[1]

Thượng Hải, đầu tháng 8 năm 1937.

Ngoài cửa sổ, bầu trời u ám mênh mông. Những đám mây đen dày đặc, như miếng bọt biển đã hút đầy nước nhưng lại bị xé rách lỗ chỗ, chẳng rơi nổi một giọt xuống. Vì thế, mây cứ lững lờ trĩu nặng, thấp đến mức như đè lên đỉnh đầu, như ép cả vào lồng ngực, khiến người ta khó thở.

Tôi ghét kiểu thời tiết này. Hoặc là hãy mưa to một trận cho sảng khoái, hoặc là để mây tan, nắng vàng rực rỡ chiếu xuống. Đằng này lại cứ chần chừ, lưng chừng, chẳng tiến chẳng lùi, khiến lòng người bực bội — y hệt như không khí của Thượng Hải lúc này.

Rõ ràng là bọn người Nhật đang ngang nhiên tác oai tác quái ngay trên đất mình, vậy mà chính quyền lại không đủ quyết tâm để sống mái một trận với kẻ thù.

Tiện tay lật tờ báo hôm nay: nào là chuyện một nhân vật quan trọng trong chính phủ bị vướng vào tranh cãi với một minh tinh điện ảnh nổi tiếng, khiến cô ta vì tình mà toan tự sát nhưng bất thành; rồi lại đến mấy vụ bê bối của các vũ nữ ở Tam Nhạc Môn...

Tôi muốn bật cười, nhưng tiếng cười nghẹn lại nơi cổ họng, không sao thoát ra được.

Thượng Hải như một hòn đảo đơn độc chìm giữa sóng to, xa hoa truỵ lạc, sống mơ màng, so với trước đây chỉ có hơn chứ không kém. Ai còn giãy giụa để tỏ ra bình thường cũng chỉ là đang che đậy một toà nhà lớn sắp đổ, giấu đi nỗi hoảng loạn trong lòng bằng một vẻ ngoài giả dối.

Tôi thấy thương hại cho đám đồng nghiệp của mình — suốt ngày chỉ muốn làm mấy tin giật gân tô hoa vẽ lá, vậy thì có ý nghĩa gì?

Ngẩng đầu nhìn chiếc đồng hồ treo tường kiểu Âu trên vách phòng biên tập, tôi thấy thời gian cũng sắp đến. Tôi thu dọn máy ảnh, sổ ghi chép, bút máy, chuẩn bị bắt đầu công việc.

Nghe nói chiếc đồng hồ ấy là do ông chủ Tây đầu tiên của Trình Báo mua từ Thuỵ Sĩ về. Tuổi đời của nó còn đủ để làm ông nội tôi. Đương nhiên, sau bao nhiêu năm, bộ máy bên trong đã sớm được thay mới, giờ chỉ còn giữ lại lớp vỏ bên ngoài. Nếu không thay, giờ nó chắc chỉ còn để làm đồ trưng bày cho mấy lớp hậu sinh trong toà soạn này nhìn mà thôi.

Còn chiếc đồng hồ bỏ túi của tôi thì khác — lần đầu là bị rớt vỏ ngoài trong một tai nạn nhỏ; lần sau mang ra ngoài lại nhét trong túi áo khoác, gặp mưa lớn, bị dính nước rồi hỏng hẳn.

Cho nên, tôi vốn đã ghét cái kiểu trời mưa dầm dề, cho dù tôi sinh ra và lớn lên ở vùng Giang Nam, nơi quanh năm chìm trong mưa bụi mờ mịt.

Sau đó, từ quê nhà Tô Châu lưu lạc đến Bắc Bình để học, sống ở chân Hoàng Thành suốt bốn năm, tôi lại quen với thứ khí hậu khô ráo, nắng gắt, trong không khí lúc nào cũng vương mùi bụi đất. Hầu hết thời gian trong năm, ra ngoài chẳng cần mang ô. Bởi thế, khi trở lại Thượng Hải — nơi mưa gió liên tục quanh năm — tôi vẫn thường quên mang ô mỗi khi ra khỏi cửa.

