thien long bat bo 25-34

HỒI 25

Đại Luân Minh Vương

Bảo Định Đế vừa nói xong, Thiên Tham hoà thượng cướp lời vội đáp:

- Nếu theo phương pháp khôn ngoan của Khô Vinh đại sư vừa nói thì ngươi

đã tự hiểu cả rồi, chỉ cần nhớ thêm phép kiếm nữa là xong.

Bảo Định Đế ngạc nhiên hỏi lại:

- Vãn bối chưa hiểu, xin đại sư chỉ giáo rõ cho!

Thiên Nhân phương trượng nói:

- Ngươi hãy ngồi xuống đây nói chuyện.

Bảo Định Đế ngồi xếp bằng xuống bồ đoàn. Thiên Nhân tiếp:

- Phép Lục Mạch Thần Kiếm không phải là đánh kiếm thật, mà là dùng chỉ

lực trong phép Nhất Dương Chỉ biến hoá thành kiếm khí. Chỉ có thực chất

chứ không hình thể rõ rệt cho nên phép này có thể gọi là vô hình kiếm. Trên

cổ tay ngươi có sáu mạch là: Thái Âm, Quyết Âm, Thiếu Âm, Thái Dương,

Dương Minh, Thiếu Dương.

Thiên Nhân vừa nói vừa thò tay vào phía sau cái bục lấy ra một cuốn trục

lụa. Vì lâu ngày quá lụa đã biến thành mầu vàng. Thiên Tham tiếp lấy treo

lên vách, mở cuộn trục ra. Nguyên cuộn trục này cuốn bức tranh vẽ đồ hình

một người đàn ông khỏa thân, chua rõ các huyệt. Các đường chuyển vận lưu

thông về sáu mạch vẽ mầu xanh, đỏ. Bảo Định Đế là bậc cao thủ về phép

Nhất Dương Chỉ, mà kinh Lục Mạch Thần Kiếm lại lấy Nhất Dương Chỉ

làm căn bản và cùng một đường lối võ công của họ Đoàn nên nhà Vua chỉ

xem qua đã hiểu ngay.

Thiên Nhân lại nói:

- Chính Minh! Ngươi làm chúa tể nước Đại Lý, việc cải trang chỉ là quyền

nghi nhất thời nếu để đối phương khám phá ra thì rất tổn hại đến uy danh cả

nước, được bề nọ mất bề kia, nên chăng tuỳ ý ngươi tự quyết lấy.

Bảo Định Đế chắp tay đáp:

- Mạnh dạn thẳng tiến mới là người dũng, không suy hơn tính thiệt mới gọi

là nghĩa.

Thiên Nhân nói:

- Thế thì hay lắm! Kinh Lục Mạch Thần Kiếm này không truyền cho con

em ở ngoài tục luỵ. Ngươi phải xuống tóc ta mới truyền thụ cho.

Bảo Định Đế đứng lên, bước ra quỳ xuống đất nói:

- Xin đại sư mở lượng từ bi.

Khô Vinh đại sư nói:

- Ngươi lại đây ta là phép thế phát cho.

Bảo Định Đế rảo bước tới, quỳ ở phía sau Khô Vinh. Lúc đó Đoàn Dự cũng

đứng dưới đất, tinh thần đang tỉnh táo, nghe mấy vị đối thoại nghĩ thầm

trong bụng: các ông bàn đi tính lại, té ra việc này có liên quan đến bọn Mộ

Dung. Chàng thấy bá phụ muốn thay đổi trang phục, mặc áo thầy tu không

khỏi ngấm ngầm kinh dị.

Bỗng thấy Khô Vinh đại sư đa tay phải vòng lại phía sau giữ đầu Bảo Định

Đế. Bàn tay này chỉ còn da bọc lấy xương. Khô Vinh đại sư vẫn không xoay

người lại, miệng lâm râm đọc kệ, cất tay lên một cái bao nhiêu tóc Bảo

Định Đế rơi xuống đất hết, còn lại cái đầu trụi nhẵn thín hơn là lấy dao cạo.

Đoàn Dự cả kinh còn các vị Thiên Quan, Thiên Nhân trong lòng bội phục

vô cùng lẩm bẩm: "Khô Vinh lão thúc tu luyện khô thuyền công lực đã cao

thâm đến mức này, thật là hãn hữu".

Khô Vinh đại sư dõng dạc tuyên bố:

- Ngươi đã quy y cửa Phật, đặt cho pháp hiệu Thiên Trần.

Bảo Định Đế đáp:

- Tạ ơn sư phụ đã ban pháp danh cho.

ở nơi cửa Phật không kể đến vai vế gia đình ngoài trần tục, nên Thiên Nhân

phương trượng đứng vào hàng thúc phụ của Bảo Định Đế nhưng từ đây Bảo

Định Đế đã chịu phép thế phát của Khô Vinh trở thành sư đệ Thiên Nhân.

Khô Vinh lại nói:

- Không chừng sớm tối hôm nay Minh Luân Đại Vương sẽ tới. Thiên Nhân!

Ngươi đem ngay những điều bí mật về Lục Mạch Thần Kiếm truyền thụ cho

Thiên Trần.

Thiên Nhân vâng lời, đưưa Bảo Định Đế đến trước đồ hình về kinh mạch treo

trên vách. Bảo Định Đế chuyên trị mạch Thiếu Dương, đường mạch đi ra

sao từ đâu đến đâu, qua những huyệt đạo nào Thiên Nhân nhất nhất chỉ dẫn

tường tận, đồng thời giảng cho Bảo Định Đế về cách phóng kiếm khí do

huyệt "Quan xung" ở ngón tay vô danh. Bảo Định Đế y theo lời giảng dạy,

vận động nội lực từ ngón tay vô danh phát ra những tiếng vù vù, chân khí từ

huyệt "quan xung" phóng ra mãnh liệt.

Khô Vinh đại sư cả mừng nói:

- Nội lực của ngươi đã đến mức phi thường. Kiếm pháp này tuy biến ảo

khôn lường, song kiếm khí đã thành hình thì có thể tuỳ ý người sử dụng.

Thiên Nhân nói:

- Sư thúc luyện "Thương kiếm" ở ngón tay cái. Tôi luyện "Dương kiếm" ở

ngón tay trỏ. Thiên Quan sư huynh luyện "Xung kiếm" ở ngón tay giữa.

Thiên Trần sư đệ luyện "Quan xung kiếm" ở ngón vô danh. Thiên Tướng sư

đệ luyện "thiếu xung kiếm" ở ngón út. Thiên Tham sư đệ luyện "Thiếu trạch

kiếm" ở ngón út bên tay trái. Việc gấp đến nơi, không thể trì hoãn được nữa

chúng ta phải bắt đầu luyện ngay từ bây giờ.

Nói xong mở hết sáu bức đồ hình treo lên bốn bức vách. Trên đồ hình nào

cũng vẽ đủ đường ngang, đường dọc, đường giáp nhau, đường vòng tròn và

đường cánh cung. Mỗi vị đều theo đồ hình mà luyện đờng kiếm khí của

mình, giơ ngón tay lên không nào điểm nào vạch.

Đoàn Dự đứng đó cảm thấy chân khí trong người rung động nhộn lên, so

với trước đây còn tệ hại hơn, không thể chịu đựng được nữa vì nhận thêm

chân khí của Bảo Định Đế cùng năm nhà sư chùa Thiên Long tống vào.

Nhưng chàng thấy bá phụ cùng các phương trượng đang định thần, dụng

công luyện kiếm khí nên không dám lên tiếng sợ kinh động mọi người.

Chàng chỉ ngồi trân trân ra đó hồi lâu, thấy trong người càng thêm bứt rứt

buồn tẻ, ngẫu nhiên nhìn lên đồ hình vẽ kinh mạch treo trên vách. Giữa lúc

ấy chàng cảm thấy ngón tay trái giật lên không ngớt, dường như bên trong

có con gì muốn cắn da thịt để chui ra. Chỗ đầu ngón tay cắn nhôn nhốt đó

đúng chỗ trên hình chua rõ là huyệt "hội tông". Đoàn Dự nghiêng đầu nhìn

bá phụ thấy người đang ngưng thần, chăm chú để mắt dán vào mạch "thiếu

dương đi tam tiêu" trên bản đồ, ngón tay vô danh bên phải đang búng tanh

tách. Đoàn Dự thuận mắt liền ngó theo đường vạch đỏ từ huyệt "hội tông" ra

lạc "tam dương" qua đường "tứ độc" nhập vào khu "thiên tỉnh". Chàng đem

tâm theo dõi kinh mạch thì chân khí trong người chàng đang tả xung hữu

đột tự nhiên được tâm ý hướng dẫn vào đường lối cũng đi từ cổ tay chuyển

qua cẳng tay, đi lên khuỷu tay ngược lên cánh tay cho đến đầu, bả vai. Chân

khí theo đường kinh mạch chuyển vận rất có thứ tự. Toàn thân chàng đang

bứt rứt khó chịu bỗng nhiên trở nên khoan khoái. Đoàn Dự định thần tĩnh trí

đưa đường chân khí đó vào trong "tam tiêu". Nhưng dẫn chân khí được vào

trong "tam tiêu" phải là tay giỏi nội công thì chàng lại chưa am hiểu bí

quyết đó. Chỉ trong thời gian uống cạn chén trà chàng không chịu nổi được

nữa kêu lên "ối chao! ối chao!". Bảo Định Đế chợt nghe tiếng la cấp bách

vội hỏi:

- Dự nhi! Con làm sao vậy?

Đoàn Dự đáp:

- Cháu thấy trong người không biết bao nhiêu là luồng chân khí đang chạy

nhộn lên không thể chịu nổi. Cháu đem tâm theo dõi những vạch đỏ trên đồ hình của bá phụ, chân khí cũng cuồn cuộn chảy về huyệt "đan điền". Trời ơi có lẽ huyệt này đầy quá, tắc nghẽn, bụng cháu muốn nổ tung ra bây giờ.

Có ai qua cầu mới biết sự phản ứng về nội công làm cho ruột gan chướng

lên như muốn nổ tung ra mà người ngoài trông chẳng thấy trạng thái gì khác

lạ. Bảo Định Đế là người có bản lãnh về nội công rất thâm hậu, biết rõ rằng

chân khí nhiều đến nỗi bành chướng huyệt đan điền thì ít ra cũng phải luyện

nội công đên 20 năm, đằng này Đoàn Dự cha biết võ công mà trạng thái

này xuất hiện thì chỉ là do tà độc trong người đến lúc phát động. Bảo Định

Đế kinh dị nghĩ thầm: "nếu không dẫn khí vào chỗ chứa tất sinh tai vạ

nhưng lại e đa tà khí vào sâu nội phủ sau này trục xuất rất là khó khăn".

Nhà Vua bình nhật giải quyết mọi vấn đề nghi nan một cách quả quyết mau

lẹ song đứng trước mối hoạ phúc một đời của Đoàn Dự chỉ sai một chút là

lập tức nguy hiểm đến tính mạng chàng nhà Vua không khỏi do dự. Nhìn

mắt chàng hào quang tán loạn dường sắp nổi cơn điên không còn đủ thì giờ

nghĩ tới nghĩ lui được nữa nhà Vua quyết định tạm thời cứu nguy trước mắt

rồi sẽ liệu bèn bảo Đoàn Dự:

- Dự nhi! Ta dạy con phép dẫn khí về nơi trống rỗng.

Vừa nói vừa truyền thụ phương pháp này cho chàng. Môn nội công họ Đoàn

nước Đại Lý quả tinh diệu hơn đời, chỉ trong khoảnh khắc chàng đã vận

chuyển được chân khí vào các tạng phủ. Chàng cảm thấy thân thể như thư

thái nhẹ nhàng tựa hồ như muốn bay bổng lên không. Bảo Định Đế thấy

Đoàn Dự lộ vẻ vui tươi trong lòng vẫn không khỏi lo ngại chỉ sợ tà khí từ

đây cố kết trong nội tạng khó lòng khu trừ cho tuyệt diệt, phải mang luỵ

suốt đời, bất giác thở dài sườn sượt.

Khô Vinh đại sư thuỷ chung vẫn tĩnh toạ, quay mặt vào vách song hai người

đối thoại câu nào cũng lọt vào tai. Đại sư thấy Bảo Định Đế truyền thụ xong

phép "đạo khí quy hư" rồi cất tiếng thở dài liền lên tiếng bảo nhà Vua:

- Thiên Trần! Việc đời nhất thiết đều có tiền định cả. Cát hung hoạ phúc

đều do lòng người mà ra. Ngươi bất tất quá lo xa cho người, phải gấp rút

luyện đường "thiếu dương kiếm" đi!

Bảo Định Đế vâng lời, trấn định tâm thần rồi tiếp tục luyện môn "thiếu

dương kiếm". Trong thân thể Đoàn Dự chân khí nhiều quá, đầy rẫy khắp nơi

không thể chốc lát thu về hết ngay được song chàng đã biết phương pháp

thực hành mỗi lúc một thuần thục. Sáu nhà sư trong tăng xá ai nấy gia công

luyện kiếm thâu đêm, bất giác trời đã rạng đông. Tiếng gà xao xác gáy dồn.

Đoàn Dự cảm thấy chân khí trong mình không còn chạy nhộn lên nữa.

Chàng đứng dậy cử động chân tay, vẫn thấy bá phụ cùng năm vị cao tăng

chuyên tâm luyện kiếm, chàng không dám mở cửa ra ngoài, cũng không

dám lên tiếng, e làm kinh động mọi người. Không có việc gì cũng buồn,

chàng lại trông lên đồ hình của bá phụ, hết nhìn nhận về các đường kinh

mạch lại nhìn nhận đến lời giảng giải về kiếm pháp "thiếu dương". Trong

lúc đang nhìn nhận suy nghĩ, bỗng nhiên cảm thấy một luồng chân khí từ

trong huyệt "đan điền" tuôn đến đầu bả vai, qua các huyệt "nao hội", "tiểu

lạc", "thanh lãnh uyển" nhập vào huyệt "quan xung" ở ngón vô danh. Đầu

ngón tay chàng chướng lên rất khó chịu. Chàng liền nghĩ: âu là ta dẫn khí

trở về huyệt "đan điền". Chàng tư tưởng như vậy quả nhiên luồng chân khí

lại qua những đường huyệt trở về "đan điền". Thế là Đoàn Dự đã vô tình học

được phương pháp căn bản về nội công vào hạng thượng thừa. Nhưng đó

mới chỉ là cách cho chân khí chạy đi chạy về, chàng đã lấy làm vui sướng

vô cùng. Trong mầu ni đường có ba nhà sư thì Thiên Tớng đại sư là người

vui vẻ dễ thân cận hơn hết. Đoàn Dự liền nghiêng đầu về nhà sư này để xem

đồ hình từ huyệt "thiếu âm" đến "tâm kinh" của ông. Đồ hình này bắt nguồn

từ huyệt "cực toàn" dưới nách, qua huyệt "thanh linh", "thiếu hải" ở khu vực

khuỷu tay rồi do các huyệt "linh đạo", "thông lý", "thần môn", "thiếu phủ"

ăn thông vào huyệt "tiểu xung" trên ngón tay út. Đoàn Dự lại đem hết tinh

thần nghĩ vào đó, quả nhiên một luồng chân khí lại do những kinh mạch này

đi ra theo đúng ý nghĩ của mình. Rồi chàng lần lượt nhìn những đồ hình

khác, cũng theo phương pháp đó, bất tất phải nói hết cho rườm lời. Mất nửa

ngày nhìn nhận chàng đã thông suốt được cả kinh mạch trên sáu bức đồ

hình. Chàng cảm thấy tinh thần sảng khoái, quên cả đói khát. Sau không

biết làm gì nữa để giết thời giờ Đoàn xem đến lời giảng dạy về kiếm pháp

trên sáu bức đồ hình về sáu thế kiếm "thiếu thương", "thiếu dương", "trung

xung", "quan xung", "thiếu xung" và "thiếu trạch". Nhưng chàng chỉ thấy

những vạch đen, vạch đỏ đi ngang đi dọc hoặc giao tiếp nhau trông rối mắt

khó lòng nhận ra được. Chàng lẩm bẩm: "những đường kiếm rắc rối thế này

thì làm sao mà nhớ được?". Rồi chàng tự hỏi: "hai chú tiểu sao mãi không

thấy mang cơm chay đến cho mình? Mình phải ra ngoài tìm chút gì ăn cho

đỡ đói". Ngay lúc ấy, mũi chàng ngửi thấy mùi gỗ đàn hương thơm ngát,

tiếp theo có tiếng hát kệ bằng Phạn ngữ từ xa vẳng lại nghe không rõ. Khô

Vinh đại sư buồn rầu nói:

- Hay quá! Hay quá Đại Luân Minh Vương đã tới. Các ngươi luyện kiếm

pháp kết quả ra sao?

Thiên Tham đáp:

- Tuy chưa được thuần thục nhưng cũng đủ để nghênh địch.

Khô Vinh lại bảo Thiên Nhân:

- Ta không đi được! Ngươi ra mời Đại Luân Minh Vương vào mầu ni đường

nói chuyện.

Thiên Nhân vâng lời đi ra. Thiên Quan lấy năm chiếc chiếu trải ra đầu đằng

đông rồi chính mình ngồi vào chiếu đầu. Thiên Tướng ngồi chiếu thứ hai,

Bảo Định Đế ngồi chiếu thứ tư, chiếu thứ ba dành cho Thiên Nhân còn

Thiên Tham ngồi chiếu thứ năm.

Đoàn Dự không được ngồi đứng ở phía sau Bảo Định Đế. Khô Vinh và bọn

Thiên Quan biết cường địch đã đến còn ôn lại lời giảng giải trên đồ hình lần

cuối cùng rồi mới cuốn lại để trước mặt Khô Vinh.

Bảo Định Đế bảo Đoàn Dự:

- Dự nhi! Lát nữa sẽ xảy ra cuộc ác chiến, trong nhà kiếm khí phóng vùn

vụt ra khắp mọi chỗ, rất là nguy hiểm. Ta không thể phân tâm ra bảo vệ con

đợc vậy con ra ngoài kia nghe!

Đoàn Dự rất đỗi băn khoăn nghĩ bụng: "nghe miệng lưỡi các người thì lão

Đại Luân Minh Vương lợi hại lắm đấy mà bá phụ mình bữa nay mới luyện

"quan xung kiếm pháp" lần đầu, chưa chắc đã địch được lão, nếu có chỗ sơ

hở biết làm thế nào bây giờ?". Nghĩ vậy chàng đáp:

- Bá bá ơi! Cháu... cháu phải ở luôn bên cạnh bá bá. Mình bá bá ở lại đấu

kiếm với họ, cháu chẳng... yên tâm chút nào.

Mấy tiếng sau chàng vừa nói vừa nghẹn ngào. Bảo Định Đế cũng động lòng

nghĩ thầm: "Thật là một đứa bé hiếu thảo". Khô Vinh đại sư gọi:

- Dự nhi! Cháu lại ngồi trước mặt ta đây! dù Đại Luân Minh Vương có lợi

hại đến đâu cũng không động đến chân lông cháu được.

Lời đại sư tuy lạnh lùng song ngụ ý cao ngạo. Đoàn Dự vâng lời, khom lưng

đến ngồi trước mặt Khô Vinh nhưng không dám ngoảnh lại nhìn đại sư, chỉ

quay mặt vào vách. Khô Vinh cao hơn chàng nhiều, che lấp hẳn chàng đi.

Bảo Định Đế vừa cảm kích lại vừa yên dạ. Nhà Vua nghĩ đại sư vừa lấy

phép khô thuyền để xuống tóc cho mình, một môn thần công đó cũng đủ

ngạo đời rồi. Còn việc bảo vệ Đoàn Dự tất đại sư thừa sức.

Trong mầu ni đường yên lặng như tờ. Lát sau nghe tiếng Thiên Nhân

phương trượng mời:

- Minh Vương pháp giá đã quang lâm, xin mời người vào mầu ni đường

đàm thoại.

Rồi thấy tiếng người khác đáp:

- Xin phương trượng đi trước cho tôi theo gót.

Đoàn Dự nghe giọng nói của khách lạ có vẻ ôn hòa, khiêm nhường đúng lễ,

tuyệt không phải là hạng cường hung ác bá. Chàng lại nghe tiếng chân bước

có tới hàng chục người. Đoạn thấy Thiên Nhân mở cửa nói:

- Xin rước Minh Vương vào cho!

Đại Luân Minh Vương đáp:

- Xin lỗi.

Minh Vương bước vào trong nhà, hướng vào phía Khô Vinh chắp tay thi lễ

nói:

- Kẻ vãn bối bên nước Thổ Phồn là Cưu Ma Trí xin tham kiến tiền bối đại

s.

Đoạn đọc luôn bốn câu kệ:

Hữu thường mà hoá vô thường

Bốn bề song thụ một trường khô vinh

Đông, Tây, Nam, Bắc phân minh

Đã hình như giả lại hình như không.

Đoàn Dự lẩm bẩm: "thế ra vị Đại Luân Minh Vương này tên gọi Cưu Ma

Trí, nhng không biết bốn câu kệ ông vừa đọc có ngụ ý gì?".

Khô Vinh đại sư không khỏi giật mình nghĩ thầm: "Đại Luân Minh Vương

thật là người học vấn uyên thâm, tinh tế, tiếng đồn quả đã không ngoa. Lão

vừa mới gặp mặt lần đầu đã khám phá ra lai lịch phép luyện khô thuyền của

mình".

Nguyên trước đức Thích Ca mầu ni tịch giữa những cặp sa la tại thành Câu

Thi Na, bốn mặt Đông, Tây, Nam, Bắc đều có hai cây này mà mặt nào cũng

cây tươi cây héo nên gọi là "Tứ khô tứ vinh". Trong kinh Phật giải thích

rằng: hai cây ở mặt đông tượng trưng cho thuyết "thường dã vô thường", hai

cây ở phương tây tượng trưng cho thuyết "ngã dữ vô ngã", hai cây phương

nam tượng trưng cho thuyết "lạc dữ vô lạc", hai cây ở phương bắc tượng

trưng cho thuyết "tĩnh dữ vô tĩnh". Những cây tươi tốt rườm rà tượng trưng

cho sự có thật là "hữu thường", "hữu ngã", "hữu lạc", "hữu tĩnh". Trái lại

những cây khô héo tàn tạ tượng trưng cho sự không có gì hết: vô thường, vô

ngã, vô lạc, vô tĩnh. Đức Phật Nh Lai (Thích Ca) tịch giữa tám cây tượng

trưng cho tám thuyết trên, hay nói một cách khác là phi khô, phi vinh, phi

giả, phi không.

Khô Vinh đại sư trên mời năm trời tu luyện khô thuyền mới tu được đến

cõi "bán khô, bán vinh" chứ chưa được đến cõi cao hơn là "phi khô phi

vinh" hay "diệc khô diệc vinh" nên đại sư vừa nghe mấy câu kệ của Đại

Luân Minh Vương không khỏi giật mình đáp:

- Minh Vương từ xa đến đây, lão tăng không kịp đi đón xin mở lượng từ bi.

Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí nói:

- Uy danh chùa Thiên Long tiểu tăng bấy lâu ngưỡng mộ. Hôm nay được

diện yết tôn nghiêm hoan hỉ vô cùng.

Thiên Nhân phương trượng mời ngồi, Cưu Ma Trí tạ ơn rồi mới ngồi xuống.

Đoàn Dự chưa trông rõ tướng mạo Đại Luân Minh Vương liền nép mình vào

cạnh Khô Vinh, ngấp nghé trông ra thì thấy một vị sư mặc áo thầy chùa sắc

vàng, chưa tới 50 tuổi, áo vải giày cỏ, cũng chẳng có gì khác người thường,vẻ mặt tươi hơn hớn dường như minh châu bảo ngọc tự có ánh hào

quang. Chàng mới thấy mặt đã sinh lòng kính cẩn, muốn được thân cận.

Chàng lại nhìn qua khe cánh cửa ra ngoài thấy 8, 9 gã hán tử đứng đó, cao

có thấp có, mặt mũi tên nào cũng đanh ác, đáng ghê, không ra tuồng nhân

sĩ ở Trung Nguyên. Đó là những người tuỳ tùng mà Minh Vương đem từ

Trung Thổ đến.

Cưu Ma Trí chắp tay nói:

- Tuy đức Phật có dạy rằng: không sống, không chết, không nhơ, không

sạch song tiểu tăng tư chất ngu muội chưa suốt lẽ yêu, ghét, sống, chết.

Tiểu tăng có ông bạn tâm giao người đất Cô Tô, nước Đại Tống ở họ Mộ

Dung. Năm trước tiểu tăng hạnh ngộ ông bạn này tại nước Thiên Trúc rồi

cùng ông đàm luận võ nghệ. Mộ Dung tiên sinh biết hết các môn võ khắp

thiên hạ một cách rất tinh tường. Trong mấy ngày, tiểu tăng được tiên sinh

chỉ giáo cho những điểm nghi ngờ nên được hiểu hết. Không ngờ bậc đại

anh hùng chẳng được sống lâu, vội về cực lạc. Tiểu tăng có điều thỉnh

nguyện khó nghe, xin các vị trưởng lão mở lượng từ bi cho.

Thiên Nhân đã biết ý Đại Luân Minh Vương liền đáp:

- Minh Vương cùng Mộ Dung tiên sinh có mối nhân duyên kết bạn một hồi.

Nay duyên phận đã hết thì thôi hà tất phải miễn cưỡng môi cầu điều này

điều khác. Mộ Dung tiên sinh đã về thế giới cực lạc, lễ Phật nơi toà sen, còn

để ý đâu đến cái nghề võ ở nhân gian nữa? Minh Vương làm việc này chẳng

hoá ra rắn vẽ thêm chân ?

Cưu Ma Trí nói:

- Lời phương trượng chỉ điểm cho quả là đúng lý, song tiểu tăng vốn tính cố

chấp mê si, đã đóng cửa 40 ngày mà không sao quên được người tri kỷ.

Năm đó Mộ Dung tiên sinh có đề cập đến kiếm pháp khắp thiên hạ, xác

nhận môn Lục Mạch Thần Kiếm tại chùa Thiên Long đây đứng vào bậc

nhất. Tiên sinh ân hận chưa được xem qua, đó là một điều tiên sinh suốt đời

hối tiếc.

Thiên Nhân nói:

- Tệ tự ở tận biên cương hẻo lánh, được Mộ Dung tiên sinh có lòng quá yêu,

thực là một vinh dự cho chúng tôi. Nhưng không hiểu tại sao ngay ngày đó

tiên sinh không thân hành tới đây mượn về xem?

Cưu Ma Trí thở dài não ruột, thay đổi sắc mặt, lặng yên hồi lâu rồi lại nói:

- Mộ Dung tiên sinh thực ra đã biết cuốn kinh này là vật chí bảo để chấn

chùa, dù có đến mượn chắc cũng không được. Người còn nói rằng họ Đoàn

nước Đại Lý tuy ngôi chúa tể một nước mà không quên nghĩa khí thuở còn

là khách giang hồ, có lòng thương dân, gia ơn cho khắp cả trăm họ, tiên

sinh không tiện đến lấy trộm hay cưỡng đoạt.

Thiên Nhân tạ rằng:

- Đa tạ thịnh tình Mộ Dung tiên sinh quá khen. Mộ Dung đã để họ Đoàn

nước Đại Lý tôi lọt vào mắt xanh, Minh Vương lại là tri kỷ với tiên sinh

tưởng cũng nên nghĩ tới ý chí tiên sinh còn để lại.

Cưu Ma Trí nói:

- Chỉ vì hồi đó tiểu tăng đã trót khoe với tiên sinh rằng tiểu tăng là quốc sư

nước Thổ Phồn, đối với họ Đoàn nước Đại Lý chưa từng quen biết, nếu tiên

sinh không tiện thân hành đến lấy thì để tiểu tăng lấy cho. Tiểu răng nghĩ

rằng bậc đại trượng phu đã nói một lời dù sống chết cũng không thay đổi.

Tiểu tăng đã hứa nhất quyết không dám sai lời.

Dứt lời lão khẽ vỗ tay ba cái, hai hán tử khiêng một cái rương bằng gỗ đàn

hương vào, đặt dưới đất. Cưu Ma Trí phất tay áo một cái, nắp rương tự

nhiên mở ra, bên trong có một cái hộp bằng vàng. Cưu Ma Trí cúi xuống,

lấy hộp lên cầm tay.

Thiên Nhân nghĩ thầm: bọn ta đã là người thoát vòng tục luỵ còn tham lam

làm chi những đồ kỳ trân, dị bảo. Hơn nữa họ Đoàn làm Vua một nước dư

trăm rưởi năm nay, súc tích thiếu gì kim ngân châu báu.

Nhưng Cưu Ma Trí mở nắp hộp ra chỉ có ba quyển sách cũ. Lão tiện tay mở

ra. Thiên Nhân liếc mắt trông qua thấy trong sách có hình vẽ và có chữ

nghĩa đều do tay người viết và họa bằng mực, bằng son. Cưu Ma Trí nhìn ba

cuốn sách thốt nhiên rớt nước mắt ướt cả tràng áo, nét mặt sầu thảm vô

cùng. Bọn Thiên Nhân đều lấy làm lạ.

Khô Vinh đại sư nói:

- Minh Vương lúc nào cũng nghĩ đến người bạn thuở xa, trần duyên chưa

sạch, há không thẹn với hai chữ "cao tăng" ?

Đại Luân Minh Vương cúi đầu nói:

- Đại sư là bậc đại trí tuệ, đại thần thông tiểu tăng bì thế nào được? Ba

quyển võ công quyết yếu này do chính tay Mộ Dung tiên sinh soạn ra, diễn

thuật những điều chính yếu trong 72 môn tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm, có cả

phép luyện, phép phá nữa.

Mọi người nghe nói cả kinh nghĩ thầm: "72 môn tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm

lẫy lừng khắp thiên hạ. Người ta đồn rằng từ khi phái Thiếu Lâm sáng lập,

ngoại trừ một vị cao tăng về đời Tống kiêm được 56 môn còn chưa có người

thứ hai nào luyện tới 36 môn. Thế mà bảo Mộ Dung tiên sinh quán được cả

72 môn đã khó tin rồi, huống hồ lại biết cả cách phá giải nữa thì không ai

dám nghĩ đến.

Cưu Ma Trí tiếp:

- Mộ Dung tiên sinh tặng ba cuốn kỳ thư này cho tiểu tăng, tiểu tăng nghiên

cứu nhiều điều rất bổ ích. Nay xin đưa sang đây đổi lấy cuốn Lục mạch

thần kiếm kinh. Các vị đại sư có thể tất cho thì tiểu tăng mới vẹn được lời

ước hẹn năm xa và lòng cảm kích nói sao cho xiết?

Thiên Nhân phương trượng không nói gì nghĩ thầm: "nếu quả nhiên ba cuốn

sách này ghi chép đầy đủ 72 môn tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm thì chùa Thiên

Long này sau khi học được ba cuốn đó võ công không chỉ ngang hàng với

phái Thiếu Lâm mà thôi lại còn có phần cao hơn một bậc vì bao nhiêu môn

sở trường của Thiếu Lâm mình đã biết hết mà phái Thiếu Lâm chưa biết gì

về những môn tuyệt kỹ của chùa này.

Cưu Ma Trí nói:

- Khi quý tự ban cho cuốn Bảo kinh đó vẫn để bản sao lại không thiệt hại gì

mà tiểu tăng được các đại sư gia ơn cho tất phải khắc xương để dạ. Đó là

một điều lợi. Tiểu tăng bái lãnh bảo kinh xin niêm phong lại lập tức, quyết

không xem trộm, thân hành đưa đến phần hoá ngay trước mồ Mộ Dung tiên

sinh. Tuyệt kỹ của quý tự không tiết lộ cho ai biết cả, đó là hai điều lợi. Các

vị đại sư ở quý tự đây võ học uyên thâm, không cần đi đâu mà nơi khác đem

đá đến cho có thể mài giũa nên ngọc quý. 72 môn tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm

có nhiều bí quyết độc đáo, tỷ như phép "niêm hoa chỉ", "vô tướng kiếp chỉ",

"Đa la diệp chỉ". Ba chỉ pháp này cùng phép Nhất Dương Chỉ của quý tự

đây có thể bồi bổ cho nhau. Đó là ba điều lợi.

Cưu Ma Trí nói thao thao một hồi nghe rất hợp tình hợp lý. Bảo Định Đế

cùng Đoàn Dự lúc đầu xem bức thư vàng lời lẽ có vẻ ép buộc chùa Thiên

Long để lấy bảo kinh một cách vô lý nhưng bây giờ nghe Cưu Ma Trí trình

bày như vậy tựa hồ chùa Thiên Long được lợi rất nhiều mà không thua thiệt

gì. Hơn nữa lão làm như thân hành kính dâng hậu lễ vậy. Thiên Tướng đại

sư là người hiền hoà dễ dãi nhất, bổn tính ưa giúp được việc cho người trong

tâm có ý ưng thuận. Song nói về tôn ti thì trên còn có sư thúc về địa vị phải

nhường phương trượng nên không dám nói ra.

Cưu Ma Trí tiếp:

- Tiểu tăng hãy còn ít tuổi và kiến thức hẹp hòi, lời nói chưa đủ thủ tín cùng

các vị đại sư vậy xin đem ba môn chỉ pháp cùng nằm trong 72 môn tuyệt kỹ

của phái Thiếu Lâm ra phô trương trước mặt quý vị, chẳng quản múa rìu

qua mắt thợ.

Lão liền đứng dậy rào đón:

- Đây chỉ là nhân lúc tiểu tăng cao hứng, công phu luyện tập thô sơ nên còn

nhiều chỗ kém cỏi, xin quý vị chỉ điểm cho. Tiểu tăng xin bắt đầu bằng

môn "niêm hoa chỉ".

Nói xong lão đưa ngón cái và ngón trỏ bên tay phải ra, nhẹ nhàng để gần

vào nhau, tựa hồ đang cầm một đoá hoa tươi. Nét mặt mỉm cười lão lại đưa

những ngón tay trái ra búng. Trong mầu ni đường trừ Đoàn Dự ra, còn toàn

là những tay nghiên cứu chỉ pháp đến mức tinh vi, vừa thấy lối chỉ pháp của

Cưu Ma Trí cực kỳ nhẹ nhàng êm dịu. Mỗi lần tay trái búng ra tựa hồ gảy

những hạt sương đọng trên hoa đi, lại tỏ vẻ không dám đụng mạnh, sợ cánh

hoa rụng xuống. Miệng vẫn ung dung mỉm cười. Nguyên kinh Phật có chép

rằng: Đức Thích ca mầu ni thuyết pháp trên núi Linh Sơn, tay cầm bông hoa

Ba la sắc vàng, mọi người nghe không ai nói gì, chỉ có Gia Diệp phá lên

cười, Đức Thích Ca biết ngay Gia Diệp đã lĩnh hội tâm pháp của mình liền

nói:

- Ta có các môn "chính nhãn pháp tàng", "nát bàn pháp môn", "thục tướng

vô tướng", "vi diệu pháp môn" không chép vào sách để ta truyền cho Gia

Diệp.

Tâm truyền là một điều trọng đại của Thuyền Tông. Phái Thiếu Lâm lại ở

trong phạm vi Thuyền Tông nên môn "niêm hoa chỉ" này được nghiên cứu

rất tinh vi.

Lúc Cưu Ma Trí búng ngón tay chưa thấy gì kỳ lạ. Lão búng liền một lúc

mấy chục cái rồi giơ tay áo lên thổi thì thấy những mảnh vải tròn, chỉ lớn

bằng những con cờ bay phất phới, tay áo lộ ra đến mấy chục chỗ thủng. Thì

ra lúc lão búng ngón tay lão đã dùng "niêm hoa chỉ" điểm vào tay áo cho

thủng rồi. Nhưng trước chưa trông thấy gì, tay áo tựa như vẫn nguyên lành

lúc thổi vào những mảnh áo mới bay tung ra.

Bọn Thiên Nhân, Thiên Quan, Bảo Định Đế thấy vậy đều lấy làm kinh dị

nghĩ thầm: "kể ra thì bọn mình mang Nhất Dương Chỉ điểm cho thủng áo

cũng được, chẳng có gì là khó. Song đưa ngón tay ra một cách mềm mại,

nét mặt vẫn vui vẻ tươi cười mà vận động nội lực mạnh đến thế thì mình

không làm được. Rút lại môn Nhất Dương Chỉ cùng môn "niêm hoa chỉ"

hoàn toàn khác biệt ở chỗ phát ra kình lực theo cách âm nhu mà môn Nhất

Dương Chỉ lại theo phép dương cương.

Cu Ma Trí tươi cười nói:

- Tiểu tăng đã phô bày môn "niêm hoa chỉ" một cách vụng về, còn kém

Huyền Độ đại sư chùa Thiếu Lâm xa lắm. Đến môn "Đa la diệp chỉ" tiểu

tăng sắp trình bày đây, chắc lại còn sai lạc hơn nữa.

Dứt lời Cưu Ma Trí đủng đỉnh đi vòng quanh cái rương gỗ đặt dưới đất,

mười đầu ngón tay điểm ra trông tựa như lá rụng hoa bay rồi những miếng

rương gỗ tung lên không ngớt. Chớp mắt những mãnh gỗ đó đã nát vụn, rơi

xuống thành một đống mùn cưa. Bảo Định Đế cùng các nhà sư coi việc làm

cho cái rương gỗ vụn ra chẳng có chi kỳ dị nhưng cả những đai sắt, bản lề

đồng mà chỉ lực cũng đánh gãy nát được thì không khỏi kinh hãi.

Cưu Ma Trí cười nói:

- Tiểu tăng sử dụng môn "Đa la diệp chỉ" này cũng là miễn cưỡng, công phu

luyện tập hãy còn thiển cạn.

Lão vừa nói vừa thủ tay vào trong áo thế mà thốt nhiên đống gỗ nát vụn tự

nhiên bay lên loạn xạ, tựa hồ có cây vô hình khuấy lên vậy. Nét mặt Cưu

Ma Trí vẫn ôn hoà tươi cười, cái áo thầy chùa rộng thùng thình vẫn không

lay động mảy may. Thần tình ở chỗ chỉ lực bên trong tay áo phóng ngầm ra,

tuyệt không lộ hình tích chút nào.

Thiên Tướng không nhịn được bất giác trầm trồ:

- Môn "vô tướng kiếp chỉ" hay quá! Quả nhiên danh bất hư truyền! Bần tăng

xin bội phục!

Cưu Ma Trí lễ phép nói:

- Đại sư quá khen đấy chứ! Đống gỗ nát vụn lên còn là hữu tướng. Luyện

được đến chỗ vô hình, vô tướng thì phải hết đời.

Thiên Tướng đại sư hỏi:

- Trong cuốn kỳ thư của Mộ Dung tiên sinh để lại có nói đến phép phá môn

"vô tướng kiếp chỉ" không?

Cưu Ma Trí đáp:

- Có có! Phép phá "vô tướng kiếp chỉ" cũng có tên giống như pháp danh của

đại sư.

Thiên Tương trầm ngâm hồi lâu rồi tiếp:

- ừ phải! Đem thiên tướng để phá vô tướng thật là cao tuyệt.

Ba nhà sư Thiên Nhân, Thiên Quan, Thiên Tham nhìn Cưu Ma Trí diễn

xong ba môn chỉ lực đã thấy chột dạ, biết rằng ba cuốn kỳ thư đúng là chép

72 môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm đã có ý muốn đem bản sao các đồ

hình về Lục mạch thần kiếm đánh đổi nhưng còn trù trừ chưa dám nói ra.

Thiên Nhân nói:

- Bạch sư thúc! Minh Vương từ xa tới đây với tầm lòng thành thực! ý kiến

sư thúc thế nào chỉ thị cho!

Khô Vinh đại sư hỏi:

- Thiên Nhân! Chúng ta luyện công tập nghị để làm gì?

Thiên Nhân phương trượng nghe sư thúc hỏi vặn không khỏi ngạc nhiên

đáp:

- Cốt để mở rộng phép mầu, bảo vệ quốc gia.

Khô Vinh lại hỏi:

- Khi gặp hạng quỷ quái ở đâu đến, đạo pháp mình hãy còn thiển cận không

đủ điểm hoá được chúng cần phải tru diệt cho yên thì dùng cách gì?

Thiên Nhân đáp:

- Nếu bất đắc dĩ phải ra tay, sẽ dùng Nhất Dương Chỉ.

Khô Vinh đại sư hỏi:

- Ngươi luyện Nhất Dương Chỉ đã đến bậc nào?

Thiên Nhân toát mồ hôi trán đáp:

- Đệ tử ngu muội lại thiếu chuyên cần nên mới luyện đến bậc thứ năm.

Khô Vinh đại sư lại hỏi:

- Theo ý kiến ngươi thì môn Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn nước Đại Lý so

với các môn "niêm hoa chỉ", "Đa la diệp chỉ", "Vô tướng kiếp chỉ" của phái

Thiếu Lâm ai hơn ai kém?

Thiên Nhân đáp:

- Về chỉ pháp không có hơn kém, chỉ có công phu rèn luyện là có kẻ cao

người thấp mà thôi.

Khô Vinh đại sư nói:

- Đúng đó. Giả tỷ mà môn Nhất Dương Chỉ của chúng ta luyện được đến

chỗ tuyệt đỉnh thì sẽ ra sao?

Thiên Nhân đáp:

- Phép mầu uyên thâm như biển cả khôn lường. Đệ tử đâu dám nói càn?

Khô Vinh hỏi:

- Tỷ dụ như ngươi thọ đến trăm tuổi, sẽ luyện được tới bậc nào?

Mồ hôi trán nhỏ giọt, Thiên Nhân đáp:

- Đệ tử cũng không biết nữa.

Khô Vinh hỏi:

- Liệu có luyện được đến chỗ tuyệt đỉnh không?

Thiên Nhân đáp:

- Quyết không thể được.

Thấy Khô Vinh không nói gì nữa Thiên Nhân tiếp:

- Lời sư thúc dạy chí phải. Môn Nhất Dương Chỉ của mình còn chưưa luyện

được đến nơi đến chốn thì nói chi đến kỳ kinh võ học của ai nữa? Minh

Vương lặn lội cực nhọc đến đây tệ tự xin thết tiệc chay tẩy trần.

Vừa nghe lời cự tuyệt Đại Luân Minh Vương thở dài sườn sượt nói:

- Chỉ vì tiểu tăng trót lỡ miệng một câu không thì nay Mộ Dung tiên sinh đã

qua đời, việc cầu kinh Lục mạch thần kiếm có được hay không cũng chẳng

quan hệ gì. Hôm nay tiểu tăng hỏi câu này khí vô lễ:

- Môn Lục mạch thần kiếm quả có tinh diệu đến như lời Mộ Dung tiên sinh

thì e rằng quý tự đây không ai luyện nổi. Giả tỷ có người luyện thành rồi thì

chắc nó chả tinh diệu như Mộ Dung tiên sinh đã tưởng tượng.

Khô Vinh nói:

- Lão tăng cũng có một nghi vấn mong Minh Vương chỉ giáo.

Cưu Ma Trí nói:

- Không dám!

Khô Vinh đại sư hỏi:

- Bản tự có pho kinh Lục mạch thần kiếm, chính con cháu họ Đoàn còn ở

trong vòng tục luỵ cũng không thể biết, không hiểu Mộ Dung tiên sinh đã

nghe ai mách?

Cưu Ma Trí đáp:

- Mộ Dung tiên sinh không nói rõ. Song tiểu tăng đoán ra dường như tiên

sinh có mối quan hệ với thái tử Diên Khánh họ Đoàn.

Thiên Nhân gật gù hỏi:

- Thái tử Diên Khánh có biết Mộ Dung tiên sinh?

Cưu Ma Trí đáp:

- Mộ Dung tiên sinh có chỉ điểm cho thái tử bảy, tám thế võ nhưng không

chịu thu nạp y làm đồ đệ.

Khô Vinh đại sư hỏi:

- Tại sao vậy?

Cưu Ma Trí đáp:

- Đó là chuyện riêng của tiên sinh, tiểu tăng không tiện hỏi kỹ.

ý tứ câu nói của Cưu Ma Trí là xin Khô Vinh đừng hỏi nữa. Khô Vinh nói:

- Thái tử Diên Khánh là con em họ Đoàn, chùa Thiên Long cùng trưởng tộc

có trách nhiệm về hành động của y.

Cưu Ma Trí lạnh lùng đáp:

- Chính thế!

Thiên Nhân phương trượng nói:

- Trên mười năm trời sư thúc bần tăng không tiếp kiến ai. Chỉ có Minh

Vương là bậc cao tăng hiện nay nên người mới phá lệ đó ra tiếp kiến chốc

lát mà thôi. Nào xin mời Minh Vương.

Nói xong đứng dậy tỏ ý tiễn chân.

Cưu Ma Trí nói:

- Tôi tưởng kinh Lục mạch thần kiếm chỉ có hư danh, quý tự hà tất phải coi

quan trọng như thế làm gì? để đến nỗi thương tổn đến hoà khí giữa Thiên

Long tự và Đại Luân tự, lại tổn thương cả đến mối bang giao giữa hai nước

Đại Lý cùng Thổ Phồn.

Thiên Nhân nói:

- Minh Vương muốn nói thế nào thì nói chúng tôi cũng không thuận giao

kinh đâu. Chẳng lẽ vì thế mà Đại Lý cùng Thổ Phồn sẽ xảy cuộc binh đao?

Bảo Định Đế thường phái trọng binh đồn trú tại miền biên giới tây bắc để

đề phòng nước Thổ Phồn đem quân vào xâm lấn giờ nghe Cưu Ma Trí nói

vậy nhà Vua càng để ý theo dõi câu chuyện.

Cưu Ma Trí nói:

- Quốc Vương nước Thổ Phồn chúng tôi lâu nay vẫn hâm mộ nhân vật vùng

phong thổ nước Đại Lý, từng đòi mở cuộc săn bắn với Hoàng Thượng bên

quý phái song tiểu tăng e rằng làm như vậy tổn thương nhân mạng quá

nhiều, trái với đức hiếu sinh của Thượng Đế nên tiểu tăng phải ráng sức

ngăn cản mới thôi.

Bọn Thiên Nhân nghe qua đã biết lời lão có ngụ ý uy hiếp. Cưu Ma Trí là

quốc sư nước Thổ Phồn. Nước Thổ Phồn cũng như nước Đại Lý, từ quốc

vương trở xuống ai ai cùng sùng tín đạo Phật. Cưu Ma Trí được quốc vương

Thổ Phồn rất tín nhiệm, hoà hay chiến phần lớn là do lão quyết định. Nếu vì

một pho kinh mà để xảy ra chinh chiến, nhân dân hai nước phải lầm than thì

khí quá. Nhưng nếu để người ngoài vào hăm doạ một câu đã phải hai tay

mang bảo kinh đem dâng cho họ thì còn ra thể thống gì nữa?

Khô Vinh đại sư nói:

- Nếu Minh Vương cần pho kinh của tệ tự quá, không có không được thì

bọn lão tăng đâu dám tiếc? Còn chuyện Minh Vương bảo đem pho sách có

72 môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm đánh đổi, tệ tự không dám bái lãnh.

Lão tăng tuy đã mấy chục năm quay mặt vào vách song cũng biết những

chuyện tuyệt kỹ chùa Đại Luân hãy còn hơn 72 môn của phái Thiếu Lâm

nhiều.

Cưu Ma Trí chắp tay hỏi:

- Theo ý đại sư, phải chăng đại sư muốn cho tiểu tăng phải lòi cái kém cỏi

ra?

Khô Vinh đại sư nói:

- Minh Vương vừa bảo pho kinh Lục mạch thần kiếm của tệ tự chỉ có hư

danh không được việc gì. Bọn lão tăng xin đem môn Lục mạch thần kiếm

thỉnh giáo Minh Vương vài thế oanh liệt. Nếu quả đúng như lời Minh

Vương: Lục mạch thần kiếm chỉ có hư danh không được việc gì thì chẳng

có chi đáng quý thật, Minh Vương cứ việc lấy đi.

Cưu Ma Trí nghe Khô Vinh nói vậy không khỏi chột dạ. Trước lão cùng Mộ

Dung tiên sinh đàm luận về môn "Lục mạch thần kiếm" đã biết kiếm pháp

này cực cao, chỉ sợ sức người không luyện được đến nơi đến chốn. Bây giờ

nghe miệng lưỡi Khô Vinh thì môn này không những ông ta biết sử dụng

mà thôi, dường như chư tăng ở đây cũng đã rèn luyện. Chùa Thiên Long nổi

danh hơn trăm năm nay mình không thể coi thường họ được. Vẻ mặt Cưu

Ma Trí lúc này càng nghiêm cẩn hơn, lão nghiêng mình nói:

- Chư vị cao tăng cho biết tuyệt nghệ về môn thần kiếm này để tiểu tăng

được mở rộng nhãn giới thì may mắn nào bằng?

Thiên Nhân phương trượng nói:

- Minh Vương dùng thứ khí giới gì? Xin lấy ra!

Cưu Ma Trí vỗ tay một cái, một gã hán tử cao lớn từ ngoài cửa bước vào.

Sau khi nghe Cưu Ma Trí nói tiếng Phiên mấy câu gã gật đầu ra mở rương

lấy một nắm hương đưa cho lão rồi lại ra ngoài cửa chờ.

Ai cũng lấy làm kỳ. Nắm hương kia đụng đến là gãy, chẳng lẽ lại dùng làm

khí giới được ? Bỗng thấy Cưu Ma Trí tay trái cầm một nén hương, tay

phải quờ xuống đống gỗ rương gãy vụn bóp nhỏ ra để cắm hương. Lão tiếp

tục làm như vậy, cắm đủ sáu nén hương bày hàng chữ nhất, nén nọ cách nén

kia vào khoảng một xích. Cưu Ma Trí ngồi xếp bằng sau những nén hương

cách xa chừng năm xích. Bỗng nhiên lão xát hai bàn tay vào đầu nén hương

vài cái rồi buông ra. Đầu nén hương cháy sáng lên, mọi người tưởng lão

thắp hơng bằng cách đó, ai nấy cả kinh ghê cho nội lực của lão đã đến

mức không ai có thể tưởng tượng được.

Thiên Nhân phương trượng cùng Bảo Định Đế thoảng ngửi thấy mùi lưu

hoàng đoán biết là đầu sáu nén hương đều có hoả dược và không phải Cưu

Ma Trí dùng nội lực để thắp nén hương mà dùng nội lực xát hoả dược cho

đều nén hương bật cháy lên. Tuy nhiên làm được thế cũng gớm lắm rồi. Phe

Bảo Định Đế không ai làm nổi.

Sáu nén hương cháy rồi sáu luồng hơi bốc thẳng lên như sáu sợi dây trắng.Ma Trí vòng tay như kiểu ôm quả cầu tròn, vận động nội lực cho sáu

ngọn khói hương quanh lại chỗ chư tăng. Sáu luồng khói hương lướt tới

trước mặt sáu vị: Khô Vinh, Thiên Quan, Thiên Tướng, Thiên Nhân, Bảo

Định Đế và Thiên Tham mỗi vị một luồng riêng biệt. Sáu chưởng lúc này

gọi là Hoả diệm đao tuy bay lơ lửng trên không chẳng ai nắm được nhưng

vô hình trung nó có thể giết người một cách ghê gớm. Lúc này Cưu Ma Trí

còn lưu tâm dè dặt vào việc mưuợn bảo kinh nên không có ý giết người. Lão

dở trò này một là để diễu võ dương oai ra điều ta đây chỉ có uy hiếp người

chứ không sợ ai, hai là để tỏ ra lão lấy đạo từ bi làm trọng, chỉ cần so sánh

võ nghệ mà thôi.

HỒI 26

Ngàn năm một thuở

Sáu đường bạch tuyến đó lại tới trước mặt bọn Thiên Nhân cách chừng ba

thước tức khắc ngừng lại không chuyển động nữa. Mọi người thấy thế đều

kinh dị. Vì dùng nội công để thúc đẩy luồng khói trắng đi là việc bình

thường nhưng làm thế nào cho luồng hơi lờ lững, vô định ngưng đọng, đứng

nguyên một chỗ trên không là một việc rất khó. Thiên Tham đưa thẳng

ngón tay út bên trái lên, tức thời một đường kiếm khí từ trong huyệt "thiếu

xung" bắn ra, nhằm đâm vào luồng khói trắng ở trước mặt. Luồng khói

trắng lập tức bị đẩy hất ngược trở lại với tốc độ rất mau nhằm vào người

Cưu Ma Trí. Luồng khói còn cách lão chừng hai xích, lão phải tăng gia nội

lực vào thế hoả diệm đao để chặn đứng.

Cưu Ma Trí gật đầu lẩm bẩm:

- Người ta bảo môn Lục mạch thần kiếm có thế "thiếu xung kiếm" quả

nhiên không sai.

Hai bên dùng nội lực dằng co vài hiệp nữa, Thiên Tham đại sư nhận thấy

nếu mình cứ ngồi lỳ một chỗ thì khó lòng phát huy được uy lực trong kiếm

pháp, liền đứng dậy tiến lên ba bước, đi chênh chếch về phía bên trái.

Luồng nội lực đó tức khắc từ phía bên trái tấn công chéo sang mé bên phải.

Cưu Ma Trí liền đa tay trái ra dùng chưởng lực để chặn đón. Thiên Quan

chĩa thẳng ngón tay giữa lên để phóng "trung xung kiếm" đâm thẳng về phía

trước.

Cưu Ma Trí la lên:

- Phải lắm! Quả có "trung xung kiếm pháp" thật.

Mình lão đánh với hai người mà chưa hề nao núng.

Đoàn Dự ngồi trước mặt Khô Vinh đại sư, ghé cổ nghiêng đầu, chăm chú

theo dõi cuộc đấu kiếm lớn lao, nghìn năm chưa có một lần trong võ lâm.

Tuy chàng chưa hiểu võ nghệ, song chàng cũng hiểu rõ cuộc đấu kiếm bằng

nội lực của mấy vị cao tăng đây đem so sánh với những cuộc đấu bằng

gươm đao thực sự cầm trong tay còn nguy hiểm và khốc liệt hơn nhiều.

May nhờ có sáu nén hương của Cưu Ma Trí thắp lên, Đoàn Dự mới căn cứ

vào những luồng khói trắng phất phơ bay đi bay lại để nhận định những

đường kiếm thế đao của ba người. Sau khi xem được tới mười mấy hiệp

Đoàn Dự chợt nghĩ ra lẩm bẩm:

- à đúng rồi! Trung xung kiếm pháp của Thiên Quan đại sư giống hệt nét vẽ

trong đồ hình.

Đoàn Dự khẽ mở đồ hình về "trung xung kiếm" xem lại và đối chiếu những

luồng khói trắng đi quanh quẩn với những đường kiếm trong đồ phổ lập tức

nhận ra ngay, không còn điểm nào nan giải cả. Đoàn Dự say sưa theo dõi

cảm thấy hứng thú vô cùng. Khi xem đến Thiếu Trạch kiếm pháp của Thiên

Tham cũng vậy, chẳng qua mỗi kiếm pháp có một đặc sắc riêng. Trung

xung kiếm thì phép phóng ra thu về phải rộng lớn, khí thế rất là hùng mạnh.

Thiếu trạch kiếm thì đường qua lại vun vút, biến hoá thật tinh vi. Thiên

Nhân phương trượng thấy cả hai sư huynh và sư đệ liên hiệp động thủ mà

vẫn chưa chiếm được mảy may ưu thế, trong bụng thầm nghĩ: "về kiếm pháp

bọn ta luyện cha được thuần thục, đường kiếm không đánh được lâu. Cần

phải dùng chiến thuật đánh mau và đánh mạnh. Vậy sáu người phải sớm

đồng thời xuất thủ là hơn. Đại Luân Minh Vương là tay thông minh tuyệt

đỉnh, lão vẫn để ý xem kiếm pháp của Thiên Quan và Thiên Tham chứ chưa

đưa toàn lực ra công thủ. Thiên Nhân nghĩ vậy liền hô:

- Hai sự đệ Thiên Tướng và Thiên Trần! Chúng ta nhất tề động thủ.

Vừa dứt tiếng Thiên Nhân đã phóng ngón tay trỏ để phát huy "thương

dương kiếm", theo liền với "thiếu xung kiếm" của Thiên Tướng và "quan

xung kiếm" của Bảo Định Đế. Ba đường kiếm khí đồng thời nhằm đánh vào

ba đường khói trắng.

Đoàn Dự bắt đầu nhìn "thiếu xung kiếm" rồi đến "quan xung kiếm",

"thương dương kiếm" cùng một lúc. Chàng nhận thấy cả mấy thế kiếm đem

đối chiếu với quyển đồ hình tuy cũng hiểu được nhưng thấy rối loạn, không

ra mạch lạc nào nên không nhớ được. Đoàn Dự đang chú ý nhìn nhận về

"thiếu xung kiếm" trên đồ hình chợt thấy một ngón tay gầy đét thò ra viết

lên trên quyển đồ hoạ: "học riêng biệt từng thế kiếm một", thuộc rồi sẽ học

sang thế khác!". Chàng hiểu ngay là Khô Vinh đại sư chỉ điểm cho mình

biết cách học liền quay đầu lại, mỉm cười tỏ ý tạ ơn. Không ngờ Đoàn Dự

vừa nhìn lên, chàng bỗng cả kinh thất sắc vì khuôn mặt Khô Vinh đặc biệt

kỳ dị: nửa mặt bên trái hồng hào tươi nhuận, da thịt đầy đặn mũi mĩm như

đứa trẻ nít, còn nửa mặt bên phải thì ngược lại: chỉ có làn da vàng héo bọc

ngoài xương, những đầu xương gồ lên, trông như nửa cái đầu lâu người

chết. Đoàn Dự sợ quá trông ngực đánh hơn trống làng, không dám nhìn lâu

và cũng không dám nghĩ tới, mặc dầu chàng biết rõ đó là kết quả của công

phu luyện "khô thuyền" mà nhà sư đã đạt được. Cái khuôn mặt nửa tươi, nửa

héo trông rất khó coi và đáng sợ, khiến ai đã nhìn thấy cũng không thể bình

tĩnh được. Khô Vinh đại sư lại đưa ngón tay viết thêm: "Dịp may đừng bỏ

lỡ, chú ý xem kiếm pháp". Đoàn Dự gật đầu chú ý xem "quan xung kiếm

pháp" của bá phụ rồi lại lần lượt xem đến hai kiếm pháp "thiếu xung" và

"thương dương". Trong năm ngón tay của con người thì ngón vô danh vụng

về nhất và ngón trỏ là nhanh nhẹn hơn. Vì thế nên kiếm pháp "quan xung"

thủ thắng ở điểm vụng về chất phác mà kiếm pháp "thương dương" thủ

thắng ở điểm xảo diệu, linh hoạt, biến hoá khôn lường. Hai kiếm pháp

"thiếu xung" và "thiếu trạch" đều phóng ra bằng ngón tay út, song một bên

tay phải, một bên tay trái nên kiếm pháp cũng khác nhau ở chỗ khéo hoặc

vụng, mau hay chậm. Tuy nhiên vụng mà vẫn được việc, chậm mà không

giảm uy lực chỉ cần phân biệt ở phương pháp sử dụng: đánh bất ngờ hay

đánh thẳng thắn mà thôi. Đoàn Dự lúc đầu chỉ là do tính hiếu kỳ thúc đẩy,

nhìn đường khói trắng bay đi bay lại, đem đối chiếu với những đường vẽ

trong đồ hình, chẳng qua cũng coi như một trò chơi đánh đố, mỗi lần đường

kiếm diễn biến là một lần suy nghĩ cho ra. Nhưng từ lúc được nghe lời chỉ

điểm "dịp may đừng bỏ lỡ" của Khô Vinh, Đoàn Dự mới chuyên tâm, nhất

trí nhận xét. Đoàn Dự vừa học xong được ba thế kiếm thì Thiên Tham và

Thiên Quan lại sử dụng kiếm pháp đến lần thứ hai. Lần này Đoàn Dự không

cần xem đồ hình nữa, chỉ để mắt nhìn đương khói trắng và đem những

đường kiếm đã thuộc lòng ra đối chứng. Chàng nhận ra rằng những nét vẽ

trong đồ hình chỉ là những đường chết mà những đường khói trắng đi đi lại

lại một cách linh động, biến hoá vô cùng, có phần phong phú phiền phức

hơn nhiều. Đoàn Dự theo dõi một hồi thì Thiên Nhân, Thiên Tướng và Bảo

Định Đế lại sử dụng xong một lượt kiếm pháp nữa. Thiên Tướng bật ngón

tay út một cái, sử dụng đường kiếm lần thứ hai theo thế "phân hoa phất

liễu". Đoạn tiếp đến Thiên Nhân và Bảo Định Đế cũng sử dụng lại hai kiếm

pháp vừa đánh xong.

