Thien Long 10
Thành bại hơn thua cũng bởi trời,
Cuộc đời nghĩ lại tưởng như chơi.
Trăm sự chẳng qua do mạng số,
Phúc phận cho mình được đấy thôi.
*
* *
Xe đi lộc cộc ngày đêm không nghỉ. Huyền Nạn, Đặng Bách Xuyên,
Khang Quảng Lăng cả bọn đều là những nhân vật có bản lãnh trong võ
lâm, lúc này võ công đều mất hết, trở thành những người tù tùy thuộc vào
tay người khác bảo sao chịu vậy. Mọi người chỉ đoán chừng đoàn xe đang
đi về hướng đông nam.
Cứ như thế đi tám ngày liền, đến ngày thứ chín, mới sáng sớm đã đi
lên một sơn đạo. Đến trưa hôm đó, địa thế càng lúc càng cao, đến sau xe
lớn không thể lên nổi. Bọn đệ tử phái Tinh Tú gọi bọn Huyền Nạn ra
khỏi xe, đi bộ chừng hơn nửa giờ đến một nơi thấy trúc mọc dầy đặc,
cảnh sắc thanh nhã, bên giòng suối là một tòa lương đình dựng toàn bằng
tre lớn, cấu trúc tinh nhã thật là khéo léo, trúc là đình, đình là trúc khiến
thoạt vừa trông không biết đó là rừng trúc hay đình viện. Phùng A Tam
tấm tắc khen ngợi, nhìn ngang nhìn ngửa trong lòng bán tín bán nghi.
Mọi người liền vào trong đình ngồi nghỉ, từ sơn đạo có bốn người rảo
bước đi xuống. Hai người đi trước là đệ tử của Đinh Xuân Thu, chắc là
khi xe vừa dừng bánh đã lên núi thám thính hoặc báo tin. Đi sau là hai
thanh niên ăn mặc theo lối nhà nông, đến trước mặt Đinh Xuân Thu khom
lưng hành lễ, trình lên một phong thư.
Đinh Xuân Thu mở ra xem qua, cười khẩy nói:
- Hay lắm! Hay lắm! Ngươi vẫn chưa thoái chí đòi quyết một trận
sinh tử, ta sẽ bồi tiếp.
Người thanh niên lấy trong túi ra một cái pháo hiệu, đốt lửa châm,
nghe bùng một tiếng, chiếc pháo đã bay vọt lên không. Những pháo bình
thường nổ một tiếng bay lên rồi sẽ nổ bạch một tiếng vỡ tung ra, còn
chiếc pháo hiệu này lên trên trời nổ bạch bạch bạch liên tiếp ba tiếng.
Phùng A Tam ghé tai Khang Quảng Lăng nói:
- Đại ca, pháo này do bản môn chế tạo.
Không bao lâu từ sơn đạo một đoàn người đi xuống, tổng cộng phải
đến hơn ba chục người, đều mặc theo lối nhà quê, tay cầm binh khí dài.
Đến gần hơn mới thấy đây không phải là binh khí mà là đòn gánh, cứ hai
chiếc đòn gánh lại có mắc một chiếc võng để cho người ngồi. Đinh Xuân
Thu cười nhạt:
- Chủ nhân chiều khách, các ngươi không phải khách sáo, lên võng
đi thôi.
Bọn Huyền Nạn các người liền lên cáng, những thanh niên đó hai
người khiêng một người, bước đi nhanh nhẹn chạy thẳng lên núi. Đinh
Xuân Thu tay áo rộng phất phới, đi trước. Y đi không có vẻ gì gấp gáp
nhưng cứ theo sơn đạo khúc khuỷu mà vùn vụt như cưỡi gió lướt đi, chân
không chạm đất, chỉ một thoáng đã biến mất trong khu rừng trúc.
Bọn Đặng Bách Xuyên bị trúng Hóa Công Đại Pháp của Đinh Xuân
Thu đều phẫn nộ cho rằng mình bị yêu pháp làm hại, chưa đánh đã thua
bây giờ thấy khinh công của y cao siêu như thế, bản lãnh đó không thể
đánh lừa được, ai nấy thán phục nghĩ thầm: "Nếu y không sử dụng công
phu yêu quái chăng nữa thì mình cũng chẳng phải là đối thủ". Phong Ba
Ác khen ngợi:
- Lão yêu này khinh công cao siêu quá, quả thật bội phục hết sức.
Y vừa mở miệng tán thưởng, bọn đệ tử phái Tinh Tú lập tức ùa theo
xưng tụng, nói là võ công Đinh Xuân Thu đương thế không ai sánh kịp đã
đành mà các võ học đại sư từ xưa đến nay, dù cho Đại Ma lão tổ ... cũng
chẳng bằng, toàn những lời nịnh hót chưa ai từng nghe bao giờ. Bao Bất
Đồng nói:
- Này các vị lão huynh, công phu của phái Tinh Tú quả thực hơn hẳn
các môn phái khác, quả đúng là "tiền vô cổ nhân, hậu vô lai giả".
Bọn đệ tử ai nấy mừng rơn, một người liền hỏi lại:
- Theo ý của huynh đài, công phu ghê gớm nhất của môn phái chúng
tôi là công phu gì thế?
Bao Bất Đồng đáp:
- Nào phải chỉ một môn, ít ra cũng phải ba môn.
Bọn đệ tử càng thêm phấn khởi, nhao nhao hỏi:
- Ba môn nào?
Bao Bất Đồng nói:
- Môn thứ nhất là Mã Thí Công1. Công phu này luyện không tinh, e
rằng không sống nổi trong quí phái được một ngày một buổi. Môn thứ hai
là Pháp Loa Công2, nếu không thổi phồng tài ba đức hạnh của quí môn
lên rõ to thì chẳng những bị sư phụ ghét bỏ mà ngay cả đồng môn cũng
chèn ép, không còn đường nào mà ngóc đầu lên. Còn môn công phu thứ
ba là Hậu Nhan Công3. Nếu không biết táng tận lương tâm, mặt dày mày
dạn thì làm sao luyện cho thành được Mã Thí và Pháp Loa hai đại kỳ
công?
Y nói ra rồi, tưởng rằng quần đệ tử phái Tinh Tú sẽ nổi giận đùng
đùng, xông lại tẩn cho một trận, nhưng mấy câu đó đã lên đến cổ, không
1 2 3
nói không chịu được, ngờ đâu bọn kia nghe xong, ai nấy lặng lẽ gật gù.
Một người nói:
- Lão huynh quả thực thông minh, biết rất rõ những kỳ công của bản
phái. Có điều ba môn kỳ công Mã Thí, Pháp Loa, Hậu Nhan tu tập cực kỳ
khó khăn. Những người tầm thường bị nhiễm thói của thế tục, luôn luôn
nghĩ đến tốt, xấu giữ trong lòng cái thói hủ lậu phân biệt thiện ác, chia ra
thị phi thì khi tu tập môn Hậu Nhan Công, cố gắng nhiều, thành tựu chẳng
bao nhiêu, lúc nào cũng thắc thỏm, công phu sẽ kém đi một mức.
Bao Bất Đồng ra lời châm chích, nào có ngờ được bọn này lại thản
nhiên như không, chẳng nghi ngờ gì cả, không khỏi kinh ngạc, cười nói:
- Thần công của quí phái thâm áo không đâu sánh kịp, tiểu tử vốn
thầm ngưỡng mộ, mong được đại tiên mở đường khai lối.
Gã kia nghe Bao Bất Đồng gọi mình là "đại tiên", mặt liền câng câng
đắc ý nói:
- Ngươi không phải là người trong bản môn, cái bí áo của thần công
ta không thể nào truyền thụ cho ngươi được. Thế nhưng cái đạo lý thô
thiển mặt ngoài có nói cho ngươi biết cũng không sao. Bí quyết trọng yếu
hơn cả là phải coi sư phụ không khác gì thần minh, dù cho lão nhân gia có
đánh rắm ...
Bao Bất Đồng liền cướp lời:
- Đương nhiên phải khen thơm rồi. Lại phải hít lấy hít để, ca ngợi hết
lời ...
Gã kia chặn lại:
- Lời của ngươi nói chung thì đúng nhưng vào chi tiết cũng có khuyết
điểm, không phải là "hít lấy hít để" mà phải là "hít rõ mạnh, thở thật
êm".
Bao Bất Đồng khen rối rít:
- Đúng quá! Đúng quá! Đại tiên chỉ điểm thật phải, nếu như thở
phào ra thì có phải đã coi rắm của sư phụ ... không ... không thơm lắm
hay sao.
Người kia gật đầu nói:
- Đúng đó, thiên tư của ngươi cực tốt, nếu như đầu nhập bản phái thì
cũng có triển vọng, tiếc rằng lầm đường lạc lối tả đạo bàng môn. Công
phu bản môn biến hóa vô cùng nhưng công quyết cơ bản thì cũng không
phức tạp lắm đâu chỉ cần nhớ kỹ bốn chữ "rũ sạch lương tâm" là làm gì
cũng không sai sẩy nhiều.
Bao Bất Đồng gật gù liên tiếp nói:
- Quả đúng là:
Nghe ngài nói chuyện một đêm,
Còn hơn đọc sách mười năm dùi mài.4
Tại hạ trong lòng từng ngưỡng mộ quí phái từ lâu, tiếc thay không
được đầu nhập làm môn hạ, không biết đại tiên có vui lòng tiến dẫn
chăng?
Gã kia mặt nhơn nhơn, mỉm cười đáp:
- Gia nhập bản môn nào phải chuyện đùa, phải qua bao nhiêu khảo
nghiệm cực kỳ khó khăn năm này tháng nọ, chỉ sợ ngươi không chịu nổi
mà thôi.
Một tên khác liền chặn lại:
- Nơi đây tai mắt lắm người, không nên nói chuyện nhiều. Họ Bao
kia, nếu ngươi quả có lòng muốn xin vào bản môn, đợi khi nào sư phụ ta
trong lòng khoan khoái, ta sẽ nhân đó nói tốt cho ngươi vài câu. Bản phái
thu nhận đồ đệ rất đông, ta xem ngươi căn cốt cũng không đến nỗi tệ, nếu
được sư phụ mở lòng từ bi, nhận ngươi làm học trò, may ra mai sau cũng
nở mày nở mặt.
Bao Bất Đồng mặt nghiêm lại đáp:
- Đa tạ! Đa tạ! Ân đức của đại tiên, Bao mỗ quyết không bao giờ
quên được.
4
Bọn Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can nghe Bao Bất Đồng phỉnh nịnh
bọn đệ tử phái Tinh Tú, trong bụng không khỏi vừa tức cười, vừa lộn ruột
nghĩ thầm: "Trên đời này sao lại có những kẻ hèn mạt vô sỉ đến thế, lấy
trò bốc thơm, bợ đít làm vinh, quả thực chưa từng nghe đến".
Trong khi nói chuyện, đoàn người đã đi vào một sơn cốc, bên trong
thung lũng toàn là cây tùng, gió núi thổi đến tiếng reo dạt dào như sóng
vỗ. Đi thêm chừng một dặm nữa thì đến ba gian nhà gỗ. Trước nhà là một
cây cổ thụ bên dưới hai người ngồi đối diện nhau. Người phía bên trái có
ba người đứng sau lưng. Đinh Xuân Thu đứng xa xa, ngẩng đầu nhìn trời,
thần tình cực kỳ ngạo mạn.
Đoàn người đến gần, Bao Bất Đồng nghe thấy Lý Khổi Lỗi ở cáng
phía sau ồ lên một tiếng, dường như định nói gì nhưng lại cố nén lại. Bao
Bất Đồng quay đầu lại nhìn, thấy mặt y tái nhợt, thần tình cực kỳ hoảng
hốt. Bao Bất Đồng hỏi:
- Ngươi làm sao thế? Trông thấy ma à? Làm gì mà sợ vậy?
Lý Khổi Lỗi không trả lời, làm như không nghe thấy y nói gì. Đến gần
hơn nữa, thấy giữa hai người ngồi là một phiến đá lớn, bên trên có một
bàn cờ, hai người đang đánh. Người ngồi bên phải là một ông già nhỏ bé
gầy gò, còn phía bên trái là một thanh niên công tử. Bao Bất Đồng nhận
ra thanh niên đó chính là Đoàn Dự, trong lòng chán ngắt, nghĩ thầm: "Ta
đối với tiểu tử này cực kỳ vô lễ, hôm nay y thấy mình thân tàn ma dại thế
này, gã thể nào chẳng buông lời nhạo báng".
Chỉ thấy bàn cờ được khắc vào một phiến đá xanh lớn, quân trắng
quân đen đều bóng lộn, hai bên đã để được đến trên trăm quân. Đinh
Xuân Thu chậm rãi đến gần xem hai người, ông già thấp bé cầm một
quân đen để xuống, đột nhiên đôi lông mày nhướng lên, dường như trông
thấy cuộc cờ đi vào chỗ biến hóa kỳ diệu. Đoàn Dự cầm một quân cờ
trắng, trầm ngâm chưa đặt xuống. Bao Bất Đồng kêu lên:
- Này, tiểu tử họ Đoàn kia, ngươi hỏng rồi, cờ vào thế tiến cũng dở ở
không xong chịu thua quách đi thôi.
Ba người đứng sau lưng Đoàn Dự liền quay lại hầm hầm nhìn y, chính
là bọn Chu Đan Thần ba người hộ vệ. Bất thình lình, Khang Quảng Lăng,
Phạm Bách Linh cả bọn Hàm Cốc bát hữu người nào cũng từ trên cáng
gắng gượng nhảy xuống, đi đến cách bàn cờ bằng đá xanh chừng một
trượng, cùng quì cả xuống. Bao Bất Đồng kinh ngạc nói:
- Làm trò quỉ gì đây?
Vừa mới nói ra khỏi miệng lập tức hiểu ngay, ông già mình hạc xác ve
kia chính là Lung Á lão nhân Thông Biện tiên sinh, sư phụ của Hàm Cốc
bát hữu. Thế nhưng ông ta cũng là kẻ tử đối đầu của Tinh Tú Lão Quái
Đinh Xuân Thu, kẻ đại thù trước mặt sao vẫn còn nhàn hạ ngồi đánh cờ?
Đối thủ của ông ta lại chẳng phải là một nhân vật trọng yếu mà chỉ là
một anh đồ gàn không biết võ công?
Khang Quảng Lăng nói:
- Lão nhân gia xem chừng còn khang kiện hơn xưa, bọn hậu bối tám
người chúng tôi mừng không sao kể xiết.
Hàm Cốc bát hữu đã bị Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà đuổi khỏi sư
môn nên không dám gọi ông bằng thầy. Phạm Bách Linh nói:
- Huyền Nạn đại sư của phái Thiếu Lâm đến thăm lão nhân gia đó.
Tô Tinh Hà đứng bật dậy, quay về mọi người vái một cái thập sâu nói:
- Huyền Nạn đại sư giá lâm, lão hủ Tô Tinh Hà không kịp nghinh
tiếp, thật đáng trách lắm.
Ông ta chỉ liếc ngang mọi người một cái rồi lại quay ngay trở lại bàn
cờ. Mọi người đã nghe Tiết Mộ Hoa kể rõ nguyên nhân tại sao sư phụ
ông ta bị ép phải giả như câm như điếc, lúc này ông ngang nhiên mở
miệng nói năng, xem ra đã quyết cùng Đinh Xuân Thu một mất một còn.
Khang Quảng Lăng, Tiết Mộ Hoa cả bọn không thể không liếc qua nhìn
Đinh Xuân Thu một cái, trong lòng vừa phấn khởi, vừa âu lo.
Huyền Nạn nói:
- Không dám! Không dám!
Ông thấy Tô Tinh Hà coi bàn cờ trọng như thế nghĩ thầm: "Người này
tạp vụ quá nhiều, thư họa cầm kỳ, không môn gì không tinh thông, thảo
nào võ công không bằng sư đệ".
Trong khi không ai nói một tiếng nào, bỗng dưng Đoàn Dự cất tiếng:
- Được rồi, đi vào đây.
Chàng vừa nói vừa đặt một quân cờ trắng xuống bàn cờ. Tô Tinh Hà
mặt lộ vẻ vui mừng, gật đầu, dường như đã hiểu tay đặt một quân cờ đen
khác. Đoàn Dự đã nghĩ xong được mươi nước trước, liền hạ thêm một
quân trắng khác, Tô Tinh Hà lại để một quân cờ đen.
Hai người đặt được hơn mươi quân rồi, Đoàn Dự thở dài một tiếng, lắc
đầu nói:
- Lão tiên sinh bày bàn cờ Trân Lung này quả là thâm áo xảo diệu,
vãn sinh không phá giải nổi.
Xem ra Tô Tinh Hà đã thắng, tuy nhiên mặt ông ta lại lộ vẻ thất vọng
nói:
- Kỳ tứ của công tử quả là tinh mật, mười nước vừa đi thật cao,
nhưng chưa nghĩ được sâu thêm một chút, thật là đáng tiếc! Đáng tiếc
thay! Ôi, thật đáng tiếc thay, đáng tiếc lắm thay!
Ông ta liên tiếp chép miệng, miệng nói bốn lần "đáng tiếc" quả thực
biết bao ngậm ngùi. Đoàn Dự nhặt mười quân cờ trắng mình vừa đi lên,
bỏ trở lại vào hộp, Tô Tinh Hà cũng lấy mười viên cờ đen của mình mới
bỏ xuống, bàn cờ trở lại trận thế như lúc đầu.
Đoàn Dự lùi lại đứng qua một bên, nhìn bàn cờ ngẩn ngơ suy nghĩ:
"Thế cờ Trân Lung này chính là bàn cờ hôm trước ta đã thấy trong thạch
động núi Vô Lượng. Vị Thông Biện tiên sinh này và thần tiên tỉ tỉ trong
động ắt có uyên nguyên, đợi khi nào thuận tiện ta sẽ len lén hỏi ông ta
nhưng không thể để cho người ngoài hay biết. Nếu không mọi người sẽ
tìm đến để nhìn thần tiên tỉ tỉ, chẳng phải khinh mạn nàng lắm hay sao?".
Người thứ hai trong Hàm Cốc bát hữu là Phạm Bách Linh cũng là một
người mê đánh cờ, từ xa đứng nhìn kỳ cục, biết rằng không phải sư phụ
cùng thanh niên kia đánh cờ mà là sư phụ bố trí bàn cờ Trân Lung, còn
thanh niên kia thử vào phá giải nhưng giải không được. Y quì dưới đất
nên nhìn không rõ, đầu gối lập tức nhấc lên, vươn dài cổ định nhìn cho rõ.
Tô Tinh Hà nói:
- Tất cả các ngươi mau đứng dậy! Bách Linh, thế cờ Trân Lung này
có ảnh hưởng rất lớn, ngươi lại đây xem thử, nếu như phá giải được thì
thật hay không đâu cho hết.
Phạm Bách Linh mừng rỡ vội đáp:
- Vâng!
Y liền đứng lên, đi đến bên cạnh bàn cờ, ngưng thần xem xét. Đặng
Bách Xuyên hỏi nhỏ:
- Nhị đệ, sao lại gọi là Trân Lung?
Công Dã Can cũng thì thầm trả lời:
- Trân Lung tức là nạn đề của môn cờ vây. Đó là cờ thế do người ta
cố ý bày chứ không phải do hai người đánh cờ mà thành, do đó hoặc sinh,
hoặc kiếp nước nào cũng thật khó mà đoán được.
Những thế Trân Lung tầm thường, ít thì mươi quân, nhiều có khi lên
đến bốn năm chục quân, thế nhưng bàn cờ này có đến hơn hai trăm, gần
như kín cả bàn cờ rồi. Công Dã Can cũng không hiểu biết bao nhiêu, xem
một hồi chẳng hiểu gì cả nên không coi nữa.
Phạm Bách Linh chuyên tâm nghiên cứu cờ vây mấy chục năm qua,
quả đã là một cao thủ về môn này, thấy trên bàn cờ trong kiếp có kiếp,
lại có cộng hoạt, lại thêm trường sinh, hoặc phản phác, hoặc thu khí, tụm
năm tụm ba mỗi chỗ một nhóm thật là phức tạp. Y cảm thấy tinh thần
phấn khởi, xem thêm một lúc, tự nhiên cảm thấy đầu óc quay cuồng, chỉ
mới suy nghĩ về quân trắng một góc bên phải thắng bại ra sao, đã thấy
khí huyết trong ngực nhộn nhạo.
Y cố gắng định thần, tính lại lần thứ hai mới thấy rằng lúc trước vẫn
tưởng bên trắng ở nơi đó đã hỏng, bây giờ mới hay cũng vẫn còn đường
sống, thế nhưng muốn giết nhóm quân đen ở bên cạnh thì thể nào cũng
dứt dây động rừng, bèn tính toán thêm nữa, đột nhiên mắt tối sầm, cổ
họng mằn mặn, ọc ra một ngụm máu tươi.
Tô Tinh Hà lãnh đạm nhìn y nói:
- Thế cờ này rất ư là khó, ngươi thiên tư có hạn, tuy kỳ lực chẳng dở
nhưng xem chừng giải không nổi đâu, huống chi có thêm tên ác tặc Đinh
Xuân Thu đứng bên cạnh thi triển tà thuật, làm điên đảo hồn vía, quả
thực hung hiểm, ngươi có còn muốn giải nữa hay thôi?
Phạm Bách Linh đáp:
- Sinh tử hữu mệnh, đệ ... tại hạ ... tại hạ ... quyết ý tận tâm tận lực.
Tô Tinh Hà gật đầu nói:
- Vậy ngươi cứ thư thả mà suy nghĩ.
Phạm Bách Linh chăm chú vào cuộc cờ, thân hình lảo đảo, lại phun ra
thêm một ngụm máu nữa. Đinh Xuân Thu cười gằn nói:
- Chỉ bỏ mạng toi, sao việc gì phải khổ sở thế? Lão tặc đó bố trí cơ
quan, cốt là để hành hạ, giết người, Phạm Bách Linh, ngươi đúng là chui
đầu vào rọ.
Tô Tinh Hà đưa mắt hầm hầm nhìn y, hỏi:
- Ngươi gọi sư phụ là gì thế?
Đinh Xuân Thu đáp:
- Y là lão tặc nên ta gọi là lão tặc.
Tô Tinh Hà nói:
- Lung Á lão nhân hôm nay không còn câm điếc, chắc ngươi đã biết
lý do tại sao rồi?
Đinh Xuân Thu đáp:
- Hay lắm! Ngươi tự ý phá lời thề, ấy là tự mình đi tìm cái chết, đừng
trách ta nhé.
Tô Tinh Hà tiện tay nhắc một phiến đá ở bên cạnh, đặt xuống bên
cạnh Huyền Nạn nói:
- Mời đại sư ngồi.
Huyền Nạn thấy tảng đá đó không thể nào dưới hai trăm cân, một ông
lão gầy gò nhỏ thó như Tô Tinh Hà, cả người không đến tám chục cân,
vậy mà làm như trò trẻ, không phí một chút sức lực đã nhắc được cục đá
lên, công lực thực là ghê gớm. Ông nghĩ chính mình khi võ công chưa
mất, muốn nhắc một tảng đá như thế thật không khó khăn gì, nhưng làm
một cách nhẹ nhàng như thế cũng chưa chắc được, bèn chắp tay nói:
- Đa tạ!
Sau đó ngồi xuống. Tô Tinh Hà lại tiếp:
- Thế cờ Trân Lung này là do tiên sư tạo thành. Năm xưa tiên sư
phải mất ba năm tâm huyết mới sắp đặt xong, chỉ mong trên đời có người
hiểu lòng mình mà phá giải. Tại hạ trong ba mươi năm qua khổ công
nghiên cứu, vậy mà vẫn chưa giải được.
Ông ta nói đến đây, ông đưa mắt quét qua cả bọn Huyền Nạn, Đoàn
Dự, Phạm Bách Linh rồi tiếp:
- Huyền Nạn đại sư tinh thông thiền lý, hiểu được yếu chỉ Thiền tông
là ở chỗ đốn ngộ. Khổ công năm này tháng khác, chưa chắc đã bằng được
người đầy đủ căn cốt, huệ tâm vừa thấy đã thông hiểu ngay. Đánh cờ
cũng vậy thôi, đứa trẻ tám chín tuổi có tài trí đầy đủ, đánh cờ vẫn có thể
thắng được hạng nhất lưu cao thủ. Mặc dầu tại hạ nghiên cứu mãi không
ra, nhưng kẻ tài giỏi trong thiên hạ rất nhiều, không phải là không thể
giải được.
Tiên sư năm xưa để lại thế cờ này, nếu như có người hoàn thành được
tâm nguyện của lão nhân gia thì tiên sư tuy không còn tại nhân gian, dưới
cửu tuyền nếu biết được cũng thật là an ủi.
Huyền Nạn nghĩ thầm: "Sư phụ đồ đệ của vị Thông Biện tiên sinh này
cùng một nguồn gốc, những trò chơi cầm kỳ thi họa đều lôi kéo con người
đi vào ma chướng, đem hết cả cái thông minh tài trí một đời tiêu vào cái
việc đâu đâu khiến cho Đinh Xuân Thu ở trong môn phái hoành hành
không còn úy kỵ gì nữa, không ai chế ngự nổi y, cũng thật đáng buồn".
Lại nghe Tô Tinh Hà tiếp tục:
- Gã sư đệ của ta ...
Ông vừa nói vừa chỉ vào Đinh Xuân Thu:
- ... năm xưa phản bội sư môn, khiến cho tiên sư ẩm hận tạ thế, lại
đánh ta không còn đường nào chống đỡ. Tại hạ vốn dĩ đã mong đem cái
chết để đền ơn thầy, nhưng nghĩ lại cái tâm nguyện của sư phụ chưa hoàn
tất, nếu chưa đi tìm người phá giải thì ở dưới suối vàng còn mặt mũi nào
mà nhìn sư phụ, nên đành cố chịu kiếp sống thừa cho đến ngày nay.
Trong bao nhiêu năm qua, tại hạ tuân thủ ước định với sư đệ, không
nói một lời, tự cho mình danh xưng Lung Á lão nhân, ngay cả môn hạ đệ
tử mới thu, cũng ép phải thành người câm điếc. Than ôi, ba mươi năm qua
chẳng thành tựu được chuyện gì, thế cờ này đến nay vẫn chưa ai phá giải
được. Vị Đoàn công tử đây tuy anh tuấn tiêu sái ...
Bao Bất Đồng lại chen vào:
- Vị Đoàn công tử đây chắc gì đã anh tuấn, còn tiêu sái thì nhất định
chẳng có chút nào, huống chi bề ngoài anh tuấn tiêu sái với đánh cờ có gì
liên quan đâu, không thông ơi là không thông!
Tô Tinh Hà đáp:
- Có liên hệ lắm chứ! Thật nhiều là khác!
Bao Bất Đồng đáp:
- Vẻ người lão tiên sinh, ha ha, có thấy chút nào anh tuấn tiêu sái
đâu!
Tô Tinh Hà quay sang chăm chăm nhìn y một hồi, miệng hơi mỉm
cười. Bao Bất Đồng nói:
- Chắc tiền bối định nói Bao Bất Đồng so với lão tiên sinh hình dung
cổ quái xấu xí ...
Tô Tinh Hà không nhìn nhõi gì đến y nữa, tiếp tục:
- Đoàn công tử đi mười bước đầu quả thực cực kỳ tinh diệu khiến cho
lão phu thật là kỳ vọng, có ngờ đâu lỡ mất một nước nên mấy nước sau
đành chịu thua.
Đoàn Dự vẻ mặt sượng sùng nói:
- Tại hạ tư chất ngu độn làm phụ lòng nhã ái của lão trượng, thật
đáng hổ thẹn ...
Lời nói chưa dứt, bỗng nghe Phạm Bách Linh kêu to một tiếng, máu từ
miệng tuôn ra ồng ộc, ngã lật về sau. Tô Tinh Hà hơi nhắc tay trái lên,
soẹt soẹt soẹt, ba quân cờ ném ra đánh trúng ba huyệt đạo trên ngực y
lúc đó mới ngưng thổ huyết.
Mọi người còn đang kinh ngạc bỗng nghe cạch một tiếng, từ trên
không một vật gì trăng trắng bay xuống, trúng ngay bàn cờ. Tô Tinh Hà
nhìn lại, hóa ra một mẩu gỗ tùng còn tươi ai đó mới móc ra, khéo làm sao
trúng ngay khứ vị ở điểm thất cửu, chính là một nước phá giải thế cờ Trân
Lung. Ông ngửng đầu lên thấy trên cây tùng phía bên trái cách chừng
năm sáu trượng, thấp thoáng một tà trường bào màu vàng nhạt, hiển
nhiên có người ẩn nơi đó.
Tô Tinh Hà vừa kinh ngạc vừa vui mừng nói:
- Lại có thêm một vị cao nhân nào giá lâm, lão hủ thật vui mừng
khôn xiết.
Ông đang định đi một quân cờ đen, đột nhiên bên tai một tiếng gió
nhẹ vụt qua, một vật gì đen sì từ sau lưng bay đến, rơi ngay vào khứ vị ở
điểm bát bát, đúng ngay vào nơi Tô Tinh Hà vừa định hạ xuống.
Mọi người ồ lên một tiếng, quay đầu lại nhưng không thấy bóng dáng
ai. Những cây tùng ở phía bên phải không cây nào cao to, nếu trên cây có
người ngồi đó thì thấy ngay, không biết kẻ kia ẩn náu nơi nào. Tô Tinh
Hà nhìn vật đen sì kia chính là một miếng vỏ cây tùng nho nhỏ, điểm rơi
xuống thật chính xác, trong bụng cũng hơi kinh hãi. Quân đen kia vừa hạ
xuống, từ cây tùng bên trái lại đi một mẩu gỗ tùng thay quân trắng vào
khứ vị ngũ lục.
Vèo một tiếng, một vật đen đen bắn thẳng lên trời, rơi thẳng xuống,
không nghiêng không lệch đúng ngay khứ vị tứ ngũ. Quân cờ đen đó khi
lên thì quay vòng vòng như trôn ốc, phát xuất từ đâu thật khó mà nhìn ra
được, ngoằn ngoèo một hồi vậy mà rơi xuống chính xác như thế, công
phu ném ám khí đó đủ đã kinh người. Người đứng chung quanh ai nấy bội
phục, cùng suýt xoa reo hò.
Tiếng khen chưa dứt bỗng nghe một giọng vang vang từ trên cành cây
truyền xuống:
- Mộ Dung công tử đến phá giải thế Trân Lung, tiểu tăng thay người
đi giùm hai nước xin đừng trách tội mạo muội.
Cành lá hơi rung động, nghe tiếng gió thoảng qua, bên cạnh bàn cờ đã
xuất hiện thêm một nhà sư nữa. Hòa thượng đó mặc tăng bào màu xám
tro, thần thái sáng láng, bảo tướng trang nghiêm, trên mặt ẩn một nụ
cười.
Đoàn Dự giật mình kinh hãi nghĩ thầm: "Tên ma đầu Cưu Ma Trí lại
đến rồi". Chàng lại bụng bảo dạ: "Không lẽ quân cờ trắng kia là do Mộ
Dung công tử đi hay sao? Vị Mộ Dung công tử này rồi đến hôm nay ta
cũng sẽ gặp".
Chỉ thấy Cưu Ma Trí chắp hai tay, quay sang Tô Tinh Hà, Đinh Xuân
Thu và Huyền Nạn hành lễ nói:
- Tiểu tăng trên đường nhận được Kỳ Hội Thiếp của Thông Biện
tiên sinh, không tự lượng sức mình nên vội tới gặp mặt thiên hạ cao nhân.
Y lại tiếp:
- Mộ Dung công tử xin cũng hiện thân đi thôi.
Chỉ nghe một tiếng cười trong trẻo, từ sau một cây tùng hai người bước
ra. Đoàn Dự chỉ thấy mắt tối sầm, tai ù đi, miệng đắng ngắt, người nóng
bừng. Người đó uyển chuyển chậm rãi bước tới, chính là giai nhân mà
chàng đêm mong ngày nhớ, không lúc nào quên Vương Ngữ Yên.
Nàng mặt đầy vẻ say mê lưu luyến, ngẩn ngơ nhìn thanh niên công tử
đi bên cạnh. Đoàn Dự theo ánh mắt nàng nhìn theo, thấy người đó chừng
hăm bảy, hăm tám, mặc áo lụa mỏng màu vàng nhạt, trường kiếm đeo
ngang hông, diện mục tuấn tú, đi đứng nhẹ nhàng đầy vẻ tiêu sái nhàn
nhã.
Đoàn Dự vừa trông thấy y lập tức nửa người chết cứng, rưng rưng
dường như muốn rơi nước mắt, nghĩ thầm: "Người ta vẫn thường bảo Mộ
Dung công tử là rồng phượng trong loài người, quả nhiên không phải nói
ngoa. Vương Ngữ Yên đối với y ái mộ như thế cũng chẳng trách nàng
được".
Chàng chỉ biết tự oán mình, than thân trách phận, chẳng muốn ngẩng
lên nhìn Vương Ngữ Yên nhưng rồi không cưỡng nổi cũng len lén liếc
nàng một cái. Chỉ thấy người đẹp mặt mày rạng rỡ, tưởng như toàn thân
chỗ nào cũng đầy hỉ khí, từ khi biết nhau đến nay, chưa từng thấy nàng
vui vẻ đến thế bao giờ.
Hai người đến gần hơn nhưng Vương Ngữ Yên gặp Đoàn Dự mà
dường như thị nhi bất kiến5 cũng chẳng gọi lấy một câu. Đoàn Dự tự nhủ:
"Trong lòng nàng trước nay có bao giờ để ý đến ta đâu, khi ở bên cạnh
mình cũng chĩ nghĩ tới biểu ca mà thôi".
Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác tiến ra
nghinh tiếp. Công Dã Can hướng về Mộ Dung Phục hạ giọng bẩm báo lai
lịch Tô Tinh Hà, Đinh Xuân Thu, Huyền Nạn mọi người. Bao Bất Đồng
nói:
- Gã họ Đoàn kia là một tên đồ gàn, không biết võ công, mới rồi đã
đánh cờ thua một trận rồi.
Mộ Dung Phục liền cùng mọi người hành lễ tương kiến, ngôn ngữ
khiêm hòa ra vẻ muốn làm quen. Cô Tô Mộ Dung danh chấn thiên hạ, có
ai ngờ đâu lại là một thanh niên công tử hình dáng tuấn nhã, điệu bộ
thanh quí, nên người nào cũng nói vài lời ngưỡng mộ, ngay cả Đinh Xuân
Thu cũng khách sáo đôi câu.
Người sau cùng Mộ Dung Phục chào là Đoàn Dự:
- Đoàn huynh khỏe chứ?
Đoàn Dự thần tình ủ rũ, lắc đầu:
- Các hạ khỏe chứ ta ... ta ... chẳng khỏe chút nào.
Vương Ngữ Yên ồ một tiếng nói:
- Đoàn công tử hóa ra cũng ở nơi đây.
Đoàn Dự ấp úng:
- Chính ... chính ... tôi đây.
Mộ Dung Phục trừng mắt nhìn chàng mấy bận, không thèm nói đến
nữa, đi đến bên cạnh bàn cờ cầm một quân cờ trắng đặt xuống. Cưu Ma
Trí mỉm cười nói:
5
- Mộ Dung công tử võ công cao cường, nhưng môn cờ vây e rằng
cũng chỉ bình thường.
Nói xong cũng đặt một quân cờ đen. Mộ Dung Phục nói:
- Chưa chắc thua đại sư đâu.
Nói xong cũng hạ một quân cờ đen, Cưu Ma Trí cũng theo đó mà đi
thêm một nước. Mộ Dung Phục đã xem bàn cờ này rất lâu, tự tin rằng
mình đã tìm được giải pháp, ngờ đâu nước cờ của Cưu Ma Trí lại hoàn
toàn ngoài dự tính của y, bao nhiêu những tính toán trong đầu trôi theo
giòng nước, lại phải tính lại từ đầu, một lúc lâu sau mới đi thêm được một
nước.
Cưu Ma Trí suy nghĩ cực nhanh, đặt liền một quân nữa. Hai người một
chậm một nhanh, đi đến hơn hai chục quân, Cưu Ma Trí đột nhiên cười ha
hả nói:
- Mộ Dung công tử, chúng mình kẻ nọ bó chân bó cẳng người kia.
Mộ Dung Phục giận dữ đáp:
- Ngươi đặt cờ loạn xạ, bây giờ có giỏi thì phá giải đi.
Cưu Ma Trí cười đáp:
- Thế cờ này vốn dĩ trên đời không ai giải được, chẳng qua chỉ bày ra
để trêu ngươi. Tiểu tăng biết thân biết phận nên chẳng muốn hao tâm
huyết suy nghĩ những chuyện không đâu. Mộ Dung công tử, đến ta ở một
góc trời kia ngươi còn chưa đụng đến được, vậy mà dám mơ chuyện đuổi
hươu ở Trung Nguyên sao?
Mộ Dung Phục giật mình, trong một thoáng trăm ngàn mối vấn vương,
trăn qua trở lại chĩ nghĩ đến câu Cưu Ma Trí vừa nói: "Đến ta ở một góc
trời kia ngươi còn chưa đụng đến được, vậy mà dám mơ chuyện đuổi
hươu ở Trung Nguyên sao? ".
Trước mắt y chỉ thấy mờ dần, quân trắng quân đen trên bàn cờ nay
biến thành quan quân sĩ tốt, tây một thế trận, ta vây ngươi, ngươi vây ta,
hai bên lẫn lộn chém giết nhau. Mộ Dung Phục trừng trừng nhìn vào, bên
mình cờ trắng giáp trắng bị quân cờ đen, giáp đen vây chặt, tả xông hữu
đột vẫn không sao ra khỏi trùng vi, trong bụng càng lúc càng thêm bồn
chồn: "Họ Mộ Dung ta thiên mệnh đã hết rồi, bao nhiêu tâm cơ nay đành
uổng phí. Ta một đời tận tâm tận lực, nhưng rồi cũng chỉ là một giấc
mộng ảo mà thôi! Thời là thế, mệnh là thế, còn nói năng gì nữa?". Y đột
nhiên hét lên một tiếng, rút phắt trường kiếm đưa lên cổ cứa ngang.
Trong khi Mộ Dung Phục thần sắc bất định, đứng ngơ ngẩn không nói
năng, Vương Ngữ Yên, Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can cả bọn chăm
chăm nhìn y. Đến khi Mộ Dung Phục đột nhiên rút kiếm tự vẫn, không ai
có thể ngờ tới, cả bọn liền xông lên giải cứu nhưng công lực hoàn toàn
mất hết rồi, thành ra vẫn chậm một bước. Đoàn Dự vung tay điểm ra kêu
lên:
- Không được làm thế!
Chỉ nghe soẹt một tiếng, trường kiếm trong tay Mộ Dung Phục giật
bắn lên, nghe keng một tiếng đã rơi xuống đất. Cưu Ma Trí cười nói:
- Đoàn công tử, chiêu Lục Mạch Thần Kiếm quả hay thật.
Mộ Dung Phục trường kiếm rời khỏi tay còn đang kinh hãi, từ trong
mơ mơ màng màng tỉnh lại. Vương Ngữ Yên cầm tay y, liên tiếp vừa lắc
vừa kêu:
- Biểu ca, không giải được thế cờ thì có đáng gì đâu? Sao lại nỡ nào
tự tận?
Nàng nói rồi nước mắt chảy dàn dụa trên má. Mộ Dung Phục bàng
hoàng kêu lên:
- Ta sao thế?
Vương Ngữ Yên đáp:
- Cũng may Đoàn công tử đánh rơi thanh trường kiếm trong tay biểu
ca, nếu không ... nếu không ...
Công Dã Can khuyên nhủ:
- Công tử, bàn cờ này làm mê hoặc lòng người, xem ra bên trong có
cả huyễn thuật, công tử đừng hao phí tâm tư thêm nữa làm gì.
Mộ Dung Phục quay lại nhìn Đoàn Dự nói:
- Kiếm chiêu mới rồi của các hạ có phải thực là Lục Mạch Thần
Kiếm chăng? Tiếc thay tại hạ không được xem, các hạ có thể thử thêm
lần nữa để cho bỉ nhân được dịp mở mắt.
Đoàn Dự quay sang nhìn Cưu Ma Trí, e ngại y thấy mình sử dụng Lục
Mạch Thần Kiếm rồi sẽ lại bắt mình lần nữa. Lộ kiếm pháp đó khi thì
linh, khi thì không, nếu như tên ác hòa thượng này ra tay, thực khó mà
chống trả, trong bụng sợ hãi, tránh ra ba bước cho cách xa Cưu Ma Trí, có
bọn Chu Đan Thần ba người xen vào giữa, lúc đó mới đáp:
- Ta ... ta trong cơn gấp gáp, chó ngáp phải ruồi, muốn sử thêm một
chiêu nữa quả thật khó khăn. Có thực ngươi không nhìn thấy hay chăng?
Mộ Dung Phục vẻ mặt ngượng ngập nói:
- Tại hạ nhất thời tâm thần mê loạn chẳng khác gì ma nhập.
Bao Bất Đồng lớn tiếng kêu lên:
- Đúng đó, hẳn là Tinh Tú Lão Quái đứng bên cạnh thi triển tà pháp,
công tử phải hết sức cẩn thận.
Mộ Dung Phục lườm Đinh Xuân Thu, nói với Đoàn Dự:
- Tại hạ chẳng may trúng phải tà thuật, may được các hạ cứu viện,
trong lòng thật là cảm kích. Đoàn huynh biết được tuyệt kỹ Lục Mạch
Thần Kiếm, có phải là người trong Đoàn gia Đại Lý hay không?
Đột nhiên từ đằng xa một giọng nói văng vẳng truyền đến:
- Có một tên họ Đoàn Đại Lý ở đó hay sao? Có phải Đoàn Chính
Thuần không?
Chính là thanh âm của Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh. Bọn
Chu Đan Thần lập tức biến sắc. Lại nghe một giọng oang oang sắc cạnh
như kim loại chạm nhau:
- Lão đại của anh em ta mới đích thực là họ Đoàn Đại Lý, còn ngoài
ra đều là đồ giả.
Đoàn Dự cười thầm nghĩ bụng: "Tên học trò của ta cũng đến nữa
đây". Tiếng kêu của Nam Hải Ngạc Thần chưa dứt, từ dưới núi chạy lên
một người, thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn, chính là Vân Trung Hạc, miệng
kêu:
- Thiên hạ Tứ Đại Ác Nhân đúng theo ước hẹn cuộc cờ đến bái
phỏng Thông Biện tiên sinh.
Tô Tinh Hà đáp:
- Hết sức hoan nghênh.
Bốn chữ đó vừa ra khỏi miệng, Vân Trung Hạc đã phiêu phiêu đi đến
trước mặt mọi người. Một lát sau, Đoàn Diên Khánh, Diệp Nhị Nương,
Nam Hải Ngạc Thần ba người cũng sánh vai tới nơi. Nam Hải Ngạc Thần
lớn tiếng nói:
- Lão đại chúng ta xem thiếp mời, cực kỳ hoan hỉ, mọi chuyện khác
gác sang một bên đến đây đánh cờ. Lão đại ta võ công thiên hạ vô địch,
so với Nhạc lão nhị này còn ghê gớm hơn. Kẻ nào không phục cứ lên
đánh thử với y ba ván. Các ngươi muốn một chọi một cũng tốt, mà tất cả
xông lên cũng được. Sao không thấy binh khí đâu cả là sao?
Diệp Nhị Nương vội chặn lại:
- Lão tam chớ có nói năng lếu láo. Đánh cờ nào phải là đánh nhau,
có cần gì binh khí?
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Có mụ nói lếu láo thì có. Không đánh nhau thì lão đại lật đật đến
đây làm gì?
Đoàn Diên Khánh mắt đăm đăm nhìn bàn cờ, ngưng thần suy nghĩ,
qua một hồi thật lâu, thiết trượng bên trái điểm vào trong hộp quân, đầu
trượng dường như có sức hút, dính chặt một quân cờ trắng, đặt lên trên
bàn cờ. Huyền Nạn khen ngợi:
- Họ Đoàn Đại Lý võ công độc bộ trời nam, quả là không phải chỉ có
hư danh.
Đoàn Dự từng chứng kiến Đoàn Diên Khánh đánh cờ với Hoàng Mi
tăng, biết ông ta không những nội lực thâm hậu mà kỳ lực cũng thật cao,
có thể phá giải thế cờ Trân Lung không chừng. Chu Đan Thần ghé tai
chàng nói nhỏ:
- Công tử, mình đi thôi! Đừng để lỡ cơ hội.
Thế nhưng Đoàn Dự một mặt muốn xem Đoàn Diên Khánh làm thế
nào phá giải ván cờ này, lại thêm dễ dầu gì gặp được Vương Ngữ Yên,
nên dù trời sập chăng nữa cũng chưa chắc khiến cho chàng bỏ nàng mà đi
khỏi, thành thử chỉ ậm ừ mấy tiếng nhưng chân lại nhích dần về chỗ bàn
cờ.
Bàn cờ này thiên biến vạn hóa, bao nhiêu nước Tô Tinh Hà đều đã
thuộc nằm lòng, lập tức đặt ngay một quân đen xuống. Đoàn Diên Khánh
suy nghĩ thêm một lát, lại đặt một quân. Tô Tinh Hà nói:
- Các hạ đi nước này quả là cao minh, để xem có thể phá được cửa
quan tìm ra một lối thoát không nào.
Ông ta đặt một quân đen, chặn ngay đường lại, Đoàn Diên Khánh lại
đi một quân nữa. Hư Trúc bỗng nói:
- Nước cờ đó xem ra không ổn.
Y mới rồi thấy Mộ Dung Phục đã đi quân đó, đi tiếp thêm mấy nước
đột nhiên rút kiếm tự vẫn, sợ rằng Đoàn Diên Khánh cũng rơi vào vết xe
đổ, trong lòng bất nhẫn nên lên tiếng nhắc. Nam Hải Ngạc Thần cực kỳ
giận dữ, quát lớn:
- Cái thứ chú tiểu như ngươi mà dám nói lão đại ta ổn hay không ổn
hay sao?
Y vừa nói vừa chộp vào lưng Hư Trúc, nhắc lên. Đoàn Dự nói:
- Hảo đồ nhi, không được đả thương tiểu sư phụ.
Nam Hải Ngạc Thần khi vừa đến đã trông thấy Đoàn Dự, trong bụng
ngượng ngập, tốt nhất là chàng chẳng nói năng gì, ngờ đâu lại ra lệnh cho
y, bèn hầm hầm nói:
- Không đả thương thì thôi, đã làm sao nào.
Y bèn để Hư Trúc xuống. Mọi người thấy một gã ngang ngược hung
ác như Nam Hải Ngạc Thần lại nghe lời Đoàn Dự, gọi y là "đồ nhi" mà
không thấy cãi lại đều cảm thấy lạ lùng. Chỉ có bọn Chu Đan Thần hiểu
được nguyên do, trong bụng cười thầm.
Hư Trúc ngồi xuống trong lòng suy nghĩ: "Sư phụ ta vẫn thường dạy
rằng Phật tổ truyền xuống bao gồm giới, định, huệ ba tu chứng pháp môn.
Kinh Lăng Nghiêm có viết: "Nhiếp tâm vi giới, nhân giới sinh định, nhân
định sinh huệ 6". Con người chúng ta căn cốt ngu độn, khó lòng nhiếp tâm
để giữ mình, thành thử Đạt Ma tổ sư mới truyền cho phương tiện pháp
môn, dạy chúng ta học võ để nhiếp tâm, mà đánh cờ cũng có thể nhiếp
tâm. Học võ tính chuyện hơn thua, đánh cờ cũng là chuyện thua được
cũng đều ngược lại với thiền lý thành ra dù học võ hay đánh cờ cũng phải
cố giữ cái tâm vô thắng bại. Khi tụng kinh, ăn cơm, đi đường thì vô thắng
bại tâm rất là dễ, còn như tỉ võ, đánh cờ mà đạt được vô thắng bại tâm thì
thật khó thay. Nếu như khi tỉ võ, đánh cờ mà không còn cái tâm thắng bại
thì đã là gần được đạo rồi. Kinh Pháp cú có viết: Thắng ắt bị người ta oán
hận, thua sẽ tự cho mình là thấp hèn. Bỏ được cái tâm thắng bại, không
tranh giành thì lòng mới yên.7 Ta võ công kém cỏi, kỳ thuật tầm thường,
cùng sư huynh đệ tỉ võ, đánh cờ bao giờ cũng thua nhiều thắng ít, vậy mà
sư phụ ngược lại khen ta giữ được không giận không oán, coi chuyện
thắng bại nhẹ như bông. Vậy mà sao hôm nay khi ta thấy vị Đoàn thí chủ
này đi sai nước cờ, lại lo cho y lạc bại nên ra lời chỉ điểm? Huống chi cứ
kỳ thuật như ta thì còn chỉ điểm cho ai được nữa? Y đi nước cờ tuy tương
đồng với Mộ Dung công tử nhưng về sau ắt sẽ khác đi, chính ta không
giải được, sao lại dám mở lời "xem ra không ổn", chẳng hóa ra mang cái
tâm tự cao tự mãn hay sao?".
Đoàn Diên Khánh cứ đi một nước lại suy nghĩ một hồi, từng quân từng
quân càng lúc càng lâu, đặt đến hơn hai chục quân thì mặt trời đã ngả về
tây. Huyền Nạn đột nhiên nói:
- Đoàn thí chủ, mười nước đầu thí chủ đi theo đường chính nhưng từ
thứ mười một trở đi lại vào bàng môn, càng lúc càng sâu, để đến lúc
không còn cứu được nữa rồi.
6 7
Các bắp thịt trên mặt Đoàn Diên Khánh đã cứng không tỏ ra có ý gì
nhưng từ cổ họng phát ra thanh âm nói:
- Phái Thiếu Lâm là danh môn chính tông, theo như chính đạo của
các ông thì giải pháp thế nào?
Huyền Nạn thở dài một tiếng nói:
- Bàn cờ này tưởng như chính mà không phải chính, giống như tà mà
không phải tà, dùng chính đạo mà giải cũng không xong nhưng đi vào con
đường vạy thì cũng không được.
Cây gậy trúc nơi tay trái của Đoàn Diên Khánh ngừng lại giữa lưng
chừng, hơi run run, thủy chung không điểm xuống, qua một hồi lâu mới
nói:
- Đằng trước đã nghẽn lối rồi, đằng sau lại có truy binh, chính cũng
không mà tà cũng không, thật là khó lòng.
Võ công gia truyền của y vốn là chính tông Đoàn gia Đại Lý, nhưng
về sau đi vào đường tà, mấy câu nói của Huyền Nạn khiến y phải chạnh
lòng, cũng chẳng khác gì Mộ Dung công tử dần dần đi vào ma đạo.
Bàn cờ Trân Lung đó biến chuyển hàng trăm lối, tùy theo người mà
thành, kẻ tham tài thì vì tiền bạc mà thất cơ, kẻ nóng tính thì vì sân hận
mà hỏng việc. Đoàn Dự thất bại vì ái tâm quá nặng, không dám bỏ quân;
Mộ Dung Phục thua, chỉ vì chấp trước quyền uy, tuy dám thí quân nhưng
không chịu thất thế. Còn Đoàn Diên Khánh thì mối hận to lớn nhất trên
đời là sau khi tàn phế, đã bỏ võ công chính tông của bản môn, chuyển
sang tập luyện bàng môn tà thuật, đến lúc toàn tâm toàn ý tập trung vào
đó thì ngoại ma xâm nhập, để đến tâm thần hoang mang không còn tự
chế được nữa.
Đinh Xuân Thu cười khì khì tiếp lời:
- Đúng đó! Con người từ chính chuyển sang tà thì dễ, cải tà qui
chánh mới thật gay go, một đời của ngươi thôi đành xôi hỏng bỏng không,
bỏ đi, bỏ đi thật rồi! Ôi, thật là đáng tiếc, một bước sa chân khiến cho
nghìn đời ôm hận, kịp lúc quay đầu mới hay muôn sự lỡ làng.
Lời của y đầy vẻ xót thương. Thế nhưng những đại cao thủ ai ai cũng
biết Tinh Tú Lão Quái nào có ý tốt, chỉ nhân cháy nhà hôi của, định dẫn
Đoàn Diên Khánh vào chỗ tẩu hỏa nhập ma để trừ khử một kẻ đối đầu
lợi hại.
Quả nhiên Đoàn Diên Khánh lặng người thảm thiết nói:
- Ta vốn ở ngôi vị tôn quí hoàng tử nước Đại Lý, hôm nay lưu lạc
giang hồ để tang thương thế này, quả đáng hổ thẹn cùng liệt tổ liệt tông.
Đinh Xuân Thu nói:
- Ngươi chết xuống dưới suối vàng, còn mặt mũi nào mà gặp lại tiên
nhân họ Đoàn, nếu biết xấu hổ, sao không tự tận, cũng còn coi là một
hành vi anh hùng hảo hán, thôi thôi, chi bằng tự tận cho xong, chi bằng tự
tận cho xong!
Giọng nói nhu hòa dễ nghe, những người công lực hơi yếu, nghe mơ
mơ màng màng tưởng như muốn gục xuống. Đoàn Diên Khánh lẩm bẩm
nói một mình:
- Thôi! Chi bằng tự tận cho xong!
Y nhắc thiết trượng lên, chầm chậm nhắm ngay ngực mình điểm vào.
Thế nhưng vốn dĩ y tu tập rất cao siêu, mang máng cảm thấy dường như
có gì không phải, từ nơi đáy lòng có tiếng gọi giật lại:
- Không nên! Không nên! Điểm xuống là hỏng đó.
Thế nhưng đầu trượng vẫn từng tấc từng tấc tiến vào ngực. Y năm xưa
mất nước lưu vong, thân bị trọng thương rồi đã từng có ý định tự tận, chỉ
vì một cơ duyên đặc biệt mà phấn chấn trở lại, đến giờ sức tự chế giảm
đi, cái ý niệm muốn tìm cái chết ẩn dấu trong tim lại hiện đến.
Trong các đại cao thủ đứng chung quanh, Huyền Nạn bụng dạ từ bi, có
ý muốn lên tiếng cảnh tỉnh nhưng muốn dùng "đương đầu bổng hát" 8 cần
phải có nội công tương đương với Đoàn Diên Khánh mới có thể làm cho y
ù tai, còn không thì chẳng đi đến đâu, ngược lại còn mang họa nên tuy
8
nôn nóng cũng đành bó tay. Còn Tô Tinh Hà thì phải tuân theo qui củ của
sư phụ đặt ra năm xưa, không thể cứu viện. Mộ Dung Phục biết Đoàn
Diên Khánh không phải là người tốt, nếu y bị tẩu hỏa nhập ma mà chết,
trong thiên hạ bớt đi một mối hại thì còn gì hơn. Cưu Ma Trí hạnh tai lạc
họa, cười hề hề tụ thủ bàng quan. Đoàn Dự và Du Thản Chi tuy công lực
thâm hậu nhưng không biết Đoàn Diên Khánh đang làm trò gì. Vương
Ngữ Yên tuy hiểu biết về võ học các môn phái rộng rãi thật nhưng thuật
dẫn dụ của Đinh Xuân Thu là tà thuật bàng môn, không phải võ học
thành thử nàng cũng chẳng biết gì cả. Còn Diệp Nhị Nương trước nay vốn
bị Đoàn Diên Khánh đè đầu cưỡi cổ, bình thời hống hách, cực kỳ ngang
ngược nên trong bụng vẫn oán giận ngầm nay thấy y sắp tự tận cũng
chẳng muốn cứu làm gì. Còn bọn Đặng Bách Xuyên, Khang Quảng Lăng
không những công lực mất hết, lại cũng chẳng muốn dính vào việc tranh
chấp giữa Tinh Tú Lão Quái và Đệ Nhất Ác Nhân.
Trong đám đó chỉ có mình Nam Hải Ngạc Thần là bồn chồn hơn cả,
thấy đầu trượng chỉ còn cách ngực Đoàn Diên Khánh chừng vài tấc, nếu
nhích thêm chút nữa sẽ điểm ngay vào tử huyệt, thuận tay chộp luôn Hư
Trúc, kêu lên:
- Lão đại, bắt lấy nhà sư này.
Vừa nói y vừa ném luôn vào người Đoàn Diên Khánh. Đinh Xuân Thu
đánh ra một chưởng quát:
- Cút ngay! Đừng có phá đám.
Cái ném đó của Nam Hải Ngạc Thần cực kỳ hồn hậu, Hư Trúc theo
kình phong bay tới bị Đinh Xuân Thu đánh nhẹ một cái lập tức bay ngược
trở ra lao thẳng vào Nam Hải Ngạc Thần.
Nam Hải Ngạc Thần hai tay đỡ lấy, đang toan vứt trở vào Đoàn Diên
Khánh lần nữa, ngờ đâu trong chưởng lực của Đinh Xuân Thu, còn có dấu
ba luồng hậu kình, Nam Hải Ngạc Thần mắt trợn tròn, lịch bịch lùi lại ba
bước, vừa toan gượng lại, luồng kình lực thứ hai đã đến nơi, hai đầu gối
khuỵu xuống, ngồi phịch ngay trên mặt đất, tưởng đã yên, ngờ đâu bấy
giờ luồng kình lực thứ ba mới ập đến. Y không tự chủ được lộn mèo một
vòng, hai tay vẫn còn nắm chặt Hư Trúc, lại đè nhà sư xuống lộn thêm
một vòng nữa. Y sợ chưởng lực của Đinh Xuân Thu còn một luồng kình
đạo thứ tư, vội xô Hư Trúc tới trước để đỡ đòn, nhưng may không còn,
Nam Hải Ngạc Thần liền trợn mắt chửi:
- Con bà ngươi gì mà mạnh thế.
Y liền cầm Hư Trúc vứt xuống đất. Đinh Xuân Thu phát ra chưởng đó
rồi tâm lực hơi nhãng ra, thành thử trượng của Đoàn Diên Khánh ngừng
lại lưng chừng, không di động nữa. Đinh Xuân Thu nói:
- Không kịp nữa rồi! Không kịp nữa rồi! Này Đoàn Diên Khánh, ta
khuyên ngươi nên tự tận cho xong, tự tận cho xong!
Đoàn Diên Khánh thở dài:
- Phải rồi! Sống ở trên đời, có còn ý nghĩa gì đâu? Chi bằng chết cho
xong.
Trong khi y nói thì đầu trượng đã tiến sâu thêm hai tấc nữa. Lòng từ bi
của Hư Trúc nổi lên mãnh liệt, biết rằng muốn giải trừ ma chướng cho
Đoàn Diên Khánh thì phải xen vào bàn cờ, có điều kỳ nghệ của y thấp
kém, muốn giải nạn đề vô cùng phức tạp khó khăn kia, thật không dám
nghĩ đến, thấy trước mắt Đoàn Diên Khánh đang chết sững nhìn bàn cờ,
nguy cơ trong khoảnh khắc, đột nhiên linh cơ nhất động: "Ta không giải
được thế cờ này thật, nhưng quấy phá loạn lên thì thật dễ dàng, chỉ miễn
sao tâm thần y nhãng ra là có cơ cứu được. Đã không có bàn cờ thì đâu
còn gì thắng hay bại?". Hư Trúc liền nói:
- Để cho tiểu tăng giải bàn cờ này.
Y nhanh nhẹn tiến tới gần bên, lấy trong hộp ra một quân cờ trắng,
nhắm mắt lại để bừa xuống bàn cờ.
Y chưa kịp mở mắt ra đã nghe tiếng Tô Tinh Hà quát lớn:
- Chỉ giỏi quấy hôi bôi nhọ! Đi quân bậy bạ, ai đời tự mình giết quân
mình, làm gì có phép đánh cờ nào như thế?
Hư Trúc mở mắt ra nhìn, không khỏi đỏ mặt. Thì ra khi y nhắm mắt để
đại xuống một quân, sao lại trúng ngay một đám quân trắng đang bị quân
đen bao vây không còn hở chỗ nào lọt ra được. Đám quân trắng đó vốn dĩ
còn một nước nữa, quân đen lúc nào đặt xuống cũng ăn sạch, nhưng nếu
như đối phương không rảnh rỗi để hạ kỳ thì cũng còn có đường sống, mà
bên trắng cố gắng vùng vẫy cũng chỉ ở một nước đó mà thôi. Thế nhưng
lúc này y lại đem quân mình ăn quân mình, trong phép chơi cờ chưa từng
có ai đi lối tự sát như thế. Quân trắng chết rồi, phe mình coi như tan rã.
Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Đoàn Dự trông thấy thế không khỏi cười
ha hả. Huyền Nạn lắc đầu ái ngại, Phạm Bách Linh tuy đang sống dở
chết dở cũng phải thốt lên:
- Đi nước đó thực đúng là làm trò cười.
Tô Tinh Hà nói:
- Tiên sư có di mệnh, bàn cờ này dù lài ai chăng nữa cũng có thể
nhập cuộc. Tiểu sư phụ đi nước đó quả khác thường không ai nghĩ ra
được, nhưng cũng là đi một nước.
Ông giơ tay lấy những quân cờ bị Hư Trúc tự giết chết bỏ ra ngoài, kế
đó đi một quân đen. Đoàn Diên Khánh kêu lên một tiếng, từ trong huyễn
mộng bừng tỉnh lại, đưa mắt nhìn Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: "Tinh Tú
Lão Quái, ngươi thừa gió bẻ măng, ám thi độc thủ, chuyện này ta nhất
định không bỏ qua đâu".
Đinh Xuân Thu liếc Hư Trúc, ánh mắt đầy oán độc, chửi:
- Giặc trọc con.
Đoàn Diên Khánh thấy nước cờ đã biến hóa, biết mình vừa chết đi
sống lại, cũng là nhờ có Hư Trúc cứu viện, trong lòng dâng lên một niềm
cảm kích, sợ rằng Đinh Xuân Thu sẽ ra tay giết Hư Trúc trả thù nên nghĩ
thầm: "Có cao tăng chùa Thiếu Lâm là Huyền Nạn ở đây, chắc Tinh Tú
Lão Quái không dám gây chuyện với đồ tử đồ tôn của ông ta, thế nhưng
nếu như lão hủ Huyền Nạn tầm thường không bảo vệ được chu đáo, ta sẽ
không để cho tiểu hòa thượng này phải chết vì ta".
Tô Tinh Hà nói với Hư Trúc:
- Tiểu sư phụ, ngươi giết một số quân của mình, quân đen càng thúc
ép thêm nữa, ngươi ứng phó ra sao?
Hư Trúc cười gượng đáp:
- Tiểu tăng kỳ nghệ kém cỏi, đi đại một quân chẳng qua chỉ vì muốn
cứu người. Bàn cờ này tiểu tăng không biết đánh, xin lão tiền bối tha thứ
cho.
Tô Tinh Hà sầm mặt xuống, gằn giọng:
- Tiên sư sắp đặt ván cờ này cung thỉnh cao nhân thiên hạ đến phá
giải. Nếu như phá giải không được thì cũng không sao, còn gặp tai ương
xảy tới, cũng là do mình thu lấy. Thế nhưng nếu người nào đến chỉ để
phá rối bàn cờ, khinh mạn tâm huyết một đời của tiên sư, thì dẫu có
người đông thế mạnh, ha ha, lão phu mặc dầu vừa câm vừa điếc, cũng
vẫn nhất định sẽ đi tới cùng.
Y tên gọi Lung Á lão nhân, thực ra nào có điếc có câm gì đâu, hiện
giờ vểnh tai nghe, mở mồm nói, vậy mà vẫn tự cho mình "vừa câm vừa
điếc", có điều trong khi nói, mày râu dựng ngược, thần tình cực kỳ hung
mãnh nên không ai dám mở miệng cười.
Hư Trúc chắp tay hành lễ thật sâu nói:
- Lão tiền bối ...
Tô Tinh Hà quát lớn:
- Đánh cờ là đánh cờ, nói nhiều có ích gì đâu? Sư phụ ta có phải để
cho ngươi đến phá quấy tiêu khiển chăng?
Ông ta vừa nói vừa vung tay lên đánh ra một chưởng, nghe bình một
tiếng, bụi bay mù mịt, trước mặt Hư Trúc lập tức hiện ra một cái hố lớn.
Chưởng đó mãnh liệt không gì sánh kịp, nếu chỉ nhích lên chừng một
thước thì Hư Trúc đã gân cốt nát nhừ, chết tươi ngay.
Hư Trúc sợ đến tim đập thình thình, đưa mắt nhìn Huyền Nạn, mong sư
bá tổ đứng ra cứu y khỏi cảnh ngộ khó khăn này. Huyền Nạn nước cờ đã
không cao, võ công lại mất hết, làm gì còn cách gì bây giờ? Trong tình
cảnh đó ông chỉ còn một cách là muối mặt xin Tô Tinh Hà nhẹ tay, bỗng
thấy Hư Trúc thò tay vào hộp, lấy ra một quân cờ trắng, đặt lên bàn cờ.
Nơi y để quân, chính là nơi những quân trắng mới mất đi còn bỏ trống.
Nước cờ đó quả là rất cao. Trong ba mươi năm qua, Tô Tinh Hà đã suy
nghĩ tất cả những thiên biến vạn hóa của thế cờ này, sách giải thuộc nằm
lòng, dẫu đối phương đi nước nào cũng không qua khỏi những gì ông ta
đã nghĩ tới. Thế nhưng Hư Trúc thoạt đầu nhắm mắt đặt bừa một quân, tự
mình giết chết một đám quân mình vi phạm phép đánh cờ rất nặng, dù
người chỉ hơi biết đánh cờ cũng không ai lại làm thế.
Cái cách đó chẳng khác gì tự mình giơ kiếm vung đao lên cứa cổ
mình. Ngờ đâu sau khi y nhắm mắt đặt một quân giết của mình một khối
lớn rồi, cục diện lại thấy thông tỏ hơn, bên quân đen tuy có lợi lớn nhưng
quân trắng lúc này cũng còn có cơ chống đỡ, không phải như trước bó
chân bó tay, được chỗ nọ mất chỗ kia. Cục diện mới này Tô Tinh Hà dù
có nằm mơ cũng không sao nghĩ tới được. Ông ta ngạc nhiên, suy nghĩ
một lúc lâu, lúc đó mới đi một quân đen.
Thì ra khi Hư Trúc trông thấy Tô Tinh Hà đánh ra một chưởng uy hiếp,
sư bá tổ cũng không lên tiếng giải vây cho mình, còn đang bàng hoàng lo
lắng, bỗng nghe một tiếng nói nho nhỏ truyền vào trong tai:
- Để vào bình vị ở nước tam cửu.
Hư Trúc chẳng cần biết ai là người chỉ điểm mình, cũng không cần
biết đúng hay sai, cầm ngay quân trắng, theo đúng lời dặn hạ vào bình vị
tam cửu. Đến khi Tô Tinh Hà đi một quân đen nữa rồi, giọng nói đó lại
truyền vào tai Hư Trúc:
- Bình vị nhị bát.
Hư Trúc lại đặt một quân trắng xuống nước bình vị nhị bát. Quân cờ đi
rồi, chỉ nghe Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Đoàn Dự cả bọn đều ồ lên một
tiếng. Hư Trúc ngẩng đầu lên, thấy mọi người ai nấy tỏ vẻ ngạc nhiên,
đồng thời khâm phục đủ biết nước đi của mình thật tinh diệu, lại thấy vẻ
mặt Tô Tinh Hà vừa mừng rỡ sung sướng nhưng cũng nóng nảy bồn chồn,
đôi lông mày dài không ngớt nhô lên hụp xuống.
Hư Trúc trong bụng khởi nghi: "Sao ông ta đột nhiên lại cao hứng thế?
Không lẽ nước cờ mình đi sai rồi chăng?". Thế nhưng lại lập tức nghĩ
ngay: "Không cần biết đi đúng hay sai, chỉ cần mình đi được mười nước
trở lên, đủ để biết rằng mình cũng có đường đi nước bước, không phải
đến quấy rối làm loạn nước cờ, hối nhục tiên sư của ông ta, lúc đó sẽ
không trách mình được nữa". Đến khi Tô Tinh Hà đi một quân đen nữa, y
lại theo đúng người nào đó ám trung tương trợ chỉ điểm, hạ một quân
trắng. Hư Trúc một mặt hạ kỳ, một mặt chú tâm quan sát, có phải sư bá
tổ bí mật giúp đỡ mình hay không, nhưng thấy Huyền Nạn thần tình ra
chiều nóng ruột, xem ra không phải, huống chi trước sau ông ta không mở
miệng nói câu nào.
Người đưa tiếng nói truyền vào tai y nội lực phải cực kỳ thâm hậu,
hiển nhiên là "truyền âm nhập mật" dùng thượng thừa nội công truyền lời
nói thẳng vào tai y, người khác dù có đứng ngay bên cạnh cũng không
nghe thấy gì cả.
Thế nhưng dù tiếng nói có nhỏ tới mực nào thì miệng vẫn phải mấp
máy, Hư Trúc lén quan sát môi mọi người, không thấy người nào động
đậy, vậy mà câu: "Để xuống vị trí ngũ lục" vẫn vào tai y thật rõ ràng. Hư
Trúc đúng theo đó mà đi, nghĩ thầm: "Dạy ta ngoài sư bá tổ ra thì còn ai
nữa. Những người khác với mình vô thân vô cố, việc gì phải giúp mình?
Trong những cao thủ ở đây, chỉ có mình sư bá tổ chưa đánh cờ, còn ai
cũng đã thử qua và cũng đã thua rồi. Sư bá tổ thần công phi phàm, thành
ra không mấp máy môi vẫn có thể "truyền âm nhập mật", ta không biết
đến bao giờ mới tu luyện được đến mức đó".
Y có biết đâu người chỉ cho y lại chính là thiên hạ đệ nhất ác nhân có
cái ngoại hiệu Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh. Vừa rồi Đoàn
Diên Khánh chìm sâu mê mẩn vào cuộc cờ, bị Đinh Xuân Thu thừa cơ
dậu đổ bìm leo, định đẩy y vào chỗ tẩu hỏa nhập ma, tự sát thân vong,
cũng may Hư Trúc làm loạn nước cờ mới cứu mạng cho y được. Y thấy
Tô Tinh Hà nặng lời trách mắng Hư Trúc, có ý muốn giết chú tiểu này
nên buông lời chỉ điểm, cố ý giải vây, để cho nhà sư có dịp thoái lui. Y
giỏi về thuật phúc ngữ, khi nói không cần phải mấp máy môi, lại thêm
nội công thâm hậu nên biết cách "truyền âm nhập mật", tuy bên cạnh có
mấy cao thủ hạng nhất nhưng vẫn không ai khám phá ra.
Thế nhưng sau mấy nước, cuộc diện lại biến hóa mãnh liệt, Đoàn
Diên Khánh nắm ngay được cái bí áo của bàn cờ Trân Lung này. Đó là
bên trắng phải tự giết một số quân của mình trước, sau đó những chỗ kỳ
diệu mới liên tục sinh ra. Trong phép đánh cờ có những nước phản phác,
đảo thoát ngoa, tự mình cố ý đi vào chỗ chết để nhử cho đối phương ăn
quân, sau đó sẽ lật ngược thế cờ nhưng có chết nhiều lắm cũng chỉ tám
chín quân, chứ đời nào lại nhường đến mấy chục quân bao giờ. Phép "tự
mình giết mình" quả là trong môn cờ vây nghìn năm chưa ai thấy, dù cho
loại cao thủ đến mức thần thánh cũng không ai dám nghĩ đến một nước
cờ như vậy. Ai ai cũng chỉ nghĩ đến làm sao thoát khỏi khốn cảnh để tìm
đường sống, chứ có ai lại nghĩ đến nước đi vào cửa tử để tìm đường ra,
nếu không phải Hư Trúc nhắm mắt, thuận tay đặt bừa một nước cực kỳ
ngốc nghếch đó, e rằng một nghìn năm sau, ván cờ Trân Lung này cũng
không ai giải được.
Kỳ thuật của Đoàn Diên Khánh vốn đã cực cao minh, hôm xưa đánh
cờ với Hoàng Mi tăng nước Đại Lý đã làm cho nhà sư này không còn
đường chống đỡ, lúc này bên trắng đã mất đi một mảng lớn, thế đánh
bỗng rộng rãi ra nhiều, chẳng nghĩ tới đám quân mình vừa mất, cũng
không nghĩ tới cục diện bó chân bó cẳng mới rồi, tự nhiên thoải mái mà
đi quân không phải vào cảnh tiến thoái lưỡng nan như trước.
Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục đâu có biết Đoàn Diên Khánh đứng ngoài
chỉ điểm, chỉ thấy Hư Trúc nước nào ra nước nấy, ăn luôn hai khối cờ
đen, nhịn không nổi phải tấm tắc khen ngợi.
Huyền Nạn lẩm bẩm nói một mình:
- Cuộc cờ này vốn quấn quít trong trường thắng bại đắc thất, cho nên
không thể nào phá giải được. Nước cờ của Hư Trúc không còn màng sinh
tử, cũng không chấp trước được thua, hóa ra vượt ra khỏi vòng sống chết,
đạt tới giải thoát ...
Ông mang máng thấy có chỗ sở ngộ, nhưng lại chưa nắm được, biết
mình cả đời chuyên lo võ học, khiếm khuyết công phu thiền môn, bỗng
nghĩ ra: "Lung Á tiên sinh và Hàm Cốc bát hữu chuyên về tạp học, cho
nên võ công không bằng được Đinh Xuân Thu, ta trước đây cười chê họ
đi vào ngã rẽ. Thế nhưng ta cả đời luyện tập võ công, không chăm lo
tham thiền để vượt vòng sinh tử, có phải cũng đi vào sai lầm hay
không?". Ông nghĩ đến đó, tự nhiên toàn thân mồ hôi toát dầm dề.
Đoàn Dự lúc đầu còn chăm chú xem bàn cờ nhưng về sau, đôi mắt
chàng chỉ dán chặt vào người Vương Ngữ Yên, càng nhìn càng thêm đau
lòng, thấy nhãn quang nàng từ đầu đến cuối không lúc nào rời khỏi Mộ
Dung Phục đành bụng bảo dạ: "Thôi mình đi cho xong! Ở đây càng lâu
càng thêm khổ, không chừng lại hộc máu ngay tai đây mất". Thế nhưng
nếu để chàng tự mình rời xa Vương Ngữ Yên thì làm sao cho được?
Chàng nghĩ thầm: "Thôi đợi Vương Ngữ Yên quay đầu lại lúc ấy mình sẽ
nói: Vương cô nương, chúc mừng cô đã gặp được biểu ca, hôm nay tại hạ
được gặp cô nương thêm một lần nữa, quả là có duyên. Tôi xin từ biệt".
Nếu lúc đó nàng nói: "Được, thôi chào công tử" thì mình sẽ ra đi. Còn
nếu như nàng nói: "Sao gấp thế, ta còn có chuyện muốn nói với công tử"
thì mình sẽ nán lại xem nàng muốn nói gì.
Thực ra, Đoàn Dự biết Vương Ngữ Yên sẽ chẳng bao giờ quay đầu lại
nhìn mình, cũng chẳng bao giờ bảo chàng: "Sao gấp thế, ta còn có
chuyện muốn nói với công tử". Bỗng nhiên, đám tóc phất phơ sau cổ
Vương Ngữ Yên hơi lay động, Đoàn Dự tim đập thình thình: "Nàng quay
lại đó!". Thế nhưng chỉ nghe nàng thở dài một tiếng gọi khẽ:
- Biểu ca!
Mộ Dung Phục chăm chú nhìn bàn cờ, thấy bên trắng giờ này đã
chiếm thượng phong, đang dần dần ép lại nghĩ thầm: "Mấy nước cờ đó ta
làm sao nghĩ ra nổi. Vạn sự khởi đầu nan, là một bàn cờ quái lạ bậc nhất,
không sao tưởng được". Vương Ngữ Yên lại khẽ gọi lần nữa nhưng y nào
có nghe thấy gì đâu. Vương Ngữ Yên lúc ấy mới chép miệng, từ từ quay
đầu lại. Đoàn Dự tim đập mạnh: "Nàng quay lại rồi! Nàng quay lại rồi!".
Quả nhiên khuôn mặt tú lệ của Vương Ngữ Yên đã chuyển qua, Đoàn Dự
thấy dung nhan nàng nhuốm một vẻ ưu sầu, trong ánh mắt lại có chiều u
oán, nghĩ thầm: "Từ khi nàng sánh vai cùng Mộ Dung Phục đến đây, thần
sắc trước sau lúc nào cũng hết sức vui vẻ, sao bây giờ nàng bỗng dưng lại
trở nên buồn tủi? Không lẽ ... không lẽ trong lòng nàng cũng có đôi chút
khắc khoải đến ta chăng?". Chỉ thấy mắt nàng đưa qua phía phải, gặp ánh
mắt chàng, Đoàn Dự lập tức tiến lên một bước toan hỏi: "Vương cô
nương, cô có điều gì muốn nói ư?". Thế nhưng ánh mắt Vương Ngữ Yên
lại tiếp tục di chuyển, nhìn bâng khuâng về chốn xa xăm rồi lại quay về
Mộ Dung Phục.
Tâm hồn Đoàn Dự trĩu hẳn xuống, khổ sở không đâu tả xiết: "Nàng
chẳng phải không nhìn ta, mà so với không nhìn ta còn gấp mười lần. Mắt
nàng tuy nhìn ta nhưng chỉ là "thị nhi bất kiến". Tuy mắt nàng để vào ta
nhưng hình ảnh ta nào có vào được tim nàng. Nàng chỉ nghĩ đến biểu ca
chứ Đoàn Dự này có chút nào ở trong tâm khảm nàng đâu! Ôi, thôi đi cho
xong, chi bằng đi cho xong!".
Ở bên kia Hư Trúc nghe lời chỉ điểm của Đoàn Diên Khánh, thấy bên
đen dù đi cách nào cũng bị bên trắng ăn mất một mớ, còn như để hở ra thì
quân trắng sẽ xung sát trùng vi, lúc đó sẽ không còn cách nào chống đỡ
được nữa.
Tô Tinh Hà suy nghĩ một hồi, cười hì hì đặt thêm một quân đen. Đoàn
Diên Khánh liền truyền âm:
- Hạ thượng vị thất bát.
Hư Trúc theo đúng thế mà làm, tuy y hiểu biết về cờ rất nông cạn
nhưng cũng biết là mình đặt quân cờ này xuống rồi là đã phá giải được
thế Trân Lung, vỗ tay cười nói:
- Xem chừng đã xong!
Tô Tinh Hà mặt rạng rỡ, chắp tay nói:
- Tiểu thần tăng trời cho tài ba như thế, quả là đáng mừng.
Hư Trúc vội vàng hoàn lễ nói:
- Không dám, không dám! Cái này không phải tiểu tăng ...
Y vừa định thú thật là do sư bá tổ chỉ điểm, bỗng thấy có tiếng "truyền
âm nhập mật" vào tai:
- Bí mật này, bằng giá nào cũng không được tiết lộ. Hiểm cảnh chưa
thoát đâu, càng phải cẩn thận hơn nữa.
Hư Trúc lại tưởng đó là do Huyền Nạn ra lệnh, bèn cúi đầu đáp:
- Vâng! Vâng!
Tô Tinh Hà đứng thẳng dậy nói:
- Tiên sư sắp đặt thế cờ này, mấy chục năm nay không ai giải được,
nay tiểu thần tăng phá được thế Trân Lung, tại hạ cảm kích không đâu
cho hết.
Hư Trúc không biết nguyên do bên trong, chỉ biết khiêm tốn đáp:
- Tiểu tăng đi lăng nhăng toàn do trưởng bối thương tình, lão tiên
sinh quá khen, quả thực hổ thẹn không dám nhận.
Tô Tinh Hà đi đến trước ba gian nhà gỗ, giơ tay mời khách nói:
- Xin mời tiểu thần tăng bước vào.
Hư Trúc thấy ba gian nhà đó kiến trúc lạ lùng, lại không có cửa,
không biết bảo vào là vào làm sao, cũng chẳng hiểu vào để làm gì, thành
thử đứng ngẩn người ra, không biết thế nào cho phải. Lại nghe thanh âm
kia bảo:
- Thế cờ mở ra một con đường, chính là xung đột đấu tranh mà được.
Nhà không cửa, ngươi hãy dùng ngạnh công Thiếu Lâm phá ra.
Hư Trúc nói:
- Như vậy đành phải đắc tội.
Y xoạc cẳng xuống tấn, giơ tay phải lên, phát chưởng chém xuống
vách gỗ. Hư Trúc võ công thấp kém, hôm đó bị Đinh Xuân Thu phất tay
áo một cái đã ngã lăn ra, lập tức bị môn nhân phái Tinh Tú đè xuống bắt
giữ, cũng nhờ thế nội lực không mất. Dưới mắt biết bao nhiêu cao thủ tại
đương trường, chưởng lực của y thật chẳng bõ cười, cũng may vách nhà
không lấy gì làm kiên cố, chỉ nghe lách cách đã nứt ra một đường. Hư
Trúc lại bổ thêm hai chưởng nữa, lúc đó mới đánh vỡ cánh cửa nhưng bàn
tay cũng ê ẩm.
Nam Hải Ngạc Thần cười khằng khặc nói:
- Ngạnh công của phái Thiếu Lâm thật dở ơi là dở.
Hư Trúc quay lại đáp:
- Tiểu tăng là một đồ đệ chẳng đâu ra đâu của phái Thiếu Lâm,
công phu nông cạn chứ không phải võ công phái Thiếu Lâm không ra gì.
Lại nghe thanh âm kia nói tiếp:
- Mau mau vào đi, không được quay đầu lại, cũng đừng để ý đến
người ngoài.
Hư Trúc đáp:
- Vâng!
Y hăng hái đi vào. Bỗng nghe Đinh Xuân Thu quát lên:
- Đây là môn hộ của bản phái, một chú tiểu như ngươi sao dám bước
vào?
Tiếp theo là hai tiếng bình bình thật lớn, Hư Trúc cảm thấy một luồng
kình phong ập tới cuốn lấy y như muốn nhấc bổng người lên, kế đó là hai
luồng đại lực thúc vào lưng và mông, không còn tự chủ được nữa người
lộn tùng phèo, lăn vào bên trong.
Hư Trúc có biết đâu vừa mới chết đi sống lại, một đằng Đinh Xuân
Thu phát chưởng đánh lén định giết y, mặt khác Cưu Ma Trí vận dụng
Khống Hạc Công định chộp y kéo lại. Thế nhưng Đoàn Diên Khánh đã
dùng ám kình từ đầu trượng tiêu giải chưởng của Đinh Xuân Thu, còn Tô
Tinh Hà đang đứng giữa y và Cưu Ma Trí, đưa tay trái chặn Khống Hạc
Công còn tay phải đánh luôn hai cái, đẩy Hư Trúc tọt vào trong nhà.
Hai luồng lực đạo đó thật cương mãnh, Hư Trúc phá vỡ một mảnh ván
rồi, trán đụng bình một cái, lại va ngay vào một bức vách khác, đầu óc
mịt mù, tưởng chừng muốn ngất đi, phải một lúc sau mới gượng đứng lên
được, giơ tay xoa đầu thấy trán sưng u một cục lớn. Y thấy mình đang
đứng trong một căn phòng trống không có một ai, đang định đi tìm cửa
nhưng gian nhà đó kín mít như bưng, chỉ có mỗi cái lỗ mình vừa phá vỡ đi
vào. Y đứng ngẩn ngơ, đang định theo cái lỗ đó chui trở ra.
Bỗng nghe từ vách phía bên kia một giọng nói già cả khẽ truyền qua:
- Đã vào được đây, sao lại còn muốn đi ra?
Hư Trúc quay người lại nói:
- Xin lão tiền bối chỉ lối cho.
Thanh âm kia nói tiếp:
- Lối đi ngươi đã tự mình xông vào được, có cần gì phải ai chỉ. Ta
sắp xếp bàn cờ đó, mấy chục năm qua không ai phá giải nổi, sau cùng
hôm nay ngươi đã sách khai9 rồi, sao không vào đây.
Hư Trúc nghe thấy ông ta nói "ta sắp xếp bàn cờ đó" không khỏi nổi
da gà, lập cập hỏi:
- Ông ... ông ... ông ...
Y đã nghe Tô Tinh Hà nhắc đi nhắc lại bàn cờ đó do "tiên sư" bày ra,
thế giọng này là người hay ma đây? Lại nghe giọng nói tiếp:
- Thời cơ chỉ vụt qua rồi mất, ta đợi đã ba mươi năm nay, chẳng còn
thì giờ đâu mà đợi ngươi nữa! Này con ơi, mau vào đây thôi.
Hư Trúc nghe tiếng nói cực kỳ thân mật hiền từ, xem ra không có chút
ác ý nào, chẳng suy nghĩ gì thêm, dùng đầu vai huých vào tấm vách,
nghe lách cách một tiếng lớn, tấm vách đó lâu ngày cũng mục rồi nên lập
tức vỡ ngay một miếng.
Hư Trúc đưa mắt nhìn không khỏi hoảng hốt, thấy bên trong cũng là
một gian phòng trống nhưng có một người ngồi giữa lưng chừng trời. Ý
niệm đầu tiên hiện ra là "có ma", sợ quá toan quay mình bỏ chạy thì
nghe người kia nói:
- Ồ, thì ra là một chú tiểu! Ôi, lại là một chú tiểu mặt mày xấu xí!
Chán quá, chán quá, chán quá! Ôi! Chán quá, chán quá, chán quá!
Hư Trúc nghe ông thở dài liên tiếp ba lần, lại nói sáu câu "chán quá"
nên đăm đăm nhìn ông ta, lúc ấy mới rõ, thì ra người ông ta treo bằng
một sợi dây thừng đen, một đầu dây buộc vào sà ngang, nên mới lơ lửng
giữa trời như thế. Chỉ vì bức tường đằng sau lưng ông ta tối om om, dây
thừng lại sẫm màu trộn lẫn vào nhau nên không nhìn ra sợi dây, thoạt
mới nhìn lại tưởng ông ta đang ngồi trên không.
Hư Trúc mặt mũi cũng hơi xấu trai, mày rậm mắt to, mũi huếch, hai
tai đón gió10, đôi môi dày, lại thêm mới va vào tường bị thương thành ra
9 sách chiết sách chiêu chiết chiêusách giải chiết giải nãi nhưng tam thiếu nãi tam thiếu nhưng
lem luốc, quả cũng khó coi thật. Y mồ côi cha mẹ từ nhỏ, những nhà sư
trong chùa Thiếu Lâm thương tình đem vào nuôi dưỡng, trong chùa nếu
người nào không chuyên cần thanh tu thì cũng chăm lo luyện võ, chẳng
một ai để ý xem y xấu hay đẹp. Người trong cửa Phật coi là thân thể chỉ
là "cái túi da hôi thối"11 nếu còn để ý đến cái túi đó dễ coi hay không thì
việc chứng đạo chỉ thêm vướng bận. Thành ra khi nghe người này bảo là
"một chú tiểu mặt mày xấu xí" thì Hư Trúc cũng chỉ mới nghe lần đầu
tiên.
Y len lén ngửng đầu lên nhìn người kia, thấy ông ta râu dài ba thước
không có một sợi bạc nào, mặt như quan ngọc12, chẳng có chút vết nhăn,
tuổi tác dĩ nhiên không còn trẻ nữa nhưng thần tình sảng lãng, phong độ
nhàn nhã. Hư Trúc hơi cảm thấy sượng sùng nghĩ thầm: "Nói đến tướng
mạo thì mình so với ông ta đúng là một trời một vực". Khi đó trong lòng
không còn sợ hãi gì nữa, y liền khom người hành lễ nói:
- Tiểu tăng Hư Trúc xin bái kiến tiền bối.
Người kia gật đầu hỏi:
- Thế ngươi họ gì?
Hư Trúc sựng lại nói:
- Người đã xuất gia không còn tên họ thế tục nữa.
Người kia hỏi lại:
- Thế trước khi xuất gia thì ngươi tên họ là chi?
Hư Trúc đáp:
- Tiểu tăng xuất gia từ nhỏ, xưa nay không có tên họ gì cả.
Người kia chăm chú nhìn y như để suy đoán, thở dài một tiếng nói:
10
11 12
- Ngươi đã phá giải được thế cờ của ta ắt thông minh tài trí phải thật
hơn người, nhưng tướng mạo thế kia, xem chừng không ổn, ôi, thật chán
ngán thay. Ta xem rồi sau cùng nước lã ra sông, uổng tâm tư một đời lại
chỉ làm ngươi bỏ mạng oan thôi. Này chú tiểu ơi, ta cho ngươi một lễ vật
để ngươi đi khỏi đây nhé.
Hư Trúc nghe giọng điệu ông lão kia, xem chừng có một việc rất khó,
không ai giúp mình nên lo phiền, tuy nhiên pháp môn thứ nhất của nhà
Phật là "giúp chúng sinh qua cơn khổ ách"13 nên nói liền:
- Kỳ đạo của tiểu tăng thực ra hết sức nông cạn, cuộc cờ của lão tiền
bối chẳng phải do tiểu tăng sách giải đâu. Thế nhưng lão tiền bối nếu có
chuyện gì phải làm, tiểu tăng tuy bản lãnh kém cỏi nhưng cũng nguyện
hết sức cố gắng, còn như món quà thì tiểu tăng không dám nhận.
Ông lão kia nói:
- Ngươi có bụng dạ hiệp nghĩa như thế, quả là hay lắm. Ngươi kỳ
nghệ không cao, võ công thấp kém, cũng chẳng hề gì nhưng đã đến được
đây, cũng là có duyên. Có điều ... có điều ... tướng mạo nhà ngươi sao
khó coi quá.
Nói rồi ông ta lắc đầu quầy quậy. Hư Trúc mỉm cười nói:
- Tướng mạo đẹp hay xấu cũng là do nghiệp báo từ khi vô thủy đến
nay tụ lại mà thành, chính mình đã không làm chủ được, mà cả cha mẹ
cũng đành chịu vậy mà thôi. Tiểu tăng xấu xí khiến cho tiền bối không
vui, thôi xin cáo từ.
Nói xong lùi lại hai bước. Hư Trúc đang định quay đi thì ông lão kia
nói:
- Hãy khoan!
Tay áo của ông ta phất ra, để lên đầu vai phải của Hư Trúc. Thân hình
y hơi trĩu xuống, thấy cánh tay áo đó chẳng khác gì cánh tay, giữ chặt lấy
người. Ông lão cười:
- Người tuổi trẻ mà có ngạo khí như thế, quả là hay lắm.
13
Hư Trúc đáp:
- Tiểu tăng nào đám cuồng vọng kiêu ngạo, chỉ vì sợ lão tiền bối bực
mình đấy thôi, cho nên cáo thoái sớm cho xong.
Ông già kia gật đầu hỏi thêm:
- Ngày hôm nay đến đây giải thế cờ gồm có những ai?
Hư Trúc kể lại tất cả. Ông lão trầm ngâm một hồi nói:
- Cao thủ trong thiên hạ, mười phần thì đến sáu bảy đến đây rồi. Thế
Khô Vinh đại sư của họ Đoàn Đại Lý có đến không?
Hư Trúc đáp:
- Ngoài tăng chúng trong tệ tự ra, người xuất gia chỉ có một mình
Cưu Ma Trí đại sư thôi.
Ông lão kia lại hỏi:
- Trong những năm gần đây võ lâm nghe nói có một gã tên Kiều
Phong võ công rất khá, y có đến không?
Hư Trúc đáp:
- Không.
Ông già thở dài một tiếng, lẩm bẩm nói một mình:
- Ta đã đợi bao nhiêu năm nay, nếu đợi thêm nữa, chắc gì đã gặp
được người hoàn toàn đẹp đẽ cả bên ngoài lẫn bên trong. Thiên hạ bất
như ý sự thường thất bát, thôi cũng đành như thế mà thôi.
Ông ta trầm ngâm một hồi, dường như tâm ý đã quyết nói:
- Mới rồi ngươi có nói, thế cờ đó không phải ngươi sách giải, thế sao
Tinh Hà lại đưa ngươi vào đây?
