Thep da toi the day I (c1-c5)

CHƯƠNG V

    Quân đỏ mạnh mẽ đánh lui các đơn vị của "đầu lĩnh

trưởng” Pết-lu-ra. Trung đoàn Gô-lúp lại bị gọi ra trận. Ở

thành phố Sê-pê-tốp-ca chỉ còn một số nhỏ quân làm

nhiệm vụ bảo vệ hậu phương và tên giám binh ở lại mà

thôi.

    Dân phố đã bắt đầu cựa quậy, đi lại. Đồng bào Do- thái

lợi dụng lúc tạm yên, chôn cất người nhà bị nạn. Trong

những túp lều tàn của xóm Do-thái, cuộc sống đã trở lại.

    Những buổi tối yên tĩnh, tiếng súng nổ ì ầm thoáng vọng

lại như những dịp sấm. Chắc là đang đánh nhau dữ ở đâu

gần đây.

    Thợ xe lửa bỏ nhà ga bò về thôn quê kiếm việc làm.

    Trường học đóng cửa.

    Trong thành phố, tuyên bố thiết quân luật.

    *

    Đêm tối như mực, ảm đạm, ghê rợn.

    Những đêm như thế này, mắt sáng có mở to cũng

không nhìn thấy gì, đi đâu phải sờ soạng, mò mẫm như

người mù, sẩy chân một tí là rơi tõm xuống hố rãnh.

    Dân phố biết thời buổi này ngồi nhà không thắp đèn là

hơn cả. Có ánh lửa trong nhà có thể làm cho nhiều kẻ mò

đến quấy rầy. Thà chịu tối còn yên thân hơn. Nhưng có

những người ngồi yên không đành, thì họ cứ đi cho thích

cẳng, dân phố chẳng có việc gì dính dáng đến họ. Dân

không đi đâu làm gì. Chắc chắn như vậy, chẳng ai dại gì đi

ra đường lúc này.

    Vậy mà vào một đêm cũng tối như thế này, có người

lần bước đi.

    Đến nhà Ca-rơ-sa-ghin, người ấy thận trọng gõ khẽ vào

khung cửa sổ. Thấy không ai trả lời, người ấy gõ lần nữa,

mạnh hơn và gấp hơn.

    Pa-ven đang nằm mê thấy một con vật lạ lùng, không

giống người, đang chĩa súng máy vào anh; anh định chạy,

nhưng chạy đi đâu được, tiếng súng máy cứ nổ lạch cạch,

lạ lùng, ghê rợn.

    Tiếng gõ lanh canh vào cửa kính đang giục mở cửa

gấp.

    Pa-ven từ trên giường nhảy xuống, men lại gần cửa sổ

nhìn xem ai gõ. Nhưng ngoài bóng đen lờ mờ thấp thoáng

sau cửa kính, cậu không nhìn rõ là ai.

    Pa-ven ở nhà một mình. Mẹ sang chơi bên nhà chị gái

có chồng làm thợ máy ở xưởng làm đường. Còn anh A-rơ-

chom thì đi làm ở lò rèn thị trấn bên, quai búa để kiếm ăn.

    "Chắc là A-rơ-chom gõ cửa chứ không ai nữa". Pa-

ven định mở cửa, cậu nói vọng vào bóng tối: "Ai đấy?"

    Bóng đen cử động sau cửa kính. Tiếng trả lời khàn

khàn khe khẽ:

    - Anh đây mà! Giu-khơ-rai đây.

    Hai bàn tay bám lên thành cửa sổ, Giu-khơ-rai đã nhô

đầu vào ngang mặt Pa-ven. Giu-khơ-rai thì thào:

    - Anh định đến ngủ nhờ nhà em một đêm. Có được

không, em?

    Pa-ven vồn vã đáp lại:

    - Anh hỏi hay thật, nhất định là được chứ, anh trèo qua

cửa sổ mà vào.

    Thân hình lực lưỡng của Giu-khơ-rai luồn qua khung

cửa vào nhà. Anh đóng cửa sổ lại, không đi vào ngay, còn

đứng bên cửa nhìn ta, tai vểnh lên nghe ngóng.

    Mãi khi bóng trăng từ sau đám mây ló ra, soi rõ đường

phố, anh chăm chú nhìn đường phố vắng tanh, không có ai,

mới quay lại nói với Pa-ven:

    - Vào thế này có làm mất giấc của mẹ không, em?

Chắc mẹ đang ngủ?

    Pa-ven nói cho Giu-khơ-rai biết cậu ở nhà một mình.

người lính thủy bấy giờ mới thấy thoải mái và nói to hơn:

    - Em thấy đấy, từ hôm nổ ra bãi công, bọn chó không

rời anh một bước, chúng nó muốn đập chúng ta sau những

việc vừa xảy ra ngoài ga dạo nọ. Nếu anh em công nhân

đoàn kết hơn, thì trong khi chúng nó càn đồng bào Do-thái,

ta có thể sửa cho chúng một mẻ... Nhưng em hiểu không,

bà con mình còn chưa dám nhảy vào lửa, chưa dám vùng

lên. Cho nên thất bại. Bây giờ chúng lùng bắt anh. Hai lần

chúng đã ập đến định chộp anh. Hôm nay tí nữa anh bị

chúng vớ được. Anh đi về nhà, trèo tường sau vào như mọi

lần. Anh còn đang dừng chân một lát ở gần nhà chứa xe thì

thấy ngay một lưỡi lê lù lù: một thằng đứng rình nấp sau

thân cây trong vườn. Thế là anh chuồn thẳng, đến nhà em

đây. Anh tính thả neo ở đây vài ngày. Em thấy không có gì

trở ngại chứ? Không à? Thế thì hay lắm.

    Giu-khơ-rai vừa cởi đôi giày bết bùn vừa thở lấy lại

sức.

    Giu-khơ-rai tới đây, Pa-ven lấy làm mừng lắm. Những

ngày gần đây, sở máy điện nghỉ việc. Ở nhà vắng vẻ một

mình, Pa-ven cũng thấy chán.

   Hai anh em đi ngủ. Pa-ven nằm là ngủ ngáy, còn Giu-

khơ-rai thì hút thuốc lá mãi. Rồi anh đứng dậy, khẽ rón rén

chân không, mò đến gần cửa sổ. Anh nhìn ra đường phố

hồi lâu. Không thấy gì, anh lại trở vào giường và mệt quá

ngủ thiếp đi. Bàn tay anh luồn dưới gối đặt lên một khẩu

súng ngắn nặng. Hơi nóng của bàn tay làm ấm cả khẩu

súng.

   *

   Cái đêm Giu-khơ-rai đến bất ngờ và tám ngày sau

sống chung với anh thật có ảnh hưởng rất lớn đối với Pa-

ven. Lần đầu tiên, Pa-ven được nghe người thuỷ thủ nói

nhiều điều mới lạ, quan trọng vô cùng làm tâm hồn anh hết

sức khích động. Những ngày vừa qua thật là quyết định cho

tương lai cậu công nhân đốt lò trẻ tuổi.

   Người lính thủy ẩn tại đây, bị quân thù giăng bẫy mai

phục ở hai đầu, anh tranh thủ lúc bất đắc dĩ phải nằm im

này, truyền cho chàng thanh niên háo hức lắng nghe anh nói

tất cả ngọn lửa giận dữ và lòng căm thù bốc cháy của mình

đối với bọn phản động mang cờ vàng xanh đang bóp nghẹt

miền này.

   Giu-khơ-rai nói rõ ràng dễ hiểu; lời nói giản dị, đi thẳng

vào lòng. Ở Giu-khơ-rai, không một mảy may hoang mang,

do dự. Anh biết rõ và tin chắc con đường mình theo, và Pa-

ven bây giờ mới hiểu tất cả một mớ đảng phái mang tên

rất kêu ấy, từ "xã hội cách mạng” đến "xã hội dân chủ”, "xã

hội Ba Lan", gồm toàn những kẻ thù hiểm độc của giai cấp

công nhân. Chỉ có một chính đảng cách mạng duy nhất,

kiên quyết chiến đấu chống bọn giàu có áp bức, đấy là

Đảng bôn-sê-vích.

    Trước kia, Pa-ven thấy tất cả những điều ấy rối như

bòng bong.

    Và bây giờ, có người vạch ra cho cậu bé đốt lò trẻ tuổi

thấy rõ sự thật tàn nhẫn của cuộc đời, người đó là một

người cương nghị, một đảng viên bôn-sê-vích trung kiên,

một thủy thủ trên biển Ban-tích, nước da rám màu gió biển,

một người đã vào Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga

(Tiền thân của Đảng Cộng sản Liên Xô) từ năm 1915; Pa-

ven lắng nghe Giu-khơ-rai, nói nhìn anh với cặp mắt thán

phục.

    - Này em ạ ! Khi anh còn bé, anh cũng gần giống như

em. Anh có sức khỏe mà không biết làm gì. Bản chất anh

bướng bỉnh, hung hăng. Gia đình anh nghèo khổ Hễ cứ nhìn

bọn con nhà giàu, ăn no, mặc diện là lòng anh căm ghét sôi

lên. Nhiều khi anh choảng chúng không tiếc tay, song không

đi đến đâu, mà chỉ tổ ăn vọt của ông cụ đẻ ra anh. Em ạ,

một thân một mình chiến đấu chẳng tài nào thay đổi được

cuộc đời. Em Pa-ven, em đủ điều kiện để trở nên một

chiến sĩ trung thành chiến đấu cho sự nghiệp công nhân ta.

Nhưng chỉ hiềm em còn non quá, về ý thức đấu tranh giai

cấp, em rất lờ mờ. Anh sẽ chỉ cho em con đường chân

chính vì anh biết em có thể thành người. Anh không chịu

được những cậu cả ù ì, bụ sữa. Lúc này đây, lửa cách

mạng đã nung nấu thế gian. Những người nô lệ đã vùng

dậy và họ phải đạp phăng cuộc đời cũ Nhưng muốn thế,

phải có một lớp người tương thân, tương ái và dũng cảm,

không phải những đứa con cưng rúc bọc mẹ, mà là những

tay chắc chắn, để đến giờ quật nhau thì không như loài gián

sợ ánh sáng lẩn trốn vào khe vách, mà là biết xông ra đập

không thương tiếc.

    Nói đến đây, Giu-khơ-rai nắm tay đấm xuống bàn.

    Anh đứng dậy đút tay vào túi quần, cau mày, đi đi lại lại

trong phòng.

    Cảnh nằm im không hoạt động đối với Giu-khơ- rai

nặng nề khó chịu. Anh thấy mình ở lại thị trấn này thêm nữa

vô ích, nên đã quyết định vượt qua mặt trận về bắt liên lạc

với các đơn vị đỏ.

    Trong thành phố hiện còn lại một nhóm chín đảng viên

có trách nhiệm tiếp tục gây cơ sở.

    Giu-khơ-rai bực tức nghĩ thầm:

    "Không có ta, các đồng chí cũng sẽ làm được, ta không

thể nào ngồi bó tay như thế này. Ta đã mất ở đây mười

tháng trời, cũng đủ rồi".

    Một hôm Pa-ven hỏi Giu-khơ-rai:

    - Anh Giu-khơ-rai, anh là ai thế hở anh?

    Giu-khơ-rai tay đút túi, đứng dậy. Anh chưa hiểu ngay ý

câu hỏi ra sao:

    - Sao, em không biết anh là ai ư?

    Pa-ven khẽ đáp lại:

    - Em cho anh là một người bôn-sê-vích hay là một

người cộng sản.

    Giu-khơ-rai bật cười, đấm tay vào ngực rộng bị bó chặt

trong chiếc may ô lính thủy kẻ dọc:

    - Đúng thế, em ạ. Đúng, cũng như hai tiếng bôn- sê-vích

và cộng sản nghĩa chỉ là một mà thôi. - Và nghiêm nét mặt,

anh nói tiếp:

    - Nhưng, em đã biết thế thì phải nhớ đừng nói hở điều

đó với ai, nếu em không muốn chúng nó móc ruột anh. Em

hiểu chứ?

     Pa-ven giọng quả quyết, đáp lại:

     - Vâng, em hiểu.

     Ngoài sân có tiếng nói giòn giã; một bọn người không

gõ cửa cứ xồng xộc vào. Giu-khơ-rai sờ tay vào túi định rút

súng ngắn, nhưng lại thôi ngay. Bước vào nhà là Xéc-gây,

xanh và gầy hơn trước, đầu quấn băng, cùng đi với Va-li-a

và Cơ-lim-ca.

     - Chào cậu ạ! - Xéc-gây vừa cười vừa bắt tay Pa- ven.

- Ba chúng mình đến thăm cậu. Va-li-a không dám để tớ đi

đâu một mình, cô ấy sợ. Còn Cơ-lim- ca không dám để Va-

li-a đi đâu một mình, cậu ấy cũng sợ nốt. Cậu ta tuy tóc đỏ

hoe, mà khôn ra phết đấy.

     Va-li-a lấy tay bịt mồm anh, cười nói:

     - Anh đến ba hoa. Từ sáng giờ anh ấy cứ trêu mãi, làm

anh Cơ-lim-ca đến khổ.

     Cơ-lim-ca cười hồn nhiên, để lộ hàm răng trắng nhởn:

     - Em trách làm gì người ốm ! Sọ cậu ấy bị nó nện vỡ

rồi, nên cậu ấy nói lung tung đấy mà.

     Cả bọn cười ầm lên.

     Xéc-gây bị thương vì kiếm phang vào đầu, chưa khỏi

hẳn. Cậu ngồi lên giường Pa-ven. Câu chuyện giữa mấy

người bạn liền nở như ngô rang. Xéc-gây xưa nay vốn tính

vui nhộn, bây giờ trở nên trầm lặng. Anh kể lại cho Giu-khơ-

rai nghe chuyện tên lính ngụy đánh mình.

     Giu-khơ-rai quen biết tất cả bọn trẻ đó. Anh cũng đã

từng nhiều lần đến nhà Bơ-ru-giắc. Anh mến đám thanh

niên công nhân ấy. Họ chưa tìm được đường đi trong cơn

giông tố của đấu tranh, nhưng họ đã tỏ rõ những khát vọng

của giai cấp mình. Và anh chăm chú nghe ba thiếu niên kể

chuyện, mỗi người trong bọn họ đã giấu các gia đình Do-

thái trong nhà mình để cứu giúp đồng bào Do-thái qua khỏi

trận càn. Và đêm ấy, Giu-khơ-rai nói rất nhiều về Lê-nin, về

những người bôn-sê-vích, giúp cho đám thanh niên hiểu rõ

hơn những sự việc đang xảy ra.

    Đến tận khuya, .Pa-ven mới tiễn ba bạn ra về.

    Cứ tối tối Giu-khơ-rai thường đi vắng, tận đêm khuya

mới về. Trước khi rời bỏ nơi này, anh đến gặp các đồng

chí ở lại hoạt động để bàn về công tác phải làm sau khi anh

rút đi nơi khác.

    Đêm ấy, Giu-khơ-rai đi không thấy trở về. Sáng ngủ

dậy, Pa-ven thấy giường Giụ-khơ-rai chăn đệm vẫn nguyên

không có ai nằm.

    Pa-ven linh tính thấy lo lo, sợ xảy ra chuyện không hay,

bèn khoác vội áo đi ra. Pa-ven đóng cửa và giấu chìa khóa

vào một chỗ mà Giu-khơ-rai đã biết, rồi đi thẳng đến nhà

Cơ-lim-ca hỏi thăm xem có biết gì về Giu-khơ-rai không.

Mẹ Cơ-lim-ca, người đẫy đà, khuôn mặt to hơi rỗ, đang

giặt quần áo, nghe Pa-ven hỏi Giu-khơ-rai thì tru tréo lên:

    - Mày tưởng tao không có việc gì làm, suốt ngày chỉ

canh nhà bác Giu-khơ-rai cho mày đấy chắc? Chỉ tại cái

bác khập khiễng ấy mà nhà bà cụ Dô-du-li- kha bị khám xét

tung cả lên. Không hiểu mày cần gì bác ta mà mày cứ quấn

lấy bác ấy? Mày không đánh bạn với người ta được. Rõ

khéo được một lũ Cơ- lim-ca, nhà bác ta với mày... - Vừa

nói, bà vừa vò mạnh thêm đống quần áo đang giặt.

    Bà mẹ Cơ-lim-ca vốn là người đàn bà lắm điều, ăn nói

chua ngoa.

    Từ nhà Cơ-lim-ca, Pa-ven lại tạt sang nhà Xéc- gây nói

cho bạn biết mối lo lắng của mình. Nghe Pa- ven kể, Va-li-a

nói xen vào:

    - Gì mà anh cứ cuống lên thế. Có thể anh ấy nấn ná ở

lại chơi nhà ai quen. - Nhưng giọng Va-li-a tỏ ra cũng

không tin điều mình nói lắm.

    Nhà Xéc-gây cố nài anh ở lại ăn cơm, nhưng Pa- ven

chẳng còn bụng nào ở lại được, anh cảm ơn rồi ra về.

    Về gần đến nhà, Pa-ven ước thầm sẽ thấy Giu-khơ-rai.

    Cửa nhà vẫn khóa như cũ. Pa-ven đứng sững trước

cửa, lòng nặng trình trịch chẳng buồn bước vào căn nhà

vắng.

    Anh đứng ngoài sân suy nghĩ một lúc, rồi không hiểu

nghĩ sao, đi xuống nhà dưới. Anh trèo lên xà nhà, vuốt

mạng nhện dính ở mặt, từ một góc kín, rút ra khẩu súng

ngắn Man-li-khe bọc giẻ nặng trĩu. Khẩu súng lủng lẳng

trong túi, Pa-ven bước ra cửa đi lên nhà ga.

    Chạy khắp mọi nơi, không được tin gì về Giu-khơ- rai

cả.

    Trên đường về, qua biệt thự quen thuộc nhà người

chánh kiểm lâm, Pa-ven chậm bước lại. Một mối hy vọng

mơ hồ làm anh ngước nhìn lên cửa sổ, nhưng vườn và nhà

đều vắng không một bóng người. Khi đi qua rồi, Pa-ven

còn ngoái lại, nhìn một lần nữa các lối đi trong vườn phủ

đầy lá khô màu gỉ sắt. Cảnh vườn thật hoang vắng, hiu

quạnh, chắc cả nhà đi vắng xa, không ai trông coi. Cảnh

tượng im lìm, vắng ngắt của tòa nhà cổ càng gợi mối buồn

của Pa-ven.

    Pa-ven và Tô-nhi-a vừa giận nhau một trận găng nhất từ

trước đến nay. Câu chuyện xảy ra bất ngờ, đã gần tháng

nay rồi.

    Thủng thẳng đi xuống phố, tay đút túi quần, anh vừa đi

vừa nhớ lại chuyện giận nhau với Tô-nhi-a hôm trước.

    Một hôm đang đi ngoài phố tình cờ gặp nhau, Tô- nhi-a

mời Pa-ven đến chơi nhà.

    - Chiều mai cậu mợ em đến nhà bác Bon-san-ski ăn

cỗ. Em ở nhà một mình. Đến chơi với em, anh Pa- vơ-lu sa

nhớ, chúng mình sẽ cùng nhau đọc cuốn truyện hay lắm,

truyện Xa-sơ-ca Gi-gu-lếp của An- đơ rê-ép. Em đã xem

truyện ấy rồi, nhưng em thích đọc lại với anh, anh ở chơi cả

tối thì vui lắm. Anh đến chứ?

    ( Pa- vơ-lu sa cũng là tên Pa-ven, nhưng gọi rất thân

mật)

    Dưới vành mũ nhỏ màu trắng phủ lấy mái tóc nâu dày

màu hạt dẻ, cặp mắt to của Tô-nhi-a nhìn Pa- ven chờ đợi

trả lời.

    - Đồng ý, anh sẽ đến.

    Và họ chia tay nhau.

    Pa-ven rảo bước đến nhà máy. Suốt ngày hôm ấy, anh

cứ nghĩ mãi đến cả một buổi tối sẽ được ở chơi với Tô-

nhi-a, hai người sẽ ở bên nhau. Nghĩ thế, anh cảm thấy hình

như ngọn lửa cháy càng sáng hơn và củi nổ lách tách vui

hơn.

    Tối đến, khi Pạ-ven gõ cửa chính, Tô-nhi-a mở cửa, nói

hợi lúng túng:

    - Em có khách. Họ tự nhiên đến, chứ em không mời.

Nhưng anh cứ vào, anh Pa-vơ-lu-sa ạ.

    Pa-ven quay ra cửa, chực bước đi, Tô-nhi-a nắm lấy

tay áo anh:

    - Anh cứ vào, anh ạ. Họ được quen anh cũng tốt cho họ.

    Rồi Tô-nhi-a khoác tay dẫn Pa-ven qua nhà ăn đến

phòng mình. Vào đến nơi, Tô-nhi-a mỉm cười giới thiệu với

bọn thanh niên nam nữ đang ngồi đó:

    - Chưa quen nhau phải không? Đây là anh Pa- ven Ca-

rơ-sa-ghin, bạn tôi.

    Bọn ấy có ba người, đang ngồi ở quanh chiếc bàn tròn

kê giữa phòng. Li-da, em gái Xu-khác-cô, nữ sinh rất kháu,

da ngăm ngăm, miệng xinh xinh có vẻ hay làm nũng, mái

tóc chải uốn đỏm dáng. Rồi đến một anh chàng mà Pa-ven

không biết là ai, người dong dỏng, mặc áo đen lịch sự, tóc

chải bóng mượt, mắt xám, có cái nhìn đầy vẻ chán chường.

Người ngồi giữa là Vích-to Lê-sinh-ski, diện bộ quần áo

học sinh rất bảnh. Chính hắn là người Pa-ven trông thấy

trước tiên, khi Tô-nhi-a vừa hé cửa.

    Hắn cũng nhận ra Pa-ven ngay. Đôi lông. mày nhỏ, cong

của hắn rướn lên, tỏ vẻ ngạc nhiên.

    Pa-ven lặng lẽ dừng ở cửa một lát, mắt gườm gườm

nhìn thằng Vích-to. Tô-nhi-a muốn phá sự im lặng không

khéo đó của Pa-ven, liền mời anh vào và quay lại giới thiệu

với Li-da:

    - Li-da, làm quen đi.

    Li-da đứng lên tò mò nhìn Pa-ven.

    Pa-ven đột nhiên quay phắt lại và bước nhanh qua căn

phòng ăn nằm trong cảnh tranh tối tranh sáng, anh đi thẳng

ra cửa. Tô-nhi-a đuổi theo đến hiên nắm lấy vai Pa-ven,

giọng xúc động:

    - Sao anh lại bỏ đi? Em chủ ý muốn mời anh vào để

chúng nó được làm quen với anh cơ mà!

    Nhưng Pa-ven gỡ tay Tô-nhi-a ra, trả lời xẵng:

    - Thôi cô không cần đem tôi ra bêu trước mặt những

quân ấy. Tôi không có việc gì phải dây với chúng nó. Có lẽ

cô thích chơi với bọn chúng, côn tôi thì tôi chí ghét. Nếu biết

trước cô thân với lũ ấy, tôi đã chẳng bao giờ đến đây đâu.

    Tô-nhi-a cố nén giận, ngắt lời Pa:ven:

    - Tại sao anh lại ăn nói với em như thế? Em chưa từng

hỏi anh chơi thân với ai, ai hay đến thăm anh.

    Pa-ven vừa bước xuống thềm ra vườn, vừa nói dỗi:

    - Thôi, cô cứ việc giữ lấy bọn bạn ấy của cô. Còn tôi thì

tôi không đến đây nữa đâu.

    Nói rồi, Pa-ven chạy ra hàng rào.

    Từ ngày ấy đến giờ, Pa-ven chẳng có lần nào gặp lại

Tô-nhi-a nữa. Những ngày giặc càn Do-thái, Pa- ven và

người thợ điện cùng làm với anh bận tìm chỗ cho gia đình

đồng bào Do-thái ẩn ở sở điện, vì mải việc nên cũng quên

cả câu chuyện giận nhau với Tô- nhi-a hôm trước. Hôm nay

Pa-ven chừng như muốn gặp lại Tô-nhi-a.

    Giu-khơ-rai thì biến đâu mất, về nhà thì chỉ thấy vắng vẻ,

trơ trọi một mình. Điều đó làm cho Pa-ven rất khổ. Dải

đường màu xám còn ướt bùn lầy của tuyết tan mùa xuân,

lồi lõm ổ gà đầy một thứ nước đục màu nâu, chạy ngoặt

sang bên phải.

    Ở phía sau căn nhà nhô ra đường cái, tường loang lổ

róc hết vữa, hai phố gặp nhau.

    Đến ngã tư, chỗ cái quán đổ nát, cửa đã sập còn mang

tấm biển treo ngược "Đây bán nước suối", Vích- to Lê-

sinh-ski chia tay Li-da.

    Nắm bàn tay Li-da trong tay mình, Vích-to nhìn người

yêu tình tứ

    - Thế nào cũng đến chứ em? Đừng sai hẹn nhớ !

    Li-da giọng lẳng lơ, đáp lại:

    - Em sẽ đến! Em sẽ đến! Anh đợi nhé!

    Cô ta bước đi còn nheo đôi mắt nâu màu hạt dẻ, lẳng

và hứa hẹn, cười tình với Vích-to.

    Li-da đi chưa được mười bước thì thấy hai người đàn

ông từ chỗ ngoặt bước ra phố lớn. Một người ra dáng thợ

đi trước, người đẫy, ngực rộng, áo vét-tông mặc ngoài

phanh ra để lộ chiếc áo may-ô lính thủy kẻ sọc, mũ cát-két

đen đội sụp xuống trán, một bên mắt sưng húp tím bầm.

    Người ấy bước vững chắc, chân xỏ giày da vàng không

cổ, đi hơi khập khiễng.

    Sau người ấy là một tên lính ngụy Pết-lu-ra đi cách ba

bước. Hắn mặc toàn đồ xanh xám, mang hai bao đạn ở

dây lưng, lưỡi lê cắm đầu súng chĩa thẳng vào lưng người

đi trước.

    Hai con mắt ti hí của tên ngụy, từ dưới vành mũ lông,

nhìn chòng chọc vào gáy người bị áp giải. Râu mép hắn

vàng khè thuốc lá, vểnh ra như lông dím.

    Li-da đi chậm lại, tạt sang hè phố bên kia, Pa-ven lúc ấy

đi sau cô ta cũng đang bước ra con đường này.

    Khi quay sang bên phải để về nhà, Pa-ven cũng trông

thấy hai người đàn ông đang đi.

    Pa-ven kinh ngạc, chân anh như đóng đinh xuống đất

không bước được nữa: Pa-ven nhận ngay ra Giu- khơ-rai.

    "Anh ấy không về té ra vì thế !".

    Giu-khơ-rai đi lại gần. Tim Pa-ven đập đổ hồi: ý nghĩ

dồn dập rối lên trong đầu, khó mà trấn tĩnh được khó mà

nhớ được mình nghĩ gì. Thời giờ để suy nghĩ gấp quá. Một

điều rõ ràng là Giu-khơ-rai đã bị bắt.

    Nhìn hai người đi lại gần, mọi thứ tình cảm quay cuồng

như cơn gió lốc làm Pa-ven bối rối.

    "Làm gì bây giờ'?

    Đến phút cuối cùng, Pa-ven chợt nhớ ra trong túi có

khẩu súng ngắn. - "Để cho hai người vừa đi qua mặt mình,

bắn vào lưng thằng nguy thì Giu-khơ-rai sẽ thoát” - Anh

quyết định ngay tức khắc làm cho luồng ý nghĩ không còn

quay cuồng nữa. Hàm răng anh nghiến chặt như cắn vào

nhau. Mới hôm qua chứ nào đã lâu gì, Giu-khơ-rai chẳng

đã nói với mình: " Nhưng muốn thế, phải có một lớp người

tương thân, tương ái và dũng cảm!...".

    Pa-ven ngoái ra đằng sau, liếc mắt nhìn rất nhanh.

Đường vào thành phố vắng vẻ. Không một bóng người.

Trước mặt có bóng dáng thướt tha của một cô con gái

mặc áo bành-tô ngắn mùa xuân đi rảo bước. Thứ người đó

không ngại lắm. Pa-ven đứng lại, không nhìn thấy phố

ngang rẽ ra đường này. Chỉ thấy đằng xa, trên con đường

ra ga, có mấy bóng người thấp thoáng.

    Pa-ven tránh ra tận mép đường. Đến cách nhau vài

bước thì Giu-khơ-rai trông thấy Pa-ven.

    Anh ngước mắt nhìn Pa-ven, đôi lông mày rậm nảy lên.

Giu-khơ-rai nhận ra Pa-ven và sửng sốt nên đi chậm lại.

Lưỡi lê của tên nguy binh thúc vào sau lưng, giọng hắn

quát the thé:

    - Đi mau lên không có ông cho một báng súng bây giờ.

    Giu-khơ-rai bước dài ra. Anh muốn nói gì với Pa- ven,

nhưng lại thôi và vẫy tay một cái như ra hiệu chào biệt.

    Sợ tên lính nguy râu hoe chú ý, Pa-ven để cho Giu- khơ-

rai đi qua, rồi quay lảng sang bên, làm như mình dửng

dưng chẳng để ý gì đến chuyện đang xảy ra trước mắt.

    Một ý nghĩ lo lắng như xoáy vào óc Pa-ven: "Nhỡ ra bắn

trượt, đạn có thể trúng anh Giu-khơ-rai..."

    Song thằng lính nguy đã bước đến kề ngay bên mình rồi

còn suy nghĩ làm sao được nữa?

    Và chuyện đã xảy ra như sau: khi tên nguy đi lên ngang

mặt, Pa-ven xông ngay vào nó, nắm lấy khẩu súng, giúi

mạnh xuống đất.

    Lưỡi lê siết vào lề đường kêu rít lên.

    Tên nguy bị đánh bất ngờ, bàng hoàng mất một lúc

nhưng rồi hồi ngay lại được, hắn lấy hết sức giằng lại khẩu

súng. Pa-ven đè cả người, giữ chịt lấy khẩu súng. Đụng

phải cò, súng nổ, đạn bắn vào lề đường bật lên một tiếng

chối tai và băng sang rãnh bên đường.

    Nghe tiếng súng, Giu-khơ-rai nhảy sang bên và quay lại.

Tên lính ngụy hết sức gỡ khẩu súng ở tay Pa-ven ra. Hắn

xoay xoay khẩu súng, vặn tay Pa- ven. Nhưng Pa-ven vẫn

giữ chặt. Hắn nổi khùng lên tức sùi bọt mép, quật Pa-ven

ngã xuống đất. Nhưng vẫn không ăn thua, không gỡ được

khẩu súng. Pa- ven ngã xuống, kéo thằng ngụy ngã theo.

Trong giờ phút này, không sức gì trên đời có thể khiến Pa-

ven buông khẩu súng ra được.

    Nhảy hai bước, Giu-khơ-rai đã đến kề bên.

    Một quả đấm nặng như chì vung lên hình vòng cung,

giáng xuống đầu tên lính nguy. Một giây sau, nó đã phải

buông Pa-ven ra; bị bồi luôn hai quả trời giáng nữa vào

mặt, thân hình nó, như cái bị nặng, ngã lăn kềnh xuống hố

rãnh bên đường cái.

   Cũng đôi cánh tay rắn chắc của Giu-khơ-rai đã nâng

Pa-ven từ dưới đất đứng dậy.

   Vích-to rời ngã tư một quãng, vừa đi vừa huýt sáo bài

"như lông chim trước gió lòng người đẹp thường dễ đổi

thay". Vích-to hãy còn xúc động vì buổi gặp gỡ Li-da và lời

cô ta hẹn hôm sau sẽ tìm nhau ở gần chỗ nhà máy bỏ

không.

    Trong đám những tay chim gái thành thần ở trường có

nhiều tiếng đồn đại về Li-da. Người ta nói cô ấy về món

yêu đương thì bạo lắm.

    Cái thằng Xôm-ca trơ tráo và tự phụ, cũng đã có hôm

khoe với Vích-to là lơn được con bé rồi. Tuy Vích- to cũng

chẳng tin mồm thằng Xôm-ca lắm, nhưng vẫn định bụng

mai thử xem những điều hắn nói có đúng không, bởi vì dù

sao Li-da cũng là một miếng mồi xinh, đầy sức quyến rũ.

    "Nếu con bé đến thật thì mình phải tỏ ra bạo dạn mới

được. Nghe nói con bé cũng dễ để cho hôn. Và nếu con

nhà Xôm-ca không bịp mình thì..." - Dòng ý nghĩ của Vích-to

bỗng bị đứt quãng: hai tên lính Pết-lu-ra đi qua, Vích-to né

người tránh. Một tên đi con ngựa cụt đuôi, tay lắc lắc cái

thùng múc nước bằng vải bạt, chắc hắn cho ngựa đi uống

nước. Còn thằng kia mặc áo ngắn, quần xanh lụng thụng

tay đặt lên đầu gối thằng đi ngựa, miệng đang kể cho nó

nghe một câu chuyện bông phèng.

    Vích-to sắp bước đi, một tiếng nổ bất thình lình vang lên

ngoài đường làm hắn đứng dừng lại. Ngoảnh lại Vích-to

thấy tên lính thứ nhất quất ngựa lồng lên, phi tới chỗ có

tiếng nổ. Thằng kia thì lấy tay đỡ kiếm chạy theo sau nó.

    Vích-to cũng chạy theo chúng, ra đến gần đầu phố thì lại

nghe thấy một tiếng nổ nữa. Từ chỗ ngoặt, thằng đi ngựa

lúc nãy bất thình lình chạy trở ra phía Vích-to, hắn lấy gót

chân và lấy cả cái thùng thúc vào mình ngựa; đến trại, vừa

nhảy vào khỏi cổng, hắn đã la báo ngay cho bọn lính đang

đứng ở sân:

    - Các cậu ơi! Súng đâu ra ngay, chúng nó thịt một anh

em mình ngoài kia!

    Chốc lát đã có nhiều đứa từ trong sân chạy xổ ra, vừa

chạy vừa lên quy-lát lách cách.

    Chúng tóm lấy Vích-to.

    Trên đường, người đứng xúm đông, trong đó có cả

Vích-to và Li-da. Li-da bị giữ lại để làm chứng.

    Li-da sợ quá đã đứng sững ngay tại chỗ, khi Giu- khơ-

rai và Pa-ven chạy ngang qua mặt cô. Cô ngạc nhiên nhận

ra người đánh tên lính Pết-lu-ra lại chính là thiếu niên mà

hôm nào Tô-nhi-a có ý muốn giới thiệu với mình.

    Người nọ theo sau người kia, nhảy qua hàng rào một

biệt thự, và liền ngay lúc đó, có một tên lính đi ngựa phi ra

đường phố. Thấy Giu-khơ-rai vác súng chạy, còn tên lính đi

áp giải thì đang cố sức bò dậy, tên đi ngựa liền thúc ngựa

về phía hàng rào biệt thự đó.

    Giu-khơ-rai quay lại, kề súng vào vai, bắn tên lính đi

ngựa, làm tên này phải quay ngựa lùi lại.

    Khẽ nhúc nhích cặp môi sưng vều, tên ngụy đi áp giải

kể lại đầu đuôi câu chuyện. Thằng lính đi ngựa nghe xong

mắng:

    - Làm thế nào mà mày để thằng tù nó chuồn ngay dưới

mũi, hở đồ ngu như lợn? Mày sẽ biết tội mày, hai mươi

nhăm roi vào mông đít.

   Bực mình, tên lính áp giải cũng cãi lại:

   - Mày thì ma lanh lắm đấy! Để cho nó chuồn dưới mũi !

Ai mà biết được có quân khốn nạn nó từ đằng sau xông

vào tao như ma hiện, ma vật ấy.

   Li-da cũng bị hỏi cung. Cô khai y như tên lính, song giấu

không nói rằng mình biết người hành hung là ai. Tất cả mọi

người có mặt đều bị dẫn về đồn giám binh và đến tối tên

giám binh ra lệnh thả họ ra.

   Tên giám binh ngỏ ý muốn tự mình đưa Li-da về tận

nhà, nhưng cố ta từ chối. Miệng tên này sặc mùi rượu vốt-

ca và ý của hắn ta chẳng có tử tế gì.

   Vích-to đưa Li-da về.

   Đường về nhà ga còn xa, Vích-to khoác tay Li-da vừa

đi vừa mừng thầm, có chuyện xảy ra mới có dịp may thế

này.

   Khi gần đến nhà, Li-da hỏi:

   - Anh có biết ai cứu người tù không?

   - Li-da bảo tôi làm sao mà biết được.

   - Anh có nhớ tối hôm nào Tô-nhi-a giới thiệu với chúng

mình một thiếu niên?

   Vích-to đứng dừng lại, sửng sốt:

   - Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin chứ gì?

   - Đúng, tôi mang máng nhớ hình như tên anh ta là Ca-

rơ-sa-ghin thì phải. Anh nhớ chứ, hôm ấy anh chàng trông

thấy chúng mình là lỉnh đi ngay, đến lạ. Chính anh ta đấy.

   Vích-to kinh ngạc:

   - Li-da không trông nhầm chứ?

    - Không, Li-da nhớ kỹ nét mặt anh ta lắm.

    - Thế sao Li-da không khai với ông giám binh.

    Li-da nổi giận:

    - Anh cho tôi lại có thể đi làm cái việc khốn nạn ấy ư?

    - Cô cho thế là khốn nạn à? Chỉ tên kẻ hành hung người

lính áp giải theo cô là khốn nạn sao?

    - Thế theo anh là chính trực hay sao? Anh quên mất

những việc chúng làm. Anh không biết ở trường ta có biết

bao bạn học sinh Do-thái vì chúng mà mồ côi cha mẹ. Vậy

mà anh lại còn muốn tôi đi tố cáo Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin

nữa ư? Thôi, cảm ơn anh, không ngờ anh là người như thế

!

    Vích-to có tưởng đâu Li-da trả lời như vậy. Hắn không

muốn gây chuyện với Li-da, nên tìm cách nói lảng sang

chuyện khác:

    - Li-da đừng giận, tôi nói đùa đấy thôi. Tôi không biết

tính Li-da nguyên tắc như thế đấy.

    Li-da đáp gọn lỏn:

    - Lối đùa của anh khó ngửi lắm.

    Đến trước nhà Li-da Xu-khác-cô, khi chia tay bạn, Vích-

to hỏi:

    - Mai Li-da đến chứ?

    Vích-to chỉ nghe thấy câu trả lời lửng lơ:

    - Tôi không biết.

    Trên đường về phố, Vích-to. suy tính: "Ồ! Nếu cô ả cho

là bất chính thì thưa cô tôi lại hoàn toàn nghĩ khác. Tất nhiên

về phần riêng mình, đứa nào bắt đứa nào và đứa nào cứu

đứa nào thoát, mình chẳng cần biết làm quái gì".

    Vích-to Lê-sinh-ski vốn dòng dõi quý tộc Ba Lan, nên

ghét bọn Pết-lu-ra và quân đỏ như nhau cả. Dù thế nào

ngày một, ngày hai đây, quân lê dương Ba Lan cũng kéo

vào và sẽ lập lại chính quyền chân chính, thật sự của quý

tộc Ba Lan. Song cơ hội này dù sao cũng là dịp có thể làm

tiêu đời thằng nhãi Pa-ven. Chúng sẽ vặn cổ nó ngay cho

mà xem.

    Vích-to một mình ở lại Sê-pê-tốp-ca, trọ nhà bà thím là

vợ người phó giám đốc xưởng đường. Còn bố mẹ nó và

em gái nó là con Nen-ly thì đã đến ở Vác- xô-vi từ lâu. Bố

Vích-to hiện đang giữ một chức vụ quan trọng bên ấy.

    Cửa nhà giấy của đồn giám binh vẫn mở.

    Vích-to bước vào, được một lúc rồi đi ra với bốn tên lính

Pết-lu-ra. Bọn lính theo Vích-to đi về phía nhà Pa-ven.

    Vích-to chỉ tay vào cửa sổ có đèn sáng nói khẽ:

    - Nhà nó đây rồi.

    Hắn ngoảnh lại phía tên quan hai đứng cạnh, hỏi:

    - Tôi có thể về được chứ ạ!

    - Vâng cậu về, bọn tôi đủ tóm cổ được nó rồi. Một lần

nữa, xin cảm ơn cậu.

    Vích-to rảo bước chuồn thẳng.

    *

    Chúng đánh vào lưng Pa-ven một roi nữa, rồi ném vào

buồng giam. Hai tay anh giơ lên chạm phải tường của gian

buồng tối om. Anh sờ soạng thấy một chỗ giống như chiếc

bục gỗ, liền ngồi xuống, người kiệt sức đau như dần.

    Pa-ven bị bắt giữa lúc không ngờ nhất. "Sao bọn Pết-

lu-ra lại biết được là anh nhỉ? Không ai trông thấy anh cơ

mà! Chúng sẽ làm gì anh không biết? Không hiểu anh Giu-

khơ-rai đâu”.

    Hai người chia tay nhau ở nhà Cơ-lim-ca, Pa-ven đến

nhà Xéc-gây, còn Giu-khơ-rai thì chờ đến tối là trốn khỏi

thành phố.

    Pa-ven nghĩ thầm: "May mà mình giấu khẩu súng lên tổ

quạ rồi, chứ không chúng khám thấy thì tiêu đời. Nhưng mà

sao chúng lại biết là mình được nhỉ?" Điều không tài nào

đoán ra được ấy cứ giày vò Pa- ven mãi.