Tôi đứng ở ngã tư cách toà soạn không xa, chần chừ xem có nên quay về lấy ô hay không. Nhìn trời hôm nay, sớm muộn gì cũng mưa, nhưng tôi lại ghét cái cảm giác khi ra đường phải xách lỉnh kỉnh quá nhiều thứ trên tay.

Đang do dự, bỗng bốn bóng người lao đến vây quanh. Việc đầu tiên tôi nhìn thấy là mấy cây côn gậy trong tay họ; còn sắc mặt của bọn họ thì khỏi cần nhìn cũng biết. Làm phóng viên gần một năm, loại tình huống này gặp hoài cũng chẳng lạ.

Tôi đoán chắc câu đầu tiên họ sẽ nói là: "Tên Cố kia, mau ra đây!" Hoặc có thể là: "Thằng phóng viên thối, dám viết trên bậy bạ trên báo, chán sống rồi hả?"

Quả nhiên, một gã có bộ dạng cực kỳ "làm xấu mặt thành phố" khua cây gậy trong tay run lên hai nhịp, rồi hùng hổ quát:

"Cậu Cố, ông chủ của chúng tôi muốn mời cậu đi một chuyến!

Thái độ tuy có hơi kém, nhưng vẫn còn dùng từ "mời", coi như cũng có tí văn hoá, dù vẫn là hạng ma-cà-bông.

Tôi theo thói quen khẽ nhướng mày phải, không cười cũng chẳng giận:

"Ông chủ của mấy người là ai? Tôi không biết!"

Tôi thề, cái động tác nhướng mày này hoàn toàn là phản xạ tự nhiên khi nói chuyện, không hề có ý khinh thường đám du côn dưới đáy xã hội chỉ vì mình là dân văn phòng. Tôi thật sự không biết ông chủ của bọn họ là ai. Một ngày tôi phỏng vấn nhiều nhất tới năm ông "ông chủ" khác nhau cơ mà... Nhưng hiển nhiên, bọn họ lại nghĩ khác.

"Thằng nhóc thối, đừng có giả vờ! Mày nhận tiền của ông chủ Trịnh chúng tao, rồi lại dám viết trên báo rằng cửa hàng của chúng tao bán hàng giả! Thằng phóng viên thối, chán sống rồi à?"

Lại là mấy câu hăm doạ cũ rích. Làm ơn, nếu đã định doạ người thì cũng đổi mới đôi chút được không? Tôi mỉm cười đầy vẻ "không thèm chấp":

"Hoá ra là ông chủ Trịnh, sao không nói sớm! Đúng là tôi có nhận tiền của ông ta, nhưng đó chẳng phải tiền ông chủ Trịnh nhờ tôi quyên cho hội Chữ thập đỏ sao? Hay là tôi nhớ nhầm? Hay là ông chủ Trịnh nay tuổi đã cao nên hay quên? Còn chuyện bán hàng giả... hình như tôi chưa nói sai câu nào thì phải! Muốn tôi gọi vài viên cảnh sát tới để điều tra thêm không, để biết rốt cuộc là tôi bịa đặt, hay là hôm qua lúc phỏng vấn, ông chủ Trịnh không nói thật với tôi?"

Tôi càng nói càng hăng, khiến bọn chúng cứng họng, chẳng biết đáp lại thế nào.

Thừa thế xông lên, tôi bước lên một bước, khoé môi nhếch thành nụ cười nửa miệng, ánh mắt đảo một vòng quét khắp mặt từng người. Theo lời thiên hạ, nét mặt này của tôi vừa kín đáo, vừa đủ sức doạ người.

Quả nhiên, tôi bắt được tia do dự muốn rút lui trong mắt họ. Trong bụng thì đắc ý, nhưng ngoài mặt vẫn giữ vẻ lạnh lùng:

"Làm phiền các vị tránh đường. Tôi còn có hẹn với đội trưởng Lâm Khiếu Quang, các người e là không muốn đắc tội với ông ấy đâu."

"Lâm Khiếu Quang? Không phải đội trưởng Lực lượng Bảo vệ Hoà bình sao?"

Cuối cùng, tôi cũng thấy rõ ý định rút lui trong mắt bọn họ. Tôi tiếp tục tiến thêm một bước:

"Về nói lại với ông chủ Trịnh các người, làm ăn thì cứ thành thật mà làm. Coi số tiền đó là "tiền công đức" đi, tôi sẽ trước mặt đội trưởng Lâm nói giúp mấy câu, không truy cứu chuyện bán hàng giả hay chuyện mua chuộc, dọa dẫm phóng viên nữa. Hẹn gặp lại!"

Nói xong, tôi sải bước vượt qua mấy gã chắn đường. Họ không đuổi theo. Tôi vòng qua con ngõ, gọi một chiếc xe kéo. Chỉ khi ngồi yên trên xe, tôi mới thở phào nhẹ nhõm.

Không phải tôi đánh không lại bọn chúng, nhưng lỡ xảy ra xô xát, quần áo nhăn nhúm, tóc tai bù xù thì làm sao còn mặt mũi đi gặp người khác? Dù gì, hình tượng của phóng viên cũng quan trọng lắm chứ.

Thực ra, tôi chẳng quen biết gì đội trưởng Lâm cả — hôm nay chỉ tình cờ ông ta là đối tượng phỏng vấn của tôi mà thôi. Trước đó cũng từng gặp vài lần, nhưng đều là vì công việc. Huống chi, Lực lượng Bảo vệ Hoà bình lo chuyện phòng thủ quân sự của Thượng Hải, lấy đâu thời gian rảnh để quản một tay buôn hàng giả. Nhưng dù sao, ông ấy vẫn là nhân vật có quyền thế. Không lấy tên ông ấy ta ra làm bia đỡ thì đúng là phí của trời!

Khi xuống xe ở Tam Nhạc Môn, trời đã sẩm tối. Đèn đường vừa bật sáng, rực rỡ cả một vùng. Ngẩng đầu nhìn toà nhà được mệnh danh là "Quán bar số một Viễn Đông" — phòng khiêu vũ xa hoa với ánh vàng rực rỡ chói mắt — tôi khẽ kéo cái bóp tiền trong áo. May mắn là, hôm nay không phải tự trả tiền.

Gã bảo vệ mắt xanh lia hai vòng trên mặt tôi, tặc lưỡi cười một kiểu quái dị. Rồi hắn đảo ánh mắt từ đầu xuống chân: một bộ sơ-mi rẻ tiền, quần tây cũ, giày da mòn. Cuối cùng, ánh nhìn mới dừng lại ở chiếc máy ảnh tôi đeo trước ngực. Thấy vậy, sắc mặt hắn mới dịu đôi chút, ra hiệu "mời" vào. Tam Nhạc Môn xưa nay không kị phóng viên cho lắm.

Tôi cố nén cơn buồn bực muốn đấm cho hắn một cú, đường hoàng bước vào, qua lớp sảnh ngoài tới phòng chính. Dưới chân là tấm thảm đỏ, trong không khí nồng nặc mùi son phấn. Tiếng ca, tiếng cười ríu rít, vũ đài rực rỡ ngũ sắc chói mắt; dưới vũ đài lại mờ tối, như phủ lên một lớp ánh sáng hồng nhạt, mềm mại và mê hoặc như rượu vang.

Tôi chau mày. Mùi son phấn đậm đặc nơi này khiến bản năng tôi cảm thấy khó chịu. Những gương mặt được tô vẽ kỹ lưỡng chỉ càng làm tôi thêm ghê tởm.

Cảnh ca múa ăn mừng thái bình giả tạo này càng khiến tôi thêm phẫn uất.

Tôi nheo mắt tìm kiếm mục tiêu của mình. Thời thế thay đổi — cái chốn từng là nơi tụ họp của tầng lớp thượng lưu nay đã bị đủ hạng người chiếm lĩnh: kẻ đầu cơ, tên nhà giàu mới nổi, tay ăn chơi, đặc vụ hay Hán gian... đủ mọi thể loại mặt mũi, tôi chẳng buồn nhìn thêm.

Cuối cùng, tôi thấy con cáo già mặc bộ đồ thường ngày, ôm trong lòng là "ôn hương nhuyễn ngọc", ngồi ở bàn bên trái dưới vũ đài.

Lách qua mấy vòng eo ong đang cố dính sát vào người mình, tôi bước nhanh tới. Đám thuộc hạ của lão cáo già trừng mắt nhìn tôi với vẻ khó chịu, như thể muốn đục hàng chục lỗ trên người tôi. Một phóng viên quèn mà dám để một chính khách quân đội phải chờ — đúng là "to gan" quá rồi!

Tôi chẳng buồn nhìn hắn, chỉ nói:

"Xin lỗi, tôi đến muộn."

Muộn thì là muộn, tôi lười giải thích.

Đội trưởng Lâm lại cười niềm nở, dáng vẻ cáo già thuần thục. Hắn đẩy nhẹ người đẹp đang nép trong lòng mình ra, đứng lên vỗ vai tôi, nheo mắt:

"Không sao, cậu Cố, mời ngồi!"

Tôi ghét cái ánh mắt đó. Nó khiến tôi nhớ đến hồi mười sáu tuổi, vừa học xong ở Bắc Bình. Lúc ấy, tôi còn chưa cao, so với mấy gã đàn ông phương Bắc cao lớn thô kệch thì trông có phần thư sinh yếu đuối. Thế là tôi thường bị họ mỉa mai, bị chê là giống... "một cô gái mới lớn" — tất nhiên đây là tôi đã dịch lời họ sang kiểu văn nhã. Hoặc bị nhìn chằm chằm bằng ánh mắt khác thường, y hệt như lão cáo già trước mặt lúc này. Nhưng dù thế nào, kết quả đều giống nhau: tôi dùng nắm đấm khiến họ chẳng dám gọi tôi là "con gái" thêm lần nào nữa.

Cho nên, nếu không phải vì hắn đang là đối tượng phỏng vấn, tôi đã chẳng ngại tặng cho hắn một quả.

Tôi ngồi xuống bên cạnh. Tiếng nhạc jazz vang lên bên tai, không khó nghe nhưng chói tai một cách khó chịu. Chọn nơi này để phỏng vấn, hoặc là lão cáo già đang đối phó lấy lệ, hoặc là hắn đang có mưu đồ khác.

Vì thế, tôi ngả người vào lưng ghế, ung dung bắt chéo chân. Dù tôi không quyền, không thế, không tiền, nhưng đối với hạng người như hắn, tôi chẳng việc gì phải cung kính.

Nhân viên phục vụ bê lên trước mặt tôi một ly rượu vang đỏ, lão cáo già mỉm cười tủm tỉm, giơ chén rượu lên như mời tôi cùng uống.

Chất lỏng đỏ thẫm trong chén ánh lên nhẹ nhàng, lấp lánh dịu dàng. Nhưng tôi nghiến răng, biết rõ một ly rượu nhỏ vậy cũng đủ bằng nửa tháng lương của tôi.

Tôi nhìn thấy không xa, mấy tên đồng nghiệp đang ôm vài cô gái nhảy, nâng ly cười nói vui vẻ. Tôi không rõ họ thuộc tòa soạn nào, nhưng chắc chắn họ không phải những kẻ viết báo chân chính giữ lương tâm trong sáng. Họ đã bị phe phái thu mua, trở thành những văn nhân phục vụ cho lợi ích, nếu không sao có thể sống phóng túng nơi Tam Nhạc Môn này? Còn tôi — sự thanh liêm của tôi chỉ đủ để sống qua ngày trong những quán nhỏ ven đường, còn bị người ta khinh thường là "văn nhân già cả kém cỏi".

Thế giới này đã sớm bị lẫn lộn trắng đen, nhưng tôi cũng không có ý định buông tay từ bỏ phẩm giá của mình.

Tôi thẳng thừng nói:

"Xin lỗi, tôi không uống rượu."

Tôi từ chối một cách quyết đoán mà không mất lễ nghĩa, chẳng cần giữ thể diện. Tôi biết rõ tửu lượng của mình, nên khi gặp người không quen, tôi không uống rượu.

Đám tay chân của lão cáo già lập tức trợn trừng mắt, nhìn tôi như muốn nói "Cái thằng này thật không biết điều!", bộ mặt hung dữ như sắp đánh nhau.

Lão cáo già thay đổi sắc mặt, mỉm cười nói:

"Không sao, cậu Cố, vậy uống ly nước chanh có được không?"

Tôi gật đầu, cũng may là có sự lựa chọn khác. Đằng nào cũng phải uống, không ăn không uống cũng phí phạm quá!

"Cậu Cố có biết khiêu vũ không?" — lão hồ ly hỏi.

Tôi nhấp một ngụm nước chanh, mỉm cười đáp:

"Tôi thì không biết khiêu vũ, cũng không quan trọng chuyện đó. Nhưng ngài đây, Nhật Bản đang không ngừng tăng cường hải quân tiến về chúng ta, ngài còn có tâm trạng rảnh rỗi để đi khiêu vũ, xem ra ngài đã dự tính trước cách đối phó người Nhật rồi, hay là, ngài căn bản không xem việc đánh nhau với họ là cần thiết?"

Từ khi học ở Bắc Bình, tôi hay dùng từ "ngài" khi nói chuyện với họ. Ban đầu tôi nghĩ họ lịch sự thật, ai cũng xưng "ngài" nghe rất trang trọng. Sau mới nhận ra, họ thậm chí chửi nhau cũng dùng từ "ngài", nên tôi cũng bắt chước để vừa lịch sự vừa thể hiện sự khinh bỉ.

Lão hồ ly cười khẩy, rồi bị tôi làm lặng đi, hắn không giận mà chỉ ho nhẹ hai tiếng, cố gắng lấy lại vẻ mặt chính khí, hiên ngang:

"Cậu Cố sai rồi, nếu người Nhật dám xâm lược, quân ta chắc chắn sẽ hăng hái mà tiến lên giữ vững biên cương. Nhưng mà—"

Tôi biết hắn sắp nói câu "nhưng mà".

"Nhưng mà không phải là ta không có khả năng giữ lấy uy phong. Hiện tại về binh lực, vũ khí trang bị, họ đều mạnh hơn ta. Đánh bừa với kẻ địch không phải là cách hay nhất."

"Vậy ngài cho là cách hay nhất là gì?"

"Chiến sự xảy ra, đồng bào ta ắt sẽ chịu nhiều đau thương mất mát. Nếu có thể thông qua ngoại giao, đàm phán với bên kia, tranh thủ sự can thiệp của liên minh quốc tế, để quốc tế hòa giải, càng có thể tránh được chiến tranh thì càng tốt. Ta tin rằng mọi người cũng không muốn Thượng Hải trở thành một chiến trường đổ nát..."

Hoá ra là thế, lão hồ ly này rõ ràng muốn mua chuộc tôi, dùng tôi để tuyên truyền cho luận điệu tình nguyện bán nước này! Trung Quốc đúng là phải có rất nhiều kẻ hèn hạ như vậy thì mới dẫn đến cảnh lụn bại như hôm nay!

Tôi căm giận, bất bình, nhưng vẫn cố giữ vẻ bình thản nghe hắn diễn thuyết. Tôi chỉ là một phóng viên, không cần phải tranh luận với hắn. Trách nhiệm của tôi chỉ là ghi lại sự thật, chuyện đúng sai để người dân tự phán xét.

Chỗ tôi ngồi, đối diện lão hồ ly, ánh mắt tôi vô tình liếc về phía bên trái, vừa khéo nhìn thấy sau lưng hắn là một bức tường dày phủ nhung đỏ thẫm.

Bất chợt, cả người tôi như đông cứng, tim ngừng đập một nhịp. Một tia ánh sáng đỏ thẫm, lặng lẽ từ phía sau tấm màn, hướng thẳng đến cái ót của lão hồ ly.

Đám thuộc hạ của hắn ngồi bên cạnh tôi, nhưng đều bị tiếng hát của nữ ca sĩ trên sân khấu thu hút hết sự chú ý. Lão hồ ly thì ánh mắt dường như chẳng nhận biết được chuyện gì xung quanh.

Tôi nhanh chóng rời tầm mắt, làm bộ như chẳng có chuyện gì xảy ra, quay lại nhìn lão hồ ly, vẫn nghe hắn miệng lưỡi lưu loát tuyên truyền luận điệu bán nước.

Tôi chắc rằng, cái họng súng kia không phải hướng về phía tôi, tuy rằng tôi cũng đã viết không ít bài khiến cho người khác phật lòng, nhưng tuyệt nhiên không đến mức làm cho bọn họ phải hoảng loạn đến mức thuê sát thủ giết tôi — một phóng viên nghèo khổ, nhỏ bé. Mục tiêu thật sự của sát thủ chắc chắn là lão hồ ly bên cạnh tôi.

Theo như tin tức của tôi và đồng nghiệp trong nhóm gần đây, lão hồ ly đang âm thầm hướng về phía người Nhật Bản, còn Chính phủ Quốc dân thì bất mãn với hắn, đã từ từ có ý định "trừ gian" rồi.

Nếu chuyện này là vậy, xem ra Chính phủ Quốc dân đã có ý muốn loại bỏ kẻ phản bội công khai, mà điều này cũng đồng nghĩa với việc có thể bộ tham mưu đã có sự chuẩn bị.

Tôi thực sự khâm phục chính bản thân mình, giờ này còn có thể động não, suy xét ngàn vạn lần về thái độ của Chính phủ trong chuyện này.

Khoảng cách giữa tôi và lão hồ ly rất gần, tôi không muốn làm người chết thay, càng không muốn trở thành con cá bị hại trong chậu nước. Ngay khi lão hồ ly vừa nói xong, hắn lại dùng ánh mắt dò xét tôi. Tôi trấn tĩnh cười nhẹ, đứng lên tiến về phía chiếc ghế dựa đằng sau, lùi lại hai bước rồi nói: "Đội trưởng Lâm, ông mau sửa lại tư thế đi, tôi chụp ảnh cho ông."

"À, ánh sáng ở đây có phải hơi mờ không?" Lão hồ ly vuốt tóc, chỉnh lại quần áo rồi hỏi.

"Không sao cả." Tôi nhắm máy ảnh thẳng về phía lão hồ ly, hắn tựa lưng vào ghế, hơi ngẩng đầu lên cao hơn một chút. Tôi đang thu hút sự chú ý của hắn, liệu sát thủ có phải để ý đến tôi không? Tôi cũng chẳng thể kiểm soát được nhiều như vậy.

Tôi lặng lẽ đưa máy ảnh nghiêng về phía bên trái một chút, nín thở, kỳ thật chỉ là vài giây ngắn ngủi — tôi lại cảm thấy như thời gian trôi qua thật lâu. Đột nhiên, những viên đạn gào thét xé rách màn ảnh. Tôi dùng hết sức ấn nút thật nhanh, vội vội vàng vàng chụp ảnh.

"Oành! Oành!" Trên ống kính của tôi, đầu lão hồ ly nở hoa, máu tươi bắn tung tóe. Tôi nhìn thấy vài đốm đỏ sẫm trên chiếc áo sơ mi trắng của hắn.

Tôi lập tức buông máy ảnh, nép vào cái bàn phía sau. Nếu hung thủ nghĩ tôi vẫn đang chụp hắn, phát tiếp theo chắc chắn sẽ nhắm thẳng vào đầu tôi.

Phòng khiêu vũ lập tức trở nên hỗn loạn, tiếng súng vang lên, tiếng thét chói tai, tiếng kêu cứu, tiếng khóc và tiếng la hét xen lẫn với tiếng bước chân ồn ào.

Sát thủ lợi dụng lúc hỗn loạn để trốn thoát, ngay lập tức đám đàn em của tên hồ ly đã chết cũng vội vàng rút lui. Tôi cũng nhân lúc loạn chạy nhanh chóng thoát thân.

Tôi đã chứng kiến tất cả. Nếu tôi cảnh báo hắn một câu hay ra tay ngăn chặn, có lẽ hắn đã không chết. Nhưng có những người không đáng cứu, nhất là những kẻ phản quốc bán nước.

Dù vậy, nhìn thấy một người chết ngay trước mắt rõ ràng như vậy, hình ảnh đầu hắn vỡ toang làm lòng tôi thắt lại, cơ thể đầy mùi máu tươi khiến tôi muốn nôn.

Tôi cố gắng chịu đựng, dù cơ thể yếu ớt vẫn ráng chạy ra ngoài cửa. Trời đang mưa, tôi đứng trong phòng khiêu vũ chốc lát, từng vệt máu loang trên người thành từng vệt dài. Tôi gọi xe kéo đưa về khách sạn. Người kéo xe nhìn thấy tôi dính đầy máu, nét mặt đầy lo lắng, xuống xe cũng chưa dám lấy tiền, có lẽ nghĩ rằng tôi là hung thủ giết người.

Ngày hôm sau, tờ Trình báo với bức ảnh hiện trường vụ án độc nhất vô nhị đã gây chấn động khắp cả Thượng Hải. Đó là một bức ảnh, dù ánh sáng mờ ảo có phần hơi mơ hồ, vẫn có thể thấy rõ viên đạn bay xuyên qua đầu nạn nhân, tạo nên cảnh tượng kinh hoàng.

Ngày hôm đó, tờ Trình báo bán rất chạy, lượng phát hành đột phá lên đỉnh điểm. Chủ biên vui mừng ra mặt, nói muốn thưởng thêm tiền cho tôi, nhưng tôi chỉ lạnh lùng cười, không nói lời nào.

Đến ngày thứ ba, đối thủ lớn nhất của tôi — tờ Thời báo — đăng tải một bài bình luận dài trên trang bìa, ý chính là chỉ trích nhóm phóng viên chụp ảnh kia là lãnh đạm, vô tình, thấy người chết mà không cứu, thậm chí còn đứng nhìn người khác nguy hiểm để kiếm tin nóng. Họ nói Lâm Khiếu Quang ngày hôm đó có tận tâm với nhiệm vụ không còn chưa biết, phóng viên rõ ràng đã nhận ra nguy hiểm, nhưng vẫn khoanh tay đứng nhìn để thu được tin chấn động, không tiếc tính mạng đồng bào vì danh lợi, thực sự là lương tri đã đánh mất. Họ còn nhấn mạnh rằng Lâm Khiếu Quang là đội trưởng lực lượng bảo vệ hòa bình của Chính phủ quốc dân đóng quân tại Thượng Hải — người duy nhất có quân đội tại đây. Hắn chết khiến lòng người hoảng loạn, trong khi tờ Trình báo còn đăng tải liên tục những bức ảnh đẫm máu, làm nhiễu loạn tâm lý người dân, khiến kẻ địch có cơ hội tận dụng...

Tôi vốn định cười trừ, nghĩ rằng đây chỉ là chiêu trò trên báo của đối thủ cạnh tranh, không cần để ý. Nhưng khi tôi nhìn thấy tác giả bài viết, tôi liền bùng nổ.

"Thích Thiếu Thương! Lại là hắn!!"

Tôi tới Thượng Hải, đã nghe đến cái tên Thích Thiếu Thương, là một phóng viên nổi danh trong giới báo chí. Nhưng trước khi tôi có cơ hội gặp hắn, tôi nghe nói hắn là phóng viên chiến tranh của Thời báo, đồng thời cũng là đặc phái viên chiến trường của Trung ương Thông tấn xã, dù ở tiền tuyến xa xôi.

Những bản tin và ảnh chụp mà hắn gửi về tôi đều xem qua, tôi cũng rất phục hắn có thể tay không tấc sắt xuyên qua mưa bom bão đạn ở tiền tuyến, loại sức chịu đựng như vậy, không phải đồng nghiệp nào cũng có được.