Hư Trúc đáp:
- Quân thứ nhất cũng do tiểu tăng lớn mật không biết, nhắm mắt đặt
bừa, còn những nước sau thì do tệ sư bá tổ pháp húy thượng Huyền hạ
Nạn, dùng "truyền âm nhập mật" bí mật chỉ điểm.
Nói rồi đem tình hình phá giải thế cờ ra sao kể lại một lượt. Ông lão
thở dài:
- Quả là ý trời! Quả là ý trời!
Đột nhiên khuôn mặt đang buồn trở nên rạng rỡ, cười nói:
- Nếu đã là ý trời định như thế, ngươi nhắm mắt đặt bừa mà giải
được thế cờ của ta, đủ biết phúc duyên thâm hậu, có thể lo việc đại sự
cho ta cũng chưa biết chừng. Hay lắm, hay lắm, hay lắm! Con ngoan ơi,
ngươi quì xuống khấu đầu đi.
Hư Trúc từ bé lớn lên trong chùa Thiếu Lâm, ngày ngày nếu không
gặp sư phụ thì cũng sư thúc sư bÿ, có khi sư bá tổ, sư thúc tổ các loại
trưởng bối, đến ngay cùng hàng với mình, những sư huynh tuổi tác lớn
hơn, võ công cao hơn cũng biết bao nhiêu, xưa nay phục tòng đã quen.
Đệ tử nhà Phật tập luyện tính khiêm tốn cho nên khi nghe ông lão bảo y
rập đầu, tuy không hiểu vì lý do tại sao, nhưng nghĩ bụng người này là
tiền bối trong võ lâm, có lạy ông ta mấy cái cũng là chuyện đương nhiên,
cho nên cung kính quỳ xuống cộp cộp cộp cộp rập đầu bốn cái liền. Y
vừa định đứng lên thì người kia lại nói:
- Thêm năm cái nữa, đó là qui củ bản môn.
Hư Trúc đáp liền:
- Vâng!
Rồi y lại rập đầu thêm năm lần nữa. Ông lão nói:
- Con ngoan lắm! Con ngoan lắm! Lại đây!
Hư Trúc đứng lên đến trước mặt ông ta. Ông lão nắm cổ tay y, nhìn y
từ đầu đến chân đánh giá. Đột nhiên Hư Trúc thấy mạch môn nóng lên,
một luồng nội lực theo cánh tay chạy lên, nhanh nhẹn dị thường đi thẳng
vào tim, tự nhiên không định mà dùng Thiếu Lâm tâm pháp kháng cự lại.
Nội lực của ông lão liền quay trở ra, trở lại bình thường. Hư Trúc biết
rằng ông già thử xem mình nội lực nông sâu bực nào, không khỏi mặt đỏ
tía tai, ngượng ngập nói:
- Tiểu tăng bình thời hay đọc kinh Phật, lại ham vui chơi, không
chăm chỉ tập luyện nội công sư phụ truyền thụ chẳng bõ làm trò cười cho
tiền bối.
Ngờ đâu ông lão lại cực kỳ hoan hỉ, cười nói:
- Tốt lắm! Tốt lắm! Nội công phái Thiếu Lâm ngươi tập rất ít nên
cũng đỡ mất công cho ta.
Ông ta nói xong Hư Trúc thấy toàn thân mềm ra, tưởng như đang trầm
mình tắm trong một dòng suối ấm, nhiệt khí theo lỗ chân lông mà bốc
hơi, cảm thấy hết sức khoan khoái. Chỉ trong chốc lát, ông lão đã buông
tay y ra, cười nói:
- Xong rồi! Ta đã dùng Bắc Minh Thần Công của bản môn hóa tán
hết nội lực Thiếu Lâm của ngươi đó.
Đoàn Dự hoảng hốt, kêu lên:
- Cái ... cái gì?
Y nhảy nhổm lên nhưng khi rơi xuống đất hai đầu gối mềm oặt, ngồi
phệt xuống đất, bao nhiêu khớp xương rã rời, đầu óc choáng váng, trời
đất quay cuồng, biết là ông già nói không sai, trong lòng thảng thốt, nước
mắt dàn dụa, khóc òa lên:
- Tôi ... tôi ... tôi với ông có thù oán gì đâu, cũng đâu có làm gì đắc
tội, sao ông nỡ lòng nào hại tôi như thế?
Người kia mỉm cười:
- Sao ngươi lại ăn nói vô phép như vậy? Đã không gọi "sư phụ" lại
gì mà "tôi" với "ông", chẳng có qui củ gì cả.
Hư Trúc kinh hoàng lắp bắp:
- Cái gì? Sao ông lại là sư phụ của tôi?
Người kia nói:
- Ngươi vừa mới rập đầu lạy ta chín cái, đó chính là lễ bái sư đó.
Hư Trúc kêu lên:
- Không! Không! Tôi là đệ tử Thiếu Lâm, làm sao có thể bái ông
làm thầy được? Cái môn tà thuật hại người của ông, tôi nhất định không
học đâu.
Nói xong y gắng gượng đứng lên. Người kia cười:
- Có thực ngươi không học hay không?
Hay tay vung lên, tay áo bay ra, chộp vào đầu vai Hư Trúc. Hư Trúc
thấy đầu vai nặng chịch, không cách nào vùng lên được, hai đầu gối lại
nhuyễn ra ngồi phịch xuống, mồm kêu toáng lên:
- Ông có đánh chết tôi, tôi cũng không học.
Người kia cười ha hả, đột nhiên thân hình bay tung lên, lộn một vòng
trên không, chiếc khăn vuông trên đầu bay vào một góc nha, chân trái
đạp vào xà ngang một cái rơi xuống, đầu ông ta trúng ngay đầu Hư Trúc,
hai thiên linh cái đụng nhau. Hư Trúc sợ quá lập cập hỏi:
- Ông ... ông làm gì thế?
Y cố sức lắc đầu, định hất ông ta ra. Thế nhưng tưởng như đầu ông lão
có đinh đóng chặt vào đầu Hư Trúc, dù có vùng vằng thế nào chăng nữa
vẫn không cách nào thoát ra được. Đầu Hư Trúc lắc qua hướng đông thì
cả thân hình ông ta nghiêng qua hướng đông, Hư Trúc lắc qua hướng tây
thì ông ta lại nghiêng về hướng tây, cả hai người liền thành một lắc lư
qua lại không ngớt.
Hư Trúc càng thêm khủng khiếp, đưa hai tay ra, cố đẩy tay trái, tay
phải thì nắm lấy định đẩy đầu ông ta ra khỏi đầu mình. Thế nhưng vừa
đẩy một cái đã thấy tay mình mềm oặt như bông không có một chút khí
lực nào, càng thêm bồn chồn: "Bị trúng phải tà thuật của lão ta rồi, không
những võ công mất sạch, xem chừng đến mặc áo ăn cơm cũng chẳng còn
hơi sức, từ nay mình đã tê liệt, thành người tàn phế, biết làm sao đây?'. Y
càng thêm kinh hoàng thất tán, mở miệng kêu gào, bỗng thấy từ trên
huyệt Bách Hội nơi đỉnh đầu một sợi nhiệt khí đi thẳng vào trong óc,
miệng kêu không ra tiếng, nghĩ thầm: "Hỏng rồi! Chắc mình mất mạng".
Chỉ thấy óc càng lúc càng nóng, rồi thì mơ mơ như muốn căng lên, tưởng
như muốn bốc thành ngọn lửa, luồng nhiệt khí từ trên đi thẳng xuống,
chẳng mấy chốc đã chịu không nổi, ngất đi.
Y thấy người nhẹ nhàng bay bổng tưởng chừng đang đằng vân giá vụ,
lang thang trên không, rồi bỗng nhiên thân trên lạnh buốt, tưởng như rơi
vào biển khơi, đùa dỡn với bầy cá, có lúc lại đang ở trong chùa đọc kinh,
có khi lại đang khổ luyện võ nghệ, nhưng luyện đi luyện lại mãi chưa
được. Còn đang hoang mang, bỗng thấy trời đổ mưa rào, từng giọt từng
giọt rơi đầy người, nhưng những giọt mưa cũng nóng hổi.
Khi đó Hư Trúc cũng đã hơi tỉnh lại, mở mắt ra thấy ông già đó mặt,
cổ, chân tóc chỗ nào cũng có mồ hôi toát ra đầm đìa không ngớt rơi tong
tỏng lên người y. Hư Trúc cũng thấy mình đã nằm gục dưới đất, ông lão
thì ngồi một bên nhưng đầu hai người không còn dính với nhau nữa.
Hư Trúc ngồi dậy nói:
- Ông ... ông ...
Chỉ nói được hai tiếng "ông", chợt giật mình kinh dị, thấy ông lão bây
giờ biến đổi hẳn, khuôn mặt trắng trẻo đẹp đẽ mới rồi, bây giờ nhăn nheo
đầy vết ngang dọc, mái tóc dài đã rụng hết, còn bộ râu trước kia đen
nhánh thì nay bạc trắng. Ý niệm đầu tiên của Hư Trúc là: "Ta ngất đi đã
bao nhiêu năm rồi? Ba mươi năm chăng? Hay năm mươi năm? Sao người
này bỗng nhiên già đi đến vài mươi tuổi?". Ông lão trước mắt giờ đây
hom hem lụ khụ, nếu không phải một trăm hai mươi tuổi thì cũng phải
một trăm.
Ông già kia đôi mắt lờ đờ, cố hết sức nở một nụ cười nói:
- Việc lớn đã xong! Con ngoan ơi, ngươi phúc trạch thâm hậu, vượt
quá kỳ vọng của ta nhiều, người đánh thử một chưởng vào bức vách trống
kia xem nào!
Hư Trúc không hiểu ra sao, y lời đánh ra một chưởng, chỉ nghe lách
cách, mảng tường lớn vỡ tung đến một nửa, thật nếu y dùng hết sức lao
vào đến mươi lần cũng chưa bằng. Hư Trúc kinh hãi đến ngẩn người, ấp
úng:
- Cái ... cái đó là vì sao thế?
Ông lão mặt rạng rỡ, hết sức hoan hỉ, cũng hỏi lại:
- Cái ... cái đó là vì sao thế?
Hư Trúc hoang mang:
- Sao bỗng nhiên ...bỗng nhiên tiểu tăng có lực đạo mạnh đến thế?
Ông già mỉm cười:
- Ngươi chưa được học chưởng pháp của bản môn cho nên lực đạo sử
dụng chưa được tới một thành. Hơn bảy mươi năm cần tu khổ luyện của
sư phụ ngươi không lẽ tầm thường?
Hư Trúc nhảy bật dậy, biết rằng có điều gì không ổn, kêu lên:
- Ông ... ông ... cái gì mà hơn bảy mươi năm cần tu khổ luyện?
Ông lão vẫn mỉm cười:
- Không lẽ đến giờ này ngươi chưa hiểu rõ hay sao? Thực chăng hay
là không dám nghĩ đến?
Hư Trúc dường như mang máng hiểu câu nói của ông già, có điều việc
xảy ra quá đột ngột, quả không bao giờ ngờ tới, không ai tin nổi, khép
nép nói:
- Lão tiền bối truyền một môn thần công ... một môn thần công cho
tiểu tăng ư?
Ông lão vẫn mỉm cười:
- Sao ngươi chưa gọi ta là sư phụ?
Hư Trúc cúi đầu đáp:
- Tiểu tăng là đệ tử phái Thiếu Lâm, không thể khi tổ diệt tông, đổi
qua phái khác.
Ông lão nói:
- Trong người ngươi không có chút xíu công phu Thiếu Lâm nào, sao
lại còn là đệ tử Thiếu Lâm được? Trong người ngươi súc tích hơn bảy
mươi năm thần công phái Tiêu Dao, sao lại không phải là đệ tử bản phái?
Hư Trúc xưa nay chưa từng nghe nói đến phái Tiêu Dao, hoang mang
hỏi lại:
- Phái Tiêu Dao ư?
Ông lão mỉm cười:
- Thừa thiên địa chi chính, ngự lục khí chi biện, dĩ du ư vô cùng, thị vi
tiêu dao14. Ngươi nhảy lên thử xem nào?
Hư Trúc nổi dạ hiếu kỳ, hai đầu gối cong lại, nhún chân một cái, nhẹ
nhàng nhảy lên. Đột nhiên nghe bình một tiếng, đỉnh đầu đau nhói, mắt
sáng lòa, một nửa người đã xuyên qua nóc nhà mà vẫn tiếp tục bay lên,
vội vàng đưa tay giữ mái nhà ghìm lại, rơi trở xuống đất, còn nhảy tưng
tưng mấy bận, lúc ấy mới ngừng lại được. Khinh công như thế quả là
không dám nghĩ tới, trong nhất thời đã không vui mừng lại đâm ra sợ hãi.
Ông lão nói:
- Thấy thế nào?
Hư Trúc đáp:
- Tiểu tăng ... tiểu tăng bị ma làm chăng?
Ông lão nói:
- Ngươi cứ bình thản ngồi xuống, nghe ta kể hết nguyên nhân. Thời
khắc không còn nhiều, chỉ nói những gì quan trọng. Nếu như ngươi không
bằng lòng gọi ta là thầy, không muốn đổi tông phái thì ta cũng không ép
ngươi được. Tiểu sư phụ, ta cầu ngươi giúp ta một điều, thay ta làm một
chuyện, ngươi có bằng lòng không?
Hư Trúc xưa nay vẫn thích giúp người, nhà Phật tu theo lục độ15, đứng
đầu là bố thí, thế nhân có nạn phải hết sức giúp đỡ bèn nói:
- Tiền bối đã sai bảo ắt tiểu tăng sẽ kiệt lực mà làm.
Câu đó vừa nói ra, bỗng y chợt nghĩ công phu của ông lão này dường
như yêu tà của tả đạo, nên lại tiếp theo:
14
15
- Thế nhưng nếu tiền bối sai tiểu tăng làm chuyện sai quấy thì sẽ
không thể tòng mệnh đâu.
Ông lão kia trên mặt nụ cười gượng gạo hỏi lại:
- Thế ngươi nghĩ thế nào là chuyện sai quấy?
Hư Trúc chựng lại đáp:
- Tiểu tăng là đệ tử cửa Phật, những điều làm tổn hại đến người khác
thì nhất quyết không làm.
Ông già lại hỏi:
- Nếu như trên đời này có kẻ kia chuyên làm điều tổn hại người
khác, những chuyện sai quấy, giết người không gớm tay, ta sai ngươi đi
tiêu diệt kẻ đó, ngươi có bằng lòng không?
Hư Trúc đáp:
- Tiểu tăng sẽ hết lời khuyên y trở về đường ngay nẻo chánh.
Ông lão lại hỏi:
- Thế nhưng nếu chấp mê không nghe thì sao?
Hư Trúc ưỡn ngực nói:
- Phục ma trừ hại, đó là điều đương nhiên phải làm của chúng ta, có
điều tiểu tăng tài nghệ nông cạn, e rằng không gánh vác nổi trọng nhiệm
đó.
Ông lão nói:
- Thế có nghĩa là ngươi bằng lòng chứ gì?
Hư Trúc gật đầu nói:
- Tiểu tăng bằng lòng.
Ông già ra chiều vui sướng nói:
- Hay lắm! Hay lắm! Ta muốn ngươi đi giết một người, một kẻ đại
đại ác, chính là đệ tử của ta Đinh Xuân Thu, hiện nay trong võ lâm gọi là
Tinh Tú Lão Quái đó.
Hư Trúc thở phào một hơi, tưởng như trút được gánh nặng. Y chính
mắt thấy Tinh Tú Lão Quái chỉ một câu đã giết mười người phu xe, quả
là đại ác, chính sư bá tổ Huyền Nạn cũng bị y dùng tà thuật hóa tán hết
nội lực, liền đáp:
- Trừ khử Tinh Tú Lão Quái quả là công đức vô lượng, có điều tiểu
tăng công phu nhỏ bé, làm sao có thể ...
Nói đến đây y nhìn ông già, bốn mắt chạm nhau, thấy ông dường như
có ý diễu cợt, lập tức nghĩ ra: "Công phu nhỏ bé " xem chừng không đúng
nên im bặt. Ông lão nói:
- Cái công phu nhỏ bé mà ngươi đang có, không kém gì Tinh Tú Lão
Quái đâu, có điều muốn trừ diệt y quả là chưa đủ, thế nhưng ngươi chớ lo
lắng, lão phu đã sắp đặt cả rồi.
Hư Trúc đáp:
- Tiểu tăng từng nghe Tiết Mộ Hoa thí chủ nói về những chuyện ác
của Đinh ... Đinh thí chủ biển Tinh Tú, bảo là tiền bối đã bị ông ta hại
rồi, ngờ đâu lão tiền bối vẫn còn ở trên trần thế, quả ... quả là hay lắm,
hay lắm!
Ông lão thở dài nói:
- Năm xưa tên nghịch đồ đó đột nhiên giở chứng, đánh ta rơi vào
thâm cốc, tưởng ta đã táng mạng rồi. Cũng may người học trò lớn của ta
là Tô Tinh Hà giả câm giả điếc, có thế mới che dấu được tai mắt tên
phản phúc kia, ta mới giữ được chút hơi tàn, sống thêm ba mươi năm. Tư
chất của Tinh Hà cũng không phải dở đâu, có điều bị ta dẫn vào ngã rẽ,
phân tâm tập luyện bàng vụ, đi học cầm kỳ thư họa những trò vui chơi
nhàn nhã nên võ công thượng thừa của ta y không sao học nổi.
Trong ba mươi năm nay ta ngong ngóng một đứa học trò thông minh
mà lại chuyên tâm học hỏi để truyền lại võ học cả một đời, sai đi tru diệt
Đinh Xuân Thu. Thế nhưng cơ duyên không dễ gặp, người thông minh mà
bản tính chẳng ra gì, không chừng lại rơi vào vết xe đổ, dưỡng hổ di
hoạn; còn người tính tình tốt thì ngộ tính lại chẳng đủ. Đến lúc này ta xem
chừng đã tận tuổi trời rồi, không còn chờ thêm được nữa, nên đành phải
công bố cho thiên hạ bàn cờ Trân Lung năm xưa ta bày ra để tìm người
tài tuấn. Đại hạn của ta đã đến rồi, không còn thì giờ truyền thụ võ công
thành thử đứa quan môn đệ tử của ta ắt phải là một người trẻ tuổi thông
minh tuấn tú.
Hư Trúc nghe ông ta nói đến "thông minh tuấn tú", nghĩ thầm mình tư
chất đã chẳng thông minh, còn tuấn tú thì khỏi cần nói đến làm gì, nên
ngượng ngập nói:
- Những người tuấn nhã trên đời có biết bao nhiêu, ngay bên ngoài
kia cũng có hai người, một là Mộ Dung công tử, còn một vị là công tử họ
Đoàn. Tiểu tăng đi ra mời hai người đó vào hội kiến với tiền bối được
chăng?
Ông lão cười khẩy một tiếng nói:
- Ta nghịch vận Bắc Minh Thần Công đem hơn bảy mươi năm công
phu tu tập, trút vào cho ngươi cả rồi, làm sao còn truyền thụ cho người thứ
hai được nữa?
Hư Trúc hoảng hốt nói:
- Có thật là tiền bối ... tiền bối đem công lực cả đời truyền vào tiểu
tăng không? Lẽ ... lẽ nào ...
Ông lão nói:
- Chuyện này đối với ngươi là họa hay phúc, lúc này thật khó nói.
Võ công cao cường chắc gì đã là phúc, trên thế gian những người không
biết chút võ công nào, không lo không sầu, bớt tranh cạnh thì chẳng phải
cũng bớt phiền não hay sao? Nếu như năm xưa ta chỉ học cầm, học kỳ,
học thư, học họa mà chẳng nghiên cứu những môn võ học thì đời ta ắt
khoái hoạt hơn nhiều.
Ông nói tới đây thở dài một tiếng, ngẩng đầu nhìn qua lỗ hổng trên
mái nhà mà Hư Trúc đã đụng vỡ, dường như đang nhớ lại rất nhiều
chuyện đã qua, một lúc sau mới nói:
- Hảo hài tử, Đinh Xuân Thu vẫn tưởng ta đã chết dưới tay y rồi nên
không kiêng nể gì ai nữa. Còn bức tranh đây, bên trên vẽ nơi ta ngày xưa
hưởng thanh phúc ở núi Vô Lượng nước Đại Lý, là chỗ ngươi tìm võ học
điển tịch ta tàng trữ, theo đúng thế mà luyện tập thì võ công sẽ chẳng
kém gì Đinh Xuân Thu. Có điều tư chất ngươi dường như không tốt lắm,
tu tập võ công bản môn, chỉ sợ có nhiều chỗ ngắc ngứ, có thể gặp khó
khăn hung hiểm không chừng.
Vậy ngươi phải đi cầu một người đàn bà ở thạch động trong núi Vô
Lượng chỉ điểm cho. Bà ta thấy ngươi tướng mạo không đẹp, chắc là
không chịu dạy đâu, nhưng xin bà ta hãy nghĩ đến ta ...khục ... khục ...
Ông ta nói đến đây thì ho sù sụ, thở chẳng ra hơi, lấy trong người một
quyển trục nho nhỏ nhét vào tay Hư Trúc. Hư Trúc không khứng chịu,
dùng dằng nói:
- Tiểu tăng học nghệ chưa thành, lần này theo lệnh thầy xuống núi
đưa thư, phải trở về núi ngay để phục mệnh, từ nay về sau có gì cũng
phải theo sư mệnh mà làm. Nếu như phương trượng bản tự và nghiệp sư
không bằng lòng, thì không thể nào tuân theo lời dặn dò của tiền bối
được.
Ông lão gượng nở một nụ cười nói:
- Nếu quả đó là thiên ý muốn cho kẻ ác tự tung tự tác, thì cũng
chẳng còn cách nào hơn, ngươi ... ngươi ...
Ông ta nói được hai chữ "ngươi" bỗng toàn thân run rẩy, từ từ gục
người xuống, hai tay chống dưới đất, tưởng chừng như sắp tắt thở rồi. Hư
Trúc hoảng hốt vội vàng đưa tay đỡ hỏi:
- Lão ... lão tiền bối sao thế?
Ông già đáp:
- Hơn bảy mươi năm tu luyện của ta truyền hết cho ngươi rồi, hôm
nay mệnh đã hết. Này con, ngươi nhất định không chịu gọi ta bằng "sư
phụ" ư?
Ông ta nói tới đây thì hổn hển dường như sắp chết. Hư Trúc nhìn ánh
mắt van xin của ông lão thật đáng thương, nẫu cả ruột buột miệng kêu
lên:
- Sư phụ!
Ông lão mừng quá, cố sức tháo trên ngón tay bên trái ra một chiếc
nhẫn bằng bảo thạch, muốn đeo vào tay cho Hư Trúc, có điều lực khí hao
kiệt, đến nắm cổ tay Hư Trúc cũng không xong. Hư Trúc vội kêu lên:
- Sư phụ!
Rồi cầm chiếc nhẫn đeo luôn vào ngón tay mình. Ông lão phều phào:
- Ngoan ... con ngoan lắm! Con là đệ tử thứ ba của ta, nếu gặp Tô
Tinh Hà thì gọi y ... gọi y là đại sư ca. Con họ gì?
Hư Trúc đáp:
- Con quả thực không biết.
Ông lão thở dài:
- Tiếc thay mặt mũi con không được dễ coi, rồi đây sẽ gặp nhiều
chuyện rắc rối, có điều con là chưởng môn phái Tiêu Dao, người đàn bà
ấy không dám vi kháng mệnh lệnh của con đâu, tốt lắm, tốt lắm ...
Ông ta càng nói thanh âm càng nhỏ, tới câu "tốt lắm" thứ hai thì chỉ
còn mong manh như tơ, nghe không rõ, đột nhiên cười ha ha mấy tiếng,
người bổ nhào về trước, nghe bình một tiếng, trán đập xuống đất, rồi
không động đậy gì nữa.
Hư Trúc vội vàng đỡ ông ta lên, đưa tay thăm dò thì đã tắt thở, vội
vàng chắp tay niệm Phật:
- Nam mô A Di Đà Phật! Nam mô A Di Đà Phật! Nguyện cầu Phật A
Di Đà, Quan Thế Âm bồ tát, Đại Thế Chí bồ tát tiếp dẫn lão tiên sinh
vãng sinh thế giới tây phương cực lạc.
Y ở với ông lão này chưa đầy một giờ, đúng ra chẳng có bao nhiêu
tình nghĩa, thế nhưng trong người nhận hơn bảy mươi năm công lực của
ông ta, ngấm ngầm cảm thấy ông lão đối với mình thân cận hơn bất cứ ai
khác, nói đúng ra, một phần của ông ta đã biến thành con người mình, đột
nhiên trong lòng buồn bã, khóc òa lên.
Y khóc một lúc rồi mới quì xuống, hướng về di thể của ông lão lạy
mấy lạy, lẩm nhẩm khấn:
- Lão tiền bối, tiểu tăng giả vờ gọi ông là sư phụ đấy thôi, xin ông
đừng coi là thật. Ông tâm thần nếu không mê muội xin đừng trách tôi.
Khấn xong rồi, y mới quay lại theo lỗ hổng đã phá ban nãy chui ra,
nhảy nhẹ một cái, đã vượt qua hai lần vách đến bên ngoài.
Tiêu dao tự tại một thân,
Chẳng ai ước thúc bó chân ra vào.
*
* *
Hư Trúc vừa ra khỏi căn nhà gỗ, không khỏi kinh ngạc, thấy trên khu đất là
một cột lửa thật lớn, còn trên mặt đất cây tùng đổ nằm ngổn ngang. Y vào trong
căn nhà gỗ dường như cũng chẳng bao lâu, thế nhưng bên ngoài đánh nhau long
trời lở đất, ắt là những cây tùng này bị người ta đánh ngã lúc y đang hôn mê
thành ra ở trong nhà không nghe gì cả.
Lại thấy người đứng chung quanh cây cột lửa chia thành hai phe. Lung Á lão
nhân Tô Tinh Hà đứng ở phía bên phải, Huyền Nạn cùng các nhà sư Thiếu Lâm,
Khang Quảng Lăng, Tiết Mộ Hoa cả bọn đứng sau lưng ông ta. Tinh Tú Lão Quái
đứng phía bên trái, gã đầu sắt Du Thản Chi và bọn đệ tử phái Tinh Tú đứng sau
lưng ông ta. Mộ Dung Phục, Vương Ngữ Yên, Đoàn Dự, Cưu Ma Trí, Đoàn Diên
Khánh, Nam Hải Ngạc Thần các người khác thì đứng rải rác ở xa xa.
Tô Tinh Hà và Đinh Xuân Thu hai người đang thúc đẩy chưởng lực, đẩy cây
cột lửa rạp về đối phương, thế nhưng trước mắt ngọn lửa ngả về bên phải, hiển
nhiên Đinh Xuân Thu đang chiếm thượng phong.
Mọi người đăm đăm nhìn cây cột lửa, thành ra khi Hư Trúc từ trong nhà
bước ra chẳng một ai chú ý. Đương nhiên Vương Ngữ Yên chỉ quan tâm một mình
biểu ca Mộ Dung Phục, còn Đoàn Dự thì chỉ nghĩ đến Vương Ngữ Yên, hai người
tuy không nhìn cây cột lửa, nhưng cũng chẳng ngó ngàng gì đến Hư Trúc.
Hư Trúc đi vòng xa xa sau lưng mọi người qua đến bên phải, đứng ở bên
cạnh sư thúc Tuệ Kính, thấy ngọn lửa mỗi lúc một rạp về hướng mình, quần áo Tô
Tinh Hà đều căng phồng chân khí, chẳng khác gì một cánh buồm no gió, song
chưởng không ngừng mãnh liệt đẩy về phía trước.Còn Đinh Xuân Thu thì vẫn thản nhiên như không, tay áo phất nhẹ, làm như
chẳng coi vào đâu. Tiếng tán tụng của bọn đệ tử vang lên đều một nhịp:
- Tinh Tú lão tiên ra tay trông thì nhẹ nhàng mà thật mạnh, thần công cái
thế hôm nay khiến cho bọn chúng mở mắt.
- Sư phụ ta chẳng qua chỉ muốn giáo huấn bọn đứng ngoài, cho nên chậm
rãi thúc đẩy thần công, chứ không thì đã tru diệt lão họ Tô từ đời nào rồi.
- Đứa nào không phục thì cứ ra nếm thử mùi vị thần công của Tinh Tú lão
tiên.
- Chúng bay có giỏi thì cứ liên thủ tiến lên ai sợ gì đâu!
- Cổ vãng kim lại có ai sánh kịp với Tinh Tú lão tiên được đâu! Kẻ nào bọ
ngựa chống xe thật chỉ có mua cái chết!
Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Đoàn Diên Khánh mọi người đều nghĩ, nếu như
mấy người sát cánh tiến ra, vây đánh Đinh Xuân Thu, Tinh Tú Lão Quái dẫu ghê
gớm thật nhưng làm sao chống được với mấy cao thủ hợp lực. Thế nhưng những
người đó tự trọng thân phận, chẳng đời nào làm chuyện họp nhau vây đánh một
người, hai nữa Tinh Tú Lão Quái và Tô Tinh Hà đồng môn tàn sát lẫn nhau, người
ngoài chẳng nên tham dự làm gì, ba là ai ai cũng e ngại kẻ khác thừa cơ hạ thủ,
cho nên tuy bọn đệ tử phái Tinh Tú đưa sư phụ lên tận mây xanh mà Cưu Ma Trí
vẫn chỉ mủm mỉm cười, không lý tới.
Đột nhiên cây cột lửa đổ ập về phía trước, cuốn lấy người Tô Tinh Hà, mùi
khét lẹt xông lên, bộ râu dài của ông ta đã bị đốt cháy sạch. Tô Tinh Hà hết sức
chống trả mới đẩy lùi được nhưng ngọn lửa cũng chỉ cách người ông chừng hai
thước, không ngừng chồm tới hụp lui, chẳng khác gì một con đại mãng xà há mồm
lè lưỡi, đang định nuốt chửng ông lão. Hư Trúc trong bụng hãi ngầm: "Xem chừng
Tô thí chủ sắp bị Đinh thí chủ đốt đến nơi, mình phải làm gì đây?".
Bỗng nghe phèng phèng, rồi thêm hai tiếng tùng tùng, tiếng trống tiếng
thanh la nổi lên, thì ra bọn đệ tử phái Tinh Tú có mang theo não bạt, trống chiêng
lúc này đem ra, kẻ thổi kèn ti toe, người đánh trống inh ỏi để diệu võ dương oai
cho sư phụ, lại cũng có người vừa phất cờ xanh, cờ vàng, cờ đỏ, cờ tím vừa reo hò
rầm rĩ.
Trong võ lâm hai người tỉ thí nội công lại có người đứng bên khua chiêng
đánh trống trợ uy, quả thực từ thuở khai thiên lập địa đến giờ chưa từng có. Cưu
Ma Trí đứng cười ha hả nói:- Da mặt Tinh Tú Lão Quái quả là dày, đúng là xưa nay chưa ai bì kịp.
Trong tiếng thanh la kèn trống, một tên đệ tử lấy ra một tờ giấy, lớn tiếng
ngâm nga, lên bổng xuống trầm, hóa ra là một thiên "Cung Tụng Tinh Tú Lão
Tiên Dương Uy Trung Nguyên Tán"1. Không biết gã này thuê được tên hủ nho nào
viết bài từ ca công tụng đức, nghe lên vừa bợ đỡ, vừa vênh vang, tiếng chập cheng
phụ họa giữ nhịp cho lời phét lác.
Thế nhưng nếu bỏ qua những lời rặt giọng vô liêm sỉ này, nội lực Tinh Tú
Lão Quái phải nói là ào ào như sóng cả. Cùng với tiếng chiêng trống và lời ca
tụng, cây cột lửa mỗi lúc một vượng, ngả về đằng trước nửa thước nữa.
Đột nhiên có tiếng chân người rầm rập, hơn hai chục người từ căn nhà phía
sau chạy ra, đứng chắn ngay trước mặt Tô Tinh Hà, chính là những hán tử câm
điếc vừa mới cáng bọn Huyền Nạn lên núi khi nãy, đều là môn hạ đệ tử của Lung
Á lão nhân.
Đinh Xuân Thu càng thúc chưởng lực tới, cây cột lửa ập lên hai chục gã kia,
lập tức có tiếng sèo sèo, cả bọn liền bị cháy xém như heo quay. Tô Tinh Hà toan
dùng chưởng đẩy bọn họ ra ngoài nhưng hai bên cách nhau khá xa, chưởng lực
không tới được. Hai chục người đó đứng như trời trồng, cháy như cây đuốc, không
ai cử động chút nào, miệng lại không nói được nên cảnh tượng quả là bi tráng.
Việc xảy ra khiến người bên ngoài ai nấy chấn động, đến cả Vương Ngữ
Yên và Đoàn Dự cũng quay đầu lại. Cây cột lửa vẫn cháy bừng bừng, bao trùm cả
hai chục người trong đó. Đoàn Dự kêu lên:
- Không nên tàn nhẫn như thế.
Tay phải chàng vung ra, toan dùng Lục Mạch Thần Kiếm đâm vào Đinh
Xuân Thu, tuy nhiên chàng vận kiếm không đúng phép tắc, nội lực chứa đầy trong
người nhưng chỉ chạy qua chạy lại không cách nào theo ngón tay bắn ra được.
Chàng toát mồ hôi hột, kêu lên:
- Mộ Dung công tử mau ra tay ngăn chặn họ đi.
Mộ Dung Phục đáp:
- Đã có phương gia Đoàn huynh nơi đây, tiểu đệ nào dám múa búa trước
cửa Lỗ Ban? Đoàn huynh thử Lục Mạch Thần Kiếm lần nữa xem nào!
1 Đoàn Diên Khánh đến chậm nên không nhìn thấy Lục Mạch Thần Kiếm của
Đoàn Dự, nghe Mộ Dung Phục nói thế, trong lòng không khỏi chấn động, liếc mắt
nhìn Đoàn Dự để xem có thần công này thật hay không nhưng chỉ thấy anh chàng
chỉ chỉ trỏ trỏ, xuất thủ xem ra cũng có khuôn phép nhưng không có một chút nội
lực nào, nghĩ thầm: "Cái gì mà Lục Mạch Thần Kiếm, làm ta bở vía một phen. Thì
ra tiểu tử này hư trương thanh thế, hoa chân múa tay để dọa người khác. Mặc dù
người xưa có truyền lại là Đoàn gia nhà mình có kỳ công Lục Mạch Thần Kiếm
nhưng đã thấy ai luyện được đâu?".
Mộ Dung Phục thấy Đoàn Dự không chịu ra tay, lại tưởng chàng cố tình dấu
tài, nên cứ thản nhiên đứng xem động tĩnh biến chuyển thế nào rồi tính sau.
Một hồi sau, hơn hai chục người câm bị lửa thiêu đã chết quá nửa, chỗ còn
lại thì ai cũng trọng thương, lục tục ngã xuống. Trong tiếng trống chiêng, Đinh
Xuân Thu phất tay áo hai lần, cây cột lửa lại ập về phía Tô Tinh Hà. Tiết Mộ Hoa
kêu lên:
- Không được hại sư phụ ta!
Ông ta xông lên toan đứng chặn ngọn lửa, Tô Tinh Hà tung chưởng đẩy
người học trò ra nói:
- Chết vô ích thôi!
Tay trái ông ngưng tụ công lực tàn dư, đánh mạnh vào cây cột lửa. Thế
nhưng lúc này nội lực hao kiệt cả rồi, chưởng đó chỉ chặn ngọn lửa lại một cái, rồi
thấy nóng bừng, trước mắt chỉ toàn màu đỏ rực, đâu đâu cũng là lửa cả. Tô Tinh
Hà ở vào thế dầu cạn đèn khô, nghĩ đến Đinh Xuân Thu sau khi giết được mình rồi
thể nào cũng xông vào, sư phụ giả chết ba mươi năm nay, sau cùng rồi cũng không
thoát khỏi độc thủ của y. Ông bị cây cột lửa ép tới mà trong lòng chua xót không
đâu cho xiết.
Hư Trúc thấy Tô Tinh Hà ở vào cảnh cực kỳ nguy hiểm nhưng vẫn đứng trơ
trơ, không chịu lùi lấy nửa bước. Y càng nhìn càng thấy thương tâm, lập tức xông
ra, nắm lấy lưng ông ta kêu lên:
- Chết chỉ uổng mạng thôi, mau lùi ra đi!
Ngay lúc đó, Tô Tinh Hà đang vận chưởng đánh ra nhưng thế đã yếu lắm
rồi, xem ra cũng chẳng công hiệu, có điều sống mái một trận đến cùng chứ chẳng
lẽ bó tay chịu chết. Ngờ đâu một luồng nội lực hồn hậu vô cùng từ sau lưng truyền
vào, gia số cùng loại với mình không sai một mảy, thành ra chưởng đó tung ra, lựcđạo mạnh hơn không biết bao nhiêu lần. Chỉ nghe vù một tiếng lớn, cây cột lửa
quay ngược trở lại, ập lên người Đinh Xuân Thu, dư lực chưa hết đốt luôn cả một
mớ học trò của lão.
Chỉ nghe thấy tiếng loảng xoảng, leng keng liên hồi cộng thêm tiếng la ó
rầm trời, loạn cả lên:
- Phái Tinh Tú uy chấn Trung Nguyên, ân sư chúng ta đời nay không ai
địch nổi.
Xen lẫn với:
- Ối ối! Mẹ ơi!
- Chết cha rồi! Phái Tinh Tú chạy cho mau!
- Phái Tinh Tú lúc co lúc duỗi, thôi lần sau mình dương uy cũng được.
Đinh Xuân Thu kinh hoảng, thực ra nội lực của Hư Trúc cộng với chưởng
phong của Tô Tinh Hà, chưa hẳn đã thắng được y, có điều y đang chắc mẩm nhơn
nhơn đắc ý không đề phòng, đột nhiên bị phản kích nên một phen bở vía. Y lại
thấy trong chưởng phong hàm chứa nội lực già dặn chín chắn, hơn hẳn sư huynh Tô
Tinh Hà, hiển nhiên là công phu bản phái, không lẽ đó là sư phụ bị mình giết rồi
hiển linh chăng? Là hồn ma sư phụ đến đòi mạng chăng? Y nghĩ đến đó, tâm thần
hoảng loạn, nội lực không còn ngưng tụ được nữa, cây cột lửa liền cuốn vào người
không còn sức đâu đẩy ngược lại, quần áo râu tóc lập tức cháy bùng lên.
Bọn đệ tử liền hô hoán rầm lên:
- Tinh Tú lão tiên xem chừng không xong!
Đinh Xuân Thu hoảng hốt vội gọi:
- Học trò đầu sắt ơi, mau ra tay đi!
Du Thản Chi lập tức múa chưởng đánh vào cây cột lửa, chỉ nghe phụp phụp
mấy tiếng, cây cột lửa gặp phải chưởng lực cực kỳ lạnh lẽo của y, lập tức tắt
ngúm, đến khói xanh cũng tan biến thật nhanh, dưới đất chỉ còn mấy cây gỗ tùng
đã thành than.
Đinh Xuân Thu râu tóc cháy rụi, quần áo cũng rách bươm, mặt hầm hầm
nhưng trong bụng vẫn thấp thỏm chuyện hồn ma sư phụ hiển linh, nên không còn
dám hung hăng nữa, quát lớn:
- Thôi đi!Y nhún mình một cái đã vọt ra ngoài bảy tám trượng. Bọn đệ tử phái Tinh
Tú lập tức chạy theo, thanh la não bạt, chiêng trống đều quăng bỏ hết, còn thiên
"Cung Tụng Tinh Tú Lão Tiên Dương Uy Trung Nguyên Tán" đọc chưa xong,
cũng bị ngọn lửa cháy mất một miếng lớn, theo gió bay vật vờ, tưởng chừng như
đang nhạo báng Tinh Tú Lão Quái "dương uy Trung Nguyên".
Bỗng nghe từ đằng xa một tiếng kêu thảm khốc, rồi một tên đệ tử phái Tinh
Tú bay bổng lên, khi rơi xuống nằm không nhúc nhích. Mọi người mặt mày ngơ
ngẩn, chắc mẩm Tinh Tú Lão Quái bị thua, thẹn quá hóa giận, không biết tên đồ
đệ đó mở miệng chữa thẹn thế nào, bốc thơm không đúng cách, mó phải hàm chó
vó ngựa bị đánh một chưởng chết tươi.
Huyền Nạn, Đoàn Diên Khánh, Cưu Ma Trí ai ai cũng cho rằng Lung Á lão
nhân Tô Tinh Hà dùng kế khổ nhục để dụ cho Đinh Xuân Thu hao phí công lực
tiêu diệt những hán tử câm điếc kia, sau đó mới bất ngờ tấn công một đòn trời long
đất lở, khiến y trở tay không kịp phải cúp đuôi mà chạy.
Lung Á lão nhân về mưu kế cũng như võ công đã nổi tiếng trên giang hồ từ
lâu, mới rồi cùng Tinh Tú Lão Quái một trường ác đấu, đánh ngã những cây tùng
sần sùi đường kính cả thước, ai ai trông thấy cũng kinh tâm động phách. Sau cùng
ông ta lại thi triển thần công, đánh đuổi được Tinh Tú Lão Quái cũng chẳng ai cho
là lạ. Huyền Nạn nói:
- Tô tiên sinh thần công thâm hậu đuổi được lão quái đó đi, xem ra sau trận
ác đấu này hết hồn mất vía, không còn dám bước chân vào Trung Nguyên nữa
đâu. Tiên sinh tạo phúc cho võ lâm quả không phải là nhỏ.
Tô Tinh Hà thoáng thấy trên ngón tay Hư Trúc chiếc nhẫn bằng bảo thạch
của sư phụ, hiểu ngay nguyên do, trong lòng vừa buồn bã, vừa vui mừng, nhìn
quanh thấy đám đệ tử mười người chết chín, còn lại cũng bị thương nặng khó mà
chữa lành, cực kỳ đau khổ, nhưng khắc khoải an nguy của sư phụ nên quay qua
trao đổi với Huyền Nạn, Mộ Dung Phục vài câu khách sáo rồi nắm tay Hư Trúc
nói:
- Mời tiểu sư phụ theo ta vào trong.
Hư Trúc đưa mắt nhìn Huyền Nạn, đợi ông ta ra lệnh. Huyền Nạn nói:
- Tô tiền bối là võ lâm cao nhân, nếu có dặn bảo điều gì, ngươi nhất thiết
nên tuân theo.
Hư Trúc đáp:- Vâng!
Rồi theo Tô Tinh Hà chui qua chỗ bức vách bị vỡ đi vào trong nhà. Tô Tinh
Hà tiện tay cầm một mảnh ván, bịt cái lỗ hổng đó lại. Mọi người từng đi lại trên
giang hồ, hiểu rộng biết nhiều thấy ông ta làm thế là có ý không muốn ai dòm
ngó, nên cũng chẳng ai muốn dính dáng vào chuyện người ngoài. Có lẽ người duy
nhất không hiểu rộng biết nhiều là anh chàng Đoàn Dự, nhưng từ nãy đến giờ chỉ
chăm chăm nhìn vào Vương Ngữ Yên đến Tô Tinh Hà và Hư Trúc đi vào trong
nhà chàng cũng không hay biết, thì còn lòng dạ đâu mà lo đến chuyện gì khác?
Tô Tinh Hà và Hư Trúc dắt tay nhau xuyên qua hai lần vách thấy ông lão
kia nằm phục dưới đất, đưa tay sờ thử thì đã tắt thở. Việc này Tô Tinh Hà đã đoán
được tám chín phần nhưng cũng buồn bã nhịn không nổi, quì xuống rập đầu mấy
cái nói:
- Sư phụ ơi là sư phụ! Rồi sau cùng thầy cũng bỏ con mà đi!
Hư Trúc nghĩ thầm: "Ông lão này quả nhiên là sư phụ của Tô lão tiền bối
thật". Tô Tinh Hà gạt lệ đứng lên, đỡ xác sư phụ ngồi ngay ngắn dựa lưng vào
vách, sau đó lại đỡ Hư Trúc cũng ngồi xuống ngay bên cạnh xác ông lão kia. Hư
Trúc chột dạ: "Ông ta để mình ngồi ngang hàng với xác lão tiên sinh để làm gì thế
này? Không lẽ ... không lẽ ... muốn mình đi theo hầu sư phụ ông ta xuống tuyền
đài chăng?". Y rợn người, toan đứng lên nhưng lại không dám.
Tô Tinh Hà sửa lại áo quần vốn đã bị cháy rách bươm, đột nhiên quì xuống
trước mặt Hư Trúc rập đầu lạy mấy cái nói:
- Kẻ đệ tử không xứng đáng của phái Tiêu Dao là Tô Tinh Hà, tham kiến
tân chưởng môn của bản phái.
Câu nói đó khiến cho Hư Trúc giật nảy người, chân tay như tê liệt, nghĩ
thầm: "Người này điên quá mất thôi! Người này điên quá mất thôi!". Y vội vàng
quì xuống hoàn lễ nói:
- Lão tiền bối hành đại lễ thế này, tiểu tăng không thể nào dám nhận.
Tô Tinh Hà nghiêm mặt nói:
- Sư đệ, ngươi là quan môn đệ tử 2 của sư phụ, lại là chưởng môn của bản
phái. Ta tuy là sư huynh thật nhưng phải khấu đầu trước mặt ngươi.
Hư Trúc ấp úng:
2 - Cái đó ... cái đó ...
Lúc đó y mới biết Tô Tinh Hà không hóa điên nhưng nếu ông ta không mất
trí thì mình lại ở vào cảnh cực kỳ khó xử, trong bụng chỉ biết than trời trách đất. Tô
Tinh Hà nói:
- Sư đệ, cái mạng ta là do ngươi cứu, tâm nguyện của sư phụ cũng do ngươi
hoàn thành, có nhận vài cái lạy thì cũng đúng thôi. Sư phụ bảo ngươi rập đầu chín
cái bái lão nhân gia làm thầy, ngươi đã lạy chưa?
