Chapter 1

Pretoria – Tháng 4 năm 1952

Ngay cả khi đang nằm trên mái nhà, chỉ với những miếng ngói đen rẻ tiền trong tầm nhìn, cô có thể nói rằng đó là xe hơi của cảnh sát. Có một sự cẩu thả trong việc phanh những cái bánh xe trên con đường phủ cát, và cái cách mà cái phanh tay được kéo lên trong khi những bánh xe vẫn còn đang quay vòng, để lại một tiếng rít yếu ớt treo trên cái không khí nặng nề. Cô ngừng nện búa, và  nhìn ló ra ngoài cái mép của mái hiên. Họ đã đậu xe gần cửa ra vào của nhà hàng đến nỗi đã làm vỡ một trong các chậu hoa mà Jacob đã trồng chỉ một ngày trước.

“Đồ đáng khinh”, cô nói dưới hơi thở của mình.

Cô bỏ lại cây đinh đã được đóng một nữa và đang treo lơ lửng, leo xuống cái thang. Những bước chân của cô rất chừng mực, tạo cho cô thời gian để có thể suy nghĩ. Một năm đây, cô đã có thể bước vào trong cái quán cà phê trong một vài giây, chạy vôi trong sự hăm hở của mình để túm lấy và chống lại bất cứ sự trở ngại mới nào đã được ném trên đường đi của cô. Tuy nhiên, trong nhiều tháng vật lộn để phản đối những luật lệ và những qui tắc đã không còn làm cho cô có cảm giác gì nữa về việc thèm muốn những cuộc đối đầu, và vì thế bây giờ cô đi chậm hơn, hạn chế tính khí bất đồng của mình, và khi cô quan sát cái phương tiện đi lại của cảnh sát, chân mày cô nhíu lại một chút.

Một trong số họ, người lái xe, vẫn còn đang ở trong xe. Cô biết rất nhiều những người cảnh sát địa phương, nhưng người này là một người lạ và cô đã bỏ ra một lúc bởi những ánh nhìn của anh ta – một khuôn mặt đẹp trai với đường nét vuông góc cạnh, và mái tóc mềm màu vàng – cho đến khi cô nhìn thấy ánh nhìn màu xanh lạnh lùng của anh ta, chỉ cho thấy sự ngạo mạn. Anh ta nhìn cô từ trên xuống dưới, và một cách thẳng thừng, cô đã giữ lấy ánh nhìn của anh ta trong một lúc.

“Chưa bao giờ thấy phụ nữ mặc quần bao giờ à?”, cô hỏi, quá nhẹ nhàng để anh ta có thể nghe thấy, nhưng trong sự thất vọng của cô, anh ta đã hạ cửa xe xuống.

“Cái gì?”

Cô không có sự lựa chọn ngoài việc bản thân mình phải lặp lại điều đó. Cô nói rõ ràng, và miệng anh ta nhếch lên coi thường.

“Chưa bao giờ thấy một cô gái Ấn Độ nào mặc quần, chắc chắn đấy”, anh ta trả lời.

Cô quay lại và bước vào trong, ngừng lại ngay cửa ra vào. Nơi này đã đầy hơn một nửa, cô nhận thấy, nhưng cô vẫn có thể nghe được tiếng những cây xúc xích boerewors (xúc xích to và cay của người Nam Phi gốc Hà Lan) đang được chiên khắp lối đi trở lại nhà bếp. Không ai nói chuyện, không ai nhìn lên, nhưng tất cả những cặp mắt đang lén lút dán chặt vào người cảnh sát đang đứng ở quầy. Jacob có thể thấy cô, cô biết điều đó, nhưng ông không có ra hiệu gì. Ông tiếp tục lau những cái ly, thỉnh thoảng gật đầu. Sĩ quan Stewart đã để cánh tay tựa vào mặt gỗ một cách thân thiện, và tay kia đang trầm ngâm kéo bộ râu đã được cắt tỉa của mình.

“Nghe này, Jacob, ý tôi là hai người vô hại, nhưng những luật lệ đã làm cho cuộc sống khó khăn đẫm máu cho cảnh sát”.

“Họ cũng không làm nó thành một bữa ăn ngoài trời cho chúng ta”, Amina nói, đằng sau ông ta. Cô thấy Jacob trao đổi với cô một cái lắc đầu yếu ớt bởi cái đầu già cỗi của mình.

Stewart xoay lại, và chạm vào mũ của mình. “Amina. Lâu quá không gặp”.

“Vâng”.

“Đoán là cô đã tránh xa khỏi những rắc rối rồi hả?”

Cô buộc phải nở nụ cười trong lúc nói chuyện phiếm với anh ta. Và bước ra phía sau quầy, cô nghiêng người về phía cái xô đá lùn và lấy một chai Coke, mang nó ra ngoài, làm hết sức mình vì lợi ích của Jacob.

“Tôi có thể mang đồ uống gì cho ông không, sĩ quan Stewart?”

Người cảnh sát lắc đầu và quan sát trong khi cô gái uống nửa chai nước. Cô ngừng lại, thở hắt ra, và mỉm cười.

“Đồng nghiệp của ông thì sao? Anh ta có muốn vào không?”, cô hỏi.

“Không, cảm ơn. Tôi thích anh ta ở trong xe hơn. Anh ta hơi nhiệt tình, ja (yes – tiếng Đức)? Một cái đầu hơi nóng. Anh ta có vấn đề với những thứ như thế này.”

Ông diễn tả hành động có ý quay trở lại quán cà phê, và như thể cô đang không hiểu ông ta đang ám chỉ cái gì, cô quay lại về phía quán nơi mà những người công nhân da đen của cô đã lần lượt chuyển sang ăn suốt ngày. Doris và Jim đang ngồi ở đó, và cô thấy cằm của Doris bướng bỉnh nhấc lên, thậm chí ngay cả khi những ngón tay của cô ấy lắc nhẹ trong khi họ đưa cho cô tách cà phê. Amina cười khích lệ cô ấy và quay lại.

“Những điều đó chính xác là gì, thưa ông sĩ quan?”

“Nghe này, Amina. Cô biết tôi đang muốn nói về cái gì, và hãy cho tôi một thái độ mà không giúp ích gì cho cô, ja? Cô và tôi đều biết rằng đó là một hành vì phạm tội vì đã cho Người Da Đen ngồi ăn chung một nơi với Người Da Trắng.”

Cô đặt chai Coke xuống quầy và nhìn quanh.

“Ở đây không có Người Da Trắng. Dĩ nhiên là ngoại trừ ông ra”

“Vậy thì từ giờ không có Người Da Đen. Đây là khu vực của người Ấn Độ. Và người da màu”, ông ta nói với một cái gật đầu với Jacob. “Có nghĩa là không Người Da Đen”.

“Họ làm việc cho tôi”.

“Điểu đó với tôi không thành vấn đề”, viên cảnh sát lặp lại, và nện thình thịch lên quầy để nhấn mạnh. “Nhưng họ không nên ăn chung với cô. Nó là điều bất hợp pháp.”

“Vậy thì họ nên ăn ở đâu?” Amina hỏi.

“Tôi không cần biết! Họ có thể ăn ở bên ngoài. Hoặc trong nhà bếp, vì lợi ích của Chúa. Hoặc khi họ về đến nhà.”

“Ông có bao giờ đi mà không có thức ăn trong mười hai tiếng được một lần nào chưa, sĩ quan?”

Jacob đặt bàn tay đầy lo lắng lên cái đầu được cắt xén của mình và quan sát Amina đi đến cái máy phát nhạc. Ông đã mong ước một cách tuyệt vọng rằng ông có thể bước vào và áp đặt một ít yên tĩnh, đề nghị một vài thoả hiệp. Nhưng điều đó có thể vượt quá giới hạn khi rõ ràng vai trò của ông như là một người quản lý quán cà phê, và Sĩ quan Stewart không hề biết rằng sự thật là Jacob là cộng sự kinh doanh của Amina. Những Người Da Màu và người Ấn Độ chỉ đơn giản là không được phép hợp tác làm ăn chung với nhau, nhưng một luật sư có ích đã giúp đỡ họ đã vẽ lên một sức mạnh bí mật của người được uỷ quyền cho Jacob, và quan hệ đối tác bây giờ đã được công nhận rộng rãi, dĩ nhiên là được bảo vệ chặt chẽ bởi những người xung quanh họ.

Amina đang quỳ xuống, lưng cô quay lại với viên cảnh sát, sắp xếp lại chồng đĩa. Stewart kiên quyết đặt cái mũ chóp nhọn trở lại đầu mình và bước tới phía sau quan nơi ông đang đứng và nhìn xuống những người cư ngụ.

“Giấy phép”, ông ta nói, và chìa tay ra. Doris và Jim theo bản năng nhìn về phía Amina.

“Ông biết là họ đã được thông qua”, cô nói.

“Tôi muốn thấy chúng. Ngay bây giờ.”

Jim lấy nó từ túi sau của anh ta. Cái bìa bị nhàu và mòn đi bởi thường xuyên sử dụng và thậm chí khi mở ra, có một đường cong vĩnh viễn trên nó bởi vì bị ngồi lên trên thường xuyên. Stewart xoay nó trong tay và liếc về phía đĩa ăn.

“Cái này chỉ là giấy phép du lịch”.

“Vâng thưa ông”.

“Giấy phép của anh đâu?”

“Tôi không có giấy phép, thưa Sĩ quan, tôi là Người Da Màu”.

Stewart kiểm tra giấy phép để xác nhận sự thật này.

“Anh là Người Da Màu sao?”

“Vâng thưa ông”.

“Với tôi anh nhìn giống kaffir (người da đen Châu Phi – nghĩa miệt thị) hơn”, Sĩ quan Stewart nhận xét.

“Họ nói tôi là Người Da Màu. Ở các hội đồng. Họ đã phân loại tôi”.

Jacob xuất hiện bên cạnh viên cảnh sát mà không cho ai bất cứ ấn tượng nào rằng ông đã di chuyển, vội vã một mình.

“Ông cậu ấy là Người Da Trắng, thưa Sĩ quan. Một người Hà Lan. Giống như cha tôi”.

“Được rồi”. Stewart thảy tờ giấy phép về phía cái bàn, và quay lại, thu hẹp quán cà phê lại trong một cái liếc mắt.

“Ông hiểu là tôi đang cố gắng nói cái gì mà Jacob, ja? Tôi không đang cố để làm mọi thứ khó khăn. Tôi chỉ làm việc của mình thôi”.

Một tiếng súng nổ đã làm giật nảy cả căn phòng, tiếng động tuyệt đối của nó đã đóng băng tất cả mọi người trong một phần giây trước khi tất cả bọn họ cúi xuống. Quỳ bên cạnh máy hát, Amina có thể thấy Sĩ quan Stewart núp mình sau cái quầy và Jacob đang ở cạnh ông ta gấp đôi khoảng cách. Cái cửa sổ vẫn còn đang giữ lại phần sót lại của tiếng lách cách, như một đoàn tàu vừa vội vã xuyên qua phía bên ngoài cạnh quán cà phê. Thận trọng, Stewart rút cây súng của mình, đặt nó ra phía cạnh của cái quầy trước khi đứng lên. Amina đứng dậy với ông ta. Cộng sự của ông ta đang đứng ngay cửa ra vào, xoay tròn cây súng lục với ngón tay giữa của anh ta.

“Anh đang nghĩ cái quái gì khi làm điều này hả?” Stewart hỏi.

Người đàn ông tóc vàng cười toe toét. “Công việc của tôi”, anh ta nói. “Ach (Chà – ngôn ngữ Scotland), anh đang trò chuyện với những người này làm cái gì thế?”

Anh ta ngừng xoay khẩu súng và bắn một phát đạn khác lên trần nhà. Một vài miếng bụi thạch cao lộp độp rơi xuống. và âm thanh the thé hát vọng khắp căn phòng.

“Điều này là những cái mà họ đang hiểu”, anh ta nói. Anh ta cười toe toét lần nữa, và nhìn vào Amina.

“Nếu như cô tiếp tục phục vụ cho những kaffir, và chúng tôi sẽ giết nhiều người trong bọn họ. Sau đó cô phải tìm nhân viên mới thôi”. Anh ta cười lớn.

“Nếu như anh cứ tiếp tục như thế”, Amina nói, “chúng tôi chẳng cần gì nhiều. Anh chính xác là chẳng đủ tốt để kinh doanh”.

Mặt anh ta tối lại, nhưng trước khi sự nguyền rủa thoát ra khỏi cái miệng anh ta, thì Stewart đã đẩy anh ta ra khỏi cửa, và hướng về cái xe.

Amina nhìn quanh tìm kiếm Doris, nhưng quán trống không – tất cả những nhân viên của cô đã rút lui ra phía nhà bếp hoặc lê chân ra miếng đất nhỏ bên ngoài cửa sau. Những người khách hàng đang chờ để mua mang về cũng đã rời đi. Những người khác thì đặt tiền lên trên những cái bàn. Thậm chí cả tiếng chiên đồ ăn trong nhà bếp cũng dừng lại. Khi cô nhìn ra ngoài cửa kiểm tra một lần nữa rằng cảnh sát đã thực sự đi khỏi, cô nhận ra rằng miếng kính trên khung hình của bà ngoại quá cô của mình, cái mà đang treo trên nó, đã vỡ, sự thách thức quen thuộc trên đôi mắt bà cô đã bị méo mó bởi vết nứt. Điều đó xúc phạm đến cô nhất.

“Đừng trở thành nô lệ cho bất kì ai. Bà đã như thế, cả cuộc đời bà, và nó đã huỷ hoại bà”. Đó là những lời cuối cùng của Belgum cho Amina Harjan. Bà đã thốt ra chúng với một giọng the thé khó chịu của niềm hi vọng cuối cùng vào một buổi sáng thứ Bảy đầy nắng ở Bombay, khi cháu gái bà ngồi bên cạnh giường bệnh của bà và hít lấy mùi hương của vỏ quả bạch đậu khấu phảng phất trong không khí từ nhà làm bánh kẹo phía dưới. Và khi màn đêm buông xuống bà đã chết. Sự ra đi của bà đã để cho đứa cháu mình trôi nổi trên một cái hồ lạ lẫm của cú sốc làm chậm lại nguồn năng lượng run rẩy trong cơ thể đầy sinh lực của cô, và lần đầu tiên trong cuộc đời cô, Amina thấy những tuần lễ dần trôi qua mà không cố gắng nắm bắt lấy chúng và làm một cái gì đó với chúng. Và khi cha cô một lần nữa nêu lên mong muốn của mình về việc tạo dựng cuộc sống mới rời xa Ấn Độ, cô đã khó khăn nhận ra rằng mọi thứ đã hầu như được diễn ra đúng chỗ. Ông Harjan đã giữ một giao kèo ngầm với mẹ vợ của ông là không bao giờ di cư đến Nam Phi, vì bà đã bị đuổi ra khỏi quốc gia đó trong sự hổ thẹn bốn mươi năm trước, nhưng lời hứa đó không còn là vấn đề ngay khi bà ấy chết đi.

Với nhiều người, trở nên bình tĩnh là điều nhỏ nhặt nhưng với thi hài mới của bà ngoại cô, cơ thể đã được thả vào trong mộ phần của bà với sự vội vàng không đúng nghi thức, đáp xuống với tiếng uỳnh uỵch làm những người đứng xung quanh mộ nhăn mặt. Đất nhanh chóng được lấp đầy trên bà, và Amina còn nhớ cô đã bị choáng váng khi Belgum đã nhanh chóng biến mất từ bề mặt của lớp đất. Cô là người phụ nữ duy nhất có mặt, những người khác đã quay trở về nhà sau nghi thức tang lễ, như phong tục. Ngược lại với những mong ước của mẹ, cô đã van nài được hộ tống với những người đàn ông ra nơi chôn cất, và cô đã thắng thế, bởi vì cha cô đã không còn đủ sức để tranh cãi với đứa con gái nóng nảy của ông, cũng như không có ý định lấy đi của nó cơ hội cuối cùng để tạm biệt mẹ vợ ông.

Amina bây giờ đang nhìn chằm chằm vào cái khung hình vỡ, và nhìn sâu sắc vào khuôn mặt của Belgum. Cô đã chờ một lúc lâu trước khi gặp ánh mắt của Jacob, và khi cô quay trở lại và cười với ông, ông không thể nói được hay không rằng sự sáng ngời trong đôi mắt cô là dấu hiệu của nước mắt được kiềm nén lại, hay là của sự giận dữ.

“Bác chắc rằng bác ổn chứ?” cô hỏi ông.

“Ồ vâng”, ông trả lời. “Bác có thể đã già, nhưng bác vẫn có thể lặn sau cái quầy khi bác buộc phải như thế chứ”.

Cô cười lớn, như ông biết rằng cô có thể, và không cần bất cứ lời nói nào, họ bắt đầu dọn dẹp.

Delhof – bên ngoài Pretoria

Miriam vẫn còn đang đứng, một chặng đường dài từ ngôi nhà mới, bàn tay cô giơ lên trước trán, đang che chắn cho mắt cô. Căn nhà đã được xây dựng như một trang trại, nó dài và thấp. Tất cả mọi thứ dường như thấp hẳn ở nơi này – cây cối, những ngọn đồi, thậm chí cả một vài toà nhà – thấp và bằng phẳng và không có màu, như thể bị nén xuống bởi sức nặng của bầu trời và màu xanh lan rộng của nó. Mặt trời chạm vào tay cô với một sức nóng đỏ mà đã đốt cháy trực tiếp qua làn da trắng trẻo với những đường vân của cổ tay cô, và khi cô nhắm chặt mắt trong một thời gian ngắn để chống lại nó, sức nóng vẫn toả ra bên cưới mí mắt cô như những hòn than.

Cô đột ngột mở mắt bởi tiếng khóc của con trai mình. Cô quay lại, và thấy thằng bé và em gái nó đang bơi trong sự tập trung, nhỏ bé và xương xẩu, trên hiên nhà, nhỏ xíu bởi những đống thùng và đồ đạc ngày càng gia tăng đã vây quanh chúng. Cô quan sát, nhăn mặt, trong khi cố gắng để nhớ lại họ là ai, và anh ấy gọi cô lần nữa và lần nữa, cái giọng cao the thé của anh sung sức từ bên kia tới chỗ cô trên những hơi nóng gợn sóng của ánh sáng lờ mờ rung lên giữa họ.

“Cái gì thế? Anh cần gì?” cô gọi lại. Cô nói bằng tiếng Gujerati (tiếng Phạn), ngay cả khi chồng cô đã chỉ thị cho cô phải nói với bọn trẻ bằng tiếng Anh hoặc, khi cô phải lựa chọn đủ ngôn ngữ, thì phải là tiếng Afrikaans (ngôn ngữ phát triển từ tiếng Hà Lan thế kỷ thứ 17 và là một trong 11 ngôn ngữ chính thức ở Nam Phi). Nhưng cô đã lơ đãng, và Gujerati là ngôn ngữ mà cô đã được nuôi lớn cùng, ngôn ngữ mà mẹ đẻ của cô cũng đã dùng nó để dạy dỗ cô.

Thằng bé rơi vào im lặng bởi giọng mẹ mình.

“Vào đi, mẹ tới đây”, cô gọi và chúng ngoan ngoãn chạy vào ngôi nhà. Cơ thể của cô vẫn còn như là một con vật sắp tuyệt chủng căng thẳng để nắm bắt lấy bất kì âm thanh nào. Khi cô hít thở lấy cái không khí khô nóng, cô có thể ngửi thấy mùi bụi cháy và cô biết đó là một phần của tất cả những gì cô đã hít vào từ giờ trở đi; cô có thể đã cảm nhận cái mùi của nó đang nằm nhẹ nhàng trên làn da mình. Chỉ có những nếp gấp mềm mại của chiếc đầm vải cotton di chuyển một chút chống lại hơi nóng, và một giọt mồ hôi chậm rãi chảy một vệt dài đều đặn từ trán cô xuống phần nhô cao của xương gò má. Tay cô giơ lên và nôn nóng chùi nó đi. Cô không thể nhận thức thấu đáo về cái nơi mà chồng cô đã mang cô tới. Cô biết rằng chỉ mất khoảng nửa giờ để đến Springs, khi thời tiết và những con đường đẹp, và nó hẳn là một thị trấn đẹp, nhưng nơi này không có gì , chẳng có gì cả. Có một vài căn nhà đổ nát có lẽ cách khoảng nửa dặm, nhưng chúng trông có vẻ không có ai sống ở đó nhiều năm rồi. Trên đường chân trời phía xa xa, nơi có một vài toà nhà – cô nghĩ nó có lẽ thuộc về nhưng người nông dân sẽ trở thành khách hàng cho cửa hàng của chồng cô – nhưng khác hơn là chỉ có một con đường ray tàu hoả, ngay trước nhà của cô, nằm bền vững và trơ trụi chống lại với nền đất rỉ sét, nằm trơ trọi trong một cảnh quan rộng lớn mênh mông.

Nhiều đất đai quá – cô chưa bao giờ nhìn thấy nhiều đất đai như thế, chỉ nằm đó, trống không. Họ sẽ làm cái gì với nó? Sao họ có thể sống biệt lập như thế? Sau cuộc sống náo nhiệt với những gia đình bà con thân thuộc ở Pretoria, những bức tường mỏng như giấy ngăn cách những căn phòng ngột ngạt luôn tràn đầy những hàng xóm và những người họ hàng? Miriam đã không thể không hài lòng khi rời khỏi nhà anh rể của cô, vì cô đã bị chị dâu mình đối xử tốt hơn một chút so với người hầu. Và việc kinh doanh của Omar là một sự khởi đầu mới: một cửa hàng có thể cung cấp tất cả mọi thứ mà những người nông dân địa phương cần. Nhưng cô sợ sự yên lặng cô độc của vùng nông thôn, và không chắc chắn về việc làm thế nào để quản lý chỉ với người chồng lầm lì của cô với khách hàng.

Cô nâng bàn tay lên một lần nữa, và lần này sử dụng phần sau của cánh tay để chùi từ bên này sang bên kia của khuôn mặt và mắt cô. Sau đó, siết chặt tay như để bảo vệ cơ thể, cô bước trở lại về phía gia đình mình.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: