Tràng Giang 2 khổ đầu

 A.Mở bài
    Không thắm thiết, nồng nàn như Xuân Diệu, cũng chẳng quắt quay đến điên cuồng như Hàn Mặc Tử, nỗi buồn của Huy Cận tựa hồ như nỗi buồn u hòa của một bậc hiền sĩ mà vẫn không thiếu chất phong tình của một lãng tử. Nỗi buồn của Huy Cận, trái tim u sầu của nhà thơ tuy cùng chung những nhịp đập u uất, bế tắc của các thi sĩ đương thời mà vẫn có những họa tiết riêng, những hơi thở riêng không lẫn vào đâu được. Hai khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang trình bày dòng tôi trữ tình liên miên của thi sĩ trước cảnh trời rộng sông dài. Qua đó, ta cảm nhận được tình yêu quê hương thầm kín, nỗi bơ vơ của tác giả ngay tại quê hương mình: (trích)
B.Thân bài
1. Khái quát chung
oVới nhan đề, nhà thơ đã khéo gợi lên một vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại:"Tràng giang" gợi hình ảnh một con sông dài, rộng lớn.
 oTác giả đã sử dụng từ Hán Việt để gợi không khí cổ kính trang nghiêm.
oTác giả còn sử dụng từ biến âm "tràng giang" thay cho "trường giang", hai âm "ang" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát.
oCâu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" gợi nỗi buồn sâu lắng trong lòng người đọc. Đồng thời cho người đọc thấy rõ hơn cảm xúc chủ đạo của tác giả xuyên suốt tác phẩm. Đó là tâm trạng “bâng khuâng"; nỗi buồn mênh mang, không rõ nguyên có nhưng da diết, khôn nguôi. Đó còn là không gian rộng lớn “trời rộng sông dài khiến hình ảnh con người càng trở nên nhỏ bé, lẻ loi, tội nghiệp.
 --> Bài thơ diễn tả tâm trạng, cảm xúc của thi nhân khi đứng trước cảnh sông nước bao la trong một buổi chiều đầy tâm sự.
 2.Phân tích
  o Khổ 1: Bài thơ mở đầu bằng một khổ thơ mang vẻ đẹp thiên nhiên, đậm chất cổ thi. Cảnh vật thiên nhiên ấy lại đưỢC cảm nhận qua tâm hồn “sầu vạn kỉ" của nhà thơ:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
 Con thuyền xuôi mái nước song song Thuyền về nước lại sầu trăm ngà
Củi một cành khô lạc mấy dòng."
• Nhà thơ sử dụng một loạt các thi liệu trong thơ Đường như “thuyền, nước, sóng, ..". Đó là một bức tranh đẹp như bức tranh thủy mặc nhưng bUồn đến tê tái.
• "Sóng gợn" chỉ nhẹ thôi nhưng cứ “điệp điệp" kéo dài không dứt, đó chính là những cơn sóng lòng cứ dâng lên khiến cho tác giả buồn bã không nguôi. Huy Cận đã sử dụng 2 từ láy liên tiếp nhau trong một câu thơ “tràng giang", "điệp điệp". Cách dùng từ thật mới lạ, độc đáo, không phải là buồn bã, da diết mà là buồn “điệp điệp", nghĩa là một nỗi buồn tuy không mãnh liệt nhưng nó cứ liên tục, không ngừng.
• Ở câu thơ thứ 2, hình ảnh “thuyền", “nước" còn sóng đôi, “song song" nhưng đến câu 3 thì ta thấy hai sự vật này đã chia lỵ tan tác “thuyền về nước lại sầu trăm ngả". Nghệ thuật đổi giữa "Thuyền về" và “nước lại" nhằm nhấn mạnh sự chia ly, xa cách, thể hiện sự nuối tiếc trong lòng tác giả.
 • Nếu nỗi buồn ở câu 1 còn mơ hồ chưa định hình rõ ràng thì đến đây nó đã trở thành nỗi sầu lan tỏa khắp không gian. Từ trước đến giờ ta thấy, “thuyền" và "nước" là hai hình ảnh không thể tách rời nhau vậy mà Huy Cận lại chia rẽ chúng ra. Điều này chứng tỏ ông đã quá đau buồn, ông lúc nào cũng mang trong mình một nỗi u hoài, một nỗi chia ly, chia xa.
• Gây ấn tượng nhất trong khổ thơ là hình ảnh ẩn dụ “củi một cành khô" từ thượng nguồn trôi dạt trên dòng sông, đang phải chọn lựa sẽ xuôi theo nước nào khiến tác giả liên tưởng đến cuộc đời mình. Ông cũng như bao người dân mất nước mang thân phận bọt bèo giữa cuộc đời rộng lớn. Hình ảnh cành củi kia còn tượng trưng cho kiếp người nhỏ bé, những văn nghệ sĩ đang bắn khoăn, ngơ ngác, lạc lõng trước nhiều trường phái văn học, ngã rẽ của cuộc đời. Câu thơ nhiều tầng ý nghĩa, khiến cho ý thơ sâu sắc. Bằng bút pháp nghệ thuật đảo ngữ: đẩy từ "củi" lên đầu câu, tác giả nhấn mạnh thân phận nhỏ bé, bọt bèo của kiếp người trong cuộc sống.
 • Đến đây, ta nhận ra nôi buồn của Huy Cận là nỗi buồn của một kiếp người bởi cuộc đời vốn có nhiều thay đổi, bất ngờ, không báo trước mà con người thì rất nhỏ nhoi và cô độc, lẻ loi. Khổ thơ đầu gợi một cảm giác bâng khuâng, lo lắng , lạc lõng, chơi với của tác giả giữa dòng đời vô định, không biết sẽ đi đâu về đâu.
o Khổ 2: Nỗi lòng nhà thơ được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:
 “Lơ thơ cồn nhỏ gió điu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."
 • Lúc này, góc nhìn của nhân vật trữ tình đã thay đổi, bao quát hơn, rộng hơn khi từ cảnh sông Hồng chuyển sang không gian bao la của trời đất, bến bờ. Đó là một không gian vắng lặng, yên tĩnh: Có cảnh vật (cồn, gió, làng, chợ...) nhưng cảnh vật lại quá ít ỏi, nhỏ nhoi (cồn nhỏ làng va chợ vãn..)
 • Từ láy “lơ thơ" diễn tả sự thưa thớt, rời rạc của những cồn đất nhỏ nhoi mọc lên giữa dòng tràng giang. Trên những cổn đất nhỏ đó, mọc lên những cây lau, sậy, khi gió thổi qua thì âm thanh phát ra nghe man mác, nghe “điu hiu" não ruột.
 • Có âm thanh nhưng âm thanh ấy lại phát ra từ ngôi “chợ chiều đã “vãn" mà làng lại xa nên không đủ sức làm cho cảnh vật sinh động, có hồn.
• Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái gợi lên âm thanh xa xôi, không rõ rệt. “Đâu tiếng làng xa" có thể là câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là "đâu có", một sự phủ định hoàn toàn,vì chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên. Tất cả vẫn chỉ là sự im lặng bao trùm lên dòng chảy tràng giang.
• Đến hai câu thơ tiếp theo thì không gian được mở ra bát ngát:
“Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót.
 Sông dài trời rộng bến cô liêu"
Huy Cận đã vẽ nên một khung cảnh không gian ba chiều rộng lớn: có chiều cao (nắng xuống, trời lên), có chiều rộng (trời rộng) và chiều dài (sông dài), thậm chí là có cả độ “sâu". Vũ trụ thì bao la, vô tận, còn con người thì quá nhỏ bé, cô độc lẻ loi.
• Nhà thơ nhìn lên bầu trời và thấy bầu trời “sâu chót vót". Cách dùng từ thật độc đáo vì nhà thơ không dùng từ "cao" mà dùng từ "sâu". "Cao" chỉ độ cao vật lý của bầu trời. Còn “sâu không chỉ diễn tả được độ cao vật lý mà còn diễn tả được sự rợn ngợp trước không gian ấy. Đó chính là sự rợn ngợp trong tâm hồn của thi nhân trước cái vô cùng của vũ trụ. Cách sử dụng từ hết sức mới lạ bởi tác giả đã lồng chiều cao vào chiều sâu; ông đang ngắm cảnh bầu trời cao “chót vót" dưới mặt nước “sâu" thăm thẳm. Không gian càng rộng, hình ảnh con người lại càng nhỏ bé, cô độc, lẻ loi đến tội nghiệp. Hình ảnh "bến cô liêu với âm hưởng man mác của hai chữ “cô liêu" ấy, một lần nữa lại gợi ra một nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn về sự sống quá nhỏ nhoi, rất hữu hạn trong thiên nhiên, mà vũ trụ thì cứ mở ra mãi đến vô tận, vô cùng. Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện qua các thi liệu quen thuộc trong thơ Đường như: "sông, trời, nắng..". Cuộc sống con người thì buồn tẻ, chán chường với "vãn chợ chiều", mọi thứ đã tan rã, chia lìa.
• Không gian càng vắng lặng rộng lớn bao la thì hình ảnh con người càng cô đơn đến tột cùng. Nỗi buồn lan tỏa khắp không gian, bao trùm lên cảnh vật.
3.Khái quát cuối
○ Nội dung: Hai khổ thơ cho ta thấy được tâm trạng buồn bã, bắn khoăn, ngơ ngác trưỚc những ngã rẽ của cuộc đời. Thi nhân cảm nhận rõ sự nhỏ bé, lẻ loi, cô độc của một kiếp người giữa dòng đời rộng lớn. Đây không phải là nỗi buồn của cá nhân ông mà là cảm xúc chung của cả một thế hệ, đặc biệt là giới văn nghệ sĩ đầu thế kỉ XX.
 ○ Nghệ thuật: Bài thơ là sự kết hợp nhuồn nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và hiện đại:
 • Cổ điển ở thể thơ, cách đặt nhan đề, bút pháp “tả cảnh ngụ tình".
• Còn hiện đại trong việc xây dựng thi liệu, đặc biệt là hình ảnh “cành củi khổ gây ấn tượng, cách dùng từ mới lạ “sâu chót vót".
C.Kết bài
 Bài thơ "Tràng giang" của Huy Cận với sự kết hợp bút pháp hiện thực và cổ điển đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên u buồn, hiu quạnh.Qua đó khắc họa được tâm trạng cô liêu, đơn độc của con người và một tình yêu quê hương, mong ngóng về quê hương chân thành, sâu sắc của Huy Cận.
#MT

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top