    Bọn lính Pết-lu-ra khám xét nhà Pa-ven chẳng kiếm

chác được gì bở cả. Bộ cánh diện và chiếc đàn gió thì anh

A-rơ-chom đã mang xuống làng. Cái rương của mẹ thì mẹ

đã mang đi, thành thử bọn lính lục lọi mãi khắp nơi mà

chẳng vớ được gì nhiều.

    Nhưng Pa-ven không bao giờ quên được đoạn đường

bị đánh từ nhà đến đồn. Đêm tối như bưng lấy mắt. Trời

nặng trĩu mây. Đòn đánh không tiếc tay, bị đá vào sườn, bị

đạp vào lưng túi bụi, mạng sườn bị thụi cái nào ra cái ấy,

Pa-ven tối tăm mặt mũi đi như người mất hồn mất trí.

    Ngoài cửa buồng giam, có tiếng người nói. Buồng bên

cạnh là chỗ lính gác. Dưới gầm cửa có vệt sáng làm Pa-

ven chú ý, Pa-ven đứng dậy lấy tay sờ soạng men theo

tường, lần đi khắp buồng giam. Đối diện với cái bục, Pa-

ven sờ thấy cửa sổ, chấn song có răng cưa chắc chắn. Pa-

ven thử lấy tay lay, nhưng chấn song bằng sắt chắc lắm.

Buồng giam này có vẻ như trước đây là kho chứa hàng.

    Pa-ven mò lại cửa, đứng nghe ngóng động tĩnh một

phút, rồi khẽ ấn quả đấm. Cánh cửa kêu lên ken két đến

ác. Pa-ven phát cáu "Mẹ kiếp ! Chúng chẳng chịu cho dầu”.

    Pa-ven nhìn qua khe cửa hở, thấy trên mép bục có đôi

bàn chân bẩn, ngón chân khoằm khoằm chìa ra. Pa-ven lại

vặn quả đấm, nhưng cửa lại kêu to hơn. Trên bục, có một

bóng người đầu rối bù, mặt ngái ngủ, ngồi nhổm dậy, gãi

đầu rối rít, miệng phun ra một thôi một hồi những lời tục tĩu;

khi đã ề à chửi tục chán rồi, hắn sờ lên khẩu súng dựng

ngay đầu bục, nói lạnh như tiền:

    - Đóng ngay cửa lại! Còn dám nhìn ông lần nữa thì ông

cho ăn luôn phát đạn.

    Pa-ven ấn cửa lại. Phòng bên tiếng cười rộ lên.

    Đêm ấy, Pa-ven nghĩ lung lắm. Lần đầu định góp sức

vào cuộc chiến đấu đã gặp sự không may rồi. Mới bước

đầu đã bị chúng tóm được và nhốt vào đây, như chuột mắc

bẫy.

    Anh vẫn ngồi, thiu thiu một giấc, nửa ngủ nửa mê: hình

ảnh mẹ hiện ra, khuôn mặt gầy gầy, dăn deo, đôi mắt thân

quý yêu dấu. Một ý nghĩ thoáng qua: "May mà mẹ không có

nhà, mẹ có nhà thì thật phiền lòng mẹ".

    Ánh sáng lờ mờ chiếu qua cửa sổ in lên nền nhà một

khung vuông màu xám.

    Bóng tối lùi dần. Sắp sáng rồi.

CHƯƠNG VI

    Ngôi nhà to cổ kính chỉ có một cửa sổ che màn the là

thắp đèn sáng mà thôi. Ngoài sân, con chó Tơ-rê- do bị

xích sủa lên khàn khàn.

    Đang thiu thiu ngủ, Tô-nhi-a nghe mang máng có tiếng

mợ nói nhỏ: "Chưa, em nó chưa ngủ đâu, Li- da cứ vào

đây”.

    Bạn đến, chân bước nhẹ nhàng, trìu mến ôm choàng lấy

Tô-nhi-a, xua tan hết vẻ ngái ngủ ở cô.

    Tô-nhi-a cười mệt mỏi:

    - Li-da đến chơi hay quá, nhà mình hôm nay có vui lớn:

cậu mình bị mệt hôm qua lên cơn sốt nặng, hôm nay đã dứt

cơn, suốt ngày ngủ yên. Còn mình và mợ mình thì cũng nghỉ,

vì suốt mấy đêm nay không chợp mắt. Li-da có tin gì kể đi?

    Tô-nhi-a kéo bạn lại ngồi cạnh trên đi-văng.

    - Ồ, tin thì rất nhiều, nhưng có một tin mà mình chỉ có thể

kể riêng với Tô-nhi-a thôi. - Li-da vừa nói vừa cười, mắt

tinh nghịch liếc nhìn về phía mẹ Tô- nhi-a.

    Mẹ Tô-nhi-a cũng mỉm cười. Bà là một người đàn bà

đoan trang, đi đứng nhanh nhẹn như còn con gái, tuy năm

nay đã ba mươi sáu tuổi; bà có cặp mắt màu tro thông

minh, khuôn mặt đầy nghị lực, không đẹp sắc sảo nhưng

có duyên.

    Nghe Li-da nói, bà kéo ghế lại gần đi-văng, nói đùa:

"Được, bác.bằng lòng để hai cô ngồi nói chuyện. riêng với

nhau. Song trước hết cháu hãy kể cho bác nghe những tin

tức ai cũng nghe được đã nào?"

    - Tin thứ nhất, Tô-nhi-a ạ, là chúng mình sẽ không đi học

nữa. Hội đồng nhà trường đã quyết định cấp bằng tất

nghiệp cho học sinh lớp bảy. - Giọng Li-da kể càng phấn

khởi. - Mình mừng lắm. Mình đã ngấy cái món đại số và

hình học lắm rồi ! Mà học những cái ấy làm gì kia chứ? Bọn

con trai thì đã đành, chúng nó có thể sẽ học lên nữa, tuy

chúng nó cũng chẳng biết sẽ học ở đâu và bao giờ. Chỗ

nào cũng là mặt trận đánh nhau. Sợ thật ! Nhưng còn chúng

mình, chúng mình rồi sẽ đi lấy chồng cả. Mà đời làm vợ thì

có cần gì đến đại số đâu? - Nói đến đây, Li-da cười phá

lên.

    Mẹ Tô-nhi-a ngồi với hai cô một lát, rồi trở về phòng

mình.

    Li-da nhích lại gần Tô-nhi-a, lấy tay quàng cổ bạn, rỉ tai

kể lại cuộc xô xát mà Li-da đã được mục kích ở ngã tư

ngoài phố.

    - Tô-nhi-a thử tưởng tượng mình đã ngạc nhiên chừng

nào khi nhận ra người đánh tháo cho tù là… Tô-nhi-a thử

đoán xem ai?

    Tô-nhi-a nghe chuyện rất ham, thấy hỏi thì nhún vai tỏ vẻ

không biết.

    Li-da buột miệng:

    - Người đó là Ca-rơ-sa-ghin.

    Tô-nhi-a nghe giật nảy mình, cúi xuống, đau đớn, như

hỏi lại chính mình:

    - Ca-rơ-sa-ghin à?

    Li-da, muốn thử xem Tô-nhi-a nghe tin có lao đao

không, bây giờ đã biết rõ kết quả rồi, thích chí liền kể sang

chuyện bất hòa giữa cô và Vích-to.

    Li-da mải kể chẳng để ý gì đến vẻ mặt Tô-nhi-a lúc đó

đã tái đi ngón tay thon thon dứt dứt nếp áo cộc tay màu

xanh. Li-da đâu có biết lúc này trái tim Tô-nhi-a se lại bao

nhiêu lo lắng. Li-da không tài nào hiểu được vì sao hàng

lông mi rất dày trên đôi mắt đẹp kia lại run rầy những lo âu.

    Tô-nhi-a chẳng nghe gì câu chuyện về thằng quan hai

say rượu muốn tiễn Li-da về nhà để giở trò nữa. Một ý nghĩ

duy nhất giày vò Tô-nhi-a: "Vích-to biết tên người đánh tháo

là Pa-ven. Tại sao Li-da lại nói cho hắn biết?" Và bất giác

Tô-nhi-a buột mồm nói to câu đó làm cho Li-da không hiểu

ra sao.

    - Mình nói cái gì?

    - Sao Li-da lại đem nói với Vích-to về chuyện "anh Pa-

vơ-lu-sa", nghĩa là về chuyện anh Pa-ven Ca-rơ- sa-ghin

làm gì? Vích-to có thể sẽ tố cáo...

    - Không đâu! Mình tin là không, vì nghĩ cho cùng thì Vích-

to tố cáo làm gì mới được?

    Tô-nhi-a ngồi phịch xuống, tay ôm riết lấy đầu gối.

    - Li-da ạ, Li-da không hiểu gì cả! Vích-to và Pa- ven thù

ghét nhau. Ngoài ra lại còn chuyện khác nữa… Li-da đã

làm một việc rất sai là đã kể cho Vích-to biết tên người

đánh lính là Pa-vơ-lu-sa.

    Đến bây giờ Li-da mới nhận thấy nỗi hồi hộp lo âu của

Tô-nhi-a, và tiếng gọi "Pa-vơ-lu-sa" âu yếm mà Tô-nhi-a

buột miệng thốt ra khiến Li-da bỗng nhiên hiểu hết tất cả

những chuyện mà lâu nay Li-da còn mang máng ngờ ngợ.

    Li-da cảm thấy mình có lỗi, nên im bặt, thái độ bối rối.

Li-da nghĩ thầm: "Thế là mình nghĩ không sai! Ngộ thật! Hóa

ra Tô-nhi-a đã phải lòng rồi. Phải lòng ai mới được chứ?

Phải lòng một anh thợ tầm thường..."

    Li-da rất muốn hỏi chuyện này, song vì nể bạn lại thôi.

Muốn tìm cách làm nhẹ lỗi mình đối với bạn, cô nắm lấy tay

Tô-nhi-a.

    - Tô-nhi-a ơi, Tô-nhi-a lo lắm phải không?

    Tô-nhi-a đang mải nghĩ đi đâu, đáp lại:

    - Không, có thể Vích-to tử tế hơn mình tưởng.

    Mỗi bên theo đuổi một ý nghĩ riêng, câu chuyện không

ăn khớp với nhau. Giữa lúc đó thì Đê-mi-a- nốp đến. Cậu ta

là một thiếu niên nhút nhát, vụng về cùng học một lớp với

Tô-nhi-a và Li-da.

    Tiễn các bạn về rồi, Tô-nhi-a còn đứng một mình hồi lâu

ngoài cổng. Dựa lưng vào hàng rào, cô thừ người nhìn

đường cái chạy thẳng vào phố như một dải lụa màu sẫm.

Gió là giống lang thang chơi vơi vô tận, gió nhẹ vật vờ, đến

vờn trên má Tô-nhi-a, gió mang hơi ướt mát lạnh và hương

vị hoa cỏ mùa xuân. Xa xa, những cửa sổ ở các căn nhà

trong phố nhấp nháy như những con mắt đỏ đục ngầu

giương lên nhìn, báo hiệu điều gì chẳng lành. Dưới kia là

phố xá đối với cô xa lạ. Dưới phố ấy, dưới một mái nhà ở

phố ấy, người bạn cứng đầu cứng cổ của cô vẫn còn chưa

hay tai nạn sắp giáng xuống đời anh. Và có thể, anh cũng

đã quên cả Tô-nhi-a rồi. Bao nhiêu ngày đã trôi qua từ lần

gặp cuối cùng. Lần ấy, Pa-ven xử sự không đúng, nhưng

dù sao cũng là chuyện đã qua, Tô-nhi-a đã quên bẵng đi

rồi. Ngày mai, Tô-nhi-a sẽ gặp Pa-ven và tình bạn sẽ nối

lại, tình bạn ấy thật dạt dào êm ái. Tô-nhi-a tin lắm, tình bạn

sẽ nối lại. Chỉ cầu cho đêm nay đừng xảy ra chuyện gì tai

hại. Nhưng sao đêm nay rờn rợn nơm nớp dường như

bóng đêm ẩn nấp, bóng đêm đang đứng rình... Trời lạnh.

    Tô-nhi-a nhìn lại con đường lần nữa, rồi bước vào nhà.

Nằm cuộn trong chăn, cô ngủ thiếp đi với ý nghĩ: chỉ cầu

cho đêm nay đừng xảy ra chuyện gì tai hại!...

    Sáng tinh sương, cả nhà còn ngủ, Tô-nhi-a đã bừng tỉnh

dậy. Cô mặc vội quần áo, rón rén nhè nhẹ đi ra sân để khỏi

làm thức giấc người nhà, rồi mở xích con chó lông xù Tơ-

rê-do dắt đi ra phố. Đến trước nhà Pa-ven, Tô-nhi-a dừng

chân lại, do dự, nhưng rồi đẩy cửa bước vào. Con chó

chạy trước ngoe nguẩy đuôi...

    Cũng vào sáng nay, từ sớm A-rơ-chom ở dưới làng về

đi xe ngựa cùng với bác chủ lò rèn của anh. Tới cửa, anh

xốc bao bột mì người ta trả công cho anh lên vai, rồi bước

vào sân. Bác chủ lò rèn mang những thứ còn lại trên xe,

bước theo sau. A-rơ-chom ném bao bột mì xuống bên cửa

để ngỏ, cất tiếng gọi:

    - Páp-ca ơi!

    Song, không có tiếng đáp lại.

    Người thợ rèn thấy thế nói:

    - Thì ta cứ đem vào nhà, còn đứng đây chờ gì nữa!

    Xếp mọi thứ vào bếp đâu đấy, A-rơ-chom bước vào

phòng và kinh ngạc đứng đờ người ra: nhà cửa bị lục lọi

đảo lộn lung tung, quần áo cũ vứt bừa ra sàn nhà.

    A-rơ-chom ngơ ngác không hiểu sự thể ra sao, càu

nhàu quay lại nói với người thợ rèn:

    - Trời đất!. Thế này nghĩa là thế nào?

    Bác chủ lò rèn cũng thêm vào:

    - Thật là loạn.

    - Không hiểu thằng bé rúc vào đâu? - A-rơ-chom bắt

đầu phát cáu.

    Nhưng nhà cửa vắng tanh, chẳng có ai mà hỏi.

    Bác chủ lò rèn từ giã ra về.

    A-rơ-chom đi ra sân, tìm kiếm chung quanh.

    "Thật chẳng hiểu câu chuyện ra sao nữa! Cửa thì bỏ

ngỏ, mà Páp-ca thì mất hút".

    Có tiếng chân đi đằng sau, A-rơ-chom quay lại.

    Con chó to, tai vểnh, đứng ngay trước mặt. Một cô con

gái mà anh không quen từ hàng rào đi vào nhà.

    Cô ta nhìn A-rơ-chom, giọng hỏi khẽ:

    - Em cần gặp anh Pa-ven.

    - Tôi cũng đang cần gặp nó đây. Trời biết được nó rúc

vào đâu! Tôi vừa về, cửa bỏ ngỏ mà chẳng thấy nó đâu. -

Rồi A-rơ-chom hỏi cô ta:

    - Còn cô đến tìm Pa-ven phải không?

    Câu trả lời lại là một câu hỏi:

    - Anh có phải là A-rơ-chom, anh ruột Pa-ven không ạ?

    - Phải, cô hỏi làm gì vậy?

    Nhưng cô gái không đáp lại, vẻ mặt lo âu ngước nhìn

cánh cửa mở. "Sao mình không đến từ tối hôm qua? Có lẽ

thế rồi ư, có lẽ thế rồi ư?..." - Nghĩ thế, nỗi lo nặng nề càng

đè trĩu cõi lòng Tô-nhi-a hơn nữa.

    A-rơ-chom còn đang ngạc nhiên nhìn cô gái, thì cô ta lại

hỏi:

    - Anh về đã thấy cửa để ngỏ, và Pa-ven không có nhà,

phải không anh?

    - Phải ! Nhưng tôi muốn biết cô đến tìm Pa-ven có việc

gì?

    Tô-nhi-a bước lại gần, đưa mắt nhìn chung quanh, rồi

nói với A-rơ-chom, giọng bồi hồi:

    - Em không biết chắc lắm. Song nếu Pa-ven không có

nhà tức là đã bị bắt rồi.

    A-rơ-chom giật bắn mình, hốt hoảng:

    - Bị bắt vì sao cơ?

    Tô-nhi-a nói:

    - Ta đi vào trong nhà nói chuyện.

    A-rơ-chom im lặng, nghe Tô-nhi-a kể. Khi Tô-nhi- a đã

kể tất cả những điều cô biết, A-rơ-chom thất vọng. A-rơ-

chom tức bực chửi đổng lên:

    - À thật là lũ khốn nạn ! Bọn chó chỉ chực có thế !. .. Bây

giờ tôi mới hiểu tại sao trong nhà bị lục tung lên như thế.

Ma quỷ đâu đã dẫn thằng bé vào câu chuyện này... Bây giờ

không biết tìm nó ở đâu cho thấy? Còn cô, cô là ai nhỉ?

    - Em là con gái ông kiểm lâm Tu-ma-nốp. Em có quen

Pa-ven.

    - À à - A-rơ-chom kéo dài mãi tiếng "à". - Đây, tôi mang

bột mì về cho nó ăn thêm một chút, thế mà bây giờ thì như

vậy đấy...

    Hai người lặng lẽ nhìn nhau.

    Lúc chào A-rơ-chom ra về, Tô-nhi-a dặn khẽ:

    - Em về đây. Có lẽ anh sẽ tìm thấy Pa-ven. Chiều nay

em sẽ đến, anh cho em biết tin về anh ấy.

    A-rơ-chom im lặng gật đầu.

    *

    Con nhặng gầy còm thức giấc ngủ mùa đông bay vo ve

ở góc cửa sổ. Một cô gái nông dân chống tay vào đầu gối,

ngồi ở mép chiếc ghế dài đệm đã mòn trơ, mắt cô thờ thẫn

nhìn xuống sàn nhà nhớp nháp.

    Lão giám binh ngậm bên mép một điếu thuốc lá đang

nguệch ngoạc viết kín tờ giấy; dưới hàng chữ "trung úy

giám binh thành Sê-pê-tốp-ca” hắn hí hửng ký ngoằn

ngoèo, rồi đóng con dấu tên mình. Có tiếng lộp cộp ngoài

cửa, hắn ngửng đầu lên.

    Xa-lô-mư-ga, tay quấn băng, đứng trước mặt hắn.

    Lão giám binh cất tiếng chào:

    - Cơn gió lành nào đưa cậu đến đây thế?

    - Cậu bảo gió lành à? Một tên ở trung đoàn Bô- gun làm

tay tớ gẫy lòi xương ra đây.

    Có một người đàn bà ngồi đấy, song Xa-lô-mư-ga

chẳng giữ ý gì, văng tục ngay.

    - Thế cậu về đây chữa hay sao?

    - Có chữa ở bên kia thế giới. Khắp các mặt trận chúng

nó uy hiếp quân mình, ngấy đánh nhau quá rồi.

    Lão giám binh ngắt lời hắn, hất đầu ra hiệu chỉ người

con gái.

    - Thôi, chốc nữa ta sẽ nói chuyện.

    Xa-lô-mư-ga ngồi phịch xuống ghế đầu và trật mũ ra,

đính huy hiệu đinh ba sơn men: quốc trưng của "U-cơ-ren

dân quốc".

    Hắn bắt đầu nồi nhỏ:

    - Gô-lúp phái mình về đây. Sắp có một sư đoàn bộ binh

về đây trú quân. Có thể sinh ra lắm chuyện, mình phải về

trước thu xếp. Có thể là "đầu lĩnh trưởng" sẽ thân hành đến

đây, và cùng đi với "đầu lĩnh trưởng” còn có một tay tai to

mặt lớn nước ngoài nữa. Vì thế đừng có ai hở mồm gì về

vụ "chất tươi" hôm trước mà vạ đấy nhé! Còn cậu thì đang

viết gì đấy?

    Tên giám binh nhếch miệng chuyển mẩu thuốc lá sang

mép kia, đáp lại:

    - Tớ vớ được một thằng nhãi con chết rấp. Cậu nhớ

thằng cha Giu-khơ-rai chứ, gã lính thủy xúi thợ xe lửa chồm

lên với chúng mình ấy mà? Cậu biết không, chúng mình tóm

được nó ở ngoài ga đấy.

    - Thế rồi thế nào? - Xa-lô-mư-ga nhích lại gần, chăm

chú nghe.

    - Thế rồi thằng Ô-men-sên-cơ, trưởng đồn nhà ga, là

một thằng ngu như bò, đưa thằng cha Giu-khơ- rai sang

đây mà chỉ cho một thằng lính giải đi. Vì thế cho nên cái

thằng nhãi con đang bị giam bây giờ nó mới đánh tháo

được cho thằng kia giữa ban ngày ban mặt. Chúng nó

tước súng thằng lính của mình, đấm vỡ quai hàm rồi biến.

Thằng Giu-khơ-rai thì mất tích, còn thằng nhãi thì rơi vào tay

mình. Hồ sơ đây, đọc mà xem.

    Tên giám binh ấn cho Xa-lô-mư-ga một tập giấy.

    Thằng này lấy tay trái còn lành lần giở tập hồ sơ xem

phớt qua. Xong rồi, hắn nhìn chằm chặp tên giám binh:

    - Thế cậu chả moi được ở nó cái gì à?

    Tên giám binh bực mình kéo sụp chiếc mũ cát-két tới

sát mắt.

    - Mình mất năm ngày trời vất vả với nó rồi đấy. Nó một

mực: 'Tôi không biết gì hết. Tôi không đánh tháo cho ai cả”.

Thật giống giặc lỏi con. Thằng lính áp giải thì nhận đúng

mặt nó rồi, vừa nhìn thấy đã suýt nữa thì đè thằng nhãi ra

chịt lấy cổ. Phải giằng nó ra, vì thằng lính đâu bị Ô-men-

sên-cơ cho ăn hai mươi lăm roi về tội để tù xổng, nên hắn

ấm ức cứ muốn nuốt chửng thằng nhãi. Thôi giữ mãi của

nợ ấy cũng chẳng được tích sự gì. Tớ định viết giấy sang

bên tham mưu để xin lệnh cho treo cổ.

    Xa-lô-mư-ga nhổ nước bọt khinh bỉ.

    - Mày lành quá. Phải tay tao thì nó đã phun ra rồi. Mày

thật là đồ con nhà thầy tu, hạng mày không biết cách lấy

cung. Giám binh gì mà như là thầy dòng ấy! Mày đã nện nó

ra trò chưa đã?

    Lão giám binh phát cáu:

    - Mày nói thế mà cũng nói được. Bỏ cái lối nói mỉa ấy

của mày đi. Tao làm giám binh ở đây. Yêu cầu mày đừng

chõ vào việc của tao.

    Xa-lô-mư-ga thấy tên giám binh sừng sộ thì cười lên ha

hả:

    - Hà hà! Thôi xin ông thầy dòng non đừng bốc lên thế

mà nổ con ngươi, lòi con mắt. Việc của mày thôi mặc xác

mày. Bây giờ mày nói cho tao biết đào đâu được hai chai

"cay” đây.

    Tên giám binh cũng cười làm lành:

    - Cái món ấy thì có thể được.

    - Còn về thằng nhãi này. - Xa-lô-mư-ga gí ngón tay vào

tập giấy. - Cái thằng nhãi này, nếu mày muốn cho nó tong

đời thì chớ nói mười sáu tuổi, mà phải tăng lên mười tám.

Dễ thôi, vòng lại tí râu con số sáu là được không thì trên

chẳng duyệt bản án đâu.

    *

    Trong nhà pha có ba người bị giam. Một ông cụ già râu

ria xồm xoàm, mặc áo bông rách, nằm nghiêng trên bục,

hai cẳng gầy đét co quắp lại thảm hại trong chiếc quần vải

thô lụng thụng. Cụ bị giam vì tên lính ngụy đóng ở nhà cụ có

con ngựa biến đâu mất. Dưới đất, một mụ nạ dòng, mắt ti

hí rất gian giảo, cằm nhọn hoắt, vốn lầm nghề nấu rượu. Mụ

bị kết tội ăn cắp đồng hồ và các thứ đồ quý khác. Ở một

góc dưới khung cửa sổ, Pa-ven ngả đầu trên mũ cát-két

nát, nằm gần như bất tỉnh.

    Người ta đẩy vào nhà giam một cô gái trùm khăn sặc

sỡ kiểu nông dân, hai mắt to sợ sệt.

    Cô đứng một lúc, rồi lại ngồi bên mụ đàn bà nấu rượu.

Mụ ta đưa mắt xét nét cô từng li từng tí, rồi hỏi liến thoắng:

    - Cô bé kia cũng vào khám đấy à?

    Không có tiếng đáp lại. Mụ ta vẫn không chịu thôi:

    - Sao bị tóm thế? Có phải bị bắt vì nấu rượu lậu không?

    Cô gái nông dân đứng dậy, nhìn mụ già khó chịu ấy khẽ

đáp lại:

    - Không. Tôi bị bắt vì anh tôi.

    Mụ kia cứ hỏi gặng:

    - Thế ông anh làm sao?

    Ông cụ già phải chen vào:

    - Cái nhà mụ kia, thói đâu cứ làm tội người ta như thế?

Lòng người ta đang như tan nát, mà mụ cứ lắm điều, hỏi ra

rả.

    Mụ kia phát cáu, quay phắt lại phía bục:

    - Ai khiến ông lên mặt dạy đời thế hả ông lão kia? Tôi

có nói với ông đâu mà ông chen vào?

    Ông lão bực mình nhổ nước bọt.

    - Lão cứ nói đấy. Mụ phải để cho người ta yên chứ !

    Trong nhà giam lại im bặt. Cô gái nông dân cởi khăn

quàng trải xuống đất nằm, lấy tay gối má. Mụ hàng rượu lấy

cơm ra ăn. Ông lão ngồi dậy, buông chân xuống đất và

thủng thẳng quấn một điếu thuốc hút. Khói thuốc khét lẹt tỏa

khắp nhà giam.

    Miệng còn nhồm nhoàm nhai cơm bỏm ba bỏm bẻm,

mụ kia càu nhàu:

    - Cái nhà ông lão kia, không để cho người ta ăn cơm

yên nữa. Khét lên lèn lẹt. Hút gì mà hút lắm thế. Y như cái

ống khói !

    Ông cụ chẳng vừa, nói lại:

    - Mụ sợ gầy đi à? Chẳng mấy chốc rồi cửa kia mụ đi

không lọt. Mụ gọi thằng bé kia vào cho nó ăn với, còn hơn

là tọng cả vào mồm một mình mình thế.

    Mụ kia bực mình cãi lại:

    - Tôi bảo nó ăn mà nó có ăn đâu. Còn ông, ông đừng

có mở mồm là đụng đến tôi; tôi không ăn của nhà ông đâu

mà ông nói.

    Người con gái ngoảnh lại phía mụ nấu rượu, hất đầu ra

hiệu về phía Pa-ven, hỏi mụ ta:

    - Bà có biết sao anh ấy bị bắt không bà?

    Mụ kia vớ được người hỏi chuyện, bắt lấy ngay, kể

luôn:

    - Người tỉnh này đây. Con út mụ nấu bếp Ca-rơ- sa-ghin

đấy mà.

    Rồi mụ ghé vào tai cô gái thì thào:

    - Cậu ấy đánh tháo cho một anh bôn-sê-vích. Anh này

trước là lính thủy cũng ở tỉnh này, trọ ở nhà mụ Dô-du-li-kha,

ngay cạnh nhà tôi.

    Cô gái nông dân bỗng sực nhớ lại những lời lúc nãy

của lão giám binh: "Tớ định viết sang tham mưu để xin lệnh

cho treo cổ...".

    Từng đoàn xe lửa tới tấp chạy đến mắc kẹt với nhau ở

nhà ga. Các tiểu đoàn lính từ trên tàu đổ xuống ồn ào, rối

loạn. Chuyến tàu bọc sắt có bốn toa kiểu "Da-pô-rô" từ từ

bò trên đường sắt. Lính đẩy súng lớn từ trên những toa

không mui xuống, kéo ngựa từ trong các toa hàng ra. Bọn

kỵ binh thắng ngựa tót lên đi chèn qua đám bộ binh, ra sân

ga đứng thành một đội kỵ mã.

    Cai, quản nhốn nháo gọi số hiệu đơn vị của chúng.

    Nhà ga ồn ào như một tổ ong. Đám đông lộn xộn những

người cuống quít ầm ĩ, dần dần sắp thành từng trung đội

vuông vắn, rồi dòng người súng ống đó kéo ào ào vào

thành phố. Mãi đến tận tối, xe ngựa vẫn kêu lóc cóc trên

đường, bộ phận hậu cần của sư đoàn mới đến vẫn tiếp

nhau tiến vào thành phố.

    Và đi đoạn hậu là đại đội tham mưu, một trăm hai mươi

cái mõm gào lên:

Trên phố này có tiếng gì

Ầm ầm náo động nổi lên ?

Đấy là đầu lĩnh Pêt-lu-ra

Xuất hiện dưới trời U-cơ-ren...

   Pa-ven nhóm lên nhìn qua cửa sổ. Trong nhá nhem

cảnh chiều xuống sớm, anh nghe rõ tiếng bánh xe lăn ầm

ầm trên đường phố, tiếng chân rầm rập và tiếng hát nhao

nhao.

   Phía sau có tiếng người dịu dàng nói khẽ:

   - Có lẽ quân lính kéo vào thành.

   Pa-ven ngoảnh lại.

   Người nói là thiếu nữ bị dẫn vào tối qua.

    Pa-ven được nghe chuyện cô ta, mụ nấu rượu hỏi gặng

mãi làm cô phải nói. Thiếu nữ ấy quê ở một làng cách Sê-

pê-tốp-ca bảy dặm. Anh cô - Gơ-rít-cô - vốn là một du kích

đỏ, trước kia làm chủ tịch ủy ban dân cày nghèo.

    Khi quân ta phải rút lui, Gơ-rít-cô cũng đeo ngay băng

đạn súng máy vào người và theo anh em đi. Gia đình anh

giờ thì bị chúng nó khủng bố. Nhà chỉ có độc một con ngựa

cũng bị chúng dắt đi mất. ông bố bị bắt đem ra tỉnh, bị hành

hạ trong xà lim. Tên lý trưởng hội tề, một tay thuộc loại

trước kia Gơ-rít-cô đã bắt vào khuôn vào phép, bây giờ

được dịp trả thù, chuyên môn cắt nhà anh phải cho hết lũ

lính này đến lũ lính khác đóng. Gia đình khốn khổ đến cùng

cực. Tối hôm qua tên giám binh đến làng vây ráp, tên lý

trưởng dẫn nó đến nhà cô bé, cô lọt vào mắt lão quan tư;

sáng sớm nó cho đem cô lên tỉnh lấy cớ "để lấy khẩu

cung".

    Pa-ven thao thức không ngủ, lòng bồn chồn, mắt không

sao nhắm được. Một ý nghĩ duy nhất quay cuồng trong

đầu: "Ngày mai rồi sẽ ra sao.. ".

    Mình mẩy bị đánh giờ vẫn còn đau ê ẩm. Tên lính giải

Giu-khơ-rai thù anh, đánh anh dã man như thú dữ.

    Anh cố lắng nghe tiếng rì rầm trò chuyện của hai người

đàn bà bên cạnh cho khuây nỗi lòng căm uất.

    Cô gái thấp giọng thì thào kể đến chuyện lão quan tư

định giở trò. Lão quan tư đã sán đến, nằn nì, dậm dọa. Bị

cưỡng lại, hắn đùng đùng nổi giận, hùng hổ dọa: "Mày

không chịu, tao cứ nhốt vào hầm nhà pha thì mày đừng có

hòng ra khỏi nữa".

    Bóng tối tràn vào dần dần ngập hết gian phòng. Đêm

đến, một đêm nghẹt thở, tâm tư thao thức giày vò không

biết ngày mai rồi sẽ ra sao. Sáu ngày ở đây đối với Pa-ven

tưởng chừng như đến hàng tháng rồi. Nằm sàn đất cứng

như đá, người lại càng đau nhừ. Trong phòng giam này chỉ

còn có ba người: tên quan hai đã thả mụ hàng rượu ra để

về lấy chất cay mang hầu chúng. Ông cụ già nằm trên bục

gỗ ngủ kỹ, ngáy khỏe như ở nhà vậy. Y như một nhà hiền

triết, cụ lúc nào cũng bình thản, đêm nào cũng ngon giấc.

Khơ- ri-chi-na - cô gái nông dân - và Pa-ven nằm dưới đất

gần như kề bên nhau. Chiều qua, Pa-ven nhìn qua cửa sổ

thấy Xéc-gây đứng ỉu xìu hồi lâu trước nhà pha, buồn rầu

nhìn lên những cửa sổ trại giam.

    "Xéc-gây chắc biết mình bị nhốt ở đây".

    Ba ngày nay có người gửi vào cho Pa-ven mấy mẩu

bánh mì đen. Ai gửi đến, chúng cũng chẳng cho hay. Đã hai

hôm nay, tên giám binh làm Pa-ven hoảng hốt vì những câu

tra hỏi xoi mói.

    Tra thế nghĩa là thế nào?

    Pa-ven chối hết không khai gì cả. Vì sao không khai?

Bản thân anh cũng không biết. Anh muốn can đảm, anh

muốn mình cũng cứng cỏi như những anh hùng đọc thấy

trong sách. Nhưng đến khi chúng bắt anh, dẫn anh đi giữa

đêm dày, lúc đi qua cái hình thù lù lù của cối xay chạy bằng

hơi nước, có tiếng một thằng lính áp giải nói: "Bẩm trung úy

đưa nó đi làm gì nữa, cứ cho một phát vào lưng là xong

chuyện". Lúc ấy Pa-ven mới cảm thấy rờn rợn. Phải, mới

mười sáu tuổi đầu mà đã phải chết thì khổ thật. Vì khi đã

chết rồi thì dù sao cũng là mãi mãi không sống nữa, không

bao giờ sống nữa.

    Khơ-ri-chi-na cũng nghĩ ngợi. Cô hiểu số phận Pa- ven

hơn cả Pa-ven kia. Anh ta chắc còn chưa biết chuyện...

chứ cô thì đã nghe chúng nói thế nào rồi.

    Ban đêm, Pa-ven không ngủ, cứ day dứt vật mình.

    Khơ-ri-chi-na cảm thấy thương anh, ôi, thương không

biết bao nhiêu mà kể. Song Khơ-ri-chi-na cũng có nỗi đau

đớn của mình, cô không quên được những lời khủng khiếp

của lão giám binh:

    "Liệu hồn, mai rồi biết tay tao. Không bằng lòng tao, thì

tao vứt xuống cho bọn vệ sĩ. Lính Cô-dắc chúng nó không

chê mày đâu. Tùy mày chọn đấy”.

    Lòng Khơ-ri-chi-na nặng trình trịch. Chẳng còn có thể

trông ai thương cho phận mình nữa! Có tội tình gì cho cam.

Có phải vì cô đâu mà anh Gơ-rít- cô đi theo du kích đỏ?

"Ôi? Sao sống ở thế gian này khổ đến thế này !"

    Nỗi đau đớn nhoi nhói ứ nghẹn lấy cổ. Thất vọng mênh

mông, hãi hùng khủng khiếp, tất cả như chẹt lấy lòng; Khơ-

ri-chi-na nức nở khóc.

    Tấm thân non trẻ run lên, lo sợ và buồn vô hạn.

    Có bóng người động đậy ở góc tường:

    - Em làm sao thế?

    Khơ- ri-chi-na ngỏ với người bạn ít nói nỗi khổ cùng

đường của mình, tiếng nói khẽ, nhưng mang hơi thở nồng

nàn. Pa-ven lặng nghe, bàn tay đặt lên đôi bàn tay Khơ-ri-

chi-na.

    - Bọn quỷ ấy chúng nó sẽ hành hạ em đến chết mất. -

Cô gái nghĩ mà khiếp đảm, nuốt nước mắt thì thào: - Em

đến bị với chúng nó mất. Sức em không làm gì chúng nó

được.

   Biết nói gì với người con gái này? Biết nói gì được?

Nói không ra lời! Cuộc đời bạn bị dồn đến chỗ cùng

đường, đến chỗ ngạt thở.

   Hay ngày mai dùng võ lực bênh bạn, không để chúng

đem đi, đánh nhau với chúng nó. Chúng nó sẽ đập chết

Khơ-ri-chi-na, chém đứt cổ, và như thế là xong đời. Để an

ủi người bạn gái đang bị đau khổ giày vò này, Pa-ven chỉ

biết lấy tay trìu mến vuốt ve bàn tay bạn. Tiếng khóc nguôi

dần.

   Chốc chốc, tiếng lính gác ngoài cửa quen miệng hỏi

người qua lại: "Ai, đứng lại!" Rồi lại vẫn là canh trường tịch

mịch. Ông lão ngủ say như chết. Thời gian vô hình trôi đi

chậm chạp. Đôi cánh tay ôm lấy và kéo riết Pa-ven lại gần.

Pa-ven không hiểu ra sao.

   Đôi môi Khơ-ri-chi-na nóng hổi tha thiết thủ thỉ:

   - Anh ơi, anh yêu của em, đằng nào em cũng bị rồi,

không thằng quan làm nhục em, thì lũ lính cũng làm nhục em

mất. Anh hãy nghe em, anh ơi! Em không muốn trinh bạch

của em vào tay đồ chó nhơ bẩn.

   - Khơ-ri-chi-na, em nói sao?

   Song đôi cánh tay mầm mẫm cứ riết lấy Pa-ven. Khó

mà rời cặp môi mọng và nóng bỏng ấy. Lời nói của cô gái

giản dị và âu yếm. Pa-ven giờ mới hiểu điều mà bạn muốn

cầu xin mình.

   Ý thức về hiện tại thốt nhiên mờ đi những hình ảnh ghê

rợn: khóa sắt của buồng giam, thằng lính gác có ria đỏ hoe,

lão quan tư, những trận đòn dã man, bảy đêm thao thức

ngột ngạt, tất cả chìm đắm vào dĩ vãng. Giây phút này chỉ

còn đôi môi nóng bỏng và khuôn mặt ướt đầm nước mắt

của Khơ-ri-chi-na.

     Bỗng nhiên Pa-ven sực nhớ đến Tô-nhi-a.

     Anh quên nàng làm sao được? Đối với lòng anh, đôi

mắt ấy đẹp xiết bao và yêu dấu xiết bao!

     Pa-ven còn đủ sức dứt ra. Anh đứng lên, choáng váng,

lảo đảo như người say rượu, hai bàn tay níu lấy song sắt

cửa sổ. Tay Khơ-ri-chi-na sờ soạng với lấy anh:

     - Anh ơi, thế nào hở anh ơi?

     Tiếng gọi mang bao nhiêu đắm đuối ! Pa-ven cúi xuống,

nắm rất chặt đôi bàn tay của Khơ-ri-chi-na:

     -Anh không thể nào làm thế được, Khơ-ri-chi-na ạ. Anh

hiểu em rất tốt.

     Pa-ven còn nói nữa, nhưng chính anh cũng không hiểu

mình nói gì. Để phá tan cái im lặng đang đè trĩu xuống đó,

Pa- ven đứng hẳn dậy, bước lại chỗ ông lão nằm, ngồi

xuống mép bục lay ông dậy:

     - Cụ có thuốc cho cháu xin điếu.

     Trong góc kia, cô gái gục mặt vào khăn trùm đầu, khóc

nức nở.

     Sớm hôm sau, lão giám binh và lính đến bắt Khơ- ri-chi-

na đem đi. Đôi mắt to của người con gái ngẩng nhìn Pa-

ven vĩnh biệt. Trong đôi mắt đó gửi lại cả niềm trách móc.

Khi Khơ-ri-chi-na bị giải đi khỏi, cửa đóng lại, lòng Pa-ven

càng thấy nặng nề, bóng tối càng thấy dầy đặc hơn.

     Suốt ngày hôm ấy, ông lão không tài nào gợi được Pa-

ven nói một tiếng. Bọn lính đổi gác. Tối đến, chúng dẫn

thêm một người bị bắt nữa vào. Pa-ven nhận ngay ra Đô-

lin-nhích, người thợ mộc ở nhà máy đường. Pa-ven đã gặp

anh dạo tháng Hai năm 1917, lúc làn sóng cách mạng xô

đến tận Sê-pê-tốp-ca này. Hồi ấy, trong bao cuộc biểu tình

mít tinh ầm ĩ, Pa-ven nghe thấy chỉ có một người bôn-sê-

vích nói. Người bôn-sê- vích ấy chính là anh Đô-lin-nhích

này đây. Anh đã leo lên hàng rào bên đường, đứng ra kêu

gọi binh lính. Pa-ven vẫn còn in sâu trong trí nhớ lời kết luận

của anh ta hôm ấy: "Các bạn binh lính ! Các bạn hãy cùng

đi với những người bôn-sê-vích: họ không bao giở phản lại

quyền lợi các bạn!"

    Và từ dạo đó đến bây giờ, Pa-ven mới gặp lại người

thợ mộc ấy. Người anh trông vạm vỡ, mập mạp, mặc chiếc

áo sơ-mi vàng bạc màu, ngoài khoác áo vét-tông đã cũ.

Thoạt vào anh đưa mắt chăm chú nhìn quanh phòng giam

một lượt.

    Ông cụ già suốt ngày ngồi im không có ai nói chuyện,

chắc khổ tâm lắm, nên giờ có người bạn mới để tâm sự

ông cụ có vẻ thú. Đô-lin-nhích ngồi vào bục với cụ vừa quấn

thuốc hút vừa hỏi cặn kẽ mọi chuyện.

    Rồi anh ngồi lại gần Pa-ven.