Hư Trúc đáp:
- Khấu đầu thì có đấy, nhưng khi đó tiểu tăng nào có biết đó là bái sư. Tiểu
tăng là đệ tử phái Thiếu Lâm không thể đổi qua gia nhập phái khác được.
Tô Tinh Hà nói:
- Sư phụ cũng đã nghĩ đến chuyện đó rồi, chắc đã hóa tán võ công cũ của
sư đệ rồi mới truyền công phu bản phái. Sư phụ đem công lực cả một đời truyền
cho ngươi, có phải không?
Hư Trúc đành phải gật đầu nói:
- Đúng thế!
Tô Tinh Hà nói:
- Cái nhẫn bằng bảo thạch dấu hiệu của chưởng môn bản phái này là do sư
phụ rút ra từ tay mình đeo vào cho ngươi, có phải không nào?
Hư Trúc đáp:
- Đúng thế! Có điều ... có điều tiểu tăng nào có biết đó là tiêu ký của
chưởng môn đâu.
Tô Tinh Hà ngồi xếp bằng dưới đất nói:
- Sư đệ, ngươi phúc trạch quả là dày. Ta và Đinh Xuân Thu mơ tưởng đến
cái nhẫn bảo thạch này mấy chục năm qua, nhưng chẳng bao giờ tới tay mình
được, còn ngươi chỉ trong một giờ mà đã được sư phụ để mắt đến rồi.
Hư Trúc vội vàng tháo chiếc nhẫn đưa ra nói:
- Vậy thì tiền bối cầm lấy đi, cái nhẫn này tiểu tăng chẳng dùng được vào
việc gì cả.
Tô Tinh Hà không nhận, mặt sầm xuống:- Sư đệ, ngươi nhận trọng thác của sư phụ lúc lâm chung, sao lại đẩy trách
nhiệm cho người khác? Sư phụ đem chiếc nhẫn giao cho ngươi là để sai ngươi đi
diệt trừ Đinh Xuân Thu, có đúng không?
Hư Trúc đáp:
- Quả có thế thực, thế nhưng tiểu tăng công phu nông cạn, làm sao đảm
đương nổi việc nặng nề to lớn như thế?
Tô Tinh Hà thở dài một tiếng, cầm chiếc nhẫn đeo lại vào tay Hư Trúc nói:
- Này sư đệ, những chuyện bên trong phần lớn ngươi chưa biết gì cả, để ta
giản lược thuật lại cho ngươi nghe. Bản phái gọi là phái Tiêu Dao, trước nay có lệ
là chưởng môn không hẳn phải do đại đệ tử tiếp nhiệm, trong môn hạ ai võ công
cao siêu nhất thì người đó làm chưởng môn.
Hư Trúc vội đáp:
- Đúng! Đúng! Có điều tiểu tăng võ công cực kỳ kém cỏi.
Tô Tinh Hà không lý đến việc y ngắt ngang, nói tiếp:
- Đồng môn với sư phụ chúng ta cả thảy là ba người, sư phụ đứng thứ hai,
thế nhưng võ công lão nhân gia giỏi hơn sư bá thành thử được làm chưởng môn. Về
sau thu ta và Đinh Xuân Thu làm đệ tử, sư phụ mới định ra qui củ, sở học của
người rất là đa tạp, ai muốn làm chưởng môn thì phải tỉ thí mọi môn, không riêng
gì võ nghệ, mà cả cầm kỳ thư họa. Đinh Xuân Thu không thông môn tạp học nào,
thấy không còn hi vọng gì chức vụ chưởng môn thành thử mới bất ngờ ra tay ám
toán đánh sư phụ rơi xuống vực sâu, lại đánh cả ta trọng thương.
Hư Trúc khi còn trong hầm nhà Tiết Mộ Hoa đã từng nghe câu chuyện này,
ngờ đâu bây giờ trách nhiệm lại đổ lên đầu mình gánh vác, trong bụng chỉ biết
than trời trách đất, thuận miệng đẩy đưa:
- Cũng may lúc đó Đinh thí chủ không giết tiền bối.
Tô Tinh Hà đáp:
- Ngươi đừng tưởng là y có bụng nhân từ mà cho ta sống sót. Một là khi đó
y không phá được trận ngũ hành bát quái, kỳ môn độn giáp ta bày ra; hai là ta bảo
với y: "Đinh Xuân Thu, ngươi ám toán sư phụ, võ công lại thắng cả ta, nhưng công
phu thâm áo nhất của phái Tiêu Dao, ngươi chưa biết tí gì. Bộ kinh thư Bắc Minh
Thần Công ngươi có muốn xem chăng? Khinh công Lăng Ba Vi Bộ, ngươi có muốnhọc chăng? Rồi Thiên Sơn Lục Dương Chưởng? Tiêu Dao Chiết Mai Thủ? Tiểu Vô
Tướng Công nữa?".
Đó đều là những công phu tối thượng thừa của bản phái, đến ngay cả sư phụ
chúng ta vì quá màng đến tạp học nên nhiều môn cũng chưa học đến. Đinh Xuân
Thu vừa nghe thấy thế, sung sướng đến run bắn người lên, nói: "Ngươi đem những
võ công bí cập đó giao ra, hôm nay ta tha mạng cho ngươi". Ta mới nói: "Ta làm
sao có được những bí cập đó được? Có điều nơi sư phụ cất dấu những quyển sách
đó thì ta biết. Ngươi muốn giết ta thì cứ ra tay đi". Đinh Xuân Thu đáp: "Bí cập dĩ
nhiên ở bên bờ biển Tinh Tú, chẳng lẽ ta không biết hay sao?". Ta đáp: "Đúng đó,
quả thực ở bên biển Tinh Tú. Ngươi có giỏi thì tự mình đi tìm đi". Y trầm ngâm
một hồi, biết rằng biển Tinh Tú chu vi mấy trăm dặm, mấy bộ bí cập nhỏ xíu đó
biết dấu nơi đâu, quả là khó mà tìm cho ra được, bèn nói: "Được, ta không giết
ngươi. Có điều từ rày trở đi, ngươi phải giả câm giả điếc, không được đem bí mật
của bản phái tiết lộ cho ai hay".
Tại sao y không giết ta? Y để ta sống sót vì còn mong ép buộc ta khai ra còn
nếu giết ta rồi, nơi bí mật tàng trữ những bí cập này trên đời không còn ai biết nữa.
Thực ra những võ công bí cập đó nào có phải ở bờ biển Tinh Tú đâu, mà phân tán
ra cho sư bá, sư phụ, sư thúc ba người.
Đinh Xuân Thu cứ tưởng ở bên bờ biển Tinh Tú, dường như lật hết mọi tảng
đá ở đó rồi nhưng nào có tìm thấy thần công bí cập? Mấy lần y đến tìm ta gây
chuyện, đều bị ta sắp xếp cơ quan, các loại phương thuật kỳ môn độn giáp ngăn
chặn được. Lần này y lại định hỏi nữa, nhưng thấy không hi vọng gì, mà ta lại phá
lời thề rồi, nên định giết ta cho hả tức.
Hư Trúc nói:
- Cũng may tiền bối ...
Tô Tinh Hà ngắt ngang:
- Sư đệ là chưởng môn bản phái, sao còn gọi ta tiền bối, phải gọi ta là sư ca
mới phải.
Hư Trúc nghĩ thầm: "Chuyện này quả là nhức đầu nhức óc, không biết đến
bao giờ mới nói rõ nguồn cơn được". Y bèn đáp:
- Tiên sinh có phải sư huynh của tiểu tăng hay không, tạm thời không đề
cập đến, mà dẫu có là sư huynh thật chăng nữa, thì cũng là "tiền bối".
Tô Tinh Hà gật đầu:- Nói thế cũng đúng. Vậy cũng may ta làm sao?
Hư Trúc đáp:
- Cũng may tiền bối hết sức nhẫn nhịn, dưỡng uy súc nhuệ đến lúc sinh tử
quan đầu mới đột nhiên phản kích trở lại, khiến cho Tinh Tú Lão Quái đại bại bỏ
chạy trối chết.
Tô Tinh Hà xua tay liên tiếp nói:
- Sư đệ, ngươi quả là không phải, rõ ràng ngươi dùng thần công sư tôn
truyền thụ ra tay trợ giúp ta, có thế mới cứu ta khỏi chết, sao lại khiêm tốn không
chịu nhận? Ta với ngươi là sư huynh đệ đồng môn, ngôi thứ đã định rồi, mạng ta
cũng do ngươi cứu, ta không bao giờ có ý định dòm ngó chức vụ chưởng môn. Từ
rày về sau ngươi không được khách sáo như thế nữa.
Hư Trúc chưng hửng hỏi lại:
- Tiểu tăng trợ giúp tiền bối hồi nào? Việc cứu mạng kia ở đâu mà ra mới
được chứ?
Tô Tinh Hà suy nghĩ một chút rồi nói:
- Cũng có thể ngươi vì vô tâm mà làm cũng không biết chừng. Nhưng dẫu
sao chăng nữa, khi bàn tay ngươi đặt lên lưng ta thì thần công bản môn truyền ra
giúp ta phản bại vi thắng.
Hư Trúc đáp:
- Ồ, thì ra là thế. Như vậy là sư phụ tiền bối cứu mạng chứ nào có phải tiểu
tăng đâu.
Tô Tinh Hà nói:
- Thì ta cũng bảo sư tôn mượn tay ngươi cứu ta, ngươi có nhận thế không
nào?
Hư Trúc không còn cách gì phủ nhận được, đành phải gật đầu:
- Cái đó cũng thuận theo nhân tình, không nhận cũng không xong, tiểu
tăng đành phải chịu.
Tô Tinh Hà nói tiếp:
- Khi đó nhân lúc xuất kỳ bất ý thần công của ngươi tung ra đánh Đinh
Xuân Thu, khiến y kinh hoảng bỏ chạy. Nếu như giao đấu thực sự hẳn hòi, hai
người mình hợp lực, cũng chưa phải là địch thủ của y đâu. Nếu không thì sư phụ
chỉ cần trút thần công vào người ta là đã có thể lấy mạng tên phản đồ đó, việc gìphải hao phí biết bao công sức đi tìm truyền nhân? Trong ba mươi năm qua, ta đã
bao lần thử đủ mọi cách, vẫn không sao tìm được người kế thừa võ công của sư
phụ. Đến khi ta thấy sư phụ ngày càng già yếu, việc kiếm truyền nhân càng thêm
khó khăn, phải là một trang thanh niên không những ngộ tính cực cao, mà còn phải
anh tuấn tiêu sái ...
Hư Trúc nghe ông ta đề cập đến "một trang thanh niên anh tuấn", hơi nhíu
mày nghĩ thầm: "Tu luyện võ công có liên quan gì đến xấu hay đẹp đâu? Hai thầy
trò cứ đề cập đến hình mạo kẻ truyền nhân, không hiểu vì lý do gì?". Tô Tinh Hà
đưa mắt đánh giá Hư Trúc, thở dài một tiếng. Hư Trúc nói:
- Tiểu tăng tướng mạo xấu xí, không thể nào đủ tư cách làm truyền nhân
của tôn sư. Lão tiền bối đi kiếm một thanh niên anh tuấn tiêu sái tới đây, tiểu tăng
đem thần công của tôn sư truyền lại cho y, thế là xong.
Tô Tinh Hà sững sờ nói:
- Thần công của bản phái đi liền với tâm mạch khí huyết, công còn người
còn, công mất người mất. Sư phụ truyền thần công cho ngươi xong liền cỡi hạc tiên
du, không lẽ ngươi không thấy hay sao?
Hư Trúc liên tiếp dậm chân nói:
- Thế thì biết làm sao đây? Tôi làm hỏng việc lớn của tôn sư và tiền bối
mất rồi.
Tô Tinh Hà nói:
- Sư đệ, gánh nặng đó giờ đây do ngươi đảm trách. Sư phụ sắp đặt bàn cờ
cốt để khảo sát ngộ tính những người đến phá giải. Bàn cờ Trân Lung đó quá ư
khó khăn, ta hết sức suy nghĩ mấy chục năm nhưng vẫn không sao giải được, chỉ có
sư đệ làm được chuyện đó. "Ngộ tâm kỳ cao" ấy là thế.
Hư Trúc gượng gạo cười:
- Việc ấy chẳng phù hợp chút nào. Bàn cờ Trân Lung, thực ra không phải
do tiểu tăng giải đâu.
Y liền đem chuyện sư bá tổ Huyền Nạn dùng truyền âm nhập mật, bí mật
chỉ điểm cho mình đi nước cờ như thế nào kể lại. Tô Tinh Hà bán tín bán nghi nói:
- Xem hình dạng Huyền Nạn đại sư dường như đã trúng phải độc thủ của
Đinh Xuân Thu, một thân thần công đã bị hóa tán hết rồi, không thể nào còn sử
dụng công phu truyền âm nhập mật được nữa.Ông ta ngừng lại một chút rồi tiếp:
- Thế nhưng phái Thiếu Lâm là võ học chính tông trong thiên hạ, Huyền
Nạn đại sư cố ý giả vờ không chừng, cái kiến thức "ếch ngồi đáy giếng" của ta
không biết được đâu. Sư đệ, ta sai người đem thư mời cao thủ trong thiên hạ đến
giải thế cờ Trân Lung, hễ ai thích đánh cờ, nghe tiếng có hội cờ này, thể nào cũng
mò đến. Có điều tuổi tác đã lớn, mặt mũi ... cái đó ... mặt mũi không tuấn nhã lắm,
hoặc không phải là người trong võ lâm thì ta không mời. Cô Tô Mộ Dung công tử
mặt như quan ngọc, võ kỹ trong thiên hạ môn nào cũng biết, vốn là người xứng
đáng hơn cả, ngờ đâu y lại không phá giải được.
Hư Trúc nói:
- Đúng thế, Mộ Dung công tử giỏi gấp trăm lần tiểu tăng. Lại còn một vị ở
họ Đoàn Đại Lý Đoàn công tử, cũng là người đẹp đẽ phong độ khác phàm.
Tô Tinh Hà nói:
- Ôi, chuyện này chẳng nên đề cập tới nữa. Ta từng nghe Trấn Nam Vương
Đoàn Chính Thuần nước Đại Lý tinh thông thần kỹ Nhất Dương Chỉ, lại là người
phong lưu khó gặp, trên giang hồ dù là gái còn son hay đã nạ dòng, hễ gặp y đều
thần hồn điên đảo, không sao cưỡng được. Ta đã sai mấy tên đệ tử đến Đại Lý
mời, ngờ đâu y không có ở đó, chẳng hiểu đi đâu, người đến lại là cậu ấm ngốc
nghếch ù ù cạc cạc.
Hư Trúc mỉm cười nói:
- Vị Đoàn công tử kia không chớp mắt, đăm đăm như dán vào người Vương
cô nương.
Tô Tinh Hà lắc đầu nói:
- Thật chán quá mất thôi! Đoàn Chính Thuần dập dìu ong bướm, đã được
gọi là kẻ phong lưu lãng tử số một trong võ lâm, đẻ được đứa con chẳng giống bố
lấy một li, thật vô tích sự, làm mất mặt phụ thân. Y chỉ chăm chăm lấy lòng Vương
cô nương, mà Vương cô nương thì có lý gì đến y đâu, trông thật lộn ruột.
Hư Trúc nói:
- Đoàn công tử một dạ thâm tình, còn hơn phong lưu lãng tử, tiền bối sao
lại bảo là "chán quá"?
Tô Tinh Hà đáp:- Cái thứ y chỉ là "dẻ cùi tốt mã", chẳng biết mánh lới gì với đàn bà con
gái, có dùng vào đâu được.
Hư Trúc nói:
- Quả thế!
Y trong bụng mừng thầm: "Thì ra các ông đi tìm một thanh niên đẹp trai để
đối phó với đàn bà con gái, thế thì tốt quá, chắc không thể nào lại kiếm một chú
tiểu xấu như ma là ta đâu". Tô Tinh Hà hỏi thêm:
- Sư đệ, sư phụ có bảo ngươi đi tìm một người hay không? Hay đưa cho
ngươi một địa đồ chẳng hạn?
Hư Trúc sững sờ, thấy việc mình đoán xem chừng không đúng, đang định
chối quanh nhưng y từ nhỏ được các nhà sư chùa Thiếu Lâm dạy dỗ, không được
nói láo, huống chi khi thụ giới tì khưu, vọng ngữ là một đại giới, nên đành ấp úng:
- Cái đó ... cái đó ...
Tô Tinh Hà nói:
- Ngươi là chưởng môn, ngươi hỏi gì ta không thể không trả lời, nếu không
có thể lập tức đem ta ra xử tử. Còn như ta hỏi ngươi điều gì, ngươi thích thì trả lời,
còn không thì có quyền bảo ta đừng lắm mồm hỏi lăng nhăng.
Nghe Tô Tinh Hà nói thế, Hư Trúc không tiện dấu xua tay liên tiếp nói:
- Tiểu tăng nào dám lên mặt kẻ cả với tiền bối? Tiền bối, sư phụ ông giao
cái này cho tôi đây.
Nói xong y lấy quyển trục trong bọc, thấy Tô Tinh Hà hơi rụt người lại, thần
sắc cực kỳ cung kính, không dám thò tay nhận nên đành tự mình mở ra.
Quyển trục trải ra rồi, hai người cùng ngơ ngẩn, không hẹn mà cùng "Ồ" lên
một tiếng. Thì ra trên quyển trục chẳng có bản đồ gì cả, cũng chẳng phải phong
cảnh núi non sông nước mà là một thiếu nữ xinh đẹp ăn mặc theo lối trong cung
vua. Hư Trúc nói:
- Hóa ra là Vương cô nương ở ngoài kia.
Thế nhưng lụa trên cuốn trục đó đã ố vàng, nét đan thanh trên bức tranh
cũng hơi bạc màu, hiển nhiên là một bức họa cũ kỹ, ít ra cũng ba bốn chục năm, so
với tuổi của Vương Ngữ Yên thì lớn hơn nhiều, nếu có người nào trước đấy mấy
chục năm, hay thậm chí cả trăm năm vẽ nên hình mạo nàng thì quả không sao ngờ
nổi. Nét bút vẽ trên đồ họa rất là kỹ lưỡng nhưng cũng hoạt bát sinh động, ngườitrong bức tranh tươi tắn như đang còn sống, tưởng chừng như thu nhỏ Vương Ngữ
Yên để vào trong tranh.
Hư Trúc tấm tắc, nhìn qua Tô Tinh Hà, thấy ông ta đưa ngón tay trỏ tô theo
từng nét trên bức tranh, suýt soa mãi rồi đột nhiên choàng tỉnh nói:
- Sư đệ đừng ngạc nhiên, cái máu đam mê của tiểu huynh lại nổi lên, vừa
thấy đan thanh diệu bút của sư phụ đã muốn học rồi. Ôi, ăn cho nhiều mà nhai
không kỹ, cái gì cũng học mà có nên cơm cháo gì đâu, để đến nỗi bị Đinh Xuân
Thu đánh cho chạy không kịp.
Ông vừa nói, vừa cuộn bức quyển trục lại, trả lại cho Hư Trúc, tưởng chừng
sợ mình coi thêm sẽ bị nét bút mực trong tranh mê hoặc. Ông nhắm mắt suy nghĩ
rồi lắc đầu như muốn xua đuổi những nét đan thanh đã in vào óc, một hồi sau mới
mở mắt ra nói:
- Khi sư phụ giao quyển trục này cho ngươi thì nói gì?
Hư Trúc đáp:
- Ông ta bảo là công phu của tiểu tăng lúc này chưa đủ sức tru diệt Đinh
Xuân Thu, nên phải theo cuốn trục này đi đến núi Vô Lượng nước Đại Lý để tìm
võ học điển tịch ông cất giữ năm xưa, học những công phu đó. Thế nhưng e rằng
tiểu tăng học không được nên phải đi nhờ một người khác chỉ điểm cho. Ông ta
bảo trên quyển trục này vẽ nơi ngày xưa ông hưởng thanh phúc3, tưởng là danh sơn
đại xuyên hay cảnh vật thanh u, có ngờ đâu lại chỉ là tiếu tượng của Vương cô
nương? Hay là ông ta đưa nhầm quyển trục khác?
Tô Tinh Hà đáp:
- Sư phụ hành sự người ta khó mà đoán định được, bao giờ đến việc ngươi
sẽ rõ. Ngươi nên tuân hành sư mệnh tìm cách đi học công phu cho giỏi để trừ Đinh
Xuân Thu.
Hư Trúc ngập ngừng đáp:
- Cái đó ... cái đó ... tiểu tăng là đệ tử Thiếu Lâm, phải trở về chùa phục
mệnh. Đến chùa rồi, từ nay thanh tu chăm lo tìm hiểu thiền lý, lễ Phật tụng kinh,
không ra ngoài nữa.
3 Tô Tinh Hà hoảng hốt, nhảy dựng lên khóc òa lên, nghe bịch một tiếng đã
quì trước mặt Hư Trúc, rập đầu như bổ củi nói:
- Chưởng môn không tuân theo giáo huấn của sư phụ, lão nhân gia có phải
chết uổng hay sao?
Hư Trúc cũng quì xuống đáp lễ nói:
- Tiểu tăng thân đã vào cửa không, giới sân giới sát, trước đây nhận lời tôn
sư đi trừ Đinh Xuân Thu, bây giờ nghĩ lại không ổn. Phái Thiếu Lâm môn qui
nghiêm nhặt, tiểu tăng không thể nào làm chuyện quấy quá, đổi qua phái khác
được.
Thế rồi dù cho Tô Tinh Hà khóc lóc van xin, dụ dỗ, thậm chí uy hiếp cưỡng
bức, Hư Trúc một mực khăng khăng không bằng lòng. Tô Tinh Hà không còn cách
nào khác, vừa đau lòng, vừa tuyệt vọng, quay sang thi thể sư phụ nói:
- Sư phụ ơi, chưởng môn nhân không chịu tuân hành di mệnh của thầy, tiểu
đồ không biết làm sao, thôi đành theo thầy về nơi chín suối.
Nói xong ông ta nhảy lên, đầu lộn xuống, chân chổng lên, từ trên không lao
vào nền đá xanh. Hư Trúc kinh hoảng kêu lên:
- Không được đâu!
Y liền ôm chặt lấy Tô Tinh Hà. Hư Trúc lúc này không những nội lực hồn
hậu mà tay chân cũng nhanh nhẹn lạ thường nên Tô Tinh Hà không sao cử động
được nữa. Tô Tinh Hà nói:
- Sao ngươi không để cho ta tự tận?
Hư Trúc đáp:
- Kẻ xuất gia lấy từ bi làm gốc, tôi không thể bất nhẫn nhìn ông táng
mạng.
Tô Tinh Hà nói:
- Ngươi bỏ ta ra, ta quyết ý không muốn sống nữa rồi.
Hư Trúc đáp:
- Tôi không bỏ.
Tô Tinh Hà hỏi lại:
- Không lẽ ngươi cứ ôm chặt ta mãi thế này không bao giờ buông ra?Hư Trúc nghĩ câu nói này quả không sai nên lật ngược ông ta lại để cho
thuận chiều đầu trên, chân dưới rồi thả ra nói:
- Được rồi, buông thì buông nhưng ông không được tự tận nữa.
Tô Tinh Hà chợt động tâm nói:
- Ngươi không cho ta tự tận ư? Được rồi, xin tuân hành hiệu lệnh của
chưởng môn nhân. Hay lắm, sau cùng ngươi cũng bằng lòng làm chưởng môn bản
phái.
Hư Trúc lắc đầu nói:
- Tôi nào có bằng lòng đâu. Ở đâu mà bảo là tôi bằng lòng?
Tô Tinh Hà cười ha hả nói:
- Chưởng môn nói rồi lại xí xóa đâu có xong. Ngươi vừa ra lệnh cho ta, ta
đã tuân theo rồi là từ nay không được tự tận. Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà là
hạng người nào? Trừ người chưởng môn bản phái ra, có ai dám ra lệnh cho ta đâu?
Ngươi không tin thì thử hỏi Huyền Nạn đại sư xem dẫu Huyền Từ phương trượng
của phái Thiếu Lâm cũng không ra lệnh bảo ta làm thế này thế khác được.
Lung Á lão nhân danh tiếng vang dậy trên giang hồ, trên đường đi Hư Trúc
đã từng nghe sư bá tổ Huyền Nạn nói qua rồi, Tô Tinh Hà bảo không ai dám ra
lệnh cho ông ta cũng không phải là nói ngoa. Hư Trúc nói:
- Tôi nào có dám bảo ông phải làm thế này thế khác, chỉ khuyên ông nên
coi trọng tính mạng đó là hảo ý đấy thôi.
Tô Tinh Hà đáp:
- Ta nào có dám hỏi chưởng môn có hảo ý hay ác ý đâu. Ngươi bảo ta chết,
ta lập tức chết ngay, ngươi bảo ta sống, ta không thể không sống. Cái lệnh sinh sát
đó là quyền bính đệ nhất trong thiên hạ, nếu ngươi không phải là chưởng môn của
ta thì làm sao có thể muốn bảo ta sống cũng được, bảo ta chết cũng được?
Hư Trúc cãi không lại đành nói:
- Nếu như thế thì cứ coi như tôi đã nói sai, xin rút lại vậy.
Tô Tinh Hà nói:
- Ngươi rút lại cái lệnh "không để ta tự tận" có nghĩa là bảo ta tự tận chứ
gì. Tuân lệnh, ta tự tận ngay lập tức.
Cái phép tự tận của ông ta cũng lạ lùng, lại nhảy lên, chúi đầu lao xuống
nền đá xanh. Hư Trúc vội vàng ôm chặt lấy ông ta nói:- Không phải thế, không phải thế! Ta nào có bảo ông tự tận đâu.
Tô Tinh Hà nói:
- Ồ, ngươi lại không cho ta tự tận. Xin kính cẩn tuân lệnh chưởng môn.
Hư Trúc bỏ ông ta ra, giơ tay gãi cái đầu trọc, không biết phải nói thế nào.
Tô Tinh Hà có biệt hiệu là Thông Biện tiên sinh, chuyện đó đâu phải nói không,
mà vốn dĩ là người giỏi biện bác, tuy ba mươi năm qua không nói năng gì, bây giờ
lại dùng đầu môi chót lưỡi, mồm miệng lại trơn như nước chảy, Hư Trúc tuổi còn
trẻ, tính tình chất phác, trước nay ở chùa có bao giờ gây gỗ cãi cọ với ai đâu, làm
sao có thể là đối thủ của Tô Tinh Hà được?
Hư Trúc trong lòng thấy mang mang việc "rút lại lời không cho ông ta tự
tận" dường như không phải là "bảo ông ta tự tận", còn "không để ông ta tự tận" thì
cũng đâu có phải là "không cho phép ông ta tự tận". Có điều Tô Tinh Hà mồm
miệng lanh lợi, câu nào cũng chặn trước, Hư Trúc không biết phải biện bạch thế
nào, chỉ đứng ngẩn ngơ một lát rồi thở dài:
- Tiền bối, ta cãi không lại ông nhưng ông bảo ta cải nhập quí phái thì
không thể nào được.
Tô Tinh Hà đáp:
- Khi mình vào đây, Huyền Nạn đại sư dặn ngươi những gì? Lời Huyền
Nạn đại sư đã dặn ngươi có tuân theo chăng?
Hư Trúc chưng hửng nói:
- Sư bá tổ dặn tiểu tăng ... dặn tiểu tăng ... phải nghe lời tiền bối.
Tô Tinh Hà cực kỳ đắc ý nói:
- Đúng đó, Huyền Nạn đại sư bảo ngươi phải nghe lời ta. Mà lời của ta là
gì, là bảo ngươi phải tuân theo di mệnh của sư phụ làm chưởng môn bản phái. Nếu
ngươi đã là chưởng môn phái Tiêu Dao rồi thì những lời của cao tăng chùa Thiếu
Lâm đâu có còn phải để ý đến nữa. Thành ra, nếu ngươi tuân theo lời của Huyền
Nạn đại sư thì phải làm chưởng môn phái Tiêu Dao, còn như ngươi không theo lời
của Huyền Nạn đại sư, thì cũng vẫn là chưởng môn phái Tiêu Dao. Nếu như ngươi
có làm chưởng môn phái Tiêu Dao thì mới coi lời Huyền Nạn đại sư gác bỏ ngoài
tai được, bằng không, ngươi sao có thể không nghe lời sư bá tổ được?
Luận chứng này, câu nào Hư Trúc nghe thấy cũng có lý, nên không biết phải
trả lời ra sao. Tô Tinh Hà lại tiếp:- Sư đệ, Huyền Nạn đại sư và mấy vị hòa thượng Thiếu Lâm ở ngoài kia,
đều trúng phải độc thủ của Đinh Xuân Thu, nếu không cứu chữa, tính mệnh chỉ
trong sớm tối. Trong đời nay, chỉ có một người cứu được họ mà thôi, mà cứu hay
không cứu cũng toàn tùy thuộc vào ý của ngươi đó.
Hư Trúc nói:
- Sư bá tổ của tiểu tăng quả đúng là bị độc thủ của Đinh Xuân Thu, các vị
sư bá sư thúc khác cũng thụ thương, có điều ... có điều tài nghệ tiểu tăng nông cạn,
làm sao cứu được họ?
Tô Tinh Hà mỉm cười nói:
- Sư đệ, bản môn trước nay không phải chỉ sở trường về võ học, mà cả về y
bốc tinh tướng, cầm kỳ thư họa, bao trùm các gia các phái. Ngươi có một gã sư điệt
là Tiết Mộ Hoa, y thuật chỉ mới biết chút vỏ bên ngoài, vậy mà giang hồ đã gọi y
là Tiết Thần Y, có cái ngoại hiệu là Diêm Vương Địch, thật có phải tức cười muốn
trẹo quai hàm hay sao? Huyền Nạn đại sư trúng phải Hóa Công Đại Pháp của Đinh
Xuân Thu, nhà sư mặt vuông thì bị trúng phải Băng Tàm Chưởng của gã mặt sắt,
còn sư phụ cao cao gầy gầy thì bị Đinh Xuân Thu đá trúng hông dưới mạng sườn
ba tấc, bị thương kinh mạch ...
Tô Tinh Hà thao thao bất tuyệt, thương thế và nguyên do từng người nói ra
rõ ràng. Hư Trúc cực kỳ bội phục nói:
- Tôi thấy tiền bối chỉ chăm chú vào bàn cờ, không nhìn đến ai, cũng
chẳng chẩn bệnh người nào, sao lại biết rõ như thế?
Tô Tinh Hà đáp:
- Trong võ lâm giao đấu bị thương, nhìn qua là biết thật dễ dàng. Chỉ có
bệnh do trời đất tự nhiên, hư nhược phong tà, thương hàn nóng sốt, cái đó mới khó
chẩn đoán. Sư đệ, ngươi mang trong người hơn bảy mươi năm Tiêu Dao thần công
của sư phụ, dùng nó trị bệnh liệu thương, thật không gì bằng. Nếu muốn khôi phục
công phu bị tiêu hao của Huyền Nạn đại sư, quả không phải dễ, thế nhưng muốn
bảo toàn tính mạng thì chỉ giơ tay là xong.
Nói rồi dạy cho Hư Trúc phép nắn huyệt vận khí, tiêu giải hàn độc, lại chỉ
dẫn rõ ràng muốn cứu Huyền Nạn thì dùng thủ pháp gì, cứu Phong Ba Ác thì dùng
thủ pháp gì, mỗi phép trị một lối bị thương khác nhau.Hư Trúc ghi nhớ kỹ các thủ pháp Tô Tinh Hà dạy cho mình nhưng chỉ mới
biết cách làm chứ chưa hiểu tại sao phải làm như thế. Tô Tinh Hà thấy y đã rành
rọt không sai lầm gì nữa, mỉm cười khen ngợi:
- Trí nhớ của chưởng môn tốt lắm, học là biết ngay.
Hư Trúc thấy ông ta mỉm cười có vẻ ngụy bí, dường như có ý không tốt,
không khỏi nghi ngờ hỏi lại:
- Sao ông lại cười?
Tô Tinh Hà vội vàng nghiêm mặt, cung kính khom lưng:
- Tiểu huynh nào có dám cười, nếu có điều gì thất kính, mong chưởng môn
nhân tha tội cho.
Hư Trúc nóng ruột trị thương cho mọi người nên không hỏi thêm nói:
- Thôi mình ra ngoài xem sao!
Tô Tinh Hà đáp:
- Vâng!
Ông ta liền đi theo Hư Trúc ra khỏi căn nhà. Chỉ thấy những người bị thương
ai nấy ngồi xếp bằng dưới đất, nhắm mắt dưỡng thần. Mộ Dung Phục tiềm vận nội
lực cố gắng làm giảm bớt nỗi đau đớn cho Phong Ba Ác và Bao Bất Đồng, còn
Vương Ngữ Yên đang săn sóc cho Công Dã Can.
Tiết Mộ Hoa trán mồ hôi thành giọt, chạy tới chạy lui thấy người nào nguy
cấp thì cứu chữa nhưng người này vừa dịu lại thì bên kia đã có người kêu réo. Y
thấy Tô Tinh Hà đi ra cảm thấy yên dạ vội vàng chạy tới kêu lên:
- Sư phụ, xin lão nhân gia mau mau tìm cách cứu chữa cho họ.
Hư Trúc đi đến trước mặt Huyền Nạn thấy ông đang nhắm mắt vận công
liền thõng tay đứng chờ không dám mở miệng. Huyền Nạn chầm chậm mở mắt,
thở dài một tiếng nhè nhẹ nói:
- Sư bá tổ của ngươi vô năng, trúng phải độc thủ của Đinh Xuân Thu, làm
thương tổn uy danh của bản phái, quả thật hổ thẹn vô cùng. Ngươi trở về bẩm cùng
phương trượng, nói là ta ... ta và sư thúc tổ Huyền Thống của ngươi không còn mặt
mũi nào về chùa nữa.
Hư Trúc từ trước tới giờ thấy vị sư bá tổ này lúc nào cũng đạo mạo trang
nghiêm, không giận mà vẫn có uy, xưa nay chưa dám nhìn thẳng vào ông, bây giờthấy ông ủ rũ, cái cảnh anh hùng mạt lộ trông thật thê lương, ông đã nói vậy hẳn là
đã định tìm con đường kết liễu đời mình nên vội vàng nói:
- Sư bá tổ, lão nhân gia cũng đừng nản lòng. Chúng ta là người học võ, cần
phải giữ cho lòng vô sân nộ, vô tranh cạnh, vô thắng bại, vô đắc thất ...
Y thuận miệng nói ra, đem những lời ngày thường sư phụ giáo huấn dạy lại
cho sư bá tổ, đến lúc nghĩ lại mới thấy lỡ lời vội vàng nín bặt nhưng cũng đã thốt
ra mấy câu rồi. Huyền Nạn mỉm cười, thở dài:
- Ngươi nói đúng lắm, thế nhưng sư bá tổ ngươi nội lực mất hết, năng lực
thiền định cũng không còn nữa.
Hư Trúc nói:
- Vâng! Vâng! Đồ tôn chẳng biết nặng nhẹ, nói năng láo lếu.
Vừa định ra tay trị thương cho ông ta, bỗng nhớ tới nụ cười ngụy bí của Tô
Tinh Hà, trong bụng kinh hãi: "Y dạy ta giơ chưởng lên đánh vào yếu huyệt trên
thiên linh cái sư bá tổ, biết đâu y cố ý hại người thì sao? Nếu như ta đánh xuống
rồi, sư bá tổ công lực đã mất trúng chưởng sẽ chết tươi thì biết làm sao?".
Huyền Nạn nói:
- Ngươi bẩm lại với phương trượng, bản tự sắp có đại nạn, phải hết sức
phòng bị. Trên đường đi ngươi phải cẩn thận, ngươi tính khí đôn hậu, trì giới và
thiền định hai đường không cần phải chăm lo quá, ngày sau công phu cốt ở chữ
"huệ", bốn quyển kinh Lăng Già phải cố sức nghiền ngẫm. Ôi, tiếc rằng sư bá tổ
không còn hơi sức đâu mà chỉ điểm cho ngươi được nữa.
Hư Trúc vội đáp:
- Vâng! Vâng!
Y thấy ông đối với mình quan hoài như thế, trong lòng cảm kích lại tiếp:
- Sư bá tổ, nếu như bản tự có đại nạn thì xin lão nhân gia bảo trọng thân
thể để còn về chùa hiệp lực với phương trượng chống với đại địch.
Huyền Nạn gượng cười chua xót nói:
- Ta ... ta trúng phải Hóa Công Đại Pháp của Đinh Xuân Thu đã trở thành
người tàn phế mất rồi, làm sao còn hiệp trợ phương trượng, cùng chống đại địch
được nữa?
Hư Trúc nói:- Sư bá tổ, Thông Biện tiên sinh dạy cho đệ tử một cách trị liệu thương thế,
đệ tử không lượng sức mình, định thử chữa cho Tuệ Phương sư bá, xin sư bá tổ cho
phép.
Huyền Nạn hơi ngạc nhiên, nghĩ thầm Lung Á lão nhân là sư phụ của Tiết
Thần Y, chắc hẳn truyền cho y phương pháp liệu thương phải đúng cách, không
hiểu sao ông không ra tay cũng chẳng bảo Tiết Mộ Hoa chữa trị bèn nói:
- Thông Biện tiên sinh đã dạy thì thể nào cũng cực kỳ cao minh rồi.
Ông nói xong đưa mắt nhìn Tô Tinh Hà rồi nói với Hư Trúc:
- Vậy ngươi cứ theo thế mà làm đi.
Hư Trúc đến trước mặt Tuệ Phương khom lưng nói:
- Sư bá, đệ tử phụng pháp dụ của sư bá tổ đến trị thương cho sư bá, có đắc
tội xin đừng trách.
Tuệ Phương mỉm cười gật đầu. Hư Trúc làm đúng như Tô Tinh Hà đã dạy, sờ
kỹ bộ vị dưới hông bên trái, tay phải vung chưởng đánh ra, đánh vào ngay bên
dưới mạng sườn. Tuệ Phương hự lên một tiếng, thân hình lảo đảo, thấy ngang lưng
mình như có đục một cái lỗ hổng, bao nhiêu máu huyết tinh khí trong người cuồn
cuộn theo cái lỗ đó mà chảy ra, chỉ trong giây lát người thấy trống rỗng, không còn
gì cả nhưng bao nhiêu đau đớn ngứa ngáy do Hàn Băng độc chưởng của Du Thản
Chi cũng vì thế mà tiêu trừ.
Cách chữa của Hư Trúc không phải là dùng nội lực giúp ông ta đối phó với
hàn độc, mà là dùng Bắc Minh chân khí trên bảy mươi năm đánh vào mạng sườn
ông ta, mở một lối thoát cho khí độc tuôn ra, chẳng khác gì người ta bị rắn cắn phải
rạch vết thương cho rộng để nọc độc chảy ra ngoài.
Có điều môn Khí Đao Cát Thể 4 này, bộ vị không thể sai đã đành mà nếu
chân khí nội lực không đủ, đánh không ngấm tới kinh mạch thì độc khí đã không
chảy ra, ngược lại còn dồn vào tạng phủ, bệnh nhân sẽ chết ngay lập tức.
Hư Trúc đánh ra một chưởng rồi, trong lòng hoang mang không biết ra sao,
thấy Tuệ Phương lắc lư nhưng rồi lại vững vàng, nét mặt nhăn nhó chau mày đau
đớn lúc trước dần dần dãn ra tỏ vẻ thoải mái, tuy chỉ trong giây lát nhưng trong
lòng y tưởng như dài đằng đẵng đến mấy giờ. Thêm một hồi nữa, Tuệ Phương thở
ra một hơi, mỉm cười nói:
4 - Hảo sư điệt, lực đạo của chưởng vừa rồi không phải nhỏ.
Hư Trúc mừng lắm vội đáp:
- Không dám.
Y quay lại nói với Huyền Nạn:
- Sư bá tổ, những vị sư bá sư thúc còn lại, đệ tử cũng muốn thử chữa xem
sao, liệu có được không?
Huyền Nạn lúc này mặt tươi như hoa nhưng lại lắc đầu:
- Không nên, ngươi trị cho các vị tiền bối khác trước rồi sau hãy chữa cho
người của mình.
Hư Trúc hơi hoảng sợ vội đáp:
- Vâng!
Y nghĩ thầm: "Người trước, ta sau chính là tấm lòng đại từ đại bi của nhà
Phật lúc nào cũng mong mỏi việc cứu độ chúng sinh". Hư Trúc thấy Bao Bất Đồng
đang run lẩy bẩy, răng đập vào nhau kêu lách cách, lập tức đến trước mặt ông ta
nói:
- Bao tam tiên sinh, Thông Biện tiên sinh dạy tiểu tăng phép trị hàn độc,
hôm nay mới học lần đầu, tuy chưa tinh thục nhưng cũng xin chữa thử cho tiên
sinh. Nếu có điều gì thất kính thì xin lượng thứ.
Nói xong đưa tay mò mò vào ngực Bao Bất Đồng. Bao Bất Đồng cười nói:
- Ngươi làm trò gì thế?
Hư Trúc giơ chưởng phải lên, nghe bình một tiếng đánh trúng ngay ngực ông
ta. Bao Bất Đồng nổi cáu liền chửi:
- Xú hòa ...
Chữ "thượng" chưa ra khỏi miệng, bỗng thấy hàn độc vốn dĩ luẩn quẩn trong
người bao lâu nay, theo nơi bị trúng chưởng trên ngực tuôn ra ào ạt, nên vội vàng
nín bặt, nuốt luôn chữ "thượng" vào bụng không dám chửi tiếp.
Hư Trúc chữa xong những người bị trúng băng tàm hàn độc rồi qua chữa cho
những người bị độc thủ của Đinh Xuân Thu. Những người đó, kẻ thì bị Hóa Công
Đại Pháp tiêu hủy công lực, Hư Trúc chỉ đánh một chưởng vào huyệt Bách Hội
trên thiên linh cái hay tại huyệt Linh Đài trên ngực để vun gốc bón nguồn, kẻ bị
nội lực đả thương thì Hư Trúc dùng ngón tay ấn vào huyệt, hóa giải nội lực phái
Tinh Tú. Được cái y trí nhớ thật tốt, bao nhiêu phương pháp chữa trị Tô Tinh Hàdạy cho đều thuộc lòng, cứ thế mà làm, chỉ trong khoảng một bữa ăn đã giải trừ
hết bao nhiêu đau khổ cho mọi người.
Người được chữa dĩ nhiên vô vàn cảm kích đã đành, người đứng ngoài cũng
hết sức bội phục tài Lung Á lão nhân nhưng nghĩ lại ông ta là thầy của Tiết Thần
Y nên cũng không lấy gì làm lạ.
Sau cùng Hư Trúc đi đến trước mặt Huyền Nạn khom lưng nói:
- Sư bá tổ, đệ tử làm liều một phen, muốn đánh vào huyệt Bách Hội của sư
bá tổ.
Huyền Nạn mỉm cười đáp:
- Ngươi được lọt vào mắt xanh của Thông Biện tiên sinh, học được tài nghệ
xảo diệu để chữa bệnh, quả là phúc duyên không nhỏ, cứ việc đánh vào huyệt
Bách Hội của ta đi.
Hư Trúc khom lưng đáp:
- Nếu như thế đệ tử đành mạo muội.
Khi y còn ở trong chùa Thiếu Lâm, mỗi khi gặp Huyền Nạn đều phải đứng
xa xa mà nhìn, thỉnh thoảng Huyền Nạn tụ tập tăng chúng, giảng giải tâm pháp võ
công, Hư Trúc chỉ đứng theo địa vị mà nghe, chưa bao giờ được cùng ông nói
chuyện, lần này lại giơ tay đánh lên đầu ông ta, tuy nói là để trị thương, trong bụng
không khỏi phập phồng, thấy nụ cười của ông ta trông có vẻ lạ lùng, không hiểu
có ý gì, bèn cố gắng định thần nói thêm một câu:
- Đệ tử mạo phạm, xin sư bá tổ thứ tội cho.
Y nói xong tiến lên một bước, giơ chưởng nhắm thẳng huyệt Bách Hội của
Huyền Nạn, không nặng không nhẹ, chẳng chậm chẳng nhanh đánh xuống.
Chưởng của Hư Trúc vừa đánh xuống đầu Huyền Nạn, nét mặt Huyền Nạn đột
nhiên lộ một nụ cười quái đản, chỉ kêu lên một tiếng dài, đột nhiên người sụm
xuống, dãy dụa mấy cái, nằm gục xuống đất không động đậy gì nữa.
Những người đứng xem ai nấy kinh hoảng kêu ầm lên, Hư Trúc cũng sợ đến
tim đập thình thình, vội vàng xông lên, đỡ Huyền Nạn dậy, Huyền Phương cũng
chư tăng cũng ùa đến. Nhìn lại Huyền Nạn thấy ông mặt vẫn mỉm cười nhưng
không còn thở nữa quả đã từ trần. Hư Trúc kinh hãi kêu lên:
- Sư bá tổ! Sư bá tổ! Sao thế này?
Đột nhiên nghe Tô Tinh Hà kêu lên:- Ai đó? Đứng lại!
Ông ta từ phía đông nam chạy lên nói:
- Có người đứng đằng sau ám toán nhưng thân pháp y nhanh quá, không
nhìn rõ là ai!
Ông giơ tay bắt mạch Huyền Nạn chau mày:
- Huyền Nạn đại sư công lực mất hết rồi, bị người ta đứng bên ám toán,
không có sức kháng cự nên đã viên tịch.
Đột nhiên ông ta nở một nụ cười thần sắc cổ quái. Đầu óc Hư Trúc lúc này
cực kỳ hỗn loạn, chỉ biết vừa khóc vừa kêu:
- Sư bá tổ! Sư bá tổ! Sao ... sao ... lão nhân gia lại ...
Bỗng y nhớ tới nụ cười thần bí của Tô Tinh Hà khi ở trong căn nhà gỗ, giận
dữ hỏi:
- Thông Biện tiên sinh, ông nói thực cho ta nghe, vì cớ gì mà sư bá tổ của
ta lại chết? Có phải do ông có ý hãm hại chăng?