Cưu Ma Trí khẽ gật đầu rồi đột nhiên những tiếng "vu vu" phát ra, huy thế

hoả diệm đao mạnh lên gấp bội, đẩy lui tất cả nội lực kiếm khí của năm

người trở lại. Lúc đầu Cưu Ma Trí chỉ giữ thế thủ, cốt để xem xét đủ các thế

đánh trong Lục mạch thần kiếm rồi mới phản kích. Đang thế thủ đổi sang

thế công, năm luồng khói trắng bay lợn tung hoành, linh hoạt vô song, còn

luồng thứ sáu vẫn ngưng lại ở phía sau Khô Vinh đại sư cách chừng ba bốn

thước, đứng im tăm tắp, không chuyển động chút nào. Khô Vinh đại sư để ý

nhận xét cho thấu triệt tình hình địch thủ, xem Cưu Ma Trí duy trì tình trạng

"năm ngả công một ngả đừng" này được đến bao giờ. Quả nhiên Cưu Ma

Trí không kéo dài tình trạng đó được nữa vì muốn giữ cho luồng khói trắng

thứ sáu đứng yên một chỗ như thế hao tốn rất nhiều sức lực. Lão phải di

động cho nó tiến dần từng bước một, thẳng đến sau gáy Khô Vinh đại sư.

Đoàn Dự hốt hoảng la lên:

- Đại sư phụ ơi! Đường khói trắng của địch đã tập công tới nơi!

Khô Vinh gật đầu và mở tới chỗ "thiếu thương kiếm" trong quyển đồ hoạ

đưa cho Đoàn Dự xem.

Đoàn Dự thâm cảm mỹ ý của Khô Vinh, để hết tinh thần vào nhận xét đồ

hình, thấy kiếm pháp "thiếu thương" này giống như một bức tranh thuỷ mạc,

tuy chỉ dọc ngang xiên chếch sơ sài nhưng sức đánh mãnh liệt như phong ba

bão táp, đá lở trời long. Đoàn Dự tuy mắt xem kiếm phổ nhưng vẫn để ý tới

luồng khói trắng tiến lại sau gáy Khô Vinh. Chàng vừa quay đầu lại thấy

luồng khói trắng chỉ còn cách độ ba bốn tấc là tới nơi, hoảng hốt kêu:

- Đại sư phụ! Hãy coi chừng!

Khô Vinh đại sư đưa tay về đằng sau đồng thời búng mạnh hai ngón tay cái,

tức thời hai luồng kiếm khí vù vù phát ra nhằm đánh vào hai điểm trước

ngực bên phải và vai bên trái Cưu Ma Trí. Khô Vinh đại sư không cần

chống đỡ thế công của đối phương mà lại phóng ra hai đạo "kỳ binh" đánh

gấp vào địch thủ, vì đại sư tin chắc là Cưu Ma Trí kìm hãm nội lực "hoả

diệm đao" cho tiến một cách từ từ thì dù có đả thương được mình cũng còn

phải mất giây lát nữa, nếu mình dùng lối đánh "hậu phát, tiên đáo" thì đối

phương không kịp trở tay.

Cưu Ma Trí cũng không phải tay vừa, liệu lượng rất chu đáo, đã dự bị sẵn

một đường chưởng lực phòng hờ trước ngực để kịp thời ứng phó với miếng

đánh hiểm độc bất thần của đối phương. Tuy nhiên lão mới nghĩ tới một thế

công ác liệt của "thiếu dương kiếm" thôi chứ chưa nghĩ tới Khô Vinh lại

đồng thời xuất phát luôn hai đường kiếm khí đánh vào hai chỗ khác nhau.

Cưu Ma Trí giơ tay phát động đường chưởng lực đã phục sẵn để chống đỡ

với một đường kiếm khí của đối phương đâm vào trước ngực bên phải và

tiếp liền nhún chân bên phải vội lùi lại phía sau. Song dù lão có mau lẹ mấy

chăng nữa vẫn không lẹ bằng kiếm khí. Bỗng nghe "xoẹt" một tiếng nhe

nhẹ, vai áo thầy tu của Cưu Ma Trí đã bị rách một miếng và máu tươi ròng

ròng chảy ra. Hai ngón tay Khô Vinh quay tròn một vòng, kiếm khí rút trở

lại, sáu nén hương của Cu Ma Trí đều bị đứt tày giữa quãng.

Bọn Thiên Nhân, Bảo Định Đế đều thu kiếm khí về ngừng chiến. Trong tay

ai nấy đều đẫm mồ hôi và đến bây giờ họ mới yên lòng.

Cưu Ma Trí rảo bước tiến vào trong nhà nói:

- Thiền Công của Khô Vinh đại sư thật là siêu việt, tiểu tăng đây rất lấy làm

bội phục. Còn về Lục mạch thần kiếm nguyên chỉ có hư danh mà thôi.

Thiên Nhân phương trượng hỏi:

- Thế nào Minh Vương lại bảo là chỉ có hư danh? Bần tăng cần phải lãnh

giáo mới được.

Cưu Ma Trí đáp:

- Năm xưa Mộ Dung tiên sinh ngưỡng mộ Lục mạch thần kiếm là ngưỡng

mộ về kiếm pháp chứ không phải ngưỡng mộ về kiếm trận. Một toà kiếm

trận này của Thiên Long tự, cố nhiên là uy lực lớn lắm. Song xét cho cùng

chỉ ngang hàng với "La hán kiếm trận" của phái Thiếu Lâm, hoặc "hỗn độn

kiếm trận" của phái Côn Luân mà thôi, dường như chưa phải là một kiếm

pháp vô song.

Cưu Ma Trí nói kiếm trận chứ không phải là kiếm pháp là có ngụ ý chỉ

trách đối phơng về điểm sáu người nhất tề tham chiến, bày thành thế trận

chứ đâu phải một người sử dụng cả Lục mạch thần kiếm như một mình lão

sử dụng "hoả diệm đao".

Thiên Nhân thấy Cưu Ma Trí nói có lý chưa tìm được câu trả lời thì Thiên

Tham đã cười lạt, hỏi lại:

- Bất luận kiếm pháp hay kiếm trận gì gì đi nữa nhưng cuộc tỷ đao luận

kiếm vừa đây thì Minh Vương được hay chùa Thiên Long chúng tôi được?

Cưu Ma Trí không trả lời, nhắm mắt trầm tư một lát chừng uống cạn chén

trà rồi mở to mắt ra đáp:

-Trận đấu thứ nhất thì quý tự hơi chiếm được ưu thế nhưng trận đấu thứ hai

đây thì tiểu tăng sẽ nắm chắc phần thắng.

Thiên Nhân kinh ngạc hỏi:

- Minh Vương lại muốn liều một trận thứ hai nữa ?

Cưu Ma Trí đáp:

- Đại trượng phu đã nói thì phải giữ lời, tôi đã hứa với Mộ Dung tiên sinh

đâu có thể ngại khó mà rút lui được?

Thiên Nhân hỏi tiếp:

- Nhưng sao Minh Vương biết đã nắm chắc phần thắng?

Cưu Ma Trí hơi nhếch mép cười đáp:

- Các vị đều là những bậc đại sư võ học uyên thâm, chẳng lẽ lại không suy

đoán ra hay sao? Xin hãy tiếp chiến đã!

Nói dứt lời hai bàn tay lão từ từ đẩy ra phía ngoài. Bên Khô Vinh, Thiên

Nhân, Bảo Định Đế sáu người đều cảm thấy hai luồng kình lực phân tách ra

và tập trung vào nhiều chỗ khác nhau. Bọn Thiên Nhân đều nhận thấy

không thể dùng kiếm pháp "Lục mạch thần kiếm" mà chống đỡ kịp nên ai

cũng đánh luôn hai chưởng một lúc để chống với hai luồng chưởng lực của

đối phương. Riêng Khô Vinh đại sư vẫn dùng hai ngón tay cái búng mạnh

ra, dùng thiếu dương kiếm để tiếp chiến với nội lực của địch thủ.

Cưu Ma Trí sau khi đẩy hai luồng chưởng lực ra lại thu về ngay nói:

- Xin lỗi!

Thiên Nhân, Bảo Định Đế và đồng bọn đưa mắt nhìn nhau và cũng hiểu

ngầm rằng chưởng lực của đối phương có thể chia tách ra làm mấy đường

cùng một lúc. Thiếu dương song kiếm của Khô Vinh sư thúc nếu có chia ra

hai đường đánh ập lại, lão vẫn đủ sức chống đỡ. Chúng ta cần phải bỏ kiếm

dùng chưởng, vì Lục mạch thần kiếm hiển nhiên thấy không kịp "hoả diệm

đao" của lão rồi. Giữa lúc mọi người đương suy tính, chợt thấy trước mặt

Khô Vinh đại sư khói bốc lên ngùn ngụt, một luồng khói đen tách ra làm

bốn nhằm bay về phía Cưu Ma Trí tập công.

Từ lúc vào đến giờ Cưu Ma Trí vẫn thấy lão hoà thượng ngồi quay mặt vào

vách, không lúc nào ngoảnh mặt ra, trong bụng lão lúc nào cũng nơm nớp e

ngại. Bây giờ thốt nhiên thấy những luồng khói đen tấn công, không hiểu

đối phương dụng ý ra sao. Lão vẫn dùng hoả diệm đao chia ra làm bốn

đường chống đỡ. Cưu Ma Trí hiện giờ chỉ giữ thế thủ, chứ chưa thể khởi

công, một mặt phòng bị bọn Thiên Nhân đánh ập tới, một mặt cần bình tĩnh

để coi tình hình biến chuyển, xem Khô Vinh còn có đòn gì ác hại hơn đánh

tiếp chăng? thấy luồng khói đen mỗi lúc một dày đặc, thế công rất là lợi hại

Cưu Ma Trí rất đỗi ngạc nhiên, tự hỏi: người ta đã có câu: "Ma không qua

ngọ, gió không qua mùi". Không hiểu đối phương sao lại dùng toàn lực ra

đánh thì phỏng được mấy hơi? Khô Vinh là một vị cao tăng như thế lẽ nào

không nghĩ đến? Y dùng thủ đoạn hấp tấp cứng rắn như thế để ứng địch tất

phải có quỷ kế gì đây. Vì nghĩ thế nên Cưu Ma Trí chỉ giữ môn hộ vững

vàng để tâm linh sáng suốt nhận định tình thế và tuỳ cơ ứng biến.

Chừng uống cạn tuần trà, thì bốn luồng khói đen đó đột nhiên mỗi luồng

chia ra làm hai, hai lại chia ra bốn, cộng lại tất cả thành mười sáu luồng vây

bọc bốn bên tám mặt, tiến ập vào đánh Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí vẫn bình

tĩnh cho là cung mạnh đã đến cuối tầm, không còn gì đáng kể nữa. Lão liền

sử dụng hoả diệm đao và cũng chia ra thành nhiều đạo để ngăn chặn các lực

đạo của đối phương. Hai lực đạo vừa chạm nhau thì 16 tia khói đen của Khô

Vinh thốt nhiên tản ra bốn phía, chỉ trong tích tắc hơi khói toả ra mờ mịt

khắp trong nhà. Cu Ma Trí vẫn điềm nhiên không hề nao núng, phát động

chân lực tới mức độ cực mạnh, phòng giữ khắp toàn thân. Được một lát lớp

khói lạt dần. Trong lớp khói lạt lờ mờ thấy bọn Thiên Nhân cả thảy năm

hoà thượng đều quỳ dưới đất coi vẻ rất trang nghiêm. Đặc biệt là Thiên

Quan và Thiên Tham, hai mắt đầy vẻ bi phẫn. Cưu Ma Trí không khỏi ngạc

nhiên trước tình thế ly kỳ, song chỉ thoáng một cái là lão hiểu ngay và nói

thầm một mình: "Hỏng rồi! Khô Vinh biết rõ không chống cự nổi nên đem

quyển đồ hoạ Lục mạch thần kiếm đốt đi". Khô Vinh đại sư không muốn để

Lục mạch thần kiếm lọt vào tay Cưu Ma Trí nên một mặt dùng nội lực Nhất

Dương Chỉ đốt cháy hết cho thật mau mọi trang trong quyển đồ hoạ, một

mặt thúc đẩy những luồng khói đen đến tập kích cho lão phải ra sức chống

đỡ. Tới khi khói lạt thì sách đã cháy hết rồi. Bọn Thiên Nhân đều là những

bậc cao thủ nghiên cứu về Nhất Dương Chỉ nên vừa nhìn thấy luồng khói

đen đã hiểu rõ nguyên do nghĩ bụng: "đây là sư thúc đã quyết tâm cam bề

ngọc nát còn hơn yên phận ngói lành nên đã đem bảo vật trấn tự huỷ đi chứ

nhất định không chịu để lọt vào tay kẻ địch".

Thế là từ đây đã gây nên mối thâm cừu giữa Thiên Long tự cùng Đại Luân

Minh Vương, khó mà gỡ ra được nữa.

Cưu Ma Trí vừa kinh ngạc vừa phẫn nộ, lão vốn tự phụ là người có mưu trí

mà hôm nay hai lần liên tiếp bị bại dưới tay Khô Vinh đại sư. Quyển đồ

hình Lục mạch thần kiếm đã bị thiêu huỷ hoàn toàn. Thế là chuyến đi này

chẳng những không thu hoạch được chút gì còn kết thêm mối thâm cừu.

Cưu Ma Trí đứng dậy, chắp tay nói:

- Khô Vinh đại sư hà tất phải nóng tính như thế? Thà rằng gẫy nát không

chịu cong queo kể cũng cao thượng đấy. Vì tiểu tăng mà đại sư huỷ mất bảo

kinh của quý tự, trong lòng tiểu tăng có điều áy náy. Nhưng xét cho cùng

quyển kinh này không phải sức một người nào luyện được, thế thì huỷ đi

hay không cũng thế mà thôi. Tiểu tăng xin cáo biệt.

Cưu Ma Trí xoay người đi một chút, không đợi Thiên Nhân và Khô Vinh trả

lời, bất thình lình đưa tay ra nắm chặt mạch đạo ở cổ tay phải Bảo Định Đế

rồi nói tiếp:

- Quốc vương tôi lâu nay vẫn ngưỡng mộ phong độ hoàng đế, ao ước được

gặp một lần, xin mời bệ hạ khuất giá tới Thổ Phồn để quốc vương tôi được

dịp thừa tiếp.

Sự biến diễn bất ngờ, mọi người đều giật mình. Cưu Ma Trí hành động một

cách quá đột ngột. Bảo Định Đế dù là bậc võ công cao cường nhưng không

kịp phòng bị, hơn nữa thủ pháp bắt người của Cưu Ma Trí rất là kỳ dị. Bảo

Định Đế vừa bị nắm chặt cổ tay, vội vàng vận động nội lực, thúc đẩy chân

khí ra huyệt đạo, liên tiếp chuyển đẩy tới bảy tám lần mà vẫn không sao gỡ

tay ra được. Những bậc cao thủ tỷ thí với nhau, chỉ lỡ một nước là người

ngoài khó bề cứu gỡ. Bảo Định Đế đã bị địch thủ chế ngự được yếu huyệt

rồi tức là tính mạng ở trong tay đối phương, bất cứ giờ phút nào lão bắt chết

cũng phải chết. Bọn Thiên Nhân đều biết Cưu Ma Trí hành động như vậy là

quá đê hèn, mất hết danh sự một bậc cao thủ tuyệt đỉnh song chỉ căm

phẫn ngấm ngầm chứ không có cách gì cứu gỡ được.

Khô Vinh đại sư cười nói:

- Đoàn Chính Minh trước đây là Bảo Định Đế, hiện giờ đã thoái vị đi tu

pháp danh Thiên Trần. Quốc vương Thổ Phồn đã có ý thỉnh mời Thiên Trần

cứ đi cũng được.

Bảo Định Đế không sao được nên cũng gượng đáp:

- Xin vâng.

Bảo Định Đế biết rõ dụng ý của Khô Vinh thiền sư. Cưu Ma Trí thấy mình

là một vị quốc vương mà lão bắt được mới coi là một hoá phẩm trân kỳ.

Đằng này mình đã thoái vị đi tu, bất quá là một hoà thượng ở chùa Thiên

Long, lão bắt được cũng chẳng có gì kỳ lạ. Chưa biết chừng vì thế mà lão

thả ra cũng nên.

Sử dụng Lục mạch thần kiếm dù chỉ là một thế trong lục kiếm cũng phải là

tay cao thủ bậc nhất, tinh thần cả võ lực lẫn nội công mới mong đạt được

kết quả. Những tay cao thủ hạng này đều biết nhau cả. Nhất là những bậc

danh gia họ Đoàn, cả tăng lẫn tục ở nước Đại Lý hay chùa Thiên Long đối

với Cưu Ma Trí thì chẳng những về diện mạo và niên kỷ lão đã dò hỏi tận

tường mà cả về tính khí cùng bản lãnh từng người lão cũng biết rõ đến chín

phần mười. Cưu Ma Trí còn thông tỏ ngõ ngách trong chùa Thiên Long,

ngoài Khô Vinh đại sư ra các vị cao thủ cùng hàng pháp danh đệm chữ

Thiên chỉ có bốn người. Bây giờ thốt nhiên xuất hiện thêm một vị Thiên

Trần nữa mà nội lực võ công cũng tương đương với bốn vị hoà thượng kia,

dung mạo oai nghiêm, khí sắc đầy vẻ phú quý vinh hoa thì làm gì mà lão

chẳng nhận ra ngay là Bảo Định Đế. Vừa nghe Khô Vinh đại sư nói Bảo

Định Đế đã thoái vị đi tu Cưu Ma Trí sực nhớ ra lâu nay vẫn nghe các bậc

đế vương họ Đoàn nước Đại Lý khi cao tuổi rồi thường thoái vị, xuất gia thì

đối với việc Bảo Định Đế thốt nhiên vào tu tại chùa Thiên Long cũng chẳng

lấy gì làm lạ. Chỉ có rằng một vị Hoàng đế xuất gia đi tu tất có toàn quốc cử

hành diễn lễ rất trọng thể: thết sư, lễ Phật, tu lý chùa chiền cho nổi đình

đám mấy hôm. Có lý nào nhà Vua lại xuất gia một cách không trống không

kèn? Cu Ma Trí nghĩ vậy liền đáp:

- Bảo Định Đế xuất gia hay không xuất gia cũng được, dù sao cũng xin mời

người sang chơi Thổ Phồn một chuyến để triều kiến quốc vương bên bần

tăng.

Lão vừa nói vừa dắt Bảo Định Đế ra ngoài. Thiên Nhân liền lên tiếng:

- Hãy khoan!

Đoạn cùng với Thiên Quan nhảy ra, đứng chắn trước cửa.

Cưu Ma Trí nói:

- Tiểu tăng quyết không có ý gia hại Bảo Định hoàng thượng nhưng nếu các

vị bức bách tiểu tăng quá thì tiểu tăng cũng không thể bảo toàn được đâu.

Lão vừa nói vừa vờ đưa tay trái đánh dứ vào hậu tâm Bảo Định Đế. Bọn

Thiên Nhân trong lúc giao thủ với Cưu Ma Trí vừa rồi đã hiểu rõ chưởng lực

"hoả diệm đao" của lão lợi hại thế nào rồi. Bảo Định Đế hiện bị lão nắm

chặt mạch đạo rồi thì lão muốn giết hay làm gì thì làm nhà Vua không còn

sức phản kháng được nữa. Nếu mọi người hợp lực tấn công phần thì e ném

chuột tất vỡ đồ phần e chưa chắc nắm được phần thắng.

Cưu Ma Trí nói tiếp:

- Tiểu tăng mất công đi lại vất vả, rất hổ thẹn cùng người bạn đã khuất, may

mà mời được Bảo Định hoàng đế cùng về mới khỏi mang tiếng là một

chuyến đi không về rồi. Xin tránh đường cho tôi đi chứ!

Bọn Thiên Nhân do dự đứng đờ người suy nghĩ: Bảo Định Đế là một vị

quốc vương nước Đại Lý, không lẽ để cho địch nhân bắt đem đi? nhưng

chưa biết đối phó bằng cách nào đánh tháo cho được.

Cưu Ma Trí lại nói lớn:

- Tôi vốn nghe đại danh các vị cao tăng chùa Thiên Long, không ngờ đối

với một việc nhỏ mọn thế này mà cũng bịn rịn, bắt chước thói đàn bà con

nít.

Đoàn Dự thấy bá phụ bị bắt rất buồn bực. Lúc mới đầu chàng vẫn tưởng võ

công của bá phụ cao cường tới bực nào, có sợ gì Cưu Ma Trí? Chẳng qua

người phải tạm thời nhẫn nại, chờ cơ hội đến là người có thể tự thoát thân

được ngay. Không ngờ mỗi lúc một thấy nguy nan. Giọng nói và nét mặt

Cưu Ma Trí đầy vẻ kiêu ngạo, thần sắc Thiên Nhân, Thiên Quan và mọi

người đều lộ vẻ buồn phiền phẫn nộ mà không làm sao được. Tới lúc Cưu

Ma Trí cầm tay Bảo Định Đế lôi đi, chạy ra ngoài cửa, Đoàn Dự hoảng hốt

không kịp nghĩ ngợi gì nữa, chàng la ầm lên:

- ối! Mi buông bá phụ ta ra!

Đoàn Dự vừa la vừa đứng phắt dậy chạy theo. Cưu Ma Trí ngay lúc mới vào

đã thấy một người ngồi trước mặt Khô Vinh đại sư nhưng vẫn chưa suy

đoán người đó là ai và cũng không hiểu Khô Vinh bảo gã ngồi đó có dụng ý

gì. Bây giờ thấy Đoàn Dự đứng dậy đuổi theo, liền động tính hiếu kỳ quay

lại hỏi:

- Tôn giá là ai?

Đoàn Dự đáp:

- Mi đừng hỏi ta là ai vội! Hãy buông bá phụ ta ra trước đã rồi sẽ nói

chuyện sau!

Nói xong Đoàn Dự đưa tay ra nắm lấy cổ tay Bảo Định Đế. Bảo Định Đế lật

bàn tay lại, nắm lấy tay Đoàn Dự nói:

- Dự nhi! Cháu không phải bận lòng vì ta nữa! mau mau về giục phụ thân

cháu lên ngôi Đại Bảo, nắm lấy việc triều chính. Còn ta bây giờ đã thành

một vị lão tăng mây ngàn hạc nội, không đáng quan tâm nữa.

Bàn tay Bảo Định Đế vừa chạm vào tay Đoàn Dự người bỗng giật thót lên

một cái và cảm thấy hấp lực của Chu cáp thần công hút mạnh. Cưu Ma Trí

cũng đồng thời cảm thấy chân lực trong mình cứ cuồn cuộn tiết ra ngoài.

Song công lực của lão rèn luyện còn cao cường hơn Bảo Định Đế nhiều.

Lão ngờ là Bảo Định Đế vận dụng công phu kỳ lạ để hút lấy nội lực của

mình, lão liền ngưng tụ nội lực, định tranh đoạt cùng chân khí của Bảo Định

Đế. Bảo Định Đế sở dĩ bị Cưu Ma Trí chế ngự được là do trong lúc bất ngờ

không đề phòng, bị đối phương đột nhiên dùng kỹ thuật tiểu nhân nắm được

mà thôi, còn về nội lực võ công trong bản thân chưa bị hao tổn mảy may.

Bỗng nhiên nhà Vua cảm thấy hai tay đồng thời có một mãnh lực giằng co

liền dùng ngay phương pháp tá lực đả lực dẫn hai luồng nội lực cho gặp

nhau ở một chỗ để hai bên kháng cự lẫn nhau. Bảo Định Đế lợi dụng lúc đó

chỉ khẽ vẫy tay một cái đã thoát khỏi sự trói buộc của Cưu Ma Trí một cách

dễ dàng, đem Đoàn Dự cùng nhảy lùi lại và thầm tự nhủ: "Kể cũng đáng hổ

thẹn, hôm nay mình phải nhờ đến Dự nhi cứu cho mới thoát được".

Cưu Ma Trí kinh hoảng vô cùng nghĩ thầm: "trong võ lâm lại mới xuất hiện

một vị cao thủ thế mà sao mình không hay biết gì hết? Người này tuổi còn

nhỏ, mới độ hai mươi trở lại mà sao bản lĩnh cao cường đến thế?".

Thấy Đoàn Dự gọi Bảo Định Đế bằng bá phụ Cưu Ma Trí trong lòng nghi

hoặc tự hỏi: "Quái lạ! Sao ta chưa hề nghe nói tới trong đám con em họ

Đoàn nước Đại Lý có một nhân vật đặc sắc như thế bao giờ?". Cưu Ma Trí

dở thủ đoạn thầm lén, nắm giữ được mạch đạo Bảo Định Đế một cách dễ

dàng, tưởng thành công đến nơi mà lại sẩy. Lão không ngờ một gã thanh

niên xen ngang vào phá đám, khiến lão căm giận, không thể nào nhịn được.

Vẫn ra vẻ bình tĩnh, lão gật đầu lên giọng nói mát:

- Tiểu tăng vẫn tưởng họ Đoàn nước Đại Lý xa nay chỉ chuyên về võ học

tổ truyền, không theo những môn tạp nham không ngờ các bậc hiền tài hậu

bối lại đi kết giao cả với Tinh tú Hải lão nhân để khảo luyện các kỳ môn võ

học như môn "hoá công đại pháp" chẳng hạn. Thế thì lạ thật, quả là lạ thật!

Cưu Ma Trí tuy là người uyên bác hiểu rộng vẫn lầm tưởng "chu cáp thần

công" của Đoàn Dự là môn "hoá công đại pháp". Có điều lão còn biết tự

trọng, không buông lời nói phũ phàng đả kích ai. Vì thế nên "Tinh Tú Hải

lão ma" lão gọi đổi ra "Tinh Tú Hải lão nhân". Nhân vĩ võ lâm đều gọi "hoá

công đại pháp" là yêu công hay tà thuật lão lại gọi tránh đi là kỳ môn võ

học. Lão không dùng chữ đệ tử lão ma mà chỉ dùng chữ kết giao đủ biết lão

là người rất tế nhị. Tuy lão cũng ngộ nhận như Thạch Thanh Tử song biết

lựa lời thanh lịch, không như Thạch Thanh Tử hỏi một cách sống sượng,

bốp chát.

Bảo Định Đế cũng cười lạt nói móc:

- Lâu nay bần tăng vẫn ngưỡng mộ Đại Luân Minh Vương là bậc đại trí tuệ,

kiến thức sâu xa, thế mà sao cũng ăn nói hồ đồ đến thế? Tinh Tú lão ma

làm nhiều điều phi nghĩa, con cháu họ Đoàn khi nào lại có liên lạc với hắn?

Cu Ma Trí đã hơi chột dạ, Đoàn Dự lại nói tiếp:

- Mi là khách ở xa tới, chùa Thiên Long ta tiếp đãi trọng thể, thế mà mi cả

gan dám xúc phạm đến bá phụ ta. Chẳng qua chúng ta thấy mi cũng là đệ tử

nhà Phật nên mọi việc đều nhân nhượng, thì trái lại mi lại càng ngang ngược

thêm. Những người đã xuất gia có ai lại như mi? Chẳng biết giữ thanh quy

một chút nào hết.

Mọi người thấy Đoàn Dự lấy đại nghĩa trách mắng Cu Ma Trí cũng hả dạ,

đồng thời để hết tinh thần giới bị, sợ Cưu Ma Trí cáu tiết lên lại gia hại

Đoàn Dự một cách đột nhiên. Song lão sắc mặt vẫn điềm nhiên và nhã nhặn

nói:

- Hôm nay được biết thêm một bậc cao hiền, còn hân hạnh nào bằng? xin

đừng tiếc công chỉ giáo cho mấy hiệp, khiến tiểu tăng được thêm phần tiến

ích.

Đoàn Dự thản nhiên đáp:

- Ta không hiểu võ công và cũng chưa học võ bao giờ.

Cưu Ma Trí cười khành khạch đáp:

- Thật là cao minh! Cao minh! Thôi tiểu tăng xin cáo biệt vậy!

Lão vừa nghiêng người đi một chút đã phất tay áo đồng thời vươn bàn tay

ra, lập tức bốn đường "hoả diệm đao" phát xuất nhằm đánh vào Đoàn Dự.

Đoàn Dự hoàn toàn không hiểu cách chống đỡ môn võ công thượng thặng

này, chợt thấy những đòn ác liệt tập công tới chàng vẫn ù ù cạc cạc đứng ỳ

ra. Bảo Định Đế và Thiên Tham đồng thời đánh luôn hai ngón tay ra để

ngăn chặn bốn đường "hoả diệm đao". Bỗng thấy Cưu Ma Trí thân hình

rung động không ngừng, chính là lúc lão tăng cường nội kình đến cực độ để

xung kích. Thiên Tướng "oẹ" một tiếng, hộc máu tươi ra. Bấy giờ Đoàn Dự

mới biết Cưu Ma Trí lại dùng cách đánh lén lút, liền nổi cơn thịnh nộ, chỉ

vào mặt Cưu Ma Trí mắng:

- Gã phiên tăng kia! Mi thật là dã man vô lý.

Đoàn Dự vừa mắng vừa đưa ngón tay trỏ dùng sức phóng mạnh ra, tâm khí

giao thông, tự nhiên sử dụng thành thế "phương dương kiếm" với một nội

lực hùng hậu vô song.

Đoàn Dự lúc trước ngồi trước mặt Khô Vinh đại sư để xem đồ hình và các

vận dụng Lục mạch thần kiếm. Sau khi nhận xét và ghi nhớ tỏ tường bây giờ

đem sử dụng thí nghiệm một ngón đầu tiên không ngờ lại ám hợp đúng như

trong kiếm phổ. Sức nội kình phóng ra mãnh liệt, nghe kêu "vo vo" nhằm

đâm thẳng vào Cưu Ma Trí, đấy chính là đòn "kim châm độ kiếp".

Cưu Ma Trí không thể tưởng tượng được nội lực của Đoàn Dự lại ghê gớm

đến thế. Đòn "kim châm độ kiếp" này lúc phóng ra tuyệt ở chỗ vụng mà

khéo, trơn mà rít hợp với yếu quyết của kiếm pháp thượng thừa. Cưu Ma Trí

hốt hoảng, vội vàng dùng chưởng lực đẩy mạnh "hoả diệm đao" để chống

đỡ.

Đoàn Dự ra tay chẳng những làm cho Cưu Ma Trí phải kinh dị mà ngay đến

Khô Vinh cùng bọn Thiên Nhân cũng cho là một sự không bao giờ nghĩ tới.

Nhất là Bảo Định Đế và chính Đoàn Dự lại càng lấy làm quái lạ. Đoàn Dự

tự nghĩ: "sao mình ngẫu nhiên đánh ra một chỉ mà Cưu Ma Trí lại phải để

hết tâm thần ra chống đỡ như thế? Rồi chàng lại tự trả lời: phải rồi, phải rồi,

chắc là mình xuất chỉ đúng cách thức nên lão cho là mình biết sử dụng Lục

mạch thần kiếm. Ha ha! đã thế ta phải cho lão hoảng vía một phen". Chàng

liền quát lớn:

- Thế "thương dương kiếm" có chi đáng kể? Để ta sử dụng mấy đường

"trung xung kiếm" cho mi coi!

Nói xong chàng đưa ngón tay giữa ra điểm. Song chỉ pháp tuy đúng nhưng

kình lực không vận dụng tiếp theo được, thành ra chỉ là đường đánh hư

không, mà chẳng có mảy may hiệu lực.

Cưu Ma Trí lúc mới thấy Đoàn Dự điểm ngón tay giữa đã sắp sẵn các thế để

tiếp chiến, không ngờ đối phơng đánh không thấy một chút kình lực nhưng

lão vẫn còn nghi hoặc cho là đối phương dùng lối hư hư thực thực mà sẽ có

đường đánh lợi hại tiếp theo. Dợi tới khi Đoàn Dự sử dụng đường thứ hai

vẫn rỗng tuếch như trước, lúc đó Cưu Ma Trí mới mừng thầm nghĩ bụng: "ta

vẫn nói ở trên đời này làm gì có người sử dụng được "thương dương kiếm"

mà kiêm được cả "trung xung kiếm" nữa? quả nhiên thằng lỏi này hư trương

thanh thế để chộ người. Đã thế thì ta cho nó một phen bở vía chơi".

Cưu Ma Trí là người rất tự phụ, mà đã tự phụ tất sinh lòng đố kỵ. Chuyến

này lão đến chùa Thiên Long bị thất thế luôn mấy lần. Lão nghĩ nếu không

làm cho tỏ mặt một phen thì oai danh Đại Luân Minh Vương bị tổn thương

nhiều lắm. Tức thì lão đưa tay trái đánh liên tiếp hai chưởng, hướng cả về

hai bên tả hữu, dùng kình lực để phong toả đường cứu viện của Bảo Định

Đế và mọi người. Tiếp theo lão dùng thế "bạch hồng quán nhật" trong đao

pháp "hoả diệm đao" chém thẳng vào vai bên phải Đoàn Dự. Lão dùng

đường đao tinh diệu này cốt chém cho Đoàn Dự cụt cánh tay phải.

Bảo Định Đế, Thiên Nhân và Thiên Tham đồng thanh la lên:

- Phải cận thận đấy!

Rồi mọi người đều đa ngón tay ra điểm về phía Cưu Ma Trí. Ba người xuất

chiến đều là những đòn trong võ công thượng thừa, bắt buộc đối phương

phải thu chiêu về để tự cứu. Nào ngờ Cưu Ma Trí đã vận dụng nội kình để

phòng giữ tất cả các chỗ yết huyệt trong toàn thân rồi nên lão không cần thu

đao về, cứ nhằm thẳng Đoàn Dự bổ xuống. Đoàn Dự nghe tiếng bá phụ biết

ngay là nguy đến nơi rồi, chàng vội đưa hai tay đồng thời đánh luôn hai chỉ.

Trong lúc kinh hoảng, chân khí tự nhiên xuất phát, "thiếu trạch kiếm" bên

tay phải, "thiếu xung kiếm" bên tay trái, hai kiếm đồng thời xông ra đón

"hoả diệm đao". Dư thế vẫn còn phát ra những tiếng "vo vo", phản kích lại

Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí hốt hoảng không kịp suy nghĩ gì hết, vội dừng tay

trái phát động kình lực để chặn đòn. Đoàn Dự sau khi phóng mấy thế kiếm,

trong lòng đã hơi hiểu rõ cách sử dụng kiếm khí. Trước hết phải có một ý

niệm, rồi mới vận chân khí ra ngón tay, có thế chân khí mới xuất phát ra

được. Song chàng vẫn không hiểu tại sao phải làm như vậy. Đoàn Dự khẽ

búng ngón tay giữa, lại sử dụng "trung xung kiếm pháp". Chỉ trong chớp

mắt, sáu đường kiếm ở trong quyển đồ hình mà chàng vừa được xem qua

trong lúc ngồi trước mặt Khô Vinh đại sưu lần lượt hiển hiện ra trước mặt

chàng một cách rất rõ ràng. Mười đầu ngón tay cứ liên tiếp bật ra, qua

đường này tiếp đến đường khác, tự nhiên thấy kiếm pháp nhập diệu, tựa hồ

một nghệ sỹ tài cao tay vẫn gẩy đàn mà mắt vẫn nhìn chim nhạn bay qua.

Cưu Ma Trí lại càng kinh hoảng, luôn luôn tiếp vận nội lực để chống đỡ với

Lục mạch thần kiếm. Trong căn nhà lúc này chỉ thấy kiếm khí dọc ngang,

gươm đao bay lợn, xung kích chen lấn nhau tựa hồ sấm vang gió rít. Giao

đấu được một lúc, Cưu Ma Trí nhận thấy đối phương kình lực mỗi lúc một

mạnh, kiếm pháp cũng biến hoá khôn lường, tuy từng lúc từng chỗ nó tự

sáng tác ra những điểm mới lạ khiến cho người không biết đâu mà mò. Cưu

Ma Trí mỗi lúc một thêm kinh hoảng và hối hận, lão nghĩ thầm: "không ngờ

trong chùa Thiên Long lại có bậc cao thủ còn nhỏ tuổi như thế. Hôm nay

Cưu Ma Trí này chính là tự mình đi chuốc lấy cái nhục vào thân". Đột nhiên

nghe "vu vu vu". Cưu Ma Trí đánh liền ba đao và nói:

- Hãy ngừng tay!

Đoàn Dự tuy học được Lục mạch thần kiếm song chưa thể phát động chân

khí hay thu về theo ý mình được. Vừa nghe đối phương kêu ngừng tay,

chàng luýnh quýnh không biết cách thu nội lực về, đành đưa ngón tay chỉ

thẳng lên nóc nhà đồng thời bụng nghĩ: "thôi ta cũng không nên phát kình

lực ra nữa, để xem y nói gì đã".

Cưu Ma Trí quả thông minh hơn người, nhìn Đoàn Dự có vẻ lờ ngờ, đồng

thời lúc thu điểm chân khí chân tay luống cuống, trông rõ dáng điệu người

kém võ công. Lão chợt nảy ra một ý nghĩ, tức thời nhảy lên một bước giơ

tay đấm thẳng một quyền vào mặt Đoàn Dự. Đoàn Dự nhờ duyên cơ đưa

tới, tuy có học được môn võ rất cao thâm Lục mạch thần kiếm nhưng ngoài

ra về các môn quyền cước binh khí thông thường khác chàng hoàn toàn

không hiểu tý gì. Đoàn Dự đưa cánh tay lên đỡ đường quyền của đối

phương một cách rất ngượng ngịu. Cưu Ma Trí liền lật bàn tay phải túm

ngay "thần phong huyệt" ở trước ngực chàng. Tức khắc người chàng mềm

nhũn, chân tay không cử động được nữa.

Cưu Ma Trí tuy đã khám phá được nhược điểm trong võ học của Đoàn Dự

nhưng cũng không ngờ bắt được chàng một cách quá dễ dàng như thế. Lão

vẫn còn sợ chàng giả vờ ngớ ngẩn mà dùng quỷ kế gì khác chăng nên lúc

nắm được "thần phong huyệt" rồi lão đưa ngón tay điểm luôn thêm ba đại

huyệt: "đản trung", "đại thôi" và "kinh môn". Người đã bị điểm những đại

huyệt đó rồi, quyết không thể nào còn phản kháng lại được nữa. Song đồng

thời Cưu Ma Trí cảm thấy chân lực trong mình luôn luôn theo bàn tay phải

tiết ra ngoài. Lão vội vàng đưa bàn tay trái nắm chặt lấy tay phải của mình,

lùi lại ba bước rồi nói:

- Vị tiểu thí chủ này trong bụng đã nhớ hết đồ hình về Lục mạch thần kiếm.

Quyển đồ hình đã bị Khô Vinh đại sư đốt cháy rồi...

Lúc Cưu Ma Trí cất tiếng nói thì lại không giữ được chân khí khỏi bị tiết ra

ngoài nên y vội vội vàng vàng nói vắn tắt:

- Tiểu thí chủ đây là quyển đồ hình sống... đem gã đốt sống trước mồ Mộ

Dung tiên sinh, cũng như là đốt quyển đồ hình vậy...

Cưu Ma Trí sợ phe Khô Vinh đại sư nhận thấy nhược điểm của mình trong

lúc nói năng mà xúm lại tấn công chăng, lão liền giơ tay trái đánh luôn ra

năm đường đao, nhằm về phía trước. Bóng lão thoáng chuyển động một cái

đã rút lui ra khỏi cửa mầu ni đường. Bọn Bảo Định Đế, Thiên Quan, Thiên

Nhân rượt theo để cướp người lại đều bị sức ngũ đao liên hoàn vây bọc,

ngăn giữ không có cách nào tiến lên đơực. Cưu Ma Trí cầm Đoàn Dự quăng

cho chín tên hán tử đợi ở ngoài cửa rồi quát giục:

- Các người rút cho mau!

Hai tên hán tử đồng thời đưa tay đón lấy Đoàn Dự, rồi đi xuyên qua rừng

cây, chạy rẽ đi lối khác chứ không theo đường cái. Cưu Ma Trí sau khi trao

Đoàn Dự cho người khác, chân khí không bị tiết ra nữa. Lão lại huy động

"hoả diệm đao" chém tới tấp vào cửa mầu ni đường.

Bọn Bảo Định Đế đều dùng phép Nhất Dương Chỉ xung kích nhưng vẫn

không sao phá vỡ được vòng vây bằng lỡi đao vô hình của đối phương. Cưu

Ma Trí nghe thấy tiếng vó ngựa dồn dập, biết là thủ hạ đã đem Đoàn Dự lên

đường về bắc rồi. Lão đắc ý cười một tràng dài nói:

- Đốt mất quyển đồ hình chết, lại được quyển đồ hình sống. Mộ Dung tiên

sinh lại có bạn ở dưới suối vàng sẽ khỏi phải tịch mịch.

Đoạn lão dùng tay phải đánh chéo lại một chưởng. Nghe tiếng kêu rắc rắc.

Hai cây cột ở toà mầu ni đường đã bị "hoả diệm đao" chém gẫy rồi. Lão phi

thân thoảng như một làn khói, thoắt đã biệt dạng, không biết đi về phương

hướng nào. Bảo Định Đế và mọi người đều dùng kinh công tuyệt đỉnh đuổi

theo, nhằm thẳng về phía bắc.

Đoàn Dự bị Cưu Ma Trí điểm các huyệt đạo, không cử động gì được nữa,

chàng bị gác ngang lưng ngựa, mặt cúi sấp xuống, chỉ nhìn thấy mặt đất

như chạy lùi về phía sau. Vó ngựa chạy như bay, miệng mũi đầy cát bụi, tai

nghe những tên hán tử nói líu lo toàn tiếng Phiên, chẳng hiểu là chúng nói

gì. Đoàn Dự đếm được bốn mươi chân ngựa, biết là cả bọn chúng đi có

mười người. Đi được chừng hơn mười dặm, tới khúc đường rẽ, chàng thấy

Cưu Ma Trí nói líu lo mấy câu rồi năm con ngựa đi về bên trái, còn Cưu Ma

Trí và một tên áp giải chàng cùng ba người nữa đi rẽ về bên phải. Lại đi

chừng hai dặm nữa thì tới chỗ rẽ thứ hai năm người này lại đi ra làm hai

ngả. Đoàn Dự biết Cưu Ma Trí sở dĩ chia ra đi mấy ngả như thế là chủ ý

đánh lạc hướng, khiến cho truy binh không biết đâu mà đuổi theo. Lại đi

một hồi nữa, Cưu Ma Trí xuống ngựa, lấy một đoạn dây da, buộc ngang

lưng Đoàn Dự, tay trái lão xách ngang người chàng đi về phía rặng núi còn

hai tên hán tử đi rẽ về phía tây. Đoàn Dự ngấm ngầm xuýt xoa và tự nghĩ:

"dù bá phụ có phái một đoàn thiết giáp kỵ binh, đuổi theo không ngừng

bước, bất quá cũng chỉ bắt hết được chín tên tuỳ tùng là cùng, không thể

nào cứu được mình về. Cưu Ma Trí xách một người bên tay mà lão đi nhẹ

như không, mỗi lúc đi một mau hơn. Đi như thế chừng độ ba giờ mà toàn

xuyên qua rừng qua núi. Mặt trời đã ngả về phía tây, ánh nắng rọi từ bên

trái tới Đoàn Dự biết là Cưu Ma Trí đem mình về hướng bắc. Đến lúc gần

tối, Cưu Ma Trí gác Đoàn Dự lên một cành cây rồi lấy dây da trói vào. Lão

chẳng nói câu gì hết, thậm chí chẳng thèm nhìn đến nữa, chỉ đặt lên trên

lưng chàng mấy cái bánh khô rồi đưa ngón tay giải một huyệt đạo cổ tay

trái cho chàng để có thể lấy được bánh mà ăn. Đoàn Dự duỗi tay trái ra,

định vận khí để sử dụng "thiếu trạch kiếm" để đánh lão nhưng chàng có biết

đâu sau khi các đại huyệt trong người bị điểm rồi thì toàn thân chân khí bị

phong toả nên ngón tay chàng hí hoáy mãi mà không có chút nội lực nào

phát ra hết. Hai ngày liền Cưu Ma Trí vẫn xách Đoàn Dự đi về phía bắc.

Mấy lần chàng gợi chuyện, hỏi lão sao lại bắt chàng và đem chàng về bắc

để làm gì Cưu Ma Trí vẫn làm thinh không trả lời. Đi mãi tới mười ngày, đã

ra khỏi địa giới nước Đại Lý, Đoàn Dự nhận thấy Cưu Ma Trí lại xoay

hướng đi về phía đông bắc nhưng vẫn tránh không đi đường lớn, cứ đi tắt

qua những cánh rừng hoang núi rậm. Chàng để ý nhìn nhận thấy địa thế mỗi

lúc một bằng phẳng, núi dần dần ít đi mà sông ngòi lại nhiều ra. Trong một

ngày phải đi qua mấy lần đò. Cưu Ma Trí xách Đoàn Dự đi đường như vậy

cũng làm cho người qua đường phải kinh khủng. Về sau hễ ra cửa là gặp

người đi lại rồi song cũng không có ai hỏi han gì. Đoàn Dự lòng phẫn uất,

chàng nhớ lại lúc bị cô em Mộc Uyển Thanh bắt, tuy ngày nào cũng bị đánh

vùi đánh dập kể có đau thật nhưng không đến nỗi buồn bực như lần này. Lại

đi hơn mười ngày nữa, Đoàn Dự nghe thấy tiếng người nói thanh nhã dịu

dàng thì nghĩ bụng: "chắc đây là địa giới Giang Nam rồi, nếu lão đem mình

đi tế sống Mộ Dung tiên sinh thì chỉ một ngày nữa là tới nơi. Lão Phiên

tăng này võ công lợi hại như thế, ngay phe bá phụ mình sáu người hợp lại

mà còn không ngăn nổi lão. Bây giờ mình đã lọt vào tay lão rồi, chỉ có cách

để mặc lão muốn giết thì giết, muốn mổ thì mổ chứ chẳng còn hi vọng gì

nữa. ý chí ngang bướng đã chớm nở, chàng không thèm lo nghĩ gì hết ngẩng

đầu lên ngắm phong cảnh. Tiết trời đang độ tháng ba, ngõ hạnh đầy hoa,

ven hồ rủ liễu, gió xuân phơi phới thổi nhẹ bên mình khiến cho người chàng

nh say sa ngây ngất. Đoàn Dự bị Cưu Ma Trí xách đi hơn một tháng, khổ

cũng quen rồi, bây giờ thấy thắng cảnh ngày xuân phong quang như vậy,

bất giác trong lòng sảng khoái, buột miệng ngâm:

Trường Giang từng đợt sóng dồi

Ngẩn ngơ bờ liễu lôi thôi mấy hàng

Bốn bề xa vắng thôn trang

Phất phơ hoa hạnh, ánh dương tà tà.

HỒI 27

Cái mũi thần tình

Cưu Ma Trí nghe Đoàn Dự ngâm thơ, cười lạt nói:

- Chết đến gáy mà mi vẫn còn khoái lắm nhỉ. Vài bữa nữa rồi xuống âm

cung mà ngâm thơ vịnh phú với Diêm Vương.

Đoàn Dự cười nói:

- Thiên hạ ai là người không chết? Mi sống thêm mấy năm nữa có hơn ai

được cái gì không?

Cưu Ma Trí không nói nữa, quay ra hỏi thăm những người qua đường Tham

Hợp trang ở đâu. Lão hỏi đến bảy tám người mà chẳng ai biết. Sau có ông

già bảo:

- Thành Cô Tô không có đâu là Tham Hợp trang cả. Có lẽ hoà thượng nghe

lầm chăng?

Cưu Ma Trí lại hỏi:

- Lão trượng có biết đại trang chúa người họ Mộ Dung ở đâu không?

Ông già đáp:

- Trong thành Tô Châu này chỉ có họ Cố, họ Lục, họ Trương, họ Chu, họ

Văn... làm gì có đại trang chúa cùng Mộ Dung? Tôi chưa thấy ai nói đến

cả.

Cưu Ma Trí chưa biết tìm cách nào để hỏi cho ra địa chỉ Mộ Dung tiên sinh,

chợt nghe tiếng một người đang đi trên còn đường nhỏ về phía tây nói: tôi

nghe nói họ Mộ Dung ngụ ở ngoài thành, đi về phía tây chừng 30 dặm, chỗ

đó gọi là Yến Tử ổ. Chúng ta tới đó xem sao?

Rồi lại có tiếng người khác gạt đi:

- Thôi! Đây đã đến địa đầu rồi. Ta phải cẩn thận mới được.

Hai người nói rất khẽ, Đoàn Dự không nghe thấy chi cả Cưu Ma Trí vì tuyệt

giỏi nội công mới nghe rõ. Lão nghĩ thầm: phải chăng hai người này chủ

tâm nói cho ta nghe tiếng?

Cưu Ma Trí đưa mắt nhìn về phía vừa phát ra tiếng nói thì thấy một người

khí vụ hiên ngang, vận đồ tang phục còn một người thấp lủn thủn và gầy

đét, trông chẳng khác chi ác quỷ hung thần. Cưu Ma Trí biết ngay người đó

có võ công đáng kể. Lão còn đang suy nghĩ có nên cùng bọn này bắt

chuyện không bỗng Đoàn Dự lên tiếng gọi to:

- Hoắc tiên sinh! Hoắc tiên sinh đi đâu đấy?

Nguyên người thấp lủn thủn, hình dung cổ quái đó chính là Kim Toán bàn

Thôi Bách Kế và sư điệt ông là Truy hồn thủ Quá Ngạn Chi. Hai người sau

khi từ biệt Trấn Nam Vương phủ nước Đại Lý ra đi, quyết tâm báo thù cho

Kha Bách Tuế. Mặc dầu họ biết rõ khó có thể địch lại nhà Mộ Dung, mối

thù không đội trời chung vị tất đã trả được nhưng là những người nghĩa

dũng, họ can đảm tìm đến Cô Tô. Công việc đầu tiên của hai người là thám

thính họ Mộ Dung ngụ tại Yến Tử ổ, đang đi trên đường thì gặp Cưu Ma Trí

cùng Đoàn Dự. Thôi Bách Kế chợt nghe tiếng Đoàn Dự gọi rất đỗi ngạc

nhiên nhảy ngay đến trước mặt Cưu Ma Trí hỏi:

- Tiểu Vương gia đó ? Ô kìa đại hoà thượng! Xin buông ngay công tử

xuống cho! Hoà thượng có biết công tử là ai đó không?

Thực ra Cưu Ma Trí chẳng coi hai người vào đâu nhưng lão nghĩ rằng từ lúc

chưa đến Trung Nguyên mình đã biết khó lòng tìm ra chỗ ở của Mộ Dung

tiên sinh. Nay có bọn này dẫn lối cho kể cũng là một dịp may cho mình bèn

buông Đoàn Dự xuống, để chàng đứng vững rồi giải các huyệt đạo ở hai

chân chàng, đoạn quay lại bảo hai người:

- Tôi cũng đến chỗ Mộ Dung tiên sinh đây. Phiền hai vị dẫn đường cho!

Thôi Bách Kế tuy là người lịch duyệt giang hồ, biết nhiều hiểu rộng mà

chưa đoán ra lai lịch nhà sư này, bèn hỏi:

- Xin hỏi đại sư chúng tôi xưng hô với đại sư thế nào cho phải? sao đại sư

lại làm khó dễ với tiểu Vương gia họ Đoàn như vậy? Đại sư lên phủ Mộ

Dung có việc gì?

Cưu Ma Trí đáp lộc cộc:

- Bất tất phải hỏi nhiều, tới nơi sẽ biết!

Thôi Bách Kế lại hỏi:

- Phải chăng đại sư là chỗ bạn thân với nhà Mộ Dung?

Cưu Ma Trí đáp:

- Phải! Mộ Dung tiên sinh ở Tham Hợp trang, không biết đi về ngả nào?

Hoắc tiên sinh có biết thì chỉ dùm cho!

Lão thấy Đoàn Dự gọi Thôi Bách Kế là Hoắc tiên sinh cũng tưởng y là

Hoắc thật mặc dầu lão trí mưu hơn người nhưng cũng chưa hiểu lý do.

Thôi Bách Kế bóp trán suy nghĩ rồi hỏi Đoàn Dự:

- Tiểu vương gia! Bây giờ Tiểu Vương gia tính sao đây?

Câu hỏi này khiến cho Đoàn Dự phải chưng hửng. Chàng nghĩ thầm: "Cưu

Ma Trí võ công ghê gớm, trên đời này sợ không ai địch nổi. Bọn Thôi, Quá

tất nhiên so với lão không thấm vào đâu. Nếu hai người này lại cố ý cứu

mình thì chẳng những không ăn thua gì mà chết uổng hai mạng". Nghĩ vậy

chàng dùng lời cảnh cáo để bọn họ biết đường cao chạy xa bay là hơn chàng

nói:

- Vị đại sư đây một mình mà đánh bại bá phụ tôi cùng năm tay cao thủ nước

Đại Lý, bắt tôi đem đến đây. Nguyên đại sư là bạn cố tri với Mộ Dung tiên

sinh, nay đại sư đưa tôi đến hoả thiêu trước mồ Mộ Dung tiên sinh để tế

vong hồn người bạn quá cố. Tôi tưởng hai vị không có dính líu gì đến nhà

Mộ Dung thì nên chỉ đường cho đại sư rồi về đi là hơn.

Thôi Bách Kế cùng Quá Ngạn Chi nghe lão đại sư này đánh bại Bảo Định

Đế cùng bọn cao thủ nước Đại Lý quả nhiên chột dạ, khi nghe lão là bạn

với bọn Mộ Dung thì lại càng khiếp sợ. Thôi Bách Kế tuy mặt mũi xấu xa,

hình dung cổ quái nhưng có nghĩa khí hào hiệp nghĩ thầm: "mình đã ẩn thân

tại phủ Trấn Nam Vương mười mấy năm trời chưa từng báo đáp ơn sâu.

Nay tiểu vương gia gặp nạn có lý đâu mình tự thủ bàng quan được? Hơn nữa

mình đã tìm vào Cô Tô thì cái mạng này coi có cũng như không, bất luận

chết dưới lưỡi đao của kẻ địch hay chết bới tay người khác cũng thế thôi".

Nghĩ vậy Thôi liền thò tay vào bọc lấy ra một cái bàn tính bằng hoàng kim

sáng rực, giơ cao lên, lắc cho nó kêu loảng xoảng rồi bảo Cưu Ma Trí:

- Này này đại hoà thượng! Đại hoà thượng là bạn thân với Mộ Dung tiên

sinh thì tiểu vương gia đây cũng là hảo hữu của tôi, đại hoà thượng nên

buông tha tiểu vương gia ra!

Thôi Bách Kế chưa nói dứt câu Cưu Ma Trí đã vươn tay ra giựt được cây

nhuyễn tiên của Quá Ngạn Chi đang cầm, rồi thuận tay lão quăng nhuyễn

tiên quấn lấy bàn tính ở trong tay Thôi Bách Kế. Hai binh khí chạm vào

nhau, rời khỏi tay người cầm, bay tung ra rớt xuống hồ. Ai nấy đều nhìn

thấy cặp khí giới quý báu này sắp chìm xuống đáy hồ. Không ngờ đà kình

lực Cưu Ma Trí xử khéo làm sao, một đầu cây nhuyễn tiên văng lại, mắc

vào một cành liễu trên mặt hồ.

Quá Ngạn Chi ngoại hiệu là "truy hồn thủ" ra tay cực kỳ mau lẹ, sử dụng

cây nhuyễn tiên lại là một môn tuyệt kỹ của chàng vậy mà chưa đánh xong

một đòn đã bị Cưu Ma Trí giật rời khỏi tay. Mấy cử động của Cưu Ma Trí:

nào xích lại gần, nào vươn tay giật roi nhuyễn tiên, nào vẫy roi cuốn lấy bàn

tính, nào lui về chỗ cũ lẹ đến nỗi cả Thôi Bách Kế lẫn Quá Ngạn Chi hai

người cũng không trông rõ nữa.

Cưu Ma Trí chắp hai tay để trước ngực, nét mặt vẫn thản nhiên như không

có chuyện gì xảy ra nói:

- Phiền đại giá hai vị dẫn đường cho!

Thôi, Quá hai người ngơ ngác nhìn nhau, không biết làm thế nào. Cưu Ma

Trí lại nói tiếp:

- Nếu hai vị không dẫn đường thì xin chỉ nẻo cho biết Yến Tử ổ, Tham Hợp

trang đi về ngả nào, đường lối ra sao, để tiểu tăng tự đi đến nơi cũng được.

Thôi, Quá hai người thấy võ công lão vô cùng lợi hại mà vẻ mặt lại khiêm

tôn, ôn hoà là thế muốn trở mặt không được mà không trở mặt không xong.

Giữa lúc ấy bỗng nghe có tiếng rạt rào, trên mặt hồ nước biếc một con

thuyền nhỏ đang rẽ nước lướt tới. Trên thuyền một thiếu nữ áo xanh cầm

đôi mái chèo khuấy nước cho thuyền chạy, miệng cô đang ca khúc "Hạm

thiều hương". Giọng hát dịu dàng không có vẻ lả lơi khiến người nghe cũng

cảm thấy nỗi vui mừng.

Đoàn Dự ở nước Đại Lý từng đọc văn chương thơ phú của cổ nhân, tán tụng

phong cảnh nhân vật Giang Nam. Nay chàng được nghe khúc hát này tâm

hồn bất giác say sa như lạc vào cõi mộng. Quên mình đang đứng trước

hoàn cảnh hiểm nghèo quay ra nhìn thiếu nữ. Tay nàng nhỏ nhắn, nước da

trắng mịn ánh xuống hồ nước xanh biếc và trong leo lẻo.

Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi tuy đứng trước mặt kẻ địch ghê gớm cũng

không khỏi đưa mắt nhìn cô gái mấy lần. Chỉ mình Cưu Ma Trí là tựa hồ

như không trông thấy hay không nghe thấy gì mà thôi. Lão nói:

- Nếu hai vị không chịu chỉ Tham Hợp trang cho thì tiểu tăng xin cáo từ.

Lúc đó thiếu nữ đã chèo thuyền đến gần bờ. Nàng nghe Cưu Ma Trí nói vậy

liền cất tiếng:

- Chẳng hay đại hoà thượng đến Tham Hợp trang có việc gì?

Giọng nàng cực kỳ thanh tao êm ái khiến ai nghe cũng lọt tai. Thiếu nữ mới

chừng 15, 16 tuổi, nét mặt ôn nhu, con người thanh tú. Đoàn Dự nghĩ thầm:

"các cô gái ở Giang Nam có tiếng là xinh đẹp tưởng cũng đến thế này mà

thôi".

Cưu Ma Trí hỏi:

- Tiểu tăng muốn đến Tham Hợp trang. Tiểu nương tử có thể trỏ đường lối

cho tiểu tăng được không?

Thiếu nữ mỉm cười hỏi lại:

- Cái tên Tham Hợp trang người ngoài không ai biết đến. Đại sư nghe đâu

mà biết?

Cưu Ma Trí đáp:

- Tiểu tăng là bạn phương xa với Mộ Dung tiên sinh. Hôm nay đến tế mộ

tiên sinh cho vẹn lời ước năm xưa.

Thiếu nữ trầm ngâm rồi nói:

- Nếu vậy không may cho đại sư rồi! Hôm kia Mộ Dung công tử mới ra đi.

Giả tỷ đại sư đến đây trước ba hôm thì được gặp.

Cưu Ma Trí nói:

- Tiểu tăng thật vô duyên cùng công tử nghĩ cũng đáng buồn. Song tiểu tăng

từ nước Thổ Phồn, đường xa muôn dặm, lặn lội về đến Trung Nguyên chỉ

mong được tới trước mồ Mộ Dung tiên sinh lạy một lạy cho chọn nghĩa xưa.

Thiếu nữ nói:

- Nếu đại sư đã là chỗ giao hữu cùng Mộ Dung tiên sinh thì xin mời đại sư

hãy vào dùng trà để cháu sẽ vào báo trang nên chăng?

Cưu Ma Trí hỏi lại:

- Tiểu nương tử là người thế nào trong phủ công tử? Xưng hô sao cho phải

phép?

Thiếu nữ mỉm cười đáp:

- Cháu là kẻ nữ tỳ chầu chực công tử trong cung đàn tiếng sáo tên gọi A

Bích. Xin đại sư miễn khách sáo và đừng kêu bằng đại nương tử tiểu nương

tử chi hết. Cứ gọi thẳng tên A Bích cho tiện.

Đoạn nàng tiếp:

- Từ đây vào Yến tử ổ toàn là đường thuỷ. Quý vị có muốn vào thì xuống

thuyền để tiểu nữ chở đi.

Cưu Ma Trí cám ơn rồi nắm tay Đoàn Dự nhẹ nhàng nhảy xuống thuyền,

thuyền chỉ đầm xuống một chút chứ không tròng trành.

A Bích nhìn Cưu Ma Trí và Đoàn Dự mỉm cười tựa hồ thán phục võ công

của hai người.

Quá Ngạn Chi khẽ hỏi Thôi Bách Kế:

- Sư thúc tính sao bây giờ?

Hai người cốt tìm đến nhà Mộ Dung để báo thù nhnưg chưa tới nơi đã xẩy

ra mấy vụ rùng rợn vẫn còn nơm nớp lo âu.

A Bích tươi cười nói:

- Hai vị đã đến Tô Châu nếu không có việc gì gấp xin mời vào tệ xá xơi

nước. Cái thuyền này tuy nhỏ nhưng hai vị xuống nữa cũng được.

Nàng vừa nói vừa ghé thuyền vào bên cây liễu, giơ bàn tay xinh xắn ra với

lấy cây bàn tính, tiện tay nàng gẩy bàn tính lách cách.

Đoàn Dự nghe vui tai buột miệng nói:

- Cô gẩy khúc thái tang tử phải không?

A Bích mỉm cười nói:

- Công tử tinh thông âm nhạc gẩy chơi một khúc đi!