Khoảng hai tháng trước, nghe nói hắn bị thương, bị triệu hồi về Thượng Hải dưỡng bệnh, vì vết thương không thể ra tiền tuyến chạy tin tức, nên hắn đành ở nhà viết bình luận báo chí. Từ đó về sau, tôi và hắn xem như có mối thù địch ngầm.

Bây giờ hắn nói tôi lãnh đạm vô tình, thấy chết không cứu hay lắm! Tôi thực sự muốn nghe hắn nói tôi phải làm thế nào mới cứu được người ta, tay không liệu có thể cứu được người bị bắn sao? Cho dù có nói gì đi nữa, nếu sát thủ liều mạng xuất hiện, ngay cả tôi cũng có thể cùng tên kia chết chung, vậy tôi có nên đem mạng mình đáp lại quân bán nước không?

Có một lần, tôi đăng tải bài viết về lực lượng bảo vệ hòa bình, mục đích đơn giản là nói với độc giả rằng chính phủ đang tích cực chuẩn bị chống Nhật, trấn an tâm lý dân chúng thôi. Thế mà hắn lại nói tôi tiết lộ bí mật quân sự, là tặng quà miễn phí cho quân Nhật Bản! Xin thưa, tôi là phóng viên chứ không phải gián điệp. Nhật Bản ở Thượng Hải có bao nhiêu đặc công, họ thu thập tình báo không thể so được với tôi — một phóng viên nhỏ bé! Dù tôi không nói, chẳng lẽ Nhật Bản không biết sao?

Có lần, khi mấy ông quan chức chính phủ làm màu, tranh cãi rồi từ chối phỏng vấn, tôi đành phải thông qua vợ con của mấy ổng để tìm hiểu tin tức. Hắn lại nói gì đó rằng phóng viên phải chú ý đại sự quốc gia, không nên nhắm vào đời tư của người khác, càng không nên mua chuộc người thân của đương sự... Có lầm không! Tôi có mua chuộc ai đâu, là người ta tự nguyện đem mọi chuyện nói cho tôi nghe, tốt hay không tốt cũng đều kể! Nói thật, nếu không phải mấy ông quan chức kia lỡ đâu gặp phải mấy cô gái có thể là gián điệp Nhật Bản, tôi cũng không thèm tóc mạch mấy chuyện riêng tư của bọn họ!

Lại có lần, tôi đưa tin một tên Nhật Bản bị người Trung Quốc ở Hồng Khẩu đánh chết, hắn còn nói chuyện này không nên để lọt ra ngoài, không thì Nhật Bản sẽ lấy cớ để khai chiến. Thật buồn cười, nếu Nhật Bản khai chiến, bọn họ sẽ lấy cớ, không có cớ thì cũng sẽ tạo ra cớ. Tôi cho dù có không đưa tin này, thì Nhật Bản liệu có không đánh không?

Lần nữa, lại thêm mấy lần nữa...

Liệu có phải là do tôi kiếp trước lỡ giết cả nhà hắn, cho nên kiếp này đi đâu hắn cũng kiếm chuyện với tôi phải không?

Hay là, hắn là một lão già phóng viên kỳ cựu, không quen nhìn thấy kiểu làm việc mới của người trẻ bọn tôi?

Tóm lại, bọn tôi chính là oan gia!

Tôi kết luận, cái danh phóng viên chiến trường "Cửu Hiện Thần Long" được truyền đi khắp nơi thực ra là cái tên mồm mép đạo đức giả, ra vẻ nghiêm chỉnh, nhưng thật ra rất cổ hủ, giả vờ tốt đẹp nhưng thật ra là không thể chịu nổi khi thấy người khác thông minh hơn mình!

Bực không chịu được!

Thích Thiếu Thương, dù cho ông có là thần long hay quái vật gì đi chăng nữa, tôi – Cố Tích Triều – cũng tuyệt đối không đội trời chung với ông!

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #dammei