Tô Tinh Hà lập tức hai gối quì xuống nói:
- Khải bẩm chưởng môn nhân, Tô Tinh Hà này quyết không dám đẩy
chưởng môn nhân làm điều bất nghĩa. Huyền Nạn đại sư đột nhiên viên tịch, nhất
định có người lén lút gia hại.
Hư Trúc vặn thêm:
- Thế tại sao ở trong căn nhà gỗ ông lại cười một cách kỳ quặc, thế là vì cớ
gì?
Tô Tinh Hà kinh hoảng đáp:
- Ta cười ư? Ta cười ư? Chưởng môn nhân phải hết sức cẩn thận, có người
...
Câu nói chưa dứt ông ta bất thần ngừng bặt, trên mặt lại lộ một nụ cười thần
bí. Tiết Mộ Hoa kêu rống lên:
- Sư phụ!
Ông ta vội móc trong túi ra một bình thuốc giải độc, lấy ra ba viên nhét vào
mồm Tô Tinh Hà. Thế nhưng Tô Tinh Hà đã tắt hơi, giải độc hoàn nằm ở trong
miệng nhưng không nuốt xuống được. Tiết Mộ Hoa khóc òa lên:- Sư phụ bị Đinh Xuân Thu hạ độc chết mất rồi, tên ác tặc Đinh Xuân Thu
...
Tới đây tiếng y nghẹn ngào không ra tiếng nữa. Khang Quảng Lăng chen
lên trước mặt Tô Tinh Hà, Tiết Mộ Hoa vội vàng nắm lưng ông ta kéo lại khóc
nói:
- Trên thân thể sư phụ có chất độc.
Phạm Bách Linh, Cẩu Độc, Ngô lãnh quân, Phùng A Tam, Lý Khổi Lỗi,
Thạch Thanh Lộ đứng bên cạnh Tô Tinh Hà không ai là không vừa tức tối, vừa bi
thương. Khang Quảng Lăng theo học Tô Tinh Hà đã lâu, biết rõ qui củ bản môn,
lúc thấy sư phụ quì trước mặt Hư Trúc, miệng gọi "chưởng môn nhân", đã đoán
được tám chín phần, bây giờ chú ý nhìn vào bàn tay y thấy Hư Trúc đeo chiếc nhẫn
bảo thạch liền nói:
- Các vị sư đệ cùng ta tham kiến tân nhiệm chưởng môn sư thúc của bản
phái.
Nói xong quì xuống trước mặt Hư Trúc khấu đầu mấy lần. Bọn Phạm Bách
Linh sửng sốt nhưng rồi hiểu ra ngay, ai nấy đều quì lạy. Hư Trúc ruột rối như tơ
vò nói:
- Đinh ... Đinh Xuân Thu tên gian tặc thí chủ, giết chết sư bá tổ của ta, lại
hại cả sư phụ các vị.
Khang Quảng Lăng đáp:
- Tru diệt kẻ gian để báo thù toàn do chưởng môn sư thúc chủ trì lo liệu
cho.
Hư Trúc vốn chỉ là một chút tiểu chưa từng từng trải việc đời, cả võ công lẫn
kiến thức, cả danh vị lẫn tiếng tăm những người trước mặt ai ai cũng hơn y nhiều,
trong bụng ý niệm quay cuồng: "Không thể không báo thù cho sư bá tổ, không thể
không báo thù cho Thông Biện tiên sinh, không thể không báo thù cho lão tiền bối
trong ngôi nhà gỗ". Y miệng kêu lên thành tiếng:
- Không thể không giết Đinh Xuân Thu ... tên ác tặc Đinh Xuân Thu ... tên
ác tặc thí chủ.
Khang Quảng Lăng lại rập đầu thêm vài lần nữa nói:
- Chưởng môn sư thúc bằng lòng lo việc diệt trừ gian tặc, vì sư phụ chúng
tôi báo thù, bọn sư điệt thâm cảm đại ân đại đức của sư thúc.Bọn Phạm Bách Linh, Tiết Mộ Hoa cũng đều khấu đầu, Hư Trúc vội vàng
quì xuống hoàn lễ nói:
- Không dám! Không dám! Mời các vị đứng lên.
Khang Quảng Lăng nói:
- Sư thúc, tiểu điệt có chuyện cần bẩm báo nhưng nơi đây đông người bất
tiện, xin vào trong nhà chỉ một mình tiểu điệt trình bày cho sư thúc nghe.
Hư Trúc đáp:
- Được!
Y liền đứng lên, mọi người tất cả cùng đứng dậy theo. Hư Trúc đi theo
Khang Quảng Lăng đang toan đi vào trong căn nhà gỗ, Phạm Bách Linh bỗng nói:
- Hãy khoan, sư phụ bị Đinh lão tặc hạ thủ ngay trong nhà này, chưởng
môn sư thúc và đại sư huynh không nên tiến vào, lão tặc đó ngụy kế đa đoan, nên
phòng bị là hơn.
Khang Quảng Lăng gật đầu:
- Nói thế đúng lắm! Cái thân nghìn vàng của chưởng môn sư thúc không
nên mạo hiểm làm gì.
Tiết Mộ Hoa nói:
- Hai vị đứng đây nói chuyện cũng được. Chúng tôi ra bốn bề canh chừng
để đề phòng lão tặc có ngụy kế gì khác chăng?
Nói xong chính mình đi ra trước, những người còn lại Phùng A Tam, Ngô
lãnh quân cả bọn cũng đi ra ngoài mười trượng. Thực ra trong đám đó trừ Tiết Mộ
Hoa ra, những người khác nếu không công lực tiêu tan thì cũng bị trọng thương,
nếu quả Đinh Xuân Thu đến tập kích, ngoài việc kêu la cảnh cáo không còn chút
hơi sức nào mà phòng ngự cả.
Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên cùng những người khác thấy thầy trò bọn
họ bàn chuyện riêng của môn phái nên cũng lảng ra xa. Còn bọn Cưu Ma Trí,
Đoàn Diên Khánh thấy chuyện lạ lùng nhưng việc không liên can gì đến mình nên
cũng lần lượt đi khỏi.
Khang Quảng Lăng nói:
- Sư thúc ...
Hư Trúc chặn lại:- Ta không phải là sư thúc của ông, cũng chẳng phải chưởng môn nhân của
các ông gì đó, ta là sư chùa Thiếu Lâm, cùng với phái Tiêu Dao không có liên hệ
gì cả.
Khang Quảng Lăng đáp:
- Sao sư thúc lại không nhận? Cái tên phái Tiêu Dao, nếu không phải
người trong bản môn thì không thể để cho người ngoài nghe thấy được. Nếu ai đó
vô tình hữu ý mà lọt vào tai, qui củ của bản môn là phải giết ngay bịt miệng, dù
phải đuổi theo đến tận chân trời góc biển cũng không tha.
Hư Trúc nghe thế nổi da gà, nghĩ thầm: "Cái qui củ đó quả là tà môn. Nếu
như thế, nếu ta không chịu đầu nhập môn phái của bọn họ, bọn chúng liền giết ta
ngay hay sao?".
Khang Quảng Lăng lại tiếp:
- Sư thúc mới đây trị thương cho mọi người, chính là nội công đích truyền
của bản phái. Việc sư thúc đầu nhập bản phái ra sao, được thái sư phụ tâm truyền
thế nào, tiểu điệt không dám hỏi tới. Cũng có thể là vì sư thúc phá giải được thế cờ
Trân Lung nên sư phụ chúng tôi tuân theo di mệnh của thái sư phụ, thay thầy thu
nhận làm đệ tử và truyền chức vụ chưởng môn chăng, điều đó cũng không biết
nữa. Nói tóm lại, chiếc nhẫn Tiêu Dao Thần Tiên của bản phái đã đeo trên tay sư
thúc rồi, gia sư lúc lâm tử lại khấu đầu trước sư thúc, gọi sư thúc là "chưởng môn
nhân" thì sư thúc không nên từ chối nữa. Đưa qua đẩy lại, chối lên chối xuống
cũng không đâu vào đâu cả.
Hư Trúc đưa mắt nhìn hai bên, thấy bọn Tuệ Phương đang vây quanh thi thể
Huyền Nạn, nhìn qua bên kia thấy xác Tô Tinh Hà vẫn còn quì sừng sững dưới đất,
trên mặt nở một nụ cười thần bí, trong lòng chua xót nói:
- Chuyện này nói một lúc không hết được, hiện nay sư bá tổ của ta chết
rồi, chẳng biết phải làm sao đây, lão tiền bối ...
Y vừa mới nói đến đây, Khang Quảng Lăng lại quì mọp xuống. Hư Trúc vội
nói:
- Ấy chết ta quên, không nên gọi ông như thế. Mau đứng lên đi!
Y lấy quyển trục ông lão đưa cho mở ra nói:
- Sư phụ ngươi bảo ta theo quyển trục này tìm cách học võ công để đi tru
diệt Đinh thí chủ.Khang Quảng Lăng liếc qua hình người đàn bà ăn mặc theo lối cung trang,
lắc đầu nói:
- Tiểu điệt không biết sự tình bên trong thế nào, sư thúc nên cất giữ cho kỹ
đừng để người ngoài trông thấy. Nếu khi sư phụ tiểu điệt lúc sinh tiền có nói thế,
xin sư thúc nể mặt người theo đúng lời dặn mà hành sự. Tiểu điệt muốn bẩm lại
cho sư thúc hay, thứ thuốc độc gia sư bị trúng phải gọi là Tam Tiếu Tiêu Dao Tán.
Chất độc này vô hình, một khi trúng rồi, trên mặt hiện ra một nụ cười quái lạ,
người trúng độc không hề hay biết gì cả, cười như thế đến lần thứ ba là tắt thở chết
ngay.
Hư Trúc cúi đầu nói:
- Nói ra thật hổ thẹn, khi tôn sư vừa bị trúng độc trên mặt lộ một nụ cười
kỳ lạ, ta lại có cái bụng tiểu nhân đoán sằng nghĩ bậy tưởng rằng tôn sư không có
thiện ý, nếu như lúc đó thành thực hỏi ngay, lập tức cứu chữa thì đâu có đến nỗi
như thế này.
Khang Quảng Lăng lắc đầu:
- Cái món Tam Tiếu Tiêu Dao Tán trúng phải rồi thì khó mà cứu giải. Một
trong những nguyên nhân Đinh lão tặc sở dĩ hoành hành giang hồ không úy kỵ ai
cả cũng vì có môn thuốc độc này. Người ta chỉ biết đến Hóa Công Đại Pháp của
lão ta cũng chỉ vì người bị trúng phải yêu pháp tuy công lực mất hết nhưng mạng
vẫn còn nên đi loan truyền được, còn người trúng phải Tam Tiếu Tiêu Dao Tán thì
chết rồi là hết.
Hư Trúc gật đầu:
- Môn đó quả tàn độc thật. Khi đó ta cũng đứng ở bên cạnh tôn sư, vậy mà
không sao phát giác được Đinh Xuân Thu hạ thủ cách nào. Ta võ công tầm thường,
kiến thức nông cạn thì đã hẳn rồi nhưng sao Đinh Xuân Thu không ra tay giết ta,
lại để cho ta sống sót?
Khang Quảng Lăng đáp:
- Chắc là y thấy sư thúc tài nghệ kém cỏi, không thèm hạ độc. Chưởng
môn sư thúc, tiểu điệt xem chừng sư thúc tuổi còn nhỏ, làm gì có được bao nhiêu
bản lãnh? Phương pháp trị thương giải độc tuy hay thật đấy nhưng cũng là do gia sư
dạy cho, xem ra cũng chẳng là bao nên Đinh Xuân Thu chẳng coi vào đâu.
Y nói tới đây chợt nghĩ lại mình nói huỵch toẹt ra như vậy không khỏi trắng
trợn vội vàng chữa:- Chưởng môn sư thúc, tiểu điệt nói thế là tình thực, xin sư thúc đừng phật
lòng, thế nhưng nếu như sư thúc bỏ qua cho thì cũng nói thêm rằng võ công sư thúc
xem chừng chẳng lấy gì làm cao minh.
Hư Trúc đáp:
- Ngươi nói mọi việc đúng lắm, võ công ta thật là thấp kém, Đinh lão tặc ...
ấy, chết thật, tội quá, tiểu tăng buông lời dữ, phạm vào "ác khẩu giới" mất rồi,
không đáng là đệ tử nhà Phật ... gã Đinh Xuân Thu Đinh thí chủ chẳng thèm giết ta
làm chi.
Hư Trúc tâm địa chất phác, còn Khang Quảng Lăng thì không thông chuyện
đời nên cả hai đều không nghĩ ra, Đinh Xuân Thu lẻn được vào trong căn nhà gỗ,
vừa đúng lúc nghe Tô Tinh Hà trình bày những phương pháp trị thương liệu độc, lẽ
nào lại không có ý ám toán Hư Trúc? Cũng nào có phải vì y thấy Hư Trúc võ công
kém cỏi mà tha không giết bao giờ? Môn Tam Tiếu Tiêu Dao Tán phải dùng nội
lực đẩy chất độc ra, bắn vào người đối phương, khi Đinh Xuân Thu ở trong căn nhà
gỗ, chia hai đằng bắn vào Tô Tinh Hà và Hư Trúc, sau đó cũng dùng cách này giết
hại Huyền Nạn.
Tô Tinh Hà sau khi ác chiến uể oải không còn hơi sức đâu nữa còn Huyền
Nạn nội lực mất hết rồi nên đều trúng độc. Riêng Hư Trúc vì có được hơn bảy
mươi năm thần công của phái Tiêu Dao nên nội lực của Đinh Xuân Thu vừa chạm
vào người đã bị phản kích trở lại, bao nhiêu chất độc chạy qua người Tô Tinh Hà
cả, còn mình thì không bị nhiễm chút nào.
Đinh Xuân Thu mỗi khi chính diện đấu với ai không dám sử dụng Tam Tiếu
Tiêu Dao Tán, sợ rằng đối phương nội lực hồn hậu, chất độc lại bắn ngược vào
mình.
Khang Quảng Lăng nói:
- Sư thúc, việc này sư thúc sai quấy hết sức. Phái Tiêu Dao không Phật mà
cũng không Lão, muốn đi đâu thì đi, có phải sung sướng chăng? Sư thúc là chưởng
môn bản phái, trong thiên hạ còn ai quản thúc gì được nữa? Ông mau mau cởi áo
cà sa ra, để tóc dài, lấy mười bảy mười tám cô vợ, việc quái gì mà phải cửa Phật
với lại không cửa Phật, ác khẩu giới với chẳng thiện khẩu giới?
Ông ta cứ nói một câu, Hư Trúc lại giật mình niệm "A Di Đà Phật" đợi khi
nói xong mới đáp:- Ở trước mặt ta chớ có nên nói những lời bổ báng nhà Phật như thế. Ngươi
bảo có việc muốn nói với ta, thế là việc gì?
Khang Quảng Lăng đáp:
- Ối chao, sư thúc xem tôi quả là hồ đồ, nói chuyện hồi lâu vẫn chưa vào
câu chuyện chính. Chưởng môn sư thúc, sau này khi ông tuổi lớn rồi, chớ có bao
giờ đi theo học những tật xấu của bọn tôi. Ấy chết, ấy chết, lại nói dông nói dài,
lạc đề nữa rồi, thất đáng chết. Chưởng môn sư thúc, tôi yêu cầu sư thúc một
chuyện lớn, xin sư thúc nghĩ lại cho.
Hư Trúc đáp:
- Chuyện gì mà phải cần đến tôi chấp nhận, quả không dám.
Khang Quảng Lăng nói:
- Ôi, chuyện đại sự của bản môn, nếu không xin chưởng môn bằng lòng thì
còn cầu ai? Anh em chúng tôi tám người, năm xưa bị sư phụ đuổi ra khỏi môn phái,
nhưng nào có phải vì chúng tôi phạm tội gì đâu, mà vì sư phụ sợ Đinh lão tặc gia
hại, lại không nỡ chọc tai cắt lưỡi chúng tôi nên mới phải đánh bài hạ sách đó.
Đến nay sư phụ đã quyết ý cho chúng tôi trở lại môn phái, có điều chưa bẩm với
chưởng môn, cũng chưa làm đại lễ nên chưa thể chính thức coi là đệ tử thành thử
xin chưởng môn kim ngôn đồng ý. Nếu không tám anh em chúng tôi cho đến chết
cũng vẫn không môn không phái, lang thang cô hồn dã quỉ, trong võ lâm không
sao ngóc đầu lên được, thật khổ sở biết chừng nào.
Hư Trúc nghĩ thầm: "Cái vụ chưởng môn nhân phái Tiêu Dao này ta nhất
quyết không thể nhận được, thế nhưng nếu không đáp lời y, lão già này cứ lầy
nhầy cù cưa, không biết đến bao giờ, chi bằng cứ bằng lòng trước rồi tính sau". Y
bèn nói:
- Tôn sư nếu đã đồng ý cho các ngươi trùng liệt môn tường thì đương nhiên
đã trở lại môn phái rồi, còn lo gì nữa?
Khang Quảng Lăng mừng rỡ, quay lại kêu to:
- Sư đệ, sư muội, chưởng môn sư thúc đã bằng lòng cho chúng ta trở lại sư
môn rồi.
Bảy người còn lại trong Hàm Cốc bát hữu nghe thấy thế, ai nấy vui mừng,
lập tức người thứ hai mê cờ Phạm Bách Linh, thứ ba đồ gàn Cẩu Độc, thứ tư danh
thủ vẽ vời Ngô lãnh quân, thứ năm Diêm Vương Địch Tiết Mộ Hoa, thứ sáu thợ
khéo Phùng A Tam, thứ bảy thiếu phụ giỏi trồng hoa Thạch Thanh Lộ, thứ támthích hát xướng đóng tuồng Lý Khổi Lỗi, tất cả cùng chạy lại chắp tay cảm tạ
chưởng môn sư thúc, nghĩ đến sư phụ không chính mắt trông thấy tám người trở lại
sư môn, ai nấy ngậm ngùi nhỏ nước mắt.
Hư Trúc vô cùng sượng sùng, thấy mỗi việc lại làm cho cái danh vị "chưởng
môn sư thúc" lún sâu thêm một chút, như đóng đinh vào chân càng lúc càng khó
thoát thân. Mình đang là đệ tử Thiếu Lâm danh môn chính phái, bỗng dưng đi làm
chưởng môn một thứ tà ma ngoại đạo gì đó chẳng phải là cực kỳ vô lý hay sao?
Trước mắt thấy bọn Phạm Bách Linh ai nấy vui mừng đến phát khóc, nếu mình lại
đưa lời dị nghị việc làm "chưởng môn nhân" thì chỉ làm họ mất mặt, không biết
sao hơn đành phải lắc đầu cười gượng.
Y quay đầu lại, thấy bọn Mộ Dung Phục, Đoàn Diên Khánh, Đoàn Dự,
Vương Ngữ Yên, sáu nhà sư chữ Tuệ, đến cả thi thể Huyền Nạn cũng không còn
một ai, trong khu rừng tùng nơi đỉnh núi chỉ còn lại chín người phái Tiêu Dao, bèn
hoảng hốt:
- Ủa, bọ họ đi đâu hết cả rồi?
Ngô lãnh quân đáp:
- Mộ Dung công tử và các cao tăng phái Thiếu Lâm thấy chúng ta đàm
luận không dứt nên đã tự ý bỏ đi rồi.
Hư Trúc kêu lên:
- Ôi chao!
Lập tức đuổi theo bọn Tuệ Phương để cùng trở lại chùa bẩm lại cho phương
trượng và thụ nghiệp sư phụ, trong bụng cảm thấy "quả là may quá", tiện dịp thoát
ra khỏi bọn người phái Tiêu Dao đang níu kéo.
Y rượt theo đến nửa giờ, càng chạy càng nhanh nhưng không thấy sáu nhà sư
chữ Tuệ đâu. Y đã được ông lão phái Tiêu Dao truyền cho hơn bảy mươi năm thần
công nên chạy nhanh như gió còn hơn cả tuấn mã nên vừa hạ sơn đã vượt qua
những nhà sư Thiếu Lâm rồi. Thế nhưng Hư Trúc lại tưởng bọn Tuệ Phương vẫn
còn ở phía trước nên càng ra sức đuổi theo nào ngờ chỉ trong chớp mắt, ngay tại
khúc quẹo nơi thung lũng khuất nẻo nên không nhìn thấy sáu nhà sư, nhô lên hụp
xuống vài lần đã qua mặt họ xa lắc.
Hư Trúc đuổi một mạch tới tận xế chiều vẫn không thấy tung tích sáu vị sư
bá sư thúc đâu, lấy làm lạ, đoán chừng mình đi nhầm lối nên chạy ngược trở lại haichục dặm, kiếm người đi đường hỏi thăm nhưng chẳng một ai trông thấy sáu vị hòa
thượng cả.
Chạy tới chạy lui như thế nhưng y không thấy mỏi mệt chút nào, thấy trời đã
tối, bụng lại đói meo nên đi tới một quán ăn nơi phố chợ vào gọi hai tô mì chay.
Trong khi chờ đợi chủ quán nấu mì, Hư Trúc không ngừng ngó dáo dác ra ngoài
quán bỗng nghe một giọng trong trẻo nói:
- Hòa thượng đang chờ ai đó?
Hư Trúc quay đầu lại thấy nơi sát cửa sổ phía tây có một thanh niên áo xanh
ngồi đó, mắt sáng mày thanh, da trắng muốt, tướng mạo cực kỳ đẹp đẽ, tuổi chừng
mười bảy mười tám, đang nhìn mình mủm mỉm cười.
Hư Trúc đáp:
- Quả đúng thế! Xin hỏi tiểu tướng công có thấy sáu nhà sư ở đâu không?
Thanh niên kia đáp:
- Không thấy sáu nhà sư đâu cả, chỉ thấy một hòa thượng thôi.
Hư Trúc nói:
- Ồ, một nhà sư ư? Xin hỏi tướng công thấy ở đâu vậy?
Thanh niên đáp:
- Ở ngay trong cái quán này.
Hư Trúc nói:
- Chỉ một nhà sư thì không phải nhóm Tuệ Phương sư bá rồi. Thế nhưng đã
là tăng nhân may ra cũng hỏi thăm được chút tin tức.
Y bèn hỏi:
- Xin hỏi tướng công, hòa thượng đó hình dáng ra sao? Tuổi tác lớn hay
nhỏ? Đi về hướng nào?
Thanh niên kia mỉm cười:
- Nhà sư đó trán rộng tai to, mồm rộng môi dày, mũi huếch lên trời, tuổi
chừng hăm ba hăm bốn, y đang ngồi trong quán này chờ ăn hai tô mì, chưa đi đâu
cả.
Hư Trúc cười ha hả nói:
- Hóa ra tiểu tướng công nói đến chính là ta.
Thanh niên kia đáp:- Tướng công thì là tướng công, hà tất lại thêm một chữ "tiểu" vào? Ta gọi
ông là "hòa thượng" chứ nào có gọi là "tiểu hòa thượng" đâu?
Thanh niên đó giọng nói dịu dàng, thật là dễ nghe. Hư Trúc đáp:
- Quả thế, vậy thì gọi là tướng công vậy.
Còn đang nói chuyện, hầu bàn đã bưng ra hai tô mì chay. Hư Trúc nói:
- Tướng công, tiểu tăng xin phép ăn mì.
Thanh niên đáp:
- Toàn rau với nấm, chẳng có mỡ màng gì, ăn có gì ngon? Mau lại bên ta,
ta mời ngươi ăn thịt nạc, ăn gà quay.
Hư Trúc đáp:
- Tội nghiệp! Tội nghiệp! Tiểu tăng cả đời không ăn đồ mặn, xin tướng
công cứ tự tiện.
Nói xong quay lại cúi xuống ăn mì, cái cảnh thanh niên kia ăn thịt ăn gà y
cũng không muốn nhìn thêm nữa. Y bụng đói cồn cào, chỉ giây lát đã ăn hết hơn
nửa tô, bỗng nghe thanh niên kia kêu lên:
- Ủa, cái gì thế này?
Hư Trúc quay đầu lại thấy thanh niên kia tay cầm cái thìa đựng đầy canh
đang toan đưa vào mồm, đột nhiêng ngừng lại dường như nhìn ra vật gì kỳ lạ, cái
muỗng còn cách miệng chừng nửa thước thì ngừng lại, tay trái cầm một vật gì đó
trên bàn. Thanh niên đó đứng lên, tay phải nhón lấy vật kia đi đến bên cạnh Hư
Trúc hỏi:
- Hòa thượng nhìn con trùng này có lạ không?
Hư Trúc thấy y cầm trong tay là một con bọ nhỏ màu đen, loại cánh cam
cánh quýt đó thì đâu chẳng có, không lạ lùng gì, liền hỏi:
- Lạ ở chỗ nào?
Thanh niên kia đáp:
- Ngươi coi con trùng này có vỏ cứng, đen nhánh bóng loáng trông tưởng
như quết dầu không bằng.
Hư Trúc đáp:
- Ồ, con cánh cam nào chẳng vậy.
Thanh niên hỏi:- Vậy sao?
Y vứt con cánh cam xuống đất, giơ chân di cho chết rồi quay lại chỗ ngồi.
Hư Trúc thở dài:
- Tội nghiệp! Tội nghiệp!
Y quay lại ăn nốt bát mì. Cả ngày hôm nay y chưa ăn gì cả, thấy bát mì này
thật là ngon, đến nước dùng cũng húp sạch tận đáy rồi lấy tô thứ hai cầm đũa định
ăn, bỗng nghe thanh niên kia cười sằng sặc nói:
- Hòa thượng, ngươi mồm thì leo lẻo nghiêm thủ thanh qui giới luật, hóa ra
cũng chỉ thuộc loại giả vờ, nói một đằng làm một nẻo.
Hư Trúc đáp:
- Ta làm gì mà nói một đằng làm một nẻo?
Thanh niên nói:
- Ngươi bảo là một đời không ăn mặn, thế cái bát mì nước gà, sao lại húp
sùm sụp thế là sao?
Hư Trúc nói:
- Tướng công chớ nói đùa. Đây rõ ràng là mì chay với rau cải, nấm hương,
làm gì có nước gà? Ta đã dặn kỹ hầu bàn, đừng có cho một tí dầu mỡ nào.
Thanh niên kia mỉm cười:
- Mồm ngươi bảo không đụng vào đồ tanh đồ mặn, vậy mà húp nước thang
gà thì soạp soạp chắc lưỡi, ngon ngọt chẳng biết là chừng nào. Này hòa thượng, để
ta cho thêm một muỗng thang gà vào tô mì này nhé?
Y vừa nói vừa đưa muỗng vào trong bát gà quay lênh láng mỡ màng, múc ra
một thìa đứng lên. Hư Trúc kinh hãi không sao kể xiết, ấp úng:
- Ngươi ... ngươi ... vừa mới ... đã ...
Thanh niên kia cười nói:
- Đúng đó! Ta vừa mới bỏ vào bát mì của nhà ngươi một muỗng canh gà,
không lẽ ngươi không nhìn thấy? Chao ôi, này nhà sư ơi, ngươi mau mau nhắm mắt
lại giả vờ không nhìn thấy, ta lại đổ cho một muỗng canh gà vào bát mì, ăn cho
ngon, miễn là không phải chính ngươi đổ vào, Phật tổ Như Lai sẽ không trách cứ gì
đâu.
Hư Trúc vừa sợ vừa tức, bấy giờ mới biết y đem con cánh cam sang cho
mình coi, chẳng qua chỉ dương đông kích tây, khiến cho mình chú ý đến chỗ khácrồi thừa cơ đổ muỗng canh gà vào bát mì, thảo nào khi ăn thấy thơm ngon lạ
thường, chỉ vì cả đời chưa từng nếm qua nên không biết. Bây giờ canh gà đã nuốt
vào bụng thì làm sao đây? Có nên ói ra hay không? Y nhất thời bàng hoàng chẳng
biết thế nào cho phải.
Thanh niên kia bỗng nói:
- Này hòa thượng, ngươi muốn đi tìm sáu nhà sư, có phải họ đang đến
không kìa?
Y vừa nói vừa chỉ ra ngoài. Hư Trúc mừng quá, chạy vội ra cửa, nhìn dáo
dác ra đường nhưng nào có thấy ai đâu. Y biết lại bị gã thanh niên đánh lừa, trong
bụng bực bội, có điều người xuất gia không được giận hờn nên cố nhịn, không nói
một lời quay lại tiếp tục ăn mì. Hư Trúc nghĩ thầm: "Vị tiểu tướng công này tuổi
chẳng bao nhiêu, sao lại cứ nhắm mình mà chơi ác thế này?'. Nghĩ rồi y cầm đũa
lên, ăn như rồng cuốn ngay hết nửa bát, đột nhiên kẽ răng cắn trúng cái gì trơn
tuột, kinh hãi vội vàng nhìn vào, thấy trong bát mì có một miếng thịt to béo ngậy,
một nửa đã bị cắn mất rồi, hiển nhiên mình đã nuốt vào bụng. Hư Trúc buông đũa
xuống bàn, kêu lên:
- Khổ quá! Khổ quá!
Gã thanh niên kia cười hỏi:
- Này hòa thượng, miếng thịt mỡ ăn có ngon không? Sao lại kêu khổ?
Hư Trúc giận dữ nói:
- Ngươi đánh lừa cho ta chạy ra ngoài cửa rồi bỏ miếng thịt vào bát mì. Ta
... ta ... suốt hai mươi ba năm nay, chưa từng nếm đồ mặn, ta ... ta ... bị ngươi hủy
hoại mất rồi.
Thanh niên kia mỉm cười nói:
- Thế miếng thịt béo kia chẳng ngon gấp mười rau cải, đậu phụ hay sao?
Ngươi trước nay không ăn thì quả thật ngu hết chỗ nói.
Hư Trúc mặt mày thiểu não đứng lên, giơ tay nắn yết hầu, ruột rối như tơ vò,
bỗng nghe bên ngoài có tiếng người huyên náo, một đám đông người đi về phía
quán. Y vừa nhìn qua, tưởng ai hóa ra chính là đám đệ tử phái Tinh Tú, trong lòng
kêu thầm: "Ối chao, hỏng rồi, bị Tinh Tú Lão Quái bắt được chết là cái chắc!". Y
vội vàng chạy ra đằng sau, định đào tẩu, nào ngờ vừa đẩy cửa bước vào, đó là một
căn phòng ngủ. Hư Trúc đang định lùi ra, bỗng nghe đằng sau có tiếng người nói:- Điếm gia, điếm gia! Mau đem rượu thịt ra đây!
Chính là đám đệ tử Tinh Tú đã vào trong khách đường. Hư Trúc không dám
lùi trở lại, đành nhẹ nhàng đóng cửa lại. Bỗng nghe tiếng người nói:
- Kiếm chỗ nào cho gã sư mập kia nằm ngủ.
Chính là tiếng của Đinh Xuân Thu. Một tên đệ tử phái Tinh Tú liền đáp:
- Vâng!
Có tiếng bước chân nặng nề đi về phía bên ngoài cửa phòng. Hư Trúc kinh
hãi, không còn cách nào khác bèn cúi xuống chui tọt vào gầm giường. Đầu y chui
vào rồi, đụng ngay phải vật gì đó, rồi có tiếng người khẽ kêu "A" hóa ra dưới gầm
giường đã có ai trốn dưới đó. Hư Trúc cũng hoảng hốt, toan lùi trở ra thì tên đệ tử
phái Tinh Tú đã bế Tuệ Tịnh tiến vào, để y lên giường rồi đi ra.
Chỉ nghe người ở bên cạnh ghé tai y nói nhỏ:
- Này hòa thượng, thịt mỡ ngon quá nhỉ? Ngươi sợ cái gì?
Thì ra đó chính là thanh niên tướng công. Hư Trúc nghĩ thầm: "Ngươi tay
chân quả là nhanh nhẹn, đã chui vào trốn dưới gầm giường trước cả ta". Y cũng
nói nhỏ:
- Bên ngoài kia là một bầy đại ác nhân, tướng công chớ có nói năng gì cả.
Thanh niên kia hỏi lại:
- Sao ngươi lại biết bọn họ là đại ác nhân?
Hư Trúc đáp:
- Ta nhận ra họ, bọn người này giết người không nháy mắt, không phải
chuyện chơi đâu.
Thanh niên kia vừa toan bảo y đừng nói gì nữa thì gã Tuệ Tịnh đang nằm
trên giường đột nhiên kêu toáng lên:
- Có người dưới gầm giường! Có người dưới gầm giường!
Hư Trúc và thanh niên kia sợ quá, vội vàng chui ra. Chỉ thấy Đinh Xuân Thu
đứng ngay tại ngạch cửa, cười khẩy, khuôn mặt vô cùng đắc ý, đầy vẻ độc ác.
Thanh niên kia sợ đến mặt xanh như tàu lá, quì xuống run run kêu lên:
- Sư phụ!
Đinh Xuân Thu cười nói:
- Hay lắm! Hay lắm! Đưa ra đây!Thanh niên kia đáp:
- Đệ tử không mang theo.
Đinh Xuân Thu hỏi:
- Thế ở đâu?
Thanh niên đáp:
- Tại thành Nam Kinh nước Liêu.
Đinh Xuân Thu mắt lộ hung quang, gằn giọng hỏi lại:
- Đến nước này mà ngươi còn định lừa ta nữa sao? Ta sẽ cho ngươi sống
không xong, chết không được.
Thanh niên nói:
- Đệ tử không dám nói láo với sư phụ.
Đinh Xuân Thu đưa mắt liếc qua Hư Trúc, hỏi thanh niên kia:
- Sao ngươi lại đi cùng với y?
Thanh niên đáp:
- Đệ tử mới gặp y nơi quán này thôi.
Đinh Xuân Thu hừ một tiếng nói:
- Láo toét! Láo toét!
Y hầm hầm nhìn hai người một hồi, quay ra. Bốn tên đệ tử phái Tinh Tú liền
xông vào phòng vây hai người lại. Hư Trúc vừa kinh hãi vừa tức tối nói:
- Thì ra ngươi cũng là đệ tử phái Tinh Tú.
Thanh niên kia dậm chân, hậm hực nói:
- Cũng tại ngươi tên hòa thượng thối tha mà ra, còn trách gì ta nữa?
Một tên đệ tử phái Tinh Tú chào:
- Đại sư tỉ, từ đó tới nay vẫn khỏe chứ?
Giọng nói đầy vẻ hạnh tai lạc họa, cực kỳ khinh bạc. Hư Trúc lạ lùng:
- Cái gì? Ngươi ... ngươi ...
Thanh niên kia hứ một tiếng nói:
- Đồ sư ngốc nghếch, đồ sư thối tha! Ta đương nhiên là con gái, không lẽ
ngươi nhìn không ra sao?Hư Trúc nghĩ thầm: "Thì ra vị tiểu tướng công này là đàn bà, mà lại là đệ tử
phái Tinh Tú, không những là đệ tử phái Tinh Tú, mà lại còn là đại sư tỉ của bọn
họ. Chao ôi không xong rồi, cô ta cho ta húp canh gà, lại ăn thịt mỡ, e rằng trúng
độc mất thôi".
Thanh niên đó dĩ nhiên là A Tử cải trang. Nàng ở Nam Kinh nước Liêu tuy
hưởng đủ mọi cảnh vinh hoa phú quí nhưng bình sinh hiếu động, lâu ngày chán
ngấy. Tiêu Phong việc công bề bộn, làm gì có thì giờ ngày ngày đưa nàng đi săn,
đi chơi. Một hôm trong lòng bực bội, nàng một mình ra ngoài du ngoạn, cũng định
đến tối sẽ về, ngờ đâu gặp phải một trò vui, đuổi theo một người, nhưng càng đuổi
càng mịt mù, sau cùng phóng độc giết được y thì cách thành Nam Kinh đã xa,
thuận bước đi vào Trung Nguyên. Nàng đi lang thang, cũng khéo làm sao hôm đó
lại gặp ngay Hư Trúc lẫn thầy trò Đinh Xuân Thu.
Nàng dụ cho Hư Trúc phá giới ăn mặn, chẳng qua tính tình quái ác rắn mắt,
nhất thời cao hứng cốt sao người khác đau khổ phiền não là nàng khoái chí chứ có
ý gì đâu.
A Tử vẫn tưởng sư phụ chỉ ở bờ biển Tinh Tú hưởng nhàn, chẳng khi nào lại
đến Trung Nguyên, ngờ đâu oan gia ma đưa lối quỉ đưa đường, ở cái quán nhỏ này
lại gặp nhau. Nàng sợ đến mất cả hồn vía, lớn tiếng mắng mỏ Hư Trúc chẳng qua
chỉ để ra vẻ ta đây nhưng tiếng nói đã run lập cập, cố gắng trấn tĩnh cũng không
đến đâu, trong bụng cấp tốc tính toán một kế hoạch thoát thân: "Cứ như hôm nay
chỉ còn cách đánh lừa sư phụ đến Nam Kinh, mượn tay tỉ phu giết quách lão đi, đó
là đường sống duy nhất. Ngoại trừ tỉ phu ra, chẳng một ai đánh được ông ta. Cũng
may Thần Mộc Vương Đỉnh ta để lại Nam Kinh, sư phụ không thể không đi tìm để
lấy lại chiếc đỉnh đó".
Nàng nghĩ đến đó, thấy an tâm hơn nhưng lại chợt nghĩ: "Thế như nếu như
sư phụ trước hết đánh cho ta tàn phế, tiêu hủy võ công của ta sau đó mới áp giải về
Nam Kinh, cái cảnh khổ sở đó, so với chết ngay bây giờ còn khó chịu hơn". Nghĩ
đến đó mặt nàng tái mét cắt không còn giọt máu.
Ngay lúc đó, một tên đệ tử phái Tinh Tú đi đến trước cửa phòng, cười hinh
hích nói:
- Đại sư tỉ, sư phụ cho mời.A Tử nghe thấy sư phụ gọi ra, thật chẳng khác gì con chuột bị con mèo kêu
đến, sợ đến xương cốt tưởng như sụm xuống, nhưng biết có trốn cũng không xong
chỉ đành theo tên đệ tử kia ra ngoài đại đường.
Đinh Xuân Thu ngồi một mình một bàn riêng, trên bàn rượu thịt ê hề, còn
bọn đệ tử thì xuôi tay đứng hầu ở xa xa, hết sức cung kính, không ai dám thở
mạnh. A Tử đi ra đến nơi cất tiếng chào:
- Sư phụ!
Đinh Xuân Thu hỏi:
- Thế quả thật ở nơi đâu?
A Tử nói:
- Không dám dấu sư phụ, đúng là ở thành Nam Kinh nước Liêu.
Đinh Xuân Thu hỏi thêm:
- Thế nơi nào ở thành Nam Kinh?
A Tử đáp:
- Trong phủ Nam Viện Tiêu Đại Vương nước Liêu.
Đinh Xuân Thu cau mặt gằn giọng hỏi:
- Vì cớ nào mà rơi vào tay tên Liêu cẩu Khất Đan đó?
A Tử nói:
- Không phải rơi vào tay y. Đệ tử khi lên đến biên giới phương Bắc, e ngại
làm mất bảo vật của sư phụ, lại sợ lỡ tay làm hư, thành thử len lén vào trong hoa
viên vương phủ Tiêu đại vương, đào lỗ chôn nơi đó. Nơi đó cực kỳ kín đáo, hoa
viên của vương phủ rộng đến hơn sáu nghìn mẫu, ngoại trừ đệ tử ra, không một ai
có thể tìm ra được chiếc vương đỉnh đó đâu, sư phụ cứ yên chí.
Đinh Xuân Thu cười nhạt nói:
- Chỉ có mình ngươi biết được thôi. Hừ, con nhãi kia, ngươi kể cũng gớm
lắm, ngươi tưởng rằng ta ném chuột sợ vỡ đồ, không dám giết ngươi chứ gì? Ngươi
bảo là giết ngươi rồi không thể nào tìm ra chiếc đỉnh nữa, phải không?
A Tử run bắn người lên, lập cập đáp:
- Nếu như sư phụ không tha cho đệ tử cái tội cứng đầu nghịch ngợm, tiêu
trừ công lực, cắt đứt cân mạch, hay chặt chân chặt tay thì đệ tử thà chết ngay tại
đây chứ nhất quyết không thổ lộ chiếc vương đỉnh ... chiếc vương đỉnh ... đó ở đâu.Nói đến câu sau cùng, trong bụng sợ hãi lắm, lắp bắp không ra lời. Đinh
Xuân Thu mỉm cười nói:
- Con oắt kia, ngươi lại dám cả gan bắt thóp ta ư? Môn hạ phái Tinh Tú có
ngươi gớm thật, cả đến ta cũng bị mắc lỡm, Tinh Tú lão tiên này quả là không có
mắt.
Một tên đệ tử đột nhiên lớn tiếng nói:
- Tinh Tú lão tiên nhìn thấu suốt quá khứ vị lai, biết cái số kiếp Thần Mộc
Vương Đỉnh nó phải thế, nên mới giả vờ cho A Tử lấy được để cho bảo cụ này trải
qua gian hiểm, có dịp mài giũa thêm khiến cho bảo đỉnh càng thêm pháp lực.
Một tên đệ tử khác lại chõ vào:
- Mọi việc trong thiên hạ, có cái nào không nằm trong thần cơ diệu toán
của lão tiên? Lão tiên khiêm tốn mà nói thế, chúng đệ tử chẳng nên coi là thật.
Lại một tên đệ tử khác tiếp lời:
- Tinh Tú lão tiên hôm nay mới giở chút kỹ xảo con con, đã giết chết cao
thủ phái Thiếu Lâm là Huyền Nạn, tru diệt thầy trò Lung Á lão nhân mấy chục
người, cổ vãng kim lại, thật Đại La Kim Tiên cũng chưa bằng? Tiểu A Tử! Dù
ngươi có giảo hoạt cách nào, cũng làm sao chạy cho thoát bàn tay của Tinh Tú lão
tiên? Dù cứng đầu chống trả hay van lạy xin tha thì cũng đều vô ích.
Đinh Xuân Thu mỉm cười gật gù, vuốt râu ngồi nghe. Hư Trúc đứng trong
ngọa thất, nghe rõ ràng từng chữ, nghĩ thầm: "Sư bá tổ và Thông Biện tiên sinh
quả nhiên bị Đinh thí chủ giết hại. Ôi, nói gì đến báo thù rửa hận, đến cái mạng
cỏn con của mình đã chắc gì còn".
Quần đệ tử phái Tinh Tú kẻ một câu, người một lời, ai nấy khuyên A Tử
mau mau nghe lời, khai rõ ra, trong ngôn từ dọa nạt thì quá nửa là tuyên dương oai
đức Tinh Tú lão tiên, cứ một câu nói với A Tử thì kèm theo ba câu ca công tụng
đức Đinh Xuân Thu.
Đinh Xuân Thu bình sinh có cái tật là thích nghe người khác tâng bốc mình,
càng đưa lão lên, lão càng khoái trí, được đám đệ tử nịnh hót mấy chục năm đã
quen nên tưởng rằng câu nào câu nấy đều là thật. Nếu như có ai không đưa lão lên
tận mây xanh thì cho rằng kẻ đó thiếu dạ trung thành. Bọn đệ tử hiểu rõ tính khí
đó nên mỗi khi có cơ hội là ai nấy đều hết sức đánh trống thổi kèn, nịnh bợ hết
mực, chỉ sợ mình ca tụng chưa đủ, khiến sư phụ không vui thì tính mạng sẽ như chỉ
mành treo chuông, lúc nào cũng lo ngay ngáy.Đám đệ tử phái Tinh Tú không phải ai cũng mặt dày mày dạn vô liêm sỉ, có
điều ở vào thế chẳng đặng đừng, không thế thì khó mà tồn tại, hơn nữa năm này
tháng nọ dần dần thành quen, lời tâng bốc thuận miệng tuôn ra, chẳng ai còn coi là
điều đáng hổ thẹn nữa.
Đinh Xuân Thu vuốt râu mỉm cười, hai mắt hấp him, lắng nghe bọn đệ tử ca
tụng, đầu óc lâng lâng như người say. Hàm râu dài của lão khi đấu phép với sư
huynh Tô Tinh Hà đã bị cháy mất một phần lớn, chỉ còn loe hoe một dúm, về sau
lão lén phóng chất kịch độc Tam Tiếu Tiêu Dao Tán giết được Tô Tinh Hà, trận
đó kể như thắng, nên có bị mất chòm râu cũng không đến nỗi nào.
Y trong bụng ngầm tính: "Con tiểu a đầu này hôm nay khó mà thoát được
bàn tay lão tiên, còn chú tiểu trong phòng kia thì phải từ từ tính lại. Tam Tiếu Tiêu
Dao Tán không giết được nó, hay là mình dùng Hủ Thi Độc, hoặc Hóa Công Đại
Pháp, tùy cơ mà hành sự. Thế là Tiêu Dao Thần Tiên Hoàn rơi vào tay mình, thật
hên quá sức! Sướng quá!".
Phải đến thời gian một bữa ăn, tiếng ca công tụng đức của đám đệ tử thưa
dần, chỉ những kẻ trường thiên đại luận còn đang lải nhải, Đinh Xuân Thu bèn giơ
tay lên, tiếng liền im bặt, tất cả đồng thanh nói:
- Công đức sư phụ bao trùm trời đất, chúng con ngu si, một vạn phần không
phô ra được một.
Đinh Xuân Thu mỉm cười gật đầu, quay sang A Tử hỏi:
- A Tử, ngươi còn gì để nói nữa không?
A Tử tâm niệm chợt động: "Trước đây sư phụ cưng chiều mình, cũng bởi vì
mình tâng bốc có chỗ đặc biệt không giống kẻ khác, chẳng phải như bọn ngốc này,
nói tới nói lui, cả trăm năm cũng chỉ có bao nhiêu đó". Nàng bèn nói:
- Sư phụ, đệ tử sở dĩ lén ăm trộm Thần Mộc Vương Đỉnh đem ra ngoài
chơi, cũng có lý do.
Đinh Xuân Thu trừng mắt hỏi lại:
- Có lý do là sao?
A Tử đáp:
- Khi sư phụ còn trẻ, công lực chưa đạt đến chỗ đăng phong tạo cực như
bây giờ, tu tập mới cần phải cần vương đỉnh để trợ giúp cho việc luyện công. Thế
nhưng những năm gần đây, hễ ai có mắt nhìn cũng đều biết sư phụ đã đến mứcthông thiên triệt địa, cái vương đỉnh kia chỉ dùng để dụ độc vật, so với thành tựu
của sư phụ thật khác gì đom đóm sánh với mặt trăng mặt trời, làm sao bì được. Sư
phụ sở dĩ chưa vứt cái mộc đỉnh đó đi, chẳng qua cũng vì nghĩ đến món đồ cũ
không nỡ bỏ đấy thôi. Chúng sư đệ la lối om sòm, cứ làm như sư phụ không có
vương đỉnh đó không được, cho là bản môn trọng bảo mất đi thì chuyện không phải
nhỏ, quả thực ngu xuẩn biết mấy, có khác gì coi thần thông của sư phụ không vào
đâu.
Đinh Xuân Thu liên tiếp gật gù:
- Hừm, hừm, nói nghe có lý lắm! Nói nghe có lý lắm!
A Tử lại tiếp:
- Đệ tử thiển nghĩ, võ công phái Tinh Tú chúng ta cao cường là dường nào,
không môn phái trên đời này theo kịp được, có điều sư phụ đại nhân đại lượng,
chẳng thèm chấp bọn nhân sĩ võ lâm nên không chịu dời gót ngọc đến Trung
Nguyên dạy cho bọn ếch ngồi đáy giếng kia một trận. Trong võ lâm lắm kẻ cuồng
vọng tự tôn, biết chắc sư phụ chẳng thèm ganh đua với chúng làm gì cho mệt nên
huênh hoang hợm hĩnh, đứa nào cũng xưng hùng xưng bá, kẻ thì cho mình đương
thế cao nhân, kẻ khác tự phong danh gia võ học.
Thế nhưng mồm thì khoe mình vang trời dậy đất, nhưng có đứa nào dám vác
mặt tới biển Tinh Tú lãnh giáo sư phụ vài chiêu. Kẻ học võ trong thiên hạ, ai mà
chẳng biết sư phụ võ công cao thâm khôn lường, thế nhưng quanh đi quẩn lại cũng
cứ bốn chữ "thâm bất khả trắc", ví như hỏi rằng cao siêu tới đâu, thì có đứa nào
nói được?
Cho đến lúc này, Mộ Dung Cô Tô tiếng nổi như cồn, Hà Nam Thiếu Lâm
cũng xưng mình Thái Sơn Bắc Đẩu, thậm chí đến cái gì Lung Á tiên sinh, cái gì
Đoàn gia Đại Lý cũng thành những nhân vật kiệt hiệt. Sư phụ nghĩ xem thế có nực
cười không?
Tiếng nào trong trẻo, ỏn thót bên tai, câu nào câu nấy như xoáy vào tim
Đinh Xuân Thu, so với các đệ tử khác lớn tiếng tung hô ca tụng dễ nghe hơn nhiều.
Đinh Xuân Thu càng lúc càng phởn phơ, mắt híp lại chỉ còn là một đường nhỏ như
sợi chỉ, không ngớt gục gặc đầu, mười phần đắc ý.
A Tử lại tiếp:
- Thành ra đệ tử nổi tính trẻ con, nghĩ bụng sư phụ mình thần thông như
thế, nếu không đến Trung Nguyên lộ chút thân thủ cho bọn giun dế kia được dịpmở mắt, thì sao chúng biết được rằng thiên ngoại hữu thiên, nhân thượng hữu
nhân? Do đó mới bày ra một kế mời sư phụ đến Trung Nguyên, cho bọn nhãi nhép
kia biết thế nào là trời cao đất dày. Thế nhưng cung thỉnh sư phụ một cách bình
thường thì xoàng xĩnh quá, không xứng với thân phận một đệ nhất cao nhân, cổ
vãng kim lai như lão nhân gia. Thân phận sư phụ không giống người khác, cung
thỉnh sư phụ đến Trung Nguyên cũng phải khác người. Thành thử đệ tử mới mượn
chiếc vương đỉnh, cốt chỉ để mời được đại giá của lão nhân gia đấy thôi.
Đinh Xuân Thu bật cười ha hả hỏi:
- Nếu nói thế, ngươi lấy chiếc vương đỉnh thì chỉ vì lòng hiếu kính hay sao?
A Tử đáp:
- Lẽ nào không phải? Thế nhưng đệ tử ngoài hiếu tâm, thực ra lại cũng có
chút tư tâm.
Đinh Xuân Thu chau mày hỏi:
- Tư tâm thế nào?
A Tử mỉm cười đáp:
- Xin sư phụ đừng trách. Đệ tử nghĩ mình là môn đồ phái Tinh Tú, cũng
mong bản phái uy chấn thiên hạ để khi hành tẩu giang hồ, người người kính trọng,
như thế có nở mày nở mặt hơn chăng? Đó chính là cái tư tâm nhỏ mọn của đệ tử.
Đinh Xuân Thu lại cười khà khà nói:
- Nói nghe được lắm! Nói nghe được lắm! Ta có bao nhiêu là đệ tử, vậy
mà có đứa nào tâm cơ linh mẫn được như ngươi đâu. Thì ra ngươi ăn trộm Thần
Mộc Vương Đỉnh, là chỉ vì muốn ta dương oai đấy thôi. Ha ha, một đứa mồm
miệng lanh lợi như ngươi, giết đi thật uổng, bên mình thiếu đi một kẻ nói chuyện
cho đỡ buồn, thế nhưng nếu ta phủi tay không tra xét ...
A Tử vội vàng cướp lời:
- Tuy thế quá ư là tiện nghi cho đệ tử nhưng bản môn từ trên xuống dưới ai
ai chẳng cảm kích lòng khoan hồng độ lượng của sư phụ? Từ nay trở đi sẽ vì sư
môn mà tận tâm kiệt lực, tan xương nát thịt mới thôi.
Đinh Xuân Thu đáp:
- Những lời của ngươi đem ra đánh lừa người khác thì may ra còn được, còn
như với ta, thì có khác gì bảo ta là một lão già mê muội hay sao? Ngươi tâm tư quả
là đại bất thiện. Hừ, ngươi nói nếu ta phế công lực, chấn đoạn kinh mạch ...Vừa nói tới đây, bỗng có một giọng vang vang nói:
- Điếm gia, dọn chỗ cho ta.
Đinh Xuân Thu liếc mắt nhìn ra, thấy một thanh niên công tử mặc áo dài
màu vàng, hông đeo trường kiếm, ngồi ngay ở bàn bên cạnh, chẳng biết vào quán
từ lúc nào. Người đó chính là Mộ Dung Phục mình mới gặp nơi hội cờ lúc ban
ngày, đã thi triển tà thuật gia hại nhưng không thành công. Đinh Xuân Thu vừa rồi
lắng tai nghe A Tử nói, lòng lâng lâng như đi mây về gió vào nơi cực lạc, mặt khác
lắng nghe xem Hư Trúc ở trong phòng động tĩnh ra sao, sợ y vượt tường chạy mất
khiến cho trong quán có thêm một người mà cũng không hay, quả là sơ xuất đến
cùng cực. Nếu như Mộ Dung Phục vừa đến đã ra tay ám toán, e rằng sẽ bị hố to. Y
kinh hãi mặt mày biến sắc nhưng lập tức trấn tĩnh lại ngay. Than ôi vật đổi sao dời,
Trời sầu đất thảm một đời bỏ đi.
*
* *
Mộ Dung Phục giơ tay chào Đinh Xuân Thu, miệng nói:
- Xin chào! Cuộc đời quả có duyên thì ở đâu cũng gặp, vừa mới chia tay
đã lại thấy nhau rồi.
Đinh Xuân Thu cười nói:
- Quả là cùng công tử có duyên với nhau thật!
Y nghĩ thầm: "Ta đã đả thương mấy viên đại tướng thủ hạ của y, hôm nay
ở trong cuộc cờ lại xúc xiểm khiến y suýt nữa thì bỏ mạng, gã này đâu có thể
nào bỏ qua cho ta? Ta từng nghe họ Cô Tô Mộ Dung võ công cực kỳ uyên
bác, cái ngón "dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân", trong võ lâm ai cũng nói chắc
như cua gạch, chắc hẳn không phải hư ngôn, xem công phu y ném quân cờ
quả cũng khá lắm. Khi y mải mê xem cờ bị ta dẫn vào ma chướng, đúng là cơ
hội bằng vàng để trừ đi ngờ đâu lại bị người ta cứu. Xem ra tiểu tử này võ
công cao siêu thật nhưng những pháp thuật khác thì chẳng biết gì".
Đinh Xuân Thu quay lại nói với A Tử:
- Ngươi nói nếu như ta phế hết võ công, cắt đứt cân mạch, chặt chân chặt
tay ngươi, ngươi thà chết ngay chứ nhất định không thổ lộ nơi giấu vương đỉnh,
có phải thế không?
A Tử cực kỳ kinh hãi, run run đáp:- Sư phụ khoan hồng đại lượng, chẳng nên ... chẳng nên ... chẳng nên để
bụng ... để bụng những lời nói nhăng nói xàm của đệ tử.
Mộ Dung Phục cười nói:
- Đinh tiên sinh, ông tuổi tác đã cao, chấp nhất làm gì với một đứa trẻ
con? Mau lại đây, hai người mình cạn với nhau ba chén, đàm văn luận võ có
phải thú không nào? Thanh lý môn hộ trước mặt người ngoài chẳng khiến
mình nhẹ thể lắm sao?
Đinh Xuân Thu chưa kịp trả lời thì một tên đệ tử phái Tinh Tú đã bực bội
quát lên:
- Cái thứ ngươi thật chẳng biết trên biết dưới, sư phụ ta là võ lâm chí tôn,
lẽ nào lại thèm đàm văn luận võ với thứ hậu sinh tiểu tử như ngươi? Ngươi có
tư cách gì mà đòi nói chuyện tay đôi với thầy ta?
Lại thêm một gã khác phụ họa:
- Nếu như ngươi cực kỳ cung kính khấu đầu thỉnh giáo, Tinh Tú lão tiên
có bụng dẫn dắt bọn hậu sinh, không chừng chỉ cho đôi ba miếng. Chứ còn
như ngươi đòi đàm luận với lão tiên, ha ha, thật nực cười đến sái quai hàm
mất? Ha ha!
Y mới cười được hai tiếng, vẻ mặt bỗng dưng thật là kỳ quái, một lát sau
lại cười khan ha ha lần nữa, cười xong liền há hốc mồm, nhưng hoàn toàn
không có tiếng nào phát ra, trên mặt nhuốm một màu ngụy bí, nụ cười đầy vẻ
hoạt kê.
Bọn đệ tử phái Tinh Tú ai cũng lấm lét nhìn kẻ đồng môn cười xong ba
tiếng rồi tắt thở biết y trúng phải Tam Tiếu Tiêu Dao Tán, người nào người
nấy hoảng vía, không dám thở mạnh, cúi gầm mặt xuống không dám chạm
vào ánh mắt Đinh Xuân Thu, nghĩ bụng: "Câu nói của y không biết làm phật
lòng sư phụ ra sao để đến nỗi người dùng thủ đoạn tàn độc giết ngay như thế?
Mình phải ngẫm nghĩ cho kỹ xem câu nói đó sai sót chỗ nào, chớ có đi vào
vết xe đổ đó nữa".
Đinh Xuân Thu trong bụng càng tức tối hơn, lại thêm chột dạ. Y vừa hỏi
chuyện A Tử vừa hơi vung tay áo lên, tiềm vận nội lực đẩy bột phấn Tam
Tiếu Tiêu Dao Tán bắn vào Mộ Dung Phục. Độc phấn đó vô hình lại không
mùi vị gì, cực kỳ mịn màng, trời đang tối, trong quán ăn chỉ thấy mờ mờ,
những tưởng Mộ Dung Phục dù võ công cao cường thì cũng chẳng thể phátgiác, ngờ đâu không biết y dùng thủ đoạn gì mà lại đẩy chất độc Tam Tiếu Tiêu Dao Tán qua bên tên đệ tử của mình.
Chết một tên đệ tử cũng chẳng đáng bao nhiêu, nhưng Mộ Dung Phục đang
cười cười nói nói, không thấy y giơ chân múa tay gì mà đã chuyển được qua
người khác, hiển nhiên đó không phải là dùng nội lực phản kích khiến cho
Đinh Xuân Thu tuy kiến văn rộng rãi nhưng nhất thời không nghĩ ra được đó
là công phu gì. Trong bụng y chỉ nghĩ được tám chữ: "dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ
thân", thủ pháp Mộ Dung Phục sử dụng cũng tương tự như môn bắt ám khí rồi
ném trả lại, tiếp tiêu phát tiêu, tiếp tiễn hoàn tiễn dùng vào việc bắt phấn độc
rồi đẩy trở về. Thế nhưng độc phấn tinh vi như thế, sao y lại không bị nhiễm
phải mà lại trả về được, thế mới kỳ?
Y lại nghĩ ra: " Nếu nói là "dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân" thì y phải đẩy
Tam Tiếu Tiêu Dao Tán về mình mới phải, chắc là tiểu tử này còn e ngại lão
tiên, không dám ngang nhiên vuốt râu hùm". Tưởng đến vuốt râu hùm, y
thuận tay giơ lên vuốt chòm râu nhưng chỉ cầm phải mấy sợi loe hoe ngắn
ngủn đã cháy xém, trong lòng không bực tức mà lại vui: "Đến như Tô Tinh
Hà, Huyền Nạn lão hòa thượng là những cao thủ công lực như thế, vậy mà
còn bị lão tiên hạ thủ chết đứ đừ, cái thứ Mộ Dung Phục miệng còn hôi sữa,
thật có đáng gì đâu?".
Đinh Xuân Thu bèn nói:
- Mộ Dung công tử cùng với ta quả là có duyên, lại đây nào, ta mời ngươi
một chén rượu.
Nói xong giơ tay búng một cái, một chén rượu lập tức bay tà tà ngang qua
đến trước mặt Mộ Dung Phục, vậy mà không sóng sánh ra ngoài giọt nào.
Nếu phải lúc bình thời, quần đệ tử của Đinh Xuân Thu đã khen ầm lên, thế
nhưng mới vừa thấy một đồng môn bỏ mạng vô cùng quái lạ, ai cũng sợ bợ
hàm ngựa không nên trò trống gì lại mó phải vó câu, chưa bắt mạch được
dụng ý của sư phụ, chi bằng ngậm miệng là hơn, thế nhưng vào nước này cũng
phải reo lên một tiếng cho phải phép, kẻo không sư phụ bực mình, hỏi tội thì
cũng khổ.
Chén rượu bay tới trước mặt Mộ Dung Phục, cả bọn liền đồng thanh la lên:
- Hay quá!Thế nhưng có ba gã đặc biệt nhát gan, đến reo lên cũng không dám, đợi
khi cả bọn hoan hô rồi mới chợt nhớ ra là mình không phụ họa, quả là chậm
chân, nên cũng vội vàng bắt chước hùa theo. Thế nhưng ba tiếng "Hay quá!"
đó quả có chậm hơn một chút, thành thử nghe loạc choạc không được đều
nhịp. Ba gã kia thấy các đồng môn châm bẩm nhìn mình ra chiều trách cứ, ai
nấy hổ thẹn vô cùng lại thêm trong lòng thấp thỏm.
Mộ Dung Phục nói:
- Rượu mời của Đinh tiên sinh, tại hạ xin được chuyển sang cho lệnh cao
đồ.
Nói xong y thổi phù một cái, chén rượu chuyển hướng, bay đến trước mặt
một tên đệ tử phái Tinh Tú ở nơi mé trái. Y chỉ thổi một hơi mà đã làm lệch
hướng, so với dùng ngón tay búng, khó dễ khác nhau dù kẻ không biết võ
công thì cũng nhìn ra được, Đinh Xuân Thu xem như thua một keo. Thực ra
Mộ Dung Phục thổi ra, so với cái búng của Đinh Xuân Thu, lực đạo ai mạnh ai
yếu không thể so sánh được, có điều phương vị kình đạo cực kỳ chính xác,
tưởng như thổi bay được chén rượu nhưng chính là y mượn sức búng của địch
làm sức của mình mà thôi.
Gã đệ tử phái Tinh Tú thấy cái chén bay tới, không kịp suy nghĩ, lập tức
đưa tay tiếp lấy miệng nói:
- Chén rượu này sư phụ ra lệnh cho ngươi uống cơ mà!
Y toan ném trở về cho Mộ Dung Phục, đột nhiên kêu rống lên thảm thiết,
ngã bật ngửa ra sau rồi không còn động đậy gì nữa. Các đệ tử lần này đều
hiểu ra biết ngay khi sư phụ búng chén rượu ra đã gẩy thuốc độc trong móng
tay vào thành chén, chỉ cần Mộ Dung Phục chạm phải, chẳng nhấp môi cũng
sẽ chết tươi không khác gì tên đệ tử nọ.
Đinh Xuân Thu mặt biến sắc, cực kỳ phẫn nộ, biết không còn dấu đám đệ
tử được nữa, đến nước này chẳng có thể ra chiều nhàn nhã, hai tay liền bưng
chén rượu lên, chậm rãi đứng dậy nói:
- Mộ Dung công tử, chén rượu này lão phu xin kính mời các hạ.
Nói xong ông ta đi đến trước mặt Mộ Dung Phục. Chỉ vừa liếc qua, Mộ
Dung Phục đã thấy rượu trong chén thấp thoáng một ánh xanh biếc, hiển
nhiên có chứa một loại độc dược khủng khiếp. Lần nay y tự tay đem đến,
không có cách nào có thể cho quay ngược trở về. Đợi tới khi Đinh Xuân Thuđi đến trước mặt chỉ còn cách một mặt bàn, Mộ Dung Phục liền hít một hơi,
rượu trong chén Đinh Xuân Thu đang cầm nơi tay lập tức vọt thẳng lên, thành
một thủy tuyến màu xanh. Đinh Xuân Thu kêu thầm: "Ghê gớm thật!", biết
rằng đối phương hút lên rồi sẽ nhả tới, sợi dây nước đó sẽ bắn thẳng vào
người mình, mặc dù chẳng có gì đáng ngại nhưng người mình đầm đìa những
rượu không khỏi xấu mặt, lập tức vận nội công lên, bụp một tiếng thổi luôn
vào thủy tuyến đó.
Sợi dây nước chạy tới cách mặt Mộ Dung Phục chừng nửa thước, bỗng
chuyển xéo qua hướng trái, chạy vòng qua sau ót y, nhanh nhẹn lạ thường bay
vọt ra, nghe ọc một tiếng chui tuột luôn vào miệng một tên đệ tử. Gã đó đang
há mồm định kêu nhưng chưa thành tiếng thủy tuyến đã chạy tọt vào bụng.
Dây nước đó nhanh lạ thường nên y vẫn còn đang cao hứng la lên:
- Hay quá!
Đến khi vừa reo xong, lúc ấy mới hoảng vía lại kêu:
- Hỏng rồi!
Y gục xuống, trong giây lát gương mặt biến thành đen kịp, chết ngay.
Thuốc độc đó lợi hại như thế, Mộ Dung Phục cũng sợ đến mất vía: "Ta bôn
tẩu giang hồ xưa nay chưa từng thấy loại thuốc độc nào bá đạo đến vậy". Hai
người tỉ thí, chỉ trong giây lát đã khiến cho phái Tinh Tú chết ba đệ tử, hiển
nhiên ai thắng ai bại đã rõ ràng. Đinh Xuân Thu phẫn nộ cùng cực, cầm chén
rượu vứt xuống bàn, múa chưởng đánh ra. Mộ Dung Phục đã từng nghe đến
Hóa Công Đại Pháp của y từ lâu, vội vàng tránh qua, Đinh Xuân Thu liên tiếp
đánh ba chưởng, Mộ Dung Phục đều dùng thân pháp tiểu xảo tránh né được,
hai bên không hề đụng vào nhau.
Hai người càng đánh càng nhanh, trong phạn điếm bày đầy bàn ghế, lối đi
nhỏ hẹp, không có cách nào xoay chuyển, thế nhưng hai người vẫn theo những
khe giữa hai bàn mà tới lui, không một tiếng động, quyền chưởng không giao
tiếp đã đành mà đến bàn ghế cũng không đổ ngã cái nào.
Quần đệ tử phái Tinh Tú ai nấy đứng dựa vào tường, không ai dám bước
chân ra khỏi cửa, sư phụ đang kịch đấu với kình địch, có ai lại dám tránh né ra
xa, thế là phạm vào đại tội bất trung với sư môn còn gì. Mọi người ai cũng
biết tình thế nguy hiểm, chỉ cần một chút chưởng phong quét phải thì khó mà
sống được, ai cũng mong sao thân hình mình xẹp lại mỏng như giấy, dán chặtvào tường ngoài ra không còn cách nào khác. Thế nhưng thấy Mộ Dung Phục
thủ nhiều công ít, chưởng pháp tuy tinh kỳ nhưng vì không dám đụng vào
chưởng của Đinh Xuân Thu nên không khỏi bó chân bó tay, rơi vào thế hạ
phong.
Sau mấy chiêu, Đinh Xuân Thu biết rằng Mộ Dung Phục không dám cùng
mình đối chưởng hẳn là sợ Hóa Công Đại Pháp. Nếu đối phương đã sợ công
phu này thì mình phải dùng nó để chế ngự y, có điều thân pháp Mộ Dung
Phục phiêu hốt, ra chiêu khó mà đoán được nên muốn ép cho y phải đụng với
mình kể cũng không phải dễ.
Lại thêm vài chưởng nữa, Đinh Xuân Thu đã nghĩ ra một cách, chưởng
phải bay múa tung hoành, đánh ép tới, tay trái giả vờ không được linh hoạt
nhưng cố ý che đậy để cho Mộ Dung Phục khỏi biết. Mộ Dung Phục võ công
tinh thâm, đối phương mạnh yếu thế nào, lẽ nào lại không nhìn ra?
Y nghiêng người lệch qua, đánh liên tiếp hai chưởng liền, thế mạnh như vũ
bão tấn công thẳng vào hông bên trái Đinh Xuân Thu. Đinh Xuân Thu hự nhẹ
một tiếng, lùi lại một bước nhưng không dám đưa chưởng trái ra đỡ đòn. Mộ
Dung Phục nghĩ thầm: "Lão quái này không biết ngực và sườn bên trái bị nội
thương sao đây". Y đang đắc thắng nên không nhường nhịn gì nữa, làm như
tấn công mạnh về bên hữu nhưng nội lực lại vận dụng toàn lực đánh vào bên
tả.
Hai bên trao đổi thêm hơn hai chục chiêu nữa, tay trái Đinh Xuân Thu rút
lẩn hẳn vào trong tay áo, chưởng phải biến thành trảo, giơ lên cào vào mặt
Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục nghiêng qua tránh được, giơ quyền lên đánh
thẳng vào sườn bên trái của đối phương. Đinh Xuân Thu nãy giờ vẫn chờ đòn
này, sau cùng kẻ địch đã đánh ra, trong lòng mừng rỡ, vung tay áo lên cuốn
lấy nắm tay của Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục nghĩ thầm: "Tụ phong của
ngươi dù có mạnh gấp mười lần cũng làm sao đả thương được ta?". Y không
rút quyền về mà lại vận kình lên cánh tay, chịu cho tay áo y cuốn được, nghe
soẹt một tiếng dài, tay áo Mộ Dung Phục đã bị xé rách toạc một miếng lớn.
Mộ Dung Phục còn đang kinh hãi, quyền đó y đánh ra thật mạnh ngờ đâu lại
bị rít lại, thì ra nắm tay đã bị đối phương chộp được rồi.
Chiêu đó quả là ngoài dự tính của Mộ Dung Phục, y lập tức kinh hãi hiểu
ra: "Lão quái giả vờ bị thương ở bên trái, chẳng qua chỉ là kế dụ địch, hóa ra
mình mắc lừa tên già này rồi". Y trong lòng cảm thấy hối hận: "Ta chẳng quatự cao tự đại, dám coi thường lão quái tên tuổi vang lừng này, quân tử báo
cừu, thập niên vị vãn, chỉ vì cái căm phẫn nhất thời, chưa tính toán chu đáo đã
làm liều khiêu chiến với y". Thế nhưng lúc này đâu còn có thể lùi được nữa,
bao nhiêu nội lực trong người lập tức chuyển lên đầu quyền tống ra.
Ngờ đâu nội kình đưa lên rồi chẳng khác gì hòn đá ném xuống biển, không
biết đi đâu. Mộ Dung Phục kêu thầm một tiếng: "Chết rồi!". Y vẫn biết Đinh
Xuân Thu là một cường địch nên từ khi bắt đầu giao đấu lúc nào cũng chăm
chăm quyết không để đối phương sử dụng Hóa Công Đại Pháp, ngờ đâu đến
lúc này không còn cách nào tránh được nữa. Hiện tại quả thực tiến thoái lưỡng
nan, nếu tiếp tục vận kình kháng cự thì dù nội công cao cường đến đâu cũng
sẽ bị y hóa giải chỉ trong giây lát công lực hết sạch, thành người tàn phế, còn
như bão nguyên thủ nhất, thu kình lực về thì những chất độc vô cùng ghê gớm
của Đinh Xuân Thu sẽ theo chân khí xâm nhập tạng phủ kinh mạch.
Còn đang chưa biết tính sao, bàng hoàng vô kế bỗng từ sau có người lớn
tiếng reo lên:
- Sư phụ xếp đặt thật khéo khiến cho tên tiểu tử thối tha kia bị hãm vào
tuyệt cảnh.
Mộ Dung Phục vội vàng lùi lại hai bước, tay trái vươn ra, chộp ngay ngực
tên đệ tử phái Tinh Tú. Trong gia số nã thủ tuyệt kỹ của Cô Tô Mộ Dung có
một môn mượn sức đánh sức tên là Đẩu Chuyển Tinh Di, người ngoài không
biết nguồn cơn thấy khoa gậy ông đập lưng ông của nhà Mộ Dung thật là
tuyệt diệu, những người bị chết ai cũng bị chính ngay môn tuyệt nghệ thành
danh của mình trở ngược vào thân, hiển nhiên bao nhiêu thần kỹ các môn
phái, Cô Tô Mộ Dung đều tinh thông am hiểu. Thực ra trong võ lâm tuyệt kỹ
có hàng nghìn hàng vạn môn, dù người thông minh uyên bác đến đâu chăng
nữa thì cũng không thể nào học hết mọi tuyệt kỹ được huống chi đã gọi là
tuyệt kỹ thì chẳng thể một sớm một chiều mà luyện thành. Tuy nhiên nhà Mộ
Dung có thuật Đẩu Chuyển Tinh Di nên dù đối phương đưa ra công phu nào
chăng nữa đều có thể di chuyển lực đạo, phản kích trở ngược lại mình.
Người giỏi về Tỏa Hầu Thương khi giơ ngọn giáo đâm vào cổ họng họ Mộ
Dung, bị họ dùng môn Đẩu Chuyển Tinh Di xoay lại, mũi thương đó sẽ đâm
ngay vào yết hầu của mình, cách sử dụng, kình lực phép tắc đều hoàn toàn do
yếu quyết bí truyền của bản môn; người giỏi về Đoạn Tí Đao khi múa đao
chém xuống thì lại chém phải chính cánh tay mình. Binh khí nào thì dùngchính binh khí đó, chiêu số nào cũng chính chiêu số đó. Nếu người ta không
chính mắt trông thấy người nhà Mộ Dung dùng môn Đẩu Chuyển Tinh Di này
thì có ai đoán ra được tại sao người đó bỏ mạng, thực ra cũng chỉ là "tự sát"
mà thôi. Kẻ ra chiêu võ công càng cao thì cái chết lại càng khéo léo.
Nhà Mộ Dung nếu không phải là một người đánh một người, hoặc không
biết chắc sẽ có thể lấy mạng đối phương thì không bao giờ dùng môn Đẩu
Chuyển Tinh Di này, thành thử Cô Tô Mộ Dung danh chấn giang hồ mà công
phu chân chính thế nào có ai biết đến đâu?
Đem binh khí quyền cước của đối thủ chuyển hoán phương hướng để cho
kẻ địch mình làm mình chịu, nguyên tắc chẳng qua chỉ là "bật ngược trở về",
chẳng khác gì một người giơ tay đấm vào tường đá, ra tay càng mạnh thì
quyền đầu bị chấn lực càng đau, nặng nhẹ mạnh yếu không sai một mảy. Có
điều chuyển hoán binh khí quyền cước là vật hữu hình thì dễ, còn chuyển
hoán thứ vô hình vô chất như nội lực khí công mới cực kỳ khó khăn. Mộ Dung
Phục tuy tập luyện công phu này đã nhiều năm nhưng vì tuổi còn trẻ nên vẫn
chưa đạt đến cảnh giới đăng phong tạo cực, gặp phải hạng cao thủ số một như
Đinh Xuân Thu, biết không cách nào dùng Đẩu Chuyển Tinh Di bật ngược lại
đả thương đối phương được nên dùng Đẩu Chuyển Tinh Di ba lần cũng chỉ
giết được ba tên đệ tử của phái Tinh Tú mà thôi.
Y có chuyển có di đấy nhưng cũng chỉ chuyển di sang người thứ ba mà
thôi. Đinh Xuân Thu lén sử dụng Tam Tiếu Tiêu Dao Tán, búng chén tống
chất độc, rồi nén độc tửu bắn ra, môn nào cũng bị Mộ Dung Phục nhẹ nhàng
đưa người khác ra chết thay cho mình.
Đến khi Đinh Xuân Thu sử dụng Hóa Công Đại Pháp, Mộ Dung Phục
không cách nào có thể di chuyển được, may sao có gã đệ tử kia lên tiếng nịnh
nọt lấy lòng thầy, vừa há miệng kêu lên nên đã cho y biết được mình đang ở
đâu. Mộ Dung Phục trong cơn gấp gáp, không còn thì giờ đâu mà nghĩ ngợi,
chộp ngay được tên đệ tử kia, lập tức xoay ngang hất dọc, đẩy khí thay kình
đem gã đó ra thế chỗ mình. Y mạo hiểm thi triển may sao hiệu quả, Tinh Tú
Lão Quái vốn chủ tâm "hóa" công lực của Mộ Dung Phục, ngờ đâu lại "tán"
ngay công phu bản môn của đứa học trò.
Mộ Dung Phục thử một lần thành công, thật đúng là chết đi sống lại, lập
tức chụp ngay lấy cơ hội, không để cho Đinh Xuân Thu có dịp suy nghĩ, đẩy
luôn tên đệ tử phái Tinh Tú cho đụng vào một gã đệ tử khác. Công lực của tênđệ tử thứ hai cũng lập tức bị Hóa Công Đại Pháp của Đinh Xuân Thu hóa tán
ngay.
Đinh Xuân Thu đã thấy Mộ Dung Phục dùng công phu tá lực đả lực chuyển
sang đệ tử của mình, càng thêm phẫn nộ, nghĩ thầm: "Ta nếu như vì bảo toàn
cho mấy đứa học trò bị thịt này mà buông y ra, muốn bắt lại thật khó bằng lên
trời, tên tiểu tử này thoát thân rồi sẽ tìm cách chạy mất. Nếu như thế ta chết
năm tên đệ tử mà chỉ xé rách được tay áo của y, thế có phải là phái Tinh Tú
thua đứt đuôi, Tinh Tú lão tiên còn mặt mũi nào dương uy Trung Nguyên?".
Y bèn tăng thêm kình lực vào năm ngón tay, nhất định không buông Mộ
Dung Phục. Mộ Dung Phục lại lùi thêm mấy bước, dính chặt thêm một gã đệ
tử phái Tinh Tú nữa để cho Đinh Xuân Thu tiêu tán công lực. Chỉ trong
khoảnh khắc, ba tên đệ tử đã nằm bẹp dưới đất, chẳng khác gì bị quỉ nhập
tràng hút hết máu trong người. Những tên còn lại kinh hãi quá, thấy Mộ Dung
Phục tiến đến gần, ai nấy kêu thất thanh, bỏ chạy tán loạn.
Mộ Dung Phục hất tay một cái, ba tên đệ tử phái Tinh Tú bay tung ra, tên
thứ ba lại dụng ngay vào một gã khác. Gã đó kinh hoảng vừa mới há miệng
kêu lên thì người đã nhũn ra rồi. Những đệ tử còn lại ai ai cũng đều nhìn rõ,
nếu sư phụ không thả Mộ Dung Phục ra thì tên tiểu tử này tiếp tục mượn sức
đả thương người, bao nhiêu đệ tử đều bị Tinh Tú lão tiên "hóa" hết, rồi thể
nào cũng đến lượt mình, nhưng ngoài việc khiếp đảm ra, chẳng một ai dám bỏ
chạy nên chỉ lẩn quẩn ở bên trong quán, chui qua trốn lại như chuột để khỏi
mang họa vào thân.
Cái tiểu điếm đó đâu có rộng bao nhiêu, thành thử Mộ Dung Phục vung tay
ra là lại trúng được ba bốn tên khác, dính chùm với nhau thành một xâu bảy
tám người, trong tay cái món "binh khí" vừa to vừa dài ấy muốn đụng vào ai
lại càng dễ hơn. Lúc đó y đã hoàn toàn chiếm được thượng phong nhưng trong
bụng lại lo ngay ngáy, đệ tử phái Tinh Tú tuy đông thật nhưng cũng có lúc
phải hết, đến khi Đinh Xuân Thu "hóa" hết nội lực bọn chúng rồi thì lúc đó
kiếm đâu ra một tên tử quỉ khác? Y hết sức vùng vẫy, liên tiếp phát chân lực
cố giằng khỏi tay Đinh Xuân Thu.
Đinh Xuân Thu thấy môn hạ đệ tử của mình dính chặt vào nhau, chẳng
khác gì người ta dùng lạt xâu một bầy cá, kẻ nào chưa bị thì trốn chui trốn
nhủi, không còn ai buông lời tán tụng mình nữa. Y vừa thẹn vừa tức, lại càng
ghịt chặt nắm tay Mộ Dung Phục, nghĩ thầm: "Cái bọn học trò vô tích sự cóchết hết cũng không tiếc, chỉ cần hóa được công lực thằng nhãi này, Tinh Tú
lão tiên thắng được Cô Tô Mộ Dung thì cũng là chuyện chấn động thiên hạ
rồi. Còn thu đệ tử thì trên đời này thiếu giống gì bọn bưng mâm bợ đỡ?'.
Khuôn mặt y không lộ chút gì tức tối, thần thái vẫn ra vẻ thanh nhàn, làm như
tiêu sái lắm.
Đệ tử phái Tinh Tú vẫn mong sư phụ e ngại ném chuột vỡ đồ, buông Mộ
Dung Phục ra để cho bọn chúng khỏi bị hóa tán công lực, thế nhưng thấy lão
nhân gia chẳng chút chạnh lòng, biết rồi cũng đến lượt mình, ai nấy kêu thét
hãi hùng nhưng vì bị uy thế của sư phụ tích chứa lâu nay nên vẫn không tên
nào dám bỏ chạy, cũng chẳng dám mở miệng van xin sư phụ buông tha "thằng
nhãi đã bị lão tiên nắm giữ".
Đinh Xuân Thu không còn cách gì khác hơn, đưa mắt nhìn khắp bốn bề
thấy trong đám đệ tử chỉ còn hai người không theo những người khác trốn
lánh. Một người là Du Thản Chi, nép mình tại một góc nhà, chui đầu sắt vào
giữa hai tay, hiển nhiên cực kỳ sợ hãi. Còn một người nữa là A Tử, mặt mày
nhợt nhạt, cũng ngồi một góc xem hai người đấu với nhau. Đinh Xuân Thu
quát lên:
- A Tử!
A Tử đang xem đến xuất thần, có ngờ đâu sư phụ lại gọi đến, ngẩn người
ra rồi đáp:
- Sư phụ, lão nhân gia đại triển thần uy ...
Nàng chỉ mới nói được nửa câu bỗng ngượng nghịu cười ruồi, không dám
nói tiếp. Sư phụ lão nhân gia quả có đại triển thần uy thế nhưng đả thương
toàn người của mình, có gì đáng ca tụng đâu quả khó dùng lời lẽ gì tán dương
được. Đinh Xuân Thu chưa thanh toán được Mộ Dung Phục vốn đang hết sức
nóng ruột, thấy nụ cười của A Tử có chiều diễu cợt, càng thêm cuồng nộ, cánh
tay áo bên trái liền phất một cái, bật tung hai chiếc đũa trên bàn, bắn thẳng
vào mắt A Tử.
A Tử kêu lên:
- Chao ôi!
Nàng vội vàng vung tay đánh tạt hai chiếc đũa ra nhưng vẫn chậm mất một
bước, đầu đũa đã điểm trúng, chỉ thấy vừa ngứa vừa tê, vội đưa tay áo lênchùi, mở mắt ra trước mắt chỉ một màu trắng loang loáng di động, chỉ giây lát
vùng trắng sáng biến mất chỉ còn một màu đen như mực.
Nàng sợ đến hồn vía lên mây, kêu ầm lên:
- Ta ... ta ... mắt ta ... mắt ta không ... không thấy gì nữa.
Đột nhiên một luồng hàn khí thốc vào người, rồi tiếp theo là một cánh tay
vòng qua ôm ngang lưng cô gái, một người nào đó đã bồng nàng bỏ chạy. A
Tử kêu lên:
- Mắt ... mắt ta ...
Ở phía sau nghe bình một tiếng, dường như song chưởng đụng nhau, A Tử
cảm thấy mình như đằng vân giá vụ bay bổng lên, trong cơn mơ màng, nghe
loáng thoáng có tiếng Mộ Dung Phục nói:
- Thôi ngừng tại đây, Tinh Tú Lão Quái, sau này ...
A Tử cảm thấy lạnh buốt thấu xương, bên tai gió ù ù thổi, một người còn
lạnh hơn băng bồng mình chạy vùn vụt. Nàng lạnh đến răng đập vào nhau
lách cách, rên rỉ:
- Lạnh quá ... mắt ta ... lạnh ... lạnh quá mất thôi ...
Người kia đáp:
- Được, được. Mình chạy đến khu rừng kia, Tinh Tú lão tiên không tìm
thấy đâu.
Y miệng nói nhưng chân vẫn chạy băng băng. Một hồi sau, A Tử thấy y
ngừng lại, nhè nhẹ bỏ nàng xuống, dưới lưng nghe tiếng loạt soạt hóa ra đã để
nàng nằm trên một đống lá khô. Người kia nói:
- Cô nương, mắt ... mắt cô ra sao?
A Tử chỉ thấy đôi mắt đau đớn khôn tả, cố hết sức nhướng mắt lên nhưng
không thấy gì cả, tất cả trời đất nay chỉ còn một màu đen kịt mới hay rằng mắt
nàng đã bị Đinh Xuân Thu dùng độc dược làm mù mất rồi, đột nhiên khóc òa
lên, kêu la rầm rĩ:
- Mắt ... mắt ta đui rồi, ta ... mù rồi.
Người kia dịu giọng an ủi:
- Xem chừng có thể trị khỏi được!
A Tử bực tức đáp:- Thuốc độc của Đinh lão quái lợi hại biết chừng nào, làm sao trị được?
Ngươi lừa ta! Mắt ta đui rồi, mắt ta đui rồi!
Nói xong lại khóc tức tưởi. Người kia nói:
- Bên kia có dòng suối nhỏ, mình đến đó rửa cho sạch thuốc độc trong
mắt đi.
Nói xong cầm tay nàng, nhẹ nhàng kéo lên. A Tử chỉ thấy bàn tay y lạnh
ngắt, tự nhiên rụt về, người đó liền buông ra. A Tử đi được hai bước, vấp một
cái lảo đảo muốn té. Người kia nói:
- Coi chừng!
Rồi lại đưa tay đỡ nàng. Lần này A Tử không giựt tay về nữa, để mặc y
dẫn đến bên dòng nước. Người kia nói:
- Cô đừng sợ, đây là bờ suối đó!
A Tử quì xuống bên khe nước, hai tay vốc nước lên rửa mắt. Dòng nước
mát rượi thấm vào mắt, đau đớn giảm dần nhưng trời đất vẫn tối tăm, trước
mắt không một chút sáng sủa nào hết. Trong cùng một lúc, tuyệt vọng, đau
thương, bơ vơ, phẫn nộ, bao nhiêu mối cùng kéo tới, nàng ngồi phịch xuống
đất, khóc rưng rức, hai chân đạp lung tung:
- Ngươi dối ta, ngươi dối ta, mắt ta mù hẳn rồi, mắt ta mù hẳn rồi!
Người kia nói:
- Cô nương, cô đừng quá đau lòng! Tôi không bỏ cô mà đi đâu, cô ... cô
cứ yên tâm.
A Tử thấy tạm nguôi ngoai, hỏi lại:
- Ngươi ... ngươi là ai?
Người kia đáp:
- Tôi ... tôi ...
A Tử nói:
- Ồ xin lỗi, cảm ơn ông đã cứu mạng tôi. Chẳng hay cao tính đại danh của
các hạ là gì?
Người kia ấp úng:
- Tôi ... tôi ... cô nương không nhận ra tôi sao?
A Tử nói:- Đến tên họ ông còn chẳng cho tôi hay, vậy mà dám xí gạt nói là sẽ
không bỏ tôi mà đi. Mắt ... mắt tôi mù rồi, chỉ ... chỉ có nước chết quách cho
xong.
Nói xong lại khóc òa lên. Người kia vội gạt đi:
- Cô nương muôn ngàn lần chớ có chết. Tôi ... tôi quả thật mãi mãi sẽ
không bao giờ rời xa cô. Chỉ cần cô nương bằng lòng cho tôi đi theo, tôi vĩnh
viễn ... vĩnh viễn ở bên cạnh cô nương.
A Tử đáp:
- Ta không tin! Ta không tin! Ngươi xí gạt ta, ngươi gạt ta để ta không tìm
cái chết. Ta muốn chết, mắt ta mù rồi, còn sống làm gì nữa?
Người kia lắp bắp:
- Tôi nhất quyết không đánh lừa cô đâu, nếu tôi bỏ cô thì cho tôi chết
đường chết chợ.
Giọng y hốt hoảng xem ra thật là thành khẩn. A Tử hỏi lại:
- Thế ngươi là ai?
Người kia đáp:
- Tôi là Tụ Hiền Trang ... không, không phải, tôi họ Trang, tên Tụ Hiền.
Người cứ được A Tử chính là thiếu trang chủ của Tụ Hiền Trang Du Thản
Chi. A Tử nói:
- Hóa ra là Trang ... Trang tiền bối, đa tạ tiền bối đã cứu tiểu nữ.
Du Thản Chi đáp:
- Tại hạ cứu được cô nương khỏi độc thủ Tinh Tú lão tiên, lòng mừng vô
hạn, cô nương chẳng phải tạ ơn làm gì. Tại hạ cũng không phải tiền bối của cô
nương, chỉ lớn hơn cô nương vài tuổi.
A Tử nói:
- Ồ, vậy thì tiểu muội gọi là Trang đại ca.
Du Thản Chi vui mừng không sao kể xiết, lắp bắp:
- Cái đó ... cái đó không dám.
A Tử nói:
- Trang đại ca, tiểu muội cầu đại ca một việc.
Du Thản Chi đáp:- Cô đừng nói cầu hay không cầu, cô nương có điều gì sai khiến, dù phải
hi sinh tính mạng, tại hạ cũng nhất quyết làm cho cô nương.
A Tử mỉm cười hỏi lại:
- Anh với tôi vốn không quen biết, sao anh đối với tôi tốt như thế?
Du Thản Chi lập cập đáp:
- Phải, phải, xưa nay không quen biết gì cả, tại hạ chưa từng gặp cô
nương, cô nương cũng chưa từng gặp tại hạ. Lần này ... hôm nay mới gặp mặt
lần đầu.
A Tử buồn bã nói:
- Còn nói gì đến gặp mặt? Tôi vĩnh viễn không bao giờ thấy mặt anh đâu.
Nói đến đây nhịn không nổi nước mắt lại rơi lã chã. Du Thản Chi vội đáp:
- Cái đó cũng chẳng hề gì. Không thấy tôi lại càng tốt.
A Tử hỏi lại:
- Sao thế?
Du Thản Chi nói:
- Tôi ... tôi mặt mày khó coi lắm, cô nương nếu trông thấy e rằng sẽ mất
vui.
A Tử lặng lẽ mỉm cười nói:
- Anh lại gạt tôi rồi. Người xấu xí khó coi nhất đời này tôi đã từng thấy
nhiều lắm. Tôi có một đứa đầy tớ, đầu đeo một cái lồng sắt, vĩnh viễn không
thể nào gỡ ra được, thế mới thực là khó coi chứ. Nếu như anh thấy y thì anh sẽ
phải cười đến ba ngày ba đêm. Anh có muốn xem không?
Du Thản Chi run run đáp:
- Không! Không! Tôi không xem đâu.
Y nói nhưng không ngăn nổi tự nhiên lùi lại hai bước. A Tử nói:
- Anh bồng tôi chạy nhanh chẳng kém gì tỉ phu tôi, võ công giỏi vậy mà
sao nhát thế, đến người đầu sắt cũng không dám coi. Trang đại ca, người đầu
sắt đó ngộ nghĩnh lắm, để tôi bảo y lộn mèo cho anh coi, bảo y đưa đầu vào
lồng sư tử, lồng cọp cho dã thú cắn. Tôi sẽ bảo người ta đem y ra làm diều
phóng trên không, thật là thú vị.
Du Thản Chi bất giác rùng cả mình, luôn mồm kêu:- Tôi không muốn coi, tôi thực sự không muốn coi.
A Tử thở dài:
- Thôi được. Anh vừa mới bảo bất luận tôi muốn gì, dù phải bỏ mạng anh
cũng làm, hóa ra cũng chỉ để xí gạt tôi thôi.
Du Thản Chi đáp:
- Không, không! Tôi không nói láo đâu. Cô nương bảo tôi làm gì?
A Tử nói:
- Tôi muốn về ở bên cạnh tỉ phu, anh ta ở Nam Kinh nước Liêu. Trang
đại ca, nhờ anh đưa tôi về.
Nàng vừa nói thế, đầu óc Du Thản Chi trở nên hỗn loạn nhưng không dám
nói nên lời. A Tử hỏi:
- Sao? Anh không chịu ư?
Du Thản Chi ấp úng:
- Không phải ... không chịu, có điều ... có điều tôi không muốn ... không
muốn đến Nam Kinh nước Liêu.
A Tử nói:
- Tôi bảo anh đến xem gã hề đầu sắt, anh không chịu, bảo anh đưa tôi về
với anh rể tôi, anh cũng không chịu. Thôi thế thì tôi đi một mình vậy.
Nói xong nàng chậm rãi đứng lên, hai tay đưa ra đằng trước mò đường. Du
Thản Chi nói:
- Để tôi đi với cô! Cô đi một mình ... sao được?
Du Thản Chi cầm bàn tay nhỏ nhắn mịn màng của A Tử, dẫn nàng ra khỏi
khu rừng, trong bụng chỉ nghĩ: "Chỉ cần mình được nắm tay nàng đi chầm
chậm như thế này, thì dù phải đến mười tám tầng địa ngục thì ta vẫn hết sức
hài lòng". Đến khi hai người ra tới đường cái, nhìn lên thấy có một đám ăn
mày, người đi đầu thân hình gầy cao, tướng mạo thanh tú, chính là Cái Bang
Đại Trí phân đà đà chủ Toàn Quan Thanh. Du Thản Chi nghĩ thầm: "Gã này
hôm trước bị sư phụ ta đả thương, hóa ra không chết". Y không muốn gặp bọn
này, vội vàng dẫn A Tử rời đại lộ, đi vào phía đồng hoang. A Tử thấy đường
lồi lõm không phẳng bèn hỏi:
- Cái gì thế?Du Thản Chi chưa kịp trả lời, Toàn Quan Thanh đã trông thấy hai người,
rảo bước đi tới chặn lại, hầm hầm gặng hỏi:
- Làm gì mà lấp lấp ló ló ở đây? Ngươi ... ngươi hình dáng kỳ quái, làm
cái trò gì?
Du Thản Chi hoảng hốt nghĩ thầm: "Nếu như y gọi ra ba chữ "thằng đầu
sắt" thì A Tử cô nương biết ngay mình là ai, sẽ không còn nhìn nhõi gì đến
mình nữa. Dẫu nàng có bằng lòng cho mình đưa về Nam Kinh thì cũng không
bao giờ để cho mình nắm tay nữa". Y bàng hoàng không biết tính sao, đột
nhiên quì phục xuống, lạy như tế sao, tay chỉ trỏ lung tung yêu cầu Toàn Quan
Thanh đừng nói lộ chân tướng mình ra.
Toàn Quan Thanh chẳng hiểu y ra hiệu để làm gì, lạ lùng hỏi:
- Ngươi làm gì thế?
Du Thản Chi chỉ vào A Tử, xua xua tay, lại chỉ vào mồm mình, xua xua
tay, rồi lại lạy mấy cái. Toàn Quan Thanh nhìn ra A Tử đã bị mù, hiểu ra gã
đầu sắt này xin mình đừng nói, còn đang ngạc nhiên, các đệ tử Cái Bang đã
chạy ùa đến. Một người chỉ vào đầu Du Thản Chi, cười hềnh hệch kêu lên:
- Lạ chưa kìa, gã này đầu ...
Du Thản Chi tung mình nhảy tới, chưởng đánh ra. Gã đệ tử Cái Bang vội
đưa tay lên đỡ, chỉ nghe lắc cắc mấy tiếng, xương cánh tay lẫn xương sườn
đều gãy vụn, thân hình bắn tung về sau cả trượng, nằm gục xuống đất, chết
tươi ngay.
Bọn ăn mày vừa kinh hãi vừa tức giận, lập tức năm người khác xông lên
tấn công Du Thản Chi. Du Thản Chi song chưởng vung lên, đánh đấm lung
tung. Võ công y tuy thấp kém thua xa đệ tử Cái Bang nhưng thủ chưởng đến
đâu, chỉ nghe lắc cắc, lộp cộp liên hồi, "Chết rồi!", "Chao ôi!", bình bình
bình, bịch bịch, cả năm tên đều văng ra, rơi xuống chết cả. Bọn còn lại hết sức
kinh hoàng, lập tức vây quanh Du Thản Chi và A Tử nhưng không kẻ nào dám
xông lên tấn công.
Du Thản Chi đột nhiên lại quay về phía Toàn Quan Thanh quì xuống, lạy
như tế sao, rồi lại giơ tay chỉ trỏ, chỉ vào A Tử, lại chỉ vào cái đầu sắt của
mình, không ngớt xua tay.
Toàn Quan Thanh thấy y giơ tay lên đã giết được sáu bang chúng Cái
Bang, công lực thâm hậu, quả thực bình sinh ít thấy, đến như mình có tiến lênđộng thủ, chưa chắc đã thắng được y, thế nhưng y lại lạy lục mình, quả không
sao hiểu nổi, bèn cũng ra hiệu lại, chỉ vào A Tử, chỉ vào đầu sắt của y, rồi chỉ
vào mồm mình, xua xua tay.
Du Thản Chi mừng quá, gật đầu liên tiếp. Toàn Quan Thanh trong lòng
chợt nghĩ: "Gã này võ công cực kỳ cao siêu nhưng lại sợ ta tiết lộ chuyện bí
mật của y, xem chừng mình có thể nhân chuyện này ép y vào việc mình có
thể dùng được". Y bèn quay sang nói với các thủ hạ:
- Tất cả không ai được nói năng gì, tất cả mọi việc để cho ta hỏi chuyện.
Du Thản Chi lại càng mừng rỡ, lạy thêm mấy cái nữa. A Tử hỏi:
- Trang đại ca, bọn nào thế? Anh đánh chết mấy người phải không?
Du Thản Chi nói:
- Đây là các hảo bằng hữu của Cái Bang, chẳng qua chỉ hiểu lầm một
chút. Vị Đại Trí phân đà Toàn đà chủ đây nhân nghĩa hơn người, tốt bụng lắm,
trước nay ta vẫn hết sức khâm phục. Ta ... ta lỡ tay giết chết mấy vị huynh đệ,
quả thực vô cùng ân hận.
Nói xong chắp tay tạ tội với bọn người Cái Bang. A Tử hỏi:
- Trong Cái Bang cũng có người tốt sao? Trang đại ca, anh võ công cao
siêu như thế, chi bằng giết sạch bọn chúng đi, để cho tỉ phu tôi đỡ tức.
Du Thản Chi vội đáp:
- Ấy chết, không được, cái đó chẳng qua chỉ hiểu lầm. Tôi với Toàn đà
chủ là hảo bằng hữu. Cô ở đây đợi, tôi đi với Toàn đà chủ nói cho rõ sự tình.
Nói xong đưa tay vẫy vẫy Toàn Quan Thanh. Toàn Quan Thanh thấy y
nhận ra mình, càng thêm lạ lùng, nhưng xem ra không có gì ác ý, nên cũng
theo y đi ra ngoài hơn mười trượng. Du Thản Chi thấy mình đi cách A Tử cũng
đã xa, nàng không thể nào nghe được mình nói những gì nhưng lại sợ bọn ăn
mày làm hại nàng, không dám đi thêm nữa nên ngừng lại, chắp tay nói:
- Toàn đà chủ, nhờ có ông ẩn dấu chân tướng cho tôi, đại ân đại đức đó
quyết không dám quên.
Toàn Quan Thanh đáp:
- Nguyên do bên trong, huynh đệ thật chẳng hiểu chi hết. Tôn huynh cao
tính đại danh là gì?
Du Thản Chi nói:- Huynh đệ họ Trang, tên gọi Trang Tụ Hiền, chỉ vì bản thân gặp chuyện
không may, trên đầu mới đeo cái của quỉ này, thành thử chẳng thể nào cho vị
cô nương đó biết được.
Toàn Quan Thanh thấy y trong khi nói đưa mắt nhìn A Tử với vẻ cực kỳ
quan thiết, cũng đoán ra được bảy tám phần: "Cô nương kia thanh nhã tú lệ,
gã này đem lòng yêu mến cô ta, sợ nàng biết y hình dáng quái dị, có cái đầu
sắt". Y bèn hỏi:
- Trang huynh làm sao lại biết đến tại hạ?
Du Thản Chi đáp:
- Khi Đại Trí phân đà của quí bang tụ hội bàn tính chuyện suy tuyển
người làm bang chủ, huynh đệ ở cạnh bên, nghe thấy người ta gọi Toàn đà
chủ. Hôm nay huynh đệ lỡ tay đánh chết mấy vị huynh đệ của quí bang, quả
là ... quả là sai quấy, mong Toàn đà chủ lượng thứ cho.
Toàn Quan Thanh nói:
- Chúng ta ai chẳng có lúc lầm lẫn, có gì đáng quan tâm đâu. Trang
huynh, cái vật huynh đài mang trên đầu, huynh đệ quyết không nói ra. Để tại
hạ dặn thuộc hạ không ai được tiết lộ chút phong thanh nào cả.
Du Thản Chi cảm kích muốn chảy nước mắt, liên tiếp chắp tay vái nói:
- Đa tạ! Đa tạ!
Toàn Quan Thanh nói tiếp:
- Thế nhưng Trang huynh cùng cô nương đó dắt tay nhau đi trên đường,
khó mà không để cho người khác trông thấy, ắt có người kinh hoảng kêu la
rầm lên, dù cho Trang huynh có giết đi thì cũng không kịp.
Du Thản Chi đáp:
- Đúng lắm! Đúng lắm!
Y từ khi cứu được A Tử, thần hồn phiêu đãng nên quên khuấy mất chuyện
đó, bây giờ nghe Toàn Quan Thanh nói không biết phải tính thế nào, ngượng
nghịu nói:
- Tôi ... tôi chỉ có nước đưa nàng tới một nơi thâm sơn cùng cốc trốn ở đó
thôi.
Toàn Quan Thanh mỉm cười nói:- Chỉ e cô nương này khởi nghi, vả lại, sau khi Trang huynh với cô ta kết
thành đôi lứa, sớm muộn gì cũng phải biết thôi.
Du Thản Chi ngực như sôi lên ấp úng:
- Kết thành đôi ... đôi lứa ư, tôi nào dám nghĩ đến, chắc ... chắc không
được rồi, tôi đâu ... đâu có xứng? Chẳng qua ... chẳng qua ... ư quả là khó thật.
Toàn Quan Thanh nói:
- Trang huynh, nếu như không hiềm thì cùng huynh đệ kết thành bằng
hữu, bạn bè có chuyện khó khăn thì phải lo liệu giúp nhau. Chi bằng mình đến
thị trấn trước mặt, thuê một cỗ xe, ngươi cùng cô nương đó ngồi trong xe,
chẳng ai thấy được hai người.
Du Thản Chi mừng lắm, nghĩ đến việc được cùng A Tử ngồi chung một xe,
thật thần tiên cũng không bằng, vội đáp:
- Đúng, đúng rồi! Ý kiến đó của Toàn đà chủ cao minh lắm.
Toàn Quan Thanh nói tiếp:
- Sau này mình tìm cách tháo cái mũ sắt trên đầu Trang huynh đi, huynh
đệ vỗ ngực bảo đảm, vị cô nương đó vĩnh viễn không bao giờ biết được
chuyện đáng hổ thẹn đó của Trang huynh đâu, ngươi nghĩ sao?
Cộp một tiếng, Du Thản Chi đã quì mọp xuống, hướng về Toàn Quan
Thanh liên tiếp rập đầu, chiếc lồng sắt chạm xuống đất kêu boong boong.
Toàn Quan Thanh cũng quì xuống hoàn lễ, nói:
- Trang huynh hành đại lễ như thế này, huynh đệ làm sao dám nhận? Nếu
như Trang huynh không hiềm, hai đứa mình kết nghĩa kim lan, nên chăng?
Du Thản Chi mừng rỡ nói:
- Hay lắm! Hay lắm! Tiểu đệ chuyện gì cũng không thông, có được một
huynh trưởng túc trí đa mưu chỉ điểm cho đường ngay nẻo sáng, quả thật cầu
còn không được.
Toàn Quan Thanh cười hà hà nói:
- Người ca ca này hơn ngươi vài tuổi, thôi chẳng khách sáo gì gọi ngươi
một tiếng huynh đệ nhé.
*
* *Trong khi Đinh Xuân Thu và Tô Tinh Hà đánh nhau trời long đất lở như
thế, mắt Đoàn Dự trước sau vẫn không rời Vương Ngữ Yên, còn Vương Ngữ
Yên thì lại đầy vẻ tình ý đăm đăm như dán vào người biểu ca. Thành thử ánh
mắt Đoàn Vương hai người thủy chung cũng vẫn chưa hề chạm nhau.
Đến khi Đinh Xuân Thu đại bại bỏ chạy, Hư Trúc hội ngộ với người của
phái Tiêu Dao, bọn Mộ Dung Phục bỏ đi, Đoàn Dự cũng mê mê mẩn mẩn lẽo
đẽo theo Vương Ngữ Yên.
Xuống dưới chân núi rồi, Mộ Dung Phục quay sang chắp tay chào Đoàn
Dự:
- Hôm nay may mắn được biết Đoàn huynh, giờ xin từ biệt, ngày sau
mong lại gặp nhau.
Đoàn Dự lập cập nhắc lại:
- Vâng! Vâng! Hôm nay may mắn được biết, giờ xin từ biệt, ngày sau
mong lại gặp nhau.
Miệng nói nhưng mắt vẫn chăm chăm không rời khỏi thân hình Vương Ngữ
Yên. Mộ Dung Phục cảm thấy khó chịu, hừ một tiếng, quay người bước đi.
Đoàn Dự vẫn lưu luyến lọt tọt theo sau. Bao Bất Đồng giơ tay chặn ngang
Đoàn Dự nói:
- Đoàn công tử, hôm nay công tử ra tay tương trợ chủ nhân chúng tôi, Bao
mỗ xin đa tạ.
Đoàn Dự đáp:
- Có gì đâu mà phải khách sáo.
Bao Bất Đồng tiếp:
- Việc này đã cảm tạ rồi, hai bên không còn nợ nần gì nhau nữa. Thế
nhưng mắt ngươi chăm chăm không rời Vương cô nương, đã vô lễ lắm rồi, bây
giờ lại còn toan đi theo, thì thật hết chỗ nói. Ngươi là kẻ đọc sách, sao không
biết câu: "Phi lễ vật thị, phi lễ vật hành"1 hay sao? Bao mỗ lúc này trên người
không có một chút lực khí nào nhưng vẫn còn cái miệng để chửi đấy nhé.
Đoàn Dự thở dài, lắc đầu:
1 - Nếu đã nói thế, Bao huynh cũng nên "phi lễ vật ngôn", còn ta thì đành
"phi lễ vật căn"2 vậy.
Bao Bất Đồng cười sằng sặc nói:
- Ngươi nói phải lắm!
Nói xong y quay lại chạy theo bọn Mộ Dung Phục. Đoàn Dự đưa mắt nhìn
theo Vương Ngữ Yên đến khi bóng nàng khuất sau rừng cây nhưng vẫn ngơ
ngẩn như người mất hồn. Chu Đan Thần nói:
- Công tử, mình đi thôi.
Đoàn Dự đáp:
- Ừ, thì đi vậy.
Nói thế nhưng chàng vẫn đứng yên, đến lúc Chu Đan Thần giục giã đến ba
lần mới uể oải trèo lên con ngựa Cổ Đốc Thành dắt lại. Chàng tuy đã ngồi
trên lưng ngựa nhưng mắt vẫn hướng về lối Vương Ngữ Yên vừa đi.
Hôm đó Đoàn Dự đưa thư cho Toàn Quan Thanh rồi vội chạy đến bái kiến
Đoàn Chính Thuần. Cha con lâu ngày gặp lại, cả hai đều vui mừng khôn xiết.
Nguyễn Tinh Trúc cũng hết sức chiều đãi vị tiểu vương gia này. A Tử không
từ biệt mà đi mất thành ra hai anh em chưa có dịp gặp nhau. Đoàn Chính
Thuần và Nguyễn Tinh Trúc thấy việc A Châu, A Tử không có gì làm đẹp đẽ
nên cũng không đề cập tới.
Ở hơn mười ngày, Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi cũng tìm đến. Nơi
Cầm Vận tiểu trúc đất Tô Châu, hai chú cháu lạc mất Đoàn Dự nên đi khắp
nơi dò hỏi nhưng chẳng thấy tung tích đâu, về sau do người của bản môn ở núi
Phục Ngưu, Hà Nam cho hay tin là Trấn Nam Vương nước Đại Lý đến đây
nên từ núi Phục Ngưu chạy tới, thấy Đoàn Dự an toàn không sao, thật mừng
rỡ.
Đoàn Dự sau khi thập tử nhất sinh rồi, nay gặp được đoàn tụ với cha tuy có
vui thật nhưng mối tình tưởng nhớ Vương Ngữ Yên càng ngày càng tăng, đợi
đến kỳ hẹn đánh cờ, được phụ thân đồng ý liền cùng bọn Cổ Đốc Thành phó
hội. Quả nhiên không phụ tấm lòng mong mỏi, nơi kỳ hội chàng được thấy lại
ý trung nhân. Thế nhưng gặp nhau chỉ thêm sầu khổ, gặp hay không gặp đằng
nào hơn, chính chàng cũng không biết nữa.
2 Đoàn người đi chừng hơn hai chục dặm bỗng thấy trước mặt bui bay tung,
khoảng hơn chục người cưỡi ngựa chạy đến, chính là Tam Công nước Đại Lý
Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch cùng một số tướng sĩ khác. Những
người đó tới gần nhảy xuống ngựa hành lễ với Đoàn Dự. Thì ra bọn họ phụng
mệnh Đoàn Chính Thuần đến tiếp ứng, sợ rằng trong hội cờ của Lung Á tiên
sinh có gì hung hiểm chăng. Những người đó nghe thấy Đoàn Diên Khánh
cũng có mặt, cũng may không hạ thủ Đoàn Dự, ai nấy đều nổi da gà.
Chu Đan Thần nói nhỏ với bọn Phạm Hoa là Đoàn Dự ở trong kỳ hội gặp
một cô gái xinh đẹp của nhà Mộ Dung Cô Tô, ngơ ngẩn nhìn không chớp mắt,
mất hồn mất vía, lại định đi theo, cũng may đối phương trách cứ mới thôi. Bọn
Phạm Hoa nhìn nhau cười tủm tỉm, người nào cũng nghĩ như nhau: "Tiểu
vương tử phong lưu đã quen, quả là con giòng cháu giống. Thế nhưng nếu vậy
mà quên được chuyện nhớ nhung cô em gái thì cũng là điều hay lắm".
Đên chiều hôm đó, cả đoàn người ở lại khách điếm ăn cơm. Phạm Hoa kể
lại chuyến đi Giang Nam, nói:
- Công tử gia, nhà Mộ Dung xem ra vô cùng ngụy bí, sau này nếu gặp họ
phải thật cẩn thận mới được.
Đoàn Dự hỏi lại:
- Sao thế?
Phạm Hoa đáp:
- Lần này ba anh em chúng tôi phụng tướng lệnh của vương gia, đến nhà
Mộ Dung ở Yến Tử Ổ đất Tô Châu tra xét, xem có chút dấu vết gì không,
Huyền Bi đại sư của phái Thiếu Lâm có thực là bị nhà Mộ Dung hạ sát chăng.
Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi hết sức quan tâm, cùng lên tiếng hỏi:
- Ba vị có tra xét được chút nào không?
Phạm Hoa đáp:
- Chúng tôi ba người không ngang nhiên đến bái kiến, chỉ tra xét ngầm
thôi, trong nhà Mộ Dung không thấy chủ nhân nam nữ đâu cả, chỉ còn toàn
đầy tớ lão bộc. Cả mấy tòa trang viện to lớn dường ấy mà chỉ có một cô gái
nhỏ tên là A Bích trông nom quán xuyến mọi việc.
Đoàn Dự gật đầu nói:- Ừ, A Bích cô nương là người rất tốt, các vị không làm gì tổn thương cô
ta chứ?
Phạm Hoa mỉm cười:
- Không đâu, chúng tôi tra xét luôn mấy đêm liền, chỗ nào trong trang
viện nhà Mộ Dung cũng có đến, không thấy điều gì khác lạ cả. Ba huynh đệ
đột nhiên nghĩ ra, gã phiên tăng Cưu Ma Trí mời công tử từ Đại Lý đến Giang
Nam, nói là đem đến tế Mộ Dung tiên sinh ...
Thôi Bách Tuyền ngắt lời:
- Đúng đó! Hai con a đầu trong Mộ Dung Trang nhất định không chịu dẫn
phiên tăng đi tế mộ, cũng nhờ thế nên công tử gia mới thoát khỏi độc thủ của
gã sư hổ mang kia.
Đoàn Dự gật đầu nói:
- A Châu, A Bích hai vị cô nương quả là người tốt bụng. Không biết họ
bây giờ ra sao rồi?
Ba Thiên Thạch mỉm cười nói:
- Chúng tôi ba đêm liên tiếp đều chỉ thấy A Bích cô nương ngồi may một
chiếc trường bào đàn ông, lẩm bẩm một mình: "Công tử gia đi ra ngoài chừ
lạnh lắm, không biết chừng mô mới quay về?". Đoàn công tử, phải chăng cô
ta may áo cho công tử chăng?
Đoàn Dự vội đáp:
- Không phải, không phải đâu! Cô ta may áo cho Mộ Dung công tử đó.
Ba Thiên Thạch nói:
- Đúng rồi! Ta xem con tiểu a đầu đó hồn vía đâu đâu, hẳn là nhớ đến
công tử gia nhà thị, thành thử ba người ta đi hết phòng này sang phòng khác
mà thị có hay biết gì đâu.
Y dằn mạnh câu đó để nhắc chừng Đoàn Dự đừng theo thói của cha, đi đâu
vương vãi ái tình đến đó, trong lòng A Bích chỉ nhớ đến Mộ Dung công tử,
Đoàn công tử chớ có tơ tưởng chỉ tổ mất công. Đoàn Dự thở dài một tiếng nói:
- Mộ Dung công tử tuấn nhã vô song, cũng chẳng trách được! Huống chi
hai người lại là anh em cô cậu, từ tấm bé đã có tình thanh mai trúc mã ...Phạm Hoa, Ba Thiên Thạch cả bọn ngơ ngác nhìn nhau, nghĩ thầm: "Đứa
thị tì với công tử sao lại có tình thanh mai trúc mã được nhỉ? Anh em cô cậu là
sao?". Có ai biết được Đoàn Dự nghĩ đến là Vương Ngữ Yên đấy thôi.
Thôi Bách Tuyền hỏi thêm:
- Phạm Tư Mã, Ba Tư Không thử nghĩ xem tên phiên tăng đó định đến tế
mộ Mộ Dung tiên sinh là vì lý do gì? Có liên can gì đến cái chết của sư huynh
tiểu nhân chăng?
Phạm Hoa đáp:
- Ta đưa ra việc này cũng chính là để cho tất cả mọi người xem xét cho tỏ
tường. Hoa đại ca vừa nghe đến chữ "mộ" đã thấy ngứa ngáy tay chân, mới
bảo: "Không chừng trong mả lão già này có cái gì kỳ quái, hay là mình đào
lên xem?". Ta và Ba huynh không mấy tán thành, họ Cô Tô Mộ Dung danh
mãn thiên hạ, họ Đoàn nhà mình đi đào mả người ta, xem ra quá đáng. Hoa
huynh đệ bèn nói: "Mình len lén đào một địa đạo vào tới nơi, quỉ thần cũng
không hay biết, huống hồ là người?". Bọn ta cãi không được đành nghe theo.
Ngôi mộ đó chôn ở phía sau trang viện, ở một nơi hết sức kín đáo, không dễ gì
kiếm ra. Ba người chúng ta đào đến nơi, mở quan tài, Thôi huynh có đoán ra
được chăng?
Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi cùng bật dậy hỏi:
- Gì thế?
Phạm Hoa đáp:
- Quan tài trống rỗng, không có xác người!
Thôi Quá hai người há hốc mồm, một hồi lâu không ngậm lại được. Qua
một lúc sau, Thôi Bách Tuyền vỗ đùi nói:
- Tên Mộ Dung Bác kia chưa chết. Y bảo con y đi rảo khắp nơi ở Trung
Nguyên còn y đi ra xa vài nghìn dặm giết người, khiến cho không ai ngờ được.
Sư ca ta ... sư ca ta chắc là do tên ác tặc Mộ Dung Bác giết rồi.
Phạm Hoa lắc đầu:
- Thôi huynh cũng đã biết, gã Mộ Dung Bác này võ công cao siêu không
biết đâu mà kể, muốn giết người thì dùng cách gì chẳng được, hà tất phải lưu
lại cái công phu "dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân" để cho người đời biết được
rằng chính là do nhà Mộ Dung Cô Tô hạ thủ? Trong võ lâm ai chẳng biết yghê gớm như thế, cớ gì lại phải giả chết là sao? Nếu chẳng phải Hoa đại ca có
cái tài kia thì ai mà biết được bí mật đó?
Thôi Bách Tuyền ngồi phịch xuống, y tưởng mình đã tìm ra được chút ánh
sáng le lói, bỗng chốc lại thấy như ở trong đám sương mù. Đoàn Dự nói:
- Trong thiên hạ tuyệt kỹ các môn các phái có đến hàng nghìn hàng vạn,
nếu môn nào cũng hiểu rõ tận cội nguồn, thật khó bằng lên trời, vậy mà sao
nàng lại thông minh tài trí đến vậy, võ công nào cũng rõ như chỉ trong lòng
bàn tay ...
Thôi Bách Tuyền tiếp :
- Đúng vậy, chẳng hạn như chiêu Thiên Linh Thiên Liệt, là bí mật của
phái Phục Ngưu không truyền ra ngoài, làm sao y lại biết được để dùng tuyệt
chiêu này giết hại sư ca của tôi?
Đoàn Dự lắc đầu:
- Đương nhiên nàng biết chứ, có điều là sức trói gà không chặt, dẫu biết
tất cả võ công các môn phái, nhưng chính mình thì một chiêu cũng không sử
dụng được, cũng chẳng đời nào hại mạng ai đâu.
Mọi người ngơ ngẩn nhìn nhau, một lát sau ai nấy chầm chậm lắc đầu.
Hai mắt A Tử bị Đinh Xuân Thu đánh thuốc độc mù rồi, Du Thản Chi
không kể sống chết cứu nàng đào tẩu. Đinh Xuân Thu tâm thần hơi nhãng, nội
lực trên những ngón tay lỏng ra, Mộ Dung Phục được dịp may, lập tức vận
tuyệt kỹ Đẩu Chuyển Tinh Di, nghe soạt một tiếng, năm ngón tay của Đinh
Xuân Thu đã chộp trúng ngay cánh tay một tên đệ tử. Nắm tay tuột ra rồi, Mộ
Dung Phục lập tức phi thân nhảy vọt ra, cười ha hả kêu lên:
- Thôi ngừng tại đây, Tinh Tú Lão Quái, sau này gặp lại.
Y thi triển khinh công chẳng thèm quay đầu nhìn nữa. Trận đánh đó y làm
chết hơn hai chục đệ tử phái Tinh Tú, coi như toàn thắng, hả được cái giận
Đinh Xuân Thu ám hại mình suýt nữa tự vẫn nhưng về sau thoát được một
cách an toàn cũng chỉ nhờ may, trên đường nghĩ lại, quả thật không lạnh mà
rùng mình. Gặp lại Vương Ngữ Yên cùng bọn Đặng Bách Xuyên rồi cả bọnliền nghỉ lại khách điếm, ít ra ngoài cũng chẳng giao thiệp với ai để dưỡng
thương.
Mấy ngày sau, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác đều đã khôi phục như cũ,
Đặng Bách Xuyên và Công Dã Can cũng thuyên giảm nhiều. Sáu người bàn
bạc, không biết A Châu bây giờ ra sao, ai nấy thắc thỏm nên đi xuống Lạc
Dương để hỏi thăm tin tức.
Ở Lạc Dương không nghe thêm âm hao gì nên lại đi về hướng tây dò xét.
Hôm đó sáu người đi vội nên lỡ mất quán xá thành thử đến lúc trời tối mịt mà
vẫn còn lẩn quẩn trong sơn đạo, càng đi cỏ hai bên càng dày. Phong Ba Ác
nói:
- E rằng mình đi lầm đường, cái khúc quanh trước mặt xem ra không phải
rồi.
Đặng Bách Xuyên đáp:
- Thôi mình đi tìm cái hang núi hay cái miếu hoang nào nghỉ qua đêm
vậy.
Phong Ba Ác chạy lên trước tìm chỗ trú chân, thấy đường gập ghềnh khúc
khuỷu, toàn là đá tai mèo. Người như y thì chỗ nào cũng có thể nằm xuống
đánh một giấc ngáy pho pho, thế nhưng kiếm cho ra một chỗ để Vương Ngữ
Yên nghỉ ngơi thì không phải dễ.
Y chạy một hơi mấy dặm liền, vòng qua một triền núi, bỗng thấy xa xa nơi
sơn cốc phía phải có một đốm lửa leo lét, mừng quá, quay đầu kêu to:
- Ở bên đây có người.
Bọn Mộ Dung Phục nghe thế bèn chạy tới, Công Dã Can vui vẻ nói:
- Xem ra chỉ là một nhà thợ săn nhưng cũng có chỗ cho Vương cô nương
nghỉ một đêm.
Sáu người nhắm hướng ngọn lửa xăm xăm đi tới, thế nhưng tuy vậy mà xa,
đi một lúc lâu vẫn chỉ thấy bập bùng leo lét, nhìn không rõ có nhà cửa gì
không. Phong Ba Ác lẩm bẩm chửi thề:
- Con bà nó chứ, ngọn đèn này hình như có gì tà môn.
Đột nhiên Đặng Bách Xuyên hạ giọng kêu lên:
- Hượm đã, công tử gia xem kìa, đó là một ngọn lục đăng.Mộ Dung Phục nheo mắt nhìn kỹ, quả nhiên cái đèn đó tỏa ra ánh sáng
xanh lè, khác hẳn lửa thường phải có chút đo đỏ, vàng vàng. Sáu người càng
đi nhanh hơn về phía ngọn đèn thêm hơn một dặm nữa, lúc đó mới thấy rõ.
Bao Bất Đồng lớn tiếng nói:
- Tà ma ngoại đạo tụ tập ở chỗ này.
Cứ như võ công tài trí của năm người thì dù bang hội hay môn phái nào
trên giang hồ cũng không có gì e ngại nhưng ai nấy nghĩ thầm: "Hôm nay có
cả Vương cô nương đi chung, không gặp rắc rối gì là hơn cả". Bao Bất Đồng
và Phong Ba Ác đã lâu không được gây gổ đánh đấm với ai, bây giờ thấy
ngứa ngáy tay chân chỉ chăm chăm muốn thử sức nhưng phải tự kiềm chế
ngay. Phong Ba Ác nói:
- Hôm nay đi cả ngày rồi, cũng hơi mệt, cái địa phương thối tha này
chẳng có gì hay, thôi quay lại là hơn.
Mộ Dung Phục mỉm cười nghĩ thầm: "Phong tứ ca bỗng dưng đổi tính đổi
nết, quả thật khó thấy". Y bèn nói:
- Biểu muội, nơi đây chẳng ra gì, thôi mình quay về đường cái vậy.
Vương Ngữ Yên không rõ lý do tại sao nhưng biểu ca đã nói thế nên cũng
vui vẻ đi theo. Sáu người quay đầu, mới đi được vài bước, bỗng có một tiếng
nói văng vẳng truyền tới:
- Nếu đã biết là tà ma ngoại đạo tụ tập ở đây thì mấy tên yêu ma quỉ quái
nửa người nửa ngợm các ngươi sao không đến vui chơi luôn thể?
Giọng nói đó khi cao khi thấp, lúc được lúc mất tưởng như xoáy vào tai
người ta thật là khó chịu, nhưng tiếng nào cũng rõ ràng. Mộ Dung Phục hừ
một tiếng, biết rằng câu nói của Bao Bất Đồng : "Tà ma ngoại đạo tụ tập ở
chỗ này" đã bị đối phương nghe được, cứ theo cách truyền âm thì người nói ra
nội lực tuy không kém, nhưng chẳng phải là cao thủ hạng nhất trên đời. Y
phất tay một cái nói:
- Mình không hơi đâu mà lằng nhằng với họ, để cho y đi.
Y chẳng nói chẳng rằng quay lại theo đường cũ trở ra. Giọng nói kia lại
tiếp:
- Đồ chó má, chỉ giỏi nói phét, tưởng cứ thế mà cúp đuôi chạy được à?
Muốn đi thì rập đầu lạy ông tổ nhà mày ba trăm cái rồi hãy đi.Phong Ba Ác không còn nhịn được nữa, đứng phắt lại, nói nhỏ:
- Công tử gia, để thuộc hạ tới dạy cho tên cuồng đồ này một bài học.
Mộ Dung Phục lắc đầu nói:
- Y không biết mình là ai, thôi tha cho nó.
Phong Ba Ác đáp:
- Vâng!
Sáu người đi thêm chừng mươi bước, tiếng nói kia lại vẳng tới:
- Mấy tên đực rựa cúp đuôi chạy cũng được nhưng để con mái tơ lại cho
ông cố nội chúng bay giải buồn.
Năm người thấy đối phương dám ra giọng nhục mạ đến Vương Ngữ Yên, ai
nấy đều biến sắc, cùng đứng chựng lại, quay người. Lại nghe tiếng nói kia
tiếp:
- Thế đã sao? Mau mau đưa con gà mái lại đây, để ông cố bay khỏi mất
công ...
Y vừa nói tới đây, Đặng Bách Xuyên đưa khí từ đan điền quát lên:
- Công!
Tiếng "công" của y trộn lẫn với tiếng "công" của đối phương, chấn động
cả sơn cốc. Mọi người tai u u, rồi nghe thấy một tiếng "A" thảm thiết từ nơi
ngọn đèn xanh truyền tới. Trong đêm thanh vắng, tiếng "công" của Đặng
Bách Xuyên dư âm vẫn còn, cùng với tiếng rú khiến ai nấy rợn tóc gáy.
Tiếng hét của Đặng Bách Xuyên chính là dùng nội lực cực cao chấn
thương đối thủ. Cứ tiếng kêu của gã kia mà xét, y bị thương không phải nhẹ,
không chừng ô hô ai tai rồi. Tiếng rú của người kia vừa dứt, bỗng nghe một
tiếng rít, một mũi tên lửa bắn thẳng lên trời, nghe bùng một tiếng tóe ra, cả
một nửa bầu trời sáng rực màu xanh biếc.
Phong Ba Ác nói:
- Thôi thì đâm lao phải theo lao, quét sạch sào huyệt bọn yêu ma quỉ quái
này rồi tính sau.
Mộ Dung Phục gật đầu:
- Chúng mình nhịn một bước chẳng qua để khỏi lôi thôi. Thế nhưng đã
làm thì làm cho đến đầu đến đũa.Sáu người bèn xăm xăm theo hướng ngọn lửa xanh đi tới. Mộ Dung Phục
sợ Vương Ngữ Yên gặp chuyện đâm ra khiếp đảm nên đi chậm lại, ở bên
cạnh nàng, đã nghe Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác hai người hò hét ra tay
động thủ rồi. Kế đó có ba bóng đen trong ánh lục quang bay văng lên, bịch
bịch bịch ba tiếng đã đụng vào sườn núi, hiển nhiên bị Bao Phong hai người
thanh toán xong xuôi.
Mộ Dung Phục đi tới gần ngọn đèn xanh thấy Đặng Bách Xuyên và Công
Dã Can đứng cạnh một chiếc đỉnh lớn bằng đồng xanh, mặt mày đăm chiêu.
Một lão già nằm bên cạnh chiếc đỉnh, bên trong đỉnh có một luồng khói bay
lên thẳng tắp, nhỏ như sợi chỉ. Vương Ngữ Yên nói:
- Đây là môn phái Tang Thổ Công ở động Bích Lân, Xuyên Tây3.
Đặng Bách Xuyên gật đầu:
- Cô nương quả uyên bác thật.
Bao Bất Đồng quay lại hỏi:
- Làm sao đại ca biết? Việc đốt lang yên4 để báo tin này đã có từ mấy
nghìn năm nay, đâu phải chỉ Xuyên Tây Bích Lân Động ...
Y nói chưa dứt câu, Công Dã Can đã chỉ vào một chân đỉnh, có ý bảo y coi
cho kỹ. Bao Bất Đồng khom người xuống, cầm đèn soi, thấy trên chân đỉnh có
khắc một chữ "tang" bằng hình mấy con rắn, con rết kết thành, đồng đã hoen
rỉ, xem ra là một cổ vật. Bao Bất Đồng biết Vương Ngữ Yên nói quả không
sai, nhưng vẫn cãi chầy cãi cối: "Dẫu cái đỉnh đồng này của Tang Thổ Công ở
Xuyên Tây thật, nhưng biết đâu bọ chúng chẳng đi mượn hay đi ăn trộm đem
về? Huống chi người đời thường bảo "giả như đỉnh"5, mười cái thì đến chín
không phải đồ thật.
3
4
5 Mộ Dung Phục cả bọn trong bụng ai cũng phân vân: "Nơi đây cách Xuyên
Tây rất xa, không lẽ cũng vẫn nằm trong địa giới của Tang Thổ Công hay
sao?". Họ biết rằng Bích Lân Động Tang Thổ Công ở Xuyên Tây đều là
người Mèo, người Dao, hành sự khác hẳn người trong võ lâm Trung Thổ, giỏi
về hạ độc nên trên giang hồ ai cũng e dè. Cũng may họ không tranh cạnh gì
với người ngoài, miễn là đừng xâm nhập vào địa giới Dao Sơn ở Xuyên Tây
thì họ cũng không đụng chạm gì đến. Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên cả
bọn cũng chẳng sợ gì Tang Thổ Công, có điều nếu như gây thù chuốc oán với
bọn người man di mọi rợ này thì chỉ tổ rắc rối, dây dưa thật là phiền toái.
Mộ Dung Phục hơi trầm ngâm rồi nói:
- Chỗ thị phi này, đi khỏi càng sớm càng hay.
Y thấy lão già nằm bên chiếc đỉnh chỉ còn thoi thóp nhưng vẫn trợn trừng
trừng, hầm hầm nhìn mọi người, chính là kẻ ăn nói đểu cáng nên bị hại vào
thân. Mộ Dung Phục quay sang Bao Bất Đồng gật đầu một cái, hất hàm về
phía gã kia. Bao Bất Đồng hiểu ra, vươn tay cầm cái cần tre treo ngọn đèn,
chuyển đầu lại, phóng một cái, cả đèn lẫn cành tre liền đâm phập vào ngực
lão già, ngọn đèn tắt phụt ngay. Vương Ngữ Yên hoảng hốt kêu lên một tiếng.
Công Dã Can nói:
Bụng dạ nhỏ nhen sao quân tử,
Ra tay không độc há trượng phu.6
Cái này gọi là giết người bịt miệng, để khỏi di hoạn về sau.
Y tung chân phải đá đổ luôn cái đỉnh đồng, Mộ Dung Phục cầm tay Vương
Ngữ Yên, lách qua bên trái đi ra ngoài. Chỉ mới đi chừng mười trượng, trong
đêm tối soẹt soẹt hai tiếng binh khí xé gió, một đao một kiếm từ trong đám cỏ
dày chém vụt ra. Mộ Dung Phục phất tay áo một cái, mượn sức đánh sức,
người cầm đao bên trái chém xuồng đầu người bên phải, kiếm người bên phải
lại đâm vào ngực người bên trái, chỉ nháy mắt đã thanh toán xong hai kẻ đánh
trộm, chân vẫn không ngừng lại chút nào. Công Dã Can suýt soa:
- Công tử gia giỏi thật.
Mộ Dung Phục mỉm cười, vẫn tiếp tục chạy về phía trước, hữu chưởng
vung lên, một kẻ địch từ đâu xông tới bị trúng đòn xương cốt kêu lắc rắc ngã
6 lăn xuống sườn núi, tả chưởng đánh ra, một địch nhân phía trái kêu lên một
tiếng thảm thiết, miệng hộc máu tươi. Trong đêm tối đột nhiên ngửi thấy một
mùi tanh tưởi, khắm khú rồi hơi gió ập vào mặt, Mộ Dung Phục vội vàng
ngưng tụ chưởng phong, đánh bật hai món ám khí vô danh kia dội trở về, chỉ
nghe tiếng người kinh hoảng kêu lên, địch nhân đã trúng phải món ám khí độc
địa mình vừa ném ra.
Trời tối như thế lại rơi vào vòng vây hãm, không biết bên địch nhiều ít thế
nào, chỉ tiện tay sát nhân, giết đến tên thứ sáu rồi, Mộ Dung Phục trong bụng
kinh hãi thầm: "Ba người đầu thì phần lớn có thể là Tang Thổ Công ở Xuyên
Tây, nhưng ba người sau thì mỗi người một môn phái, oan gia càng lúc càng
sâu, chẳng phải chuyện lành".
Bỗng nghe Đặng Bách Xuyên kêu lên:
- Tất cả mọi người sánh vai xông ra hướng Thính Hương thủy tạ!
Thính Hương thủy tạ là một trang viện trong Yến Tử Ổ ở Cô Tô, vị ở
hướng tây, là nơi thị tì A Châu cư ngụ. Đặng Bách Xuyên bảo xông ra hướng
Thính Hương thủy tạ có nghĩa là lui về hướng tây để địch nhân khỏi phát giác.
Mộ Dung Phục nghe thấy thế, liền hiểu ra ngay, thế nhưng khi đó bốn bề tối
đen như mực, không có một chút trăng sao, thật khó mà định được phương vị,
ai biết hướng tây là hướng nào.
Y chăm chú nghe ngóng, thấy chưởng lực hậu trọng của Đặng Bách Xuyên
ở phía phải đằng sau lưng vang lên hai lần, lập tức cầm tay Vương Ngữ Yên,
lùi xéo qua ba bước, đứng ngay bên cạnh Đặng Bách Xuyên, nghe bịch bịch
thì ra y đã đối chưởng với kẻ địch.
Cứ theo chưởng thanh mà luận, địch nhân quả là một tay hảo thủ. Kế đó
Đặng Bách Xuyên lại quát lên một tiếng thị uy, Mộ Dung Phục biết y đang
dùng chiêu Thạch Phá Thiên Kinh, đối phương khó mà đương cự nổi. Quả
nhiên người kia kinh hoàng kêu rú lên, giọng the thé nhưng càng lúc càng
thấp tưởng như chui xuống đất, kế đó đá dưới chân lục cục chuyển động rồi
tiếng cành cây gãy đổ. Mộ Dung Phục hơi kinh hãi: "Gã này trượt chân rơi
xuống vực rồi. Mới đây dưới ánh sáng màu lục, mình có thấy sơn cốc nào
đâu? Cũng may Đặng đại ca đánh rơi gã này xuống khe núi nếu không trong
đêm tối trượt chân thì thật khổ".
Ngay lúc đó, bên sườn núi cao phía trái có tiếng truyền xuống:- Cao nhân ở phương nào sao dám đến quấy phá Vạn Tiên Đại Hội?
Không coi động chủ ba mươi sáu động, đảo chủ bảy mươi hai đảo vào đâu
chăng?
Cả bọn Mộ Dung Phục cùng kêu lên kinh ngạc. Cái tên "tam thập lục động
động chủ, thất thập nhị đảo đảo chủ" họ đã nghe đến rồi, nhưng "động chủ,
đảo chủ" kia chỉ là những kẻ bàng môn tả đạo không thuộc môn phái, bang
hội nào. Những người đó võ công có kẻ cao người thấp, tính nết có thiện có
ác, đi đâu thì đi, đến đâu thì đến, làm gì thì làm, chẳng thuộc phe cánh nào
nên cũng không có thế lực, thành thử giang hồ không mấy coi trọng. Chỉ biết
là họ ở lung tung khắp nơi các hòn đảo đâu vùng Đông Hải, Hoàng Hải, lại
cũng có kẻ ẩn cư nơi núi cao rừng thẳm Côn Lôn, Kỳ Liên, trong những năm
gần đây không nghe nói gì, cũng chẳng làm gì nên không ai để ý, ngờ đâu lại
tụ hội nơi đây.
Mộ Dung Phục lớn tiếng nói:
- Anh em tại hạ sáu người, đi đường ban đêm nên không biết các vị gặp
nhau ở đây, vô ý mạo phạm, nay xin tạ lỗi. Vì trời tối nên đã xảy ra sự lầm
lẫn, hai bên cười một tiếng bỏ qua, xin các vị cho mượn đường.
Mấy câu đó của y không phách lối mà cũng không hạ mình, cũng không
thổ lộ lai lịch thân phận, chỉ nhận lỗi đã lỡ giết mấy người của đối phương.
Đột nhiên chung quanh nổi lên tiếng cười ha ha, hì hì, khà khà, hích hích
vang dậy, càng cười càng nhiều. Lúc đầu chỉ độ mươi người, về sau bốn
phương tám hướng chỗ nào cũng có, nghe âm thanh phải đến năm sáu trăm,
người thì gần người thì xa đến vài ba dặm.
Mộ Dung Phục nghe thấy thanh thế đối phương lớn lao dường ấy, lại nghe
người kia nói gì là Vạn Tiên Đại Hội trong bụng nghĩ thầm: "Bữa nay xui quá,
ma đưa lối, quỉ đưa đường khiến cho mình lạc vào ngay bọn tà ma ngoại đạo
đang tụ tập. Tốt hết là mình không thổ lộ tên tuổi để khỏi vương vào chuyện
gì gỡ không ra. Huống chi mình số ít địch với số đông, sáu người làm sao
chống lại được mấy trăm?".
Trong tiếng cười rộ, từ trên sườn núi cao người kia lại tiếp:
- Ngươi nói năng dễ nghe nhỉ, bao nhiêu đó tưởng thế là xong ư? Sáu
người chúng bay ra tay đả thương mấy anh em ta, nếu như quần tiên trong VạnTiên Đại Hội thả cho bay đi thì cái mặt mo của ba mươi sáu động, bảy mươi
hai đảo vứt bỏ đi đâu?
Mộ Dung Phục trấn tĩnh lại, đưa mắt nhìn ra bốn bề thấy trước sau trái phải
trên sườn đồi, ngọn núi, dưới thung lũng, ngang đèo chỗ nào cũng lấp ló, thấp
thoáng bóng người, trời tối không nhìn rõ hình dáng mặt mày. Những người đó
không biết ở đâu ra, tưởng chừng như đùng một cái dưới đất chui lên. Bấy giờ
Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác đã đến đứng
chung quanh Mộ Dung Phục và Vương Ngữ Yên hộ vệ, nhưng bị mấy trăm
người bao vây, thật có khác gì chiếc bách con con giữa trùng dương đại hải.
Mộ Dung Phục và bọn Đặng Bách Xuyên trong đời đã trải qua nhiều trận
đánh lớn, nhìn vào tình thế trước mắt cũng không khỏi nổi da gà nghĩ thầm:
"Bọn người này quả thực quái đản, tám người mười người thì không nói làm
gì, đến mấy trăm người tụ lại một chỗ thật chẳng dễ đối phó".
Mộ Dung Phục ngưng khí vào đan điền, lớn tiếng nói:
- Người ta có câu không biết thì không có tội. Đại danh của chúa động ba
mươi sáu động, chúa đảo ba mươi sáu đảo, tại hạ cũng đã từng nghe, không
bao giờ dám cố ý đắc tội. Tang Thổ Công của Bích Lân Động ở phía tây đất
Xuyên, Huyền Hoàng Tử của Cầu Long Động ở biên giới đất Tạng, Chương
Đạt Phu tiên sinh chúa đảo Huyền Minh nơi bể Bắc xem ra cũng đều có mặt
nơi đây. Tại hạ vô ý mạo phạm, mong được tha tội một phen.
Một giọng ồm ồm thô lỗ cười khằng khặc ở phía trái vang lên:
- Bộ mi tưởng nói được tên chúng ông ra là lẩn đi được ư? Ha ha, ha ha!
Mộ Dung Phục trong bụng tức tối nói:
- Tại hạ kính trọng các vị là bậc trưởng bối nên mới tiên lễ hậu binh, ăn
nói khách sáo một chút. Không lẽ Mộ Dung Phục này lại sợ các ngươi hay
sao?
Chỉ thấy bốn bề có nhiều tiếng "A" lên kinh ngạc, hiển nhiên nghe đến ba
chữ "Mộ Dung Phục" đều chấn động. Giọng người ồm ồm kia bèn hỏi:
- Có phải nhà Mộ Dung với ngón "dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân" hay
chăng?
Mộ Dung Phục đáp:
- Không dám, chính là tại hạ đây.Người kia nói:
- Họ Cô Tô Mộ Dung thì không phải là hạng xoàng! Thắp đèn! Tất cả
tiến lên xem nào!
Lời của y vừa dứt, từ phía đông nam xuất hiện một ngọn đèn vàng, rồi phía
tây và tây bắc lại có đèn đỏ giơ lên. Chỉ trong giây lát, chúng quanh bốn bề
chỗ nào cũng có đèn, cái thì đèn lồng, cái thì đuốc, cái lại là đèn Khổng Minh,
chỗ lại đốt cỏ khô, nhựa thông, mỗi động chủ đảo chủ cầm một món khác
nhau, cái thật giản dị sơ sài, cái lại cầu kỳ khéo léo, không biết dấu ở đâu bây
giờ mới lôi ra. Ánh lửa chập chờn khi mờ khi tỏ chiếu vào mọi người, quả là
huyễn ảo.
Những người đó nam có nữ có, đẹp có xấu có, lại có cả nhà sư, đạo sĩ, kẻ
thì tay áo rông phất phơ, kẻ thì áo cánh quần cộc, kẻ thì già cả râu tóc tung
bay, kẻ lại đàn bà búi tóc cao nghệu, phục sức hầu hết kỳ hình quái trạng,
khác hẳn nhân sĩ Trung Nguyên.7
Hơn một nửa bọn họ tay cầm binh khí, hình dáng cũng thật cổ quái, không
biết gọi tên là gì. Mộ Dung Phục chắp tay hành lễ bốn bề, lớn tiếng nói:
- Xin chào các vị, tại hạ Mộ Dung Phục đất Cô Tô xin ra mắt.
Người chung quanh có kẻ hoàn lễ, có kẻ vẫn thản nhiên đứng yên. Một
người ở phía tây nói:
- Mộ Dung Phục, họ Cô Tô Mộ Dung nhà ngươi ra oai hoạnh họe ở Trung
Nguyên thì mặc kệ bay. Chứ còn xông vào Vạn Tiên Đại Hội mà ngang tàng
thì bọn ta chẳng coi ra quái gì đâu? Ngươi dám xưng là "ăn miếng trả miếng"
thì mỗ hỏi đây, cái miếng của ta là miếng gì, muốn trả miếng thì trả làm sao?
Mộ Dung Phục theo tiếng mà nhìn tới, thấy trên một tảng đá ở phía tây có
một gã ngồi bảnh chọe nơi đó, cái đầu to trọc lông lốc không có một sợi tóc
nào, mặt đỏ ửng trông xa chẳng khác gì một trái cầu máu. Mộ Dung Phục liền
ôm quyền nói:
- Xin chào! Tôn tính đại danh các hạ là chi?
Gã kia ôm bụng cười ngất nói:
- Lão phu thử mi một chút, để xem Cô Tô Mộ Dung có chân tài thực học
hay chỉ thùng rỗng kêu to. Ta đã hỏi rồi: nếu ngươi muốn ăn miếng trả miếng
7 ta thì dùng cách gì? Nếu như ngươi trả lời đúng, người khác thế nào thì ta
không biết, lão phu nhất định không làm khó cho mi đâu. Lúc đó ngươi có đi
đâu ta cũng mặc xác, không thèm hỏi lấy một tiếng.
Mộ Dung Phục nhìn cục diện trước mắt, biết rằng chuyện hôm nay, không
chỉ nói vài lời mà có thể yên lành, xem ra phải xuất thủ vài chiêu, bèn đáp:
- Nếu đã thế, tại hạ phụng bồi vài chiêu, xin tiền bối ra tay.
Người kia lại ôm bụng cười như nắc nẻ nói:
- Ta đánh đố mi chứ có bảo mi thử tài ta đâu. Nếu ngươi nói không được
thì danh hiệu "dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân" kia để ta tước đi vậy.
Đôi lông mày Mộ Dung Phục nhướng lên, nghĩ thầm: "Ngươi cứ ngồi chình
ình nơi đó, không động đậy gì cả, ta không biết ngươi thuộc môn phái nào,
cũng chẳng biết tên tuổi thì làm sao biết được tuyệt chiêu sở trường của ngươi
là gì? Không biết ngươi có "miếng" gì thì làm sao mà "trả"?
Y còn hơi trầm ngâm, gã đầu to kia đã cười khẩy nói:
- Bọn chúng ta ba mươi sáu chúa động, bảy mươi hai chúa đảo chia ra ở
khắp mọi nơi chân trời góc biển, chẳng hơi đâu mà xen vào chuyện của Trung
Nguyên. Trong đám người mù kẻ chột làm vua, cái thứ nít ranh miệng còn hôi
sữa mà đã lên mặt gì gì Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung! Ha ha, tức cười ơi là
tức cười! Vô sỉ ơi là vô sỉ! Nè, để ta nói cho nghe, hôm nay nếu như mi muốn
thoát thân thì cũng chẳng khó. Ngươi chỉ cần rập đầu lạy chúa động, chúa đảo
mỗi người mười cái, tất cả tổng cộng một ngàn tám chục cái thì bọn ta sẽ cho
mấy đứa ranh con chúng bay đi.
Bao Bất Đồng nén nhịn đã lâu, bây giờ không còn nhẫn nại được nữa, lớn
tiếng nói:
- Ngươi muốn công tử nhà ta dùng đòn "ăn miếng trả miếng", lại muốn
công tử khấu đầu ư? Cái ngón tuyệt kỹ của ngươi, công tử nhà ta học làm sao
nổi? Ha ha, tức cười ơi là tức cười! Vô sỉ ơi là vô sỉ!
Y uốn éo giọng, bắt chước giọng gã đầu to y hệt không khác một mảy. Gã
đầu to tằng hắng một tiếng, nhổ ra một bãi đờm, bắn thẳng vào người Bao Bất
Đồng. Bao Bất Đồng nghiêng người qua tránh được, cục đờm đó sượt qua
mang tai, đột nhiên trên không chuyển hướng, bẹt một tiếng trúng ngay góc
trán Bao Bất Đồng. Cục đờm đó kình lực không phải yếu, Bao Bất Đồng cảm
thấy choáng váng, thân hình lảo đảo, thì ra bãi nước miếng đó trúng ngayhuyệt Dương Bạch trên lông mày y. Mộ Dung Phục kinh hãi: "Lão già này
ngầm chứa kình lực trong bãi đờm, chuyện đó cũng chẳng khó. Bao tam ca
trúng độc rồi công lực chưa hồi phục, tránh không nổi cũng chẳng có gì lạ. Lạ
nhất là cục đờm phóng ra rồi, giữa đường lại đổi chiều được".
Gã đầu to cười sằng sặc nói:
- Mộ Dung Phục, lão phu chẳng cần mi phải "trả miếng" đâu, chỉ cần
ngươi nói được lai lịch cục đờm đó thì lão phu phục lắm rồi.
Mộ Dung Phục trong đầu biết bao ý nghĩ xoay chuyển, nhưng không làm
sao nghĩ ra được, bỗng nghe giọng trong trẻo êm ả của Vương Ngữ Yên đứng
bên cạnh cất lên:
- Đoan Mộc đảo chủ, ông luyệt được ngón Qui Khứ Lai Hề8 trong Ngũ
Đẩu Mễ thần công, quả không phải dễ. Thế nhưng ông cũng đã giết bao nhiêu
là người, công tử nhà ta nghĩ đến công phu tu luyện của ông nên không muốn
tiết lộ lai lịch để khỏi đụng chạm đến cấm kỵ của đồng đạo chứ có phải công
tử nhà ta không biết dùng công phu đó để đối phó với ông đâu?
Mộ Dung Phục vừa mừng vừa sợ: "Cái tên "Ngũ Đẩu Mễ thần công" ta
chưa từng nghe nói đến, vậy mà biểu muội đã biết rồi, chẳng biết có đúng hay
không?".
Gã đầu to kia mặt vốn đỏ rực như máu, đột nhiên biến ra xanh lè, rồi lập
tức trở lại màu đỏ, cười nói:
- Con nhãi này chỉ nói tầm bậy tầm bạ, cái môn Ngũ Đẩu Mễ thần công
tổn nhân lợi kỷ kia, âm độc tàn ác, người như ta đời nào thèm luyện? Thế
nhưng ngươi cũng nói ra được họ của lão gia, kể cũng không phải dễ!
Vương Ngữ Yên nghe y nói thế, biết mình đoán trúng rồi, nhưng không
dám nhận đấy thôi, bèn đáp:
- Đoan Mộc động chủ của Xích Diễm Động nơi Ngũ Chỉ Sơn, đảo Hải
Nam, trên giang hồ ai mà chẳng nghe tiếng, ai mà chẳng biết tên? Thì ra công
phu đó không phải Ngũ Đẩu Mễ thần công thì hẳn là một môn công phu do
Địa Hỏa Công biến hóa ra.
8 Địa Hỏa Công là một công phu cơ bản của Xích Diễm Động. Tông chủ của
Xích Diễm Động đều là người mang họ kép Đoan Mộc, gã đầu to này tên là
Đoan Mộc Nguyên, nghe thấy Vương Ngữ Yên nói ra được lai lịch thân phận
của mình, lại tế nhị che dấu môn Ngũ Đẩu Mễ thần công, trong lòng bỗng
sinh hảo cảm, huống chi Xích Diễm Động chỉ là một môn phái nhỏ xíu vô
danh trên giang hồ, vậy mà nàng lại bảo rằng "ai mà chẳng nghe tiếng, ai mà
chẳng biết tên", nên hết sức khoái chí, bèn cười hềnh hệch nói:
- Đúng lắm! Đúng lắm! Đây chỉ là một công phu hạng bét trong Địa Hỏa
Công. Lão phu đã nói rồi, ngươi nói được tên môn phái ta ra, vậy ta sẽ không
làm khó các ngươi nữa.
Đột nhiên từ dưới tảng đá đối diện một tiếng nói vo ve truyền ra, nức nức
nở nở, tưởng khóc mà không phải khóc:
- Đoan Mộc Nguyên, trượng phu ta và các anh em đều do ngươi giết, phải
không? Có phải ngươi luyện cái môn trời đánh Ngũ Đẩu Mễ thần công kia
nên mới làm hại họ chứ gì?
Người nói bị bóng tảng đá che khuất nên không nhìn rõ ra sao, trông thấp
thoáng dường như là một người đàn bà mặc áo đen, thân hình dong dỏng, quần
áo tay áo rộng thùng thình. Đoan Mộc Nguyên cười hềnh hệch đáp:
- Vị nương tử kia là ai? Ta xưa nay nào có biết Ngũ Đẩu Mễ thần công là
cái chi chi, chớ có tin lời vị tiểu cô nương kia nói năng bá xàm bá láp.
Người đàn bà quay sang vẫy Vương Ngữ Yên hỏi:
- Này tiểu cô nương, lại đây, ta muốn hỏi cô một chút.
Đột nhiên mụ ta vọt ra mấy bước, vung ra một chiếc gậy trúc dài, đầu gậy
là một chiếc móc ba nhánh, chộp luôn vào dây lưng Vương Ngữ Yên kéo về.
Vương Ngữ Yên bị mụ ta kéo lên hai bước, lập tức kêu thét lên. Mộ Dung
Phục nhẹ nhàng phất tay một cái, đè lên cây gậy, dùng phép Đẩu Chuyển
Tinh Di khiến sức kéo vào Vương Ngữ Yên đổi thành kéo ngược lại người đàn
bà kia.
Người đàn bà kêu lên một tiếng, chân không vững, bị lôi xềnh xệch từ
trong bóng tối của tảng đá ra, đến trước Mộ Dung Phục chỉ còn chừng một
trượng, lúc đó nội kình tiêu đi mới dừng lại được. Mụ ta kinh hoảng thất sắc,
sợ Mộ Dung Phục ra tay làm hại, vội buông bỏ chiếc gậy tre, hết sức nhảy vọt
về sau đến hơn một trượng mới đứng vững.Vương Ngữ Yên gỡ cái móc sắt ở dây lưng ra, cầm cây gậy đưa cho Mộ
Dung Phục. Mộ Dung Phục phất tay áo một cái, cây gậy trúc chầm chậm bay
về phía người đàn bà. Mụ ta đưa tay tiếp lấy, cây gậy bỗng nhiên rơi bịch
xuống đất, cắm vào nơi cách bà ta chừng ba thước. Vương Ngữ Yên nói:
- Công phu Thái Yến Công của Lê phu nhân Da Hoa Đảo9 ở Nam Hải,
quả là thần diệu, bội phục, bội phục!
Người đàn bà kia vẻ mặt hoang mang, nói:
- Tiểu cô nương, sao ngươi ... ngươi lại biết họ của ta? Sao ... sao lại ...
biết đây là Thái Yến Công?
Vương Ngữ Yên đáp:
- Vừa rồi Lê phu nhân tỏ lộ một chút công phu thần diệu, dùng gậy dài
để khều đồ vật, bách phát bách trúng, hẳn phải là Thái Yến Công trứ danh
của đảo Da Hoa rồi.
Thì ra đảo Da Hoa tại Nam Hải, trên các vách núi có nhiều tổ yến. Yến
sào thường chỉ làm tổ nơi tuyệt cao, tuyệt hiểm, họ Lê đã ở trên đảo này lâu
năm, mấy trăm năm nay vì nghề hái yến mà luyện thành công phu dùng gậy
thật dài làm binh khí trong môn Thái Yến Công. Ngoài ra khinh công bộ pháp
của họ Lê trên Da Hoa Đảo cũng không giống bình thường. Vương Ngữ Yên
nhìn bà ta nhảy vọt về sau một cái, tưởng chừng như bị gió biển thổi bay đi
nên không còn hoài nghi gì nữa, nói ngay được thân phận lai lịch của mụ.
Lê phu nhân bị Mộ Dung Phục phất tay một cái đã đè được cây gậy xuống,
trong bụng khiếp hãi, rồi Vương Ngữ Yên lại nói toẹt ngay ra võ công gia số
của mình, tưởng bao nhiêu kỹ thuật của mình đối phương biết cả rồi, nên
không còn dám phách lối nữa, quay sang nói với Đoan Mộc Nguyên:
- Đoan Mộc lão huynh, kẻ hảo hán dám làm dám chịu. Trượng phu ta và
các anh em, có phải do ngươi giết chết không?
Đoan Mộc Nguyên cười khà khà đáp:
- Quả là thất kính! Thì ra đây là Lê phu nhân, chúa đảo Da Hoa ngoài
biển Nam, là chỗ gần gũi, hàng xóm láng giềng với lão phu. Tôn phu lão chưa
từng gặp qua, sao lại bảo là "giết chết" được?
9 Lê phu nhân bán tín bán nghi nói:
- Chuyện đã lâu rồi tự ngươi khắc biết, nếu không phải thì hay lắm.
Mụ rút chiếc gậy ra lại ẩn sau khối nham thạch. Lê phu nhân vừa rút lui
bỗng nghe bịch một tiếng, từ trên cây tùng trên đầu có một vật gì nặng nề
ném xuống, nghe keng một tiếng lớn, rớt ngay trên tảng đá, thì ra là một chiếc
đỉnh bằng đồng xanh.
Mộ Dung Phục cũng hoảng hốt ngửng đầu nhìn lên trên cây để xem ẩn
trên đó là hạng người nào mà mang được vật nặng đến mấy trăm cân như thế
lên cao để ném xuống. Nhìn lại hình dáng chiếc đỉnh này cũng giống như
chiếc đỉnh của động Bích Lân mà Công Dã Can vừa mới đá, nhưng thân đỉnh
lớn hơn nhiều, không lẽ Tang Thổ Công đang ngồi trên cây đó? Chỉ thấy cành
cây lá cây hơi rung động nhưng không thấy người đâu cả.
Ngay khi đó bỗng nghe mấy tiếng vo ve lẫn vào tiếng gió, nhỏ lạ thường
khiến cho khó mà phân biện được. Mộ Dung Phục ứng biếng cực kỳ nhanh,
hai tay áo vung lên, vận lên một luồng kình phong, đánh ngược trở ra, trước
mắt ngân quang lấp lánh, hàng nghìn hàng trăm mũi kim nhỏ như lông bò từ
bốn phương tám hướng bắn tới. Mộ Dung Phục kêu thầm: "Không xong!" đưa
tay nắm ngang hông Vương Ngữ Yên, tung người nhảy vọt lên, nhưng cũng
nghe Công Dã Can, Phong Ba Ác cùng những người chung quanh kêu la rầm
rĩ:
- Ối trời! Hỏng rồi!
- Trúng độc châm rồi!
- Ám khí sao độc địa thế! Con bà nó chứ!
- Ối, sao lại bắn trúng ông?
Mộ Dung Phục ở trên không trong một chớp mắt nhìn thấy nắp chiếc đỉnh
đồng xanh kia hơi chuyển động, có cái gì đó từ trong đỉnh chui ra, tay phải hất
một cái đẩy tung Vương Ngữ Yên về trước, miệng nói:
- Ngồi lên trên cây.
Nói xong thân mình hạ xuống, hai chân đạp vào nắp đỉnh thấy nắp đỉnh
liên tục nhúc nhích, vội sử dụng Thiên Cân Trụy đè chặt, nghe chung quanh
tiếng người đồng thanh kêu la:
- Ối trời, mau lấy thuốc giải ra.- Ngưu mao châm của Bích Lân Động đây mà, chỉ một giờ sau là chạy
vào tim hết thở ngay, lợi hại ghê gớm.
- Tên khốn kiếp Tang Thổ Công ở đâu thế?
- Mau ép nó đưa thuốc giải ra.
- Thằng giặc thối tha này ném kim bừa bãi, đến bạn bè cũng bị thương.
- Tang Thổ Công đâu?
- Mau đưa thuốc giải đây! Thuốc giải mau!
Câu hỏi Tang Thổ Công đâu? Mau đưa thuốc giải cứ thế mà ầm lên. Người
trúng kim có kẻ nhảy tưng tưng, có kẻ ôm cây la hét đủ biết độc tính trên kim
lông bò kia lợi hại dường nào, khiến cho người bị nạn ngứa ngáy chịu không
nổi.
Trong một thoáng, Mộ Dung Phục thấy Công Dã Can tay trái ôm lấy ngực,
tay phải ấn vào bụng, đang ngưng thần vận khí, còn Phong Ba Ác thì hai chân
nhảy lung tung, ngoạc mồm chửi rủa. Y biết hai người đã trúng phải ám khí,
trong bụng không khỏi bồn chồn, lại thêm tức tối. Nhiều độc châm như thế
hẳn là có người bấm nút cơ quan trong chiếc đỉnh đồng, từ trong đỉnh bắn ra.
Chiếc đỉnh từ trên cao rơi xuống khiến cho ai nấy ngửng đầu lên nhìn, người
nằm trong đỉnh thừa cơ bắn kim ra, nếu y không phải là người nhanh trí, nội
lực mạnh mẽ thì mấy nghìn mũi kim kia trúng hết vào người còn gì. Nội kình
Mộ Dung Phục phát ra phản kích độc châm, mũi thì bắn vào người ngoài, cái
thì bắn trúng cái đỉnh, gã bắn lén kia có đỉnh hộ thân nên chẳng sao cả.
Chỉ nghe một người tiếng eo éo quái dị nói:
- Mộ Dung Phục, chính là vì ngươi không phải, cái gì mà bảo là "dĩ bỉ chi
đạo hoàn thi bỉ thân"? Hành vi nhà Mộ Dung thế là không đúng rồi.
Người đó đứng ở thật xa, khuất sau tảng đá nên không trúng độc châm
thành thử mới dám nói mấy câu bông phèng. Mộ Dung Phục không thèm để ý
đến y, nghĩ bụng muốn giải độc thì phải kiếm được người ở trong đỉnh, thấy
chiếc nắp đỉnh dưới chân không ngớt bung lên, hiển nhiên người đó đang cố
gắng chui ra. Mộ Dung Phục liền chống tay trái lên trên cành tùng, thật chẳng
khác gì dùng cả cây tùng đó chèn nắp đỉnh, người kia muốn ra khỏi, nếu
không có bảo đao bảo kiếm phá đỉnh mà ra, chỉ dùng sức eo sức lưng thì phải
nhổ bật gốc tùng lên. Người trong đỉnh liên tiếp dùng sức nhưng làm sao có
thể hất tung cả Mộ Dung Phục lẫn cái cây lên được?Mộ Dung Phục sử dụng công phu Đẩu Chuyển Tinh Di, chuyển tất cả sức
của người trong đỉnh vào cây tùng. Cây tùng đó chao qua đảo lại, rễ kêu lục
cục nhưng muốn nhổ bung cả gốc lẫn rễ lên thì đâu phải chuyện đùa dẫu rằng
rễ con chung quanh cũng bị đứt khá nhiều.
Mộ Dung Phục định bụng đợi khi y nống lên vài bận nữa, sẽ bất ngờ buông
ra để cho y vọt ra ngoài, liệu rằng khi y vừa bung ra sẽ lại ném ngưu mao
châm để phòng vệ, lúc đó múa chưởng đánh cho muôn ngàn mũi kim kia đều
cắm vào người y, thể nào cũng phải dùng thuốc giải tự cứu lấy mình, đoạt giải
dược còn dễ dàng hơn là ép y tự ý đưa ra.
Chỉ thấy nắp đỉnh lại ẩy lên mấy bận, rồi sau đó không còn thấy động tĩnh
gì nữa, Mộ Dung Phục biết y đang vận khí tích súc kình lực, dự bị bung thật
mạnh ra, lập tức chân nới lỏng, ngầm vận lực lên chưởng phải. Ngờ đâu chờ
một hồi lâu, trong đỉnh vẫn không nghe gì cả, tưởng như y nản lòng chết mất
rồi.
Khi ấy bốn bề tiếng kêu la càng lúc càng thêm thảm thiết. Những đệ tử
các động các đảo công lực hơi kém một chút, chịu ngứa không nổi kẻ phải lăn
dưới đất, kẻ thì va đầu vào đá, kẻ thì đấm ngực, tình cảnh trông thật ghê rợn.
Lại nghe bảy tám người cùng gào lên:
- Lôi Tang Thổ Công ra đây, lôi y ra đây, bắt y đưa thuốc giải.
Cùng với tiếng hét, đến hơn chục người mắt đỏ ngầu, cùng xông vào Mộ
Dung Phục. Mộ Dung Phục chân trái điểm vào nắp đỉnh một cái, thân hình
nhẹ nhàng bay vọt lên, đang định ngồi lên cành tùng đâm ngang, đột nhiên
nghe tiếng sùy sùy, ánh sáng bạc lấp lánh lại có hàng nghìn hàng trăm mũi
kim nhỏ bắn xéo vào y.
Việc đó xảy ra cực kỳ đột ngột, kẻ phát xạ ngân châm là Tang Thổ Công
vẫn còn ở trong đỉnh nhưng xem kình lực và thế đi của những mũi kim này,
nhiều như thế thì phải do lẫy bắn ra chứ không phải do sức người, không lẽ
đồng đảng của Tang Thổ Công ẩn náu một bên, lại giở độc thủ một lần nữa?
Mộ Dung Phục đang còn ở giữa lưng chừng, không có cách gì tránh né, nếu
dùng chưởng phản kích lại thì không khỏi đi vào vết xe cũ lại làm bọn Đặng
Bách Xuyên bốn người ở dưới đó bị thương.
Trong lúc vạn phần khẩn cấp đó, Mộ Dung Phục nhấp tay áo bên phải một
cái, chẳng khác gì chiếc buồm đang căng gió có thêm hơi, thân hình liền lướtngang ra ba thước, đồng thời tay áo bên phải bung ra, một luồng kình lực hồn
hậu nhu hòa phát xuất, hất tất cả hàng trăm hàng nghìn mũi kim lên trời, còn
thân hình chẳng khác gì một con diều to bay bổng, lượn một vòng rồi hạ
xuống.
Khi đó tuy trên trời không có một chút ánh sáng trăng sao nào nhưng ánh
lửa bốn bề chiếu vào thật sáng, mọi người thấy Mộ Dung Phục tiêu sái nhẹ
nhàng lướt trên không trung, ai nấy kinh ngạc bội phục, tiếng hò reo ca ngợi
che lấp cả tiếng kêu la chửi rủa đang chọc vào tai mọi người.
Mộ Dung Phục đang ở trên không nhưng mắt vẫn chăm chú nhìn xem
những mũi ngưu mao châm kia bắn từ đâu ra, thân hình rơi xuống cách chỗ
vừa đứng khoảng hơn một trượng, chân trái đạp vào một cành tùng đâm
ngang, mượn sức bay trở lại phía hữu. Khi y rơi xuống thì vật vờ phiêu lãng,
cực kỳ thong dong, thế nhưng lúc này bung ra thì nhanh như chim ưng vồ mồi,
kình phong tỏa tới, hai chân đạp lên đầu một gã vừa mập vừa lùn đứng bên
tảng tá. Thì ra khi y ở trên không mục quang nhìn bao phủ toàn trường, thấy
người này thu thu trong bọc một vật gì giống như một cái đỉnh nhỏ, đang toan
phát xạ lần nữa.
Gã lùn mập nhanh chân né qua được, hành động nhậm lẹ, chẳng khác gì
một trái cầu lăn dưới đất. Mộ Dung Phục đạp hụt, bình một chưởng đánh ngay
xuống, trúng sau lưng đối phương. Gã kia vừa mới đứng lên, bị chưởng đánh
lăn quay, lại gượng bật dậy, lảo đảo mấy cái rồi hai đầu gối nhũn ra, ngồi
phệt xuống.
Khoảng hơn chục người đứng quanh liền kêu la:
- Tang Thổ Công, mau lấy thuốc giải, mau lấy thuốc giải!
Tất cả liền xông lên vây y lại. Đặng Bách Xuyên và Bao Bất Đồng đều
nghĩ thầm: "Thì ra gã lùn này chính là Tang Thổ Công". Hai người muốn bắt
ngay y để có thuốc giải trị thương cho các huynh đệ nên cùng quát lên, chồm
tới.
Tang Thổ Công giơ tay đẩy xuống đất một cái đang toan đứng dậy nhưng
bị thương không nhẹ thành thử lực chẳng tòng tâm. Bao Bất Đồng chộp vào
đầu vai y bỗng thấy năm ngón tay và lòng bàn tay đau nhói, rụt về ngửa ra
thấy bàn tay đầm đìa những máu. Thì ra đầu vai gã lùn này cũng có gắn kim
tẩm độc chĩa ra ngoài. Chỉ trong chốc lát Bao Bất Đồng đã thấy bàn tay ngứangáy chịu không nổi chạy thẳng lên tim. Y vừa sợ vừa tức, phóng chân trái, sử
chiêu Kim Câu Phá Băng, nhắm đúng mông Tang Thổ Công đá mạnh một cái.
Tang Thổ Công đang nằm phục dưới đất, thân hình ngọ nguậy, ngọn cước đó
không thể nào không trúng.
Thế đi của cú đá thật nhanh nhưng chỉ trong nháy mắt khi đầu mũi bàn
chân chỉ còn cách đối phương chừng vài tấc, Bao Bất Đồng chợt nghĩ ra: "Ối
chết rồi, không chừng dưới mông y cũng có dấu gai nhọn, chân mình đá trúng
y thì bỏ đời". Thế nhưng ngọn cước đã đá ra rồi, nếu ráng giựt về thì thể nào
cũng bị thương gân cốt, trong cơn nguy cấp y liền vung chưởng đánh mạnh
xuống đất, thân hình mượn thế bắn ra ngoài, đầu óc quả là nhậm lẹ nên đầu
mũi chân chỉ sượt qua Tang Thổ Công, không dùng sức nên cũng không biết
dưới quần y có dấu kim hay không.
Khi đó Đặng Bách Xuyên và bảy tám người còn lại cũng đã lẻn được ra
sau lưng Tang Thổ Công, thấy Bao Bất Đồng ra tay bắt y, không hiểu vì cớ gì
lại bị thương, thấy Tang Thổ Công nằm phục dưới đất không cục cựa nhưng
cũng e dè không dám xông lên động thủ. Bao Bất Đồng bị một vố như thế đâu
lẽ nào chịu bỏ qua? Y liền nhắc ngay một tảng đá lớn ước chừng trăm cân lên,
kêu lớn:
- Tránh ra, để ta đập chết con rùa đen này.
Có người ngăn lại:
- Ấy không được, đập y chết thì lấy đâu ra thuốc giải?
Một người khác nói:
- Giải dược ở trong người y chứ đâu, đập y chết là lấy được ngay.
Xem chừng người này tuy cũng tụ tập ở đây nhưng lại có mưu tính gì khác,
không hẳn đã đồng lòng, Bao Bất Đồng có định giết Tang Thổ Công thì y
cũng không phản đối. Trong khi mọi người bàn tán xôn xao, Bao Bất Đồng giơ
tảng đá lên, hùng dũng bước tới, nhắm ngay lưng Tang Thổ Công, quát lên:
- Ta đập chết con rùa đen đầy gai này.
Khi đó lòng bàn tay y càng lúc càng ngứa, hai tay vừa nâng lên, tảng đá
liền rơi bịch xuống lưng Tang Thổ Công. Chỉ nghe ầm một tiếng lớn, dưới đất
bụi bay mù. Mọi người ai nấy kinh hãi, tảng đá lớn đó giáng xuống lưng Tang
Thổ Công, nêu không máu me chan hòa, thì cũng phải rống lên thảm thiết, lẽnào lại bụi cát bay tung lên. Ai nấy chăm chú nhìn kỹ lại, tảng đá nằm yên
dưới đất, Tang Thổ Công không biết đã đi đâu mất rồi.
Bao Bất Đồng giơ chân trái lên hất tảng đá qua một bên, dưới đất có một
cái lỗ lớn. Thì ra Tang Thổ Công trong tên đã có một chữ "thổ", rất giỏi thuật
địa hành, khi nằm phục dưới đất, liền dùng tay chân cào tung đất lên, chui
xuống rồi. Mới rồi Mộ Dung Phục nhốt Tang Thổ Công trong cái đỉnh, y
không có cách nào đẩy được nắp chui ra nên đã mở bên hông đỉnh thoát thân.
Bao Bất Đồng còn đang sững sờ, quay lại tìm Tang Thổ Công, nghĩ thầm dẫu
ngươi có chui xuống đất, thì người chứ đâu phải con tê tê10, giỏi lắm được vài
thước ẩn dưới đó chứ không lẽ biết phép độn thổ hay sao?
Bỗng nghe Mộ Dung Phục kêu lên:
- Đây rồi!
Cánh tay áo bên trái tung ra, cuộn vào một khối nham thạch, thì ra tảng đó
đá chính là lưng của Tang Thổ Công. Gã đó quái đản thật, giả vờ che dấu
khiến chẳng ai ngờ, nếu như Mộ Dung Phục mắt không tinh thì dễ gì nhìn ra.
Tang Thổ Công bị kình lực hùng mạnh của tụ phong cuốn lấy, thân hình
như trái cầu thịt liền bay tung lên, từ lúc bị trúng một chưởng của Mộ Dung
Phục rồi, thụ thương khá nặng nên không còn hơi sức đâu mà kháng cự, lớn
tiếng kêu lên:
- Chớ có hạ độc thủ, để ta đưa thuốc giải!
Mộ Dung Phục cười ha hả, tay áo bên phải lại phất ra, tiêu giải kình lực
của tay áo bên trái, đồng thời lại sinh ra một luồng lực đạo, đỡ lấy thân thể
Tang Thổ Công nhẹ nhàng để xuống.
Bỗng nghe từ xa có người kêu lên:
- Cô Tô Mộ Dung quả là danh bất hư truyền!
Mộ Dung Phục giơ tay nói:
- Không bõ làm trò cười cho phương gia, thực không dám nhận.
Ngay lúc đó một lằn kim quang, một lằn ngân quang nhanh như điện chớp
từ phía trái bắn qua, tiếng rít nghe thật kinh khiếp. Mộ Dung Phục không dám
chần chờ, hai tay áo căng phồng tung ra đỡ, nghe bùng một tiếng lớn, hai đạo
10 ngân quang kim quang đều dội ngược trở về. Lúc bấy giờ mới nhìn rõ, hóa ra
là hai sợi dây đai dài ngoằng, một sợi màu vàng, một sợi màu bạc.
Ở phía đầu bên kia là hai ông già, người sử dụng đai vàng mặc áo bào màu
bạc, còn người sử dụng đai bạc lại mặc áo bào màu vàng. Hai màu vàng bạc
sáng lấp lánh, cực kỳ hoa lệ, những loại áo vàng áo bạc như thế này người
thường có ai mặc bao giờ, chẳng khác gì những kẻ phường tuồng. Ông già
mặc áo bạc nói:
- Bội phục, bội phục! Tiếp thêm một chiêu nữa của anh em ta.
Ánh sáng vàng lóe lên, chiếc kim đái từ bên trái múa may phóng tới, còn
chiếc ngân đái lại phóng lên trên không rồi từ trên cao bổ xuống, tấn công
vào thượng bàn Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục nói:
- Hai vị tiền bối ...
Chỉ mới tới đó, đột nhiên có tiếng vù vù, ba người sử địa đường đao pháp,
đao cuộn dưới đất, tấn công hạ bàn Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục trên đầu,
trước mặt, bên trái ba nơi cùng bị tấn công, nghĩ thầm: "Đối phương được gọi
là ba mươi sáu động chủ, bảy mươi hai đảo chủ, người nhiều thế đông, bây giờ
hỗn chiến, nếu không cho họ biết thế nào là lợi hại thì làm sao kết thúc
được?".
Y thấy ba lưỡi đao dài phăng phăng chém vào liền đá ra ba ngọn cước, đều
trúng cổ tay đối phương, bạch quang lấp loáng, ba lưỡi đao bắn vọt lên trời.
Mộ Dung Phục hơi nghiêng người, tay phải đẩy ra, sử dụng môn Đẩu Chuyển
Tinh Di, hất đầu hai chiếc đai vàng đai bạc, nghe cạch một tiếng, hai chiếc đai
quấn lại làm một.
Ba người sử dụng địa đường đao bị rơi mất vũ khí rồi nhưng không chịu lùi
bước, miệng rống lên khè khè, giang tay toan ôm lấy chân Mộ Dung Phục.
Đầu mũi chân Mộ Dung Phục liền nhanh như gió thoảng đá ra trúng ngay
huyệt đạo trên ngực ba gã đó. Bỗng nhiên có một người mặc áo đen tay chân
dài ngoẵng vượt đám người tiến ra, giơ bàn tay to như cái quạt, chộp Tang
Thổ Công xách lên. Tay người đó không biết trời sinh da dày như mo nang,
hay có đeo bao tay bằng kim loại dệt thành mà không sợ thân người đầy gai
của Tang Thổ Công, tay vừa chộp tới, liền nhảy ngược về sau, lùi lại hơn một
trượng.Mộ Dung Phục thấy người này thân thủ trầm ổn chắc nịch, võ công so với
những người kia cao cường hơn nhiều, trong lòng ngầm kinh hãi: "Tang Thổ
Công nếu như bị gã này cứu đi, việc lấy thuốc giải thật không phải dễ". Y vừa
nghĩ thế là nhảy tới ngay, qua khỏi ba người nằm lăn dưới đất, chưởng phải
đánh ra tập kích người áo đen. Người kia cười khẩy một tiếng, ánh sáng xanh
lấp lánh, y đã giơ một thanh quỉ đầu đao sống dày lưỡi mỏng sắc bén lạ
thường lên ngang ngực. Chưởng của Mộ Dung Phục nếu tiếp tục đánh ra thì cổ
tay y sẽ bị cắt đứt. Thế nhưng y không thu chiêu, chờ tới khi bàn tay chỉ còn
cách lưỡi đao chừng hai tấc, đột nhiên chuyển thế đánh thành thế bắt, bàn tay
vuốt xuôi luôn xuống lưỡi đao, chém vào mấy ngón tay đang cầm cán.
Cạnh bàn tay Mộ Dung Phục đầy chân khí, sắc bén nào có kém gì quỉ đầu
đao, chém xuống cũng có thể cắt đứt tay dễ dàng. Gã áo đen xuất kỳ bất ý,
chỉ kịp kêu ối lên một tiếng, buông lưỡi dao ra, lật chưởng lại đỡ, nghe bạch
một tiếng, hai người đã trao đổi một chưởng.
Người áo đen hự lên một tiếng, thân hình lảo đảo, nhảy ngược trở về nhưng
tay vẫn nắm chặt Tang Thổ Công. Mộ Dung Phục lại vươn tay ra chộp lấy
thanh quỉ đầu đao, mũi ngửi thấy một mùi tanh tưởi tưởng như muốn mửa, biết
ngay thanh đao này tẩm thuốc cực độc, thật là hiểm ác tà môn.
Tuy chỉ một chiêu đã đoạt được đao của đối phương nhưng đã có bảy tám
người bên địch cầm binh khí chặn trước mặt người áo đen, muốn bắt Tang Thổ
Công lại cũng không phải dễ. Huống chi khi đối chưởng mới rồi, người áo đen
có kém mình một chút nhưng có điểm gì kỳ quái, đoạt được cương đao chẳng
qua vì mình xuất kỳ bất ý, nếu động thủ thực sự chưa chắc đã thắng được
ngay.
Lại vẫn nghe tiếng người lao xao:
- Tang Thổ Công, mau đưa thuốc giải ra nào!
- Cái thứ kim lông bò con mẹ ngươi nếu không chữa ngay thì chỉ nửa giờ
là táng mạng rồi!
- Ô Lão Đại, mau lấy thuốc giải ra, ối chao ôi! Mau lên không thì không
chịu nổi nữa!
Dưới ánh lửa, thấy kẻ nọ người kia chạy qua chạy lại, ai nấy cầu xin người
áo đen mau đưa giải dược ra. Ô Lão Đại nói:
- Được, thằng mập này, mau đưa thuốc đây!Tang Thổ Công đáp:
- Ngươi bỏ ta xuống đã nào!
Ô Lão Đại đáp:
- Ta buông ngươi ra thì kẻ địch bắt ngươi đi mất, đâu có thả được? Mau
đem thuốc giải ra.
Người đứng chung quanh cũng gầm lên:
- Đúng đó, mau lấy thuốc giải ra!
Lại có kẻ ngoạc mồm chửi:
- Tên giặc Miêu kia, còn chùng chình gì nữa, ông cho một mồi lửa đốt
chết sạch bọn rùa đen khốn kiếp trong Bích Lân Động bây giờ.
Tang Thổ Công giọng khào khào nói:
- Thuốc giải ta để dưới đất, ngươi thả ta ra ta mới đi lấy được.
Mọi người sững sờ nghĩ thầm chắc hẳn y nói thực, gã này thích ở trong
hang núi, ẩn mình tại những nơi u ám không có ánh mặt trời, dấu thuốc trong
lòng đất kể cũng hợp lý. Mộ Dung Phục tuy không nghe Công Dã Can và
Phong Ba Ác rên rỉ suýt xoa nhưng thấy những người khác ngứa ngáy khó chịu
như thế, nhị ca và tứ ca chắc cũng không khác gì, đành phải ra hết sức đoạt
Tang Thổ Công lại. Y tính toán rồi đột nhiên quát lên một tiếng, múa thanh
quỉ đầu đao xông vào bọn người kia. Đặng Bách Xuyên và Bao Bất Đồng lập
tức đứng lại bảo vệ Công Dã Can và Phong Ba Ác, không dám rời hai người
ra một bước, sợ địch nhân thừa cơ gia hại, chỉ thấy Mộ Dung Phục hùng dũng
tiến lên chẳng khác gì hổ vào đàn dê, không ai dám kháng cự.
Ô Lão Đại thấy thế công của y cực kỳ hung mãnh, không dám chắn ngay
mũi nhọn, vội nắm Tang Thổ Công lùi ra thật xa. Chỉ thấy mọi người kêu lên:
- Anh em cẩn thận! Gã đó tay cầm Lục Ba Hương Lộ Đao, chớ có để y
chém trúng.
- Ối trời ơi! Lục Ba Hương Lộ Đao của Ô Lão Đại bị tiểu tử đó đoạt mất
rồi, thật khổ!
Mộ Dung Phục múa đao xông lên, dù là hòa thượng đạo sĩ, kẻ xấu người
đẹp, người nào cũng phải dạt ra, ai cũng kinh hoàng khiếp đảm, đủ biết thanh
quỉ đầu đao này thật là nổi tiếng, có điều hôi thối như thế cớ gì lại gọi là
"Hương Lộ Đao", quả thật nực cười, nghĩ thầm: "Ta dùng thanh đao tẩm độcnày giết mươi đứa chúa động, chúa đảo thật chẳng khó khăn, có điều không
thù không oán, việc gì phải hại đến mạng người? Oán thù kết càng sâu, bọn
chúng sẽ liều chết không đưa thuốc giải, nhị ca tứ ca trúng độc ắt sẽ khó mà
tốt lành". Y tuy múa may đâm chém nhưng không giết một ai, gặp thời cơ nên
đã điểm ngã một người, đá ngã hai người.
Bọn người đó lúc đầu sợ hãi lắm, nhưng sau thấy uy lực của thanh đao
không nhiều, trấn tĩnh lại, trường kiếm đoản kích, nhuyễn tiên ngạnh bài bốn
bề xông vào tấn công. Mộ Dung Phục bị đến hơn chục người vây vào giữa,
bên ngoài vòng trong vòng ngoài còn thêm đến mấy trăm người, trong lòng
không khỏi hoảng vía.
Đấu thêm một hồi nữa, Mộ Dung Phục nghĩ thầm: "Đấu mãi như thế này,
kết thúc làm sao đây? Xem ra không hạ sát thủ không xong". Đao pháp của y
tăng thêm, bình bình hai tiếng, dùng cán đao đánh hai người bất tỉnh. Bỗng
nghe Đặng Bách Xuyên kêu lên:
- Bọn hạ lưu kia, không được quấy rầy cô nương!
Mộ Dung Phục liếc mắt nhìn qua, thấy có hai người tung mình nhảy lên tấn
công Vương Ngữ Yên đang ngồi trên cành tùng. Đặng Bách Xuyên vội vàng
chạy đến cứu, xuất chưởng ngăn họ lại. Mộ Dung Phục vừa thấy yên tâm thì
lại có ba người khác nhảy về phía cây tùng, biết ngay chủ ý của bọn này:
"Chúng đánh không được mình nên định bắt giữ biểu muội để uy hiếp ta, quả
thật là bọn vô sỉ".
Thế nhưng chính mình cũng đang bị chúng quấn quít, không cách gì có thể
phân thân, thấy hai mụ đàn bà nắm tay Vương Ngữ Yên, từ trên cây nhảy
xuống. Một đầu đà tóc dài đầu đội kim hoàn liền cầm giới đao, nhứ ngang cổ
Vương Ngữ Yên quát lên:
- Mộ Dung tiểu tử, nếu ngươi không đầu hàng, ta sẽ chém chết người bạn
của ngươi ngay!
Mộ Dung Phục hoang mang, nghĩ thầm: "Bọn khốn kiếp này vô cùng tà ác,
nói sao làm vậy, nếu chúng làm hại biểu muội thì biết tính sao đây? Thế
nhưng họ Mộ Dung Cô Tô ta tung hoành võ lâm, lẽ nào lại đầu hàng bao giờ?
Hôm nay chịu thua thì sau này còn mặt mũi nào nữa?". Y trong bụng phân vân
nhưng tay không chậm lại chút nào, vụt vụt chưởng bên trái đánh văng hai tên
địch ra ngoài. Gã đầu đà lại kêu:- Nếu ngươi không hàng thì ta phải chặt cái đầu như hoa tựa ngọc này.
Y vung giới đao vù vù, thanh quang lấp loáng.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top