    - Còn chú có chuyện gì kể anh nghe với không? Làm

sao chú lại bị rơi vào đây?

    Nghe Pa-ven trả lời nhát gừng, Đô-lin-nhích biết Pa-ven

chưa dám tin mình nên ít nói thế. Nhưng khi đã hiểu Pa-ven

bị buộc tội gì rồi, đôi mắt thông minh của người thợ mộc

ngạc nhiên chăm chăm nhìn Pa- ven. Anh ngồi sát cạnh Pa-

ven:

    - Vậy ra chú đã đánh tháo cho Giu-khơ-rai phải không?

À, ra thế đấy. Anh cũng không biết là chúng tóm được chú.

    Pa-ven sửng sốt, chống tay nhổm dậy:

    - Giu-khơ-rai? Giu-khơ-rai nào? Tôi không biết gì hết.

Tự nhiên vô cớ cứ gán tội vào cho người ta...

    Nhưng Đô-lin-nhích mỉm cười, nhích lại gần, nói nhỏ:

    - Thôi chú, với anh chú đừng chối mãi thế. Anh còn biết

hơn chú nữa cơ.

    Và Đô-lin-nhích nói khẽ hơn để cụ già khỏi nghe thấy :

    - Chính anh đưa Giu-khơ-rai đi trốn. Anh ấy giờ thì chắc

chu lắm rồi. Giu-khơ-rai đã kể hết chuyện em cho anh nghe.

    Suy nghĩ một lát, Đô-lin-nhích nói thêm:

    - Còn chú thì chú cứng đấy. Song cứ xét việc chú còn

đây thì tài liệu của nó về chú chẳng có quái gì đâu. Có thể

nói là cũng chẳng có gì đáng ngại lắm.

    Người thợ mộc nói xong, cởi áo vét-tông rải xuống sàn,

ngồi lên, dựa lưng vào tường và lại cuốn điếu thuốc nữa.

    Những lời vừa rồi của Đô-lin-nhích làm cho Pa- ven đã

hiểu: Đô-lin-nhích là người của ta, rõ lắm. Ừ, nếu anh ấy đã

đưa Giu-khơ-rai đi trốn thì tức là....

    Đến chập tối thì Pa-ven được biết là Đô-lin-nhích bị bắt

vì tội tuyên truyền địch vận. Chúng tóm được quả tang anh

đang phát truyền đơn của ủy ban cách mạng toàn tỉnh kêu

gọi binh lính ngụy đầu hàng và chạy sang hàng ngũ quân

đỏ.

    Đô-lin-nhích vốn là người thận trọng, nên chỉ kể cho Pa-

ven một số chuyện thôi. Anh nghĩ thầm: "Ai mà biết trước

được. Nếu cậu bé bị chúng lấy sắt thông nòng súng mà nện

cho thì.. . Cậu ta hãy còn non lắm".

    Tối khuya, hai người sủa soạn đi ngủ, Đô-lin-nhích mới

tỏ nỗi lo lắng của mình trong một câu chuyện ngắn gọn:

    - Pa-ven ạ, tình cảnh chúng mình có thể nói là bi đát lắm

đấy, mắc cẳng rồi. Đành phải đợi xem thế nào thôi.

     Ngày hôm sau, lại thêm người bị bắt nữa vào: bác thợ

cạo Den-xe có hai tai như tai voi, cổ ngẳng, cả tỉnh ai cũng

biết mặt. Bác ta hoa tay múa chân nóng nảy kể bô bô với

Đô-lin-nhích:

     - Đây chuyện thế này đây. Lão Phúc, lão Bơ-lup- tanh,

lão Tơ-rắc-ten-be định mang lễ vật đến chào mừng đầu lĩnh

trưởng. Tôi bảo họ: các ông muốn dâng lễ vật cho người ta

thì các ông cứ việc mang. Còn như đưa kiến nghị thì ai thay

mặt cả đám dân Do-thái này mà ký vào? Nói các ngài tha

lỗi: có đứa đếch nào ký. Bọn họ ký vì họ tính chuyện có lợi

cho họ. Phúc có cửa hàng. Tơ-rắc-ten-be có máy xay. Còn

tôi thì có gì? Những người nghèo đói khác có gì? Bọn khố

rách áo ôm chúng tôi chẳng có cóc khô gì cả. Nhưng, khốn

nỗi, tôi chỉ được có cái lưỡi dài mà thôi. Chẳng là ngày

hôm nay có một ông đội vào hàng tôi cạo mặt. Ông ta thuộc

đạo quân mới kéo vào đây. Tôi hỏi ông ta: "Thưa ông bảo

giùm cháu, đầu lĩnh trưởng liệu có biết dân Do-thái ở đây bị

càn không ạ? Ngài có tiếp một đoàn đại biểu Do thái lên

kêu với ngài không, ông nhỉ?" Từ thuở cha sinh mẹ đẻ, cái

lưỡi tôi đã làm hại tôi bao lần rồi. Bà con thử đoán xem?

Tôi cạo cho ông ta, bôi kem xoa phấn đẹp đẽ, tươm tất,

dùng toàn thứ thượng hảo hạng. Thế rồi ông ta trả công tôi

như thế nào? Ông ta đứng dậy, đáng lẽ trả tiền công cho

tôi thì trái lại, ông ta bắt ngay tôi về tội "tuyên truyền chống

chính phủ”. Và Den-xe nắm tay đấm ngực thình thịch:

"Tuyên truyền cái gì chứ? Nào tôi có nói cái gì? Tôi chỉ hỏi

một câu thường thôi... Thế mà người ta lại tống tôi vào nhà

giam…"

     Den-xe tức tối, nắm lấy khuy áo Đô-lin-nhích vặn vặn, lúc

thì kéo tay này, lúc kéo tay kia của Đô- lin-nhích.

     Đô-lin-nhích không nhịn được cười trước cơn nóng nảy

của Den-xe. Khi bác thợ cạo dứt lời, anh nghiêm nét mặt:

     - Bác Den-xe này, bác cũng là người hiểu biết đấy, thế

mà có lúc bác lại dại dột đến thế được. Bác tưởng đã là

lúc mở mồm nói cho sướng lưỡi hay sao. Tôi không có

khuyên bác tự dẫn xác vào đây đâu nhớ.

     Den-xe nhìn Đô-lin-nhích hiểu ý và phẩy tay thất vọng.

Giữa lúc ấy cửa mở; người ta ẩy mụ đàn bà nấu rượu vào.

Mụ đang chửi thậm tệ thằng lính Cô-dắc giải mụ:

     - Trời đánh thánh vật cả lũ chúng mày với thằng quan

nhà chúng mày nữa. Rượu của tao, nó nốc cho cạn, rồi

cháy xác nó ra!

     Tên lính gác đóng cửa lại, tiếng then cài lách cách.

     Mụ hàng rượu ngồi xuống bục. Ông lão nói đùa ngay:

     - Sao, mụ lắm điều kia lại vào đấy à? Mời mụ ngồi

chơi, làm khách của bà con chúng tôi vậy.

     Mụ ta nguýt ông già, vớ lấy gói quần áo, rồi ngồi phệt

xuống sàn bên cạnh Đô-lin-nhích.

     Chúng lại nhốt mụ, sau khi đã tước của mụ mấy chai

"cay”.

     Bỗng dưng có tiếng động ở ngoài cửa bốt gác; rồi có

tiếng ai ra lệnh hách dịch. Những người bị giam đều quay

đầu ngó ra cửa.

     *

     Ở quảng trường, gần cái nhà thờ nhỏ, cao lêu nghêu,

có tháp chuông rất cổ, đang diễn ra một trò lạ thường chưa

từng có ở thành phố này: bọn ngụy diễu binh. Những đơn vị

của sư đoàn bộ binh, súng ống nai nịt từ đầu đến chân,

đứng thành đội hình chữ nhật, đều răm rắp trên ba mặt

quảng trường.

    Ở đằng trước, ba trung đoàn bộ binh đứng theo đội

hình ô vuông kéo dài từ cổng nhà thờ đến suốt dọc hàng

giậu trường học.

    Một đám người họp thành một khối màu xám bẩn, đội

mũ sắt trông như quả dưa hấu bổ đôi úp sụp lấy đầu, đứng

sắp hàng thẳng, súng cầm tay dựng bên hông, băng đạn

cuốn đầy người. Đấy là sư đoàn thiện chiến nhất của nền

"Đốc chính”. Chúng ăn mặc chững vì lấy ở những kho quần

áo của quân đội Nga hoàng cũ. Số quân này hơn một nửa

là con nhà cu-lắc, những quân thù ghét chính quyền Xô-viết

ra mặt.

    Quân phản động Nga trắng ném sư đoàn này vào thị

trấn Sê-pê-tốp-ca để bảo vệ đầu mối đường xe lửa có tính

chất chiến lược trọng yếu bậc nhất này.

    Từ Sê-pê-tốp-ca có đường sắt đi năm ngả. Đối với

Pết-lu-ra, mất Sê-pê-tốp-ca tức là mất tất cả. Chính thể

"Đốc chính” của chúng thế là chỉ còn mảnh đất tí xíu này.

Thủ đô của "Đốc chính" bây giờ phải đóng ở thị trấn Vi-nhít-

xa nhỏ bé.

    Tên "đầu lĩnh trưởng” đã định thân hành đến duyệt các

đơn vị. Quân lính sẵn sàng đón hắn.

    Ở hàng cuối, xếp cho khuất mắt vào tận xó quảng

trường là trung đoàn lính mới động viên. Đám thanh niên ấy

chân không giầy, quần áo tạp nham đủ kiểu, đủ màu;

những chàng dân quê ấy bị bọn ngụy sục vào tận làng kéo

khỏi ổ nằm hay tóm ngay giữa đường trong những đêm

càn bắt lính, chẳng có bụng dạ nào đi đánh nhau cả. Họ nói

với nhau:

    - Ai dại gì!

    Bọn sĩ quan của Pết-lu-ra chỉ đạt được kết quả là áp

giải họ vào thành phố, chia ra thành các đại đội và tiểu

đoàn, rồi ấn súng vào tay họ.

    Nhưng ngay ngày hôm sau một phần ba số đó đã biến

mất, số còn lại mỗi ngày một ít đi.

    Phát ngay giày cho lớp thanh niên đó thì quá ư là dại, vả

lại giày của bọn ngụy có nhiều lắm đâu, nên chúng liền ra

lệnh đi lên tập trung phải mang kèm theo cả giầy. Kết quả

rất ngộ nghĩnh. Vì những người bị bắt làm lính ấy đào đâu

ra giày, ngay mảnh giẻ rách buộc lạt, buộc dây thép đủ dính

được lấy chân cũng chẳng có nữa là.

    Chúng đành dẫn họ đi chân đất ra tham gia cuộc duyệt

binh còn hơn.

    Sau bộ binh là đến trung đoàn kỵ binh của Gô- lúp. Bọn

này đứng án ngữ giữ đám đông dân phố đang tò mò. Ai

cũng muốn xem duyệt binh thế nào. "Đầu lĩnh trưởng” sắp

đến nơi rồi. Thành phố này mấy khi có duyệt binh như thế.

Cho nên dân phố không ai muốn bỏ qua trò vui không mất

tiền này.

    Trên những bậc thềm nhà thờ, bọn võ quan, bọn chức

tước, hai con gái lão giáo trưởng, một mớ các viên giáo

học U-cơ-ren, một nhóm Cô-dắc "tự do”, viên thị trưởng

người hơi gù lưng, - tóm lại là đám thượng lưu của "xã hội"

ở đây. Trong số đó có tên tổng thanh tra bộ binh, mặc quân

phục. Chính hắn ta chỉ huy cuộc duyệt binh hôm nay.

    Trong nhà thờ, lão cố Vát-xi-li, mặc áo chầu, chuẩn bị

làm lễ.

    Người ta chuẩn bị đón tiếp Pết-lu-ra long trọng lắm. Có

mang cả cờ vàng xanh da trời đến nữa. Lính mới hôm nay

phải tuyên thệ trước mặt "đầu lĩnh trưởng”.

    Tên chỉ huy sư đoàn ngồi trên chiếc xe "Pho" tàng, róc

sơn, lòi sắt, chạy về phía nhà ga đón Pết-lu-ra.

    Lão tổng thanh tra bộ binh ra hiệu gọi gã quan năm

Séc-nhắc mảnh khảnh, có tí râu mép vểnh lên rất điệu:

    - Anh lấy một người đi theo. Chạy về đoàn bộ và hậu

cần kiểm tra lại. Bố trí cho sạch mắt, cho tươm tất đâu vào

đấy Nếu ở đấy có bọn tù thì sàng lọc lại xem. Bọn lem

nhem thì tống cổ ra nhớ.

    Séc-nhắc rập chân đứng nghiêm chào, rồi cùng một tên

quan ba phi ngựa về đoàn bộ.

    Tên thanh tra quay lại vồn vã hỏi đứa con gái lớn lão cố

đạo:

    - Còn cơm nước thế nào, cô? Chu tất rồi chứ?

    - Ngài không lo, có quan giám binh thân đến trông nom

rồi ạ. - Con này đáp lời, hai mắt thèm thuồng đắm đuối nhìn

tên thanh tra đẹp trai kia.

    Bỗng tất cả náo động lên: một tên kỵ binh cúi rạp trên

bờm ngựa, phi tới. Hắn vẫy tay và kêu lên:

    - Đến rồi !

    Tên thanh tra liền hô:

    - Đứng vào hàng!

    Bọn cai đội chạy về chỗ.

    Khi chiếc xe ô-tô "Pho" thở hổn hà hổn hển đỗ bên thềm

nhà thờ, nhạc cử bài: Xứ U-cơ-ren vẫn sống mãi.

    "Đầu lĩnh trưởng” Pết-lu-ra theo sau tên sư đoàn

trưởng; nặng nề bước ra khỏi xe. Y người tầm thước, đầu

bướu cắm chắc trên cái cổ đỏ gay, mặc áo Cô-dắc xanh

bằng dạ tốt; lưng thắt dây da vàng, giắt khẩu Bơ-rao-ninh

nhỏ xíu bên hông đựng trong túi bằng da hươu lộn. Đầu y

đội mũ lưỡi trai kiểu "Kê- ren-ski": có mang huy hiệu cái

đinh ba sơn men. Trông hình dạng Xi-môn Pết-lu-ra chẳng

có tướng nhà binh tí nào.

    Vẻ bực tức, y nghe tên thanh tra báo cáo rất ngắn.

    Sau đó tên thị trưởng đọc chúc từ.

    Pết-lu-ra lơ đãng nghe; qua đầu tên thị trưởng, y nhìn

xuống các trung đoàn quân trước mặt sắp thẳng hàng.

    Y gật đầu ra hiệu cho tên thanh tra:

    - Cho bắt đầu duyệt binh.

    Y leo lên một cái bục nhỏ gần cột cờ hò hét với lính

mươi phút. Y nói không hùng lắm, không có hứng, vì đi

đường mệt. Y nói xong thì rắp theo lệnh chỉ huy, quân lính

reo lên: "Vinh quang! Vinh quang!". Y bước xuống và lấy

khăn lau trán rồi cùng với tên thanh tra và tên sư đoàn

trưởng duyệt các đơn vị.

    Khi đi qua những hàng lính mới động viên, y nheo mắt

khinh bỉ, cắn môi tỏ vẻ bực mình.

    Duyệt binh gần xong, thì đoàn lính mới động viên từng

trung đội một, hàng ngũ loạc choạc, đi gần tới cột cờ chỗ

lão cố Vát-xi-li tay cầm sách bổn đứng làm phép, bọn lính

hôn sách bổn, rồi hôn vào một góc lá cờ. Đang lúc làm lễ thì

xảy ra một chuyện bất ngờ.

    Một đoàn đại biểu không biết ở đâu mọc ra, len lỏi vào

quảng trường, lù lù tới tận chỗ Pết-lu-ra. Đi đầu là lão Bơ-

lúp-tanh, lái gỗ giàu sụ, lễ mễ bê lễ vật. Theo sau là lão chủ

hiệu tạp hóa Phúc và ba tên lái buôn to khác.

     Bơ-lúp-tanh khúm núm cúi rạp lưng dâng lễ vật cho Pết-

lu-ra:

     - Toàn dân Do-thái chúng tôi kính cẩn chào mừng ngài

Quốc trưởng, đội ơn cao dày của ngài và tỏ lòng sùng bái

ngài. Kính mong ngài chấp nhận cho tờ chúc từ của chúng

tôi.

     Tên đội đứng bên nhận lễ vật, Pết-lu-ra liếc qua tờ chúc

từ, rồi lẩm bẩm:

     - Được

     Vừa lúc ấy thì lão Phúc len lên ngay:

     - Bẩm tướng công, chúng con cắn cỏ lạy ngài thi ân cho

chúng con được làm ăn buôn bán và che chở cho chúng

con là người Do-thái khỏi bị những cuộc càn Do-thái - Lão

Phúc khó khăn mãi mới dám nói đến tiếng "càn Do-thái"

này.

     Pết-lu-ra, mặt hầm hầm, cau mày khó chịu.

     - Quân đội ta không có càn Do-thái, các người phải biết

thế mới được.

     Lão Phúc buông thõng tay, tiu nghỉu.

     Pết-lu-ra nhún vai bực tức, cáu cái đoàn đại biểu rất

chướng này. Y quay phắt lại. Đứng sau y, Gô-lúp đang mím

môi cắn râu mép đen sì.

     - Đại tá dân kêu về lính của ông. Ông phải xét xem vì

sao dân kêu, và thi hành những biện pháp cần thiết. - Rồi

hắn quay lại tên thanh tra ra lệnh: Bắt đầu cho diễu binh.

     Đoàn đại biểu vô phúc có ngờ đâu lại chạm trán Gô-lúp

ở đây, bèn vội vàng tìm cách lủi đi.

     Lúc bấy giờ, mọi người đi xem đều chú ý vào bọn lính

đang sửa soạn diễu binh. Tiếng chỉ huy thét lên cộc lốc.

    Gô-lúp vẻ mặt bề ngoài cố trấn tĩnh, đón đầu Bơ- lúp-

tanh, nói nhỏ nhưng dằn từng tiếng:

    - Xéo ngay đi chỗ khác, đồ ngoại đạo. Xéo ngay không

ông cho băm thịt chúng mày làm ba-tê bây giờ.

    Nhạc cử một bản hành khúc, và những đơn vị đầu tiên

và đầu diễu. Khi đi ngang qua chỗ Pết-lu-ra đứng, chúng hô

lên hai tiếng "Vinh quang!" như cái máy, rồi quay rẽ sang

các phố bên. Đi đầu các đại đội là bọn cai đội mặc quần

áo ka-ki mới, bước ung dung như đi dạo phố, tay ve vẩy

chiếc gậy chỉ huy. Đây là lần đầu tiên bọn cai đội cầm gậy,

cũng như bọn lính bồng súng, được học lối diễu binh như

thế.

    Cái đuôi sau rốt là lính mới động viên, đi loạc choạc,

không biết bước theo lối nhà binh, vừa đi vừa xô đẩy nhau.

    Tiếng chân đất lê trên đường nghe lào xào. Cai đội

chạy ngược chạy xuôi để giữ hàng lối, nhưng không tài nào

giữ được.

    Khi đại đội hai đi qua, một gã đi rìa bên phải, mặc áo

sơ-mi vải thô, mải há hốc mồm nhìn "đầu lĩnh trưởng”, vấp

phải ổ gà, ngã sóng soài ra mặt đường. Súng của gã quệt

vào đá kêu đến keng một cái. Gã lóp ngóp chực bò dậy,

nhưng bị dòng người đi sau hỗn loạn kéo tràn qua đạp gã

ta lại ngã giúi ngay xuống nữa.

    Người đứng xem thấy thế cười bò ra. Cả trung đội của

gã ta rối tung. Đám lính còn lại đi sau tán loạn. Gã thanh

niên rủi ro kia nhặt súng đứng dậy chạy vội theo đội mình.

    Pết-lu-ra thấy cảnh tượng chán chường ấy, quay mặt đi

không buồn nhìn nữa. .Y không chờ cho hàng quân đi diễu

hết bỏ đi ra xe ô-tô. Tên thanh tra chạy theo sau khúm núm

hỏi:

    - Đức đầu lĩnh trưởng, ngài không ở lại xơi cơm ạ?

    Pết-lu-ra thốt ra tiếng gọn lỏn:

    - Không.

    Trong số những người trèo lên hang giậu sắt cao nhà

thờ đứng xem diễu binh có Xéc-gây, Va-li-a và Cơ-lim-ca.

    Xéc-gây tay bíu chắc lấy cột giậu, đôi mắt hằn học nhìn

bọn đứng ở dưới thềm.

    - Va-li-a ơi, ta đi về thôi ! Hạ màn đến nơi rồi.

    Xéc-gây tay buông song sắt tụt xuống, giọng khiêu

khích, nói rất to. Những người đứng xem nghe câu nói, kinh

ngạc ngoái cổ lại nhìn.

    Xéc-gây thản nhiên, không để ý đến ai, cứ đi thẳng ra

cửa. Em gái anh và Cơ-lim-ca đi theo sau.

    *

    Quan năm Séc-nhắc và một quan ba đi theo phi ngựa

đến đồn giám binh, nhảy phắt xuống. Chúng đưa ngựa cho

tên lính hầu, rồi hộc tốc đi vào trại vệ sĩ. Séc-nhắc giọng

hách dịch hỏi tên lính gác:

    - Đồn trưởng đâu?

    Tên lính ấp úng:

    - Con không biết, ông đồn đi đâu rồi ấy ạ.

    Séc-nhắc đưa mắt nhìn một vòng gian phòng gác lộn

xộn, bẩn thỉu, nhìn những giường, chăn đệm xộc xệch, trên

có mấy tên lính Cô-dắc phất phơ nằm chỏng gọng. Có cấp

trên vào mà bọn chúng cũng không thèm đứng dậy nữa.

    Séc-nhắc thét lên:

    - Sao bẩn như chuồng bò thế này? - Hắn la bọn lính

đang nằm:

    - Bọn bay nằm đấy làm gì như đàn lợn xề mới đẻ xong

thế?

    Một tên lính Cô-dắc ngồi nhổm dậy, ợ một cái như

người ăn quá no, rồi lè nhè bực tức:

    - Làm gì mà thét lên thế? Chúng tôi cũng có mồm biết

thét được cả.

    Séc-nhắc chồm lên:

    - A, mày láo, mày có biết mày nói với ai không? Đồ ngu

như bò! Tao là đại tá Séc-nhắc đây. Hiểu chưa? Đồ chó

chết ! Đứng dậy ngay lập tức không có roi này ông quất

ngay vào lưng bây giờ. - Séc-nhắc nóng tiết lồng lộn lên. -

ông hẹn cho chúng mày một phút, chúng mày phải tức khắc

vứt ngay những thứ bẩn thỉu này đi, dọn lại giường, rồi ngồi

lại cho ra người một tí. Bộ đội gì mà như thế. Chẳng phải

lính Cô- dắc nữa, mà thật là một lũ cướp đường.

    Séc-nhắc tức giận tới cao độ; đụng phải chậu rác giữa

đường, hắn bực quá lấy chân đá ngay.

    Tên quan ba cũng phụ họa theo, chửi rủa lung tung, quất

roi vun vút vào không khí, đuổi những tên lính đang nằm bò

dậy.

    - Đức "đầu lĩnh trưởng” đang duyệt binh. Ngài có thể

ghé vào đây. Quân bay hoạt lên xem nào, mau lên!

    Bọn lính nhận ra câu chuyện trở nên quan trọng, không

phải trò đùa, có thể ăn đòn thật vì uy danh Séc-nhắc thì ai

mà không biết nữa. Chúng chạy đi dọn dẹp nhốn nháo lên

như người phải bỏng.

    Công việc bắt đầu chạy hăng.

    Tên quan ba đề nghị với Séc-nhắc:

    - Bây giờ ta đi xem lại bọn tù. Chẳng hiểu chúng nhốt

những ai ở đây! Nhỡ ra đức "đầu lĩnh trưởng” ngài ngó

vào, thì lại có chuyện mất.

    Séc-nhắc hỏi tên gác:

    - Đứa nào cầm chìa khóa? Mở ngay nhà pha xem nào!

    Tên quản cơ chạy vội lại, mở cửa.

    Lão quan năm vẫn quát ầm ầm:

    - Đồn trưởng sao đi đâu mất mặt! Cứ để ta chờ mãi

hắn hay sao?

    Rồi Séc-nhắc ra lệnh:

    - Đi tìm đồn trưởng gọi về đây cho ta. Tập hợp đội vệ sĩ

ra sân, sắp thẳng hàng lại…Tại sao súng không có lưỡi lê?

    Tên quản phân trần:

    - Bẩm quan, chúng con mới đổi đến hôm qua.

    Nói rồi, hắn chạy ra cửa, đi tìm đồn trưởng.

    Tên quan ba lấy chân ẩy cửa nhà pha. Một vài người

ngồi ở sàn đứng nhổm dậy, những người khác vẫn nằm.

    Séc-nhắc ra lệnh:

    - Mở cửa ra, ở đây tối quá.

    Hắn nhìn kỹ từng mặt người bị giam.

    - Làm sao mà bị giam?

    Hắn quắc mắt hỏi ông cụ già đang ngồi trên bục.

    Cụ này đứng dậy, xốc lại cái quần, giọng lắp bắp sợ sệt

trả lời ấp úng:

    - Bẩm ngài, lão không biết. Lão thấy dẫn đến đây thì ở

đây. Ở nhà lão mất con ngựa, lão có tội gì đâu.

    Tên quan ba ngắt lời:

    - Mất con ngựa của ai?

    - Ngựa của quân đội ạ. Các ông quyền đóng ở nhà lão

bán nó đi lấy tiền uống rượu và bây giờ lại đổ tội cho lão.

      Séc-nhắc liếc mắt rất nhanh, nhìn ông già từ đầu đến

chân và nhún vai bực mình:

      - Nhặt quần áo, rồi xéo. - Séc-nhắc quát lên thế, rồi

quay lại mụ nấu rượu.

      Ông lão vẫn chưa tin là chúng tha mình, quay lại phía tên

quan ba, chớp chớp cặp mắt lờ đờ hỏi lại:

      - Thưa, thế lão được về ạ?

      Tên quan ba gật đầu:

      - Ừ, bước đi ngay cho rảnh.

      Ông lão vội vớ lấy cái túi treo ở bục, rồi lách ra cửa lủi

mất.

      Séc-nhắc đã hỏi đến mụ nấu rượu:

      - Còn mụ kia, sao mụ bị giam ở đây?

      Mụ hàng rượu nhai nghiến ngấu cho hết miếng ba-tê,

rồi nói huyên thuyên:

      - Bẩm quan lớn, thật oan con. Con ở góa. - Các ông ấy

đến nhà con uống rượu, rồi bắt giam con.

      Séc-nhắc hỏi:

      - Tao nghe ra là mụ bán rượu chứ gì?

      Mụ ta lấy làm phật.,ý, kêu ca:

      - Sao gọi là bán được ạ? Như ông đồn trưởng đây lấy

của con bốn chai, mà không trả xu nào cả. Các ông ấy thế

cả, uống rồi quịt. Thế còn gọi là buôn bán sao được nữa ạ.

      - Thôi! Ta hiểu rồi? Mụ cút đi đâu thì cút, nhanh lên.

      Mụ ta không để lũ quan ngụy phải nhắc lại lệnh của

chúng lần thứ hai nữa, vớ lấy cái thúng, cúi lạy cảm ơn rối

rít, rồi đi giật lùi ra cửa.

      - Đa tạ các quan. Xin trời phật phù hộ các ngài được

mạnh khỏe.

    Đô-lin-nhích tròn xoe mắt nhìn tấn hài kịch đó.

    Không ai trong những người tù ở đây còn hiểu như . thế

là thế nào. Chỉ rõ một điều: chắc bọn mới đến là chỉ huy

cao cấp gì đây nên mới có quyền thả tù như vậy.

    Séc-nhắc hỏi đến Đô-lin-nhích:

    - Còn tên kia, tại sao mày bị bắt?

    Tên quan ba thét lên:

    - Đứng dậy! Trước mặt đại tá phải đứng dậy!

    Đô-lin-nhích nặng nề, chậm chạp đứng dậy.

    Séc-nhắc hỏi lại:

    - Tao hỏi mày tại sao bị bắt?

    Đô-lin-nhích nhìn bộ râu mép vểnh của tên quan năm

đến mấy giây, nhìn cái mặt cạo nhẫn của hắn, rồi nhìn cái

mũ lưỡi trai mới kiểu "Kê-ren-ki" có đính huy hiệu sơn men.

Bỗng nhiên một ý nghĩ táo bạo thoáng qua trong óc: "May

ra có thể ăn tiền đấy?" Và anh nói ra ý nghĩ vừa vụt đến

trong đầu:

    - Tôi bị bắt vì tội đi chơi sau tám giờ tối.

    Toàn thân căng thẳng đến đau đớn, anh chờ đợi.

    - Thế đêm hôm đi làm gì?

    - Bẩm lúc ấy chưa khuya, mới có mười một giờ thôi ạ.

    Miệng nói mà bụng vẫn không tin là thoát được.

    Nhưng đầu gối anh run lên khi nghe tiếng quát cộc lốc:

    - Cút!

    Anh quên khuấy cả chiếc áo vét-tông, cứ thế đi ra cửa.

    Lão quan ba đã hỏi sang người khác.

    Pa-ven là người cuối cùng. Anh đang ngồi trên sàn, rất

đỗi bàng hoàng không hiểu chuyện ra làm sao nữa, cũng

không đủ thời giờ để ngẫm nghĩ tại sao chúng lại tha cả

Đô-lin-nhích ra được. Không thể nào mà hiểu được. Chúng

thả tất cả hay sao. Nhưng sao lại thả Đô-lin-nhích?... Đô-lin-

nhích bảo với chúng là bị bắt vì đi chơi khuya... Pa-ven vụt

hiểu ra.

    Tên quan năm hỏi đến lượt bác thợ cạo Den-xe gầy

nhom. Vẫn một câu hỏi đi hỏi lại đó:

    - Còn mày, sao bị bắt?

    Den-xe mặt tái mét, hồi hộp, hăng máu trả lời:

    - Các ông ấy bảo con tuyên truyền, con không hiểu con

tuyên truyền cái gì cả.

    Séc-nhắc vểnh tai lên nghe:

    - Cái gì? Cái gì? Tuyên truyền à? Mày tuyên truyền cái

gì?

    Den-xe khoa tay không hiểu ý ra sao:

    - Con có biết đâu, con chỉ nói người ta lấy chữ ký vào

bản đơn kêu của dân Do-thái đưa lên đức "đầu lĩnh

trưởng".

    Tên quan ba và Séc-nhắc nhích lại gần Den-xe:

    - Đơn kêu gì?

    - Dạ đơn xin cấm càn Do-thái. Ngài cũng biết ở đây

vừa có một cuộc càn ghê người. Dân chúng khiếp đảm.

    Séc-nhắc ngắt lời:

    - Ta hiểu rồi. Được muốn có đơn kêu chúng tao sẽ thảo

đơn kêu cho mày, đồ Do-thái mạt kiếp.

    Rồi Séc-nhắc quay lại bảo tên quan ba:

    - Giữ quân này cho ta cẩn thận, đem dẫn xa đi, đưa nó

về ban tham mưu; ta sẽ nói chuyện thẳng với nó để xem

chính đứa nào đầu têu cái việc đơn kêu này.

    Den-xe chực nhoi lên cãi, song roi ngựa của tên quan

ba đã quất vào lưng:

    - Câm mồm, thằng chó chết.

    Bác thợ cạo đau nhăn mặt lại, lùi về góc phòng; môi run

lên cố nén tiếng khóc nấc ứ lên cổ.

    Khi cảnh cuối đó diễn ra thì Pa-ven đã đứng dậy.

    Trong nhà giam chỉ còn mình anh và Den-xe.

    Séc-nhắc đã đứng trước Pa-ven, giương hai mắt đen

hau háu nhìn anh từ đầu đến chân:

    - Thằng này, chuyện gì thế?

    Tiếng Pa-ven đáp nhanh:

    - Con cắt một miếng yên ngựa để làm đế giày.

    Tên quan năm không hiểu hỏi lại:

    - Yên ngựa nào?

    - Có hai ông lính Cô-dắc đóng ở nhà con, con chót dại

cắt chiếc yên ngựa cũ để làm đế giày, cho nên các ông lính

Cô-dắc bắt con đem đến đây. - Và hăng lên, với hy vọng

ngây ngất được trả lại tự do, Pa-ven nói thêm: - Nếu con

biết là không được lấy thì…

    Lão quan năm nhìn Pa-ven, bĩu môi khinh bỉ:

    - Không hiểu lão đồn trưởng giám binh làm cái ngỗng

gì? Thật trời mà hiểu được ra làm sao! Bắt giam được

những của quý thật? - Rồi hắn quay ra cửa, hét Pa-ven: -

Thôi cho mày về nhà và nói với bố mày cho mấy cái phát

vào mông đít. Ranh con, xéo!

    Pa-ven còn ngỡ là tai mình nghe nhầm và con tim như

muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, anh nhặt cái áo vét tông của

Đô-lin-nhích bỏ rơi trên sàn, rồi chạy ra cửa. Anh qua

phòng gác và theo sau Séc-nhắc đang đi ra, anh vụt qua

sân, rồi chạy qua cổng sắt và ra đường cái.

   Trong nhà giam chỉ còn lại bác thợ cạo Den-xe đen

   đủi. Đau buồn tê tái, bác đưa mắt nhìn chung quanh.

   Theo bản năng, bác đi mấy bước ra cửa, nhưng một

tên lính gác đã vào khép cửa, khóa trái lại và ngồi trên

chiếc ghế đẩu chắn ngay đó.

   Đứng trên thềm nhà giam, Séc-nhắc rất lấy làm hài

lòng, nói với tên quan ba:

   - Thật may mà chúng mình ngó đến đây. Mày xem chúng

nhét vào đây đủ cóc nhái bỏ đi. Mình phải cho tên đồn

trưởng giám binh ngồi tù ít nhất là hai tuần mới được. Thôi,

ta đi chứ!

   Tên quản đã tập hợp sẵn lính của nó sắp hàng ở cả

ngoài sân. Thấy tên quan năm, hắn chạy lại báo cáo:

   - Bẩm quan đại tá, doanh trại xếp dọn đã xong đâu vào

đấy rồi ạ!

   Séc-nhắc cho chân vào bàn đạp, nhảy phắt lên yên

ngựa. Còn tên quan ba thì vẫn loay hoay với con ngựa bất

kham của nó. Séc-nhắc vừa lần dây cương, vừa bảo tên

đội:

   - Mày bảo với đồn trưởng giám binh là tao đã thả hết cả

lũ chó chết mà hắn thu nhặt bấy lâu nay. Mày nói thêm với

hắn là tao sẽ cho hắn ngồi tù hai tuần vì tội để bẩn thỉu ở

đây. Còn thằng đang bị nhốt kia thì điệu ngay lập tức sang

tham mưu. Chúng bay thì chuẩn bị cho sẵn sàng!

   Tên đội đáp lại, tay đưa lên ngang vành mũ:

   - Xin tuân lệnh quan đại tá.

   Tên quan năm thúc ngựa cùng với tên quan ba phi lại

quảng trường, nhưng diễu binh ở đó đã xong từ lâu rồi.

   *

   Chạy qua được bảy nhà thì Pa-ven dừng lại. Không còn

sức mà chạy tiếp nữa.

   Những ngày đói khát bị giam trong phòng ngột ngạt làm

Pa-ven kiệt sức. Về nhà thì không được. Đến nhà Bơ-ru-

giắc thì nhỡ ra có ai biết là có thể làm liên lụy, tan cửa nát

nhà bạn. Vậy thì đi đâu bây giờ?

   Anh không biết làm thế nào, cứ chạy, những vườn rau

và sân sau các nhà đã lùi lại sau anh. Mãi đến khi chạm

người vào hàng rào nhà ai đó, Pa-ven mới sực tỉnh.

   Pa-ven đứng sững lại sửng sốt: sau hàng rào cao mà

mình đang đứng tựa lưng đây lại chính là vườn nhà ông

chánh kiểm lâm. Hóa ra đôi chân mỏi dừ của mình lại đưa

mình đến đây. Mình đã định bụng đến đây hay sao ấy nhỉ?

Không.

   Nhưng tại sao mình lại đứng ngay trước biệt thự này

mà không dừng chân đứng lại ở chỗ khác?

   Anh không tài nào trả lời được câu hỏi đó.

   Phải kiếm chỗ nào nghỉ chân cái đã, rồi còn nghĩ cách

đi xa nữa. Trong vườn này có một vòm cây rất kín, nấp vào

đấy chẳng ai thấy được đâu.

   Pa-ven nhảy lên, bám lấy mép một thanh gỗ, trèo lên

hàng rào rồi tụt sang bên kia. Anh đưa mắt nhìn mái nhà

thấp thoáng sau rặng cây rồi đi thẳng đến vòm cây. Nhưng

chỗ vòm cây trống trải quá. Dạo hè còn có nho dại phủ kín,

giờ thì cây cối trơ trụi.

   Anh định quay ra, nhưng muộn quá rồi: tiếng chó sủa

dữ dội ở sau lưng. Một con chó to từ trong nhà đang chạy

hồng hộc theo lối đi đầy lá, xồ ra cắn anh, sủa oang cả

vườn lên.

    Pa-ven đứng thế thủ.

    Nó nhảy xổ vào nhưng bị Pa-ven lấy chân đá. Con chó

lồng lên chực nhảy vào lần nữa. Thật cũng chẳng biết rồi sẽ

ra sao, nếu lúc đó không có tiếng ai quá quen thuộc lanh

lảnh la lên:

    - Tơ-rê-do, chạy lại đây nào!

    Tô-nhi-a chạy ra, cầm lấy vòng xích cổ lôi con chó Tơ-

rê-do lại, rồi nói với bóng người đang đứng bên hàng rào:

    - Anh làm thế nào mà vào đây được? Con chó này hay

cắn lắm đấy. May mà tôi…

    Tô-nhi-a chưa nói hết câu đã im bặt, mắt mở to nhìn.

Anh chàng trẻ tuổi không rõ làm sao vào đây được này

giống Pa-ven quá!

    Bóng kia động đậy, khẽ hỏi lại:

    - Em... cô không nhận ra tôi sao?

    Tô-nhi-a reo lên một tiếng và bổ lại chỗ Pa-ven:

    - Anh Pa-vơ-lu-sa, anh đấy ư?

    Con chó Tơ-rê-do nghe tiếng chủ kêu tưởng là ra hiệu

cho cắn, bèn nhảy xổ lên.

    - Không được cắn, đi!

    Tơ-rê-do bị Tô-nhi-a đá cho mấy cái, hục hặc cúp đuôi

chạy vào trong nhà.

    Tô-nhi-a nắm lấy tay Pa-ven hỏi:

    - Anh được tha hay sao?

    - Thế em cũng biết chuyện à?

    Tô-nhi-a không nén được nỗi hồi hộp, cảm động, trả lời

câu một:

    - Em biết hết, Li-da kể cho em nghe. Nhưng anh làm thế

nào ra được? Người ta tha anh hay sao?

     Pa-ven trả lời, giọng mệt mỏi:

     - Chúng tha nhầm, em ạ. Anh trốn khỏi nhà pha. Chắc

bây giờ chúng đang truy nã. Anh cũng không định đến đây.

Tình cờ trông thấy vòm cây kia anh tính vào ẩn để nghỉ một

lát. - Rồi như để xin lỗi, Pa- ven nói thêm:

     - Anh mệt lắm !

     Tô-nhi-a nhìn anh một lúc lâu, chan chứa tình thương,

trìu mến mặn nồng, vừa lo lắng, vừa vui sướng... Tô-nhi-a

siết chặt tay Pa-ven:

     - Anh Pa-ven, anh Pa-ven yêu quý, anh Pa-ven thân thiết

bé bỏng của em, em yêu anh…anh có hiểu em không? Anh

rất bướng của em. Tại sao tối hôm nọ anh lại đùng đùng bỏ

về? Giờ anh phải vào nhà em. Em giữ anh lại, không cho

anh đi nữa đâu. Anh ở nhà em yên ổn. Anh ở đây đến bao

giờ yên thì thôi.

     Pa-ven lắc đầu:

     - Nhỡ chúng tìm thấy anh ở nhà em thì làm thế nào? Anh

không thể vào nhà em được.

     Tay Tô-nhi-a càng siết chặt, mi dài rung rung, mắt sáng

lên.

     - Anh không vào thì chẳng bao giờ anh còn gặp được

em nữa. Với lại, anh A-rơ-chom không có nhà, anh ấy đã bị

chúng áp giải đi lái xe rồi. Các anh công nhân xe lửa đều bị

chúng bắt đi làm cả. Anh tính đi đâu bây giờ mới được?

     Pa-ven hiểu thấu lòng Tô-nhi-a lo lắng, nhưng mối lo sợ

có thể gieo tai vạ cho người con gái mà anh yêu dấu khiến

anh ngần ngại. Bao nhiêu thử thách đã làm anh kiệt sức

mệt lả, bụng đói như cào làm Pa- ven không cưỡng lại

được nữa: anh nghe theo.

     Trong khi Pa-ven ngả lưng ở ghế dài buồng Tô-nhi- a,

thì Tô-nhi-a xuống nói chuyện với mẹ ở dưới bếp:

     - Mợ ơi, trên buồng con có anh Pa-ven Ca-rơ-sa- ghin

là học trò con, mợ nhớ ra chứ? Con không dám giấu mợ

điều gì. Anh ấy bị bắt vì đánh tháo cho một người lính thủy

bôn-sê-vích. Anh ấy vừa trốn ra được, nhưng không có nơi

nào ẩn cả.- Giọng Tô-nhi-a bắt đầu run: - Mợ ơi, con xin

phép mợ đồng ý để anh ấy ở nhờ nhà ta, con van mợ!