Đoàn Dự thấy nàng ăn nói tự nhiên, tính tình khả ái cười đáp:

- Tôi không biết gẩy đàn bằng bàn tính.

Rồi chàng quay lại bảo Thôi Bách Kế:

- Hoắc tiên sinh! Cái bàn tính của tiên sinh mà cô nương đây gẩy nghe cũng

vui tai đấy chứ?

Thôi Bách Kế cười hềnh hệch đáp:

- Quả vậy! Hay lắm! Cô nương thực là người tao nhã. Cái đồ vật phàm tục

dùng làm sinh kế vào tay cô nương cũng thành ra nhạc khí được.

- Trời ơi! ghê quá! Của tiên sinh đấy ? Bàn tính gì mà đẹp quá vậy? Chắc

tiên sinh giàu có lắm, cái bàn tính cũng đúc bằng vàng ruột. Tôi xin trả tiên

sinh đây!

Nàng vừa nói vừa cầm bàn tính giơ lên. Thôi Bách Kế đứng trên bờ không

với tới, lẹ làng nhảy xuống thuyền, đưa tay ra với lấy bàn tính rồi quay đầu

lại trừng mắt nhìn Cưu Ma Trí một cái. Cưu Ma Trí thuỷ chung vẫn giữ bộ

mặt tươi cười vui vẻ, tuyệt không lộ vẻ gì tức giận cả. A Bích lại đưa tay trái

ra lượm cây nhuyễn tiên, năm ngón tay nàng cũng bật cũng gõ vào cây roi

thành những âm thanh trong trẻo vang dội như kiểu gẩy đàn tỳ bà. Thì ra cả

đến những binh khí của các bậc anh hùng hào kiệt vào tay nàng cũng thành

nhạc khí cả.

Đoàn Dự lại reo lên:

- Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu! Cô nương gảy khúc nữa đi!

A Bích trông lên Quá Ngạn Chi hỏi:

- Cây nhuyễn tiên của tiên sinh phải không? tôi đem ra nghịch thực vô lễ

quá. Tiên sinh xuống thuyền đi rồi tôi hái cho tiên sinh mấy trái hồng lăng.

Quá Ngạn Chi nóng lòng báo cừu cho sư phụ chàng căm thù cả bè lũ nhà

Mộ Dung thấu xương nhưng thấy cô bé này xinh tươi, chất phác không có

vẻ gì là nham hiểm độc ác nên chàng tuy giận đầy ruột mà không dám phát

cáu. Chàng nghĩ thầm: "thị dẫn ta về nhà là có chuyện không hay đây. Thôi

được, nếp tẻ gì không cần, ta hãy vào giết mấy đứa cho hả giận đã". Nghĩ

vậy chàng gật đầu bước xuống thuyền.

A Bích trịnh trọng quấn cây nhuyễn tiên lại đưa cho Quá Ngạn Chi. Đoạn

thả mái chèo xuống nước, quay thuyền bơi về hướng tây.

Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi đưa mắt nhìn nhau mấy lần. Hai người cùng

nghĩ bụng: "nay mình vào hang cọp, chưa biết sống chết ra sao. Bọn Mộ

Dung thủ đoạn ác độc vô cùng. Cô bé này xem ra tuy không phải là hạng

đóng kịch giả hiệu nhưng biết đâu chẳng là kế kiêu binh của chúng để mình

phóng tâm không đề phòng cho chúng dễ bề hạ thủ?". Thuyền đi vòng vèo

vài khúc quanh thì đến cái hồ lớn rộng bát ngát, mông mênh những nước

cùng trời. Quá Ngạn Chi chột dạ nghĩ thầm: "cái hồ này có lẽ là Thái Hồ

đây. Mình cùng Thôi sư thúc đều không quen bơi lội, thuyền chỉ lật đi một

cái thời mình đành làm mồi cho cá, còn đâu nữa mà báo cừu cho sư phụ?".

Thôi Bách Kế cũng tưởng đến chỗ đó tự nhủ: "giả tỷ mình cầm mái chèo

trong tay thì ả này có muốn lật thuyền cũng không phải dễ", liền nói:

- Cô nương! cô để tôi bơi thuyền đỡ một lúc. Cô cứ chỉ đường cho tôi là

được.

A Bích cười nói:

- Trời ơi! cháu đâu dám thế? Công tử mà biết ra sẽ trách phạt cháu về tội

khinh mạn tân khách.

Thôi Bách Kế thấy nàng không chịu lại càng ra dạ ngờ vực bèn xoay chiều:

- Thật ra không dám giấu gì cô nương. Xin cô nương cho chúng tôi nghe

thêm vài khúc đàn nhuyễn tiên tuyệt kỹ nữa.

A Bích cười nói:

- Tiên sinh dạy quá lời.

Thôi Bách Kế lấy cây nhuyễn tiên trong tay Quá Ngạn Chi đưa cho A Bích

miệng bảo nàng gẩy đàn, tay đưa ra đón lấy mái chèo.

A Bích nói:

- Tiên sinh cho tôi mượn cả cái bàn tính nữa.

Thôi Bách Kế ngấm ngầm nghĩ bụng: "ả thu cả khí giới của bọn mình, hay

là có âm mưu gì đây?". Nghĩ vậy thì nghĩ chứ không có cách nào từ chối

đành cầm bàn tính đưa cho nàng.

A Bích đặt bàn tính xuống tấm ván gỗ đầu thuyền ngay trước mặt. Tay trái

nàng giữ lấy chuôi nhuyễn tiên, chân phải dậm lên một đầu cho cây roi

dựng thẳng lên, năm ngón tay phải vừa bật vừa vê đi vuốt lại, cây nhuyễn

tiên phát ra tiếng leng keng, tuy không trong trẻo vang dội bằng tiếng đàn tỳ

bà nhưng nghe cũng thành nhạc điệu giòn dã, du dương. Năm ngón tay A

Bích vừa lần gẩy nhuyễn tiên vừa gẩy xen lẫn tiếng bàn tính kêu lách cách

tựa hồ tiếng sắt tiếng vàng chen nhau nghe càng thêm thú vị. Giữa lúc đó

đôi chim én lượn qua đầu thuyền, bay về hướng tây. Đoàn Dự nghĩ bụng:

chỗ Mộ Dung ở gọi là Yến Tử ổ chắc có nhiều chim én. Bỗng nghe A Bích

cất tiếng hát. Đoàn Dự nghe giọng hát du dương mà lòng những bâng

khuâng như say như tỉnh. Chàng lẩm bẩm một mình: "nếu mình suốt đời ở

tận nơi đèo heo hút gió thì làm sao nghe được những khúc tiên nhạc này?

Công tử Mộ Dung có những ả nữ tỳ tài tình thế này tất không phải hạng tầm

thường". A Bích ca hát một hồi rồi đưa trả bàn tính cùng nhuyễn tiên cho

Thôi, Quá và cười nói:

- Đàn hát kém quá, chỉ tổ làm trò cười cho quý khách. Xin Hoắc tiên sinh

quay mũi thuyền về mé tả, sắp đến nhà rồi.

Thôi Bách Kế lái mũi thuyền theo tay nàng trỏ, đi vào lạch nước đầy sen

mọc. Nếu không có A Bích trỏ nẻo thì không ai ngờ giữa chỗ lá sen chi chít

lại là lối thuyền đi. Thôi Bách Kế chèo một lúc nữa A Bích lại trỏ tay bảo:

- Đi vào nẻo trong kia!

Quãng này trên mặt nước toàn một giống hồng lăng. Nước biếc lá xanh,

phong cảnh tuyệt đẹp. A Bích đưa tay ra hái ít trái hồng lăng đa cho mọi

người. Đoàn Dự tuy hai tay đã cử động được nhưng từ sau khi bị điểm huyệt

không còn mảy may khí lực nào nữa, vỏ trái hồng lăng hơi rắn một chút mà

chàng không sao bóc được.

A Bích cười nói:

- Công tử không phải là người Giang Nam, không biết bóc vỏ hồng lăng, để

cháu bóc cho.

Nàng bóc luôn mấy trái đặt vào tay Đoàn Dự. Nhân cùng thịt trái này trắng

bóng và tinh khiết. Đoàn Dự cầm bỏ vào miệng ăn, vừa ngọt vừa thơm,

chàng cười bảo A Bích:

- Mùi vị của trái thuý hồng lăng này cũng ngon ngọt như khúc hát của cô

nương.

A Bích hai má ửng hồng cười nói:

- Đa tạ công tử. Đem điệu hát ví với trái hồng lăng, nay cháu mới nghe thấy

công tử nói là một.

Chưa đi hết lạch hồng lăng, A Bích lại trỏ tay cho thuyền đi ra ngả có lau

sậy rậm rạp. Đến khu này cả Cưu Ma Trí cũng phải lưu tâm nhớ lấy nẻo đi,

để đề phòng lúc về biết lối mà ra. Vì chỉ trông thấy toàn một mầu lá lau, lá

lăng, lá giao, lá sen rất khó phân biệt đường đi. Hơn nữa chỉ một cơn gió là

các thứ hoa trên mặt nước này bay qua, lướt lại, mất hết dấu vết, dù có nhận

xét kỹ càng nhưng thoáng cái cucï diện lại biến đổi khác đi. Cưu Ma Trí, Thôi

Bách Kế, Quá Ngạn Chi ba người đều để ý nhìn nhận phương pháp tìm nẻo

đi của A Bích, xem nàng lấy gì làm mục tiêu nhưng chỉ thấy nàng cứ điềm

nhiên hái trái hồng lăng mà chẳng cần để ý gì đến đường đi. Thuyền đến

chỗ quanh, chỗ rẽ là nàng thuận miệng chỉ bảo, tựa hồ những lối dọc ngang

trên mặt hồ nàng đã thuộc lòng, không cần để ý nhìn nhận nữa. Thuyền đi

ngang rẽ dọc không biết bao nhiêu chỗ vào khoảng giờ mùi thì xa xa giữa

rặng liễu xanh om lộ ra một mái nhà.

A Bích nói:

- Đến nơi rồi, hôm nay cháu làm nhọc sức Hoắc tiên sinh bơi thuyền đến

quá nửa ngày.

Nàng thấy Đoàn Dự gọi Thôi Bách Kế là Hoắc tiên sinh cũng tưởng ông ta

họ Hoắc. Thôi Bách Kế miệng cười méo mó đáp:

- Cứ được ăn hồng lăng, lại được nghe thanh ca, dù có phải bơi thuyền hàng

năm cũng không biết mỏi.

A Bích vỗ tay cười nói:

- Tiên sinh muốn ăn hồng lăng cùng nghe hát thì khó gì? Cứ ở cùng tụi trên

hồ này không ra nữa là được.

Thôi Bách Kế nghe A Bích nói: "cứ ở trên hồ này, không ra nữa" bất giác

thất kinh, đưa mắt nhìn hồi lâu thì chỉ thấy lúc nào nàng cũng tươi cười dễ

dãi, tuyệt không lộ vẻ con người tâm cơ xảo trá. Tuy nhiên Thôi vẫn không

vững dạ chút nào.

A Bích đón lấy mái chèo, gạt thuyền vào dưới bóng liễu, đến chỗ có cành

cây tùng rủ xuống mặt nước. Nàng vừa buộc thuyền vào cành cây xong,

chợt nghe tiếng một con chim nhỏ hót líu lo, giọng hót rất trong trẻo và

vang dội. A Bích cũng bắt chước giọng chim gáy lên vài tiếng rồi quay lại

bảo mọi người:

- Xin mời quý vị lên bờ.

Mọi người lên bờ trông vào thấy lưa thưa có bốn năm căn nhà nhỏ, dựng

trên một cái đảo nhỏ hay cái bán đảo thì đúng hơn. Các phòng ốc tuy bé

nhỏ nhưng rất sáng sủa, xinh xắn.

Cưu Ma Trí hỏi:

- Phải chăng đây là Tham Hợp trang trong yến tử ổ?

A Bích lắc đầu đáp:

- Không phải! chỗ này công tử dựng lên cho cháu ở, chật hẹp, quê mùa

không đáng để tiếp khách. Đại sư bảo vào tế mồ Mộ Dung tiên sinh, tôi đâu

dám tác chủ, chẳng qua thỉnh quý vị vào đây ngồi chờ, để cháu nói cho A

Châu tỷ nương hay.

Cưu Ma Trí có vẻ không bằng lòng, nét mặt lầm lỳ. Cưu Ma Trí là một vị

hộ quốc pháp vưng nước Thổ Phồn, địa vị cao sang là thế. Phi chỉ quốc

vương nước Thổ Phồn đem lòng kính trọng, mà sang đến triều đình nước

Đại Tống hay các nước Đại Lý, Liêu Quốc các vị vua chúa cũng tiếp đãi lão

vào hàng thượng khách. Huống chi lão là bạn cố tri với Mộ Dung tiên sinh,

vì tình nghĩa mà thân hành đến tế mộ. Công tử Mộ Dung vắng nhà không

biết đã đành còn những người ở nhà cũng không mời lão vào đại sảnh, tiếp

đãi long trọng, lại để cho con thị tỳ đưa vào nhà riêng, thực là đáng giận.

Nhưng lão thấy A Bích luôn miệng tươi cười, tuyệt không tỏ vẻ khinh mạn

thì nghĩ rằng: "Nó là con ăn con ở, có hiểu gì đâu mà mình đem đặt nó vào

địa vị người có kiến thức?". Nghĩ vậy lão trở lại nét mặt ôn hoà vui tươi.

Thôi Bách Kế hỏi:

- A Châu tỷ nương là ai?

A Bích cười đáp bằng một giọng ngây thơ:

- A Châu tỷ nương là A Châu tỷ nương! vì chị A Châu lớn hơn cháu một

tháng nên cháu kêu bằng A Châu tỷ nương chứ biết sao được? Ai bảo chị

lớn hơn cháu một tháng làm gì? Như tiên sinh thì cần gì phải gọi A Châu là

tỷ nương? nhưng nếu cứ gọi A Châu tỷ nương thì chị ta cũng khoái lắm.

Nàng nói liến láu một hồi, giọng nói trong trẻo như người tấu nhạc rồi dẫn

bốn người vào trong nhà. Đoàn Dự nhìn lên thấy trên cửa căn nhà nhỏ có

tấm biển viết hai chữ "cầm vân", nét chữ rất tốt. A Bích mời mọi người ngồi

chơi. Một lát có gã con trai bưng trà và bánh điểm tâm ra. Đoàn Dự vừa

cầm chén trà thì một mùi thơm ngát đưa lên mũi. Chàng thấy nước trà màu

xanh lạt, cánh trà mầu xanh biếc, nhỏ như hạt châu, trên mặt lá có lông nhỏ

li ti. Thứ trà này chàng chưa thấy bao giờ. Chàng vừa nhấp thử một hớp,

miệng đượm mùi thơm, lưỡi dơm dớp vị ngọt. Cưu Ma Trí và Thôi Bách Kế

thấy lá trà kỳ dị không dám uống. (Nguyên thứ trà này là đặc sản ở miền

phụ cận Thái Hồ, đời sau gọi là trà Bích La Xuân. Bấy giờ về đời Bắc Tống,

chưa có cái tên thanh nhã này.) Cưu Ma Trí ở khu Tây Vực và cư trú tại

miền rừng núi nước Thổ Phồn, chỉ quen uống trà sắc đen, vị chát, giờ thấy

thứ trà sắc xanh biếc, có lông ngờ là có chất độc.

Bốn thứ điểm tâm là mứt mai côi, bánh dẻo phục linh, bánh nướng Phi Thuỷ

và bột ngó sen. Thứ nào cũng chế rất công phu, tựa hồ như làm để bày cho

đẹp chứ không phải để ăn. Đoàn Dự khen nức nở rồi hỏi:

- Những món điểm tâm coi đẹp thế này mà bỏ vào miệng ăn đi thì uổng quá

phải không cô nương?

A Bích nói:

- Mời công tử dùng đi! Trong nhà hãy còn.

Đoàn Dự ăn đến đâu lại trầm trồ khen ngợi đến đó. Cưu Ma Trí và Thôi

Bách Kế cùng Quá Ngạn Chi không dám ăn. Đoàn Dự thấy vậy trong lòng

sinh nghi tự hỏi: "Cưu Ma Trí tự xưng là bạn thân với Mộ Dung tiên sinh

vậy mà sao chỗ nào lão cũng gia tâm đề phòng? Nhà Mộ Dung đối đãi với

lão tựa hồ không có vẻ trịnh trọng là nghĩa gì?

Cưu Ma Trí thật là người rất nhẫn nại, lão đợi đến nửa ngày chờ sau khi

Đoàn Dự đã uống trà và ăn điểm tâm đủ thứ mới cất tiếng giục A Bích:

- Bây giờ xin cô nương đi mời A Châu cô nương đến cho!

A Bích cười đáp:

- Trại chị A Châu ở cách đây xa tới bốn chín đường thuỷ, bữa nay đi không

kịp mất rồi. Mời bốn vị hãy ở lại đây một đêm, sáng sớm mai cháu sẽ đưa

quý vị sang "thính hương tiểu trúc".

Thôi Bách Kế hỏi:

- Bốn chín đường thuỷ là nghĩa làm sao?

A Bích đáp:

- Một chín là 9 dặm, hai chín là 18 dặm, bốn chín là 36 dặm.

Nguyên một giải Giang Nam tính lộ trình từng 9 dặm một.

Cưu Ma Trí lại nói:

- Giá biết thế này thì cô nương đưa chúng tôi đến thẳng Thính hương tiểu

trúc có phải hay hơn không?

A Bích cười đáp:

- Cháu ở đây một mình không có ai trò chuyện, buồn chết đi được. Chẳng

mấy khi có quý khách đến chơi, thế nào cũng lưu quý vị ở lại đây một hôm.

Từ hồi nào tới giờ Quá Ngạn Chi chỉ ngồi lầm lỳ không nói câu gì, đột

nhiên đứng phắt dậy, quát hỏi:

- Thân nhân nhà Mộ Dung trú ngụ nơi đâu? Quá Ngạn Chi này đến Tham

Hợp trang không phải để ăn cơm, uống nước cũng không phải để gẫu

chuyện giải buồn cho ai đâu nhé. Ta đến để giết người báo thù, để đổ máu

cùng gây án mạng. Quá mỗ đã vào trong này, cô nương đi bảo chúng hay,

ta đây là đệ tử Kha Bách Tuế phái Tung Sơn đến đòi món nợ máu của sư

phụ ta.

Nói xong cầm cây nhuyễn tiên đập mạnh làm cho chiếc kỷ trà gỗ đàn hương

cùng cái ghế bằng thứ trúc Tương Phi gẫy ra từng mảnh.

A Bích không sợ hãi mà cũng không tức giận nàng nói:

- Các vị anh hùng hào kiệt đến chơi với Mộ Dung công tử mỗi tháng mấy

lần, cũng đã nhiều vị hùng hùng hổ hổ như Quá đại gia đây...

Nàng chưa dứt lời, chợt thấy một lão già nhỏ bé thấp lủn thủn, đầu tóc bạc

phơ chống gậy từ hậu đường đi ra hỏi:

- A Bích! Ai làm gì mà ầm lên thế?

Thôi Bách Kế đang ngồi ghế cũng nhảy vọt ra, đứng bên Quá Ngạn Chi

quát hỏi:

- Sư huynh ta là Kha Bách Tuế bị ai sát hại? Nói mau!

Đoàn Dự thấy lão già lưng còng, mặt mũi dăn deo chừng tám chín chục tuổi

nói ấp úng trong cổ họng:

- Kha Bách Tuế, Kha Bách Tuế ? đã thọ đến Bách Tuế thì chết là đáng đời

rồi còn gì?

Từ lúc Quá Ngạn Chi đến Tô Châu, tưởng đến thẳng nhà Mộ Dung chém

giết để báo thù cho ân sư nào ngờ gặp phải Cưu Ma Trí đoạt khí giới, mất

hết nhuệ khí, đang bực mình thì lại gặp A Bích, một cô gái rất hiền hoà khả

ái, bao nhiêu thù oán không phát tiết vào đâu được nên giờ vừa nghe lão già

ăn nói ỡm ờ, vô lễ liền vung roi nhằm hậu tâm lão quất xuống. Chàng sợ

Cưu Ma Trí ra tay can thiệp nên thấy Cưu ngồi đầu đằng tây liền giơ roi về

phía đông quất tới. Nào ngờ Cưu Ma Trí vươn tay ra, bàn tay lão tựa hồ có

đá nam châm, lão ngồi xa mà chụp được nhuyễn tiên nói:

- Quá đại hiệp! Chúng ta là khách phương xa đến, lấy lời lẽ dàn xếp với

nhau là hơn, hà tất phải dùng đến võ lực?

Đoạn lão cuộn cây nhuyễn tiên lại, trao trả cho Quá Ngạn Chi. Quá Ngạn

Chi thẹn mặt đỏ bừng, đón lấy roi thì tức mình mà không đón lấy cũng

không tiện. Sau cùng nghĩ bụng: "mình đến đây cốt để báo thù là việc lớn,

hãy tạm nhẫn nhục trong nhất thời rồi sẽ liệu sau". Nghĩ vậy chàng đưa tay

ra đón lấy cây roi.

Cưu Ma Trí hỏi lão già:

- Tôn tính đại danh thí chủ là gì? Là người thân thích hay bạn hữu với Mộ

Dung tiên sinh?

Lão già toét miệng ra cười đáp:

- Già này là lão bộc của công tử Mộ Dung, làm gì có tôn tánh đại danh? Già

nghe nói đại sư là bạn thân với cố chủ nhận, vậy người có điều chi dạy bảo?

Cưu Ma Trí nói:

- Bần tăng cần gặp Mộ Dung công tử để trình bày.

Lão già đáp:

- Thế thì không may rồi! Công tử tôi mới ra đi hôm kia, không chừng một

hai ngày nữa mới về.

Cưu Ma Trí lại hỏi:

- Công tử đi chơi đâu?

Lão già nghiêng đầu, nghẹo cổ, đưa ngón tay lên gõ trán rồi nói:

- Tôi tuổi già lẫn lộn, không nhớ được rành mạch, dường như công tử sang

Tây Hạ hay Liêu Quốc gì đó, mà không chừng còn qua Thổ Phồn, Đại Lý

cũng nên.

Cưu Ma Trí hứ một tiếng, tỏ vẻ không bằng lòng vì lão già ấm ớ, chỉ trừ có

Đại Tống là không còn bốn nước thuộc hạt lão nói hết. Cưu lại biết rõ lão

già này giả bộ ngớ ngẩn liền nói tiếp:

- Đã vậy thì bần tăng không thể chờ công tử được, nhờ quản gia đưa bần

tăng đến tế mồ Mộ Dung tiên sinh cho tận tình cố nhân.

Lão già khua tay rối lên nói:

- Việc này tôi không thể tác chủ được đâu, tôi cũng không phải là quản gia,

quản giếc chi cả.

Cu Ma Trí lại hỏi:

- Vậy ai là quản gia tôn phủ? Xin mời ra đây nói chuyện?

Lão già gật đầu luôn mấy cái nói:

- Được thế thì được lắm! Tôi xin mời quản gia đến.

Lão trở gót người run lẩy bẩy đi ra, vừa đi vừa càu nhàu: "Cha này đáo để

thật! Trên đời chẳng có việc ác nào là lão từ, lại giả bộ thầy tu. Mình đã

ngần này tuổi đầu còn lạ gì trò hề mà lão toan bịp cả mình nữa mới đáng

ghét".

Đoàn Dự nghe lão nói bật lên tiếng cười khanh khách. A Bích vội quay sang

nói với Cưu Ma Trí:

- Xin đại sư phụ đừng giận, Hoàng lão bá có tính lẩn thẩn lại phải cái tật là

tự cho mình thông minh hiểu đời, ai cũng chê bai.

Thôi Bách Kế kéo áo Quá Ngạn Chi ra một chỗ khẽ bảo:

- Cái thằng trọc tự xưng là bạn với Mộ Dung tiên sinh kia, sao nhà này

không thấy ai tiếp đãi y một cách trọng vọng? Hiền điệt đừng có xung khắc

với lão, phải để ý xem sao rồi sẽ liệu.

Quá Ngạn Chi vâng lời về lại chỗ ngồi. Nhưng cái ghế dành cho chàng đã bị

đập gẫy nát rồi, thành ra phải đứng. A Bích vội bê cái ghế nàng đang ngồi

lại, tươi cười nói:

- Mời Quá đại gia ngồi đây.

Quá Ngạn Chi gật đầu, chàng tự nhủ: "giả tỷ mình vào đây, có giết hết cả

nhà Mộ Dung, cũng nên tha cho con nhỏ này".

Từ lúc lão bộc họ Hoàng ra nhà khách, Đoàn Dự cảm thấy trong lòng thắc

mắc, hình như có điều chi lệch lạc, không ăn nhập với nhau trong hoàn cảnh

chỗ này mà chàng nghĩ mãi không ra. Chàng hết nhìn cái phòng khách nhỏ

bé cùng đồ cần thiết trong nhà, lại nhìn mấy bức hoạ treo trên vách, các

khóm hoa ngoài sân rồi chàng lại nhìn A Bích, Cưu Ma Trí, Thôi Bách Kế,

Quá Ngạn Chi mà không sao tìm ra cái trạng thái mỗi lúc chàng càng cảm

thấy kỳ dị hơn. Đoàn Dự còn đang nghĩ ngợi phân vân, bỗng nghe thấy

tiếng chân người rồi từ trong nhà đi ra một ông già trạc ngoại ngũ tuần,

người ốm o, nước da vàng vọt, dưới cằm có một túm râu ngắn nh râu dê

nhưng vẻ mặt tinh lanh mẫn cán, cách phục sức rõ ra một tên quản gia trong

phủ Mộ Dung.

Gã gầy nhom quay mặt về phía Cưu Ma Trí cùng mọi người thi lễ nói:

- Tiểu nhân là Tôn Tam xin bái kiến liệt vị. Thưa đại sư phụ! Nay người có

thịnh ý đến tế mồ Mộ Dung lão gia chúng tôi cảm kích vô cùng. Song công

tử chúng tôi vắng nhà, không ai đáp lễ sao cho phải đạo kính khách. Vậy

chờ công tử về, tiểu nhân sẽ đem thịnh ý của đại sư phụ trình lại công tử là

đủ...

Gã vừa nói đến đây thì mũi Đoàn Dự bỗng thoáng ngửi thấy một mùi hương

thoang thoảng, chàng chợt nghĩ ra điều gì tự hỏi: "chẳng lẽ lại thế ?".

Nguyên lúc nãy người lão bộc họ Hoàng đến, Đoàn Dự cũng đã ngửi thấy

một mùi hương u nhã. Mùi hương này cũng phảng phất như mùi hương

trong người Mộc Uyển Thanh tiết ra. Tuy có chỗ khác nhau thật song lại

vẫn là mùi hương của thiếu nữ. Thoạt tiên thì chàng cho là mùi hương ở

mình A Bích tiết ra nên không để ý. Thế rồi sau khi lão bộc ra khỏi nhà

khách, mùi hương đó tự nhiên đi đâu mất. Đoàn Dự sở dĩ thắc mắc mãi là ở

điểm này: có lý đâu một ông già tám chín chục tuổi đầu lại còn tiết ra một

mùi hương của cô gái mười tám đôi mư. Bây giờ gã gầy nhom tự xưng là

Tôn Tam này vừa vào, chàng lại ngửi thấy mùi hương ban nãy. Trong bụng

suy nghĩ lung lắm, bao nhiêu câu hỏi xoay lộn trong óc: phải chăng phía

sau nhà khách có thứ kỳ hoa, dị thảo gì nên mỗi khi người ở nhà trong đi ra

lại quyện lấy mùi hương này đi theo, khiến người ngửi phải mê mẩn tâm

thần? Nếu không đúng thế thì cả lão bộc già nua kia lẫn quản gia gầy nhom

này đều do một thiếu nữ đóng vai. Mùi hương tuy làm cho Đoàn Dự sinh

nghi nhưng nó rất đạm bạc, nó rất vi tế, phải là cái mũi đặc biệt của Đoàn

Dự mới ngửi thấy còn Cưu Ma Trí, Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi thì

không hay biết gì hết. Sở dĩ Đoàn Dự có được cái mũi thần tình như thế là

vì chàng đã bị giam cầm trong thạch thất với Mộc Uyển Thanh. Trải qua

một thời gian cực kỳ nguy hiểm mũi chàng quen thuộc với mùi hương của

nàng. Có thể nói là chàng đã khắc xương ghi dạ cái mùi hương thiếu nữ tiết

ra. Đối với cái mũi của chàng, mùi hương này mạnh hơn cả cái thơm của gỗ

đàn hương hay của bách hoa.

Đoàn Dự tuy nghi Tôn Tam là thiếu nữ hoá trang, song chàng ngó lui, ngó

tới mà không sao khám phá ra được. Gã Tôn Tam cũng rất thần tình, từ

tướng mạo cho đến cử chỉ, nói năng hoàn toàn ra vẻ đàn ông, không có kẽ

hở mảy may nào để lộ chân tướng. Sau chàng chợt nghĩ ra: Gái giả trai

muốn giỏi đến đâu thì giỏi cũng không thể nào giả ra được cái bìu cổ họng.

Thế rồi chàng cứ nhè chỗ cổ họng Tôn Tam để khám phá... Nhưng gã đã

khôn ngoan để chùm râu dê rủ xuống che khuất cái bìu đi, không sao mà

nhìn thấy được. Chàng liền đứng dậy, giả vờ xem những chữ treo trên vách,

rồi lại gần bên Tôn Tam, ghé mắt trông vào chỗ bìu cổ, quả cổ phẳng lỳ

không có tật nổi lên, rồi thì chàng lại nhìn xuống thấy bộ ngực gồ lên. Tuy

chưa chắc đã là ngực đàn bà nhưng đã trông nét mặt gầy đét của gã đàn ông

thì quyết nhiên ngực không thể đầy thế được. Đoàn Dự khám phá ra điều bí

mật này, chẳng lấy làm thú vị, lẩm bẩm: vai trò vẫn còn dài, chưa hết. Thử

xem cô ả diễn xuất ra sao?

Bỗng thấy Cưu Ma Trí thở dài nói với Tôn Tam:

- Bần tăng gặp quý chủ nhân hồi ở bên Thiên Trúc có bàn đến võ nghệ rồi

cùng nhau ý hợp tâm đầu, kết bạn tâm giao. Ai ngờ trời chẳng cho thọ, để

mình kẻ phàm phu tục tử này sống trộm ở đời, còn quý chủ nhân vội về thế

giới cực lạc. Bần tăng lặn lội từ nước Thổ Phồn xuống đến Trung Nguyên

chẳng qua vì tình bạn hữu thâm trọng, cốt sao được lạy trước mộ một lạy

còn có người đáp lễ hay không phỏng có chi là quan hệ? Phiền quản gia dẫn

bần tăng đến nơi là được.

Tôn Tam chau mày ra chiều suy nghĩ, gã ngập ngừng:

- Việc này... việc này...

Cưu Ma Trí ngắt lời:

- Nếu có điều chi nan giải, xin nói rõ cho biết!

Tôn Tam nói:

- Đại sư phụ là chỗ thâm giao với lão gia tiểu nhân, hẳn biết rõ tính người

lúc sanh thời. Lão gia tiểu nhân ghét cay, ghét đắng bất luận là ai đến thăm

người. Người thường bảo: những bọn đến đây chẳng là hạng tới sinh sự báo

thù thì lại là kẻ đến tầm sư học nghệ, dưới nữa là phường đến vay mượn,

hoặc thừa cơ đục nước buông câu, nhân lúc lộn xộn chẳng dắt trộm cừu

cũng khuân đồ vật. Người còn nói: đám sư mõ đến lại càng khó chịu... Chết

rồi... khó nói quá...

Gã nói đến đây tựa hồ như người buột miệng lỡ lời xúc phạm đến Cưu Ma

Trí, vội giơ tay lên bịt miệng. Những cử chỉ càng rõ ra vẻ một thiếu nữ, mắt

tròn xinh xinh và con ngươi đen láy. Tuy gã vội chớp mắt, rủ lông mày

xuống che đi nhưng làm sao dấu nổi Đoàn Dự đang lưu tâm dò xét. Chàng

thấy nàng bại lộ cơ quan, bất giác cả mừng lẩm bẩm: Gã Tôn Tam phi chỉ

là đàn bà mà còn là một vị nữ lang đang độ xuân xanh. Chàng liếc nhìn A

Bích thì khoé hạnh cô này đang nở một nụ cười ranh mãnh. Chàng không

còn nghi ngờ gì nữa, nghĩ thầm: "Cả gã Tôn Tam này cho chí lão già họ

Hoàng lúc nãy chỉ là một người, chưa biết chừng chính là A Châu tỷ

nương".

Cu Ma Trí vẫn giữ một bộ mặt từ bi than rằng:

- Người đời gian trá thì nhiều mà thật thà thì ít, Mộ Dung tiên sinh không

muốn giao kết với người phàm tục là phải lắm.

Tôn Tam nói:

- Quả vậy! Lão gia tiểu nhân có di ngôn rằng bất luận kẻ nào đến xin viếng

mồ quét mả, nhất thiết không cho vào. Thậm chí người còn bảo: mấy thằng

cha trọc, đa số không phải vì hảo tâm mà đến, chúng chỉ có ý muốn quật

mả ta lên mà thôi. Trời ơi! Đại sư phụ đừng phiền, lão gia tiểu nhân thoá

mạ thằng trọc là thoá mạ người ta kia, không phải có ý mạt sát sư phụ đâu.

Đoàn Dự nghe nói phải cười thầm: ai đời lại trước mặt nhà sư mà thoá mạ

thằng trọc bao giờ? Rồi chàng lại nghĩ: lão Cưu Ma Trí này bị người thoá

mạ đến thế mà y vẫn bình tĩnh được, tuyệt không lộ vẻ cáu giận chút nào.

Lão là con người đại gian đại ác phi thờng mới giữ được thái độ này.

Cưu Ma Trí nói:

- Quý chủ nhân di ngôn lại mấy câu đó rất có lý. Vì hồi sinh thời ông uy

danh lừng lẫy khắp thiên hạ, do đó mà dễ kết mối thâm cừu rất nhiều. Còn

sống họ không làm gì được nên ông chết rồi tất họ cố tình tìm đến động

chạm vào di thể ông để trả thù đó là một điều dĩ nhiên.

HỒI 28

Cái mũi thần tình

Tôn Tam đáp:

- Muốn động đến di thể lão gia tiểu nhân ? Ha ha! Cái đó thì đừng hòng.

Cưu MaTrí nói:

- Tôi với Mộ Dung tiên sinh vốn là chỗ tri giao, nên tôi chỉ cốt đến viếng

mộ thôi, ngoài ra không có ý gì khác, quản gia bất tất phải đa nghi?

Tôn Tam vẫn cương quyết đáp:

- Thực ra việc này tiểu nhân không thể tự chủ được. Nếu làm trái với lời di

ngôn của lão gia, khi công tử về tra hỏi ra sẽ đánh tiểu nhân gãy cẳng mất.

Thôi để tiểu nhân hỏi ý kiến lão thái thái xem sao, rồi sẽ trả lời.

Cưu Ma Trí hỏi:

- Lão thái thái là ai?

Tôn Tam đáp:

- Là thúc mẫu lão gia tiểu nhân. Các bạn hữu của lão gia mỗi khi tới đây

vào chào lão thái thái đều phải cúi đầu lạy. Khi công tử vắng nhà thì mọi

việc đều phải lĩnh ý lão thái thái.

Cưu Ma Trí nói:

- Như thế càng hay! Nhờ quản gia vào bẩm với lão thái thái là có Cưu Ma

Trí ở nước Thổ Phồn tới thăm.

Tôn Tam đáp:

- Ông khách khí quá, chúng tôi không dám.

Khi Tôn Tam quay vào nhà trong rồi, Đoàn Dự ngẫm nghĩ: "cô gái này thật

là tinh quái. Không hiểu cô ta trêu cợt Cưu Ma Trí với dụng ý gì?". Được

một lúc văng vẳng có tiếng hoàn hội leng keng, một bà già từ trong nội

đường đi ra, người chưa tới mà mùi hương đã thoang thoảng đưa vào mũi

Đoàn Dự. Đoàn Dự không nhịn cười được. Lần này chàng nhận rõ đó là một

thiếu nữ hoá trang thành bà lão, mình mặc áo đoạn màu da đồng, cổ tay đeo

vòng ngọc, cách phục sức rất sang trọng, trên má có nhiều vết nhăn, mặt

mũi kèm nhèm, tựa hồ như không trông rõ gì hết. Đoàn Dự trong bụng

không khỏi khen thầm: cô bé này hoá trang giỏi tuyệt, trá hình ai ra người

ấy, khó mà khám phá ra được. Tài nhất là chỉ trong khoảnh khắc nàng đã

cải trang xong, chân tay mau lẹ đến cực điểm.

Bà già tay chống gậy, người run lẩy bẩy tiến ra tới nhà ngoài liền hỏi:

- A Bích! Bạn của lão gia mi đã tới đấy ? Sao không thấy bái kiến ta?

Mụ nghiêng đầu nhìn bên đông lại nghẹo cổ ngó bên tây, hai mắt như bị

quáng loà, không nhận ra người nào ở chỗ nào. A Bích quay sang Cưu Ma

Trí, khoa tay làm hiệu và khẽ nói:

- Hoà thượng mau mau dập đầu bái kiến đi! lão thái thái mà vừa lòng thì

muốn yêu cầu việc gì cũng được hết.

Bà già nghiêng đầu, đưa bàn tay lên, kéo vành tai lại tựa hồ để nghe cho rõ

rồi lớn tiếng hỏi:

- Con ranh con! Mi nói cái gì vậy? Người ta đã cúi đầu lạy chưa?

Cưu Ma Trí bèn lên tiếng:

- Lão phu nhân mạnh giỏi! Tiểu tăng xin thi lễ.

Đoạn chắp tay xá dài, kình lực từ hai bàn tay phát ra, đập xuống thềm gạch

kêu "binh binh" nghe tựa như là tiếng dập đầu xuống đất lạy.

Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi đưa mắt nhìn nhau và phập phòng lo sợ: lão

sư này nội lực mạnh đến thế, e rằng khó lòng đấu nổi với lão được một đòn.

Bà già gật gù thủng thẳng nói:

- Ngán cho cái thế giới này! Kẻ gian trá thì nhiều, người thực thà thì ít.

Ngay một việc cúi đầu lạy còn có đứa tồi tệ, dở tuồng ranh mãnh giả dối,

rành rành nó không sụp lạy mà nó làm trò cho dưới đất phát ra tiếng kêu tựa

hồ như tiếng đập đầu xuống thềm. Nó khinh ta không nhìn thấy gì mà! Để

xem ta có khen nó ngoan, nó giỏi, sụp đầu lạy vang lên những tiếng "bốp

bốp".

Đoàn Dự không nhịn được, phì ra một tiếng cười lí nhí.

Bà già từ từ quay đầu lại hỏi:

- A Bích! Đứa nào hư hỗn, vô ý thế hử?

Bà vừa nói vừa đưa tay lên bưng mũi. A Bích bật cười nói:

- Thưa lão thái thái! không phải cái trò bất lịch sự đâu. Đoàn công tử phì ra

tiếng cười trong cổ họng đấy ạ.

Bà già làm bộ nghễnh ngãng, nghe không ra hỏi lại:

- "Đoạn" gì? Làm sao mà đoạn? Cái gì đứt đoạn?

A Bích đáp:

- Không phải đoạn. Người ta họ Đoàn, công tử họ Đoàn.

Bà già gật đầu nói tiếp:

- Chà! Công tử gì mà lắm thế? Mi nhớ công tử của mi lắm nhỉ!

A Bích đỏ mặt đáp:

- Lão phu nhân cũng mong nhớ công tử hoài đấy thôi.

Bà già lại hỏi:

- Mi... mi nói cái gì? Công tử muốn ăn dưa hấu ?

A Bích bĩu môi cười đáp:

- Vâng! công tử muốn ăn dưa hấu, đồng thời muốn ăn cả anh đào nữa.

Đoàn Dự nghe hai người nói nói cười cười mà câu nào cũng có thêm nghĩa

bóng nữa. Càng nghe càng thấy rõ người giả dạng bà già này đúng là một cô

gái khác cải trang. Bà già đó quay sang hỏi Đoàn Dự:

- Thằng lỏi này! Sao thấy lão thái thái lại không cúi đầu lạy?

Đoàn Dự nói lảng sang chuyện khác:

- Lão thái thái! tại hạ có câu chuyện riêng muốn thưa cùng lão thái thái

nhưng cần phải giữ kín, không thể để cho người thứ hai nghe được.

Bà già quay đầu lại hỏi:

- Mi bảo sao?

Đoàn Dự ghé tai nói nhỏ với bà lão:

- Tại hạ có một đứa cháu gái tên gọi A Châu dặn bảo: Y có câu chuyện

khẩn yếu cần trình lão thái thái trong phủ Mộ Dung.

Bà già đó lắc đầu lia lịa đáp:

- Không được nói nhảm, nói láo.

Đoàn Dự mỉm cười nói tiếp:

- Con cháu A Châu quả là đứa hay nói nhảm, nói láo, lại ưa hoá trang, chơi

cái trò con khỉ con hươu, nay giả dạng đàn ông, mai lại giả dạng đàn bà, nó

còn biết cả nghề đóng kịch nữa. Mỗi khi tôi bắt được đánh cho bết đít mà

vẫn không chừa.

Bà già này chính là A Châu, một ả nha hoàn khác trong phủ Mộ Dung hoá

trang. Thuật hoá trang của nàng khéo nhất trần gian, chẳng những về dung

mạo, mà về ngôn ngữ, cử chỉ, giọng nói điệu cười nhất nhất giống như in.

Có thể nói không sơ hở chút nào để người khám phá ra được. Chả thế mà

thông minh giảo quyệt như Cưu Ma Trí, lão luyện giang hồ như Thôi Bách

Kế cũng đều tin là thực chứ không mảy may nghi ngờ. Ai ngờ Đoàn Dự lại

phát giác ra được chân tướng của nàng nhờ ở cái mùi hương thoang thoảng

êm dịu từ trong người nàng tiết ra mà nàng vô phương che dấu. Nghe Đoàn

Dự nói A Châu giật mình. Song nàng trấn tĩnh được ngay không hề thay đổi

sắc mặt vẫn giữ bộ dạng già nua, mắt mờ tai điếc, nàng nói bóng với Đoàn

Dự:

- ừ thằng nhỏ tinh khôn lắm, thực là một đứa thông minh tuyệt trần. Trên

đời này ta chưa thấy đứa nhỏ nào tinh khôn được thế. Mi phải khôn ngoan

giữ mồm giữ miệng, bà thương yêu đặc biệt nghe!

Đoàn Dự nghe lời nàng biết nàng có ý khuyên chàng đừng tiết lộ hành tông

của nàng, để nàng đối phó với thằng giặc Cưu Ma Trí. Chính chàng cũng

cần nàng giúp sức để thoát hiểm thế thì nàng đối với chàng là bạn chứ

không phải là thù nên chàng đáp:

- Xin lão thái thái cứ yên tâm! Tại hạ đã tới tôn phủ thì nhất thiết mọi điều

đều tuỳ ở nơi lão thái thái xếp đặt.

A Châu a đóng kịch, nàng nói tiếp:

- Mi có biết nghe lời ta mới là đứa trẻ ngoan ngoãn. Trước hết hãy cúi đầu

lạy ta ba lạy đi đã! Ta sẽ nhất quyết không để thiệt cho mi đâu.

Đoàn Dự ngẩn người ra và tự nghĩ: "ta đường đường là một vị thế tử con

Trấn Nam Vương ở nước Đại Lý, lẽ nào lại lạy một ả nữ tỳ?".

A Châu thấy Đoàn Dự có vẻ lúng túng, nàng cười khà khà nói tiếp:

- Có kẻ chết đến sau gáy mà còn tự cao, tự đại. Thằng nhỏ ngoan! Ta bảo

mi, mi hãy lạy lão nương mấy lạy đi nào!

Đoàn Dự quay đầu sang bên chợt thấy A Bích nhếch mép tủm tỉm cười ranh

mãnh liếc mắt nhìn chàng, nước da trắng mịn như nhân trái hồng lăng mới

bóc vỏ, ở bên mép có một nốt ruồi nhỏ lại càng tăng thêm vẻ kiều mỵ khiến

lòng chàng rung động, cất tiếng hỏi:

- A Bích tỷ nương! nghe nói trong tôn phủ còn có chị A Châu tỷ nương,

nàng có mỹ miều nhuần nhã như tỷ nương không?

A Bích mỉm cười đáp:

- Trời ơi! Tôi xấu như ma lem có chi đáng kể? Chị A Châu mà nghe thấy

công tử hỏi thế tất giận lắm đó. Tôi đâu dám bì với chị A Châu, chị còn

tuấn tú gấp mười tôi.

Đoàn Dự hỏi lại:

- Quả vậy ?

A Bích đáp:

- Tôi nói dối công tử làm gì?

Đoàn Dự lắc đầu hoài nghi:

- Đẹp gấp mười chị? Trên đời này làm gì có người như vậy? Trừ phi là... là

nàng tiên ở trong thạch động kia thôi, còn người thì đẹp xuýt soát như chị

cũng đã là hiếm có lắm rồi.

A Bích hai má ửng hồng có vẻ thẹn thùng, nàng nói:

- Lão thái thái bảo anh cúi đầu lạy chứ ai bảo anh tán róc lấy lòng tôi.

Đoàn Dự lại hỏi:

- Lão phu nhân lúc đương thì chắc cũng là một vị tuyệt sắc giai nhân

nghiêng nước, nghiêng thành đấy nhỉ. Nói thực ra, lão thái thái đối với tôi

tốt hay không chưa biết nhưng Đoàn Dự này vẫn chưa có một ấn tượng gì ở

trong lòng. Có điều cúi lạy một vị tuyệt thế giai nhân thì tôi rất cam tâm.

Nói xong quỳ gối xuống liền và nghĩ thầm: "Ta đã lạy thì phải dập đầu cho

thật kêu. Trước mình lạy pho ngọc tượng trong động hàng nghìn lạy còn

được thì nay có lạy người đẹp đất Giang Nam ba lạy đã ăn thua gì?". Thế

rồi chàng dập đầu xuống đất kêu "kịch kịch kịch" ba tiếng. A Châu rất hài

lòng nghĩ thầm: "Đoàn công tử biết rõ ta là một đứa nha hoàn mà công

nhiên chịu cúi đầu lạy, thật là hiếm có". Nàng khen:

- Thằng nhỏ ngoan lắm! Tốt lắm! Tiếc rằng ta không đem tiền kiến diện...

để thưởng cho mi.

A Bích nói xen vào:

- Lão thái thái đừng quên là được rồi. Lần sau sẽ bù cho ngươi ta cũng thế.

A Châu đưa mắt nguýt A Bích rồi quay sang nói với Thôi Bách Kế và Quá

Ngạn Chi:

- Còn hai vị khách này tại sao không cúi đầu lạy, làm lễ bái kiến ta?

Quá Ngạn Chi hứ một tiếng và hỏi một cách sống sượng:

- Mụ có biết võ nghệ hay không?

A Châu ra vẻ nghễnh ngãng chưa nghe rõ, hỏi lại:

- Ngươi bảo sao?

Quá Ngạn Chi nhắc lại:

- Ta hỏi mụ có biết võ nghệ không? nếu là người võ công cao cường thì Quá

Ngạn Chi này tình nguyện lãnh cái chết ở dưới tay Mộ Dung lão thái thái,

còn nếu không phải là nhân vật trong võ lâm thì ta bất tất nhiều lời với mụ

làm gì?

A Châu vờ nhãng tai nghe "võ công cao cường" ra "ngô công bách cước"

nàng lắc đầu đánh trống lảng:

- Ngươi bảo "ngô công bách cước" chi chi đó, ta xem chừng ngươi say mất

rồi. Con rết trăm chân thì đâu mà chẳng có nó cắn người đau lắm đấy.

A Châu lại quay sang hỏi Cưu Ma Trí:

- Còn đại hoà thượng! Nghe nói mi muốn quật mả Mộ Dung tiên sinh lên,

định lấy trộm bảo bối phải không?

Cưu Ma Trí tuy không ngờ mụ là thiếu nữ hoá trang nhưng cũng biết là mụ

giả điếc, giả ngây, quyết không phải là một bà già đã đến mức lẫn lộn nhưthế nên lão vẫn dè dặt và nghĩ thầm trong bụng: "Mộ Dung tiên sinh đã giỏi như thế thì bậc tiền bối tiên sinh tất nhiên không phải hạng bản lãnh tầm

thường". Lão liền vờ như không nghe rõ hai chữ "quật mả" bèn đáp:

- Tiểu tăng cùng Mộ Dung tiên sinh là chỗ bạn tri giao, được nghe tin buồn

tiên sinh tạ thế nên lặn lội từ nước Thổ Phồn đến đây với mục đích duy nhất

là kính bái trước linh vị Mộ Dung tiên sinh mà thôi. Tiểu tăng có một điều

ước hẹn với tiên sinh từ lúc sinh tiền là lấy được quyển đồ hoạ Lục Mạch

Thần Kiếm đưa cho tiên sinh xem. Lời ước đó không thực hành được, tiểu

tăng rất lấy làm hổ thẹn.

A Châu nghe đến chữ "Lục Mạch Thần Kiếm" không khỏi giật mình, nàng

cũng biết đó là một môn võ công siêu việt, gần đây chính nàng cũng được

nghe công tử nhắc tới. A Châu và A Bích đưa mắt nhìn nhau và đều biết là

Cưu Ma Trí đã nói vào chính đề rồi. A Châu hỏi:

- Lấy được quyển đồ hoạ "Lục Mạch Thần Kiếm" thì sao? Mà không lấy

được thì làm gì?

Cưu Ma Trí đáp:

- Năm xưa tiên sinh cùng ước hẹn với tiểu tăng: nếu tiểu tăng lấy được

quyển đồ họa Lục Mạch Thần Kiếm đưa cho tiên sinh xem mấy ngày thì

tiên sinh sẽ cho tiểu tăng đến xem mấy quyển thiên thư tại Lang hoàn thuỷ

các trong quý tự.

A Châu thất kinh nghĩ bụng: "lão sư này biết cả đến cái tên Lang hoàn thuỷ

các, có lẽ lão nói thực cũng chưa biết chừng". Tức thời nàng giả vờ nghễnh

ngãng nghe "lang hoàn thuỷ các" ra "đường cao thuỷ giáo" liền hỏi lại:

- Ngươi muốn ăn bánh ngọt, canh gà ? Cái đó dễ lắm nhưng ngươi đã xuất

gia làm sao ăn được món mặn?

Cưu Ma Trí quay sang bảo A Bích:

- Lão thái thái đây không hiểu là lẫn lộn thực hay giả vờ. Tôi có nghe những

tay cao thủ các phái võ Trung Nguyên đương tụ họp tại Thiếu Lâm tự để

thương nghị đối phó với nhà Mộ Dung ở Cô Tô đây. Tiểu tăng nghĩ tình hữu

nghị với Mộ Dung tiên sinh, cũng muốn đem chút tài mọn để giúp một tay.

Song xem thái độ lão thái thái thế này là cự tuyệt cả đến người ở xa hàng

mấy ngàn dặm há chẳng khiến cho bạn hữu phải bào tâm ru?

A Châu vẫn một giọng ỡm ờ:

- Sao? Nhà sư lạnh bụng à? A Bích đâu mau đi lấy một tô cháo tiết gà tiết

vịt nóng để đại sư ăn cho ấm ruột gan lại.

A Bích nhịn cười đáp:

- Đại sư phụ có ăn mặn được đâu?

A Châu đưa tay lên gõ nhẹ vào trán nói:

- Phải đó, phải đó! Nhà sư không ăn mặn được, thế thì đừng dùng gà vịt thật

mà dùng gà vịt chay vậy!

A Bích hỏi:

- Thưa lão thái thái! Gà chay thì làm gì có tiết?

A Châu phều phào:

- ừ nhỉ! Thế ra mình lẩn thẩn thực biết làm thế nào bây giờ?

Hai nàng đối thoại, kẻ tung người hứng, toàn là chuyện bịa đặt. Người ở Tô

Châu ai cũng mồm miệng bẻo lẻo, nói năng hoạt bát. Đời sau nơi đây kỹ

thuật ca kịch nổi tiếng với thiên hạ cũng do tập quán này mà ra. Hai ả nha

hoàn này bình nhật vẫn trơ tráo cười đùa quen rồi, cái lối đùa dai của chúng

khiến cho Cưu Ma Trí bực mình mà không làm gì được. Cưu Ma Trí đi Cô

Tô chuyến này cốt gặp Mộ Dung công tử để thương lượng một công cuộc to

tát. Nào ngờ không gặp được người chủ mà lại gặp toàn những người ngoài

cuộc xen vào chẳng hiểu tâm địa họ ra sao? Cách đón tiếp hữu ý hay vô

tình, hư hư thực thực, khiến cho lão không biết đối phó thế nào cho phải.

Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí cũng là một nhân vật ghê gớm, sau một

lúc suy nghĩ lão đã đoán chắc cả ba người: lão thái thái, Tôn Tam và Hoàng

lão bộc đều có ý thoái thác, không muốn cho y xem sách trong lang hoàn

thuỷ các. Lão quyết định: bất chấp đối phương bày mưu lập kế thoái thác

bằng cách nào đi chăng nữa lão cũng nói thẳng vào đề ngay rồi sau hoặc đối

xử bằng cách nhân nhượng hay là phải cương quyết dùng võ lực, cũng cần

hiểu rõ để liệu chiều đối phó.

Cưu Ma Trí ôn tồn nói:

- Quyển đồ họa Lục Mạch Thần Kiếm tiểu tăng đã mang theo đây nên mới

dám cả gan muốn vào xem sách trong lang hoàn thuỷ các của quý phủ.

A Bích đáp:

- Mộ Dung tiên sinh đã qua đời, hoà thượng nói sao chúng tôi hay vậy chứ

khẩu thuyết vô bằng biết đâu mà tin. Hơn nữa giả tỷ đại sư có mang đồ hình

tới đây chúng tôi cũng không ai xem được. Thế thì trước kia hai bên có lời

giao ước với nhau thế nào bây giờ cũng không còn hiệu lực nữa.

A Châu hỏi xen vào:

- Quyển đồ hoạ gì vậy? ở đâu đưa ta coi trước xem thật hay giả?

Cưu Ma Trí chỉ Đoàn Dự đáp:

- Đoàn công tử đây đã thuộc lòng quyển đồ hoạ đó nên tôi có đem chàng đi

theo cũng như mang quyển đồ hoạ đó vậy.

A Bích mỉm cười nói:

- Tôi cứ tưởng có quyển đồ hoạ đó thật, té ra đại sư nói đùa.

Cưu Ma Trí nói tiếp:

- Tôi đâu dám nói đùa? Nguyên quyển đồ hoạ chính đã bị Khô Vinh đại sư

chùa Thiên Long nước Đại Lý đốt mất rồi. Cũng may mà Đoàn công tử còn

nhớ được rành mạch cả, vậy công tử đây tức là quyển đồ hoạ sống đó.

A Bích nói:

- Đoàn công tử nhớ được thì việc đó thuộc về việc riêng Đoàn công tử mà

người được vào lang hoàn thuỷ các xem sách cũng sẽ phải là Đoàn công tử,

có can dự gì đến đại sư?

Cưu Ma Trí đáp:

- Tiểu tăng muốn được thực hiện lời ước ngày trước, đem Đoàn công tử đốt

trước mộ phần Mộ Dung tiên sinh.

Mọi người nghe nói đều thất kinh, nhìn nét mặt Cưu Ma Trí vẫn thản nhiên

chứ không có vẻ gì là lão nói đùa cả.

A Bích hỏi:

- Đại sư phụ nói đùa hẳn. Đường đường là một con người chứ có phải mớ

củi đâu mà muốn đốt lúc nào thì đốt?

Cưu Ma Trí đáp:

- Tiểu tăng mà định đốt y thì tin chắc rằng y không thể chống cự lại được.

A Bích nhếch mép cười nói tiếp:

- Thế mà đại sư phụ bảo Đoàn công tử thuộc lòng cả quyển đồ hoạ Lục

Mạch Thần Kiếm! Điều đó hoàn toàn bịa đặt. Tôi nghe nói "Lục Mạch

Thần Kiếm" lợi hại vô cùng, nếu Đoàn công tử biết kiếm pháp đó thì khi

nào lại chịu khuất phục dưới bàn tay đại sư?

Cưu Ma Trí gật đầu đáp:

- Điều đó cũng có lý nhưng cô nương mới biết có một mà chưa biết hai.

Đoàn công tử đã bị tiểu tăng điểm huyệt nên kình lực trong người không thể

vận dụng được, vì thế mà y phải chịu khuất phục.

A Châu vẫn lắc đầu lia lịa nói:

- Ta không thể tin ngươi được. Ngươi hãy giải các huyệt đạo cho công tử,

để chàng sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm cho ta xem đã. Chứ ta thấy chín

mươi phần trăm là ngươi nói dối.

Cưu Ma Trí gật đầu đáp:

- Được rồi! Để tiểu tăng thử cho lão thái thái coi.

A Bích và A Châu rất có cảm tình với Đoàn Dự. Nghe Cưu Ma Trí nói đã

điểm huyệt chàng, hai nàng tìm cách bịp lão để lão chịu giải huyệt đạo cho

chàng. Không ngờ hai nàng vừa nói, Cưu Ma Trí đã đưa bàn tay vỗ hờ trên

các chỗ huyệt đạo ở lưng, trước ngực và vế đùi Đoàn Dự mấy cái. Lập tức

Đoàn Dự đã cảm thấy những mạch máu trong các huyệt đạo lưu thông được

ngay chứ không còn bế tắc nữa. Chàng chỉ hơi vận khí một chút đã thấy nội

lực chuyển động dễ dàng như không. Chàng lại thử chiêu theo phương pháp

vận khí trong "trung xung kiếm pháp" vận nội lực ra huyệt trung xung ở

ngón tay giữa bên phải, tức khắc cảm thấy ngón tay giữa nóng ran, chàng

biết chỉ duỗi ngón tay ra là một đường kiếm khí đã phóng theo liền.

Cưu Ma Trí nói:

- Đoàn công tử! Mộ Dung lão thái thái không tin rằng công tử đã luyện

được Lục Mạch Thần Kiếm, xin công tử như tôi đây để chém đứt một cành

trên cây quế kia xuống.

Lão nói xong vận động chân lực vào bàn tay, rồi giơ tay chém một đường

theo pháp hoả diệm đao. Bỗng nghe rắc một tiếng, một cành quế rất lớn ở

trên cây giữa sân đã không gió mà gãy và chỗ gãy tầy như dùng dao kiếm

sắc bén chém đứt vậy.

Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi bất giác đều kêu lên một tiếng "úi chà". Hai

người tuy biết võ công Cưu Ma Trí rất ghê gớm từ lâu, khó lòng mà địch nổi

lão được, song chỉ cho là loại có tà thuật về bàng môn tả đạo mà thôi. Bây

giờ thấy lão dùng chưởng lực chặt đứt một cành cây to như thế mới biết nội

lực lão thâm hậu đến cực điểm trên đời ít người bì kịp.

Đoàn Dự lắc đầu đáp:

- Tôi không hiểu một chút võ công nào hết và cũng chẳng biết gì về Lục

Mạch Thần Kiếm hay Bát mạch thần đao nào cả. Một cành quế hoa đẹp đẽ

như thế của người ta, sao ngươi lại chặt đi?

Cưu Ma Trí nói:

- Công tử quá khiêm làm gì thế? võ nghệ công tử vào bậc nhất trong các vị

cao thủ họ Đoàn nước Đại Lý. Hiện nay ngoại trừ Mộ Dung công tử và tại

hạ ra thì ít ai địch nổi công tử. Trong phủ Cô Tô Mộ Dung đây là một kho

tàng về võ học, công tử hãy thi thố vài đường để lão thái thái chỉ điểm thêm

cho! Đó là một điều rất hay chứ sao?

Đoàn Dự giận dỗi đáp:

- Suốt dọc đường ngươi đối với ta vô lễ như thế nào, đem ta cắp ngang, xách

dọc, rút xuôi, kéo ngược, lôi ta đến Giang Nam này thế tức là ta đã bị khuất

nhục dưới võ công của ngươi mà đành bó tay không làm sao được. Chính ta

không muốn nói gì với ngươi nữa. Nhưng ta thấy nơi đây phong cảnh hữu

tình, lại có người đẹp như tiên, những sự oán hờn chứa chất trong lòng ta đã

tiêu tan hết. Thế là thôi, sự liên quan giữa chúng ta từ đây cắt đứt, không ai

nói đến ai nữa.

A Châu và A Bích thấy cái dáng điệu đồ gàn của Đoàn Dự cũng đã buồn

cười lại nghe thấy chàng nói tán dương mình bất giác trong lòng cũng cảm

thấy hứng thú.

Cưu Ma Trí lại nói:

- Công tử không chịu diễn thử Lục Mạch Thần Kiếm, tức là cố ý để tỏ ra lời

tôi nói bịa đặt chứ gì?

Đoàn Dự đáp:

- Chính ngươi vẫn quen mở mồm bịa chuyện, nếu thực có ước hẹn với Mộ

Dung tiên sinh thì sao ngươi không đến Đại Lý lấy kiếm kinh sớm đi mà lại

đợi Mộ Dung tiên sinh quy tiên rồi, không còn người đối chứng mới đến

phủ Mộ Dung nói thiên hô bách sát? theo chỗ ta nhận xét thì ngươi có ý

hâm mộ võ công cao siêu của nhà Mộ Dung đây rồi bịa chuyện ra, đánh lừa

lão thái thái cho ngươi vào tàng thư các, xem trộm hộ kinh kiếm pháp để

xưng hùng với thiên hạ. Cưu Ma Trí ngươi thử nghĩ coi! Người ta đã là nhân

vật lừng danh trong võ lâm chẳng lẽ lại không hiểu rõ cái mánh khoé bịp

bợm của ngươi hay sao? Nếu ngươi dùng những lời hoa mỹ xảo trá mà đánh

lừa lấy cắp được bí quyết võ công của nhà Mộ Dung thì những kẻ lừa bịp

thiên hạ này thiếu gì? Còn đâu đến lần ngươi nữa mà hòng?

Cưu Ma Trí lắc đầu cải chính:

- Đoàn công tử! Sự suy đoán của công tử sai rồi. Tiểu tăng và Mộ Dung tiên

sinh tuy đính ước với nhau đã lâu, song vì tiểu tăng còn phải đóng cửa luyện

môn "hoả diệm đao" trong chín năm chưa thành, không ra khỏi ngõ. Vì thế

mà chưa đến nước Đại Lý. Giả tỷ tiểu tăng chưa thấu đáo được môn "hoả

diệm đao" thì lần này không yên thân mà ra khỏi chùa Thiên Long được

nữa...

Đoàn Dự ngắt lời:

- Đại hòa thượng! Ngươi đã có tham danh lại đủ quyền vị võ công cao

cường đến thế, ung dung là một vị hộ pháp quốc vương nước Thổ Phồn. Cứ

ở yên trong cái địa vị đó há chẳng vinh dự rồi sao? Hà tất còn xuống Giang

Nam đánh lừa người ta? Ta khuyên ngươi nên quay về sớm đi là hơn!

Cưu Ma Trí nói:

- Nếu quả công tử không chịu diễn Lục Mạch Thần Kiếm thì đừng trách

tiểu tăng vô lễ.

Đoàn Dự đáp:

- Ngươi đã vô lễ nhiều rồi, chẳng lẽ lại còn cách nào vô lễ hơn thế nữa? Chỉ

còn cách chém ta một đao giết đi là cùng chứ gì?

Cưu Ma Trí lại hỏi vắn tắt:

- Bây giờ công tử có theo lời tiểu tăng hay không?

Đoàn Dự thủng thẳng đáp:

- Thế hử! Rất có thể...

Cư Ma Trí hớn hở nói:

- Thế thì xin diễn thử mấy đường thần kiếm!

Đoàn Dự hỏi lại:

- Thần kiếm à? Mi có kiếm không? cho mượn một thanh coi!

Cưu Ma Trí trong lòng có vẻ bực bội đáp:

- Công tử chủ ý định làm nhục bần tăng! hãy coi đao pháp đây!

Nói xong lão giơ tay trái lên, tức thời một luồng kinh phong từ trong tay

phát ra nhằm đánh thẳng vào mặt Đoàn Dự.

Đoàn Dự đã có chủ ý từ trước, tự biết võ công mình không kịp đối phương,

có giao đấu hay không giao đấu kết quả cũng nh ưnhau mà thôi. Lão đã

muốn bắt buộc chàng phải chứng minh là có biết sử dụng Lục Mạch Thần

Kiếm cho mọi người hay, đã thế chàng làm ngược hẳn lại ý định của Cưu

Ma Trí. Chàng thấy đao của lão chém tới, cứ để mặc, chẳng đánh lại mà

cũng chẳng thèm chống đỡ.

Cư Ma Trí kinh hoảng vì lão chưcó ý định dùng kình lực giết chàng ngay

bây giờ. Lão vội đưa bàn tay hất ngực lên, một luồng gió lạnh vèo qua, xén

đứt hẳn một mớ tóc trên đầu chàng. Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi nhìn

nhau hoảng vía. A Châu và A Bích cũng đều tái mặt.

Cưu Ma Trí tiu nghỉu nói:

- Thế nào công tử đành chịu chết chứ không chịu ra tay sao?

Đoàn Dự đã sớm gạt sự sống chết ra ngoài tâm trí rồi nên chàng khanh

khách cười đáp:

- Đại hoà thượng đủ cả: tham, sân, ái, dục, si mà còn công nhiên nhận làm

một vị cao tăng cửa Phật thì ra chỉ có hư danh thôi.

Cưu Ma Trí đột nhiên đánh luôn vào A Bích một chưởng và nói:

- Dùng lời tử tế không xong thì trước hết ta phải giết một con bé trong phủ

Mộ Dung cho biết tay.

Bị đánh bất thình lình A Bích thất kinh vội nghiêng người né tránh khỏi

đường đao. Bỗng nghe thấy "sầm" một tiếng, chiếc ghế ở sau nàng đã bị

kình lực đụng phải gãy vụn ra. Cưu Ma Trí lại giơ tay phải đánh luôn đao

thứ hai. A Bích nằm phục xuống, lăn đi một vòng. Tuy nàng mau lẹ nhưng

cũng sợ hãi rụng rời. Cưu Ma Trí quát to lên một tiếng rồi phóng ra đường

đao thứ ba chém tới. A Bích sợ tái mặt. Tuy nàng chân tay lanh lẹ nhưng

đối với sức nội kình vô hình vô ảnh nàng không biết đánh đỡ cách nào cho

đúng. A Châu đối với A Bích như tình ruột thịt. Thấy bạn bị nguy nàng

không kịp suy nghĩ gì hết liền giơ gậy lên nhằm đánh thẳng vào sau lưng

Cưu Ma Trí. Lúc A Châu đứng nói chuyện hay là lúc từ từ cất bước đi trông

giống hệt như một bà già bảy tám mươi không sai một mảy may nào nhưng

lúc này vì sự nguy cấp đành liều mạng thì thân pháp nàng lại cực kỳ mau lẹ.

Cưu Ma Trí thoáng nhìn đã khám phá ra ngay, lão mỉm cười nói:

- ồ thiên hạ lại có bà già 17, 18 tuổi, nàng định lừa bịp hoà thượng này đến

bao giờ?

Nói xong lão đánh trả lại luôn một chưởng. Chiếc gậy trúc của A Châu bị

gãy làm ba đoạn. Đồng thời lão lại phóng luôn một đao nhằm chém bổ vào

A Bích.

Trong lúc hoảng hốt A Bích quờ tay vớ liều một cái bàn, nghiêng mặt bàn

ra đỡ. Bỗng nghe "chát chát" mấy tiếng, chiếc mặt bàn bằng gỗ tử đàn đã bị

gãy vụn, chỉ còn trơ lại hai chân trong tay A Bích.

Đoàn Dự thấy A Bích lưng tựa vào vách, không còn đất lùi mà Cưu Ma Trí

lại đánh tiếp luôn chưởng nữa. Lúc đó Đoàn Dự chỉ nghĩ đến việc cứu người

là khẩn cấp chứ không kịp suy tính ra mình không phải là địch thủ của Cưu

Ma Trí, chàng liền duỗi ngón tay giữa ra một cái, luồng kình lực từ huyệt

trung xung bắn vụt ra kèm những tiếng kêu "vo vo". Đó chính là trung xung

kiếm pháp.

Kỳ thực Cưu Ma Trí đâu có định giết A Bích, bất quá lão chỉ cần bức bách

Đoàn Dự phải ra tay. Không thế thì lão đã sử dụng những thế thần diệu

trong "hỏa diệm đao" là A Bích hết đường né tránh. Cưu Ma Trí thấy Đoàn

Dự quả nhiên trúng kế, lão lại trở tay đánh luôn A Châu một chưởng. Luồng

chưởng lực phát ra làm cho A Châu lảo đảo cả người, vai áo rách toạc, A

Châu kinh hoảng rú lên. Đoàn Dự lại tức khắc sử dụng "thiếu mạch kiếm" ở

bên tay trái để chặn đón hoả diệm đao ở tay trái Cưu Ma Trí. Hai đao của

Cưu Ma Trí đều bị Lục Mạch Thần Kiếm của Đoàn Dự chặn đón, chàng đã

bảo vệ cho hai nàng A Châu, A Bích thoát khỏi cơn nguy hiểm. Cưu Ma Trí

vừa muốn biểu dương bản lĩnh của mình vừa muốn cho mọi người thấy

Đoàn Dự biết sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm nên cố ý phát huy kình lực cho

thật mạnh, những tiếng gió phát ra "vu vu" không ngớt. Đoàn Dự nhờ có

chu cáp thần công đã thu hút được bao nhiêu nội lực của mấy tay đại cao

thủ vào trong người nên lúc này nếu so về nội lực thì Đoàn Dự có phần

mạnh hơn Cưu Ma Trí. Song khốn nỗi chàng không hiểu một tý võ công nào

ngoài mấy thế kiếm mà chàng học được ở chùa Thiên Long. Chàng chỉ nhớ

một cách bất di bất dịch mấy đường trong Lục Mạch Thần Kiếm theo đúng

chiêu thức của nó chứ không biết biến hoá để ứng dụng. Cưu Ma Trí đem

chàng ra để đùa giỡn với chưởng lực. Nội lực hai bên xung đột, sức mạnh

phát ra làm cho tường vách và cửa sổ chung quanh nhà vỡ nát thành nhiều lỗ

thủng.

Cưu Ma Trí vừa đấu vừa khen:

- Lục Mạch Thần Kiếm quả nhiên lợi hại, trách nào năm xưa Mộ Dung tiên

sinh đã đem lòng hâm mộ.

Thôi Bách Kế cũng rất lấy làm kinh ngạc, lão lẩm bẩm: "trước mình vẫn

tưởng Đoàn Dự võ công tầm thường, nào ngờ lại có bản lãnh đến thế? họ

Đoàn nước Đại Lý đúng là danh bất hư truyền. Cũng may mà mình khi ở

phủ Trấn Nam Vương chưa làm việc gì xằng bậy nếu không thì chắc đã bị

họ Đoàn tống cổ đi rồi". Thôi Bách Kế nghĩ lại, mồ hôi toát ra lạnh toát cả

người.

Hai người giao đấu một hồi lâu, kỳ thực thì hiểm nào Cưu Ma Trí cũng có

thể đẩy Đoàn Dự vào tử địa được. Có điều lão cố ý kéo dài cuộc đấu để đùa

giỡn và phô trương tài năng. Sau lão hiểu rằng kiếm pháp Đoàn Dự quả có

chỗ độc đáo nhưng không hiểu sao chàng lại không biết phát huy ra chẳng

khác gì một đứa trẻ lên ba mà trong tay lại có gia tài hàng triệu nhưng

không biết tiêu xài. Rồi lão đâm ra khinh thị. Đánh vài hiệp nữa, thốt nhiên

Cưu Ma Trí lại nghĩ khác "nếu cứ giằng dai mãi, lỡ ra đối phơng chỉ tâm

linh lĩnh hội được yếu quyết võ công, thêm vào nội lực kiếm pháp hai môn

sở trường riêng của chàng chẳng hoá ra trở thành một kẻ kình địch vô cùng

lợi hại ?".

Đoàn Dự cũng biết là giờ phút này sự sống chết của chàng hoàn toàn đặt

trong tay Cưu Ma Trí, chàng gọi:

- A Châu! A Bích! Hai vị tỷ nương chạy đi mau lên! Không thì không kịp

đâu.

A Châu hỏi:

- Đoàn công tử! Tại sao công tử lại cứu chị em chúng tôi?

Đoàn Dự đáp:

- Vì tôi ghét tên hoà thượng này ỷ mình võ công cao cường, hoành hành bá

đạo, khinh khi người chung quanh. Đáng tiếc tôi không hiểu về võ công,

khó lòng địch lại lão. Các chị chạy mau đi thôi!

Cưu Ma Trí mỉm cười nói:

- Chạy cũng không thoát đâu!

Vừa nói dứt lời, Cưu Ma Trí đưa ngón tay trỏ bên trái nhằm điểm huyệt của

Đoàn Dự. Đoàn Dự kêu rú lên toan né tránh nhưng đã muộn. Ba yếu huyệt

của chàng đã bị Cưu Ma Trí điểm trúng, tức thời hai chân bị tê bại, té nhào

xuống đất. Chàng gọi ầm lên:

- A Châu, A Bích! Chạy mau đi! Chạy mau đi!

Cưu Ma Trí bật cười nói:

- Chết đến cổ họng, thân không giữ nổi lại còn thương hoa tiếc ngọc.

Đoạn lão ung dung lại chỗ ngồi nói với A Châu:

- Cô nương cũng bất tất phải dở trò quỷ quái làm gì nữa. Ai là người làm

chủ mọi việc trong phủ này? Đoàn công tử đã thuộc lòng cả quyển đồ hoạ

Lục Mạch Thần Kiếm. Có điều hắn không hiểu võ công nên khó mà sử

dụng được đó thôi. Ngày mai tôi sẽ đem hắn ra đốt trước mồ Mộ Dung tiên

sinh, nếu tiên sinh dưới suối vàng có linh thiêng, chắc cũng chứng dám lòng

thành cho ngưbạn già đã không phụ lời ước năm xa.

A Châu cũng hiểu rằng hiện tình trong toà "cẩm vận tinh xá" này không có

ai đối thủ nổi với Cưu Ma Trí. Nàng chau đôi mày liễu gượng cười nói:

- Được rồi! Lời lão hòa thượng nói chúng tôi có thể tin được. Phần mộ của

lão gia tôi cách đây chừng một ngày đường thuỷ. Hôm nay thì trời đã tối

rồi, sáng sớm mai chị em chúng tôi xin thân hành dẫn hòa thượng cùng

Đoàn công tử đi tảo mộ. Xin bốn vị hãy nghỉ ngơi một chút để đợi dùng

cơm chiều.

Nói dứt lời A Châu đứng dậy kéo tay A Bích cùng đi vào trong nhà. Đoàn

Dự nhìn theo bóng hai nàng nhăn nhó cười.

Sau độ nửa giờ thì thấy một tên hầu trai ra nói:

- Hai cô nương có lời mời bốn vị qua nhà "thính vũ" dùng cơm chiều.

Cưu Ma Trí cám ơn rồi dắt tay Đoàn Dự đi theo tên hầu trai. Quanh co theo

một con đừng nhỏ rải toàn đá sỏi lớn bằng quả trứng ngan một vòng, qua

mấy chỗ núi đá, cây hoa ra bờ hồ. Dưới một gốc liễu có buộc chiếc thuyền

nhỏ. Tên hầu chỉ một căn nhà nho nhỏ ở giữa hồ, bốn mặt đều có cửa sổ

nói:

- Nhà "thính vũ" kia rồi.

Tên hầu mời bốn người xuống thuyền rồi từ từ chèo ra. Khi tới gần thấy toà

nhà này làm toàn bằng cây thông, để cả vỏ trông thực trang nhã và đượm vẻ

thiên nhiên. Đoàn Dự vừa bước lên bờ đã thấy A Bích đứng đó đón khách.

Nàng mặc áo dài màu xanh lạt, má thoa một lần phấn mỏng. Đứng tựa bên

nàng là một vị nữ lang mặc áo hồng tuổi chừng 15, 16 nhìn Đoàn Dự tựa

như cời mà không phải cười, nét mặt đầy vẻ khôn ngoan lanh lợi. A Bích

thì khuôn mặt trái xoan trông rất thanh nhã và tươi đẹp, còn nữ lang kia

khuôn mặt tròn hai mắt linh động, mỗi người có một vẻ kiều diễm riêng để

làm rung cảm lòng người.

Đoàn Dự tới gần ngửi thấy một mùi hương phảng phất êm dịu và quen quen,

chàng mỉm cười hỏi:

- A Châu tỷ nương! cô là một vị nữ lang xinh đẹp như vậy mà giả trang làm

đàn bà lại giống đến thế? thật là tài tình.

Nữ lang này chính là A Châu. Nàng liếc mắt mỉm cười hỏi Đoàn Dự:

- Công tử bấy giờ phải cúi đầu lạy tôi ba lạy chắc bực mình lắm phải

không?

Đoàn Dự lắc đầu ngoay ngoảy đáp:

- Ba lạy đó rất có ý nghĩa. Có điều tôi đoán không được trúng lắm thôi.

A Châu hỏi:

- Công tử đoán thế nào mà không trúng?

Đoàn Dự đáp:

- Trước tôi đã đoán cô nương và cô A Bích cũng như nhau, đều là mỹ nhân

hiếm có ở đời. Tôi đinh ninh là hai cô chẳng khác nhau mấy, nào ngờ tới

khi gặp mặt thì cô này... cô này...

A Châu cướp lời:

- Phải chăng tôi còn kém A Bích xa?

Đồng thời A Bích cũng chen vào:

- Công tử thấy chị ấy đẹp gấp mười tôi, nhìn thấy phải giật mình chứ gì?

Đoàn Dự lắc đầu đáp:

- Trật hết, tôi cảm thấy cái tài tình của ông tạo hoá thực là khiến cho người

ta phục sát đất. Ông đã dốc tâm trí ra tạo nên một trang tuyệt sắc giai nhân

là A Bích cô nương, tưởng rằng bao nhiêu linh tú ở Giang Nam đã dùng hết

nhẵn rồi nào ngờ ông lại còn tạo thêm được một vị A Châu tỷ nương nữa.

Hai dung mạo khác nhau nhưg mỗi người đều có một vẻ đẹp ưa nhìn riêng,

tôi nghĩ mãi mà chưa tìm được câu nào để tỏ được cái vẻ diễm lệ của hai cô.

A Châu cười nói:

- Chà công tử thật là mồm mép trơn như mỡ, đã tán dương một tràng dài lại

còn bảo là không tìm được một câu nào để mô tả.

A Bích chậm rãi mời:

- Bốn vị giá lâm nơi hoang dã này không có gì đặc biệt để thết các vị, hãy

xin các vị dùng ly rượu nhạt và dùng mấy thứ món ăn ở địa phương Giang

Nam.

Đoàn nàng mời bốn người vào tiệc. Nàng và A Châu ngồi bồi tiếp ở ghế

đầu. Đoàn Dự thấy bát chén toàn bằng đồ sứ rất mỹ thuật và tinh xảo trong

bụng đã khen thầm. Ngoài các món xào nấu: tôm, cá, thịt còn bao nhiêu

hoa quả, bánh trái, trông đã đẹp mắt lại có mùi hương ngào ngạt.

Đoàn Dự tán dương:

- Có non sông gấm vóc mới nảy ra những bậc tuyệt thế giai nhân, có những

nhân vật tuyệt thế, tất có thông minh tài tử đặc biệt để chế tạo những món

ăn mỹ vị thanh cao.

A Châu hỏi:

- Công tử thử đoán xem các món ăn đây tôi làm hay A Bích làm?

Đoàn Dự đáp:

- Các món ăn mầu sắc rực rỡ mùi hương nồng nàn là của cô nương làm, còn

những món mầu sắc đạm nhạt, mùi vị thanh tân là cô A Bích làm.

A Châu vỗ tay cười đùa nói:

- Không ngờ thầy đồ gàn đoán đúng thế. A Bích cô bảo thưởng cho thầy cái

gì đây.

A Bích tủm tỉm cười đáp:

- Đoàn công tử sai bảo điều gì chúng ta sẽ hết sức tuân theo. Làm gì mà

thưởng mới chả thưởng, chúng ta chỉ là người phục dịch cho công tử.

A Châu hừ một tiếng và nói:

- Hễ cô mở miệng là nói bênh người ta rồi. Trách nào ai ai cũng bảo cô tốt,

còn tôi chẳng ra gì.

Đoàn Dự mỉm cời:

- Một cô thuỳ mị ôn hoà, một cô hoạt bát lanh lợi mỗi cô một vẻ riêng. A

Bích cô nương! lúc ngồi thuyền tôi có được nghe cô nương gẩy một khúc

đàn bằng cây nhuyễn tiên, dư âm hãy còn văng vẳng bên tai. Vậy dám cả

gan xin cô nương cho nghe một khúc bằng nhạc khí thực. Được thế thì dù

ngày mai có bị Cưu Ma Trí đốt thành tro cũng không uổng một đời.

A Bích nhẹ nhàng đứng dậy nói:

- Công tử không hiềm nhơ tai tôi xin hiến cái nghề mọn vụng về để vui lòng

quý khách.

Nói xong liền chạy vào phía sau bình phong lấy một cây dao cầm. Cây đàn

này ngắn hơn cây thất huyền cầm một thước mà có những chín dây, các dây

mầu sắc khác nhau. A Bích ngồi ngay ngắn trên chiếc cẩm đàn, để cây cửu

huyền cầm trước mặt và quay sang nói với Cưu Ma Trí:

- Xin đại s phụ chỉ giáo thêm cho!

Cưu Ma Trí đáp:

- Không dám.

Cưu Ma Trí băn khoăn, không hiểu sao nàng lại yêu cầu mình chỉ giáo?

Chẳng hay nàng có dụng ý gì?

A Bích hai tay trắng muốt như ngọc, hai ngón tay búp măng bên trái lần nhẹ

trên dây đàn, tay phải vừa bật vừa gảy, tiếng đàn tình tang nổi lên.

Đoàn Dự tuy không hiểu gì về võ công nhưng về các môn cầm kỳ thi hoạ

chàng rất thông thạo, vừa nghe qua mấy tiếng chàng đã hiểu ngay là chín

sợi dây đàn này chế tạo bằng chín thứ chất liệu khác nhau như thép đồng và

tơ chẳng hạn, cương thì rất cương mà nhu cũng rất nhu.

A Bích vừa dạo mấy cung, tiếng đàn trầm xuống dần dần, mỗi lúc một nhu

hòa. Bốn người ngồi nghe đều cảm thấy mí mắt nặng chĩu xuống, mơ màng

như người buồn ngủ.

Thôi Bách Kế thông hiểu nhiều về các loại quỷ mỵ trên chốn giang hồ nên

ngay từ lúc mới bắt đầu vào Mộ Dung trang đã nhất nhất đề phòng. Y vừa

nhắm mắt muốn ngủ nhưưng thốt nhiên kinh hoàng nghĩ thầm: "không xong

rồi! Con ranh này chắc nó ám toán gì chúng ta đây!". Rồi y gọi lớn:

- Quá hiền điệt! Những thủ đoạn gian hiểm trên chốn giang hồ thực đủ điều

kỳ dị! Hiền điệt phải lưu ý cẩn thận đó.

Quá Ngạn Chi gật đầu và trả lời một cách hàm hồ:

- Đúng thế! chúng ta phải sáng suốt mà nhận định.

Nói chưa dứt lời thì lại tiếp luôn một cái ngáp dài. Cái ngáp này tựa hồ có

sức truyền nhiễm, rồi cả Thôi Bách Kế, Đoàn Dự cũng ngáp theo. Tiếng

đàn lại càng dịu dàng réo rắt, bốn bề im lặng như tờ, mọi người đều cảm

thấy mệt mỏi, chỉ muốn nằm vật ra ngủ liền. Đột nhiên nghe "tưng" một

tiếng nhè nhẹ. Đoàn Dự đột nhiên cảm thấy trong miệng nóng ran rồi huyệt

"thiên trì" ở khuỷu tay thông chuyển được ngay. Đoàn Dự vừa mừng vừa sợ

nhưng chàng vẫn cho là lúc Cưu Ma Trí điểm huyệt chàng lão chưa dùng

toàn lực nên hiệu lực không được lâu, tới lúc này là nó tự giải đấy thôi. Nào

ngờ A Bích gẩy một lúc nữa lại bật lên một tiếng "tưng" thì huyệt "phách

hộ" sau lưng chàng cũng thông chuyển được. Đoàn Dự ngầm vận nội lực thử

xem thế nào thì thấy nội khí nửa người phía trên đã lưu thông được như

thường, không còn trở ngại gì nữa. Bấy giờ chàng mới biết là tiếng đàn của

A Bích cũng cảm ứng với nội khí người ta, nó công nhiên có năng lực giải

được huyệt đạo. Một lúc nữa hai huyệt đạo ở hai đùi cũng theo tiếng đàn mà

giải được hết. Đoàn Dự đưa mắt nhìn A Bích và trong lòng vô cùng cảm

kích. Thấy A Bích đang ngưng thần chuyển khí, hai tay lựa nắn giây đàn.

Một bên thì Thôi Bách Kế cùng Quá Ngạn Chi đang say ngủ ngáy pho pho,

một bên thì Cưu Ma Trí đang chắp tay ngồi, dường như lão đang vận kình

lực để chống lại với tiếng đàn của A Bích. Đoàn Dự nhìn chừng uống xong

chén trà thì thấy trên trán nàng rơm rớm mồ hôi, chỗ mái tóc có làn khói

nhè nhẹ bốc lên. Cưu Ma Trí hình lộ vẻ mỉm cười, đôi mắt vẫn sáng rực.

Đoàn Dự có vẻ băn khoăn lo rằng tiếng đàn của A Bích nếu không lung lạc

được Cưu Ma Trí thì e rằng trái lại nàng sẽ bị lão đả thương mất. Thế thì

mình đối phó thế nào để cứu được nàng? giữa lúc đó bỗng lại nghe A Châu

cất tiếng hát:

Gió heo sông Dịch lạnh lùng

Ra đi tráng sĩ còn mong đâu về?

Tiếng đàn rất là mềm mại mà ý nghĩa trong lời ca thì lại thẳng thắn hiên

ngang, hai đằng không ăn nhịp với nhau. Đoàn Dự lắng nghe cảm thấy có

điều quái dị.

HỒI 29

Mạn Đà sơn trang

A Châu hát đi hát lại ba lần câu:

Gió heo sông Dịch lạnh lùng

Ra đi tráng sĩ còn mong đâu về?

Đoàn Dự nhìn đoá hoa nhỏ cài bên món tóc mai nàng lúc nào cũng động

rung rinh, đôi môi tươi thắm biến thành lợt lạt, chàng sực nhớ ra lẩm bẩm

một mình: "Phải rồi! A Châu sở dĩ hát đi hát lại hai câu thơ này là nhủ ta

làm cái việc Kinh Kha hành thích Tần Thuỷ Hoàng. Nội lực A Bích không

thể địch nổi lão hòa thượng này, nếu cứ miễn cưỡng chống chọi hoài thì e

rằng nàng tất bị nội thương nguy kịch". Nghĩ vậy chàng ngấm ngầm ôn lại

các thế Lục Mạch Thần Kiếm. Chàng thử vận động khí lực ra thì đã thấy

thông đồng lu loát, không bị vấp váp ngăn trở chỗ nào. Chàng đọc sách

thánh hiền từ thuở nhỏ, lại thêm thấm nhuần kinh Phật, chí khí không khỏi

có đôi phần ngạo nghễ. Chàng nghĩ rằng: "các bậc đại trượng phu làm việc

phải cho quang minh lỗi lạc, thừa cơ người ta không phòng bị để đánh lén là

hành động đê hèn. Trong lòng đang còn phân vân chưa quyết, bỗng nghe

đánh "binh" một cái, một sợi dây đàn của A Bích đứt, nàng rùng mình một

cái. A Châu cũng im bặt tiếng hát, đôi đũa cầm trong tay toan ném vào Cưu

Ma Trí, thì lại "bục" một tiếng, một sợi dây đàn nữa đứt.

Thôi Bách Kế cùng Quá Ngạn Chi rú lên những tiếng kinh hồn. Đoàn Dự

thấy tình thế cực kỳ cấp bách, miệng lẩm bẩm: "vì việc cứu người ta đành

phải tòng quyền hành động đê hèn một chút vậy". Chàng vươn tay phải lên,

hai luồng kình lực ở ngón tay trỏ phóng ra nhằm Cưu Ma Trí đâm tới nhanh

như chớp. Đó là hai thế kiếm khí "thương dương" và "trung xung".

Giả tỷ Cưu Ma Trí đang công nhiên đấu kiếm cùng Đoàn Dự thì dù những

thế kiếm cấp bách hơn nữa lão cũng chống dễ như chơi. Nhưng lão yên trí

rằng huyệt đạo chàng mới bị phong toả, chưa làm gì được nên lão đem hết

nội lực ra đấu với tiếng đàn của A Bích. Giữa lúc lão chiếm được ưu thế,

những tưởng dùng tiếng đàn phản kích làm cho tâm thần A Bích phải mê

loạn, rồi quay sang hạ chốt A Châu là xong. Lão tuyệt nhiên không ngờ tới

chuyện Đoàn Dự phóng kiếm khí ra đâm mình. Lão kêu rú lên một tiếng,

người bắn tung đi. Đồng thời dây đàn A Bích đứt luôn năm sợi. Những tia

máu đỏ phun ra như tới, đó là lưỡi thần kiếm do Đoàn Dự phóng ra đã đâm

trúng vai bên phải Cưu Ma Trí.

A Bích tay trái kéo A Châu, tay phải níu Đoàn Dự nhảy vọt ra. Ba người

nhảy qua cửa sổ ra ngoài, rơi đúng vào con thuyền nhỏ. A Châu đưa tay ra

dúi đầu Đoàn Dự thấp xuống, rồi cầm luôn lấy mái chèo bơi thuyền đi.

Đoàn Dự bỗng nghe thấy thùm một tiếng rất lớn, chiếc thuyền tung lên rồi

lại hạ xuống, chẳng khác gì đang đi ngoài biển cả sóng to. Nước hồ bắn lên

tung toé, khắp mình mẩy ướt đẫm. Chàng quay đầu nhìn lại thấy Cưu Ma

Trí đứng trên bờ, đang lấy bàn đá, ghế đá ném xuống không ngớt. Cũng

may A Châu đã chèo thuyền ra xa một chút và Cưu Ma Trí đã bị trúng kiếm

khí bị trọng thương, kình lực kém đi nên liệng không tới thuyền.

A Châu thấy hoà thượng sức khoẻ như thần, nàng sợ hãi vô cùng khấn thầm:

"cầu trời cho lão đừng đuổi kịp". Nàng bơi thuyền xa thêm vài chục trượng

nữa, nhìn lại thấy Cưu Ma Trí không đuổi kịp nữa rồi. A Bích thở phì phì

nói:

- Đoàn công tử ơi! Nhờ công tử mà nay tôi được thoát nạn nếu không thì đã

chết về tay lão hoà thượng này rồi.

Đoàn Dự nói:

- Đáng lý tôi phải tạ ơn cô mới đúng. Lão hoà thượng này nói sao là làm

được vậy, lẽ ra tôi bị lão đem đi đốt sống rồi.

A Châu vội gạt đi:

- Hãy khoan nói đến chuyện cô tạ ơn cậu, cậu tạ ơn cô đã! Việc trốn sao

cho thoát khỏi tay lão trọc còn gấp hơn nhiều.

Giữa lúc ấy Đoàn Dự nghe có tiếng mái chèo bơi nước đang đuổi theo,

chàng giật mình la lên:

- Trời ơi! Lão sư đang đuổi theo chúng ta rồi.

A Bích đã mệt nhoài, không thể lấy ngay lại sức lực trong chốc lát được.

Nàng tựa vào mạn thuyền nói:

- A Châu tỷ nương! bọn ta đến tạm lánh tại trang Lục đại gia.

A Châu có vẻ bực tức đáp cộc lốc:

- Đành là thế vậy.

Rồi nàng lại tiếp:

- Thật là bực mình. Lục đại gia thường cười chị em mình võ công chẳng ra

gì. Bây giờ gặp kẻ đại địch túng thế phải vào ẩn trong nhà y, chắc rồi y cười

mình suốt đời.

Từ khi Đoàn Dự tăng nhiều nội lực trong người, chàng rất thính tai. Nghe rõ

tiếng mái chèo bơi mỗi lúc một lại gần thêm liền cầm lấy một mái chèo để

phụ A Châu bơi thuyền cho lẹ hơn. Thuyền thêm một mái chèo nên lại cách

xa chiếc thuyền đuổi theo hơn được ít nữa.

Đoàn Dự nói:

- Bản lãnh lão sư này ghê gớm lắm. Hai vị tỷ nương còn nhỏ tuổi thế này

thua lão cũng chẳng có gì là nhục.

Bỗng nghe có tiếng gọi từ đằng xa vọng lại:

- A Châu, A Bích hai cô bơi thuyền trở lại mau! bần tăng đã là bạn với công

tử Mộ Dung có lý đâu lại làm khó dễ các cô?

Đúng là tiếng Cưu Ma Trí. Mấy câu nói cực kỳ êm dịu thân mật, khiến

người nghe bất giác không tự chủ được nữa, khó mà chống cự lại, quả nhiên

muốn theo ý lão.

A Châu giật mình nói:

- Lão gọi chúng ta trở lại, tất không gia hại đâu.

Đoạn nàng dừng chèo không bơi nữa, trong lòng dường như có vẻ xao

xuyến.

A Bích cũng nói:

- Vậy chúng ta quay lại quách.

Đoàn Dự vì nội lực rất mạnh nên giọng nói Cưu Ma Trí không mê hoặc nổi

vội nói:

- Lão bịp đấy! Tin thế nào được?

Lại thấy Cưu Ma Trí tiếp tục gọi bằng một giọng rất hòa hoãn rất êm tai:

- Hai vị cô nương ơi! Công tử nhà các cô đã về tới, cần gặp các cô ngay, các

cô mau mau bơi thuyền trở lại.

A Châu nói:

- Vâng!

Rồi bơi thuyền quay đầu lại. Đoàn Dự nghĩ thầm: "nếu quả công tử Mộ

Dung trở về thì chính y lên tiếng gọi A Châu, A Bích hà tất phải mượn lão

sư gọi hộ? Đúng là lão giở phép thu hồn phách cực kỳ lợi hại ra đây. Chàng

liền nghĩ được một kế, vội xé mảnh áo đút nút lỗ tai A Châu, A Bích lại.

A Châu định thần được ngay thất thanh la lên:

- Trời ơi! Chết cha!

A Bích cũng tỉnh táo lại nói:

- Lão sư này biết cả phép thu hồn phách người ta. Ta bị lão lung lạc mất rồi.

A Châu ra sức chèo thuyền nói:

- Đoàn công tử! Chèo cho mau! chèo cho mau!

Hai người chèo thuyền thẳng vào chỗ dầy đặc hồng lăng. Hồi lâu bên tai

không còn vẳng nghe thấy tiếng Cưu Ma Trí gọi nữa. Bấy giờ Đoàn Dự mới

ra hiệu cho hai người móc nút để trong tai ra.

A Châu vỗ ngực thở một hơi dài rồi hỏi:

- Bây giờ tính sao đây?

A Bích đáp:

- A Châu tỷ nương! chúng ta đi đến Khiếu Thiên thôn. Giả tỷ lão hoà

thượng có theo tới đó, Lục đại gia quyết không chịu thua sẽ cùng lão chơi

nhau đến cùng.

A Châu nói:

- Không được đâu! Lục đại gia tuy võ nghệ cao cường nhưng không có

khiếu thông linh quỷ quái bằng Cưu Ma Trí. Thế thì thà rằng cứ lênh đênh

trên mặt hồ này, đói bóc hồng lăng hoặc móc ngó sen lên mà ăn, dù có ở

đây mười ngày hoặc nửa tháng cũng chẳng hề gì.

A Bích mỉm cười nói:

- Tỷ nương tính thế nào cũng đưược, song chưa biết ý Đoàn công tử ra sao?

Đoàn Dự vỗ tay cười nói:

- Hồ này phong cảnh đẹp, lại có hai vị tỷ nương làm bạn ở đây ngao du

mươi ngày, thật sướng hơn tiên.

A Bích cũng trề môi ra cười nói:

- ở đây đi về phía đông nam có đến hàng ngàn hải cảng, hàng trăm vũng

vịnh, chi lu, sông nhỏ cũng nhiều. Trừ bọn chài lưới địa phơng ra, không

ai tìm được đường lối. Bọn ta đi vào chỗ trăm khúc quanh co trong hồ này,

quyết nhiên nhà sư kia không thể đuổi tới nơi được.

Đoàn Dự đang lúc cao hứng, ra sức bơi thuyền. Mỗi khi đến chỗ rẽ thì hai

nàng lại bàn tính một hồi rồi mới ấn định nẻo đi. Chèo thuyền đi một hồi

lâu, Đoàn Dự thoang thoảng ngửi thấy một mùi hoa thơm đặc biệt khác lạ.

Lúc mới ngửi thì thấy đầu óc choáng váng nhng lát sau thì trong người lại

khoan khoái dễ chịu. Thuyền càng tiến lên thì mùi hoa thơm lại càng sực

nức.

Đoàn Dự hỏi:

- Hai vị tỷ nương có biết mùi hoa gì đó chăng?

A Bích khẽ đáp:

- Công tử đừng hỏi nữa! bọn ta phải mau mau rời khỏi nơi này!

Đoàn Dự thấy giọng nói của nàng đầy vẻ sợ hãi, rất lấy làm kỳ. A Châu

cũng nói nhỏ bảo A Bích:

- Chúng ta lầm đường mất rồi. Mi bảo rẽ qua bên trái là đúng. Ta lại bảo rẽ

qua mé phải mới chết chứ. A Bích mi đã biết rõ, sao còn đi nghe ta?

A Bích đáp:

- Bấy giờ em cũng không dám chắc lắm. Cứ tởng tỷ nương biết đích hơn,

nên mới nghe theo.

Lúc này A Bích tinh thần đã hồi phục, đón lấy mái chèo ở trong tay A

Châu, quay thuyền và gắng sức bơi theo lối cũ trở ra.

Đoàn Dự nghe hai người đối đáp, đoán là trong mùi hoa thơm này tất có

điều gì nguy hiểm, chàng toan hỏi lại thì A Châu trông chàng vẫy tay ra

hiệu bảo đừng hỏi nữa. Trời đã tối mịt, Đoàn Dự trông không rõ nét mặt hai

người nhng cũng biết tình thế rất nghiêm trọng chẳng kém gì lúc Cưu Ma

Trí đuổi theo.

A Châu ghé miệng vào tận tai Đoàn Dự nói thầm:

- Bây giờ tôi lớn tiếng nói chuyện với A Bích, công tử chớ có nói xen vào,

phải nằm yên!

Đoàn Dự gật đầu, đưa mái chèo cho nàng rồi nằm xuống lòng thuyền. Đêm

hôm ấy trời đầy sao lấp lánh, Đoàn Dự cảm thấy có điều chi kỳ dị mà

không nói ra được, bỗng nghe A Châu lên tiếng:

- A Bích muội nương! Chỗ này rất khó nhận đường đi, em phải cẩn thận kẻo

lạc lối nghe.

A Bích đáp:

- Vâng! lão sư ấy đuổi bọn mình để hãm hại, mình phải chạy trốn. Giả tỷ

mà mình lạc đường, người ta còn bảo mình chịu mệnh công tử cố ý đến đây

rắc rối mới khổ chứ.

Hai người nói chuyện sang sảng, tựa hồ để cho người ngoài nghe rõ. Nhưng

Đoàn Dự nghển lên mạn thuyền trông ra thì bốn mặt chỉ thấy toàn lá hồng

lăng bát ngát. Ngoài tiếng thuyền chạm vào lá hồng lăng, tuyệt không thấy

động tĩnh gì nữa. Mùi hoa thơm mỗi lúc một ngào ngạt thêm. So với mai côi

thì mùi thơm không nồng nàn bằng nhưng so với hoa quế thì nó lại kém bề

êm dịu. Thật là một mùi hương khó tả.

Thốt nhiên A Bích cất giọng hát. Nàng hát bài Nguyễn lang quy. Nàng mới

hát được vài câu nghe giọng đã run run, phải ngừng một chút cho định thần

rồi mới hát tiếp. Tiếng hát mỗi lúc một lên cao vòi vọi nhưng không giấu

nổi nỗi phập phồng lo sợ.

Đoàn Dự ghé lại gần A Châu khẽ hỏi:

- Phải chăng lão sư đó đuổi gần tới nơi?

A Châu vội đư bàn tay bịt miệng chàng, ra hiệu cho đừng lên tiếng. Nàng

nghiêng đầu lắng tai nghe, bốn bề vẫn im lặng như tờ. Bấy giờ mới ghé

miệng sát vào tai Đoàn Dự nói thầm:

- Chúng ta lầm đường mất rồi. Gặp người này còn ghê gớm hơn cả lão sư

ban nãy.

Đoàn Dự nghĩ thầm: "Người ta có câu: tránh nơi sóng cả, ngã nơi Tuần

Vường là đúng lắm". Rồi chàng lại nghĩ: "có lẽ hai nàng chưa biết kỹ bản

lãnh lợi hại của Cưu Ma Trí đó thôi. Trên đời làm gì còn có người ghê gớm

hơn lão? Huống chi đây lại ở cạnh nách sào huyệt nhà Mộ Dung. Khi nào y

còn để cho ai ăn ngon ngủ yên được?".

A Bích ca xong khúc hát, không nói gì nữa, lặng lẽ nhìn lên trời, tìm sao

bắc đẩu, nhận định phương hướng rồi cùng A Châu ra sức chèo thuyền..

Đoàn Dự ngoảnh nhìn bốn phía, chỉ thấy mênh mông những nước cùng trời.

Tuyệt không có một con thuyền, một cái nhà, không thấy đâu là bờ bến hay

một bóng người nào cả, đến một con chim cũng không có. Vậy mà không

biết làm sao hai nàng lại sợ hãi đến thế?

Con thuyền nhỏ đi bồng bềnh trên mặt nước được quãng dài nữa thì đến chỗ

hai dòng sông giao nhau. A Châu và A Bích lại thương lượng một hồi và tìm

nhận lối đi khi gặp chỗ rẽ. Chàng cũng chẳng hiểu hai nàng lấy gì làm tiêu

chuẩn, chỉ biết hai nàng đã bơi thuyền nửa ngày, nửa đêm, có vẻ mệt nhoài,

thở lên hồng hộc. Đoàn Dự xem chừng A Châu đã kiệt lực rồi, liền đón lấy

mái chèo bơi thuyền đỡ nàng một lúc. Hồi lâu bỗng A Bích kêu lên:

- A Châu tỷ nương ơi! chúng ta... sao chúng ta... lại quay về chỗ cũ rồi?

Đoàn Dự quả nhiên lại ngửi thấy mùi hoa thơm lúc nãy. Thì ra đêm khuya

trời tối hai nàng không nhận ra lối đi, chèo quanh quẩn tựa hồ đi theo một

lối vòng tròn khổng lồ, bây giờ lại quay về chỗ ban đầu. Trời đã gần sáng,

nét mặt A Bích trở nên bơ phờ, ủ rũ. Đột nhiên nàng buông mái chèo

xuống, đưa tay lên bưng mặt khóc hu hu.

A Châu ôm nàng vào lòng an ủi:

- Không phải là chúng ta cố ý đến đây, chờ gặp Vương phu nhân rồi sẽ bày

tỏ chân tình, em đừng sợ gì cả.

Tuy nàng tự cường để vỗ về A Bích mà tiếng nói nàng cũng run run, tpr ra

nàng đang trải qua một trận bão lòng kinh hãi.

Giữa lúc ấy, trên không về phía tây nổi lên vài tiếng chim kêu quang quác.

Một con chim rất lớn bay tới, toàn thân lông trắng như tuyết, cao lênh

khênh như con hạc nhưng không phải hạc. Dường như là một giống thủy

điểu. Con bạch điểu này nhằm chỗ thuyền dừng quyện một vòng trên không

rồi từ từ bay về góc tây bắc.

A Châu nhặt mái chèo lên thở dài nói:

- Không đi không xong rồi! Chúng ta đành tới đó rồi muốn ra sao thì ra.

Nàng bơi thuyền hướng theo con bạch điểu mà đi.

Đoàn Dự hỏi:

- Có phải con chim đó là sứ giả dẫn đường đó chăng?

A Bích đáp:

- Đoàn công tử! Công tử là người xa đến, chưa biết quy củ nơi đây. Lúc vào

đến Mạn đà sơn, phu nhân bảo làm sao công tử phải nghe vậy, chớ có

kháng cự mà khốn.

Đoàn Dự hỏi:

- Tại sao vậy? Chẳng lẽ chủ nhân trại này lại dã man đến mức không phân

biệt phải trái nữa hay sao? Bọn mình lạc đường vào đây thì xin cho ra, chứ

làm gì nên tội?

A Bích quầng mắt đỏ hoe đáp:

- Đoàn công tử không biết. Còn có nhiều chuyện rắc rối bên trong, không

thể một lúc mà nói hết ra được. Người ta sở dĩ không cho ai giở lý sự cũng

là có cớ. Rút cục chỉ tại lão sư đó mà ra. Nếu lão không đuổi gấp quá thì

làm gì đến nỗi mình hoang mang mà đi lầm vào đây?

A Châu vốn tính hoạt bát cười nói:

- Người lành tự nhiên có thiên tướng bảo hộ. Giả tỷ chỉ có hai chị em mình

tới đây tất là hỏng bét nhưng có Đoàn công tử đây là người lành may ra

chúng ta thoát nạn cũng chưa biết chừng.

A Bích buồn rầu đáp:

- Em thì lại lo thay cho Đoàn công tử. Vương phu nhân thấy có đàn ông đến

Mạn đà sơn trang, chắc người sẽ sai chặt chân khoét mắt. Phu nhân nói sao

làm vậy. A Châu tỷ nơưng ơi! mình đưa công tử đến đây để chàng phải vạ

lây.

Nói đến đó, nàng úp hai bàn tay lên mặt, nước mắt tràn qua kẽ ngón tay, rớt

xuống từng giọt.

A Châu nói:

- Biết đâu phu nhân chẳng tự nhiên đại phát từ bi hoặc Đoàn công tử khéo

biện bạch, lay chuyển được tấm lòng sắt đá của người mà tha cả ba chúng ta

cũng nên.

Đoàn Dự hỏi:

- Vương phu nhân là người thế nào?

A Bích đưa mắt nhìn A Châu toan nói lại thôi. A Châu vỗ tay vài cái rồi

nhớn nhác ngó quanh, không thấy ai bấy giờ mới nói:

- Vương phu nhân đây, về võ công không biết đến đâu mà lường được.

Khắp các nhân vật trong võ lâm đều chịu người là đệ nhất. Ngay đến công

tử chúng tôi, bản tính không chịu phục ai mà chỉ bội phục có mình phu

nhân thôi.

Nàng vừa nói vừa lắc đầu lè lỡi, lộ ra nhiều vẻ kinh dị. Đoàn Dự rất lấy

làm kỳ tự hỏi: "bọn mình nói chuyện trong thuyền, bốn bề chẳng có một ai.

Chẳng lẽ bà Vương phu nhân nào đó có phép thần thông nghe được cả ?".

Bỗng thấy con bạch điểu lúc nãy lại trở về, liệng quanh cái thuyền một

vòng. Chim bay nhanh, thuyền bơi châm, nó bay đi bay lại như vậy để chờ.

Thuyền cứ trông hút bóng chim bơi theo chừng nửa giờ, qua mấy chỗ vũng

biển. Đoàn Dự nghĩ thầm: "con chim kia bay trên không nên nhận đường lối

dễ hơn. Đằng này bơi thuyền dưới nước, giữa cái hồ mênh mông, dù bản

lãnh giỏi đến đâu cũng khó lòng giữ cho khỏi lạc đường".

Thuyền đi đến trước một hàng đăng ken bằng tre chẻ ra vót sẵn. Người

Giang Nam thường cắm đăng ngang sông, hồ để nuôi cá, bắt giải. Nước vẫn

lưu thông nhưng cá và giải vướng đăng không chui ra được. Thuyền lại sát

đăng, tưởng bị chặn lối đi, không ngờ đầu thuyền vừa chạm vào đăng, đăng

chìm ngay xuống nước, để hở lối cho thuyền đi qua. Thì ra trên các hàng

đăng này có đặt cơ quan tự động mở ra đóng lại được. Qua mấy tầng đăng

như vậy thì đến rặng liễu buông rủ xuống nước. Hết rặng liễu, xa xa nhìn

thấy trên bờ hồ hoa lá rực rỡ như hoa trà, ánh xuống nước đỏ rực một vùng.

Đoàn Dự buột miệng khẽ reo lên một tiếng: "ô kìa". A Châu vội hỏi:

- Chi vậy?

Đoàn Dự chỉ vào bụm cây hoa đáp:

- Đây là cây sơn trà ở nước Đại Lý chúng tôi đó. Làm sao ở Thái Hồ cũng

trồng được thứ điền trà này nhỉ?

Nên biết rằng thứ sơn trà sản xuất ở Vân Nam có danh tiếng hơn cả nên

người ta mệnh danh là điền trà.

A Châu nói:

- Có đúng thế không? tôi tưởng sơn trà nước Đại Lý không bằng được sơn

trà ở Cô Tô chúng tôi đây. Chỗ này là Mạn đà sơn trang, mạn đà la đứng

vào bậc nhất thiên hạ, sơn trà nước Đại Lý của công tử bằng thế nào được?

Đoàn Dự cho lời bình luận của A Châu là sai. Chàng nghĩ rằng: "nhân vật ở

Giang Nam kể ra cũng làm cho người ta phải ngây ngất thật. Nước Đại Lý

có nhiều thứ thua kém nhưng mà bảo sơn trà nước Đại Lý thua trà Giang

Nam thì nhất định không chịu". Chàng thấy A Châu đưa mắt ra hiệu biết

rằng gần đến sơn trang rồi. âu là cứ buông xuôi câu chuyện cho êm.

A Châu chèo thuyền lại buộc vào gốc một khóm sơn trà, dừng chân đứng

nhìn một hồi. Trên bờ toàn hoa trà đỏ trắng lẫn lộn, không có nhà cửa

phòng ốc chi hết.

Đoàn Dự sinh trưởng ở nước Đại Lý, mặc dầu sơn trà đối với chàng chẳng

có chi là lạ nhưng cũng theo chiều tấm tắc khen ngợi cho qua, trong lòng

thầm nghĩ: "sơn trà ở đây tuy nhiều thật, song giai phẩm này đã lấy chi làm

quý?".

A Châu kéo ghệch thuyền vào bờ rồi cất tiếng thong thả mềm mỏng nói:

- Tiểu tỳ là A Châu, A Bích ở Tham Hợp trang bên Yến Tử ổ bị kẻ địch

đuổi đánh, lầm đường lạc vào nới cấm địa quý trang đây, tội đáng muôn

thác. Xin Vương phu nhân mở lượng hải hà bỏ qua đi cho! Bọn tiểu tỳ cảm

kích vô cùng.

A Châu dứt lời, trong rừng hoa chưa thấy tiếng người đáp lại, nàng lại tiếp:

- Cùng đi với bọn tiểu tỳ còn có Đoàn quân là một người khách phương xa

đến. Đoàn quân chưa từng quen biết công tử bon tiểu tỳ và quả tình không

dính líu mảy may gì đến vụ này cả.

A Bích cũng nói:

- Đoàn công tử đến Cô Tô với mục đích tìm chủ nhân bọn tiểu tỳ để rửa

hận, vô tình lạc vào quý trang.

Đoàn Dự nghĩ thầm: "xem giọng lưỡi hai cô này đều bảo ta là kẻ thù của

công tử Mộ Dung chứ không phải bạn thì đủ hiểu rằng giữa chủ nhân khu

vực này cùng công tử Mộ Dung có mối bất hoà. Dường như cứ ai là kẻ địch

của công tử Mộ Dung thì không đến nỗi họ bị làm khó dễ". Lát sau thấy có

tiếng chân bước sột soạt trong rừng hoa rồi một ả tiểu hoàn áo xanh đi ra,

trong tay cầm một bó hoa. ả này lớn hơn A Châu, A Bích chừng một vài

tuổi, vừa chạy ra bờ hồ vừa cười nói:

- A Châu, A Bích! Các cô này to gan thật! Dám lẻn đến đây dòm ngó

chuyện gì? Phu nhân ta xuống lệnh phải rạch ngang, rạch dọc cái bộ mặt

đẹp tựa như hoa ngọc của các cô ra đó.

A Châu trông nét mặt ả đã vững tâm đưuợc phần nào, tươi cười hỏi:

- U Thảo tỷ nưng đấy ? Phu nhân vắng nhà phải không?

U thảo cười đáp:

- Phu nhân còn bảo hai cô còn dắt cả chàng trai nào đó đến Mạn đà sơn

trang vậy phải chặt hai chân gã đi!

Nàng chưa dứt lời đã toét miệng ra cười. A Bích vỗ bụng nói:

- U thảo tỷ nương! có phải chị hăm doạ chúng tôi đó không?

A Châu cười nói:

- A Bích đừng sợ! Cô ta doạ đấy! Phu nhân mà ở nhà thì đời nào cô ả dám

cười cượt như vậy? U thảo em ơi! Phu nhân đi đâu vậy?

U Thảo cười nói:

- Lêu lêu! Cô bao nhiêu tuổi mà đòi làm chị ta? Con lỏi này giỏi đoán đó,

phu nhân quả không ở nhà.

Rồi ả lại thở dài nói:

- A Châu, A Bích hai em! Mấy khi hai em qua tới đây, ta muốn lưu hai em

ở chơi bên này một vài ngày.

A Bích cũng nói:

- Em cũng muốn được đón tiếp chị! U thảo tỷ nương ơi! Bữa nào chị sang

chơi bên em? Em thức ròng rã ba ngày ba đêm để tiếp chuyện chị được

không?

Bỗng lại nghe tiếng chân bước trên lá cây lạo xạo, một đứa tiểu hoàn nữa đi

tới, cười hì hì nói:

- A Châu, A Bích! cô nương muốn mời các chị vào xơi nước.

A Châu nói:

- Hoàng Ly đó hả? Em về trình cô nương qua bên nhà chơi, công tử đi vắng

rồi. Bữa nay chúng ta đi lầm đường thế nào lại lạc vào quý phủ. Cô nương

cho uống trà, chúng tôi xin có lời đa tạ cô nương nhé!

Hoàng Ly nói:

- Không được đâu! Cô nương cho gọi hai chị, hai chị không chịu vào thì

đừng hòng được "bạch y sứ giả" đưa chị ra khỏi nơi đây.

A Châu cùng A Bích đưa mắt nhìn nhau ra chiều khó nghĩ, A Bích nói:

- Hoàng Ly tỷ nương! chị thật là người thông minh. Cô nương đã cho gọi

chị em chúng tôi, chúng tôi đâu dám trái lệnh? Chỉ sợ lần chần phu nhân về

đến nhà thì nguy quá.

U Thảo nói:

- Phu nhân đi chơi xa, mới đi hôm qua, đâu có về ngay mà ngại? Các chị

còn chưa hiểu tâm sự cô nương hay sao?

A Châu đáp:

- Vâng! A Bích! Thôi chị em chúng mình cũng đành mạo hiểm vào đi!

Hai người kéo thuyền lên bờ. A Bích bảo Đoàn Dự:

- Đoàn công tử! Xin công tử hãy đứng đây chờ chúng tôi một lúc. Chúng tôi

vào ra mắt chủ nhân xong ra ngay.

Đoàn Dự đáp:

- Được rồi! Các cô đi lẹ lên.

Bốn cô nha hoàn dắt tay nhau cười cười nói nói đi vào rừng hoa. Đoàn Dự

ngồi thuyền chờ lâu, nóng ruột đứng dậy lên bờ nhòm ngó rừng mạn đà la

xem có giống hoa gì khác lạ không? nhưng đây chỉ toàn sơn trà không có

thứ hoa cỏ gì khác nữa. Cả những thứ hoa rất thường về mùa xuân mọc khắp

nơi như: Khiên Ngu, Oản đậu, Du Thái mà đây cũng không có. Sơn trà thì

nhiều thật nhưng toàn những thứ bình thường, không có loại nào quý cả.

Chàng đang ngắm xem bỗng ngửi thấy một mùi hoa thơm phảng phất. Mùi

thơm này đượm không ra đượm, lạt không ra lạt, thật khó tả cho ra. Đúng là

mùi hương chàng đã ngửi thấy đêm hôm trước, lúc ngồi thuyền. Chàng tự

hỏi: "ở đây không có hoa cỏ gì khác ngoài sơn trà, chẳng lẽ trên đời lại có

thứ sơn trà mùi hương kỳ dị thế này?". Chàng nổi tính hiếu kỳ, lần theo phía

phát ra mùi thơm mà đi, đi chừng vài chục trượng thấy sơn trà có thêm

nhiều loại khác, thỉnh thoảng cũng được vài khóm quý. Chàng đang đi tự

nhiên mùi thơm kỳ dị đó biến mất tăm. Chàng đi khắp mọi ngả để kiếm mà

tuyệt không ngửi thấy mùi hương đó nữa, chàng lẩm bẩm: "ta trở về chỗ

thuyền đậu thôi! Kẻo A Châu, A Bích trở ra không thấy mình lại nóng

ruột". Đoàn Dự trở gót đi đợc mấy bước, bỗng kêu lên: "Thôi hỏng rồi". Vì

mải để tâm vào chuyện đi kiếm thứ hoa kỳ dị chàng không nhớ lối ra. Chưa

biết tìm cách nào để trở về chỗ cũ chàng nghĩ thầm: "thôi đành ra tới bờ hồ

sẽ hay, bất luận là chỗ nào". Thế rồi chàng cứ đi bừa, đi càng lâu thì thấy

mình càng lạc lõng. Bất thình lình Đoàn Dự nghe thấy có tiếng người nói,

rõ ràng là tiếng A Châu, chàng cả mừng nghĩ bụng: "ta hãy đợi nàng ở đây

một lát, chờ cho nàng nói chuyện xong với người nào đó rồi sẽ kêu nàng

cùng về. Bỗng thấy A Châu nói:

- Công tử vẫn được mạnh, ăn uống điều hoà. Trong hai tháng nay công tử

luyện môn đả cẩu bổng pháp của Cái Bang. ý chừng người muốn tỷ thí với

các nhân vật nơi đó.

Đoàn Dự nghĩ thầm: "A Châu đang nói chuyện về Mộ Dung công tử với ai

đây. Mình chẳng nên đi sau nghe trộm, phải đi xa ra một chút kẻo họ bảo

mình không biết lễ". Giữa lúc đó bỗng thấy tiếng một cô gái thở dài. Tiếng

thở dài này lọt vào tai Đoàn Dự làm cho chàng bất giác toàn thân run bần

bật, trái tim nhảy loạn lên, hai má nóng bừng bừng. Chàng tự hỏi thầm: "sao

trên đời này lại có tiếng người thở dài nghe êm tai đến thế?". Rồi một giọng

u buồn cất tiếng hỏi:

- Chuyến này chàng ra đi có nói là đi đâu không?

Đoàn Dự mới nghe tiếng thiếu nữ thở dài lòng đã xúc động, giờ lại nghe

thêm mấy câu này nữa toàn thân chàng máu như sôi lên sùng sục. Trong

lòng vừa cay đắng vừa đau khổ, phần vì ngưỡng mộ, phần vì ghen tuông nói

sao cho hết? Chàng lẩm bẩm: "rõ ràng nàng hỏi chuyện công tử Mộ Dung.

Nàng đối với gã thân thiết là thế! nhớ mong là thế! công tử Mộ Dung thật là

người có diễm phúc.

Lại nghe tiếng A Châu đáp:

- Lúc công tử ra đi có nói là đến Lạc Dương. Lữ đại ca cùng Bao tiên sinh

hai người đi theo công tử. Xin cô nương cứ yên lòng không có điều chi đáng

ngại.

Thiếu nữ hỏi:

- Các ngươi có coi công tử luyện môn "đả cẩu bổng pháp" chưa? Có thấy

chỗ nào khó khăn hoặc chậm chạp không?

A Bích đáp:

- Bổng pháp này công tử đã luyện thành thục lắm rồi, từ đầu chí cuối công

tử phát động tựa hồ mây bay nước chảy...

Đột nhiên thiếu nữ "hứ" lên một tiếng rồi nói tiếp:

- Thế là hỏng rồi! Có phải... chàng sử môn này mau lẹ lắm không?

A Bích đáp:

- Vâng! vậy mà có chỗ chưa được hay sao?

Thiếu nữ nói:

- Dĩ nhiên là hỏng rồi. Phép "Đả cẩu bổng pháp" có hai thế: thế chiền thì

càng chậm càng hay, thế thiểu thì lúc nhanh lúc chậm. Nếu chỉ một chiều

đánh mau thì không phát huy được chỗ tinh vi mầu nhiệm của phép này.

Vậy các ngươi... các ngươi có cách nào đưa tin được đến chỗ công tử

không?

A Châu tặc lưỡi đáp:

- Bọn tiểu tỳ không biết công tử đến đâu trước? Và hiện giờ họp mặt cùng

các bậc trưởng lão ở Cái Bang chưa? Thưa cô nương! vậy ra phép "Đả cẩu

bổng pháp" mà sử dụng thật mau, có chỗ không ổn hay sao?

Thiếu nữ đáp:

- Dĩ nhiên không ổn rồi, còn có... chỗ gì nữa. Sao lúc chàng... chàng ra đi,

không đến đây gặp ta?

Thiếu nữ vừa nói vừa dậm chân ra chiều nóng nẩy, áy náy... Đoàn Dự nghe

xong rất lấy làm kỳ, nghĩ thầm: "ta tưởng khắp thiên hạ, ai cũng kính sợ nhà

Mộ Dung ở Cô Tô, thế thì còn ai bì với nhà này được mà sao nghe cô nương

đây nói thì dường như công tử Mộ Dung còn phải nhờ cô này truyền dạy võ

nghệ cho. Chẳng lẽ một cô thiếu nữ nhỏ tuổi này lại có bản lãnh đến thế kia

?

Lại thấy thiếu nữ bước lui bước, tới tựa hồ chưa tìm ra được kế gì, rồi nàng

lẩm bẩm: "trước mình đã bảo chàng học bộ pháp đó nhưng chàng không

chịu, giả tỷ mà chàng biết phép Lăng Ba Vi Bộ ..."

Đoàn Dự nghe đến bốn chữ Lăng Ba Vi Bộ bất giác kêu lên một tiếng "A

ha". Chàng tự biết mình lỡ lời đa tay lên bịt miệng thì đã không kịp mất

rồi. Thiếu nữ quát hỏi:

- Ai đó?

Đoàn Dự biết rằng không thể giấu diếm được nữa liền đằng hắng lên vài

tiếng rồi đáp:

- Tại hạ là Đoàn Dự đang ngắm xem rừng trà báu của quý trang, đột ngột

tới đây, xin người tha tội cho!

Thiếu nữ nói khẽ bảo A Châu:

- A Châu! Phải chăng đây là cậu cùng đi với ngươi?

A Châu vội đáp:

- Thưa phải! gã này chỉ là anh đồ gàn, cô nương bất tất phải nói đến gã làm

gì. Ta đi ra ngả khác quách.

Thiếu nữ nói:

- Hãy khoan! Ngưi hãy chờ ta viết thư nói rõ mọi điều cốt yếu về phép sử

môn "đả cẩu bổng pháp" để các ngươi liệu cách đưa đến cho công tử.

A Châu tỏ vẻ ngần ngại đáp:

- Cái đó... phu nhân đã bảo rồi mà...

Thiếu nữ giật giọng hỏi:

- Sao bọn ngưi chỉ biết vâng lời phu nhân? Không chịu nghe ta phải

không?

Nghe câu nói có vẻ hằn học A Châu vội đáp:

- Xin cô nương đừng lộ cho phu nhân biết. Lẽ nào tiểu tỳ lại không tuân

lệnh, huống chi lại là việc lợi cho công tử.

Thiếu nữ nói:

- Hai người theo ta về phòng lấy thư nghe.

A Châu đáp:

- Vâng!

Từ lúc Đoàn Dự thấy thiếu nữ thở dài rồi sau càng nghe nàng nói càng mê

đặc. Giờ thấy nàng toan trở gót về phòng chàng nghĩ bụng: "để cho nàng đi

e rằng không còn dịp nào được gặp mặt nữa thì thật là điều hối tiếc suốt đời.

Ta đành một liều ba bảy cũng liều, tìm cách ngăn trở để nhìn cho thấy mặt

rồi muốn tội tình hay trách mắng gì cũng chịu". Nghĩ vậy chàng bèn lớn

tiếng gọi:

- A Bích cô nương ở lại đây với tôi được không?

Chàng vừa gọi vừa rảo bước đi ra. Thiếu nữ thấy chàng sấn sổ bước tới vội

la lên một tiếng "ô hay" rồi quay đi. Đoàn Dự ở trong bụi cây bưước ra, chỉ

thấy một vị nữ lang mặc áo tơ trắng đang nhìn lên những bông hoa, vẻ

người mềm mại, tóc dài bỏ xuống sau lưng, dùng dây tràng buộc cho gọn.

Đoàn Dự mới trông thấy bóng dáng sau lưng nàng, cốt cách đã ra vẻ thần

tiên, bên mình dường nh có khói mây bao bọc, chứ không ra tuồng khách

tục. Chàng liền vái dài nói:

- Tại hạ Đoàn Dự xin bái kiến cô nương.

Nữ lang dậm chân trái xuống đất gắt:

- A Châu! Các ngươi thật là rắc rối! Ta có chạm mặt với nam giới bên ngoài

bao giờ đâu?

Nói rồi đi thẳng về phía trước. Qua mấy khúc quanh người nàng đã che

khuất vào trong bụi hoa mất rồi. A Bích nhìn Đoàn Dự mỉm cười nói:

- Đoàn công tử! Cô nương này rất khó tính khó nết. Chúng ta chuồn đi thôi.

A Châu cũng mỉm cười nói:

- May nhờ có Đoàn công tử đến giải vây cho không thì thế nào cũng bị

Vương cô nương bắt đưa thư, gửi thiếp rất là phiền phức, có khi nguy hiểm

đến tính mạng chị em tôi nữa.

Đoàn Dự lật đật chạy ra bị nữ lang nói mấy câu làm chàng cụt hứng, tưởng

còn bị A Châu, A Bích oán ghét nữa là khác nào ngờ lại được hai nàng cảm

ơn, thật là một điều không bao giờ nghĩ đến.

Lúc đó ba người đã ra đến chỗ thuyền đậu, A Châu cầm lấy mái chèo toan

bơi thuyền đi thì A Bích nói:

- A Châu tỷ nương! chị em mình không có "bạch y sứ giả" dẫn đường, dễ gì

mà mà biết lối ra? đành là phải ngồi đây chờ cô nương viết xong thư. Chúng

ta bị tình thế bắt buộc dù phu nhân có biết ra cũng không trách chúng ta

được.

A Châu thở dài nói:

- Cái ông sư đó thật là tai hại, nghĩ đến lúc nào lại bực ông ta lúc ấy.

Chưa dứt lời, bất thình lình nổi lên một tiếng hú từ đằng xa đưa lại như tiếng

rồng gấm nghe choáng cả tai.

A Châu, A Bích đều cả kinh thất sắc. Đoàn Dự cũng giật mình lẩm bẩm:

- Tiếng gầm này nghe quen tai. à thôi! chết rồi! Có lẽ là đồ đệ ta, Nam Hải

Ngạc Thần sắp tới. Hừ nhưng quyết không phải lão.

Nguyên lúc buổi đầu Đoàn Dự gặp Nam Hải Ngạc Thần đã nghe tiếng hú

này. Nhng lúc Nam Hải Ngạc Thần đã đến bên chàng mà chàng vẫn còn

nghe tiếng hú râm ran, rồi Nam Hải Ngạc Thần nghe tiếng hú đó hốt hoảng

chạy theo.

Bình nhật đã đành A Bích lúc nào cũng có vẻ mặt lo lắng đáng thương

nhưng A Châu vốn là người hoạt bát lanh lẹ mà lúc đó chân tay cũng luống

cuống, ra chiều sợ hãi vô cùng. A Bích khẽ gọi:

- Đoàn công tử ơi! phu nhân về tới nơi rồi! Bọn ta đành sống thác mặc trời.

Công tử càng tỏ ra vô lễ ngạo ngược với chị em chúng tôi chừng nào càng

được việc chừng ấy.

Đoàn Dự từ khi bỏ Vương phủ lén đi đến nay đã trải bao phen thập tử nhất

sinh, đã bao lần gặp nguy hiểm gian nan, chàng nghĩ thầm: "người ta sống

chết có số, nếu số phải chết thì dù muốn tránh cũng chẳng được nào thì tội

gì mà tỏ ra con người không biết điều đối với hai nàng nhu mì khả ái này?".

Chàng liền mỉm cười nhìn hai nàng nói:

- Thà rằng giữ lễ mà chịu chết còn hơn vô lễ để níu lấy cái sống. Này A

Châu cô nương ơi! cô bảo tôi là đồ gàn thì quả tôi có cái tính gàn dở của kẻ

nhai văn nhấm chữ.

A Châu cũng nhìn chàng thở dài mà kêu trời.

Lúc này trên mặt hồ đã xuất hiện một con thuyền, lướt tới như bay, chớp

mắt đã đến gần tới nơi. Chiếc khoái thuyền này chạm hình đầu rồng, miệng

há hốc ra, trông mà gớm khiếp. Thuyền vừa cập bến, Đoàn Dự bất giác la

lên một tiếng "trời ơi". Nguyên trên sừng rồng chạm đầu thuyền có treo ba

cái đầu lâu lủng lẳng vừa mới chặt ở đâu về, hãy còn đầm đìa những máu,

khiến ai trông thấy cũng phải ghê rợn, không dám nhìn lâu. Những răng

trong miệng rồng nhô ra cũng dính đầy máu tươi.

A Châu khẽ nói:

- Chắc Vương phu nhân giữa đường gặp giặc nên mới về sớm thế này.

Chúng mình thật là xúi quẩy.

Thuyền rồng vừa sắp vào bờ A Châu, A Bích đã đứng dậy khép nép cúi đầu,

vẻ mặt cực kỳ nghiêm cẩn. A Bích nhìn Đoàn Dự luôn luôn ra hiệu cho

chàng đứng dậy. Đoàn Dự chỉ mỉm cười lắc đầu nói:

- Bao giờ phu nhân bước ra đầu thuyền lên tiếng, tôi sẽ đứng lên để tỏ lòng

kính cẩn là được rồi. Ai lại đường đường nam tử trượng phu mà phải khúm

núm bao giờ?

Bỗng thấy tiếng một người đàn bà từ trong thuyền vọng ra:

- Gã trai kia! Mi to gan thật! Sao dám thiện tiện đến Mạn đà sơn trang làm

chi, mi lại không biết bất luận gã đàn ông nào đã vào đây đều bị chặt chân

?

Giọng nói rất oai nghiêm, trong trẻo, ai cũng nghe rõ.

Đoàn Dự đáp:

- Tại hạ là Đoàn Dự, lầm đường lạc vào bảo trang, thực không có ý đường

đột chút nào, xin nghiêng mình tạ lỗi.

Người đàn bà "hừ" một tiếng rồi không nói nữa. Thuyền áp mạn xong, hai ả

tỳ nữ áo xanh ở trong chui ra, một ả phi thân lên sừng rồng, loáng một cái

đã nhấc ba chiếc đầu lâu nhảy xuống rất lẹ làng.

Đoàn Dự thấy hai ả cùng đeo trường kiếm lẩm bẩm: "thị nữ còn lợi hại thế

này thì bà chủ chắc là ghê gớm lắm. Mình cũng chỉ có mỗi cái thủ cấp, cắt

thì cắt phứt đi cho xong". Chàng nghĩ tới câu: "đến chết là cùng", rồi trong

bụng thản nhiên như không.

Người đàn bà lại cất tiếng gọi:

- A Châu, A Bích, hai con nhãi kia cũng đến đó hả? Cái thằng lỏi Mộ Dung

Phục điều hay không học, chỉ chuyên dở cái trò yêu quái.

A Bích thưa:

- Khai bẩm phu nhân! Tiểu tỳ bị kẻ địch đuổi đánh, đêm khuya trời tối đã

lầm đường, vô tình lạc vào đây. Công tử tiểu tỳ ra đi rồi. Việc tiểu tỳ lạc

đến đây, công tử quả không biết tý gì.

Nàng không tỏ vẻ nơm nớp lo sợ thì ra con người ta đã đến cùng đường tự

nhiên đâm liều, nàng cứ thẳng thắn biện bạch.

Tiếng ngọc đeo loảng xoảng vang lên, trong thuyền thị nữ áo xanh xếp hàng

đôi đi ra, lưng đeo trường kiếm, lưỡi kiếm sáng loáng, ánh kiếm lập loè tựa

hoa bay. Bọn này tám đôi, cộng cả hai ả ra trước nữa là mời tám người.

Sau cùng là một vị nữ lang ăn mặc ra kiểu khách cung phi. Đoàn Dự vừa

nhìn thấy tướng mạo nữ lang, không thể nhịn được, bất giác la lên một tiếng

kinh dị, líu cả lưỡi lại, miệng há hốc ra tựa hồ như lạc vào cõi mộng.

Nguyên vị nữ lang này mình mặc áo dài bằng lụa trắng, từ y phục cho đến

đồ trang sức hệt như pho ngọc tượng trong thạch động bên nước Đại Lý. Có

điều nữ lang này tuy đẹp như vậy nhưng đã đứng tuổi trạc độ tứ tuần còn

pho tượng kia là một thiếu nữ chừng 18, 19 tuổi. Đoàn Dự nhìn kỹ lại thì vị

nữ lang này chỉ khác pho tượng ở chỗ nhiều tuổi hơn nên vẻ mặt dầy dạn

phong trần, còn ngoài ra không khác tý gì, càng nhìn lâu lại càng giống hệt,

khác nào bà này là chị mà pho tượng kia là em.

A Châu, A Bích thấy Đoàn Dự cứ giương mắt nhìn phu nhân trừng trừng có

vẻ cực kỳ vô lễ, trong lòng đều ngấm ngầm kinh sợ, luôn luôn giơ tay ra

hiệu nhắc chàng đừng nhìn nữa. Nhưng mắt chàng tựa hồ dán chặt vào mặt

phu nhân.

HỒI 30

Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa

Vương phu nhân nói:

- Gã này vô lễ. Trước hết chặt chân gã rồi sẽ móc mắt và cắt lưỡi gã đi.

Một ả thị nữ cao lớn, nước da ngăm ngăm khom lưng đáp:

- Xin vâng!

Đoàn Dự lo thầm: "họ làm thế này thì giết mình đi còn hơn". Đằng này họ

chặt chân, móc mắt, cắt lưỡi, sống không sống được, chết chẳng chết cho,

cái đó mới thực khổ cho mình". Đến bây giờ chàng quả thấy trong lòng sợ

hãi. chàng quay đầu lại nhìn A Châu, A Bích một lần nữa thì thấy hai mặt

xám như gà cắt tiết, người đứng đờ ra như tượng gỗ.

Phu nhân lên bờ rồi, hai tên thị nữ áo xanh ở thuyền ra sau rốt, trong tay

đều cầm đầu dây lôi một chàng thanh niên mi thanh, mục tú, có vẻ là con

nhà giàu sang và một người nữa, ngoại hiệu là Nộ Giang Vương Tần

Nguyên Tôn. Lúc Tần đến vây đánh Mộc Uyển Thanh thì oai phong là thế

mà bây giờ bị trói chặt, lão cúi gầm mặt xuống chẳng khác gì cái xác không

hồn hay như cá nằm trên thớt tuỳ người muốn băm vằm mổ xẻ gì thì làm.

Đoàn Dự rất lấy làm kỳ tự hỏi: "ông này ở Vân Nam sao cũng bị Vương

phu nhân bắt về đây?".

Bỗng nghe Vương phu nhân quay sang hỏi Tần Nguyên Tôn:

- Rõ ràng mi là người nước Đại Lý, làm sao không chịu nhận đi?

Tần Nguyên Tôn đáp:

- Tôi ở Vân Nam, quê quán tôi không thuộc về nước Đại Lý.

Vương phu nhân lại hỏi:

- Nhà ngươi cách nước Đại Lý bao xa?

Tần Nguyên Tôn đáp:

- Hơn bốn trăm dặm.

Vương phu nhân nói:

- Chưa đầy năm trăm dặm, thế cũng là người Đại Lý rồi. Đem y chôn sống

dưới gốc Mạn đà la để bón cho cây.

Tần Nguyên Tôn kêu lên:

- Nhưng tôi phạm tội gì mới được chứ? Nếu không nói rõ thì chết cũng

không nhắm mắt.

Vương phu nhân cười lạt đáp:

- Cứ là người Đại Lý hoặc người họ Đoàn mà gặp ta là ta chôn sống, chỉ có

thế thôi. Tuy ngươi không phải ở Đại Lý, nhưng là người lân cận nước Đại

Lý thì cũng thi hành như nhau.

Đoàn Dự lẩm bẩm: à ra mụ này nói có vẻ châm chọc mình. Ta chẳng cần

chờ mụ hỏi, cứ nhận trước đi cho rồi. Nghĩ vậy chàng lớn tiếng nói:

- Ta là người nước Đại Lý, lại chính trong họ Đoàn. Ngươi muốn chôn sống

ta thì hạ thủ ngay đi!

Vương phu nhân lạnh lùng nói:

- Ngươi đã báo danh rồi. Tên là Đoàn Dự chứ gì? được lắm! Người họ Đoàn

nước Đại Lý đâu có được chết dễ dàng thế?

Phu nhân vẫy tay một cái, tên thị nữ kéo Tần Nguyên Tôn đi. Nhưng Tần

vừa bị điểm huyệt vừa bị trọng thương, không sao kháng cự được, lão kêu to

lên:

- Thế gian sao lại có cái luật lệ kỳ dị như vậy? Mấy trăm vạn nhân dân nước

Đại Lý liệu có giết hết được không?

Lão kêu gào thế nào cũng mặc, thị nữ lôi tuột lão đi vào rừng trà mỗi lúc

một xa, tiếng la cũng nhỏ dần. Phu nhân nghiêng đầu đi một chút nhìn

chàng thanh niên mày thanh, mắt sáng hỏi:

- Mi có điều chi muốn nói nữa chăng?

Chàng thanh niên vội quỳ rạp xuống đất, dập đầu lạy luôn mấy cái nói:

- Gia phụ làm quan tại triều, dưới gối chỉ có mình tôi là con. Xin phu nhân

tha mạng cho. Dù phu nhân muốn điều chi, gia phụ cũng nhất định vâng

theo.

Vương phu nhân lạnh lùng đáp:

- Cha mi làm quan lớn trong triều, lẽ nào ta không biết? Ngươi muốn sống

cũng chẳng khó gì. Chỉ có điều hôm nay mi phải về nhà giết vợ con đi, rồi

sáng mai đem đủ sáu lễ cưới Miêu thị là người đã có tư tình với mi. Mi có

bằng lòng không?

Chàng thanh niên đáp:

- Về việc đang tay... chém giết vợ con, tôi không dám làm. Còn việc cho

mối lái và cưới xin đàng hoàng để lấy Miêu thị thì song thân tôi nhất định

không chịu. Không phải là tôi...

Chàng chưa dứt lời phu nhân đã ra lệnh:

- Đem gã chôn sống đi!

Tên thị nữ dắt chàng lúc nãy chỉ "vâng" một tiếng rồi kéo chàng đi.

Chàng thanh niên sợ run bắn người vội nói:

- Tôi... tôi xin tuân mệnh.

Vương phu nhân nói:

- Tiểu Thuý! Mi áp giải gã về thành Cô Tô và chính mắt mi phải nhìn thấy

rõ gã ra tay giết vợ, cùng Miêu cô nương thành thân rồi hãy về đây phục

mệnh.

Tiểu Thuý vâng lời, lôi chàng bỏ xuống chiếc thuyền nhỏ Đoàn Dự đang

ngồi. Chàng thanh niên miệng vẫn năn nỉ:

- Xin phu nhân mở lượng từ bi, phu nhân không có thù oán gì với vợ tôi, lại

không quen biết Miêu cô nương. Tôi cũng chưa từng quen biết phu nhân, hà

tất phu nhân bắt tôi giết vợ để lấy người khác làm chi? Từ nay tôi không

dám làm điều gì để đắc tội với phu nhân.

Vương phu nhân nói:

- Mi đã có vợ con, sao còn đi dùng lời ngon ngọt để chàng màng với các cô

gái khác? Ta không biết thì thôi, một khi đã biết ra ta đều xử theo đường lối

này. Vả mi có phải mới phạm một lần này mà thôi đâu? Còn oán hận gì

nữa? Tiểu Thuý vụ này là vụ thứ mấy rồi hả?

Tiểu Thuý đáp:

- Những chỗ tiểu tỳ quen biết như những vụ xảy ra ở Đan Dương, Vô Tích,

Gia Hưng cả thảy bảy vụ. Còn những vụ nào nữa thì phu nhân hỏi Tiểu Lan,

Tiểu Thi sẽ rõ.

Chàng công tử nghe mà bủn rủn cả người, luôn miệng kêu than.

Tiểu Thuý buông mái chèo, bơi thuyền đi luôn.

Đoàn Dự thấy Vương phu nhân hành động cực kỳ khốc liệt, không đếm xỉa

đến lý lẽ thì miệng há hốc ra, mắt mở trừng trừng như người sắp nổi cơn

điên. Trong lòng chàng vẫn quanh quẩn với ý nghĩ: "sao lại có con người vô

lý đến như thế?". Bất giác chàng buột miệng la lên:

- Có lý nào thế được? Có lý nào thế được?

Phu nhân "hừ" một tiếng rồi nói tiếp:

- Mi còn hỏi việc thiên hạ có lý nào thế được ? Này này ta bảo còn nhiều

việc hơn thế nữa là khác.

Đoàn Dự vừa thất vọng lại vừa khó chịu. Chàng nhớ lại bữa trước chàng vào

thạch động gần sông Thương Lan, thấy pho tượng thần tiên mà chàng xiết

bao ngưỡng mộ, bây giờ chàng thấy Vương phu nhân tướng mạo giống pho

ngọc tượng như đúc mà hành vi chẳng khác gì yêu ma quỷ quái.

Đoàn Dự đang cúi đầu lầm lỳ chán nản thì bốn con nữ tỳ chui vào thuyền bê

ra bốn chậu hoa. Chàng vừa trông thấy, tự nhiên tinh thần lại thấy phấn

khởi. Nguyên bốn chậu hoa này đều là những thứ sơn trà rất hiếm. Khắp

thiên hạ đều ca tụng sơn trà Đại Lý là quý hơn hết. Trong phủ Trấn Nam

Vương không biết bao nhiêu là sơn trà có danh tiếng thì bốn chậu trà này

cũng đứng vào hàng nhất trong phủ. Từ thuở nhỏ Đoàn Dự xem trà đã quen.

Lúc rồi chàng thường ngồi nghe thợ làm trà bàn tán phê bình về tính chất

cùng ưu liệt điểm của từng thứ trà. Chàng không học tập nghề trồng trà

nhưng trong lòng cũng thuộc như cháo, khác nào con nhà nông phân biệt

lúa má hay con cháu ngư ông sành sỏi về các loại cá tôm? Lúc trước chàng

đã đi lại mấy dặm để ngắm xem rừng trà mà chưa thấy có một gốc trà nào

vào hàng giai phẩm, trong lòng chàng đã nghĩ đến cái tên "mạn đà sơn

trang" đặt cho khu trại này thật uổng.

Bỗng nghe Vương phu nhân gọi:

- Tiểu Trà! Bốn chậu trà "mãn nguyệt" này khó kiếm lắm đấy! Mi phải

trông nom chăm chút nghe!

ả thị nữ tên gọi Tiểu Trà đáp:

- Vâng!

Đoàn Dự nghe giọng hách dịch kiêu điệu thì hề hề cười lạt. Vương phu

nhân không thèm nói gì đến chàng lại dặn tiếp:

- Đi trên mặt hồ gió to, bốn chậu trà để luôn trong thuyền mấy ngày, thiếu

ánh mặt trời chiếu vào, mi phải đem ra phơi nắng và gia công bón vào.

Tiểu Trà lại "vâng" một tiếng.

Bây giờ thì Đoàn Dự lớn tiếng cười ha hả. Vương phu nhân nghe tiếng cười

có vẻ hỗn xược hỏi:

- Mi cười gì?

Đoàn Dự đáp:

- Ta buồn cười cho mi đã chẳng biết tý gì về sơn trà lại ưa trồng trà. Những

thứ trà quý thế kia lọt vào tay ngươi thật là uổng, chẳng khác gì chim cú đậu

cành mai.

Vương phu nhân nổi giận nói:

- Mi bảo ta không hiểu sơn trà, dễ thường cái ngữ mi hiểu được chăng?

Rồi dường như phu nhân sực nhớ ra điều gì lẩm bẩm: ừ mà gã này là con

cháu họ Đoàn nước Đại Lý, không chừng gã hiểu sơn trà cũng nên. Nghĩ

vậy thì nghĩ nhưưng phu nhân vẫn ra vẻ kiêu kỳ:

- Mi không nghe nói bản trang đây xưng danh "mạn đà sơn trang" hay sao?

Và không thấy khắp sơn dã trà mạn đà chỗ nào cũng tốt như rừng đấy ?

Đoàn Dự cười lạt đáp bằng giọng khinh khỉnh:

- Tuồng chi rừng mạn đà của ngươi chẳng khác chi giống người vai u thịt

bắp, vứt đâu mà chẳng to chẳng lớn? Ta nói là nói bốn chậu chà này này,

nếu ngươi trồng được nó tươi tốt thì ta quyết không phải người họ Đoàn.

Vương phu nhân vốn rất ưa hoa trà, không kể tốn phí, đi tìm khắp nơi để

mua giống quý nhưng cứ đem về Mạn đà sơn trang trồng thì các thứ trà

hiếm có chỉ được một năm hay dăm bảy tháng rồi sinh bệnh mà chết. Phu

nhân thường buồn phiền về những vụ này. Giờ thấy Đoàn Dự nói vậy,

không giận mà lại mừng thầm, tiến lại hai bước hỏi:

- Bốn chậu trà này có gì đặc biệt? Muốn trồng cho tươi tốt phải làm thế

nào?

Đoàn Dự nói:

- Nếu ngươi muốn thỉnh giáo thì phải có đủ lễ nghi, còn người muốn làm

oai làm phước thì chặt chân ta trước rồi hỏi cũng chưa muộn mà.

Vương phu nhân tức mình nói:

- Mi muốn chặt chân phỏng có khó gì? Tiểu Thi đâu! Mi đem chặt chân trái

gã đi nghe!

ả nữ tỳ tên gọi Tiểu Thi "vâng" một tiếng rồi chống kiếm bước ra.

A Bích vội la lên:

- Thưa phu nhân! Không nên chặt chân Đoàn quân. Cậu là người rất quật

cường, thà chết chứ không chịu nói đâu.

Thực ra Vương phu nhân cũng chỉ hăm doạ chàng mà thôi, liền giơ tay trái

lên, Tiểu Thi vội dừng bước.

Đoàn Dự cười nói:

- Sao không chặt hai chân ta để chôn bên gốc bốn khóm bạch trà này để bón

cho tốt? Bốn khóm trà này quý vô cùng, hoa nó lớn bằng miệng bát chậu.

Ha ha thật là thứ trà rất đẹp, rất quý.

Trong lòng Vương phu nhân chỉ mong có thứ trà quý nhưng nghe giọng lưỡi

chàng toàn là bướng bỉnh, phu nhân không biết nói thế nào, ngẫm nghĩ hồi

lâu rồi bảo:

- Mi chỉ toàn nói ba hoa. Ta hỏi mi: bốn chậu bạch trà của ta quý thì quý ở

chỗ nào? Mi nói cho ta nghe thử! Nếu đúng ta sẽ theo lễ đối đãi với mi cũng

chưa muộn.

Đoàn Dự đáp:

- Vương phu nhân! Ngươi bảo bốn chậu bạch trà này tên là "mãn nguyệt" là

láo toét. Một thứ tên gọi "Hồng trang tố lý", một thứ là "trảo phá mỹ nhân

kiểm"...

Phu nhân lấy làm lạ ngắt lời:

- "Trảo phá mỹ nhân kiểm"? tên trà gì mà kỳ thế? Vậy chậu trà nào có tên

thế?

Đoàn Dự nói:

- Ngươi muốn thỉnh giáo ta thì phải theo đúng lễ ta mới chỉ bảo cho.

Vương phu nhân không biết làm thế nào nhưng thấy mình vô tình lấy được

mấy khóm trà có những tên đặc biệt trong lòng hớn hở vui mừng liền mỉm

cười nói:

- Hay lắm! Tiểu Thi đâu! Mi bảo nhà bếp sửa tiệc tại lầu Vân Cẩm để ta

khoản đãi Đoàn tiên sinh nghe!

Tiểu Thi vâng dạ đi ngay. A Châu, A Bích chỉ nhìn nhau. Hai nàng thấy

Đoàn Dự chẳng những không chết lại còn được Vương phu nhân tiếp đãi

vào hạng thượng tân thì khác nào như mơ mộng.

Phu nhân quay lại dặn ả thị nữ cầm ba cái đầu lâu:

- Mi đem ba cái thủ cấp này chôn xuống bên khóm hoa hồng trước lâu

Hồng Hà.

Thị nữ vâng lệnh đi ngay, Vương phu nhân quay lại nói với Đoàn Dự:

- Nào xin mời Đoàn công tử lên đây!

Đoàn Dự đáp:

- Vãn sinh mạo muội! Xin hiền chủ nhân thứ lỗi.

Vương phu nhân nói:

- Đại hiền giá lâm khác nào rồng đến nhà tôm?

Hai người vừa đối đáp những câu khách sáo vừa đi rất ung dung, khác hẳn

lúc nãy, tính mạng Đoàn công tử dường như ngàn cân treo đầu sợi tóc. A

Châu, A Bích theo sau. Hai người biết tính Vương phu nhân hốt hỷ hốt nộ,

nói cười đấy rồi trở mặt ngay đấy nên trong lòng vẫn phập phồng lo sợ.

Vương phu nhân dẫn Đoàn Dự đi qua một chiếc cầu đá, theo con đường

chật hẹp đến trước một toà lầu nhỏ. Đoàn Dự ngẩng đầu lên trông thấy dưới

mái hiên có treo tấm biển đề ba chữ vàng: "Vân Cẩm lâu". Bốn mặt toà lầu

này trồng toàn hoa trà. Những bông trà ở đây đem so với trà bên Đại Lý chỉ

đáng đứng vào hàng thứ ba, thứ tư trở xuống. Đình tạ, lầu các cực kỳ lịch sự

mà cỏ hoa lại tầm thường nên mất cả vẻ tương xứng.

Vương phu nhân lộ vẻ đắc ý hỏi Đoàn Dự:

- Đoàn công tử! Bên quý quốc nhiều trà thật nhưng có lẽ còn thua bên này.

Đoàn Dự gật đầu đáp:

- Vâng! bên Đại Lý quả không trồng những thứ trà này.

Vương phu nhân lại càng tự đắc hỏi:

- Vậy ?

Đoàn Dự đáp:

- Vì bên nước tôi từ kẻ dân dã, ngu phu tục tử cũng rất sành về các loại trà.

Họ cho trồng những thứ trà tạp nham này làm cảnh chơi sẽ làm mất cả

phẩm giá con người.

Vương phu nhân tức thời biến sắc hỏi:

- Công tử nói sao? Những trà của ta đây là những thứ không ra gì? Thế thì

công tử khinh người quá!

Đoàn Dự đáp:

- Phu nhân không tin tôi thì đó là quyền của người.

Chàng vừa nói vừa chỉ một khóm hoa trà có vân ngũ sắc trước lầu nói tiếp:

- Tỷ như khóm trà này phu nhân cho là quý lắm! Chà cái lan can bên cạnh

mới thực là đẹp. Chàng tấm tắc khen cái giàn hoa đẹp còn chính cây hoa lại

không đếm xỉa gì đến, có khác gì người bình phẩm chữ viết chỉ khen mực

đen bóng mà không đả động đến nét chữ. Khóm hoa trà này có bông hồng,

bông trắng, bông tía, bông vàng rất là sặc sỡ, trước nay Vơng phu nhân

vẫn cho là quý báu lắm giờ xem Đoàn Dự có ý mỉa mai thì tỏ vẻ không

bằng lòng.

Đoàn Dự hỏi:

- Thưa phu nhân! Miệt Giang Nam gọi tên thứ hoa này là gì?

Vương phu nhân đáp:

- ở đây không có tên riêng, chỉ gọi là ngũ sắc trà hoa.

Đoàn Dự nói:

- Bên Đại Lý chúng tôi gọi nó là "lạc đệ tú tài".

Vương phu nhân bĩu môi nói:

- Tên gì mà khó nghe thế? Chẳng qua là công tử muốn đặt ra vậy thôi.

Khóm hoa này đủ mầu mỹ lệ đường hoàng, có vẻ gì gọi là cậu tú hỏng thi

đâu?

Đoàn Dự nói:

- Phu nhân thử đếm coi! Khóm trà đó có bao nhiêu kiểu hoa khác nhau?

Vương phu nhân đáp:

- Ta đã đếm rồi! ít ra cũng có đến 15, 16 thứ.

Đoàn Dự nói:

- Cả thảy có 17 thứ mới đúng. Bên Đại Lý tôi có thứ trà kêu bằng "thập bát

học sĩ". Đó là thứ quý nhất thiên hạ. Cả khóm có 18 bông mà mầu sắc

không bông nào giống bông nào: hồng thì toàn hồng, tía cũng toàn tía, chứ

không hỗn tạp. Về hình dạng cũng khác nhau, mỗi bông có một vẻ đẹp

riêng. Cả 18 bông nở cùng một lúc, tàn tạ cũng trong một giờ. Phu nhân đã

được xem chưa?

Vương phu nhân lắc đầu đáp:

- Thiên hạ có thứ trà quý thế kia ? Tôi chưa từng nghe thấy ai nói đến.

Đoàn Dự lại nói tiếp:

- Sau hạng "thập bát học sĩ", còn có những thứ kém đi từng bậc một, tỷ như

"bát tiên quý hải", một gốc sinh ra tám bông hoa khác nhau, "thất tiên nữ"

có bảy bông, "phong trần tam hiệp" có ba bông, "nhị kiều" có hai bông một

trắng một hồng. Tất cả các bông hoa phải thuần một sắc, nếu hoa hồng có

pha mầu trắng, hoặc hoa trắng có pha sắc tía đều là hạng kém.

Vương phu nhân vừa nghe vừa gật đầu. Đoàn Dự lại nói tiếp:

- Riêng về thứ "phong trần tam hiệp" lại chia ra làm hai: hạng chánh và

hạng phó. Trong ba bông thì bông tía phải lớn hơn hết tợng trưng cho Cầu

nhiêm Khánh, bông trắng thứ nhì tượng trưng cho Lý Tĩnh, bông hồng đẹp

và nhỏ nhất tượng trưng cho Hồng phất Nữ. Nếu bông hồng lớn hơn hai

bông kia là hạng phó, như thế là giá trị kém đi nhiều.

Vương phu nhân ngồi nghe ra chiều thú vị, than rằng:

- Ngay hạng phó tôi cũng chưa được thấy qua chứ đừng nói đến hạng chánh.

Đoàn Dự lại trỏ thứ trà bông ngũ sắc phê bình:

- Luận về tư cách loại này so với "thập bát học sĩ" thì còn thiếu một bông,

ngoài ra các mầu sắc lại còn bác tạp, không được thuần nhất, bông to bông

nhỏ, hay nở sớm, nở muộn không đều phỏng có khác chi bì phấn với vôi? tỷ

như sĩ tử văn bài kém cả phân điểm, lẽ tất nhiên thi rớt nên mới có cái tên

"Lạc đệ tú tài".

Vương phu nhân nghe có lý thích quá, bật cười nói:

- Kể ra đúng đấy. Nhưng cái tên có vẻ mỉa mai khinh bạc.

Vương phu nhân nghe tới đây biết Đoàn Dự rất sành sỏi về sơn trà đem lòng

tín phục. Phu nhân dẫn chàng lên lầu "cẩm vân", chẳng mấy chốc đã thấy

gia nhân bày tiệc rượu. Các món ăn của A Bích mời chàng thì lấy sự đơn

giản tinh khiết, khéo tay khéo chân làm sở trường còn tiệc của Vương phu

nhân lại chú trọng về những món ăn trân tu làm sang. Nhưng Đoàn Dự đã

sinh trưởng ở nơi Đế Vương đài các nên thứ gì chàng cũng coi là thường,

chàng có vẻ thích những món ăn của A Bích hơn.

A Châu, A Bích được các tỳ nữ bồi tiếp và ăn uống riêng biệt ở chỗ khác.

Vương phu nhân đối với Đoàn Dự rất mực cung kính. Bà ngồi chỗ dưới để

bồi tiếp chàng. Rượu đã ba tuần Vương phu nhân hỏi:

- Vừa rồi công tử cho nghe những lời bình phẩm xác đáng về các thứ trà tôi

rất đồng ý, còn bốn chậu trà tôi mới lấy về đây thì những thợ trồng hoa ở

đất Cô Tô này kêu bằng trà "mãn nguyệt" mà công tử lại bảo một chậu là

"Hồng trang tố lý", một chậu "mỹ nhân trảo phá kiếm", vậy có những điểm

nào để phân biệt? Xin công tử nói rõ cho biết!

Đoàn Dự nói:

- Chậu hoa trắng mà lớn có vân đen nho nhỏ mới kêu là "mãn nguyệt"

những vân đen đó tượng trưng các cành quế ở cung trăng. Chậu hoa cánh

trắng mà có vân hồng gọi là "hồng trang tố lý". Cánh trắng mà có điểm một

tia đỏ nhỏ như sợi tơ là "mỹ nhân trảo phá kiếm". Thứ giống như "mỹ nhân

trảo phá kiếm" nhưng cánh có nhiều tia hồng thì gọi là "ỷ lan kiều". Phu

nhân thử nghĩ coi: đã là mỹ nhân thì phải thuần nhã ôn nhu, trên má lỡ tay

cào toạc ra một dây máu thì chả hại gì nhưng khắp mặt sây xát, tỏ ra đã bao

phen cùng người xô xát thì còn đâu là vẻ mỹ nhân?

Vương phu nhân đang chăm chú nghe, thốt nhiên sa sầm nét mặt quát lên:

- Quân này to gan thật! Mi dám mạt sát ta ?

Đoàn Dự cả kinh:

- Khi nào tôi dám thế? Tôi có mạo phạm phu nhân ở chỗ nào đâu?

Vương phu nhân hỏi:

- Ngươi nghe ai sai khiến đến đây nói hươu nói vượn để nhục mạ ta? Ai bảo

mi đàn bà học võ công là mất vẻ mỹ miều? Nhuần nhã ôn nhu thì đã hơn ai?

Đoàn Dự giật mình đáp:

- Vãn sinh nói đây chỉ là theo lẽ thông thường. Thiếu gì đàn bà con gái giỏi

võ mà vẫn kiều diễm đoan trang?

Không ngờ câu nói này đã làm cho Vương phu nhân chối tai hơn. Bà hỏi

vặn:

- Ta có đoan trang hay không?

Đoàn Dự đáp:

- Đoan trang hay không thì phu nhân tự biết, vãn sinh đâu dám nói càn. Đại

khái những việc như bắt người ta giết vợ để đi lấy vợ khác người đoan trang

không làm.

Chàng nổi cơn bực tức nên mấy câu sau chàng không kiêng nể gì nữa.

Vương phu nhân khẽ đập tay ba cái, ba ả thị nữ vội chạy lên lầu, bỏ thõng

tay đứng chờ lệnh. Vương phu nhân nói:

- Bọn mi dẫn tên này đi tưới hoa.

Bọn thị nữ vâng lời. Phu nhân quay lại bảo Đoàn Dự:

- Ngươi đã ở nước Đại Lý, lại là người họ Đoàn đáng chết lắm nhưng hiểu

biết tính chất các loại trà vậy ta hãy tạm để tội chết lại, phạt ngươi phải

trông nom bón tưới những khóm trà ở xung quanh trang, nhất là bốn chậu

trà mới lấy về, lại càng phải trông nom cẩn thận. Ta bảo cho ngươi biết

trước nếu trong bốn khóm trà này mà ngươi để chết một khóm sẽ bị chặt

một tay, chết hai khóm sẽ bị chặt hai tay, chết hết bốn khóm thì chân tay sẽ

bị chặt hết đó.

Đoàn Dự cười nói:

- Còn trường hợp bốn khóm trà sống cả thì sao?

Vương phu nhân đáp:

- Nếu bốn khóm trồng được tơi tốt cả thì ngươi phải kiếm những giai phẩm

như "thập bát học sĩ", "bát tiên quá hải", "Thất tiên nữ", "nhị kiều" mỗi thứ

mấy cây, không kiếm được cho ta sẽ bị móc mắt.

Đoàn Dự nói:

- Thế thì mụ giết quách ta đi còn hơn. Hôm nay chặt tay, ngày mai móc

mắt, ta chịu sao nổi?

Vương phu nhân quát mắng:

- Tên này giỏi thật, trước mặt ta mà dám buông lời càn rỡ! Chúng bay lôi cổ

nó đi!

Ba ả thị nữ chạy lại, hai ả túm đằng trước, còn một ả phía sau đẩy đi. Ba ả

này đều có võ, Đoàn Dự không thể kháng cự lại được đành để bọn thị nữ

kéo xuống lầu, đưa đến một chỗ trong vườn hoa. Một ả đa cho chàng cái

xuổng xới đất, một ả lấy cho chàng cái bình tưới và bảo chàng:

- Ngươi đã nghe rõ lời phu nhân dặn bảo. Thôi chịu khó ở đây trồng cây

tưới hoa để bảo toàn sinh mạng. Thế là đại phước lắm đó. Những chàng trai

đã đặt chân lên Mạn đà sơn trang chưa có ai sống mà trở về đấy nhé.

Một ả nữa nói:

- Ngươi chỉ biết việc ở đây trồng tỉa sơn trà, đừng len lỏi vào các nơi cấm

địa mà nguy đó! Nếu không nghe lời ta tức là tự đi tìm lấy cái chết không ai

cứu được đâu.

Ba ả thị nữ dặn dò cẩn thận rồi mới bỏ đi. Đoàn Dự đứng thừ người ra,

chàng lâm vào tình trạng khóc dở mếu dở. Tại nước Đại Lý chàng ở vào địa

vị thế tử, phụ thân chàng là Trấn Nam Vương, một ngày kia lên kế vị Bảo

Định Đế, thì tự nhiên chàng lên bậc Hoàng thái tử, có ngờ đâu bị người bắt

đem xuống Giang Nam định đốt, định giết, toan chặt chân tay, móc mắt.

Rồi bây giờ bị người bắt ép làm kẻ trồng cây tưới hoa. Tuy nhiên tính chàng

bình dị vui vẻ, lúc ở nhà tại hoàng cung cũng như ở Vương phủ thường nhật

chàng vẫn xem thợ sửa hoa cắt cỏ, xới đất bón cây rồi cùng bọn thợ cười

cười nói nói. Chàng đang ở địa vị công tử vương tôn, giờ phải xuống làm

nghề hạ tiện nhưng may chàng vốn tính linh lợi vui tươi nên dù gặp nghịch

cảnh đầy đoạ chàng có âu sầu chăng nữa cũng chỉ được một lúc rồi lại cao

hứng như thường. Chàng lại khai thác nguồn hứng thú ở ngay cái việc hiện

tại đang đẩy vô mình. Chàng lý luận: lúc ta vào thạch động đã hạ bái thần

tiên tỷ nương nhận làm thầy. Nay Vương phu nhân tướng mạo giống thần

tiên tỷ nương, bất quá phu nhân nhiều tuổi hơn mà thôi, thế thì ta thờ phu

nhân làm sư phụ cũng được chứ sao? Sư phụ đã ra mệnh lệnh, đạo làm đệ tử

là phải vì thầy xuất lực có chi quá đáng? huống chi trồng hoa là công việc

thanh nhã của bọn văn nhân so với việc khai thương múa đao học võ thì

trồng hoa còn cao thượng hơn nhiều. Thoát khỏi tay Cưu Ma Trí định đem

mình đốt sống trước mộ Mộ Dung tiên sinh để được ra đây làm cái việc

trồng hoa khoái lạc này là vinh hạnh lắm rồi. Chỉ đáng tiếc có một điều là

các loại trà hoa kém cỏi này mà phải dùng đến vương tử nước Đại Lý ra tay

trồng tỉa kể cũng hơi phí. Lý luận hồi lâu lòng chàng khoan khoái, miệng

bật lên khúc hát vang lừng, vác xuổng cất bước. Chàng tự nhủ thầm: "Vương

phu nhân giao cho ta cái trọng trách phải trồng cho đặng sống bốn bồn bạch

trà này phải lắm! Trà này cũng vào hạng có tên tuổi rồi đây, phải được tay

văn nhã như mình trồng mới thành thân". Đoàn Dự vừa đi vừa ngắm phong

cảnh đột nhiên chàng cười ha hả nghĩ bụng: "Vương phu nhân kể ra cũng

kỳ, chẳng hiểu mảy may gì về sơn trà mà lại ưa trà hoa, chỗ nào cũng trồng

trà, rồi lại đặt tên cho trang trại của mình là Mạn đà sơn trang, nghe ra có

vẻ hay ho lắm. Phu nhân có biết đâu rằng trà ưa khí âm chứ không hợp với

khí dương. Trồng trà vào nơi giải nắng thì chẳng chết cũng chột, khó lòng

tơi tốt được, vun bón thế nào cũng vô ích. Biết bao nhiêu thứ trà quý để

phu nhân làm hỏng hết. Đáng tiếc, đáng tiếc!". Chàng tránh những lối nắng

chang chang tìm vào những nơi rậm rạp âm u, đi quanh hết hòn núi nhỏ

bỗng nghe tiếng suối khe róc rách, bên tả toàn là trúc mọc xanh rì, bốn bề

tịch mịch, mặt trời không chiếu vào đến nơi, đúng là khu âm trái núi.

Vương phu nhân thấy nơi này đất cớm cho là không thể trồng hoa được nên

tuyệt không có một gốc trà nào. Đoàn Dự cả mừng lẩm bẩm: "chỗ này trồng

trà tuyệt diệu". Đoạn chàng rảo bước quay về chỗ cũ bưng hai chuyến, bốn

chậu trà đến đó. Chàng khoét lỗ bên cạnh khóm trúc, ghè cho vỡ chậu sành

rồi đặt cả bầu xuống. Tuy chàng chưa làm qua công việc trồng tỉa nhưng đã

được xem nhiều, cứ theo cách thức mà làm cho được chu đáo. Hồi lâu

chàng trồng xong cả bốn khóm bạch trà ngay cạnh rặng trúc: đầu bên trái là

khóm "Trảo phá mỹ nhân kiểm", đầu bên hữu hai khóm "hồng trang tố lý"

và "mãn nguyệt", còn khóm "ỷ lan kiều" thì trồng chênh chếch mé sau khối

đá lớn bên bờ suối cho hợp với câu:

E thẹn ôm đàn che nửa mặt

Ai kêu ai gọi cũng mần thinh

Đoàn Dự rất đắc ý đã trồng khóm "ỷ lan kiều" vào nơi nửa kín nửa hở cho

hợp cảnh và tăng thêm vẻ đẹp.

Người Trung Quốc từng đem hoa ví với mỹ nhân, việc trồng hoa cũng như

việc trang điểm cho mỹ nhân.

Đoàn Dự xuất thân tại chốn hoàng cung, đọc thi thư từ thuở nhỏ, cách thức

trồng cây cỏ cũng hơn người một bậc. Trồng xong bốn khóm hoa chàng

xuống suối rửa sạch chân tay ngồi sau phiến đá lớn ngắm nghía khóm "ỷ lan

kiều" lấy làm khoái chí. Bỗng nghe có tiếng chân bước sột soạt, hai thiếu nữ

ngang qua, một cô nói:

- Chỗ này tịch mịch, không có ai qua lại...

Đoàn Dự thoáng nghe đã giật nảy mình vì chàng nhận ra vị nữ lang mặc áo

trắng lúc trước. Đoàn Dự nín hơi, không dám ho he một tiếng, nghĩ bụng:

"nàng đã bảo không nhìn mặt chàng trai nào không có liên quan gì tới nàng.

Ta chỉ cần nghe nàng nói mấy câu phỏng có khác gì được nghe giọng ca

nhạc của tiên nương, cũng đã phúc lắm rồi. Nhất quyết ta phải cố giữ cho

nàng không trông thấy mình mới được. Chàng chỉ ngấp nghe nhìn chênh

chếch chứ không dám nhìn thẳng mặt. Chàng vừa nghiêng đầu nghẹo cổ

nhìn trộm vừa sợ đụng chạm phát ra tiếng làm kinh động nữ lang.

Nữ lang tiếp tục nói chuyện với thị tỳ:

- Tiểu Thi! Mi được tin gì về chàng?

Đoàn Dự nghe hỏi bất giác chua xót trong lòng. Chàng biết rằng tiếng

"chàng" mà nữ lang gọi đó là chỉ công tử Mộ Dung. Chàng đã nghe Vương

phu nhân gọi gã bằng tên là Mộ Dung Phục mà thôi. Chàng lại thấy nữ lang

hỏi vặn thị tỳ về tin tức công tử Mộ Dung có vẻ thiết tha mong nhớ. Chàng

nghĩ thầm: "Giả tỷ cô nương này đối với mình tha thiết như vậy thì dù mình

có phải chết ngay tức khắc cũng rất vui lòng. Nực cười Đoàn Dự là một gã

si tình lạ lùng. Nào chàng đã được nhìn rõ mặt nữ lang áo trắng đâu, chẳng

biết nàng đẹp hay xấu, chẳng hiểu tên họ nàng là gì, chẳng rõ nàng hiền

lành hay hung dữ tính tình nàng tốt hay xấu. Từ lúc Đoàn Dự mới nghe

tiếng nữ lang áo trắng nói vài câu ngoài bờ hồ ban nãy chàng đã nặng tình

rồi. Giả tỷ chàng có vì nàng mà phải hy sinh tính mạng cũng không ăn năn

hối hận chút nào. Tại sao chàng đã nẩy ra tâm ý như vậy chính chàng cũng

không hiểu nữa. Chàng thấy nàng bất cứ lúc nào hay chỗ nào cũng chỉ bàn

tới việc công tử Mộ Dung thì chàng hoặc ngưỡng mộ nàng hoặc tự thương

cho mình.

Nghe thiếu nữ hỏi, Tiểu Thi ấp úng hồi lâu, dường như sợ không dám nói

thẳng. Nữ lang giục:

- Mi nói mau đi! không bao giờ ta quên lòng tốt của mi.

Tiểu Thư vẫn ngần ngừ:

- Cháu sợ... cháu chỉ sợ... phu nhân trách phạt.

Nữ lang tức mình hăm doạ:

- Con này điên hả? Mi cứ nói cho ta hay. Dĩ nhiên là ta không kể với phu

nhân đâu. Nếu mi không nói ta hỏi Tiểu Trà, Tiểu Thuý sẽ biết, sau phu

nhân có hỏi đến ta sẽ đổ cho mi mách ta đó!

Tiểu Thi hốt hoảng hỏi lại:

- Tiểu thư! Sao tiểu thư... lại chực đổ oan cho cháu?

Nữ lang cười đáp:

- Có gì là lạ? Kẻ nào làm tâm phúc cho ta dĩ nhiên ta phải nâng đỡ và hộ vệ

nó. Đứa nào không chịu nghe lời ta thì ta đổ tội cho chứ sao?

Tiểu Thi ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đáp:

- Thôi cháu đành nói rõ cho cô nương nghe. Cô nương phải giữ tuyệt đối bí

mật, chớ để cho câu chuyện tiết lộ ra ngoài.

Nữ lang nói:

- Ta xem mi không muốn nói cứ ấp úng hoài. Ta chỉ tin ngươi được phần

nào thôi. Giả tỷ mi đừng giấu ta câu nào thì ta quyết với mi rằng vĩnh viễn

mi không bị phu nhân quở trách.

Tiểu Thi thở dài nói:

- Biểu thiếu gia đến chùa Thiếu Lâm đó.

Nữ lang giật giọng hỏi:

- Mi bảo chàng đến chùa Thiếu Lâm ? Sao A Châu A Bích lại nói chàng

đến Cái Bang ở Lạc Dương kia mà?

Đoàn Dự tự hỏi: "Biểu thiếu gia nghĩa là gì? à thôi phải rồi! Công tử Mộ

Dung là biểu huynh cô nương đây, hai người là anh em họ với nhau".

Tiểu Thi nói:

- Hôm vừa rồi, phu nhân ra đi giữa đường gặp Phong tứ gia bên yến tử ổ nói

cho biết là người đi chùa Thiếu Lâm bên Tung Sơn để tiếp ứng cho biểu

thiếu gia.

Nữ lang hỏi:

- Chàng đi chùa Thiếu Lâm có việc gì?

Tiểu Thi đáp:

- Phong tứ gia kể rằng biểu thiếu gia đưa tin về có rất nhiều phái võ đến

chùa Thiếu Lâm, mở cuộc anh hùng đại hội gì đó để đối phó với nhà Mộ

Dung mà thiếu gia chưa biết rõ có những ai. Cháu lại nghe nói bên yến tử ổ

còn có nhiều người đi tiếp ứng.

Nữ lang lại hỏi:

- Phu nhân đã được tin như vậy sao lại quay về? Không đi giúp biểu thiếu

gia?

Tiểu Thi đáp:

- Điều đó cháu cũng không hiểu. Dường nh phu nhân không ưa biểu thiếu

gia.

Nữ lang hậm hực nói:

- Hừ! ưa hay không ưa là một chuyện. Dù sao thiếu gia cũng là người trong

nhà. Để thiếu gia mất mặt với người ngoài thì mình vẻ vang lắm hay sao?

Tiểu Thi nói:

- Đúng thế!

Nữ lang tức mình hỏi:

- Đúng cái gì?

Tiểu Thi run sợ đáp:

- Đúng là... chẳng vẻ vang gì.

Nữ lang chạy đi chạy lại bên rặng trúc xanh để lo mưu tính kế. Chợt trông

ba khóm bạch trà Đoàn Dự mới trồng, mảnh chậu đập ra còn bỏ đó, nàng

ngạc nhiên hỏi:

- Ai trồng trà ở đây thế này?

Đoàn Dự vội vàng từ sau phiến đá lớn chạy vụt ra vái dài sát đất nói:

- Tiểu sinh vâng mệnh phu nhân, đang trồng trà tại đây, không ngờ lại gặp

tiểu thư.

Tuy vái dài tỏ ra rất cung kính nhưng mắt chàng cứ chằm chặp nhìn thẳng

vào mặt nữ lang. Vì chàng sợ lại phải nghe nàng nói một câu dứt khoát như

lần trước: "ta không nhìn bất cứ gã trai nào không có liên can gì đến ta" rồi

trở gót đi thẳng thì lại lỡ mất cơ hội. Đoàn Dự vừa nhìn thấy mặt nữ lang đã

tai ù mắt hoa, hai đầu gối nhũn ra không tự chủ được nữa, quỳ mọp xuống

đất, nếu không miễn cưỡng chống lại thì đến cái đầu cũng đập xuống đất

mà lạy. Miệng chàng lắp bắp nói luôn:

- Thần tiên nương tử ơi! tôi nhớ nương tử muốn chết đi được.

Nguyên tướng mạo nữ lang áo trắng này giống hệt pho tượng ngọc trong

thạch động bên nước Đại Lý. Vương phu nhân cũng đã giống pho tượng này

nhưng cao tuổi hơn còn nữ lang áo trắng có khác là chỉ ở bộ áo mặc ngoài

mà thôi. Từ mặt mũi, tai mắt, mồm miệng cho chí tầm vóc, chân tay cùng

màu da đố ai tìm được chỗ nào khác. Thực là pho tượng ngọc tái sinh. Đoàn

Dự như người đang lạc vào cõi mộng. Chàng đã trải không biết mấy ngàn

mấy trăm lần tưởng nhớ đến pho ngọc tượng. Lúc này chính mắt chàng nhìn

thấy người thật mà chàng chẳng hiểu ở nơi nao ở trần gian hay thượng giới.

Nữ lang thấy cử động cùng cách xưng hô của Đoàn Dự cho là chàng mắc

bệnh điên cuồng vừa khẽ hỏi vừa lùi lại hai bước:

- Ngươi... ngươi...?

Đoàn Dự đứng dậy nói:

- Hôm đó ở trong thạch động tôi được bái kiến tiên dung thần tiên nương tử,

đã mừng cho mình phúc duyên rất lớn, không ngờ ngày nay lại thấy dung

nhan nương tử thì ra trên đời này quả có tiên tử không sai.

Nữ lang quay lại hỏi Tiểu Thi:

- Gã nói chi đó? Gã là ai vậy?

Tiểu Thi nói:

- Gã là một anh đồ gàn đến với A Châu, A Bích. Gã nói nhăng nói cuội thế

nào mà phu nhân tin lời mới nực cười.

Nữ lang quay ra hỏi Đoàn Dự:

- Tên đồ gàn kia! Ta vừa nói chuyện với thị nữ đây ngươi có nghe thấy

không?

Đoàn Dự cười đáp:

- Tôi họ Đoàn tên Dự, người nước Đại Lý, không phải là đồ gàn đâu. Vừa

rồi thần tiên nương tử nói chuyện với chị Tiểu Thi đây vô tình tôi đã nghe rõ

cả. Xin thần tiên nương tử cùng chị Tiểu Thi cứ yên lòng, tiểu sinh nhất

quyết không tiết lộ một câu nào cho ai biết cả và xin bảo đảm cho chị Tiểu

Thi không bị phu nhân quở trách vì tôi.

Nữ lang sa sầm nét mặt hỏi:

- Ngươi xưng hô lăng nhăng như vậy còn cãi không phải đồ gàn. Ngươi thấy

ta từ lúc nào?

Đoàn Dự hỏi lại:

- Tôi không xưng hô bằng thần tiên nương tử thì xưng hô thế nào cho phải

nhẽ?

Nữ lang đáp:

- Ta họ Vương, ngươi cứ gọi ta bằng Vương cô nương là được rồi.

Đoàn Dự lắc đầu quầy quậy nói:

- Không được! Không được! Khắp thiên hạ cô nương họ Vương kể có hàng

ngàn hàng vạn còn cô nương đây là nhân vật thần tiên, phi phàm mà cũng

chỉ gọi bằng Vương cô nương như người thường thế nào được? Bây giờ biết

xưng hô cách nào đây? ấy thế mà khó đấy! Gọi vắn tắt là Vương tiên tử

chăng? cũng không được! Nhà Đại Tống rồi các nước Đại Lý, Liêu Quốc,

Thổ Phồn nước nào chẳng có công chúa nhưng bì với cô nương thế nào

được?

Nữ lang nghe Đoàn Dự nói tràng giang đại hải, toàn những câu gàn gàn dở

dở. Dù thấy gã tán dương sắc đẹp mình một cách quá lố chăng nữa nhưng

trong lòng nàng vẫn cảm thấy vui vui, nàng mỉm cười nói:

- Dù sao thì ta cũng cho ngươi là tốt phúc vì chưa bị mẫu thân ta chặt chân.

Đoàn Dự lại nói:

- Thần tiên nương tử cùng lệnh đường phu nhân tướng mạo giống nhau

nhưng tính tình thực khác xa nhau. Phu nhân động một tý là giết người, có

điều không xứng đáng với thể chất thần tiên...

Nữ lang nhíu đôi lông mày ngắt lời:

- Thôi ngươi tiếp tục trồng hoa đi! đừng đứng đây bẻm mép nữa. Bọn ta có

việc phải bàn.

Nàng nói câu đó với vẻ mặt coi Đoàn Dự như một tên thợ trồng hoa không

hơn không kém. Đoàn Dự không lấy làm tủi nhục về thái độ kiêu căng của

nàng. Chàng chỉ mong được cùng nàng nói câu nào hay câu ấy, nhìn phút

nào hay phút ấy. Chàng tính kế: "muốn cho nàng bắt chuyện thì không gì

bằng việc đề cập đến công tử Mộ Dung. Bụng dạ nàng để cả vào gã, ngoài

ra nàng không thiết một việc gì hết". Nghĩ vậy chàng liền nói:

- Các anh hùng thiên hạ hội họp cùng phái Tung Sơn và phái Thiếu Lâm

thương nghị việc đả phá nhà Mộ Dung. Nhân vật các phái dĩ nhiên không

phải là ít, công tử Mộ Dung cô thân, dấn mình vào nơi hiểm địa, thật là

đáng lo ngại.

Quả nhiên nữ lang giật mình. Đoàn Dự không dám nhìn thẳng vào mặt

nàng, chàng nghĩ thầm: "nàng vì cái thằng khốn kiếp Mộ Dung Phục mà

phải băn khoăn trong dạ. Ta xem dường như nàng muốn sa luỵ là khác. Tà

áo trắng nàng vẫn lay động, rồi bằng một giọng êm dịu như tiếng tiêu nàng

hỏi:

- Ngươi có biết tình hình chùa Thiếu Lâm ra sao không? nói cho ta nghe.

Đoàn Dự thấy nàng nhỏ nhẹ cầu khẩn mình cầm lòng không đậu muốn đem

hết tất cả những điều mình hay biết nói cho nàng nghe. Song chàng nghĩ lại:

"nếu có điều gì mình đem dốc ra hết, nàng nghe xong rồi lại giục mình đi

trồng trà thì mình tìm đâu ra đề tài để hòng được nói nữa với nàng, thế mới

khó chứ! Chi bằng mình phải tìm cách kéo dài câu chuyện, mỗi ngày cho ra

một mẩu để ngày ngày nàng phải đến tìm mình hỏi chuyện. Hễ tìm đến

mình không được tất phải nóng ruột khó chịu. Nghĩ vậy chàng đằng hắng

rồi bắt đầu vào chuyện:

- Về võ công tôi chẳng biết tý gì cả. Cả những thế võ tầm thường như "kim

kê độc lập", "hắc hổ thâu tâm" gì gì đi nữa tôi cũng không hay nhưng trong

nhà tôi có anh bạn họ Chu, tên gọi Chu Đan Thần, ngoại hiệu là "nghiên

sinh". Trông bề ngoài anh ta cũng chỉ là gã văn nhược thư sinh như tôi này

thôi, hay gọi là tên đồ gàn cũng được. Hà hà thế mà võ công anh ta đáo để

lắm. Một hôm anh ta cầm cái quạt quay ngược đầu lại đánh "chát" một

tiếng, cán quạt trúng vào bả vai một gã đại hán, thế mà gã này người co rúm

lại, chẳng khác gì một đống đất lù lù, không sao nhúc nhích được nữa.

Nữ lang nói:

- ừ đó là đòn thứ 38 để đánh vào huyệt đạo trong phép "thanh lương phiến,

trở đầu quạt đánh xéo vào huyệt "kiên trinh", vậy thì Chu tiên sinh là đệ tử

dưới trướng Tam Nhân Quán, một chi nhánh phái Côn Luân đó. Võ công

phái này dùng bút cũng lợi hại như dùng quạt thôi. Ngươi nói vào cốt

chuyện đi đừng nói về võ công với ta nữa.

Giả tỷ mà Chu Đan Thần được nghe chuyện nàng nói tất phải phục sát đất

và không những nàng gọi rõ tên cúng cơm thế võ mà thôi, nàng còn nói rõ

ràng cả lai lịch tông chỉ người dạy môn đó nữa. Không những Chu Đan

Thần đến ngay những nhà võ học uyên thâm tỷ như bá phụ Đoàn Dự là

Đoàn Chính Minh, phụ thân chàng là Đoàn Chính Thuần, cũng phải giật

mình tự hỏi: "cô nương nhỏ tuổi này mà sao kiến thức về võ học đã sâu rộng

đến thế?". Nhng đối với anh chàng Đoàn Dự chẳng biết tý võ công nào nên

mấy lời phác hoạ nàng nói vừa rồi chỉ thoáng qua tai chàng mà thôi. Giả tỷ

câu chuyện này đưa ra ngoài tất làm chấn động giang hồ, thành một đề tài

sốt dẻo và trọng đại bậc nhất đối với các phái võ.

HỒI 31

Hiềm khích giữa hai nhà Mộ Dung và Vương thị

Đoàn Dự tuy nghe nàng bình luận võ công nhưng nàng muốn nói thế nào thì

nói, vào tai nọ rồi lại ra tai kia, chàng chẳng cần biết thế võ có đúng hay

không, chỉ dán cặp mắt vào đôi mày tha thớt cùng cặp môi son của nàng

chứ không để ý gì đến võ nghệ.

Nữ lang hỏi:

- Vị Chu tiên sinh đó là người thế nào?

Đoàn Dự chỉ vào phiến đá lớn như hình cái sập bên cạnh bụi trúc nói:

- Câu chuyện dài lắm, xin tiểu thư rời gót ngọc ngồi xuống kia để rôi từ từ

nói rõ cho tiểu thư nghe.

Nữ lang nói:

- Ngươi chỉ dềnh dàng mãi thôi. Nói mau đi không được ? Ta đâu có thì

giờ để nghe ngươi nói hươu nói vượn?

Đoàn Dự nói:

- Hôm nay tiểu thư chưa được rảnh vậy sáng mai lại đây tìm tôi cũng được.

Trừ phi phu nhân có cắt lưỡi tôi đi còn thì tiểu thư hỏi đâu tôi xin nói đấy

mà nói hết lời không sót mảy may.

Nữ lang khẽ dậm chân một cái nhìn Tiểu Thi nói:

- Phu nhân có nói gì nữa không?

Tiểu Thi nói:

- Phu nhân đã có ý đến Bách Cầm kiếm công trị phu nhân đánh cờ nhưng

vừa nghe tin công tử Mộ Dung đến chùa Thiếu Lâm liền ra lệnh quay

thuyền về ngay.

Nữ lang hỏi:

- Sao thế?

Rồi nàng không chờ Tiểu Thi trả lời lẩm bẩm một mình: "Chà! Mẫu thân sợ

công trị phu nhân lại yêu cầu người ra tay giúp sức nên vờ như không biết là

xong".

Tiểu Thi nói:

- Tiểu thư! Cháu sợ phu nhân kiếm, xin cho cháu đi!

Nữ lang nói:

- ừ! Việc này ta không nói với ai đâu nhé. Tuỳ mi có muốn đem kể với ai

thì cứ việc mà kể.

Tiểu Thi vội nói:

- Xin tiểu thư chớ nói với ai thì cháu mới có thể ở đây hầu hạ tiểu thư vài

năm nữa được.

Nữ lang mỉm cười. Tiểu Thi cáo biệt rồi trở gót đi ngay. Đoàn Dự liếc mắt

thấy nàng tỏ vẻ kinh sợ nghĩ thầm: "vì mẫu thân nàng giết người như ngoé

nên ai ai cũng phải kinh sợ".

Nữ lang từ từ bước lại chỗ phiến đa, lẹ làng ngồi xuống. Nàng không mời

Đoàn Dự mà chàng cũng không dám mạo muội đến gần nàng. Chàng đứng

nhìn thấy có một khóm bạch trà gần chỗ nàng ngồi, còn hai khóm nữa xa

hơn một chút. Người đẹp ngồi gần danh hoa, phong cảnh lại càng tuyệt mỹ.

Rồi chàng đọc câu thơ của Lý Thái Bạch đem hoa mẫu đơn để tả cái đẹp

của Dương Quý Phi. Chàng còn than cho Lý Thái bạch không có diễm phúc

được nhìn thấy vẻ kiều diễm của nữ lang đây còn hơn Dương Quý Phi

nhiều.

Nữ lang nói:

- Ngươi không ngớt khen ta đẹp chẳng biết có đúng không?

Đoàn Dự tỏ vẻ sửng sốt la lên:

- Trời ơi! không biết vẻ đẹp của Tử Đô đời chiến quốc đã là người không có

mắt. Đó mới là một chàng trai mà người ta còn bình phẩm như vậy, huống

chi cô nương là một kỳ công của vũ trụ? Tiểu thư ra đời thì bao nhiêu bài

thơ tán dương sắc đẹp từ xa đến nay không còn ai muốn để vào tai nữa.

Nữ lang từ từ lắc đầu, khoé mắt hơi lộ vẻ bâng khuâng nói:

- Trước nay ta chưa thấy ai nói đến ta đẹp hay không. ở Mạn đà sơn trang

này trừ mẫu thân ta còn toàn kẻ hầu người hạ. Bọn chúng chỉ biết ta là tiểu

thư của chúng, thì còn ai dám nói đến ta đẹp hay xấu?

Đoàn Dự hỏi:

- Thế còn người ngoài cũng không ai nói gì sao?

Nữ lang hỏi:

- Ngươi bảo người ngoài nào?

Đoàn Dự nói:

- Khi tiểu thư ra ngoài, người ta nhìn thấy tiểu thư như tiên nương giáng trần

chẳng lẽ họ cũng im mồm sao?

Nữ lang:

- Ta chưa từng ra khỏi nhà, mà ra ngoài làm gì? Ta sang Lang hoàn các

xem sách, mẫu thân còn chẳng muốn cho đi. Có đi thì cửa sổ dưới thuyền

che kín hết, gió không lọt vào được.

Đoàn Dự gật đầu hỏi:

- à ra quả có lang hoàn các thật. Nơi đó có nhiều sách lắm phải không?

Nữ lang đáp:

- Cũng không nhiều. Chừng bốn năm gian nhà sách thôi.

Đoàn Dự hỏi một cách đột ngột:

- Thế còn chàng... chàng cũng không bàn đến vẻ đẹp của tiểu thư ?

Nữ lang thấy Đoàn Dự đề cập đến Mộ Dung công tử, từ từ cúi đầu xuống,

rồi thấy một tiếng nấc rất êm nhẹ, như tiếng đàn sắt thoảng lọt vào tai

chàng. Tiếp theo tiếng nấc là mấy giọt lệ rơi trên ngọn cỏ, trông bóng như

hạt ngọc hay như hạt sương buổi sớm mai. Đoàn Dự thấy vậy không dám

hỏi nữa và cũng không biết nói thế nào để an ủi nàng. Hồi lâu nàng mới

nghẹn ngào nói:

- Chàng... chàng mắc bận nhiều quá, quanh năm không được lúc nào nhàn

rỗi. Hoạ hoằn mới có khi chàng gặp ta, phi nói chuyện võ công là bàn đến

việc lớn nhà nước. Ta... ta chán võ công lắm rồi.

Đoàn Dự vỗ đùi reo lên:

- Tiểu thư dạy đúng lắm! Tôi cũng ngán ngẩm vô cùng. Chả thế mà bá phụ

và gia gia tôi ép học môn gì tôi cũng không chịu rồi bỏ nhà đi trốn.

Nữ lang thở dài nói:

- Ta mong gặp chàng nên dù trong lòng có chán ngán võ công mà vẫn phải

gia tâm nghiên cứu, phòng khi có chỗ chàng chưa thấu đáo thì ta phải giảng

cho chàng nghe. Bất luận triều đại nào, vua quan nào, quanh đi quẩn lại

toàn chuyện đâm chém nhau. Bản tâm ta không muốn biết đến những vụ đó

thì lại là những món mà chàng ưa thích nhất. Thế ra ta có sách cũng chỉ là

học cho chàng chứ không phải đọc cho ta.

Đoàn Dự rất lấy làm kỳ hỏi lại:

- Sao tiểu thư lại phải xem sách hộ chàng? tự chàng không đọc lấy cho

chàng được hay sao?

Nữ lang nguýt Đoàn Dự một cái rồi hỏi:

- Ngươi tưởng chàng dốt chữ hay đui mù phải không?

Đoàn Dự vội cải chính:

- Không! không phải thế! Tôi muốn hỏi chàng có phải là người hay nhất

thiên hạ không?

Tuy chàng hỏi vậy để gỡ lại mà trong lòng chua xót vô hạn. Nữ lang mỉm

cười đáp:

- Chàng là biểu huynh ta. Trong trang này trừ cửu phụ, cửu mẫu và biểu

huynh ta thì không có ai tới nữa. Về sau cửu phụ cùng mẫu thân xảy vụ xích

mích từ đó cấm cửa cả biểu huynh ta, không cho đến nữa. Ta cũng chẳng

hiểu chàng có phải là người hay nhất trần đời không, mà cũng chẳng biết ai

hay dở, và thế nào là hay, thế nào là dở.

Nàng nói mấy câu sau quầng mắt đỏ hoe, rớm lệ. Đoàn Dự nói:

- Trời ơi! thế ra mẫu thân tiểu thư là em gái của cửu phụ tiểu thư, còn

chàng... chàng là... con trai của cửu phụ tiểu thư phải không?

Nữ lang bất giác phì cười đáp:

- Ta xem chừng ngươi có tính dớ dẩn, ngây ngô. Ta là con gái mẫu thân ta

thì chàng là biểu huynh ta chứ gì?

Đoàn Dự thấy mình làm cho nàng phải phì cười thì lấy làm thú vị nói:

- Vâng! tôi hiểu rồi chắc là biểu huynh tiểu thư bận quá, không có thì giờ

đọc sách nên tiểu thư phải đọc giùm.

Nữ lang cười nói:

- Kể ra nói thế cũng phải, nhưng ở trong còn có nguyên nhân khác. Thôi

bây giờ ta hỏi ngươi: tại chùa Thiếu Lâm có những môn phái nào đến họp?

Và họ mở cuộc anh hùng đại hội làm gì?

Đoàn Dự nhìn thấy trên đầu mi nàng còn đọng một hạt nước mắt, chàng liên

tưởng đến cảnh đẹp của hoa lê còn đọng hạt ma hay đoá mai côi còn động

hạt móc. Nữ lang chờ hồi lâu thấy Đoàn Dự tần ngần không đáp, liền chìa

tay ra để lên mu bàn tay chàng đẩy nhẹ một cái hỏi:

- Ngươi nghĩ gì vậy?

Đoàn Dự giật nẩy mình la lên:

- ối chao!

Nữ lang cũng giật mình hỏi:

- Sao thế?

Đoàn Dự đỏ bừng mặt đáp:

- Tiểu thư đưa ngón tay chỉ lên tay tôi, tôi lại tưởng tiểu thư điểm huyệt.

Tiểu thư không biết là chàng nói giỡn, giương cặp mắt tròn lên nhìn chàng

nói:

- Trên mu bàn tay làm gì có huyệt đạo? Ba huyệt "dịch môn", "trung chử",

"dương trì" đều ở cườm tay, hai huyệt "tiền khoát", "dưỡng lão" ở gần cổ tay

lại càng xa hơn nữa.

Nàng vừa nói vừa giơ tay mình ra chỉ cho chàng xem. Đoàn Dự thấy ngón

trỏ bên tay trái nàng tròn trĩnh nh ngó hành điểm trên mu bàn tay trắng

nõn bất giác cảm thấy khát khô cả họng và đầu óc choáng váng chàng hỏi:

- Cô nương tên họ là gì?

Thiếu nữ đáp:

- Ngươi thật là cổ quái! thôi ta cho ngươi biết tên cũng chẳng hại gì. Đoạn

nàng lấy ngón tay vạch lên mu bàn tay mình ba chữ: "Vương Ngọc Yến".

Đoàn Dự run lên nghĩ thầm: "một vị tiểu thư diễm lệ thế này cần phải có cái

tên cho cực kỳ văn nhã lịch sự mới phải, sao lại đặt là Vương Ngọc Yến?

Nghe chẳng thoát tục chút nào. Chẳng những không thanh nhã bằng A

Châu, A Bích mà còn kém cả những tên mấy ả nha hoàn: Tiểu Thi, Tiểu

Trà, Tiểu Thuý nữa". Song rồi chàng nghĩ lại vỗ trán lẩm bẩm: "Tuyệt diệu!

Tuyệt diệu! Cái tên Ngọc Yến tượng trưng cho sự trong trắng không ngấn

vết mà lại bay lượn nhẹ nhàng trên không như chim én".

Vương Ngọc Yến mỉm cười nói:

- Tên họ con người cốt đặt để gọi cho nghe được thì thôi. Sử sách đã cho ta

biết bao nhiêu hạng đại gian đại ác mang những tên cực hay cực đẹp. Tỷ

như Tào Tháo mà chẳng có tiết tháo chút nào, Chu Toàn Trung lại là một gã

đại bất trung. Như ngươi là Đoàn Dự thì cái tên Dự có đẹp không? danh dự

ngươi có lững lẫy không? ta chỉ e là cái tên trống rỗng.

Đoàn Dự nói xen vào:

- .... điếu dự.

Hai người đều cả cười. Bộ mặt Vơng Ngọc Yến tuy cực kỳ diễm lệ nhưng

vẫn đượm vẻ ưu tư. Lúc này nàng bật lên tiếng cười khanh khách, trong lòng

vui vẻ, thoáng quên mối lo âu hằng ấp ủ trong lòng, càng tăng vẻ kiều diễm

xinh tươi.

Đoàn Dự nghĩ thầm: "nếu ta dẫn dụ cho nàng mở miệng tươi cười thì cuộc

đời ta cũng thoả mãn lắm rồi, còn mong gì hơn nữa?". Không ngờ Vương

Ngọc Yến chỉ cao hứng được giây lát rồi đôi mắt nàng lại mơ màng lộ ra

một mối buồn mang mác. Nàng cất giọng ảm đạm nhẹ nhàng:

- Chàng... chàng là người nghiêm nghị quá chừng, chẳng bao giờ chàng nói

với ta một câu chuyện bâng quơ. Ôi Yên quốc! Yên quốc! Phải chăng đó là

một vấn đề trọng yếu?

Mấy chữ Yên quốc chạm vào khối óc Đoàn Dự, chàng vụt nảy ra một ý

nghĩ đem chắp những chữ rời rạc với nhau: nào Mộ Dung thị, nào Yến tử ổ,

nào Tham Hợp trang, nào Yên quốc buột miệng hỏi:

- Phải chăng công tử Mộ Dung vốn dòng họ Tiên Ty ở đất Hồ chứ không

phải người Trung Quốc?

Vương Ngọc Yến đáp:

- Đúng đó! Chàng là Vương tôn dòng họ Mộ Dung ở Yên quốc. Trải qua đã

mấy trăm năm sao còn giữ quan niệm cũ kỹ của tổ tiên? Chàng muốn giữ

bản chất người Hồ, không làm người Trung Quốc mà cũng không học chữ

Trung Quốc. Chàng không đọc sách Trung Quốc nhưng ta xem sách Trung

Quốc chẳng có gì là dở. Có lần ta bảo chàng viết chữ lối Tiên Ty thì chàng

lại cáu kỉnh.

Vương Ngọc Yến nói chuyện Mộ Dung công tử xong từ từ ngẩng đầu lên

buông tầm mắt nhìn mây trắng lơ lửng xa xa, trong lòng nàng dào dạt nỗi

đăm chiêu. Nàng nói bằng một giọng nhỏ nhẹ:

- Chàng... chàng lớn hơn ta mười tuổi và ta chỉ vào hạng em gái út chàng.

Ngoài việc đọc sách học võ ra ta chẳng biết việc gì nữa. Chàng có hiểu đâu

rằng ta đọc sách là đọc cho chàng, luyện võ cũng vì chàng. Ta tưởng thà

nuôi mấy con gà nhỏ, cho nó nhảy nhót, hoặc gảy đàn viết chữ mà chơi còn

thú hơn.

Đoàn Dự cất tiếng run run hỏi:

- Tiểu thư tận tâm như vậy... mà chàng không biết ?

Vương Ngọc Yến đáp:

- Ta tận tâm với chàng, chàng có biết chứ. Chàng cũng rất tốt với ta.

Nhưng... nhưng đôi ta chẳng khác gì anh em ruột, ngoài câu chuyện đứng

đắn chàng không nói với ta một chuyện gì khác. Lòng chàng nghĩ ngợi điều

gì chàng không cho ta hay và cũng chẳng bao giờ chàng hỏi đến tâm sự của

ta.

Nói tới đây, má nàng ửng đỏ ra chiều e lệ, lại càng nổi lên một vẻ đẹp

quyến rũ mê hồn. Đoàn Dự toan cất lời hỏi đùa nàng: "tiểu thư có tâm sự gì

trong lòng?". Nhưng thấy nàng bẽn lẽn nên không dám đường đột liền xoay

chiều câu hỏi:

- Tiểu thư cùng chàng bàn văn, luận võ có lúc nào đề cập đến những khúc

"tử dạ ca" hoặc "hội chân ký" không?

Chàng hỏi vậy để gợi cho nàng những thi ca miêu tả ái tình để nàng đem ra

đàm luận với công tử Mộ Dung. Nhưng câu nói vừa ra khỏi cửa miệng thì

lòng chàng lại hối hận. Vì tuy nàng có tình với Mộ Dung công tử song chỉ

ấp ủ trong lòng, không biết đường diễn tả cùng người yêu. Nay mình mớm

lời cho nàng, phỏng có khác gì dạy khỉ trèo cây?

Vương Ngọc Yến cả thẹn vội gạt đi:

- Khi nào lại thế được? Mình phải giữ nền nếp con nhà khuê các nói ra để

biểu huynh khinh thường ?

Đoàn Dự nói:

- Vâng chính thế là phải!

Tâm sự Vương Ngọc Yến chôn tận đáy lòng đã lâu nay không hé môi, hé

lợi cùng ai chỉ có mình biết với mình nay gặp Đoàn Dự là người có tính

cách hời hợt phóng lãng, không hiểu sao nàng lại tin chàng đến thế, đem hết

chuyện tâm tình thổ lộ cùng chàng. Thực ra chuyện nàng thầm yêu biểu

huynh Mộ Dung thì A Châu, A Bích cùng lũ nha hoàn Tiểu Trà Tiểu Thi

đều biết hết, có điều không nói ra mà thôi.

Vương Ngọc Yến sau khi dốc bầu tâm sự, trong lòng cảm thấy hơi nhẹ

nhõm nàng nói tiếp:

- Vừa rồi ta đã nói với ngươi nhiều chuyện vớ vẩn chưa vào chính đề. Tại

chùa Thiếu Lâm hiện có những ai tụ họp? Sao bọn họ lại muốn gây sự với

biểu huynh ta?

Đoàn Dự đáp:

- Phương trượng chùa Thiếu Lâm là Huyền Từ đại sư có một vị sư đệ là

Huyền Bi đại sư, sở trường về phép "kim cương chữ".

Vương Ngọc Yến gật đầu ngắt lời:

- Đó là môn thứ 48 trong 72 môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm. Chữ pháp

này gồm 19 miếng phóng ra cực kỳ hung mãnh.

Đoàn Dự tiếp:

- Huyền Bi đại sư không biết vì sao bị người đánh chết mà kẻ địch lại hạ thủ

bằng chính cái môn sở trường của đại sư, là phép "Kim cương chữ". Họ cho

rằng cái lối giết người đó chỉ có nhà Mộ Dung làm được, gọi là lối "gậy ông

đập lng ông". Vì thế nên phái Thiếu Lâm quyết chí tìm đến nhà Mộ Dung

để báo thù. Nhận thấy võ công nhà Mộ Dung cực kỳ lợi hại, họ sợ không

địch nổi nên hội họp các phái võ lại để thương nghị phương pháp đối phó.

Vương Ngọc Yến nói:

- Ngươi nói rất có lý, nhưng trừ phái Thiếu Lâm ra còn những ai?

Đoàn Dự đáp:

- Còn Kha Bách Tuế phái Tung Sơn cũng bị sát hại về môn "linh xà chiều

đẩu" gì đó là môn tuyệt kỹ của họ.

Vương Ngọc Yến nói:

- Hừ, phái Tung Sơn có 29 thế "bách thắng nhuyễn tiên" mà "linh xa chiền

đẩu" là miếng võ thứ tư biến ra. Tuy lối đánh kỳ dị nhng không được liệt

vào hạng võ học thượng thừa.

Đoàn Dự tiếp:

- Kha Bách Tuế chết về thế võ "Linh xà chiền đẩu". Sư đệ cùng đồ đệ cùng

tìm Mộ Dung để báo thù. Ngoài ra... ngoài ra còn có không biết bao nhiêu

người nhưng tôi không hiểu võ công nên không nhớ được nhiều.

Chàng tự nghĩ: "họ Đoàn nước Đại Lý ta cũng có tham dự vào công cuộc đả

phá Mộ Dung nhưng chẳng nên nói ra".

Vương Ngọc Yến nói:

- Ta vốn biết tính khí biểu huynh ta. Chàng mà nghe thấy có nhiều người

đối đầu với mình là chàng tìm đến họ trước. Nhưng chàng sao hiểu hết được

các môn tuyệt kỹ của mọi người. Huống chi phe địch lại đông, nếu họ nhất

tề ra tay, dễ gì mà thắng họ được?

Nói tới đây bỗng có hai ả nha hoàn Tiểu Thi và U Thảo chạy đến. U Thảo

mặt sợ tái xanh nói:

- Tiểu thư ơi! nguy... nguy đến nơi rồi. Phu nhân hạ lệnh đem hai chị A

Châu, A Bích...

Nói tới đây U Thảo như bị nghẹn họng không sao thốt ra lời nữa. Tiểu Thi

phải nói tiếp:

- Đem hai chị ấy ra chặt cánh tay phải, phạt các chị về tội thiện tiện lén đến

Mạn đà sơn trang. Biết làm... thế nào bây giờ?

Đoàn Dự vội nói:

- Vương cô nương... cô nương... mau tìm cách cứu bọn họ mới được.

Vương Ngọc Yến cũng nóng ruột nói:

- Châu, Bích là hai đứa thị tỳ tâm phúc của biểu huynh ta. Nếu để chúng

thành phế nhân thì ta còn mặt mũi nào với biểu huynh nữa? U Thảo! Hiện

giờ chúng ở đâu?

U Thảo vốn là bạn thân với A Châu, A Bích, nghe tiểu thư có ý giải cứu

cho, thấy có một tia hy vọng vội đáp:

- Phu nhân truyền đưa hai chị ấy xuống Hoa phi phòng. Cháu đã xin

Nghiễm Bà rồi hãy động thủ. Bây giờ tiểu thư nên lên cầu khẩn phu nhân,

may ra còn kịp.

Vương Ngọc Yến nghĩ thầm: "năn nỉ mẫu thân chưa chắc đã ăn thua nhưng

cũng không còn cách nào khác". Nàng gật đầu rồi cùng Tiểu Thi, U Thảo đi

luôn.

Đoàn Dự nhìn bóng sau lưng nàng đi rất mau lẹ muốn chạy theo nói thêm

vài câu. Nhng vừa chạy theo không biết nói sao liền tần ngần đứng lại.

Vương Ngọc Yến chạy mau lên nhà trên thấy mẫu thân đang đốt lò trầm,

khói hương cuồn cuộn bay lên và sắp vào tĩnh toạ nhập định thì phải mất

hàng nửa ngày không dám đến quấy nhiễu vội nói ngay:

- Thưa mẫu thân! Con có điều trình mẫu thân.

Vương phu nhân từ từ giương mắt lên nhìn vẻ mặt cực kỳ nghiêm nghị nói:

- Việc gì có liên quan đến nhà Mộ Dung là ta không nghe đâu đấy!

Vương Ngọc Yến nói:

- Thưa mẫu thân! A Châu, A Bích chuyến này không phải có chủ ý đến đây.

Con tưởng mẫu thân nên tha cho chúng một phen.

Vương phu nhân hỏi:

- Sao con biết chúng không có chủ ý đến đây? Con sợ ta chặt tay chúng thì

biểu huynh không nhìn nhõi đến con nữa phải không?

Vương Ngọc Yến mắt đẫm lệ nói:

- Biểu huynh con cũng là cháu mẫu thân. Sao mẫu thân... lại oán hận

chàng? dù mẫu thân có điều xích mích với cữu phụ, mẫu thân cũng chẳng

nên giận lây đến biểu huynh con.

Nàng đánh bạo nói mấy câu mà trống ngực đánh thình thình, mình lại tự hỏi

mình: "sao ta dám cả gan mở miệng lý sự cả với mẫu thân?".

Vương phu nhân mắt sáng như hai luồng điện lướt qua mặt cô con mấy lần,

không nói năng gì rồi nhắm mắt lại. Vương Ngọc Yến không dám thở

mạnh, không hiểu trong lòng mẫu thân đang nghĩ gì mà ý định thế nào?".

Hồi lâu phu nhân mới mở mắt ra hỏi:

- Sao con biết ta có chuyện xích mích với cữu phụ? Xích mích ở chỗ nào?

Vương Ngọc Yến nghe giọng nói mẫu thân lạnh như băng giá lại càng sợ

hãi, không nói nên lời. Vương phu nhân tiếp:

- Con giỏi lắm! Bây giờ con lớn tuổi rồi, bất tất phải nghe lời ta nữa?

Vương Ngọc Yến vừa bực mình vừa sợ, nước mắt tuôn rơi nói:

- Câu chuyện khiến mẫu thân hờn giận cữu phụ dĩ nhiên là cữu phụ có điều

không phải với mẫu thân. Cữu phụ khinh khi mẫu thân thế nào mẫu thân

chưa từng nói với con.

Vương phu nhân lớn tiếng hỏi:

- Con đã nghe ai thuật lại chưa?

Vương Ngọc Yến lắc đầu đáp:

- Mẫu thân có cho con ra khỏi Mạn đà sơn trang bao giờ đâu? Cũng chẳng

cho một người ngoài nào tới đây thì còn ai kể cho con nghe nữa?

Vương phu nhân thở phào một cái nhẹ nhõm, giọng nói đã có vẻ hoà hoãn:

- Ta muốn con thành người tử tế. Trên đời hạng lưu manh rất nhiều, chém

ba ngày không hết. Con còn nhỏ tuổi lại là phận gái, không cho thấy mặt

bọn chúng hay hơn.

Nói tới đây bà vụt nhớ ra chuyện gì lại tiếp tục:

- Còn tên thợ trồng hoa họ Đoàn, miệng nói tràng ba, khoát bảy không phải

là người tốt. Gã chỉ nói với con một câu là phải hạ sát ngay không để cho gã

nói đến câu thứ hai. Con có biết không?

Vương phu nhân lại hỏi:

- Con không hạ thủ đợc chăng? xem chừng cái bộ mặt hiền lành, cái trái

tim mềm nhũn kia suốt một đời người sẽ bị không biết bao nhiêu lần bịp

bợm.

Phu nhân vỗ tay hai cái, Tiểu Thi tiến lại gần. Phu nhân nói:

- Mi truyền lệnh cho mọi người hay là ta ra lệnh: bất cứ ai còn nói với tên

thợ trồng hoa họ Đoàn một câu nào là ta lập tức cho cắt lưỡi cả hai đứa.

Tiểu Thi nghe phu nhân nói sợ xám mặt, đáp một tiếng: "Vâng " rồi lui ra.

Vương phu nhân lại xua tay bảo cô:

- Con cũng đi ra!

Vương Ngọc Yến vâng lời chạy ra đến cửa dừng bước quay đầu lại nhắc:

- Xin mẫu thân tha cho A Châu, A Bích và dặn bọn y từ nay không được

bén mảng tới đây nữa.

Vương phu nhân lạnh lùng đáp:

- Ta đã nói rồi mà! Có bao giờ ta nói hai lời đâu? Con đừng nhiều lời vô ích.

Vương Ngọc Yến nghiến răng nói khẽ:

- Con biết vì sao mà mẫu thân giận cữu phụ, vì sao mà mẫu thân giận biểu

huynh rồi.

Dứt lời nàng dậm chân nhè nhẹ một cái, đoạn ra khỏi phòng. Phu nhân gọi:

- Trở lại đây đã!

Vương Ngọc Yến nghe mẫu thân truyền lệnh đầy vẻ uy nghiêm lại bước vào

phòng cúi đầu không nói gì. Vương phu nhân vừa nhìn làn khói hương xanh

ngắt bay quanh đi quẩn lại vừa nói:

- Yến nhi! Con biết câu chuyện thế nào? đừng có giấu ta! Con nói hết đầu

đuôi cho ta nghe!

Vương Ngọc Yến mím môi nói:

- Con biết mẫu thân buồn vì cữu phụ không chịu đua hơi với đời, lại giận

biểu huynh chẳng chuyên tâm học võ để có thể sáng lập ra môn phái Mộ

Dung.

Vương phu nhân cười lạt hỏi:

- Mi còn là tuồng con nít, biết gì? Hơn nữa ta đã thành ngoại tộc rồi, có còn

ở trong họ Mộ Dung nữa đâu? Phái Mộ Dung lập nên được hay không, có

can dự gì đến ta?

Vơng Ngọc Yến nói:

- Con biết rồi! Mẫu thân giận mình phận gái không thì đã lập ra môn phái

Mộ Dung rồi. Mẫu thân trách cữu phụ cùng biểu huynh không chịu dốc

lòng khôi phục Yên quốc, không chịu chú trọng đến võ công.

Vương phu nhân hỏi:

- Ai đã nói với con như vậy?

Vương Ngọc Yến nói:

- Tự con đoán ra thế.

Vương phu nhân nói:

- Ta chắc là biểu huynh kể cho con nghe, đúng không?

Vương Ngọc Yến không muốn giấu mẫu thân mà cũng không chịu thừa

nhận, nàng nín lặng không đáp.

Vương phu nhân lại nói:

- Biểu huynh con đường đường tấm thân nam tử, lại lớn hơn con mười tuổi

đầu rồi mà không chịu học cho thành tài, không có chí tiến thủ, chỉ liêu

biêu chẳng chịu làm gì. Thậm chí võ công còn thua cả con nữa. Thế là tiếng

tăm nhà Mộ Dung bị y xoá nhoà rồi. Bốn chữ Cô Tô Mộ Dung oai phong

lẫm liệt d trăm năm nay, võ công của biểu huynh con như vậy có xứng

đáng không?

Vương Ngọc Yến nghe nói nét mặt lúc đỏ bừng lúc nhợt nhạt, nhận thấy lời

mẫu thân quả là đúng lý, không biết trả lời ra sao.

Vương phu nhân lại nói:

- Hiện nay y lên chùa Thiếu Lâm, mấy tên thị tỳ hớt lẻo tự nhiên tong tả

sang đây mách con chứ gì? Chà y lên chùa Thiếu Lâm phen này không bõ

người ta chê cười cho thối óc hay sao? Ta chỉ cầu trời khấn Phật cho thiên

hạ đừng tin cái bị thịt đó là con em nhà Mộ Dung ở Cô Tô. Không chừng

chỉ đấu mấy hiệp là toi mạng nếu bọn họ không điều tra ra đợc là ai thế là

may lắm rồi.

Vương Ngọc Yến tiến lại gần ỏn thót:

- Mẫu thân! Xin mẫu thân đi cứu biểu huynh con một phen. Họ Mộ Dung

chỉ còn mình chàng nối dõi nếu chàng có mệnh hệ nào thì nhà Mộ Dung ở

Cô Tô phải đoạn tôn, diệt tộc.

Vương phu nhân cười lạt đáp:

- Hừ! Cô Tô Mộ Dung! Nhà Mộ Dung có đoái hoài gì đến ta thì việc gì ta

phải lo cho họ.

Phu nhân biết mình nói thế là lỡ lời vội xua tay nói:

- Thôi con đi ra đi!

Vương Ngọc Yến:

- Mẫu thân ơi! biểu huynh...

Vương phu nhân lớn tiếng:

- Con này mỗi lúc một bướng bỉnh thêm!

Vương Ngọc Yến nuốt lệ, cúi đầu đi ra, cõi lòng trống rỗng, không có định

hướng, chẳng biết làm thế nào. Nằng cắm đầu đi tới dãy hành lang phía tây,

thoảng nghe có tiếng người khẽ gọi:

- Cô nương! công việc ra sao?

Vương Ngọc Yến ngửng đầu nhìn xem ai té ra là Đoàn Dự, nàng vội gạt đi:

- Ngưi... ngươi đừng nói gì với ta nữa.

Nguyên từ lúc Vương Ngọc Yến đi khỏi, chàng tần ngần đi theo sau rồi

đứng chờ ngoài xa. Ngọc Yến ở trong phòng phu nhân đi ra, chàng cũng

không tự chủ được lẽo đeo theo sau, mới nhìn nét mặt sầu thảm của nàng

chàng đã biết ngay Vương phu nhân không ngư liền nói:

- Phu nhân không thương cho thì ta tính cách khác chứ sao?

Vương Ngọc Yến buồn rầu đáp:

- Mẫu thân ta không nghe thì còn cách nào nữa? Người... người còn bảo

biểu huynh ta lâm nguy và người bỏ mặc không ứng cứu. Nàng càng nói

càng đau lòng, không cầm được nớc mắt. Đoàn Dự hỏi:

- Mộ Dung công tử cũng lâm nguy ?

Rồi chàng sực nhớ ra điều gì nói tiếp:

- Võ công cô nương còn hơn công tử một bậc, sao cô nương không đi cứu

chàng?

Vương Ngọc Yến mắt đẫm lệ ngước lên nhìn Đoàn Dự trừng trừng, tựa hồ

như câu chàng nói rất là kỳ dị. Lâu lâu nàng mới đáp:

- Ta... ta đi thế nào được? Việc này mẫu thân còn khe khắt hơn.

Đoàn Dự mỉm cời:

- Dĩ nhiên là phu nhân không cho rồi. Cô nương không biết tự mình lén ra

đi hay sao? Chính tôi đây cũng bỏ nhà trốn đi, rồi sau trở về cả gia gia và

má má tôi cũng thôi, có trách phạt gì đâu?

Vương Ngọc Yến nghe lời chàng khác nào ánh lửa soi vào chỗ tối. Nàng tự

nhủ: "phải lắm! Ta lén đi cứu biểu huynh ta, khi trở về đến bị mẫu thân

đánh đòn là cùng chứ gì? Dù người có giết ta thì ta cũng đã cứu biểu huynh

ta rồi". Nàng nghĩ đến chuyện đi cứu biểu huynh mà chịu gian nan vất vả thì

lòng nàng vừa chua xót lại vừa phấn khởi. Nàng lẩm bẩm một mình:

- Gã này đã trốn nhà ra đi. ồ mà sao trước nay ta không nghĩ đến chuyện

này?

Đoàn Dự cực lực cổ võ cho nàng:

- Cô nương cứ chui rúc ở xó Mạn đà sơn trang này mãi sao không chịu ra

ngoài mà xem bao cảnh hùng vĩ, thế giới bao la?

Vương Ngọc Yến lắc đầu nói:

- Ta tưởng cũng chẳng có gì đáng xem. Ta chỉ cần đi tiếp ứng biểu huynh

để xem chàng có gặp nguy hiểm gì không nhng ta chưa từng ra khỏi cửa

nên chẳng biết Thiếu Lâm tự ở phương nào.

Đoàn Dự vội nói:

- Tôi xin đi với cô nương, dọc đuờng có chuyện gì cô nương chưa rành nhất

thiết tôi sẽ ứng phó giùm cho là được.

Vương Ngọc Yến đang lúc chưa có chủ ý gì, nàng phân vân chưa quyết thì

Đoàn Dự lại hỏi luôn:

- Còn bọn A Châu, A Bích ra sao?

Vơng Ngọc Yến đáp:

- Mẫu thân ta không chịu nhiêu dung.

Đoàn Dự nói:

- Trời không chịu đất thì đất chẳng chịu trời. Nếu để bọn này bị chặt chân

tay tất biểu huynh cô nương sẽ trách cứ đến cô. Sao bằng cứu cả hai nàng

đó rồi cả bốn người ta cùng giông thẳng một lèo?

Ngọc Yến lắc đầu lè lưỡi nói:

- Đó là một hành động đại nghịch, khi nào mẫu thân ta chịu để yên? Ngươi

thật là một gã bạo hổ hằng hà.

Đoàn Dự đoán tâm lý biết rằng ngoại trừ việc có liên quan đến biểu huynh

nàng thì không còn điều gì lay chuyển được nàng liền dùng kế tấn công

bằng cách xin thoái bộ, chàng nói:

- Đã thế thì chúng ta ra đi tức khắc, bỏ mặc hai nàng A Châu, A Bích cho

phu nhân chặt tay. Sau này biểu huynh cô nương có hỏi đến thì chỉ việc bảo

chàng mình không hay biết gì là xong. Tôi nhất định giữ bí mật chuyện này.

Vương Ngọc Yến vội đáp:

- Không được! Không được! Thế thì ta dối trá cả biểu huynh ta hay sao?

Nàng ngần ngừ một lúc rồi than rằng:

- Trời ơi! A Châu, A Bích là hai tên thị nữ tâm phúc của chàng, hầu hạ

chàng từ thuở nhỏ, chẳng khác chi tình ruột thịt, nếu để bọn y bị cụt chân

cụt tay thì họ Mộ Dung sẽ cùng họ Vương kết thành một mối thâm cừu.

Nàng dẫm chân xuống đất nói:

- Ngươi đi theo ta!

Đoàn Dự nhìn nàng đi như bay về góc tây bắc trong lòng rung động thầm

nghĩ: "giả tỷ mình đừng khuyên nàng cứu A Châu, A Bích có phải giữa Mộ

Dung công tử và nàng có một mối chia rẽ trầm trọng không? nhưng nếu

mình giữ ý nghĩ độc ác như vậy, giương mắt ra mà nhìn Châu, Bích bị thảm

hình thì lòng không yên".

Ta nên biết rằng Đoàn Dự tuy ăn phải bả tình cực kỳ trầm trọng nhưng tâm

địa chàng rất lương thiện, không chịu hại người để lợi cho mình.

Chớp mắt Vương Ngọc Yến đã đến cửa một căn nhà đá lớn, cất tiếng gọi:

- Bình má má! Mụ ra đây ta bảo.

Bỗng từ trong thạch ốc vẳng ra một chuỗi cười "khặc khặc" và giọng nói rất

khô khan:

- Cô nương đến coi mụ chế hoa phì đó phải không?

Lúc nãy Đoàn Dự đã nghe thấy U Thảo cùng Tiểu Thi bảo A Châu và A

Bích đã bị tống vào trong "hoa phì phòng" gì đó nhưng chàng không để ý.

Bây giờ lại nghe giọng nói hắc sì sì "chế hoa phì", bất giác khẽ la lên:

- Trời ơi! họ làm đồ bón hoa! Phải rồi! Vương phu nhân thật là tàn nhẫn đến

cùng cực, đem người chôn sống, chặt ra để bón trà, chỉ chậm lát nữa là A

Châu, A Bích sẽ bị chặt tay để dùng vào việc này. Bây giờ biết làm thế nào?

Trống ngực đánh thình thình, mặt chàng cắt không còn hột máu.

Vương Ngọc Yến nói:

- Bình má má ơi! mẫu thân có việc cần, mụ ra ngay đây.

Trong thạch ốc lại có tiếng hỏi vọng ra:

- Bình má má đang mắc câu chuyện. Phu nhân có việc chi cần kíp mà cô

nương phải thân hành đến đây?

Vơng Ngọc Yến nói:

- Mẫu thân ta bảo... chà! Đã đem bọn chúng đến đây chưa?

Nàng vừa nói vừa bước vào trong nhà đá. Nhìn thấy A Châu, A Bích bị trói

treo lên hai cây cột sắt, miệng nhét đầy hạt trái cây. Hai mắt nàng đẫm lệ

mà miệng nói không ra tiếng. Đoàn Dự cũng ghé đầu vào coi, thấy hai nàng

chưa việc gì mới hơi yên tâm. Nhưng khi nhìn ra hai bên thì trống ngực lại

đánh hơn trống làng. Một mụ già lưng còng đầu tóc bạc phơ, tay cầm một

lỡi gươm trường sáng loáng, bên cạnh mụ là cái vạc nước sôi sùng sục.

Vương Ngọc Yến cười nói:

- Mẫu thân ta bảo mụ hãy buông hai đứa này ra để ta dẫn chúng lên cho

người tra hỏi ngọn ngành một việc khẩn cấp đã.

Bấy giờ Bình má má mới quay mặt ra. Đoàn Dự thấy mụ nhe cặp răng nanh

nhọn hoắt chìa ra ngoài miệng, dường nh để cắn người lạ mặt thì trong

lòng cảm thấy khó chịu vô cùng. Bỗng thấy mụ gật đầu nói:

- Vâng tra hỏi cho ra gốc ngọn, rồi lại đưa chúng nó xuống đây chặt chân

tay.

Mụ còn càu nhàu một mình:

- Bình má má này bình sinh rất ghét những đứa gái xinh đẹp. Hai con lỏi

này đem chặt chân tay đi là phải.

Đoàn Dự nghe mụ nói tức lắm nghĩ bụng: "mụ la sát độc ác này không biết

đã giết chết bao nhiêu người rồi. Tiếc rắng sức mình trói gà không chặt,

không thì tát cho mụ gẫy mấy cái răng rồi hãy gỡ cho A Châu, A Bích ra".

Bình má má tuy tuổi già nhưng còn thính tai lắm. Đoàn Dự đứng bên ngoài

thở mạnh bị mụ nghe rõ, mụ liền hỏi:

- Đứa nào đứng ngoài đấy?

Rồi mụ thò đầu ra ngoài trông thấy Đoàn Dự, trong lòng sinh nghi hỏi

ngay:

- Mi là ai?

Đoàn Dự cười đáp:

- Tôi là thợ trồng hoa, vâng lệnh Vương phu nhân trông mấy khóm bạch trà,

đến đây hỏi má má xem có đồ bón chưa?

Bình má má đáp:

- Mi chờ một lúc nữa sẽ có!

Mụ quay sang hỏi Vương Ngọc Yến:

- Tiểu thư! Mộ Dung thiếu gia cưng hai con nha hoàn này lắm phải không?

Vương Ngọc Yến không biết nói dối, buột miệng trả lời:

- Đúng rồi! Mụ đừng giết chúng hay hơn.

Bình má má gật đầu nói:

- Tiểu thư! Phải chăng phu nhân đang nhập định?

Vương Ngọc Yến đáp:

- Phải rồi!

Nàng vừa buột miệng đã biết lỡ lời giơ tay lên bịt miệng lại. Đoàn Dự ngấm

ngầm than rằng:

- Chết rồi! Cô này không biết nói dối.

Bình má má giả vờ tuổi già lẫn lộn, làm bộ tuyệt không để ý đến chỗ vô tình

bại lộ, mụ nói:

- Dây trói chặt quá, tiểu thư lại đây giúp tôi một tay để cởi chúng nó ra.

Vương Ngọc Yến gật đầu bước tới cạnh A Châu để cởi trói thì đột nhiên

đánh tách một tiếng, một cái móc sắt hình cánh cung từ trong cột sắt bật ra,

quàng lấy chiếc lưng thon Ngọc Yến rồi thít chặt vào.

Vương Ngọc Yến kêu rú lên một tiếng. Cái vòng sắt chụp lấy lưng nàng chỉ

còn hở có vài tấc, nàng cựa thế nào cũng không thoát ra được.

Đoàn Dự cả kinh chạy lại quát hỏi:

- Mi làm trò gì thế này? Mau buông tiểu thư ra!

Bình má má lại rú lên mấy tiếng cười khành khạch, nói:

- Phu nhân đã nhập định, khi nào còn truyền đem hai con lỏi này lên tra

hỏi? Hơn nữa thiếu chi thị nữ, nha hoàn mà tiểu thư phải thân hành đến

đây? Trong việc này tất còn có nhiều uẩn khúc kỳ quặc. Tiểu th! Hãy chờ

đây một lát để mụ lên bẩm lại phu nhân rồi sẽ xuống nói chuyện.

Nguyên "Hoa phì phòng" này Vương phu nhân dùng làm chỗ chém giết

người. Trong nhà đá đặt đủ các cơ cấu chế phục tù đồ, muốn giết chóc cách

nào thì tha hồ mà hạ thủ. Bình má má là một tay thâm độc vô cùng, xuất

thân trong nghề hắc đạo với cái ngoại hiệu "độc cước nữ đạo". Tay mụ đã

gây ra không biết bao nhiêu vụ huyết án, giết bao nhiêu mạng người. Vơng

phu nhân chế phục được mụ rồi, thấy mụ tinh lanh được việc, giao cho mụ

công tác chém giết tại "hoa phì phòng". Mụ làm rất đắc lực. Mụ thấy cử chỉ

nói năng của Vương Ngọc Yến có nhiều chỗ khả nghi, mụ còn biết rõ

Vương phu nhân rất oán ghét nhà Mộ Dung và thầm lo võ nghệ tiểu thư cực

kỳ lợi hại, mình quyết không địch nổi. Giả tỷ nàng đã ra lệnh mà mình

không nghe tất đi đến chỗ cưỡng bức mình phải tha ngời. Mụ đành tính

nớc liều, phát động cơ quan để giữ nàng lại.

Vương Ngọc Yến tức giận nói:

- Mụ không phải lên đâu, xuống đâu, buông tha ta ngay!

Bình má má đáp:

- Thưa tiểu tưh! Tiểu thư xét lại cho, mụ lúc nào cũng giữ tấc dạ trung thành

với phu nhân, không dám làm điều gì mảy may lầm lẫn. Xin tiểu thư chờ

mụ lên hỏi lại phu nhân, nếu quả đúng nh lời tiểu th, thì mụ xin đập đầu

tạ tội với tiểu thưsau.

Vương Ngọc Yến rất đỗi hoang mang, gọi giật lại:

- Này này! Mụ đừng hỏi lại mẫu thân ta nữa! ngời làm ầm lên bây giờ!

Bình má má vốn là một mụ đại gian ngoan, thấy nàng hốt hoảng như vậy

càng nhìn rõ Ngọc Yến phản bội mẫu thân, giở trò quỷ quái lừa bịp mình để

gỡ hai đứa thị tỳ tâm phúc của biểu huynh nàng. Mụ biết rõ là tiểu th giả

truyền hiệu lệnh của phu nhân. Nếu mình hớ hênh thả hai đứa này ra là

nàng thừa cơ đa đi tức khắc. Mụ đáp:

- Không sao! Tiểu thư chờ đây một lát! Mụ xin trở lại ngay mà!

Vơng Ngọc Yến vẫn cố ngăn lại nói:

- Mụ đừng đi! hãy buông tha ta rồi hãy nói chuyện.

Bình má má khi nào chịu nghe nàng. Mụ trở gót đi ngay ra cửa. Đoàn Dự

thấy sự tình nguy cấp, vội giơ tay ra cản đường cười nói:

- Mụ phải thả tiểu thư ra trước đã rồi hãy lên hỏi phu nhân, có hay hơn

không? mụ không nhớ người ta thường nói rằng: "Quan xa bản nha gần" hay

sao? Mụ là người ngoài, đắc tội với tiểu thư thì không yên thân được đâu.

Bình má má liếc đôi mắt ti hí nhìn Đoàn Dự, rồi nghẹo đầu nói:

- Thằng lỏi này xem ra cũng có điều xảo trá đây.

Mụ vừa nói vừa giơ tay chụp lấy cổ tay Đoàn Dự. Chàng vừa bị mụ giữ chặt

mạch môn đã cảm thấy toàn thân bị tê liệt. Tuy trong người chàng có nội

lực cực kỳ thâm hậu song không biết sử dụng chịu để cho Bình má má lôi

lại bên cột sắt, bấm nút cơ quan. Vừa "cách" một tiếng, cái vòng thép đã bật

ra chụp ngang lưng chàng.

Bình má má vừa chạm bàn tay vào cổ tay Đoàn Dự đã cảm thấy nội lực

trong mình cuồn cuộn thoát ra không ngớt, khó chịu quá không biết đến đâu

mà kể. Mụ đưa vòng thép quàng lấy lưng chàng xong liền giật tay ra ngay.

Đoàn Dự thấy tình trạng nguy ngập quá liền giơ tay lên vừa ôm chặt lấy cổ

tay mụ vừa nói:

- Mi chớ đi!

Bình má má cả giận quát lên:

- Buông tay ra!

Mụ mở miệng quát, chân khí trong người càng tiết ra mau. Đoàn Dự từ khi

ở chùa Thiên Long được bá phụ truyền thụ cho biết cách thu nạp chân khí

vào huyệt đan điền nên nội lực trong người Bình má má bị "chu cáp thần

công" hút sang người chàng, chàng vận dụng cho về chỗ chứa, không đến

nỗi để chạy lung tung trong người như trước.

Bình má má cố sức cựa quậy mà không sao gỡ ra khỏi hai cánh tay Đoàn

Dự ôm ghì lấy. Mụ càng kinh hãi la lên:

- Mi... mi biết phép "hoá công đại pháp" phải không? mau buông ta ra!

Đoàn Dự đối diện với bộ mặt quỷ dạ xoa của mụ, chỉ cách chừng một vài

tấc mà lưng chàng bị vòng thép xiết chặt, không thể nào quay mặt ra chỗ

khác được, phải nhìn bộ răng lồi vàng khè của mụ mà nôn oẹ. Nhưng chàng

biết đang ở trong tình trạng nguy ngập khác nào khối nặng ngàn cân treo

đầu sợi tóc. Giả tỷ mình buông tha mụ ra thì Vương Ngọc Yến tất nhiên sẽ

bị trọng trách mà tính mạng mình cùng A Châu, A Bích cũng không bảo

toàn được. Chàng đành nhắm mắt lại để khỏi phải nhìn thấy bộ mặt khiếp

đảm của mụ.

Bình má má vẫn tiếp tục la:

- Mi... mi có buông tha ta không?

Tiếng mụ đã phều phào gần như kiệt lực.

Ta nên nhớ rằng nội lực trong thân thể Đoàn Dự càng nhiều thì hấp lực của

"chu cáp thần công" càng mạnh. Buổi đầu tiên "chu cáp thần công" hút chân

khí của bọn Phá Tham còn mất nhiều thì giờ về sau lại hút thêm toàn bộ nội

lực của Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh Tử, rồi một phần nội lực của Bảo

Định Đế và mấy vị hoà thượng chùa Thiên Long. Bây giò chàng hút nội lực

của Bình má má trong giây lát là hết. Bình má má tuy là người hung hãn

nhưng nội lực làm gì có nhiều nên chỉ trong thời gian uống cạn tuần trà là

tinh thần mụ đã bạc nhược, hơi thở yếu ớt, luôn miệng nói mấy câu: "Buông

ta ra! Buông ta ra!" như người hết hơi.

Đoàn Dự nói:

- Mụ phải mở cơ quan tha ta trước đã.

Bình má má chịu nước lép nói:

- Xin vâng! Xin vâng!

Đoàn Dự buông tay trái mụ ra, chỉ giữ một tay mặt để mụ thò tay vào gầm

bàn bấm nút cơ quan. Sau tiếng lách cách, chiếc vòng thép há ra rồi co về

chỗ. Đoàn Dự lại trỏ tay bảo mụ phải buông tha cả Vương Ngọc Yến cùng

A Châu, A Bích.

HỒI 32

Trổ tài miệng lưỡi áp đảo quần hùng

Bình má má đưa ngón tay ra ấn vào nút cơ quan tự động đã giữ chặt Vương

Ngọc Yến tiểu thư nhng cơ quan này vẫn trơ ra đó, không nhúc nhích tý

nào. Đoàn Dự cả giận hỏi:

- Mi không chịu tha tiểu thư phải không?

Bình má má vẻ mặt sầu khổ đáp:

- Tôi kiệt lực mất rồi.

Đoàn Dự tự mình thò tay vào gầm bàn sờ nút bấm, ấn đánh "toách" một

tiếng, cái vòng thép chịt ưlng Vương Ngọc Yến tự động mở ra rồi co về nằm

trong cột sắt. Đoàn Dự cả mừng nhưng cha dám thả Bình má má ngay.

Chàng lượm thanh đao ở dưới đất, chí vào cắt đứt dây trói tay A Bích. A

Bích rảnh tay rồi đón lấy thanh đao cắt đứt dây trói cho A Châu, hai người

lại móc hết hạt trái cây trong miệng ra rồi vừa mừng vừa sợ, hồi lâu không

nói ra tiếng.

Vương Ngọc Yến trừng mắt nhìn Đoàn Dự mấy lần, nét mặt nàng lộ vẻ kỳ

dị hỏi:

- Ngươi biết phép "hoá công đại pháp" ?

Đoàn Dự lắc đầu đáp:

- Đó không phải là môn "hoá công đại pháp" đâu!

Rồi chàng toan thuật hết đầu đuôi cho Vương Ngọc Yến nghe nhưng một là

vì câu chuyện rất dài hai là vị tất Vương Ngọc Yến đã tin nên chàng bịa ra

một tên gọi cho xuôi chuyện:

- Đây chỉ là môn "thái dương dung tuyết công" do phép Nhất Dương Chỉ và

Lục mạch thần kiếm biến hoá ra mà thôi. Môn "thái dương dung tuyết

công" cùng môn "hoá công đại pháp" khác nhau ở chỗ một đằng chính một

đằng tà, một đằng thiện, một đằng ác, không thể coi là một được.

Vương Ngọc Yến tin ngay, mỉm cười nói:

- Quả là ta có điều không phải với ngươi, vì kiến văn hẹp hòi. Về phép Nhất

Dương Chỉ của họ Đoàn nước Đại Lý ta có biết được chút đỉnh còn phép

Lục mạch thần kiếm thì mới biết tiếng mà thôi. Sau này sẽ xin thỉnh giáo.

Đoàn Dự chỉ mong mỹ nhân hỏi tới đã cho là mình có phước lắm rồi, vội

vàng đáp ngay:

- Nếu tiểu thư hỏi đến tôi xin trình bày gan ruột, đâu dám giấu diếm?

A Châu, A Bích thật không khi nào ngờ đến phút khẩn cấp cuối cùng Đoàn

Dự tới giải cứu, lại thấy chàng cùng tiểu thư trò chuyện thân mật đều lấy

làm kỳ dị. A Châu nói:

- Thưa cô nương! cháu xin cảm tạ cái ơn cứu mạng! bây giờ ta phải bắt cả

mụ Bình má má đưa đi để khỏi lo mụ tố giác những điều bí mật.

Bình má má nói:

- Tôi... tôi...

Mụ chưa dứt lời, A Châu một tay giữ chặt đầu, một tay cầm hạt trái cây

nhét vào miệng mụ. Đoàn Dự nói:

- Phải lắm! đúng với thủ đoạn nhà Mộ Dung "gậy ông đập lưng ông".

Vương Ngọc Yến nói:

- Ta đi với bọn ngươi một chuyến xem tình hình... chàng ra sao.

A Châu, A Bích cả mừng nói:

- Được cô nương ra đi viện trợ cho công tử thì còn gì hay bằng?

Hai ả lôi Bình má má đến cạnh cột sắt rồi bấm nút tự động đưa vòng thép ra

giữ chặt lấy mụ. Đoạn bốn người lẹ làng đẩy phiến đá đóng cửa thạch ốc

lại, lanh chân chạy ra bờ hồ. Bốn người chạy ra đến hồ may chẳng gặp một

ai, cùng nhau bước xuống thuyền nhỏ. A Châu, A Bích hạ mái chèo, quay

mũi thuyền, chèo đi. Vương Ngọc Yến rút kim thoa trên đầu ra, vạch một

chiếc la bàn 64 cách, đặt cành kim thoa vào trung tâm la bàn, ánh mặt trời

chênh chếch chiếu vào bóng cành thoa, ánh xuống mặt la bàn, Vương Ngọc

Yến giơ tay ra trỏ nẻo. Con thuyền ở giữa vùng khơi sóng bao la trên mặt hồ

đầy lá lăng, vòng mé đông rồi quay sang mé tây đi ra.

Đoàn Dự rất là khâm phục khen nàng:

- Cô nương tuy chưa ra khỏi cửa mà hiểu biết cả thiên văn, địa lý.

Vương Ngọc Yến mỉm cười nói:

- Đó là những điều ta xem trong sách, chẳng hiểu công dụng có hiệu

nghiệm không?

A Châu cùng A Bích chèo hồi lâu, con thuyền nhỏ lúc lướt dọc, lúc đi

ngang, lúc lượn vòng vũng vịnh mà không thấy quay trở lại Mạn đà sơn

trang, bấy giờ ai nấy mới vững tâm.

Đoàn Dự hỏi Vương Ngọc Yến:

- Cô nương! tôi còn có điều này chưa hiểu. Tỷ dụ chúng ta trốn đi ban đêm,

không có mặt trời để chiếu la bàn thì làm thế nào?

Ngọc Yến mỉm cời đáp:

- Dễ lắm! Tinh tú trên trời là la bàn đó. Cứ ngẩng đầu lên nhìn là biết.

A Châu, A Bích cùng Đoàn Dự ba người luân phiên nhau chèo thuyền ra

khỏi miền phụ cận Mạn đà sơn trang. Hết các nẻo quanh co cùng vũng vịnh

thì hai ả A Châu, A Bích đã biết đường đi trên mặt hồ. Trời đã xế bóng, trên

mặt hồ sương chiều mỗi lúc một dày, A Châu nói:

- Thưa cô nương! Đây đã gần đến chỗ cháu ở rồi. Cô nương hãy tạm trú lại

đây đêm nay để thương nghị việc đi tìm công tử nên chăng?

Ngọc Yến nói:

- Cũng đành thế vậy.

Thuyền đi càng xa Mạn đà sơn trang phong cảnh lại càng tịch mịch. Đoàn

Dự thấy gió thoảng mặt hồ làm lay động tà áo Ngọc Yến. Lúc đó trời đã

hoàng hôn, sương lạnh lăm lăm, Đoàn Dự cảm thấy nỗi thê lương tràn ngập.

Những cảm giác vui tươi lúc mới ra đi nhạt dần. Chèo thuyền một lúc nữa,

trông mặt mũi mọi người đã có vẻ đờ đẫn như buồn ngủ. Chợt phía đông

nhìn thấy ánh đèn le lói A Bích nói:

- Chỗ có ánh đèn lửa kia là Thính hương tinh xá của A Châu tỷ nương.

Thuyền liền nhắm thẳng phía có ánh lửa bơi tới. Đoàn Dự lẩm bẩm:

- Đời ta khó lòng lại có được một buổi như hôm nay. ước gì con thuyền cứ

lênh đênh mãi trên mặt hồ, vĩnh viễn đừng đến chỗ sáng đèn lửa kia có phải

hay không?

Bất thình lình trước mặt một tia sáng loé ra, bên trời một vì sao đổi ngôi xẹt

qua, kéo thành một cái đuôi rất dài. Vương Ngọc Yến miệng rì rầm nói điều

gì, Đoàn Dự nghe không rõ. Lúc đó trời đã tối mịt, không nhìn rõ mặt, chỉ

nghe thấy nàng thở dài rất não ruột.

A Bích an ủi nàng bằng một giọng rất êm ái:

- Cô nương hãy yên lòng. Công tử thường gặp dữ hoá lành. trước nay biết

bao nhiêu lần gặp nguy hiểm mà rồi công tử đã qua khỏi được hết.

Ngọc Yến nói:

- Nếu chàng đi Cái Bang, thì ta chẳng có gì quan tâm cho lắm, còn đi chùa

Thiếu Lâm thì không phải chuyện chơi. Về 72 môn tuyệt kỹ của phái này

chàng đã hiểu cả nhưng đó là từ trước. Phái này đã nổi tiếng mấy trăm năm

nay, giả tỷ họ còn học thêm được môn gì khác biệt thì ôi thôi...

Nàng dậm chân nói tiếp:

- Bữa nay gặp sao đổi ngôi, ta xem ra thì điều ước nguyện không thể thành

tựu được.

Theo tục truyền tại miệt Giang Nam, khi sao đổi ngôi ngời nào cầu nguyện

khấn khứa tất lời rồi thì việc khó đến đâu cũng được toại nguyện. Nếu sao

lướt ngang lời cầu còn giang dở, sao đã biến mất rồi thì việc không thành.

Hàng ngàn năm nay, nhiều cô gái Giang Nam chiêm nghiệm điều đó mà hy

vọng tràn trề hoặc vì đó mà sinh thất vọng. Vương Ngọc Yến tuy là người

hiểu biết rất nhiều lại cực kỳ tinh thông võ nghệ cũng chưa thoát khỏi

thường tình của cô gái quê mùa.

Đoàn Dự nghe nàng than vãn trạnh mối thương tâm. Tuy chàng biết rõ điều

ước nguyện của nàng nhất định có liên quan đến Mộ Dung công tử và hẳn là

cầu cho gã đặng bình yên, mọi sự như ý. Đoàn Dự tự hỏi: "ở trên đời này

bao giờ có cô gái nào như Vương cô nương đây khấn thầm cầu khẩn cho ta

chăng? trước kia có Mộc Uyển Thanh rất yêu ta nhưng sau khi nàng biết ta

là anh ruột dĩ nhiên sẽ có mối tình cùng người khác, không biết hiện giờ y ở

đâu? Và đã gặp được ai nh ý lang quân chưa? còn Chung Linh! Vị tiểu cô

nương này hãy còn ngây thơ, chưa biết mùi thế sự. Có lúc nàng tưởng tới ta

thì cũng chẳng qua là ngẫu nhiên tâm động trong chốc lát rồi chuyện đâu bỏ

đó, quyết không bằng Vương cô nương tha thiết với ý trung nhân, mối tình

dường như đã chép xương, ghi dạ. Ôi bá phụ cùng gia gia lại còn hỏi Cao

tiểu thư cho ta làm vợ. Ta chưa từng gặp tiểu thư lần nào. Nàng xấu đẹp,

thấp cao ta cũng không biết nữa. Ta không tưởng nhớ nàng tất nhiên nàng

cũng chẳng tưởng nhớ đến ta".

Con thuyền đi mỗi lúc một gần lại, A Châu nói khẽ bảo A Bích:

- A Bích! Em thử coi! Dường như có sự gì lạ lắm!

A Bích gật đầu nói:

- Sao đèn đuốc nhiều thế kia?

Rồi nàng mỉm cười nói tiếp:

- A Châu tỷ nương ơi! trong nhà chị làm gì náo nhiệt như đêm nguyên tiêu

vậy? Đèn đuốc sáng trưng, không chừng họ ăn mừng ngày sinh nhật chị.

A Châu lẳng lặng không nói gì. Nàng chỉ nhìn ánh đèn lửa chiếu xuống mặt

hồ. Lúc đó Đoàn Dự đã nhìn thấy rõ tám chín gian nhà dựng trên một cái cù

lao nhỏ, trong đó có hai căn nhà lầu. ánh đèn lửa do các cửa sổ chiếu ra

ngoài. Chàng thầm nghĩ: "chỗ A Châu ở đây gọi là thính hương tinh xá cũng

tương đương với cầm vận tiểu trúc của A Bích. Mộ Dung công tử đối đãi với

hai cô nữ tỳ này thật là công bằng. Cầm vận tiểu trúc thì cách bài trí thanh

nhã còn thính hương tinh xá lại ánh lửa huy hoàng, mỗi nơi một vẻ khác

nhau".

Thuyền còn cách thính hương tinh xá chừng một dặm, A Châu dừng chèo

nói:

- Vương cô nương! kẻ địch vào nhà rồi!

Vương Ngọc Yến giật mình hỏi dồn:

- Sao kẻ địch đến à? Sao ngươi biết? Ai vậy?

A Châu đáp:

- Chưa biết bọn nào nhưng ngửi thấy mùi rượu xông lên nồng nàn thì đúng

là hạng khách bất nhân đến phá quấy rồi.

Vương Ngọc Yến hít hơi thật mạnh để ngửi xem nhưng chẳng thấy gì. Cả A

Bích, Đoàn Dự cũng chẳng thấy mùi gì khác lạ. Chỉ có mình A Châu rất

thính mũi, nàng ngửi thấy mùi lạ từ đằng xa. Nàng nói tiếp:

- Hỏng bét! Thật là hỏng bét! Bọn chúng lấy cả rượu hoa nhài cùng Mai quế

lộ ra uống. Trời ơi! khổ rồi! Cả vô hàn mai hoa lộ chúng cũng đem ra uống

vung uống vãi.

Mấy câu sau nàng nói như muốn khóc, Đoàn Dự rất lấy làm kỳ hỏi:

- Mắt cô tinh đến thế kia ? Nhìn thấy rồi hay sao?

A Châu nghẹn ngào đáp:

- Không phải tôi trông rõ nhưng ngửi thấy rồi. Tôi tốn bao tâm cơ mới chế

được thứ rượu đó, bọn gian ác này đem ra uống mất rồi.

A Bích hỏi:

- A Châu tỷ nơng ơi! chị tính sao đây? Ta tránh đi hay lên bờ động thủ?

A Châu nói:

- Chưa rõ bọn địch có lợi hại lắm không?

Đoàn Dự cũng xen vào:

- Phải đó! Nếu chúng lợi hại quá thì ta tránh đi là hơn. Băng chúng chỉ là

hạng tầm thường thì mình lên giảng giải cho chúng để những vật báu của

chị A Châu đã bị tổn hại...

Ba thiếu nữ thấy chàng nói thế đều sửng sốt. Ai nấy trừng trừng nhìn chân

tay con người quờ quạng dường như chẳng biết chút võ công nào mà sao tại

hoa phì phòng Bình má má hung hãn là thế vừa mó vào chàng dây lát đã

mất hết nội lực, tuyệt không kháng cự được chút nào. Chẳng biết chàng có

phải vào hạng võ công thượng thừa mà cố ý làm bộ một gã thư sinh yết ớt.

Vương Ngọc Yến hỏi:

- Ngươi lên bờ mà gặp phải bọn võ nghệ ghê gớm chúng đánh ngươi giết

ngươi thì làm thế nào?

Đoàn Dự đáp:

- Họ đánh giết thì tôi đành chịu nhưng xem ra vận hạn tôi rất tốt việc gì

cũng gặp dữ hoá lành cả.

Trong lòng chàng tự nhủ: "giả tỷ ta có vì nàng mà phải bỏ mạng cũng cam

tâm".

Vương Ngọc Yến vẫy tay trái một cái, ngón tay nàng đã điểm tới huyệt thái

dương chàng. Thái dương là một trong các huyệt đạo sinh tử của con người,

chỉ điểm mạnh một cái là chết liền. Bất luận là người có võ công cao cường

đến đâu cũng không thể để huyệt đạo này bị phong toả được. Trong đêm

tối, Đoàn Dự mờ mịt chẳng biết chi rằng mình bị nguy trong khoảnh khắc.

A Bích trông thấy giật mình kêu rú lên còn A Châu thì hiểu rằng chẳng qua

Vương Ngọc Yến thử xem Đoàn Dự là người không biết võ công thật hay

giả vờ nên nàng chỉ chú ý nhìn chứ không nói gì. Ngón tay Vương Ngọc

Yến chỉ còn cách thái dương huyệt Đoàn Dự không đầy một tấc mà Đoàn

Dự chẳng biết gì cả, vẫn nói tự nhiên:

- Ba vị cô nương còn nhỏ tuổi thế này mà lên gặp chúng thì không được

đâu.

Ngọc Yến từ từ rút tay về hỏi:

- Ngươi chưa học qua võ công thật ?

Đoàn Dự cười đáp:

- Nếu cái môn "thái dương dung tuyết công" mà chưa phải là võ công thì

ngoài ra tôi chưa học môn nào cả.

A Châu nói:

- Tôi có kế này. Bây giờ bọn ta tìm quần áo cải trang là lũ ngư ông, ngư bà.

Nàng chỉ về phía đông nói tiếp:

- Mấy nhà chài lưới kia tôi quen lắm.

Đoàn Dự vỗ tay cả cười nói:

- Tuyệt diệu! Tuyệt diệu!

A Châu bèn trở chèo bơi quay sang phía đông. Một dải dân chèo này ở gần

thính hương tinh xá , ngày thường họ vẫn đi lại chơi với A Châu. A Châu

đưa Ngọc Yến, A Bích vào mượn quần áo để cải trang. A Châu trá hình làm

một bà lão chài, Ngọc Yến, A Bích hoá trang thành hai ngư bà đứng tuổi,

đoạn gọi Đoàn Dự vào sau, mặc quần áo giả làm ngư ông ngoài bốn chục

tuổi. Thuật hoá trang của A Châu thật tinh diệu tuyệt luân. Nàng trát phấn,

trát bột cho cả bốn người một loáng đã xong cả, người nào người ấy không

còn ai nhận ra được bộ mặt cũ nữa. Nàng lại mượn nào thuyền nào lưới nào

cần câu nào cá sống. Đoạn chèo thuyền về thính hương tinh xá.

Đoàn Dự cùng Ngọc Yến tuy tớng mạo cải trang được nhưng giọng noi và

cử chỉ vẫn lòi đuôi, học đòi A Châu thế nào được?

Ngọc Yến cười nói:

- A Châu! Mọi việc đều do ngươi ứng phó, bọn ta chỉ có giả câm là tài.

A Châu cũng cười đáp:

- Phải đó! Cô nương đừng nói gì xen vào!

Thuyền bơi đến gần tinh xá thấy xung quanh chỗ nào cũng trồng toàn

dương liễu. Trong nhà vẳng ra những tiếng thô lỗ cùng tiếng gọi nhau ơi ới

làm cho căn nhà u nhã, hoa lệ rối loạn cả lên, mất cả ý nghĩa của nó.

A Châu bật lên những tiếng thở dài ngao ngán. A Bích ghé vào tai nàng nói

nhỏ:

- A Châu tỷ nương! Để tống cổ bọn địch đi rồi, em sẽ giúp chị một tay để

sắp xếp lại.

A Châu nắm chặt tay A Bích để thầm cảm ơn mỹ ý của nàng. A Châu dẫn

ba người lên bờ, đi quanh vào nhà bếp thì gặp trù sư của mình tên gọi Lão

Cố, mặt mũi đầy mồ hôi mồ kê, đang nhổ bọt giãi phì phì vào chảo thức ăn

rồi không ngớt xoa tay cho ghét cáu rớt xuống chảo. A Châu trông thấy vừa

tức vừa buồn cười bảo:

- Lão cố! Ngươi làm gì đó?

Lão cố giật mình đánh thót một cái, quay ra hỏi:

- Mụ... mụ...

A Châu cười nói:

- Ta là A Châu cô nương đây mà!

Lão Cố cả mừng nói:

- Cô nương ơi! một bọn phá gia ở đâu đến, bắt ép tôi phải thổi cơm và nấu

thức ăn cho chúng! Cô nương lên mà xem!

Lão vừa nói vừa xì mũi, ném toẹt vào chảo thức ăn, rồi toét miệng ra cười

hềnh hệch.

A Châu cùng A Bích đang lúc phải chú ý hết sức để đối phó với cục diện

cực kỳ nghiêm trọng mà thấy cử chỉ trẻ con của lão trù sừ béo ỵ cũng không

thể nhịn cười được.

Nguyên bọn địch này ở đâu đến kẻ réo người quát, uy hiếp lão phải nấu ăn

và hầu hạ chúng. Lão không làm thế nào được đang tức mình pha những thứ

dơ bẩn vào món ăn thì A Châu về tới nơi. A Châu chau mày hỏi:

- Sao ngươi làm đồ ăn dơ bẩn thế?

Lão cố vội đáp:

- Món ăn của cô nương thì lúc tôi nấu nướng tôi phải rửa thật sạch. Còn cho

những quân phá gia này ăn phí của nên tôi pha những thứ dơ bẩn vào cho

chúng ăn.

A Châu nói:

- Từ nay ngươi làm món ăn cho ta, ta cũng ghê tởm quá.

Lão cố nói:

- Cô nương xơi thì khác hẳn, đâu dám làm thế?

A Châu tuy làm thị nữ cho Mộ Dung công tử nhưng là chủ nhân thính

hương tinh xá. Dưới quyền cũng đủ đầy tớ, đầu bếp, phu bơi thuyền, thợ

trồng hoa phục vụ cho nàng.

A Châu hỏi:

- Bọn địch có bao nhiêu tên?

Lão cố đáp:

- Bọn trơức đến chừng 15, 16 đứa, bọn sau đến 20 đứa.

A Châu lại hỏi:

- Những hai bọn kia à? Chúng thuộc về hạng nào? Coi cách ăn mặc và giọng

nói có biết chúng ở đâu không?

Lão cố hậm hực:

- Mẹ chúng nó.

Câu chửi tục vừa ra khỏi cửa miệng, lão tự biết là vô lễ, vội đa tay bịt

miệng, sợ hãi tiếp:

- Xin lỗi cô nương. Lão cố này tội thật đáng chết. Hai toán này thì một toán

là loài man mọi phương bắc, có vẻ toàn là cường đạo, còn một toán nữa

người Tứ Xuyên, tên nào cũng mặc bào trắng, không rõ chúng thuộc về đạo

nào.

A Châu hỏi:

- Họ đến đây tìm ai? Có người nào bị thương không?

Lão cố đáp:

- Toán cường đạo thứ nhất cũng như toán cổ quái thứ hai khi vào tới nơi là

chúng tra hỏi công tử ở đâu? Tôi bảo công tử vắng nhà nhưng chúng không

tin, lùng khắp nơi tìm kiếm một hồi. Các nha hoàn trong nhà chạy trốn hết,

còn mình tôi tức quá, mẹ...

Lão toan chửi câu nữa nhưng kịp rút lỡi lại, chưa tuôn ra hết câu. A Châu

thấy mắt bên trái lão tím bầm, còn một nửa mặt sưng vù lên chắc là bị

chúng đánh đau, trách nào lão chẳng nhổ đờm giãi cùng xoa tay dơ vào các

món ăn cho hả giận? A Châu trầm ngâm một lát rồi nói:

- Thôi đợc! Để chúng ta lên coi.

Lão cố nói không minh bạch. Nàng dẫn Ngọc Yến, Đoàn Dự, A Bích ba

ngời theo cửa ngách ra khỏi nhà bếp, xuống dàn hoa, chui qua cổng tò vò

đi về phía cửa nhà đại sảnh.

Đoàn Dự là Vương tử nước Đại Lý, giàu sang từ nhỏ, nên nhìn hoa cỏ cùng

cách kiến trúc thính hương tinh xá không lấy gì làm lạ mắt nếu là người

thường mà trông thấy phong cảnh huy hoàng của cô hầu còn thế này tất cho

là chính nơi công tử Mộ Dung ở, có lẽ sang trọng hơn cả bậc vương hầu.

Còn cách cửa sổ phía sau nhà khách sảnh chừng vài trượng đã nghe tiếng

người huyên náo rất phức tạp. Chẳng những Đoàn Dự ở tận chốn biên thuỳ

hẻo lánh, Vương Ngọc Yến chưa từng ra khỏi phòng the nên nghe tiếng nói

líu lo thì tưởng họ là những hạng người cổ quái mà chính A Châu người đã

chuyên tìm hiểu về các loại thổ âm vừa nghe họ nói cũng nhận thấy ngay

những đặc điểm kỳ dị. Bọn người đang la ó om sòm này toàn giọng thổ

khàn. A Châu tuy đã hiểu nhiều tiếng địa phương mà cũng nghe không rõ.

Cứ như lời Lão cố thì trong bọn này có nhiều người Tứ Xuyên mà sao bây

giờ nàng không nghe thấy một giọng nào Tứ Xuyên cả. A Châu thoăn thoắt

lại bên hàng dài cửa sổ, đưa ngón tay chọc thủng giấy dán vè ghé mắt nhòm

vào thấy trong nhà đèn lửa sáng trưng về đầu phía đông. Mười tám gã đại

hán to lớn lực lưỡng đang ăn uống lu bù. Trên bàn thì chén bát bừa bãi, dưới

đất thì ghế đổ ngả nghiêng, gã ngồi chồm hỗm trên bàn, còn gã không dùng

đũa, tay cầm đùi gà hoặc miếng thọt bò to tớng cắn ăn. Có gã cầm thanh

đao dài để cắt thịt, cá ra từng miếng rồi dùng mũi nhọn đao xiên vào đa

lên miệng ăn. A Châu xem cách cử chỉ của bọn này rõ ràng là những tay

hào kiệt bên ngoài quan ải. Nàng nhìn bọn người ngồi đằng đông một lúc

rồi lại nhìn đầu đằng tây. Ban đầu nàng không lưu ý nhng nhìn lâu một

hồi, bất giác mình sởn gai ốc, sau lưng lạnh toát như bị gáo nớc lạnh dội

vào. Nguyên hơn hai mươi người trên này đều mặc áo bào trắng, ngồi

nghiêm chỉnh, trên bàn thắp một cây nến nhỏ, ánh sáng yếu ớt chiếu ra bất

quá độ vài thước vuông. Sáu bảy người ngồi gần ngọn nến nên trông rõ,

người nào cũng khô đét, thân hình gầy khẳng kheo, mặt trơ như gỗ, đã

không lộ vẻ vui mừng lại không ra chiều giận dỗi, trông tựa như xác chết cả.

A Châu càng nhìn càng sợ, những người này ngồi ỳ ra chẳng nói câu gì, họ

chỉ khác những thây ma ở chỗ mí mắt thỉnh thoảng còn hơi mấp máy một

chút.

A Bích đến gần A Châu, cầm lấy tay nàng thì thấy bàn tay lạnh ngắt mà hơi

run. A Bích cũng chọc thủng cửa sổ để ngó trộm. Nàng vừa nhìn vào cũng

giật mình kinh sợ, khẽ kêu lên một tiếng "trời ơi".

Hai tiếng "thình thình" vang lên, cửa sổ đã bị phá vỡ. Bốn người trong đại

sảnh nhảy vọt ra là hai gã đại hán ngoài ải bắc và hai quái khách ở Tứ

Xuyên.

Hai gã đại hán quát hỏi:

- Ai đó?

A Châu đáp:

- Chúng tôi vừa bắt đực mấy con cá tươi, đến hỏi xem lão đầu có mua

không? hôm nay có cả tôm tươi nữa.

Nàng bắt chước tiếng thổ âm người Tô Châu. Hai gã đại hán nghe không

hiểu nhưng thấy bốn người ăn mặc theo kiểu dân chài, tay cầm cá cầm tôm

đang giãy ngoay ngoảy thì biết ngay là bọn đến bán tôm cá. Một gã đại hán

giật lấy con cá ở trong tay A Châu và gọi rối rít:

- Nhà bếp! Nhà bếp! đem mấy con cá này xuống nấu cháo ăn cho giã rượu.

Còn gã nữa đón lấy con cá trong tay Đoàn Dự. Hai gã đại hán lấy cá rồi

không nói năng gì nữa, quay gót đi vào nhà khách. Lúc đi qua mình A Bích

một mùi hôi thối tựa như mùi cá ơn đã mười ngày xông vào mũi nàng. A

Bích không nhịn được, giơ tay áo lên bịt mũi. Tay áo nàng tụt xuống để lộ

cánh tay nhỏ nhắn, trắng như tuyết. Một gã ngừi Tứ Xuyên nhanh mắt

trông thấy, sinh nghi: một bà già đứng tuổi, sao da dẻ lại nõn nà. Gã liền

quờ tay ra nắm lấy A Bích hỏi:

- Mụ già này bao nhiêu tuổi?

A Bích giật mình hất tay gã ra nói:

- Mi làm trò gì vậy?

Tiếng nàng êm ái trong lanh lảnh, cái hất tay lại lẹ làng mà gã người Tứ

Xuyên đã cảm thấy tê dại. Gã vội nhảy ra xa mấy bước. Bốn gã thấy vậy

kêu váng lên. Hơn mười người từ trong nhà khách nhảy ra, vây lấy bọn

Đoàn Dự. Một gã đại hán thò tay ra rứt bộ râu giả của Đoàn Dự, bộ râu rớt

xuống đất, một gã đưa tay ra chụp xuống A Bích. A Bích né người đi rồi

đẩy mạnh một cái làm cho lão té lăn xuống đất. Một gã đứng đường sau đa

kiếm ra phạt ngang. A Bích cúi đầu tránh khỏi, nhưng nàng quên rằng trên

đầu mình còn có mớ tóc giả búi ngược lên đỉnh đầu, cao đến hơn một tấc so

với ngày thường. "Soạt" một tiếng, mớ tóc hoa râm giả tuột xuống để hở

mái tóc đen láy của nàng ra.

Gã đại hán càng la lớn tiếng hơn:

- Có gian tế! Có gian tế! Bọn chúng cải trang lọt vào đây. Phải bắt nó đem

ra tra khảo đã.

A Châu giận lắm hỏi lại:

- Đây là nhà ai? Kẻ nào là gian tế?

Bọn hán tử xúm lại đẩy bốn người vào nhà khách đến trước mặt một ông già

ngồi đầu phía đông bẩm báo:

- Thưa trại chủ! Đã bắt được bọn gian tế hoá trang làm dân chài. Xin đa

vào trình trại chủ.

Ngọc Yến cùng A Châu, A Bích thấy trong nhà khách nhốn nháo cả lên. Ba

nàng đều là tay võ nghệ siêu quần nhưng còn non tuổi, kiến thức còn kém

cỏi, phân vân chưa biết nên động thủ ngay hay hãy để xem chừng, chờ đến

lúc bất đắc dĩ sẽ ra tay. Đoàn Dự thì lại mù mịt về võ công, trông tướng

mạo chẳng biết ai mạnh, ai yếu. Bốn người ngơ ngác nhìn nhau chưa biết

tính thế nào cho phải đành đứng trước mặt lão già để xem lão phát lạc ra

sao.

Lão già này tướng mạo khôi ngô hùng vĩ, một chòm râu bạc dài trùng

xuống trước ngực. Trong tay trái lão có ba trái nhạc sắt kêu leng keng. Lão

quát hỏi bọn Ngọc Yến:

- Bọn mi làm gian tế ở đâu đến mà giở trò tinh quái ranh ma? Chắc không

phải hạng tử tế.

Ngọc Yến nói với A Châu:

- Hoá trang làm một bà già chẳng thú gì cả. A Châu! Ta chẳng hoá trang

nữa đâu.

Nói rồi nàng bỏ món tóc giả ra, lại giơ tay lên xoa mặt một cái những phấn

bột nhồi thành vết nhăn rơi xuống lả tả. Bọn hán tử thấy mụ chài đứng tuổi

đột nhiên biến thành một vị nữ lang nhan sắc tuyệt trần đều miệng há hốc,

giương mắt ra mà nhìn. Trong sảnh đường bỗng trở nên im phăng phắc.

Những quái khách bào trắng ngồi ở đầu đằng tây cũng trố mắt toé lửa ra

nhìn nàng. Ngọc Yến bảo đồng bọn:

- Các ngươi cũng trút bỏ hết đồ hoá trang đi!

Rồi nàng quay lại nhìn A Bích cười nói:

- Chỉ tại ngươi làm tiết lộ.

Mặc dù xung quanh bao nhiêu mắt hung dữ đổ dồn vào mình Ngọc Yến vẫn

coi như không thấy gì. Nét mặt thản nhiên, dường như không thèm để tâm

đến bọn người lợi hại này. A Châu, A Bích, Đoàn Dự nghe lời Ngọc Yến

đều xoa hết những thứ bôi mặt đi. Mọi người đã thấy Ngọc Yến tuyệt đẹp,

lại thấy A Châu, A Bích cũng là những vị cô nương hoa nhường nguyệt thẹn

đều sửng sốt, không ngờ trên thế gian lại có những người kiều diễm đến thế.

Một lúc lâu lão già khôi ngô lại cất tiếng hỏi:

- Các ngươi là ai, đến đây có chuyện gì?

A Châu cười nói:

- Tôi là chủ nhân Thính hương tinh xá này mà lại có người ở đâu đến hỏi tôi

là ai mới kỳ chứ? Bây giờ tôi hỏi lại: các ông là ai? đến đây có chuyện gì?

Lão già nói:

- Thế à? Nếu cô là chủ nhân đây càng hay. Phải chăng cô là Mộ Dung tiểu

thư? Mộ Dung Bác có phải là gia gia cô không?

A Châu mỉm cười đáp:

- Tôi chỉ là một tên nha hoàn. Làm gì có diễm phúc được làm con gái lão

gia tôi? các hạ là ai? đến đây có việc gì?

Lão gia thấy A Châu tự xưng là một nha hoàn có ý không tin, trầm ngâm

giây lát rồi mới nói:

- Cô mời chủ nhân cô ra đây, ta sẽ nói cho hay đến đây làm gì.

A Châu nói:

- Chủ nhân tôi đi vắng. Các hạ có điều chi cứ nói với tôi cũng thế. Tôn tính

đại danh chẳng lẽ cũng không cho tôi biết được hay sao?

Lão già đáp:

- Tôi là Diêu trại chủ Tần gia trại ở Vân Châu. Diêu Bá Đương chính thị là

ta.

A Châu nói:

- Tôi đã từng được nghe đại danh và rất đem lòng ngưỡng mộ.

Diêu Bá Đương cười nói:

- Cô còn là cô bé nhỏ xíu đã biết gì?

Ngọc Yến nói:

- Tần trại gia ở Vân Châu có môn võ nổi tiếng là "ngũ hổ đoạn môn đao".

Ngày mà Diêu Công Vọng tự sáng chế ra nó có tất cả 64 thế. Người sau

quên mất năm thế, tôi lại nghe nói ngày nay chỉ còn 59 thế! Diêu trại chủ!

Trại chủ học bao nhiêu thế?

Diêu Bá Đương cả kinh buột miệng hỏi ngay:

- Môn "ngũ hổ đoạn môn đao" của Tần trại gia 64 thế sao cô nương lại biết?

Vơng Ngọc Yến lạnh lùng đáp:

- Tôi xem sách nói rõ như vậy chẳng biết có đúng không? 5 thế thiếu mất đi

là "bạch hổ thiêu giản", "nhất khiếu phong sinh", "tiễn phác tự nh", "hùng

bá quần sơn" và "phục tượng thắng sư" có đúng vậy không?

Diêu Bá Đơng vuốt râu ngẫm nghĩ. Lão biết rằng đao pháp của phái mình

có khiếm khuyết mất 5 thế rất quan hệ nhưng 5 thế bị thất truyền đó thì bất

luận là ai cũng không hiểu là những thế gì. Bây giờ lão nghe Vuơng Ngọc

Yến đọc ra vanh vách thì trong bụng vừa kinh ngạc vừa hoài nghi nên không

biết đáp lại ra sao.

Trong đám khách bào trắng ngồi ở mé tây có một gã hán tử tuổi ngoại tứ

tuần thuộc về môn hộ âm dương quái khí cất tiếng hỏi Ngọc Yến:

- Môn "ngũ hổ đoạn môn đao" của Tần gia trại oai danh chấn động đất Hà

Sóc dù có khiếm khuyết mất 5 thế tưởng cũng chẳng quan hệ gì đến đại thể?

Xin hỏi cô nưg gọi Mộ Dung Bác bằng gì?

Vơng Ngọc Yến đáp:

- Mộ Dung lão gia là cữu phụ tôi. Còn tôn tính đại danh các hạ là gì?

Gã hán tử cười lạt đáp:

- Cô nương là một học giả uyên thâm, mới trông qua Diêu trại chủ đã biết

tờng tận võ công của ông. Vậy lai lịch tại hạ thế nào cô nương thử đoán

coi!

Ngọc Yến mỉm cười đáp:

- Các hạ trổ ra cho coi một vài ngón may ra tôi có đoán được chăng? chứ

chỉ nói suông vài câu thì tôi không đoán ra đợc.

Gã hán tử gật đầu đáp:

- Đúng thế!

Đoạn gã đút tay trái vào trong áo bên phải và tay phải vào trong tay áo bên

trái, tựa như trời rét phủ tay cho ấm, nhng lúc gã rút tay ra thì trong mỗi

tay cầm một thứ khí giới. Tay trái cầm một ngọn thiết chuỳ dài chừng sáu

bảy tấc, mũi chuỳ nhọn mà có hai chỗ cong. Tay phải cầm một cây bát giác

tiểu truỳ, dài chừng một thước, đầu cây trùy này không lớn bằng nắm tay

người thường. Hai thứ binh khí này nhỏ bé xinh xắn và lóng lánh, tựa như

đồ chơi của trẻ nít. Cứ trông bề ngoài thì những thứ này dùng vào việc chiến

đấu không tiện chút nào.

Trong đám đại hán ngoài ải bắc ngồi ở phía đông trông thấy hai thứ binh

khí cổ quái này có mấy ngời phải phì cời. Một gã cời vang lên nói:

- Đây là những đồ chơi của trẻ nít ở Tứ Xuyên bày ra cho mọi ngời coi đó.

Vương Ngọc Yến nói:

- ồ đây là môn "lôi công oanh". Chắc các hạ sở trường về môn khinh công

và sử dụng ám khí. Trong sách nói "lôi công oanh" là môn độc nhất có thứ

binh khí đặc biệt của phái Thanh Thành ở Tứ Xuyên. Trong hai chữ Thanh

Thành ghép lại đem tách riêng ra thì chữ "thanh" có 18 thế, chữ "thành" có

36 thế. Toàn là những thế kỳ lạ biến trá không biết đâu mà lờng được. Phải

chăng các hạ họ Tư Mã?

Gã đứng tuổi vừa nghe lời Ngọc Yến đã biến sắc. Gã cùng hai gã phụ tá, ba

người nhìn nhau một hồi rồi mới đáp:

- Võ học nhà Mộ Dung ở Cô Tô quả là uyên thâm không ai bì kịp, tiếng

đồn thật chẳng sai. Tại hạ là T Mã Lâm xin hỏi lại cô nuơng: phải chăng

chữ "thanh" có 18 thế đánh còn chữ "thành" có 36 thế phá?

Vơng Ngọc Yến đáp:

- Các hạ nêu ra câu hỏi này là phải. Tôi cho là "thanh" phải 19 thế mới đúng

vì hai thế "bồ đề tử" và "thiết liên tử" bề ngoài tuy giống nhau nhưng cách

ứng dụng lại khác nhau xa không thể hợp vào một được. Còn 36 thế phá chữ

"thành" thì ba thế "phá giáp", "phá thuẫn", "phá bài" chẳng có gì là kỳ dị

đặc biệt nên bỏ đi mà chỉ để 33 thế mới hay.

Bọn Tư Mã Lâm nghe đoạn đều phải sửng sốt. Về chữ "thanh" họ mới học

được 11 thế đánh. Còn những thế "thiết liên tử", "bồ đề tử" gì gì đó và khác

nhau thế nào họ chẳng hiểu gì cả. Đến "phá giáp", "phá thuẫn", "phá bài" là

ba thế họ đắc ý nhất và tự cho là những tuyệt kỹ bí truyền của môn phái thì

không ngờ bị thiếu nữ lại bảo bỏ đi vì không ích gì. Họ rất kinh ngạc về sự

hiểu biết của Vơng Ngọc Yến và rất tức giận về sự chê bai ba thế phá thích

nhất của họ. Họ nghĩ thầm: "nhà Mộ Dung định làm nhục mình, thêu dệt

nên những thuyết quái quỷ nh vậy và cho một cô gái nhỏ tuổi ra liến

thoắng bịp mình". T Mã Lâm là một tay rất thâm, y vẫn giữ thái độ bình

tĩnh đáp:

- Đa tạ cô nơng chỉ giáo. Khác nào ở chỗ tối tăm đợc nhìn thấy ánh sáng?

Y trầm ngâm một lát nghĩ ra đợc một kế quay sang bảo gã phụ tá ngồi mé

tả:

- Chử s đệ! S đệ ra lĩnh giáo cô nơng đi!

Gã phụ tá mặt đầy sứt sẹo trông thật xấu xa, chừng ngoài 50 tuổi, mình đã

mặc áo bào trắng, đầu còn quấn khăn trắng, chẳng khác chi ngời vận hiếu

phục. Dới ánh sáng lờ mờ bầu không khí càng trở nên ảm đạm. Tên y là

Chử Bảo Côn, y đã biết võ rồi tìm thầy học thêm, đến làm môn hạ phái

Thanh Thành. Y lớn hơn T Mã Lâm 10 tuổi nhng nhập môn sau nên đành

làm s đệ. Bản tính y thâm trầm, đến T Mã Lâm cũng không hiểu lai lịch

y. Có hỏi thì y trả lời một cách hàm hồ. T Mã Lâm chỉ biết đại khái là y võ

công rất giỏi không kém gì mình mà thôi. Giờ sai ra hỏi Vơng Ngọc Yến

tởng đã đắc sách: nếu Vơng Ngọc Yến không biết gốc tích y thì làm cho

đối phơng mất kiêu ngạo, mà Ngọc Yến có biết rõ lai lịch thì cũng giải

đợc mối hoài nghi cho mình từ trớc tới nay.

Chử Bảo Côn đứng lên, thò tay vào trong tay áo, lấy ra hai thứ binh khí: một

ngọn chuỳ ngắn và một cây búa nhỏ cũng giống hệt binh khí "lôi công

oanh" của Tư Mã Lâm rồi nói với Ngọc Yến:

- Xin cô nương chỉ điểm cho!

Những người xung quanh đều mắng thầm: "binh khí của mi chẳng khác gì

binh khí của Tư Mã Lâm, cô gái này đã hiểu rõ Tư Mã Lâm chẳng lẽ lại

không biết mi hay sao?".

Vương Ngọc Yến cũng đáp:

- Các hạ đã sử dụng binh khí "lôi công oanh" thì dĩ nhiên cũng trong phái

Thanh Thành chứ gì?

Tu Mã Lâm nói ngay:

- Chử s đệ đây đã biết võ nghệ rồi mới đến Thanh Thành nhập môn. Gốc

tích y ở môn nào xin cô nương chỉ thị cho.

Ngọc Yến nghĩ thầm: "vấn đề này nan giải đây". Nàng chưa kịp đáp thì Tần

trại chủ Diêu Bá Đương ngồi bên kia đã cướp lời:

- Tư Mã chởng môn! Chởng môn yêu cầu cô nơng nói rõ bộ mặt ngày

trớc của lệnh s đệ là có ý gì vậy? Tôi thấy điều ấy thật vô thú vị.

Tu Mã Lâm ngạc nhiên hỏi:

- Sao lại vô thú vị?

Diêu Bá Đương cười châm chọc:

- Bộ mặt của lệnh sư nay đã chạm trổ tinh vi, thế thì còn gì để mà khảo cứu

ra được cái dĩ vãng của nó nữa?

Bọn đại hán ngồi đầu phía đông nghe Diêu Bá Đương nói nhìn lại mặt Chử

Bảo Côn thấy đầy sứt sẹo tức thời cời vang lên. Tiếng cười to đến nỗi

những ngọn đèn lửa phải tạt đi tạt lại. Chử Bảo Côn bản tính thâm độc. Bình

nhật y ghét cay ghét đắng kẻ nào cười y mặt rỗ sứt sẹo. Người nào vô ý nhìn

mặt y nhng giữ mặt thản nhiên nh không chú ý thì không sao, bằng lộ vẻ

kinh dị hoặc chau mày, nhăn mặt ra vẻ khó chịu thì y phải làm người đó

thành sống giở chết giở mới nghe. Bây giờ y nghe Diêu Bfá Đương công

nhiên chế diễu mình trước mặt mọi ngời thì nhịn sao đợc? Hơn nữa mặt

mũi y đã xấu lại ở trước mặt một bọn nam nữ thanh lịch trách nào y chẳng

căm hận những người cứ hau háu nhìn y? Thế là y chẳng nể mặt Diêu Bá

Đơng vừa là một vị anh hào đất bắc vừa là một vị trại chủ, tay trái y cầm

mũi cơng chuỳ nhắm thẳng phía trước Diêu Bá Đương, tay phải cầm mẩu

dây buộc ở đuôi chuỳ phóng mạnh ra đánh véo một tiếng nh xé bầu không

khí bắn đến trớc ngực Diêu. Diêu Bá Đương tuy đã biết trớc mình buông

lời chế diễu tất đối phơng chẳng chịu để yên nhng không ngờ đối phơng

hạ độc thủ phóng ám khí lanh nh thế. Trong lúc nguy cấp, không kịp rút

đao ra gạt vội cầm cái đế đèn trên bàn nhằm ám khí đánh bật lại. Một tiếng

"keng" vang dội ám khí bắn lên trần nhà. Nhìn ra thì là một mũi cơng

châm tuy nó chỉ dài hơn ba tấc nhng sức mạnh vô cùng. Chả thế mà nó

đụng vào đế đèn làm cho hổ khẩu Diêu Bá Đơng phải tê nhức, đế đèn rơi

xuống đất. Bọn Tần trại gia vừa rút đao ra loảng xoảng vừa la lên:

- Dùng ám khí hại ngời, thật là đồ hèn nhát.

Một gã béo ỵ còn văng những câu tục ra chửi mắng thậm tệ. Mọi ngời bên

Thanh Thành nguyên thuộc môn hộ "âm dơng quái khí" vẫn nín thinh.

Quần hào Tần gia trang muốn chửi mắng thế nào thì chửi họ cũng lờ đi như

không nghe tiếng.

Diêu Bá Đương để rơi cái đế đèn xuống đất, theo quy củ võ lâm thế là thua

một đòn rồi. Lão nghĩ bụng: "võ công bên đối phơng có nhiều tà đạo mà

bên mình chỉ biết đem gơm đao ra tranh đấu một cách quang minh chính

đại. Cứ như lời tiểu cô nưng đây vừa nói thì 18 thế thuộc về chữ "thanh"

tựa hồ những thế đánh này có điều ám muội bên trong, bọn mình chỉ sơ ý

một tý là bị chúng ám toán.

Nghĩ vậy Diêu Bá Đương khoát tay ra hiệu cho đồng đảng yên lặng rồi hỏi

Chử Bảo Côn:

- Vừa rồi Chử huynh đệ cho ra một đòn cực kỳ lợi hại, cái đòn hiểm độc đó

gọi là gì vậy?

Chử Bảo Côn chỉ cười khành khạch chứ không trả lời. Gã đại hán béo ỵ bên

Tần trại gia nói móc:

- Chắc gọi là đòn "ám tiến hại người, cần chi thể diện?".

Mấy gã khác cũng nhao nhao lên mạt sát Chử Bảo Côn. Ngọc Yến thấy vậy

lắc đầu lên tiếng bằng một giọng êm ái:

- Diêu trại chủ! Trại chủ có điều lầm lỗi rồi.

Diêu Bá Đơng hỏi:

- Cô nơng bảo sao?

Ngọc Yến đáp:

- Bất luận là ai khó lòng giữ cho thân thể khỏi bị tàn tật. Có người vì bệnh

hoạn mà tàn tật, người thì sơ ý té một cái cũng có thể bị què chân. Giao

chiến với người khác, không địch nổi cũng có thể bị đui mắt, cụt tay là

thờng. Bạn hữu trong võ lâm, thân thể bị tổn thơng phỏng có chi là lạ? Có

phải thế không trại chủ?

Diêu Bá Đơng chỉ đáp gọn một tiếng:

- Vâng

Ngọc Yến lại nói:

- Chử gia đây thuở nhỏ bị bệnh, thân thể thành vết ngấn thì có gì đáng cời?

Bàn về nhân phẩm các bậc kỳ nam tử đại trợng phu thì thứ nhất là đạo đức,

thứ hai là tài năng sự nghiệp, thứ ba là văn học võ công. Chử gia đây có

phải giả trang làm đàn bà đâu, vậy thì dong mạo có tuấn tú hay không cũng

chẳng can hệ gì.

Diêu Bá Đương bị Vương Ngọc Yến dồn cho một hồi, câm họng không còn

biết nói sao, đành cuời khà khà đáp:

- Tiểu cô nuơng nói thật đúng lý. Đã thế thì xin lỗi Chử huynh đệ về câu nói

diễu cợt vừa rồi.

Ngọc Yến mỉm cời nói:

- Lão gia thản nhiên nhìn nhận lỗi mình, đủ biết nư người là bậc quang minh

lỗi lạc.

Nàng quay lại lắc đầu nói với Chử Bảo Côn:

- Đừng hành động nữa! cái đó vô dụng!

Nàng nói câu này với nét mặt ôn nhu, lại có vẻ về bè với Chử, tựa hồ chị

khuyên em trong lúc vội giận mất khôn. Lời nói của nàng ngụ ý cực kỳ thân

thiết.

HỒI 33

Vương cô nương liệu địch như thần

Lời Vương Ngọc Yến nói với Chử Bảo Côn, người ngoài cố nhiên không

hiểu mà chính Chử Bảo Côn bóp óc cũng không nghĩ ra. Còn những lời biện

giải của nàng: "Những nhân vật võ lâm trong người có thơng tích là việc

thông thường, như cơm bữa. Những bậc kỳ nam tử đại trợng phu phải lấy

phẩm cách sự nghiệp làm đầu". Luận điệu đó đã làm cho y hết sức hể hả, vì

trong đời y từ trước tới giờ, trong lòng lúc nào cũng buồn bực về cái bộ mặt

rỗ chằng rỗ chịt của mình mà chưa từng được ai biện hộ cho mình một cách

thành khẩn và hữu lý nh thế! Khi nghe nàng nói đến câu: "Đừng hành động

nữa, cái đó vô dụng", y không hiểu ra sao nên hỏi lại:

- Cô nương nói gì vậy?

Trong bụng y nghĩ thầm:

- Chắc nàng cho miếng "Thiên Vương Bổ Tâm Châm" của ta không thi hành

được và vô dụng đây. Nàng có biết đâu trong chiếc chùy của ta có cả thảy

12 mũi châm kia mà? Nếu phát ra liên tiếp, thì tánh mạng lão già đã đi đứt

từ lâu rồi. Chính ra ta giết chết lão lúc nào mà chả được, chỉ vì trước mặt Tư

Mã Lâm, nên ta không muốn tiết lộ bí mật mà thôi. Vương Ngọc Yến đáp:

- Miếng "Thiên Vương Bổ Tâm Châm" của Chử gia quả là một thứ ám khí

rất bá đạo... Chử Bảo Côn giật mình đánh thót một cái, rú lên:

- Chà!

Tư Mã Lâm và ba vị cao thủ khác trong phái Thanh Thành nghe tới "Thiên

Vơng Bổ Tâm Châm" đều sửng sốt cất tiếng hỏi: - Cô nơng bảo sao?

Chử Bảo Côn biến sắc, đánh trống lảng:

- Cô nương nói sai rồi. Đó không phải là "Thiên Vương Bổ Tâm Châm" mà

là ám khí của phái Thanh Thành chúng tôi, tên gọi "Thanh Phong Đinh"

đòn đánh thứ 7 trong các đòn thuộc chữ "Thanh". Ngọc Yến tủm tỉm cời

đáp:

- "Thanh Phong Đinh" không những về hình thức bên ngoài giống thế, mà

về thủ pháp cũng như khí cụ dùng để phát ra, "Thiên Vương Bổ Tâm Châm"

với "Thanh Phong Đinh" hoàn toàn giống nhau. Song có điều về tính chất

căn bản của ám khí, không căn cứ ở hình thức bên ngoài và cách phát xạ,

mà phải căn cứ vào kình lực và khí thế. Khi phát ra một mũi phi tiêu, mỗi

người có một thủ kình riêng, phái Thiếu Lâm ra phái Thiếu Lâm, phái Hoa

Sơn ra phái Hoa Sơn, không thể miễn cưỡng làm cho giống nhau được, ám

khí đó của ngươi là... Ngọc Yến chưa dứt lời, đã thấy Chử Bảo Côn sát khí

đằng đằng, thốt nhiên chiếc cương chùy cầm ở tay trái đưa lên ngang trước

ngực, chỉ còn cầm chuôi chùy bật một cái, tức thời những mũi cương châm

ở trong sẽ bắn thẳng vào Ngọc Yến.

Chử Bảo Côn tuy là người rất hiểm ác, song thấy Ngọc Yến kiều diễm như

thế, vẫn không sao đang tay hạ sát được. Y lại nghĩ tới những lời nàng vừa

biện giải bênh mình. Vì không đang tâm giết nàng để bịt miệng, y chỉ quát:

- Cô nương! Đừng có nhiều lời nữa mà tự mang lấy họa vào thân.

Ngọc Yến mỉm cười đáp:

- Ngươi không hạ thủ giết ta, ta cũng cảm ơn. Nhưng dù ngươi có hạ

thủ cũng vô dụng. hai phái Thanh Thành và Bồng Lai, đời đời cừu thù nhau.

Cái việc mà ngươi định mưu đồ đó, trước đây hơn 80 năm, Hải Phong Tử

đạo trưởng, vị chương môn thứ bảy của quý phái, đã từng thử qua rồi. Tài

năng cũng như võ công của ông, e rằng chẳng kém gì các hạ đâu. Đoàn Dự,

A Châu, A Bích, Diêu Bá Dương và Tư Mã Lâm thấy đầu chiếc cương chùy

của Chử Bảo Côn lăm lăm chĩa đúng vào trước ngực Vương Ngọc Yến, ai

nấy đều run sợ thay cho nàng.

Cứ xem như lúc nãy Chử Bảo Côn phóng cương châm nhằm bắn Diêu Bá

Dương, thế đi rất mau, kình lực rất mạnh, không một ám khí nào sánh kịp,

rõ ràng là bên trong chiếc chùy đó có đặt máy móc, chứ sức người thì không

thể nào mạnh được thế. Cũng may mà Diêu Bá Dương mắt sáng tay nhanh,

nên mới thoát chết. Nếu y mà nhằm bắn vào Ngọc Yến, một vị cô nương

yêu kiều non nớt như thế, thì làm sao mà tránh kịp? Mọi người đều nhận

thấy nguy cơ ngay trước mắt, mà Ngọc Yến vẫn thản nhiên như không,

miệng lại còn kể ra một chuyện đại bí mật trong võ lâm.

Những nhân vật cao thủ trong phái Thanh Thành, người nào cũng chằm

chặp nhìn vào Chử Bảo Côn, đầy vẻ nghi hoặc, họ tự hỏi: - Có lẽ y là môn

hạ phái Bồng Lai, kẻ tử thù đối đầu của phái Thanh Thành, đã trà trộn vào

nội bộ của chúng ta chăng? Sao y lại nói toàn tiếng Tứ Xuyên? Mà không

thổ lộ một câu nào bằng tiếng thổ âm Sơn Đông nhỉ? Nguyên phái Bồng Lai

ở trên bán đảo Sơn Đông, hùng bá cả miền Đông Hải. Phái Thanh Thành thì

ở Tứ Xuyên. Tuy một phái ở phía Đông, một phái ở phía Tây, xa cách riêng

biệt nhau, song từ hơn trăm năm trước đây, đồ đệ của hai phái đã gây thù

kết oán tại huyện Tấn Dương tỉnh Sơn Tây. Rồi từ đấy, báo thù lẫn nhau,

gây nên thảm họa chém giết, không gỡ ra được nữa. Cả hai phái đều có

những võ công tuyệt diệu để cùng khắc chế lẫn nhau. Ngày xa đệ tử trong

hai phái gây thù kết oán cùng nhau, chỉ vì tranh luận võ công mà gây ra.

Trước sau mấy chục lần đại chiến, chém giết thê thảm, nhưng rồi kết cục

chẳng phái nào thắng phái nào, và cả hai bên đều bị tổn thương nặng nề.

Hải Phong Tử, người mà Ngọc Yến vừa nhắc tới, là một nhân tài kiệt xuất

trong phái Bồng Lai. Sau khi tham khảo, nghiên cứu kỹ càng những sở

trườøng sở đoản và ưu khuyết điểm về võ công hai phái, ông nhận thấy võ

công của ông bấy giờ có thể hơn phái Thanh Thành, nhưng ông vẫn lo sau

khi ông qua đời rồi, biết đâu trong phái Thanh Thành lại chẳng sản xuất ra

những bậc thông minh tài trí, mà tiến vượt hơn phái mình. Vì muốn tìm

cách mất công một lần mà yên ổn lâu dài, nên ông phái một tên đồ đệ xuất

sắc nhất, trà trộn vào hàng ngũ phái Thanh Thành để học trộm võ công,

mong sau này gã sẽ trở thành kẻ biết người biết mình, trăm trận đánh trăm

trận thắng.

Nhưng tên đồ đệ đó chưa học được thành tài đã bị bại lộ hành tông và bị

phái Thanh Thành đem ra xử tử tức khắc. Do việc đó mà hai phái lại khơi

thêm hố cừu thù, và càng tăng thêm sự giới bị phòng ngừa đối phơng sai

người tới học trộm võ công của bản phái. Trong thời gian mấy chục năm từ

đó, phái Thanh Thành quy định: Không thu nhận đồ đệ người Bắc phương.

Những người nào tiếng nói đá giọng Bắc phương, chẳng cứ gì là người Sơn

Đông, mà ngay người Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Tây, hay Thiểm Tây, cũng đều

không thu nhận. Gần đây, quy luật lại còn nghiêm ngặt hơn, tức là không

thu nhận bất cứ một ai ở các nơi khác, ngoài địa hạt Tứ Xuyên.

"Thanh Phong Đinh" là môn ám khí độc đáo của phái Thanh Thành cũng

như "Thiên Vương Bổ Tâm Châm" là võ công đặc biệt của phái Bồng Lai.

ám khí của Chử Bảo Côn phát xuất lúc nãy chính là "Thanh Phong Đinh"

mà Vương Ngọc Yến lại gọi là "Thiên Vương Bổ Tâm Châm", khiến cho tất

cả những nhân vật phái Thanh Thành ở đây đều kinh sợ vô cùng. Quy luật

của phái Bồng Lai cũng nghiêm ngặt không kém phái Thanh Thành, chỉ thu

nhận đồ đệ người tỉnh Sơn Đông, mà cùng trong tỉnh này, họ lại chỉ ưa kén

chọn người Lỗ Đông thôi. Người Lỗ Tây và Lỗ Nam muốn được thu nhận

vào làm môn hạ phái Bồng Lai thì thiên nan vạn nan.

Khi người ta đã hóa trang cải dạng, thì người ngoài khó mà khám phá ra

được. Song về thổ âm, trăm nghìn câu thế nào cũng bị lộ tẩy một câu. Chử

Bảo Côn là con nhà thế gia đại tộc ở Tây Xuyên, làm thế nào lại gia nhập

được vào làm môn hạ phái Bồng Lai? Đó là một sự kỳ quặc không ai ngờ.

Tư Mã Lâm tuy muốn dò xét xem Chử Bảo Côn chính là đồ đệ của ai,

chẳng qua là do bản tính hiếu kỳ, chứ chẳng có ác ý gì. Người kinh hoảng

nhất trong bọn lại chính là Chử Bảo Côn. Nguyên sư phụ của Chử Bảo Côn

là Đô Linh Tử đạo nhân. Thời kỳ đạo nhân hãy còn nhỏ tuổi bị phái Thanh

Thành chơi cho một vố đau, nên cố ý mưu toan báo phục. Về sau ông nghĩ

ra một kế, sai người giả dạng làm kẻ cướp Giang Dương, lẻn vào nhà họ

Chử ở Quán Huyện, bắt trói gia chủ rồi còn toan cưỡng hiếp cả hai cô con

gái. Đô Linh Tử đợi sẵn bên ngoài, tới lúc nguy cấp dường như ngàn cân

treo sợi tóc, Đô Linh Tử mới nhảy vào đánh đuổi hết bọn cướp giả mạo.

Nhà họ Chử xiết bao cảm kích coi Đô Linh như bậc thần thánh. Đô Linh Tử

liền thừa cơ hội khuyên nhủ:

- Nếu không có võ nghệ cao cường, thì dù có gia tài trăm vạn cũng khó lòng

tránh khỏi quân gian khi có biến. Tôi xem những quân cướp này, chính là

người trong phái Thanh Thành ở địa phương này. Bữa nay chúng bị thất bại,

lần sau tất chúng sẽ đem toàn lực tới cướp nữa. Họ Chử là một nhà rất được

trọng vọng ở địa phương này. trong nhà có mời võ s ưtới bảo vệ, nay được

mục kích các võ sư vừa bị quân cướp đánh cho mấy quyền cước đã té quay

ra, lại nghe nói quân cướp còn tới nữa, hồn vía lên mây, hết sức năn nỉ Đô

Linh Tử lu lại. Đô Linh Tử cũng từ chối lấy lệ, đợi cho gia chủ van vỉ mãi

mới giả bộ miễn cưỡng nhận lời. Đô Linh Tử xếp đặt sẵn kế hoạch từ trước,

ông đã nhằm Chử Bảo Côn, con gia chủ, là một đứa nhỏ có căn cốt rất tốt,

có khả năng học võ nghệ. Thế là ông cứ tiến hành kế hoạch bước dần từng

bước một. Không bao lâu, ông chính thức nhận Chử Bảo Côn làm đồ đệ.

Ngoại trừ việc dụng ý thâm hiểm để gây thêm oán thù với phái Thanh

Thành, Đô Linh Tử cũng không có bản tính gì là thâm độc, về võ công lại

rất cao cường. Ông dặn nhà họ Chử phải đề phòng rất nghiêm mật, và ngấm

ngầm dạy Chử Bảo Côn luyện tập võ nghệ. Sau mười năm, Chử Bảo Côn đã

trở thành một nhân vật thứ nhất thứ nhì trong phái Bồng Lai. Đô Linh Tử là

người cực kỳ nhẫn nại. Từ ngày lưu trú ở Chử Gia Trang, ông liền giả làm

người câm. Thủy chung không nói với ai lấy nửa lời. Trong lúc dạy võ, ông

chỉ toàn viết chữ, tuyệt nhiên không nói một câu thổ âm Sơn Đông nào cả.

Vì thế mà ông cùng Chử Bảo Côn, hai thày trò gần gũi suốt mười mấy năm

trời, Chử không hề biết là thày giả câm. Mãi tới lúc Chử Bảo Côn đã thành

tài, Đô Linh Tử mới viết rõ nguyên ủy những tiền nhân hậu quả giữa phái

Thanh Thành và phái Bồng Lai, dĩ nhiên việc sai người giả dạng làm quân

cướp thì ông giấu kín không nhắc tới, để tùy đồ đệ tự quyết.

Suốt thời gian mười năm, ân trạch của Đô Linh Tử đối với Chử Bảo Côn đã

quá thâm hậu, ông đem hết võ công của phái Bồng Lai dốc ra truyền thụ

cho đồ đệ. Chử Bảo Côn vô cùng cảm kích, nên sau khi nghe rõ ý chí của sư

phụ, liền xin gia nhập vào làm môn hạ Tư Mã Vệ ở phái Thanh Thành. Tư

Mã Vệ là phụ thân Tư Mã Lâm. Lúc đó, Chử Bảo Côn đã khá lớn, hơn nữa

y lại tự giới thiệu là đã học qua mấy đường quyền cước do võ sư ở trong nhà

dạy, nên Tư Mã Vệ có ý không muốn thu nhận. Song vì họ Chử là một nhà

đại tài chủ ở Xuyên Tây. Nhiều tiền lại sẵn thế lực. Thanh Thành tuy là một

phái võ, nhưng cơ sở chính lại ở Xuyên Tây. Vì không muốn mất hòa khí

với một hào môn địa phương, hơn nữa được một đồ đệ người họ Chử càng

tăng thêm thanh thế cho bản phái, nên Tư Mã Vệ thu nhận Chử Bảo Côn

làm đồ đệ. Sau khi truyền dạy võ nghệ cho Chử Bảo Côn được ít lâu. Tư Mã

Vệ cũng nhận thấy võ công của y không phải là tay tầm thường, ông có

gặng hỏi mấy lần. Chử Bảo Côn cũng chỉ tìm lời chống chế cho xuôi

chuyện.

Tư Mã Vệ vẫn nể mặt phụ thân y, nên không bức bách quá, ông cũng cho là

hạng công tử nhà giàu mà học được võ công như thế cũng không phải là

chuyện dễ. Chử Bảo Côn trước khi xin gia nhập làm môn hạ phái Thanh

Thành y đã từng được Đô Linh Tử dặn dò cặn kẽ, cần phải gia tâm nghiên

cứu rèn luyện các môn võ của phái Thanh Thành. Mỗi năm gặp những ngày

tuần tiết, Chử Bảo Côn mang lễ vật rất hậu kính thầy và tặng sư huynh cùng

bạn hữu. Sư phụ cần dùng gì, y đều chiều theo ý muốn tức khắc. Nhờ ở gia

tư hào phú, nên y làm việc gì cũng được chu đáo. Tư Mã Vệ yêu quí y vô

cùng, đem hết võ công truyền thụ cho không giấu giếm tý gì, vì thế mà Chử

Bảo Côn không kém gì Tư Mã Lâm, đều học được hết những môn sở trường

của Tư Mã Vệ.

Trước đây ba bốn năm, Đô Linh Tử sai y xuất du tới núi Bồng Lai, biểu

diễn lại những môn võ của phái Thanh Thành để biết hết những điều bí điệu

trong võ công bên địch, rồi sau mới quyết định đánh một trận để phá tan

phái Thanh Thành. Song Chử Bảo Côn mấy năm làm môn hạ phái Thanh

Thành, cảm thấy Tư Mã Vệ rất hậu tình đối với y, trong những lúc truyền

thụ võ nghệ, ông coi y như con đẻ. Nên bây giờ y nghĩ việc mình ra tay tiêu

diệt cả phái Thanh Thành, giết toàn gia Tư Mã Vệ, trong lòng rất là bất

nhẫn. Y mới ngấm ngầm quyết định, đợi sau khi Tư Mã Vệ qua đời rồi, y

mới ra tay. Còn Tư Mã Lâm sư huynh đối với y cũng bình thường, dù giết đi

cũng chẳng có gì đáng kể. Vì thế nên y trùng trình thêm mấy năm nữa. Đô

Linh Tử đã mấy lần thôi thúc. Chử Bảo Côn đều tìm cách thoái thác. Y nói:

- Xét về 18 thế đánh ở chữ "Thanh" hình như chưa đủ, mà 36 thế phá ở chữ

"Thành" tựa hồ còn có bí quyết riêng nữa. Đô Linh Tử đã tốn bao nhiêu tâm

huyết, khi nào lại không theo đuổi đến cùng.

Mùa thu năm ngoái, thốt nhiên xảy ra một việc không ai tưởng tượng được.

Tư Mã Vệ bị tử thương tại miền phụ cận thành Bạch Đế, do một người bí

mật nào đó dùng thế "Phá Nguyệt Chùy", một trong 36 thế phá thuộc chữ

"Thành" đánh thủng màng tai, vào sâu tới óc. Thế võ này tuy mang tên chữ

"chùy" (cái dùi) nhưng kỳ thực không phải là dùng dùi sắt, mà chỉ là chụm

5 đầu ngón tay lại thành hình cái dùi nhọn phóng tới, rồi dùng nội lực hùng

hậu đâm thủng màng tai đối phương.

Người ta sở dĩ đứng được ngay ngắn vững vàng là nhờ ở cái màng hình bán

nguyệt trong người, nó có công dụng làm cho thân thể được thăng bằng.

Nếu bị trúng gió, chảy nước mắt nước mũi ra nhiều, hơi thở ở mũi khích

động quá mạnh, đụng tới màng bán nguyệt, tức thời toàn thân bị choáng

váng. Sức nội kình do "Phá Nguyệt Chùy" phát ra cốt làm cho rung động

mạnh để phá thủng màng bán nguyệt. Về thủ pháp đã độc ác mà lúc sử

dụng phải cực kỳ linh hoạt, xảo trá, đột nhiên đánh ra, thì dẫu đối phương

võ công có cao cường hơn, nhng cũng khó mà kháng cự kịp.

Được tin Tư Mã Vệ tử thương. Tư Mã Lâm và Chử Bảo Côn từ Thành Đô đi

suốt ngày đêm tới nơi phụ cận thành Bạch Đế. Sau khi điều tra thương tích,

họ biết rằng Tư Mã Vệ bị trúng "Phá Nguyệt Chùy", một thế võ tuyệt diệu

của bản phái. Hai người vừa kinh ngạc vừa đau xót. Sau một hồi xuy luận,

đều cho rằng: Người trong bản phái biết sử dụng "Phá Nguyệt Chùy" ngoài

Tư Mã Vệ, chỉ có Tư Mã Lâm, Chử Bảo Côn, và hai vị cao thủ kỳ cựu nữa

thôị Nhưng trong lúc biến cố xảy ra thì cả bốn người cùng ở với nhau một

chỗ tại Thành Đô, nên họ không có hiềm nghi gì nhau cả. Thế thì ai là hung

thủ giết Tư Mã Vệ? Chắc chỉ có Cô Tô Mộ Dung hay dùng lối "Gậy Ông

Đập Lưng Ông". Ngoài ra không còn ai có đủ tài làm được thế.

Thế là phái Thanh Thành chiêu tập tất cả những nhân vật cao thủ kéo tới Cô

Tô tìm Mộ Dung để thanh toán món nợ máu. Trước khi đi, Chử Bảo Côn đã

hỏi ngầm Đô Linh Tử về vụ án này có phải người phái Bồng Lai đã dúng

tay vào không?

Đô Linh Tử dùng bút viết:

- Võ công Tư Mã Vệ với ta cũng ngang nhau thôi. Nếu một mình ta mà

dùng cách ám toán, thì chỉ dùng môn "Thiên Vương Bổ Tâm Châm" cũng

đủ giết chết đối phương. Còn nếu nhiều người vây đánh, thì phải dùng

"Thiết Quài Trâu" của bản phái. Chử Bảo Côn cho là rất đúng, y đã biết rõ

bản lãnh của hai sư phụ không ai hạ nổi ai. Nếu nói là dùng "Phá Nguyệt

Chùy" để giết Tư Mã Vệ, thì đừng nói là Đô Linh Tử không biết dùng thế

đó, mà dù có biết chăng nữa, cũng không thể thắng được Tư Mã Vệ. Thế là

Chử Bảo Côn không còn hoài nghi gì nữa, theo luôn Tư Mã Lâm đến Giang

Nam để báo thù.

Đô Linh Tử cũng không ngăn cản, chỉ ân cần dặn y việc gì cũng nên cẩn

thận, cần sao cho thêm lịch duyệt, rộng kiến văn, đừng để đến nỗi phải chết

uổng mạng dưới tay phái Thanh Thành. Khi đến Cô Tô dò hỏi tin tức, họ tới

"Thính Hương Tinh Xá" một cách rất dễ dàng. Không ngờ bọn Tần Gia Trại

ở Vân Châu đã đến đó trước.

Kỷ luật của phái Thanh Thành rất nghiêm ngặt. Nếu không có hiệu lệnh của

chưởng môn nhân, thì bất cứ ai cũng không được nói bừa làm ẩu, nên phái

này thấy bọn cướp Tần Gia Trại lộn xộn như thế, họ rất lấy làm bất mãn.

Phái Thanh Thành dốc chí vào việc báo cừu, nên lúc ở "Thính Hương Tinh

Xá", cây cỏ cũng không hề động đến, ho tự mang lương khô đi để dùng.

Cũng vì thế mà người phái Thanh Thành đi đâu cũng không bị mất thể diện.

Không ngờ Vương Ngọc Yến và bọn A Châu đột nhiên về tới nơi, khiến cho

sự tình biến diễn một cách kỳ dị ngoài tưởng tượng của mọi ngườị Chử Bảo

Côn theo đúng thủ pháp của phái Thanh Thành để phóng "Thanh Phong

Đinh". Ngay hồi còn sinh tiền, Tư Mã Vệ cũng không mảy may nghi ngờ.

Thế mà tự miệng Vương Ngọc Yến nói toạc ra, khiến cho Chử Bảo Côn

trong lúc sửng sốt không kịp phòng ngừa, tuy y muốn giết nàng để bịt

miệng, nhưng vì lòng bất nhẫn, không nỡ hạ thủ, thành ra bị lỡ. Chử Bảo

Côn nghĩ thầm:

- Năm chữ "Thiên Vương Bổ Tâm Châm" đã lọt vào tai bọn Tư Mã Lâm rồi,

dù ta có giết Ngọc Yến cũng vô ích, lại càng tỏ ra là có tật giật mình. Y hồi

tưởng lại câu nàng biểu, cái việc ta đang mưu đồ đây thì từ 80 năm về trước,

chương môn nhân thứ bảy của bổn phái là Hải Phong Tử đã từng thử làm rồị

Tài năng và võ công người còn giỏi hơn ta. Sau nàng lại biểu: "Đừng hành

động nữa, cái đó vô dụng". Phải chăng Tư Mã sư phụ đã không đem những

môn tuyệt nghệ của phái Thanh Thành ra dạy ta một cách đến nơi đến

chốn? Phải chăng lúc ta xin nhập vào hàng ngũ phái Thanh Thành, Tư Mã

sư phụ đã khám phá được điều bí ẩn của ta, mà không muốn nói ra, và ta

vẫn ngốc nghếch chẳng biết gì? Những người phái Thanh Thành biết rõ ta là

gian tế, sẽ đối phó với ta ra sao? Từ đây thanh danh ta ở trong võ lâm chắc

là mất hết. Chử Bảo Côn càng nghĩ đầu óc càng rối loạn. Y quay đầu lại

thấy Tư Mã Lâm và mọi người hai mắt đều trừng trừng nhìn mình và hai tay

đều thủ vào trong tay áo.

Chương môn nhân phái Thanh Thành là Tư Mã Lâm lạnh lùng nói:

- Chử gia, nguyên trước ngươi là người trong phái Bồng Lai ?

Chử Bảo Côn tỏ vẻ lúng túng, thừa nhận cũng không được mà phủ nhận

cũng không xong. Tư Mã Lâm lại nói tiếp:

- Mi chui vào tận tổ phái Thanh Thàn, để học môn võ tuyệt chiêu "Phá

Nguyệt Chùy". Sau khi học được rồi, mi liền lấy tiên phụ ta để thí nghiệm,

mi là đứa lòng lang dạ thú như thế, thực là ác độc! Tư Mã Lâm nói dứt lời,

hai tay duỗi thẳng ra, mỗi tay đều cầm một chiếc binh khí.

Tư Mã Lâm cho là bao nhiêu tuyệt kỹ của bản phái bị Chử Bảo Côn học

trộm hết, rồi y trở về truyền thụ lại cho những tay cao thủ phái Bồng Lai.

Lúc phụ thân mình bị giết, tuy đúng là Chử Bảo Côn có mặt ở Thành Đô,

nhưng cũng là âm mưu của y. Người phái Bồng Lai đã học được thủ pháp,

đương nhiên là họ có thể gia hại Tư Mã Vệ bất cứ lúc nào. Chử Bảo Côn

xám mặt lại. Y tự nghĩ sư phụ Đô Linh Tử sở dĩ cho y trà trộn vào phái

Thanh Thành quả là có dụng ý nh thế thực. Song mãi tới ngày nay, y chưa

hề tiết lộ với ai một chút võ công nào của phái Thanh Thành. Nay sự tình đã

xảy ra thế này, dầu rằng trăm miệng khôn phân lẽ nào? Xem chừng cuộc ác

chiến sắp xảy ra đến nơi rồi. Đối phương người nhiều thế mạnh, võ công

của Tư Mã Lâm và hai vị cao thủ khác nữa đều ngang sức với mình cả, hôm

nay khó lòng tránh khỏi cuộc đổ máu. Chử Bảo Côn nghiến hai hàm răng lại

tử nhủ:

- Mình tuy chưa làm việc đó, nhưng lòng phản thày đã có từ lâu, dù bị phái

Thanh Thành giết cũng là đáng tội. Vì nghĩ trong lòng như vậy nên Chử Bảo

Côn chỉ trả lời:

- Tư Mã sư phụ nhất quyết không phải là tôi sát hại...

Tư Mã Lâm quát:

- Cố nhiên là không phải tự tay mi giết, nhưng mà mi truyền võ công cho kẻ

khác giết. Thế thì phỏng khác gì chính tay mi hạ sát? Tư Mã Lâm lại quay

sang nói với hai ông già:

- Khương sư thúc và Mạnh sư thúc! Đối với tên bạn đồ này bất tất phải theo

quy luật võ lâm. Chúng ta phải hợp lực lại để giết y. Hai ông già gật đầu và

cũng duỗi thẳng hai tay, rút binh khí từ trong tay áo ra, người nào cũng tay

trái cầm chùy, tay phải cầm búa, đứng vây hai bên. Chử Bảo Côn lùi lại mấy

bước đứng tựa lưng vào chiếc cột lớn trong sảnh, để tránh khỏi cái thế trước

sau đều bị uy hiếp.

Tư Mã Lâm hô lớn:

- Ta giết đứa bạn đồ để báo thù cho cha!

Nói vừa dứt tiếng, Tư Mã Lâm xông thẳng lại nhằm đỉnh đầu Chử Bảo Côn

đánh luôn một chùy. Chử Bảo Côn nghiêng người tránh, và dùng tay trái

đánh trả lại một trùy. Ông già họ Khương quát:

- Đứa bạn đồ kia? Mi còn mặt mũi nào mà sử dụng võ công của bản phái?

Ông vừa quát vừa dùng tay trái đâm chùy vào cổ họng đối phương. Tay phải

cầm cây búa nhỏ dùng thế "Phượng Điểm Đầu" gõ luôn ba búa vào đầu đối

phương. Bọn người ở Tần Gia Trại thấy họ sử dụng tiểu chùy một cách rất

thuần thục, và phép đánh cũng rất kỳ lạ. Chúng đều động tính hiếu kỳ nhìn

xem không chớp mắt. Diêu Bá Dương cùng những tay cao thủ đều gật gù

khen thầm:

- Phái Thanh Thành tiếng tăm lừng lẫy Xuyên Tây, thực xứng đáng lắm.

Bị ba người vây đánh, Chử Bảo Côn đỡ bên trái thì hở bên phải. Y cố gượng

cầm cự, trong khoảng khắc đã thấy rõ cơ nguy. Tư Mã Lâm căm phẫn, nóng

lòng muốn báo thù cho cha, thế đánh dồn dập rất mãnh liệt. Chử Bảo Côn

không tài nào chống lại được. Hai ông già họ Khương và họ Mạnh dùng

toàn những thế "Ôn", "Ngân", "Âm", "Độc", tức là 4 bí quyết lớn trong võ

công phái Thanh Thành. Dùi đâm búa đánh. mỗi lần ra tay đều nhằm vào

những chỗ yếu hại của đối phương. Những chiêu số và binh khí của ba

người sử dụng, Chử Bảo Côn đều thuộc lòng cả. Vừa ra đòn này, y có thể

suy biết ba bốn đòn kế tiếp và biến hóa ra sao rồi, nhờ thế nên một người

chống ba mà vẫn cầm cự được.

Chống đỡ được hơn mười hiệp, Chử Bảo Côn đột nhiên cảm thấy trong lòng

bứt rứt và thầm nghĩ: - Tư Mã sư phụ quả thực không bạc đãi mình. Cứ xem

những chiêu thức mà hai sư thúc sử dụng đây, không có một thế nào là

mình không hiểu rõ. Trong lúc luyện tập hay biểu diễn, họ còn có thể cố ý

giấu giếm không lộ những thế võ kỳ diệu hiểm yếu ra cho mọi người biết,

chứ lúc này là cuộc tranh đấu liều mạng, tất nhiên ba người phải dốc toàn

lực ra. Suy đấy đủ biết võ công của phái Thanh Thành đúng là sư phụ đã

dạy hết cho mình, không dấu một thế nào nữa. Nghĩ thế nên Chử Bảo Côn

hết sức cảm kích nghĩa sư đệ, y không cầm lòng được, lại nói lớn:

- Tư Mã sư phụ, quyết không phải là tôi sát hại đâu...

Chử Bảo Côn vừa phân tâm, thì Tư Mã Lâm đã nhảy phắt tới chỉ còn cách

có hơn một thước. Phái Thanh Thành hay dùng những binh khí vừa nhỏ vừa

ngắn, lợi hại nhất những lúc đánh giáp lá cà. Tư Mã Lâm nhảy sát lại gần

như thế, nếu đối thủ là người khác phái, thì hẳn đã nắm chắc phần thắng tới

tám phần mười rồi. Khốn nỗi võ công của Chử Bảo Côn cùng với hắn hai

bên giống nhau, nên hạ nhau rất khó. Dưới ánh đèn mọi người thấy hoa ca

mắt, Tư Mã Lâm và Chử Bảo Côn thân hình nhanh như điện chớp, hai tay

vung múa tít thò lò. Trong chớp mắt hai bên đã giáp chiến tới bảy tám hiệp,

dùi thép đâm qua, đâm lại, chùy nhỏ thì gõ ngang đánh dọc. Hai đối thủ

hung hăng quyết liệt như phát điên. Cả hai người cùng luyện tập đã quá tinh

thục, nên hễ bên này đánh ra một thế là tự nhiên bên kia đã đỡ ngay được và

trả đòn liền. Trong khoảng khắc hai bên đã đấu tới mấy chục hiệp, người

ngoài chỉ nghe thấy những tiếng binh khí va chạm loảng xoảng, còn những

thế tiến công thủ ngự thì không ai trông rõ.

Hai ông già thấy Tư Mã Lâm đánh mãi không hạ được đối phương, đột

nhiên huýt lên một tiếng, rồi hai người đều lăn xả xuống đất, tấn công vào

hạ bàn Chử Bảo Côn. Chử Bảo Côn đối với thế "Lôi Công Trước Địa Oanh"

cũng đã thuộc làu. Song hai tay đang bận đối phó với binh khí của Tư Mã

Lâm, không còn rảnh chút nào để chống với hai ông già, chỉ còn cách nhảy

tránh mà thôi. Ông già họ Khương đánh một chùy từ trái sang phải, ông già

họ Mạnh lại đánh một chùy từ phải sang trái.

Chử Bảo Côn giơ chân đá phốc vào cằm ông già họ Mạnh, ông già họ Mạnh

cả giận quát mắng: - Quân chó má này! Muốn liều mạng chăng?

Ông vừa mắng vừa lùi tránh tránh sang một bên. Ông già họ Khương lại

thừa thế tiến lên, đánh quét ngang một chùy. Tư Mã Lâm cũng giơ chùy nện

thẳng vào mi mắt Chử Bảo Côn.

Trong lúc cấp bách, Chử Bảo Côn chỉ kịp giơ chùy lên gạt chùy của Tư Mã

Lâm, chân bên trái đành liều để cho ông già họ Khương đánh trúng. Chiếc

chùy tuy nhỏ mà sức đánh rất mạnh, Chử Bảo Côn đau điếng người, buốt

đến tận xương, y không hiểu là chân trái còn hay đã gãy rồi. Khương lão

đắc thế đâu có chịu nhường, ông liền đánh tiếp luôn trùy thứ hai.

Chử Bảo Côn đưa chùy ra đỡ, hai chùy chạm nhau tóe lửa. Đột nhiên Chử

Bảo Côn thấy đau nhói lên, y lại bị Khương lão đâm cho 1 dùi vào chân trái

nữa. Nhát dùi này chính ra thì Chử Bảo Côn vẫn có thể tránh được, song y

biết rõ, nếu tránh khỏi mũi dùi thì hai ông già sẽ đổi thế "Lôi Công Trước

Địa Oanh" thành thế "Địa Mẫu Lôi Võng" thì không còn cách nào chống đỡ

được nữa. Vả y tưởng rằng chân trái đã bị gãy rồi thì liều chịu thêm một dùi

nữa cũng cam. Chiếc dùi đâm vào sâu hai tấc, máu chảy vọt ra, đương lúc

quay lộn tranh đấu, máu phun vào bốn bức tường trắng thành từng vệt loang

lổ.

Vương Ngọc Yến thấy A Châu chau đôi mày liễu, và bĩu môi ra, biết rằng

nàng có ý chán ghét nhóm người đánh nhau lộn ẩu, làm nhơ bẩn căn phòng

thanh nhã tinh khiết của nàng. Ngọc Yến nhếch mép cười nói: - Thôi, các

ông đừng đánh lộn nữa, có gì thì nói với nhau. Việc gì phải dở trò man rợ

vô lý như thế?

Tư Mã Lâm và hai ông già có ý đánh chết kẻ thù ngay tại trận. Còn Chử

Bảo Côn tuy vẫn muốn ngừng tay, nhưng đối phương không chịu thôi biết

làm sao được. Vơng Ngọc Yến thấy bốn người vẫn ác chiến, không lý gì

đến lời nói của nàng, mà chủ ý không chịu ngừng tay là bọn ba người phe

Tư Mã Lâm nên nàng lại nói tiếp: - Tại tôi buột miệng nói ra một câu

"Thiên Vương Bổ Tâm Châm" để tiết lộ việc cơ mật trong môn hộ của Chử

tướng công. Tư Mã chởng môn! Các ông hãy ngừng tay mau! Tư Mã Lâm

quát:

- Thù cha chẳng đội trời chung, sao lại không báo? Cô nói lôi thôi gì vậy?

Vương Ngọc Yến nói tiếp:

- Ông không chịu ngừng tay, tôi sẽ buộc lòng phải giúp Chử tướng công.

Tư Mã Lâm hơi chột dạ, nghĩ thầm:

- Thiếu nữ xinh đẹp này có luồng nhãn quang rất lợi hại, nếu võ công nàng

lại cao cường mà giúp cho đối phương, kể ra cũng có điểm bất lợi cho

mình. Song thoáng cái lại nghĩ khác:

- Những nhân vật cao thủ phái Thanh Thành hiện ở cả đây, quá lắm bên ta

kéo ùa cả ra mà đánh, thì còn sợ gì cô gái ngây thơ non nớt đó? Vì nghĩ thế

nên Tư Mã Lâm tay đánh lại gia thêm kình lực không thèm lý gì đến Ngọc

Yến nữa.

Ngọc Yến quay sang bảo Chử Bảo Côn:

- Chử tướng công hãy sử dụng thế "Lý Tồn Hiếu Đả Hổ" rồi sử dụng tiếp

thế "Trương Quả Lão Đảo Kỵ Lư". Chử Bảo Côn ngẩn người ra, nghĩ thầm:

- Thế đánh trước là võ công của phái Thanh Thành, thế đánh thứ hai lại là

võ công của phái Bồng Lai, hai đằng chiêu số khác nhau làm sao lại có thể

sử dụng liên tiếp với nhau được? Có điều đang lúc tình thế cấp bách, làm gì

còn kịp suy nghĩ kỹ càng, nên y cũng theo lời Ngọc Yến sử dụng ngay thế

"Lý Tồn Hiếu Đả Hổ" nghe "xoảng xoảng" hai tiếng, hai chiếc tiểu chủy

của Tư Mã Lâm và ông già họ Khương vừa đánh tới đã bị bật ra. Tiếp theo

Chử Bảo Côn xiêu vẹo người đi, lùi lại ba bước, chính lại vừa tầm tránh khỏi

đòn phục kích của Mạnh lão. Đòn phục kích này rất là âm độc, hiểm ác,

dùng cả dùi lẫn búa đánh luôn 3 đường liên hoàn. Những tay cao thủ trong

bọn Diêu Bá Dương ở Tần Gia Trại đứng bên xem đều toát mồ hôi lo thay

cho Chử Bảo Côn. Họ đều cho rằng Chử Bảo Côn không tài nào tránh khỏi

thế đánh liên hoàn đó được.

Không ngờ Chử Bảo Côn vừa gạt được hai chùy của Tư Mã Lâm và Khương

lão, rồi tiếp đó lùi lại ba bước để tránh khỏi thế phục kích liên hoàn của

Mạnh lão. Những bước lùi đó Chử Bảo Côn đi loạng choạng, chẳng ra lối

gì, tựa như anh chàng say rượu. ấy thế mà chính là nhờ ở những bước loạng

choạng đó y đã tránh khỏi những đòn ác liệt của đối phương tựa hồ hai bên

trước khi giao đấu đã cùng nhau luyện tập rất thuần thục, rồi đem ra biểu

diễn trên sân khấu vậy. Những người trong Tần Gia Trại đứng xem một

cách say sa khoái trá. Mỗi lần thấy Chử Bảo Côn tránh khỏi một đòn họ lại

vỗ tay reo, khi Chử Bảo Côn tránh luôn khỏi ba đòn, tiếng vỗ tay reo hò lại

càng rầm rộ.

Những nhân vật phái Thanh Thành trước kia vẫn trầm lặng nhưng lúc này

người nào người nấy đều nhăn nhó rất khó coi. Đoàn Dự gọi bảo Chử Bảo

Côn:

- Hay lắm! Hay lắm! Chử huynh! Vương cô nơng dặn thế nào, Chử huynh

cứ làm đúng nhưthế, nhất định sẽ không bị thua đâu. Chử Bảo Côn vừa

tránh khỏi ba đòn nguy hiểm, mà trong lúc lùi lại ba bước theo thế "Trương

Quả Lão Đảo Kỵ Lư" hoàn toàn không kịp nghĩ tới hậu quả ra sao hết. Đầu

óc mê man cho là chết cũng được, sống cũng hay. Chử Bảo Côn đã buông

lỏng tính mạng từ lâu rồi. Y không ngờ võ công của phái Thanh Thành và

phái Bồng Lai khác nhau như nước với lửa, thế mà lại sử dụng liên tiếp với

nhau được. Trong lòng Chử Bảo Côn hết sức kinh ngạc, kinh ngạc hơn cả

những người trong Tần Gia Trại và phái Thanh Thành. Ngọc Yến lại hô:

- Chử tướng công hãy sử dụng thế "Hàn Tương Tử Tuyết ủng Lam Quan"

rồi tiếp đến thế "Khúc Kính Thâm U". Chử Bảo Côn thấy lần này lại sử

dụng thếvõ của phái Bồng Lai trước rồi tiếp đến thế của phái Thanh Thành.

Y không kịp đắn đo gì nữa, tức thời dùng dùi và chùy che giữ phía trước

người. Vừa lúc đó hai chiếc dùi của Tư Mã Lâm và Mạnh lão đồng thời đâm

tới, thấy đối phương đã giữ kín cửa ngõ, không còn chỗ sơ hở để đánh vào

được, nhưng họ vẫn dùng sức đánh ra coi như một đòn bỏ đi. Hai mũi dùi

đụng vào chùy của đối phương kêu "xoảng" một tiếng, hai chiếc dùi đồng

thời bị bật ra. Chử Bảo Côn không cần nghĩ ngợi, lún thấp người xuống, và

ngoặt tay đâm xéo một mũi dùi ra đằng sau. Khương lão đơng sắp nhảy ra

đánh phía sau lưng đối phương, không ngờ mũi dùi của đối phương bất

thình lình đâm ra vừa nhằm đúng chỗ, lại đúng lúc.

Thế đánh "Khúc Kính Thâm U" tuy cũng là võ công của phái Thanh Thành,

nhưng không có chỗ thâm diệu đặc biệt. Song vận dụng về phương vị và thời

gian, quyết không thể nào trái ngược với lẽ thường trong võ học như thế

được. Có điều cũng vì mũi dùi đâm vô lý như thế, khiến cho Khương lão

không ngờ cứ nhảy xổ tới thành ra đưa người vào mũi dùi, như người tự sát

vậy. Lúc biết là nguy, thì không thể nào tránh kịp nữa. "Phập" một cái, mũi

dùi đã đâm trúng vào ngang thắt lnưg. Khương lão người bị lảo đảo không

gượng được, té sấp xuống, máu tuôn ra như suối. Hai ngưi trong phái

Thanh Thành vội chạy ra vực Khương lão lui lại. Tư Mã Lâm mắng:

- Chử Bảo Côn! Mi thật là quân chó má. Chính tự tay mi đâm sư thúc đây.

Mi còn cãi được nữa không? Ngọc Yến cướp lời:

- Khương tiên sinh bị thương là do tôi bảo y đâm đó. Các ông phải ngừng

tay ngay! Tư Mã Lâm giận quát:

- Mi có bản lãnh hãy bảo nó giết ngay ta đây này!

Ngọc Yến nhếch mép cười đáp:

- Cái đó phỏng có khó gì? Chử tướng công hãy sử dụng thế "Lý Thiết Quải

Ngọc Động Luận Đạo". Chử Bảo Côn nghĩ bụng:

- Trong các môn võ công của phái Bồng Lai, chỉ có thế "Lã Thuần Dương

nguyệt hạ quá Động Đình" với thế "Hán Chung Ly Ngọc Động Luận Đạo",

mà sao cô nương này lại lôi Lý Thiết Quải vào đó, chắc là nàng nghiên cứu

võ công bản phái chỉ biết có chừng, mà buột miệng nói trệch đấy thôi. Song

trước tình thế cấp bách, Chử Bảo Côn không còn kịp hỏi lại, đành cứ đem sở

học lúc bình thời ra sử dụng thế "Lã Thuần Dương nguyệt hạ quá Động

Đình".

Thế võ này chính ra thì bước dài về đằng trơức, dáng điệu nhẹ nhàng như là

phi hành trên không trung. Nhưng chân trái Chử Bảo Côn bị hai vết thương

nên lúc bước dài dáng điệu xiêu vẹo, không thể nào ngay ngắn giống Lã

Thuần Dương được, mà đúng là Lý Thiết Quải không hơn không kém.

Nhưng trái lại chính nhờ ở chỗ xiêu vẹo đó, người hơi nghiêng về bên trái,

chiếc tiểu chùy cầm bên tay phải thay làm chiếc quạt lá bồ, lúc lướt ngang

ra, vừa nhằm đúng lúc Mạnh lão nhao đầu tới. "Đốp" một tiếng, chiếc chùy

đã đập vào mồm Mạnh lão, làm gãy luôm mười mấy cái răng rơi xuống đất.

Đau quá, Mạnh lão nhảy lộn bậy, quẳng binh khí xuống đất, hai tay bịt

miệng, ngồi phịch xuống đất. Tư Mã Lâm hoảng vía, không giữ được chủ ý,

phân vân chưa biết nên tiếp tục giao đấu hay hãy tạm ngừng tay rồi sẽ tìm

cách báo thù sau?

Hai thế mà Vương Ngọc Yến vừa chỉ điểm cho Chử Bảo Côn quả thực là

xảo diệu tuyệt luân, dự tính biết rõ những sự kiện sẽ diễn biến ra saọ Mạnh

lão sau khi đánh luôn ba đường liên hoàn nhất định sẽ nhảy tới hông bên

phải Chử Bảo Côn, mà lúc đó Chử Bảo Côn đưa ngang chiếc chùy ra nhất

định là đánh trúng vào mồm Mạnh lão. Vì Chử Bảo Côn chân trái bị thương

tập tễnh, sử dụng thế "Hán Chung Ly Ngọc Động Luận Đạo" lại biến thành

thế "Lý Thiết Quải Ngọc Động Luận Đạo", chiếc chùy đa xéo ra, chứ nếu

đánh thẳng, thì lại sai đi mấy tấc thì không đánh trúng được. Những sự tính

toán tinh vi, liệu định chuẩn đích, thực là thần diệu tuyệt vời không thể nào

tưởng tượng được. Người thường không thể nào dự liệu biết trước được thế

đánh của hai bên một cách chuẩn đích nh thế. Thế mà Vương Ngọc Yến

chỉ buột miệng nói ra, mà tựa như có kỳ tài biết trước cả ba người sẽ phải sử

dụng những thế gì, chẳng khác gì người đã thuộc lòng cả trong bụng từ lâu

rồi.

HỒI 34

Bao tam tiên sinh xuất hiện

Tư Mã Lâm tuy nóng lòng báo thù cha nhưng không phải là một hạng dũng

phu mán mọi, gã đắn đo: "nếu muốn giết thằng chó má Chử Bảo Côn này,

trước hết ta phải ngăn ngừa con nhãi kia chỉ điểm võ công cho y". Gã đang

nghĩ cách sát hại Vương Ngọc Yến, bỗng nghe nàng nói:

- Chử tướng công ông là đồ đệ phái Bồng Lai, trà trộn vào hàng ngũ phái

Thanh Thành để học lén võ nghệ, đó là một điều không nên, vả lão sư Tư

Mã Vệ không có ý gì hại ông cả, thế là lỗi tại ông hết. Thôi ông tạ tội cùng

Tư Mã chưởng môn đi là xong.

Chử Bảo Côn lấy làm phải, huống chi nàng đối với mình còn có cái ơn cứu

mạng, nàng có mách cho mấy đoàn mới thoát thân được. Bây giờ nàng bảo

điều gì, mình chẳng nên trái ý. Nghĩ vậy y xá dài Tư Mã Lâm nói:

- Chưởng môn sư huynh! Tiểu đệ thật là đắc tội!

Tư Mã Lâm tránh sang một bên nói:

- Mi còn dám trơ cái mặt dầy kêu ta là chưởng môn sư huynh ?

Vương Ngọc Yến vội kêu lên:

- "Ngao Du đông Hải" mau!

Chử Bảo Côn phát run, nhún người nhảy vọt lên cao đến hơn một trượng,

bỗng nghe thấy tiếng "vo vo ..." không ngớt, có đến dư mười mũi "Thanh

Phong Châm" bay qua dưới chân y trong chớp mắt. Giả tỷ Vương Ngọc Yến

không nhắc nhở đúng miếng "Ngao Du đông Hải" mà chỉ bảo đề phòng ám

khí không thôi, thì Chử Bảo Côn còn mất thì giờ chú ý nhìn đối phương rồi

mới tránh cũng không kịp nữa.

Thế "Lý Trụ Càn Khôn" để phóng ám khí nguyên là một thế tuyệt kỹ của họ

Tư Mã phái Thanh Thành chỉ truyền cho con cháu, chứ không truyền cho

đồ đệ. Ngay hai lão họ Khương và họ Mạnh cũng không biết đến. Sở dĩ thế

võ này Tư Mã Vệ không truyền cho Chử Bảo Côn, chẳng qua là vì tuân theo

lời di huấn của tổ tiên, chứ không phải có ý dấu riêng y. Nào ngờ Tư Mã

Lâm nét mặt vẫn thản nhiên, chỉ có hai tay ngấm ngầm rung động cơ quan

phóng "Thanh Phong Châm" ở trong tay áo mà Ngọc Yến đã phát giác, rồi

chỉ điểm thế võ duy nhất để tránh khỏi ám khí này để nhắc cho Chử Bảo

Côn, tức là thế "Ngao Du đông Hải" của phái Bồng Lai.

Tư Mã Lâm phóng ám khí chắc trúng mười mươi mà lại sểnh mất chẳng

khác gì gặp ma quỉ biến ảo. Gã la lên:

- Mi không phải là giống người mi là loài yêu quái.

Mạnh lão bị gãy hơn mười cái răng đau quá cũng kêu lên:

- Bắt lấy con nhãi kia! Bắt lấy con nhãi kia!

Ta đã biết phái Thanh Thành kỷ luật rất nghiêm, dù Mạnh lão đứng vào

hàng tiền bối nhưng không phải là chưởng môn nhân, nên đệ tử chẳng chú ý

nhìn Tư Mã Lâm để chờ phát lạc. Chưởng môn nhân có ra lệnh họ mới dám

xông vào bắt Vương Ngọc Yến.

Tư Mã Lâm lạnh lùng nói:

- Vương cô nương! Sao cô lại thuộc lầu võ công của bổn phái?

Vương Ngọc Yến đáp:

- Tôi chỉ xem sách mà biết. Phái Thanh Thành lấy chủ trương trá nguỵ, âm

hiểm sở trường, còn về phần biến hoá không có gì phức tạp lắm nên cũng dễ

nhớ.

Tư Mã Lâm lại hỏi:

- Cô nương xem sách gì vậy?

Ngọc Yến đáp:

- Tôi cũng không nhớ rõ là sách gì. Có hai bộ nói về võ công phái Thanh

Thành. Một bộ nói về chữ "Thanh" gồm 18 thế đánh và một bộ nói về chữ

"Thành" gồm 36 thế phá. Ông là chưởng môn nhân phái Thanh Thành thì

còn lạ gì sách đó?

Tư Mã Lâm lẩm bẩm: Thật là bẽ mặt! Gã nhớ lại hồi nhỏ phụ thân gã

truyền dạy có bảo cho gã biết: chữ Thanh nguyên trước có 18 thế đánh, chữ

Thành có 36 thế phá, nhưng rất tiếc vì khiếm khuyết mất mấy thế thành ra

võ công kém sút nên phải chịu giằng co bất phân thắng bại với phái Bồng

Lai. Giả tỷ có ai tìm ra được đầy đủ thì võ công bổn phái không những chỉ

ăn đứt phái Bồng Lai mà còn có thể xưng hùng thiên hạ một cách dễ dàng.

Vừa nghe Vương Ngọc Yến bảo đã được xem qua hai pho sách này, Tư Mã

Lâm lấy làm kinh dị hỏi:

- Pho sach đó cô nương cho tại hạ mượn về so với những điều sở học của

bổn phái xem có chỗ nào khác được chăng?

Vương Ngọc Yến chưa kịp trả lời Diêu Bá Đương đã cười khà khà nói:

- Cô nương chớ để cho gã tiểu tử đó lừa bịp. Võ công của phái Thanh Thành

nhà gã còn nông cạn lắm! Chữ Thanh bất quá được 7, 8 thế đánh là nhiều,

chữ Thành cũng chừng độ 17, 18 thế phá mà thôi. Gã toan lừa lấy bộ kỳ thư

của cô nương để về học thêm. Cô nương nhất định đừng cho gã mượn.

Tư Mã Lâm bị Diêu Bá Đương thọc gậy bánh xe, nét mặt xanh lè bỗng tím

bầm lại hỏi Diêu Bá Đương:

- Ta hỏi mượn sách của cô nương có liên quan gì đến việc Tần Gia trại nhà

ngươi?

Diêu Bá Đương cười hà hà đáp:

- Sao lại không! Việc này quan hệ đến Tần Gia trại ta lắm chớ. Bụng dạ

Vương cô nương đây thuộc lòng biết bao nhiêu võ công kỳ diệu. Ai rước

được cô nương thì người đó sẽ trở thành thiên hạ vô địch. Diêu mỗ tính rằng

bất luận vàng bạc châu báu, trai thanh, gái lịch trước nay ta chỉ giơ tay ra là

vớ được, còn cô nương đây là của báu ngàn năm một thuở, lẽ nào ta còn để

sểnh mất? Bọn Tư Mã các ngươi có muốn mượn sách thì phải hỏi ta đây

xem ta có chịu không đã. Ha ha ngươi thử đoán coi: đố biết ta có bằng lòng

không nào?

Diêu Bá Đương nói mấy câu này cực kỳ vô lý, nhưng Tư Mã Lâm cùng hai

ông già họ Khương, họ Mạnh suy nghĩ lung lắm: cô bé này tuy nhỏ tuổi mà

về võ học của nàng uyên thâm không biết đến đâu mà lường. Trông cái điệu

bộ nàng ẻo lả như gió thổi bay, vậy mà mình muốn đánh bại nàng chắc

không thể được. Nàng đã xem không biết bao nhiêu là kỳ th về võ học lại

thông suốt hết, nếu ta mời được nàng về phái Thanh Thành thì việc học cho

đủ 18 thế đánh của chữ Thanh và 36 thế phá của chữ Thành có cơ thành tựu

được đây. Nhưg lão chủ trại Tần gia trại lại phá đám, xem chừng hôm nay

khó tránh khỏi một cuộc ác chiến sắp xảy ra.

Bỗng thấy Diêu Bá Đương lại nói:

- Cô nương! Thật ra hôm nay chúng tôi bản tâm đến đây là tìm nhà Mộ

Dung để ăn thua, nhưng xem ra dường như cô nương cũng là người trong

nhà Mộ Dung mất rồi...

Vương Ngọc Yến vừa nghe đến câu "dường như cô nương cũng là người nhà

Mộ Dung mất rồi" thì nửa mừng, nửa thẹn, hai má ửng hồng. Nàng chép

miệng hỏi lại:

- Mộ Dung công tử là biểu huynh tôi, trại chủ tìm có việc gì? Biểu huynh

tôi có điều chi không phải với trại chủ?

Diêu Bá Đương cười khà khà đáp:

- Cô nương là biểu muội của Mộ Dung Phục thế thì hay lắm! Nguyên tổ tiên

nhà Mộ Dung ổ Cô Tô có thiếu nhà họ Diêu chúng tôi một vạn lạng vàng,

ngàn vạn lạng bạc, đến nay đã là mấy trăm năm. Nếu tính vốn lãi chồng

chất mãi thì con số không biết đến bao nhiêu?

Vương Ngọc Yến ngạc nhiên hỏi:

- Sao lại có chuyện lạ thế được? Cữu phụ tôi vốn là một nhà hào phú, sao lại

còn nợ trại chủ được?

Diêu Bá Đương nói lấp lửng:

- Nói là thiếu nợ cũng phải mà không thiếu nợ cũng phải. Cô nương còn nhỏ

nên chưa hiểu rõ. Tôi đến kiếm Mộ Dung Bác đòi nợ nhưng ông ta qua đời

rồi. Cha chết thì đương nhiên tôi phải đòi con. Ai ngờ Mộ Dung Phục thấy

chủ nợ đến, cậu ta chuồn đi đằng nào mất rồi. Tôi chả còn cách gì ngoài sai

bắt một thứ gì đấy.

Vương Ngọc Yến nói:

- Biểu huynh tôi là người hào phóng, nếu quả có nợ trại chủ thì thế nào biểu

huynh tôi cũng trả. Giả tỷ không nợ, mà trại chủ cần ít chút tiền tiêu xài,

đến nói với biểu huynh tôi, quyết nhiên biểu huynh tôi cũng chả cự tuyệt

đâu. Có lý nào sợ ông đòi nợ mà lẩn tránh bao giờ?

Diêu Bá Đương chau mày nghĩ ra một kế nói:

- Vụ này không thể một lúc mà nói rành mạch được. Bây giờ cô nương hãy

tạm theo tôi về bắc, ở chơi Tần gia trại một năm hay dăm bảy tháng, người

Tần gia trại chúng tôi quyết không động đến chân lông cô nương đâu. Mụ

vợ Diêu mỗ đã nổi tiếng là con hổ cái đất Hà Sóc nên đối với nữ sắc Diêu

mỗ rất giữ gìn. Cô nương cứ yên chí đừng lo ngại gì. Cô nương cũng chẳng

cần thu xếp hành trang gì thêm nữa, chúng ta chỉ vỗ tay một cái là đi liền.

Bao giờ biểu huynh cô nương kiếm đủ tiền, đem lên thanh toán hết món nợ

cũ, tự nhiên tôi phải đưa cô nương về Cô tô để vẹn mối lương duyên cùng

biểu huynh cô. Ngoài ra Tần trại gia còn đưa hậu lễ để Diêu mỗ đi uống

mừng hai họ.

Nói tới đây lão mở miệng cười oang oang. Lão ăn nói thô lỗ như vậy một

hồi nhưng Vương Ngọc Yến nghe đến đoạn chót lại càng lọt tai. Từ nhỏ

nàng đã hâm mộ biểu huynh nàng, rồi gần đây nụ tình chớm nở trong lòng,

nàng càng ôm nặng mối tương tư. Không hiểu Mộ Dung công tử không biết

hay là giả vờ không biết tâm sự nàng, hoặc vì chàng bận nhiều việc quá mà

không nghĩ tới nàng. Chàng đối với biểu muội chẳng khác gì cô em ruột

không hơn không kém. Trừ việc bàn luận võ, không bao giờ đả động đến

nửa lời về tình trai gái. Mới đây lại xẩy ra mối hiềm khích giữa hai nhà.

Mẫu thân nàng là Vương phu nhân cấm không cho người nhà Mộ Dung bén

mảng đến Mạn Đà Sơn Trang, Vương Ngọc Yến lại càng đau khổ vô cùng,

ngổn ngang trăm mối bên lòng. Trước nay nàng chả được nghe ai đề cập

đến việc hôn nhân giữa nàng và biểu huynh nàng, nhất là mẫu thân nàng lại

càng quyết liệt không ng. Bọn nha hoàn tuy đã biết rõ tâm sự nàng nhưng

sợ oai phu nhân, còn ai dám hé răng hé lợi?

Mấy câu đó chẳng qua Diêu Bá Đương vui miệng nói chơi, nhưng đối với

Vương Ngọc Yến là một khúc nhạc lòng êm ái. Nàng sinh ra có cảm tình

với Diêu Bá Đương. Thực ra Diêu Bá Đương cũng chẳng hay ho gì, hành

động lại rất lỗ mãng, dè đâu vì mấy câu nói đùa mà gây được cảm tình với

Vương Ngọc Yến do đó lão mấy lần thoát khỏi cái hoạ sát thân. Đó là việc

sau tạm gác.

Vương Ngọc Yến hớn hở mỉm cười nói:

- ông này chỉ nói ngang thôi. Tôi đến Tần gia trại làm chi? Nếu cữu phụ tôi

có thiếu nợ vì lâu ngày không biết thì tìm chứng cớ rõ ràng biểu huynh tôi

sẽ trả ông chứ sao?

Bản ý Diêu Bá Đương chỉ muốn cướp Vương Ngọc Yến đem đi ép nàng thổ

lộ hết võ công. Còn câu chuyện nợ vàng nợ bạc là lão bịa chuyện nói đùa,

nhưng nàng lại tin là thật. Lão thấy nàng quá ngây thơ liền nói:

- Cô nương đi với tôi nhé, Tần gia trại đẹp lắm. Trong trại có đủ hươu, nai,

hổ, báo, chim to, thú dữ không thiếu thứ gì, xem cả năm cũng không chán

mắt. Biểu huynh cô được tin lập tức sẽ tìm đến nơi hội diện. Thế rồi có tiền

trả hay không cũng được, tôi vẫn để cô nương cùng chàng về Cô tô. Cô

nương tính thế nào?

Mấy câu đó làm cho nàng rung động.

Tư Mã Lâm là ngươi thâm hiểu nhân tình thế cố, thấy nàng mắt phượng

long lanh, mặt mày hớn hở gã nghĩ bụng: "Nếu để nàng ngỏ lời ng thuận

đi Tần gia trại với lão rồi mình mới can ngăn sau thì không hợp lý. Ta phải

chặn trước đi là hơn". Nghĩ vậy, không đợi cho Vương Ngọc Yến trả lời gã

nói ngay:

- Vân Châu ở tận ngoài ải bắc là đất khỉ ho cò gáy, rét lạnh thấu xương,

Vương cô nưương là một vị khuynh quốc giai nhân, chịu đựng thế nào được

khổ sở? Sao bằng thành đô là nơi sản xuất gấm vóc đẹp nhất thiên hạ, hoa

cỏ cũng không khác gì miệt Giang Nam. Một nhân tài như Vương cô nương

đến thành đô mua gấm vóc may mặc thì người càng nổi bật lên. Mộ Dung

công tử cũng là bật tài mạo song toàn dĩ nhiên ưa người đẹp mặc đồ gấm

vóc.

Diêu Bá Đương quát lên:

- Thối lắm! Cô tô đây thiếu gì gấm đoạn, lượt là? Mi không mở con mắt chó

má ra mà xem ba cô này mặc đồ gì đây?

Tư Mã Lâm lạnh lùng nói:

- Thối thật! Quả là thối thật!

Diêu Bá Đương cả giận hỏi:

- Có phải mi nói ta đó không?

Tư Mã Lâm đáp:

- Không dám ta bảo con chó thối lắm!

"Soạt" một tiếng Diêu Bá Đương rút đao ở sau lưng ra quát hỏi:

- Tư Mã Lâm! Tần gia trại với phái Thanh Thành nhà mi, đại khái một bên

tám lạng, một đằng nửa cân, nếu Tần gia trại ta hợp lực với phái Bồng Lai

liệu có diệt nổi phái Thanh Thành không?

Tư Mã Lâm biến sắc, nghĩ bụng: "Lời lão nói quả đúng sự thực. Từ ngày

phụ thân ta qua đời rồi, lực lượng phái Thanh Thành đã kém trước, lại bị

thằng chó má Chử Bảo Côn đến học trộm võ công. Nếu Tần gia trại xung

đột với bọn mình thì thực là một điều rất đáng lo ngại. Người ta thương nói

rằng hạ thủ trức là cao. Việc đã đến thế này chỉ còn cách giết lão trong khi

trở tay không kịp". Gã nghĩ vậy rồi lạnh lùng buông thõng một câu:

- Chưa chắc!

Diêu Bá Đương thấy Tư Mã Lâm hai tay thủ vào trong tay áo thì biết là gã

sắp phóng ám khí ra. Cách ăn nói và hành động của Diêu Bá Đương khác

hẳn với đường lối võ công của lão. Thật là con người nóng nẩy thô lỗ nhưng

khi lâm địch thì lão tuyệt không cẩu thả chút nào, để hết tâm trí vào việc

giới bị, lão hỏi:

- Ta mời Vương cô nưng lên Vân Châu chơi mấy hôm, chờ Mộ Dung công

tử lên đón nàng về, mi muốn ngăn trở phải không?

Tư Mã Lâm đáp:

- Đất Vân Châu nhà ngươi không xứng đáng chút nào, không thể khuất giá

Vương cô nương được. Ta muốn mời Vơng cô nương qua phủ Thành Đô

chơi ít bữa.

Diêu Bá Đương nói:

- Hay lắm! Bây giờ hãy cầm binh khí để phân thắng bại đã. Ai thắng sẽ

được làm chủ nhân mời Vương cô nương.

Tư Mã Lâm nói:

- Phải đó! Kẻ bại muốn làm chủ nhân cũng đưược, nhưng mời Vương cô

nương xuống chơi âm cung.

Đại ý Tư Mã Lâm nói đây không phải là cuộc tỷ thí để phân thắng bại, mà

là chiến đấu sinh tử. Kẻ bại tất phải vong mạng.

Diêu Bá Đương cười ha hả nói:

- Diêu mỗ nhất sinh làm người, liếm máu trên đầu lưỡi đao là thường. Ta

Mã chưởng môn muốn đem cái chết hăm doạ ta đó chăng? Ta đâu có sợ?

Tư Mã Lâm hỏi:

- Bây giờ dùng binh khí hay dùng quyền cước?

Diêu Bá Đương đáp:

- Dĩ nhiên là dùng binh khí cho lẹ, hơi đâu mà dùng quyền cước?

Lão chưa dứt lời đã thấy "veo veo veo" luôn ba tiếng. Trong khi Diêu Bá

Đương đối thoại với T ưMã Lâm, mắt lão không lúc nào rời gã, hơn nữa lão

biết phái Thanh Thành chuyên phóng ám khí từ trong tay áo ra, gọi là "Trụ

lý càn khôn", thường thường giết người mà không lộ hình tích lúc phóng ám

tiến. Nhưng lão không nghĩ đến chỗ hai bên còn đang lúc giao hẹn, Tư Mã

Lâm đột nhiên phóng ám khí bắn ra.

Tư Mã Lâm chợt nhìn sang mé bên tả, dường như đang xảy ra một biến cố

gì kỳ lạ, mà kỳ thực gã dẫn dụ cho Diêu Bá Đương đa mắt nhìn qua bên

này để hạ thủ. Diêu Bá Đương biết ra thì ám khí chỉ còn cách lão không đầy

nửa thước. Lão cảm thấy đau lòng, tự biết không thể thoát chết được.

Giữa lúc tính mạng Diêu Bá Đương lâm vào trình trạng ngàn cân treo sợi

tóc, bất thình lình một vật đen sì sì, trắng nườm nượp lấp loáng chắn trước

ngực lão. Vài tiếng "keng keng" bật lên, mấy mũi độc châm đụng vào rồi

rớt xuống đất. Những mũi độc châm này nhanh vun vút, Diêu Bá Đương là

người lâm địch đã nhiều, đành chịu thúc thủ không tránh kịp nữa, thế thì cái

vật đen kia phải nhanh gấp mấy lần mới có thể phóng ra sau mà tới đích

trước để đón độc châm.

Vật gì mà kỳ dị như vậy? Nó đen hay là nó trắng? Diêu Bá Đương cùng Tư

Mã Lâm chưa trông thấy, Vương Ngọc Yến đã kêu lên:

- Bao thúc thúc đến đấy ?

Bỗng nghe một giọng cổ quái đáp lại:

- Không phải đâu là không phải đâu. Không phải Bao thúc thúc đến đâu.

Giọng nói vừa nặng, vừa nhẹ, vừa cao, vừa thấp, tựa như người mơ ngủ

nhưng ai nấy đều nghe rõ.

Vương Ngọc Yến cười nói:

- Không phải là Bao thúc thúc thì còn ai mà người chưa đến đã lè nhè cái

câu "Không phải đâu là không phải đâu!"?

Vẫn cái giọng lè nhè đáp lại:

- Không phải đâu là không phải đâu. Ta không phải là Bao thúc thúc ngươi

đâu.

Vương Ngọc Yến nhẹt mồm ra bắt chước hối lại:

- Không phải đâu là không phải đâu, thế thì ngươi là...

Vẫn tiếng đó đáp:

- Mộ Dung huynh đệ còn gọi ta bằng "Tam ca", sao ngươi kêu ta bằng thúc

thúc? Không phải đâu là không phải đâu, ngươi gọi lầm rồi.

Vương Ngọc Yến biết ý gã, khấp khởi mừng thầm, mặt nóng bừng lên hỏi:

- Thế... tôi biết gọi bằng gì bây giờ?

Lại có tiếng trả lời:

- Ha ha, cái đó ta không dạy ngươi đâu, tự ngươi phải biết lấy chứ. Gọi

đúng thì ta chơi với, gọi trật thì ta phá đám cho ngươi mất địa vị phu nhân

của người anh em nhà Mộ Dung ta.

Vương Ngọc Yến chép miệng nói:

- Sao không thò mặt ra đi?

Lâu lâu không thấy tiếng đáp lại, Vương Ngọc Yến lại hỏi:

- Này này! Sao không ra mặt để giúp ta tống cổ cái bọn đến đây làm lộn

xộn.

Bốn bề vẫn lặng ngắt nh tờ, tỏ ra gã họ Bao đã đi xa rồi. Vương Ngọc Yến

có vẻ thất vọng nói:

- Anh chàng này thật là khó chịu, làm cho người ta không biết đâu mà mò.

Vương Ngọc Yến tưởng được gặp mặt Bao tam tiên sinh để cùng y thương

nghị việc đi Thiếu Lâm tự tiếp viện cho Mộ Dung công tử. Nàng chỉ gọi

lầm một câu mà y không xuất đầu lộ diện bỏ đi, lòng nàng không khỏi buồn

phiền. Trái lại, Tư Mã Lâm và Diêu Bá Đương đều lấy thế làm mừng. Vừa

rồi nghe tiếng Bao Tam tiên sinh, cả hai người cùng cố gắng tìm cho ra chỗ

y ẩn thân nhưng tiếng nói lúc gần lúc xa, khi ở mé tả khi qua mé hữu, rút

cục vẫn không biết y ở chỗ nào. Nghe y gọi Mộ Dung Phục là "người anh

em", lại có vẻ rất thân thiện với Vương Ngọc Yến, giả tỷ y ra mặt chống cự

với mình thì mình khó lòng đối phó được với y. Bây giờ y đi xa rồi, thật là

may mắn cho mình.

Diêu Bá Đương suýt bị bỏ mạng, nhờ được Bao tam tiên sinh ra tay cứu

thoát, trong lòng rất là cảm kích. Kể ra thì lão cũng không thù hằn gì phái

Thanh Thành cho lắm, nhng lúc này lão cũng muốn giết Tư Mã Lâm cho

sướng, lão huơi đao lên nói:

- Quân mặt dầy kia, lén phóng ám khí hại ngỳời, đã hại nổi lão phu chỳa?

Vừa nói vừa nhằm đầu Tỳ Mã Lâm bổ xuống. Tỳ Mã Lâm một tay cầm mũi

cỳơng chuỳ, một tay cầm cây tiểu chuỳ, theo đỳờng lối võ công của phái

Thanh Thành đấu với lỳỡi đơn đao của Diêu Bá Đỳơng.

Bên Diêu Bá Đỳơng sức lực hung mãnh, đánh những đòn ác độc. Tỳ Mã

Lâm thì lấy lanh lẹ, khôn ngoan làm sở trỳờng. Môn hạ phái Thanh Thành

cũng nhỳ các tay hảo thủ Tần gia trại chỉ đứng xem, không ai hạ thủ. Cuộc

tranh đấu bữa nay quan hệ vô cùng, hai vị thủ lĩnh thân ra ứng chiến. Cuộc

thắng bại sẽ đỳa đến sự tồn vong cùng sự vinh nhục cho bổn phái. Vì thế

Diêu Bá Đỳơng cũng nhỳ Tỳ Mã Lâm phải thận trọng từng ly từng tý.

Hai bên đánh nhau đến d 70 hiệp, Vỳơng Ngọc Yến bỗng quay lại bảo A

Châu:

- Ngỳơi coi kìa! Phép "Ngũ hổ đoạn môn đao" của Tần gia trại dỳờng nhỳ

khiếm khuyết nhiều hơn chứ không phải chỉ có 5 thế mà thôi. Hai thế "Phụ

tử độ hà" và "Trọng tiết thủ nghĩa" sao không thấy Diêu lão gia sử dụng

đến?

A Châu chỉ ậm ừ, nàng đâu có thông suốt đợc hết mọi thế võ khắp thiên hạ

như Vương Ngọc Yến?

Diêu Bá Đương đánh nhau đang hăng, chợt nghe lời Vương Ngọc Yến cả

kinh nghĩ thầm: "Nhãn quang cô bé này ghê gớm thật! 64 thế trong phép

"Ngũ hổ đoạn môn đao" bị mất đi 5 thế từ mấy chục năm nay, chỉ còn lại

59 thế. Đến tiên phụ ta, nhân tư chất người kém minh mẫn, không học được

đúng hai thế "Phụ tử độ hà" và "Trọng tiết thủ nghĩa", từ đó hai thế này lại

bị thất truyền. Vì muốn bảo toàn thể diện, ta đã phải biến cải vài thế để bổ

xung vào hai thế này cho đủ số 59, không ngờ nàng nhìn nhận ra đưược".

Diêu Bá Đương để nàng khám phá ra vụ này, trong lòng hổ thẹn, muốn

đánh bại ngay Tư Mã Lâm để gỡ lại uy thế với đồng đảng. Nhưng Diêu Bá

Đương càng nóng lòng hạ Tư Mã Lâm càng khó bề thành công vì thế đánh

của lão cần những đòn chắc chắn và trầm tĩnh.

Cuộc chiến đấu kéo dài đến 400 hiệp, giả tỷ cứ bình tĩnh đánh dai dẳng may

ra còn có cơ thủ thắng, nhưng vì lão nóng ruột thành ra sử dụng những đòn

hiểm hóc một cách hời hợt, khiến cho Tư Mã Lâm tránh được dễ dàng.

Diêu Bá Đương tức mình hét to lên một tiếng, khoa đao chém xéo xuống,

chờ cho Tư Mã Lâm nhảy tránh sang mé tả, bất thình lình lão co chân đá

phóng ra. Tư Mã Lâm đang nhảy, người còn lơ lửng trên không, chân chưa

chấm đất, không còn cách nào tránh được, nhưng gã ứng biến cực lẹ, hạ mũi

cương chuỳ xuống thấp, để Diêu Bá Đương đá vào sẽ bị thủng chân. Quả

nhiên Diêu Bá Đương phải chùn chân lại, không dám đá mạnh, đưa chân

trái theo thế "Uyên ương liên hoàn" đá vào cạnh sừn bên phải Tư Mã Lâm.

Tư Mã Lâm vung cây tiểu chuỳ đánh xéo lại, nghe chát một tiếng, đúng

sống mũi Diêu Bá Đương, lập tức máu chảy ra lênh láng. Lúc đó chân trái

lão cũng đá trúng lưng Tư Mã Lâm. Nhưng vì lão bị đánh trước một chút,

trong lòng hoảng sợ, sức mạnh cái đá bị giảm đi một phần. Tư Mã Lâm tuy

bị đá nhưng chỉ đau âm ỉ, chưa đến nỗi bị thương. Chỉ vì trúng đòn sai nhau

không đầy chớp mắt mà cuộc thắng bại đã thành hình.

Diêu Bá Đương gầm lên một tiếng, cầm đao toan nhảy bổ lên chém tiếp,

nhưng đầu nhức như búa bổ, chân bước loạng choạng không đứng vững

được.

Tư Mã Lâm may mà thắng được đòn này, nhng y biết rằng đối phương

chưa chết tất sinh hậu hoạn nguy hiểm vô cùng. Y nghiến răng ken két, nổi

lòng tuyệt diệt đối phương, tay phải vung cây tiểu chuỳ lại đánh, chờ cho

Diêu Bá Đương giơ đao lên đỡ, tay trái y sẽ đâm mũi cương chuỳ vào bụng

lão.

Phó trại chủ Tần gia trại thấy tình thế nguy ngập, miệng hú lên một tiếng,

thanh đơn đao đột nhiên lìa khỏi tay, nhằm Tư Mã Lâm ném tới. Chớp mắt

trong nhà đại sảnh nổi lên những tiếng "veo veo", hơn mười lưỡi đơn đao

nhất tề nhằm vào Tư Mã Lâm tới ào ạt.

Nguyên võ công Tần gia trại có lối ném đơn đao rời khỏi tay là một môn

tuyệt kỹ. Mỗi lưỡi đao nặng từ mười cân trở lại, dùng sức ném ra, thế mạnh

ghê gớm. Huống chi hơn mười lưỡi đơn đao đồng thời tấn công. Tư Mã

Lâm đỡ không đỡ được, tránh cũng hết đường. Y trông thấy cái vạ tan thây

dưới trận ma đao trước mắt.

Bất thình lình, ánh đèn lửa chập chờn, hai bàn tay gầy guộc như chân gà

nhưng lớn hơn tự nhiên xuất hiện, đưa thẳng vào giữa chỗ những lưỡi đao

phóng đến tới tấp. Hai bàn tay này quơ ra bắt rồi nắm lấy cả hơn mười lưỡi

đao. Đoạn mội chuỗi cười khanh khách vang lên: trên ghế giữa nhà sảnh

đường, một ngừi ngồi trông rất oai nghiêm.

Người đó ném cả mười mấy thanh đơn đao xuống đất, kêu loảng choảng,

mọi người ngơ ngác nhìn nhau.

Người lạ mới đến thân hình ốm o, người cao lều nghều, mình khoác áo

trường bào sắc tro. Nét mặt ra chiều gân guốc, ngang tàng. Mọi người vừa

thấy y cho ra thủ đoạn bắt cương đao, biết ngay y có bản lãnh thần xuất quỷ

một nên đều kính phục, không ai dám nói câu nào.

Bỗng Đoàn Dự mỉm cười lên tiếng hỏi:

- Huynh đài xuất thủ cực kỳ mau lẹ, võ công hẳn cao cường vào hàng tuyệt

đỉnh. Tôn tính đại danh là gì, có cho tôi biết được chăng?

Chàng sếu vườn cha trả lời thì Vương Ngọc Yến đã bước lên, cười nói:

- Bao tam ca, tôi tưởng tam ca không trở lại nữa. Cứ khắc khoải trong lòng,

ngờ đâu tam ca lại đến. Hay quá! Tuyệt quá!

Đoàn Dự nói:

- A té ra đây là Bao Tam tiên sinh!

Bao tiên sinh lé mắt nhìn chàng nói:

- Gã tiểu tử này là ai mà dám liến thoắng trước mặt ta?

Đoàn Dự đáp:

- Tại hạ họ Đoàn, tên Dự, không biết quyền cước, võ công chi hết, vậy mà

lăn lộn vào đám giang hồ, đến nay chưa chết, kể cũng là một sự lạ.

Bao Tam tiên sinh trừng mắt nhìn chàng một hồi, chưa biết nói gì thì Tư Mã

Lâm lại xá dài nói:

- Tư Mã Lâm này ở phái Thanh Thành được tiên sinh bắt đao cứu mạng, ơn

đức ấy không bao giờ dám quên. Xin Bao tiên sinh cho biết đại danh để ghi

vào tâm khảm.

Bao Tam tiên sinh đảo mắt nhìn, giơ chân trái đá binh một cái. Tư Mã Lâm

lộn đi mấy vòng. Tiên sinh quát mắng:

-Mi mà cũng hỏi tên tuổi của ta ? Không phải ta định cứu mi đâu. Vì đây

là nhà cô em A Châu. Nếu để cái thân thể hôi thối của mi bị loạn đao phân

thây há chẳng làm cho ô uế mặt đất cái thính hương tinh xá này ? Thôi cút

đi cho mau!

Tư Mã Lâm thấy Bao Tam Tiên Sinh phóng chân ra đá, toan né tránh thì đã

không kịp nữa. Tư Mã Lâm bị đá lộn mấy vòng, sợ hãi vô cùng. Theo quy

củ giang hồ, khi bị đòn như vậy, nếu không trở mặt coi kẻ đối phương thành

kẻ cừu thù, ra tay đánh lại, quyết một trận sống mái ngay bây giờ thì cũng

phải ước hẹn ngày sau sẽ trả thù, chứ không thể can tâm chịu nhục trước

mặt mọi người mà nín đi cho xong được. Y làm bộ nói cứng:

- Bao Tam Tiên Sinh! Tư Mã Lâm này hôm nay bị ngưi vây đánh, một

mình không địch cả đám đông, suýt phải toi mạng, may được nhờ có tiên

sinh cứu cho thoát chết. Tôi là người ân oán phân minh, ân nọ phải đền,

nhục kia phải rửa. Bữa nay xin tạm biệt, sau này sẽ có ngày gặp gỡ.

Y tự biết mình dù có luyện tập thêm mấy chục năm nữa thì võ công mình

quyết không thể nào kịp Bao Tam Tiên Sinh được.Câu y nói "ân nọ phải

đền, nhục kia phải rửa" chẳng qua là câu nói hàm hồ để gỡ lại chút thể diện

mà thôi.

Bao Tam Tiên Sinh để mặc y muốn nói thế nào thì nói, không thèm để vào

tai, quay sang nói với Vương Ngọc Yến:

- Cô nương kêu ta bằng tam ca là đúng rồi đó.

Vương Ngọc Yến cười nói:

- Tôi kêu anh bằng tam ca, cái đó được lắm nhưng anh phải hứa với tôi một

điều:

Bao Tam Tiên Sinh hớn hở, vui mừng hỏi lại:

- Phải hứa điều gì?

Vương Ngọc Yến đáp:

- Tam ca muốn trêu chọc, muốn sinh sự với ai thì mặc, nhưng không được

trêu chọc và sinh sự với biểu huynh tôi. Chịu không?

Bao Tam Tiên Sinh cười khanh khách đáp:

- Được rồi! Vì nể mặt cô em gái, giả tỷ mà ta có muốn sinh sự với hắn thì

cũng phải thương lượng với cô em trước chứ.

Vương Ngọc Yến cười rất tươi nói:

- Đa tạ tam ca.

Đoàn Dự nhìn Vương Ngọc Yến tươi cười, vẻ đẹp lại càng lộng lẫy, nhưng

lòng chàng cảm thấy nôn nao, đầu óc choáng váng. Chàng than thầm:

"Nàng được Bao Tam hứa hẹn không sinh sự với thằng cha Mộ Dung công

tử mà tỏ ra thân thiết với gã Bao như vậy. Mộ Dung Phục ơi Mộ Dung Phục

kiếp trước mi đã tu hành, công đức to lớn đến thế nào mà được gian nhân

đối với mi tình nghĩa thâm trọng đến thế?

(Thiên Long Bát Bộ đến đây là hết. Câu chuyện tiếp tục ở bộ

Lục Mạch Thần Kiếm)

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #hiep#kiem