tú lão tiên hỏi ngươi, sao ngươi không trả lời, lại còn hỏi tới
hỏi lui? Kiều Phong đâu?
Toàn Quan Thanh thấy y đã bị trăn quấn chặt không còn cách gì
kháng cự, vậy mà ăn nói vẫn còn phách lối, khả ố như thế quả trên đời
hiếm có, bèn nói:
- Tinh Tú Lão Quái ai ai cũng nghe nói tới, ngờ đâu chỉ có hư danh,
có mấy con rắn quèn mà đối phó không xong. Thôi đành xin lỗi, chúng ta
vì thiên hạ mà trừ mối hại cho người.
Đinh Xuân Thu mỉm cười nói:
- Lão phu không cẩn thận nên chẳng may bị mấy con súc sinh máu
lạnh này làm hại, hôm nay về chốn tây phương cực lạc, thôi cũng đành...
Y nói chưa dứt câu, một đệ tử phái Tinh Tú đang bị trăn quấn đột
nhiên cất tiếng:
- Đại anh hùng Cái Bang ơi, xin ngài tha cho con có nhiều cái lợi
lắm. Sư phụ con rất nhiều ngụy kế, ngài đề phòng không nổi đâu. Ngài
chỉ sơ ý một chút là bị ông ta lật ngược ngay.
Toàn Quan Thanh cười khẩy hỏi:
- Thả ngươi ra thì có lợi những gì?
Gã kia đáp:
- Phái Tinh Tú có cả thảy ba món bảo vật, gọi là Tinh Tú tam bảo.
Chỉ có Tinh Tú Lão Quái và con là biết chỗ dấu ở đâu thôi. Ngài tha chết
cho con, sau khi giết Tinh Tú lão quái rồi, con sẽ lấy ra dâng lên. Nếu
như ngài giết con thì Tinh Tú tam bảo vĩnh viễn không có được.
Lại một tên đệ tử khác của phái Tinh Tú gào lên:
- Đại anh hùng ơi, đại anh hùng ơi, ngài đừng có mắc lừa tên đó.
Trong Tinh Tú tam bảo thì có một món bị người ta ăn cắp mất rồi. Ngài
tha con ra là hơn cả, chỉ có mình con đối với ngài trung thành không bao
giờ lừa dối mà thôi.
Chỉ trong giây lát, quần đệ tử phái Tinh Tú liền nhao nhao lên:
- Đại anh hùng Cái Bang ơi, ngài tha mạng cho con là hay hơn hết,
bọn kia chẳng có đứa nào trung tâm chỉ có mình con một lòng một dạ, hết
lòng hết sức.
- Đại anh hùng ơi, công phu của môn phái Tinh Tú, chỉ có mình con
biết nhiều nhất, tất mọi thứ con sẽ nói hết cho ngài nghe, không dám dấu
diếm tí gì.
- Bản phái đến Trung Nguyên lần này là có mưu tính ghê gớm lắm,
chủ yếu là để đối phó với Cái Bang. Các vị đại anh hùng ơi, các ngài có
muốn biết rõ không?
- Chúng tôi chôn dấu rất nhiều bạc vàng châu báu ở biển Tinh Tú,
chỗ nào nơi nào nhà cháu cũng biết. Nhà cháu xin dẫn các ngài đến đào,
các vị anh hùng hảo hán Cái Bang từ nay khỏi phải đi ăn xin nữa.
Mấy người đó mồm năm miệng mười, người nào cũng nịnh nọt khoe
mình trung thành, kẻ thì lấy lợi ra dụ, người lại muốn gợi tính tò mò của
đối phương, có đứa thì lại công nhiên nói phét, một tấc lên đến trời. Cả
đến kẻ đã bị rắn độc cắn trúng, hoặc bị trăn cuốn thở không ra hơi cũng
sợ mình đi sau thiên hạ, phều phào van lạy xin tha.
Người trong Cái Bang đâu có ngờ đệ tử phái Tinh Tú lại hèn mạt đến
thế, không khỏi khinh thị, lại thêm hiếu kỳ, lục tục đến gần nghe cho rõ.
Toàn Quan Thanh cười khẩy:
- Các ngươi đối với sư phụ còn chả trung thành, làm gì có chuyện hết
lòng với người ngoài chẳng có liên hệ gì? Nghe thật tức cười quá!
Một tên đệ tử phái Tinh Tú vội nói:
- Không thể so sánh thế được! Hoàn toàn không giống! Hoàn toàn
không giống! Tinh Tú Lão Quái bản lãnh thấp kém, chúng tôi có coi y ra
gì đâu? Trung thành với y để làm gì? Còn các anh hùng Cái Bang võ
công uy chấn thiên hạ, lại có đại pháp thuật khu xà chế địch14, Tinh Tú
Lão Quái làm sao bì kịp?
- Cái Bang nếu thu nạp đệ tử phái Tinh Tú thì võ lâm cả Trung
Nguyên lẫn Tây Vực đều chấn động, ai mà chẳng bội phục Cái Bang anh
hùng?
- Hai chữ anh hùng đâu đã đủ ca ngợi các vị cao nhân hiệp sĩ, mà
phải gọi là đại hiệp, thánh nhân, vị cứu tinh mới đúng.
- Ta nói giỏi làm hay, từ nay chu du bốn phương, đi đâu cũng tuyên
dương uy đức thì danh vọng các đại hiệp Cái Bang ai ai cũng biết.
- Gớm, danh đầu các đại hiệp Cái Bang thiên hạ ai mà chẳng biết,
cần đếch gì đến ngươi ca tụng?
- Mấy tiếng thánh nhân cứu tinh là do tiểu nhân nói trước tiên,
bọn kia chỉ theo đuôi, chẳng có công lao gì.
Một tên đệ tử năm túi của Cái Bang cau mày nói:
- Bọn các ngươi hèn hạ tiểu nhân như thế, nói lèm bèm chỉ thêm bẩn
tai. Tinh Tú Lão Quái, sao ngươi đốn mạt thế, thu nạp toàn bọn đệ tử vô
liêm sỉ là sao? Ta thanh toán ngươi trước, sau đó sẽ đưa luôn cả bọn này
theo ngươi, lão tử hôm nay đại khai sát giới.
Nói xong nghe bình một tiếng đánh thẳng vào Đinh Xuân Thu.
Chưởng đó hơi gió vù vù, kình đạo thật là cương mãnh, trúng ngay ngực
Đinh Xuân Thu. Ngờ đâu Đinh Xuân Thu dường như không sao cả, còn
gã Cái Bang kia hai gối nhũn đi, phục ngay xuống đất, co rúm lại, dãy
dụa mấy cái rồi không còn động đậy gì nữa. Quần cái kinh hãi, cùng kêu
lên:
- Sao thế này?
Lập tức có hai tên ăn mày đến đỡ y dậy, hai gã đó vừa chạm vào
người tên kia, cũng lại lảo đảo mấy cái rồi ngã xuống. Ba tên đệ tử Cái
Bang đứng bên cạnh thuận tay đưa ra giữ lại, cũng chẳng khác gì hai tên
kia, cùng gục xuống. Người Cái Bang còn lại ai nấy kinh hãi đến thất
thần, không còn ai dám xông lên tiếp cứu đồng bọn.
Toàn Quan Thanh quát lên:
- Lão già đó trên người có chất độc, mọi người chớ có chạm vào y.
Ném ám khí!
Tám chín tên đệ tử bốn, năm túi liền móc ám khí ra, cương tiêu, phi
đao, tụ tiễn, phi hoàng thạch cùng vèo vèo ném vào Đinh Xuân Thu.
Đinh Xuân Thu quát lên một tiếng, lắc đầu một cái, tóc bạc trên đầu xổ
tung ra, thật chẳng khác gì một loại nhuyễn tiên ngắn, hất ngược tất cả
hơn chục món ám khí lại. Chỉ nghe ối ối liên tiếp, sáu bảy têm đệ tử Cái
Bang bị bắn trúng. Những ám khí đó không phải cái nào cũng trúng chỗ
yếu hại, có món chỉ trầy xước ngoài da nhưng mấy tên Cái Bang lập tức
ngã lăn ra chết.
Toàn Quan Thanh kêu lớn:
- Lui ra! Lui ra!
Đột nhiên vụt một cái, một mũi cương tiêu phóng thẳng ra, chính là
do Đinh Xuân Thu dùng tóc giữ lại bây giờ vận kình ném vào người y.
Toàn Quan Thanh vội vàng dùng thiết địch trong tay gạt ra, nghe keng
một tiếng, hất bắn mũi cương tiêu ra thật xa. Y thấy Tinh Tú Lão Quái
quả nhiên lợi hại, chi bằng thúc giục trăn quấn chết y cho xong, bèn đưa
ống tiêu lên môi toan thổi, bỗng thấy môi tê đi, đầu choáng váng, mắt
hoa lên, biết là không ổn, vội vàng ném thiết địch, bịch một tiếng ngã lăn
ra.
Người của Cái Bang kinh hãi lập tức có hai người đến đỡ y, Toàn
Quan Thanh mơ mơ hồ hồ kêu lên:
- Ta... ta trúng độc rồi, các... các ngươi... mau chạy... chạy đi.
Quần cái ai nấy mất hồn mất vía, vội dìu y chạy bay chạy biến, để lại
xác chết, túi vải, rắn rết vung vãi khắp nơi.
Du Thản Chi nằm phục trong đám cỏ, hết sức kinh hãi, không dám cử
động. Bốn bề tĩnh mịch, hơn chục tên ăn mày co rút thành một cục, chẳng
khác gì những con nhím gặp phải nguy cơ, hiển nhiên đều chết cả rồi.
Những con trăn không còn nghe thấy tiếng tiêu của Toàn Quan Thanh
thúc giục nữa, không dám giết người, chỉ quấn chặt thầy trò Đinh Xuân
Thu. Người trong phái Tinh Tú không ai dám ngọ ngoạy, chỉ sợ khích
động hung tính của loài rắn, ngoặp cho một cái thì bỏ đời.
Yên lặng một hồi như thế, một tên trong bọn cất giọng nói trước:
- Sư phụ ôi, lão nhân gia thần công độc bộ thiên hạ, chỉ nói nói cười
cười ra tay một cái đã đánh cho bọn ăn mày ăn nhặt vạn ác bất xá kia
chạy cong đuôi...
Y nói chưa dứt câu đã có một tên khác cướp lời:
- Sư phụ đừng nghe y bợ đít, mới vừa đây chính nó gọi bọn ăn xin kia
là đại hiệp, thánh nhân chứ còn ai.
Lại có một đệ tử khác lên tiếng:
- Chúng ta theo sư phụ bao nhiêu năm nay, ai mà chẳng biết thầy
mình có tài thông thiên triệt địa? Vừa rồi chúng mình nói khuếch nói
khoác với bọn ăn mày, chẳng qua là để đánh lừa chúng, để khi chúng ỷ y
không đề phòng, sư phụ lúc ấy mới thi triển pháp lực vô biên.
Đột nhiên một người khóa òa lên:
- Sư phụ ôi! Sư phụ ôi! Đệ tử thật là đáng chết, đệ tử hồ đồ, tham
sống sợ chết, đầu hàng địch nhân, bây giờ hối hận còn làm sao kịp, đành
nguyện cho rắn độc cắn chết chứ không dám xin sư phụ nhiêu dung.
Cả đám bấy giờ mới vỡ lẽ ra, sư phụ ghét nhất là đổ tội cho người
khác, chỉ có cách tự xỉ vả mình hồ đồ đáng chết, đem bao nhiêu tội vạ
trút lên đầu mình may ra được sư phụ khai ân tha thứ. Chỉ trong phút
chốc, ai nấy đều tự chửi mình, nào là có lòng bất lương, nào là tội đáng
muôn thác. Riêng Du Thản Chi nằm trong bụi cỏ thấy hoa mắt nhức đầu,
chẳng hiểu ra sao.
Đinh Xuân Thu ám vận kình lực, định giựt đứt ba con trăn đang quấn
chặt lấy mình. Thế nhưng mãng xà có thể dãn ra co lại, Đinh Xuân Thu
vận sức, ba con rắn chỉ nhỉnh ra một chút, nhưng không đứt được. Người
lão ta chỗ nào cũng đầy chất độc, đến cả quần áo tóc tai cũng có nên bọn
đệ tử Cái Bang bắn ám khí vào lão ta đều bị nhiễm độc. Thế nhưng
những con trăn da dày, vảy trơn, độc tố khó mà xâm nhập. Chỉ nghe bọn
đệ tử lải nhải mãi không thôi, Đinh Xuân Thu bực quá quát lên:
- Đứa nào tìm cách đuổi được rắn đi thì ta tha chết cho đứa ấy.
Không lẽ chúng bay chưa biết tính ta nữa hay sao? Ai mà còn dùng được
thì ta chưa giết. Còn nói năng nhăng cuội có ích gì đâu?
Y vừa nói xong, quần đệ tử bèn lặng như tờ. Một lúc sau có người
nói:
- Chỉ cần có ai đốt một mồi lửa dí vào mấy con rắn thế là bọn súc
sinh này sẽ chạy te ngay.
Đinh Xuân Thu chửi liền:
- Cái con bà mày, nói thối bỏ mẹ. Nơi đây đồng không mông quạnh,
đằng trước không thôn, đằng sau không xóm, có ai qua đây bây giờ? Ví
phỏng có dân đi ngang qua, bọn chúng thấy lắm rắn độc thế này, sợ khiếp
vía chạy còn không kịp, lấy đâu ra chuyện đốt lửa mà hun?
Thế là bọn đệ tử lại rầm rĩ cả lên, nhưng chẳng có cách nào dùng
được, sở dĩ bọn chúng tranh nhau nói, chẳng qua để lấy lòng sư phụ, tỏ ra
mình tuân theo sư mệnh hết sức vắt óc ra để tìm mưu. Cứ như thế một hồi
lâu thì có một tên đệ tử bị trăn quấn nghẹt thở không chịu nổi, trong khi
mê loạn há mồm cắn vào thân mãng xà một cái. Con rắn bị đau, ngoặp
ngay cổ họng y, tên đó chỉ kêu lên thảm thiết rồi chết ngay.
Đinh Xuân Thu càng lúc càng nóng ruột, nếu như bị địch nhân vây
khốn thì trong bấy lâu y đã có thể hạ độc tính mưu tìm cách thoát thân,
thế nhưng những con rắn này vô tri vô thức, dù mưu kế hay cách mấy
cũng không sao thi hành được, chỉ sợ một khi chúng đói rồi, sẽ há mồm
nuốt mình vào bụng.
Mối lo của y quả nhiên đúng thực, một con trăn lâu không nghe thấy
tiếng sáo, bụng đói lắm rồi, há mồm ngoạm tên đệ tử Tinh Tú đang quấn.
Tên đệ tử đó kêu lên:
- Sư phụ cứu con! Sư phụ cứu con!
Hai cái chân y bị trăn nuốt trước rồi đến mình cũng từ từ chui vào,
miệng vẫn kêu la thảm thiết nhưng răng mãng xà hình móc15, chân tên đệ
tử đó chui vào rồi, dần dần đến bụng, lên đến ngực. Y nhất thời chưa
chết, vẫn lớn tiếng kêu la, vang dậy cả cánh đồng.
Mọi người ai nấy biết rằng số phận mình trong chốc lát rồi cũng như
thế, không khỏi sợ đến vỡ mật. Một người thấy Tinh Tú Lão Quái cũng
đành bó tay chịu chết, tự nhiên lòng căm hận nổi lên, lớn tiếng chửi bới,
nói mọi chuyện chẳng qua chỉ vì y ép buộc, mình đang sinh sống yên lành
bằng nghề nuôi cừu ở biển Tinh Tú, bị y vừa uy hiếp vừa dụ dỗ, bắt phải
gia nhập làm môn hạ, hôm nay chết thảm nơi miệng độc xà, xuống đến
cõi âm, thể nào cũng dâng cáo trạng lên Diêm Vương.
Gã đó mở đầu, bao nhiêu người khác cũng chửi theo. Mọi người ngày
thường bị Tinh Tú Lão Quái hành hạ ngược đãi, lòng đầy oán hận, có
điều chỉ để trong bụng mà không dám nói ra lời, hôm nay cũng cùng chết
cả nên chửi một phen cho hả tức. Một người chửi lớn quá thân hình dao
động, khiêu khích con rắn đang quấn, mãng xà liền há mồm ngoạm ngay
đầu vai, y chỉ có nước kêu lên:
- Ối! Ối! Cứu tôi với! Cứu tôi với!
Du Thản Chi thấy cả bọn ai cũng bị mãng xà quấn chặt không thể
nào thoát thân được, trong lòng không sợ hãi gì nữa, từ trong bụi cỏ đứng
lên, thấy nơi này không phải là chỗ tốt lành gì nên định chạy cho mau.
Người trong phái Tinh Tú đột nhiên thấy một quái nhân đầu đội lồng sắt,
ai nấy thất kinh nhưng lập tức có người nghĩ ra là chỉ còn trông vào y để
cứu mạng, liền kêu lên:
- Đại anh hùng ơi, đại hiệp sĩ ơi, nhờ ngài lấy nắm cỏ khô, đốt lửa
lên, đuổi giùm mấy con trăn này cho chúng tôi, mỗ lập tức tặng cho...
tặng cho ngài một nghìn lượng bạc.
Lại một người khác kêu lên:
- Một nghìn lượng đâu có đủ, phải ít nhất một vạn lượng.
Lại một người khác nói:
- Vị tiên sinh đây bụng nhân lòng hiệp, hết sức tử tế, chỉ chuyên
hành hiệp trượng nghĩa, huống chi đốt lửa dọa rắn thì có gì là nguy hiểm.
Chỉ trong giây lát tiếng ca tụng vang lên, còn kẻ hứa thưởng tiền thì
chỉ chớp mắt đã lên đến trăm vạn lượng hoàng kim. Những gã này mồm
miệng chửi ai thì số một đã đành mà nịnh bợ ca tụng thì cũng có bài có
bản. Du Thản Chi trong đời đã có bao giờ nghe ai gọi mình là đại hiệp
sĩ, đại anh hùng, người nhân kẻ hiệp, hảo hán trên đời có một
không hai bao giờ? Bây giờ nghe bọn người này tâng bốc lên tận mây
xanh, y cảm thấy hởi lòng hởi dạ, tưởng chừng như đang bay bổng, tự
nhiên cảm thấy mình có phong độ đại hiệp sĩ, đại anh hùng thật, một
trăm vạn lượng hoàng kim chẳng coi vào đâu, có điều A Tử cô nương
không được chính tai nghe những lời tán tụng mình quả cũng đáng tiếc.
Y bèn gom cỏ khô, mò trong người đồ đánh lửa châm vào nhưng khi
thấy bao nhiêu là trăn lớn trông thật hung dữ, trong bụng cũng sợ lắm,
nghĩ thầm thôi chẳng nên trêu vào những con rắn này, không chừng chính
mình cũng vướng vào trong rọ. Y suy nghĩ một lát bèn đi gom các cành
khô đốt thành một đống lửa thật lớn ở ngay trước mặt, sau đó mới cầm
một cành cây đang cháy, ném vào con trăn lớn gần mình nhất.
Y đứng nấp ở sau đống lửa, nép người lại để nếu con mãng xà phóng
tới cắn mình thì sẽ lập tức co giò chạy thoát thân, cái danh đại anh
hùng, đại hiệp sĩ cũng chẳng màng chi nữa.
Trăn quả nhiên sợ lửa, thấy lửa lem lém ở bên cạnh lập tức đang
quấn người liền lỏng ra, chui vào trong cỏ. Du Thản Chi thấy đốt lửa kiến
hiệu, trong tiếng hoan hô của phái Tinh Tú, cầm hết que củi này đến que
củi khác vứt ra. Những con rắn lập tức lúc nhúc bỏ chạy, đến những con
trăn lớn dài mấy trượng cũng không chịu nổi lửa nóng đành thả người ra
chạy mất. Chỉ trong giây lát, mấy trăm con rắn và trăn đã đi hết sạch.
Các đệ tử phái Tinh Tú lớn tiếng ca tụng:
- Minh kiến của sư phụ quả xa vạn dặm, thật là thần cơ diệu toán,
dùng hỏa công linh nghiệm biết bao.
- Sư phụ hồng phúc tề thiên, phùng hung hóa cát.
- Mọi việc đều do sư phụ tính toán mới cứu được cái mạng kiến của
chúng con.
Bao nhiêu lời ca tụng toàn là nhắm vào công đức của sư tôn Tinh Tú
Lão Quái, còn công lao đốt lửa đuổi rắn của Du Thản Chi chẳng ai nhắc
đến một câu. Du Thản Chi đứng ngơ ngẩn như trời trồng, hơi lấy làm lạ,
nghĩ thầm: Mới đây cả bọn chúng bay còn chửi sư phụ không tiếc lời,
bây giờ lại tán tụng tận mây xanh, cái tiếng đại anh hùng, đại hiệp sĩ
của ta nay thành thằng nhãi này, ấy là vì cớ gì?.
Đinh Xuân Thu vẫy tay nói:
- Thằng đầu sắt kia, lại đây, tên ngươi là gì?
Du Thản Chi bị người ta khinh khi đã quen, thấy đối phương vô lễ,
cũng chẳng để bụng nói:
- Tôi tên Du Thản Chi.
Nói xong đi tới mấy bước. Đinh Xuân Thu hỏi:
- Mấy tên ăn mày kia đã chết chưa? Ngươi thử lại sờ mũi y xem có
còn thở không nào?
Du Thản Chi đáp:
- Vâng!
Y cúi xuống sờ mũi một tên đệ tử Cái Bang, thấy tay chạm vào lạnh
ngắt, gã đó chết từ lâu rồi. Y lại thăm một gã khác thì cũng đã tắt thở bèn
nói:
- Chết cả rồi, không còn thở tí nào cả.
Chỉ thấy bọn đệ tử phái Tinh Tú mặt mày hớn hở đứa nào đứa nấy ra
chiều hạnh tai lạc họa16. Y không hiểu vì sao, lại nhắc lại lần nữa:
- Chết cả rồi, không còn thở tí nào cả.
Những gã kia khuôn mặt đang nhăn nhở ra chiều diễu cợt bỗng nhiên
biến mất, từ từ chuyển sang lạ lùng, rồi trở thành kinh hãi. Đinh Xuân
Thu nói:
- Mỗi tên ăn mày ngươi thử dò xem có đứa nào còn cứu được không?
Du Thản Chi đáp:
- Vâng!
Y bèn thăm dò hết lượt hơn chục tên ăn mày rồi lắc đầu:
- Người nào cũng chết cả rồi. Công lực của lão tiên sinh ghê gớm
thật.
Đinh Xuân Thu cười khẩy:
- Công phu kháng độc của ngươi còn ghê gớm hơn nhiều.
Du Thản Chi lạ lùng hỏi:
- Tôi...cái gì... công phu kháng độc của tôi ư?
Y hoang mang không hiểu ý tứ câu nói của Đinh Xuân Thu ra sao,
cũng chẳng biết rằng mỗi lần mình thò tay xem hơi thở của người trong
Cái Bang là một lần đến quỉ môn quan, sờ thử hơn mười người, là trải qua
hơn mười lần chết đi sống lại. Y nào có biết được rằng, Tinh Tú Lão Quái
bị trăn quấn không sao thoát thân được tất cả đều do tiểu tử này cứu
mạng, nếu như truyền ra trên giang hồ thì chẳng còn mặt mũi nào, thành
thử khi rắn trăn đi khỏi rồi lập tức nảy ra ý định giết y để bịt miệng.
Ngờ đâu trong mấy tháng qua Du Thản Chi tập luyện liên tục nên độc
chất của con băng tàm đã dung hợp trong cơ thể, những gì Đinh Xuân Thu
thổi vào xác những tên đệ tử Cái Bang kia không làm gì y nổi.
Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: Cứ nhìn da tay và nghe giọng nói của gã
này thì xem ra còn trẻ lắm, chắc không có bản lãnh gì chân thực đâu, có
lẽ trên người y có chất gì kỵ độc như hùng hoàng châu, tịch tà kỳ hương
chẳng hạn, hay đã uống sẵn thuốc giải nên không bị chất độc xâm nhập.
Y liền nói:
- Du huynh đệ, ngươi lại đây, ta có chuyện muốn nói.
Du Thản Chi thấy y nói ra vẻ thành khẩn nhưng đã từng chứng kiến
thủ đoạn giết bọn Cái Bang thật là tàn độc, thầy trò y khi thì nịnh bợ tâng
bốc, lúc lại chửi bới nhục mạ lẫn nhau, biết hạng người này thật khó mà
đối phó, chi bằng kính nhi viễn chi là hơn bèn đáp:
- Tiểu nhân đang có chuyện cần, không thể phụng bồi, xin cáo từ.
Nói xong chắp tay chào, quay mình đi thẳng. Y mới đi được mấy
bước, đột nhiên thấy bên cạnh người có hơi một chút gió, hai cổ tay ghịt
lại thì ra đã bị nắm chặt. Du Thản Chi quay đầu nhìn, thấy người nắm tay
mình chính là một đệ tử phái Tinh Tú. Y không hiểu đối phương có dụng
ý gì nhưng thấy mặt y nở một nụ cười nham hiểm, xem ra không có hảo
ý, trong lòng kinh hãi kêu lên:
- Bỏ ta ra!
Y giằng mạnh một cái, bỗng thấy có vật gì bay vụt ngang đầu, một
thân hình to lớn từ sau lưng nhảy qua người y, bình một tiếng, giáng mạnh
vào vách đá trước mặt, đầu vỡ tan, nát ngướu thành một cục bầy nhầy.
Du Thản Chi thấy gã đó đụng mạnh như thế, không sao tin nổi, còn
đang ngạc nhiên, nhìn kỹ lại hóa ra chính là gã vừa nắm tay mình, càng
thêm kỳ quái: Gã này đang khỏe mạnh như thường, sao tự nhiên lại lao
đầu vào đá tự tử ? Không lẽ hóa điên chăng?. Y có ngờ đâu chính là vì
mình giãy một cái, một luồng kình lực đưa ra ném gã kia vào trong núi.
Quần đệ tử phái Tinh Tú ai nấy sợ hãi kêu lên, mặt mày biến sắc.
Đinh Xuân Thu thấy y ra tay quật chết đệ tử mình, thủ pháp thật là
vụng về quờ quạng, không phải công phu thượng thừa, chỉ vì sức lực
mạnh lạ lùng mà ra, nghĩ thầm người này trời cho thần lực, võ công lại
tầm thường, lập tức nhún mình một cái, giơ tay chộp vào đầu y. Du Thản
Chi không kịp đề phòng lập tức bị đè đến quì xuống đất, bèn chõi lên
định đứng dậy, nhưng đầu tưởng như đang đội một khối đá vạn cân,
không cách nào động đậy gì được vội vàng van xin:
- Xin lão tiên sinh tha cho.
Đinh Xuân Thu thấy y mở miệng xin tha nên cũng yên tâm hỏi lại:
- Sư phụ ngươi là ai? Sao ngươi dám to gan, giết đệ tử của ta?
Du Thản Chi đáp:
- Tôi... tôi không có sư phụ. Tiểu nhân chẳng bao giờ dám giết đệ tử
của lão tiên sinh.
Đinh Xuân Thu nghĩ bụng chẳng cần nhiều lời với y làm gì, giết
người diệt khẩu cho được việc, nên buông tay ra đợi Du Thản Chi vừa
đứng lên liền múa chưởng đánh vào ngực y. Du Thản Chi kinh hãi vội
vàng đưa tay gạt ra. Thế đánh của Đinh Xuân Thu thật chậm, Du Thản
Chi vừa đưa tay ra đụng ngay phải chưởng tâm của lão. Đinh Xuân Thu
vốn đã tính trước, chất độc trong người theo nội kình lòng bàn tay tống ra,
chính là công phu Hóa Công Đại Pháp thành danh mấy chục năm qua,
trong chưởng hoặc chứa kịch độc, hoặc hóa tán nội lực kẻ địch trong
khoảnh khắc, kẻ thì chết ngay tại chỗ, có kẻ đau đớn quằn quại mấy
tháng mới chết toàn do ý muốn thi triển khác nhau.
Trong đời Đinh Xuân Thu đã từng dùng pháp môn này giết không
biết bao nhiêu người, võ lâm nghe đến Hóa Công Đại Pháp ai ai cũng
căm hận chán ghét, sợ đến bủn rủn cả tay chân. Bắc Minh Thần Công
của Đoàn Dự hút nội lực người khác lấy làm của mình, khác hẳn với Hóa
Công Đại Pháp dùng chất kịch độc hóa tán nội công người khác, nhưng
người bị trúng phải thấy mình trong giây lát tiêu tán hết nội lực, chưa một
ai có kinh nghiệm của cả hai nên đều hiểu lầm. Đinh Xuân Thu thấy gã
đầu sắt sờ mũi hơn chục tử thi Cái Bang mà vẫn không trúng độc nên lập
tức thi triển bản lãnh tối đắc ý của lão ra.
Hai người song chưởng chạm nhau, thân hình Du Thản Chi lảo đảo,
lịch bịch lùi luôn sáu bảy bước, định gượng dậy nhưng cũng phải ngồi
phệt xuống, vậy mà dư lực vẫn còn đẩy y ngã ngửa, đầu va xuống đất,
lộn tùng phèo ba bốn vòng mới ngừng lại được. Y vội vàng liên tiếp khấu
đầu van xin:
- Lão tiên sinh tha mạng! Lão tiên sinh tha mạng!
Đinh Xuân Thu hai tay đụng với y thấy Du Thản Chi nội lực hùng
mạnh, kình đạo âm hàn, thật là quái dị, lại có ngầm chứa chất cực độc,
tuy bị mình đẩy ngã lăn chòng chọc thật là thê thảm, nhưng nếu so sánh
nội lực và độc kình thì không kém gì mình, vậy mà lại van xin cầu tha
mạng? Không lẽ y thực sự không biết? Lão liền tiến lên hỏi lại:
- Ngươi cầu xin ta tha mạng, đó là thực lòng hay là giả ý?
Du Thản Chi vẫn một mực rập đầu van lạy:
- Tiểu nhân một lòng thành thực, cầu xin lão tiên sinh tha mạng cho
tiểu nhân.
Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: Gã này không biết dùng cách gì, gặp
được cơ duyên làm sao mà chất độc tích trong người còn hơn cả ta, quả là
một kỳ bảo. Ta phải tìm cách tóm lấy gã dò xem pháp môn luyện công ra
sao sau đó hút hết chất độc trong người y, lúc đó mới xử tử. Còn nếu chỉ
giết y đi thì thật uổng quá!. Ông ta giơ chưởng ấn xuống đầu Du Thản
Chi, hơi vận nội lực nói:
- Trừ phi ngươi bái ta làm thầy, nếu không ta làm sao tha mạng cho
ngươi được?
Du Thản Chi thấy chiếc lồng sắt trên đầu như bị đút vào lò lửa, nóng
đến mặt hừng hực, trong bụng hết sức sợ hãi. Y từ khi bị A Tử hành hạ
dày vò trở nên bảo sao nghe vậy, chẳng còn phân biệt thiện ác thị phi,
bao nhiêu cốt khí cứng cỏi ương ngạnh mất sạch, chỉ sao được bảo toàn
tính mạng nên lật đật nói:
- Sư phụ, đệ tử Du Thản Chi cam nguyện gia nhập môn hạ của sư
phụ, xin lão nhân gia thu nạp cho.
Đinh Xuân Thu mừng lắm, thản nhiên nói:
- Ngươi muốn bái ta làm thầy thì cũng được. Thế nhưng qui củ bản
môn thật nhiều, ngươi có tuân thủ được không? Ví thử sư phụ bảo làm gì,
ngươi có thành tâm thành ý làm hết lòng, quyết không vi kháng chăng?
Du Thản Chi đáp:
- Đệ tử nguyện tuân thủ qui củ, phục tòng mệnh lệnh của sư tôn.
Đinh Xuân Thu hỏi thêm:
- Nếu sư phụ muốn lấy mạng ngươi, ngươi có cam tâm tình nguyện
chịu chết không?
Du Thản Chi ấp úng:
- Cái đó... cái đó...
Đinh Xuân Thu nói:
- Ngươi nghĩ cho chín, cam tâm thì là cam tâm, không bằng lòng thì
nói không bằng lòng.
Du Thản Chi nghĩ thầm: Nếu ông muốn lấy mạng tôi thì dĩ nhiên
không cam tâm rồi. Nếu tới lúc đó trốn được là mình trốn ngay, còn như
chạy không xong thì dù không cam tâm cũng đành vậy chứ biết sao hơn.
Y bèn nói:
- Đệ tử cam tâm chịu chết vì sư phụ.
Đinh Xuân Thu cười ha hả nói:
- Hay lắm, hay lắm! Ngươi đem tất cả mọi chuyện trong đời nói hết
cho ta nghe.
Du Thản Chi không muốn nói rõ hết cho ông ta nghe thân thế và
những gặp gỡ trong đời, chỉ nói mình là con nhà nông bị người Liêu bắt
trong một kỳ đi gặt, đội cho y một cái lồng sắt. Đinh Xuân Thu hỏi y
độc chất vì đâu mà có, Du Thản Chi chỉ thổ lộ vì sao thấy con băng tàm
và nhà sư Tuệ Tịnh, ăn cắp con tằm ra sao rồi nói láo là sơ ý nên bị con
băng tàm trong hồ lô cắn vào tay khiến cho toàn thân đông cứng, còn con
tằm thì chết, còn chuyện A Tử tu luyện độc chưởng y bỏ qua không đề
cập tới.
Đinh Xuân Thu hỏi kỹ lưỡng hình dáng và tình trạng con băng tàm,
trên mặt không khỏi lộ vẻ thèm thuồng thán phục. Du Thản Chi nghĩ
thầm: Nếu ta nói đến cuốn sách ướt hiện hình lên y thể nào cũng cướp
mất không trả lại đâu. Đinh Xuân Thu lại gặng hỏi công phu cổ quái y
luyện thế nào nhưng y nhất quyết không hé răng.
Đinh Xuân Thu vốn dĩ đâu có biết đó là công phu Dịch Cân Kinh thấy
võ công y hết sức kém cỏi lại tưởng vì y luyện được nội kình âm hàn
hoàn toàn chỉ do con băng tàm mà có, trong bụng không khỏi chửi thầm:
Loại thần vật như thế mà lại bị tên tiểu tử này thần xui quỉ khiến làm
sao hút được vào người, thật uổng quá. Y suy nghĩ một chút bèn hỏi
thêm:
- Thế nhà sư mập bắt được con tằm đó, ngươi bảo là nghe người khác
gọi là Tuệ Tịnh ư? Là sư chùa Thiếu Lâm, chấp tác nơi chùa Mẫn Trung
ở Nam Kinh?
Du Thản Chi đáp:
- Quả đúng thế.
Đinh Xuân Thu nói:
- Gã Tuệ Tịnh đó bảo là bắt được con băng tàm ở trên đỉnh núi Côn
Lôn. Thế thì tốt lắm, ở đó đã có một con thì hẳn sẽ có hai con, ba con. Có
điều núi Côn Lôn vuông vức mấy nghìn dặm, nếu không phải người thuộc
đường đưa đi thì không phải dễ gì mà bắt được.
Lão đã đích thân nếm mùi linh nghiệm của con băng tàm, tính ra so
với Thần Mộc Vương Đỉnh còn quí hơn nhiều, thấy chuyện cần kíp trước
mắt phải làm sao ép được nhà sư Tuệ Tịnh dẫn đường đi lên núi Côn Lôn
bắt con trùng quí. Hòa thượng đó thuộc phái Thiếu Lâm, vốn cũng khó
mà động tới được, nay lại ở Nam Kinh thế thì may quá. Sau đó Du Thản
Chi làm lễ bái sư gia nhập phái Tinh Tú.
Bọn đệ tử phái Tinh Tú thấy sư phụ có chiều thương mến y cho nên
lập tức xúm lại ninh bợ, tán tụng không tiếc lời. Mới rồi cả bọn chửi bới
Tinh Tú Lão Quái, phản nghịch hàng địch nhưng lúc này Đinh Xuân Thu
đang cần người nên giả bộ làm như không nhớ đến, vả lại những chuyện
đó thì y cũng đã biết thừa nên không thấy bực tức chút nào.
Đoàn người liền chuyển qua đi về hướng đông bắc. Du Thản Chi đi
sau Đinh Xuân Thu thấy lão tay áo rộng phất phới, bộ pháp nhẹ nhàng
thật chẳng khác gì thần tiên, trong lòng tự nhiên sinh kính ngưỡng: Ta
bái một vị tài ba thế này làm sư phụ, quả đúng là kiếp trước khéo tu.
Người phái Tinh Tú đi ba ngày liền, đến xế trưa hôm đó, cả bọn ở lại
một tòa lương đình ở bên đường uống nước nghỉ ngơi, bỗng nghe phía sau
có tiếng vó ngựa, bốn kỵ sĩ từ phía đường bên kia chạy tới. Bốn con ngựa
đó chạy tới gần căn nhà mát, người đầu tiên kêu lên:
- Đại ca, nhị ca, trong đây có nước, mình ghé lại uống vài bát cho
ngựa nghỉ một chút.
Y vừa nói vừa nhảy xuống ngựa, đi vào lương đình, ba người còn lại
cũng hạ mã. Bốn người đó thấy bọn Đinh Xuân Thu, hơi gật đầu chào, đi
đến bên chum nước, cầm bát lên múc nước uống. Du Thản Chi thấy người
đi đầu mặc áo đen, bé nhỏ gầy gò, trên mép để hai chòm râu đuôi chuột
vẻ mặt ranh mãnh. Người thứ hai mặc áo bào màu hoàng thổ, cao lỏng
khỏng, hai lông mày xuôi xuống, vẻ mặt cáu kỉnh trông như người ốm dở.
Người thứ ba mặc trường bào màu đỏ cánh kiến, thân hình cao lớn, tai to
mặt vuông, dưới cằm là một bộ râu hoa râm khá rậm trông chẳng khác gì
một phú thương. Người sau cùng mặc áo xanh khăn áo theo vẻ nho sinh,
chừng trên dưới năm mươi, đôi mắt lờ đờ dường như vì đọc sách nhiều
quá nên cập kèm, không uống nước mà cầm chiếc hồ lô lên tu rượu ừng
ực.
Cũng vừa khi đó, từ phía đường trước mặt, một nhà sư xăng xái đi tới,
đến trước lương đình, chắp hai tay cung kính nói:
- Chúng vị thí chủ, tiểu tăng đi đường khát nước, xin được vào trong
đình nghỉ ngơi, uống bát nước.
Người áo đen cười đáp:
- Sư phụ chẳng phải đa lễ, ở đây ai cũng là người qua đường, tòa nhà
mát này có phải chúng tôi dựng lên đâu, xin mời vào nghỉ.
Nhà sư đáp:
- A Di Đà Phật, xin đa tạ.
Nói xong ông ta đi vào trong lương đình. Nhà sư đó tuổi chừng hai
mươi nhăm, hai mươi sáu, mắt to mày rậm, mũi to nhưng tẹt, mặt mày
không lấy gì làm đẹp trai, tăng bào tuy vá nhiều chỗ nhưng sạch sẽ. Y đợi
ba người kia uống xong lúc đó mới đến gần chum nước, dùng bát múc, hai
tay nâng lên, đôi mắt khép lại, cung kính đọc một bài kệ:
Phật quan nhất bát thủy
Bát vạn tứ thiên trùng
Nhược bất trì thử chú
Như thực chúng sinh nhục.
Ở trong lòng bát nước kia,
Phật trông thấy tám muôn tư côn trùng.
Chú này chưa tụng cho xong,
Khác gì ăn thịt một vùng chúng sinh.
Rồi y niệm:
- Am phọc thái ba la ma ni sa ha.
Niệm xong y mới bưng bát nước lên để vào miệng uống. Gã áo đen
lấy làm lạ bèn hỏi:
- Tiểu sư phụ, chú xí xa xí xố niệm chú gì đó?
Nhà sư đáp:
- Tiểu tăng niệm đó là ẩm thủy chú. Phật dạy rằng trong mỗi bát
nước đều có tám vạn bốn ngàn loại côn trùng, người xuất gia giới sát
thành ra phải niệm ẩm thủy chú xong lúc đó mới uống được.
Người áo đen cười sằng sặc nói:
- Nước trong veo, đến một con trùng cũng không có, tiểu sư phụ chỉ
giỏi nói đùa.
Nhà sư nghiêm trang đáp:
- Thí chủ có chỗ không biết. Chúng ta là bọn phàm phu nhìn vào thì
trong nước không có côn trùng nhưng đức Phật nhìn bằng thiên nhãn, thấy
trong nước tiểu trùng hàng nghìn hàng vạn con.
Người áo đen cười hỏi lại:
- Thế chú niệm ẩm thủy chú rồi uống tám vạn bốn nghìn con trùng
kia vào bụng thì tiểu trùng không chết hay sao?
Nhà sư trù trừ rồi đáp:
- Cái... cái đó... sư phụ tiểu tăng chưa dạy. Có lẽ tiểu trùng không
chết đâu.
Người áo vàng chen vào:
- Sai bét rồi, không phải vậy! Tiểu trùng cũng vẫn chết chứ. Có điều
tiểu sư phụ niệm chú rồi, tám vạn bốn nghìn con trùng kia đi thẳng lên
tây phương cực lạc thế giới, tiểu sư phụ uống một bát nước ấy là siêu độ
cho tám vạn bốn nghìn chúng sinh. Công đức thật là vô lượng! Quả thật là
vô lượng!
Nhà sư kia không biết y nói thật hay nói đùa, hai tay vẫn cầm bát
nước đứng ngơ ngơ ngẩn ngẩn, mồm lẩm bẩm:
- Một lần siêu độ tám vạn bốn ngàn chúng sinh ư? Tiểu tăng làm sao
có pháp lực to lớn dường ấy?
Người áo vàng đi đến bên cạnh nhà sư, cầm lấy bát nước trong tay y,
nhìn chăm chăm miệng đếm:
- Một, hai, ba, bốn, năm, sáu... một nghìn, hai nghìn, một vạn, hai
vạn... Sai bét rồi, không phải vậy! Tiểu sư phụ ơi ơi, trong cái bát này có
cả thảy tám vạn ba nghìn chín trăm chín mươi chín con tiểu trùng, thiếu
đâu mất một con.
Nhà sư nói:
- Nam Mô A Di Đà Phật, thí chủ chắc nói đùa, thí chủ là người phàm
làm sao có thần thông thiên nhãn được?
Người áo vàng đáp:
- Thế chú có thần thông thiên nhãn không?
Nhà sư đáp:
- Tiểu tăng dĩ nhiên cũng không có.
Người áo vàng nói:
- Sai bét rồi, không phải vậy! Ta xem chú có thiên nhãn thông, nếu
không làm sao chú chỉ mới nhìn thoáng qua đã biết ngay ta là kẻ phàm
phu tục tử mà không phải là bồ tát giáng trần?
Nhà sư nhìn y, nhìn tới nhìn lui đầy vẻ hoang mang. Đại hán mặc áo
màu cánh kiến liền đi tới cầm lấy bát nước, trả lại cho nhà sư cười nói:
- Sư phụ uống nước đi! Thằng em tôi đùa chơi với chú đấy mà, đừng
có coi là thật.
Nhà sư tiếp lấy bát nước cực kỳ cung kính đáp:
- Đa tạ! Đa tạ!
Trong bụng không biết phải làm sao nên không dám uống. Đại hán
kia lại tiếp:
- Ta xem tiểu sư phụ đi đứng nhanh nhẹn chắc biết võ công. Xin hỏi
pháp danh là gì, đang xuất gia tại chùa nào?
Nhà sư liền để bát nước trên nắp chum, hơi khom lưng nói:
- Tiểu tăng là Hư Trúc, xuất gia tại chùa Thiếu Lâm.
Người áo đen kêu lên:
- Hay quá! Hay quá! Hóa ra chú là cao thủ chùa Thiếu Lâm. Ra đây,
ra đây mau! Hai đứa mình làm thử một keo nào.
Hư Trúc cuống quít xua tay nói:
- Tiểu tăng võ công kém cỏi, làm sao dám động thủ cùng thí chủ?
Người áo đen cười:
- Mấy hôm nay không đánh nhau, ngứa tay ngứa chân quá. Chúng
mình làm vài chiêu, không cần đánh thật, có gì đâu mà sợ?
Hư Trúc lùi lại hai bước nói:
- Tiểu tăng tuy có luyện võ mấy năm thật nhưng chỉ cốt để cho thân
thể khỏe mạnh chứ nào có đánh nhau được đâu?
Người áo đen nói:
- Sư chùa Thiếu Lâm ai cũng võ công cao cường, người mới học đâu
có ai được ra khỏi sơn môn. Tiểu sư phụ đã được hạ sơn hẳn là phải nhất
lưu cao thủ. Lại đây nào! Hai đứa mình chỉ trao đổi một trăm chiêu, ai
thua ai được cũng chẳng sao cả.
Hư Trúc lại thoái lui thêm hai bước nữa nói:
- Thí chủ không biết, phen này tiểu tăng xuống núi chẳng phải vì võ
công đã đủ, chỉ vì nhà chùa sai rất đông đệ tử đi đưa thư, thiếu người nên
miễn cưỡng khiến luôn cả tiểu tăng cho đủ số. Tiểu tăng cầm cả thảy
mười trương anh hùng thiếp, sư phụ dặn kỹ là đưa đủ mười cái thiếp xong
là phải về chùa ngay, giá nào cũng không được động võ với ai, hiện nay
đã đưa được bốn lá thiếp rồi, trong người còn sáu cái. Thí chủ võ công
cao cường, vậy xin nhận một trương anh hùng thiếp.
Nói xong lấy trong túi ra một chiếc bao bằng vải dầu, mở lấy ra một
phong bì đỏ chói, cung kính đưa lên nói:
- Xin hỏi cao tính đại danh của thí chủ để tiểu tăng khi về chùa bẩm
lại với sư phụ.
Hán tử áo đen không cầm tờ thiếp chỉ nói:
- Nếu như ngươi không đánh nhau với ta thì ta còn anh hùng cẩu
hùng gì nữa? Hai đứa mình sách giải vài chiêu, ta có thắng ngươi lúc đó
mới dám nhận anh hùng thiếp.
Nói xong y tiến lên hai bước, nhứ tay trái, tay phải đấm luôn vào mặt
Hư Trúc nhưng quyền sắp đến đã thu lại kêu lên:
- Trả đòn mau.
Người cao to từ khi thấy Hư Trúc nói đến ba chữ anh hùng thiếp thì
đã chú ý lắng tai nghe lúc này lên tiếng:
- Tứ đệ, không nên tỉ võ vội, trước hết xem anh hùng thiếp xem nói
những gì.
Y cầm lấy lá thiếp từ tay Hư Trúc thấy trên đó viết:
Trụ trì chùa Thiếu Lâm Huyền Từ, chắp tay cung thỉnh anh hùng
thiên hạ, vào giai tiết Trùng Dương mồng chín tháng chín, xin vui lòng
đến Tung Sơn Thiếu Lâm Tự để kết mối thiện duyên, đồng thời chứng
kiến phong phạm dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân của nhà Mộ Dung Cô
Tô.
Đại hán đó liền kêu lên một tiếng, cầm tờ thiếp giao cho nho sinh
đứng bên cạnh, nói với Hư Trúc:
- Phái Thiếu Lâm chiêu khai anh hùng đại hội, hóa ra là để gây
chuyện với Mộ Dung Cô Tô...
Hán tử áo đen liền la to:
- Hay lắm! Hay lắm! Ta tên là Nhất Trận Phong Phong Ba Ác, chính
là thủ hạ của họ Mộ Dung Cô Tô đây. Phái Thiếu Lâm muốn làm khó
Mộ Dung Cô Tô thì chẳng việc gì phải mở anh hùng đại hội, ngay bây
giờ ta xin lãnh giáo thân thủ cao chiêu của phái Thiếu Lâm.
Hư Trúc lại lùi thêm hai bước, chân trái đã bước ra khỏi lương đình
nói:
- Thì ra là Phong thí chủ. Sư phụ tiểu tăng có dặn là, tệ tự cung thỉnh
Cô Tô Mộ Dung thí chủ đến chùa, quyết không dám đắc tội. Có điều là
trên giang hồ ai ai cũng xầm xì, trong võ lâm những năm gần đây không
ít anh hùng hảo hán bỏ mình vì thần công dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân
của nhà Mộ Dung Cô Tô. Sư bá tổ của tiểu tăng là Huyền Bi đại sư viên
tịch tại chùa Thân Giới nước Đại Lý, không biết có liên can gì với họ Mộ
Dung không, tệ phái từ phương trượng đại sư giở xuống, ai ai cũng nghi
hoặc, thành ra mới...
Người áo đen liền ngắt lời:
- Chuyện đó vốn dĩ chẳng liên quan gì đến nhà Cô Tô Mộ Dung
chúng ta cả, thế nhưng chúng ta nói các ngươi nào có ai chịu tin đâu, nếu
như nói chuyện không xong thì chỉ còn nước quyền cước phân hơn thiệt.
Ví như thế, hai người mình hôm nay đánh nhau một trận, cũng như trước
khi diễn trò thì đánh phèng la chiêng trống, sắp vào vở tuồng thì nói lối
mấy câu giáo đầu, có thế mới vui. Còn đến tiết Trùng Dương mồng chín
tháng chín, Phong mỗ sẽ đến chùa Thiếu Lâm, từ dưới đánh lên, không
sót một mống, thế mới thống khoái. Có điều chỉ đánh được chừng mười
bảy mười tám mạng là Phong mỗ khắp người thương tích, không còn đánh
tiếp được nữa, muốn giao thủ với Huyền Từ lão phương trượng, chắc là
không thể nào có cơ duyên. Tiếc quá! Tiếc quá!
Y vừa nói vừa xắn tay áo dường như muốn xông lên động thủ. Hán tử
to cao nói:
- Tứ đệ, hãy khoan đã, nói năng cho minh bạch rồi đánh cũng chưa
muộn.
Người áo vàng chặn lại:
- Sai bét rồi, không phải vậy! Nói cho minh bạch xong thì đâu cần
đánh nữa. Tứ đệ, cơ hội tốt chớ để mất, nếu muốn đánh nhau thì chớ có
nói cho minh bạch.
Người đàn ông to cao kia không nhìn nhõi gì đến y quay sang nói với
Hư Trúc:
- Tại hạ là Đặng Bách Xuyên còn người này là nhị đệ Công Dã Can.
Y vừa nói vừa chỉ vào người nho sinh, rồi chỉ vào người áo vàng:
- Còn đây là tam đệ Bao Bất Đồng, chúng tôi đều là thủ hạ của Mộ
Dung công tử.
Hư Trúc liền chắp tay chào bốn người miệng nói:
- Đặng thí chủ, Công thí chủ...
Bao Bất Đồng chen vào:
- Sai bét rồi, không phải vậy! Nhị ca ta họ kép là Công Dã, ngươi lại
gọi Công thí chủ, thật sai hết chỗ nói.
Hư Trúc vội nói:
- Xin lỗi! Xin lỗi! Tiểu tăng chẳng có học vấn, xin Công Dã thí chủ
đừng trách. Bao thí chủ...
Bao Bất Đồng lại chặn ngang:
- Nhà ngươi lại cũng sai nữa rồi. Ta tuy họ Bao thật nhưng xưa nay
đã từng bố thí cho sư cho vãi bao giờ đâu, không thể nào gọi ta là Bao thí
chủ được.
Hư Trúc lật đật nói:
- Dạ! Dạ! Bao tam gia, Phong tứ gia.
Bao Bất Đồng liền đáp:
- Ngươi lại sai rồi! Phong tứ đệ của ta muốn cùng người giao đấu,
không kể ai ăn ai thua thì ngươi cũng một phen thêm lịch duyệt, võ công
ắt là trường tiến, thế chẳng phải đã bố thí cho ngươi hay sao?
Hư Trúc vội đáp:
- Vâng! Vâng! Phong thí chủ, có điều là tiểu tăng nhất quyết không
đánh nhau. Người xuất gia tu hành là gốc, học võ chỉ là ngọn, võ công
trường tiến hay không, cũng không quan hệ gì lắm.
Phong Ba Ác thở dài:
- Ngươi coi võ học xem thường như thế, võ công chắc cũng tầm
thường, thôi trận này chẳng cần đấu nữa.
Nói xong lắc đầu quầy quậy ra chiều thất vọng. Hư Trúc chẳng khác
gì trút được gánh nặng trên vai, mặt mày tươi rói nói:
- Phải lắm! Phải lắm!
Đặng Bách Xuyên nói:
- Hư Trúc sư phụ, cánh thiếp anh hùng này, chúng tôi đại diện công
tử nhận. Công tử chúng tôi mấy tháng trước đây đã từng đến bái phỏng
quí tự, không lẽ chưa tới nơi hay sao?
Hư Trúc đáp:
- Chưa thấy đến. Phương trượng đại sư vẫn mong Mộ Dung công tử
đến thăm nhưng đợi lâu quá mà không thấy, đã từng hai lần phái người
đến quí phủ bái phỏng, nghe tin Mộ Dung lão thí chủ qui tây, thiếu thí
chủ ra ngoài. Phương trượng đại sư lần này nhờ thủ tọa Đạt Ma Viện đến
tận tôn phủ ở Tô Châu đưa thư, lại sợ Mộ Dung thiếu thí chủ không có
nhà nên gửi anh hùng thiếp đến đông đảo đồng đạo giang hồ, những điều
thất lễ xin nhờ bốn vị bẩm lại Mộ Dung công tử cho minh bạch. Sang
năm Mộ Dung thí chủ giá lâm tệ tự, phương trượng đại sư sẽ đích thân tạ
tội sau.
Đặng Bách Xuyên nói:
- Tiểu sư phụ không phải khách sáo quá. Kỳ hội còn đến hơn nửa
năm, tới lúc đó công tử chúng tôi thể nào cũng đến thăm quí tự, bái kiến
phương trượng đại sư.
Hư Trúc chắp tay khom lưng chào nói:
- Mộ Dung công tử cùng các vị giá lâm Thiếu Lâm Tự, phương
trượng đại sư chúng tôi cực kỳ hoan nghênh. Hai chữ bái kiến thật
không dám nhận.
Phong Ba Ác thấy y cực kỳ chấp nê, không có chút gì khẳng khái hào
sảng của võ lâm, tuy cũng là nhà sư đấy nhưng thật chẳng có vẻ gì là
hòa thượng chùa Thiếu Lâm danh tiếng trên đời, trong lòng không lấy
gì làm vui lắm, chẳng ngó ngàng gì đến y nữa, quay sang xem xét bọn
Đinh Xuân Thu. Y thấy quần đệ tử phái Tinh Tú tay cầm binh khí, hiển
nhiên cũng là người trong võ lâm, liền tìm xem có người nào xứng đáng
là đối thủ để mời ra đánh nhau một trận.
Du Thản Chi từ khi thấy bốn người này đi vào lương đình, lập tức nấp
vào đằng sau sư phụ. Đinh Xuân Thu thân thể cao to, che khuất y nên bọn
bốn người Đặng Bách Xuyên không nhìn thấy cái đầu sắt quái dị. Phong
Ba Ác thấy Đinh Xuân Thu đồng nhan hạc phát, tiên phong đạo cốt, trông
ra vẻ thế ngoại cao nhân, trong bụng không khỏi có chiều kính ngưỡng,
thành thử chưa dám ngang nhiên tiến lên khiêu chiến liền hỏi:
- Vị lão tiền bối kia xin hỏi cao tính đại danh là gì?
Đinh Xuân Thu mỉm cười đáp:
- Ta họ Đinh.
Vừa lúc đó Hư Trúc bỗng kêu lên một tiếng nói:
- Sư thúc tổ lão nhân gia cũng đã đến rồi.
Phong Ba Ác quay đầu lại thấy trên đường cái bảy tám hòa thượng đi
tới, đi đầu là hai vị lão tăng, còn lại có hai người khiêng một chiếc cáng,
trên đó có người nằm. Hư Trúc vội vã đi ra khỏi lương đình, hành lễ với
hai nhà sư già rồi bẩm lại lai lịch của bốn người Đặng Bách Xuyên.
Nhà sư phía bên phải gật đầu, đi vào trong đình tiến đến chào bọn
Đặng Bách Xuyên rồi nói:
- Lão nạp là Huyền Nạn.
Ông chỉ về nhà sư già kia nói:
- Còn đây là sư đệ của lão nạp Huyền Thống may mắn được gặp bốn
vị đại hiền của Cô Tô Mộ Dung Trang.
Bọn Đặng Bách Xuyên từng nghe danh Huyền Nạn từ lâu, thấy ông
mặt dăn deo nhưng đôi mắt thần quang thăm thẳm, vội vàng trả lễ. Phong
Ba Ác nói:
- Đại sư phụ là thủ tọa Đạt Ma Viện của chùa Thiếu Lâm, nghe nói
thần công ghê gớm lắm, hôm nay xin được lãnh giáo.
Huyền Nạn mỉm cười đáp:
- Lão nạp và Huyền Thống sư đệ phụng pháp dụ của phương trượng
đến phủ Mộ Dung thí chủ tại Giang Nam cung trình thiếp mời, đây là lần
thứ ba chùa chúng tôi sai người đến Yến Tử Ổ. Thế nhưng may sao ngay
tại đây được cùng quí vị giải cấu tương phùng, duyên pháp quả là không
nhỏ.
Nói xong từ trong túi lấy ra một thiếp mời màu đỏ. Đặng Bách Xuyên
hai tay cầm lấy thấy trên bao thư có viết:
Cung trình Mộ Dung thí chủ ở Yến Tử Ổ đất Cô Tô
Bằng chữ lớn, liệu chừng bên trong thiếp cũng giống như cái thiếp Hư
Trúc vừa đưa cho bèn nói:
- Hai vị đại sư phụ là cao tăng đại đức của chùa Thiếu Lâm, vọng
trọng trong võ lâm mà phải thân lao đại giá đến tệ trang, quả thực Mộ
Dung Cô Tô được nở mày nở mặt quá. Mới đây vị Hư Trúc tiểu sư phụ
cũng đã đưa cho một danh thiếp anh hùng, chúng tôi đã nhận rồi, nhất
định thể nào cũng bẩm lại bề trên. Đến giai tiết Trùng Dương mồng chín
tháng chín, tệ thượng là Mộ Dung công tử thể nào cũng lên chùa lễ Phật,
đích thân cảm tạ các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm rồi trước mặt anh hùng
thiên hạ, nói rõ các chuyện hiểu lầm.
Huyền Nạn nghĩ thầm: Ngươi bảo các chuyện hiểu lầm, hóa ra
Huyền Bi sư huynh không phải do nhà Mộ Dung Cô Tô các ngươi giết
chết hay sao?. Bỗng nghe ở sau có tiếng người kêu lên:
- A, sư phụ, chính y đó!
Huyền Nạn nghiêng đầu nhìn qua, thấy một người hình thù kỳ quái
chỉ vào chiếc cáng, ghé tai một ông lão tóc bạc thì thầm. Du Thản Chi nói
với Đinh Xuân Thu:
- Gã sư mập nằm trên cáng kia chính là người bắt được con băng
tàm, không biết vì sao lại bị phái Thiếu Lâm bắt.
Đinh Xuân Thu nghe nói nhà sư đó là nguyên chủ của con băng tàm,
vui sướng không đâu cho hết, hỏi nhỏ:
- Ngươi không nhìn lầm người chứ?
Du Thản Chi đáp:
- Không đâu, tên y là Tuệ Tịnh. Sư phụ thử xem, cái bụng tròn quay
của y phồng lên thế kia.
Đinh Xuân Thu thấy bụng Tuệ Tịnh còn to hơn đàn bà chửa sắp đẻ,
nghĩ thầm một hòa thượng mập như thế, dù ai gặp y một lần thì suốt đời
không quên, bèn quay sang nói với Huyền Nạn:
- Đại sư phụ, vị hòa thượng Tuệ Tịnh kia có quen với ta, y bị bệnh gì
chăng?
Huyền Nạn chắp tay đáp:
- Cao tính đại danh thí chủ là chi? Không biết nguyên do nào mà lại
biết sư điệt của lão nạp?
Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: Gã Tuệ Tịnh kia lại đi cùng với các hòa
thượng Thiếu Lâm, quả thực là phiền. Cũng may gặp ngay trên đường đi,
chặn lại cướp lấy thật dễ hơn vào trong chùa Thiếu Lâm mà bắt, mà lại
dễ dàng hơn nhiều. Y nghĩ đến sự linh dị thần hiệu của con băng tàm,
ngực không khỏi nóng hôi hổi nói:
- Tại hạ là Đinh Xuân Thu.
Ba tiếng Đinh Xuân Thu vừa ra khỏi cửa miệng, Huyền Nạn,
Huyền Thống, Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong
Ba Ác sáu người không hẹn mà cùng kinh ngạc kêu lên một tiếng, mặt ai
nấy đều hơi biến sắc. Ác danh Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu vang
dậy thiên hạ, ai ngờ lại gặp nơi đây trông khí độ ung dung, phong thái
tiêu sái đến thế. Sáu người ai nấy lập tức đều có ý phòng bị.
Thế nhưng chỉ trong một nháy mắt Huyền Nạn đã bình tĩnh lại ngay
nói:
- Thì ra là Đinh lão tiên sinh của Tinh Tú Hải. Đã ngưỡng mộ đại
danh từ lâu, quả thực như sấm rền bên tai.
Những câu khách sáo như may mắn thay được gặp ông không nhắc
đến, nghĩ thầm: Người nào gặp phải ngươi đúng là kiếp trước vụng tu.
Đinh Xuân Thu nói:
- Không dám, môn Tụ Lý Càn Khôn của thủ tọa Đạt Ma Viện chùa
Thiếu Lâm nổi danh thiên hạ, lão phu cũng từng ngưỡng mộ lâu rồi. Vị
Tuệ Tịnh sư phụ này, ta đang muốn đi tìm đây, bây giờ gặp được nơi đây
thật là hay quá, hay thật là hay.
Huyền Nạn hơi nhíu mày nói:
- Nói ra quả thật xấu hổ, gã sư điệt Tuệ Tịnh của lão nạp đây, chỉ vì
bổn tự thiếu giáo huấn nên phạm nhiều thanh quy giới luật, hơn một năm
trước trốn ra khỏi chùa, làm nhiều điều ác. Phương trượng sư huynh của
tệ tự sai người đi khắp nơi tìm kiếm, chẳng dễ gì kiếm được y, bắt đem về
chùa. Đinh lão tiên sinh đã từng gặp y rồi ư?
Đinh Xuân Thu đáp:
- Thì ra không phải y bị bệnh mà là bị người ta đả thương, thương thế
có nặng lắm không?
Huyền Nạn không trả lời, một hồi sau mới nói:
- Y không tuân theo pháp dụ của phương trượng, ngược lại còn ra tay
đánh người nữa.
Ông nghĩ thầm: Y kết giao với những loại tà ma ngoại đạo như
ngươi, lại phá thêm một đại giới nữa. Đinh Xuân Thu nói:
- Tại hạ ở núi Côn Lôn, tốn biết bao nhiêu tâm huyết mới bắt được
một con băng tàm, là một loại cực kỳ hữu dụng, ngờ đâu lại bị gã Tuệ
Tịnh sư điệt của đại sư ăn cắp mất. Tại hạ vạn lý xa xôi từ biển Tinh Tú
tới Trung Nguyên, chẳng qua cũng chỉ để lấy lại con băng tàm...
Y nói chưa dứt lời, Tuệ Tịnh đã kêu lên:
- Con băng tàm ư? Này, có phải ngươi trông thấy con băng tàm? Con
tằm đó ta khổ sở mới kiếm thấy được trong núi Côn Lôn... ngươi... ngươi
ăn trộm của ta phải không?
Từ khi Du Thản Chi tiến ra thì thầm, Phong Ba Ác chăm chăm nhìn
cái lồng trên đầu y, mắt láo liên, những gì Huyền Nạn, Đinh Xuân Thu
và nhà sư Tuệ Tịnh đối đáp y hoàn toàn không nghe gì cả. Y đi vòng
quanh Du Thản Chi mấy bận, thấy cái mặt nạ đúc thật khít khao, cứ đeo
mãi trên đầu không bỏ xuống, toan đưa tay ra ra gõ thử, lại coi thêm một
lát mới hỏi:
- Này bồ, khỏe chứ?
Du Thản Chi ấp úng:
- Tôi... tôi khỏe.
Y thấy Phong Ba Ác lúc nào cũng lanh chanh, tay chân không yên,
trong bụng cũng khiếp. Phong Ba Ác lại hỏi:
- Cái mặt nạ của bồ làm sao đúc được vậy? Tôi đi khắp nơi nhưng
chưa bao giờ thấy cái mặt nạ nào như vầy.
Du Thản Chi cực kỳ ngượng ngập, cúi đầu xuống nói:
- Hèm, tôi... tôi bị người ta ép buộc, không... không làm sao được.
Phong Ba Ác nghe y nói thấy thật đáng thương, giận dữ hỏi dồn:
- Sao có người chơi trò gì ác ôn vậy? Họ Phong muốn biết là đứa
nào.
Nói xong y liếc mắt nhìn Đinh Xuân Thu, cho rằng đây là công trình
của lão già này. Du Thản Chi vội kêu:
- Không... không phải sư phụ tôi đâu.
Phong Ba Ác lại nói:
- Ai đời con người ta đang yên lành, nay đem nhốt trong cái mặt nạ
bằng sắt là sao? Lại đây, để ta tháo ra cho ngươi.
Y vừa nói vừa rút trong ống giày ra một con dao găm sáng quắc, đủ
biết cực kỳ sắc bén toan gỡ cái lồng sắt ra. Du Thản Chi biết rằng chiếc
mặt nạ này đã dính liền vào mặt mũi và sau đầu y, nếu cố tháo đi thì có
thể chết được vội vàng nói:
- Không, không tháo được đâu.
Phong Ba Ác đáp:
- Nhà ngươi chớ có sợ, thanh chủy thủ của ta gọt sắt như bùn, để ta
cắt cái mặt nạ, quyết không tổn thương thịt da đâu.
Du Thản Chi kêu lên:
- Không, không được.
Phong Ba Ác nói:
- Ngươi sợ người đội cho ngươi cái mũ sắt này, phải không nào? Kỳ
tới gặp lại y cứ nói là ta đây Nhất Trận Phong Phong Ba Ác tháo cho
ngươi đó, ngươi bị ta ép buộc nếu muốn gì cứ bảo ác nhân đó đi kiếm ta
là xong.
Y nói rồi liền chộp cổ tay Du Thản Chi. Du Thản Chi thấy con dao
găm trong tay y hàn quang lấp loáng, sợ quá quay đầu lại nhìn Đinh Xuân
Thu cầu cứu, kêu lên:
- Sư phụ, sư phụ!
Đinh Xuân Thu đứng ở bên cạnh chiếc cáng, đang khoái trá nhìn Tuệ
Tịnh, tiếng kêu của Du Thản Chi không nghe thấy. Phong Ba Ác giơ
chiếc dao lên toan cắt xuống chiếc mặt nạ. Du Thản Chi quýnh quáng,
tay phải đẩy đối phương ra nghe bịch một tiếng trúng ngay vai trái Phong
Ba Ác.
Phong Ba Ác đang hết sức chú tâm vào việc cắt chiếc mũ sắt, sợ lỡ
tay cắt không chuẩn, chạm vào mặt y, có ngờ đâu bất thần bị đánh một
chưởng. Thế đánh của chưởng đó vốn dĩ cực kỳ tầm thường, Phong Ba Ác
chỉ hự lên một tiếng, ngã sấp mặt xuống. Tay trái y chống xuống đất, đẩy
một cái nhảy vọt lên, ọe một tiếng thổ ra một ngụm máu tươi.
Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng ba người thấy Du
Thản Chi đột nhiên hạ độc thủ khiến người em kết nghĩa của mình bị hố
to, mặt trắng bệch, ba người không khỏi lo âu. Công Dã Can vội đưa tay
bắt mạch, thấy mạch dồn dập, xem chừng có dấu hiệu trúng độc liền chỉ
mặt Du Thản Chi mắng:
- Hảo tiểu tử, môn nhân Tinh Tú Lão Quái lấy oán báo đức, vừa ra
tay đã giở thủ đoạn tàn độc hại người.
Y vội lấy trong bọc ra một cái bình nhỏ, mở nắp đổ ra một viên thuốc
giải độc nhét vào mồm Phong Ba Ác còn Đặng Bách Xuyên và Bao Bất
Đồng cùng lạng người xông ra chặn Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi. Bao
Bất Đồng ám vận nội kình vào tay trái, năm ngón tay thành trảo toan
chộp vào ngực gã đầu sắt. Đặng Bách Xuyên kêu lên:
- Tam đệ ngừng tay.
Bao Bất Đồng rụt tay lại không đánh ra, đưa mắt nhìn đại ca, Đặng
Bách Xuyên nói:
- Chúng ta nhà Mộ Dung và phái Tinh Tú không thù không oán, tứ
đệ chỉ vì long tốt muốn giúp y tháo cái mặt nạ ra, sao người của phái Tinh
Tú lại ra tay đả thương là sao? Việc này xin Đinh lão tiên sinh chỉ giáo.
Đinh Xuân Thu thấy gã học trò mới thu chỉ một chưởng đã đánh bại
một hảo thủ của nhà Cô Tô Mộ Dung, đại hiển uy phong cho phái Tinh
Tú nên không khỏi đắc ý ngầm, càng thêm khát khao ham muốn con
băng tàm, mỉm cười nói:
- Vị Phong tứ gia kia hung hăng hiếu đấu, thích nhúng tay vào
chuyện đâu đâu. Người của phái Tinh Tú ta đội trên đầu mũ sắt hay mũ
đồng thì có liên quan gì đến nhà Mộ Dung Cô Tô nhỉ?
Lúc này Công Dã Can đã đỡ Phong Ba Ác ngồi lên, thấy y run lẩy
bẩy, răng đánh vào nhau kêu lách cách, chẳng khác gì rơi vào một hầm
băng, trong giây lát môi tím lại, sắc mặt từ trắng chuyển thành xanh. Giải
độc hoàn của Công Dã Can cực kỳ linh nghiệm nhưng Phong Ba Ác uống
rồi chỉ như hòn đá ném vào biển cả, không còn tung tích gì.
Công Dã Can nóng ruột, giơ tay thăm hơi thở y, đột nhiên một làn gió
thổi buốt thấu xương vào gan bàn tay. Công Dã Can vội vàng rụt tay về
kêu lên:
- Không xong, sao lại lạnh đến thế này?
Y nghĩ thầm hơi trong miệng thở ra đã lạnh đến thế, ắt hẳn hàn độc
trong người phải ghê gớm đến chừng nào. Trong tình thế nguy cấp làm
vậy, không kịp nói chuyện phải quấy, y đành quay sang nói với Đinh
Xuân Thu:
- Người em kết nghĩa của tôi trúng phải độc thủ của đệ tử tiên sinh,
làm ơn ban cho thuốc giải.
Độc tính Phong Ba Ác trúng phải là do nội công Dịch Cân Kinh của
Du Thản Chi dồn chất kịch độc của con băng tàm ra, chẳng nói Đinh
Xuân Thu không có thuốc giải, mà dẫu có giải dược y cũng đời nào chịu
cho? Y ngửng đầu cười ha hả, niệm lớn:
- A ô lục lỗ cộng! A ô lục lỗ cộng!
Tay áo bào phất một cái, một luồng gió xoáy tung ra. Các đệ tử phái
Tinh Tú lập tức cả bọn chạy ra khỏi lương đình, chạy bay chạy biến. Bọn
Đặng Bách Xuyên và tăng chúng Thiếu Lâm biết tay áo y có chứa độc
phấn, thấy cơn gió lốc này như chọc vào mắt, thật là khó chịu, nước mắt
nước mũi ràn rụa, mở mắt không nổi kêu thầm: Không xong rồi!.
Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng không hẹn mà cùng
xông tới chặn trước mặt Phong Ba Ác, sợ rằng đối phương thừa cơ hạ độc
thủ. Huyền Nạn nhắm mắt đánh ra một chưởng, trúng ngay cây cột của
tòa lương đình, lập tức gãy đôi, lắc rắc mấy tiếng một bên căn nhà mát
liền nghiêng xuống, ngói đất đổ xuống ào ào. Đến khi mọi người mở
được mắt ra, Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi đã chạy đâu mất.
Mấy nhà sư Thiếu Lâm kêu lên:
- Tuệ Tịnh đâu rồi? Tuệ Tịnh đâu rồi?
Thì ra nhân lúc hỗn loạn, Tuệ Tịnh đã bị Đinh Xuân Thu bắt đi mất
rồi, chiếc cáng chụp lên đầu một nhà sư. Huyền Thống giận dữ quát lớn:
- Đuổi theo!
Ông phi thân chạy ra khỏi lương đình, Đặng Bách Xuyên và Bao Bất
Đồng cũng vội theo, Huyền Nạn phất tay một cái cùng các đệ tử đi sau
tiếp viện. Công Dã Can ở lại nửa mái đình còn chưa sụp lo cho nghĩa đệ
nhưng mắt cũng đau buốt, nước mắt ràn rụa. Phong Ba Ác trán toát mồ
hôi, chỉ trong giây lát liền đóng thành sương. Công Dã Can còn đang
hoang mang bỗng nghe tiếng chân người, ngẩng lên thấy Đặng Bách
Xuyên bế Bao Bất Đồng đang rảo bước quay về. Y kinh hoảng không sao
kể xiết, kêu lên:
- Đại ca, tam đệ cũng bị thương nữa ư?
Đặng Bách Xuyên đáp:
- Lại trúng phải độc thủ của tên đầu sắt.
Kế đó Huyền Nạn cũng dẫn quần tăng trở lại lương đình. Huyền
Thống nằm phục trên lưng Huyền Từ, lạnh run cầm cập, hai hàm răng
kêu lách cách. Huyền Nạn và Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can ai nấy
bần thần. Đặng Bách Xuyên nói:
- Gã đầu sắt cùng tam đệ đối một chưởng, sau đó y lại cùng Huyền
Thống đại sư đánh một chưởng nữa. Có ngờ đâu... có ngờ đâu hàn độc
chưởng của phái Tinh Tú lại ghê gớm đến thế.
Huyền Nạn lấy trong túi ra một cái hộp gỗ nhỏ nói:
- Lục Dương Chính Khí Đơn của tệ phái có chút công hiệu khắc chế
hàn độc.
Ông mở nắp lấy ra ba viên thuốc đỏ chon chót, đưa cho Đặng Bách
Xuyên hai viên, còn viên thứ ba giao cho Huyền Thống. Sau chừng một
bữa cơm, cơn lạnh của ba người thấy đỡ. Bao Bất Đồng ngoạc mồm ra
chửi:
- Gã đầu sắt kia, con... con mẹ nó chứ, chưởng lực đó là cái gì thế?
Đặng Bách Xuyên vội khuyên:
- Tam đệ, để sau này chửi cũng không muộn, ngươi nên ngồi xuống
hành công đi.
Bao Bất Đồng đáp:
- Sai bét rồi, không phải vậy! Giờ này không chửi, đợi đến khi ô hô
ai tai rồi thì đâu còn chửi gì được nữa.
Đặng Bách Xuyên mỉm cười nói:
- Chớ có lo, không chết đâu mà sợ.
Nói xong đưa bàn tay đè vào huyệt Chí Dương ở sau lưng y, dùng nội
lực giúp y khu trừ hàn độc. Công Dã Can và Huyền Nạn cũng chia ra
giúp cho Phong Ba Ác và Huyền Thống hai người.
Huyền Nạn, Huyền Thống hai người nội lực thâm hậu, chỉ một lát,
Huyền Thống đã thở một hơi dài nói:
- Khỏe rồi!
Ông đứng lên nói tiếp:
- Lợi hại thật!
Huyền Nạn có bụng muốn giúp cho Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác hai
người trừ hàn độc có điều bên kia chưa lên tiếng yêu cầu, mình tự ý đưa
ra không khỏi coi họ nội công không đủ, trong võ lâm chuyện đó là điều
cấm kỵ.
Đột nhiên Huyền Thống lảo đảo mấy cái, hai hàm răng gõ vào nhau
kêu lách cách, vội vàng ngồi xuống hành công, nói:
- Sư... sư huynh, cái thứ... cái thứ hàn độc này... thật là quái dị...
Huyền Nạn vội vàng vận công tương trợ. Ba người liên tục hành công
nhưng thân thể chỉ dễ chịu được một chút rồi lại phát tác, cho đến khi
chiều tối, mỗi người uống ba viên Lục Dương Chính Khí Đơn mà hàn khí
không thấy bớt chút nào. Huyền Nạn chỉ mang theo mười viên đan dược,
bây giờ còn một viên, đành chia làm ba, đưa cho mỗi người một phần.
Bao Bất Đồng nhất định không uống nói:
- E rằng có uống đến một trăm viên, cũng... cũng chẳng đến đâu...
Huyền Nạn bó tay không còn cách nào khác bèn nói:
- Lời của Bao thí chủ đúng lắm, loại thuốc Lục Dương Chính Khí
Đơn này trị không đúng bệnh mà nội công của chúng ta cũng không đối
phó nổi với môn âm độc này. Lão nạp nghĩ chỉ còn một cách là đi tìm
Tiết Thần Y nhờ chữa cho, không biết bốn vị nghĩ sao?
Đặng Bách Xuyên mừng rỡ nói:
- Đã từng nghe Tiết Thần Y được người đời gọi là Diêm Vương Địch,
dù bệnh nặng cỡ nào ông ta đều có thể chữa khỏi. Đại sư có biết vị thần y
này ở đâu không?
Huyền Nạn nói:
- Tiết Thần Y nhà ở Liễu Tông Trấn, phía tây thành Lạc Dương từ
đây đến đó cũng không xa lắm. Ông ta với lão nạp có duyên gặp gỡ mấy
lần, nếu đến xin chữa trị, có lẽ không chối từ đâu.
Ông lại tiếp:
- Nhà Mộ Dung Cô Tô danh mãn thiên hạ, Tiết Thần Y xưa nay vẫn
ngưỡng mộ, nay có cơ duyên làm bạn với bốn vị anh hùng, ông ta chắc
cũng vui vẻ lắm.
Bao Bất Đồng nói:
- Sai bét rồi, không phải vậy! Tiết Thần Y thấy bọn ta đến cửa chắc
là không vui vẻ gì. Có điều trong võ lâm ai ai cũng ghét cái môn dĩ bỉ
chi đạo hoàn thi bỉ thân của công tử chúng tôi, riêng có Tiết Thần Y là
không sợ. Mai này ví thử y có... mệnh hệ gì, thì chỉ cần đến cầu công tử
gia chúng tôi dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân, thế là... thế là cái mạng
già... của y có cơ cứu được.
Mọi người ai nấy cười ha hả, lập tức đi ra khỏi đình. Đến thị trấn
trước mặt họ liền mướn ba cỗ xe cho ba người bị thương nằm dưỡng bệnh.
Đặng Bách Xuyên lấy tiền mua thêm mấy con ngựa cho những nhà sư
Thiếu Lâm cưỡi.
Đoàn người cứ đi chừng hai ba giờ thì lại ngừng để trợ giúp ba người
bị thương kháng ngự hàn độc. Đến sau Huyền Nạn không còn tị hiềm gì,
dùng Thiếu Lâm thần công tương trợ Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác. Nơi
đây tuy chỉ cách Liễu Tông Trấn vài trăm dặm đường nhưng đường núi
gập ghềnh, lại phải ngừng luôn, nên đến chiều ngày thứ tư mới đến nơi.
Tiết Thần Y ở trong núi sâu cách Liễu Tông Trấn ba mươi dặm về
phía bắc, cũng may hôm ở Tụ Hiền Trang ông ta đã chỉ vẽ cho Huyền
Nạn rõ ràng đường đi nước bước nên không mất công dò hỏi, đã đến
trước cửa nhà Tiết Thần Y.
Huyền Nạn trông thấy bên cạnh giòng sông nhỏ mấy gian nhà lớn,
tường trắng ngói đen, đằng trước là một vườn cây thuốc rộng, biết ngay là
nơi ở của Tiết Thần Y. Ông giục ngựa chạy đến gần, từ xa đã thấy trước
cửa nhà treo hai chiếc lồng đèn bằng giấy trắng, hơi kinh hãi: Nhà họ
Tiết có bệnh nhân nào trị không được hay sao?. Đi thêm vài trượng nữa,
thấy trên ngạch cửa có đóng mấy vuông vải gai, bên cạnh cửa có mấy cột
phướn chiêu hồn, quả đúng là trong nhà có người chết. Lại thấy trên đèn
lồng viết hai hàng chữ đen:
Tiết Công Mộ Hoa chi tang, hưởng niên ngũ thập ngũ tuế17
Huyền Nạn hoảng hốt: Tiết Thần Y không chữa nổi cho mình, nay
chết mất rồi, thật là bất hạnh làm sao. Nghĩ đến cố nhân nay đã qui tiên,
âm dương đôi ngả, trong lòng không khỏi thương cảm. Vừa lúc đó Đặng
Bách Xuyên và Công Dã Can cũng đã tới nơi, hai người cùng kêu lên:
- Chao ôi!
Bỗng nghe trong nhà có tiếng đàn bà khóc vang lên:
- Ông ơi là ông ơi! Ông y thuật như thần, có ngờ đâu bất ngờ bị bệnh,
bỏ chúng tôi mà đi. Ông ơi! Ông xưng là Diêm Vương Địch, vậy mà sau
cùng cũng không thắng nổi Diêm Vương, e rằng khi xuống cõi âm, Diêm
Vương thể nào cũng đòi nợ cũ, hành hạ khổ sở lắm ông ơi!
Chẳng bao lâu ba cỗ xe và sáu nhà sư Thiếu Lâm trước sau cũng đến.
Đặng Bách Xuyên nhảy xuống ngựa, lớn tiếng nói:
- Thiếu Lâm Tự Huyền Nạn đại sư cùng bè bạn, có việc đặc biệt đến
cầu Tiết Thần Y.
Tiếng của y vang vang như chuông, tiếng khóc trong nhà liền ngưng
bặt. Một lúc sau, một ông già đi ra, ăn mặc theo lối đầy tớ, trên mặt còn
hoen ngấn lệ, sụt sùi cực kỳ thương tâm, đấm ngực nói:
- Lão gia qua đời xế trưa hôm qua, các ông ... các ông không gặp
được nữa rồi.
Huyền Nạn chắp tay hỏi lại:
- Tiết tiên sinh mắc phải chứng bệnh gì mà qua đời?
Người lão bộc khóc nói:
- Cũng chẳng biết bệnh gì nữa, đột nhiên thở hắt ra rồi chết. Lão gia
xưa nay thân thể khang kiện, tuổi cũng chưa già, có ai ngờ nổi. Lão nhân
gia đi trị bệnh cho người ta, bệnh nào cũng khỏi, vậy mà ... vậy mà bệnh
chính mình ...
Huyền Nạn lại gặng thêm:
- Tiết tiên sinh trong nhà còn những ai?
Người đầy tớ già nói:
- Chẳng còn ai cả, không còn một người nào.
Công Dã Can và Đặng Bách Xuyên hai người đưa mắt nhìn nhau,
cùng ngầm thấy người lão bộc này nói mấy câu đó có phần không thành
thực, huống chi vừa mới rồi ai cũng nghe tiếng đàn bà khóc. Huyền Nạn
thở dài nói:
- Chết sống đều có mạng, nếu đã thế thì cho chúng tôi tới trước linh
vị người bạn cũ lạy một lạy.
Người lão bộc ấp úng:
- Cái đó ... cái đó ... vâng vâng!
Y dẫn mọi người vào trong cửa chính. Công Dã Can đi sau một bước
ghé tai hỏi nhỏ Đặng Bách Xuyên:
- Đại ca, tiểu đệ xem chừng có điều gì không minh bạch, tên lão bộc
này dường như ra chiều ỡm ờ.
Đặng Bách Xuyên gật đầu, đi theo tên đầy tớ tới linh đường. Linh
đường trần thiết sơ sài, mọi thứ còn chưa đầy đủ, trên linh bài có viết:
Tiết Công Mộ Hoa chi linh vị
Mấy chữ đó nét bút cứng cỏi, hiển nhiên là thủ thư của một tay túc
học, quyết không phải tên lão bộc này viết được. Công Dã Can xem
nhưng không nói gì. Mọi người hành lễ trước linh vị, Công Dã Can quay
đầu lại thấy nơi sân trong có đến mươi món quần áo phơi trên sào tre, áo
đàn bà cũng có, lại cả quần áo trẻ con nam nữ, nghĩ bụng: Tiết Thần Y
rõ ràng có thân quyến, sao lão bộc này lại bảo là chẳng còn ai?.
Huyền Nạn nói:
- Chúng tôi từ xa xôi đến đây để cầu Tiết Thần Y trị bệnh, có ngờ
đâu Tiết tiên sinh lại đã tiên du, khiến cho không khỏi đau lòng. Trời
cũng tối rồi, đêm nay cho ở lại quí phủ qua đêm.
Người lão bộc xem chừng khó xử nói:
- Cái đó ... cái đó ... thôi, cũng được! Mời chư vị ngồi nghỉ ngoài
sảnh đường, tiểu nhân đi lo cơm nước.
Huyền Nạn nói:
- Quản gia chẳng cần phải lo lắng nhiều, cơm với chút rau dưa là
được rồi.
Người lão bộc đáp:
- Vâng! Vâng! Mời quí vị ngồi nghỉ.
Y dẫn mọi người ra ngoài sảnh đường rồi quay vào trong. Một hồi
lâu, người gia nhân đó vẫn không thấy đem trà ra, Huyền Nạn nghĩ thầm:
Người lão bộc này chủ mới chết, hồn vía để đâu đâu. Ôi! Huyền Thống
sư đệ trúng phải hàn độc, không biết phải làm sao đây?. Mọi người đợi
đến hơn nửa giờ, nhưng vẫn không thấy bóng dáng người đầy tớ già đâu.
Bao Bất Đồng nóng ruột nói:
- Để ta đi kiếm chút nước uống!
Hư Trúc nói:
- Bao tiên sinh, xin ông ngồi nghỉ. Để tiểu tăng đi xuống giúp người
lão bộc nấu nước.
Y đứng lên đi vào nội đường. Công Dã Can cũng muốn quan sát động
tĩnh trong nhà họ Tiết bèn nói:
- Để ta đi với tiểu sư phụ.
Hai người đi ra phía sau nhà, phòng ốc nhà họ Tiết không phải là ít,
trước sau cả thảy năm dãy, nhưng bên trong bên ngoài không thấy một
bóng người. Hai người tìm được nhà bếp nhưng cũng không thấy người
lão bộc đâu.
Công Dã Can biết có chuyện khác thường, rảo bước quay trở về sảnh
nói:
- Nhà này xem chừng không ổn, Tiết Thần Y có thể chỉ giả chết thôi.
Huyền Nạn đứng lên lạ lùng hỏi:
- Sao thế?
Công Dã Can đáp:
- Đại sư, tại hạ nghĩ mình nên đến xem cỗ quan tài.
Y chạy vào linh đường, giơ tay toan nhắc chiếc hòm, đột nhiên chợt
nghĩ ra, rút tay về, lấy ở ngoài sân một chiếc áo dài đang phơi, lót vào
tay. Phong Ba Ác nói:
- Sợ trên quan tài có độc ư?
Công Dã Can đáp:
- Lòng người khó lường, không thể không đề phòng.
Y vận kình nhắc chiếc quan tài lên, thấy cực kỳ trầm trọng, bên trong
nhất định không phải chỉ là một xác người bèn nói:
- Tiết Thần Y quả nhiên giả chết.
Phong Ba Ác rút đơn đao nói:
- Bẩy nắp hòm ra xem sao.
Công Dã Can nói:
- Người này được gọi là thần y, hẳn cũng giỏi sử dụng thuốc độc, tứ
đệ phải cẩn thận.
Phong Ba Ác đáp:
- Tiểu đệ biết rồi.
Y luồn mũi đao vào khe quan tài ấn xuống, nghe tiếng ken két nắp
hòm từ từ bật lên. Phong Ba Ác nín thở, sợ trong quan tài có phấn độc bay
ra. Bao Bất Đồng nhảy ra sân chộp hai con gà mái đang tìm giun bắt dế ở
dưới gốc quế, đem vào linh đường, vung tay ném hai con gà qua ngang
quan tài. Hai con gà kêu quang quác, đáp xuống trước linh tòa, rồi chạy
ra ngoài thiên tỉnh nhưng chỉ được mấy bước, đột nhiên ngã chổng cẳng,
hai chân dãy mấy cái rồi nằm chết đứ đừ. Vừa lúc đó trong hiên nhà một
luồng gió lạnh thổi qua, những chiếc lông trên mình hai con gà lập tức
bay lên phơi phới. Mọi người thấy thế ai nấy kinh hãi, hai con gà vừa
trúng độc chết mà bao nhiêu lông đã rụng sạch, đủ biết độc tính mạnh là
dường nào khiến cho không ai còn dám đến gần chiếc quan tài nữa.
Huyền Nạn nói:
- Đặng thí chủ thử xem thế này là cớ gì? Tiết Thần Y quả thực trá tử
hay sao?
Ông vừa nói vừa nhún mình nhảy lên, tay trái chộp lấy xà ngang, nhìn
vào trong quan tài, thấy bên trong đầy những đá tảng, giữa những cục đá
là một bát lớn đựng đầy nước. Nước ở trong bát hiển nhiên phải là thuốc
độc. Huyền Nạn lắc đầu, buông mình nhảy xuống nói:
- Tiết thí chủ nếu không muốn trị thương, việc gì phải bố trí cơ quan
độc địa như thế này để hãm hại chúng ta. Phái Thiếu Lâm với y không
thù không oán, làm như thế không vô lý quá hay sao? Không lẽ ... không
lẽ ...
Ông ta nhắc lại hai chữ không lẽ rồi lặng thinh, trong lòng nghĩ
thầm: Không lẽ ông ta có thù oán sâu xa với họ Cô Tô Mộ Dung
chăng?. Bao Bất Đồng nói:
- Đại sư chớ có nghĩ ngợi lăng nhăng, Mộ Dung công tử và Tiết Thần
Y xưa nay chưa biết nhau, cũng không thù oán. Nếu như hai bên có
chuyện gì, bọn chúng tôi dù có phải đau đớn gấp mười chăng nữa, cũng
không bao giờ lại hạ mình đi nhờ kẻ thù chữa trị cho đâu. Đại sư coi họ
Bao, họ Phong là người hèn hạ, vô tư cách chăng?
Huyền Nạn chắp tay nói:
- Bao thí chủ nói phải lắm, lão tăng quả đoán sằng đoán bậy.
Ông ta là bậc cao tăng hữu đạo, trong bụng đã nghĩ như thế tuy chưa
nói ra lời nhưng cũng nhận là mình quấy. Đặng Bách Xuyên nói:
- Nơi đây độc khí cực thịnh, không nên rốn lại lâu, mình ra tiền sảnh
ngồi nghỉ.
Tất cả mọi người ra đến bên ngoài, người bàn thế này kẻ nói thế
khác nhưng cũng không ai đoán được tại sao Tiết Thần Y giả chết rồi bố
trí cơ quan giăng bẫy. Bao Bất Đồng nói:
- Gã Tiết Thần Y quả thật đáng ghét, mình cho một mồi lửa đốt rụi
cái tổ quỉ của lão đi.
Đặng Bách Xuyên ngăn lại:
- Ấy chết, không được đâu, dẫu sao Tiết tiên sinh cũng là một bằng
hữu của phái Thiếu Lâm, chúng ta phải nể kim diện Huyền Nạn đại sư
chớ có hồ đồ.
Lúc đó trời đã tối hoẳn, trong sảnh lại không đèn đóm gì, ai nấy vừa
đói vừa khát nhưng chẳng ai dám đụng chạm đến một ngụm nước, một ly
trà trong nhà. Huyền Nạn nói:
- Hay là chúng mình đi ra, tìm một nhà nông nào ở quanh đây xin
ngụm nước bữa cơm, Đặng thí chủ nghĩ thế nào?
Đặng Bách Xuyên đáp:
- Đúng đó. Thế nhưng chung quanh ba chục dặm tốt hơn hết không
nên ăn uống gì. Thầy lang họ Tiết này mưu kế lắm, quyết chẳng phải chỉ
sắp xếp một cỗ quan tài là xong đâu, nếu như các vị đại sư có chuyện gì,
anh em chúng tôi thật là ân hận.
Y và Công Dã Can tuy chưa biết rõ nguyên ủy ra sao nhưng cũng cho
rằng cái tiếng dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân của nhà Mộ Dung quá vang
dội, trên giang hồ kết biết bao nỗi oan cừu, có lẽ Tiết Thần Y có thân
bằng quyến thuộc bị hại, mối hận này đổ cả lên đầu nhà Cô Tô Mộ
Dung.
Mọi người đứng lên, đi ra cửa chính, đột nhiên trên bầu trời phía tây
bắc có ánh sáng lóe lên, kế đó một đốm lửa đỏ nổ tung ra, lập tức
chuyển sang màu lục thật chẳng khác gì mưa hoa đầy trời, lả tả rơi xuống
cực kỳ diễm ảo. Phong Ba Ác nói:
- Ồ, ai đốt pháo bông kìa!
Lúc đó không phải tiết Nguyên Tiêu, cũng chẳng phải Trung Thu, sao
lại có người đốt pháo bông18 nhỉ? Chẳng mấy chốc, lại có một chiếc pháo
bông màu vàng bay vút lên không, nở ra muôn vạn đóa sao băng, đụng
chạm lẫn nhau.
Công Dã Can chợt nghĩ ra, nói:
- Đây không phải pháo bông đâu, mà là tín hiệu của kẻ địch kéo đến
tấn công đó.
Phong Ba Ác kêu lên:
- Thế thì hay lắm! Đánh một trận cho sướng tay.
Đặng Bách Xuyên nói:
- Tam đệ, tứ đệ, các ngươi vào trong sảnh canh chừng, ta chặn phía
trước mặt, nhị đệ đoạn hậu. Huyền Nạn đại sư, việc này không liên quan
gì đến phái Thiếu Lâm, xin quí vị cứ dựa lưng vào tường đứng coi, miễn
là đừng giúp bên nào, nhà Mộ Dung thâm cảm đại đức.
Huyền Nạn nói:
- Đặng thí chủ sao lại nói thế? Nếu kẻ địch đến tấn công có thù oán
với chư vị thì phải trái ngay gian, chúng tôi sẽ theo công tâm mà xử,
không để cho họ thừa gió bẻ măng, cậy đông đánh ít. Nếu đúng là cùng
bọn với Tiết Thần Y, lén lút bố trí hầm bẫy để làm hại người thì các vị
với chúng tôi cũng cùng chung cừu địch, lẽ nào lại tụ thủ bàng quan? Này
các tì khưu19, chuẩn bị nghinh địch.
Bọn Tuệ Phương, Hư Trúc cùng lớn tiếng đáp lời. Huyền Thống nói:
- Đặng thí chủ, lão nạp với hai vị sư đệ của thí chủ đồng bệnh tương
lân20 lẽ dĩ nhiên phải cùng nắm tay nhau mà kháng địch.
Còn đang nói chuyện, lại có thêm hai chiếc pháo bông nữa bắn thẳng
lên trời, lần này xem chừng gần hơn. Một hồi nữa, lại có thêm hai cái
pháo bông khác, trước sau như thế là sáu cái rồi. Mỗi chiếc pháo bông
màu sắc hình dáng không giống nhau, có cái giống như một cái bút thật
lớn, có cái thì vuông vức bốn bề, tông như một bàn cờ, cái thì lại giống
hình một chiếc đại phủ, có cái lại giống như một bông hoa mẫu đơn to.
Sau đó bầu trời lại tối đen như mực.
Huyền Nạn ra lệnh cho sáu đệ tử Thiếu Lâm canh chừng bốn phía
nhưng một hồi lâu vẫn không nghe động tĩnh gì. Ai nấy ngưng thần nín
thở, lại sau chừng một bữa ăn nữa, bỗng nghe phía đông có tiếng đàn bà
hát lên rằng:
Lông mày luống tỉa đã bao nhiêu,
Phấn nhạt hoen màu lệ nhỏ tiêu.
Đong đưa biếng chải thêm hờ hững,
Ngọc lấp sao đầy nỗi tịch liêu? 21
Giọng ca dịu dàng uyển chuyển đầy vẻ u oán thê lương. Giọng người
đó vừa hát xong một khúc, lập tức chuyển qua giọng nam rằng:
- Chao ôi ái khanh đấy ư? Quả nhân đã lâu lắm không được gặp
nàng, trong lòng thương nhớ xiết bao. Đây ta ban cho nàng một đấu trân
châu, khanh gia mau nhận lấy.
Người đó nói xong, lại chuyển qua giọng nữ:
- Bệ hạ đã có Dương phi bầu bạn, đến buổi chầu sớm cũng chẳng ra,
còn hơi đâu mà nhớ đến thần thiếp con người bạc mệnh này, than ôi ....
Nói tới đây liền cất tiếng khóc thút thít. Các nhà sư Thiếu Lâm không
biết việc đời, không hiểu sao người này lúc thì là nam, lúc lại là nữ, làm
trò quỉ quái gì đây, chỉ thấy nghe rồi trong lòng cực kỳ buồn bã. Bọn
Đặng Bách Xuyên thì biết người này đang diễn tích Đường Minh Hoàng22
và Mai Phi, khi thì đóng vai Mai Phi lúc lại đóng vai Đường Minh Hoàng,
giọng điệu thanh âm giống hệt, sao lại có người khéo đến thế, ai nấy
trong lòng rộn ràng, không hiểu có dụng ý gì.
Lại nghe người đó tiếp tục:
- Ái phi chớ nên khóc lóc, mau mau dọn yến tiệc ra. Nàng thổi tiêu,
quả nhân sẽ ca một khúc để giải sầu cho ái khanh.
Người kia lại chuyển qua giọng đàn bà nói:
- Tiện thiếp ngày ngày chảy nước mắt ra rửa mặt, chỉ mong được gặp
lại đấng quân vương một lần thôi. Hôm nay được toại nguyện rồi, dẫu có
chết cũng đành nhắm mắt ... hu hu ...hu hu ...
Bao Bất Đồng lớn tiếng nhại lại:
- Cô vương là An Lộc Sơn đây. Này vua nhà Đường Lý Long Cơ ơi,
ngươi là một gã hồ đồ, mau giao Dương Ngọc Hoàn ra cho ta.
Người bên ngoài kêu A lên một tiếng dường như kinh hãi đang
khóc lập tức im bặt. Chỉ trong giây lát, chung quanh bốn bề lặng như tờ.
Hồi 30(a)
HUY SÁI PHỌC HÀO ANH
Bề ngoài phiêu dật tiêu dao,
Ra tay một mẻ ai nào thoát đâu.
Gặp khi tụ hội anh hào,
Tâm cơ bố trí cũng sao cho vừa.
*
* *
Một hồi sau, mọi người bỗng ngửi thấy một mùi hương thơm thoang
thoảng, Huyền Nạn kêu lên:
- Địch nhân phóng độc, mau nín thở, ngửi thuốc giải ngay.
Thế nhưng một hồi lâu không thấy có gì khác thường, ngược lại đầu
óc tỉnh táo, dường như mùi hoa thơm không có chất độc gì cả. Người ở
bên ngoài nói:
- Thất tỉ đến đấy ư? Trong nhà ngũ ca có một quái nhân, dám tự
xưng là An Lộc Sơn.
Có tiếng đàn bà đáp:
- Chỉ riêng đại ca là chưa đến. Nhị ca, tam ca, tứ ca, lục ca, bát đệ,
tất cả cùng ra mặt đi thôi.
Bà ta vừa dứt lời bên ngoài cửa đột nhiên sáng lòa, ánh sáng kỳ dị
chiếu vào năm người đàn ông, một người đàn bà. Một ông già râu đen
lớn tiếng nói:
- Lão ngũ, sao chưa chịu ra?
Trong tay ông ta cầm một phiến gỗ hình vuông, người đàn bà là một
mỹ phụ trung niên, trong bốn người còn lại hai người ăn mặc theo lối
nho sinh, một người trông như thợ mộc, tay cầm búa ngắn, vai đeo cưa.
Còn một người mặt xanh nanh vàng, tóc đỏ râu xanh, hình dáng thật là
dữ dằn dễ sợ như yêu quái, trên người mặc cẩm bào sáng lấp lánh.
Đặng Bách Xuyên chăm chú nhìn, biết ngay là mặt người đó vẽ
bằng màu chứ không phải có dị tướng, y ăn mặc chẳng khác gì một
phường tuồng trên sân khấu, người vừa mới đóng cả hai vai Đường
Minh Hoàng lẫn Mai Phi hẳn phải là y bèn lớn tiếng nói:
- Xin hỏi tôn tính đại danh của chư vị, tại hạ là Đặng Bách Xuyên,
môn hạ nhà Cô Tô Mộ Dung.
Bên kia còn chưa kịp trả lời, từ trong đại sảnh một bóng đen đã lao
ra, ánh đao lấp loáng, nhắm ngay người kép hát chém liên tiếp bảy
nhát liền, chính là Nhất Trận Phong Phong Ba Ác. Người kép hát kia
không kịp đề phòng, né đông tránh tây, tình thế cực kỳ luống cuống.
Bỗng nghe y hát rằng:
Khí cao ngất trời chừ ... sức bạt núi
Thời thôi chẳng còn chừ ... ngựa chồn chân
Ngựa chồn chân chừ ... đành ...Thế nhưng thế công của Phong Ba Ác thật gấp gáp, câu thứ ba y hát
chưa hết thì không còn tiếp được nữa. Người râu đen liền mắng:
- Hán tử kia quả thực vô lý, vừa xông lên đã chém ngang chém
dọc, hãy nếm một chiêu Đại Thiết Võngcủa ta nào!
Chiếc bản vuông trong tay y liền vung ra, nhắm ngay đầu Phong Ba
Ác đập xuống. Phong Ba Ác trong bụng nhủ thầm: “Ta xưa nay đánh
nhau hàng mấy trăm trận lớn nhỏ nhưng chưa thấy ai dùng một phiến
gỗ vuông làm khí giới bao giờ”. Đơn đao y liền vung lên chém xuống
bản gỗ. Nghe keng một tiếng, lưỡi đao đụng phải cạnh phiến gỗ, nhưng
phiến gỗ không hề suy suyển, thì ra phiến vuông đó trông tưởng bằng
gỗ nhưng lại bằng thép, bên ngoài sơn giả như thớ gỗ mà thôi.
Phong Ba Ác lập tức thu đao, đang định chuyển thế chém tiếp ngờ
đâu cánh tay giựt lại nhưng đơn đao không kéo về được, lưỡi đao đã bị
thiết bản hút dính cứng. Phong Ba Ác hoảng hồn, vận kình giựt lại, lúc
ấy mới tách được đơn đao khỏi bản thép, quát lên:
- Thật là tà môn! Cái bửng sắt của ngươi làm bằng từ thiết phải
không?
Người kia cười đáp:
- Xin lỗi! Đây là món kiếm cơm của lão phu mà.
Phong Ba Ác trong một thoáng đã nhìn thấy trên phiến sắt đường
dọc, đường ngang rất nhiều vạch thẳng, hóa ra đó là một bàn cờ vâybèn nói:
- Lạ lùng thật! Để ta đấu với ngươi.
Y tiến đao như gió, càng đánh càng nhanh, có điều lưỡi đao không
dám để chạm vào bàn cờ bằng nam châm kia. Người kép hát thở hắt ra
một hơi, cất giọng ồm ồm hát:
Ngựa chồn chân chừ ... đành chịu vậy
Ngu Cơ nàng ơi chừ ... biết cho chăng?Đột nhiên y chuyển sang giọng đàn bà, õng ẹo ỏn thót:
Đại vương ơi! Chớ có ưu phiền,
Trận Cai Hạ hôm nay bất lợi.
Tiện thiếp sẽ một lòng một dạ,
Cùng chàng giục ngựa phá trùng vi.
Bao Bất Đồng quát lên:
Sớm biết phận hãy mau mau tự sát.
Mụ Ngu Cơ vợ Sở Bá Vương ơi,
Đừng để mỗ phải ra tay tru diệt,
Hàn Tín này có giết cũng hoài hơi.
Y tung mình nhảy ra vươn tay chộp vào vai gã kép hát. Người đóng
trò hạ vai xuống tránh qua hát tiếp:
Gió bão bùng chừ ... mây vần vũ
Không lẽ ...
- Ối chao, ta là Hán Cao Tổ giết Hàn Tín đây.
Y đưa tay mò vào thắt lưng lấy ra một cây nhuyễn tiên, soạt một
tiếng đã nhắm vào Bao Bất Đồng đánh tới. Huyền Nạn thấy mấy người
này đánh nhau tưởng như trò trẻ nhưng hai bên võ công đều cao cường,
mình chẳng biết lai lịch đối phương là ai, ông hơi nhíu mày, quát lên:
- Chư vị tạm ngừng tay, trước hết hỏi cho minh bạch đã.
Thế nhưng muốn Phong Ba Ác ngừng đấu thì quả là khó khăn vô
cùng, y biết rằng bị trùng phải hàn độc rồi, thể lực kém xa bình thường,
nhưng hàn độc tùy thời mà phát, cực kỳ nguy hiểm, thành thử thanh
đơn đao của y múa như gió táp mưa sa, mong thắng đối phương càng
sớm càng tốt.
Trong tiếng người hò hét giao đấu, đại sảnh lại xuất hiện thêm một
người, loảng xoảng loảng xoảng, hai thanh giới đao chạm nhau cực kỳ
uy phong, chính là Huyền Thống. Ông quát lớn:
- Bọn chúng bay là đám gian đồ bày độc kế hại người, hôm nay
lão tăng đại khai sát giới.
Ông suốt mấy hôm nay bị hàn độc hành hạ, tức tối không có chỗ
phát tiết, lúc này chẳng cần hỏi han gì nữa, song đao vung tới chém hai
người ăn mặc theo lối nho sinh kia. Một người né qua tránh được, còn
người kia thò tay vào túi, lấy ra một món binh khí hình phán quan bút,
thi triển tiểu xảo công phu đấu với Huyền Thống.
Người nho sinh kia lắc đầu chép miệng:
- Lạ thật! Người xuất gia sao nóng tính đến thế, không biết thế thì
tu ở chỗ nào?
Y cũng thò tay vào túi mò mò, thảng thốt kêu lên:
- Ủa, đâu mất rồi?
Y hết thò tay vào túi bên phải, lại mò vào túi bên trái, rũ rũ tay áo,
vỗ vỗ trên ngực, nhưng không cách nào tìm ra. Hư Trúc nổi tính hiếu
kỳ, hỏi:
- Thí chủ kiếm gì đó?
Nho sinh kia đáp:
- Vị đại hòa thượng này võ công cao cường quá, người anh em ta
đánh không lại nên ta muốn lấy binh khí ra để lấy hai đánh một, ủa, lạ
nhỉ, binh khí của ta đâu mất rồi?
Y gõ gõ trên trán, cố gắng nhớ lại, Hư Trúc nhịn không nổi cười bật
lên một tiếng nghĩ thầm: “Ra trận muốn đánh nhau mà lại quên không
biết để binh khí chỗ nào quả là thú vị”. Y bèn hỏi:
- Thí chủ dùng binh khí gì thế?
Nho sinh đáp:
- Người quân tử tiên lễ hậu binh, binh khí thứ nhất của ta là một
bộ sách.
Hư Trúc hỏi:
- Sách gì thế? Võ công bí quyết chăng?
Nho sinh đáp:
- Không phải, không phải. Đó là bộ Luận Ngữ . Ta muốn đem lời
của thánh nhân ra cảm hóa đối phương.
Bao Bất Đồng liền chen vào:
- Ngươi là học trò, đến Luận Ngữ cũng không thuộc, thì còn học
với hành gì?
Nho sinh đáp:
- Lão huynh mới chỉ biết một mà không biết hai. Nói đến Luận
Ngữ, Mạnh Tử, Xuân Thu, Thi Kinh thì ta thuộc như cháo chảy, có điều
đối phương là đệ tử Phật môn, đọc kinh thì nhiều nhưng sách vở nhà
nho chắc gì đã đọc, ta có nói ra, nếu như y không biết thì cũng vô ích
thôi! Thành thử ta muốn đem sách giở cho y xem, y mới không cãi
chầy cãi cối được, thế mới hiệu quả. Người đời thường bảo, nói phải có
sách, mách phải có chứng.
Y vừa nói vừa mầy mò khắp người để kiếm cuốn sách. Bao Bất
Đồng kêu lên:
- Tiểu sư phụ, mau đánh y đi.
Hư Trúc nói:
- Để vị thí chủ kia tìm ra binh khí đã, lúc đó mình động thủ cũng
chưa muộn.
Người nho sinh nói:
- Hai nước Tống Sở đánh nhau ở chỗ nước sâu, quân Sở qua sông
chưa xong, hàng ngũ chưa tề chỉnh, chính là lúc nên đánh nhưng Tống
Tương Công nói: “Đánh lúc này không phải là người quân tử”. Tiểu sư
phụ có bụng dạ như thế, quả là đã học được tấm lòng nhân của Tống
Tương Công.
Người trông như thợ mộc thấy song đao của Huyền Thống múa tít
lên, chém trên lia dưới, chiêu số cực kỳ độc địa, sách giải thêm mấy
chiêu nữa e rằng thư sinh cầm phán quan bút có thể mất mạng được,
bèn múa búa xông lên trợ chiến. Công Dã Can lập tức nhắm vào y
đánh vù ra một chưởng. Công Dã Can trông vẻ người nho nhã nhưng
chưởng lực thật hùng hồn, đã được gọi là “Giang Nam đệ nhị”, hôm
trước cùng Tiêu Phong tỉ thí uống rượu và chưởng lực, tuy thua đấy
nhưng Tiêu Phong vẫn phải kính trọng y, đủ biết nội lực và tài nghệ
không phải bình thường. Gã thợ nghiêng qua tránh được, vung búa
chém trả lại.
Người nho sinh tuy không tìm thấy quyển Luận Ngữ nhưng thấy
đồng bạn cầm phán quan bút chiêu pháp bắt đầu hỗn loạn, xem ra
chống không nổi song đao của Huyền Thống đại sư, bèn nói với Huyền
Thống:
- Này! Đại hòa thượng, đức Khổng Tử có nói rằng: Quân tử vô
chung thực chi gian vi nhân, tháo thứ tất ư thị, điên bái tất ư thị. Ông
chăm chăm định giết tứ đệ của ta, thế đâu còn là nhân nữa. Nhan Uyên
hỏi điều nhân, đức Khổng Tử trả lời: Khắc kỷ phục lễ vi nhân. Nhất
nhật khắc kỷ phục lễ, thiên hạ qui nhân yên. Phu tử lại nói rằng: Phi
lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động. Ông múa
đao loạn cả lên, hung hăng chỉ chăm chăm định giết người, hành động
như thế sao gọi là “khắc kỷ” được? Như thế thật là “phi lễ”.
Hư Trúc quay sang hỏi nhỏ nhà sư Tuệ Phương đứng bên cạnh:
- Sư thúc thử nghĩ người này ngớ ngẩn giả hay thật?
Tuệ Phương lắc đầu:
- Ta cũng không biết. Lần này ra khỏi chùa, sư phụ có dặn ai nấy
phải cẩn thận, trên giang hồ người người gian trá, trò quái quỉ gì cũng
có thể làm được cả.
Gã đồ gàn kia lại nói với Huyền Thống:
- Đại hòa thượng, Tử viết: Nhân giả tất hữu dũng, dũng giả tất hữu
nhân. Ông dũng cảm thì có đấy nhưng chắc gì đã có lòng nhân, không
phải là người quân tử chân chính. Đức Khổng tử có nói rằng: Kỷ sở bất
dục, vật thi ư nhân. Nếu người ta giết ông ông có chịu không? Nếu
bản thân ông không muốn chết, sao lại muốn giết người khác?
Huyền Thống xông tới nhảy lui, múa đao vùn vụt, thế nhưng gã đồ
gàn đó tránh đông né tây, khi trái khi phải, khi nào cũng cách ông
chừng ba thước, mồm thì khuyên nhủ đủ biết võ công không phải tầm
thường. Huyền Thống ngầm cảnh giác: “Gã này lải nhải lăng nhăng,
hẳn là để cho ta phân tâm chờ sơ hở là xông ngay vào. Người này võ
công còn cao hơn tên cầm phán quan bút, không thể không phòng bị”.
Ông nghĩ như thế nên tinh thần sáu phần đề phòng gã đồ gàn, chỉ dành
bốn phần tấn công thư sinh cầm phán quan bút mà thôi. Chính vì thế
mà tình trạng thư sinh đỡ hẳn đi.
Lại trao đổi thêm hơn chục chiêu nữa, Huyền Thống bắt đầu nóng
ruột, quát lên:
- Tránh ra!
Ông xoay giới đao lại, dùng cán đao tống vào ngực gã đồ gàn. Ông
nhà nho kia vội tránh ra nói:
- Ta xem đại sư võ công cao cường, ta và tứ đệ hai người đánh
một, cũng chưa chắc thắng nổi ông, nên mới đem lời hay ra khuyên
nhủ, cốt để hai bên bãi đấu. Đức thánh Khổng nói rằng: Sâm hồ! Ngô
đạo nhất dĩ quán chi . Tăng Tử trả lời: Phu tử chi đạo, trung thứ nhi dĩ
hĩ.. Phàm làm người như chúng ta, cái đạo “ thứ ” kia phải nên giữ
cho kỹ, chớ nên quá ư là ngang ngược.Huyền Thống giận quá, nghe vút một tiếng, vung đao chém ngang,
miệng chửi:
- Trung thứ chi đạo cái gì? Nhân nghĩa đạo đức ở đâu? Thế sao
các ngươi lại bỏ thuốc độc vào trong quan tài để hại người? Lão nạp
nếu sơ ý thì giờ đây đã viên tịch tây qui, còn nghe nhà ngươi nói “kỷ sở
bất dục, vật thi ư nhân” nữa chăng? Thế ngươi có muốn trúng độc mà
chết không cơ chứ?
Gã đồ gàn lùi lại hai bước, ngạc nhiên hỏi:
- Lạ thật! Lạ thật! Ai mà lại bỏ thuốc độc vào quan tài? Ở trong
quan tài ắt phải là những món đồ chôn theo người chết. Đức Khổng tử
có nói rằng: Lý dã tử, hữu quan nhi vô quách.Trong quan tài bỏ
thuốc độc có phải giết chết cả cái tử thi hay sao? Ối chà, không phải,
tử thi vốn chết sẵn rồi còn đâu!
Bao Bất Đồng chen vào:
- Sai bét rồi, không phải vậy! Trong quan tài các ngươi đâu có để
xác chết mà để thuốc độc, cốt là để giết người sống chúng ta đấy chứ!
Người nho sinh gàn dở kia lắc đầu quầy quậy nói:
- Các hạ đem lòng dạ tiểu nhân đo lường bụng người quân tử. Ở
đây đâu có quan tài, cũng chẳng có độc dược.
Bao Bất Đồng đáp:
- Đức Khổng tử nói rằng: Duy nữ tử dữ tiểu nhân vi nan dưỡng
dã. Ngươi chính là tiểu nhân.
Y vừa nói vừa chỉ người mỹ phụ trung niên:
- Còn mụ ta là đàn bà, hai người chúng bay quả thực là khó dạy
quá. Lời đức thánh Khổng, không lẽ còn sai hay sao?
Gã đồ gàn sững sờ nói:
- Vương cố tả hữu nhi ngôn tha, lời của nhà ngươi ta không thèm
để ý, cũng chẳng trả lời làm gì.
Nhân lúc Bao Bất Đồng nói chuyện với anh đồ gàn, Huyền Thống
được thể không còn gì nghi ngại, song đao càng đánh ép tới khiến cho
thư sinh cầm phán quan bút phải luống cuống. Gã đồ gàn lạng người
tiến đến bên cạnh Huyền Thống nói:
- Tử viết: Nhân nhi bất nhân, như lễ hà? Nhân nhi bất nhân, như
nhạc hà?Đại hòa thượng ơi, người mà bất nhân thì thật kém cỏi quá
lắm.
Huyền Thống bực tức đáp:
- Ta là đệ tử Thích gia, bọn hủ nho các ngươi nói gì thi thư lễ nhạc,
người mà bất nhân, không làm động đến tâm ta được đâu.
Gã nho sinh giơ ngón tay lên gõ gõ vào trán nói:
- Đúng lắm! Đúng lắm! Ta quả là nói toàn những chuyện sách vở
của đám nhà nho, quả đúng là anh đồ gàn. Đại hòa thượng rõ ràng là
đệ tử cửa Phật, ta nói chuyện nhân nghĩa đạo đức Khổng Mạnh, thì
đúng là không đâu với đâu.
Phong Ba Ác đấu với người sử dụng bàn cờ làm khí giới đã lâu
nhưng khó mà thắng được, thời gian càng dài trong bụng thấy ngâm
ngẩm hàn độc bắt đầu tấn công. Bao Bất Đồng đấu với gã kép hát,
thấy đối phương võ công không thật là cao nhưng chiêu số biến hóa lại
cực kỳ phức tạp, khi thì đóng vai Tây Thi, nói năng yểu điệu ỏn ẻn,
chau mày ôm bụng, bước chân uyển chuyển như cánh sen, rõ ra là
phong tư của một tuyệt đại giai nhân, thế nhưng trong nháy mắt lại
đóng vai kẻ thơ túi rượu bầu Lý Thái Bạch, chân nam đá chân xiêu,
say sưa loạng choạng. Cái khéo là y đóng vai trò nào đều có võ công
phối hợp theo, nhuyễn tiên trong tay lúc thì biến thành tay áo của
người đẹp, lúc lại biến thành bút hoa của văn sĩ, khiến cho Bao Bất
Đồng cười không xong, khóc cũng dở, nhất thời không biết phải thế
nào.
Gã đồ gàn tự trách mình một hồi, đột nhiên cất tiếng ngâm lớn:
Ký dĩ xá nhiễm lạc, tâm đắc thiện nhiếp bất?
Nhược đắc bất trì tán, thâm nhập thực tướng bất?Huyền Nạn và Huyền Thống hai người cùng kinh ngạc: “Gã đồ gàn
này quả thực uyên bác, ngay cả mấy câu kệ của cao tăng đời Đông
Tấn Cưu Ma La Thậpy cũng thuộc”. Lại nghe y ngâm tiếp:
Tất cánh không tướng trung, kỳ tâm vô sở lạc.
Nhược duyệt thiền trí huệ, thị pháp tính vô chiếu.
Hư cuống đẳng vô thực, diệc phi đình tâm xứ.- Này đại hòa thượng, hai câu sau là gì thế nhỉ? Ta quên khuấy
mất rồi.
Huyền Thống đáp:
Nhân giả sở đắc pháp, hạnh nguyện thị kỳ yếu.Gã đồ gàn lúc ấy mới cười ha hả nói:
- Đúng quá! Đúng quá! Này đại sư nhà Phật ơi, đấy chẳng nhắc
đến “người nhân” đấy sao? Mọi đạo lý trong thiên hạ, cũng cùng một
dạng. Ta khuyên ông cũng chỉ là quay đầu lại thấy bờ, bỏ dao đồ tể
xuống mà thôi.
Huyền Thống trong lòng thảng thốt, đột nhiên đại triệt đại ngộ, nói:
- Thiện tai! Thiện tai! Nam Mô A Di Đà Phật! Nam Mô A Di Đà
Phật!
Chỉ thấy loảng xoảng mấy tiếng, hai thanh giới đao đã vứt xuống,
ông ngồi xếp bằng trên mặt nở một nụ cười, đôi mắt khép lại không
nói một lời. Thư sinh kia đang cùng ông ta đấu đến hồi ác liệt, chợt
thấy ông ta làm thế, cũng lại giật mình, tay lăm lăm cầm phán quan bút
nhưng không tấn công nữa. Hư Trúc kêu lên:
- Sư thúc tổ, hàn độc lại phát tác hay sao?
Y đưa tay định đỡ ông ta dậy, Huyền Nạn liền quát lên:
- Không được chạm vào.
Ông đưa tay thăm hơi thở Huyền Thống, thấy hô hấp đã ngừng rồi,
thì ra đã viên tịch. Huyền Nạn chắp hai tay, niệm Vãng Sinh Chú. Các
nhà sư Thiếu Lâm thấy Huyền Thống đã chết rồi, ai nấy khóc ầm lên,
lấy thiền trượng giới đao, toan cùng hai ông nhà nho kia thí mạng.
Huyền Nạn liền nói:
- Ngừng tay! Huyền Thống sư đệ tham ngộ chân như, vãng sinh
cực lạc, như thế là tròn chính quả rồi, các ngươi phải vui mới phải.
Những người đang kịch đấu đột nhiên thấy biến cố đó, ai nấy ngừng
tay nhảy ra ngoài. Gã đồ gàn kêu lên:
- Lão ngũ, Tiết ngũ đệ, mau mau ra đây, có người bị ta khích một
câu mà lăn ra chết đây này. Ngươi Tiết Thần Y cái con mẹ gì mà
không ra cứu người cho mau thì thật chẳng còn ra gì nữa.
Đặng Bách Xuyên nói:
- Tiết Thần Y không có trong nhà, vị tiên sinh đây ...
Gã đồ gàn bèn mở toang cửa, ngó dáo dác kêu lên:
- Tiết Mộ Hoa, Tiết lão ngũ, Diêm Vương Địch, Tiết Thần Y, có
mau ra cứu người không nào? Tam ca của ngươi chọc tức người ta đến
chết, người ta không để yên cho bọn ta đâu.
Bao Bất Đồng bực tức nói:
- Ngươi làm cho người ta chết còn giả tảng giở trò gì nữa đây?
Vù một chưởng, y vung tay đánh tới, chưởng trái lại tiếp theo lòn
bên dưới tay phải, sử chiêu Lão Long Thám Châu, chưởng biến thành
trảo nắm râu gã kia. Gã đồ gàn nghiêng qua tránh được, Phong Ba Ác,
Công Dã Can lại nổi hứng lên, chưa chịu ngừng tay lại xông ra đánh
tiếp. Đặng Bách Xuyên quát lớn:
- Ngã này!
Tay trái vươn ra, chộp ngay vào sau lưng người kép hát. Đặng Bách
Xuyên là người đứng đầu trong các thủ hạ của Mộ Dung Cô Tô ở Yến
Tử Ổ, võ công cao cường, nội lực hùng hậu, trên giang hồ tuy danh
tiếng không vang dội nhưng những ai biết đến ông ta đều kính trọng.
Ông ta giơ tay nắm lấy người đóng trò, thuận tay ném xuống. Người
kép hát đó thật là nhanh nhẹn, vai trái vừa chạm đất, lập tức xoay đi
nửa vòng, chân phải quét ngang, đá vào đùi Đặng Bách Xuyên. Thế
đánh đó thật là đột ngột, Đặng Bách Xuyên thân thể to béo nên
chuyển động không được nhanh, xem chừng khó mà tránh né, lập tức
dồn khí xuống hạ bàn, ngang nhiên chịu một đá. Chỉ nghe lắc rắc, trong
hai bắp chân có một người gãy đôi rồi.
Người kép hát lại lăn thêm mấy vòng nữa, ra ngoài xa mấy trượng
rồi quát lên:
Ta chửi là chửi mi,
Này Mao Diên Thọ kia.
Ngươi là đồ gian tặc,
Tàn hại kẻ trung lương,
Ối ối ối,
Cái chân tôi ...
Thì ra hai luồng kình lực đụng nhau, người kép hát chịu không nổi,
xương đùi đã gãy lìa. Người đàn bà trung niên xinh đẹp trước sau vẫn
đứng ngoài thản nhiên coi, lúc này thấy người kép hát gãy chân, những
đồng bọn khác cũng bị tấn công thật nguy ngập liền nói:
- Các ông vì cớ gì lại chiếm đóng nhà của ngũ ca ta, chẳng hỏi
đầu đuôi đã ra tay đả thương người là sao?
Bà ta tuy lên tiếng chất vấn đối phương nhưng giọng nói vẫn ôn nhu
dịu dàng. Người kép hát nằm dưới đất, ngửng đầu lên nhìn thấy trước
cửa nhà treo hai cái đèn lồng, kinh hoảng kêu lên:
- Sao thế này? Sao thế này? Tiết công Mộ Hoa chi tang, ngũ ca ta
đã ra người thiên cổ rồi ư?
Người sử dụng bàn cờ, hai nho sinh, người thợ mộc cầm búa và
người đàn bà cùng hướng theo tay y chỉ, thấy hai chiếc đèn lửa đã tắt
từ bao giờ, treo trong đêm tối, mọi người đến cổng nhưng không chú
tâm, mãi đến khi người đóng trò nằm dưới đất lúc ấy mới ngẩng đầu
nhìn ra.
Người kép hát khóc òa lên, hát rằng:
Ca ca ơi!
Anh em ta đào viên kết nghĩa,
Tại cổ thành gặp gỡ một phen.
Mới ngày nào anh quá ngũ quan,
Chém sáu tướng uy danh lừng lẫy ...
Khúc đầu y hát là bài ca Khóc Quan Vũ, đến sau tâm tình khích
động, hát không còn ra vần điệu gì nữa. Năm người còn lại nhao nhao
hỏi:
- Ai làm hại ngũ đệ?
- Ngũ ca ơi là ngũ ca, hung thủ giết anh là đứa nào?
- Hôm nay ta và các ngươi phải một phen sống mái.
Huyền Nạn và Đặng Bách Xuyên đưa mắt nhìn nhau, cùng nghĩ:
“Những người này xem ra đều là anh em kết nghĩa của Tiết Thần Y”.
Đặng Bách Xuyên nói:
- Chúng ta có đồng bạn bị thương nên đến đây cầu Tiết Thần Y
chữa trị, nào ngờ...
Người đàn bà ngắt lời:
- Nào ngờ y không chịu chữa, các ngươi liền giết y đi, phải không
nào?
Đặng Bách Xuyên đáp:
- Không ...
Chữ “phải” chưa kịp nói ra thì người đàn bà đã phất tay áo, ai nấy
đều ngửi thấy một mùi thơm nồng, đầu óc choáng váng, chân bông
bênh như đi trên mây, đứng không vững nữa. Người mỹ phụ kêu lên:
- Ngã này!
Đặng Bách Xuyên giận quá, quát lớn:
- Hảo yêu phụ!
Ông ta vận sức lên bàn tay, vù một tiếng đánh ra. Người đàn bà
thấy Đặng Bách Xuyên đang loạng choạng, tưởng ông ta đã vào tròng,
ngờ đâu lại còn đủ sức xuất chưởng, đang định nghiêng qua né tránh thì
không còn kịp nữa rồi, chỉ thấy một luồng lực đạo mãnh liệt như bài
sơn đảo hải ập đến, lập tức nghẹn thở, thân hình không còn điều khiển
được nữa bay vụt ra ngoài. Lách cách mấy tiếng, ngực bà ta đã gãy
mấy chiếc xương sườn, chưa rơi tới đất đã ngất đi rồi. Đặng Bách
Xuyên cũng thấy trước mắt tối sầm, ngã lăn ra.
Hai bên mỗi bên ngã một người, những người còn lại đều xông ra
xuất thủ. Huyền Nạn nghĩ thầm: “Việc này bên trong có điều gì thật là
bí mật, trước phải làm sao bắt hết đối phương, có thế mới khỏi thương
vong”. Ông bèn ra lệnh:
- Lấy thiền trượng ra.
Tuệ Kính quay lại cầm chiếc thiền trượng dựa nơi cửa đưa cho
Huyền Nạn. Người thư sinh sử dụng phán quan bút tung mình nhảy tới,
cây bút bên phải điểm vào ngực Tuệ Kính. Chưởng trái của Huyền
Nạn liền đánh ra, tay chưa đến, chưởng lực đã trúng hậu tâm y, gã thư
sinh liền ngã ngay xuống. Huyền Nạn cười một tiếng dài, trượng cầm
trên tay tiến lên hai bước, múa gậy đánh vào người cầm bàn cờ.
Người kia thấy thế đánh thật mãnh liệt, thiền trượng chưa đến mà
trượng phong đã bao trùm thân mình, lập tức vận kình lên cánh tay, giơ
bàn cờ lên chịu đòn, nghe keng một tiếng lớn, đốm lửa bắn ra tứ bề.
Người kia thấy cánh tay ê ẩm, hổ khẩu tay rách toạc. Huyền Nạn nhắc
trượng lên, cả chiếc bàn cờ cũng bị nhấc lên theo. Cái bàn cờ đó từ tính
cực mạnh, trước đây chuyên dùng để hút binh khí đối phương, hôm nay
địch mạnh ta yếu, khiến cho lại bị thiền trượng của Huyền Nạn lấy
mất.
Thiền trượng của Huyền Nạn lại đập xuống đầu người kia, y kêu
lên:
- Cái thế Trấn Thần Đầu lại thêm Ỷ Cái, ta đỡ không nổi.
Y lập tức chạy vọt về phía trước. Huyền Nạn đảo ngược thiền
trượng, quát lên:
- Tên đồ gàn, đến lượt ngươi.
Ông vung trượng đánh quét ngang, uy thế mạnh không gì đương cự
được. Người nho sinh kia đáp:
- Phu tử là bậc thánh nhân cũng phải theo thời. Gió thổi thì cỏ rạp
xuống, nằm xuống thì nằm có sao đâu?
Mấy câu đó nói chưa xong, y đã nằm phục xuống, mấy nhà sư
Thiếu Lâm liền xông tới đè nghiến y lại. Thủ tọa Đạt Ma Viện của
chùa Thiếu Lâm quả nhiên không phải tầm thường, chỉ vừa ra tay đã
đánh ngã ba cao thủ của đối phương. Người cầm búa đang phải đánh
với hai người Phong Ba Ác và Bao Bất Đồng, tránh đông né tây, có
chiều thua đến nơi. Người cầm bàn cờ nói:
- Ngừng lại! Lục đệ, thôi chúng mình chịu thua cho xong, bàn cờ
này không cần phải đi tiếp nữa. Đại hòa thượng, ta hỏi ông, ngũ đệ của
bọn ta phạm tội gì mà các ông lại giết y?
Huyền Nạn đáp:
- Đâu có chuyện đó ...
Hai người chưa dứt câu chuyện, bỗng nghe tính tang hai tiếng đàn từ
xa truyền tới. Hai tiếng đàn đó vào tai mọi người, tim ai nấy nhói lên
hai cái. Huyền Nạn còn đang ngạc nhiên, lại nghe thêm hai tiếng đàn
nữa. Lúc này xem chừng đã gần hơn nhiều, tim mọi người thót càng
mạnh hơn, Phong Ba Ác thấy trong lòng buồn bực, tay phải lơi ra, nghe
keng một tiếng, đơn đao đã rớt xuống. May nhờ có Bao Bất Đồng xuất
chưởng ra đỡ không thì búa của địch nhân đã chém xuống đầu vai y.
Gã đồ gàn kêu lên:
- Đại ca đến mau, mau lên! Thôi đừng có chướng nữa! Sao đại ca
vẫn còn ung dung đàn địch cái quái gì? Tử viết: Quân mệnh triệu, bất
hậu giá hành hĩ.Tiếng đàn liên tiếp vang lên, một ông lão mặc áo tay rộng phất phơ
chậm rãi đi tới, đầu cao trán dồ, hình thù lạ lùng cổ quái, miệng cười
khì dung mạo đầy vẻ hòa nhã dễ thân, trong tay ôm một cỗ dao cầm.Bọn gã đồ gàn cùng kêu lên:
- Đại ca!
Người đó đến gần, ôm quyền chào Huyền Nạn nói:
- Vị cao tăng nào của Thiếu Lâm ở đây thế? Tiểu lão nhi thật là
thất lễ.
Huyền Nạn cũng chắp tay đáp:
- Lão nạp là Huyền Nạn.
Người kia nói:
- Ồ, thì ra là Huyền Nạn sư huynh. Huyền Khổ đại sư của quí phái
có phải sư huynh đệ với đại sư phụ chăng? Tiểu lão nhi với ông ta có
duyên gặp gỡ mấy lần, truyện trò cực kỳ tâm đầu ý hợp, độ này ông ấy
có khang kiện không?
Huyền Nạn buồn bã đáp:
- Huyền Khổ sư huynh bất hạnh bị đứa nghịch đồ ám toán, đã viên
tịch tây qui rồi.
Người kia chết sững một hồi, đột nhiên nhảy vọt lên, phải cao đến
hơn một trượng, chưa rơi tới đất, giữa lưng trời đã khóc òa lên thật là
thảm thiết. Huyền Nạn và bọn Công Dã Can ai nấy kinh ngạc, không
ngờ một người tuổi tác đã cao như thế, vậy mà khóc lóc chẳng khác gì
một đứa trẻ thơ.
Hai chân ông ta vừa chạm đất, lập tức ngồi thụp xuống, tay vặt râu,
hai chân dậm thình thình, khóc lóc:
- Huyền Khổ ơi, sao ông không bảo ta một tiếng rồi hãy chết?
Trên đời này sao lại có chuyện như thế được? Bản đàn Phạn Âm Phổ
An Tấu của ta biết bao nhiêu người nghe rồi nhưng có ai hiểu được đạo
lý bên trong đâu, chỉ mình ông nói được ra rằng trong khúc nhạc này có
chứa rất nhiều thiền ý, đòi nghe hết lần này sang lần khác. Gã Huyền
Nạn sư đệ, chắc gì đã có được ngộ tính như ông, dẫu đàn cho y nghe,
thì khác gì đàn gảy tai trâu, đem hồng ngâm cho chuột vọc. Hu hu, sao
ta khổ thế này!
Huyền Nạn lúc đầu nghe ông ta khóc lóc thảm thiết, lại tưởng là
người chí tính với sư huynh mình, đau lòng vì cái chết của Huyền Khổ,
không khỏi cảm kích, nhưng càng nghe càng không phải, hóa ra y thất
vọng vì trên đời thiếu mất một kẻ tri âm. Tiếng khóc về sau, lại bảo
đàn cho mình nghe có khác gì “đàn gảy tai trâu”. Ông là một cao tăng
hữu đạo nên cũng chẳng bực mình, chỉ mỉm cười nghĩ thầm: “Cả bọn
này người nào cũng dở dở ương ương, người này tính tình tâm sự thật là
ăn khớp với đám anh em kết nghĩa, quả đúng là vật dĩ loại tụ”.
Lại nghe người kia khóc tiếp:
- Huyền Khổ ơi là Huyền Khổ, ta hết lòng tận lực vì người tri kỷ
sáng tác ra một bản đàn để báo đáp chút tình, đặt tên là Nhất Vi Ngâm
để ca tụng thủy tổ của phái Thiếu Lâm từng qua sông bằng một cành
lau, sao ngươi lại không sống mà nghe?
Đột nhiên y quay đầu lại hỏi Huyền Nạn:
- Phần mộ Huyền Khổ sư huynh ở nơi nào? Ông mau mau đưa ta
đến, mau mau! Càng mau càng tốt. Ta đến trước mồ đàn tân khúc này,
biết đâu y nghe rồi trong lòng thoải mái, sống lại không chừng.
Huyền Nạn đáp:
- Thí chủ chớ nên nói năng loạn xạ, sư huynh ta viên tịch đã hỏa
hóa thành tro rồi còn đâu.
Người kia bần thần, đột nhiên nhảy nhổm lên nói:
- Thế thì càng tốt, ngươi cho ta cốt hôi đó, ta dùng keo trộn với tro
dán vào đáy cây dao cầm, từ nay mỗi khi đàn một bản nào, y cũng đều
được nghe cả. Ngươi thử nghĩ thế có khéo không? Ha ha! Ha ha! Chủ ý
đó hay nhỉ?
Y càng nói càng cao hứng, nhịn không nổi vỗ tay cười ha hả, đột
nhiên nhìn thấy người đàn bà xinh đẹp nằm gục một bên kinh hoảng
kêu lên:
- Ối, thất muội sao vậy? Ai đả thương cô thế?
Huyền Nạn nói:
- Việc này bên trong có chỗ hiểu lầm, bọn ta đang muốn nói năng
cho rành mạch.
Người kia đáp:
- Hiểu lầm thế nào? Ai hiểu lầm? Nói gì thì nói, người đả thương
thất muội không phải là người tốt. Ối trời, bát đệ cũng bị thương nữa,
người đả thương bát đệ cũng không thể là người tốt được. Sao lại tới
mấy người không tốt? Mọi người báo danh tính đi, rồi cho biết ý kiến,
điều đó đã hẳn rồi.
Người kép hát nói:
- Đại ca ơi, bọn họ giết chết ngũ ca, đại ca mau mau trả thù rửa
hận cho anh ta.
Gương mặt của người đánh đàn biến đổi kịch liệt, kêu lên:
- Có chuyện đó sao? Lão ngũ là Diêm Vương Địch, Diêm La
Vương làm gì được y?
Huyền Nạn đáp:
- Tiết Thần Y chết giả đó, trong quan tài chỉ có độc dược, không
có xác người.
Cả bọn phe ông lão đánh đàn đều mừng ra mặt, nhao nhao hỏi dồn:
- Lão ngũ vì cớ gì mà giả chết thế?
- Xác chết bây giờ quàn ở đâu?
- Y chưa chết, lấy đâu ra xác chết bây giờ?
Đột nhiên từ đằng xa có tiếng nhỏ vo ve vọng tới:
- Tiết Mộ Hoa, Tiết Mộ Hoa, sư thúc lão nhân gia của ngươi đã
tới, mau mau ra ngoài nghinh tiếp.
Tiếng nói đó lúc có lúc không, còn cách rất xa thế nhưng vào tai
thật rõ ràng đủ biết người nói câu này nội công thâm hậu không biết
chừng nào. Người kép hát, gã đồ gàn, anh thợ mộc cả bọn kia không
hẹn mà cùng kêu lên kinh hoàng. Ông lão đánh đàn hoảng hốt:
- Ôi thôi, đại họa lâm đầu rồi.
Y dáo dác nhìn quanh, thần sắc cực kỳ sợ hãi miệng lắp bắp:
- Chạy mau kẻo không kịp, mau lên, mau lên, tất cả vào trong nhà
ngay.
Bao Bất Đồng lớn tiếng nói:
- Cái gì mà đại họa lâm đầu? Bộ trời sập hay sao?
Ông già kia run run nói:
- Mau, vào mau! Trời sập cũng không sợ, cái này ...
Bao Bất Đồng đáp:
- Xin lão tiên sinh tự tiện, ta không vào đâu.
Ông già kia đột nhiên vung tay phải ra, chộp vào huyệt đạo trên
ngực Bao Bất Đồng. Y ra tay cực kỳ nhanh nhẹn, Bao Bất Đồng không
kịp đề phòng nên bị chế ngự ngay, hai chân rời mặt đất, lập tức bị ông
ta xách lên kéo chạy vào trong nhà.
Huyền Nạn và Công Dã Can đều thật ngạc nhiên, đang định mở
miệng hỏi, người cầm bàn cờ đã nói nhỏ:
- Đại sư phụ, tất cả chúng mình nên vào trong nhà ngay, có một
tên đại ma đầu cực kỳ ghê gớm chớp mắt sẽ đến đây.
Huyền Nạn một thân thần công, trong võ lâm ít người là đối thủ, có
gì mà phải sợ đại ma đầu, tiểu ma đầu? Ông hỏi lại:
- Có một đại ma đầu ư? Kiều Phong chăng?
Người kia lắc đầu:
- Không phải, không phải! So với Kiều Phong còn ghê gớm, tàn
nhẫn hơn nhiều. Đó là Tinh Tú Lão Quái.
Huyền Nạn hơi nhếch mép:
- Tinh Tú Lão Quái ư? Thế thì hay quá, lão nạp đang muốn đi
kiếm y đây.
Người kia nói:
- Đại sư phụ võ công cao cường, dĩ nhiên không sợ. Có điều ở đây
ai ai cũng sẽ bị y giết sạch, còn mình đại sư sống được thôi, thật là từ bi
quá đỗi.
Y nói câu này đầy vẻ châm chọc nhưng thật công hiệu, Huyền Nạn
ngẫm nghĩ rồi đáp:
- Được rồi, tất cả cùng vào vậy.
Vừa ngay lúc đó, ông già đánh đàn đã bỏ Bao Bất Đồng xuống, từ
trong nhà chạy ra luôn mồm thúc giục:
- Mau! Mau! Còn chờ gì nữa?
Phong Ba Ác quát hỏi:
- Tam ca ta đâu?
Ông già nọ đánh ngược tay trái lại một chưởng, quét ngang má phải
của y. Hàn độc trong người Phong Ba Ác lại vừa phát tác, tưởng chừng
chịu không nổi, thấy ông ta đánh tới, vội vàng hụp xuống. Ngờ đâu
chưởng của ông già nọ chưa hết tay, đột nhiên đổi hướng đánh thấp
xuống, chộp ngay được sau ót Phong Ba Ác, miệng nói:
- Mau, mau đi vào!
Ông ta xách y lên chẳng khác gì một con gà. Công Dã Can tuy thấy
lão già kia xem chừng không có ác ý, nhưng hai người anh em của
mình chỉ một chiêu đã bị chế ngự rồi, lập tức kêu la ỏm tỏi xông lên
toan động thủ. Thế nhưng ông già thân pháp nhanh như gió, đã tới đại
môn. Người thư sinh liền ôm gã kép hát, gã thợ mộc đỡ người đàn bà,
cùng đi vào trong nhà.
Huyền Nạn nghĩ bụng chuyện ngày hôm nay rất nhiều ngụy kế đa
đoan, không nên lỗ mãng làm hỏng việc nên nói:
- Công Dã thí chủ, tất cả cùng vào rồi mình tính sau.
Hư Trúc và Tuệ Phương khiêng xác Huyền Thống, Công Dã Can bế
Đặng Bách Xuyên tất cả cùng tiến vào. Ông già đánh đàn lại ra giục
giã, thấy mọi người đều vào cả, lập tức đóng cổng lại, chặn then cửa.
Người cầm bàn cờ nói:
- Đại ca, cái cổng chính này nên mở ra. Cái đó gọi là thực giả hư
chi, hư giả thực chi khiến cho y không dám ngang nhiên tiến vào.
Ông già kia hỏi:
- Vậy sao? Được, ta nghe lời ngươi. Liệu ... liệu có được không?
Giọng nói ông ta dường như không tự tin chút nào. Huyền Nạn và
Công Dã Can hai người nhìn nhau, cùng nghĩ:
- Lão già này võ công cao cường, sao lúc gặp chuyện hoảng hốt
đến thế? Cái cánh cửa này thì đến trộm cướp tầm thường cũng chẳng
coi vào đâu, huống chi là Tinh Tú Lão Quái, đóng hay không đóng
cũng thế mà thôi. Cái điệu này y đã từng bị thua đậm dưới tay Tinh Tú
Lão Quái thành ra kinh cung chi điểu, vừa mới nghe thấy y ở quanh
đây đã hồn vía lên mây.
Ông già kia lại luôn mồm:
- Lục đệ, ngươi tính xem thế nào? Mau nghĩ cách nào coi?
Huyền Nạn tuy công phu hàm dưỡng khá cao nhưng thấy ông ta
cuống quít như thế cũng không khỏi bực mình bèn nói:
- Lão trượng, người đời có câu: Binh đến thì tướng ngăn, nước lên
thì be bờ. Tinh Tú Lão Quái dẫu có ghê gớm tàn ác cỡ nào, bọn chúng
ta liên thủ kháng địch cũng chưa chắc thua y đâu, việc gì mà phải ...
mà phải ... ờ ... mà phải quá lo xa như thế.
Lúc đó trong sảnh đã đốt lên một ngọn đuốc, chỉ trong một thoáng
ông thấy lão già kia thần sắc kinh hoàng đã đành mà cả người đánh cờ,
gã đồ gàn, anh thợ mộc, người sử dụng phán quan bút cả bọn ai nấy
mặt mày đăm chiêu. Huyền Nạn chính mắt thấy những người này võ
công không phải là kém, lại thêm ương ương gàn gàn xem chừng đều
là những hào sĩ phóng khoáng coi thường thế sự, đột nhiên sợ sệt khiếp
đảm tuồng như những kẻ hèn nhát, quả thực không biết nói sao.
Công Dã Can thấy Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác đều khỏe khoắn
ngồi trên ghế, có điều hàn độc phát tác, người run như cầy sấy, lập tức
đỡ Đặng Bách Xuyên lên trên một chiếc ghế khác, cũng may mạch
ông ta vẫn đều hòa, chỉ lơ mơ như người say rượu xem ra không có gì
nguy hiểm.
Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, một lúc sau người thợ sử dụng đoản
phủ lấy từ trong người ra một cái thước gấp, nhắm nhắm nơi góc nhà,
lắc đầu, cầm cây đèn đi vào hậu sảnh. Mọi người liền đi theo y, thấy
người đó nhìn quanh quất bốn bề tính toán, đột nhiên nhảy lên, vạch
vào xà ngang một cái, lại lắc đầu đi tiếp ra sau, đến trước chiếc quan
tài giả của Tiết Thần Y, nhìn qua nhìn lại, lắc đầu nói:
- Tiếc thay! Tiếc thay!
Ông già đánh đàn hỏi:
- Không dùng được ư?
Người cầm búa ngắn đáp:
- Không được! Sư thúc thể nào cũng nhìn ra.
Ông già đánh đàn giận dữ nói:
- Ngươi ... ngươi còn gọi y là sư thúc ư?
Người cầm búa lại lắc đầu, không nói một lời đi tiếp xuống nhà
dưới. Công Dã Can nghĩ thầm: “Người này ngoài việc lắc đầu chắc
chẳng còn biết làm gì khác”. Người thợ lại nhìn góc nhà tính toán, đếm
bước đi, bấm đốt ngón tay, dáng như người đang tính toán việc xây
phòng, đi ra bên ngoài vườn sau. Y cầm cây đuốc, suy nghĩ hồi lâu, đi
đến chỗ đặt một hàng năm cái cối nơi hành lang, lại suy nghĩ một hồi
nữa, vứt cây đuốc xuống, đi tới bên cạnh cái cối đá lớn thứ nhì, bỏ vài
nắm cám và đất vào trong cối, cầm chiếc chày đá ở bên cạnh, bắt đầu
giã, bình một tiếng lại bình một tiếng, chày đá nặng nề rơi xuống cực
kỳ mạnh mẽ.
Công Dã Can thở dài một tiếng nghĩ thầm: “Phen này đúng là số
mình đen như mõm chó, gặp một lũ điên, đến lúc này mà còn rỗi hơi đi
giã gạo. Nếu như giã gạo thì cũng còn được, còn đằng này trong cối
toàn là vỏ trấu với đất bùn, chán thật!”. Một hồi sau, hàn độc trong
người Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác tạm bớt, cũng chạy theo ra hậu
viên.
Bình! Bình! Bình! Bình! Bình! Tiếng chày giã gạo cứ liên miên bất
tuyệt. Bao Bất Đồng nói:
- Này lão huynh, ngươi định giã gạo nấu cơm ăn chăng? Trong cối
có gạo gì đâu! Chi bằng tụi mình cuốc đất lên, bỏ ít hạt lúa vào chờ
cho nảy mạ ...
Đột nhiên cách chừng bảy tám trượng nơi góc đông nam khu vườn
hoa có tiếng kẹt kẹt, tuy nhỏ nhưng có chiều lạ lùng. Cả bọn Huyền
Nạn, Công Dã Can theo hướng tiếng động nhìn theo, thấy nơi đó có
bốn cây hoa quế trồng thành một hàng.
Bình một tiếng lại bình một tiếng, người cầm búa vẫn tiếp tục giã
xuống, mà lạ thay, cây quế thứ hai về hướng đông ở bên ngoài mấy
trượng bỗng cành lá dao động, từ từ di chuyển ra bên ngoài. Một lát
sau, mọi người ai cũng thấy rõ, mỗi lần chày nện xuống một cái, cây
quế lại di chuyển một tấc nửa tấc. Ông già đánh đàn reo lên mừng rỡ,
chạy lại phía cây quế kia, nói khẽ:
- Đúng rồi! Đúng rồi!
Mọi người theo ông ta chạy ra, chỉ thấy chỗ cây quế di chuyển ra, lộ
ra một phiến đá lớn, trên thạch bản có cái vòng để cầm tay. Công Dã
Can càng thêm bội phục, lại cũng tẽn tò nói:
- Cơ quan dưới đất này xếp đặt thật là khéo léo, thực khó mà tin
nổi. Vậy mà vị nhân huynh đây trong khoảnh khắc đã phát hiện được
cách mở cơ quan, thông minh tài trí so ra không kém gì người làm ra cơ
quan này.
Bao Bất Đồng nói:
- Sai bét rồi, không phải vậy! Làm sao nhị ca biết không phải
chính y là người làm ra cơ quan này?
Công Dã Can cười nói:
- Ta nói tài trí so ra không kém người làm ra cơ quan này, nếu quả
đúng là y làm ra, tài trí của y lẽ dĩ nhiên không thể kém tài trí của
chính mình.
Bao Bất Đồng vẫn lắc đầu:
- Sai bét rồi, không phải vậy! Không kém nhưng cũng không thể
hơn. Tài trí của y làm sao lại có thể hơn chính mình?
Người dùng búa lại giã thêm độ một chục chày nữa, phiến bửng đá
đã hoàn toàn lộ ra. Người đánh đàn cầm chiếc vòng sắt, kéo mạnh lên
nhưng không chuyển động chút nào, đang tính dùng sức kéo thêm lần
nữa, người cầm búa kinh hãi kêu lên:
- Đại ca! Ngừng tay.
Y tung mình nhảy vào trong một cái cối lớn ở bên cạnh, vén quần
lên, tiểu ngay một bãi đồng thời kêu lên:
- Tất cả mau tới đái vào đây.
Lão già đánh đàn sau phút kinh ngạc, vội bỏ chiếc vòng xuống, chỉ
phút chốc người cầm bàn cờ, gã đồ gàn, người sử phán quan bút thêm
cả ông lão đánh đàn và người dùng búa cùng đái vào trong cối.
Bọn Công Dã Can thấy năm người đó đột nhiên lên cơn dở người
cùng tiểu tiện, ai nấy cười nghiêng ngả, nhưng chỉ trong khoảnh khắc
đều ngửi thấy mùi khét lẹt của thuốc nổ. Người cầm búa nói:
- Được rồi, hết nguy hiểm.
Chỉ có ông già đánh đàn đái lâu nhất, vẫn còn tiếp tục chảy tồ tồ,
mồm lẩm bẩm:
- Đáng chết thật! Đáng chết thật! Ta lại làm hỏng mất một cơ
quan. Lục đệ, nếu không nhờ ngươi phát giác cơ quan sớm thì bọn mình
ai nấy tan xương nát thịt rồi.
Bọn Công Dã Can ai nấy chết khiếp, biết rằng mình vừa mới từ quỉ
môn quan quay về, hiển nhiên bên dưới chiếc vòng sắt có nối với hỏa
thạch, hỏa đao, ngòi nổ nên vừa nhắc lên lập tức đốt cháy dây dẫn hỏa,
thuốc nổ chôn sẵn dưới đó sẽ nổ tung, may nhờ người mang búa ngắn
kia cực kỳ cơ cảnh, tất cả đều đái vào làm ướt sợi dây nên mới tránh
được tai họa.
Người mang búa đi tới bên cái cối đá thứ nhất, dùng sức vần chiếc
cối xoay qua bên phải ba vòng, ngẩng đầu lên, miệng lâm râm khẩu
quyết, tính toán một hồi, lại xoay ngược cái cối qua bên trái sáu vòng
bán nguyệt. Chỉ nghe những tiết ken két liên tiếp, chiếc bửng đá chạy
qua một bên, lộ ra một cái hầm. Lần này ông già đánh đàn không còn
dám ẩu tả xông vào mà quay sang người cầm búa vẫy tay, bảo y đi
trước. Người cầm búa quì xuống quan sát kỹ cái cối đá thứ nhất.
Đột nhiên từ dưới đất có tiếng người chửi:
- Tinh Tú Lão Quái, con bà nhà ngươi, quân đê tiện! Được lắm,
được lắm, rồi ra ngươi cũng kiếm được ta, quả là ghê gớm thật. Ngươi
làm điều càn rỡ, rồi sẽ có ngày bị quả báo. Tới đây đi, mau xuống đây
giết ta đi!
Gã thư sinh, người thợ mộc, anh kép hát cả bọn cùng reo lên:
- Lão ngũ quả nhiên chưa chết.
Ông già đánh đàn gọi lớn:
- Ngũ đệ, bọn ta tới đây.
Tiếng nói dưới hầm ngừng bặt rồi có tiếng kêu lên:
- Quả thực là đại ca đó sao?
Giọng nói đầy vẻ vui mừng. Roạt một tiếng, từ trong hầm một người
chui ra, chính là Diêm Vương Địch Tiết Thần Y. Y có ngờ đâu ngoài
những nghĩa huynh nghĩa đệ còn có rất nhiều người ngoài, không khỏi
kinh ngạc quay sang Huyền Nạn nói:
- Đại sư cũng đến nữa! Những vị này cũng là bằng hữu, phải
không?
Huyền Nạn hơi ngần ngừ rồi đáp:
- Phải, đều là bằng hữu.
Trước đây chùa Thiếu Lâm vẫn cho rằng Huyền Bi đại sư chết về
tay Cô Tô Mộ Dung nên vẫn coi họ Mộ Dung là đại đối đầu. Thế
nhưng lần này ông cùng bọn Đặng Bách Xuyên cùng đi cầu thầy chữa
bệnh, trên đường Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can hết sức giải thích
Huyền Bi đại sư quyết không phải do Mộ Dung công tử ra tay, Huyền
Nạn cũng đã tin đến sáu bảy phần, lại thêm lần này cùng gặp nguy
nan, đồng hội đồng thuyền nên đã coi những người này là bạn. Công
Dã Can nghe ông ta nói thế, quay sang gật gù. Tiết Thần Y nói:
- Nếu cũng là bạn cả thì thật tốt quá, tất cả cùng xuống đây. Xin
mời Huyền Nạn đại sư đi trước.
Tuy ông ta nói thế nhưng vẫn nhanh nhẹn xuống hầm đầu tiên. Một
cái hang tối thui như thế này hẳn là cực kỳ hung hiểm, trên giang hồ
lòng người trá ngụy khó dò, có ai lại dám tin ai nên mình phải xuống
trước, ấy là đạo đãi khách.
Tiết Thần Y tiến vào rồi, Huyền Nạn lúc ấy mới xuống, mọi người
đỡ kẻ bị thương theo sau, cả thi thể của Huyền Thống cũng khiêng nữa.
Tiết Thần Y điều khiển máy móc, phiến đá đóng lại, ông ta lại tiếp tục
vận động nghe có tiếng lẹt kẹt vang lên, mọi người liệu rằng ông ta
đang di chuyển cây quế trở về chỗ cũ.
Ở bên dưới là một địa đạo lót đá, ai nấy phải khom lưng mới đi
được, một lát sau đường hầm rộng hơn dẫn đến một cái hang thiên
nhiên, thêm chừng chục trượng thì tới một thạch động rộng rãi. Bên
cạnh một đống lửa ở một góc là khoảng hai chục người, già trẻ lớn bé
đều có cả. Những người đó nghe thấy tiếng chân người đều quay lại
nhìn. Tiết Thần Y nói:
- Đây đều là người nhà của tại hạ, sự tình khẩn bách nên không
bảo họ ra chào quí vị được, thất lễ xin đừng trách. Đại ca, nhị ca, sao
hai người lại đến đây?
Ông ta không đợi ông già đánh đàn trả lời, lập tức xem xét thương
thế cho mọi người. Người đầu tiên ông ta coi là Huyền Thống, Tiết
Thần Y nói:
- Vị đại sư này ngộ đạo viên tịch, quả là đáng mừng.
Y lại coi đến Đặng Bách Xuyên, mỉm cười nói:
- Phấn hoa của thất muội ta chỉ làm cho người say sưa, một hồi
nữa sẽ tỉnh, không có chất độc.
Người đàn bà trung niên và gã kép hát cũng chỉ bị ngoại thương, tuy
không phải nhẹ nhưng Tiết Thần Y chỉ coi là chuyện nhỏ. Ông ta lại
coi mạch cho Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác, ngửng đầu nhắm mắt lại,
hết sức suy nghĩ. Một hồi sau, Tiết Thần Y lắc đầu:
- Lạ thật! Lạ thật! Ai là kẻ đả thương hai vị huynh đài này?
Công Dã Can đáp:
- Là một thanh niên hình mạo cực kỳ cổ quái.
Tiết Thần Y lắc đầu:
- Thanh niên ư? Người này võ công bao gồm cả sở trường hai bên
chính tà, nội công thâm hậu, ít nhất cũng phải có ba mươi năm tu tập,
sao lại còn là thanh niên được?
Huyền Nạn đáp:
- Quả thực là một thanh niên nhưng chưởng lực hùng hậu, Huyền
Thống sư đệ của ta đối chưởng với y, cũng bị hàn độc mà bị thương. Y
là đệ tử của Tinh Tú Lão Quái.
Tiết Thần Y kinh hoảng hỏi lại:
- Đệ tử của Tinh Tú Lão Quái mà lợi hại đến thế sao? Ghê gớm
quá!
Ông ta lắc đầu:
- Thật xấu hổ, hàn độc của hai vị huynh đài này, tại hạ không có
cách nào chữa được. Hai tiếng Thần Y, từ nay không còn dám xưng
nữa.
Đột nhiên nghe tiếng một người nói oang oang:
- Tiết tiên sinh, nếu đã thế, chúng tôi xin cáo từ.
Người đó chính là Đặng Bách Xuyên, ông ta bị phấn hoa làm mê
man, lúc này đã tỉnh lại rồi, nghe Tiết Thần Y nói mấy câu sau cùng.
Bao Bất Đồng cũng phụ họa:
- Đúng thế! Đúng thế! Trốn ở dưới cái hang này làm gì? Đại
trượng phu sinh tử hữu mệnh, lẽ nào lại theo cái thói của con rùa con
chuột, chui dưới cái hang hay sao?
Tiết Thần Y cười nhạt:
- Thí chủ quả là khoa trương. Liệu ngươi có biết ở ngoài đó là ai
không?
Phong Ba Ác đáp:
- Các ngươi sợ Tinh Tú Lão Quái chứ ta cóc sợ. Thật uổng thay
những người võ công cao cường mà mới nghe cái tên của Tinh Tú Lão
Quái đã kinh hồn bạt vía.
Ông già đánh đàn nói:
- Đến ta ngươi đánh còn chưa lại, Tinh Tú Lão Quái là sư thúc của
ta, ngươi nghĩ y lợi hại hay không nào?
Huyền Nạn vội nói lảng sang chuyện khác:
- Những điều lão nạp trông thấy, nghe thấy hôm nay, thật nhiều
chỗ không hiểu, đang muốn thỉnh giáo.
Tiết Thần Y nói:
- Chúng tôi sư huynh đệ tám người, xưng là Hàm Cốc bát hữu.
Ông ta chỉ vào ông già đánh đàn:
- Vị này là đại sư ca của chúng tôi, tôi là thứ năm, còn những việc
khác, một là nói ra thật dài dòng, hai nữa không tiện cho người ngoài
biết ...
Vừa nói tới đây, bỗng có tiếng gọi thật nhỏ truyền tới:
- Tiết Mộ Hoa, sao ngươi chưa ra gặp ta?
Thanh âm đó mong manh như tơ, tưởng chừng chỉ loáng thoáng nghe
thấy nhưng người ở trong hang sâu vẫn nghe thật rõ ràng, tựa hồ một
sợi dây kim loại thật nhỏ, xuyên qua đất dày hơn chục trượng mà
xuống, lại cũng như theo đường hầm quanh co mà chạy vào tai mỗi
người.
Ông già đánh đàn kêu lên một tiếng, nhảy nhổm lên run run nói:
- Tinh ... Tinh Tú Lão Quái!
Phong Ba Ác lớn tiếng:
- Đại ca, nhị ca, tam ca, chúng mình đi ra quyết một phen tử chiến.
Lão già đánh đàn nói:
- Không được đâu, nhất định là không được. Các ngươi ra khỏi đây
dẫu có chết uổng mạng cũng không sao nhưng lại làm lộ cái mật thất ở
dưới đất, trong này mấy chục mạng người cũng sẽ chết vì cái “nhất
dũng chi phu” của các ngươi.
Bao Bất Đồng nói:
- Tiếng nói của y có thể truyền đến tận đây không lẽ không biết
bọn mình chỗ nào hay sao? Ngươi cam nguyện làm con rùa rụt đầu rụt
cổ nhưng y nhất định lôi ngươi ra thì có trốn cũng không được.
Thư sinh sử phán quan bút nói:
- Nhất thời tam khắc y chưa thể vào được, tất cả chúng mình nên
tìm một cách gì cho phải lẽ.
Người cầm búa ngắn hình dáng như thợ thuyền kia trước sau vẫn
không nói năng gì, lúc này mới xen vào:
- Đinh sư thúc tài nghệ tuy cao thật nhưng muốn tìm hiểu được cơ
quan vào địa đạo này, ít ra cũng phải mất hai giờ. Nếu muốn tìm ra
cách tấn công vào lại phải mất thêm hai giờ nữa.
Ông già đánh đàn nói:
- Hay lắm, như thế chúng mình có bốn giờ để bàn tính kế sách, có
phải không nào?
Người cầm búa ngắn đáp:
- Bốn giờ rưỡi.
Ông già đánh đàn ngạc nhiên hỏi lại:
- Sao lại có thêm nửa giờ là sao?
Người cầm búa ngắn đáp:
- Trong bốn giờ đó, tiểu đệ có thể bố trí ba cơ quan, ngăn trở y
thêm được nửa giờ nữa.
Ông già đánh đàn nói:
- Hay lắm! Huyền Nạn đại sư, một khi đại ma đầu tới đây, anh em
tám người chúng tôi chắc không thể nào thoát khỏi độc thủ của y. Các
vị là người ngoài, một khi đại ma đầu kia chuyên tâm đối phó với bọn
sư điệt, các vị ắt có cơ hội bỏ chạy. Các vị nhất định đừng có ỷ mình
anh hùng hảo hán, tranh đấu với y làm gì. Nên biết rằng người nào
chạy thoát được độc thủ của Tinh Tú Lão Quái cũng đã là anh hùng
lắm rồi.
Bao Bất Đồng đáp:
- Thối quá! Thối quá!
Mọi người hít hít nhưng không ai thấy có gì hôi, ai nấy nhìn Bao Bất
Đồng như dò hỏi. Bao Bất Đồng chỉ vào ông già đánh đàn nói:
- Người này đánh rắm thối quá, chịu không nổi.
Y mới rồi chỉ có một chiêu đã bị người đánh đàn chế ngự, trong
bụng vẫn còn ấm ức, tuy lúc đó là lúc đang bị hàn độc phát tác, chân
tay không có sức, nhưng cũng biết võ công mình kém y xa, đối thủ
càng mạnh y lại càng muốn chửi.
Người sử dụng bàn cờ lườm y một cái nói:
- Ngươi muốn thoát khỏi được bàn tay của đại sư huynh ta cũng đã
không phải dễ, huống hồ gì sư thúc ta võ công gấp mười lần đại sư
huynh ta, như vậy thử hỏi ai mới là người đánh rắm thối?
Bao Bất Đồng đáp:
- Sai bét rồi, không phải vậy! Võ công cao cường với đánh rắm có
liên quan gì đâu. Võ công cao cường không lẽ không đánh rắm? Không
đánh rắm là nhất định phải võ công cao cường hay sao? Khổng phu tử
không biết võ công, không lẽ lão nhân gia là người chuyên đánh rắm ...
Đặng Bách Xuyên nghĩ thầm: “Những người này nói không hẳn
hoàn toàn vô lý, Bao tam đệ cùng với họ cãi qua cãi lại chỉ làm hao phí
thời gian”. Y liền nói:
- Lai lịch của chư vị tại hạ chưa được cung kính lắng nghe thành
thử lầm lỡ đã nhiều, đánh nhầm vị nương tử đây, tại hạ muôn phần có
lỗi. Hôm nay nếu cùng chống lại yêu ma, tất cả coi như người nhà. Khi
cường địch tới, thủ hạ Cô Tô Mộ Dung công tử tuy chẳng bằng ai
nhưng bỏ chạy thì quyết không bỏ chạy, nếu quả không chống nổi thì
tất cả chúng ta cũng đành bỏ mạng thôi.
Huyền Nạn nói:
- Tuệ Kính, Hư Trúc các người nếu có cơ hội thì nên tìm cách
thoát thân, trở về đến chùa, bẩm lại cho phương trượng, để khỏi tất cả
bị yêu nhân quăng một mẻ lưới bắt sạch, đến tin tức cũng không truyền
được ra ngoài.
Sáu nhà sư Thiếu Lâm chắp tay đáp:
- Cung lãnh pháp chỉ.
Bọn Tiết Mộ Hoa và Đặng Bách Xuyên nghe Huyền Nạn nói như
thế, biết ông đã quyết chí cùng mọi người đồng sinh cộng tử, nhưng có
đối phó nổi với Tinh Tú Lão Quái hay không thì cũng không ai biết
được.
Ông già đánh đàn ngẩn ngơ, đột nhiên vỗ tay cười nói:
- Tất cả cùng nhau chết hết. Huyền Khổ sư huynh nếu như giờ này
còn sống thì từ rày về sau cũng không còn bao giờ được nghe vô
thượng chí khúc Nhất Vi Ngâm của ta nữa, ta lẽ nào còn vì cái chết của
y mà thương tâm? Ôi! Có ngưới bảo Khang Quảng Lăng này là một tên
cực kỳ ngốc nghếch, ta vẫn không phục, thế nhưng xem ra nếu không
phải là cực kỳ ngốc thì cũng hơi hơi ngốc.
Bao Bất Đồng nói:
- Nhà ngươi chính hiệu là tên đại ngốc, là tên cực kỳ khù khờ.
Ông già đánh đàn Khang Quảng Lăng đáp:
- Ta cũng chẳng ngốc bằng ngươi.
Bao Bất Đồng đáp:
- Ngươi ngốc gấp mười lần ta.
Khang Quảng Lăng nói:
- Ngươi ngốc gấp trăm lần ta.
Bao Bất Đồng nói:
- Ngươi ngốc gấp ngàn lần ta.
Khang Quảng Lăng nói:
- Ngươi ngốc gấp vạn lần ta.
Bao Bất Đồng nói:
- Ngươi ngốc gấp mười vạn lần, trăm vạn lần, nghìn vạn lần, vạn
vạn lần ta.
Tiết Mộ Hoa chen vào:
- Hai vị kẻ tám lạng, người nửa cân, không người nào ngốc hơn
người nào. Các vị sư phụ phái Thiếu Lâm, các vị về đến chùa rồi,
phương trượng đại sư hỏi đến tiền nhân hậu quả e rằng quí vị không trả
lời được. Việc này vốn dĩ là một điều đáng hổ thẹn của tệ phái, đáng
lẽ không cho người ngoài hay. Thế nhưng để tiêu diệt cái họa hoạn cho
võ lâm, nếu không do các cao tăng Thiếu Lâm chủ trì đại cuộc thì khó
mà thành công. Tại hạ phải thuật lại tỏ tường cho quí vị, có điều các vị
chỉ nói lại cho phương trượng của quí tự chứ đừng nói với ai khác.
Bọn Tuệ Kính, Hư Trúc cùng đáp:
- Những gì Tiết Thần Y nói ra đây, bọn tiểu tăng chỉ nói cho
phương trượng tệ tự nghe, ngoài ra quyết không nói cho ai khác nửa
câu.
Tiết Mộ Hoa nhìn Khang Quảng Lăng nói:
- Đại sư ca, những nguyên do trong vụ này, tiểu đệ muốn nói cho
mọi người nghe.
Khang Quảng Lăng tuy vị trí đứng đầu tám người, võ công cũng cao
hơn các đàn em xa lắc nhưng lại là người tính tình ấu trĩ, Tiết Mộ Hoa
sở dĩ hỏi ông ta một câu cũng chỉ vì có người ngoài nên muốn cho đẹp
mặt. Khang Quảng Lăng đáp:
- Lạ nhỉ, mồm là mồm của ngươi, ngươi muốn nói thì cứ nói, sao
lại hỏi ta?
Tiết Mộ Hoa nói:
- Huyền Nạn đại sư, Đặng sư phó, thụ nghiệp ân sư của chúng tôi
ở trong võ lâm người ta gọi là Thông Biện tiên sinh ...
Huyền Nạn và Đặng Bách Xuyên cả bọn ai nấy ngạc nhiên, cùng
hỏi:
- Vậy sao?
Thông Biện tiên sinh chính là Lung Á lão nhân. Ông ta vừa điếc
vừa câm nhưng lại lấy ngoại hiệu là Thông Biện tiên sinh, đệ tử của
ông ta người nào cũng bị dùi thủng tai cho điếc, cắt lưỡi cho câm trên
giang hồ ai ai cũng biết. Thế nhưng bọn Khang Quảng Lăng ai nấy tai
thính miệng trơn, như thế quả thật lạ kỳ.
Tiết Mộ Hoa nói tiếp:
- Môn hạ đệ tử của gia sư ai ai cũng vừa câm vừa điếc là việc chỉ
mới vài chục năm nay. Còn trước đó, gia sư không phải là người câm,
cũng chẳng điếc, mà vì bị sư đệ là Đinh Xuân Thu khích, biến thành
câm điếc.
Bọn Huyền Nạn ai nấy ồ lên kinh ngạc. Tiết Mộ Hoa nói:
- Tổ sư chúng tôi cả thảy chỉ thu hai người đệ tử, đại đệ tử họ Tô,
tên trên Tinh dưới Hà, đó là gia sư, nhị đệ tử Đinh Xuân Thu. Võ công
hai người vốn ngang ngửa nhau, thế nhưng về sau mới phân thành kẻ
cao người thấp ...
Bao Bất Đồng chen vào:
- Ha ha, chắc hẳn là sư thúc ngươi Đinh Xuân Thu thắng được sư
phụ ngươi, cái đó còn việc gì phải nói.
Tiết Mộ Hoa tiếp:
- Nói ra thì cũng không hẳn vậy. Tổ sư chúng tôi học đủ mọi thứ
trên trời đưới đất, bụng chứa bao la vạn tượng ...
Bao Bất Đồng nói:
- Chưa chắc đâu!
Tiết Mộ Hoa biết người này chuyên môn cà khịa với người khác
nên không ngó ngàng gì đến y, vẫn tiếp tục nói:
- Ban đầu sư phụ chúng tôi và Đinh Xuân Thu chỉ cùng học võ
công, nhưng về sau sư phụ chúng tôi phân tâm, học tổ sư gia đánh đàn,
âm vận ...
Bao Bất Đồng chỉ vào Khang Quảng Lăng nói:
- Ha ha, cái môn đánh đàn quỉ quái của ngươi là học ở đó chứ gì?
Khang Quảng Lăng trừng mắt nhìn y nói:
- Bản lãnh của ta không học sư phụ không lẽ học của ngươi sao?
Tiết Mộ Hoa nói:
- Nếu như sư phụ ta chỉ học một môn đánh đàn thì cũng không có
gì vướng mắc lắm, có điều tổ sư gia sở học quá bao la, cầm kỳ thư họa,
y bốc tinh tướng, công nghệ tạp học, buôn bán cấy trồng, cái gì cũng
biết, cái gì cũng tinh. Sư phụ ta lúc đầu chỉ học đánh đàn, chẳng bao
lâu lại học đánh cờ, rồi sang thư pháp, rồi sang hội họa.
Các vị thử nghĩ xem, mỗi môn môn nào cũng hao phí rất nhiều thời
gian tâm huyết, Đinh Xuân Thu lúc đầu cũng giả vờ học thử, nhưng chỉ
dăm bữa nửa tháng thì bảo là mình tư chất đần độn, khó mà học cho
xong, nên chỉ chuyên tâm về võ công thôi. Cứ như thế tám năm, mười
năm, hai sư huynh đệ võ công liền có kẻ cao người thấp.
Huyền Nạn liên tiếp gật gù nói:
- Chỉ một môn đánh đàn hay chơi cờ không thôi cũng đã hao sinh
lực một nửa đời người, vậy mà Thông Biện tiên sinh tinh thông mấy
loại, quả thực khó thay. Còn Đinh Xuân Thu chuyên tâm một môn, võ
công thắng được sư huynh thì cũng không có gì là lạ.
Khang Quảng Lăng nói:
- Lão ngũ, còn một việc hết sức quan trọng, sao ngươi không nói
ra đi, mau lên, mau lên!
Tiết Mộ Hoa nói:
- Đinh Xuân Thu chuyên tâm học võ, vốn dĩ cũng là chuyện tốt,
có điều ... có điều ... ôi ... chuyện này nói ra, thật xấu xa cho sư môn
quá. Nói tóm lại, Đinh Xuân Thu sử dụng mọi thủ đoạn hèn hạ, không
biết học đâu ra mấy môn tà thuật cực kỳ lợi hại, đột nhiên ra tay đánh
tổ sư gia bọn ta trọng thương.
Tổ sư gia vốn dĩ thân mang tuyệt học, tuy bị ám toán bất ngờ không
kịp đề phòng nhưng vẫn gắng gượng chống trả được cho đến khi sư phụ
bọn ta đến cứu viện. Võ công sư phụ bọn ta không bì được với tên ác
tặc, sau một trận ác đấu, sư phụ ta cũng bị thương còn tổ sư gia rơi
xuống dưới thâm cốc, chẳng biết sống chết thế nào.
Sư phụ ta vì tạp học mà xao nhãng võ công nhưng những môn đó
không phải không có chỗ dùng. Vào lúc nguy nan, sư phụ ta thi triển
thuật kỳ môn độn giáp, ngũ hành bát quái làm loạn tai mắt Đinh Xuân
Thu khiến y không thể giải được.
Đinh Xuân Thu không thể nào phá trận mà vào giết sư phụ ta, hơn
nữa, y cũng biết bản môn còn nhiều thần công áo diệu mà tổ sư gia
chưa truyền cho hai sư huynh đệ, ắt rằng khi lâm tử ắt thể nào cũng nói
cho sư phụ ta biết nơi cất dấu bí cập, cần phải từ từ bức bách sư phụ ta
thổ lộ, vì thế hai người mới đính ước với nhau, nếu như sư phụ ta từ nay
không mở miệng nói một câu nào thì y sẽ không đi tìm sư phụ ta trả
đũa.
Khi đó môn hạ của sư phụ ta chỉ gồm tám đứa đệ tử chưa thành tài.
Sư phụ ta mới viết một phong thư khai trừ cả tám người không nhận
làm học trò nữa, từ đó quả nhiên giả vờ câm điếc, không nghe không
nói, nếu có thu đệ tử cũng chọc tai cắt lưỡi, lập ra Lung Á Môn.
Theo như ta đoán ý của sư phụ, chắc là cực kỳ hối hận năm xưa đã
phân tâm theo đuổi các môn tạp học để đến nỗi võ công không bằng
Đinh Xuân Thu nên sau khi câm điếc rồi, những môn tạp học đó không
hề dạy nữa.
Anh em sư huynh đệ bọn ta tám người, ngoài võ công ra còn học
của sư phụ một môn tạp học. Đó là từ trước khi Đinh Xuân Thu phản
thầy, lúc đó gia sư chưa thấy rõ được cái hại to lớn của phân tâm, nên
không cấm đoán mà còn khuyến khích, gia công chỉ điểm. Khang đại
sư huynh Quảng Lăng học đánh đàn.
Bao Bất Đồng nói:
- Y đúng là “đàn mình mình nghe cũng còn chẳng lọt tai”.
Khang Quảng Lăng hầm hầm hỏi lại:
- Ngươi bảo ta đàn không hay phải không? Để ta đàn thử cho
ngươi nghe.
Vừa nói vừa để cây dao cầm lên trên gối. Tiết Mộ Hoa vội vàng
xua tay chặn lại rồi chỉ vào người cầm bàn cờ:
- Phạm nhị sư huynh Bách Linh, học môn cờ vây, trên đời này khó
có ai gọi là địch thủ.
Bao Bất Đồng đưa mắt nhìn Phạm Bách Linh rồi nói:
- Thảo nào ngươi dùng bàn cờ làm binh khí. Có điều bàn cờ làm
bằng từ thiết, hút binh khí người ta, không khỏi lợi thế, chẳng phải là
hành vi của kẻ chính nhân quân tử.
Phạm Bách Linh đáp:
- Trong thuật đánh cờ, cố nhiên là phải đường đường chính chính
nhưng kỳ binh ngụy đạo cũng chẳng cấm đoán.
Tiết Mộ Hoa nói tiếp:
- Bàn cờ của Phạm nhị sư ca sở dĩ dùng nam châm đúc thành, vốn
là để nghiên cứu kỳ thuật. Dù cho đi đứng nằm ngồi, đột nhiên nghĩ
đến một thế cờ đều có thể dùng quân đen quân trắng bày thành trận
ngay. Bàn cờ của anh ta làm bằng từ thiết, để quân cờ bằng sắt lên, dù
trên xe trên ngựa cũng không xê xích, rơi rụng. Về sau để cho tiện với
kỳ nghệ nên dùng luôn bàn cờ làm binh khí, quân cờ dùng làm ám khí
chứ không phải muốn dùng bàn cờ bằng từ thiết để lấn lướt người ta.
Bao Bất Đồng trong bụng cũng đồng ý nhưng mồm vẫn lèm bèm:
- Nói thế thật chẳng thông, không thông chút nào. Với võ công
như Phạm lão nhị, nếu có dùng một bàn cờ gỗ, dùng quân cờ sắt gắn
lên, lẩn hẳn vào trong gỗ thì quân cờ đó còn làm sao rơi ra được?
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Thế nhưng cũng không tiện bằng bàn cờ sắt. Còn Cẩu tam sư ca
của ta đơn danh là Độc, tính thích đọc sách, đọc đủ mọi loại, sách gì
cũng ngó đến, là một túc nho bụng đầy chữ nghĩa, chắc các vị cũng đã
lãnh giáo qua rồi.
Bao Bất Đồng nói:
- Tiểu nhân chi nho thì có đáng gì!
Cẩu Độc giận dữ hỏi:
- Cái gì? Ngươi bảo ta là “tiểu nhân chi nho” ư? Không lẽ ngươi là
“quân tử chi nho” chăng?
Bao Bất Đồng đáp:
- Đâu dám! Đâu dám!
Tiết Mộ Hoa biết rằng một khi hai người tranh cãi rồi, có đến ba
ngày ba đêm cũng chưa dứt vội vàng ngắt ngang, chỉ vào thư sinh sử
dụng phán quan bút:
- Còn đây là tứ sư ca của ta, giỏi về nét đan thanh, sơn thủy nhân
vật, cỏ cây hoa lá món gì cũng tinh xảo. Y họ Ngô, trước khi vào làm
môn đệ gia sư, đã từng làm chức lãnh quân của Tống triều thành thử ai
ai cũng gọi y là Ngô lãnh quân.
Bao Bất Đồng nói:
- E rằng lãnh quân đánh đâu thua đó, vẽ vời thì người chẳng ra
người, ngợm chẳng ra ngợm.
Ngô lãnh quân đáp:
- Nếu như phải vẽ tôn dung của các hạ, thì đúng là nhân quỉ nan
phân.
Bao Bất Đồng cười sằng sặc nói:
- Lão huynh khi nào rảnh, lấy dung mạo Bao lão tam này làm mẫu
vẽ một bức Quỉ Thú Đồ thì thật hay lắm.
Tiết Mộ Hoa cười nói:
- Bao huynh anh tuấn tiêu sái, sao lại quá khiêm tốn như thế? Tại
hạ đứng hàng thứ năm, học môn y thuật, trên giang hồ cũng có chút
danh còm, thật không dám quên ơn của sư phụ.
Bao Bất Đồng nói:
- Ho cảm phong hàn thì may ra chữa được, còn gặp phải hàn độc
của tại hạ thì cũng bó tay. Cái đó đúng là bệnh nặng chữa không xong,
bệnh nhẹ chữa không chết. Ha ha, cái tiếng Thần Y quả là danh bất hư
truyền.
Khang Quảng Lăng giơ tay vuốt râu, đưa mắt nhìn Bao Bất Đồng:
- Vị lão huynh này tính tình kỳ khôi, thật đúng là không giống ai.
Bao Bất Đồng đáp:
- Ha ha, ta họ Bao, tên Bất Đồng, thì dĩ nhiên là không giống ai
rồi.
Khang Quảng Lăng cũng cười khà khà nói:
- Ngươi họ Bao thật sao? Tên Bất Đồng thật sao?
Bao Bất Đồng đáp:
- Không lẽ còn giả hay sao? Này, còn vị nhân huynh chuyên chế
tạo cơ quan đây, hẳn là tinh thông mộc nề xây cất, môn hạ của Lỗ Ban
tiên sư chăng?
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Chính thế! Lục sư đệ Phùng A Tam, vốn dĩ là thợ mộc xuất thân,
trước khi đầu nhập sư môn từng là một người thợ khéo, về sau lại học
thêm nghề của gia sư, khéo càng thêm khéo. Thất sư muội họ Thạch,
giỏi về hoa cỏ, kỳ hoa dị thảo trong thiên hạ cây nào cô ta trồng cũng
tốt tươi.
Đặng Bách Xuyên nói:
- Dược vật Thạch cô nương dùng để làm ta mê man ắt hẳn lấy từ
các loại phấn hoa chứ không phải thuốc độc.
Người đàn bà xinh đẹp họ Thạch kia khuê danh là Thanh Lộ, mỉm
cười đáp:
- Mới rồi quả là đắc tội, mong Đặng lão sư tha thứ cho.
Đặng Bách Xuyên đáp:
- Tại hạ lỗ mãng, ra tay quá nặng, mong cô nương rộng lượng.
Tiết Mộ Hoa chỉ vào người cứ mở miệng là hát xướng nói:
- Bát đệ Lý Khổi Lỗi cả đời chỉ mê diễn trò đóng tuồng, dở dở
ương ương thành thử võ học không khỏi chểnh mảng. Ôi, thế nhưng nào
chỉ mình y đâu! Bọn chúng tôi tám người, ai ai cũng đều thế cả. Thực
ra võ công sư phụ chúng tôi truyền thụ tu tập cũng chưa xong vậy mà
còn ôm đồm nhiều thứ, học cả tuyệt chiêu của người ngoài, đến nỗi ...
ôi ...Lý Khổi Lỗi vẫn nằm dưới đất, hát lên:
Cô vương đây chính thị,
Lý Tồn Húc là ta Giang sơn nào đáng trọng,
Đóng tuồng mới thật ưa.
Ải ải ải!
Thích ơi là thích.
Bao Bất Đồng nhại lại:
Cô vương đây chính thị,
Tên gọi Lý Tự Nguyên,Giang sơn ta lấy được,
Chém đầu đứa hôn quân.
Gã đồ gàn Cẩu Độc chen vào:
- Lý Tồn Húc bị bọn thủ hạ kép hát Quách Tòng Khiêm giết chết
chứ nào phải chết vì tay Lý Tự Nguyên.
Bao Bất Đồng không thông sử sách biết mình cãi không lại Cẩu
Độc bèn cất giọng ngâm:
Ử ử ử,
Nào ai còn phải hỏi,
Quách Tòng Khiêm là ta.
A a a!
Tần Thủy Hoàng cũng mỗ,
Đốt sách chôn học trò.
Học trò ta ghét nhất,
Bọn tiểu nhân chi nho.
Tiết Mộ Hoa nói tiếp:
- Bọn huynh đệ chúng tôi tám người tuy đã bị trục xuất ra khỏi sư
môn nhưng không dám quên ân đức giáo huấn của sư phụ nên mới lấy
cái tên Hàm Cốc bát hữu cốt để ghi nhớ năm xưa được thụ nghệ ở
ngoài ải Hàm Cốc. Người ngoài chỉ tưởng chúng tôi chỉ vì cũng cám
hấp như nhau ...
Bao Bất Đồng khịt khịt mũi nói:
- Hôi thật, hôi thật!
Cẩu Độc nói:
- Hệ Từ trong kinh Dịch có viết: “Lời kẻ đồng lòng, hôi cũng
thành lan”. Hôi cũng là thơm, lão huynh chẳng biết gì cả.
Bao Bất Đồng đáp:
- Lời của lão huynh, mùi thơm như rắm.
Tiết Mộ Hoa mỉm cười nói:
- Không ai biết chúng tôi là huynh đệ đồng môn. Chúng tôi cũng
đề phòng Tinh Tú Lão Quái quay trở lại Trung Nguyên một mẻ vét
sạch nên chỉ hai năm gặp nhau một lần, còn lúc bình thường thì ở rải
rác mỗi người một nơi.
Bọn Huyền Nạn, Đặng Bách Xuyên nghe Tiết Thần Y nói rõ lai
lịch tám anh em, những nghi vấn trong lòng giảm đi quá nửa. Công Dã
Can hỏi lại:
- Nếu nói thế Tiết tiên sinh giả vờ chết, trong quan tài bố trí độc
dược cũng chỉ là để đối phó với Tinh Tú Lão Quái mà thôi. Thế tại sao
Tiết tiên sinh biết được là y sẽ đến đây?
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Hai hôm trước đây, tôi đang ngồi không trong nhà, bỗng có bốn
người đến xin chữa bệnh, trong đó có một hòa thượng béo trục béo
tròn, trên ngực sau lưng có đến tám chiếc xương sườn bị gãy, bị thương
vì chưởng lực của phái Thiếu Lâm nhưng chỗ gãy đã nối lại rồi chỉ để
một thời gian cũng tự lành được, không có gì hung hiểm. Có điều trong
tạng phủ y có ẩn hàn độc, tuy không liên quan gì đến ngoại thương
nhưng chẳng bao lâu sẽ phát tác mà chết.
Huyền Nạn nói:
- Thật là xấu hổ! Y chính là Tuệ Tịnh hòa thượng, môn hạ phái
Thiếu Lâm. Nhà sư này không giữ thanh qui, làm điều càn rỡ nên tệ tự
đã sai người đi bắt y về để trừng trị theo giới luật, vậy mà y lại ra tay
trước đả thương người. Thì ra trên thân y đã vốn có hàn độc rồi nhưng
chuyện đó chẳng có liên can gì đến bọn ta, không biết ai đã đưa y đến
đây chữa trị?
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Đi cùng với y là một bệnh nhân thật kỳ quái, đầu đội một cái
lồng sắt ...
Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác cùng nhảy dựng lên kêu lớn:
- Đả thương bọn ta chính là tên tiểu tử đầu sắt đó.
Tiết Thần Y lạ lùng hỏi:
- Thanh niên đó công lực cao cường vậy sao? Tiếc thay lúc y đến
lật đà lật đật, ta không kịp đưa tay coi mạch, nếu không tình trạng nội
lực của y thế nào ít ra cũng biết được chút đầu dây mối nhợ.
Bao Bất Đồng hỏi thêm:
- Thế tiểu tử đó bị bệnh gì thế?
Tiết Thần Y đáp:
- Y muốn nhờ ta gỡ bỏ cái lồng sắt trên đầu y ra. Thế nhưng lúc ta
coi lại, cái lồng đó dính chặt vào đầu y rồi, không thể gỡ ra được.
Bao Bất Đồng nói:
- Lạ nhỉ? Không lẽ cái đầu sắt đó là do cha sinh mẹ đẻ ra đã có,
từ bé đã thế rồi sao?
Tiết Thần Y nói:
- Không phải thế. Cái lồng đó khi người ta chụp lên đầu y thì còn
nóng hổi thành thử làm lở loét, chín rục thịt ra, đến khi máu đông kết
thành sẹo rồi thì dính chặt vào mặt vào ót. Nếu phá đi thì sẽ lột luôn cả
mí mắt, miệng, mũi không còn ra hình thù gì nữa.
Bao Bất Đồng hạnh tai lạc họa, cười khẩy nói:
- Nếu y đã nhờ ông tháo ra thì cứ làm nát bấy ngũ quan lẫn khuôn
mặt, y đâu có trách gì ông được.
Tiết Thần Y nói:
- Ta còn đang ngẫm nghĩ xem có cách gì không, hai tên đồng bạn
của y bỗng lớn tiếng thúc giục, bảo ta mau mau ra tay. Họ Tiết này cả
đời có cái tính xấu hễ ai nhờ ta trị bệnh thì phải nói ngon nói ngọt, còn
như ỷ mạnh lấn lướt thì Tiết mỗ thà chết dưới đầu đao mũi kiếm chứ
nhất định không chữa chạy gì cả. Nhớ năm xưa anh hùng đại hội ở Tụ
Hiền Trang, gã Kiều Phong kia mạo hiểm đánh liều đưa một tiểu cô
nương đến nhờ ta chữa bệnh. Kiều Phong tuy ngang ngạnh tàn ác vô
cùng nhưng khi đến cầu ta, trong ngôn ngữ cũng không dám có chỗ nào
thất lễ ...
Ông ta nói tới đây, nghĩ đến về sau A Châu điểm huyệt ông ta, cạo
sạch bộ râu, quả là kỳ sỉ đại nhục trong đời nên không nói tiếp nữa.
Bao Bất Đồng nói:
- Ngươi phét lác cái gì? Họ Bao này cũng có cái tính chẳng giống
ai, nếu như ai muốn chữa bệnh cho ta thì phải ngon ngọt cầu xin, còn
như đối phương cậy mạnh áp bức, Bao mỗ thà để cho bệnh đến chết
chứ không cho ai chữa.
Khang Quảng Lăng cười ha hả nói:
- Ngươi là cái quái gì mà báu thế? Người ta muốn chữa bệnh cho
ngươi mà phải năn nỉ, họa chăng ... họa chăng ...
Ông ta chưa nghĩ ra “họa chăng” cái gì thì Bao Bất Đồng đã tiếp:
- Họa chăng ngươi có là con ta thì mới thế.
Khang Quảng Lăng ngơ ngẩn, nghĩ bụng lời y quả không sai, nếu
như cha mình bị bệnh mà không chịu đi thầy lang thì mình đành phải
năn nỉ ông ta vậy. Ông ta là người rất biết đạo lý, không nghĩ đến
chuyện Bao Bất Đồng nói câu đó là chơi trèo mình, liền đáp:
- Đúng thật! Thế nhưng ta nào có phải là con ngươi đâu?
Bao Bất Đồng đáp:
- Ngươi có phải là con ta hay không, chỉ có mẹ ngươi mới biết chứ
ngươi làm sao mà biết được?
Khang Quảng Lăng ngẩn người nhưng rồi cũng gật gù nói:
- Ngươi nói quả có lý.
Bao Bất Đồng cười sằng sặc nghĩ thầm: “Gã này đúng là một tên
đại ngốc, nếu mình còn tiếp tục chơi gác y thì có thắng cũng chẳng
vinh dự gì”.
Công Dã Can nói:
- Tiết tiên sinh, hai người kia nếu quả ngôn ngữ vô lễ, ông liền từ
chối hay sao?
Tiết Thần Y gật đầu nói:
- Chính thị. Khi đó ta còn nói: “Tại hạ tài năng hữu hạn, không
làm được, chư quân đi kiếm người khác cao minh hơn”. Gã đầu sắt đối
với ta hết sức khiêm cung, lúc ấy mới nói: “Tiết tiên sinh, y đạo của
ông thiên hạ vô song trên giang hồ đặt tên là Diêm Vương Địch, trong
võ lâm ai mà không kính ngưỡng? Tiểu nhân trước nay kính trọng bội
phục tiên sinh, gia phụ vốn cũng là bạn cũ của lão nhân gia, xin tiên
sinh mở lòng từ bi cứu chữa cho đứa con khốn khổ của cố nhân.
Mọi người ai cũng quan tâm đến lai lịch của gã đầu sắt, lập tức sáu
bảy người nhao nhao hỏi:
- Thế phụ thân y là ai?
Lý Khổi Lỗi đột nhiên xen vào:
- Y là con ai thì chỉ có mẹ y mới biết được chứ y làm sao mà biết?
Gã bắt chước giọng của Bao Bất Đồng không sai một mảy. Bao Bất
Đồng cười nói:
- Hay lắm, ngươi học cách nói của ta giống y chang, xem chừng
không cần phải bắt chước mà chính là cha nào con nấy.
Lý Khổi Lỗi lại hát:
Hoàng Đế đích thực mỗ,
Ông tổ cả Trung Nguyên,
Phàm là dân Hoa Hạ,
Có ai không cháu con.
Y muốn đóng vai ai là ý tưởng tuôn ra đóng được ngay vai đó, Bao
Bất Đồng lấn lướt chơi trèo y cũng chẳng để vào tai. Tiết Mộ Hoa tiếp
tục nói:
- Ta nghe gã đầu sắt tự nhận là con của người quen lập tức hỏi
ngay cha y là ai thì gã trả lời: “Tiểu nhân gặp cảnh không may làm
nhục đến tiên nhân cho nên tên của phụ thân không dám nhắc đến.
Thế nhưng khi tiên phụ còn tại thế, quả thực là chỗ chí giao với tiên
sinh, việc đó hoàn toàn có thật, tiểu nhân không dám đem cha mình ra
để đánh lừa ai”.
Ta nghe thấy y thành khẩn như thế, chắc không phải là lời nói
không. Có điều tại hạ giao du rất rộng, bằng hữu không phải là ít, nghe
y nói phụ thân đã qua đời rồi, trong nhất thời không đoán ra được là ai.
Ta cũng định khi tháo được cái mặt nạ cho y rồi, xem diện mạo may ra
biết được cha y là người nào.
Thế nhưng để gỡ được cái lồng sắt đó nhưng làm sao cho mặt y ít
bị tổn thương, quả không phải dễ, còn đang trầm ngâm thì một tên
đồng bạn của y liền nói: “Pháp chỉ của sư phụ, việc trước hết là trị cho
lành vết thương của hòa thượng Tuệ Tịnh, còn cái lồng sắt của gã này
tháo được hay không, chẳng quan hệ lắm”. Ta nghe nói thế, lửa giận
bốc lên bừng bừng nói: “Tôn sư là ai? Pháp chỉ của ông ta là cho các
ngươi, chứ làm sao bắt ta phải theo cho được?”. Gã kia hầm hầm nói:
“Tên sư phụ của ta nói ra, chỉ e ngươi sợ đến vỡ mật. Lão nhân gia bảo
ngươi mau mau trị cho khỏi vết thương của nhà sư mập này, nếu còn
diên trì thời khắc, làm hỏng chuyện của lão nhân gia thì sẽ cho ngươi
đi chầu Diêm Vương ngay”.
Khi ta vừa mới nghe y nói, trong bụng tức lắm thế nhưng y nói
xong thấy khẩu âm của y không thuần, lơ lớ giọng người Hồ ở Tây
Vực, nhìn lại diện mạo y thấy mắt sâu tóc quăn, khác hẳn người Trung
Hoa mình, chợt nghĩ ra một người bèn hỏi: “Ngươi từ biển Tinh Tú đến
đây chăng?”. Người kia vừa nghe thế, mặt liền biến sắc nói: “Hừ, mắt
của ngươi sắc bén nhỉ? Đúng đó, ta từ Tinh Tú Hải đến đây. Nếu ngươi
đã đoán ra được thì mau mau chữa bệnh đi thôi”. Ta thấy y ngang
nhiên nhận là đệ tử của Tinh Tú Lão Quái, nghĩ thầm: “Thâm cừu của
sư môn không thể không báo”. Ta liền giả vờ làm như sợ hãi lắm hỏi
thêm: “Đã từ lâu ngưỡng mộ pháp thuật của Đinh lão tiên ở biển Tinh
Tú thông thiên triệt địa, đệ tử khâm phục xiết bao nhưng chưa từng có
duyên bái kiến, không biết lão tiên lão nhân gia có đến Trung Nguyên
hay không?”.
Bao Bất Đồng nói:
- Chậc, chậc! Ngươi nói Tinh Tú Lão Quái cũng được mà ngươi
nói Tinh Tú Lão Ma cũng được, hà cớ gì cam tâm hạ mình, gọi y là
“lão tiên”! Thật đáng thẹn ơi là đáng thẹn!
Đặng Bách Xuyên nói:
- Tam đệ, Tiết tiên sinh cố ý dùng lời thăm dò, chứ có phải thực
lòng gọi y là “lão tiên” đâu?
Bao Bất Đồng nói:
- Chuyện đó thì dĩ nhiên đệ biết rồi. Nếu như muốn dò hỏi thì lại
càng phải gọi là “lão quỉ”, “lão yêu”, “lão tặc” để khích cho bọn yêu
tử tặc tôn gầm lên cũng phải thổ lộ chân tình chứ gì nữa.
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Lời của Bao tiên sinh quả là hữu lý. Lão phu không giỏi dối trá,
miệng vừa gọi y là “lão tiên” nhưng mặt lại lộ vẻ phẫn nộ. Yêu nhân
kia cực kỳ giảo hoạt, vừa thấy thế là nghi ngay, giơ tay chộp lấy mạch
môn của mỗ, quát hỏi: “Ngươi tra vấn hành tung sư phụ ta là dụng ý
gì?”. Ta thấy việc bị bại lộ, đối phó với môn hạ phái Tinh Tú không
thể dung tình được, lật tay đâm ra một chỉ điểm ngay vào tử huyệt của
y. Yêu nhân thứ hai rút ngay ra một thanh chủy thủ tẩm thuốc độc,
xông tới đâm.
Ta trong tay không có binh khí, yêu nhân đó võ công cũng ghê gớm
lắm, trong lúc nguy cấp bỗng tên đầu sắt đưa tay đoạt con dao găm nói:
"Sư phụ sai chúng ta đi cầu thầy chữa thuốc chứ nào có bảo mình đi
giết người". Yêu nhân kia giận dữ đáp: “Thập nhị sư đệ bị y giết rồi,
ngươi không thấy hay sao? Sao ... sao ngươi ... ngươi dám che chở cho
người ngoài?”. Gã đầu sắt nói: “Nếu ngươi muốn giết vị thần y này là
tùy ngươi, thế nhưng nếu gã sư mập này không cứu chữa, tính mạng
khó toàn. Y không chỉ đường được để đi tìm băng tàm, sư phụ sẽ hỏi
đến ngươi đó”.
Ta nhân lúc hai đứa đó cãi nhau, lập tức rút binh khí ra. Yêu nhân
kia thấy giết ta không phải dễ, lại nghe tên đầu sắt nói cũng phải liền
nói: “Nếu đã thế, ngươi bắt lấy tên quỉ y sinh này đem về cho sư phụ”.
Gã đầu sắt đáp: “Hay lắm!”. Y vừa nói vừa đâm ngay thanh chủy thủ
vào ngực, giết luôn tên kia.
Mọi người ai nấy ồ lên kinh ngạc. Bao Bất Đồng nói:
- Thế thì có gì là lạ. Tên đầu sắt kia có chuyện cầu đến ông nên ra
tay giết đồng môn để lấy lòng.
Tiết Mộ Hoa thở dài một tiếng nói:
- Trong giờ phút đó, ta nào biết được chân ý của y ra sao, không
hiểu vì ta là bạn của phụ thân y, hay vì y muốn tỏ chút ân huệ với
mình. Ta vừa định hỏi, bỗng nghe đằng xa có một tiếng còi, gã đầu sắt
mặt liền biến sắc nói: “Sư phụ tại hạ giục phải quay về. Tiết bá phụ,
tốt hơn cả bá phụ chữa cho gã hòa thượng mập này đi. Sư phụ trong
lòng vui vẻ không chừng sẽ tha cho bá phụ cái tội giết đồ đệ của ông
ta”. Ta đáp: “Tinh Tú lão yêu cùng ta thù sâu tợ bể, bất cứ ai có liên
quan với y một chút là ta nhất định không trị. Ngươi có giỏi thì cứ giết
ta đi”.
Gã đầu sắt mới nói: “Tiết bá phụ, tiểu điệt quyết không dám đắc tội
với bá phụ”. Y đang định giãi bày thì tiếng còi của Tinh Tú lão yêu lại
nổi lên, y bèn cắp gã sư mập hấp tấp chạy đi.
Tinh Tú lão tặc đã đến Trung Nguyên rồi, hai tên đệ tử của lão chết
nơi nhà ta, sớm muộn gì rồi lão cũng tìm đến. Dẫu gã đầu sắt có dấu
giùm ta chăng nữa thì cũng chẳng dấu được lâu. Thành thử ta đành
phải giả chết, trong quan tài ám tàng thuốc độc cực mạnh mong sẽ dụ
được y tới. Toàn gia già trẻ lớn bé đều trốn trong địa đạo này. Khi các
vị đến tệ xá, người lão bộc của tại hạ, tuy trung thành thật đấy nhưng
đầu óc chậm lụt, lại tưởng các vị là kẻ đối đầu mà ta đang e ngại ...
Bao Bất Đồng nói:
- Ha ha, y lại tưởng Huyền Nạn đại sư là Tinh Tú Lão Quái, còn
bọn chúng ta là đồ tử đồ tôn của y trong phái Tinh Tú. Bao mỗ và mấy
người bạn hình dung quái dị, bảo là yêu ma của phái Tinh Tú cũng còn
giống vài phần, thế nhưng Huyền Nạn đại sư cao nhã từ tường, đạo
mạo trang nghiêm, vậy mà lại nhận lầm thành Tinh Tú Lão Quái thì
quả là vô lễ thật.
Mọi người ai nấy cười ồ lên. Tiết Mộ Hoa mỉm cười nói:
- Quả đúng thế, việc đó đáng phải đánh đòn. Thế nhưng lại khéo
làm sao, cũng đúng vào dịp hai năm một lần tám anh em chúng tôi tụ
hội. Người lão bộc thấy tình thế gấp gáp, không đợi dặn dò, đốt ngay
lưu tinh hỏa pháo báo tin cho đồng môn lên. Lưu tinh hỏa pháo đó là
do lục sư đệ khéo léo chế tạo, bắn lên trên không rồi có thể chiếu ra
chung quanh mấy dặm, tám anh em đồng môn, mỗi người một kiểu
không giống nhau.
Chuyện này phải nói là vừa may, vừa không may. May là Hàm Cốc
bát hữu trong lúc nguy nan lại tụ lại một chỗ, chung sức kháng địch, thế
nhưng nếu như thế thì Tinh Tú Lão Quái một mẻ vét sạch, quả là cực
kỳ bất hạnh.
Bao Bất Đồng nói:
- Tinh Tú Lão Quái bản lãnh dẫu có lợi hại cũng chắc gì thắng
được cao tăng chùa Thiếu Lâm là Huyền Nạn đại sư? Lại thêm bao
nhiêu binh tôm tướng cá chúng ta đứng bên hò hét trợ uy, liều chết một
trận thì đã biết mèo nào cắn mỉu nào. Việc gì phải ... việc gì phải ...
phải làm thế ...
Y ấp úng mấy tiếng, hai hàm răng đập vào nhau kêu lộp cộp, hàn
độc đang phát tác nói không nổi nữa. Lý Khổi Lỗi lớn tiếng hát:
Tay Kinh Kha bạo Tần kia phải chết,
Gió thổi hắt hiu chừ, người lạnh ngắt.
Tráng sĩ phều phào chẳng ra hơi,
Người run cầm cập răng lách cách.
Đột nhiên một bóng người thấp thoáng phóng tới dùng đầu húc vào
ngực y. Lý Khổi Lỗi “Ối trời” một tiếng, dùng vai đẩy y ra. Người kia
nắm được y rồi liền đấm đá túi bụi, chính là Nhất Trận Phong Phong
Ba Ác. Đặng Bách Xuyên vội kêu:
- Tứ đệ, không được làm càn.
Y đưa tay lôi Phong Ba Ác lại. Ngay lúc đó, một giọng nhỏ vo ve
truyền vào sơn động:
- Hỡi các đồ tử đồ tôn của Tô Tinh Hà, mau mau ra đầu hàng may
ra còn giữ được tính mạng, nếu còn dùng dằng thì đừng trách lão nhân
gia không nghĩ đến nghĩa khí đồng môn.
Khang Quảng Lăng giận dữ đáp:
- Tên này quả là không biết xấu, vẫn còn nói gì đến nghĩa khí
đồng môn.
Phùng A Tam quay sang nói với Tiết Mộ Hoa:
- Ngũ ca, cái hang này cứ xem thớ gỗ và đất cát thì phải kiến tạo
ít ra cũng ba trăm năm, không biết do thợ khéo của phái nào?
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Đây là sản nghiệp tổ truyền của gia đình, là chỗ dùng để tị nạn
đời đời truyền xuống, quả ta không biết ai đã dựng nên.
Khang Quảng Lăng nói:
- Giỏi nhỉ, nhà ngươi có cái hang rùa thế này vậy mà trước nay
chưa từng hở môi cho ai biết.
Tiết Mộ Hoa sượng sùng:
- Đại ca rộng lượng cho. Cái hang này nào có phải cái gì đáng
khoe khoang, thành thử không dám đề cập ...
Nói chưa dứt câu bỗng nghe ầm một tiếng thật lớn, tưởng chừng như
có động đất, mọi người trong hang ai cũng thấy dưới chân lắc lư, đứng
không vững. Phùng A Tam thất sắc nói:
- Không xong rồi, Đinh lão tặc dùng thuốc nổ phá hoại, chỉ phút
chốc sẽ đến đây ngay.
Khang Quảng Lăng hầm hầm:
- Thật là hèn hạ vô sỉ không đâu cho hết. Tổ sư gia và sư phụ đều
là những người tinh thông kiến trúc, giỏi cách sắp đặt cơ quan, coi đó là
bản lãnh chân thực của bản môn. Tên Tinh Tú Lão Quái này không phí
thì giờ giải quyết cách sắp xếp, chỉ dùng thuốc nổ phá vỡ, thế thì còn
xưng là đệ tử bản môn sao được?
Bao Bất Đồng khinh khỉnh nói:
- Y đã giết sư phụ, hại sư huynh, không lẽ ngươi vẫn còn coi y là
sư thúc trong bản môn hay sao?
Khang Quảng Lăng đáp:
- Cái đó ...
Vừa lúc đó lại một tiếng ầm thật lớn, trong sơn động bụi bay mù mịt
khiến cho mọi người không ai mở mắt nổi. Trong động bị bịt mất lỗ
thông hơi, dưới sức chấn động không khí giật thật mạnh khiến người
nào cũng ù cả tai.
Huyền Nạn nói:
- Nếu như y dùng thuốc nổ tấn công vào địa động, chi bằng mình
đi ra thì hơn.
Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác cả
bốn người cùng hùa theo khen phải. Phạm Bách Linh nghĩ Huyền Nạn
là một cao tăng Thiếu Lâm, nay trốn dưới hầm sâu để tránh địch, quả
thực tổn thương đến uy danh chùa Thiếu Lâm rất lớn, huống chi nay chỉ
còn một mất một còn, không thể nào ẩn dưới này mãi được bèn nói:
- Nếu đã thế thì tất cả bọn mình đi ra một lượt, cùng lão quái sống
mái một phen.
Tiết Mộ Hoa nói:
- Huyền Nạn đại sư cùng lão quái không thù không oán, chẳng
may bị vướng mắc vào vụ này, vậy xin chư tăng chùa Thiếu Lâm tụ
thủ bàng quan.
Huyền Nạn đáp:
- Mọi việc liên quan đến võ lâm Trung Nguyên, phái Thiếu Lâm
đều muốn nhúng tay vào, xin các vị tha lỗi cho. Huống chi Huyền
Thống sư đệ viên tịch, cũng khởi đầu do trúng phải độc thủ của đệ tử
phái Tinh Tú, phái Thiếu Lâm và phái Tinh Tú nào phải là không thù
không oán đâu.
Phùng A Tam nói:
- Đại sư trượng nghĩa tương trợ, sư huynh đệ chúng tôi cực kỳ cảm
kích. Chúng mình theo đường cũ mà ra để cho lão quái kinh hoảng một
phen.
Mọi người đều gật đầu đồng ý. Phùng A Tam lại nói:
- Gia quyến của Tiết ngũ ca và hai vị Bao Phong có thể ở lại nơi
đây, lão quái chưa chắc đã tìm ra được.
Bao Bất Đồng đưa mắt lườm y nói:
- Sao ngươi không ở lại đi có hay hơn không?
Phùng A Tam vội vàng phân trần:
- Tại hạ nào có dám coi thường hai vị, có điều hai người đang bị
trọng thương, nếu phải ra tay e rằng không thuận lợi lắm.
Bao Bất Đồng đáp:
- Càng bị thương nặng ta đánh ra kình lực càng mạnh thêm.
Bọn Phạm Bách Linh ai nấy lắc đầu, thấy người này quả là ngang
bướng. Kế đó Phùng A Tam vận động cơ quan, nhanh nhẹn tiến lên
trước. Chỉ nghe kẹt kẹt mấy tiếng, cửa hang mở được một khe nhỏ,
Phùng A Tam liền ném hỏa pháo ra, ầm ầm ầm ba tiếng, khói trắng
mù trời. Ba viên hỏa pháo phá vỡ thạch bản đậy miệng hang một lỗ
lớn đủ một người chui lọt, Phùng A Tam lại ném ra thêm ba viên hỏa
pháo nữa, sau đó chuồi người phóng qua.
Hai chân Phùng A Tam chưa chạm đất, trong khói trắng mịt mù một
bóng đen lướt ngang qua mình xông vào đám người đang đứng ở bên
ngoài kêu lớn:
- Tên nào là Tinh Tú Lão Quái, họ Phong muốn gặp ngươi.
Người đó chính là Nhất Trận Phong Phong Ba Ác. Y thấy trước mặt
có một gã mặc áo gai liền quát:
- Nếm của ta một quyền!
Bình một tiếng đã đánh trúng ngay ngực y. Gã đó là đệ tử thứ chín
của phái Tinh Tú, thân hình lảo đảo, quyền thứ hai của Phong Ba Ác
lại trúng ngay vai. Chỉ nghe chát chát bộp bộp liên miên bất tuyệt,
Phong Ba Ác ra tay cực kỳ nhanh nhẹn, dường như quyền nào chưởng
nào cũng trúng đối phương. Có điều sau khi bị thương rồi không còn
lực khí, đánh không ngã được đệ tử phái Tinh Tú. Huyền Nạn, Đặng
Bách Xuyên, Khang Quảng Lăng, Tiết Mộ Hoa tất cả mọi người đều từ
dưới động chui lên.
Một lão già thân hình cao to đứng ngay nơi góc tây nam, đằng trước
sau lưng, bên trái bên phải cao thấp hai hàng không đều đứng lố nhố,
gã đầu sắt dĩ nhiên cũng ở trong số đó. Khang Quảng Lăng kêu lên:
- Đinh lão tặc, sao ngươi chưa chết? Ngươi còn nhớ ta không?
Lão già đó chính là Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu, y chỉ liếc
mắt đã nhận ra đối phương gồm những ai, quạt trong tay phe phẩy mấy
cái, nói:
- Mộ Hoa hiền điệt, nếu như ngươi có thể chữa khỏi được gã sư
Thiếu Lâm mập thì ta tha cho ngươi khỏi chết, nhưng có điều phải bái
ta làm thầy, gia nhập làm môn hạ phái Tinh Tú.
Y chỉ mong Tiết Mộ Hoa chữa khỏi Tuệ Tịnh để y đưa mình lên
đỉnh núi Côn Lôn bắt con băng tàm, xem giọng lưỡi chẳng coi những
người trước mặt vào đâu, tưởng như sinh tử tồn vong của cả bọn đều do
y muốn làm gì thì làm. Tiết Mộ Hoa biết rõ người sư thúc này rất lợi
hại, trong bụng cũng hơi e dè nhưng vẫn nói cứng:
- Đinh lão tặc, trên đời này ta chỉ nghe lời một người, chỉ có lão
nhân gia bảo ta chữa cho ai thì ta chữa cho người đó. Ngươi muốn giết
ta, thật dễ như trở bàn tay. Thế nhưng bảo ta trị bệnh cho người thì
ngươi phải đi cầu vị lão nhân gia đó mới được.
Đinh Xuân Thu lạnh lùng hỏi lại:
- Ngươi chỉ nghe lời Tô Tinh Hà, có phải thế không?
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Chỉ có giống cầm thú mới có dạ khi sư diệt tổ.
Lời của ông ta nói ra, Khang Quảng Lăng, Phạm Bách Linh, Lý
Khổi Lỗi cả bọn cùng reo hò tán trợ. Đinh Xuân Thu nói:
- Được rồi, các ngươi đều là những đứa học trò ngoan của Tô Tinh
Hà, thế nhưng Tô Tinh Hà đã từng cho người đến báo cho ta hay, bảo
là đã đuổi cả tám đứa chúng bay ra khỏi môn tường, không coi là môn
hạ nữa. Hay là họ Tô kia không đếm xỉa đến lời đã nói ra, vẫn lén lút
giữ danh phận sư đồ?
Phạm Bách Linh đáp:
- Nhất nhật vi sư, chung thân như phụ. Sư phụ quả đã đuổi bọn
tám người chúng ta ra khỏi môn phái thật, trong bao nhiêu năm nay
bọn ta chưa hề gặp lại được lão nhân gia một lần, có lên núi bái yết lão
nhân gia cũng không tiếp. Thế nhưng cái bụng kính yêu sư phụ của
chúng ta không vì thế mà giảm chút nào. Họ Đinh kia, tám anh em ta
sở dĩ biến thành thứ ma trơi vất vưởng như thế này, không môn không
phái cũng là do ngươi tên lão tặc mà ra.
Đinh Xuân Thu mỉm cười:
- Ngươi nói đúng lắm. Tô Tinh Hà vì sợ ta hạ độc thủ, đem từng
đứa ra giết sạch nên mới đuổi các ngươi ra khỏi môn tường để mong
bảo toàn cái mạng ong kiến của chúng bay. Y không đục tai, cắt lưỡi
các ngươi đủ biết tình cảm sâu xa là dường nào. Ôi, cứ lèo nhèo như
tuồng đàn bà thì làm sao nên chuyện lớn? Ha ha, hay lắm, hay lắm.
Các ngươi nói lại đi, Tô Tinh Hà có còn là sư phụ chúng bay nữa hay
không?
Bọn Khang Quảng Lăng nghe y nói thế đều hiểu rằng nếu như
không phủ nhận danh hiệu “đệ tử của Tô Tinh Hà” thì Đinh Xuân Thu
sẽ ra tay giết họ ngay, thế nhưng ơn thầy sâu nặng, lẽ nào tham sống
sợ chết mà phản bội sư môn, trong tám người trừ Thạch Thanh Lộ đang
bị thương nặng, còn ở trong địa động không ra ngoài, cả bảy người
đồng thanh nói:
- Bọn ta tuy bị sư phụ trục xuất khỏi môn tường nhưng dạnh phận
thầy trò không bao giờ thay đổi.
Lý Khổi Lỗi đột nhiên lớn tiếng hát:
Ta mẹ ruột của ngươi,
Tinh Tú Lão Quái ơi!
Năm xưa ta tư thông,
Với con Hao Thiên Khuyển,
Đẻ ra loài súc sinh.
Đánh gãy cái cẳng chó,
Đồ khốn kiếp hôi tanh.
Y bắt chước giọng một bà già, kế đó gâu gâu gâu sủa lên mấy
tiếng. Khang Quảng Lăng, Bao Bất Đồng cả bọn ai cũng cười sằng sặc.
Đinh Xuân Thu giận không đâu cho hết, đôi mắt lóe ra một tia sáng lạ
kỳ, tay áo trái phất một cái, một đốm lân tinh màu xanh biếc nhanh
hơn cả sao băng bắn vào người Lý Khổi Lỗi. Lý Khổi Lỗi một bên
chân đã gãy, tay chống gậy nên không còn nhanh nhẹn muốn tránh né
cũng không kịp nữa rồi, nghe soẹt một tiếng, áo quần bốc cháy. Y vội
vàng lăn tròn dưới đất nhưng càng lăn thì đốm lửa lân tinh càng bốc
lên. Phạm Bách Linh vội vàng bốc bùn đất rắc vào người y.
Tay áo của Đinh Xuân Thu lại liên tiếp bắn ra thêm năm đốm hỏa
tinh nữa, chia ra bắn vào năm người Khang Quảng Lăng, chỉ trừ Tiết
Mộ Hoa mà thôi. Khang Quảng Lăng song chưởng cùng vung lên, đánh
bạt đốm lân tinh. Huyền Nạn cũng dao động song chưởng, đánh tan hai
đốm lửa khác. Thế nhưng Phạm Bách Linh, Phùng A Tam hai người
vẫn bị trúng lân hỏa, chỉ trong chốc lát ba người bọn Lý Khổi Lỗi bị
đốt cháy kêu ầm cả lên.
Lời ca tụng sư phụ của bọn đệ tử Đinh Xuân Thu liền vang lên:
- Sư phụ chỉ mới thi triển một trò vặt vãnh đã đốt chúng bay như
heo quay, sao chưa mau mau quì xuống đầu hàng.
- Sư phụ có tài thông thiên triệt địa, tiền vô cổ nhân, hậu vô lai
giả, nay dạy cho bọn chó lợn Trung Nguyên biết tay phái Tinh Tú.
- Sư phụ lão nhân gia đánh đâu được đó, công đâu cũng thắng, anh
hùng hảo hán xưa nay nghe thấy đều chạy giạt hết.
Bao Bất Đồng la lớn:
- Rắm thối quá! Làm ta ngứa muốn chết! Đinh lão tặc, ngươi quả
là đồ mặt dày.
Bao Bất Đồng nói chưa xong, hai điểm hỏa tinh đã bắn thẳng vào y.
Đặng Bách Xuyên và Công Dã Can vội vàng mỗi người tung ra một
chưởng, đánh giạt hai đốm lửa nhưng cả hai cảm thấy ngực như trúng
phải một búa, hự lên một tiếng, lịch bịch lùi lại ba bước. Thì ra Đinh
Xuân Thu đưa nội lực cực kỳ hùng mạnh của ông ta vào trong đốm lửa,
Huyền Nạn nội lực tương đương nên khi đánh bạt hai đốm lửa vẫn
không bị thương, còn Đặng Bách Xuyên và Công Dã Can thì chịu
không nổi.
Huyền Nạn lạng người đến trước Lý Khổi Lỗi đánh ra một chưởng,
chưởng lực nhẹ nhàng tống ra, phụp một tiếng áo đã nát bấy văng đi
một mảng lớn, nhưng đốm lân tinh đang cháy trên người y cũng bị đánh
tắt ngúm.
Một tên đệ tử phái Tinh Tú kêu lên:
- Con lừa trọc chưởng lực không phải yếu, so ra cũng được một
phần mười của sư phụ ta.
Một tên khác vội vàng cãi lại:
- Xì, chỉ được một phần trăm của sư phụ thôi.
Huyền Nạn nương theo tiếp thêm hai chưởng nữa, đánh tắt hai đốm
lửa lân tinh trên người Phạm Bách Linh và Phùng A Tam. Khi đó Đặng
Bách Xuyên, Công Dã Can, Khang Quảng Lăng cũng đã nhảy tới tấn
công bọn đệ tử phái Tinh Tú. Đinh Xuân Thu vuốt bộ râu dài nói:
- Thiếu Lâm cao tăng quả thực công lực phi phàm, hôm nay lão
phu xin được lãnh giáo.
Nói xong tiến lên, tả chưởng nhẹ nhàng đánh vào Huyền Nạn.
Huyền Nạn đã biết Đinh lão quái toàn thân đầy chất độc, lại giỏi môn
Hóa Công Đại Pháp nên không dám sơ sẩy, lập tức song chưởng múa
tít lên, đánh liên tiếp mười tám chưởng liền. Mười tám chưởng đó liên
hoàn, tả chưởng chưa thu về hữu chưởng đã đánh ra, nhanh nhẹn dị
thường khiến cho Đinh Xuân Thu không có lúc nào ở không mà sử
dụng độc dược được. Môn Khoái Chưởng của phái Thiếu Lâm, quả
nhiên uy lực cực mạnh ép cho Đinh Xuân Thu phải liên tiếp thối lui,
Huyền Nạn đánh ra mười tám chưởng thì Đinh Xuân Thu phải lùi mười
tám bước. Huyền Nạn đánh xong mười tám chưởng, hai chân lại liên
hoàn uyên ương, nhanh như chớp đá liền ba mươi sáu lần, bóng vùn vụt
khiến không ai biết đó là chân phải hay chân trái.
Đinh Xuân Thu triển động thân hình tránh né thật nhanh, ba mươi
sáu cú đá đó đều vuột ra ngoài, nhưng nghe bạch bạch hai tiếng, đầu
vai đã bị trúng hai quyền, thì ra Huyền Nạn đá hai cú sau cùng cũng
giơ tay đấm luôn hai cái. Đinh Xuân Thu tuy tránh được ngọn cước
nhưng không tránh kịp song quyền, thân hình loạng choạng kêu lên:
- Ghê gớm thật!
Huyền Nạn bỗng thấy choáng váng hoa cả mắt, lảo đảo muốn ngã,
biết có sự chẳng lành, quần áo Đinh Xuân Thu có tẩm thuốc độc, vừa
rồi đánh trúng y hai quyền đã bị ám toán, lập tức thở mạnh một cái,
chân khí trong người lưu chuyển, quyền bên trái lại đánh vào Đinh
Xuân Thu.
Đinh Xuân Thu giơ hữu chưởng chặn cú đấm của Huyền Nạn, tiếp
theo chưởng bên trái tống ra. Huyền Nạn sau khi trúng độc cử động
không còn linh hoạt nữa nên không tránh nổi, đành giơ chưởng ra
chống đỡ. Đến nước đó hai cao thủ chỉ còn cách đấu bằng chân lực,
Huyền Nạn trong bụng hoảng thầm: “Ta không thể đấu nội lực với y
được”. Thế nhưng nếu quyền không sử dụng nội kình thì chân khí của
đối phương ào tới ắt tạng phủ sẽ nát ngướu, thành thử biết là đi vào
chỗ chết nhưng vẫn phải vận sức lên chống đỡ. Ông vừa vận kình, bỗng
thấy nội lực cuồn cuộn chảy ra không cách gì giữ lại được nữa.
Chưa đầy thời gian uống một chén trà, Đinh Xuân Thu cười ha hả,
hất vai một cái, nghe bịch một tiếng đã xô Huyền Nạn ngã lăn quay,
toàn thân hư thoát không còn hơi sức. Đinh Xuân Thu đánh ngã Huyền
Nạn rồi đưa mắt nhìn quanh, thấy Công Dã Can và Phạm Bách Linh
hai người cũng nằm dưới đất đang run cầm cập, thì ra đã trúng phải hàn
độc chưởng của Du Thản Chi. Ngoài ra bọn Đặng Bách Xuyên, Tiết
Mộ Hoa thì đang đánh với các đệ tử khác, phái Tinh Tú có đến bảy
người hoặc chết, hoặc bị thương.
Đinh Xuân Thu cười một hồi dài, tay áo rộng phất lên, lướt tới sau
lưng Đặng Bách Xuyên cùng y đối một chưởng lại quay về đá một cái
trúng Bao Bất Đồng. Đặng Bách Xuyên hữu chưởng đụng phải Đinh
Xuân Thu, trong ngực cảm thấy trống trải, muốn hít một hơi ngưng thần
thì Đinh Xuân Thu lại đánh ra thêm một chưởng khác. Đặng Bách
Xuyên không còn cách nào hơn, chỉ còn nước xuất chưỡng ra đỡ, lòng
bàn tay thấy hơi lạnh, toàn thân đã mềm xèo không còn lực khí, trước
mắt chỉ thấy mờ mờ một làn sương trắng. Một tên đệ tử phái Tinh Tú
bước tới giơ tay đẩy một cái, Đặng Bách Xuyên liền ngã lăn ra.
Chỉ trong khoảnh khắc các bộ thuộc của nhà Mộ Dung, chư tăng do
Huyền Nạn dẫn theo, bọn Khang Quảng Lăng Hàm Cốc bát hữu đều bị
Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi hai người chia nhau đánh ngã. Du
Thản Chi vồn dĩ nội lực cực kỳ hồn hậu tuy võ nghệ thật tầm thường
nhưng đã được Đinh Xuân Thu chỉ điểm ít ngày, cũng biết được bảy
tám chiêu chưởng pháp, lấy võ công mà luận thì so với những người
học võ bình thường cũng còn kém xa nhưng nhờ phát huy được hàn độc
của con băng tàm tích kết trong người thành ra uy lực phi phàm. Bọn
Công Dã Can xuất chưởng đánh trúng người y, vừa đụng phải đều bị
hàn độc trong người y phản kích bị thương, lại bị y đánh thêm một
chưởng không còn cách gì chống đỡ.
Khi đó chỉ còn một mình Tiết Mộ Hoa chưa bị thương, ông ta xung
kích mấy lần, bọn đệ tử phái Tinh Tú đều chỉ mủm mỉm cười tránh ra,
cũng không trả đòn. Đinh Xuân Thu cười nói:
- Tiết hiền điệt, võ công ngươi so với các sư huynh đệ giỏi hơn
nhiều.
Tiết Mộ Hoa thấy các sư huynh đệ đồng môn từng người ngã xuống,
chỉ còn mình không sao cả, biết là Đinh Xuân Thu thủ hạ lưu tình. Ông
thở dài một tiếng nói:
- Đinh lão tặc, gã sư mập kia ngoại thương dễ khỏi, nội thương khó
lòng, chỉ còn sống được vài ngày, ngươi nghĩ có thể bức bách ta cứu
người ư, thôi đừng mơ tưởng hão.
Đinh Xuân Thu vẫy tay gọi:
- Tiết hiền điệt lại đây!
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Ngươi muốn giết ta cứ việc giết, dù ngươi nói gì chăng nữa, ta
quyết không nghe lời.
Lý Khổi Lỗi lại hát rằng:
Đại nghĩa thay con người Tiết ngũ,
Há sánh cùng Tô Vũ kém chi.
Hai chục năm nơi đất Hồ di,
Vẫn một dạ hướng về đất Hán.
Đinh Xuân Thu mỉm cười, đi đến cách Tiết Mộ Hoa chừng ba bước
thì đứng lại, tả chưởng để nhẹ lên đầu vai y mỉm cười hỏi:
- Tiết hiền điệt, ngươi tập luyện võ công được bao nhiêu năm rồi?
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Bốn mươi nhăm năm.
Đinh Xuân Thu nói:
- Bốn mươi nhăm năm, đông qua hè đến không phải dễ. Nghe nói
ngươi dùng y thuật trao đổi võ học với người, học được không ít các
chiêu thức tinh diệu của nhiều môn phái, có đúng vậy không?
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Ta học những chiêu thức đó cũng chỉ mong dùng để giết ngươi,
ngờ đâu ... ngờ đâu dù chiêu thức tinh diệu mực nào, gặp phải tà thuật
cũng đành vô dụng ... ôi!
Nói xong lắc đầu thở dài. Đinh Xuân Thu nói:
- Không phải thế. Dù gì chăng nữa, nội lực mới là gốc rễ, chiêu số
chỉ là lá cành. Gốc rễ có vững chắc, lá cành mới tốt tươi, chiêu số
không phải hoàn toàn vô dụng. Ngươi đầu nhập môn hạ ta, ta sẽ truyền
cho ngươi nội lực thiên hạ vô song, từ nay tung hoành Trung Nguyên
thật dễ như lật bàn tay.
Tiết Mộ Hoa giận dữ đáp:
- Ta đã có sư phụ rồi. Muốn Tiết Mộ Hoa này vào làm môn hạ
ngươi, thà ta đập đầu mà chết còn hơn.
Đinh Xuân Thu mỉm cười:
- Nếu muốn đập đầu mà chết cũng cần phải có sức mới được. Nếu
như nội lực của ngươi bị hủy mất rồi, đi một bước cũng đã khó, nói gì
đến chuyện đập đầu mà chết? Bốn mươi nhăm năm khổ luyện, ha ha,
tiếc nhỉ, thật đáng tiếc.
Tiết Mộ Hoa nghe thế mồ hôi trán vã ra, cảm thấy bàn tay y đặt
trên vai mình hơi nóng lên, hiển nhiên y chỉ cần hơi động tâm một chút
là sử dụng ngay Hóa Công Đại Pháp, bốn mươi nhăm năm cần tu khổ
luyện của mình, lập tức đổ ra sông ra biển. Ông nghiến răng đáp:
- Ngươi lòng lang dạ sói dám giết cả sư phụ, tàn hại sư huynh, có
giết thêm tám người chúng ta thì cũng có là gì đâu? Bốn mươi năm khổ
luyện của ta bị hủy đi trong một buổi quả đáng tiếc thật, nhưng đến
tính mệnh còn chẳng giữ được, nói gì khổ công hay không khổ công?
Bao Bất Đồng reo lên:
- Mấy câu đó quả là cứng cỏi. Môn hạ phái Tinh Tú làm gì có ai
anh hùng như thế?
Đinh Xuân Thu nói:
- Tiết hiền điệt, ta tạm thời không giết ngươi, chỉ hỏi ngươi tám
câu: “Ngươi có chịu chữa cho gã sư mập đó không?”. Câu thứ nhất
ngươi trả lời không chữa, ta sẽ giết đại sư huynh Khang Quảng Lăng
của ngươi. Câu thứ hai trả lời không chữa, ta sẽ giết nhị sư huynh Phạm
Bách Linh. Đứa sư muội thích trồng hoa của ngươi trốn đâu rồi? Thể
nào ta cũng kiếm ra nó. Câu thứ sáu hỏi ngươi không chữa ta sẽ giết
đứa sư muội xinh đẹp kia. Câu thứ bảy giết đến bát sư đệ Lý Khổi Lỗi.
Đến câu thứ tám hỏi ngươi, ngươi vẫn còn trả lời không chữa thì ngươi
thử đoán sẽ ra sao?
Tiết Mộ Hoa nghe y đưa ra phương pháp thảm khốc đó, mặt tái nhợt
run run đáp:
- Lúc đó ngươi sẽ giết ta thì cũng đâu có gì là lớn chuyện. Như thế
cả tám người cùng chết mà thôi.
Đinh Xuân Thu mỉm cười:
- Ta đâu có giết ngươi làm gì. Nếu câu thứ tám ngươi vẫn trả lời
không chữa, ta sẽ đi giết một người tự xưng là Thông Biện tiên sinh Tô
Tinh Hà.
Tiết Mộ Hoa thất thanh kêu lên:
- Đinh lão tặc, ngươi có giỏi thì đụng tới một sợi lông sư phụ ta đi.
Đinh Xuân Thu mỉm cười nói:
- Có gì mà không dám? Tinh Tú lão tiên xưa nay hành sự độc lai
độc vãng, hôm nay nói mai đã quên. Ta tuy đáp ứng Tô Tinh Hà là nếu
như y từ nay không mở miệng nói thì ta không giết y. Thế nhưng ngươi
làm ta bực mình, học trò nợ thì thầy phải trả, ta muốn đến giết y thì
trên đời này còn ai ngăn ta nổi?
Tiết Mộ Hoa trong bụng rối như mớ bòng bong, biết rằng tên lão tặc
này bức bách mình chữa chạy cho Tuệ Tịnh là có dụng ý cực kỳ âm
độc, nếu ra tay trị bệnh cho gã sư mập thì có khác gì nối giáo cho giặc,
thế nhưng nếu mình nhất định không bằng lòng, tính mệnh bảy người
anh em không bảo toàn được đã đành, ngay cả sư phụ Thông Biện tiên
sinh cũng phải chết dưới tay y. Ông trầm ngâm một hồi nói:
- Được, ta đành chịu khuất phục, có điều ta chữa khỏi cho gã sư
mập rồi, ngươi không được làm khó các vị bằng hữu nơi đây cùng sư
phụ và các sư huynh đệ của ta.
Đinh Xuân Thu mừng lắm, vội đáp:
- Được, được, được! Ta bằng lòng tha cái mạng chó cho chúng nó.
Đặng Bách Xuyên nói:
- Đại trượng phu hôm nay trúng phải độc thủ của bọn gian tà, chết
cũng đành, ai cần ngươi tha mạng?
Y vốn dĩ tiếng oang oang như chuông nhưng lúc này chân khí hao
tán hết rồi, ngôn ngữ tuy vẫn khẳng khái hiên ngang nhưng giọng thều
thào chẳng ra hơi. Bao Bất Đồng la to:
- Tiết Mộ Hoa, chớ có tin y, chính miệng tên cẩu tặc này vừa mới
nói, y nói mà chẳng giữ lời.
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Đúng đó, ngươi vừa mới bảo “hôm nay nói mai đã quên”.
Đinh Xuân Thu đáp:
- Tiết hiền điệt, ta hỏi ngươi câu thứ nhất: “Ngươi chữa hay không
chữa cho gã sư mập?”.
Y vừa nói vừa duỗi chân phải ra, gót chân nhắm vào huyệt Thái
Dương của Khang Quảng Lăng, hiển nhiên nếu Tiết Mộ Hoa chỉ nói:
“Không chữa” là y đạp xuống ngay, giết Khang Quảng Lăng ngay lập
tức. Mọi người ai nấy tim đập thình thình, bỗng nghe một người nói lớn:
- Không chữa.
Người la lên câu đó không phải Tiết Mộ Hoa mà là Khang Quảng
Lăng. Đinh Xuân Thu cười khẩy nói:
- Ngươi tưởng ta đạp một cái lấy mạng ngươi sao, đâu có dễ dàng
như thế.
Y quay lại nói với Tiết Mộ Hoa:
- Ngươi có muốn mượn tay ta giết tên đại sư ca này đi chăng?
Tiết Mộ Hoa thở dài:
- Thôi được! Thôi được! Ta bằng lòng chữa cho gã sư mập kia.
Khang Quảng Lăng chửi liền:
- Tiết lão ngũ, sao ngươi không biết nhục. Đinh lão tặc là đại cừu
nhân của sư môn, ngươi lẽ nào tham sống sợ chết, bị y uy hiếp phải
khuất phục?
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Y giết anh em ta tám người cũng không có gì đáng kể. Thế
nhưng tên lão tặc này còn định đến gây chuyện với sư phụ nữa, sư ca
mới rồi không nghe y nói hay sao?
Nghĩ đến an nguy của sư phụ, bọn Khang Quảng Lăng không ai dám
nói thêm câu nào. Bao Bất Đồng nói:
- Nhát ...
Y định nói “nhát như cáy” nhưng y vừa mới nói được một chữ, Đặng
Bách Xuyên đã đưa tay bịt mồm y lại. Bao Bất Đồng đối với vị đại ca
này năm phần kính sợ, cố nhịn không chửi tiếp nữa. Tiết Mộ Hoa nói:
- Họ Đinh kia, ta đành phải khuất phục, trị bệnh cho nhà sư mập,
ngươi đối với bạn bè ta phải nể nang một chút.
Đinh Xuân Thu đáp:
- Được rồi, ta sẽ y lời ngươi.
Đinh Xuân Thu lập tức bảo đệ tử khiêng Tuệ Tịnh lại. Tiết Mộ Hoa
hỏi Tuệ Tịnh:
- Ngươi năm chầy tháng rộng tiếp xúc với các vật lợi hại để đến
nỗi hàn độc xâm nhập tạng phủ, ấy là loại gì thế?
Tuệ Tịnh đáp:
- Đó là băng tàm trên đỉnh Côn Lôn.
Tiết Mộ Hoa lắc đầu, không hỏi thêm nữa, trước hết châm cứu cho
y, sau đó lấy ra hai viên thuốc to màu đỏ chót cho y uống. Kế tiếp
người nào cần tiếp cốt thì ông tiếp cốt, người nào cần trị thương thì trị
thương, mãi đến lúc trời đã sáng bạch bấy giờ mới xong. Những người
bị thương chia nhau ra kẻ nằm trên giường, người nghỉ ngơi trên cánh
cửa tháo ra thay phản. Người nhà họ Tiết nấu mì đem ra cho mọi người
ăn.
Đinh Xuân Thu ăn hết hai tô mì rồi, quay sang cười với Tiết Mộ
Hoa nói:
- Cũng may ngươi hiểu thời vụ không bỏ thuốc độc vào trong đồ
ăn.
Tiết Mộ Hoa đáp:
- Nói đến sử dụng thuốc độc thì trên đời này còn ai hơn được ông?
Ta cũng có bụng ấy nhưng đâu dám đánh trống qua cửa nhà sấm.
Đinh Xuân Thu cười sằng sặc nói:
- Ngươi bảo gia nhân đi mướn cho ta mươi cỗ xe lừa.
Tiết Mộ Hoa hỏi lại:
- Làm gì mà phải cần mười cỗ xe?
Đinh Xuân Thu trừng mắt lên khinh khỉnh nói: - Chuyện của ta ngươi hỏi làm gì? Tiết Thần Y ở đây chắc quen biết nhiều, muốn mướn mười cỗ xe đâu phải là chuyện khó? Tiết Mộ Hoa không biết làm sao hơn, đành phải dặn dò gia nhân ra ngoài tìm xe. Đến trưa, mười chiếc xe lừa đã thuê đủ, Đinh Xuân Thu nói: - Đem giết hết các phu xe đi. Tiết Mộ Hoa kinh hãi nói: - Sao thế? Chỉ thấy các đệ tử phái Tinh Tú vung chưởng lên, bộp bộp mấy tiếng, mười người xa phu đã chết lăn dưới đất. Tiết Mộ Hoa giận dữ nói: - Đinh lão tặc, những người phu xe này có làm gì nên tội đâu? Ngươi ... ngươi ... cớ gì lại hạ độc thủ? Đinh Xuân Thu đáp: - Phái Tinh Tú muốn giết vài người, không lẽ còn phải xem có tội hay không có tội, giảng đạo lý nữa hay sao? Tất cả các ngươi lên xe hết cho ta. Không ai được ở lại! Tiết hiền điệt, ngươi có thuốc men, sách vở gì thì mang theo người, ta đốt nhà ngươi đây. Tiết Mộ Hoa lại càng kinh hãi, nhưng nghĩ lão quái này không chuyện ác gì không làm, có nói cũng phí lời, các loại sách thuốc ông đã đọc thuộc lòng, chẳng cần phải mang, thế nhưng bao nhiêu cao đơn hoàn tán dày công chế tạo bằng những dược tài cực kỳ khó kiếm, thành thử vừa dọn thuốc vừa luôn mồm chửi rủa. Ông chưa thu thập xong, các đệ tử phái Tinh Tú đã châm lửa đốt phía sau nhà. Bọn Tuệ Kính, Hư Trúc trong phái Thiếu Lâm vốn đã được Huyền Nạn dặn dò, muốn về chùa báo tin ngờ đâu Đinh Xuân Thu bố trí nghiêm nhặt nên chạy chưa xa đã bị bắt lại. Bọn Huyền Nạn cả thảy bảy người, Cô Tô Mộ Dung trang cả thảy bốn người, Hàm Cốc bát hữu thêm tám người, tổng cộng mười chín người ngoại trừ Tiết Mộ Hoa không bị tổn thương, ngoài ra nếu không bị Hóa Công Đại Pháp tiêu hao nội lực thì cũng bị chưởng lực của Đinh Xuân Thu, hoặc phải hàn độc băng tàm của Du Thản Chi, hoặc bị trúng độc của đệ tử phái Tinh Tú thành thử không ai cử động được. Ngoài ra còn người nhà của Tiết Mộ Hoa cũng chia nhau lên mười cỗ xe đó. Còn đệ tử phái Tinh Tú chia ra kẻ làm xa phu, số còn lại cưỡi ngựa đi bên cạnh áp tống. Xe bỏ màn xuống rồi còn dùng thừng buộc chặt, bên trong tối như bưng, không nhìn thấy bên ngoài như thế nào. Huyền Nạn cả bọn ai ai cũng nổi dạ nghi ngờ: “Tên lão tặc này đưa mình đi đâu đây?”. Mọi người biết rằng nếu như mở miệng dò hỏi thì chỉ thêm nhục, phái Tinh Tú nhất định sẽ không trả lời nên đành tự nhủ: “Tạm thời nhẫn nại, đến đâu khắc biết”.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top