     Đôi mắt Tô-nhi-a van lơn nhìn mẹ.

     Bà mẹ thì nhìn mắt con như dò xét.

     - Được mợ cũng chẳng cấm con. Song con cho cậu ta

ở vào đâu mới được?

     Tô-nhi-a đỏ mặt, bối rối, hồi hộp trả lời:

     - Để anh ấy ở trong buồng con, nghỉ trên ghế dài. Song

mợ đừng nói gì với cậu vội, mợ nhớ.

     Mẹ nhìn thẳng vào mắt con:

     - Con bấy lâu nay khóc mãi, thế ra là vì nó đấy?

     - Vâng ạ.

     - Nhưng nó mới ít tuổi đầu!

     Tô-nhi-a nóng ruột, mân mê rứt tay áo sơ-mi đang mặc.

     - Vâng, song nếu anh ấy không trốn được thì cũng bị

đem bắn như người lớn vậy.

     Pa-ven ở trong nhà làm bà mẹ không được yên tâm. Bà

lo lắng về chuyện Pa-ven bị bắt, mà Tô-nhi-a thì rõ ràng là

cảm mến cậu bé đó rồi và bà cũng lo lắng vì bà hoàn toàn

không biết gì về Pa-ven hết.

     Còn Tô-nhi-a thì bận tíu tít:

     - Phải cho anh ấy tắm, mợ ạ. Bây giờ con lo cho anh ấy

tắm ngay. Anh ấy bẩn như người thợ mới ở lò ra... Đã lâu

lắm rồi, anh ấy có được tắm rửa gì đâu.

    Tô-nhi-a vội vã chạy đi đun nước, sắp quần áo và để

khỏi phải nói nhiều với Pa-ven, cô đùng đùng dắt tay anh,

dẫn vào buồng tắm.

    - Anh phải thay hết quần áo đi. Quần áo anh phải giặt

mới được. Anh lấy quần áo kia mà thay.

    Và Tô-nhi-a chỉ cái áo lính thủy cổ trắng kẻ dọc, cái

quần ống rộng thùng thình đã gấp cẩn thận để trên ghế.

    Pa-ven đưa mắt ngạc nhiên nhìn chung quanh.

    Tô-nhi-a mỉm cười:

    - Đây là quần áo giả trai ngày hội trá hình của em, chắc

anh mặc vừa. Thôi em để anh tắm nhớ. Em xuống dọn

cơm anh ăn.

    Nói rồi đóng sập cửa. Pa-ven chỉ còn biết làm theo lời

Tô-nhi-a cởi quần áo ra và nhảy vào chậu tắm.

    Một giờ sau, bà mẹ, Tô-nhi-a và Pa-ven ngồi ăn cơm

dưới bếp. Đói quá, Pa-ven ăn hết đĩa thứ ba mà không để

ý. Mới đầu có mặt bà mẹ Tô-nhi-a, Pa-ven cũng ngượng,

nhưng sau thấy bà niềm nở, anh đâm dạn ra.

    Cơm xong, cả ba người sang buồng Tô-nhi-a. Mẹ Tô-

nhi-a hỏi han Pa-ven, anh kể cho bà nghe những bước

gian truân của mình. Nghe xong, mẹ Tô-nhi-a hỏi:

    - Thế em định thế nào bây giờ?

    Pa-ven suy nghĩ:

    - Con định gặp anh A-rơ-chom con, rồi đi khỏi đây.

    - Đi đâu?

    - Con định đi U-mân hay đi Ki-ép. Con chưa biết đi đâu

Nhưng chắc chắn là phải đi khỏi đây mới được.

    Pa-ven không tài nào ngờ được số phận mình có thể

thay đổi nhanh như thế. Sáng còn bị nhốt ở nhà giam, bây

giờ đã ở bên Tô-nhi-a rồi, mặc quần áo mới tinh và cái

chính là đã được tự do.

    Cuộc đời đôi khi xoay hẳn chiều lại như thế đấy: lúc thì

bóng tối mù mịt trùm kín cuộc đời, lúc thì ánh sáng mặt trời

lại tươi vui cười với bạn. Nếu không có mối lo bị bắt lại thì

lúc này Pa-ven cảm thấy đúng là sung sướng hoàn toàn rồi.

    Nhưng chính ngay giữa lúc này, lúc anh đang ở cái nhà

rộng rãi và yên tĩnh này, thì chúng có thể bắt lại anh ngay ở

đây.

    Phải liệu đi, đến đâu cũng được, đừng ở lại đây nữa.

Nhưng nào bụng có muốn rời nơi này đâu! Thật là oái oăm

! Lúc đọc truyện vị anh hùng Ga-ri-ban- đi thì mê thật! Cứ

mơ ước được như Ga-ri-ban-đi. Tuy biết đời ông ta gian

khổ lắm, bị đuổi khắp thế giới, nhưng vẫn thèm cuộc đời

đó. Thế mà nếm mùi tra tấn ghê khiếp mới được bảy ngày

mà đã thấy dài đằng đẵng như đến cả năm trường rồi.

    Xem thế thì ra mình chẳng có tướng anh hùng.

    Tô-nhi-a ngả đầu về phía Pa-ven hỏi:

    - Anh đang nghĩ gì thế, anh?

    Pa-ven có cảm tưởng như đôi mắt của người yêu xanh

thăm thẳm vô cùng tận.

    - Tô-nhi-a ơi, em có muốn anh kể về Khơ-ri-chi-na cho

em nghe không?

    Tô-nhi-a đon đả:

    - Anh kể đi.

    - Và từ hôm ấy, Khơ-ri-chi-na không trở lại nữa.

    Đoạn cuối của câu chuyện, Pa-ven khó khăn mãi mới

kể nốt được.

   Trong phòng tịch mịch, chỉ có tiếng đồng hồ kêu tích tắc

đều đều... Tô-nhi-a cúi đầu, cắn chặt môi, cố giữ khỏi bật

tiếng khóc.

   Pa-ven nhìn người yêu, giọng quả quyết:

   - Anh phải đi ngay hôm nay.

   - Không, không, hôm nay anh không đi đâu cả.

   Những ngón tay thon thon ấm áp của Tô-nhi-a khẽ lần

mái tóc cứng của Pa-ven giật tóc anh trìu mến.

   - Tô-nhi-a ạ, em phải giúp anh. Cần ra sở đầu máy xe

lửa hỏi thăm tin tức anh A-rơ-chom và đưa mảnh giấy anh

viết cho Xéc-gây. Anh có khẩu súng ngắn giấu trên tổ quạ.

Anh không thể đến lấy được, nên muốn nhờ Xéc-gây đến

lấy hộ. Em có giúp được anh không?

   Tô-nhi-a đứng dậy:

   - Được anh ạ. Em sẽ đi tìm Li-da, cùng với cô ta vào sở

đầu máy. Thế anh viết cho Xéc-gây đi, em sẽ đưa đến. Anh

ấy ở đâu? Nếu anh ấy muốn đến gặp anh thì nói là anh ở

đâu được?

   Suy nghĩ một lát, Pa-ven đáp:

   - Cứ bảo anh ấy chiều nay mang khẩu súng đến vườn

nhà.

   Đến khuya, Tô-nhi-a mới về, Pa-ven đã ngủ say. Tay ai

vuốt trán làm Pa-ven thức dậy. Tô-nhi-a cười vui sướng:

   - Anh A-rơ-chom sắp đến ngay bây giờ. Anh ấy mới đi

về. Có ông cụ đẻ ra Li-da bảo đảm, nên anh ấy được phép

ra ngoài một tiếng. Đầu máy anh ấy lái còn đỗ trong sở.

Em không thể nói được là anh ở đây chỉ bảo anh ấy đến

đây, em có việc quan trọng lắm cần nhắn anh ấy. Kia kìa,

anh ấy đã đến rồi!

    Tô-nhi-a chạy ra cổng. A-rơ-chom thấy Pa-ven còn ngỡ

là mắt mình trông nhầm, đứng sững lại ngay trước cửa. A-

rơ-chom vào rồi. Tô-nhi-a khép cửa lại để cậu mình bị đau

thương hàn nằm ở bên phòng giấy khỏi nghe tiếng.

    Tay A-rơ-chom ôm chặt lấy Pa-ven, ghì em vào lòng,

làm khớp xương Pa-ven kêu răng rắc:

    - Em Páp-ca của anh!

    *

    Thế là quyết định rồi: mai Pa-ven đi. A-rơ-chom thu xếp

cho em ngồi vào đầu máy do bác Bơ-ru-giắc lái đi Ca-da-

chin.

    A-rơ-chom thường ngày tính khô khan, đã phải nôn nao

trong lòng vì lo lắng cho em, không biết số phận em ra sao.

Bây giờ thì lòng anh dạt dào vui sướng không sao kể xiết.

    - Vậy cứ thế em nhé. Năm giờ sáng mai, anh đón em ở

nhà kho vật liệu. Lúc chất củi lên tàu thì em trèo lên ngồi

luôn. Anh muốn nói chuyện nữa với em, song đến giờ phải

về rồi. Mai anh lại ra tiễn em đi. Bây giờ các anh bị động

viên, đang có biên chế thành tiểu đoàn lính thợ xe lửa, làm

việc có lính mang súng đi kèm y như dưới thời giặc Đức

vậy.

    Anh từ giã em ra về.

    Bóng tối trùm xuống rất nhanh. Xéc-gây sẽ đến đây

bằng lối cổng vào vườn. Pa-ven đi đi lại lại trong phòng tối

đợi Xéc-gây đến. Tô-nhi-a và mẹ còn ngồi ở đầu giường

cậu Tô-nhi-a.

    Pa-ven và Xéc-gây gặp nhau trong tối: hai bạn siết chặt

tay nhau. Cả Va-li-a cũng đến. Ba người nói chuyện nhỏ:

    - Mình không mang khẩu súng đến cho cậu được. Sân

nhà cậu giờ đầy lính ngụy đóng. Xe ngổn ngang. Chúng đốt

lửa giữa sân. Thật chẳng làm thế nào leo lên cây có tổ quạ

được cả. Không may thế đấy.

   Pa-ven nói để bạn yên lòng:

   - Thôi cóc cần súng nữa. Có lẽ thế càng hay. Đi đường

có súng, nó tóm được thì lại mất đầu. Song khi nào lấy

được thì cậu phải cố lấy đi nhé. Thế nào cũng lấy đi đấy.

   Va-li-a nhích lại gần:

   - Bao giờ anh đi?

   - Mai, Va-li-a ạ, vào lúc mờ sáng.

   - Nhưng anh làm thế nào trốn ra được, nói cho em nghe

với.

   Pa-ven thì thầm kể lại qua loa chuyện vừa xảy ra.

   Ba người trẻ tuổi chia tay nhau thân thiết quá. Xéc-gây

không đùa như mọi khi nữa, lòng bồi hồi cảm động. Giọng

Va-li-a nghẹn ngào mãi mới thốt ra:

   - Thôi, anh đi khỏe mạnh, anh Pa-ven nhớ. Đừng quên

chúng em đấy!

   Bóng hai người bạn đi ra chìm ngay vào đêm tối.

   Trong nhà lặng lẽ. Chỉ có tiếng đồng hồ buông tiếng tích

tắc đều đều không mệt mỏi. Pa-ven cũng như Tô-nhi-a

chẳng ai nghĩ gì đến đi ngủ cả: chỉ còn sáu tiếng nữa thôi,

hai người đã phải xa nhau, và có thể sẽ không bao giờ

được thấy lại mặt nhau nữa. Thời giờ ngắn ngủi thế này, kể

lể với nhau làm sao hết được trăm ngàn ý nghĩ và lời nói

mà mỗi người mang nặng trong lòng.

   Tuổi thiếu niên ! Tuổi thiếu niên tươi đẹp biết bao, khi

bạn còn chưa biết gì đến khát vọng, mà bạn chỉ mới cảm

thấy mơ hồ trong những tiếng đập gấp gấp của trái tim; khi

bàn tay của bạn run rẩy, sờ sợ, rụt nhanh lại, vì vô tình chạm

vào ngực người bạn gái, khi tình bạn của tuổi niên thiếu

còn ngăn được lòng bạn không để đi đến bước cuối của

tình cảm. Còn gì trên đời có thể ngọt ngào hơn hai cánh tay

người yêu đang quàng lên cổ bạn và cái hôn của ai nồng

cháy, như có luồng điện phát ra.

    Đây là cái hôn thứ hai từ khi đôi trẻ thân nhau. Ngoài

mẹ ra, Pa-ven có được ai âu yếm bao giờ. Trái lại anh bị

đòn, bị đánh nhiều. Và vì thế, anh càng cảm thấy hết sức

thấm thía sự âu yếm của Tô-nhi-a.

    Suốt cả cuộc đời vất vả cay nghiệt, Pa-ven có bao giờ

biết trên đời có niềm vui sướng ấy. Người con gái này đây

là hạnh phúc lớn trên đường đời anh đi. Anh ngửi mái tóc

thơm và tưởng chừng như nhìn thấy mắt người yêu.

    - Anh yêu em lắm, Tô-nhi-a ạ. Anh không thể nói hết

lòng anh với em được. Anh không biết nói thế nào.

    Bao nhiêu ý nghĩ quên hết... Tấm thân mềm mại này

chiều anh ngoan ngoãn biết bao nhiêu. Song tình bạn của

tuổi thiếu niên vẫn là trên hết!

    - Em Tô-nhi-a, bao giờ yên hàn rồi, anh sẽ làm thợ điện.

Nếu bấy giờ em vẫn không chê anh, nếu thật em yêu anh,

chứ không phải chỉ thích cho vui thì anh sẽ là người chồng

tốt của em. Anh sẽ không bao giờ đánh em. Nếu anh mà

làm em khổ thì anh sẽ không sống làm gì.

    Và sợ ôm nhau mà ngủ quên đi trong lòng nhau, đôi trẻ

rời nhau, để mẹ khỏi nghĩ đến điều gì không tốt. Đôi bạn

còn hứa với nhau sẽ không bao giờ quên nhau, rồi mới đi

ngủ. Lúc ấy đã quá nửa đêm.

    Sáng sớm, mẹ Tô-nhi-a đánh thức Pa-ven dậy. Anh

nhảy thoắt xuống đất.

    Giữa lúc Pa-ven vào phòng tắm lấy áo cũ của mình thay,

đi giày và khoác chiếc áo vét-tông của Đô-lin- nhích ra

ngoài, thì bà mẹ đánh thức Tô-nhi-a dậy.

    Hai người vội vã ra đi trong sương mai ầm ướt;

    họ đi về phía nhà ga, vòng vào kho củi. A-rơ-chom đang

sốt ruột đợi hai người bên toa than chở đầy củi.

    Khói phì lên phủ mờ cả đầu máy lớn. Đầu máy thong thả

lại gần.

    Bác Bơ-ru-giắc từ trong ca-bin nhìn qua cửa sổ.

    Phút biệt ly ngắn ngủi. Pa-ven bíu chắc lấy tay vịn thang

xe, trèo bậc sắt lên tàu. Lên rồi, anh quay nhìn lại. Hai bóng

thân yêu đứng ở lối chắn ngang đường tàu: thân hình cao

lớn của A-rơ-chom và bên cạnh là Tô-nhi-a thon thon, nhỏ

bé.

    Gió mạnh như giận dữ thổi phần phật vào cổ áo và làm

bay ngược mớ tóc bồng màu hạt dẻ của Tô- nhi-a. Tô-nhi-a

vẫy tay, không nén được thổn thức. A-rơ-chom liếc nhìn cô

bé, thở dài:

    "Nhất định hai đứa bé phải lòng nhau rồi. À, tay Pa-ven

này, thế mà bảo nó còn bé bỏng”.

    Khi con tàu đã khuất vào đường ngoặt, A-rơ-chom quay

lại phía Tô-nhi-a:

    - Từ nay, chúng ta là chỗ thân tình cả.

    Và bàn tay bé nhỏ của Tô-nhi-a lọt thỏm trong bàn tay to

tướng của A-rơ-chom.

    Từ xa vọng lại tiếng ầm ầm của con tàu chạy gấp lên.

CHƯƠNG VII

    Đã một tuần nay, thành phố bị giao thông hào và dây

thép gai đánh đai lấy chung quanh chi chít như mạng nhện,

thức cũng như ngủ đều sống dưới tiếng nổ rền của trọng

pháo và tiếng giòn giã của những loạt súng trường. Chỉ

đến đêm khuya lắm, tiếng súng mới im. Nhưng chốc chốc

lại có vài loạt súng vì hoảng mà bắn xé phá tan yên tĩnh: đấy

là các vị trí tiền tiêu bắn dò nhau. Tờ mờ sáng, người ta

loay hoay bên những khẩu đại pháo bố trí ở nhà ga. Khẩu

súng há cái mõm đen ra khạc đạn giận dữ và ghê sợ.

Người ta lại hối hả tọng vào những cái mõm ấy những

khẩu phần chì mới. Người lính pháo thủ giật dây; mặt đất

rung chuyển. Cách xa thành phố ba dặm, mé trên một làng

do Hồng quân chiếm lĩnh, đạn trái phá bay vèo rú lên trên

không, làm át hết mọi thứ tiếng, rồi rơi xuống bắn tung

những mảnh đất vụn lên trời.

    Pháo binh đỏ đặt trong sân một tu viện Ba Lan lâu đời

xây trên ngọn đồi cao ở giữa làng.

    Đồng chí ủy viên quân sự của khẩu đội tên là Da- mô-

chin đang ngủ gật, đầu dựa vào càng súng, thức choàng

dậy, nịt lại dây da mang khẩu Mô-de cho thêm chặt, lắng

nghe tiếng đạn bay, chờ tiếng nổ. Giọng đồng chí sang

sảng vang cả sân:

    - Các đồng chí ơi, dậy đi thôi! Mai ta sẽ ngủ nốt.

    Các chiến sĩ ngủ bên những khẩu pháo cũng vùng dậy

lẹ như người chỉ huy của mình. Chỉ có Xi-đô-súc là chậm,

miễn cưỡng nhấc cái đầu còn ngái ngủ.

    - Bọn chúng nó đểu thật. Chưa sáng đã sủa lên rồi.

Quân súc sinh !

    Da-mô-chin cả cười:

    - Nói làm gì chúng nó, Xi-đô-súc. Quân chúng nó là

những phần tử chưa giác ngộ. Chúng nó có nể gì giấc ngủ

của cậu.

    Xi đô-súc càu nhàu ngồi dậy.

    Vài phút sau pháo ta đã giã khỏe nổ đùng đùng trên sân

tu viện và bắn phá ầm ầm vào thành phố Sê-pê-tốp-ca.

    Trên ngọn ống khói nhà máy đường, một tên sĩ quan

Pết-lu-ra và tên lính điện thoại leo lên theo bậc thang sắt

bắc bên trong ống khói nhà máy, ngồi trên sàn gỗ bằng

mảnh ván xếp lại

    Ngồi trên sàn cao, chúng nhìn rõ chung quanh, cả thành

phố như nằm trong lòng bàn tay chúng. Từ trên ngọn ống

khói cao ấy, chúng chỉ huy cho pháo bắn. Chúng thấy rõ

từng bước tiến lui của quân đỏ đang vây thành. Ngày hôm

ấy, bên hàng quân đỏ hết sức rộn rịp. Trong ống nhòm

nhãn hiệu "Dét-xơ” thấy rõ những đơn vị của họ hành binh.

Trên đường sắt đến ga Pô-đôn, đoàn xe lửa bọc sắt từ từ

tiến lên, vừa đi vừa nã pháo không ngớt. Sau đoàn tàu là

những hàng bộ binh. Quân đỏ mở nhiều đợt xung phong.

Song quân nguy bố trí bám chắc lấy ngoại vi thành phố.

Các giao thông hào bốc cháy như hỏa ngục. Tiếng nổ điên

cuồng vang âm không trung, nghe cứ to mãi, và những lúc

tấn công thì hóa thành một chuỗi tiếng gầm rền rú lên liên

tiếp. Và bên tuyến bôn-sê-vích bị đạn trút xuống như mưa

lũ. Không thể trấn được sức phản công căng thẳng quá

sức chịu đựng của con người ấy, bên ta phải rút lui để lại

trên chiến trường những xác không động đậy.

    Ngày hôm ấy, những đợt tấn công vào thành phố mỗi

lúc một quyết liệt, một dày. Lúc nào không trung cũng inh

lên những loạt súng đại bác, bần bật chuyển động. Đứng từ

ngọn ống khói nhà máy có thể nhìn toàn thể các mặt trận,

bọn quan trắc ngụy thấy rõ những mũi quân bôn-sê-vích có

lúc lảo đảo, nép rạp xuống đất, vấp ngã, song lại vùng dậy

tiến lên không gì cưỡng nổi. Bên đỏ gần chiếm được toàn

bộ nhà ga. Ngụy quân tung ra trận tất cả sức dự trữ, nhưng

không thể nào lấp được chỗ thủng ở mặt trận nhà ga.

Những hàng quân đỏ lòng đầy quyết tâm mãnh liệt ào ào

tiến vào các phố quanh nhà ga. Trung đoàn ngụy thứ ba có

nhiệm vụ giữ nhà ga đã bị đột kích ác liệt bật ra khỏi những

vị trí cuối cùng, bị dồn ra khỏi những vườn rau, khóm cây

mà chúng bố trí, bị chia cắt tứ tung, vội rút chạy về phía

trung tâm thành phố. Hồng quân không để cho quân địch

kịp hoàn hồn, không để cho chúng có thời giờ nghỉ chân,

cứ xông lên dùng lưỡi lê quét hết mọi sức kháng cự và tràn

vào các phố như ngọn triều băng băng.

    Không còn sức mạnh nào trên đời có thể giữ Xéc- gây

ở lại dưới hầm nhà được nữa. Anh đang cùng cả nhà và

hàng xóm ẩn dưới ấy, những chuyện xảy ra trên đường phố

thúc giục anh chạy lên, ngồi yên không tài nào chịu được.

Mặc mẹ quát theo, Xéc-gây đã nhảy ra khỏi cái hang mát

lạnh ấy. Một chiếc xe bọc sắt Xa-gai-đa-sơ-ny ầm ầm chạy

qua mặt nhà, nhả đạn ra tứ phía mở đường cho quân ngụy

Pết-lu-ra đang hoảng vía bỏ chạy tán loạn. Một tên ngụy

chạy trốn vào sân nhà Xéc-gây, vội vã cuống quýt trút hết

bao đạn, mũ sắt và khẩu súng, rồi nhảy qua tường lẩn vào

đám vườn rau. Xéc-gây đánh bạo nhìn ra đường. Quân

Pết-lu-ra có chiếc xe bọc sắt yểm hộ chạy trốn theo con

đường về phía ga Tây-nam. Đường vào phố vắng ngắt.

Bỗng có một vệ quân đỏ nhảy ra đường cái nằm rạp xuống

đất bắn. Theo sau anh là người thứ hai rồi người thứ ba...

Xéc-gây nhìn thấy họ rõ lắm: họ khom mình vừa chạy vừa

bắn. Một vệ quân đỏ, người Trung Quốc, nghe đại bác nổ

vẫn cứ đuổi địch không thèm nằm xuống. Anh ta nước da

xạm màu sương gió, hai mắt sáng rực, phong phanh manh

áo cụt tay, thắt lưng đeo băng đạn súng máy, hai tay lăm

lăm lựu đạn. Chạy như bay tiến trước tất cả mọi người là

một đội viên trẻ măng vác súng liên thanh. Đấy là mũi thứ

nhất của quân đỏ đột nhập vào thị xã. Lòng Xéc-gây rộn lên

vui sướng. Anh nhảy bổ ra đường, lớn tiếng hô lên:

    - Hoan hô các đồng chí!

    Người vệ quân Trung Quốc bất ngờ đâm sầm phải cậu

thiếu niên ấy, tí nữa xô ngã. Anh đã chực hăng máu giận xô

lại nện cậu bé, song thấy vẻ mặt hớn hở của Xéc-gây thì lại

thôi ngay; giọng thở hổn hển, anh quát hỏi:

    - Pết-lu-ra? Nó chạy đâu?

    Song Xéc-gây còn mải chạy đi chỗ khác, không nghe

thấy anh hỏi. Xéc-gây nhảy vào sân nhà, vớ lấy khẩu súng

và bao đạn mà tên nguy trút lại, khoác vào người, rồi hối hả

chạy theo đoàn vệ quân đỏ. Mãi đến khi Hồng quân chiếm

lĩnh xong nhà ga Tây-nam, người ta mới nhận ra Xéc-gây.

Sau khi đã chiếm được mấy chuyến xe chở đạn dược và

trang bị, đã đuổi địch chạy vào rừng, quân đỏ dừng lại để

nghỉ ngơi và chỉnh đốn lại đội ngũ. Anh đội viên trẻ giữ

súng máy lại gần Xéc-gây ngạc nhiên hỏi:

    - Đồng chí ở đâu đấy?

    - Em người địa phương, ở thành phố này. Em đợi các

đồng chí mãi.

    Anh em Hồng quân xúm quanh lấy Xéc-gây. Anh Trung

Quốc mỉm cười hí hửng:

    - Tồng chí này tôi biết. Tôi gặp tồng chí ấy hô: "Hoan hô

các tồng chí”. Tồng chí ấy là người anh em ta, một người

bôn-sê-vích, tồng chí ấy thanh niên, tốt lắm.

    ( Trong cuộc nội chiến ở Nga có nhiều đồng chí quốc tế

(trong đó có Trung Quốc) tham gia Hồng quân chiến đấu

bên cạnh công nhân và nông dân Xô-viết)

    Và anh ta vui sướng vỗ vào vai Xéc-gây. Lòng Xéc- gây

rạo rực sung sướng. Hồng quân đã ngay từ đầu nhận Xéc-

gây như nhận một người thân. Anh cùng với các anh Hồng

quân giương lưỡi lê trần, xung phong chiếm lấy nhà ga.

    Hàng phố rộn lên. Dân phố, ẩn lâu đã mệt, tức tốc ra

khỏi các hầm nhà, xúm đến đầu đường xem Hồng quân

đang tiến vào. Mẹ Xéc-gây và Va-li-a nhìn thấy Xéc-gây:

đang đi trong hàng ngũ Hồng quân, đầu không mũ, vai vác

súng, ngang lưng đeo bao đạn.

    Bà mẹ tức giận giơ tay lên trời la lối.

    Thằng Xéc-gây con bà mà dính vào chuyện đánh nhau!

Không thể nào như thế được. Thử nghĩ xem: ban ngày ban

mặt, trước mắt tất cả hàng phố mà vai nó vác súng đi theo

người ta diễu binh. Rồi sau này sẽ ra sao, sau này xảy ra

chuyện gì thì làm thế nào? Những ý nghĩ đó làm bà điên

người, không nén được nữa, bà quát lên:

    - Xéc-gây, có xéo ngay về nhà không! Về ngay lập tức!

Mày đứng lại tao bảo, thằng khốn kiếp kia. Ti toe đi bộ đội!

Về nhà rồi bà dạy cho mày đi đánh nhau!

    Và bà chạy theo con định lôi lại.

    Nhưng Xéc-gây, chính Xéc-gây mà bà thường củng đầu

béo tai, Xéc-gây gườm gườm nhìn bà. Anh bị mắng thẹn

đỏ mặt, nhục quá, ngắt lời mẹ:

    - Mẹ la cũng chẳng được! Cơn không về đâu.

    Và vẫn rảo bước đi lên.

    Bà mẹ giận sôi người tru tréo:

    - Quân này láo thật. Nó dám mở mồm nói với mẹ nó thế

đấy. Được, đã thế mày đừng có bò về nhà bà nữa nhé!

    Xéc-gây không ngoảnh mặt lại:

    - Con chẳng về nữa đâu.

    Bà đứng sững ở bên đường, ngơ ngác. Những chiến sĩ

da rám nắng và người bám đầy bụi đường diễu qua trước

mặt bà. Có tiếng ai chắc nịch nói đùa:

    - Má đừng khóc, má ạ. Chúng con sẽ bầu cậu ấy làm

chính ủy.

    Cả trung đội ồ lên cười vui vẻ. Hàng trước của đại đội

cất lên giọng đồng ca mạnh mẽ:

Các đồng chí ơi! Ta đi đều bước.

Ra trận tiền, dũng cảm đi lên!

Dấn thân mình mở đường tiên trước.

Tới tự do đang chờ ta. . .

     Những hàng khác hát theo rắn rỏi và giọng Xéc- gây

lanh lảnh vang lên trong tiếng hát chung ấy. Xéc-gây đã tìm

được một gia đình mới của mình. Đại đội có thêm một lưỡi

lê, lưỡi lê của Xéc-gây.

     Trên cổng biệt thự nhà Lê-sinh-ski treo một tấm bìa

trắng, có đề chữ: "Ủy ban cách mạng”. Bên cạnh là một

bức tranh áp-phích đỏ rực: hình một chiến sĩ Hồng quân trỏ

tay và nhìn thẳng vào người qua lại, dưới có hàng chữ:

"Anh đã gia nhập Hồng quân chưa?”.

    Đêm qua các cán bộ ban chính trị của sư đoàn đã đem

dán những bức áp-phích đó, những tuyên truyền viên không

nói. Ngay cạnh là lời kêu gọi đầu tiên của ủy ban cách

mạng gửi toàn thể nhân dân lao động thành Sê-pê-tốp-ca.

    "Các đồng chí,

    Bộ đội vô sản đã giải phóng thành phố. Chính quyền

Xô-viết đã được lập lại Chúng tôi kêu gọi đồng bào trấn

tĩnh.

    Lũ khát máu bài Do-thái đã bị đánh đuổi. Song muốn

cho chúng không bao giờ trở lại nữa, để tiêu diệt hoàn toàn

bọn chúng, hãy tham gia đội ngũ Hồng quân. Hãy đem hết

sức ủng hộ chính quyền của nhân dân lao động. Từ nay

việc quân chính trong thành phố do Tư lệnh trưởng đơn vị

bảo vệ thành phố chỉ huy. Việc dân chính do ủy ban cách

mạng lãnh đạo.

Chủ tịch ủy ban cách mạng

    ĐÔ-LIN-NHÍCH"

    Trong biệt thự nhà Lê-sinh-ski xuất hiện những người

mới đến. Tiếng "đồng chí” mới hôm qua ai nói đến là mất

mạng, hôm nay đi chỗ nào cũng nghe thấy. Nghe tiếng

"đồng chí” ấy, lòng mới rộn ràng xúc động làm sao.

    Đô-lin-nhích thì không còn biết giấc ngủ, biết nghỉ ngơi

là gì.

    Người thợ mộc ấy đang tổ chức chính quyền cách

mạng.

    Trên cánh cửa một phòng nhỏ của tòa biệt thự, dán một

mảnh giấy đề bằng bút chì: "Đảng ủy”. Nơi đây, đồng chí I-

gơ-na-chi-ê-va đang làm việc. I-gơ- na-chi-ê-va là một cán

bộ phụ nữ bình tĩnh, vững vàng. Ban chính trị sư đoàn giao

cho đồng chí và đồng chí Đô-lin-nhích nhiệm vụ tổ chức

chính quyền Xô-viết

    Mới qua một ngày đã có đủ những người giúp việc ngồi

trong các phòng giấy; tiếng máy chữ lách cách; hội đồng

cung cấp lương thực đã được thành lập. Phụ trách hội

đồng này là Pư-gi-ki, tính nóng nảy sôi nổi. Anh đã làm thợ

máy phụ ở xưởng đường. Với đức tính kiên quyết hiếm có,

ngay từ những ngày đầu thiết lập chính quyền Xô-viết, anh

công nhân người Ba Lan ấy đã đả ngay bọn công chức

cao cấp xưởng đường, một lũ giấu mặt ngầm nuôi thù sâu

đối với những người bôn-sê-vích.

    Trong hội nghị xí nghiệp, anh đấm mạnh tay xuống bàn,

nói với anh em thợ, những lời thô cộc bằng tiếng Ba Lan,

rắn chắc và không khoan nhượng:

    - Có điều chắc chắn là cuộc đời trước đây đã tiệt hẳn

rồi. Cha chúng ta, cả chúng ta nữa, đã suốt đời hùng hục

làm thuê cho thằng bá tước Pô-tô-ski. Thế là đủ lắm rồi.

Chúng ta đã xây những tòa lâu đài cho nó, thế mà bá tước

"chí tôn chí kính" chỉ cho chúng ta vừa vặn đủ để khỏi chết

đói nhăn răng, đủ sống nai lưng mà đi làm khổ sai cho

chúng nó.

    Biết bao nhiêu năm trời rồi, tất cả lũ bá tước Pô- tô-ski

và cả bọn hoàng thân Xan-gút-cô phè phỡn sống bám trên

lưng chúng ta rồi? Ở đây, trong chúng ta không có khối

những thợ Ba Lan bị thằng Pô-tô-ski bóc lột, róc xương,

bòn tủy cũng như bao nhiêu anh em thợ Nga và U-cơ-ren

khác đấy ư? Vậy mà có bọn tay sai của lũ quý tộc tung ra

trong công nhân những tin đồn xảo quyệt. Chúng nó bảo

chính quyền Xô- viết sẽ bóp chặt tất cả mọi người.

    Đấy là luận điệu vu khống đểu cáng nhất, các đồng chí

ạ. Chưa bao giờ anh em thợ thuộc mọi thành phần dân tộc

được hưởng nhiều quyền tự do như ngày nay. Tất cả vô

sản là anh em. Nhưng còn đối với bọn chủ, bọn quý tộc, đối

với tụi chúng nó thì ta sẽ bóp chặt chúng lại, các đồng chí

có thể tin nhất định là như thế.

    Tay anh lại vung lên, rồi lại đập mạnh xuống cạnh bàn:

    - Kẻ nào bắt chúng ta phải làm đổ máu những người

anh em của chúng ta? Bọn vua quan, từ bao nhiêu thế kỷ

nay, đem nông dân Ba Lan đánh dân Thổ Nhĩ Kỳ và bao

giờ cũng đem một dân tộc này xông vào đánh giết cướp

phá một dân tộc khác. Biết bao nhiêu mạng người bị tàn

sát, biết bao tai họa trút xuống đầu nhân dân. Kẻ nào cần

chuyện giết người như vậy? Có phải chúng ta không?

Nhưng rồi chúng ta sẽ làm cho không còn những chuyện

như thế nữa. Bọn hút máu loài người đã hết thời rồi. Người

bôn-sê-vích đã tung ra khắp thế giới những câu nói làm bọn

tư sản khiếp sợ: "Vô sản toàn thế giới, liên hiệp lại!" Có

thế chúng ta mới cứu đời chúng ta được. Có thế ta mới hy

vọng được có ngày mai sung sướng, khi tất cả thợ thuyền

đã đoàn kết bốn bể một nhà. Các đồng chí, hãy gia nhập

Đảng cộng sản !

    Cũng sẽ có một nước Cộng hòa Ba Lan, nhưng là một

nước Cộng hòa Xô-viết. Một nước Cộng hòa không có lũ

Pô-tô-ski, lũ chúng nó thì chúng ta sẽ tiêu diệt đến tận gốc

rễ. Trong nước Ba Lan Xô-viết đó, tự chúng ta sẽ làm chủ.

Có ai là không biết bạn nghề của chúng ta là Bơ-rô-ních?

Anh ấy giờ được chỉ định làm ủy viên nhân dân phụ trách xí

nghiệp chúng ta. Bài hát chính thức của chúng ta nói sao?

"Nay mai cuộc đời của toàn dân khác xưa. Bao nhiêu lợi

quyền tất qua tay mình". Thật như thế đấy. Các đồng chí,

đối với chúng ta sẽ là những ngày vui như hội. Nhưng, các

đồng chí đừng có nghe lời của lũ rắn độc giấu đầu! Nếu

lòng tin cậy của giai cấp công nhân ta có thể giúp chúng ta

làm được thì chúng ta sẽ làm cho các dân tộc trên thế giới

đoàn kết thân yêu lẫn nhau.

    Những lời nói mới lạ đó, anh đã nói ra từ đáy lòng giản

dị của người công nhân.

    Khi anh nói xong, từ trên diễn đàn bước xuống, đám

thanh niên hết sức cảm tình nhiệt liệt hoan hô anh, biểu

đồng tình với anh.

    Nhưng những người lớn tuổi chưa dám công khai tán

thành. "Biết đâu đấy? Nhỡ mai bôn-sê-vích lại rút lui, thì rồi

lại phải vạ miệng. Nếu không bị treo cổ thì chắc ít ra cũng bị

đuổi khỏi nhà máy”.

    Ủy viên nhân dân phụ trách giáo dục là ông giáo Sê-nô-

pư-ski, người gầy, mảnh khảnh, bé loắt choắt. Hiện nay

trong số các giáo viên địa phương chỉ mới có Sê-nô-pư-

ski là người hết lòng với bôn-sê-vích mà thôi.

    Đại đội "công tác đặc biệt” đóng đối diện trụ sở ủy ban

cách mạng, làm trách nhiệm bảo vệ ủy ban. Chiều đến, một

khẩu súng máy Mắc-xim, với băng đạn lòng thòng như con

rắn, đặt chồm chỗm ngay trước cửa, sẵn sàng đối phó với

mọi chuyện bất trắc. Bên cạnh khẩu súng máy, hai chiến sĩ

đứng gác cầm súng trường.

    Nữ đồng chí I-gơ-na-chi-ê-va đến trụ sở ủy ban thì để ý

ngay đến người vệ quân đỏ trẻ măng trong số hai người

đó.

    - Đồng chí bao nhiêu tuổi?

    - Tôi mười sáu rồi.

    - Đồng chí người địa phương?

    Anh lính trẻ mỉm cười:

    - Vâng, tôi vào bộ đội mới hôm kia, giữa lúc ta đang

đánh vào thành phố.

    I-gơ-na-chi-ê-va nhìn kỹ người chiến sĩ trẻ:

    - Ông cụ đẻ ra đồng chí làm gì?

    - Thợ máy phụ.

    Giữa lúc ấy, Đô-lin-nhích cùng với một quân nhân nào

nữa bước vào biệt thự. Nữ đồng chí I-gơ-na-chi- ê-va quay

lại nói với Đô-lin-nhích:

    - Anh này, tôi đã tìm được người cán bộ tổ chức cho

khu đoàn thanh niên cộng sản rồi đó. Đồng chí này là người

địa phương.

    Đô-lin-nhích đưa mắt nhìn Xéc-gây:

    - À, té ra con bác Bơ-ru-giắc! Còn đợi gì nữa, em đi tổ

chức bọn trẻ lại.

    Xéc-gây ngạc nhiên, nhìn các đồng chí lãnh đạo:

    - Thế còn đại đội tôi?

    Đô-lin-nhích đã chạy lên bậc thềm còn ngoái lại:

    - Việc đó đã có bọn mình thu xếp.

    Chiều hôm sau, Đoàn ủy địa phương của Đoàn thanh

niên cộng sản U-cơ-ren được thành lập.

    Cuộc đời mới ập đến bất ngờ. Xéc-gây bị cuốn vào

cơn gió lốc của phong trào, say sưa hiến tất cả cho phong

trào. Anh chẳng nghĩ gì đến gia đình, tuy nhà ở ngay gần

đây thôi.

    Xéc gây đã thành một người bôn-sê-vích. Có đến mười

lần anh rút trong túi ra xem mảng bìa trắng có ghi dòng chữ

Đảng cộng sản bôn-sê-vích U-cơ-ren chứng nhận anh là

đoàn viên thanh niên cộng sản và bí thư cấp ủy. Ai mà có ý

không tin điều đó thì cứ nhìn thắt lưng Xéc-gây khắc biết,

thắt lưng đeo bao súng may tạm bằng vải bạt trong có khẩu

súng ngắn Man-li-khe rất oai, món quà của Pa-ven thân

thiết gửi lại. Đó là một thứ giấy chứng minh không gì giàu

sức thuyết phục hơn. Chà, cậu Pa-ven lại không có ở đây

mới tiếc làm sao!

    Suốt cả ngày, Xéc-gây chạy công tác của ủy ban cách

mạng giao cho. Giờ thì nữ đồng chí I-gơ-na-chi- ê-va đang

đợi anh. Hai người sẽ đi lên ga, vào ban chính trị sư đoàn,

lấy tài liệu tuyên truyền và sách báo cho ủy ban cách mạng.

Xéc-gây chạy bổ ra đường. Đồng chí cán bộ ban chính trị

ngồi xe hơi đợi hai người ngay ngoài cửa ủy ban.

    Đường lên ga khá xa. Ban tham mưu và ban chính trị

của sư đoàn U-cơ-ren Xô-viết thứ nhất đóng ngay trên các

toa xe lửa nhà ga. Tranh thủ lúc đi đường, I-gơ-na-chi-ê-va

hỏi Xéc-gây:

    - Hôm nay về ngành của chú, chú đã làm được gì rồi.

Đã gây được cơ sở chưa? Chú phải tuyên truyền vào các

bạn bè của chú, những con em công nhân ấy. Không chậm

trễ được, phải tổ chức ngay nhóm thanh niên cộng sản.

Ngay ngày mai chúng ta sẽ thảo và cho in lời kêu gọi của

Đoàn thanh niên cộng sản. Sau đó tập hợp thanh niên mít-

tinh ở rạp hát. Lát nữa đến ban chính trị, chị sẽ giới thiều

với chú cô Ri-ta Uất-chi-nô-vích. Nếu chị không lầm thì cô ta

phụ trách công tác thanh niên thì phải.

    Ri-ta là một thiếu nữ mười tám tuổi, tóc nâu cắt ngắn,

mặc chiếc áo va-rơ ka-ki mới, ngang lưng có thắt dây da

nhỏ bản. Gặp Xéc-gây, Ri-ta đã nói cho anh nghe rất nhiều

điều mới và hứa giúp Xéc-gây trong công tác. Khi Xéc-gây

ra về, Ri-ta đã đưa cho anh một bó tài liệu dày, và đặc biệt

là có giao tận tay anh một cuốn sách nhỏ: cương lĩnh và

điều lệ của Đoàn thanh niên cộng sản.

    Mãi tới khuya, nữ đồng chí I-gơ-na-chi-ê-va và Xéc- gây

mới về đến ủy ban cách mạng. Về đến nơi thì Va-li-a đang

đứng đợi ở vườn, trông thấy anh là gay gắt trách ngay:

    - Gớm, anh không biết xấu. Thế nào, anh định từ bỏ hẳn

nhà hay sao? Tại anh cho nên mẹ khóc mấy ngày, thầy giận

lắm. Nếu cứ để thế mãi thì không tốt đâu.

    - Không hề gì đâu, Va-li-a ạ. Anh thật tình hết sức bận,

không có thời giờ về nhà, anh nói thật đấy. Hôm nay nữa

anh cũng không về nhà đâu. Nhưng Va-li-a ơi, anh cần nhờ

em việc này. Em đi vào đây. Anh phải nói với em mới

được.

    Va-li-a khó mà nhận ra đấy là anh mình nữa. Xéc gây

thay đổi hẳn, hình như có ai bắt điện vào người anh.

    Xéc gây kéo em ngồi xuống ghế đâu đấy, rồi đi thẳng

ngay vào câu chuyện.

    - Chuyện thế này đây. Em phải vào Đoàn. Em không

hiểu à? Vào Liên đoàn thanh niên cộng sản. Đoàn do anh

làm chủ tịch. Em không tin à? Đây đọc đi!

    Va-li-a đọc chứng minh thư và sửng sốt nhìn anh:

    - Em vào Đoàn thì làm gì được?

    Xéc-gây dang rộng cánh tay:

    - Làm gì à? Em tưởng không có việc cho em làm à?

Đây này, bà cụ non ạ, mấy đêm nay là anh không ngủ. Phải

ra sức tuyên truyền. Nữ đồng chí I-gơ-na- chi-ê-va bảo là sẽ

tập hợp tất cả thanh niên ở nhà hát để giải thích cho họ biết

về chính quyền Xô-viết. Đồng chí ấy lại bảo anh phải đọc

diễn văn. Anh thì anh nghĩ rằng nữ đồng chí ấy đã lầm, vì

anh chẳng biết đọc diễn văn ra sao, giao cho anh thì đến

hỏng mất… Sao, em nghĩ về Đoàn thế nào?

    - Em không biết thế nào. Nếu vào thì mẹ lại càng giận

hơn nữa thôi.

    - Va-li-a ạ, em đừng có nghe mẹ. Mẹ không hiểu tí gì

đâu. Mẹ chỉ nghĩ có một điều: giữ rịt con cái ở bên mình.

Kể thì không phải là mẹ không ưa chính quyền Xô-viết. Trái

lại, mẹ còn cảm tình nữa là đằng khác. Song mẹ chỉ muốn

cho con cái nhà khác đánh nhau ngoài mặt trận, chứ không

phải là con mình. Như thế có đúng không? Em có nhớ anh

Giu-khơ-rai nói gì với chúng ta không? Em thử xem Pa-ven,

Pa- ven có nghe mẹ cậu ấy đâu. Bây giờ chúng ta có quyền

sống cho ra sống. Va-li-a ạ, em không thể từ chối việc vào

Đoàn được. Kể hai anh em mình mà cùng công tác thì tốt

biết chừng nào. Em hoạt động trong đám con gái, còn anh

công tác bọn con trai. Còn thằng quỷ Cơ-lim-ca tóc đỏ, anh

sẽ kết nạp nó ngay hôm nay. Em quyết định đi nào. Sao...

em vào hay không? Đây quyển sách này sẽ giải thích tất cả

cho em mọi điều.

    Xéc-gây móc túi lấy cuốn sách đưa cho em. Va-li- a

nhìn anh không rời mắt, thấp giọng hỏi anh:

    - Nhưng nhỡ bọn Pết-lu-ra nó trở lại thì sẽ ra sao hở

anh?

    Lần đầu tiên Xéc-gây nghĩ đến điều có thể xảy ra đó.

    - Nó trở lại ấy à, anh thì thế nào cũng đi với anh em rồi.

Nhưng còn em thì thế nào nhỉ? Mẹ chắc sẽ khổ lắm. - Nói

đến đây Xéc-gây lặng người đi, im bặt.

    - Anh cứ ghi tên em vào, anh Xéc-gây ạ, nhưng giữ kín

đừng cho mẹ biết, cũng đừng cho ai biết cả. Chỉ riêng anh

và em biết thôi. Em sẽ giúp anh mọi việc nhưng đừng cho

ai biết cả thì lợi hơn.

    - Em nói phải đấy, Va-li-a ạ.

    Giữa lúc đó, I-gơ-na-chi-ê-va bước vào phòng.

    - Đồng chí I-gơ-na-chi-ê-va, đây là Va-li-a, em gái tôi.

Tôi đã nói chuyện với Va-li-a về lý tưởng của ta. Va-li-a

hoàn toàn đủ tiêu chuẩn vào Đoàn, đồng chí ạ. Nhưng chỉ

phải cái là mẹ chúng tôi khó tính. Đồng chí xem có thể kết

nạp Va-li-a mà giữ kín không cho ai biết được không? Vì

giá thử ta có phải rút lui, tôi thì dễ lắm, tôi thì thế nào cũng

vác súng đi rồi, nhưng còn Va-li-a, nó thương mẹ không nỡ

rời đi được.

    Nữ đồng chí I-gơ-na-chi-ê-va ngồi ở cạnh bàn, lắng tai

nghe Xéc-gây, rồi nói:

    - Kết nạp như thế cũng được. Mà lại càng tốt nữa.

    *

    Rạp hát đầy chật đám thanh niên ồn ào. Họ thấy có áp-

phích dán báo có mít tinh thì kéo nhau đến đây. Đội nhạc

của công nhân máy đường đến giúp vui. Công chúng hôm

nay gần như gồm rặt học trò ly-xê cả trai lẫn gái, và học

sinh trường tiểu học.

     Họ kéo nhau đến đây vì mít-tinh thì ít, mà vì nghe nói có

biểu diễn văn nghệ thì nhiều.

     Màn kéo lên. Đồng chí Ra-din bí thư quận đoàn, người

nhỏ, gầy, mũi nhọn nhọn vừa mới ở quận về bước ra sân

khấu. Đồng chí nói được thính giả chăm chú nghe, nói về

cuộc đấu tranh đang tràn lan khắp nước và kêu gọi thanh

niên đoàn kết chung quanh Đảng cộng sản. Đồng chí nói

như một tay hùng biện thật, song bài nói lủng củng nhiều

danh từ phức tạp như "mác-xít chính phái", "xã hội vị chủng”

v.v..., những chữ ấy tất nhiên người nghe không hiểu nghĩa

là gì cả.

     Đồng chí nói xong được vỗ tay ran tán thưởng. Đồng

chí nhường lời cho Xéc-gây, rồi đi về ngay.

     Cái việc mà Xéc-gây rất ngại đã đến. Bài nói chưa

chuẩn bị xong. "Nói gì? Nói về cái gì?". Xéc-gây cố nghĩ ra

lời mà nói, song chẳng ra được câu gì hết, đầu óc đảo lộn

rối bời.

     Chị I-gơ-na-chi-ê-va ngồi ở bàn chủ tịch khẽ nhắc Xéc-

gây: "Nói về tổ chức chi đoàn".

     Xéc-gây liền nói ngay vào các vấn đề công tác thực tế.

     - Tất cả các đồng chí đã nghe rõ rồi. Bây giờ chúng ta

cần thành lập chi đoàn. Vậy ai tán thành đề nghị của tôi?

     Cả phòng trở nên im lặng.

     Ri-ta đỡ lời cho Xéc-gây, Ri-ta bắt đầu nói về tổ chức

thanh niên ở Mát-xcơ-va. Còn Xéc-gây thì ngượng nghịu

đứng tránh ra bên.

     Thái độ của người nghe có vẻ thờ ơ đối với việc tổ

chức chi đoàn làm cho Xéc-gây thêm bối rối. Anh hằn học

nhìn cử tọa. Ri-ta nói, thính giả cũng không chú ý nghe.

Thằng Da-li-va-nốp thì nhìn Ri-ta có vẻ khinh ra mặt, hắn

ghé tai thì thầm cái gì với con bé Li-da. Bọn học trò con gái

lớp trên ở ly-xê, mũi bé bằng tí đánh phấn, thì ngồi ở mấy

hàng ghế đầu, liếc ngang, liếc dọc, những cái liếc giết

người. Bọn nó nói chuyện thì thào với nhau không dứt. Ở

một góc rạp, gần chân thang bước lên sân khấu là nhóm

thanh niên Hồng quân nhà mình, và giữa đám anh em ấy,

Xéc-gây nhận ra anh chàng đội viên súng máy quen biết.

Anh ta ngồi gần mép sân khấu, đang bực dọc lắm, đầy

căm tức nhìn con Li-da và con An-na diện ngất trời. Cả hai

đứa đang ngang nhiên tán chuyện với kép chẳng biết

ngượng là gì.

    Cảm thấy mình nói không ai nghe, Ri-ta liền kết luận

nhanh bài nói và nhường lời cho chị I-gơ-na- chi-ê-va.

Tiếng nói ôn tồn của chị làm phòng họp yên lặng chăm chú.

    Chị nói:

    - Các đồng chí thanh niên, các đồng chí mỗi người hãy

suy nghĩ kỹ những điều nghe được tối nay. Tôi tin chắc rằng

trong số các đồng chí sẽ có những người đến với cách

mạng để làm những chiến sĩ tích cực, chứ không phải là

những khán giả xem chơi. Đoàn thanh niên sẵn sàng mở

cửa đón các đồng chí, tùy các đồng chí quyết định lấy. Để

các đồng chí tự mình phát biểu ý kiến của mình thì hơn. Xin

mời những ai muốn phát biểu lên phát biểu ý kiến.

    Phòng họp lại im lặng. Ở tít hàng ghế cuối phòng, có

tiếng vang lên:

    - Tôi xin nói!

    Một thanh niên mắt hơi lác, trông như con gấu con,

bước lên diễn đàn. Thanh niên ấy là Mi-sa Lép-súc.

    - Đồng chí vừa rồi đã nói thế thì tôi xin có ý kiến. Nếu

cần ủng hộ những người bôn-sê-vích thì tôi không bao giờ

từ chối. Đồng chí Xéc-gây đã biết tôi đấy, tôi xin ghi tên vào

Đoàn thanh niên cộng sản.

    Xéc-gây mỉm cười, mặt mày tươi rạng.

    Anh nhảy ra đứng giữa sân khấu:

    - Tôi biết đồng chí này. Mi-sa là một thanh niên của ta.

Cha anh là thợ bẻ ghi, bị xe lửa kẹp chết, vì thế cho nên

anh không được đi học. Các đồng chí xem đấy anh hiểu

ngay nhiệm vụ phải làm, tuy chẳng có học qua ly-xê nào cả.

    Cử tọa la ó nhao nhao lên. Một cậu học trò tóc uốn quăn

xin phát biểu: trò ấy tên là Ô-cu-sếp, con lão dược sĩ. Ô-cu-

sếp xốc áo đứng dậy nói:

    - Xin lỗi các đồng chí, chứ tôi không hiểu người ta muốn

đòi chúng tôi làm gì. Muốn chúng tôi làm chính trị ư? Vậy thì

bao giờ chúng tôi mới được học? Chúng tôi phải học cho

xong ly-xê. Vâng, nếu các đồng chí mời chúng tôi vào hội

thể thao hay cùng nữa vào câu lạc bộ để đọc sách báo thì

chúng tôi không có chối từ. Song đi làm chính trị để rồi nhỡ

ra thời thế thay đổi bị treo cổ ư? Xin lỗi các đồng chí thôi.

Tôi dám chắc rằng chẳng có ai đồng ý đi làm chuyện đó cả

đâu.

    Tiếng cười rộ khắp gian phòng. Ô-cu-sếp bước xuống

và ngồi lại chỗ. Anh bộ đội giữ súng máy hùng hổ kéo chụp

mũ cát-két xuống trán, nhảy lên chỗ diễn đàn tức giận quắc

mắt nhìn khắp lượt các dãy ghế, rồi thét lên:

    - Chúng mày cười à, hở đồ khốn nạn?

    Đôi mắt rừng rực cháy như hai cục than hồng, anh vừa

nói vừa thở, giọng nói và toàn thân run lên tức giận:

    - Tên tôi là Giác-ky I-văng. Tôi không biết cha mà cũng

không biết mẹ tôi là ai. Tôi là một đứa trẻ mồ côi, sống cầu

bơ cầu bất, ngày lang thang hè phố, đêm lăn ra ngủ ở bờ

giậu bờ rào. Đói khát không có chỗ nương thân. Đời khổ

sở như chó, chứ không như hạng chúng mày toàn là con

cái những nhà giàu sụ. Ngày nay chính quyền Xô-viết đến

rồi. Các anh Hồng quân thu nạp tôi vào một trung đội đã

nuôi tôi, cho ăn, cho mặc, cho giày đi, dạy cho tôi học, và

chủ yếu là đã làm cho tôi giác ngộ. Nhờ đó mà tôi thành

một người bôn-sê-vích và tôi nguyện làm một người bôn-

sê-vích cho đến chết. Tôi, tôi biết lắm, vì sao phải chiến

đấu. Vì chúng tôi, vì những người cùng khổ, vì chính quyền

công nhân. Chúng mày ngồi đấy mà nhạo báng, mà cười hí

như một đàn ngựa, chúng mày không biết là ngay sát thành

phố này, hai trăm đồng chí đã ngã, đã vĩnh viễn hy sinh... -

Nói đến đây, giọng Giác-ky rung lên như một dây đàn kéo

căng. - Những đồng chí đó đã không hề do dự, đã hiến cả

đời mình cho hạnh phúc của chúng ta, cho sự nghiệp của

chúng ta. . . Và trên khắp đất nước, biết bao nhiêu đồng chí

nữa đã hy sinh trên các mặt trận. Thế mà giữa lúc đó, bọn

chúng mày còn ngồi yên, đỏng đảnh, ngoảnh mặt đi...

    Rồi Giác-ky, quay mặt về phía chủ tịch đoàn, giơ tay chỉ

đám cử tọa:

    - Các đồng chí lại đi kêu gọi những quân ấy ư? Đồ

chúng nó mà lại hiểu được hay sao? Không! Một đứa thừa

ăn với một người chết đói không đi đôi với nhau được.

Mấy trăm mặt mà chỉ có một tiếng đáp lại chúng ta thôi.

Bởi vì đấy chính là tiếng nói của một cậu bé mồ côi cùng

khổ. - Anh quay lại phía cử tọa hét lên giận dữ. - Còn hạng

chúng mày thì chúng tao không cần đến mặt chúng mày.

Chúng tao không phải cầu xin chúng mày ủng hộ! Đồ chúng

mày chỉ làm vướng cẳng chúng tao thôi.

    Hơi thở hầm hập, Giác-ky kết luận:

    - Những quân này, chỉ đem lia quách một băng đi cho

rảnh !

    Anh từ diễn đàn chạy xuống chẳng thèm nhìn ai, bước

thẳng ra ngoài cửa.

    Chủ tịch đoàn không một ai ở lại dự dạ hội. Trên

đường về ủy ban cách mạng, Xéc-gây nói, giọng chán nản:

    - Thật là nhỡ tàu. Giác-ky nó nói thế mà đúng. Chẳng

được tích sự gì, cái đám học sinh ấy. Lũ chúng nó, thật ghét

mặt.

    I-gơ-na-chi-ê-va ngắt lời:

    - Điều đó không lấy gì làm lạ: hầu hết không phải là

thanh niên vô sản. Phần lớn hoặc là đám thanh niên tiểu tư

sản hoặc là lớp trí thức thành thị, lũ thanh niên nhởn nhơ.

Phải tiến hành công tác ở trong quần chúng thanh niên

công nhân. Dựa vào đám thanh niên máy cưa và máy

đường. Song, cuộc mít-tinh không vô ích đâu: trong anh chị

em học sinh có những phần tử tốt đấy.

    Ri-ta cũng đồng ý với I-gơ-na-chi-ê-va:

    - Xéc-gây ạ, nhiệm vụ chúng ta là không ngừng tuyên

truyền in sâu vào óc mỗi người những tư tưởng và những

khẩu hiệu của chúng ta. Mỗi việc xảy ra, Đảng phải giải

thích bình luận cho quần chúng cần lao hiểu. Chúng ta sẽ tổ

chức một loạt những cuộc mít-tinh, những cuộc hội nghị,

những cuộc đại hội. Ban chính trị đang mở hội nhà hát mùa

hè ở trên ga. Ít lâu nữa sẽ có một chuyến tàu tuyên truyền

đến. Lúc đó chúng ta có thể phát triển phong trào. Xéc-gây

hãy nhớ lời Lê-nin. Lê-nin đã nói: chúng ta sẽ không bao

giờ thắng được, nếu ta không lôi cuốn vào cuộc đấu tranh

những khối đông đảo quần chúng cần lao.

    Xéc-gây đưa Ri-ta về nhà ga thì đã khuya. Lúc bắt tay

từ giã nhau, anh nắm lấy bàn tay Ri-ta, siết rất chặt và giữ

trong tay mình một giây. Ri-ta thoang thoáng mỉm cười.

    Trước khi về trụ sở, Xéc-gây còn tạt thăm nhà.

    Mẹ anh la lối om sòm, anh vẫn im không nói. Nhưng

đến khi cha cũng nói chen vào thì anh không giữ được nữa,

quay ra nói lại, khiến cha không còn biết nói thế nào.

    - Thầy để cho con nói. Con hỏi thầy cái ngày quân Đức

ở đây thầy bỏ việc, bãi công, lại thịt cả thằng lính gác trên

xe lửa nữa thì thầy có nghĩ đến nhà không? Thầy có nghĩ

chứ, song thầy vẫn làm bởi vì ý thức của người thợ bắt thầy

phải làm như thế. Thì ngày nay, con cũng nghĩ như thầy, con

cũng nghĩ đến nhà. Con biết, nếu quân ta phải bỏ đất này

mà đi thì nhà vì con cũng có thể bị chúng làm rầy đấy. Song,

nếu chúng con đánh thắng, Hồng quân đánh thắng thì thắng

lợi là thắng lợi chung của giai cấp công nhân ta. Con không

thể cứ khoanh tay ngồi ở nhà được, thầy ạ. Thầy chắc hiểu

cho con. Thế mà nhà còn cứ mè nheo con làm gì? Thầy

biết con đi vào con đường phải, thầy phải nâng đỡ con,

giúp con mới phải chứ. Đằng này, thầy lại cũng nhiếc móc

con. Con xin thầy nghĩ lại, thầy đừng nói con nữa, thầy

không nói con thì con tin là mẹ con cũng thôi không kêu

nữa.

    Đôi mắt xanh và trong của Xéc-gây nhìn thẳng vào cha,

dịu dàng mỉm cười, tin chắc là mình có lý.

     Bác Bơ-ru-giắc ngồi trên ghế dài, bối rối, nhếch đôi ria

mép rậm và chòm râu đâm tua tủa cười xòa, lộ ra hai hàm

răng vàng khè.

     - Thằng quái, mày lại định dạy khôn tao đấy hả? Mày

tưởng mày giờ có súng thì tao sợ không dám đánh đòn

mày đấy chắc?

     Trong giọng nói của bác không có gì là đe dọa cả. Lúng

ta lúng túng, bác chìa bàn tay nổi chai ra bắt chặt tay con:

     - Thôi, con đi. Con đang đi lên chả nhẽ thầy lại hãm con

lại. Chỉ cốt một điều là đừng có quên chúng tao, thỉnh

thoảng con xin phép anh em về nhà chơi, Xéc-gây nhé!

     Bấy giờ là đêm. Cánh cửa mở hé hắt ra một vệt ánh

sáng chiếu lên những bậc thềm. Trong gian phòng lớn kê

ghế đi-văng đệm mềm lót da thú non, năm người ngồi

quanh chiếc bàn giấy rộng nhà lão luật sư Lê-sinh-ski. ủy

ban cách mạng đang họp ở đấy. Đô-lin-nhích, I-gơ-na-chi-

ê-va, chủ tịch ủy ban đặc biệt là Chi-mô-sen-cô đội mũ

lông, trông giống như người dân Kiếc-ghi, và hai ủy viên ủy

ban cách mạng là Su-đích, công nhân đường sắt, người

cao lêu nghêu như cây sào, và anh công nhân sở đầu máy

xe lửa mũi tẹt tên là Ô-sta-súc.

     Đô-lin-nhích, ngả người xuống bàn, nhìn chằm chằm

thẳng vào mặt nữ đồng chí I-gơ-na-chi-ê-va, giọng khàn

khàn, dằn từng tiếng:

     - Phải bảo đảm cung cấp cho mặt trận. Công nhân cũng

cần ăn. Thế mà từ khi ta vào đây, bọn nhà buôn, bọn đầu

cơ tăng vọt giá cả. Chúng không chịu bán hàng lấy tiền Xô-

viết, mà chỉ nhận lấy giấy bạc "Ni- cô-lai" hoặc giấy bạc

"Kê-răng-ski" thôi. Ngay hôm nay đây, ta phải định giá các

mặt hàng. Chúng ta cũng hiểu chán là bọn đầu cơ không

chịu bán theo giá ta hóa giá đâu. Thế nào chúng cũng găm

lại. Lúc đó ta sẽ khám xét và trưng thu hết hàng của bọn

bóc lột ấy. Không thể cứ nhẹ tay mãi được. Ta không thể

để yên mãi cho anh chị em công nhân chết đói được. Đồng

chí I-gơ-na-chi-ê-va khuyên chúng ta thận trọng, chớ có làm

mạnh quá. Tôi thì tôi gọi ngay cái lối dè dặt ấy là tính chất

nhu nhược của trí thức đấy. l-gơ-na-chi-ê-va đừng giận. Tơi

thấy thế nào thì nói như thế. Vả chăng, ta có làm gì các nhà

buôn nhỏ và bà con buôn thúng bán mẹt đâu. Người ta báo

cho tôi biết trong nhà của lão chủ quán Dô-na có một cái

hầm bí mật. Trước khi quân Pết-lu-ra tới, bọn buôn sụ đã

giấu ở đấy nhiều hàng tích trữ lắm.

    (Giấy bạc "Ni-cô-lai : giấy bạc của Nga hoàng. Giấy

bạc "Kê-răng-ski: tiền của chính phủ lâm thời- chính phủ tư

sản phản động)

    Đô-lin-nhích đưa mắt nhìn Chi-mô-sen-cô có vẻ châm

biếm, Chi-mô-sen-cô hỏi lại một cách ỉu xìu:

    - Sao cậu biết được?

    Thấy Đô-lin-nhích biết mọi chuyện trước cả mình, Chi-

mô-sen-cô đâm ra bực bội vì đáng lẽ ra anh là người phải

biết những chuyện đó trước tiên. Đô-lin- nhích cười:

    - Hê hê. Tớ biết tất, ông anh ạ, - ngừng một lát, anh tiếp:

Tớ không những biết cái hầm mà lại còn biết cả chuyện

hôm qua cậu và đồng chí lái xe của sư đoàn trưởng đã tu

cạn với nhau một nửa lít rượu nữa kia.

    Chi-mô-sen-cô ngồi không yên trên ghế. Nước da mặt

vàng vàng bỗng đỏ ửng lên. "Chà! Thánh thật!" Chi-mô-

sen-cô kêu lên giọng đầy khâm phục, nhưng nhìn thấy I-gơ-

na-chi-ê-va cau mày, thì lại im ngay. Rồi nhìn Đô-lin-nhích

nghĩ thầm: "Gớm, thằng cha thợ mộc này quỷ quái thật.

Chắc lại có tình báo riêng gì đây”.

    Tiếng Đô-lin-nhích nói tiếp:

    - Chính chú bé Xéc-gây đã cho tôi biết đấy. Xéc- gây có

người bạn làm ở hàng cơm nhà ga. Những người nấu bếp

kể cho bạn Xéc-gây biết là trước kia lão chủ Dô-na giao

hàng cho họ, cần bao nhiêu cũng có. Hôm qua thái Xéc-

gây đã có tin chắc chắn: hầm thì có hẳn đi rồi, nhưng phải

biết hầm đó ở đâu mà tìm. Đấy, Chi-mô-sen-cô hãy chọn

một số anh em đi sục ngay đi bảo cả Xéc-gây đi theo nữa.

Phải làm thế nào để trong hôm nay truy cho ra cái kho. Truy

ra thì có cái để cung cấp cho anh chị em thợ và bộ đội của

sư đoàn.

    Nửa giờ sau, tám người có súng ập vào nhà lão chủ

quán Dô-na. Hai người đứng gác ngoài cửa.

    Lão chủ béo quay, bụng phệ, tròn trùng trục như cái

thùng rượu, tóc hung lởm chởm dựng ngược; chiếc chân

giả bằng gỗ đi lộp cộp trên sàn, hắn chạy ra khúm núm

trước những người mới đến, giọng mũi khàn khàn, thì thào

khẽ thưa:

    - Dạ, các đống chí đến có việc gì đấy ạ? Sao lại đến

khuya thế này ạ?

    Mấy đứa con gái lão chủ, đứng sau lưng lão ta, chúng

vừa thức dậy, hãy còn khoác áo choàng ngoài. ánh đèn pin

của Chi-mô-sen-cô làm chúng nheo mắt lại. Buồng bên

cạnh, mụ vợ phốp pháp của lão vừa mặc lại quần áo vừa

kêu rên.

    Không nói quanh co, Chi-mô-sen-cô trả lời:

    - Chúng tôi đến khám nhà ông.

    Họ dõi từng viên gạch nền nhà. Rồi cái nhà dưới chất

đầy củi, ngoài kho, trong bếp, cái hầm xếp rượu rộng thênh

thang chỗ nào cũng lục soát thật kỹ, nhưng không thấy tăm

hơi cái hầm bí mật giấu hàng đâu cả.

    Trong chiếc buồng nhỏ cạnh bếp, người ở gái nhà chủ

quán đã ngủ say lắm chẳng còn biết có người nào vào nhà

nữa. Xéc-gây khẽ lay cô ta dậy hỏi: "Cô làm cho nhà này

phải không?".

    Cô ta còn ngái ngủ, thấy hỏi lạ quá, rụt vai vào chăn, lấy

tay che mắt bị chói ánh đèn, rồi không hiểu đầu đuôi ra

sao, hỏi lại: "Phải, em là con ở. Thế còn các anh, các anh

là ai?".

    Xéc-gây nói cho cô ta rõ và đi ra để cô ta mặc quần áo

đứng dậy.

    Chi-mô-sen-cô hỏi lão chủ quán ở trong phòng ăn rộng

lớn. Lão này thở phì phì, nổi cáu, kêu la:

    - Các đồng chí bắt chúng tôi thế nào nữa? Nhà tôi

không có cái hầm nào khác cả. Các đồng chí thấy đấy các

đồng chí xét lắm, tôi cam đoan là chỉ mất thời giờ thôi.

Trước, tôi có cửa hàng rượu này. Giờ thì hết rồi. Nghèo xơ

nghèo xác. Bọn Pết-lu-ra cướp hết nhẵn, suýt nữa chúng

giết cả tôi. Chính phủ Xô- viết ta về, tôi mừng lắm. Nhưng

còn của cải của tôi có bao nhiêu thì các đồng chí thấy cả

đấy. - Và hắn xòe những ngón tay chuối mắn ra. Đôi mắt

gian đầy tia máu đỏ của hắn hết nhìn Chi-mô-sen-cô đến

nhìn Xéc-gây, hết nhìn Xéc-gây lại nhìn vào góc nhà, rồi nhìn

lên trần.

    Chi-mô-sen-cô cắn môi bực tức:

    - Nghĩa là ông vẫn cứ giấu? Một lần cuối cùng, tôi bảo

ông phải chỉ cho chúng tôi hầm giấu hàng đâu.

    Mụ vợ nói chen vào:

    - Đồng chí bộ đội dạy thế nào ạ? Chúng cháu đói khát,

khổ sở, đang chết dở. Họ lấy hết sạch sành sanh của nhà

cháu.

    Mụ định khóc, nhưng khốn nỗi chẳng rặn được ra hột

nước mắt nào cả.

    - Nhà mụ chết dở vậy mà vẫn nuôi được con ở. - Xéc-

gây đưa ra nhận xét ấy.

    - Con ở gì nó hở trời! Nó là con bé không cửa không

nhà, khổ sở, không có chỗ nương thân, chúng cháu thương

hại đem về nuôi. Đấy cứ để cho con Khơ-ri- chi-na nó nói

cho các ông nghe xem có thật không.

    Chi-mô-sen-cô sốt ruột quát lên:

    - Thôi được, ta cứ tiếp tục khám đi!

    Sáng rõ rồi, mà trong nhà lão chủ quán anh em vẫn tiếp

tục khám xét ráo riết. Chi-mô-sen-cô bực mình vì đã mất

mười ba tiếng liền tìm tòi không có kết quả. Anh đã định

thôi không khám nữa. Xéc-gây đã định bỏ đi, bỗng nhiên

nghe thấy trong buồng xép người ở gái có tiếng thì thào

khe khẽ của Khơ-ri-chi-na.

    - Cái hầm đâu ở trong bếp, dưới cái lò bánh ấy.

    Trong mười phút, cái lò to tướng đã bị dỡ đi, để lộ nắp

hầm bằng sắt. Một giờ sau, chiếc xe cam nhông chở đầy

thùng và bao nặng từ nhà tên chủ quán rời đi, giữa một

đám đông tò mò xúm lại xem.

    *

    Một ngày nóng bức, bà mẹ Pa-vẹn cắp gói con quần áo

trở về nhà. Nghe A-rơ-chom kể chuyện lại về Pa- ven, bà

khóc thương, lòng đau xót. Từ đấy, bà cụ sống những ngày

đau buồn. Không còn gì ăn nữa, phải nhận quần áo anh em

bộ đội về giặt. Anh em trả công, cấp cho bà phiếu một

khẩu phần lương thực của bộ đội.

   Vào một buổi chiều, A-rơ-chom đi làm về, bà cụ trông

qua cửa sổ, thấy anh đi rảo bước khác mọi ngày. Vừa đặt

chân tới cửa, anh tay đẩy cửa, miệng bô bô nói ngay: "Thư

của em Pa-ven !"

   Thư Pa-ven viết:

   Anh A-rơ-chom thân mến,

   Em báo tin anh biết, em vẫn còn sống, song không

được khỏe lắm. Em bị đạn vào đùi, nhưng nay đã khá rồi.

Bác sĩ bảo đạn chưa vào xương. Anh đừng lo chẳng việc

gì đâu, sẽ khỏi anh ạ. Ở quân y ra, nếu được phép, em sẽ

về thăm anh. Lần trước, em chưa đi đến chỗ mẹ ở được

đâu. Dọc đường, em nhập đoàn kỵ binh đỏ, nay em là đội

viên của lữ đoàn kỵ binh mang tên đồng chí Cô-lốp-ski,

một anh hùng nổi tiếng mà chắc anh cũng biết tên. Em

chưa từng gặp người nào anh dũng như đồng chí lữ đoàn

trưởng, em rất khâm phục đồng chí ấy. Mẹ đã về chưa

anh? Nếu mẹ về rồi, anh thưa với mẹ: em, đứa con út của

mẹ, xin tha thiết chào mẹ và mong mẹ tha lỗi cho em vì

đã làm mẹ lo nghĩ nhiều.

   Em bé của anh

   T.B. - Anh tạt lại nhà ông chánh kiểm lâm và cho bên

ấy xem thư này với.

Bà cụ khóc nhiều. Và đứa con bé dại của bà quên cả

ghi địa chỉ nơi đang nằm điều trị. Làm sao mà tìm được

nó?

    Xéc-gây năng ghé vào một toa xe lửa sơn xanh, ngoài

có biển để chữ: "Tổ tuyên huấn ban chính trị sư đoàn". I-gơ-

na-chi-ê-va và Ri-ta làm việc ở đây, trong một ngăn toa

nhỏ. I-gơ-na-chi-ê-va mồm ngậm mãi một điếu thuốc không

bao giờ hút, nhếch mép mỉm cười dí dỏm.

    Xéc gây là bí thư khu đoàn thanh niên, thường đến đây

lấy tài liệu, báo chí. Anh dần dần thân với Ri-ta lúc nào

không biết và cứ mỗi lần ở toa tàu ra về ngoài tài liệu sách

báo, anh lại mang theo cả niềm vui xôn xao của những buổi

gặp gỡ ngắn ngủi ấy.

    Nhà hát ngoài trời do Ban chính trị sư đoàn tổ chức

hôm nào cũng chật ních công nhân và bộ đội. Đoàn xe lửa

tuyên truyền của quân đoàn thứ 12 chung quanh dán đầy

những áp-phích và biểu ngữ màu tươi, đậu trên đường sắt.

Hoạt động sôi nổi ngày và đêm. Bộ phận in đầy ắp công

việc. Anh em in xuất bản báo, truyền đơn, hiệu triệu. Ở đây

sát bên tiền tuyến. Một buổi tối, Xéc-gây tình cờ vào nhà

hát. Anh trông thấy Ri-ta ngồi giữa đám chiến sĩ Hồng

quân. Khuya về, tiễn chân Ri-ta lên ga tới chỗ ở của các

cán bộ Ban chính trị, Xéc-gây đột nhiên hỏi:

    - Đồng chí Ri-ta này, không hiểu sao tôi lúc nào cũng

mong gặp Ri-ta ghê lắm? - Và Xéc-gây nói thêm: Có Ri-ta

ở bên cạnh tôi thấy trong người thoải mái vô cùng. Mỗi lần

gặp Ri-ta về, tôi cảm thấy hăng hái thêm và muốn làm việc

mãi không nghỉ.

    Ri ta ngắt lời:

    - Đồng chí Xéc-gây, chúng ta cần hiểu nhau mới được.

Từ nay về sau, đồng chí không nên đi vào cái lối tình cảm

lãng mạn ấy nữa. Tôi không thích thế đâu .

    Xéc-gây thẹn đỏ mặt như anh học trò bị thầy quở. Anh

đáp lại:

    - Tôi nói với Ri-ta như một người bạn thân mà Ri- ta thì

lại... Tôi hỏi Ri-ta: tôi có nói gì phản cách mạng không : Đã

thế nhất định từ nay trở đi, tôi chẳng nói gì nữa!

    Và Xéc-gây vội chìa tay bắt tay chào biệt Ri-ta, anh

quay trở lại xuống phố, đi nhanh như chạy.

    Đến mấy hôm liền, Xéc-gây không ra ga nữa. Cho đến

hôm chị I-gơ-na-chi-ê-va cho gọi Xéc-gây đến, anh cũng

tìm cớ thoái thác là bận công tác. Mà thật tình, anh cũng

bận, vùi đầu vào công việc.

    *

    Một đêm, Su-đích đi về nhà anh, qua phố có nhiều công

chức cao cấp của nhà máy đường người Ba Lan ở, thì bị

bắn trộm. Ta liền khám xét các nhà thì bắt được súng và

nhiều tài liệu tổ chức bí mật là "Người bắn cung” của bọn

đồng đảng với tên phát-xít Ba Lan Pin-xút-ki.

    Ri-ta đến dự phiên họp ủy ban cách mạng bàn về vụ

này. Gặp Xéc-gây, Ri-ta kéo ra chỗ khuất, hỏi bằng giọng

ôn tồn:

    - Xéc-gây bây giờ lại nổi tự ái tiểu tư sản đấy à? Vì

chuyện cá nhân để ảnh hưởng đến công tác hay sao? Thế

chẳng lợi gì đâu, đồng chí ạ!

    Và từ đấy Xéc-gây lại năng đến chiếc toa xanh như

trước.

    Anh đi dự hội nghị toàn khu. Hai ngày Xéc-gây tham gia

thảo luận sôi nổi. Đến ngày thứ ba thì cùng với cả hội nghị

cầm vũ khí suốt một ngày trời đuổi bọn thổ phỉ Da-rút-ni là

một tên sĩ quan của Pết-lu- ra chạy trốn vào khu rừng ven

sông. Xong cuộc truy thổ phỉ đó, Xéc-gây về chỗ chị I-gơ-

na-chi-ê-va thì gặp Ri-ta. Lại đưa Ri-ta về trụ sở ngoài ga.

Sắp sửa chia tay, anh nắm thật mạnh bàn tay của Ri-ta.

     Ri-ta giật tay lại có vẻ giận. Và từ đấy, Xéc-gây rất lâu

không hề bén mảng đến chiếc toa xanh nữa. Anh cố ý tránh

mặt Ri-ta ngay cả những lúc có công việc cần gặp. Ri-ta

đón gặp, chất vấn lại, thì Xéc-gây nói buột ra:

     - Nói gì với Ri-ta nữa? Nói rồi để Ri-ta lại ghép cho tính

chất tiểu tư sản, hay lại buộc cho tội phản bội giai cấp công

nhân ấy à?

     *

     Một hôm các chuyến xe của sư đoàn Cô-ca-dơ mang

tên Cờ đỏ đến nhà ga: Ba đồng chí chỉ huy da xám nắng đi

đến ủy ban cách mạng. Đồng chí ấy người gầy dong dỏng

cao, lưng thắt chiếc dây da nạm bạc, vớ được Đô-lin-nhích

thì quay ngay:

     - Thôi, đồng chí không phải trình bày gì nữa . Chúng tôi

cần một trăm xe cỏ cho ngựa ăn. Ngựa đang đói nhăn răng

ra.

     Xéc-gây và hai đồng chí Hồng quân nữa được phái đi

lấy cỏ. Đến một làng thì rơi ngay vào một bọn phỉ cu-lắc bị

bọn này tước hết vũ khí và đánh cho một trận thừa sống

thiếu chết. Chúng cho là Xéc-gây còn trẻ nên đánh ít hơn

hai đồng chí kia. May có các.đồng chí trong ủy ban dân cày

nghèo biết tin đến cứu được và cho xe đưa về tỉnh.

     Một phân đội Hồng quân được phái đến dẹp bọn cu-lắc

và hôm sau thì lấy được cỏ về.

    Xéc-gây nằm điều trị ở nhà chị I-gơ-na-chi-ê-va, không

về gia đình, tránh cho nhà biết để nhà khỏi lo. Ri-ta đến

thăm. Tối hôm ấy, lần đầu tiên, chính Ri-ta lại bắt tay anh trìu

mến và siết chặt.

    Rồi đến một trưa hè nóng như thiêu, Xéc-gây đến toa

xe Ri-ta, đọc cho bạn nghe bức thư mới nhận được của

Pa-ven và nói chuyện với Ri-ta rất lâu về người bạn thân

của mình. Lúc đi, anh nói với Ri-ta:

    - Xéc-gây vào rừng đây, đến hồ tắm một cái.

    Ri-ta ngừng làm việc, gọi với Xéc-gây:

    - Đợi một tí, hai chúng mình cùng đi.

    Đến bên hồ, mặt nước phẳng lặng như một tấm gương,

hai người dừng lại. Nước trong mát trông đến muốn tắm.

    Ri-ta bảo Xéc-gây:

    - Xéc-gây ra đường cái đứng chờ một lát nhé. Ri- ta

tắm đây!

    Xéc-gây ra ngồi trên một tảng đá gần cầu, mặt ngửa ra

nắng.

    Đằng sau lưng, tiếng nước vỗ bì bõm.

    Thấp thoáng qua rặng cây ngoài đường, Xéc-gây nhìn

thấy Tô-nhi-a và ủy viên quân sự của chuyến xe tuyên truyền

là Tru-gia-nin. Tru-gia-nin đẹp trai lắm, diện bộ cánh rất

bảnh, mình thắt nịt da có buộc nhiều dây tua làm điệu, đôi

ủng mới toanh. Chàng ta khoác tay Tô-nhi-a và đang kể

một chuyện gì cho cô ấy nghe.

    Xéc-gây nhận ra người con gái. Chính là người mang

thư của Pa-ven lại cho mình hôm Pa-ven mới trốn khỏi nhà

tù. Tô-nhi-a vẫn nhìn Xéc-gây chòng chọc. Chắc cô ta cũng

nhận ra. Khi hai người vừa bước tới ngang mặt Xéc-gây,

thì Xéc-gây rút bức thư trong túi ra gọi Tô-nhi-a:

    - Đồng chí, dừng lại cho tôi hỏi một chút. Tôi có một cái

thư trong đó có liên quan tới đồng chí một phần.

    Xéc gây chìa mảnh giấy chữ viết kín đặc. Tô-nhi- a

buông tay Tru-gia-nin, cầm thư đọc. Lá thư rung rung trong

bàn tay. Khi trao lại lá thư ấy, Tô-nhi- a hỏi Xéc-gây:

    - Anh không biết gì hơn nữa về anh Pa-ven, hở anh?

    - Không.

    Từ phía sau, tiếng chân Ri-ta giẫm lên hòn sỏi kêu ken

két. Thấy Ri-ta, Tru-gia-nin vội nói nhỏ với Tô- nhi-a: "Ta đi

thôi". Nhưng giọng chế giễu, khinh bỉ của Ri-ta đã gọi giật

lại:

    - Đồng chí Tru-gia-nin, ở cơ quan suốt ngày đang tìm

đồng chí.

    Tru-gia-nin nguýt Ri-ta bằng cặp mắt hằn học:

    - Tìm làm gì mới được chứ? Không có tôi, việc vẫn

chạy.

    Ri-ta nhìn theo Tô-nhi-a và. Tru-gia-nin, rồi nói:

    - Không biết bao giờ mới tẩy được hạng nhơ bẩn ấy ra

khỏi hàng ngũ!

    Rừng cây rì rào những ngọn sến to khỏe lắc lư. Nước

hồ trong mát làm cho Xéc-gây thèm tắm.

    Tắm xong, anh trở lại thấy Ri-ta đang ngồi ở thân một

cây sến đổ.

    Hai người vừa trò chuyện vừa đi sâu vào rừng. Đôi bạn

bảo nhau dừng lại nghỉ chơi ở một khoảng rừng thưa đầy

cỏ tươi. Rừng sâu tịch mịch, chỉ có tiếng sến reo như thì

thầm cùng nhau. Ri-ta nằm lên cỏ mượt, lấy tay gối đầu.

Cặp chân thon, đôi bàn chân xỏ đôi giày đã cũ, luồn vào

lớp cỏ cao phủ kín. Xéc- gây bỗng đưa mắt thoáng nhìn.

Đôi giày Ri-ta đã cũ mà vá mới khéo làm sao! Anh nhìn lại

đôi giày ống của mình há mõm, ngón chân lòi ra. Bất giác

anh phì cười.

    - Xéc-gây cười gì thế ?

    Xéc gây chỉ chiếc giày:

    - Ri-ta trông. Giày thế này thì chúng mình đi trận đánh

nhau làm sao được?

    Ri-ta không nói sao. Miệng ngậm một ngọn cỏ, chị còn

mải nghĩ đến một chuyện khác.

    Cuối cùng, chị nói:

    - Tru-gia-nin là một đảng viên rất kém. Các cán bộ chính

trị của ta đều mặc quần áo rách mướp. Còn tay ấy thì chỉ

nghĩ đến diện vào thân cho đẹp. Thật là một phần tử lạc loài

vào Đảng…Còn như ở ngoài mặt trận thì tình hình nghiêm

trọng thật đấy. Đất nước chúng ta còn phải trải qua nhiều

chiến đấu khốc liệt - Và ngừng một lát, Ri-ta nói thêm: -

Chúng ta phải đánh giặc bằng cả lời nói lẫn bằng súng,

Xéc- gây ạ Xéc-gây đã biết nghị quyết của Trung ương

Đảng động viên một phần tư đoàn viên thanh niên cộng sản

ra mặt trận chưa? Ri-ta cho rằng chúng mình chẳng nhóm

lửa ở Sê-pê-tốp-ca được lâu đâu.

    Xéc-gây lắng nghe, hơi sửng sốt và bất chợt trong

giọng nói của Ri-ta có cái gì khang khác. Đôi mắt đen, ướt

và sáng của Ri-ta nhìn chăm chăm vào anh.

    Anh chực thốt lên, nói với Ri-ta rằng đôi mắt Ri- ta như

mặt gương long lanh, cái gì cũng có thể soi vào đấy được

Song anh kịp thời giữ miệng không nói.

    Ri-ta nhổm dậy, chống khuỷu tay xuống đất.

   - Súng Xéc-gây đâu?

   Xéc-gây buồn thiu sờ tay lên thắt lưng:

   - Hôm về nông thôn lấy cỏ, xảy ra xô xát, bọn cu- lắc đã

tước mất rồi.

   Ri-ta thò tay vào túi áo va-rơ móc ra khẩu Bơ-rao- ninh

sáng loáng:

   - Xéc-gây trông cây sến kia nhớ ! - Ri-ta trỏ một thân

cây xù xì cách chỗ nằm 25 bước. Ri-ta giơ súng ngang tầm

mắt, gần như không ngắm, bắn ngay. Vỏ cây rạn nứt vì viên

đạn.

   - Thấy Ri-ta bắn chưa? - Ri-ta nói có vẻ thích thú, rồi lại

bắn lần nữa. Vỏ cây lại vỡ tung lên, rơi rào rào xuống cỏ.

   Ri-ta đưa súng cho Xéc-gây, giọng chế nhạo:

   - Giờ đến lượt Xéc-gây thử bắn xem có phải là tay súng

tốt không nào.

   Ba phát chỉ sai có một. Ri-ta mỉm cười:

   - Tưởng không bắn được như thế đâu kia đấy.

   Ri-ta đặt súng xuống, và ngả mình trên cỏ. Dưới lượt

vải áo chẽn nhú lên cặp vú nở.

   - Xéc-gây ơi, lại đây! - Tiếng Ri-ta gọi khẽ.

   Xéc-gây lại gần.

   - Xéc gây ơi, nhìn trời mà xem. Trời xanh quá nhỉ. Ờ,

mà mắt Xéc-gây giống màu da trời quá. Thế không tốt. Mắt

Xéc-gây phải xám như màu nước thép ấy mới được. Màu

xanh có cái gì mềm yếu quá.

   Rồi đột nhiên, Ri-ta ôm chầm lấy mái đầu tóc vàng và

áp môi hôn Xéc-gây, cái hôn không gì cưỡng nổi.

   *

   Hai tháng trôi qua. Rồi mùa thu tới.

    Đêm tối ập xuống lúc nào không biết; bóng đêm trùm

một màn đen lên cây cỏ. Người điện báo viên của ban

tham mưu sư đoàn đang mải cúi đầu trên chiếc máy đánh

"moóc", băng chữ như con rắn dài trườn qua những ngón

tay. Từ những dấu chấm và dấu gạch tạch tè, anh ta dịch ra

bức điện, rất nhanh:

     "Gửi tham mưu trưởng sư đoàn thứ nhất, đồng sao

gửi chủ tịch ủy ban cách mạng thành phố Sê- pê-tốp ca.

Tôi ra lệnh tản cư hết tất cả các cơ quan của thành phố

trong vòng mười tiếng đồng hồ sau khi nhận được điện

này. Trong thành để lại một tiểu đoàn, tiểu đoàn này sẽ

thuộc quyền chỉ huy của trung đoàn trưởng trung đoàn X.

. ., chỉ huy trưởng phân bộ mặt trận. Ban tham mưu sư

đoàn, ban chính trị và tất cả các ban quân sự phải chuyển

lùi về ga Ba-ran- sếp. Thi hành xong lệnh, báo cáo lên tư

lệnh sư đoàn.

     Chữ ký...

    Mười phút sau, chiếc mô-tô giương mắt đèn pha sáng

thắp bằng đất, chạy vùn vụt qua các phố khuya lặng ngắt

như tờ, rồi dừng lại trước trụ sở cách mạng, máy rung lên

sùng sục. Liên lạc viên cưỡi mô-tô đến đưa bức điện hỏa

tốc cho chủ tịch ủy ban cách mạng Đô-lin-nhích. Điện vừa

tới xong, mỗi người một việc chạy tíu tít. Đại đội công tác

đặc biệt được tập hợp lại Chỉ một giờ sau, bánh xe lăn

vang trên đường phố. Xe nào xe ấy chở đầy ắp tài liệu và

đồ dùng của ủy ban đưa đến ga Pô-đôn-ski xếp lên các toa

tàu.

    Xéc-gây, nghe đọc xong bức thư điện, chạy theo bám

lấy đồng chí đi mô-tô.

    - Đồng chí ơi, có thể cho tôi đi nhờ lên ga được không?

    - Ngồi đằng sau, nhưng phải bám cho chắc nhớ.

    Toa xanh đã mắc vào đoàn tàu. Đứng cách toa mươi

bước, Xéc-gây ôm chặt lấy vai Ri-ta, lòng cảm thấy đang

mất đi một cái gì hết sức thân thiết và quý vô giá miệng thủ

thỉ :

    - Chào Ri-ta nhớ, chào đồng chí thân mến của Xéc-

gây. Chúng ta sẽ còn có ngày gặp nhau, nhưng cốt nhất Ri-

ta đừng quên Xéc-gây nhớ.

    Xéc-gây kinh sợ thấy rằng mình sắp òa lên khóc mất.

Đã phải xa nhau rồi. Không còn đủ sức để nói gì thêm nữa,

anh chỉ nắm lấy tay Ri-ta, bóp chặt trong tay mình.

    Vừa sáng thì thành phố Sê-pê-tốp-ca và nhà ga đã bỏ

không vắng ngắt, cô quạnh. Đầu máy chuyến xe lửa cuối

cùng rúc còi ầm ĩ như một lời chào từ biệt, và phía sau ga,

tiểu đoàn chiến đấu còn bố trí trong thành để yểm hộ cho

cuộc rút lui đóng rải hai bên đường sắt.

    Lá vàng rơi, bỏ thân cây trơ trụi. Gió cuốn lá bay lả tả

trên mặt đường phố.

    Xéc-gây, mặc áo khoác Hồng quân, mình đeo chi chít

băng đạn, cùng hơn chục đồng chí giữ ngã tư sau nhà máy

đường. Quân ta đợi quân Ba Lan đến.

    Lão Áp-tô-nôm Pê-tơ-rô-vích chạy sang gõ cửa nhà

láng giềng Ghê-ra-xim Lê-ông-chi-ê-vích : Lão Ghê- ra-xim

ngủ dậy chưa kịp thay quần áo, thò đầu bù ra ngoài cửa

mở hé :

    - Chuyện gì thế bác?

    Lão Áp-tô-nôm chỉ bộ đội đỏ đang diễu qua, súng chĩa

đàng trước, nháy mắt bảo ông bạn hàng xóm :

    - Họ rút.

    Lão Ghê-ra-xim nhìn ông bạn, vẻ lo ngại.

    - Bác có biết huy hiệu của quân Ba Lan thế nào không?

    - Nghe đâu là huy hiệu diều hâu một đầu thì phải.

    - Tảo đâu được một cái bây giờ nhỉ?

    Lão Áp-tô-nôm đưa tay lên gãi gáy có vẻ giận dữ, suy

nghĩ, một lát lão tuôn ra :

    - Họ thì cần cóc gì. Họ đứng dậy, giũ áo là kéo nhau đi.

Còn cánh mình thì ở lại, mặc cánh mình xoay xở nát óc mà

nghĩ cách ăn ở cho hợp với chính quyền mới đến.

    Tiếng súng máy nổ, phá tan cái yên tĩnh của buổi sớm.

Bỗng ngoài ga, một chiếc đầu tàu kéo còi, thét lên; ở phía

ấy có tiếng đại bác nổ vang. Một quả trái phá hạng nặng rít

lên, xoáy vụt lên trời, rồi rơi xuống phố sau nhà máy, tỏa

khói xanh bao phủ những bụi rậm bên đường. Bộ đội đỏ

từng hàng lặng lẽ tiến qua phố, chốc chốc lại ngoái cổ lại

nhìn.

    Giọt nước mắt lành lạnh rơi trên gò má Xéc-gây. Anh

vội vàng lấy tay quệt nước mắt, liếc xem bạn đồng đội có

nhìn thấy mình khóc hay không. Không, không ai nhìn thấy

cả.

    Cạnh anh là bác thợ máy cưa An-tích vừa gầy, vừa cao

lêu nghêu. Ngón tay An-tích miết vào cò súng, nét mặt buồn

bã, đăm chiêu. Mắt bác gặp đôi mắt Xéc-gây đang nhìn

mình. Bác liền ngỏ với người đồng chí trẻ những ý nghĩ

thầm kín trong lòng...

    - Chúng nó rồi sẽ khủng bố họ hàng bà con thân thích

chúng mình, nhất là nhà tôi thế nào cũng bị. Tôi là người Ba

Lan. Chúng nó sẽ bảo: "Thằng này người Ba Lan mà dám

đánh quân đội Ba Lan". ông cụ tôi thế nào cũng bị đuổi

khỏi nhà máy cưa và chắc rồi sẽ bị chúng đánh đập mất.

Tôi đã bảo ông cụ đi theo chúng mình. Song ông ấy bảo

không nỡ lòng nào bỏ mặc gia đình. Chà, lũ giặc dã man!

Chỉ mong được choảng ngay với chúng nó cho đỡ ức ! -

Bác lấy tay hất mạnh lên chiếc mũ Hồng quân hơi rộng vừa

chụp xuống mắt.

    …Thôi, tạm biệt quê hương yêu dấu, tạm biệt thành phố

bé xíu, bẩn thỉu, nhà cửa tồi tàn, đường đi khúc khuỷu này!

Tạm biệt những người thân, tạm biệt Va- li-a, tạm biệt các

đồng chí từ đây phải rút vào bí mật. Bọn giặc trắng Ba Lan,

bọn lê dương ngoại chủng, hung ác, tàn nhẫn, đang tiến về

đây rồi.

    Công nhân sở đầu máy xe lửa, áo nhớp dầu mỡ, đi tiễn

bộ đội đỏ. Mặt họ buồn rầu nhìn theo bóng đoàn quân đi.

    Xéc-gây đứt từng khúc ruột, nói to lên với anh em thợ:

    - Chúng tôi nhất định sẽ có ngày trở lại đây, các đồng

chí ạ.

CHƯƠNG VIII

    Trong sương sớm lúc mặt trời chưa mọc, dòng sông

ánh lên bàng bạc và êm đềm chảy rì rầm giữa hai bờ sỏi

đá. Gần bờ, mặt nước sông lặng màu xám nhạt dường

như không động, đôi lúc long lanh sáng. Nhưng giữa dòng

sông, nước thăm thẳm sóng nhấp nhô quằn quại hối hả trôi

đi. Con sông xinh đẹp, hùng vĩ ấy là con sông Đơ-nhi-ép,

con sông Đơ-nhi-ép mà nhà văn Gô-gôn đã viết nên áng

văn tuyệt diệu : "Tươi đẹp thay, con sông Đơ-nhi-ép..." Bờ

sông bên phải, núi đá dựng đứng. Dường như núi ấy chạy

đến đây, sắp sửa đâm sầm vào bờ sông thì thốt nhiên

dừng chân đứng sững lại, ngây ngất trước khoảng bao la

trời nước. Bờ sông bên trái thoai thoải những bãi cát. Sau

vụ nước lớn mùa xuân, dòng sông thu mình vào bờ sỏi, để

lại những bãi cát ấy.

    Bên bờ sông có năm người nấp trong hầm chật hẹp,

giữ khẩu súng Mắc-xim. Đấy là đội viễn tiêu của sư đoàn

bộ binh thứ bảy. Xéc-gây nằm nghiêng bên súng máy, mặt

ngoảnh ra sông.

    Hôm qua, bộ đội ta giao chiến liên miên với giặc. Đại

bác Ba Lan, như bão táp làm cho tan tác. Sau cùng, kiệt

sức, họ đành để thành Ki-ép lọt vào tay giặc và lui về cố thủ

ở tả ngạn sông Đơ-nhi-ép.

    Đã phải rút lui, lại thương vong nặng và cuối cùng mất

Ki-ép đã làm cho các chiến sĩ đau buồn. Sư đoàn thứ bảy

này đây đã chiến đấu anh dũng vượt qua vòng vây của

địch, mở đường lách qua rừng rậm, tiến đến gần ga Ma-

lin-nơ. Họ tấn công rất gắt, đánh tan bọn Ba Lan chiếm

đóng nhà ga, dồn chúng vào rừng, giải phóng đường đi Ki-

ép.

     Bây giờ thì thành Ki-ép diễm lệ đã mất vào tay giặc rồi.

Các chiến sĩ mặt mày ủ dột và buồn bực trong lòng.

     Quân Ba Lan đã đánh bật các đơn vị Hồng quân khỏi

Đác-nhi-xa và chiếm được một căn cứ nhỏ bên tả ngạn

sông, cạnh chiếc cầu đường xe lửa.

     Chúng ra sức đánh rộng ra nữa, nhưng gặp sức phản

công mãnh liệt của Hồng quân, chúng chẳng nhích thêm

được bước nào cả.

     Xéc-gây ngắm dòng sông đang chảy và anh không thể

không hồi tưởng lại chuyện xảy ra ngày hôm qua.

     Hôm qua, vào lúc mặt trời đứng bóng, anh đang cùng

anh em hăng máu xông lên thì đụng phải quân Ba Lan trắng

trong một đợt phản công quyết liệt. Lần đầu tiên, Xéc-gây

đứng trước mặt đối mặt một kẻ thù. Một thằng lê-dương

Ba Lan, không râu, không ria, cầm súng cắm lưỡi lê Pháp

dài như thanh kiếm, chạy lại đâm Xéc-gây.(Bọn can thiệp

Ba Lan lúc bấy giờ do các đế quốc Pháp, Anh, Mỹ trang bị

). Nó nhảy như choi choi, miệng kêu xì xà xì xồ. Xéc-gây chỉ

còn kịp nhận ra hai mắt nó trợn trừng điên cuồng. Chưa

đầy một giây đồng hồ, Xéc-gây đã lấy đầu lưỡi lê của mình

đánh bật lưỡi lê tên Ba Lan. Chiếc lưỡi lê Pháp sáng loáng

rơi bắn sang bên.

     Tên Ba Lan ngã vật xuống...

     Xéc-gây đâm lưỡi lê không có run tay. Anh biết anh còn

phải giết nhiều nữa. Chính anh là người biết yêu tha thiết,

đối với tình bạn rất mực thủy chung, anh có phải đâu là một

đứa hung tàn độc ác. Song anh biết rằng những người lính

bị lừa dối kia, ăn phải thuốc của bọn sâu mọt toàn thế giới,

đang xông lại đánh nước Cộng hòa của anh với một thú

điên giận thật là của loài súc vật.

    Và Xéc-gây thẳng tay giết cho chóng đến ngày trên trái

đất này không còn có người chém giết người nữa.

    Pa-ra-mô-nốp lắc vai Xéc-gây:

    - Này, Xéc-gây xuống hầm đi, kẻo chúng nó trông thấy

chúng mình đấy.

    *

    Đã một năm nay, Pa-ven hành quân đi dọc ngang khắp

miền quê hương xứ sở, khi ngồi trên một chiếc xe kéo

súng máy, khi leo lên bệ một khẩu đại bác, khi cưỡi trên

con ngựa xám cụt tai. Khỏe ra, cứng rắn ra, anh đã lớn lên

trong gian lao khổ cực.

    Người anh đeo bao đạn sát vào da đến bật máu, chỗ

sát đã thành sẹo và dây súng lằn trên vai đã chai lên thành

một ụ thịt không bao giờ tan được nữa.

    Trong có một năm trời, mắt anh đã thấy biết bao nhiêu

cảnh đời ghê gớm. Cùng hàng ngàn chiến sĩ khác, áo quần

tả tơi, chân đất như mình, nhưng lòng hừng hực bốc cháy

ngọn lửa không bao tắt của cuộc đấu tranh vì chính quyền

giai cấp, Pa-ven đã bước chân đi khắp các ngả của Tổ

quốc U-cơ-ren và chỉ bị dứt ra khỏi cơn bão táp ấy có hai

lần.

    Lần thứ nhất, bị thương vào đùi, lần thứ hai, vào một

ngày tháng Hai lạnh buốt của năm 1920, anh giãy giụa

trong cơn sốt nhớp nháp của bệnh chấy rận.

    Cái bệnh chấy rận truyền nhiễm đã tác hại các trung

đoàn và sư đoàn của tập đoàn quân thứ mười hai ghê

gớm hơn cả những cỗ súng máy Ba Lan kia. Tập đoàn

quân lúc đó đóng ở một khu rộng lớn, rải hầu khắp miền

Bắc U-cơ-ren, ngăn đường tiến của quân Ba-lan. Vừa dứt

bệnh, Pa-ven đã trở về đơn vị ngay.

    Bây giờ, trung đoàn của Pa-ven đóng ở một vị trí cơ

động gần ga Phơ-rông-tốp-ca, trên con đường ngoặt từ

Ca-da-chim đi U-mân.

    Ga ở giữa rừng. Những túp nhà bị tàn phá xúm quanh

khu ga bé nhỏ. Đấy là những căn nhà hoang trống trải, dân

bỏ đi vì không thể nào ở được yên. Hai năm qua, chập

chờn có lúc yên tĩnh, có lúc lại đánh nhau dữ. Suất hai năm

trời, ga Phơ-rông-tốp- ca đã chứng kiến biết bao nhiêu là

chuyện!

    Lại sắp sửa xảy ra nhiều việc lớn. Trong lúc sư đoàn

mười hai bị tổn thất nặng, tan rã từng phần, trước sức thọc

mạnh của quân đội Ba Lan, phải rút lui về gần Ki-ép thì

nước Cộng hòa vô sản chuẩn bị giáng một đòn chí tử vào

quân thù lúc đó đang say sưa thừa thắng tiến.

    Những sư đoàn kỵ binh dạn dày lửa đạn của tập đoàn

kỵ binh thứ nhất đã mở cuộc trường chinh chưa từng có

trong lịch sử chiến tranh, từ vùng Bắc Cô- ca-dơ xa xôi

chuyển đến U-cơ-ren. Các sư đoàn kỵ binh thứ tư, thứ sáu,

thứ mười một và thứ mười bốn lần lượt tiến đến U-mân và

tập kết ở sau trận tuyến của ta. Trên đường xông tới những

cuộc chiến đấu ác liệt kỵ binh đã quét sách bọn phỉ Ma-

khơ-nô.

    Một vạn sáu ngàn năm trăm thanh kiếm, một vạn sáu

ngàn năm trăm chiến sĩ da rám nắng đồng cỏ.

    Bộ Tổng tư lệnh Hồng quân và Bộ Tổng tư lệnh mặt trận

Tây-nam hết sức giữ bí mật để cho quân Ba Lan của phát-

xít Điu-xuýt-ski không thể nào đối phó kịp với cuộc hành

quân có tính chất quyết định đang chuẩn bị. Bộ tham mưu

của nước Cộng hòa và các mặt trận trực tiếp phụ trách tập

hợp khối kỵ binh này.

    Chiến sự ngừng hẳn ở mặt trận U-mân, đường dây liên

lạc thẳng từ Mát-xcơ-va đến Bộ tham mưu mặt trận Khác-

cốp làm việc không ngừng. Từ Khác-cốp, điện lại báo đi

các bộ tham mưu các tập đoàn quân thứ mười bốn, thứ

mười hai. Điện báo tạch tè ghi những mệnh lệnh mật mã

lên những băng điện hẹp: "Không để cho quân Ba Lan chú

ý đến quân đoàn kỵ binh của ta tập kết". Chiến sự ngừng

trên khu vực U-mân. Chỉ giao chiến khi nào và nơi nào bọn

Ba Lan tiến quân uy hiếp đoàn kỵ binh của Bu-đi- on-ny,

tránh cho kỵ binh khỏi bị dồn vào tình thế phải giao chiến

quá sớm.

    Đống lửa trú quân bập bùng ngọn lửa màu hung, khói

bốc lên xoắn tít hình trôn ốc. Loài nhặng rừng không chịu

được hơi khói bay tứ tung như ong vỡ tổ. Các chiến sĩ ngồi

quanh ngọn lửa theo hình vòng cung, lửa hồng làm mặt họ

ánh lên bóng như màu đồng.

    Những chiếc cà-mèn vùi trong tro biếc ánh lửa. Nước

sôi sùng sục. Một ngọn lửa từ khúc gỗ cháy lóe ra bén sém

một chiếc đầu bù. Người bị cháy tóc bực mình phát bẳn:

    - Rõ khỉ !

    Anh em chung quanh bật cười khúc khích.

    Một người lính già mặc áo dạ, râu mép xén ngắn, đang

chìa nòng súng ra ánh lửa xem, thấy vậy nói khẽ:

     - Thằng bé này mải đọc khoa học quá, đến nỗi sán vào

lửa cháy mà cũng không biết.

     - Pa-ven ơi! Đọc gì thế, kể cho chúng tớ nghe với.

     Pa-ven, người lính trẻ ấy, vừa lấy tay mân mê mớ tóc

sém của mình, vừa mỉm cười nói :

     - Đồng chí An-đơ-rơ-súc ạ! Cuốn sách hay tuyệt. Đã

đọc vào là tôi không thể nào buông ra được nữa.

     Người ngồi cạnh Pa-ven là Xê-rê-đa, một thanh niên có

cái mũi ngắn, hếch lên, đang chăm chú vá lại dây đeo bao

đạn, hai răng cắn chặt lấy sợi chỉ xám to, nghe bạn nói vậy

thì tò mò hỏi:

     - Thế cuốn sách viết về ai hở cậu? - Xê-rê-đa tay cuộn

đoạn chỉ còn lại vào cái kim cắm trên mũ dạ, nói thêm:

     - Nếu nói về tình yêu thì mình thú lắm đấy.

     Chung quanh cười rộ lên. Mát-vây-súc nhô cái đầu tóc

cắt ngắn lên, nheo mắt láu lỉnh nói trêu Xê-rê-đa:

     - Tình yêu là chuyện cũng hay, Xê-rê-đa ạ. Cậu đẹp trai,

trông rất bảnh ! Hễ quân ta đi đến đâu, các cô ả thấy cậu

đều mê tít. Chỉ phải một cái tật nhỏ: mũi cậu quá ngắn và

hếch lên làm cho mưa cứ rơi tọt vào trong. Nhưng mà có

thể chữa được. Cậu cứ lấy quả lựu đạn Nô-vít-ki treo vào

đầu mũi, chỉ một đêm là mũi dài ra và quặp xuống thôi.

     (Thứ lựu đạn tay, nặng gần bốn cân, dùng để phá hàng

rào dây thép gai).

     Câu nói bông đùa ấy làm mọi người phá ra cười sằng

sặc. Nghe tiếng cười, mấy con ngựa buộc ở những xe

súng máy cũng phải rùng mình phì hơi một cách hoảng hốt.

     Xê-rê-đa lừ đừ quay mặt lại:

     - Hơn nhau chẳng phải ở cái đẹp trai, mà ở cái sọ này.

- Xê-rê-đa đập tay lên trán như ra hiệu chỉ cái đầu to - Đấy

nhớ, lưỡi cậu cay như ớt thế mà cậu cứ vẫn là một thằng

hết sức khờ. Với lại cậu có đôi tai lạnh như tiền nữa.

    Hai chiến sĩ chực xông vào vật nhau, nhưng đồng chí

tiểu đội trưởng Ta-ta-ri-nốp đã can ngay:

    - Này, này, các cậu ơi, vặc nhau làm gì! Thôi để Pa-ven

nó đọc sách cho mà nghe còn hơn.

    - Phải đấy ! Đọc đi Pa-ven ạ! - Tiếng hưởng ứng nhao

nhao lên.

    Pa-ven kéo cái yên ngựa lại gần ánh lửa, ngồi cưỡi lên

yên, mở trên đầu gối cuốn sách khổ nhỏ song khá dày.

    - Báo cáo các đồng chí, cuốn truyện này tên là Ruồi

trâu. Đồng chí chính ủy tiểu đoàn cho tôi mượn đấy. Cuốn

truyện rất thấm thía đối với tôi. Các đồng chí ngồi yên đừng

đùa, tôi đọc cho mà nghe.

    - Thôi đọc đi, nhanh lên. Chẳng ai phá đám đâu.

    Khi đồng chí trung đoàn trưởng Pu-dư-rếp-ski cùng

đồng chí ủy viên quân sự Đô-rê-nin đi ngựa, lẳng lặng đến

gần đống lửa, thì trông thấy mười một cặp mắt châu châu

vào một chiến sĩ đang đọc to quyển truyện.

    Pu-dư-rếp-ski quay đầu lại phía đồng chí chính ủy viên

lấy tay chỉ nhóm người:

    - Đây là một nửa số anh em quân báo của trung đoàn,

trong đó có bốn thanh niên cộng sản, ít tuổi lắm, song mỗi

cậu đều bằng một chiến sĩ cừ. Anh trông cậu đang đọc

truyện, và cậu kia nữa có cặp mắt y như cặp mắt của con

sói con, đấy là Ca-rơ-sa- ghin và Giác-ki. Hai cậu bé thân

với nhau lắm, nhưng cũng ganh ngầm với nhau lắm. Trước

kia thì Pa-ven là một tay quân báo giỏi nhất của tôi. Giờ có

Giác- ki là tay địch thủ khá lợi hại của cậu ta. Anh trông kìa,

các cậu ta đang làm công tác chính trị đấy. Nhìn thì chẳng ai

biết là làm công tác, nhưng tác dụng lại rất lớn. Anh em gọi

họ là "Đội thanh niên cận vệ", tên ấy thật đúng quá.

    Đồng chí ủy viên quân sự hỏi:

    - Đồng chí đang đọc kia có phải là chính trị viên đội

quân báo không?

    - Không. Chính trị viên là Cơ-ra-me.

    Trung đoàn trưởng cho ngựa bước lên. Đồng chí cất

giọng nói to:

    - Chào các đồng chí!

    Mọi người quay lại. Trung đoàn trưởng nhẹ nhàng

xuống ngựa, đi lại gần các chiến sĩ đang ngồi.

    - Các đồng chí ngồi sưởi đấy à? - Trung đoàn trưởng

hỏi, nụ cười rộng rãi ở trên môi. Trên khuôn mặt cứng cỏi

của đồng chí với đôi mắt bé hơi giống mặt người Mông

Cổ, vẻ nghiêm khắc đã biến đi.

    Các đồng chí niềm nở đón đồng chí chỉ huy như một

người đồng đội hiền từ, như một người bạn thân. Đồng chí

ủy viên quân sự vẫn ngồi trên ngựa định đi tiếp sang đơn vị

khác.

    Pu-dư-rếp-ski kéo bao súng Mô-de ra phía sau, rồi lại

ngồi cạnh Pa-ven và nói:

    - Mời các đồng chí, ta hút một điếu thuốc. Tôi có thuốc

lá hút cũng tạm được.

    Châm thuốc xong, trung đoàn trưởng quay ra nói với

đồng chí ủy viên quân sự:

    - Đồng chí cứ về trước đi, đồng chí Đô-rê-nin ạ. Tôi ở

lại chơi với anh em một lát. Nếu ở bộ tham mưu cần đến

tôi, đồng chí tin cho tôi biết nhé.

     Khi Đô rê-nin đã đi khỏi, Pu-dư-rếp-ski quay lại bảo

Pa-ven:

     - Chú đọc tiếp đi, tôi cũng nghe với.

     Đọc xong những trang cuối, Pa-ven đặt sách lên gối và

bâng khuâng nhìn chăm chăm vào ngọn lửa, nghĩ ngợi.

     Trong mấy phút đồng hồ, không ai nói một lời. Tất cả

mọi người đều xúc động vì cái chết của "Ruồi trâu”.

     Pu-dư-rếp-ski hút một hơi thuốc lá, chờ đợi anh em lên

tiếng.

     Lời phát biểu của Xê-rê-đa phá tan cái không khí yên

lặng.

     - Câu chuyện bi thảm thật. Ai mà tưởng có được những

con người bản lĩnh như thế trên đời này. Một người thường

không thể chịu được cực hình đến độ ấy Nhưng khi người

ấy đã vì lý tưởng mà chiến đấu thì nhất định giữ vững được

tinh thần.

     Giọng Xê-rê-đa hết sức xúc động. Câu chuyện làm anh

cảm xúc sâu xa.

     An-đơ-ru-sa, một người thợ học việc đóng giày vùng

Bê-lai-a Xéc-cốp, bừng bừng phẫn nộ:

     - Thằng ác tăng khốn nạn đó mà vớ phải tay tôi thì tôi

đâm chết nó ngay tại chỗ!

     An-đơ-rơ-súc lấy que củi ấn thêm chiếc cả-mèn của

mình vào bếp, rồi nói bằng một giọng tin tưởng:

     - Chết mà biết mình chết vì một sự nghiệp gì thì chết

cũng đáng lắm. Trong trường hợp ấy anh thấy mình có đủ

sức mạnh để không sợ chết. Ta sẵn sàng đi đến cái chết

một cách kiên nhẫn khi ta cảm thấy có chính nghĩa ở phía

ta. Chính cái đó làm con người ta trở thành anh hùng đấy.

Tôi biết một đồng chí trẻ tuổi tên gọi là Pô-rai-ca. Cái hôm

bọn giặc trắng thọc vào Ô-đét-xa, một mình anh ta xung

phong đánh cả một trung đội chúng nó. Bọn chúng chưa kịp

giở lưỡi lê đâm anh, anh đã rút lựu đạn ra, quăng ngay

dưới chân mình. Người anh tan ra từng mảnh, nhưng cả

bọn Ba Lan cũng tan xác. Ấy thế mà trông anh ta bề ngoài

chẳng có vẻ gì đâu. Không ai viết sách nói về anh ta. Song

chuyện anh ta thật đáng chép vào sách. Hàng ngũ ta có vô

số đồng chí ưu tú như thế.

     An-đơ-rơ-súc lấy thìa quấy cà-mèn, thè lưỡi ra nhắp

ngụm trà, rồi nói tiếp:

     - Cũng có cái chết như chó chết, chết đục, chết ô nhục.

Bữa chúng tôi đánh nhau ở I-di-a-sláp, một thị trấn cổ, xây

từ đời vua nào ngày trước trên sông Gô- rin, đấy có một

nhà thờ Ba Lan, y như cái pháo đài, khó lắm. Thế mà cũng

vào được tất. Quân ta hàng một trèo vào, leo lên các lối đi

nhỏ ngoằn ngoèo, sườn bên phải có anh em người Lét-tô-

ni kiềm chế cho rồi. Còn ta đổ ra phố lớn. Ra đến phố lớn

thì trông thấy gì? Gần vườn hoa có ba con ngựa đóng yên

sẵn buộc vào hàng rào.

     Bọn tôi trước tình huống ấy tất nhiên bảo nhau: phen

này tóm cổ bọn Ba Lan. Cả mười người hết cả vào sân.

Đồng chí đại đội trưởng người Lét-tô-ni tay lăm lăm cầm

khẩu Mô-de đi trước.

     Vào đến nhà chính thì cửa đã mở. Bọn tôi đi vào.

Tưởng tóm được bọn Ba Lan, hóa ra không phải. Trong đó

có sẵn một tổ của ta. Họ vào trước chúng mình. Chẳng hay

hớm gì cái chuyện đang xảy ra ở đấy. Nhà này vốn có một

thằng sĩ quan Ba Lan ở. Bọn mất dạy ở tổ ấy vào đè ngay

mụ vợ thằng ấy ra để cưỡng hiếp. Đồng chí chỉ huy người

Lét-tô-ni của chúng mình tên là Bơ-rê-đi, trông thấy thế thét

lên câu gì bằng tiếng Lét-tô-ni. Rồi cho tóm cổ ba đứa kia

lôi ra sân. Hôm ấy chỉ tôi và một đồng chí nữa là người

Nga, còn toàn người Lét-tô-ni cả. Họ nói gì với nhau, mình

nghe không hiểu, song cũng thấy câu chuyện rõ ràng: kẻ

nào phạm lỗi thì sẽ bị xử. Người Lét-tô-ni, tính thẳng, rắn

chắc như đá lửa. Họ ấn ba thằng kia vào sát vách chuồng

ngựa. Mình nghĩ thầm: chết, chắc là họ định bắn tan xác ba

tên này đây. Trong số ba đứa đó có một tên vạm vỡ, chắc

nịch cố cưỡng lại, mồm chửi rủa, văng tục lung tung. Hắn la

ầm lên: ai lại nỡ vì một mụ đàn bà mà treo cổ tôi? Hai tên

kia cũng van xin rối rít.

    Trông thấy như thế mà ớn lạnh cả người. Mình chạy lại

nói với Bơ-rê-đi: "Đồng chí đại đội trưởng, đồng chí bắn

làm gì, dính vào máu chúng nó cho bẩn tay? Để đưa tòa án

binh xử. Trong thành phố, chiến đấu đang tiếp tục mà ta lại

đứng đây để xử tội". Tức thì Bơ-rê-đi quay lại nhìn mình và

mình thấy hối ngay là đã trót nói mất rồi. Mắt Bơ-rê-đi nhìn

mình y như mắt hổ. Anh ấy gí súng vào tận miệng mình.

Mình chiến đấu đã bảy năm rồi, bây giờ nói ra thật khỉ,

song lúc ấy thật tình là mình hoảng thật. Mình nghĩ bụng:

không khéo thì mất mạng phen này, chẳng còn nói năng gì

nữa. Anh ta bảo mình bằng tiếng Nga lơ lớ, mình khó lòng

mới nghe rõ, nhưng cũng hiểu ý như thế này: "Ngọn cờ của

ta là máu nhuộm đỏ. Vậy mà quân chó này làm ô danh cả

quân đội ta. Quân thổ phỉ phải lấy xác để đền tội".

    Mình không dám ở nán lại nữa, chạy một mạch từ sân

ra đến phố thì nghe thấy tiếng súng nổ ở phía sau. Mình nghĩ

thầm: thế là xong. Khi mình đi theo kịp đơn vị mình thì thành

phố đã hoàn toàn về tay ta. Câu chuyện như thế đấy.

Những tên ấy chết, thật chết như giống chó. Nghe đâu bọn

đó trước là quân phỉ của Ma-khơ-nô, mới chạy sang theo

ta ở gần Mê- li-tô-pôn. Bọn chúng chỉ là một lũ ô hợp, phức

tạp.

    Nói đến đây, An-đơ-rơ-súc, đặt cái cà-mèn xuống chân,

tay mở túi dết lấy bánh mì ra:

    - Có thể nào một đống phân bẩn như thế lại dính vào

hàng ngũ chúng ta? Không sao kiểm tra hết được. Trông

chúng, người ta tưởng như chúng cũng chiến đấu vì cách

mạng. Thật ra, chính vì chúng mà bùn vấy cả lên mặt chúng

ta. Dù sao thấy vậy cũng đau lòng. Chuyện đó cho đến bây

giờ mình vẫn không quên được.

    An-đơ-rơ-súc kết luận câu chuyện, rồi bắt đầu nhắp trà.

    Đội quân báo kỵ binh mãi tận đêm khuya mới ngủ. Xê-

rê-đa ngủ say hếch mũi lên kéo gỗ. Pu-dư-rép-ski cũng đã

ngủ, đầu gối trên chiếc yên ngựa. Đồng chí chính trị viên

Cơ-ra-me thì đang ghi sổ tay.

    Ngày hôm sau, đi trinh sát về, Pa-ven buộc ngựa vào

cây thấy đồng chí chính trị viên Cơ-ra-me vừa uống trà

xong, bèn mời lại nói chuyện.

    - Đồng chí chính trị viên ạ, tôi có ý định như thế này,

đồng chí nghĩ có được không? Tôi định bỏ đây sang bên

Quân đoàn kỵ binh thứ nhất. Bên ấy, sắp nóng sốt đến nơi

rồi. Vì nhất định là họ tập trung đông người như thế chắc

không phải để mà chơi. Còn ta ở đây thì cứ chết gí một

chỗ. Tôi chán ngấy lắm rồi.

    Cơ ra-me sửng sốt nhìn Pa-ven:

    - Sao, thế nào, chú định bỏ đây chuồn đi à? Chú nghĩ

thế nào? Vậy ra theo chú, Hồng quân là rạp chiếu bóng hay

sao mà đòi đổi đơn vị như đổi chỗ ngồi thế? Nếu ai cũng

đòi đổi đơn vị thế thì còn ra thế nào nữa?

    Pa-ven ngắt lời đồng chí chính trị viên:

    - Cốt sao đánh hăng là được. Ở đấy hay bên ấy cũng

thế cả, không có gì quan trọng. Tôi có đào ngũ chuồn về

hậu phương đâu!

    Cơ-ra-me một mực can ngăn Pa-ven:

    - Thế chú cho kỷ luật là cái gì? Pa-ven ạ, chú có nhiều

ưu điểm, song chú phải cái tính vô chính phủ. Chú thích sao,

chú làm vậy. Chú quên rằng Đảng và Đoàn thanh niên dựa

vào kỷ luật sắt ư? Đảng trên hết. Đảng cần mình ở đâu thì

mình phải ở đấy, chứ không phải mình muốn ở đâu thì ở.

Đồng chí trung đoàn trưởng đã không cho phép chú đổi

đơn vị nữa rồi phải không? Thế là quyết định rồi, không bàn

gì nữa.

    Cơ-ra-me người mảnh khảnh dong dỏng cao, nước da

vàng nhợt, ho sù sụ vì xúc động. Bụi chì của nhà in đã ngấm

sâu vào hai lá phổi, thỉnh thoảng những quầng đỏ tật bệnh

của chứng lao lại hiện trên đôi má. Khi Cơ-ra-me dứt cơn

ho, Pa-ven nói thấp giọng, nhưng cương quyết:

    - Tất cả những điều đồng chí nói đều rất phải, song mai

tôi sẽ cứ sang đoàn kỵ binh Bu-đi-on-ny, thật đấy !

    Và tối hôm sau không còn bóng Pa-ven bên đống lửa

trú quân nữa.

    *

    Ở thôn bên, trước cửa trường học trên gò cao, các

chiến sĩ kỵ binh tập hợp thành một vòng lớn. Một chiến sĩ kỵ

binh khỏe mạnh thuộc đơn vị Bu-đi-on- ny ngồi mé sau

chiếc xe ngựa, mũ cát-két hất ra sau gáy, đang kéo rên rỉ

chiếc đàn gió. Trong tay đồng chí ấy chiếc đàn kêu rú lên,

nhịp điệu hỗn loạn, làm lạc cả bước chân của chiến sĩ mặc

chiếc quần thủng màu đỏ đang nhảy một cách điên cuồng

điệu nhảy dân gian xứ U-cơ-ren.

    Trai gái trong làng tò mò kéo ra, leo lên chiếc xe ngựa

và những hàng rào bên cạnh để xem những nhà vũ đạo rất

liều của lữ đoàn kỵ binh vừa mới đến đóng ở làng này.

    - Tốp-tan ơi! Kéo hăng lên nào! Làm một quắn nữa

chứ! Cho thêm chất nóng vào đi!

    Nhưng những ngón tay to lớn của anh bộ đội kéo đàn

gió, chỉ quen gò móng ngựa, nên ngó ngoáy một cách khó

nhọc trên phím đàn.

    Anh chiến sĩ da rám nắng đang nhảy, bỗng than phiền:

    - Chà, tiếc thằng Cu-láp-cơ quá. Quân thổ phỉ Ma- khơ-

nô khốn kiếp đã giết chết mất cậu ấy. Cu-láp- cơ kéo đàn

gió còn phải nói. Hạng nhất...Chiến đấu luôn luôn đi hàng

đầu trung đội mình. Tiếc cậu ấy quá! Vừa là một chiến sĩ

cừ, vừa là một tay chơi nhạc giỏi.

    Pa-ven cũng đứng trong đám dự cuộc vui. Nghe mấy

lời vừa rồi, anh liền len đến chiếc xe ngựa, lấy tay ấn vào

hòm xếp của chiếc đàn. Tiếng đàn im bặt. Chiến sĩ kéo đàn

gió quắc mắt nhìn anh:

    - Cậu muốn gì?

    Tốp-tan ngừng lại, không kéo nữa, làm mọi người

chung quanh nhao nhao, giọng không bằng lòng nổi lên:

    - Cái gì thế? Sao dừng lại thế?

   Pa-ven chìa tay về phía dây kéo đàn:

   - Đưa cho mình chơi một lát.

   Tốp-tan nhìn người đồng đội lạ mặt với cặp mắt hoài

nghi do dự, rồi gỡ dây đeo khỏi vai.

   Bằng một cử chỉ quen thuộc, Pa-ven để đàn lên gối.

Anh dìu dặt kéo nếp đàn lượn khúc mở ra hình cánh quạt,

rồi sau từng nấc, từng nấc dồn dập, Pa- ven dạo bản nhạc

với tất cả sức mạnh của chiếc đàn:

   "Quả táo hồng hồng

Mày lăn đằng nào

Lăn vào Sê-kha

Chẳng ra được sớm"

    ( Sê-kha : cơ quan đặc biệt chống phản cách mạng

trong những năm đầu của chính quyền Xô-viết)

    Tốp-tan cất giọng bắt ngay lấy điệu hát quen thuộc. Anh

dang hai tay lên như hai cánh chim, lượn vòng tròn, hai

chân đập vào nhau, tay vỗ chan chát vào ống giày vào gối,

vào sau gáy, vào trán, vào đế giày và cuối cùng vào cái

mồm đang hát to.

    Tiếng đàn gió rung lên, kích thích, thúc giục chiến sĩ

đang nhảy trong điệu hùng mạnh, hừng hực, tới tấp như

những luồng gió cuồng liên tiếp. Tốp-tan bắt đầu quay tít đi

như con cù đinh, vừa quay vừa nhảy một vòng tròn hết chân

nó đến chân kia đá vút vào không khí, miệng hét lên đến hết

hơi:

    - Hích hắc! Hích hắc!

    *

    Ngày mồng năm tháng Sáu năm 1920, sau mấy cuộc

giao chiến chớp nhoáng nhưng khốc hệt, tập đoàn quân kỵ

binh thứ nhất, do Bu-đi-on-ny chỉ huy, đã chọc vỡ phòng

tuyến Ba Lan ở điểm đóng giáp nhau của quân đoàn thứ

hai và quân đoàn thứ tư của địch, đánh tan được lữ đoàn

của tướng địch Xa-vi-ski và thừa thế tiến về hướng Ru-gin.

    Bộ chỉ huy Ba Lan muốn đối phó với cuộc tiến quân đột

phá ấy liền hối hả cho lập một đội xung kích. Năm xe tăng

bọc sắt chở từ xe lửa tới ga Pô-gờ-rê- bích cấp tốc đến

tiếp viện.

    Chúng chuẩn bị đối phó ở Da-rút-nhích, nhưng kỵ binh

Hồng quân đã vòng qua Da-rút-nhích, lọt vào hậu phương

của các quân đoàn Ba Lan.

    Chúng tung sư đoàn kỵ binh Ba Lan do tướng Coóc-

nhi-ski chỉ huy ra đuổi theo vết chân tập đoàn quân kỵ binh

thứ nhất của Bu-đi-on-ny. Sư đoàn kỵ binh Coóc-nhi-ski có

nhiệm vụ đánh tập hậu bằng được vào cánh quân đỏ mà

bộ chỉ huy Ba Lan cho là có ý định tấn công vào Ca-da-

chin, điểm chiến lược trọng yếu nhất của hậu phương Ba

Lan. Nhưng kế hoạch đó cũng không cứu vãn nổi tình hình

nguy ngập của quân bạch vệ Ba Lan. Tuy ngày hôm sau

quân Ba Lan có lấp được chỗ trận tuyến bị chọc thủng và

khép được phòng tuyến sau đường đánh thọc của kỵ binh

đỏ nhưng lúc đó trong lòng hậu phương của chúng, cả một

đoàn quân đỏ mạnh như vũ bão đã hoành hành rồi. Tập

đoàn quân này sau khi đã tiêu diệt các căn cứ hậu phương

của địch, tiến lên đánh vào những lực lượng của Ba Lan

đóng ở Ki-ép. Dọc đường tiến quân, các sư đoàn kỵ binh

đỏ đã phá hủy các cầu và đường sắt để chặn đường rút lui

của quân Ba Lan.

    Theo tin tù binh khai thì tham mưu quân đoàn địch đóng

ở Gi-tô-mia, nhưng thật ra ở đấy là cả bộ tham mưu mặt

trận của địch. Chỉ huy tập đoàn quân kỵ binh của ta quyết

định chiếm lấy những đầu mối đường xe lửa quan trọng và

những trung tâm hành chính quan trọng là Gi-tô-mia và Béc-

đi-sép. Và ngày mồng bảy tháng Sáu, khi trời vừa tảng

sáng, sư đoàn kỵ binh thứ tư của ta đã ập đến Gi-tô-mia.

    Pa-ven được bổ sung vào một trung đội kỵ binh, đi xung

kích thay chân Cu-láp-cơ đã hy sinh. Cả tập thể chiến sĩ

không muốn rời bỏ người kéo đàn gió cừ ấy, nên đã đề

nghị thu nạp anh vào trung đội.

    Đến gần Gi-tô-mia, quân ta chia làm nhiều mũi theo hình

cánh quạt đánh tỏa vào. Không ai muốn ghìm vó ngựa

đang phi hăng. Ánh nắng rọi vào lưỡi kiếm, bật ra muôn tia

sáng óng ánh bạc.

    Đất chuyển, ngựa hí, chiến sĩ rướn người trên bàn đạp.

Mặt đất chạy lướt nhanh, lùi lại dưới vó ngựa. Thành phố

Gi-tô-mia to lớn có những công viên xinh như chạy đến đón

sư đoàn kỵ mã. Đã vượt qua những vườn hoa ngoại thành.

Và giờ đây, sư đoàn ập vào trung tâm, tiếng thét "xung

phong” ghê rợn như thần chết, rung chuyển không trung.

    Bọn Ba Lan kinh hoàng hầu như không dám chống cự

lại. Quân đóng ở đây bị tiêu diệt tan tành.

    Pa-ven cúi rạp xuống bờm ngựa, phi như bay. Bên

cạnh là Tốp-tan đang phi trên con ngựa đen nhánh chân

thon.

    Mắt Pa-ven trông thấy nhát kiếm ác liệt của chiến sĩ

Tốp-tan quả cảm bổ xuống một thằng lê dương Ba Lan, tên

này không kịp đưa lưỡi lê lên đỡ.

    Móng sắt của vó ngựa nện siết đường phố. Rồi bất

chợt, ở ngã tư, một khẩu súng máy nhô ra. Ba tên mặc binh

phục xanh, đầu đội ca-lô cúi rạp trên khẩu súng, một tên

nữa, cổ áo có dải vàng như con rắn, chĩa súng lục nhằm

bắn những người đi ngựa.

    Không ghìm được dũng mã, cả Tốp-tan lẫn Pa-ven cứ

lao tới khẩu súng, đi thẳng vào nanh vuốt của thần chết.

Thằng sĩ quan cầm súng lục nhằm thẳng Pa-ven. Bắn

trượt... Đạn víu như chim sẻ kêu, sượt qua má. Và thằng sĩ

quan địch bị ngựa xô ngã lộn nhào, đầu vập xuống đường

đá. Cùng lúc ấy, những súng máy hối hả nhả đạn như bật ra

những dịp cười điên cuồng ghê rợn. Như bị đàn ong bằng

sắt châm đốt, Tốp-tan và ngựa bị trúng chừng chục viên

đạn ngã nhào xuống cả người lẫn ngựa.

    Con ngựa của Pa-ven hoảng sợ, rống lên, cất vó nhảy

chồm qua xác người và ngựa của Tốp-tan, rơi vào giữa

bọn giặc giữ súng máy. Mũi kiếm Pa-ven hoa lên một vòng

sáng rực, xả vào một chiếc ca-lô-xanh. Lưỡi kiếm lại vung

lên không, nhằm bổ vào một chiếc đầu khác. Nhưng con

dũng mã đang phi hăng đã nhảy tót sang bên.

    Như thác lũ tràn về cả trung đội ập đến ngã tư này, hàng

chục mũi kiếm hoa lên ngang dọc trên không…

    Những hành lang hẹp và dài của nhà pha Gi-tô- mia

vang ầm những tiếng kêu hét.

    Trong các xà-lim đầy ắp những người bị giam, mặt hốc

hác, đau khổ. Ngoài phố đang đánh nhau to, có thể nào tin

được là giải phóng đến nơi? Có thể nào tin được đấy là

quân mình đã bất ngờ từ đâu hiện đến?

    Trong sân nhà pha đã có tiếng súng nổ rồi. Dọc các

hành lang, người chạy vội vã. Rồi có tiếng đột ngột nói lên

thân thiết, vô cùng thân thiết.

   - Ra đi, các đồng chí ơi !

   Pa-ven dừng lại trước tấm cửa đóng kín. Hàng chục

cặp mắt nhìn qua lỗ nhỏ. Hăng máu lên, Pa-ven dùng báng

súng cố ghè khóa cửa. Ghè nữa, ghè nữa!

   - Để tớ làm cho. Lấy mìn mà phá. - Mi-rô-nốp gạt Pa-

ven sang bên, rồi thò tay rút quả lựu đạn trong bao ra.

   Trung đội trưởng Xi-ga-sên-cơ giằng lấy quả lựu đạn:

   - Dừng lại, đồ ngốc! Mày điên à? Đợi mang chìa khóa

mở đến. Không bẻ được đâu, để người ta lấy khóa mở

cho chúng mình.

   Bọn canh ngục, có súng ta gí sau lưng, bị dẫn đến mở

khóa xà-lim. Hành lang một lát đã đầy những người quần

áo tả tơi, lâu ngày không được tắm rửa. Lòng họ đang vui

như điên.

   Pa-ven mở rộng cửa sắt, chạy vào nhà giam.

   - Các đồng chí ơi! Các đồng chí đã được giải phóng

rồi! Chúng tôi là chiến sĩ kỵ binh của Bu-đi-on-ny. Sư đoàn

chúng tôi đã chiếm được thành phố rồi.

   Một người đàn bà, nước mắt giàn giụa, ôm chầm lấy

Pa-ven như ôm người nhà thân thiết, khóc nức nở.

   Giải phóng bằng ấy đồng chí bôn-sê-vích của mình, đối

với các chiến sĩ của sư đoàn, thật quý hơn tất cả mọi thứ

chiến lợi phẩm, quý hơn cả chiến thắng. Trong những hộp

bằng đá này, bọn Ba Lan trắng nhốt của ta năm ngàn bảy

mươi mốt đồng chí bôn-sê-vích đang đợi ngày chúng đem

đi bắn hay đi treo cổ và hai ngàn chính trị viên Hồng quân.

Đối với bảy ngàn chiến sĩ cách mạng được giải phóng ấy,

đêm tối không cùng vừa qua phút chốc đã chuyển ngay

thành ánh sáng chan hòa của một ngày tháng Sáu tươi

nắng.

   Một đồng chí bị giam mặt vàng như vỏ chanh ủng, sung

sướng chạy đến gặp Pa-ven. Đấy là Xa-miên Lê-khe,

người thợ sắp chữ ở xưởng in Sê-pê-tốp-ca.

   Nghe Xa-miên kể chuyện, mặt Pa-ven cứ xám dần. Một

tấn thảm kịch đẫm máu đã xảy ra ở thị trấn quê hương. Mỗi

tiếng Xa-miên nói ra rơi vào lòng anh như từng giọt sắt

nung lỏng.

   - Có một thằng khiêu khích khốn nạn báo, nên chúng tôi

bị tóm tất cả. Cả bọn chúng tôi rơi vào tay hiến binh. Chúng

nó đem ra tra tấn ngay rất dã man. Tôi bị đau ít hơn các

đồng chí khác: vì bị chúng nó đánh mấy tua đầu là tôi lăn ra

bất tỉnh ngay. Còn các cậu khác thì khỏe hơn tôi. . . Cũng

chẳng có gì mà giấu chúng nó nữa. Bọn sen đầm biết mọi

chuyện hơn cả chúng tôi kia. Chúng nắm được chẳng sót

một tý gì.

   Làm sao mà chúng không biết, khi có một thằng chó

phản bội đã len được vào tổ chức. Kể đến chuyện những

ngày đó thật đau lòng. Những anh chị em bị bắt, Pa-ven

quen biết gần hết đấy. Va-li-a Bơ-ru- giắc, Rô-da Gơ-rít-

sman, người ở quận lỵ, anh nhớ ra Rô-da chứ, một cô bé

con, một nữ thanh niên mười bảy tuổi, can đảm lắm, có đôi

mắt người ta cứ nhìn vào là tin ngay, rồi đến Xa-sa Bun-

sáp, Pa-ven nhớ chứ, thợ sắp chữ ở chỗ chúng tôi ấy mà,

một thằng bé vui tính lắm, lúc nào cũng vẽ nghịch lão chủ

xưởng. Cậu ấy rồi đến hai học sinh nữa: Nô-vô-xen-ki và

Tu- gít. Những người ấy Pa-ven đều biết cả. Còn những

người khác là người ở quận và ở thôn ngoại ô. Hai mươi

chín người tất cả, trong đó có sáu phụ nữ. Ai cũng bị đánh

dã man hết sức. Va-li-a và Rô-da bị chúng hiếp ngay hôm

đầu. Thôi thì quân khốn kiếp tha hồ làm nhục hai người con

gái tội nghiệp. Lúc chúng nó lôi hai người về xà-lim thì đã

chết dở cả. Sau lần đó, Rô-da bắt đầu nói huyên thuyên và

vài hôm sau thì phát điên hẳn.

    Song quân giết người không muốn tin là chị điên. Cho

là giả vờ, mỗi lần hỏi cung, lại đánh chị tàn tệ. Hôm chúng

đem chị đi bắn, thật nhìn mà ghê sợ. Mặt bị đánh thâm tím

khắp cả, đôi mắt dữ và dại đi. Trông y như một bà lão.

    Va-li-a cho đến lúc chết vẫn hiên ngang. Anh chị em đã

chết ra cái chết của những chiến sĩ chân chính. Tôi không

biết anh chị em đó đã lấy đâu ra sức mạnh mà dũng cảm

phi thường như vậy. Pa-ven ơi! Có tài nào thuật lại được

hết về cái chết của họ? Không, Pa- ven ạ. Cái chết của họ

ghê gớm hơn tất cả những lời kể lại... Va-li-a nguy nhất

trong bọn: chị phụ trách bắt liên lạc với cánh làm vô tuyến

điện cho tham mưu Ba Lan. Chị được phái đến quận để

bắt liên lạc. Chúng vào khám nhà chị thấy khẩu Bơ-rao-ninh

và hai quả lựu đạn. Súng lục và lựu đạn đó chính do tên

khiêu khích đã đưa cho chị. Chúng nó bày trò ra tất cả, để

buộc tội chị âm mưu dùng molorn ám sát ban tham mưu.

    Pa-ven ạ, tôi thật đau lòng mà kể lại những giờ phút

cuối cùng của anh chị em, nhưng Pa-ven đã yêu cầu thì tôi

xin kể hết. Tòa án binh của chúng đã tuyên án: Va-li-a và

hai người làm việc với chị thì bị treo cổ, những đồng chí

khác thì xử bắn.

    Những lính Ba Lan mà chúng tôi đã vận động được bị

đem ra xử trước chúng tôi hai ngày.

    Đồng chí vô tuyến điện tên là Snê-guốc-cô liên lạc với

Va-li-a bị buộc tội phản quốc và tuyên truyền cộng sản

trong binh lính. Đồng chí người còn trẻ, đóng cai, trước

chiến tranh làm thợ máy điện ở Lốt. Chúng kết tội xử bắn.

Đồng chí từ chối không ký giấy chống án, và bị đem đi bắn

ngay, hai mươi bốn giờ sau khi tuyên án.

    Va-li-a bị gọi đến làm chứng xử vụ Snê-guốc-cô, về có

kể lại là Snê-guốc-cô nhận đã tuyên truyền chủ nghĩa cộng

sản, song cực lực phản đối án kết tội anh là phản quốc.

Anh nói:

    "Tổ quốc của tôi là nước Cộng hòa Xô-viết xã hội chủ

nghĩa Ba Lan. Phải, tôi là đảng viên Đảng cộng sản Ba

Lan, bị cưỡng ép mà đi lính. Vào lính, tôi phải tìm hết cách

để mở mắt cho các bạn đồng ngũ cũng bị ép ra mặt trận

như tôi. Các ông viện cớ đó muốn treo cổ tôi thì treo cổ,

nhưng không bao giờ tôi phản bội Tổ quốc của tôi, không

bao giờ cả. Duy có một điều: Tổ quốc của các ông và Tổ

quốc của tôi không phải là một. Tổ quốc của các ông là tổ

quốc của bọn vương bá. Tổ quốc của tôi là Tổ quốc của

thợ thuyền và dân cày. Tổ quốc của tôi - phải, tương lai sẽ

có Tổ quốc của tôi, tôi tin tưởng sâu xa điều đó. - Trong Tổ

quốc của tôi, không ai nói rằng tôi là phản quốc cả".

    Bị kết án xong, chúng tôi bị giam tập trung vào một chỗ.

Trước khi bị đem đi hành hình, chúng lại chuyển chúng tôi

về nhà pha. Đêm trước chúng trồng cột treo cổ ngay trước

nhà pha bên cạnh nhà thương. Chỗ bắn lại ở nơi khác, hơi

xa đấy, bên rừng, gần con đường men theo bờ lạch. Chúng

đã đào sẵn một cái huyệt chung để vùi chúng tôi.

    Bản án dán khắp nơi, trong thành phố ai cũng biết.

Chúng rắp tâm định hành án chúng tôi giữa ban ngày, có

mặt dân, để cho nhân dân ai cũng trông thấy mà sợ. Từ

sáng sớm, chúng lùa hàng phố ra chỗ cột treo cổ. Một số

người vì tò mò mà kéo đến. Trông xử treo cổ ghê mắt thật,

nhưng họ vẫn đến. Quần chúng vây quanh những cột treo

cổ đông lắm. Nhìn đâu cũng thấy đầu người như sóng biển.

Pa-ven nhớ có cái tường bao quanh nhà pha bằng gỗ cây

ghép đấy nhỉ. Cột treo cổ trồng dựa lưng vào nhà pha cho

nên chúng tôi nghe rõ tiếng rào rào của đám đông bên

ngoài. Trên đường phố, phía sau lưng quần chúng, đã đặt

sẵn súng máy, sen đầm đi ngựa và đi chân đều dồn về đây

canh gác. Một tiểu đoàn bộ binh vây lấy các vườn rau và

các thành phố. Chúng đã đào sẵn một hố riêng chôn những

người bị treo cổ ngay bên cột treo cổ. Chúng tôi im lặng

chờ đợi trong ngục, thỉnh thoảng nói với nhau vài lời. Đêm

hôm trước, chúng tôi đã nói hết mọi chuyện với nhau rồi và

đã gửi nhau lời vĩnh biệt. Chỉ có Rô-da đứng lẩm bẩm một

mình ở góc tường. Va-li-a bị đánh, bị hiếp, kiệt sức không

bước được nữa, thường phải nằm liệt một chỗ. Có hai chị

em ruột, đảng viên ở thôn ngoại ô, ôm lấy nhau chào vĩnh

biệt và không nén nổi, nấc lên khóc nức nở. Stê-pa-nốp,

một thanh niên ở quận khỏe như đô vật, khi mới bị bắt đã

choảng hai tên sen đầm bị thương, nghe khóc, lại gần hai

chị ấy, nhắc đi nhắc lại: "Đừng khóc, các đồng chí! Nếu

khóc ở đây để chốc nữa đừng khóc ngoài kia thì các đồng

chí cứ khóc. Đừng cho đàn chó khát máu thấy chúng ta yếu

lòng mà chúng phởn bụng. Thế nào thì chúng cũng chẳng

thương gì chúng ta đâu, thế nào rồi cũng chết. Vì vậy phải

chết cho cứng cỏi. Đừng có ai trong chúng ta được quỳ

gối, cúi đầu cả. Các đồng chí nhớ lấy, chết thì phải chết

cứng cỏi".

    Rồi chúng đến dẫn chúng tôi đi. Đi đầu là thằng Sơ-vác-

cốp, trưởng ban phản gián trắng, một thằng cuồng dâm

điên loạn, một đứa trông thấy đàn bà nếu chính nó không

đè ra hiếp, thì cũng để cho lũ sen đầm hiếp ngay trước mặt

để nhìn cho sướng mắt. Từ nhà ga ra đến cột treo cổ, xếp

song song hai hàng rào sen đầm. Bọn "vện" đeo lon vàng

ấy đứng nghiêm, gươm tuốt trần sáng loáng.

    Chúng nó lấy báng súng dồn chúng tôi ra sân nhà pha,

rồi bắt chúng tôi xếp hàng tư điệu ra chỗ cột treo cổ, định

tâm bắt chúng tôi phải chứng kiến cái chết của đồng chí

mình, trong khi chờ đợi đến lượt mình đi chết. Cột treo cổ

bằng những thanh gỗ to sù, cao dựng đứng, lủng lẳng ba

thòng lọng bằng thừng to bện lại. Chung quanh, biển người

náo động, xì xào. Dân nhìn chúng tôi... chúng tôi nhìn dân.

Mỗi người nhận ra người nhà của mình.

    Xa xa, trên thềm cao, tất cả bọn quý tộc Ba Lan đã ngồi

chầu sẵn, tay cầm ống nhòm. Nhiều đứa là võ quan. Chúng

đến xem treo cổ người bôn-sê-vích.

    Dưới chân chúng tôi, tuyết êm lắm, rừng chung quanh

trắng xóa, cây cối như có bông bao phủ, hoa tuyết quay

tròn rơi từ từ và tan trên da mặt nóng bừng của chúng tôi.

Bệ dưới cột treo cổ cũng có tuyết. Mặc phong phanh mà

chúng tôi cũng chẳng thấy rét, Stê-pa-nốp cũng không biết

là chân mình chỉ đi tất không mang giày.

    Tên chưởng lý tòa án binh và các sĩ quan cao cấp đứng

trước cột treo cổ. Rồi chúng dẫn Va-li-a và hai người nữa

bị xử treo cổ ra khỏi nhà giam. Ba người khoác tay nhau,

Va-li-a đi giữa. Hai người đỡ cho chị đi, chị không còn sức

nữa, cố lê bước chân, mình không áo khoác, trần một chiếc

áo sợi. Chị cố đi thẳng người, có lẽ chị đang nhớ tới lời

Stê-pa-nốp: "Phải chết cho cứng cỏi!" Thằng Sơ-vác-cốp

trông thấy ba người tử tù khoác tay nhau mà đi thì lấy làm

cáu lắm. Nó gạt hai người đàn ông đỡ chị ra. Chị cự lại nó

ngay. Thế là có một thằng sen đầm đi ngựa đến quất roi da

vào mặt chị, tay này mỏi hắn lại đưa roi sang tay khác quất

lấy quất để.

    Trong đám quần chúng có một người đàn bà rú lên,

tiếng rú của một người mất trí khôn, bà ta lăn xả vào lách

qua hàng rào lính, chạy đến hàng người bị xử, nhưng bà bị

giữ lại và bị dẫn đi đâu không rõ. Chắc là bà mẹ chị Va-li-

a. Khi ba người đến dưới chân cột treo cổ, Va-li-a cất

tiếng hát. Chưa bao giờ tôi được nghe thấy một giọng hát

như thế. Chỉ có một người bị xử tử, dũng cảm đi ra trước

cái chết, mới hát say mê đến nhường ấy được. Va-li-a cất

tiếng hát lên Bài hát của người dân thành Vác-xô-vi. Hai

người cùng bị tội với chị đồng thanh hát theo. Thế là bọn

sen đầm quất roi như bão táp vào mặt họ thật cực kỳ hung

tợn. Nhưng họ dường như không biết đau nữa. Rồi bọn

chúng đánh họ ngã lăn ra, lôi lại cột treo cổ như lôi những bì

gạo. Chúng hấp ta hấp tấp đọc bản án, rồi vứt thòng lọng

vào cổ họ. Thế là đến lượt chúng tôi hát lên.

Vùng lên, hỡi các nô lệ ở thế gian !…

   Chúng nó tứ phía bổ lại nện chúng tôi túi bụi. Tôi chỉ còn

kịp trông thấy một tên lính lấy báng súng đánh bật cọc giữ

chân ra và ba thân người lủng lẳng, giãy giụa ở đầu dây

thừng treo cổ.

     Mười người trong bọn tôi, trong số đó có tôi được ân

giảm: khi chúng tôi đã bị đứng lấp quay mặt vào tường để

ăn đạn chì, thì chúng đọc cho chúng tôi nghe lệnh của tên

tướng cho giảm xuống mười năm khổ sai thay vào tội xử

tử. Mười bảy đồng chí kia bị bắn chết gục bên cạnh chúng

tôi.

     Xa-miên cởi giật cúc áo cổ dường như bị nghẹt thở, rồi

kể tiếp:

     - Trong ba ngày, những người bị treo cổ cứ lủng lẳng ở

đấy, ngày đêm có một tiểu đội lính gác bên cột treo cổ. Anh

em bị bắt vào sau cho chúng tôi biết như thế. Đến ngày thứ

tư thì xác đồng chí Tô-bôn- đin nặng nhất rơi xuống. Bấy

giờ, chúng mới cởi hai cái xác kia, chôn ngay tại chỗ. Còn

cột treo cổ vẫn để đấy, hôm chúng dẫn bọn tôi vào đây, bọn

tôi vẫn còn trông thấy. Cả cột lẫn dây thòng lọng vẫn còn

nguyên để đợi những người khác bị xử tử.

     Xa-miên ngừng kể, mắt nhìn chằm chằm vào một cái gì

mơ hồ ở đằng xa. Câu chuyện kể hết vào lúc nào, Pa-ven

cũng không để ý nữa. Trước mắt anh hiện rõ ra hình ảnh ba

xác người, đong đưa, im lặng, đầu rũ về bên một cách thê

thảm.

     Ngoài kia, kèn gọi tập hợp. Tiếng kèn oai hùng đưa

anh về với thực tại. Anh nói khẽ, tiếng bật ra trong hơi thở.

     - Xa-miên ạ, chúng ta ra khỏi đây đi thôi !

     Ngoài phố, tù binh Ba Lan lê bước giữa hai hàng kỵ

binh của ta áp giải. Ở cửa trại giam, đồng chí chính ủy trung

đoàn đứng viết nốt mệnh lệnh vào cuốn sổ tay đi trận. Đồng

chí đưa mảnh giấy cho người trung đội trưởng thấp lùn:

    - Danh sách tù binh đây, đồng chí An-ti-pốp cầm lấy.

Lấy một tổ đi theo và áp giải họ về Nô-vô-gơ-rát

    - Vô-lưn-xki. Cho băng bó những người bị thương, rồi

đặt họ nằm trên xe và cũng đưa về đấy cả. Áp giải họ

chừng hai mươi dặm, sau đó để họ tự đi tiếp. Ở đây chúng

ta còn bận việc khác. Song cẩn thận nhé, đừng để xảy ra

chuyện gì ngược đãi đối với họ.

    Pa-ven lên ngựa, quay bảo Xa-miên:

    - Anh nghe rõ chứ? Chúng nó treo cổ anh chị em ta, mà

chúng ta thì dẫn họ đi không được ngược đãi họ ! Không

dễ như thế đâu!

    Đồng chí chính ủy quay lại, nhìn vào mặt Pa-ven và đồng

chí nói những tiếng gọn, rắn rỏi, như nói với chính mình:

    - Ai ngược đãi tù binh giải giáp rồi sẽ bị xử bắn. Chúng

ta không có như bọn bạch vệ.

    Rời trại giam, Pa-ven nhớ lại những lời cuối trong bản

mệnh lệnh của Hội đồng quân sự cách mạng đã đem ra

đọc trước toàn thể trung đoàn:

    "Đất nước của thợ thuyền và dân cày yêu mến Hồng

quân của mình và lấy làm tự hào về Hồng quân. Đất nước

đòi hỏi phải giữ cho lá cờ của Hồng quân trong sạch,

không một vết nhơ".

    Pa-ven nhủ thầm trên môi: "Không một vết nhơ".

    *

    Trong khi sư đoàn kỵ binh đỏ thứ tư chiếm lĩnh Gi-tô-

mia thì lữ đoàn thứ hai mươi của sư đoàn khinh binh thứ

bảy vượt sông Đơ-nhi-ép ở quãng thôn Ô- cu-nhi-nô-vô. Lữ

đoàn thứ hai mươi này nhập vào binh đoàn xung kích của

đồng chí Gô-li-cốp.

     Đoàn này gồm có sư đoàn khinh binh 25 và lữ đoàn kỵ

binh Ba-sơ-kia, nhận lệnh sau khi vượt sông Đơ- nhi-ép, thì

cắt đường rút quân của địch từ Ki-ép đến Cô-rô-ten, gần

ga La-sa. Do thế vận động đó mà quân Ba Lan mất đường

rút lui duy nhất. Chính trong cuộc vượt sông Đơ-nhi-ép này

mà Mi-sa, người thanh niên cộng sản thành Sê-pê-tốp-ca,

đã hy sinh.

     Lúc ấy bộ đội như đang chạy thi vượt nhanh nhịp cầu

nổi rung rinh, thì có một quả đại bác, từ phía đằng kia, sau

ngọn đồi, rú lên, ghê rợn, bay trên đầu các chiến sĩ rồi rơi

tõm xuống nước. Mi-sa bị bắn, người lộn nhào ngay xuống

dưới đáy một chiếc thuyền làm cầu. Dòng nước cuốn nuốt

chửng anh đi không buông tha nữa. Chỉ có I-a-ki-men-cô,

một thanh niên tóc vàng hoe, đội mũ mất lưỡi trai, kêu lên

kinh ngạc:

     - Cậu không trông thấy gì à? Mi-sa bị nước cuốn mất

rồi. Tội nghiệp thằng bé rơi xuống đã biến mất, như bị con

bò thè lưỡi liếm phăng đi ! - I-a-ki-men- cô đứng sững lại,

hoảng hốt, nhìn dòng nước thăm thẳm, nhưng đoàn quân từ

phía sau tiến lên xô tới, giục anh:

     - Sao cậu đứng há mồm ra nhìn như thằng ngố thế ?

Tiến lên đi nào!

     Thời giờ không có để mà suy nghĩ về người đồng đội

mất tích ấy nữa: lữ đoàn của họ đã bị các đơn vị khác

chiếm xong bên hữu ngạn, bỏ rớt lại xa rồi.

     Bốn ngày sau, Xéc-gây mới biết tin bạn chết. Khi đó lữ

đoàn đã chiếm được ga Bu-sa và chuyển thế trận quay

sang Ki-ép, chống lại những đợt tấn công ác liệt của quân

Ba Lan đang tìm cách đánh thọc vào Cô-rô-ten.

   I-a-ki-men-cô nằm ngay cạnh cùng hàng xạ kích với

Xéc-gây. Anh ngừng nhịp bắn điên giận, đẩy quy- lát một

cách khó nhọc trên nòng súng nóng bỏng, cúi đầu xuống

đất, quay lại nói với Xéc-gây:

   - Khẩu súng của mình nó đòi nghỉ. Ái chà nòng súng

nóng như lửa!

   Tiếng nổ ầm ầm át đi làm Xéc-gây chỉ thoáng nghe thấy

tiếng nói của bạn. Khi tiếng súng im một lát, I-a-ki-men-cô

mới báo tin qua cho Xéc-gây biết:

   - Bạn cậu bị chết đuối ở Đơ-nhi-ép rồi. Lúc ấy một quả

đại bác bắn tung tóe vào chúng tớ. Mình chưa kịp kêu lên,

Mi-sa đã lăn tòm xuống nước rồi không thấy ngoi lên nữa.

   I-a-ki-men-cô nói rồi lấy tay kéo quy-lát, móc túi dết lấy

đạn ra và vội vã lắp vào súng.

   *

   Sư đoàn mười một tấn công vào chiếm lĩnh Béc- đi-sép

vấp phải sức kháng cự mãnh liệt của quân Ba Lan.

   Chiến đấu gay go, máu loang các phố. Liên thanh nổ

giòn chặn đường kỵ binh. Nhưng rồi thành phố cũng bị ta

chiếm, tàn quân địch bỏ chạy. Trên ga, ta thu được nhiều

đoàn tàu chở quân trang, quân dụng của chúng. Thiệt hại

nặng nhất của địch là kho dự trữ đạn dại bác của toàn mặt

trận chừng một triệu viên bị nổ tung. Các cửa kính trong

phố vỡ vụn ra, nhà cửa bị tiếng nổ mạnh rung chuyển,

tưởng như làm bằng giấy bồi.

   Bị đánh vào Gi-tô-mia và Béc-di-sép đối với quân Ba

Lan tức là bị đánh quật từ sau lưng lại, cho nên chúng vội

vàng chia ngay làm hai mũi như hai dòng thác người hấp

tấp chuồn khỏi Ki-ép, cố sống cố chết đánh một cách tuyệt

vọng để mở đường chạy thoát vòng vây sắt của quân ta.

    Pa-ven đã không còn nghĩ gì về cá nhân mình. Những

ngày đang sống say sưa trong những trận xung sát ác liệt,

anh hòa hẳn mình vào tập thể và cũng như mỗi người trong

các chiến sĩ, anh như đã quên hẳn tiếng "tôi" chỉ còn nói

tiếng "ta": trung đoàn "ta", trung đội "ta", lữ đoàn "ta".

    Mà tình hình thì dồn dập, diễn biến nhanh như gió bão.

Mỗi ngày đều mang đến một chuyện mới. Đoàn kỵ mã lao

đến đâu cuốn phăng phăng đến đấy. Đoàn kỵ binh quang

vinh của tướng Bu-đi-on- ny đánh hết trận này đến trận

khác, đã làm tiêu hao, kiệt sức tất cả hậu phương của Ba

Lan. Say sưa trước thắng lợi ngày càng một lớn, các sư

đoàn kỵ binh đỏ hùng dũng tấn công vào Nô-vô-gơ-rát-vô-

lưn-ski, trái tim của hậu phương quân địch.

    Quân ta lùi lại như những đợt sóng đập vào bờ sông có

đá dựng đứng, bị đẩy ra, rồi lại chồm lên với tiếng thét

"xung phong” mãnh liệt.

    Không gì cứu nổi quân Ba Lan nữa rồi, cả những hệ

thống hàng rào dây thép gai và cuộc kháng cự liều chết cố

sống của quân giữ thành này cũng chẳng ăn thua gì. Sáng

hai mươi bảy tháng Sáu, quân kỵ mã của ta thúc ngựa lội

qua sông Xi-lút, ập vào thành, truy kích quân địch ở phía

làng Cô-rét. Cùng lúc ấy, sư đoàn bốn mươi nhăm cũng

vượt qua sông này ở quãng Mi-rô-pôn, còn lữ đoàn kỵ binh

Cô-tốp-ski thì đã phóng tới Lu-ba.

    Vô tuyến điện của tập đoàn quân kỵ mã thứ nhất nhận

được lệnh của Bộ tư lệnh mặt trận: đưa toàn bộ quân kỵ

mã xung phong chiếm lấy Rốp-nô. Cuộc tấn công ồ ạt

không sức gì cản nổi của các sư đoàn đỏ truy kích quân Ba

Lan, làm chúng bị chia cắt tán loạn, rời rạc, mất tinh thần,

cố chạy dài bán sống bán chết để tháo thân.

    Một hôm, Pa-ven được lữ đoàn trưởng phái đến chỗ ga

có đoàn xe bọc sắt đỗ. Tới đấy, anh được gặp một người

mà anh không ngờ là có thể gặp. Con ngựa của anh nhảy

tót qua bờ dốc của đường xe lửa. Pa- ven kéo cương

dừng lại trước toa xe đầu sơn xám. Đoàn xe bọc sắt kiên

cố ghê sợ đứng lù lù, ló những chiếc mõm đen của nòng

súng giấu trong tháp pháo. Chung quanh nhiều bóng người

bê bết dầu mỡ đang loay hoay ỳ ạch nâng những tấm thép

nặng bọc ngoài bánh.

    Gặp một chiến sĩ mặc áo da đang xách thùng nước,

Pa-ven hỏi:

    - Đồng chí có biết đồng chí chỉ huy đoàn tàu bọc thép

này ở đâu không?

    Chiến sĩ kia hất đầu chỉ về phía đầu tàu:

    - Ở đằng kia kìa.

    Pa-ven đi lại đầu tàu hỏi:

    - Ở đây ai là đồng chí chỉ huy xin cho biết.

    Một người mặc toàn đồ da từ đầu đến chân, mặt rỗ,

quay lại :

    - Tôi đây.

    Pa-ven thò vào túi lấy ra một phong thư:

    - Đây là mệnh lệnh của lữ đoàn trưởng. Đề nghị đồng

chí ký nhận trên phong bì cho.

    Đồng chí chỉ huy tì phong bì lên đầu gối ký tên.

    Một bóng người đang cầm bình dầu lúi húi gần bánh xe

giữa của đầu máy. Pa-ven chỉ nhìn thấy cái lưng rộng của

người ấy và báng súng lục lòi ra ngoài túi quần da.

    Đồng chí chỉ huy trao lại phong bì cho Pa-ven:

    - Gửi đồng chí. Tôi đã ký nhận rồi đấy.

    Pa-ven cầm dây cương ngựa định ra về. Giữa lúc đó

bóng người bên đầu tàu đứng thẳng cả người lên quay lại.

Thì ngay lúc ấy, Pa-ven nhảy tót xuống như thoắt có một

cơn gió cuốn khỏi yên ngựa:

    - Anh A-rơ-chom!

    Người thợ máy khắp người nhọ nhem dầu ma-dút, đặt

bình dầu xuống đất và ôm chặt lấy anh chiến sĩ Hồng quân

trẻ tuổi trong cánh tay khỏe như gấu của mình.

    - Pa-ven! Ra mày đấy à, hở thằng nhãi con. - A- rơ-

chom kêu lên thế, mắt nhìn còn ngỡ là nhầm.

    Đồng chí chỉ huy đoàn tàu nhìn cảnh đó rất lấy làm lạ.

Anh em pháo thủ chung quanh cười ran cả lên:

    - Trông kìa, hai anh em gặp nhau.

    *

    Ngày mười chín tháng Tám, trong trận đánh ở vùng Lơ-

vốp, Pa-ven để rơi mất mũ cát-két. Vừa hãm ngựa lại nhặt

mũ thì thấy trước mặt các trung đội đỏ đã đánh thọc vào

hàng ngũ khinh binh Ba Lan. Lúc đó, Đê-mi-đốp phi ngựa

vun vút giữa những lùm cây, vừa phi theo bờ dốc xuống

sông, vừa kêu lên:

    - Sư đoàn trưởng đã bị chúng giết rồi.

    Pa-ven rùng mình. Đồng chí Lê-tu-nốp, người chỉ huy

anh hùng của sư đoàn, người đồng chí có lòng quả cảm vô

biên, người ấy đã mất rồi. Pa-ven căm giận sôi người, lấy

đốc kiếm phát vào mông con ngựa Gơ-nê-đốc, ghì cương

chặt, hàm thiếc siết mạnh làm mõm ngựa bật máu tươi,

anh lao sâu vào lòng cơn xung sát, thét lớn:

    - Chém hết đầu loài súc sinh nhơ bẩn ấy đi! Chém đi!

Chém hết bọn quý tộc Ba Lan! Chúng nó đã giết mất Lê-tu-

nốp rồi.

    Và Pa-ven chém phập vào bóng một tên mặc binh phục

xanh, anh chẳng ngoái lại nhìn kẻ bị chém đó nữa. Điên tiết

lên vì căm thù trước cái chết của sư đoàn trưởng, quân kỵ

mã đỏ chém chết cả một đơn vị lê-dương.

    Họ xông lên đến tận cánh đồng, truy kích lũ giặc đang

chạy thì vừa lúc ấy pháo binh địch bắn tới. Trái phá nổ vừa

bung lên xé đứt không trung, mảnh đạn chết người bắn

tung tóe.

    Trước mắt Pa-ven, một ngọn lửa xanh bùng lên, lóe

sáng, như chớp lòe xoẹt mạnh bên tai nghe như tiếng sấm,

mảnh đạn đỏ rực cháy sém vào đầu anh. Mắt Pa-ven hoa

lên, đất bắt đầu xoay như chong chóng, ghê sợ, quay

cuồng, lảo đảo rồi như ngã vật xuống bên anh.

    Tiếng nổ rung chuyển mạnh làm Pa-ven bắn khỏi mình

ngựa nhẹ như chiếc lông. Anh lăn qua đầu con ngựa Gơ-

nê-đốc, nặng nề ngã nhào ra đất.

    Và anh thấy tối sầm lại.

CHƯƠNG IX

     Trong cơn mê man, Pa-ven thấy một con bạch tuộc. Mắt

nó lồi lên, to bằng đầu con mèo, đỏ ngầu, giữa thì xanh,

sáng óng ánh một thứ ánh sáng chói lọi. Con bạch tuộc ngọ

nguậy hàng chục những tua càng xoắn lại như rắn rết, lớp

vẩy trên da cọ sột soạt. Con bạch tuộc nhúc nhích bò lên.

Pa-ven thấy nó ngay trước tầm mắt mình. Tua càng của nó

bò trên mình anh tê lạnh mà làm người anh ngứa ran nóng

bỏng như bị lá han. Nó chìa vòi ra sắc như gươm rúc vào

đầu anh như giống đỉa, co mình lại giãy lên đành đạch, rồi

thì hút máu của anh. Pa-ven cảm thấy dường như máu mình

thấm hết vào cái xác căng trương của con vật. Vòi nó hút

máu hút lấy hút để. Nó chui đến đâu thì anh lại thấy đầu anh

đau nhói không tài nào chịu được.

     Có tiếng người nói văng vẳng ở đâu xa lắm.

     - Mạch cậu ấy bây giờ bao nhiêu?

     Rồi có tiếng người phụ nữ đáp lại, giọng nói càng khẽ

hơn:

     - Mạch 138. Nhiệt độ 39,5. Không lúc nào ngớt mê

sảng.

     Con bạch tuộc đã biến rồi, nhưng đầu anh vẫn còn đau.

Pa-ven cảm thấy có ngón tay ai chạm vào cổ tay mình. Anh

cố mở mắt ra, nhưng hai hàng mi nặng trĩu không sao hé ra

được. Mà sao lại nóng thế nhỉ. Chắc là mẹ đốt lò nướng

bánh rồi. Vẫn còn giữa cơn nửa tỉnh nửa mê ấy thì anh lại

nghe có tiếng người nói đâu đây:

     - Mạch bây giờ 122.

    Anh lại cố mở mắt ra. Trong người nóng như lửa đốt.

Ngột ngạt quá.

    Khát quá đi mất! Anh định ngồi dậy uống nước cho thỏa

cơn khát. Nhưng sao không dậy được? Muốn cựa mình

một cái, mà sao cái xác cứ ỳ ra, không nhích được, chẳng

phải là thân thể mình nữa rồi. Anh vẫn còn mê man nghĩ đến

mẹ sắp đem nước tới, anh sẽ nói với mẹ: "Con muốn uống

nước". Có cái gì cựa quậy bên anh. Hay lại con bạch tuộc

rồi. Đấy mắt nó đỏ ngầu kia kìa...

    Từ xa có tiếng nói nhỏ vọng lại:

    - Phơ-rô-xi-a, mang nước lại !

    "Phơ-rô-xi-a? Tên ai đấy nhỉ?" Pa-ven cố nhớ lại xem là

tên ai, nhưng sự cố gắng đó lại nhấn chìm anh vào bóng

tối. Anh cố ngoi lên và một lần nữa lại nhớ ra: "Mình khát

lắm".

    Có tiếng nói:

    - Tôi thấy cậu ta tỉnh lại rồi đấy.

    Và ngay đó có tiếng dịu dàng, lần này nói nghe rõ hơn,

gần hơn, hỏi Pa-ven:

    - Đồng chí bệnh binh muốn uống nước phải không?

    "Té ra mình là bệnh nhân hay sao? Hay là không phải

người ta nói với mình đâu? Ừ, ta bị bệnh chấy rận thật rồi

mà". Và lần thứ ba, Pa-ven định mở mắt ra. Lần này thì mở

được. Qua khe nhỏ của bên mắt mở, cảm giác đầu tiên mà

anh cảm thấy là một quả cầu đỏ lơ lửng trên đầu anh,

nhưng rồi một vật gì tối om đã che mất; bóng tối om ấy cứ

cúi xuống gần anh và làn môi anh nhận ra cái thành cứng

cửa chiếc cốc rồi là nước, một thứ nước mát rượi uống

tỉnh người. Lửa nóng trong người nguội đi.

    Anh khoan khoái thì thầm:

    - Bây giờ dễ chịu rồi.

    - Đồng chí bệnh binh! Đồng chí có nhìn thấy tôi không?

    Người hỏi đó chính là cái bóng tối om đang ngả xuống

người anh. Pa-ven thiu thiu ngủ, miệng vẫn còn kịp đáp lại:

    - Không thấy, nhưng nghe thấy.

    - Ai có thể nói là cậu ấy qua khỏi được. Thế mà, cậu ấy

hồi lại rồi đấy. Thật là một cơ thể rắn khỏe lạ thường. Chị

Nhi-na ạ, chị có thể tự hào là đã cải tử hoàn sinh cho cậu

ta.

    Và giọng người phụ nữ, xúc động, trả lời:

    - Cậu ta khỏi được, tôi mừng lắm.

    Sau mười ba ngày mê thiếp đi, Pa-ven đã hồi tỉnh lại.

    Tấm thân trẻ của anh không muốn chết sớm, dần dần

lại sức. Thật như sống lại; mọi vật, mọi thứ đối với anh đều

mới lạ khác thường. Chỉ có cái đầu nặng trình trịch nằm

cứng trong hộp bó thạch cao không nhúc nhích. Nhưng cảm

giác toàn thân đã trở lại và những ngón tay anh đã có thể

nắm vào duỗi ra rồi.

    Nhi-na, y sĩ của một quân y viện, ngồi bên chiếc bàn nhỏ

trong gian phòng vuông đang lật từng tờ quyển vở dày bìa

trắng bạch. Mỗi trang ghi những dòng nhật ký ngắn, nét chữ

thanh, viết nghiêng:

26 tháng Tám 1920.

    Chuyến xe lửa quân y hôm nay đưa về một lô chiến sĩ bị

thương nặng. Trên giường ở góc toa, gần cửa sổ, có một

chiến sĩ Hồng quân mới mười bảy tuổi bị thương ở sọ. Tên

cậu ta là Ca-rơ-sa-ghin Pa-ven An-đơ-rê- vích. Người ta

trao cho tôi những giấy má tìm thấy trong túi chiến sĩ, bỏ

trong một chiếc phong bì, cùng với y bạ của thầy thuốc.

Trong phong bì có một tấm thẻ đã nhàu nát của Đoàn thanh

niên cộng sản U- cơ ren số 967, một cuốn sổ quân bạ đã

rách, trong đó có ghi Pa-ven được tuyên dương vì đã hoàn

thành tốt một nhiệm vụ quân báo, và một mẩu giấy có lẽ

chính tay Pa-ven viết:

    "Nếu tôi chết, xin các đồng chí báo cho thân nhân tôi:

thành Sê-pê-tốp-ca, sở đầu máy xe lửa, ông thợ nguội A-

rơ-chom Ca-rơ-sa-ghin".

    Người thương binh ấy đã bất tỉnh từ lúc bị một mảnh

trái phá bắn bị thương, từ ngày 19 tháng Tám. Ngày mai,

bác sĩ A-na-tôn Stê-pan-nô-vích sẽ khám bệnh cho cậu ta.

27 tháng tám.

   Hôm nay đã xem vết thương của Pa-ven. Sâu lắm, nặng

lắm. Hộp sọ bị thủng cho nên cả nửa đầu bên phải bị liệt

hẳn. Mắt phải bị đứt mạch máu, sưng vù lên.

   Bác sĩ giải phẫu A-na-tôn muốn lấy cả mắt đi cho khỏi

sưng. Tôi can mãi vì còn có thể hy vọng chỗ sưng sẽ bớt

tấy lên. Bác sĩ đồng ý.

   Tôi đề nghị thế chỉ vì nghĩ đến vẻ đẹp của con người:

nếu cậu ta sống được, thiếu một mắt là xấu đi bao nhiêu,

mà lấy mắt ấy đi có lợi gì đâu.

   Người thương binh trẻ tuổi ấy vật vã, mê hoảng liên

miên. Phải cho người gác luôn ở bên. Tôi để phần lớn thời

giờ trông nom cậu ta. Thấy cậu ta trẻ măng mà thương

quá. ước gì cứu được cậu ta khỏi chết!

   Hôm qua sau khi hết phiên, tôi đã ở lại rất lâu trong

phòng cậu ta, vì cậu ta là người bị nặng nhất. Tôi nghe hết

những lời nói mê của cậu ta. Đôi khi nói mê như kể chuyện

ấy. Vì cậu ta mê hoảng mà tôi được biết thêm về đời cậu

ta. Nhưng đôi lúc cậu ta hét chửi ghê quá. Nghe những câu

hét chửi như thế ở miệng cậu ta ra, sao tôi thật đau lòng.

Bác sĩ A-na-tôn thì cho là không sao qua khỏi được. Ông

già ấy cứ phàn nàn: "Tôi không hiểu cớ sao người ta lại

nhận những thiếu niên bé tí tuổi đầu như thế vào bộ đội.

Thật vô lý".

30 tháng Tám.

   Pa-ven vẫn chưa tỉnh. Cậu ta nằm riêng ra một nơi ở

buồng những người hấp hối. Chị hộ lý Phơ-rô- xi-a trông

nom cậu ta, không rời cậu ta một bước. Đâu chị có quen

biết cậu ta. Trước kia hai người cùng làm ở một khách

sạn. Cô ta phục vụ người bệnh này hết sức ân cần, hết sức

chu đáo. Bây giờ tôi cũng bắt đầu thấy rằng không có hy

vọng gì cứu sống được cậu ta.

2 tháng Chín.

   Mười một giờ đêm. Hôm nay ngày vô cùng tươi đẹp

của tôi ! Người bệnh Pa-ven của tôi đã tỉnh, đã hồi sinh.

Qua được độ bệnh trầm trọng nhất rồi. Hai ngày nay, tôi

không về nhà.

   Thật tôi không thể nói hết nỗi vui mừng của mình: lại

cứu sống thêm được một người bệnh nữa. Thôi thế là bớt

được một người chết bệnh trong ban tôi. Trong công tác

mệt nhọc của tôi, nguồn vui trong trẻo nhất là thấy những

người bệnh qua khỏi đang hồi lại sức. Họ quấn quít lấy tôi

như một đám trẻ nhỏ.

   Tình thân của họ giản dị, thật thà, và đến khi cùng họ

chia tay, nhiều lần tôi phải khóc. Buồn cười thật, song thật

như thế đấy, không sao cầm lòng được.

10 tháng Chín.

    Hôm nay, tôi viết hộ Pa-ven bức thư thứ nhất gửi cho

người nhà cậu ta. Cậu ta bảo tôi viết là vết thương nhẹ

thôi, sắp khỏi và sẽ về thăm nhà. Thật ra, cậu ta mất nhiều

máu lắm, người xanh bệch, hãy còn yếu lắm.

14 tháng Chín.

    Cái cười thứ nhất của Pa-ven. Cười ngoan lắm.

Thường cậu ta có vẻ mặt khắc khổ ít thấy ở số người cùng

lứa tuổi với cậu. Cậu đã bình phục lại nhanh chóng quá,

thật không ngờ. Phơ-rô-xi-a và cậu ta là đôi bạn thân. Tôi

luôn thấy Phơ-rô-xi-a ở bên giường cậu ta. Chắc là cô ấy

có nói cho cậu ta biết, tôi đã chăm sóc thế nào, có lẽ còn

nói quá lên nữa. Cậu ta thấy tôi đến thì hớn hở cười.

    Hôm qua, cậu ta hỏi tôi: "Thưa bác sĩ tại sao cánh tay

bác sĩ có nhiều vết tím bầm thế". Tôi không muốn nói cho

cậu ta biết đấy là vết móng tay cậu ta: trong cơn mê hoảng,

cậu ta ôm ghì lấy cánh tay tôi, cào cấu rất đau.

17 tháng Chín.

    Vết thương Pa-ven đã khá. Tất cả các thầy thuốc đều

ngạc nhiên trước tinh thần chịu đựng kiên nhẫn khác

thường của cậu ta trong những buổi làm thuốc. Thường

thường trong những ca như vậy, người bệnh rên la và khó

tính lắm. Thế mà Pa-ven thì không hề rên la và cho đến khi

bôi canh-ki-dết lên vết thương, thì người cậu ta co lại, căng

thẳng như chiếc dây thừng. Thường khi cậu ta ngất đi.

    Ở nhà thương, ai cũng hiểu: nếu Pa-ven rên la, ấy là

cậu ta đã bất tỉnh rồi. Làm sao mà cậu ta gan thế nhỉ? Tôi

cũng không biết nữa.

21 tháng Chín.

    Lần đầu tiên, Pa-ven được ra ngoài hiên chơi. Người

ta đặt cậu ta ngồi trên cái ghế bành có bánh xe đun. Cậu

nhìn vườn hoa bằng con mắt háo hức vô chừng, hít lấy hít

để không khí tươi mát ngoài trời. Mặt cậu ta quấn băng kín

mít chỉ để hở con mắt trái. Con mắt đó sáng và nhanh

ngắm nhìn sự vật y như người mới nhìn thấy lần đầu.

26 tháng Chín.

    Hôm nay, người ta gọi tôi xuống phòng khách gặp hai

cô thiếu nữ. Trong hai cô đó có một cô rất xinh. Cả hai đều

đến xin gặp Pa-ven. Một cô tên là Tô-nhi- a, cô kia là Ta-

chi-a-na. Tôi đã nghe đến tên Tô-nhi- a. Trong lúc mê, Pa-

ven hay nhắc đến tên cô ta. Tôi cho phép vào thăm.

8 tháng Mười.

  Lần đầu tiên Pa-ven đã đi bách bộ một mình ngoài

vườn được rồi. Nhiều lần cậu ta hỏi tôi khi nào thì ra viện

được. Tôi đáp: chóng thôi. Hai cô bé bạn cậu ta ngày nào

cũng đến thăm.

  Giờ tôi mới biết tại sao cậu ta không rên la. Tôi hỏi thì

cậu ta trả lời:

  - Bác sĩ đọc truyện Ruồi trâu tất hiểu.

14 tháng Mười.

   Pa-ven ra viện. Chúng tôi chia tay nhau một cách rất trìu

mến. Băng ở mắt Pa-ven đã bỏ ra, chỉ còn băng ở trán.

Một mắt hỏng, song trông ngoài không ai biết được. Từ

biệt người đồng chí tất ấy, tôi thấy hết sức buồn trong lòng.

   Ở bệnh viện thường như vậy, các anh chị em thương

binh chữa khỏi rồi ra đi, xa chúng tôi để có lẽ rồi không bao

giờ gặp nữa. Lúc từ giã, Pa-ven có than thở:

     - Giá hỏng mắt trái thì hơn, bác sĩ ạ! Hỏng mắt phải thế

này làm sao còn ngắm bắn được nữa?

     Chưa chi cậu ta đã nghĩ đến mặt trận rồi.

     *

     Ở nhà thương ra, thời gian đầu Pa-ven ở nhà Ta- chi-a-

na là nhà bà con với Tô-nhi-a, Tô-nhi-a về ở đấy trong thời

gian đến thăm anh.

     Anh nghĩ ngay đến chuyện đưa dần người yêu vào công

tác chung. Một hôm anh rủ Tô-nhi-a đến dự cuộc họp của

Đoàn thanh niên thành phố. Tô-nhi-a nhận lời. Nhưng khi

thấy Tô-nhi-a từ trong buồng riêng bước ra diện rất sang,

cầu kỳ nữa, Pa-ven cắn môi. Anh cảm thấy rất ngượng

ngùng khó chịu phải dẫn Tô-nhi-a như thế đến với các đồng

chí của mình.

     Thế là xảy ra sự va chạm đầu tiên giữa hai người. Khi

Pa-ven hỏi Tô-nhi-a tại sao lại ăn mặc như thế, thì Tô-nhi-a

không bằng lòng:

     - Em không bao giờ hòa với cái điệu tầm thường của

mọi người được. Nếu anh thấy cùng đi với em không tiện,

thì em ở nhà để anh đi một mình.

     Ở câu lạc bộ, giữa anh chị em thanh niên cộng sản mặc

toàn quần áo bạc phếch, nhìn Tô-nhi-a mặc diêm dúa quá,

Pa-ven cảm thấy khổ tâm. Các đồng chí coi Tô-nhi-a như

một người xa lạ lạc điệu. Tô-nhi-a cũng cảm thấy thế. Cô

nhìn mọi người bằng cặp mắt khinh bỉ có vẻ khiêu khích.

     Anh công nhân khuân vác Pan-cơ-ra-tốp, vai rộng mặc

áo vải bạt thô là bí thư chi đoàn, kéo Pa-ven ra một chỗ,

quắc mắt nhìn anh, rồi nheo mắt về phía Tô-nhi-a:

    - Có phải cậu dắt cái của ấy đến đây phải không?

    Pa-ven đáp lại cộc lốc:

    - Phải, mình đấy.

    Pan-cơ-ra-tốp bĩu môi:

    - Chà! Cái bộ ấy chẳng hợp với chúng mình đâu, sặc

mùi tư sản. Sao lại để cho nó vào đây được cơ chứ?

    Pa-ven cảm thấy hai thái dương nóng rực lên:

    - Đấy là một đồng chí của tôi, và chính tôi đưa đến đây,

cậu rõ chưa? Đối với chúng ta, cô ta không phải là thù địch.

Còn về cách ăn mặc, cô ta thích thế, có thế thật. Song

không thể cứ nhìn cách ăn mặc mà chụp mũ cho người ta

được đâu. Mình cũng hiểu như cậu những ai có thể vào đây

được. Cho nên chĩa mũi dùi vào nhau thì không có lợi đâu,

đồng chí ạ.

    Pa-ven suýt bốp chát thêm nữa. Song nén được vì hiểu

rằng Pan-cơ-ra-tốp đã nói lên ý kiến chung của anh chị em.

Anh quay ra bực với Tô-nhi-a.

    "Đã bảo mà! Cứ thích lên khung lòe loẹt làm gì?"

    Từ buổi tối hôm ấy, tình cảm giữa hai người bắt đầu

rạn nứt. Pa-ven nhận ra ngay vết rạn ngày một to trong tình

yêu mà anh tưởng bồi đắp đến thế là bền vững. Anh ngơ

ngác và đau xót.

    Qua mấy ngày, mỗi lần gặp gỡ, mỗi lần trò chuyện lại

càng làm không hiểu nhau thêm, hai bên dần dần cảm thấy

đối với nhau lạnh nhạt, có phần không ưa nhau nữa mà nói

ra. Chủ nghĩa cá nhân rẻ tiền của Tô-nhi-a đối với Pa-ven

đã trở nên không thể nào chịu được.

    Mỗi bên đều thấy rõ đến nông nỗi này thì cần phải cắt

đứt.

    Ngày hôm ấy, hai người đưa nhau đến công viên

thương mại, để nói với nhau những lời quyết định. Lá khô

vàng úa phủ đầy dưới đất. Tựa vào hàng lan can nhô ra

trên vực sâu, hai người cùng nhìn xuống con sông Đơ-nhi-

ép lấp lánh màu nước xám. Một cái tàu kéo, từ một chiếc

cầu lớn ló ra, chạy ngược dòng đang kéo hai chiếc sà-lan

to phình, cánh guồng uể oải đập vào nước. Nắng xế chiều

dát vàng lên hòn cù lao Tơ-ru-kha-nốp. Cửa kính những căn

nhà nhỏ chói nắng ánh lên rực màu vàng tía.

    Tô-nhi-a nhìn những tia nắng vàng, buồn rầu nói:

    - Có thể nào tình bạn của chúng ta lại nguội đi như mặt

trời sắp tắt kia được?

    Pa-ven cau mày nhìn Tô-nhi-a không chớp, thấp giọng

trả lời:

    - Tô-nhi-a, chúng ta đã nói chuyện với nhau rồi đấy. Em

đã biết anh yêu em đến thế nào và bây giờ tình yêu đó vẫn

còn có thể trở lại nữa. Nhưng muốn thế, thì Tô-nhi-a phải đi

với các anh. Anh bây giờ chẳng còn là cậu bé Pa-vơ-lu-sa

như hồi trước kia nữa đâu. Và anh đối với Tô-nhi-a sẽ chỉ

là một người chồng rất đáng khinh bỉ nếu Tô-nhi-a đòi rằng

anh trước hết là của em rồi sau mới là người của Đảng.

Không, anh trước hết phải là của Đảng, rồi mới đến là của

em và của những người thân khác.

    Tô-nhi-a buồn rầu nhìn dòng nước xanh biếc, trên khóe

mắt nhòa ánh lệ.

    Nhìn bóng dáng thân yêu quá ấy, với mái tóc dày màu

hạt dẻ, lòng Pa-ven cảm thấy ái ngại vô hạn. Người con gái

này trước đây đối với anh thân thiết và gần gũi biết nhường

nào!

    Tay anh đặt nhẹ lên vai Tô-nhi-a.

    - Tô-nhi-a ơi, em hãy trút hết những cái gì còn ràng buộc

em đi. Em hãy đi đến với các anh, cùng nhau hạ nốt bọn

quyền quý. Trong hàng ngũ các anh có rất nhiều người con

gái can đảm, cùng các anh gánh vác nhiệm vụ chiến đấu ác

liệt, cùng chia gian khổ với các anh. Các chị ấy có thể

không học thức bằng Tô-nhi-a. Vậy mà tại sao, tại làm sao

Tô-nhi- a lại từ chối không muốn đi với các anh? Tô-nhi-a

bảo tại Tru-gia-nin đã chực dùng vũ lực mà chiếm lấy thân

thể Tô-nhi-a. Nhưng thằng Tru-gia-nin ấy là một con quái

vật, chứ không phải là một chiến sĩ cách mạng. Tô-nhi-a

bảo tại anh chị em trong Đoàn thanh niên khinh khỉnh với

Tô-nhi-a, có phải không? Nhưng tại làm sao Tô-nhi-a đi

họp lại tô son điểm phấn như đi dự hội khiêu vũ của bọn tư

sản ấy thế? Chính là tính kiêu ngạo khiến Tô-nhi-a làm ra

như vậy. Tô-nhi-a không muốn hòa mình vào những người

mặc toàn quần áo nhem nhuốc. Tô-nhi-a đã từng có gan

yêu một công nhân, nhưng Tô-nhi-a không có đủ can đảm

để yêu một lý tưởng. Phải xa Tô-nhi-a, anh rất tiếc, và đối

với Tô-nhi-a anh muốn còn giữ những kỷ niệm tốt đẹp.

    Pa-ven im không nói nữa.

    Ngày hôm sau, Pa-ven đọc thấy ngoài phố bản mệnh

lệnh của ủy ban chống phản cách mạng tỉnh, ký tên Giu-

khơ-rai là chủ tịch ủy ban này. Lòng Pa-ven bồi hồi. Anh vất

vả lắm mới đến tìm gặp được Giu-khơ- rai vì người ta

không cho vào. Pa-ven làm om lên khiến những đồng chí

đứng gác đã chực bắt giữ lại. Cuối cùng vẫn vào được.

    Cuộc gặp gỡ thật thắm thiết. Giu-khơ-rai bị một viên

đạn đại bác cụt mất một tay. Hai anh em đồng ý với nhau

ngay về công tác. Giu-khơ-rai nói:

   - Chú cũng chưa được khỏe lắm để trở ra tiền tuyến.

Vậy thì chú ở lại làm việc với anh ở đây vậy, hai anh em ta

sẽ cùng nhau bóp chết hết bọn phản cách mạng ở đây đi.

Mai chú đến đây ngay tìm anh nhé.

   Chiến tranh với bọn Ba Lan trắng kết liễu. Những đạo

Hồng quân đã tiến đến chân thành Vác-sa-va, tiêu hết sức

người sức của. Xa hậu phương không tiếp viện kịp, họ

không chiếm được chiến tuyến cuối cùng, nên đành rút lui.

Cuộc rút lui của ta trước thành Vác-sa-va là "phép lạ trên

sông Vi-stuyn" như bọn thù địch Ba Lan thường nói. Nước

Ba Lan của bọn bạch vệ thế là sống sót. Trong lúc này, ta

đành chưa thực hiện được ước mơ có một Nhà nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết Ba Lan.

   Đất nước bị ngập trong máu lửa cần có một thời gian

hòa hoãn.

   Pa-ven không về thăm nhà được vì Sê-pê-tốp-ca lại bị

quân Ba Lan trắng chiếm đóng lại và tạm thời lấy làm thành

phố giới tuyến của hai bên. Ta và địch đang tiến hành đàm

phán lập lại hòa bình. Ngày đêm, Pa-ven công tác trong

Ban đặc biệt chống phản cách mạng, làm mọi nhiệm vụ

cấp trên giao cho. Anh ở cùng phòng với Giu-khơ-rai.

Được tin quê hương nằm trong vùng chiếm đóng của Ba

Lan, Pa-ven buồn rười rượi:

   - Đồng chí Giu-khơ-rai ạ, nếu sau khi đình chiến vẫn giữ

được nguyên tình trạng ấy thì mẹ em hóa ra thành sống ở

nước ngoài mất ư?

   Giu-khơ-rai giải thích cho Pa-ven yên tâm:

   - Chắc giới tuyến sẽ chạy qua Gô-rin, dọc theo bờ

sông. Như thế thì Sê-pê-tốp-ca vẫn là của ta. Chúng ta sẽ

chóng được tin chắc chắn.

    Những sư đoàn Hồng quân rời mặt trận Ba Lan đổ về

phía Nam. Lợi dụng thời cơ ngừng chiến, tên Vơ-ran-ghen

đã bò ra khỏi Cơ-ri-mê. Và trong khi nước Cộng hòa tuôn

hết sức ra mặt trận Ba Lan thì tên tướng Nga trắng ấy đã từ

phương Nam lần lần tiến về phía Bắc, dọc sông Đơ-nhi-ép,

tìm cách chiếm tỉnh Ê-ca-chê-rin.

    Nhân lúc chiến tranh với quân Ba Lan chấm dứt, đất

nước ta điều quân đến Cơ-ri-mê để tiêu diệt cái ổ cuối

cùng này của bọn phản cách mạng.

    Những chuyến tàu chất đầy người, đầy xe cộ, chở

những bếp cấp dưỡng lưu động, những khẩu đại bác, chạy

qua Ki-ép, đổ về phương Nam. Ủy ban đặc biệt địa

phương của ngành vận tải làm việc sốt vó. Tất cả làn sóng

những chuyến tàu như thác lũ đổ về đó bị ứ lại mắc nghẽn.

Nhà ga chật ăm ắp, sự đi lại bị tắc vì đường nào cũng mắc

cả. Máy điện đài nhả ra hàng loạt băng ghi những bức điện

tối hậu thư, những bản mệnh lệnh khẩn cấp mở đường cho

sư đoàn này, sư đoàn khác. Những băng điện vô tận ấy chi

chít những chấm, gạch cứ bò ra dài dằng dặc và gần như

điện nào cũng đọc thấy "tối khẩn. . . mệnh lệnh chiến đấu

có đường ngay lập tức" và bức điện nào cũng nhắc ai

không chấp hành mệnh lệnh sẽ phải đưa ra tòa án quân sự

cách mạng.

    Bao nhiêu chuyện mắc nghẽn, trách nhiệm đều đổ lên

đầu ủy ban đặc biệt về giao thông vận tải cả thôi.

    Luôn luôn có những cán bộ chỉ huy đơn vị xồng xộc ập

tới ủy ban, khoa súng ngắn và đòi phải có đường ngay cho

đơn vị mình đi, chiểu theo điện thượng khẩn số nọ số kia

của tư lệnh trưởng tập đoàn quân.

   Chẳng ai chịu hiểu cho rằng những việc yêu cầu của họ

thật không thể nào làm nổi được. "Mặc kệ! Các đồng chí

cứ giải quyết đường cho chúng tôi đi ngay thôi". Thôi thì

tiếng la, tiếng chửi om sòm suốt ngày trong trụ sở. Gặp

những trường hợp nan giải nhất, người ta phải cấp tốc

mời Giu-khơ-rai đến. Có thế mới trấn tĩnh được đám

người hùng hổ sắp sửa xông vào cấu xé lẫn nhau.

   Nét mặt rắn rỏi như đúc bằng thép, bình tĩnh lạnh lùng,

giọng nói cứng không thể cãi lại được của Giu- khơ-rai,

buộc họ phải chịu ngoan ngoãn cho súng vào bao.

   Ở phòng làm việc bước ra ke, Pa-ven thấy đầu đau

nhoi nhói. Công tác ở đây rất hại đến thần kinh của anh.

   Có một hôm, trên một chiếc toa không mui chở đấy

những hòm đạn, Pa-ven nhìn thấy Xéc-gây. Cùng lúc ấy

Xéc-gây nhảy bổ xuống suýt nữa xô ngã bạn và ôm ghì lấy

Pa-ven:

   - Pa-ven, thằng quỷ, tao nhận ngay ra mày.

   Đôi bạn gặp nhau, không biết hỏi nhau, kể cho nhau

nghe chuyện gì bây giờ. Thời gian gấp lắm mà từ lúc xa

nhau, hai người đã sống biết bao chuyện trong đời. Hỏi

nhau câu này, chưa kịp nghe trả lời, đã lại nói luôn. Còi tàu

giục đi, cũng không nghe thấy nữa. Mãi khi đoàn xe chuyển

bánh, từ từ bò đi, đôi bạn mới chịu buông nhau ra.

   Làm thế nào bây giờ? Cuộc gặp gỡ thế là bị ngắt. Con

tàu mở thêm tốc độ. Để khỏi bị rớt lại, Xéc-gây choàng

đuổi theo xe, chạy dọc bờ ke, ngoái lại phía Pa-ven, kêu gì

lần cuối không nghe rõ, rồi nhảy tót lên bám lấy cửa một toa

chở hàng. Những bàn tay từ trong toa thò ra nắm lấy tay

anh, kéo vào trong. Pa-ven đứng lại, bàng hoàng, nhìn theo

con tàu xa dần. Mãi bây giờ anh mới sực nhớ ra là thằng

bạn nó chưa biết tin Va-li-a chết rồi. Ừ, nó có về qua Sê-

pê-tốp ca đâu mà biết. Pa-ven ngây người vì cuộc gặp gỡ

bất ngờ nên đã quên khuấy không nói với bạn.

   "Thế càng hay, không biết tin đó, nó đi càng yên tâm

hơn". Pa-ven tự bảo thế. Anh có ngờ đâu là anh gặp bạn

lần ấy là lần cuối cùng. Xéc-gây đứng trên nóc toa xe lửa,

phanh ngực ra hứng gió mùa thu, cũng không biết là mình

đang đi ra trước cái chết.

   Đô-rô-sen-cô, một chiến sĩ mặc áo ca-pốt, lưng áo bị

cháy sém, nói với Xéc-gây:

   - Ngồi xuống không bị ngộ gió đấy, Xéc-gây ạ.

   Xéc-gây cười đáp lại:

   - Không hề gì. Mình với gió là bạn đấy mà. Cứ để mình

đứng, gió thổi cho mát.

   Và một tuần sau, Xéc-gây hy sinh ngay trong trận đầu

của cuộc Nam hạ giữa đồng cỏ vàng úa mùa thu của xứ U-

cơ-ren.

   Một viên đạn lạc trúng vào anh.

   Anh bị đạn, rùng mình, giúi thêm một bước, ngực đau

buốt như xé, miệng không kêu không nói, lảo đảo tay sờ

soạng không gian, rồi hai bàn tay đưa lên ôm ghì lấy ngực,

khom khom mình như người chực chạy, thân thể bỗng chốc

nặng như chì, anh ngã vật xuống, đôi mắt xanh thao láo

trừng lên nhìn như dán vào khoảng mênh mông đồng cỏ.

   *

   Công việc hết sức căng thẳng ở ủy ban đặc biệt đã ảnh

hưởng lớn đến sức khỏe của Pa-ven vốn yếu sẵn, chưa lại

người. Vết thương cũ lại luôn luôn đau nhói lên và sau hai

đêm mất ngủ, Pa-ven bị ngất đi. Vì thế Pa-ven lại hỏi Giu-

khơ-rai:

    - Anh Giu-khơ-rai ạ, em muốn đổi công tác, ý kiến anh

thấy có đúng không? Em thì rất muốn trở lại nghề cũ, ở

phân xưởng chính nhà máy xe lửa. Không có làm ở đây em

thấy sức em yếu quá. Tiểu ban y tế khám lại sức khỏe nói

là em yếu sức không thể tòng quân được nữa. Nhưng ở

đây còn gay hơn ngoài mặt trận kia. Mấy hôm vừa rồi, đi

tiễu bọn phỉ Xu- tưa đã làm em mệt lả người đi. Cứ sau

loạt bắn là em lại phải nghỉ tay để thở. Anh Giu-khơ-rai ạ,

chắc anh cũng hiểu, chân em đứng cũng chẳng còn vững

nữa, thì em làm công tác tốt thế nào được ở ủy ban đặc

biệt này.

    Giu-khơ-rai nét mặt lo lắng nhìn Pa-ven:

    - Phải đấy, tôi thấy chú yếu lắm. Đáng lẽ phải đổi công

tác cho chú từ trước đây rồi. Khuyết điểm ở tôi. Bận công

tác quá không nhìn đến.

    Sau buổi nói chuyện đó, Pa-ven được điều động sang

tỉnh đoàn thanh niên cộng sản nhận công tác.

    Một tay trẻ măng tính hay cựa quậy luôn, mũ cát- két

kéo sụp xuống tận mắt rất ngang, nhìn lướt qua mảnh giấy,

rồi vui vẻ nháy mắt hỏi Pa-ven:

    - Cậu ở ủy ban đặc biệt đến à? Cơ quan đó dễ chịu

đấy! Chờ nháy mắt là chúng mình giao công tác cho cậu

ngay. Bên mình bấn người quá. Thật là nạn thiếu cán bộ.

Cậu muốn sang đâu? Ủy ban cung cấp? Không à? Ừ đừng

sang đó. Sang cơ sở tuyên truyền ngoài bến sông? Không

à? Thế thì dại quá. Chỗ này bở lắm, sinh hoạt phí theo chế

độ xung phong đấy.

    Pa-ven ngắt lời: "Mình muốn sang đường sắt làm ở các

phân xưởng chính".

    Gã kia trố mắt nhìn Pa-ven:

    - Sang phân xưởng chính à? Hừ, ở đấy có cần người

đâu. Thôi cậu cứ đến gặp chị Ri-ta, chị ấy sẽ xếp công việc

cho.

    Sau cuộc nói chuyện ngắn với người con gái nước da

ngăm ngăm bánh mật, Pa-ven được chỉ định làm bí thư chi

đoàn thanh niên cộng sản xí nghiệp xe lửa, vừa công tác

vừa tham gia sản xuất.

    *

    Giữa lúc đó, trước cửa ngõ vùng Cơ-ri-mê, tại những

đường biên giới cổ xưa đã từng là ranh giới giữa những

người Tác-ta xứ Cơ-ri-mê và những trung đoàn người Da-

pô-rô, ở chỗ thắt lại của bán đảo, nổi lên pháo đài của bọn

bạch vệ mới xây lại, chung quanh có những công sự kiên

cố rất lợi hại: pháo đài Pê-rê-cốp.

    Sau pháo đài ấy, cả cái xã hội cũ đã bị lên án, từ khắp

xó xỉnh trong nước chúi vào xó Cơ-ri-mê này, yên trí ở đấy

an toàn, say sưa túy lúy với nhau trong hơi men rượu nho.

    Một đêm mùa thu băng giá, hàng vạn người con của

nhân dân lao động đã đổ xuống eo biển nước giá lạnh để

đêm tối vượt vịnh Xi-vát đánh vào sau lưng kẻ địch đã chui

tọt vào các công sự. Đi trong hàng quân đó có Giác-ki, hai

tay nâng niu khẩu súng máy đội trên đầu.

    Và khi rạng đông, cả vùng eo biển Pê-rê-cốp sôi lên

sùng sục trong cơn sốt rét điên cuồng; hàng ngàn người ào

ào ập vào hàng rào dây thép gai, những mũi quân tiến đầu

tiên lội qua vịnh Xi-vát, đặt chân lên những bờ đá lởm

chởm của bán đảo Li-tốp ở sau lưng quân địch. Và một

trong những chiến sĩ đầu tiên đổ bộ lên được là Giác-ki.

    Chiến đấu ác liệt chưa từng thấy. Bọn trắng tung kỵ binh

vào đám người vừa lội dưới nước lên; kỵ binh của chúng

lao vào như thú dữ. Giác-ki không ngừng bắn, khẩu liên

thanh của anh nhả đạn như khạc cái chết vào kẻ địch. Từng

đống xác người và ngựa địch chồng chất lên nhau trong

trận mưa chì này. Giác- ki, nhanh đến run tay lên, lắp hết

băng đạn này đến băng đạn khác bắn vào kẻ địch.

    Hàng trăm khẩu pháo nổ ầm ầm ở Pê-rê-cốp. Dường

như cả eo đất này cũng sụt xuống biển sâu thẳm không

đáy. Hàng ngàn quả đại bác rú lên ghê rợn, bay nhằng nhịt

trên trời, rắc tung cái chết, rơi xuống tóe ra thành từng

mảnh nhỏ. Mặt đất bị cày nát, bị nghiền vụn, bị bắn tóe lên.

Những tảng đất đen lớn do đại bác cày đã hất lên, che lấp

cả ánh mặt trời.

    Đầu con rắn độc đã bị đánh giập rồi. Dòng thác đỏ lại

băng mình về phía Cơ-ri-mê, các sư đoàn của đoàn quân

kỵ mã thứ nhất băng mình vào Cơ-ri-mê giáng cho quân

địch một đòn cuối cùng ác liệt. Lũ bạch vệ kinh hoảng, sợ

run lên, hớt ha hớt hải cố chạy xô nhau bám lấy những tàu

biển sắp rời bến.

    Trên những bộ quân phục đã sờn đã bạc. Tổ quốc

Cộng hòa gắn vào chỗ trái tim người ta thường đập những

đồng tròn vàng của huân chương Cờ đỏ. Trong số những

quân phục được gắn huy chương ấy có áo của người đoàn

viên thanh niên cộng sản giữ súng máy: Giác-ki.

    Hòa ước với Ba Lan đã ký và đúng như Giu-khơ- rai hy

vọng, Sê-pê-tốp-ca trở về với xứ U-cơ-ren Xô- viết. Giới

tuyến là con sông cách thành phố ba mươi lăm cây số.

Tháng Chạp năm 1920, Pa-ven về quê thăm nhà, buổi sớm

đó, anh ghi nhớ mãi trong lòng.

    Pa-ven bước xuống sân ga chớm tuyết, đưa mắt nhìn

thấy tấm biển "Sê-pê-tốp-ca, ga thứ nhất" liền quay sang

trái, đi vào sở đầu máy. Hỏi anh A-rơ-chom, nhưng anh

chẳng có ở đấy. Pa-ven khép vạt áo choàng cho thêm khít

vào người, rồi đi ngang qua rừng vào thành phố.

    Anh gõ cửa. Lúc ấy bà mẹ đang ngồi ở ghế nghe tiếng

đập cửa, quay lại mời khách vào nhà. Nhưng khi cửa mở

rồi, một người mình đầy tuyết trắng hiện ra trong khung

cửa, bà cụ nhận ra khuôn mặt yêu dấu, liền đưa tay lên ôm

lấy ngực. Mừng quá, bà cụ không nói được nên lời nữa.

    Bà ấp tấm thân già, gầy còm vào ngực con trai, hôn lấy

hôn để lên mặt con, nước mắt trào ra, mừng mừng tủi tủi.

    Pa-ven ôm lấy mẹ, nhìn nét mặt mẹ răn reo, hốc hác vì

lo buồn và mong nhớ con, anh im lặng chờ mẹ bình tâm lại.

    Bà cụ đau khổ đã nhiều, hôm nay mắt lại sáng lên vì

sung sướng. Ngày hôm ấy và mấy ngày liền, bà nói không

chán, nhìn con không chán. Bà đã tưởng chẳng còn hy vọng

gì gặp lại con nữa. Ba ngày sau A-rơ-chom nửa đêm đeo

ba-lô trên vai cũng trở về căn nhà cũ bé nhỏ này. Nỗi mừng

của bà cụ càng không để đâu cho hết.

    Dưới mái nhà nhỏ bé của gia đình Ca-rơ-sa-ghin,

những người đi xa đã trở về đông đủ. Sau bao nhiêu thử

thách gian khổ, hai anh em không ai tổn thất, đã được gặp

lại nhau.

  Mẹ hỏi các con:

  - Giờ thì các con tính làm gì?

  A-rơ-chom đáp:

  - Con lại sẽ trở về với ổ bi bánh xe, làm nghề như

trước, mẹ ạ.

  Còn Pa-ven thì ở nhà được mười lăm ngày, rồi lại trở

về Ki-ép. Ở đấy công việc đang chờ anh. (còn nữa)

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: