The_Lovely_Bones(quag)
CHƯƠNG 9
Bà ngoại đến nhà chúng tôi buổi tối trước hôm cử hành lễ tưởng niệm tôi, vẫn với cung cách như mọi khi. Bà thích thuê xe li-mu-din (1) đưa bà từ phi trường về, ngồi trong xe bà nhấm nháp rượu sâm-banh, trên người khoác cái bà gọi là “con thú lông dày tuyệt vời” của bà – chiếc áo lông chồn bà mua được ở quầy quần áo cũ nhà thờ họ đạo bày bán gây quỹ từ thiện. Bố mẹ tôi không mời bà mà chỉ rủ bà cùng đi với gia đình, nếu bà muốn dự buổi lễ. Cuối tháng Giêng thầy hiệu trưởng Caden nảy ra sáng kiến này. Ông bảo rằng “ Buổi lễ sẽ gây tác động tốt cho các cháu của ông bà và cho cả học sinh toàn trường nữa”. Ông đích thân tổ chức buổi lễ ở nhà thờ xứ đạo chúng tôi. Bố mẹ tôi như những kẻ mộng du, ông hỏi gì cũng đồng ý, gật đầu ưng thuận mọi đề nghị của ông, từ các thứ hoa ông chọn đến người đọc điếu văn. Khi mẹ tôi thưa chuyện này với bà ngoại qua điện thoại, bà ngạc nhiên khi nghe bà ngoại bảo “Mẹ sẽ đến”.
“Nhưng mẹ không bắt buộc phải có mặt đâu.”
Ở đầu dây bên kia bà ngoại lặng thinh một lúc. “Abigail này”, bà nói, “đây là đám tang Susan cơ mà.”
Bà ngoại Lynn đã làm mẹ tôi ngượng vì bà khăng khăng khoác cái áo lông cũ đi dạo quanh khu phố, và bà đã có lần son phấn quá đáng khi dự một buổi liên hoan trong khu phố. Bà hỏi đi hỏi lại mẹ tôi cho đến khi biết hết tên tuổi từng người láng giềng, hỏi mẹ đã nhìn tận mắt bên trong nhà họ chưa, ông chồng làm nghề gì, xe hơi hiệu gì. Bà lên một danh sách đầy đủ về các người hàng xóm. Bây giờ tôi mới rõ ràng đó là cách để bà hiểu con gái mình hơn. Bà bủa vây mẹ song tính toàn nhầm, khác nào một màn khiêu vũ não lòng vì không có người cùng nhảy.
“Jack-y”, bà ngoại nói khi lại gần bố mẹ tôi đứng ở hiên trước, “Mẹ con mình phải uống chút gì mạnh mới được!” Rồi bà thấy Lindsey dang rón rén lẻn lên gác, cố vớt vát thêm ít phút trước màn chào hỏi bắt buộc . “Con bé này không ưa bà,” bà ngoại Lynn nói. Bà cười gượng. Răng bà trắng và đều.
“Mẹ à”, mẹ tôi kêu lên – tôi chỉ muốn lao vào trong đôi mắt đại dương đầy mát mát của mẹ - “con chắc cháu Lindsey chỉ định lên phòng thay áo xống cho tươm tất thôi mà.”
“Làm gì có chuyện tươm tất ở cái nhà này!” bà ngoại đáp.
“Bà ngoại Lynn à,” bố tôi nói, “nhà này không còn là ngôi nhà lần trước bà đến nữa đâu. Con đi lấy nước mời bà đây, nhưng xin bà tôn trọng điều đó.”
“Anh trông vẫn bảnh trai gớm, Jack ạ,” bà ngoại bảo.
Mẹ tôi đỡ lấy áo choàng của bà. Con Holiday bị nhốt trong phòng làm việc của bố ngay khi Buckley hét ầm từ vị trí quan sát của nó ở cửa sổ trên lầu: “ Bà ngoại đến rồi!” Buckleu khoe với cu Nate bay bất kỳ ai chịu nghe rằng bà ngoại có những chiếc xe hơi to nhất thế giới.
“Trông mẹ vẫn duyên dáng quá,” mẹ tôi nói.
“Hừm…” Lúc bố tôi đứng xa không thể nghe thấy được, bà hỏi, “Anh ấy hồi này ra sao?”
“Cả nhà phải đương đầu với khó khăn, nhưng không dễ mẹ ạ.”
“Anh ấy vẫn cứ lẩm bẩm rằng tay nọ là hung thủ hay sao?”
“Vâng, nhà con vẫn tin như thế.”
“Coi chừng bị kiện đấy con ạ,” bà bảo.
“Nhà con không nói với ai điều này, ngoài cảnh sát ra.”
Họ không thấy em gái tôi đang ngồi ở bậc thang trên cùng.
“Anh ấy đừng nên nói với ai. Mẹ hiểu anh ấy cần đổ lỗi cho người nào đấy, nhưng mà…”
“Bà Lynn ơi, 77 hay martini?” bố tôi hỏi lúc quay vào tiền sảnh.
“Thế anh uống gì nào?”
“Thật ra hồi này con không uống nữa,” bố tôi đáp.
“Đó là chuyện của anh. Thôi để tôi tự liệu. Tôi biết rượu để đâu, không ai phải bảo!”
Không có bộ áo lông dày trông bà tôi gầy như que củi. Bà gọi đó là ‘nhịn cho rạc người’ khi cố vấn tôi năm tôi mười một tuổi. “Cháu phải nhịn đến rạc người ra, cưng ạ, trước khi phát phì. Ai bảo mình mũm mĩm là có ý chê mình xấu đấy.” Bà và mẹ tôi đã đôi co về chuyện tôi đã đủ lớn chưa để dùng Benzedrin (2) – mà bà gọi là thuốc cứu tinh thiết thân của bà, khi nói: “ Tôi tặng cho con gái chị món thuốc cứu tinh của tôi, mà chị không chịu ư?”
Hôi tôi còn sống, chuyện gì bà ngoại tôi làm cũng đều dở hết. Nhưng chuyện lạ đã xảy ra ngày hôm ấy, khi bà đến trong chiến li-mu-din có tài xế lái, mở cửa nhà chúng tôi, xộc vào. Với bộ trang phục diêm dúa kệch cỡm của mình bà đã đem ánh sáng trở lại ngôi nhà của chúng tôi.
“Phải giúp con mới được, Abignail ạ,” bà tôi nói sau khi thưởng thức bữa ăn đàng hoàng mẹ tôi nấu lần đầu tiên kể từ hôm tôi mất tích. Mẹ tôi sửng sốt. Mẹ đã xỏ đổi găng xanh da trời dùng rửa bát, cho đầy nước xà-bông vào bồn, dợm rửa từng cái. Lindsey sẽ lau khô. Mẹ tôi đinh ninh bà ngoại sẽ bảo ông con rể Jack rót cho bà một ly rượu uống cho tiêu.
“Ô, mẹ dễ thương quá.”
“Có gì đâu,” bà bảo. “Mẹ chạy ù ra tiền sảnh tìm cái túi thần đã.”
“Trời đất ơi!”, tôi nghe mẹ nói trong hơi thở.
“A, phải rồi, cái túi thần,” Lyndsey reo lên – suốt bữa ăn em không nói năng gì.
“Thôi mà, con xin mẹ!” mẹ tôi phản đối, khi bà ngoại Lynn quay vào.
“Nào, mấy đứa dọn sạch bàn rồi đưa mẹ các cháu lại đây. Bà sẽ tân trang cho mẹ.”
“Mẹ đừng có điên. Con còn phải rửa cả đống bát đĩa đây này.”
“Abigail”, bố tôi xen vào.
“Không được đâu. Mẹ có thể dụ anh uống say, nhưng bà đừng hòng đến gần em với những dụng cụ tra tấn này.”
“Anh đâu có say,” bố trả lời.
“Anh đang cười đấy thôi,” mẹ tôi bảo.
“Vậy con hãy kiện anh ấy đi,” bà ngoại Lynn bảo.
“Buckley đâu, nắm tay lôi mẹ lại đây cho bà.” Em trai tôi vâng lời. Em thích thú thấy mẹ bị người khác ra lệnh và thúc ép.
“Bà ngoại Lynn này?” Lyndsey e dè hỏi bà.
Mẹ tôi bị Buckley kéo đến chiếc ghê bà ngoại đã xoay đối diện với bà.
“Gì vậy, cháu?”
“Bà dạy cháu cách trang điểm được không?”
“Lạy chúa cả trên trời, ơn chúa, được chứ sao không?”
Mẹ tôi ngồi xuống ghé, buckley leo ngồi trên lòng bà. “Có chuyện gì vậy hở mẹ?”
“Em đang cười phải không, Abbie?” Bố tôi tủm tỉm.
Đúng thế. Mẹ cười mà nước mắt tuôn rơi.
“Susie là đứa bé ngoan, con ạ,” bà ngoại Lyn bảo mẹ.
“Như con vậy.” Bà nói luôn một mạch. “Nào, ngẩng cằm lên cho mẹ nhìn kỹ mấy cái bọng mắt xem.”
Buckley leo xuống rồi lại leo lên chiếc ghế khác. “Lyndsey à, đây là que uốn lông mi,” bà giảng giải. “Bà đã chỉ cho mẹ các cháu hết mấy thứ này rồi.”
“Clarissa cũng dùng mấy thứ này,” Lyndsey bảo.
Bà ngoại kẹp lên mỗi bên mắt mẹ tôi một hàng mi giả bằng cao su, mẹ tôi biết thủ thuật này nên ngước mắt nhìn lên.
“Con nói chuyện với Clarissa chưa?”, bố tôi hỏi.
“Đúng ra thì chưa,” Lyndsey trả lời. “Chị ấy hay cặp kè với Brian Nelson. Hai người trốn học nhiều đến nỗi bị phạt cấm cửa ba ngày.”
“Bố không ngờ Clarissa lại thế,” bố tôi nói. “So với đám bạn cùng nhóm thì cô bé không phải đứa lanh lợi nhất, nhưng trước giờ chưa từng làm gì bê bối.”
“Mới đây con tình cờ gặp thì chị ấy sặc mùi cần sa.”
“Mong cháu đừng vướng vào mấy thứ đó,” bà ngoại Lynn nói. Bà nốc cạn chỗ rượu 77 rồi dằn mạnh cốc rượu cao nghệu xuống bàn, “Xem này, Lyndsey, cháu có thấy khi lông mi cong lên trông mắt mẹ cháu to hơn không?”
Lyndsey cố hình dung diềm mi mắt mình nhưng lại chỉ thấy hiện ra hàng lông mi rồi như chùm sao của Samuel Heckler lúc cậu ta ghé sát mặt để hôn mình. Tròng mắt em mở lớn ra, động đậy liên tục như hai trái ô-liu nhỏ hung hăng.
“Bà thật không ngờ đấy,” bà ngoại Lynn vừa nói vừa chống nạnh, một tay vẫn nắm hai cái cán kỳ cục của que kẹp lông mi.
“Sao ạ?”
“Lyndsey Salmon à, cháu có bồ rồi,” bà tôi thông báo cho cả nhà.
Bố tôi tủm tỉm cười. Bỗng dưng ông thấy có cảm tình với bà. Tôi cũng thế.
“Làm gì có,” Lyndsey chối.
Bà ngoại sắp lên tiếng thì mẹ tôi thì thào: “Có mà”
“Xin chúa phù hộ cháu, cưng à,” bà nói, “cháu nên có bồ. Lo cho mẹ cháu xong bà sẽ trang điểm cho cháu, đặc biệt kiểu bà ngoại Lynn. Anh Jack, cho mẹ xin một ly rượu khai vị.”
“Rượu khai vị là thứ mà mẹ…” mẹ tôi lên tiếng.
“Thôi đừng sửa lưng mẹ, Abignail ạ.”
Bà tôi uống đến say mèm. Bà đã biến mặt mũi Lindsey thành như hề, hay như chính bà ngoại Lynn nói, là “gái điếm thượng lưu.” Còn bố tôi được bà tặng cho danh hiệu “ma men thanh lịch.” Điều đáng ngạc nhiên nhất là mẹ tôi đi ngủ, bỏ mặc đống bát đĩa chưa rửa trong bồn.
Khi mọi người đã yên giấc cả, Lyndsey mới ra đứng trước gương trong phòng tắm, ngắm nghía mình. Em lau bớt phấn hồng, chấm bớt lớp son môi, di ngón tay lên những chỗ sưng vì mới nhổ trên hàng lông mày vốn rậm của em. Trong gương em thấy một con người khác, cả tôi cũng thấy thế nữa: một người lớn tự chăm lo cho mình được. Dưới lớp phấn son là gương mặt xưa nay em vẫn biết là của mình, thế mà vừa mới đây nó đã trở thành gương mặt khiến mọi người nhớ đến tôi. Giờ đây em thấy rằng nhờ tô môi và kẻ mi mà những đường nét trên khuôn mặt em thành rõ nét hơn, như được dát ngọc nhập từ chốn xa xôi, nơi màu sắc phong phú hơn những màu sắc từng có trong nhà. Lời bà ngoại nói nghiệm ra đúng thật – son phấn làm nổi bật màu xanh của mắt em. Tỉa lông mày đã thay đổi khuôn mặt. Phấn hồng làm nổi bật chỗ hóp dưới gò má. (“Hõm nữa càng hay,” bà ngoại bảo). Còn đôi môi – em thử đủ kiểu biểu lộ trên nét mặt. Em bĩu môi, em hôn, em cười toe toét như thể cũng đã uống cốc-tai, em nhìn xuống giả vờ cầu nguyện như một cô gái ngoan đạo nhưng một bên mắt lại liếc lên xem mình ngoan đạo thế nào. Em lên giường ngủ, nằm ngửa để không làm hỏng khuôn mặt mới của mình.
Bà Bethel Utemeyer là người chết duy nhất mà em gái tôi và tôi từng biết. Bà và người con trai bà dọn đến ở khu chúng tôi lúc tôi lên sáu, còn Lindsey lên năm.
Mẹ tôi bảo rằng bà hơi mất trí nên thỉnh thoảng bỏ nhà đi rồi không biết mình ở đâu. Bà thường dừng chân trong vườn trước nhà chúng tôi, đứng dưới gốc cây sơn thù du ngóng ra đường như đang chờ xe buýt. Mẹ tôi hay đưa bà vào ngồi trong nhà bếp, pha trà cùng uống, và sau khi trấn an bà rồi mẹ tôi gọi điện thoại cho người con trai báo cho biết bà đang ở nhà chúng tôi. Đôi khi không gặp ai bên ấy, thế là bà Utemeyer ngồi ở bàn bếp nhà tôi, nhìn chăm chăm hàng giờ vào một điểm ở giữa bàn. Lúc chúng tôi đi học về bà vẫn còn ở đó. Ngồi và mỉm cười với chúng tôi. Bà hay gọi Lyndsey là “Natalie” và đưa tay vuốt tóc em.
Khi bà qua đời, người con trai bà khuyến khích mẹ tôi đưa Lyndsey và tôi đến dự đám tang. Ông ta viết: “Mẹ tôi có vẻ đặc biệt mến các cháu bên ông bà.”
“Mẹ à, tên con bà cụ còn không biết nữa cơ mà,” Lyndsey than vãn trong lúc mẹ tôi lo cài một hàng chi chit những nút trên lễ phục của Linda. Lại một món quà không tiện dụng của bà ngoại Lynn, mẹ tôi thầm nghĩ.
“Nhưng ít ra bà ấy đã từng gọi em bằng một cái tên,” tôi bảo.
Đó là sau lễ phục sinh, một đợt nóng mùa Xuân đã ập đến trong tuần lễ ấy. Tuyết mùa đông, trừ một số bướng bỉnh, đã thấm hết vào lòng đất; ở nghĩa trang nhà thờ họ Utemeyer tuyết vẫn bám vào chân các mộ bia, trong khi cạnh đấy mao lương hoa vàng đã bắt đầu nhú.
Nhà thờ họ Utemeyer cực kỳ kiểu cách. “Công giáo gốc (1),” bố tôi bảo trong xe. Lyndsey và tôi thấy thật tức cười. Bố tôi không muốn tới, nhưng mẹ tôi bụng chửa to quá không lái xe được. Những tháng cuối mang thai em Buckley bà không thể ngồi lọt sau tay lái được. Mẹ thường khó ở nên hai đứa tôi toàn lẩn đi nơi khác vì sợ bị sai khiến.
Nhưng nhờ mang thai nên bà thoát được một nghi lễ mà Lyndsey và tôi cứ nói với nhau suốt mấy tuần, còn tôi một thời gian dài sau đó vẫn mơ thấy mãi : nhìn mặt người quá cố. Tôi biết là bố mẹ tôi không muốn chúng tôi thấy người chết, nhưng đến lúc mọi người đi ngang áo quan thì ông Utemeyer lại thẳng chỗ chúng tôi. “Trong hai cháu thì cháu nào bà cụ vẫn gọi là Natalie?” ông hỏi. Chúng tôi đăm đăm nhìn ông. Tôi chỉ Lyndsey.
“Chú muốn cháu đến chào bà lần cuối,” ông nói. Người ông toát mùi nước hoa ngọt hơn loại mẹ tôi thỉnh thoảng xức, nó xộc vào mũi tôi, lại cảm thấy mình bị ra rìa làm tôi chực khóc. “Cả cháu nữa,” ông bảo tôi, dang hai tay dắt chúng tôi mỗi đứa một bên đi giữa hai dãy ghế.
Không phải bà Utemeyer, mà là cái gì khác. Nhưng đó cũng là bà Utemeyer. Tôi cố tập trung nhìn vào mấy cái nhẫn vàng lấp lánh trên mấy ngón tay bà.
“Thưa mẹ”, ông Utemeyer nói, “con đưa bé gái mẹ vẫn gọi là Natalie lại với mẹ đây.”
Sau này cả Lyndsey lẫn tôi đều thú nhận rằng tưởng mà Utemeyer sắp bật nói, và mỗi đứa quyết định nếu bà lên tiếng thì đứa này sẽ lôi đứa kia cùng chạy bán sống bán chết như bị ma đuổi.
Nỗi đau khổ kéo dài một vài giây rồi chấm dứt, ông dắt chúng tôi về giao lại cho bố mẹ tôi.
Lần đầu gặp lại bà Bethel Utemeyer trên thiên đường của mình tôi không lấy gì làm ngạc nhiên lắm, cũng chẳng ngỡ ngàng khi tôi với Holly thấy bà dắt một cô bé tóc vàng mà bà giới thiệu là con gái bà, tên Natalie.
Buổi sáng hôm làm lễ tưởng niệm tôi Lyndsey cố nán lại thật lâu trong phòng của em. Em không muốn mẹ tôi thấy lớp son phấn còn trên mặt, nên chờ cho đến khi nếu mẹ có bắt đi rửa thì cũng không còn thì giờ nữa. Em còn tự nhủ có lấy một cái áo trong tủ của tôi để mặc thì cũng chẳng sao. Rằng tôi sẽ chẳng bận tâm.
Nhưng ngó thì thấy kỳ kỳ.
Em mở cửa phòng tôi, ngôi hầm mộ mà cho tới tháng Hai càng ngày càng bị xáo tung mặc dù không ai, cả mẹ lẫn bố, Lyndsey hay Buckley nhận là có vào hay lấy đi thứ gì mà không có ý định trả lại. Họ nhắm mắt trước những chứng cớ hiển nhiên rằng người nào cũng đã đến đây thăm tôi. Mọi lộn xộn họ đều quy cho con Holiday, dù không thể nào đổ cho nó được.
Lyndsey muốn diện cho Samuel ngắm. Em mở toang hai cánh cửa tủ và kiểm tra lại mớ hỗn độn này. Tính tôi vốn không ngăn nắp gì lắm, nên mỗi lần mẹ bảo chúng tôi dọn phòng, tôi đều nhét hết mọi thứ trên giường hay dưới sàn vào tủ.
Ngày trước Lyndsey luôn muốn là người đầu tiên được mặc những áo quần mới của tôi, nhưng chỉ nhận được đồ thải.
“Ôi chao,” em xuýt xoa, thì thào với vùng bóng tối trong tủ áo. Em vừa hân hoan vừa thấy có lỗi khi nghĩ những gì trước kia giờ thuộc cả về mình.
“Có ai trong này không? Cộc cộc,” bà ngoại Lynn lên tiếng.
Lyndsey giật nẩy người.
“Bà xin lỗi đã làm rộn cháu,” bà bảo, “Bà nghĩ đã nghe tiếng cháu trong này.”
Bà ngoại tôi mặc bộ áo mà mẹ tôi gọi là cắt theo kiểu Jackie Kennedy (2). Mẹ không hiểu sao bà ngoại khác con cháu, hông lép kẹp – nên dù tuổi đã sáu mươi hai bà vẫn mặc được các kiểu áo cắt thẳng đuột, trông lại còn đẹp nữa.
“Bà vào đây có việc gì thế?” Lyndsey hỏi.
“Bà cần cháu kéo hộ khóa áo.” Bà ngoại Lynn quay lưng lại, và Lyndsey thấy được ở bà những gì em chưa hề thấy ở mẹ mình. Phần sau chiếc nịt ngực màu đen của bà, phần trên của váy lót. Em bước vài bước đến gần bà, cố tránh không chạm đến gì khác ngoài cái khóa, kéo ngược lên.
“Còn cái móc ở trên nữa,” bà ngoại Lynn nói, “cháu gài được không?”
Có mùi phấn và nước hoa Chanel số 5 vẩy quanh cổ bà.
“Đây là một trong những lý do cần có đàn ông – đàn bà xoay xở một mình không xong.”
Lyndsey đã cao gần bằng bà ngoại, sẽ còn cao nữa. Lúc một tay em cầm móc tay kia giữ vòng móc, em nhìn mấy lọn tóc tơ nhuộm vàng ở sát da đầu bà. Em nhìn mái tóc mềm màu xám phủ lên gáy và lưng. Em gài móc áo cho bà rồi đứng tần ngần.
“Cháu quên mất chị cháu trông như thế nào rồi.”
“Sao?” bà ngoại Lynn quay lại.
“Cháu không nhớ nổi,” Lyndsey bảo. “Ý cháu muốn nói không biết gáy chị trông ra sao, bà hiểu chứ, không biết cháu đã bao giờ nhìn gáy chị chưa?”
“Cưng ơi”, bà ngoại Lynn nói, “Lại đây.” Bà dang hai tay, nhưng Lyndsey quay về phía tủ áo.
“Cháu phải sửa soạn cho đẹp mới được,” em nói.
“Cháu đẹp sẵn rồi,” bà ngoại Lynn nói.
Lyndsey bàng hoàng, thở không nổi. Bà ngoại Lynn chẳng hề phí lời khen ai bao giờ. Lời khen của bà vì thế như vàng vớ được giữa đàng.
“Bà cháu mình sẽ tìm được trong này một bộ thật đẹp cho cháu,” bà ngoại Lynn bảo rồi bước tới tủ áo của tôi. Ít ai đi chợ mà giỏi chọn mua như bà. Vào những dịp hiếm hoi đến thăm gia đình lúc sắp khai trường, bà dắt chúng tôi đi phố. Hai đứa tôi sửng sốt nhìn mấy ngón tay lanh lẹ của bà lướt trên các mắc áo, thoăn thoắt như trên phím đàn. Rồi bất chợt, sau một giây lưỡng lự, bà lôi ra cái áo đầm hay sơ-mi, giơ cao cho chúng tôi xem. “Các cháu trông được không nào?” bà hỏi. Món bà chọn luôn vừa và đẹp.
Trong lúc ngắm nghía các bộ quần áo của tôi, lôi ra ướm thử lên người em tôi, bà nói:
“Mẹ cháu hồi này trông tiều tụy quá, Lyndsey ạ. Bà chưa hề thấy mẹ cháu như thế bao giờ.”
“Bà ơi!”
“Yên, để bà nghĩ.” Bà giơ cao cái áo tôi thích mặc đi lễ nhà thờ nhất. Áo bằng len kẻ ô, cổ tròn kiểu Peter Pan. Tôi thích chủ yếu vì váy dài và rộng, tôi ngồi bắt tréo chân trên băng ghế nhà thờ mà vẫn thả váy phủ đến tận mặt đất được. “Con bé vớ đâu ra cái bao tải thế này nhỉ?”, bà ngoại hỏi.
“Còn bố cháu ấy à, trông cũng thiểu não không kém, nhưng ít ra chuyện ấy còn làm bố cháu điên lên được,”
“Người đàn ông bà hỏi mẹ hôm qua là ai thế, hở bà?”
Câu hỏi làm bà ngoại ngớ ra. “Người đàn ông nào?”
“Thì bà hỏi mẹ có phải bố cháu vẫn khăng khăng rằng chính người đàn ông đó đã gây ra vụ này không. Hắn là ai?”
“Voilà (3)!” bà ngoại Lynn giơ cao một cái áo đầm cắt ngắn màu xanh sẫm em gái tôi chưa hề thấy. Áo đó của Clarissa.
“Ngắn cũn cởn,” Lyndsey nói.
“Bà bị sốc vì mẹ các cháu đấy,” bà ngoại Lynn nói. “Cho con bé mặc quần áo kiểu cọ gớm!”
Bố tôi từ dưới tiền sảnh gọi lên, ông muốn rằng mười phút nữa mọi người tề tựu dưới nhà.
Bà ngoại Lynn khẩn trương ngay vào việc. Bà giúp Lyndsey xỏ đầu vào chiếc ao xanh thẫm, đoạn hai bà cháu quay về phòng em tìm giầy, rồi cuối cùng, ở tiền sảnh, dưới ánh đèn trên trần nhà, bà còn chùi vết hoen của đường chì kẻ mắt, tô mi trên mặt em. Thao tác cuối cùng của bà là dùng miếng bông chấm phấn hồng, lướt nhanh trên hai gò má em từ dưới lên. Mãi khi bà ngoại từ thang lầu bước xuống và mẹ tôi vừa cằn nhằn về bộ áo đầm cũn cỡn của Lindsey vừa nghi ngờ nhìn bà ngoại thì tôi và em mới nhận ra là trên mặt bà ngoại Lynn không có tí phấn son nào. Buckley ngồi giữa hai người ở băng sau, lúc gần đến nhà thờ em nhìn bà ngoại Lynn hỏi bà đang làm gì thế.
“Nếu không kịp đánh phấn thì làm thế này cho mặt mũi hồng hào một tí, cháu ạ,” bà đáp, thế là Buckley bắt chước ngay, tự bẹo má mình.
Samuel đứng chỗ hàng cột đá dựng dọc lối vào cửa nhà thờ. Cậu mặc trang phục toàn màu đen (4), cạnh cậu là ông anh tên Hal, anh khoác chiếc áo da sơn Samuel mặc hôm lễ giáng sinh.
Anh của Samuel trông giống cậu em như tạc, duy nước da sẫm hơn. Mặt anh nâu sạm, hằn vết nắng gió do hay phóng mô-tô hết tốc lực trên những con đường vùng thôn dã. Khi gia đình tôi tới gần, Hal vội quay người, đi ra chỗ khác.
“Hẳn đây là Samuel rồi,” bà tôi bảo. “Ta là bà ngoại ác độc đây.”
“Mình vào chứ?” Bố tôi lên tiếng, “Samuel, rất vui được gặp cháu.”
Lindsey với Samuel đi trước, bà ngoại lùi lại đi cạnh mẹ tôi. Một mặt trận liên minh. Thanh tra Fenerman đang đứng ở cửa trong bộ đồ có vẻ làm cho ông ngứa ngáy. Ông gật đầu chào bố mẹ tôi, nhìn mẹ tôi có hơi lâu hơn. “Ông vào cùng với chúng tôi chứ?” bố tôi hỏi.
“Cảm ơn ông,” ông ta đáp, “nhưng tôi chỉ muốn đứng quanh đây thôi.”
“Cảm ơn thịnh tình của ông.”
Mọi người bước vào trong tiền sảnh chật chội của nhà thờ. Tôi muốn bám lên lưng bố tôi, quàng tay ôm cổ, ghé tai ông thì thầm. Nhưng đằng nào thì tôi cũng đã nhập vào trong từng làn da thớ thịt của ông rồi.
Sớm hôm ấy, khi tỉnh giấc, người vẫn còn ngây ngất vì chưa dã rượu, bố quay người nằm nghiêng ngắm mẹ tôi còn vùi đầu trong gối, thở nhẹ. Người vợ yêu dấu, cô gái ông yêu quý đây. Ông muốn vuốt má mẹ, vén mấy sợi tóc lòa xòa trên mặt bà ra sau, nhẹ hôn bà – nhưng lại thôi vì khi ngủ bà thật yên bình. Từ khi tôi qua đời, không ngày nào thức giấc mà ông không phải chịu đựng cho đến hết ngày. Song sự thật là ngày lễ tưởng niệm tôi lại không phải là ngày đáng sợ nhất. Ít ra đó là một ngày ông sống trung thực. Ít ra ngày hôm ấy xoay quanh sự kiện mà mọi người rất mực quan tâm: sự vắng mặt của tôi. Hôm nay ông không phải giả tảng làm như ông đã trở lại bình thường – dẫu bình thường là thế nào đi nữa. Hôm nay ông có thể bước đi với niềm đau nỗi khổ bộc lộ, cả Abigail vợ ông cũng thế. Nhưng ông biết, ngay sau khi bà thức dậy, ông sẽ không còn can đảm nhìn thẳng vào mắt bà suốt ngày hôm đó, sẽ không dám soi vào tận đáy lòng xem bà nghĩ gì, không dám nhìn để thấy người đàn bà mà ông hằng biết rõ từng chân tơ kẽ tóc cho đến cái hôm họ biết tin về cái chết của tôi. Sau gần hai tháng, ý nghĩ rằng đây chỉ là tin tức đã dần phai nhạt trong tâm trí mọi người, trừ gia đình tôi – và Ruth.
Cô nàng đến với ông bố. Hai bố con đứng một góc, cạnh chiếc tủ kính bày một ly uống nước dùng trong thời Chiến tranh cách mạng, khi nhà thờ này là một bệnh viện dã chiến. Hai ông bà Dewitt đang trò chuyện với họ. Bà Dewitt có một bài thơ Ruth sáng tác, bà để trên bàn giấy ở nhà. Thứ Hai cô nàng định sẽ cầm bài thơ đến gặp giáo sư hướng học. Bài thơ viết về tôi.
“Bà nhà tôi có vẻ đồng tình với ông hiệu trưởng Caden,” bố Ruth nói, “rằng buổi lễ tưởng niệm sẽ giúp các em học sinh chấp nhận chuyện này.”
“Thế ông nghĩ sao?”, bà Dewitt hỏi.
“Theo tôi, chuyện gì đã qua nên để cho qua và để gia đình họ tự lo liệu. Nhưng cháu Ruth nhà tôi thì nhất định muốn có mặt ở buổi lễ.”
Ruth nhìn gia đình tôi chào hỏi mọi người, cô nàng hoảng kinh thấy cách ăn mặc và trang điểm mới lạ của em gái tôi. Ruth không tin trang điểm sẽ làm đẹp hơn. Cô nàng cho rằng nó làm giảm nhân phẩm phụ nữ. Samuel Heckler đang nắm tay Lindsey. Một từ ngữ đọc đâu đó trong sách vụt hiện ra trong đầu óc cô nàng: nô dịch. Nhưng rồi tôi thấy cô nàng nhận ra Hal Heckler đang đứng ngoài cửa sổ. Anh đang đứng hút thuốc bên các ngôi mộ cổ nhất ở phía trước.
“Ruth à”, ông bố gọi, “Con sao vậy?”
Cô sực nhớ mình đang ở đâu, quay nhìn ông: “Sao là sao ạ?”
“Con vừa nhìn sững đi đâu ấy,” ông trả lời.
“Con thấy khung cảnh nghĩa địa này trông hay hay.”
“Con đúng là thiên thần của bố,” ông nói. “Ta tìm chỗ ngồi kẻo chẳng còn chỗ tốt nữa đâu.”
Clarissa cũng có mặt, với Brian Nelson ngượng nghịu trong bộ quần áo mặc nhờ của ông bố. Cô nàng len đến chỗ gia đình tôi. Thấy thế, ông hiệu trưởng Caden và thầy Botte liền tránh lối cho cô nàng.
Cô nàng bắt tay bố tôi trước tiên.
“Chào cháu Clarissa,” ông nói. “Cháu khỏe không?”
“Thưa khỏe”, cô thưa. “Còn hai bác thế nào ạ?”
“Hai bác khỏe, Clarissa ạ”, ông nói. Một câu nói dối kỳ quặc làm sao, tôi thầm nghĩ. “Cháu cùng ngồi với gia đình nhé?”
“Ơ, cháu xin phép ạ” – cô nàng nhìn xuống đôi bàn tay – “Cháu cùng đi với anh bạn.”
Mẹ tôi như người nhập đồng, cứ nhìn trừng trừng vào mặt Clarissa. Clarissa vẫn sống đây, còn tôi đã chết rồi. Clarissa dần cảm thấy đôi mắt kia đang xoáy vào mình, cô nàng muốn bỏ đi. Rồi cô nàng thấy chiếc áo.
“Ơ kìa”, cô nàng vươn tay về phía em gái tôi.
“Gì thế Clarissa?” mẹ tôi gắt.
“Dạ, không ạ,” cô nàng đáp. Cô nàng nhìn cái áo lần nữa, hiểu rằng giờ đây sẽ chẳng bao giờ đòi lại được.
“Abigail à?” bố tôi gọi. Ông nghe ra nỗi hằn học trong giọng nói của vợ. Có chuyện gì không ổn đây.
Bà ngoại Lynn, đứng ngay sau mẹ tôi, nháy mắt ra hiệu cho Clarissa.
“Cháu vừa nhận ra là Lyndsey trông xinh quá,” Clarissa nói.
Em gái tôi đỏ mặt.
Đám người ở tiền sảnh rục rịch rồi giãn ra tránh lối. Đó là vì mục sư Strick
vận áo lễ đang tiến lại chỗ bố mẹ tôi.
Clarissa lui ra sau tìm Brian Nelson. Tìm được anh chàng rồi, cô nàng đi theo ra chỗ dãy mộ.
Ray Singh tránh không đến dự lễ. Cậu từ biệt tôi theo cách riêng của mình: cậu ngắm ảnh tôi - ảnh chân dung chụp ở hiệu – tấm ảnh tôi tặng cậu mùa thu năm đó.
Cậu nhìn vào đôi mắt trong ảnh, xuyên qua đôi mắt thấy cả bức phông bằng da lộn mặt gợn vân như cẩm thạch, đứa trẻ nào đến chụp hình cũng phải ngồi trước tấm phông đó, dưới ngọn đèn nóng hừng hực. Ray hình dung xem chết nghĩa là thế nào. Là lạc loài ở đâu đó, thân thể lạnh cứng, đi mãi không về. Cậu biết không ai ngoài đời lại có vẻ mặt như trong ảnh. Cậu biết bình thường mình không có vẻ hung hãn hay hoảng sợ như trong ảnh chụp. Ngắm ảnh tôi một lúc cậu mới nghiệm ra một điều - ảnh không phải là tôi. Tôi ở trong bầu không khí quanh cậu, tôi có mặt trong những buổi sáng lạnh lẽo cậu ngồi với Ruth, tôi ở bên cạnh những lúc cậu một mình lặng lẽ, không ôn bài vở. Tôi là cô gái cậu đã chọn để hôn. Cậu muốn, bằng cách nào đấy, cho tôi được siêu thoát. Cậu không muốn đốt hay vứt hình tôi đi, nhưng cũng không muốn nhìn hình tôi nữa. Tôi nhìn cậu kẹp tấm ảnh vào một trong mấy quyển thơ Ấn Độ đồ sộ, trong đó cậu và bà mẹ ép hàng chục bông hoa mỏng manh đang dần tan thành bụi.
Trong buổi lễ mọi người nói những lời hay đẹp về tôi. Mục sư Strick. Hiệu trưởng trường Caden. Thầy Dewitt. Còn bố mẹ tôi ngồi chết lặng suốt buổi. Samuel luôn siết chặt tay Lindsey, nhưng em như không hề hay biết. Em không một lần chớp mắt. Buckley ngồi trong bộ quần áo mượn của Nate cho dịp này, bộ mà năm nay cậu bé đã mặc đi ăn cưới. Em cứ cựa quậy nhìn bố. Chính bà ngoại Lynn đã làm cái điều quan trọng nhất ngày hôm đó.
Lúc nhạc trỗi bài thánh ca để kết thúc buổi lễ và cả gia đình tôi đứng lên, bà ngoại nghiêng qua Lindsey, thì thào, “Tay đứng cạnh cửa là hắn đấy.”
Lindsey đưa mắt nhìn.
Sát ngay sau lưng Len Fenerman, lúc đó đứng phía trong cửa và đang cùng hát, là một người đàn ông trong khu phố. Hắn mặc tuềnh toàng, không như mọi người đến dự lễ, chỉ quần ka-ki với áo bông khá dày. Trong một giây ngắn ngủi Lindsey tin rằng đã nhận ra hắn. Ánh mắt chạm nhau. Rồi em ngất đi.
Trong lúc mọi người nhốn nháo quanh em, tên George Harvey lẻn ra giữa các ngôi mộ thời Chiến tranh cách mạng nằm sau giáo đường, bỏ đi không ai thấy.
(end chapter 9)
---------------------
CHƯƠNG MƯỜI
(Phần type của Thuyax)
Tại trại(1) năng khiếu toàn bang tổ chức vào mỗi mùa hè. Các học sinh có năng khiếu từ lớp bảy đến lớp chín tụ về sinh hoạt với nhau suốt bốn tuần, mục đích là để phô trương mình, như tôi vẫn hình dung thấy chúng leo trèo đu bám trên cành cây và moi móc cóp nhặt ý tưởng, sáng kiến của nhau. Bên lửa trại, thay vì hát dân ca chúng đồng xướng những bài đạo ca Ô-ra-tô(2). Trong khu nhà tắm nữ, bọn con gái ngắm nghía các ảnh phóng lớn, tấm tắc khen thân hình như tượng tạc của Jacques d’Amboises(3) hay vầng trán cao của John Kenneth Galbraith(4).
Nhưng ngay cả bọn năng khiếu cũng hay có trò lập bè kết cánh. Chúng tụ thành nhóm lấy tên Tín đồ Khoa học, Bộ óc Toán học. Trên thang xếp hạng của bọn năng khiếu, các nhóm này chiếm lĩnh những nấc cao nhất, ở mức này nếu xét về tiêu chuẩn quan hệ xã hội nhân quần thì đó là những con người phần nào què quặt. Rồi tới nhóm Thông kinh làu sử, đám này thuộc nằm lòng ngày sinh tháng tử của mọi nhân vật lịch sử không sót một ai. Lúc đi ngang qua chỗ những đám khác trong trại, chúng vẫn thường xướng lên những niên đại bí ẩn, nghe thật vô nghĩa: “từ 1769 đến 1821,” “từ 1770 đến 1831.” Khi Lindsey tình cờ gặp bọn Thông khinh làu sử này trên đường, em nhẩm tính để thử tìm lời giải: đó là năm sinh và năm mất của Napoléon và Hegel(5).
Lại có cả những cao thủ Khoa học huyền bí nữa. Ai cũng bực dọc về việc chúng có mặt trong đám năng khiếu. Bọn nhóc này có biệt tài tháo tung từng mảnh của cả một cỗ máy rồi lắp ráp lại được như cũ mà không cần sơ đồ hay bản chỉ dẫn. Chúng nắm bắt, thông hiểu mọi thứ qua kinh nghiệm thực tế chứ không bằng lý thuyết. Và có vẻ không màng đến điểm hay thứ hạng, cấp đẳng.
Samuel là một cao thủ loại này. Thần tượng của cậu là Richard Feynman(6) và Hal, anh trai cậu. Hal bỏ ngang bậc trung học, hiện trông coi một tiệm sửa xe mô-tô không xa chỗ cái vực vốn là mỏ than bị sập nọ, lo phục vụ đủ loại khách hàng, từ hội Hell’s Angel(7) cho đến các vị cao niên lái xe gắn máy chạy quanh khu gia cư của giới hưu trí. Hal ghiền hút thuốc, cư ngụ tại chỗ trong căn phòng trên gác vì cửa tiệm thuộc quyền sở hữu của cả gia đình, còn buồng xép phía sau cửa tiệm thì anh dùng làm nơi hẹn hò cho những quan hệ qua đường của mình.
Khi có ai hỏi Hal bao giờ mới chịu sống trưởng thành tự lập, thì anh đáp: “Chẳng bao giờ.” Samuel nhiễm tư tưởng này nên khi thầy cô hỏi ước vọng tương lai là gì thì cậu trả lời: “Em không biết. Em mới mười bốn tuổi mà.”
Còn Ruth Conners chưa đầy mười lăm tuổi mà đã biết rõ mình muốn gì rồi. Trong nhà kho bằng tôn chứa dụng cụ ở sau nhà, giữa những nắm đấm cửa và những thứ sắt thép ông bố thu lượm đem về từ những ngôi nhà cũ mục nát sắp bị phá sập, cô nàng ngồi trong bóng tối, tập trung suy nghĩ căng thẳng đến nỗi nhức cả đầu. Cô nàng chạy vào nhà, đi qua phòng khách nơi ông bố đang đọc báo, lên phòng riêng trên gác, ghi vội bài thơ vừa cảm ứng làm được. Chúng mang tựa: “Tôi là Susie”, “Sau khi ta chết”, “Bị chặt khúc”, “Mong ở bên bạn”, và bài thơ cô nàng thích nhất, tự hào nhất cô nàng mang đến trại, trang giấy gấp mở nhiều lần đến nỗi những nếp gấp sắp rách ra. Đó là bài “Ngồi bên bờ mộ.”
Ruth phải tự túc đi đến Trại vì buổi sáng hôm ấy, đến giờ xe buýt chạy, cô nàng vẫn còn nằm liệt giường vì cơn viêm dạ dày cấp tính. Cô nàng đang theo một chế độ ăn kiêng kỳ quặc, chỉ toàn rau, và tối hôm trước một mình ăn hết cả một bắp cải. Bà mẹ nhất định không chịu thua cuộc trước kiểu ăn chay mà Ruth bắt đầu theo từ sau cái chết của tôi.
“Chúa ơi, đây có phải là thịt Susie đâu!” bà vừa than vừa dằn cái đĩa có miếng thịt bò thăn dày cả phân xuống mặt bàn trước mặt con gái.
Quãng ba giờ sáng ông bố đưa Ruth vào nhà thương trước rồi mới trở đến Trại, sau khi tạt qua nhà lấy cái túi quần áo đồ dùng mẹ cô nàng đã soạn sẵn, để ở cuối lối vào nhà.
Xe vừa vào cổng trại, Ruth đã dõi mắt nhìn suốt lượt đám học sinh đang xếp hàng nhận bảng tên. Cô nàng nhìn ra ngay em tôi, đứa con gái duy nhất đứng giữa nhóm các Cao thủ. Lindsey tránh không ghi họ mình lên bảng tên, mà chọn cách vẽ một con cá. Làm như vậy em không những khỏi phải nói dối mà còn hy vọng nhờ vậy quen thêm dăm ba đứa bạn học những trường khác quanh vùng, những đứa trước giờ không hay biết gì về cái chết của tôi, hay ít ra không liên hệ em với chuyện đó.
Suốt mùa Xuân em mang sợi dây chuyền có mặt khắc hình nửa trái tim, còn Samuel đeo nửa mặt kia. Cả hai còn ngượng chưa công khai bộc lộ tình cảm của mình với người ngoài cuộc. Lúc sóng đôi đi trong hành lang nhà trường cả hai không nắm tay nhau, viết thư trao tay cũng không dám. Chỉ buổi ăn trưa mới ngồi cạnh nhau. Tan trường Samuel đưa Lindsey về đến nhà. Vào sinh nhật thứ mười bốn của em, Samuel tặng ổ bánh giữa có cắm một ngọn nến. Còn thì cả hai sống hòa mình với thế giới nam nữ cách biệt như bọn cùng lứa.
Sáng hôm sau Ruth thức dậy lúc sớm tinh mơ. Như Lindsey, Ruth thuộc loại khó quy vào bộ môn nào. Cô nàng không thuộc nhóm nào nhất định ở trại. Cô nàng đi dạo ngoài đồng, hái những hoa với lá nào cô nàng định hỏi cho ra tên. Khi không ưa cái tên mà một cậu trong nhóm Tín đồ Khoa học đưa ra, cô nàng quyết định tự mình đặt tên lấy. Cô nàng vẽ hình chiếc lá hay bông hoa vào trong nhật ký, ngẫm nghĩ xem giới tính nào thích hợp nhất, rồi đặt tên ‘Jim’ cho một loại cây có lá trông đơn sơ mộc mạc, hay ‘Pasha’ cho một đóa hoa cánh mịn lông tơ.
Khi Lindsey bước vào phòng ăn, còn tần ngần nhìn quanh, thì Ruth đang xếp hàng lượt hai để lấy thêm trứng và dồi. Ở nhà, vì đã lỡ kịch liệt phản đối ăn thịt, cô nàng đành ép bụng giữ lời, nhưng ở trại đâu có ai biết được chuyện cô nàng thề nhất quyết ăn chay trường.
Trước khi tôi chết Ruth chưa hề trò chuyện với em gái tôi, ngoại trừ lần xin lỗi đã va phải Lindsey trong hành lang trường học. Nhưng cô nàng có lần nhìn thấy Samuel đưa Lindsey về nhà và thấy em mỉm cười với cậu ta. Cô nàng quan sát thấy em gái tôi chỉ chọn bánh kếp, chứ không lấy bất cứ món gì khác. Cô nàng thử đặt mình vào địa vị em gái tôi, như đã từng nhiều lần tưởng tượng cô nàng chính là tôi.
Lúc Lindsey bước đến, thấy có chỗ trống cuối hàng thì cứ đứng vào, Ruth bắt chuyện ngay. “Con cá có ý nghĩa gì vậy?”, cô nàng hất hàm ra hiệu chỉ tấm bảng tên của em gái tôi. “Bồ tin đạo à(8)?”
“Cứ xem cá quay hướng nào khắc biết,” Lindsey trả lời, đầu óc còn bận nghĩ không biết sẽ có bánh kem sữa đặc mùi va-ni cho bữa điểm tâm không đây. Không có gì đi với món bánh kếp hợp khẩu vị hơn thế.
“Mình là Ruth Connors, sáng tác thơ,” Ruth nói như tự giới thiệu.
“Còn tớ tên Lindsey,” Lindsey đáp.
“Họ là Salmon, phải không?”
“Xin bạn đừng nói tên mình ra,” Lindsey van lơn, và chỉ trong một giây Ruth cảm thấu sâu sắc tâm trạng em trải qua mỗi khi phải xưng là em của tôi. Cô nàng chợt hiểu thế nào là bị hiểu như vậy; người ta nhìn Lindsey chòng chọc, nhưng lại thấy một bé gái toàn thân bê bết máu.
Ngay trong bọn học sinh năng khiếu, vốn phải tự tìm giải pháp riêng khi tiếp cận bất cứ đề tài gì, cũng có khuynh hướng cặp đôi với nhau trong những ngày đầu. Thường là một cặp đôi hai nam hoặc hai nữ - vào tuổi mười bốn giữa bọn con trai con gái ít khi có chuyện luyến ái – nhưng năm đó có một ngoại lệ: cặp Lindsey và Samuel.
“H-Ô-N M-Ộ-T C-Á-I!” đi đến đâu hai đứa cũng nghe tiếng reo hò trêu chọc. Không có ai đi theo kèm cặp, trời mùa hè nóng ấm, thế là có gì đấy mọc mầm vươn dậy, như cỏ dại, trong hai đứa. Đó là nỗi ham muốn xác thịt. Tôi chưa bao giờ cảm nhận nhục dục một cách trọn vẹn không chút mặc cảm tội lỗi, hay thấy nó truyền khắp người, làm rạo rực cơ thể một con người tôi biết rõ. Một con người cùng chia sẻ với tôi khối tế bào di truyền bố mẹ để lại.
Hai đứa rất thận trọng, tuân thủ mọi nội quy của trại. Không giám thị nào khoe được là chiếu đèn pin vào các bụi cây phía dãy phòng ngủ của đám con trai mà bắt gặp Samuel với Heckler đang âu yếm nhau. Chúng hẹn gặp nhau một chốc ngắn ngủi chỗ bức tường sau quán cà phê hay dưới một gốc cây, trước đó chúng đã khắc mẫu tự đầu của tên mình tuốt trên cao làm hiệu. Hai đứa hôn nhau. Chúng muốn đi xa hơn nữa nhưng hiện chưa làm được. Samuel quan niệm rằng đó là một sự kiện đặc biệt. Cậu ta phải ý thức là mọi chuyện phải diễn tiến và kết thúc thật tốt đẹp. Lindsey thì chỉ muốn sao cho xong nhanh bước đầu. Sau đó xem như em đã trưởng thành – vượt khỏi không gian và thời gian. Em hình dung chuyện làm tình như một kiểu du hành thấy trong phim Star Trek(9). Ta bốc thành hơi, rồi sau một hai giây đủ để hình hài được giáp lại, xuất hiện trong phòng lái một phi thuyền mới, xuất hành trực chỉ một hành tinh khác.
“Hai đứa sắp làm chuyện đó thật,” Ruth ghi vào nhật ký như thế. Tôi đặt nhiều hy vọng vào việc Ruth sẽ không quên ghi lại hết mọi chuyện. Cô nàng ghi trong nhật ký chuyện tôi lướt qua người cô nàng trên bãi đậu xe như thế nào, đã chạm vào cô nàng buổi tối hôm ấy – cô nàng thực sự cẩm nhận và với tay ra định níu tôi lại. Hình dạng tôi lúc đó ra sao. Cô nàng mơ thấy tôi thế nào. Đã tưởng tượng linh hồn có thể là làn da thứ hai, một lớp bọc để chở che bảo vệ. Nếu chuyên cần, biết đâu cô nàng có thể giải thoát cả hai chúng tôi. Tôi nhìn qua vai cô nàng đọc những ý nghĩ cô nàng ghi lại và tự hỏi một ngày nào đó liệu sẽ có ai chịu tin cô nàng không.
Khi nghĩ ngợi về tôi cô nàng cảm thấy dễ chịu hơn, bớt cô đơn, thấy gắn bó hơn với gì đó ở thế giới bên kia. Cô nàng thấy cánh đồng ngô trong những giấc mơ của mình và một thế giới mới mở ra, nơi mà biết đâu cô nàng sẽ được sống theo ý mình mong muốn.
Cô nàng tưởng tượng rằng tôi sẽ nói: “Bạn là một nhà thơ tài ba thật đấy, Ruth ạ,” rồi quyển nhật ký sẽ đưa cô nàng vào cơn mơ ngủ giữa ban ngày, rằng mình là một nhà thơ có tài, rằng câu chữ của cô nàng có đủ sức mạnh vạn năng làm tôi sống lại.
Tôi có khả năng ngược dòng thời gian, thấy lại cảnh một buổi chiều nọ Ruth ngồi trên tấm thảm chùi chân trong phòng tắm khóa trái, ngắm cô chị họ tuổi dậy thì đang cởi quần áo để rồi vừa tắm vừa trông em. Ruth thèm được ve vuốt làn da và mái tóc của cô chị họ, mong được chị ôm ấp. Tôi tự hỏi mỗi khao khát ở bé gái lên ba này có bùng dậy lúc lên tám tuổi không. Cảm giác mơ hồ về sự khác biệt, rằng chuyện cô nàng mê cô giáo hay người chị họ là điều gì rất thật chứ không giống kiểu mến mộ của bọn con gái cùng lứa. Trong đam mê của cô nàng, ngoài những chăm chút, yêu chiều, còn có nỗi ham muốn đã vun xới cho cơn khát nhục dục, như bông hoa xanh non, dần chuyển ánh vàng rồi nở rộ một màu vàng nghệ tây rực rỡ, những cánh hoa mềm mại của cô nàng vươn ra đúng vào giai đoạn gian nan của tuổi dậy thì. Cô nàng ghi vào nhật ký rằng thật ra vấn đề không phải là cô nàng tìm quan hệ thân xác với người đàn bà nào khác, mà thật sự cô nàng muốn nhập vào, tan biến trong họ mãi mãi. Để che đậy, giấu giếm.
Tuần lễ cuối cùng ở trại luôn được dành để triển khai một dự án chung kết, mỗi trường phải trình kết quả để giành giải thi đua sẽ phát vào buổi tối trước hôm các phụ huynh đón con về. Đề tài chỉ được công bố vào bữa điểm tâm sáng thứ Bảy trước tuần lễ cuối, nhưng lũ trẻ đã bắt tay chuẩn bị từ trước rồi. Đề thi luôn là bẫy chuột, mỗi năm bẫy chuột phải đạt yêu cầu cao hơn năm trước. Không ai muốn ráp thứ bẫy chuột đã có người làm rồi.
Samuel đi tìm những đứa đeo niềng răng. Cậu cầm những sợi dây chun bé xíu mà các nha sĩ chỉnh hình răng hàm mặt cấp phát. Dây thun này dùng để giữ căng cần bẫy chuột. Lindsey đã năn nỉ xin được của tay đầu bếp vốn là quân nhân về hưu một tấm giấy nhôm mới. Bẫy của hai đứa cần phản chiếu ánh sáng làm chuột quẫn trí, mất phương hướng.
“Nhỡ chuột soi vào thấy bóng chúng rồi đâm thích thì sao?” Lindsey hỏi Samuel.
“Chuột mắt kém, không nhìn rõ được,” Samuel đáp. Cậu gỡ những sợi thép dùng buộc túi rác trong trại. Khi một trại viên lom lom nhìn một vật dụng bình thường thì y như rằng cô nàng hay cậu ấy đang nghĩ xem có thể sử dụng nó để ráp cái bẫy chuột hoàn chỉnh nhất thế giới không.
“Mấy con chuột trông dễ thương ghê,” một chiều nọ Lindsey nói.
Lindsey đã dành phần lớn buổi chiều hôm qua để bắt chuột đồng bằng mồi móc vào dây rồi nhốt chúng vào một chuồng thỏ bỏ không.
Samuel chăm chú quan sát lũ chuột. “Mai sau có khi mình sẽ làm bác sĩ thú y đấy,” cậu nói, “nhưng phải đem chúng ra mổ xẻ thì mình không ham lắm đâu.”
“Mình phải giết chúng sao?” Lindsey hỏi. “Thì làm một bẫy chuột hoàn chỉnh hơn, chứ đâu thi đua làm bãi diệt nhiều chuột nhất.”
“Phần việc Artie nhận làm là đóng những quan tài tí hon bằng gỗ Balsa đấy,” Samuel nói rồi cười vang.
“Đầu óc gì mà bệnh hoạn quá.”
“Artie là vậy mà.”
“Nghe kể anh chàng từng theo đuổi chị Susie,” Lindsey nói.
“Mình có biết.”
“Anh chàng có kể gì về chị ấy không?” Lindsey cầm một chiếc que dài thò qua mắt lưới.
“Có hỏi thăm Lindsey đấy,” Samuel đáp.
“Thế Samuel trả lời sao?”
“Rằng Lindsey ổn định tinh thần rồi, và mọi chuyện rồi sẽ đâu vào đấy.”
Để tránh bị que quơ trúng, lũ chuột dạt cả vào một góc chuồng. Thế là chúng cứ giẫm đạp lên nhau, tìm lối thoát thân, một cố gắng vô vọng. “Tụi mình nên làm cái bẫy có cái ghế dài tí hon bọc nhung tím, trên đó gắn một cái chốt để khi bọn chuột leo lên ghế, chốt sẽ bật cửa để những viên pho-mát rơi xuống. Mình đặt tên bẫy là vương quốc của loài gặm nhấm được đấy.”
Samuel không áp đặt ý mình với em gái tôi như kiểu người lớn thường làm. Chẳng những thế, cậu còn mô tả cặn kẽ chi tiết, làm cách nào bọc chiếc ghế tí hon đặt trong bẫy chuột.
Từ mùa hè năm ấy tôi không còn để nhiều thì giờ vào việc ngồi ở vọng lâu theo dõi mọi sự, vì tôi vẫn có thể nhìn thấy Địa cầu khi tản bộ trên những cánh đồng cỏ ở thiên đường. Đêm xuống, các bà các cô hay chơi môn phóng lao và ném tạ sẽ rời nơi đây đi tới những thiên đường khác, nơi mà một cô bé như tôi không làm sao thích ứng được. Cuộc sống ở đó có đáng sợ không nhỉ, ở những thiên đường khác ấy? Có nặng nề hơn phải sống giữa những kẻ đồng trang lứa, đang cùng mình bước dần đến tuổi trưởng thành nhưng lại thấy vô cùng cô độc? Hay đó đúng là nơi chốn tôi hằng mơ được đến? Nơi ta có lẽ bị buộc phải sống vĩnh viễn trong một thế giới êm đềm kiểu Norman Rockwell(10). Gà tây nướng được liên tục mang lên bày đầy trên bàn ăn, quanh bàn tề tựu toàn thể gia tộc. Một người trong gia đình đang cắt gà, ánh mắt dí dỏm, nhếch mép cười như giễu cợt.
Nếu tôi đi lang thang qúa xa và buột miệng thốt thành lời những câu hỏi luẩn quẩn trong đầu thì những cánh đồng cỏ bỗng biến đổi. Tôi cúi nhìn, thấy lại cánh đồng ngô cho ngựa ăn, rồi nghe lời bài hát, một loại âm thanh rất trầm cùng tiếng thở dài rên rỉ, căn dặn tôi phải lùi xa bờ vực. Đầu tôi như bị búa bổ, bầu trời chợt tối sầm, và cái đêm hôm ấy lại tái diễn, bắt tôi phải sống đi sống lại triền miên cái “ngày hôm qua” đó. Hồn tôi đông cứng lại dần, càng lúc càng trĩu nặng. Cứ thế, đã nhiều lần tôi ngoi lên, leo lên được đến bên bờ vực nơi vùi xác mình, nhưng cứ chăm chắm cúi nhìn mãi xuống đáy vực thẳm.
Từ đó tôi bắt đầu tự hỏi thiên đường nghĩa là gì. Nếu nơi đây là thiên đường, tôi ngẫm nghĩ, quá thật là thiên đường thì ông bà tôi cũng phải sống ở đây chứ. Nếu thế thì ông nội, người tôi yêu quí nhất trong các ông bà, sẽ nhấc bổng tôi lên và khiêu vũ với tôi. Tôi sẽ chỉ còn cảm thấy hân hoan, chẳng buồn nhớ đến cánh đồng ngô hay nấm mồ dưới đáy vực.
“Cháu sẽ toại nguyện thôi,” Farnny bảo tôi. “Rất nhiều người làm được chuyện đó rồi.”
“Phải làm sao để gây được sự chuyển biến đó, hở cô?” tôi hỏi.
“Không dễ như cháu tưởng đâu,” bà đáp. “Cháu phải thôi không đòi có lời giải đáp cho một số thắc mắc của mình.”
“Cháu không hiểu.”
“Nếu cháu thôi không đặt câu hỏi, cớ sao tôi lại bị giết chứ không phải một người nào khác, nếu cháu thôi không tìm mãi xem mình chết đi thì những người thân thấy tiếc nhớ, thiếu vắng mình đến mức nào, nếu cháu thôi thắc mắc tự hỏi người này người kia ở dương thế hiện đang cảm gì nghĩ gì,” bà nói,” lúc đó chúa sẽ được tự do. Nói cho dễ hiểu là cháu phải chấp nhận dã biệt dương thế.”
Với tôi đây là điều bất khả thi.
Cũng trong đêm ấy Ruth lẻn vào phòng tập thể chỗ Lindsey nằm ngủ.
“Tớ mơ thấy chị của bồ,” cô nàng thì thầm với em tôi.
Lindsey chớp chớp đôi mắt ngái ngủ nhìn Ruth. “Thấy Susie à?” em hỏi.
“Tớ xin lỗi về chuyện lúc nãy ở nhà ăn nhé,” Ruth nói.
Lindsey đang nằm ở tầng dưới cùng của cái giường nhôm ba tầng. Cô gái ở giường trên đang trở mình.
“Tớ nằm chung với bồ được không?” Ruth hỏi.
Lindsey gật đầu đồng ý.
Ruth chui vào nằm cạnh Lindsey trên cái giường hẹp.
“Bồ nằm mơ ra sao?”, Lindsey thì thào.
Ruth quay đầu để Lindsey nhìn thấy được sóng mũi, đường nét môi và trán mình, cô nàng kể. “Lúc ấy tớ đang nằm trong lòng đất,” Ruth đáp, “Susie đi trên mặt đất trong cánh đồng ngô, ngay trên chỗ tớ nằm. Tớ cảm thấy rõ Susie bước qua người tớ. Tớ gọi tên nhưng miệng tớ đầy đất là đất. Susie không nghe dù tớ cố gọi thật to. Rồi tớ thức giấc.”
“Tớ không mơ thấy chị ấy,” Lindsey nói. “Tớ chỉ mơ toàn ác mộng, thấy lũ chuột gặm nhấm ngọn tóc của mình.”
Ruth thích cảm giác thoải mái có được khi nằm bên em tôi, thích hơi ấm tỏa ra từ thân thể hai đứa.
“Bạn yêu Samuel phải không?”
“Phải.”
“Bạn có nhớ Susie không?”
Vì tối, vì Ruth ngoảnh mặt đi không nhìn em, và vì Ruth chưa thân thiết lắm nên Lindsey mới nói những gì em nghĩ. “Chẳng ai biết nổi mình nhớ chị ấy đến mức nào đâu.”
Ông hiệu trưởng trường trung học cơ sở Devon phải rời trại đột ngột sau cú điện thoại báo chuyện gấp của gia đình, thế nên cô hiệu phó mới được bổ nhiệm của trường Chester Springs ngay hôm sau phải tức tốc bắt tay chuẩn bị cho màn thi năm nay. Cô muốn thay đổi, chọn một đề tài khác trò ráp bẫy chuột.
CÓ THỂ NÀO GÂY TỘI ÁC MÀ KHÔNG BỊ TRỪNG PHẠT KHÔNG? LÀM CÁCH NÀO GIẾT NGƯỜI ÊM THẤM, đó là hàng chữ tên tờ thông tin cô soạn và cho in thành nhiều bản cấp tốc phân phát.
Bọn trẻ thích mê tơi. Từ nhạc sĩ, thi sĩ, các nhà Thông kinh làu sử cho đến nghệ sĩ đủ mọi bộ môn, đầu óc người nào cũng đầy sáng kiến, chỉ muốn bắt tay ngay vào việc. Trong lúc ăn sáng chúng vừa chén đẫy món trứng rán với thịt muối và so sánh những vụ án mạng lớn trong quá khứ đến nay chưa tìm ra manh mối, hoặc kể ra những vật dụng bình thường nhưng lại có thể gây những vết thương chí mạng. Chúng moi óc xem nên âm mưu thủ tiêu kẻ nào. Mọi người thú vị với trò chơi sôi nổi này cho đến bảy giờ mười lăm, khi em tôi bước vào.
Artie thấy Lindsey đi đến chỗ đứng xếp hàng. Em chưa biết ất giáp gì, chỉ cảm thấy một không khí phấn khích, xôn xao, nên nghĩ chắc cuộc thi bẫy chuột vừa được công bố.
Artie vẫn trông chừng, nhìn về phía Lindsey, chợt nhìn thấy tờ tin gần chỗ em đứng nhất được dán ở cuối hàng, trên ngăn dao nĩa. Lúc đó cậu ta đang nghe dở câu chuyện về Jack the Ripper(11) ai đó ngồi cùng bàn đang kể. Cậu đứng lên bưng khay ăn đi trả.
Tới chỗ em gái tôi, cậu hắng giọng. Tôi đặt mọi hy vọng của mình vào anh chàng quá ư nhút nhát này. “Cứ túm lấy nó mà bảo đi,” tôi nói. Lời van xin khẩn thiết vọng xuống tận trần gian.
“Lindsey à,” Artie lên tiếng.
Lindsey nhìn cậu. “Gì cơ?”
Tay đầu bếp đứng sau quầy múc một môi đầy trứng bác, bỏ tõm lên khay của em.
“Tớ là Artie, học cùng lớp với chị của bạn đấy.”
“Tôi không cần quan tài,” Lindsey nói rồi đẩy khay trên tấm vỉ sắt về phía những bình nhựa lớn có vòi đựng nước cam và nước táo ép.
“Sao cơ?”
“Samuel bảo rằng năm nay anh làm những quan tài bằng gỗ balsa cho chuột. Tôi không cần đâu.”
“Họ đổi đề tài rồi,” cậu nói.
Sáng nay Lindsey định sẽ cắt một dải từ gấu cái áo đầm của Clarissa. Vải này làm ghế cho bẫy chuột là lý tưởng.
“Đổi thành gì vậy?”
“Bạn ra ngoài kia nhá?”, Artie đứng án ngữ, chắn lối em tôi đi tới ngăn đựng dao nĩa. “Lindsey”, cậu buột miệng nói luôn. “Đề tài năm nay là việc giết người.”
Em tôi thảng thốt nhìn cậu
Lindsey bấu chặt hai tay vào chiếc khay, nhìn Artie không chớp mắt.
“Tớ muốn báo cho bạn biết trước khi bạn đọc bản tin,” cậu nói.
Samuel lúc đó hớt hải chạy vào trong lều.
“Có chuyện gì thế?” Lindsey nhìn Samuel ánh mắt cầu cứu.
“Đề tài năm nay là làm thế nào giết người êm thấm, không để bị trừng phạt,” Samuel đáp.
Samuel và tôi thấy người em run lẩy bẩy. Nghe tiếng co giật của trái tim trong lồng ngực em. Nhưng em đã tập quen nên những vết nức rạn cứ nhỏ dần, nhỏ dần. Chẳng mấy chốc, như một kẻ nhanh tay thạo trò tráo lá bài, không ai thấy em đã làm như thế nào. Em có thể che mắt cả thế giới này, kể cả chính mình.
“ Mình vẫn bình thường, không sao cả,” em nói.
Nhưng Samuel biết sự thật không phải thế.
Samuel và Artie nhìn theo khi em quay lưng bỏ đi.
“Tớ chỉ tìm cách báo trước cho cô ấy thôi,” Artie nói yếu ớt.
Artie quay lại bàn ăn. Cậu vẽ những ống tiêm dưới da, hết ống này đến ống khác. Cậu ấn bút mỗi lúc một mạnh hơn khi tô màu dung dịch ướp xác trong các ống tiêm, khi vẽ quỹ đạo rơi của ba giọt dung dịch nhểu ra ngoài.
Con người này, tôi nghĩ, dù ở đâu, dưới trần thế hay trên thiên đàng, thì cô độc vẫn hoàn cô độc
“Giết người thì có nhiều cách, hoặc dùng dao đâm hay cắt cổ, hoặc cầm súng bắn,” Ruth nói. “Thật kinh tởm.”
“Mình cũng đồng ý với bạn,” Artie nói.
Samuel đưa em tôi ra chỗ khác trò chuyện. Artie nhìn thấy Ruth đang ngồi ở một chiếc bàn loại hay dùng lúc đi cắm trại, trên bàn là quyển vở mới, khổ to.
“Nhưng cũng có khi người ta giết người vì lý do chính đáng,” Ruth nói.
“Theo bạn thì ai đã làm chuyện đó?” Artie hỏi. Cậu ngồi xuống ghế, gác chân lên thanh giằng dưới gầm bàn.
Ruth ngồi gần như bất động, chân phải bắt lên chân trái, bàn chân nhịp nhịp liên hồi.
“Làm sao bạn biết chuyện đó?” Ruth hỏi.
“Bố mình kể cho bọn mình nghe,” Artie đáp. “Ông gọi hai chị em mình vào phòng khách, bảo ngồi xuống.”
“Bố khỉ, thế ông ấy kể đầu đuôi ra sao?” Ruth hỏi.
“Ông vào đề bằng cách bảo rằng trên thế giới ngày ngày vẫn xảy ra lắm chuyện kinh hoàng. Chị mình mới xen vô: “Ở Việt Nam chẳng hạn.” Bố mình không nói lại vì cứ động đến đề tài này là hai người lại tranh cãi không dứt. Ông bảo: “Không đâu, con ạ, nhiều chuyện kinh hoàng xảy ra ngay sát nhà mình, với những người mình quen biết. “Chị mình lại tưởng đâu là một trong mấy cô bạn gái của chị ấy chứ.”
Ruth thấy có giọt mưa rơi lên người.
“Rồi bố mình không nói cà kê gì nữa, ông bảo có một bé gái vừa bị giết. Mình mới hỏi đó là ai vậy. Mình muốn nói, khi ông kể “có một bé gái” mình hình dung một đứa bé con, bạn biết không. Chứ không phải lứa tuổi bọn mình.”
Lần này mưa thật rồi, những giọt mưa rơi lộp độp trên mặt bàn gỗ đỏ.
“Bạn có muốn vào nhà trú mưa không?” Artie hỏi.
“Mọi người chắc đã vào trong hết rồi,” Ruth đáp.
“Mình biết.”
“Cứ ngồi đây, cho ướt luôn.”
Hai đứa ngồi im một lúc, nhìn những giọt mưa rơi quanh mình, nghe tiếng mưa đập và tán lá trên cao.
“Mình biết là bạn ấy chết thật rồi. Mình linh cảm thế,” Ruth nói, “ nhưng rồi mình đọc thấy tin đó trên tờ báo của bố mình và mình biết ngay là đúng. Lúc đó họ không nêu tên. Chỉ đăng “cô gái mười bốn tuổi.” Mình hỏi xin bố trang báo đó nhưng ông không chịu đưa. Ý mình muốn nói, cứ suy ra, ngoài bạn ấy và đứa em gái ra đâu có ai khác nghỉ học cả tuần đó đâu?”
“Mình thắc mắc không biết ai báo tin cho Lindsey biết nhỉ?” Artie nói. Mưa nặng hạt hơn. Artie chui xuống dưới gầm bàn. “Tụi mình ướt hết rồi,” từ dưới gầm ra vọng ra tiếng cậu.
Rồi thoắt cái trời tạnh, nhanh không kém lúc đổ cơn mưa. Mặt trời chiếu qua những cành lá trên đầu hai đứa. Ruth ngước mắt nhìn trời qua đám cành lá kia. “Chắc bạn ấy đang lắng nghe hai đứa mình đấy,” cô nàng nói khẽ khàng, nhỏ quá khó ai nghe được.
Thế là ở trại mọi người biết rõ em gái tôi là ai và tôi lìa đời trong hoàn cảnh nào.
“Cứ thử tưởng tượng mình mà cũng bị đâm như thế nhỉ,” có ai đó lên tiếng.
“Tớ xin kiếu thôi.”
“Mình lại thấy như thế mới là hết ý chứ.”
“Thử nghĩ mà xem, cô ả đâm ra nổi tiếng.”
“Nổi tiếng kiểu đó đây không ham. Tớ thích nổi tiếng nhờ đoạt giải Nobel hơn.”
“Có ai biết cô ả ước mơ mai sau làm gì không?”
“Tớ thách cậu dám đi hỏi Lindsey đấy.”
Rồi chúng lên danh sách những trong vòng thân thuộc đã qua đời rồi.
Phần đông có ông hay bà, cô dì hoặc chú bác đã chết, vài đứa mất bố hoặc mẹ, hiếm đứa nào có anh chị em mất sớm vì bệnh tật, - chứng tim đập loạn nhịp, hay leukemia(12), một bệnh hiểm nghèo có cái tên khó đọc. Không ai có thân bằng quyến thuộc phải chết vì án mạng. Nhưng từ nay chúng biết đến trường hợp của tôi rồi đấy.
Samuel Heckler ôm Lindsey nằm trên sàn một chiếc thuyền chèo cũ đã hỏng lâu rồi không dùng được nữa.
“Cứ yên tâm, em chẳng sao đâu,” Lindsey nói, mắt ráo hoảnh. “Artie chắc chắn có lòng tốt muốn giúp em đó thôi.”
“Thôi đừng nhắc lại nữa, Lindsey,” Samuel nói. “Tụi mình cứ việc nằm đây chờ cho mọi chuyện qua đi, mai kia sẽ không ai nhắc tới nữa.”
Lưng Samuel dán xuống đất, cậu kéo Lindsey sát người mình, cố che cho em không bị ướt vì cơn mưa hè đang ập đến. Hơi thở của chúng bắt đầu làm nóng không gian nhỏ hẹp dưới thuyền và Samuel không kiềm chế được – dương vật cậu cương cứng trong chiếc quần jeans.
Lindsey đặt tay lên đó.
“Mình xin lỗi…” Samuel lên tiếng trước.
“Em đã sẵn sàng,” em gái tôi nói.
Ở tuổi mười bốn em tôi đã rời tôi đi xa, dong buồm đến một nơi tôi chưa từng tới. Trong những bức tường vây bọc phần sâu kín cơ thể của tôi chỉ có toàn kinh hoàng và máu me, còn ở em tôi, tường có những cửa sổ trổ ra một thế giới mới.
“Làm cách nào giết người êm thấm” là một trò chơi cũ rích trên thiên đường. Lần nào tôi cũng chọn băng nhũ thạch. Vũ khí loại này sẽ tự hủy, chảy tan thành nước.
End chap 10.
--------------------------------
Chương 11
Khi bố tôi thức giấc vào bốn giờ sáng, trong nhà hoàn toàn yên ắng. Mẹ tôi nằm bên ông, gáy khe khẽ. Em trai tôi, đứa con duy nhất còn ở nhà vì em gái tôi đang ở trại, nằm ngủ say mê mệt, kéo chăn trùm đầu kín mít. Bố tôi, cũng như tôi, lấy làm lạ sao nó có thể ngủ say đến thế được. Hồi tôi còn sống, Lindsey và tôi thường hay nghịch bằng cách vỗ tay, thả sách rơi xuống sàn, thậm chí gõ nắp xoong chan chat xem Buckley có vì thế mà thức dậy không.
Trước khi ra khỏi nhà, bố tôi còn vào phòng Buckley kiểm lại, khi cảm thấy hơi thở ấm của em phả vào lòng bàn tay ông mới yên lòng. Rồi ông xỏ đôi giày đế mỏng, mặc bộ quần áo thể thao nhẹ. Việc cuối cùng là tròng dây vào cổ con Hoiliday.
Trời còn sớm, đến mức ông nhìn thấy hơi nước phả ra khi thở. Sớm như thế này ông vẫn có thể coi như vẫn còn là mùa đông. Như thể trời chưa chuyển mùa.
Việc dẫn chó ra ngoài buổi sáng cho ông cái cớ để đi ngang ngôi nhà của tên Harvey. Ông chỉ đi chậm lại chút xíu – không ai nhận thấy, trừ tôi hay tên Harvey, nếu hắn đã thức. Bố tôi chắc chẳn rằng chỉ cần tập trung nhìn thật kỹ, thật lâu là sẽ có lúc tìm ra bằng chứng ông cần, hoặc trên các khung cửa sổ, trong lớp sơn xanh phủ lên ván gỗ, hoặc ở lối xe ra vào, đánh dấu bằng hai tảng đá to sơn trắng.
Đến cuối hè 1974 vẫn không có gì mới trong vụ án mạng mà tôi là nạn nhân. Không tìm thấy xác. Thủ phạm cũng không. Hoàn toàn không có gì.
Bố tôi nghĩ đến câu bàn Ruana Singh: “Nếu biết chắc rồi, tôi sẽ chuẩn bị kỹ lưỡng để giết hắn thật êm thấm.” Ông không kể lại với mẹ tôi vì lời khuyên này nghe dứt khoát, quyết liệt, hẳn sẽ làm bà bất an, thấy phải thổ lộ cùng ai khác. Và ông ngờ rằng người đó là Len.
Từ hôm ông đi gặp bà Ruana Singh rồi về nhà thấy Len đang chờ mình, ông cảm thấy mẹ tôi ngày càng thiên về lập luận của cảnh sát. Nếu bố tôi nói gì đó ngược với giả thiết của họ - và như ông nghiệm ra, là họ chẳng đưa ra giả thiết nào cả - thì bà lập tức tìm cách bào chữa cho điều sơ sót mà bố tôi vừa tìm ra được. “Len bảo răng điều đó chẳng nói lên điều gì cả,” hay “Em tin chắc trước sau cảnh sát cũng sẽ tìm ra thôi.”
Bố tôi tự hỏi sao người ta lại cả tin cảnh sát đến thế được? Sao không tin vào trực giác? Tên Harvey là hung thủ, bố biết chắc điều đó. Nhưng bà Ruana nói: Nếu biết chắc. Biết, cách biết bằng cảm nhận từ sâu thẳm nội tâm của bố tôi, không phải là bằng chứng hiển nhiên, theo tinh thần mà người ta vẫn diễn giải luật pháp.
Ngôi nhà nơi tôi lớn lên cũng là nơi tôi mở mắt chào đời. Không khác ngôi nhà của tên Harvey, nó như một cái hộp, nên tôi mới nảy thói ganh tị vớ vẩn khi đến thăm người khác. Tôi mơ về những ô cửa sổ xây nhô ra trên có mái vòm, về những ban công và bức vách nghiêng áp mái trong phòng ngủ. Tôi thích tưởng tượng có cây cối trong vườn to cao hơn người, những khoang dốc vát dưới gầm cầu thang. Những hàng rào dày rậm đến mức bên trong có những hốc do cành khô đan vào nhau thành vòm, ta có thể chui vào ngồi lọt được. Trong thiên đường của tôi có hiên, có cầu thang cuốn, cửa sổ có song sắt và một tòa lầu có chuông từng giờ lại điểm.
Tôi biết tường tận bên trong ngôi nhà của tên Harvey. Tôi đã để lại trên nền gara một vệt ẩm cho tới khi thi thể tôi lạnh cứng. Hắn đã mang máu của tên trên áo quần và trên lớp da hắn vào trong nhà. Tôi biết căn phòng tắm. Tôi biết rằng ở nhà mẹ tôi trang trí để đón chào Buckley ra đời sau chúng tôi nhiều năm, bằng cách dán những chiếc tào chiến nhiều màu dọc thành bốn bức tường màu hồng nhạt. Trong nhà tên Harvey phòng tắm và bếp sạch bong không tì vết. Gạch sứ ốp vách màu vàng, còn gạch lót sàn màu xanh lục. Tầng trên, nơi bên nhà tôi là phòng của Buckley, Lindsey và tôi, thì bên đó hắn để trống, chẳng trưng bày gì. Hắn có một cái ghế tựa để thỉnh thoảng ngồi nhìn qua cửa sổ hướng trường trung học, tiếng ban nhạc tập luyện từ sân cỏ vẳng lại, nhưng phần lớn thời giờ hắn ở tầng trệt, phía sau nhà, ở trong bếp để ráp nhà cho búp-bê, nghe đài phát thanh trong phòng khách, hoặc khi nào hứng thì phác họa đồ cho những dự tính bệnh hoạn như căn hầm hoặc túp lều.
Suốt nhiều tháng chẳng có ai quấy rầy gì hắn về vụ của tôi. Mùa hè năm ấy họa hoằn lắm hắn mới lại thấy một chiếc xe tuần tra chạy chầm chậm qua nhà tôi. Hắn khôn ngoan không thay đổi cung cách sinh hoạt thường nhật. Nếu bất chợt lúc ấy hắn định ra nhà để xe hay thùng thư, hắn vẫn điềm nhiên bước tới.
Hắn đặt nhiều đồng hồ reo báo giờ. Cái thì báo giờ để hắn kéo mành mành, cái khác báo giờ để đóng. Sau đó hắn bật hay tắt đèn đóm trong nhà. Thỉnh thoảng khi một cậu bé đi qua mời mua một phong sôcôla hoặ đặt mua dài hạn tờ báo ra buổi chiều Evening Bulletin, nhằm giúp gây quỹ cho một cuộc thi đua trong trường, thì hắn tỏ ra thân thiện, nhưng ở mức quan hệ mua bán, không gây sự chú ý nào.
Hắn cất giữ một số kỷ vật và hay đem chúng ra đếm. Việc đếm đi đếm lại tạo cho hắn cảm giác an toàn. Đó là những thứ rất bình thường. Chiếc nhẫn cưới, bức thư trong phong bì dán kín, một mẩu góp giày, cặp mắt kính, viên tẩy có hình nhân vật trong truyện tranh, lọ nước hoa con con, vòng đeo tay bằng nhựa, viên đá hộ mệnh – hình bang Pennsylvania – của tôi, mặt dây chuyền bằng mã não của mẹ hắn. Đêm đêm, đợi đến khuya khi chắc chắn sẽ không có trẻ bán báo hay người hàng xóm nào đến gõ cửa, hắn đem chúng ra xem. Hắn đếm từng món như người ta lần tràng hạt. Có vài món hắn đã quên tên chủ nhân. Nhưng tôi biết tên những người ấy. Gót giày là của một bé gái tên Claire ở Nutley, bang New Jersey, hắn đã dụ dỗ leo cửa sau lên chiếc xe thùng của hắn. Cô bé này hơn tôi. (Tôi cứ muốn nghĩ rằng như mình thì chẳng đời nào dại mà nghe lời leo lên một chiếc xe thùng, chẳng qua chỉ tại tôi hiếu kỳ muốn biết hắn làm sao xây hầm mà không sập). Hắn lột gót giày của Claire rồi thả cô bé đi. Ngoài ra không làm gì khác. Hắn dụ cô bé leo vô xe rồi tuột đôi giày cô ra. Cô bé òa khóc, tiếng khóc xoáy vào óc hắn như đinh vít. Hắn nài nỉ bảo cô bé nín và xéo đi cho rồi. Bé hãy đi chân trần mà leo xuống xe, đừng than khóc nữa, còn giày thì hắn giữ lại đây. Nhưng cô bé không chịu, cứ la khóc. Hắn lấy dao nhíp tìm cách tách phần gót khỏi chiếc giày, tới lúc có người dộng rầm rầm vào thành xe. Hắn nghe tiếng nhiều người đàn ông, rồi tiếng một người đàn bà la lối đòi gọi cảnh sát. Hắn mở cửa xe.
“Ông làm trò gì với đứa bé vậy hả?” một người đàn ông sừng sộ. Người bạn của ông này đỡ lấy cô bé đang vừa khóc lóc vừa nhảy xuống xe.
“Tôi đang sửa giày cho nó đây mà”
Cô bé hoảng loạn kể lể bù lu bù loa, còn tên Harvey thì tỏ ra là người bình tĩnh, ôn tồn. Nhưng Claire cũng đã nhìn thấy như tôi – trĩu nặng trong ánh mắt hắn – điều gì đó hắn muốn mà không nói ra được, và nếu được thỏa mãn hắn sẽ kết liễu số phận của chúng tôi.
Nhân cơ hội mọi người còn đang hoang mang chưa biết xử trí ra sao, vì không thể nhận thấy điều mà Claire và tôi linh cảm được, Harvey ra vẻ vội vã, đưa chiếc giày cho một người đàn ông rồi từ biệt đi luôn Hắn giữ lại cho mình chiếc gót. Hắn thích cầm chiếc gót bọc da bé xíu này, và mân mê băng ngón tay cái và ngón trỏ - một thức bùa hộ mệnh hoàn hảo cho hắn.
***
Tôi biết cái góc tối nhất trong nhà mình nằm ở đâu. Tôi từng leo vào trốn trong đó, tôi khoe với Clarissa là nấp suốt một ngày trời, nhưng thật ra chỉ ở đó khoảng bốn mươi lăm phút thôi. Đó là một khoảng trống chỉ vừa đủ để bò lom khom ở tầng hầm dưới nền nhà. Đó là chỗ mọi đường ống dẫn điện và nước từ khắp nhà quy về, soi đèn pin thấy được, tưởng như có cả tấn bụi trong đó. Chỉ có thế. Không có sâu bọ. Chỉ cần thấy vào con kiến bò là mẹ tôi, giống hệt bà ngoại, lấy ống thuốc diệt côn trùng loại cực mạnh xịt ngay.
Sau tiếng chuông đồng hồ báo giờ để hắn nhớ đóng mành mành, tiếp đến chuông đồng hồ nhắc hắn tắt hầu hết đèn đóm – sau đó khu ngoại ô này chìm trong giấc ngủ - tên Harvey sẽ xuống căn hầm xây kín mít không để lọt ánh đèn, kẻo có ai thấy thì họ sẽ đồn là hắn quái dị. Vào thời điểm trước và sau khi giết tôi, hắn không thích chui vào chỗ trống dưới những ống dẫn điện nước, nhưng vẫn thích ở lâu dưới hầm, ngồi trên một cái ghế đối diện với cái hốc tối từ khoảng lưng chừng tường kéo tới tận lớp ván lót sàn bếp. Nhiều khi hắn ngồi lơ mơ rồi ngủ quên dưới đó, và khi bố tôi đi ngang ngôi nhà sơn xanh này vào sáng sớm quãng năm giờ kém hai mươi thì hắn cũng đang ngủ ở đấy.
Joe Ellis là một thằng oắt con dữ tính và có thói chơi xấu. Ở hồ tắm nó lặn dưới nước lén cấu véo tôi với Lindsey, làm chúng tôi đành bỏ không đi bơi nữa vì ghét nó thậm tệ. Nó có một con chó mà nó cứ lôi bừa theo bất kể con vật muôn hay không. Con chó còn nhỏ không chạy nhanh được, nhưng Ellis mặc kệ. Cứ thế nó đánh và túm đuôi con chó xách ngược lên. Một ngày nọ con chó biến mất, biến luôn cả con mèo mà có người thấy bị thằng Ellis hành hạ. Sau đó chó mèo của toàn vùng lân cận dần dần biến đâu mất cả.
Khi dõi theo hướng nhìn của Harvey trong cái hốc chật hẹp chỉ bò mới vào được này, tôi phát hiện những con vật đã mất tích từ hơn một năm nay. Người ta cứ tưởng chuyện này chấm dứt vì thằng con nhà Ellis bị gửi vào trường thiếu sinh quân. Sáng sáng họ thả chó mèo ra, chiều tối chúng lần về. Họ xem đó là bằng chứng rõ ràng. Không ai tưởng tượng nổi rằng trong ngôi nhà màu xanh lục này có một kẻ mắc chứng thèm thuồng những con vật đó. Người đó rải vôi sống lên xác chó mèo để rút ngắn thời gian tiêu rã thịt da, sưu tập mớ xương. Bằng cách đếm xương và tránh không động đến bức thư niêm kín, chiếc nhẫn cưới, lọ nước hoa, hắn cố gạt ra khỏi tâm trí những việc hắn muốn làm nhất, đó lần mò leo cầu thang trong bóng tối, ngồi vào chiếc ghế tựa, ngó về phía trường trung học, đó là việc mường tượng ra những thân thể đang chuyển động dập dồn như sóng theo nhịp reo hò của các hoạt náo viên đang hăng say cổ vũ trận bóng đá tổ chức vào mùa thum hoặc đứng nhìn đám học trò trường tiểu học xuống xe buýt tại trạm đỗ cách nhà hắn hai căn. Có lần hắn dõi mắt theo Lindsey một lúc lâu, đứa con gái duy nhất trong đội bóng nam, vẫn chạy bộ quanh khu này lúc trời đã sập tối.
Tôi đã rất khó khăn, đã mất nhiều công sức để hiểu và tin rằng quả thật lần nào hắn cũng cố hết sức tự kiềm chế bản năng mình. Hắn giết súc vật, hủy diệt những sinh vật cấp thấp để kiềm giữ ham muốn ra tay hãm hại một đứa trẻ.
Vào tháng tám, Len muốn xác định lại giới hạn trong quan hệ để được yên thân mình những đồng thời cũng để giúp bố tôi. Bố tôi gọi điện tới đồn cảnh sát liên tục khiến họ đâm ngán ngẩm và bực bội, việc này chẳng giúp tìm ra thủ phạm mà chỉ làm họ ngày càng không ưa ông.
Cú điện thoại vào tuần đầu tháng Bảy là giọt cuối cùng làm tràn ly nước. Bố tôi kể lể dông dài với nhân viên trực máy điện chuyện con chó của ông trong một lần dắt ra ngoài lúc sáng sớm cứ trì lại trước cửa nhà Harvey không chịu đi tiếp, sủa ỏm tỏi. Họ kháo nhau ông Salmon kể rằng đã thử đủ mọi cách mà con chó không chịu nhúc nhích cứ sủa liên hồi. Chuyện này trở thành chuyện tiếu lâm ở đồn cảnh sát: ông họ nhà Cá và con chó Huckleberry.
Len đứng trước hiên nhà tôi hút nốt điếu thuốc. Trời còn sớm nhưng độ ẩm trong không khí cao hơn cả ngày hôm trước. Dự báo sẽ mưa suốt tuần, loại mưa dông có sấm chớp đặc biệt của vùng này, nhưng lúc này cảm giác ẩm ướt duy nhất Len có được là từ lớp mồ hôi nhớp nháp trên người ông. Lần trước đến nhà tôi là lần cuối cùng ông thấy thoải mái.
Len nghe có tiếng lao xao – giọng đàn bà – từ trong nhà vẳng ra. Ông ta dụi điếu thuốc trên nền xi măng dưới bờ dậu rồi nhấc quả đấm bằng đồng thau nặng chịch để gõ cửa.
Ông ta chưa kịp gõ thì cửa đã mở ra.
“Tại cháu ngửi thấy mùi thuốc lá,” Lindsey nói.
“Phải cháu vừa nói gì đó không?”
“Mấy chất độc hại đó sẽ giết chú cho mà xem.”
“Bố có nhà không cháu?”
Lindsey tránh sang bên, nhường lối.
“Bố ơi!” em gái tôi gọi với vào trong nhà. “Có chú Len!”
“Cháu mới đi đâu về à?” Len hỏi.
“Cháu vừa vào nhà.”
Em gái tôi mặc áo thun loại để chơi bóng chày của Samuel và chiếc quần thể thao lạ hoắc. Mẹ tôi vừa quở mắng nó vì về nhà với bộ quần áo không phải của mình.
“Chú biết bố mẹ cháu hay lo, hễ cháu đi đâu là cứ ngóng.”
“Không chắc đâu,” Lindsey nói, “Cháu thì nghĩ hễ đi đâu khuất mắt thì ông bà còn mừng nữa là khác.”
Len biết nó nói đúng. Ông ta nhớ rõ những lần trước mẹ tôi không cáu gắt như thế.
Lindsey kể: “Em Buckley phong chú làm cảnh sát trưởng của thành phố nó xây dưới gầm giường của nó đấy.”
“Thế là chú thăng chức rồi.”
Hai người nghe trên lầu tiếng chân của bố tôi và tiếng Buckley đang nài nỉ gì đó. Lindsey biết rằng nó đòi gì thì rốt cuộc bố tôi cũng sẽ chiều.
Bố và em trai tôi bước xuống cầu thang, mặt mày tươi tắn.
“Chào anh Len,” ông nói và bắt tay Len.
“Chào anh Jack,” Len đáp. “Còn Buckley, sáng nay cháu khỏe không?”
Bố tôi nắm tay Buckley dẫn tới trước mặt Len. Ông ta trịnh trọng cúi hỏi nó.
“Chú nghe nói cháu phong chú làm cảnh sát trưởng.”
“Đúng thế ạ.”
“Chắc chú không xứng đáng ới chức này đâu.”
“Anh xứng hơn người khác chứ,” bố tôi nói, vẻ hớn hở. Ông rất vui mỗi dịp Len Fenerman ghé thăm. Mỗi lần ông ta đến bố tôi càng thêm tin tưởng rằng có nhiều người đồng tâm nhất trí – có cả một nhóm người làm hậu thuẫn cho ông - chứ ông không đơn độc trong chuyện này
“Các cháu à, chú cần nói chuyện riêng với bố một lúc.”
Lindsey dụ Buckley trở vào nhà bếp bằng cách hứa cho cu cậu ăn món sữa khuấy ngũ cốc sấy khô. Còn cho mình thì Lindsey nghĩ đến ly cốc-tai khai vị gọi là Jellyfish Samuel đã pha chó nó uống thử, gồm đường, rượu Gin và một quả anh đào dưới đáy ly. Samuel và Lindsey ngậm ống, hút dần mấy quả anh đáo cùng với rượu, đến lúc say nhức cả đầu và môi đỏ loét.
“Tôi gọi Abigail xuống nhé? Anh uống cà phê hay thứ gì khác?”
“Jack ạ” Len nói, “tôi đến đây không phải vì có tin mới – ngược lại là khác. Ta ngồi đâu được?”
Tôi nhìn bố và Len đi vào phòng sinh hoạt. Tên là phòng sinh hoạt nhưng dường như những sụ kiện quan trọng trong đời chúng tôi không hề diễn ra ở đó. Len ngồi ghé lên mép một chiếc ghế, chờ bố tôi ngồi xong rồi mới nói:
“Tôi nói cho anh nghe, Jack ạ. Về George Harvey ấy mà.”
Mặt bố tôi tươi lên. “Thế mà anh bảo không có tin mới.”
“Không có thật mà. Có ít điều tôi cần nói với anh, nhân danh sở cảnh sát và cả cá nhân tôi nữa.”
“Anh cứ nói.”
“Yêu cầu anh đừng gọi dây nói cho chúng tôi về chuyện tên George Harvey nữa.”
“Nhưng mà…”
“Tôi yêu cầu anh đừng gọi nữa. Dù chúng ta có suy diễn, phỏng đoán thêm mãi đi nữa, cũng chẳng có gì chứng minh hắn liên quan đến cái chết của Susie được. Chó sủa râm ran và căn lều hợp cẩn không phải là bằng chứng.”
“Tôi biết chính hắn đã làm điều đó,” bố tôi nói.
“Hắn lập dị, tôi cũng đồng ý thế, nhưng theo chỗ chúng tôi biết thì hắn không phải là một kẻ sát nhân.”
“Từ đâu mà các anh dám khẳng định như vây?”
Len Fenerman phân trần, nhưng bố tôi chỉ nghe trong tai lời bà Ruana Singh đã khuyên, nhớ lại cảm giác lúc đứng trước nhà Harvey, như có một nguồn năng lượng toát ra từ hắn, từ cõi lòng lạnh lẽo giá băng của hắn. Harvey là con người khó ai nhìn thấu lòng daj nhưng đồng thời là kẻ duy nhất trên đời đáng bị nghi là sát hại tôi. Càng nghe Len bác bỏ giả thiết này bố tôi càng tin chắc là mình đúng.
“Vậy là các anh nghưng không điều tra về hắn nữa,” bố tôi nói thẳng thừng.
Len lân la đứn ở cửa phòng như hôm Len và viên cảnh sát mặc đồng phục đem lại nhà cái mũ đính chuông của tôi. Lindsey có một cái y hệt. Ngay hôm ấy nói lặng lẽ cất cái mũ thứ hai này vào một cái hộp đựng búp-bê cũ rồi giấu sau tủ quần áo. Nó không muốn mẹ tôi tình cờ phải nghe lại tiếng lanh canh của những quả chuông tí hon bé bằng viên ngọc trai này nữa
Bố chúng rôi đứng sững, với trái tim mà chúng tôi biết hoàn toàn dành cho vợ con mình. Ông mang chúng tôi trong tim, thấy quá nặng vì kiệt sức và tuyệt vọng. Hai cửa của trái tim ông đóng mở dồn dập như nắp hơi trên một nhạc cụ; những cái van bằng nỉ im lặng, ngón bấm ma quái, tập miết, thế rồi bỗng vang lên thanh âm, điệu nhạc, không gian ấm lại. Lindsey rời chỗ cửa phòng bước lại.
“À, cháu Lindsey,” Len nói.
“Thanh tra Fenerman.”
“Chú vừa nói với bố cháu…”
“Rằng chú ngưng việc điều tra.”
“Nếu có lý do vững chắc nào cho phép tình nghi người đàn ông đó thì…”
“Chú nói xong chưa?” Lindsey hỏi. Đột nhiên nó đứng vào chỗ người vợ của bố tôi, đồng thời vẫn đóng vai đứa con cả, mang trách nhiệm nặng nhất nhà.
“Chú chỉ muốn cả nhà hiểu cho rằng, đến nay các chú đã kiểm tra không sót một manh mối nào.”
Bố tôi và Lindsey nghe tiếng chân mẹ tôi, còn tôi nhìn thấy bà, từ trên cầu thang bước xuống. Buckley từ bếp ào ra, va cả người vào chân bố tôi.
“Anh Len”, mẹ tôi nói rồi kéo chiếc áo khoác vải bong sát người khi trông thấy ông ta, “anh Jack đã mời anh cà phê chưa?”
Bố tôi nhìn vợ rồi quay nhìn Len Fenerman.
“Cảnh sát bỏ cuộc rồi,” Lindsey vừa nói vừa nhẹ tau níu vai Buckley, kéo nó đứng sát vào người.
“Cuộc gì?” Buckley hỏi. Nó hay lấy lưỡi cuộn tới cuộn lui một âm như viên kẹo chua, cho đến khi biết rõ và ghi nhớ mùi vị.
“Sao cơ?”
“Thanh tra Fenerman đến đây để bảo bố đừng quấy rầy họ nữa.”
“Lindsey”, Len nói, “chú có nói như thế đâu.”
“Nói gọn lại là thế,” nó đáp. Em gái tôi muốn bỏ đi, tới nơi có trại năng khiếu được kéo dài thêm ít ngày; Samuel và nó sẽ đến đó, nếu có cả Artie càng hay – vào phút chót tay nào giật giải cuộc thi giết người êm thấm nhờ sáng kiến dùng nhũ băng làm vũ khí sát nhân - ở trại em sẽ làm chủ thế giới của riêng mình.
“Thôi bố ơi, đừng buồn nữa,” nó nói. Bố tôi đang nhẫn nại ráp ghép gì đó trong tâm tưởng. Những mảnh rời đó không dính dáng gì đến tôi hay George Harvey cả. Chúng nằm trong ánh mắt mẹ tôi.
Hôm ấy bố tôi ngồi lại rất khuya trong phòng làm việc của ông, ông hay làm thế thời gian sau này. Ông bang hoàng thấy thế giới xung quanh ông sụp đổ - bao nhiêu là chuyện từ đâu bỗng dồn dập đổ đến, đầu tiên là cái tin tôi chết như tiếng sét bên tai. “Tôi có cảm tưởng đang đứng trong miệng một núi lửa đang phun”, ông viết trong nhật ký. “Cả Abigail cũng cho rằng Len có lý trong chuyện Harvey.”
Trong lúc ông ngồi viết thì ngọn nến ở cửa sổ không ngớt lung linh, khiến ông không tập trung tâm trí được dù có đèn bàn. Ông ngả lưng vào thành chiếc ghế gỗ cũ vấn ngồi từ thời còn là sinh viên, tiếng gỗ kẽo kẹt quen thuộc làm ông thấy thư giãn. Ở công ty ông đãng trí không biết người ta cần ông vào công việc gì. Ngày ngày ông phải nhìn những cột số vô nghĩa mà người ta đòi hỏi ông phải kiểm tra xử lý theo nhu cầu của công ty. Hồi này ông hay phạm lỗi, và số là sai sót tăng đến mức đáng sợ, khiến ông lo mất việc, sẽ không còn đủ khả năng chăm sóc cho hai đứa con yêu quý còn lại, lo lắn hơn cả những ngày đầu sau khi tôi mất tích.
Ông đứng dậy, dang hai cánh tay, cố tập trung làm vài ba động tác mà bác sĩ gia đình đã khuyên. Tôi nhìn bố cúi người, ngạc nhiên vì chưa hề thấy ông cử động một cách khó khăn nhọc mệt đến thế. Ngày xưa thay vì đi về quản trị kinh doanh, lẽ ra ông phải chọn trở thành vũ công mới đúng. Biết đâu lại chẳng có dịp trình diễn khiêu vũ với bà Ruana Singh ở kịch viện Broadway.
Ông tắt đèn bàn, chỉ để lại ngọn nến.
Ngồi trên chiếc ghế bành thấp màu xanh như lúc này ông thấy thoải mái hơn hết. Tôi thường ngồi ngắm những lần ông ngủ quên ở đó. Căn phòng như một hầm mộ, chiếc ghế như bào thai trong bụng mẹ. Còn tôi canh giấc cho bố. Ông đăm đăm nhìn ngọn nến, ngẫm nghĩ xem nên làm gì; nghĩ đến những lần ông đưa tay chạm vào người vợ thì bà nhích ra mép phía giường ra sao. Thế rồi khi viên cảnh sát xuất hiện, bà bỗng sinh động tươi tắn hẳn lên.
Mắt ông quen dần với vầng sáng chập chờn ma quái của ngọn nến trên kính cửa sổ. Ông nhìn đăm đăm cả hai – ngọn lửa thật và cái bóng của nó, rồi tâm trí ông bắt đầu lãng đãng nghĩ về nỗi căng thẳng và những sự kiện trong ngày.
Đúng lúc ông thôi không muốn nghĩ ngợi nữa để thả mình vào giấc ngủ thì hai bố con tôi cùng thấy một thứ: một nguồn sáng thứ hai. Ở bên ngoài cửa sổ.
Nhìn từ xa trông nó giống như ánh đèn pin. Một luồn sáng trắng từ từ chuyển động xuyên qua bãi cỏ đi về phía trường trung học cơ sở. Bố tôi dõi mắt nhìn theo luồng sáng ấy. Bấy giờ đã quá nửa đêm, trăng không tròn như mọi khi, không sáng đủ để soi tỏ đường nét nhà cửa, cây cối. Ông Stead, tối nào cũng chạy chiếc xe đạp có đèn chiếu bằng sức chân guồng, chắc chắn chẳng bao giờ phá nát bãi cỏ nhà hàng xóm kiểu này. Vả lại với ông Stead thì giờ này đã quá khuya.
Bố tôi nhổm dậy trên chiếc ghế xanh để nhìn theo, thấy ánh đèn pin kia di chuyển về phía cánh đồng ngô bỏ hoang.
“Đồ khốn!” Ông thì thầm. “Quân giết người khốn kiếp!”
Ông vội vàng lấy chiếc áo đi săn – không hề mặc lại từ chuyến đi săn xui xẻo mười năm về trước – từ trong tủ chứa đồ khoác lên người. Xuống dưới nhà, ông lao vào phòng chứa đồ ở tiền sảnh lôi ra chiếc gậy bóng chày ông đã mua cho Lindsey trước khi nó quay sang mê môn bóng đá.
Đầu tiên bố tắt ngọn đèn trước hiên mọi người vẫn thắp cho tôi hàng đêm; dù đã tám tháng trôi qua kể từ khi cảnh sát bảo rằng không hy vọng thấy tôi còn sống nhưng chưa ai nỡ tắt lần nào. Tay đặt lên nắm đắm cửa, ông hít một hơi thật sâu.
Ông vặn nắm đấm, bước ra hàng hiên tối om. Ông khép cửa, đứng ngoài sân với cây gậy bóng chày, tự nhủ: phải nghĩ ra cách nào thật êm thấm.
Ông băng qua sân trước, sang đường rồi vào sân nhà O’Dwyer, nơi ông thấy ánh đèn xuất phát. Ông đi qua chỗ bể bơi và hai chiếc ghế đu han gỉ. Tim ông đập dồn dập nhưng ông không cảm thấy gì hết, ông chỉ có một ý nghĩ trong đầu. George Harvey vừa ra tay giết thêm một bé gái nữa.
Ông đi đến sân bóng đá. Phía bên phải ông, sâu trong cánh đồng ngô, nhưng xa khu ông từng biết – nơi cảnh sát quay kín lại, phát quang, đào xới lên rồi lấp lại – ông thấy lại ánh đèn kia. Ông nắm chặt hơn nữa chiếc gậy bóng chày. Trong một khoảnh khắc ông không biết đích xác mình sắp làm gì, nhưng hiểu rất rõ mình muốn gì.
Gió giúp ông toại ý, thổi thốc qua sân bóng, dọc cánh đồng ngô, quật phần phật ống quần ông, đẩy ông tới trước, dù ông cố trì lại. Mọi thứ ngã rạp. Đến khi ông lọt vào giữa những luống ngô rồi, tập trung tâm trí vào luồng sáng, thì gió ngụy trang cho ông. Gió ào ào hú qua những thân ngô gãy gục, át tiếng chân ông giẫm đạp lên chúng.
Những hình ảnh, âm thanh hỗn độn tràn ngập đầu óc ông – tiếng đế cao su cứng giày pa-tanh của trẻ con cọ xát mặt vỉa hè, mùi thuốc tẩu của bố ông, nụ cười của Abigail khi hai người mới quen nhau, như ánh sáng xuyên thấu quả tin xao xuyến của ông – rồi ánh đèn pin vụt tắt. Chung quanh ông tối mịt, không phân biệt được gì nữa.
Ông tiến thêm vài bước rồi đứng lại.
“Ta biết mi đang ở đây,” ông nói.
Tôi làm nước dâng ngập lụt cánh đồng ngô, tôi phà hơi tiếp lửa để rọi sáng khắp chốn, tôi cho đá và cánh hoa rơi xuống như mưa, nhưng chẳng tạo ra biến chuyển gì trên dương thế, tôi không bảo cho ông biết kịp. Tôi bị đẩy lui về thiên đường của mình: việc duy nhất rôi được làm là từ đó nhìn xuống thế gian.
“Ta đến đây cũng vì chuyện đó,” bố tôi nói, giọng run run. Trái tim kia co thắt rồi giãn ra, máu ào ạt ngập tràn bờ những nhánh sông trong lồng ngực ông rồi dồn ứ lại. Hơi thở, lửa, buồn phổi co cứng, phồng ra, những kích thích tồi còn lại tích tụ trong Adrenalin. Hình ảnh mẹ tôi tươi cười rời khỏi tâm trí ông, lần này ông nhìn thấy tôi nhoẻn miệng cười.
“Mọi người đang ngủ,” bối tôi nói. “Ta ra đây để thanh toán với mi.”
Ông nghe tiếng rên nhỏ. Giá tôi quay được đèn chiếu xuống đó, như người ta vẫn rọi đèn trong phòng khánh tiết của trường nhưng quay vụng về khiến quầng sáng không phải lúc nào cũng chiếu đúng chỗ cần rọi trên sân khấu. Sẽ thấy cô bé ngồi thu lu, sợ hãi rên rỉ, dẫu quầng mắt nó tô xanh và chân đi ủng kiểu cao bồi hiệu Bakers nhưng đũng quần ướt nhẹp. Đúng là còn con nít.
Cô bé không nhận ra tiến bố tôi vì giọng ông sục sôi căm hận. “Brian hả?”, Clarrisa run run thốt lên. “Phải Brian đó không?” Niềm hy vọng được giương lên như tấm khiên để chống đỡ.
Bàn tay nắm gậy của bố tôi rời rã, ông buông rơi gậy.
“Ô hay, ai đó?”
Tai còn ù vì tiếng gió, Brian Nelson, thằng bù nhìn lêu nghêu như tre mưỡu, đậu cái xe Spyder Corvette của ông anh trong bãi xe nhà trường. Cậu ta lúc nào cũng đến muộn, luôn trễ giờ, hay ngủ gật trong lớp và có khi gục xuống bàn ở bữa ăn tối, nhưng chưa từng đến muộn hay ngủ gật nếu có thằng bạn nào đem đến tờ Playboy, hay cô gái xinh xắn nào tình cờ đi qua, chưa tối nào đến muộn khi có bạn gái hẹn hò đợi cậu ở cánh đồng ngô. Tuy thế lần này cậu còn nhẩn nha. Gió thổi ào ào bên tai, gió kiểu này thật tuyệt, sẽ làm chăn và mạn bao che cho chuyện cậu định làm.
Brian đi về phía ruộng ngô với cây đèn bấm khổng lồ lấy từ thùng trang bị phòng khi có tai ương mà bà mẹ để dười bồn rửa bát. Thế rồi cậu nghe tiếng người – sau này cậu khai rằng tưởng là tiếng Clarrisa kêu cứu.
Tim bố rôi như một hòn đá, trĩu nặng trong lồng ngực khi ông vừa chạy trong đêm đen vừa lắng nghe lần dò theo hướng có tiền đứa con gái rên rỉ. Ngày xưa mẹ của ông đan cho ông bao tay loại cho trẻ nhỏ, Susie xin đôi găng tay dành cho người lớn, cánh đồng ngô vào mùa đông lạnh lắm cơ. Clarrisa đó mà! Đứa bạn ngờ nghệch của Susie. Con bé hay son phấn, đòi bánh mì quệt mứt phải đúng ý, con bé da màu nâu rám nắng.
Ông vùng chạy tới, va phải làm nó ngã nhào. Tiếng kêu của con bé tràn ứ tai ông, xuyên qua không gian trống vắng, lùng bùng trong trí ông. “Susie con ơi!” ông hét trả lời.
Nghe réo tên tôi, Brian tỉnh cả người, cắm đầu cắm cổ chạy. Ánh đèn pin của cậu nhảy nhót trên cánh đồng ngô và, trong một nháy mắt rọi qua chỗ tên Harvey. Không ai ngoài tôi nhìn thấy hắn. Ánh đèn của Brian rọi trúng lưng hắn, khi hắn đang bò lồm cồm giữa những thân ngô cao, dừng lại nghe ngón xem tiếng kêu hướng nào.
Rồi ánh đèn rọi đúng mục tiêu. Brian kéo thốc bố tôi lên, giằng khỏi Clarrisa, đánh ông tới tấp. Cậu đập cây đèn pin của thùng trang bị phòng nạn lên đầu, lưng và mặt. Bố tôi hét lên, rên vì đau đớn.
Chợt Brian nhìn thấy cây gậy.
Tôi vận hết sức lực đẩy cái đường ranh không cánh nào di dịch trong thiên đường của tôi. Tôi muốn vươn tay vực bố tôi dậy, đem ông đi, đưa ông đến chỗ tôi ở.
Clarrisa bỏ chạy. Brian vung tay lên. Mắt bố tôi gặp mắt Brian, nhưng ông hụt hơi, không thở nổi.
“Đồ già dê!” Brian nổi giận quát, mặt mày xanh xám.
Tôi nghe tiếng rền rĩ trong đất cát bụi mù. Tôi nghe gọi tên rôi. Tôi tưởng tượng mình đang nếm vị máu rịn trên mặt bố, đang đưa tay dặm vành môi nứt toác của ông, nằm xuống cạnh ông trong nám mồ của mình.
Nhưng đang ở thiên đường, tôi không làm gì khác được, chỉ có cánh ngoảnh mặt đi. Bị sa vào thế giới hoàn hảo của mình, tôi phải bó tay. Giọt máu tôi vừa nếm có vị đắng. Chua xé lưỡi. Tôi muốn được bố sớm khuya chăm sóc, muốn hưởn tình thương sâu đậm của ông. Nhưng tôi cũng muốn ông chấp nhận rằn tôi đã chết thật, và quay mặt để cất bước đi tiếp. Tôi được ban một ân huệ nhỏ nhoi. Được phép trở lại căn phòng, nơi chiếc ghế màu xanh vẫn ấm hơi bố, thổi tắt đi ngọn nến đứng chơ vơ còn cháy lập lòe.
End chap 11
-------------------------
CHƯƠNG 12
Tôi đứng cạnh giường bố, lặng nhìn ông ngủ thiêm thiếp. Trong đêm hôm đó những chi tiết rối rắm của sự việc được tháo gỡ dần, cuối cùng phía cảnh sát hiểu ra: ông Salmon buồn khổ đến quẫn trí nên lần ra cánh đồng ngô tìm cách trả thù. Thế là khớp với những gì họ biết về ông, những cú điện thoại dai dẳng, nỗi ám ảnh của ông về người hàng xóm, lại nữa đúng sáng hôm đó thanh tra Fenerman có đến thông báo cho bố mẹ tôi hay rằng dù họ quyết tâm cao, đã dốc nhiều công sức, cuộc điều tra về cái chết của tôi nay lâm vào ngõ cụt. Không còn manh mối nào nữa để họ lần theo. Xác cũng chẳng tìm được.
Bác sĩ phải mổ đầu gối để thay bao khớp xương, đường khâu mũi chỉ to tướng như ta thấy ở loại ví tiền bằng da thô, khiến khớp xương bị hạn chế hoạt động. Tôi nhìn họ giải phẫu, trông cứ như ta vá may, tôi thấy thà bố tôi được giao cho những bàn tay khéo léo này còn hơn là được đưa đến chỗ tôi. Giờ nữ công gia chánh ai cũng thấy tôi vụng về lóng ngóng. Cầm dây khóa kéo tôi cứ nhầm không biết là đằng đầu hay đằng cuối.
Nhưng bác sĩ phẫu thuật rất kiên nhẫn. Một cô y tá đã kể ông nghe đầu đuôi sự thể trong lúc ông rửa tay trước khi mổ. Ông nhớ có đọc tin trên báo về vụ thảm sát tôi. Ông trạc tuổi bố tôi và cũng có con nhỏ. Ông thấy ớn lạnh khi kéo găng thật sát hai bàn tay. Hoàn cảnh ông và người đàn ông này có nhiều nét tương tự. Nhưng lại cũng khác nhau một trời một vực.
Trong căn phòng tối om ở nhà thương chỉ có tiếng ro ro phát ra từ ngọn đèn huỳnh quang ở đầu giường. Đó là nguồn ánh sáng duy nhất trong phòng trước rạng đông, cho tới khi em gái tôi bước vào.
Mẹ, em gái và em trai tôi sực tỉnh giấc vì tiếng xe cảnh sát hụ còi, cả ba từ phòng ngủ chạy xuống cầu thang, vào nhà bếp còn tối bưng.
“Con lên đánh thức bố dậy,”mẹ tôi bảo Lyndsey. “Mẹ không tin rằng ồn thế này mà bố con ngủ được”
Em gái tôi lại chạy lên lầu. Lâu nay ai cũng biết phải tìm ông ở đâu: chỉ trong có sáu tháng chiếc ghế bành màu xanh đã chính thức thành cái giường riêng của ông.
“Bố không có ở đây!” me gái tôi kêu toáng lên ngay khi phát hiện ra. “Bố đi đâu mất rồi, mẹ ạ! Mẹ! Bố đi đâu rồi ấy!” Phút chốc, một giây phút hiếm hoi, Lyndsey trở lại thành một cô bé biết hoảng sợ.
“Khốn khổ khốn nạn thật!” mẹ tôi nói.
“Mẹ ơi mẹ?”, Buckley sợ sệt hỏi.
Lindsey lao vào bếp. Mẹ tôi đang đứng ở bếp. Lưng mẹ là một mảng chằng chịt những dây thần kinh, lúc bà quyết định đun nước pha trà.
“Mẹ à, mình phải làm gì đi chứ?”, Lyndsey hỏi.
“Con không hiểu gì sao…?”, mẹ tôi nói, bà đứng yên một lúc, tay vẫn giương cao hộp trà Earl Grey lúc đó như lơ lửng trong khoảng không.
“Hiểu gì cơ?”
Mẹ đặt hộp trà xuống, vặn nút bật nóng bếp rồi quay lại. Lúc ấy mẹ mới thấy tận mắt: Buckley đã chạy ra bám lấy em gái tôi, cho ngón cái vào miệng mút, vẻ mặt hoang mang.
“Bố con theo rình mò tay ấy, bây giờ tự chuốc vạ vào thân.”
“Mình chạy ra đó đi mẹ,” Lyndsey nói. “Để phụ bố.”
“Không”
“Mẹ, mình phải giúp bố chứ.”
“Buckley, không được mút tay nữa nghe chưa!”
Em trai tôi sợ hãi khóc òa, em gái tôi đưa tay kéo em sát vào người rồi nhìn mẹ.
“Con ra ngoài tìm bố đây,” Lyndsey nói.
“Con không đi đâu cả,” mẹ tôi nói. “Bố con rồi sẽ về lại. Mẹ con ta không nên can dự vào.”
“Mẹ”, Lyndsey nói, “nhỡ bố bị thương thì sao?”
Buckley nín khóc một lúc để hết nhìn mẹ lại nhìn chị. Nó biết bị thương nghĩa là gì và biết ai đang vắng nhà.
Mẹ tôi nhìn Lyndsey đủ để em hiểu rõ ý bà. “Không bàn lôi thôi. Con lên phòng hay ở đây với mẹ chờ bố về. Tùy ý.”
Lyndsey điếng người. Em trừng trừng nhìn mẹ, thâm tâm biết rõ mình muốn làm gì: chạy ra cánh đồng ngô, nơi có bố tôi, có tôi, và em chợt cảm thấy vào giờ phút này trái tim của gia đình đang ở ngoài đó. Nhưng em cũng cảm thấy hơi ấm người Buckley bám riết lấy chị.
“Buckley”, em bảo bé, “mình lên lầu lại đi. Em được phép vào giường chị ngủ.”
Thằng bé dần dần nghiệm ra: cứ mỗi lần nó được đối xử đặc biết là y như rằng sau đó mọi người sẽ cho nói biết vừa có chuyện gì kinh khủng xảy ra.
Sau khi nghe điện thoại của cảnh sát, mẹ đi ngay ra tủ áo gần cửa chính. “Bố con bị đánh bằng chiếc gậy bóng chày của nhà mình!”, mẹ nói rồi lôi áo khoác, cầm theo chùm chìa khóa và thỏi son môi. Em gái tôi chưa bao giờ cảm thấy mình đơn độc mà lại mang nhiều trách nhiệm đến thế. Không thể để Buckley ở nhà một mình, vả chăng Lyndsey có lái xe được đâu. Ngoài ra phải nói, như thế mới hợp tình hợp lý: chẳng phải vợ thì luôn phải có mặt bên chồng hay sao?
Đến lúc gọi được điện thoại cho mẹ cu Nate – vụ lộn xộn trong ruộng ngô đã đánh thức hết cả khu – thì em gái tôi kịp nghĩ ra nên làm những gì. Em gọi tiếp cho Samuel. Trong vòng một tiếng nữa mẹ cu Nate sẽ đến đón Buckley, còn Hal Heckler sẽ chạy mô-tô tới nhà chúng tôi. Lẽ ra sẽ phải hứng thú lắm – được bám lưng ông anh tuyệt vời của Samuel, lần đầu tiên được ngồi mô tô – nhưng giờ phút này tâm trí em gái tôi chỉ luẩn quẩn ý nghĩ về bố mình thôi.
Khi Lyndsey bước vào căn phòng trong nhà thương thì mẹ tôi không có ở đó; chỉ có bố và tôi. Em bước lại gần đứng bên kia giường thút thít khóc.
“Bố ơi, bố không sao chứ, bố?”
Cửa phòng hé mở. Đó là Hal Heckler, trông ra dáng đàn ông, vóc cao lớn, đẹp trai.
“Lyndsey”, anh nói, “anh đợi em ở phòng thăm viếng, nếu em cần anh sẽ chở về.”
Anh nhìn Lyndsey quay lại, mắt nhòa lệ. “Cảm ơn anh, Hal. Nếu anh gặp mẹ em…”
“Anh sẽ bảo bác là em đang ở đây.”
Lyndsey nắm tay bố tôi, dò tìm trên mặt ông xem có dấu hiệu là ông cảm biết gì không. Tôi mục kích từng giờ từng phút em gái tôi trưởng thành ra sao. Tôi lắng nghe nó lẩm nhẩm những câu bố tôi từng hát cho hai chị em nghe trước khi Buckley ra đời:
Này là hòn đá, này là mẩu xương;
Này là tuyết, còn đây sương giá;
Này là hạt mầm, hạt đậu, còn đây nòng nọc;
Lối mòn và cành nhánh, nụ hôn đủ kiểu,
Chúng tôi biết bố đang mong ngóng ai!
Đó là hai bé gái nhỏ như nhái bén của bố.
Ai ai cũng rõ, nhưng còn bạn, có biết chúng ở nơi nao?
Tôi ước gì bố mỉm miệng cười, nhưng ông chìm lỉm ở đâu sâu lắm, bơi ngược dòng chống chỏi với hỗn hợp thuốc men, với ác mộng và giấc ngủ chập chờn. Việc gây mê cho ý thức của ông như mảnh vải bị trải ra dằn bốn góc bằng những hòn chì nặng, trong một quãng thời gian dài. Như một lớp vỏ bằng sáp cứng lại, nó đã bọc kín bố một vài tiếng đồng hồ, bố không phải nhớ mình có đứa con gái mới chết, không biết đầu gối mình bị thương, cũng không hay có đứa con gái yêu đang thì thầm vào tai những câu hát ngày xưa.
“Bao giờ người quá cố dứt khoát được, không bận lòng vì cõi trần nữa,” Franny bảo tôi, “lúc ấy người ở dương thế mới tập trung tâm trí vào chuyện khác được.”
“Thế còn những người đã chết rồi, họ sẽ ra sao?”, tôi hỏi. “Lúc đó chúng ta đi về đâu?”
Cô không trả lời tôi.
Len Fenerman vội vã đến ngay nhà thương sau khi nhận được điện thoại. Cô trực máy báo có bà Abigail Salmon cần nói chuyện với ông ta.
Bố tôi đang nằm ở phòng mổ, còn mẹ tôi đi tới đi lui trước phòng y tá trực. Bà lái xe tới bệnh viện trong chiếc áo mưa khoác ngoài chiếc áo ngủ mỏng mùa hè. Chân bà mang loại giày đế phẳng vẫn dùng đi lại trong vườn. Bà chẳng buồn kẹp tóc lại, trong túi áo với xách tay không có sẵn loại dây chun buộc tóc nào. Bà dừng xe trong bãi đậu không đèn, chìm trong sương mù của nhà thương để soi lại mặt mũi, rồi tô môi bằng thỏi son màu đỏ vẫn dùng bằng bàn tay thuần thục.
Khi nhìn thấy Len tiến lại từ cuối hành lang dài sơn một màu trắng toát, bà thấy trong người thư giãn trở lại.
“Chào chị Abigail,” ông ta chào khi đến khá gần bà.
“Anh Len ơi,” bà nói. Mặt bà lộ vẻ bối rối vì không biết nói gì tiếp. Tên ông ta là tiếng thở trút ra mẹ đang cần có. Những gì tiếp theo không cần thốt thành lời.
Các cô y tá trong phòng trực quay đi khi Len và mẹ tôi nắm tay nhau. Theo thói quen nghề nghiệp, họ tự động giơ tay kéo tấm màn che khuất những cảnh riêng tư, mặc dù vậy họ vẫn nhận thấy người đàn ông kia khá thân thiết với người đàn bà này.
“Ta vào khu dành cho khách thăm viếng nói chuyện đi,” Len nói rồi cùng mẹ tôi đi dọc hành lang.
Vừa đi bà vừa kể cho ông ta chuyện bố tôi phải mổ. Còn ông cho bà biết thêm chi tiết về những gì xảy ra ở cánh đồng ngô.
“Hình như anh ấy khai tưởng nhầm cô bé kia là George Harvey.”
“Làm sao anh ấy lại ngỡ Clarissa là George Harvey được nhỉ?” Mẹ tôi đứng sựng lại, ngay trước cửa phòng thăm viếng, vẻ mặt đầy băn khoăn.
“Trời khuya tối mò mà, chị Abigail. Tôi cho rằng anh ấy chỉ thấy ánh đèn pin của cô bé thôi. Việc tôi ghé thăm sáng nay xem ra chẳng có tác động gì. Ông ta vẫn tin chắc rằng tay Harvey dính líu đến vụ cháu gái.”
“Clarissa có sao không?”
“Người ta băng bó mấy vết trầy xước rồi cho về nhà. Con bé bị bấn loạn. Khóc gào kể lể. Thật là một trùng hợp ngẫu nhiên khá rùng rợn, nó vốn là bạn thân của Susie mà.”
Hal ngồi thưỡn người trong một góc tối của khu dành tiếp khách thăm viếng, chân gác lên chiếc mũ bảo hiểm anh cầm theo cho Lyndsey. Nghe tiếng người trò chuyện to dần, anh cựa người gượng ngồi dậy.
Đó là mẹ tôi và một viên cảnh sát. Anh lại ngồi thụp người xuống, để xõa vài lọn tóc dài ngang vai che tối bớt mặt. Anh nghĩ chắc mẹ tôi không nhớ mặt anh.
Nhưng bà nhận ra chiếc áo khoác có lần thấy Samuel mặc, trong một thoáng bà nghĩ: Samuel đang ở đây, song sực nhớ ra: Không phải, anh của nó.
“Ta ngồi đây nhé,” Len nói, tay chỉ vào hàng ghế nối nhau phía bức tường xa hơn.
“Tôi thích đi đi lại lại hơn,” mẹ tôi nói. “Bác sĩ bảo họ cần ít nhất một tiếng rồi mới cho chúng tôi biết kết quả được.”
“Thế ta đi hướng nào?”
“Anh có thuốc lá đó không?”
“Chị biết thừa tôi có mà.” Len cười cười trả lời, như thể biết lỗi. Ông phải tìm xem mắt bà nhìn đi đâu. Chúng không tập trung vào ông. Chúng như đang bận nhắm vào đâu đó, ông ước rằng có thể với tay níu kéo, hướng chúng về với nơi đây, với giây phút này. Về với ông ta.
“Ta thử tìm xem gần đây có cửa ra không.”
Họ thấy có cánh cửa mở ra một gian nhỏ bằng bê tông, không xa phòng bố tôi mấy. Đó là chỗ để máy sưởi, nên tuy chật và trời khá lạnh, nhưng tiếng ồn và hơi nóng của lò sưởi chạy bằng nước ngay bên cạnh như phủ lên họ một lớp vỏ bọc, gây cảm tưởng đang ở một nơi xa xôi. Họ hút thuốc và nhìn nhau như thể bỗng nhiên, không hề chuẩn bị tinh thần trước, bước sang một trang mới của cuộc đời, nơi những gì khẩn cấp cần làm ngay được báo động bằng đèn chớp sáng.
“Vợ anh làm sao mà chết vậy?” mẹ tôi hỏi.
“Tự vẫn.”
Tóc bà rũ xuống che gần kín khuôn mặt. Nhìn bà, tôi nhớ đến Clarissa những lúc nó mất tự nhiên nhất. Nhớ lại thái độ của nó giữa đám con trai lần chúng tôi vào khu thương xá. Nó cứ cười rinh ríc, mắt theo dõi xem bọn con trai nhìn đi đâu. Nhưng tôi cũng rất đỗi ngạc nhiên về đôi môi đỏ son của mẹ tôi, về khói thuốc quyện theo điếu thuốc bà đưa lên ngậm rồi lấy xuống. Trước kia tôi chỉ được thấy bà mẹ này một lần – trên ảnh chụp. Bà mẹ này hình như chưa hề hạ sinh con nào như ba đứa chúng tôi cả.
“Sao bà ấy lại tự vẫn?”
“Đây là câu hỏi dằn vặt tôi nhiều nhất, vào những lúc tôi không bận bịu đầu óc vì những chuyện như vụ con gái chị bị thảm sát.”
Một nụ cười lạ lùng nở trên gương mặt mẹ tôi.
“Anh nhắc lại đi,” bà nói.
“Gì cơ?”, Len nhìn bà đang nhoẻn miệng cười, chợt thèm lấy đầu ngón tay vẽ theo vành môi bà.
“Vụ con gái tôi bị thảm sát ấy mà,” mẹ tôi nói.
“Abigail, chị có làm sao không vậy?”
“Chưa có ai nói thế. Hàng xóm không ai bàn tán chuyện này. Người ta gọi là “tấn thảm kịch” hay đại loại thế. Tôi chỉ mong có ai đó nói lên, gọi thẳng tên ra như vậy. Nói thật to cho tất cả đều biết. Bây giờ tôi sẵn sàng để nghe rồi – trước đây thì chưa”
Mẹ tôi vứt điếu thuốc xuống nên xi măng, mặc cho nó cháy. Bà úp hai tay lên hai bên má Len.
“Anh nói lại xem nào,” bà bảo.
“Vụ con gái chị bị thảm sát.”
“Cảm ơn anh.”
Rồi tôi thấy đôi môi đỏ đó chuyển dịch từ từ qua một ranh giới vô hình ngăn cách bà với thế giới còn lại. Bà kéo Len sát lại, hôn nhẹ lên môi ông ta. Mới đầu hình như ông ngần ngại. Cơ thể ông căng lên, bảo ông ĐỪNG, nhưng âm thanh ĐỪNG này lại trở nên mơ hồ, lãng đãng như mây trời, rồi thành không khí bị quạt gió kêu rền vang của cái lò sưởi nước bên cạnh họ cuốn hút mất. Bà đưa tay lên tháo nút áo mưa. Ông ta đặt tay lên làn vải mỏng nhẹ như cần sa của chiếc áo ngủ mùa hè.
Khi mẹ tôi muốn gì thì khó ai cưỡng lại nỗi. Ngay từ hồi bé tôi từng mục kích cảnh những người đàn ông thay đổi hẳn khi có mặt bà. Khi chúng tôi vào siêu thị, những người phụ trách dọn hàng lên kệ quay ra hỏi han mẹ, tình nguyện tìm hộ những món bà ghi trên danh sách, rồi còn khuân giúp ra tận xe. Như bà Ruana Singh, mẹ tôi được tiếng là một trong những bà mẹ đẹp nhất trong vùng; người đàn ông nào thấy bà cũng bất giác nở nụ cười. Được bà hỏi tới tim họ rộn rã hân hoan.
Song, cho đến nay chỉ có bố tôi làm cho bà cười vang khắp nhà được, và vì lý do nào đó không rõ, ông để bà hoàn toàn tự làm mọi chuyện theo ý thích.
Ngày chúng tôi còn nhỏ, thứ Năm nào bố tôi cũng thu xếp để về sớm, bằng cách thỉnh thoảng làm thêm giờ và làm suốt không nghỉ giờ ăn trưa. Trong khi cuối tuần là của cả nhà thì bố mẹ gọi ngày thứ Năm là ‘thời giờ riêng của bố mẹ’. Lindsey và tôi khi nhắc lại thì gọi đó là ‘những giờ bé phải ngoan’. Có nghĩa là chúng tôi không được làm ồn khi chơi đùa trong phòng phía bên kia, phòng làm việc của bố, hồi đó chưa có nhiều bàn ghế.
Vào khoảng hai giờ trưa mẹ bắt đầu chuẩn bị cho chị em tôi.
“Đến giờ đi tắm rồi đấy,” bà cất giọng ngân nga, như thể bảo chúng tôi được phép ra vườn chơi. Mới đầu chúng tôi cũng thấy như thế thật. Ba mẹ con ùa nhau chạy lên phòng riêng, khoác áo tắm vào. Rồi chúng tôi – ba nàng – gặp nhau ở hành lang, mẹ tôi nắm tay hai đứa dắt vào phòng tắm sơn màu hồng.
Hồi đó bà hay kể cho chúng tôi những chuyện thần thoại học ở trường. Bà thích kể về Persephon và Zeus (1), mua cho chúng tôi những quyển sách ảnh về những vị thần Nauy thời hoang sơ, xem xong tối đến chúng tôi nằm mê cứ bị ác mộng. Bà đã xong bằng thạc sĩ Anh ngữ - trước đó đã phải đấu tranh kịch liệt với bà ngoại Lynn để được học đến cấp bậc đó – và vẫn ấp ủ giấc mơ sau này sẽ dạy học khi chúng tôi đủ khôn lớn tự lo lấy được.
Giờ đây, những cảnh bà tắm cho hai đứa tôi và hình ảnh các vị thần tiên cả nam lẫn nữ đó nhòe nhoẹt, lẫn vào nhau trong đầu óc tôi, nhưng điều tôi ghi nhớ rõ nhất là, khi nhìn mẹ, tôi thấy luôn cả những điều đã xảy đến với bà: hoài bão bà ấp ủ từng nâng bổng bà lên, rồi việc phải dẹp bỏ hoài vọng làm bà chới với, như bị sóng biển vùi dập. Là con đầu lòng, tôi nghĩ mình là kẻ đã cướp đi của mẹ mọi ước mơ thời trẻ về những thành tựu bà mong mỏi có ngày đạt được.
Mẹ tôi nhấc Lyndsey ra khỏi bồn tắm trước, vừa lau khô người vừa nghe nó liến thoáng kể chuyện về chị vịt kia chú mèo nọ. Xong bà nhấc tôi ra; mặc dù tôi cố gắng không nói nhiều nhưng nước ấm làm hai chị em như say say, chúng tôi kể huyên thuyên với mẹ đủ mọi chuyện mà chúng tôi chú ý hay thắc mắc. Về lũ con trai hay trêu chọc chúng tôi, hoặc về gia đình ở cuối dãy nhà có một con chó con, sao chúng tôi lại không được nuôi. Bà lắng nghe, vẻ chăm chú như thể trong óc đang ghi mọi điểm cần thực hiện lên một bản tốc ký sau này sẽ lấy ra tham khảo.
“Được rồi, chuyện nào gấp ta làm trước,” bà tóm tắt. “Nghĩa là bây giờ hai đứa ngủ trưa thẳng một giấc đi đã!”
Mẹ và tôi cùng đắp chăn cho Lyndsey trước. Tôi đứng bên giường nhìn bà hôn trán và vén mớ tóc xòa trên mặt em. Bây giờ nghĩ lại thấy đó là phút khai màn cuộc ganh đua của tôi và em. Đứa nào được mẹ hôn thắm thiết hơn, hay níu mẹ ngồi cạnh lâu hơn sau khi tắm.
May thay tôi luôn thắng. Ngày nay nhìn lại tôi hiểu ra rằng mẹ tôi cảm thấy cô độc từ ngày ông bà dọn vào ngôi nhà này. Là con lớn nên tôi trở thành bạn tâm sự của mẹ.
Tôi còn bé quá, chưa hiểu nổi những điều bà thật sự muốn nói với tôi, nhưng tôi thích được dỗ vào giấc ngủ với những câu êm ái như điệu hát ru con của bà. Một trong những ân huệ tôi được hưởng trên thiên đường là, lúc nào muốn, tôi đều có thể trở lại sống những khoảnh khắc này bên mẹ mình, điều trước kia khi còn sống tôi không làm được. Tôi vươn tay ngang qua Cõi-Lưng-Chừng và thế là nắm được bàn tay của người mẹ trẻ cô đơn ấy.
Và thế là tôi nhớ lại điều mẹ kể cho đứa bé bốn tuổi là tôi về nữa thần Helen thành Troy (2):”Bà ta ấy à, con người sôi nổi năng động, bởi thế làm náo loạn cả thế giới.” Vể Margaret Sanger (3): “Về bà này thiên hạ cứ quen kiểu trông mặt mà bắt hình dong, Susie ạ. Vì bà ấy trông như con chuột nên không ai ngờ rằng bà ấy sẽ trụ được lâu dài đến thế.” Về Gloria Steinem (4): “ Nói ra thì mang tiếng xấu miệng, nhưng giá bà ta chịu để ý cắt giũa móng tay…” Về bà hàng xóm của chúng tôi: “ Đúng là một mụ ngố ưa diện quần áo ống túm, lại chịu cho lão chồng ngợm đầy đọa, gốc gác rõ là dân tỉnh lẻ, chuyên bới móc chê bai không chừa một ai.”
“Con có biết Persephone là ai không?”, bà hỏi tôi một ngày thứ Năm nọ, miệng hỏi mà óc bà để tận đâu đâu. Nhưng tôi không đáp. Lúc đó tôi đã biết không nên nói nhiều khi bà đưa tôi về phòng. Thời gian bà dành cho cả hai chị em tôi là ở phòng tắm, trong lúc bà kì cọ chúng tôi. Lúc ấy Lyndsey và tôi được tha hồ nói về mọi chuyện trên đời. Còn trong phòng tôi thì đó là thời gian dành cho riêng một mình mẹ.
Bà cầm cái khăn tắm mắc vào đầu cọc giường đẽo hình con suốt trên cái giường loại có quây màng của tôi. “Con cứ thử tưởng tượng bà Tarking hàng xóm của mình là Persephone đi nhé,” bà nói. Rồi bà kéo ngăn tủ, đưa cho tôi chiếc quần lót. Bà luôn đưa tôi từng thứ một, chứ không thúc hối tôi phải nhanh lên. Từ hồi còn bé bỏng bà đã hiểu tính tôi. Nếu tôi biết trước là sau đó sẽ còn phải buộc dây giầy, thì tôi cuống quít không xỏ chân vào tất được.
“Bà ấy khoác chiếc áo màu trắng, dài đến chân, khoác mà như vắt tấm khăn choàng quanh vai, nhưng vải thì se bằng loại sợi óng ánh tuyệt đẹp và nhẹ, như lụa vậy. Rồi bà còn đi hài bằng vàng nữa, quanh bà cắm đuốc, ánh lửa bập bùng chiếu lên người bà…”
Bà lại ngăn kéo lấy áo lót cho tôi, đầu óc vẫn để đâu đâu, bà choàng áo qua đầu tôi thay vì để tôi tự làm. Một khi mẹ tôi đã rơi vào tâm trạng đó rồi thì tôi cũng nắm ngày cơ hội – để trở lại thành đứa bé con ngày nào. Tôi chưa hề phản đối, đòi được xem là đã lớn hay thậm chí trưởng thành. Những buổi trưa đó được dành cho việc chờ nghe bà mẹ bí ẩn của tôi kể chuyện.
Bà lật tấm khắn phủ giường bằng nhung kẻ mang hiệu Sears ra, thế là tôi lăn ngay vào sát tường. Lần nào bà cũng xem giờ rồi nói: “Một lúc thôi nhé,” xong tuột giày, chui vào chăn với tôi.
Đó là lúc cả hai mẹ con được buông cho mình trôi đi. Bà đắm chìm trong chuyện mình kể. Tôi lạc đâu đó trong dòng chảy những lời bà nói.
Bà kể về nữ thần Demeter, mẹ của Persephone, hay về Cupid và Psyche (5), còn tôi lắng nghe cho đến lúc thiếp đi. Thỉnh thoảng tiếng cười của bố mẹ ở phòng bên hay những âm thanh cuộc mây mưa của họ vào buổi xế trưa làm tôi thức giấc. Tôi nằm mơ mơ màng màng, lắng nghe. Tôi thích tường tượng đang nằm trong khoang tàu ấm áp như trong một truyện bố từng đọc cho chị em tôi nghe, rằng cả nhà đang lênh đênh giữa biển khơi, và sóng cuốn từng đợt vỗ vào mạn tàu. Cuối cùng tiếng cười, tiếng rên khe khẽ bị kìm nén lại đưa tôi trở về giấc ngủ.
Nhưng rồi dự định thoát ly của mẹ tôi, giải pháp bà phác họa để đi ra sống với thế giới bên ngoài đã tan vỡ năm tôi lên mười còn Lyndsey lên chín. Thấy tắc kinh, bà lái xe đến cho bác sĩ khám nghiệm và xác nhận điều định mệnh đã an bài. Lúc tươi cười và hoan hỉ báo tin cho chúng tôi, thực ra trong lòng bà đã bật ra những vết nứt hằn sâu. Nhưng vì tôi không muốn biết hơn, bởi tôi còn quá bé, tôi không buồn thắc mắc gì thêm. Tôi với tay bắt lấy nụ cười của mẹ như chụp món quà được phát, và bắt đầu trò chơi tưởng tượng xem nếu mình là chị của một bé trai hay bé gái thì sẽ thế nào nhỉ.
Nếu ngày đó chú tâm hơn thì hẳn tôi cũng nhận ra được một số dấu hiệu đấy. Bây giờ nhìn lại tôi mới thấy sự biến chuyển, thấy lại lô sách trên bàn ngủ của bố mẹ tôi, quyển danh mục trường đại học trong vùng, bộ từ điển bách khoa về thần thoại, những tiểu thuyết của Jame, Eliot, Dickens (1), dần dần nhường chỗ cho bộ sách của bác sĩ Spock. Sau đó đến loại sách hướng dẫn làm vườn, nấu ăn, cứ thế cho đến hôm sinh nhật mẹ, hai tháng trước khi tôi chết, chính tôi cũng thấy nên tặng bà quyển hướng dẫn cách giữ cho nhà và vườn tược đẹp hơn là hợp nhất. Khi biết mình mang thai lần thứ ba, bà chôn giấu bản chất người mẹ bí ẩn kia đi. Bị cầm cố nhiều năm sau bức tường này, phần con người với những nhu cầu dồn nến của bà không mòn mỏi đi mà lại lớn mãi lên, nay gặp Len, nỗi ham muốn được bung ra, đập tan, phá nát và triệt tiêu mọi thứ đã khống chế bà. Cơ thể bà đóng vai chủ động, như con tàu, và trong luồn nước sau đuôi tàu sẽ chỉ còn lại những mảnh vụn vỡ của cuộc đời bà.
Thật không dễ cho tôi chút nào khi làm nhân chứng, nhưng tôi phải đứng đó mà nhìn.
Hai người ôm lấy nhau, lúc đầu thật lóng ngóng, cuống quít, nồng nàn.
“Abigail”, Len nói – ông ta luồn hai tay vào bên trong áo mưa đặt lên hai bên hông bà, chiếc áo ngủ mỏng tang chỉ còn là tấm màn the giữa hai người. “Em hãy nghĩ kỹ về điều mình đang làm đi.”
“Em chán nghĩ lắm rồi,” bà đáp. Tóc bà bay lên do chiếc quạt gió bên cạnh, làm thành vầng hào quang. Len nhìn bà, mắt chớp vì lóa. Đẹp tuyệt vời, mà lại đáng sợ, và cuồng dại.
“Còn chồng em,” ông ta nói.
“Hôn em đi,” bà nói “em xin anh”
Tôi đang chứng kiến mẹ tôi khẩn khoản xin hãy khoan dung với bà. Thân thể bà vượt xuyên thời gian để thoát ra xa tôi. Tôi không có cách gì níu kéo bà lại được.
Len ghì bà hôn lên trán rồi nhắm mắt lại. Bà nắm lấy tay ông đặt lên ngực mình. Bà thì thào vào tai ông ta. Tôi biết chuyện gì đang diễn ra. Cơn điên giận, nỗi mất mát, niềm tuyệt vọng của bà. Cả cuộc đời phí hoài giam hãm bà nay vỡ tung, rơi trên vòm mái này, cản trở không cho bà được sống. Bà cần Len để gạt đứa con đã chết ra khỏi tâm trí.
Hai người hôn nhau, ông ta du bà tựa lưng vào bức tường vôi, còn bà ôm chặt, bám vào ông như thể sau nụ hôn là cả một trang đời mới sẽ mở ra.
Trên đường từ trường về nhà, thỉnh thoảng tôi đứng lại bên ngoài bờ rào quan sát mẹ tôi ngồi trên xe cắt cỏ lái vòng số tám giữa những cây thông, tôi vẫn nhớ tới cảnh sáng sáng bà thường vừa pha trà vừa huýt sáo, nhớ cảnh vào ngày thứ năm trong tuần bố tôi hấp tấp chạy về, mang cho bà một bó cúc vạn thọ và gương mặt bà ánh vàng hân hoan. Hai người yêu nhau sâu đậm, bằng cả con người mình – không có mặt chúng tôi thì bà mới đòi hỏi loại tình yêu đó, nhưng có chúng tôi thì bà dần trôi dạt ra xa. Với thời gian, bố ngày càng gần gũi với chúng tôi hơn, chỉ có mẹ tôi ngày càng xa ra.
Lyndsey ngồi ngủ gật bên giường bệnh, tay vẫn nắm tay bố tôi. Mẹ tôi, tóc chưa kịp chải lại, đi ngang qua chỗ Hal Heckler đang ngồi ở khu tiếp khách, sau đó một lúc đến phiên Len đi qua. Hal thấy thế cũng dư hiểu. Anh cầm mũ lên, đi ra đầu kia của gian tiền sảnh.
Vào phòng vệ sinh một lúc xong mẹ tôi ra, định đi về phía phòng bố tôi thì Hal trờ tới.
“Con gái của bác đang ở trong ấy,” anh cao giọng gọi. Bà quay lại.
“Cháu là Hal Heckler,” anh nói, “anh của Samuel. Cháu có đến hôm lễ tưởng niệm.”
“Ừ nhỉ, bác xin lỗi cháu đã không nhận ra cháu.”
“Bác đâu cần biết cháu là ai,” anh nói.
Một khoảng khắc trôi qua, không ai nói gì.
“Số là, Lyndsey gọi điện nhờ cháu chở em tới đây, đã một tiếng đồng hồ rồi.”
“Ra thế.”
“Con Buckley hiện đang ở nhà bà hàng xóm,” anh nói.
“Thế hả.” Bà nhìn anh trân trân. Nhìn vào mắt bà, anh thấy rằng bà đang từ hố sâu ngoi lên mặt đất. Bà bám víu vào khuôn mặt anh để leo trở lên.
“Bác có làm sao không vậy?”
“Bác hơi rối trí – cũng dễ hiểu thôi, phải không nào?”
“Cháu hiểu”, anh đáp, nói chậm hẳn lại. “Cháu chỉ muốn báo cho bác biết rằng con gái bác đang ở trong kia với bác trai. Cháu ngồi ở khu tiếp khách, nếu bác cần gì cứ bảo.”
“Cảm ơn cháu,” bà đáp. Bà nhìn anh quay lưng bước đi, còn đứng lại một lúc nghe tiếng đế ủng mô-tô đã mòn của anh nên trên sàn hành lang lót nhựa li-nô.
Bà như hoàn hồn, giật mình giũ sạch mọi thứ và thoắt trở lại chỗ mình đứng một tiếng trước đó, tâm trí không mảy may ngờ rằng chính Hal đã chủ ý lôi bà trở về hiện tại khi lên tiếng chào hỏi.
Trong phòng lúc này tối hẳn; ánh đèn huỳnh quang phía sau bố lập lòe, chỉ còn soi mờ hình dạng bàn ghế bày biện. Em gái tôi ngồi trên chiếc ghế kéo sát giường, gục đầu trên tay ghế, tay vắt lên giường chạm vào người bố tôi. Bố tôi nằm ngửa, vẫn còn hôn mê. Mẹ tôi không thể biết được rằng tôi đang có ở đó, rằng trong phòng có bốn người, nhưng tất cả đã thay đổi, không có gì giống những ngày mẹ đưa Lyndsey và tôi lên giường, rồi sang với bố tôi để vợ chồng có những giờ phút riêng gần gũi. Bây giờ bà nhìn thấy những mảnh vỡ vụn của đời mình. Bà nhận ra em gái và bố tôi chan hòa gắn bó làm một. Điều đó làm bà thấy ấm lòng.
Thời còn nhỏ cho đến lúc lớn tôi luôn chơi trò ú tim tìm tình yêu với mẹ, làm đủ cách để được mẹ chú ý và chấp nhận mình, với bố thì tôi không cần phải cố công như thế.
Nay tôi không cần phải chơi trò trốn tìm này nữa. Khi mẹ đứng trong căn phòng đang tối dần này quan sát em và bố tôi thì tôi chợt hiểu thiên đường nghĩa là gì: Tôi có quyền lựa chọn, và tôi chọn giữ hết mọi người trong thân trong trái tim mình, không loại trừ người nào cả.
Về khuya, khoảng không gian phía trên các nhà thương và viện dưỡng lão rất náo nhiệt, vì đầy những linh hồn dập dìu bay lượn. Thỉnh thoảng, khi mất ngủ, Holly và tôi thường đứng nhìn suốt đêm. Dần dà chúng tôi nhận ra rằng việc người này hay người nọ qua đời hình như được định đoạt bởi chỉ đạo từ nơi nào đâu xa lắm. Không phải từ thiên đường của chúng tôi. Thế là chúng tôi bắt đầu nghĩ rằng có một nơi còn toàn thiện toàn mỹ hơn chỗ mình đang ở nữa.
Thời gian đầu Franny hay đến cùng ngồi xem với chúng tôi.
“Đó là một trong những niềm vui cô giữ riêng cho mình,” bà thú nhận. “Nhiều năm qua rồi mà cô vẫn cứ thích nhìn các linh hồn bềnh bồng trôi nổi, xoay vòng, ồn ào gây náo động cả thinh không kia.”
“Cháu có thấy gì đâu,” lần đầu cùng đứng xem tôi nói thế.
“Cháu nhìn cho kỹ vào,” bà bảo, “và phải nín lặng.”
Nhưng tôi cảm thấy những linh hồn ấy từ trước lúc nhìn thấy họ, những tia lửa nhỏ ấm áp bám theo cánh tay. Họ đấy – những con đom đóm lập lòe vừa thở than vừa lượn xoáy nhiều vòng sau khi rời khỏi thân xác trần tục.
“Họ như bông tuyết,” Franny nói, “mỗi bông mỗi khác, nhưng từ chỗ mình đứng nhìn đây thì bông nào trông cũng như nhau cả.”
End chapter 12
---------------
CHƯƠNG MƯỜI BA
Vào mùa thu năm 1974 khi bắt đầu năm học mới ở trường trung học cơ sở thì Lindsey không chỉ là em của một cô gái bị thảm sát, mà còn là con một kẻ “điên giở”, “mát dây”, “loạn trí”, điều sau này làm em phiền lòng hơn vì không đúng sự thật.
Những lời đồn đại mà Lindsey và Samuel nghe được trong những tuần đầu lan truyền khắp chốn, cứ như những con rắn lì lợm trườn quanh dãy tủ học sinh cất đồ dùng cá nhân dọc hành lang nhà trường. Giờ đây trong cơn lốc còn có thêm cả Brian và Clarissa nữa; cũng may mà năm ấy cả hai đứa đều lên trung học cấp hai cả. Ở Fairfax hai đứa cứ ôm nhau đi cặp kè, khai thác bằng đủ mọi cách sự việc xảy ra với chúng, lấy chuyện đã làm bố tôi mất mặt để tô vẽ cho mình lớp sơn của kẻ ngang tàng, gặp ai trong trường chúng cũng kể đi kể lại những gì diễn ra ở cánh đồng ngô đêm ấy.
Ray và Ruth đi bên nhau trong hành lang, hai bên là vách kính trông ra sân trong lộ thiên. Cả hai thấy Brian đang đứng nói thao thao ở chỗ đặt những đá tảng, nơi đám học sinh ngổ ngáo hay ngồi. Năm ấy, cậu không còn dáng dấp thằng bù nhìn nhút nhát nữa mà đi đứng kệnh khạng ra vẻ đàn ông. Còn Clarissa vẫn giữ tật cười rúc rích, nửa vì sợ nửa vì thú vị; cô nàng không còn e dè ngại ngùng gì nữa, thậm chí đã ăn nằm với Brian. Những đứa tôi quen biết đều trưởng thành, mỗi người mỗi cách không ai giống ai.
Năm ấy Buckley đi vườn trẻ và ngay ngày đầu đã mê mẩn cô giáo Koekle của nó. Mỗi khi dẫn nó đi nhà vệ sinh, hoặc giảng cho nó hiểu những việc nó được giao làm, cô đều nắm tay nó thật trìu mến, thế là nó thương cô không để đâu cho hết. Một mặt nó được lợi – cô thường cho nó thêm một miếng bánh hay dành cho nó tấm nệm êm hơn – mặt khác do được đãi ngộ, nó bị tách ra khỏi đám bạn cùng lớp. Vì chuyện tôi tử nạn mà nó bị xem là khác với mọi đứa trong một nhóm chỉ toàn trẻ con này, trong khi lẽ ra nó có quyền được sống hòa lẫn trong bọn, không ai để ý.
Samuel thường đưa Lindsey về đến nhà rồi đi dọc con đường chính, vẫy xe đi nhờ đến tiệm sửa xe mô-tô của Hal. Cậu cậy vào chuyện bạn bè của anh chạy trên đường nhận ra và chở cậu đến nhà trên những chiếc mô tô ráp từ nhiều kiểu khác nhau, hoặc những chiếc xe tải anh Hal đã “điều chỉnh” tăng sức máy theo yêu cầu của tài xế.
Trong một thời gian khá lâu Samuel không ghé nhà chúng tôi. Ngoài ra cũng chẳng có ai khác đến, trừ họ hàng thân thích. Tháng Mười, bố bắt đầu đứng lên, đi lại được. Các bác sĩ bảo bố rằng chân phải của ông sẽ bị cứng nhắc, nhưng nếu bố chịu khó co duỗi và đi lại thì không đến nỗi nào. “Miễn đừng chạy đua, còn thì tha hồ, ông muốn làm gì cũng được,” buổi sáng hôm ấy, sau ca phẫu thuật, bác sĩ nói với bố tôi như thế khi ông vừa tỉnh lại, thấy Lindsey ngồi cạnh mình, còn mẹ tôi đứng bên cửa sổ đăm đăm nhìn ra bãi đậu xe.
Sau khi được sưởi ấm nhờ lòng ưa ái của cô giáo Koekle rồi, Buckley về thẳng nhà, chui vào trong cái hốc trống vắng của trái tim bố. Nó luôn miệng hỏi về : “đầu gối giả” và bố tôi chịu khó giải thích cho nó vui.
“Đầu gối này người ta mang từ không gian trong vũ trụ về đấy con ạ,” bố tôi bảo thế. “Họ đẽo từ mặt trăng lấy nhiều mảng đem về, xén gọt cho vừa vặn, hiện nay họ dùng cho những trường hợp như thế này đấy.”
“Hay hết ý,” Buckley cười nói: “Thế bao giờ Nate cũng được xem, hở bố?”
“Không lâu đâu, Buck ạ, nay mai thôi,” bố tôi đáp, chỉ gượng nhếch miệng cười.
Khi Buckley kể những chuyện này cho mẹ chúng tôi, “đầu gối bố làm bằng xương mặt trăng” hay “cô Koekle khen con tô màu đẹp quá” thì mẹ chỉ gật. Bây giờ bà như có ý thức hơn về những việc bà đang làm. Bà cắt cà rốt và cần tây thành những đoạn ngắn vừa miệng. Bà tráng rửa bình thủy và hộp đựng bữa trưa cho Lindsey mang đi học, rồi khi nó bảo rằng đã lớn, không cần hộp thì bà chợt thấy vui thật sự khi nghĩ ra cái cách dùng túi vải tráng sáp để thức ăn không dây bẩn quần áo con gái bà, làm bà cứ phải giặt, phải gấp. Sau đó phải là thẳng, treo phẳng phiu trên móc. Những quần áo vứt ra nhà bà phải nhặt nhạnh, hoặc lôi từ trong xe hay từ chiếc khăn tắm ẩm ướt quẳng bừa bãi trên giường mà sáng sáng bà thu vén, giắt bốn góc khăn trải giường, giũ gối cho phẳng phiu, xếp ngay ngắn những con thú nhồi bông rồi kéo mành mành lên cho sáng phòng.
Những lúc em Buckley quấn quít vòi bà, bà chấp nhận làm một cuộc đổi chác. Bà để tai lắng nghe nó kể chuyện trong vài phút rồi mới thả hồn rời khỏi ngôi nhà này, khỏi mái ấm này để đến với Len.
Quãng tháng Mười một, bố tôi đã thành thạo động tác ông gọi là ‘đi cà-nhắc thật điệu nghệ’, nếu Buckley hò reo cổ vũ thì ông còn làm thêm động tác vừa nhảy vừa xoay người, làm mãi đến lúc cậu con trai hết cười mới thôi, bản thân không hề nghĩ rằng nếu ai đó hay mẹ tôi nhìn thì thấy ông trông lố bịch hay thảm thương quá. Trừ Buckley, còn thì trong nhà ai cũng biết: sắp đến ngày giỗ đầu của tôi.
Vào những ngày nắng thu rực rỡ, buổi trưa Buckley và bố tôi hay chơi với con Holiday trong khu vườn rào kín. Bố tôi ngồi trên chiếc ghế sắt cũ kỹ, chân duỗi dài, chống nhẹ lên tấm thảm chùi giày rất kiểu cọ mà bà ngoại Lynn tìm được trong một cửa hàng đồ cổ ở Maryland.
Buckley ném con bò độn bông phát âm thanh chút chít cho con Holiday chạy đi nhặt. Bố tôi thấy vui khi nhìn đứa con năm tuổi nhanh nhẹn, nghe tiếng cười khanh khách khi con Holiday húc nó ngã lăn quay rồi dụi mõm vào người nó hay thè cái lưỡi dài màu hồng liếm mặt. Tuy vậy bố không sao gạt được ý nghĩ: đứa con trai yêu quí của ông đó, biết đâu có ngày bị kẻ lạ nào bắt đi mất.
Có nhiều lý do khiến bố tôi ở nhà, được tiếp tục nghỉ việc dài hạn vì lý do sức khỏe, vết thương cũng là một trong những lý do chính đáng. Lúc này sếp của ông đối xử với thái độ khác hẳn, các đồng nghiệp cũng thế. Họ chỉ lảng vảng bên ngoài văn phòng của ông, đứng xa cách bàn làm việc của ông cả thước, tuồng như lúc ông có mặt mà họ thư thái không đề phòng thì có khi cũng gặp họa như ông – như thể việc có đứa con chết sớm là một loại bệnh truyền nhiễm. Ai cũng tự hỏi làm sao ông kham nổi công việc trước giờ vẫn đảm trách đây, nhưng đồng thời họ lại muốn ông giấu kín những biểu hiện của nỗi đau buồn, xếp vào trong tập hồ sơ, nhét vào một ngăn kéo nào đó không ai muốn mở ra nữa. Bố tôi thường tạt vào hãng, sếp của ông lúc nào cũng sẵn sàng cho ông nghỉ thêm một tuần, nếu cần thì một tháng cũng được, bố tôi xem việc được ưu đãi thế là nhờ trước nay ông luôn làm xong việc đúng thời hạn hay không nề hà việc nán lại làm thêm giờ. Nhưng ông tránh mặt tên Harvey, thậm chí còn tự bắt mình đừng nghĩ tới hắn nữa. Ông tránh cả nhắc đến tên hắn, trừ trong quyển sổ ghi chép giấu trong phòng làm việc mà ông đề nghị mẹ tôi đừng vào thu dọn nữa, điều đáng ngạc nhiên là bà cũng thuận theo ý ông. Trong quyển sổ này ông đã viết lời xin lỗi tôi. “Bố cần nghỉ để hồi sức, con gái yêu ạ. Bố cần tính xem phải theo dõi hắn bằng cách nào. Mong con hiểu cho.”
Nhưng ông quyết định ngày mồng 2 tháng Chạp sẽ đi làm trở lại, ngay sau lễ Tạ Ơn(1). Ông muốn trở lại hãng đúng một năm sau ngày tôi mất tích. Làm việc bình thường và giải quyết công việc ứ đọng - ở một nơi có kẻ qua người lại, buộc ông chú tâm đến chuyện khác càng nhiều càng tốt. Và nếu ông dám thú nhận với chính mình, lý do chính là để tránh mặt mẹ tôi.
Ông biết làm gì đây để bơi trở về với bà, tìm lại chỗ của mình trong tâm tưởng bà? Bà cứ tự đẩy mình xa thêm mãi – có bao nhiêu sức bà đều để vào việc làm tan nát mái ấm gia đình, còn ông dồn hết sức mình cho nó. Ông quyết định phục hồi sức khỏe và vạch ra kế hoạch theo dõi tên Harvey. Tập trung quy lỗi cho kẻ nào đó thì dễ hơn là ngồi tính sổ, cộng thêm hết nỗi đau này đến mất mát khác mà ông phải chịu.
Bà ngoại Lynn hẹn sẽ đến nhà vào dịp lễ Tạ Ơn; Lindsey lâu nay làm theo phương pháp chăm sóc sắc đẹp do bà ngoại hướng dẫn qua thư. Mới đầu nó thấy thật ngớ ngẩn khi đắp những lát dưa leo lên hai mắt (để chống mọng mí mắt), bôi cháo yến mạch lên mặt (để tẩy lỗ chân lông và hút chất nhờn thừa) hay bôi lòng đỏ trứng gà lên tóc (cho tóc bóng mượt). Việc nó lấy thực phẩm dùng vào việc dưỡng da và tóc làm mẹ tôi buồn cười, nhưng bà bắt đầu tự hỏi chắc mình cũng nên chăm sóc nhan sắc. Nhưng bà chỉ thoáng nghĩ thế thôi, bởi tâm trí bà bận bịu về Len, không phải vì yêu ông ta mà vì dan díu với ông ta là cách nhanh nhất bà biết được để tìm quên lãng.
Hai tuần trước bà ngoại Lynn tới, Buckley và bố ở ngoài vườn với con Holiday. Buckley và Holiday chơi đuổi bắt, chạy luẩn quẩn giữa mấy đống lá sồi mới rụng còn bóng láng, càng lúc càng hăng say. “Coi chừng, Buck,” bố nói. “Con làm thế Holiday sẽ cắn bậy đấy.” Và thế là y như rằng.
Bố tôi bảo ông muốn thử một trò chơi mới.
“Để xem ông bố già có cõng nổi con không. Để ít lâu nữa con lớn quá hết chơi được.”
Thế là ở một góc vườn nằm khuất, để lỡ ông ngã thì chỉ có một thằng bé và một con chó luôn yêu quí ông nhìn thấy, hai bố con lóng ngóng làm chuyện cả hai đều mong mỏi: trở lại quan hệ bố - con bình thường. Khi Buckley leo lên đứng trên ghế sắt rồi, bố tôi khom người xuống, dặn: Leo lên lưng bố, bám vai bố cho vững” mà không biết liệu có đủ sức cõng nó hay không. Trên thiên đường tôi nín thở, chắp tay cầu cho bố được may mắn. Hôm ở cánh đồng ngô tôi cũng làm thế, đúng vậy, nhưng lúc này đây, khi ông sửa sang cái khung để gia đình trở về nếp sống thường nhật ngày trước, chẳng quản thương tật để giành lại một khoảnh khắc như thế này, thì ông trở thành người hùng trong mắt tôi.
“Cúi xuống, cúi nữa,”ông nhắc khi đi qua khung cửa ở tầng trệt rồi bước lên cầu thang, mỗi bước là một cố gắng giữ thăng bằng, là một cơn đau nhói rúm người. Rồi khi con Holiday phóng lên cầu thang, vượt qua hai bố con, thì bố tôi, trên lưng là kỵ mã Buckley đang hứng chí, biết rằng ông đã đúng khi thử xem sức mình đến đâu.
Hai bố con – thêm con chó nữa – vừa kịp nhận ra có Lindsey trong phòng tắm trên lầu, thì đã nghe tiếng cô nàng ca cẩm:
“Bố ơi là bố…!”
Bố tôi thẳng người đứng lên. Buckley với tay sờ ngọn đèn gấn trên trần.
“Con đang làm gì đấy?”, bố hỏi.
“Thế bố nhìn mà không thấy à?”
Em đang ngồi trên nắp bồn cầu, quấn chiếc khăn trắng to khổ (những chiếc khăn mẹ phải tẩy trắng, những chiếc khăn mẹ phải phơi trên dây cho khô, những chiếc khăn mẹ phải gấp, xếp vào giỏ rồi bưng lên cất vào tủ để khăn…), chân trái gác lên thành bồn tắm, bôi một lớp kem cạo râu. Tay cầm con dao cạo của bố.
“Con không được nói hỗn thế,” bố nói.
“Xin lỗi bố,” em gái tôi nói, mắt nhìn xuống sàn. “Con chỉ muốn được ở riêng một lúc.”
Bố tôi nâng Buckley lên quá đầu ông. “Ấy, coi chừng trừng tủ quần áo giặt, con ơi,” bố kêu và Buckley hoảng vía vì thấy bàn chân lấm lem của mình tựa vào, để dấu trên chiếc tủ khảm gạch trong phòng tắm – một điều cấm kỵ.
“ Nhảy xuống đi.” Buckley nghe theo. Con Holiday liền chồm tới quấn lấy nó.
“Con đâu đã đến tuổi, sao đã cạo lông chân,” bố tôi bảo.
“Bà ngoại Lynn cạo từ hồi mười một tuổi đấy thôi.”
“Buckley, con về phòng đi, dắt con chó theo nhé. Bố sẽ vào sau.”
“Thưa vâng.”
Buckley còn là một đứa bé, bố tôi chỉ cần kiên nhẫn và khéo léo một chút là có thể công kênh nó lên vai, như mọi bố con khác. Nhưng bây giờ nhìn Lindsey ông thấy đau đớn bội phần. Tôi là đứa bé gái ngồi trong bồn tắm, một bé con mới lẫm chẫm ông nhấc lên đặt vào bồn rửa mặt, một thiếu nữ vừa đến tuổi để làm y như em gái tôi lúc này đây, nhưng không bao giờ được phép trưởng thành nữa.
Khi Buckley đi rồi, ông tập trung tâm trí cho em gái tôi. Ông sẽ lo cho cả hai cô con gái bằng cách chăm chút đứa này: “Con biết cách cạo chứ?”
“Con mới thử lần đầu,” Lindsey nói. “Bố cứ để con tự làm.”
“Lưỡi dao cạo này có sẵn lúc con lấy từ hộp dao của bố phải không?”
“Vâng.”
“Ồ, râu bố cứng nên làm dao mau cùn. Để bố lấy cho con lưỡi dao mới.”
“Cám ơn bố,” em gái tôi nói và trở lại làm con bé Lindsey dễ thương bố cõng nhong nhong thưở nào.
Ông rời phòng tắm, đi dọc hành lang sang phía bên kia, tới phòng ngủ của bố mẹ tôi, tiếng là phòng chung nhưng hai người ngủ riêng giường từ lâu rồi. Vươn tay mở tủ kính lấy hộp lưỡi dao mới, ông chợt thấy đau nhói ở ngực. Ông cố quên đi, tập trung vào việc định làm. Đó chỉ là một ý nghĩ thoáng qua: Lẽ ra Abigail làm chuyện này mới phải.
Ông đem lưỡi dao cạo ra, chỉ Lindsey thay dao và cạo cho đúng cách. “Cẩn thận chỗ mắt cá và đầu gối,” ông nói. “Mẹ con gọi đó là những chỗ dễ bị phạm.”
“Bố thích thì ngồi đây với con, tùy bố,” Lindsey nói, bây giờ em chấp nhận sự có mặt của ông. “Nhưng coi chừng con làm chảy máu văng tung tóe.” Nói xong em ân hận muốn tự vả vào mặt. “Con xin lỗi,” em nói. “Đây bố ngồi đây, con lui ra kia.”
Em đứng lên, lại ngồi trên thành bồn tắm, vặn vòi nước, còn bố tôi ngồi xuống nắp bồn cầu.
“Được rồi, con ạ,” bố nói. “Lâu nay bố con mình không có dịp trò chuyện về chị con.”
“Có ai cần nói nhỉ?”, em gái tôi đáp. “Chị ấy có mặt mọi lúc mọi nơi mà.”
“Em trai con có vẻ không bị khủng hoảng gì lắm.”
“Nó cứ bám riết lấy bố.”
“Có thế thật,” ông nói và thấy sung sướng có đứa con trai quấn quít nịnh bố.
“Ái”, Lindsey kêu lên, một vệt máu nhỏ rỉ qua lớp bọt trắng của kem cạo râu. “Thôi, hỏng rồi.”
“Rịt ngón cái vào vết xước. Máu sẽ cầm ngay. Con chỉ nên cạo tới đầu gối thôi,” bố khuyên. “Mẹ con vẫn làm thế, trừ khi cả nhà đi chơi biển.”
Lindsey ngừng lại. “Bố với em Buckley đâu có ra biển bao giờ.”
“Ngày xưa có đi đấy chứ.”
Bố quen mẹ khi cả hai cùng làm việc cho tiệm Wanamaker vào dịp trường đại học nghỉ hè. Ông vừa buông lời bình phẩm chua chát về căn phòng để cho nhân viên ngồi nghỉ, bị ám mùi thuốc lá nồng nặc, thì bà cười cười rút ra gói Pall Mall thời đó được ưa chuộng. “Touché”(2), ông nói, rồi ngồi lì bên bà, để khói thuốc hôi rình quyện cả vào người.
“Con đang ngĩ xem con giống ai,” Lindsey nói. Giống bà ngoại Lynn hay mẹ.”
“Bố trước giờ vẫn thấy con với chị con giống mẹ,” bố nói.
“Bố à!”
“Sao con?”
“Bố vẫn cho rằng tên Harvey dính dáng tới vụ này thật sao?”
Như một cái que, nếu ta cứ cà mãi vào cái que khác, cuối cùng sẽ tóe lửa – việc cọ sát đã đem lại kết quả.
“Bố tin chắc như vậy, không còn nghi ngờ gì nữa, con ạ.”
“Vậy sao chú Len không bắt hắn cho rồi?”
Em hững hờ kéo dao cạo râu từ bàn chân ngược lên. Thế là xong một bên. Rồi dừng tay không làm tiếp, chờ đợi.
“Ước gì bố có thể nói sao cho con dễ hiểu,” bố nói, khó nhọc như phải moi óc từng chữ để ráp thành câu. Ông chưa từng kể lể dông dài với ai về những nỗi ngờ vực của mình. “Hôm ấy, gặp trong vườn nhà hắn, bố phụ hắn dựng lều – hắn bảo lều này dựng cho vợ hắn, bố nhớ hắn bảo tên là Sophie, nhưng sau Len lại ghi là Leah – trong cử chỉ thái độ của hắn có gì đó bắt bố phải tin như thế.”
“Mọi người ở đây cũng thấy hắn kỳ dị, không giống ai.”
“Đúng thế, bố biết,” bố nói. “Nhưng nói cho cùng họ chả việc gì phải dây dưa quan hệ với hắn. Họ không biết phải xem tính lập dị ở hắn là lành hay dữ.”
“Lành nghĩa là sao?”
“Là vô hại.”
“Con Holiday không ưa hắn chút nào,” Lindsey nhắc thêm.
“Đúng thế, bố chưa bao giờ nghe nó sủa hăng đến như vậy. Sáng hôm ấy long cổ nó dựng ngược hết cả lên.”
“Nhưng cảnh sát lại cho rằng bố bị chứng bệnh tưởng.”
“Họ chỉ đưa ra độc một câu trả lời: Không có bằng chứng.” Không bằng chứng và – bố nói con nghe đừng lấy làm ghê nhé – bao lâu không tìm được thi thể thì họ bó tay, và chẳng có cơ sở gì cho phép họ tống giam ai.”
“Thế nào là có cơ sở?”
“Bất cứ điều gì chứng minh được hắn có liên quan đến Susie, bố nghĩ thế. Chẳng hạn có ai đấy nhìn thấy hắn ngoài cánh đồng ngô, hay chỉ cần thấy hắn lảng vảng quanh nhà trường thôi cũng đủ. Đại loại thế.”
“Hoặc là hắn còn giữ lại đồ vật gì của chị Susie?” Bố tôi và Lindsey – lúc đó đã bôi kem lên chân kia nhưng chưa cạo – bàn bạc sôi nổi, vì khi hai cái que mang mối quan tâm của hai bố con cà vào nhau tóe lửu thì cũng lóe lên giả thiết rằng không chừng xác tôi đang bị vùi đâu đó trong ngôi nhà nọ. Thi thể tôi có thể ở dưới hầm, tầng một, tầng hai, hay trên tầng áp mái. Để tránh phải thừa nhận khả năng khủng khiếp này – nếu đúng như thế thì đó quả là những bằng chứng rành rành, tuyệt hảo, xác đáng – hai bố con cố nhớ lại những gì hôm đó tôi mang theo: viên tẩy hình nhân vật truyện tranh tên Frito Bandito tôi thích, phù hiệu hình ca sĩ David Cassidy tôi cài trong cặp, phù hiệu hình ca sĩ David Bowie tôi cài mặt ngoài cặp. Hai bố con nêu ra đủ mọi món lỉnh kỉnh có thể trở thành chứng cứ hiển nhiên, gây kinh hoàng nhất có thể tìm được – thi hài của tôi bị chặt khúc, trong hốc mắt trống không chỉ còn chút da thịt thối rữa.
Đôi mắt tôi: cách trang điểm bà ngoại Lynn hướng dẫn cho Lindsey cũng giúp được ít nhiều nhưng vẫn không giải quyết được chuyện hễ ai nhìn vào mắt Lindsey là tự động tìm xem có bao nhiêu phần giống mắt tôi. Khi tình cờ bắt gặp chính đôi mắt mình – trên tấm gương sáng choang trong hộp phấn trang điểm của cô gái ở bàn bên cạnh, hay ảnh phản chiếu bất chợt trên tấm cửa kính cửa hiệu – là em quay ngoắt đi. Đau khổ nhất vẫn là khi đối mặt với bố tôi. Trong lúc trò chuyện, em gái tôi nhận ra rằng, suốt lúc bàn về chuyện này – về tên Harvey, về bộ quần áo tôi mặc, cái cặp tôi mang, thi thể của tôi, và về con người tôi – những kỷ niệm sinh động còn giữ về tôi làm cho bố tôi còn nhận ra được em là Lindsey, chứ không phải một tổng thể làm não lòng vì lắp ráp bằng nửa nọ nửa kia của hai đứa con gái.
“Vậy bố muốn biết có cách nào đột nhập vào nhà hắn chứ gì?” em hỏi.
Hai bố con nhìn vào mắt nhau một lúc, người này hiểu rằng người kia cũng ý thức được sự nguy hiểm chứa đựng trong ý tưởng đó. Thấy bố ngập ngừng mãi, cuối cùng bảo rằng làm thế là phạm pháp, rằng ông chưa từng nghĩ đến chuyện đó, em biết là bố đang nói dối. Em thừa hiểu ông cần có người thay mình làm việc đó.
“Con lo cạo chân cho xong đi, bé ạ,” ông nói.
Lindsey biểu lộ đồng tình, quay đi, hiểu rõ bố ngầm bảo em làm gì rồi.
Bà ngoại Lynn đến nhà vào ngày thứ Hai trước ngày lễ Tạ Ơn. Cũng với đôi mắt như rọi tia la-de phát hiện ngay ở em gái tôi mọi tì vết ngoài bà không ai thấy, bà còn nhanh nhạy nhìn thấy gì đó ẩn sau nụ cười trong động tác từ tốn của con gái bà, cảm thấy cả cơ thể mẹ tôi phản ứng ra sao mỗi khi có ai đó đả động đến thanh tra Fenerman hay giới cảnh sát.
Sau bữa ăn chiều hôm đó, khi mẹ tôi từ chối không muốn bố phụ rửa bát, thì đôi mắt la-de đã rõ mười mươi. Bà ngoại Lynn làm cả nhà giật mình, trừ em gái tôi mừng húm, khi bà tuyên bố:
“Abigail này, mẹ sẽ phụ con rửa bát. Đây là phần việc của riêng mẹ con ta.”
“Mẹ bảo sao cơ?”
Mẹ tôi đã tính sẽ cho Lindsey nghỉ tay sớm, em chỉ đợi có thế, rồi cả buổi tối sẽ đứng bên bồn, vừa thong thả rửa, tráng, vừa nhìn ra ngoài cửa sổ cho đến khi màn đêm hắt trả lại ảnh mẹ trên mặt kính. Tiếng máy truyền hình rồi sẽ nhỏ dần và mẹ sẽ được một mình một bóng.
“Mẹ vừa mới làm móng tay ngày hôm qua,” bà ngoại Lynn nói sau khi buộc tạp dề phủ bộ quần áo thanh lịch màu vàng lông lạc đà, “nên mẹ chỉ lo phần lau khô thôi.”
“Mẹ à, con không cần đâu.”
“Cần chứ, cưng cứ tin mẹ đi,” bà ngoại nói. Có chút gì đó cộc lốc, khô khan trong chữ cưng
Buckley kéo tay bố vào phòng bên cạnh, nơi đặt máy truyền hình. Hai bố con ngồi xuống, còn Lindsey, bất ngờ có thì giờ rảnh rỗi, lên lầu gọi điện cho Samuel.
Cảnh tượng trông thật lạ lùng, nếu không nói là bất thường. Bà ngoại tôi đeo tạp dề, giương cao tấm khăn lau bát trông như tấm vải đỏ của tay đấu bò trong tư thế sẵn sàng chờ chiếc đĩa đầu tiên bay tới.
Hai mẹ con mải miết làm, không trao đổi một lời. Những âm thanh duy nhất là tiếng mẹ nhúng tay vào nước nóng bỏng, tiếng đĩa chạm nhau, tiếng dao nĩa lách cách. Sự yên ắng làm nỗi căng thẳng cứ nở phồng chiếm hết không gian, làm căn phòng ngột ngạt. Tiếng ồn ào từ trận bóng truyền hình ở phòng bên cũng làm tôi thấy lạ. Bố tôi xưa nay không hề xem bóng đá, ông chỉ ưa mỗi môn bóng rổ. Bà ngoại Lynn cũng ghét việc rửa bát; thức ăn đông lạnh hoặc nấu sẵn chỉ cần mua về vẫn là thứ vũ khí bà chọn để tránh phải rửa bát.
“Chúa ơi,” cuối cùng bà ngoại nói. “Con cầm lại này.” Bà đưa trả mẹ cái đĩa vừa tráng. “Mẹ có chuyện muốn nói với con nhưng sợ làm rơi mấy thứ này mất. Mẹ con mình đi dạo một lúc nhé.”
“Mẹ à, con cần phải…”
“Điều con cần làm là đi dạo một vòng.”
“Con phải rửa cho xong đã.”
“Nghe này”, bà ngoại nói, “mẹ biết tính mẹ thế nào, tính con ra sao, nghĩa là khác mẹ, con vẫn lấy làm mừng là không giống mẹ; nhưng có một số điều khi nhìn thấy mẹ hiểu ngay, và vào lúc này mẹ nghĩ chuyện trong gia đình con không kosher(3). Capisce(4)?”
Mẹ tôi lộ vẻ nao núng, rồi những đường nét trên mặt bà dịu lại, và đổi dạng – dịu nhẹ và ẩn hiện như hình ảnh phản chiếu mặt bà trên làn nước sóng sánh trong bồn rửa bát.
“Mẹ bảo sao cơ?”
“Mẹ thắc mắc vài chuyện, nhưng không muốn nói ra ở đây.”
Trúng phóc, Bà ngoại Lynn ạ, tôi thầm nghĩ. Chưa bao giờ tôi thấy bà cương quyết đến thế.
Hai mẹ con muốn ra khỏi nhà đi dạo riêng với nhau thì không có gì khó. Bố tôi, do đầu gối còn đau, chẳng thể đi cùng, còn Buckley luẩn quẩn bên bố, có ông thì nó mới đi theo.
Mẹ tôi làm thinh. Bà không có cách nào thoái thác. Hai mẹ con tháo tạp dề vắt lên mui chiếc xe Mustang trong nhà để xe. Mẹ tôi khom người nâng cửa nhà xe đẩy lên.
Chưa muộn lắm nên lúc hai mẹ con ra ngoài trời vẫn còn sáng. “Dắt cả Holiday theo nhé,” mẹ tôi hỏi.
“Mẹ với con thôi,” bà ngoại nói. “Thấy bộ đôi mẹ con mình là thiên hạ đủ hoảng rồi.”
Hai mẹ con chưa hề có quan hệ mật thiết. Cả hai đều biết vậy, nhưng đó không phải là điều làm bận lòng họ, chẳng những thế còn đem ra cười giễu như hai đứa bé không ưa nhau lắm, nhưng lại là hai đứa bé duy nhất trong một khu dân cư mênh mông vắng bóng trẻ. Giờ đây, sau thời gian dài để con gái bà rời nhà khá sớm và bay nhảy đi những đâu bà không biết, và chưa hề tìm cách ngăn trở, đột nhiên bà thấy mình đuổi theo bắt kịp con gái.
Họ đi qua ngôi nhà của gia đình O’Dwyer, mãi khi sắp đến nhà của gia đình Tarking thì bà ngoại mới nói ra điều bà muốn thổ lộ.
“Mẹ chọn vùi chuyện đó bằng cách ra vẻ xem như không,” bà ngoại nói. “Bố con dan díu nhiều năm với một người đàn bà ở New Hamshire. Tên mụ ấy bắt đầu bằng vần F, nhưng mẹ chẳng biết gì thêm. Năm này qua năm khác mẹ thử tra tìm, ra được hàng nghìn người có thể mang tên vần đó.”
“Ơ kìa, mẹ!”
Bà ngoại tôi vẫn bước tiếp, không quay nhìn mẹ. Bà thấy không khí mát lạnh của mùa thu giúp bà nhiều, tràn vào tẩy rửa, làm hai buồng phổi như sạch hơn mấy phút trước đó.
“Ngày đó con có hay biết gì không?”
“Không.”
“Chắc mẹ không kể cho con,” bà nói. “Hẳn mẹ nghĩ con chẳng nên biết làm gì. Bây giờ đã đến lúc, phải không nào?”
“Con không rõ vì sao bây giờ mẹ đem ra kể cho con nghe.”
Họ đã tới bùng binh, ngoặt lại là quay về. Nếu cứ đi tiếp họ sẽ đến trước cửa nhà tên Harvey. Mẹ tôi thấy lạnh cóng.
“Tội nghiệp con chưa,” bà ngoại nói. “Đưa tay cho mẹ nào.”
Cả hai lúng túng. Mẹ tôi đếm được trên đầu ngón tay số lần ông bố cao lớn khom người xuống hôn ngày mẹ còn bé. Bộ râu ông cọ má làm ngứa, mát mùi nước hoa mà nhiều năm sau bà vẫn không tìm ra là hiệu gì. Bà ngoại nắm lấy bàn tay mẹ, cứ thế hai người đi tiếp ngoặt sang hướng khác.
Họ đến một khu hình như ngày càng có nhiều gia đình mới dọn đến. Tôi nhớ mẹ tôi gọi đó là những ngôi nhà móc vào neo, tôi nhớ thế, vì chúng nằm dọc hai bên đường dẫn vào khu trung tâm, nối khu phố với con lộ chính có từ xưa, trước khi vùng này được nâp cấp lên phố thị. Đó là con đường dẫn đến Thung lũng Forge, đến George Washington và cuộc Cách mạng(5).
“Từ lúc Susie mất đi mẹ mới lại nhớ về bố con,” bà ngoại nói. “Mẹ vẫn chưa để tang bố con theo đúng nghĩa.”
“Con biết,” mẹ tôi nói.
“Con vẫn bực mẹ về chuyện đó phải không?”
Mẹ tôi ngần ngừ. “Có thế thật.”
Bà ngoại lấy tay kia vỗ nhẹ mu bàn tay mẹ. “Hay lắm, con thấy chưa, đã hé ra một mẩu rồi đấy.”
“Mẩu gì cơ?”
“Thì một mẩu của cả câu chuyện bây giờ mới hé ra. Con với mẹ. Một mẩu của sự thật giữa hai mẹ con ta.”
Họ đi qua khu các lô đất, mỗi lô rộng khoảng một mẫu Anh, cây cối trồng từ ngót hai mươi năm. Tuy không chót vót nhưng thân cây cũng cao gấp đôi những ông bố ngày đó cứ cuối tuần là mang loại giày làm vườn dằm đất quanh chỗ ươm cây.
“Mẹ có biết con cảm thấy mình cô độc đến mức nào không?”
“Đó là nguyên do của buổi đi dạo này, Abigail ạ,” bà ngoại Lynn đáp.
Mắt mẹ tôi nhìn sững ra phía trước, nhưng qua bàn tay nắm lấy tay bà ngoại bà vẫn duy trì mối dây liên hệ. Bà nhớ lại cảm giác cô đơn suốt thời thơ ấu. Nhớ những lúc thấy hai cô bé gái con mình xuyên lỗ xỏ dây vào hai ly giấy rồi chia ra mỗi đứa vào một phòng để chơi trò thì thào lén kể cho nhau những bí mật của chúng, bản thân bà thực tình chưa hề biết thế nào là chia sẻ bí mật. Trong nhà chẳng có ai khác ở với bà, ngoài bố và mẹ, sau đó ông bố của mẹ lại ra đi.
Bà nhìn đăm đăm lên đầu ngọn cây, đám cây cao nhất trong toàn vùng, cách xa khu chúng tôi cả dặm đường. Chúng mọc trên một ngọn đồi cao, đến nay chưa bị phát quang lấy đất xây nhà. Vẫn còn vài chủ nông trại đã luống tuổi cư ngụ ở đó.
“Con không diễn tả được những gì mình cảm thấy,” mẹ nói. “Không nói được với ai cả.”
Họ đi tới cuối khu phố đúng lúc mặt trời khuất sau ngọ đồi trước mặt. Một khoảnh khắc trôi qua nhưng chưa ai có ý đi vòng trở lại. Mẹ tôi dõi mắt nhìn theo tia sáng cuối cùng còn phản chiếu trên mặt vũng nước đọng chỗ cuống rãnh ở cuối con đường.
“Con không biết mình nên làm gì,” mẹ nói. “Bây giờ khi chuyện đã xong.”
Bà ngoại không rõ khi nói “chuyện” thì mẹ ám chỉ gì nhưng không vặn hỏi thêm.
“Ta quay lại chứ?” bà đề nghị.
“Sao ạ?”, mẹ tôi hỏi.
“Về nhà, Abigail ạ. Quay về nhà.”
Họ vòng lại, tiếp tục bách bộ. Đi qua hết nhà này đến nhà khác, tất cả xây cùng một kiểu giống hệt nhau. Chỉ khác ở những phần xây bà ngoại gọi là thêm thắt. Bà chịu không hiểu nổi sao người ta có thể sống ở một chỗ như thế này, đây lại là nơi con gái bà chọn để cư ngụ.
“Khi mình đến góc rẽ vào bùng binh thì con muốn đi qua căn nhà đó,” mẹ tôi nói. “Ngang qua nhà hắn?”
“Vâng.”
Tôi thấy bà ngoại rẽ theo mẹ.
“Con hứa với mẹ là sẽ không gặp lại người đàn ông đó nữa chứ?”, bà ngoại hỏi.
“Gặp ai cơ?”
“Người đàn ông con đang dan díu ấy. Mẹ nói chuyện này từ nãy đến giờ thôi.”
“Con chẳng dan díu với ai cả,” mẹ tôi đáp. Đầu óc bà, như cánh chim, bay nhảy từ nóc nhà này sang nóc nhà khác. “Mẹ à!”, bà gọi, quay nhìn bà ngoại.
“Gì thế, Abigail?”
“Nếu cần đi xa một thời gian, con đến nhà nghỉ(6) của bố ở tạm được không?”
“Nãy giờ con có để tai nghe mẹ nói không?”
Họ ngửi thấy mùi gì thoang thoảng trong không khí. Một lần nữa tâm thức luôn âu lo, thắc mắc của mẹ tôi lại trôi tuột đi đâu. “Có ai hút thuốc đây,” bà nói.
Bà ngoại Lynn đăm đăm nhìn con gái. Con người nội trợ luôn đảm đang, nghiêm túc ở mẹ tôi bỗng biến đâu mất. Bà thành kẻ tính tình bất nhất, đầu óc lơ đãng. Bà ngoại thấy không còn gì để nói với con gái nữa.
“Thuốc lá ngoại, mẹ ạ,” mẹ tôi nói. “Để xem từ đâu ra!”
Trong nắng tà dần tắt bà ngoại ngẩn ngơ nhìn theo mẹ tôi đang lần theo mùi thuốc lá.
“Mẹ quay về nhà đây,” bà ngoại nói.
Nhưng mẹ tôi cứ bước tiếp.
Chẳng mấy chốc bà phát hiện khói thuốc từ đâu bay ra. Đó là bà Ruana Singh đang đứng sau cây thông cao trong vườn nhà bà.
“Chào chị”, mẹ tôi lên tiếng.
Bà Ruana không giật mình như tôi tưởng. Tính bình tâm của bà có được nhờ công phu tập luyện. Bà biết cách điều khiển nhịp thở để đương đầu mọi biến cố bất ngờ nhất, chẳng hạn con trai bà bị cảnh sát buộc tội giết người, hay ông chồng mời ăn tối nhưng lại biến bữa tiệc thành cuộc họp hội đồng khoa học. Bà bảo Ray cứ rút lên lầu, còn bà đi ra cửa sau để không ai để ý.
“Chào bà Salmon,” bà Ruana nói, phả làn khói thuốc thơm lừng. Mẹ tôi đưa tay ra trong làn khói và hơi ấm ùa đến, bắt tay bà Ruana.
“Nhà ông bà đang có khách à?” mẹ tôi hỏi.
“Ông nhà tôi mở tiệc đãi khách. Tôi là bà chủ nhà.”
Mẹ tôi mỉm cười.
“Chỗ mình đang sống thật quái lạ,” bà Ruana nói.
Ánh mắt họ chạm nhau. Mẹ tôi gật đầu. Đâu đó trên đường về nhà có mẹ của bà đang bước, còn bà lại đứng đây, như bà Ruana, trên một hòn đảo yên tĩnh ngoài khơi, nằm xa đất liền.
“Chị còn thuốc lá không?”
“Dĩ nhiên còn chứ, bà Salmon.” Bà cho tay vào túi chiếc ao len đan dài màu đen, lấy ra gói thuốc và chiếc bật lửa. “Hiệu Dunhills”, bà nói. “Hi vọng bà cũng thích.”
Mẹ tôi châm thuốc rồi đưa lại bà Ruana gói thuốc màu xanh có giấy bạc màu vàng. “Abigail”, mẹ nói trong lúc phả khói thuốc. “Cứ gọi tôi bằng tên Abigail.”
Trên phòng riêng đã tắt hết đèn, Ray ngửi thấy mùi thuốc lá của mẹ. Bà chưa bao giờ mắng cậu là đã lấy lén thuốc lá của bà, cũng hệt như cậu chưa từng để lộ rằng cậu biết bà có thuốc. Cậu nghe tiếng người nói từ dưới nhà vọng lên – tiếng ông bố trò chuyện ồn ào với các đồng nghiệp, họ trao đổi với nhau bằng sáu thứ tiếng, tiếng họ cười cợt về ngày lễ sắp tới, lễ đặc biệt của người dân Mỹ. Cậu ta không biết rằng mẹ tôi đang đứng cùng mẹ cậu ngoài sân cỏ hoặc tôi đang nhìn cậu ngồi bên cửa sổ, hít vào mùi thuốc lá thơm dịu. Chỉ lát nữa thôi cậu sẽ rời cửa sổ, bật ngọn đèn con ở đầu giường để đọc. Bà giáo McBride đã bảo mỗi học sinh tự chọn một bài thơ thể xon-nê mà mình thích để viết bình luận. Nhưng mỗi khi đọc những dòng thơ trong Tuyển tập Norton, đầu óc cậu lại lãng đãng quay về thời điểm cậu tha thiết muốn níu giữ, muốn trải nghiệm lần nữa. Giá lúc ấy trên giàn giáo cậu cứ hôn tôi thì biết đâu mọi chuyện đã chẳng xoay chiều theo hướng nào khác rồi.
Bà ngoại Lynn tiếp tục lộ trình mà hai mẹ con đã tính trước đó, đi một lúc thì quả nhiên thấy nó – ngôi nhà họ cố quên đi dù chỉ ở cách đó có hai căn. Jack có lý, bà ngoại nghĩ thầm. Ngay cả trong bóng tối bà cũng cảm thấy điều đó. Chỗ ngôi nhà tọa lạc như phát tỏa dấu hiệu của cái ác. Bà rùng mình, nghe tiếng dế gáy và nhìn thấy lũ đom đóm tụ lại thành đàn trên các luống hoa sát bờ rào trước nhà hắn. Bà chợt nghĩ chỉ mong một điều là cảm thông được con gái mình. Con bà đang sống ở tâm điểm nơi bom vừa nổ, những chuyện lăng nhăng của chồng bà đâu thể giúp con gái bà sáng suốt tự nhìn lại mình được. Sáng sớm mai bà sẽ bảo mẹ tôi rằng lúc nào cần cứ đến tìm, chìa khóa căn nhà nghỉ vẫn để sẵn đó.
Đêm ấy, mẹ tôi mơ một giấc mơ thật tuyệt vời. Bà mơ thấy nước Ấn Độ, nơi bà chưa hề đến. Ở đó có đèn hiệu giao thông hình nón màu da cam và các loại côn trùng tuyệt đẹp màu xanh dương, hàm dưới nạm vàng. Một thiếu nữ bị dong trên đường phố. Cô bị dẫn tới một giàn thiêu, người ta quấn khăn quanh người bó cô lại, đặt lên bệ bằng cành cây ràng bện thành giàn. Ngọn lửa sáng rực thiêu đốt cô gây cho mẹ tôi cảm giác vui sướng sâu sắc, thanh thoát, như bà vẫn thấy khi nằm mơ. Cô gái bị thiêu sống thật, nhưng lúc đầu, thân thể cô nằm đó, sạch sẽ và nguyên vẹn.
End chapter 13
--------------------------------------
CHƯƠNG 14
Suốt một tuần liền Lindsey rình rập ngôi nhà kẻ đã giết tôi. Em làm đúng cái việc hắn từng làm với bao người khác.
Em đã thỏa thuận sẽ luyện tập suốt năm với đội bóng nam, trong hướng chuẩn bị cho cuộc thử thách mà thầy Dewitt và Samuel khuyến khích em cứ nhận: làm sao đạt tiêu chuẩn để được tham gia đấu trong liên đoàn cầu thủ nam của các trường trung học. Để chứng tỏ mình thật lòng ủng hộ, Samuel cùng luyện tập với em, dù không mong đạt gì cao hơn là, như cậu gọi, “anh chàng mặc quần cụt chạy nhanh nhất.”
Môn chạy thì cậu không tệ, nhưng các thao tác đá, chặn, đưa bóng hay kịp nhận xem bóng có lọt vào phạm vi của mình không thì vượt ngoài khả năng của cậu. Thế nên khi cả hai tập chạy quanh khu nhà, những lúc Lindsey để ý nhìn vào nhà tên Harvey, thì Samuel đã vượt xa phía trước, chú tâm vào việc chỉ đạo tốc độ chạy cho em gái tôi nên không để ý đến chuyện gì khác.
Từ bên trong ngôi nhà màu xanh tên Harvey nhìn ra ngoài. Thấy em gái tôi có ý quan sát, hắn bắt đầu thấy nhột nhạt. Đã ngót một năm rồi mà gia đình Salmon này vẫn nhất quyết theo dõi hắn mãi.
Ở các thành phố và bang khác đã từng xảy ra chuyện tương tự. Gia đình một cô bé nọ tình nghi hắn, còn chẳng ai khác lấy làm ngờ. Hắn đã chuẩn bị chu đáo, từ lời khai với cảnh sát đến vẻ vô tội kèm thái độ khúm núm, xun xoe hỏi han về các thủ tục điều tra hoặc thỉnh thoảng chêm vào vài đề nghị về những điều hắn nghĩ có thể giúp họ, nhưng thật ra vô bổ. Việc hắn gợi ý làm ông Fenerman quan tâm đến cậu nhóc con nhà Elis là một nước cờ hay, chuyện hắn khai man là mình góa vợ đến nay luôn giúp hắn thoát nạn. Hắn tạo dựng ra hình ảnh người vợ bằng những chi tiết từ một nạn nhân nào hắn đột nhiên thấy thích gợi lại từ ký ức, nếu cần làm cho hình ảnh giống người thật ngoài đời thì hắn có sẵn những gì đã biết về chính bà mẹ của hắn.
Trưa nào hắn cũng rời nhà khoảng một hai tiếng đồng hồ. Hắn mang theo những thứ cần thiết rồi lái xe tới công viên Valley Forge; ở đó hắn đi dạo dọc những trục đường chính lát đá hoặc những lối rẽ đắp đất, thỉnh thoảng bỗng thấy mình đứng lẫn giữa đám học sinh đi du ngoạn dã ngoại tề tựu ở ngôi nhà nhỏ bằng gỗ súc của George Washington (1) hay tại nhà nguyện tưởng niệm Washington. Nhưng giây phút ấy làm hắn phấn chấn. Những giây phút mà lũ trẻ háo hức nhìn thấy tận mắt sự kiện lịch sử, như thể chúng thực sự tìm được một sợi tóc bạch kim dài từ mái tóc giả (2) của Washington vướng ở đầu cây cột gỗ sần sùi. Thình thoảng một trong những hướng dẫn viên du lịch hay giáo viên để ý thấy hắn đứng đó, không quen thuộc gì họ nên tuy hắn có vẻ hòa nhã, họ vẫn đưa mắt dò hỏi. Hắn có sẵn cả nghìn câu trả lời: “Trước kia tôi vẫn thường đưa lũ con đến đây.” “Đây là nơi tôi và vợ tôi gặp nhau lần đầu.” Hắn biết rõ rằng hễ hắn kể bất kỳ điều gì liên quan đến một gia đình giả tưởng nào đó là y như các bà các cô sẽ mỉm cười với hắn ngay. Có lần một cô gái hấp dẫn, vóc đẫy đà, tìm cách bắt chuyện với hắn, trong lúc người hướng dẫn của công viên kể cho đám trẻ về mùa đông năm 1776 và trận Battle of the Clouds. (3)
Hắn mới đem bài bản chuyện góa bụa của mình ra, kể lể về người đàn bà tên Sophie Cichetti, biến nàng thành bà vợ đã quá cố, người hắn yêu thắm thiết. Cô kia nghe mà mê mẩn, như thể câu chuyện tình nọ là một món sơn hào hải vị, đến phiên hắn phải nghe cô kể về lũ mèo và người anh có ba đứa con mà cô rất yêu quý thì trong đầu hắn tưởng tượng cảnh cô đang ngả trên chiếc ghế dưới hầm nhà hắn, dĩ nhiên đã nhắm mắt ngàn thu.
Sau lần đó, mỗi khi gặp ánh mắt dò hỏi của một giáo viên, hắn e dè rút lui và đi sang khu nào khác trong công viên. Hắn quan sát những bà mẹ, con nằm trong xe, thoăn thoắt đẩy xe dọc những lối đi trống trải. Hắn nhìn theo đám trẻ choai choai trốn học làm trò ôm ấp nhau trên bãi cỏ mọc cao không xén hay dọc theo những lối rẽ nằm khuất trong kia. Chỗ cao nhất trong công viên là khu rừng nhỏ, nơi thỉnh thoảng hắn vẫn đậu xe. Hắn ngồi trong chiếc xe thùng nhỏ, quan sát những người đàn ông đi một mình đậu lại cạnh hắn rồi xuống xe. Kẻ mặc đồ bộ chỉnh tề tới đây giờ nghỉ trưa, người mặc áo vải bông sợi thô, quần jeans rảo bước vào rừng. Đôi khi họ ngoái nhìn hắn – ngầm chút thắc mắc. Giá đến gần hơn nữa, có khi họ nhìn thấy được, xuyên qua tấm kính trước của xe hắn, điều mà các nạn nhân của hắn đã thấy: dục vọng không kiềm chế được của hắn, như vực sâu không đáy.
Ngày 26 tháng mười một năm 1974, Lindsey thấy tên Harvey rời ngôi nhà xanh, thế là em từ từ chạy tụt lại sau đám con trai. Về sau em vẫn có thể bảo rằng vì có kinh nguyệt và hẳn là đám con trai sẽ không nói gì, có khi còn khoái chí, vì đó là bằng chứng rằng dự án không mấy ai ưa của thầy Dewitt – một nữ cầu thủ trong đội bóng tuyển cấp vùng! – sẽ không bao giờ thực hiện nổi.
Tôi quan sát em mà lấy làm kinh ngạc. Em có thể cùng một lúc là nhiều con người. Một người đàn bà. Một điệp viên. Vận động viên điền kinh. Còn kẻ bị khai trừ kia: một thanh niên đơn độc.
Em vừa đi vừa ôm một bên bụng giả vờ bị chứng co cơ, xua tay bảo bọn con trai cứ chạy tiếp đi khi chúng ngoái cổ nhìn xem em có chuyện gì. Em đi tiếp, một tay vẫn ôm bên hông, cho đến khi đám kia rẽ ngoặt ở góc đường. Bao quanh vuông đất nhà tên Harvey là một hàng thông cao to, đã mấy năm không cắt tỉa. Em ngồi xuống bên một gốc cây, vẫn vờ kiệt sức phòng khi có người hàng xóm nào trong nhà nhìn ra, rồi khi thấy đã đến lúc, em cuộn người như quả bóng, lăn vào giữa hai cây thông. Em chờ. Đám con trai còn chạy một vòng nữa. Thấy đám kia chạy qua, em dõi mắt nhìn chúng cắt đường băng ngang bãi xe trống chạy về hướng nhà trường. Còn lại một mình em. Em ước tính còn khoảng bốn mươi lăm phút nữa thì bố chúng tôi mới bắt đầu băn khoăn sao em chưa có mặt ở nhà. Bố tôi đã thỏa thuận với Samuel rằng hôm nào em gái tôi tập dượt với đội bóng thì Samuel cũng đi cùng và muộn nhất năm giờ phải đưa em về đến nhà.
Suốt cả ngày mây giăng u ám cả bầu trời và cái lạnh cuối thu làm tay chân em nổi da gà. Chạy chung với đội luôn làm em ấm người, nhưng khi vào thay quần áo, nơi em chung phòng tắm với đội Hockey trên sân cỏ, em ớn lạnh cứ run lẩy bẩy cho đến khi nước nóng giội xuống người. Tất nhiên trên bãi cỏ của ngôi nhà màu xanh này thì em còn nổi da gà vì sợ nữa.
Khi đám con trai cắt đường chạy tắt thì em bò tới cửa sổ tầng hầm bên hông nhà tên Harvey. Em đã nghĩ trước sẽ phải bịa chuyện gì, nếu nhỡ bị tóm. Rằng em đuổi theo một con mèo con chui qua hàng thông. Em sẽ kể rằng con mèo màu xám, nhanh như cắt, đã chạy vào nhà tên Harvey, em cứ thế vô tâm đuổi theo.
Em nhìn được vào căn hầm, nhưng trong đó tối om. Em thử mở cửa sổ, nhưng cửa cài then. Có lẽ phải đập vỡ kính mới được. Những ý nghĩ lướt nhanh trong đầu, em sợ gây tiếng động, nhưng đến nước này thì lỡ rồi, không dùng được nữa. Em vừa nghĩ đến bố tôi ở nhà – đang luôn thấp thỏm nhìn chiếc đồng hồ đặt cạnh ghế - vừa cởi chiếc áo bông dài tay, quấn quanh hai bàn chân. em ngồi bệt xuống, tì lên hai tay, rồi dùng cả hai bàn chân đạp một lần, hai lần, ba lần, cho đến khi kính vỡ toang – tiếng kính vỡ đã được hãm thanh bớt rồi.
Em thận trọng đu xuống, lần mò tìm trên tường chỗ tì chân, nhưng còn cách mấy tấc cuối em phải buông người nhảy xuống lớp kính vỡ và sàn bê tông.
Căn hầm có vẻ sạch sẽ, sàn quét sạch, khác hẳn hầm nhà chúng tôi đầy những thùng giấy ghi theo ngày lễ đặt chồng lên nhau: TRỨNG MÙA PHỤC SINH VÀ CỎ XANH (1), NGÔI SAO LỄ GIÁNG SINH/VẬT TRANG HOÀNG – và mãi chẳng được xếp lên hàng kệ bố tôi đã đóng sẵn.
Khí lạnh từ ngoài ùa vào, em cảm nhận luồng gió lùa vào gáy đã đẩy em từ đống kính vỡ hình bán nguyệt lấp lánh vào đến giữa hầm. Em trông thấy cái ghế bành với chiếc bàn con bên cạnh. Em thấy chiếc đồng hồ báo thức to tướng với những con số có lân tinh trên kệ sắt. Tôi muốn hướng ánh mắt em tới chỗ những đường ống để em thấy xương các con vật, nhưng cũng đoán rằng em sẽ tưởng đó là xương tôi, dù em đã từng vẽ mắt ruồi trên giấy kẻ ô ly, và mùa thu vừa rồi em được điểm tối đa giờ sinh vật học của thầy Botte. Nên tôi lại thấy mừng vì em không đi về phía đó.
Tuy tôi không có cách nào hiển hiện cho em thấy, hay thì thầm vào tai, hoặc đẩy em tiến tới, hay giục giã được em, nhưng, một thân một mình, tự em cũng cảm thấy được điều gì đấy. Có gì đó đã hút gió vào căn hầm lạnh lẽo ẩm ướt này khiến em rúm người lại. Em đứng chỉ cách cửa sổ thông thống có khoảng một thước thôi và biết rõ rằng bằng mọi giá phải bước tới, bằng mọi giá phải bình tĩnh và tập trung tìm tang vật; nhưng chính lúc ấy em thoáng nghĩ đến Samuel, đến lúc cậu chạy phía trước, có lẽ tưởng sẽ gặp em ở vòng cuối, vì không gặp nên có lẽ đã chạy ngược về trường, tưởng sẽ gặp em ngoài cổng trường, nhưng rồi đoán – tuy có hơi hoài nghi – rằng em tắm, thế nên chắc anh chàng cũng vào tắm rồi lại đợi em trước khi quyết định làm gì khác. Anh chàng sẽ đợi em bao lâu? Trong khi mắt em dõi theo những bậc thang dẫn lên tầng một, trước khi chân giơ lên để bước, em ước có Samuel ở đây để leo vào theo, bám em từng bước, làm theo mọi cử động của em để xóa cho em cảm giác đơn độc. Nhưng em đã không tiết lộ cho anh chàng về ý định của mình, không kể cho ai hết. Việc em đang làm đây vượt quá giới hạn cho phép – một hành vi phạm pháp – và em biết điều đó.
Nếu sau này nghĩ lại, hẳn em sẽ bảo rằng lúc ấy em cần không khí để thở nên mới leo cầu thang lên tầng trên. Những đốm bụi trắng bám ở mũi giày khi leo thang nhưng em không nhìn thấy.
Em vặn nắm đấm cửa hầm, vào tầng một. Mới chỉ mất năm phút. Còn khoảng bốn mươi phút nữa, em nghĩ. Vẫn còn chút ánh sáng luồn qua mành khành khép kín. Trong khi lại đứng tần ngần trong ngôi nhà giống hệt nhà chúng tôi, em nghe tiếng tờ báo Bản tin cuối chiều rơi đập vào hàng hiên và tiếng cậu bé đưa báo bấm chuông xe đạp khi chạy qua.
Em gái tôi tự nhủ mình đang ở trong một dãy phòng, nếu tuần tự đi từng phòng lục tìm thì may ra kiếm được thứ em cần, thu được chiến tích mang về cho bố chúng tôi, chỉ bằng cách ấy em mới dứt được tôi ra và tìm lại tự do cho mình. Cuộc cạnh tranh không ngừng nghỉ, ngay cả giữa những người còn sống với người đã quá cố. Em trông thấy những viên gạch lát hành lang – cũng cùng một màu xanh thẫm và xám như ở nhà chúng tôi – rồi hình dung hồi bé tí em lóp ngóp bò theo tôi như thế nào, còn tôi thì mới lẫm chẫm biết đi. Rồi em thấy tôi thích chí chập chững chạy nấp ở phòng bên cạnh, em nhớ lại cảm giác lúc vươn người, bước những bước đầu tiên khi tôi từ trong phòng khách ló ra chòng ghẹo em.
Nhưng nhà tên Harvey trống trải hơn nhà chúng tôi nhiều. Không có thảm trải tạo không khí ấm cúng cho vật dụng trang trí. Lindsey bước từ lớp đá lát hành lang vào sàn gỗ thông đánh bóng của căn phòng mà ở nhà chúng tôi là phòng khách. Tiếng em bước dội ra ngoài hành lang để ngỏ; âm thanh của từng cử động đều vàn dội trở lại tai em.
Em không thể ngăn được kỷ niệm cứ ào ạt kéo tới. Mỗi kỷ niệm đều rõ nét làm em đau lòng. Tôi bước xuống cầu thang cõng Buckley cưỡi nhong nhong trên vai. Mẹ tôi giữ chặt tôi, trong khi Lindsey ngóng lên nhìn ánh mắt đầy ganh tị vì tôi cao hơn, nắm những ngôi sao bạc trong tay, với được tới ngọn cây Nô-en. Tôi ngồi trên thành cầu thang, trượt xuống và thúc em cùng trượt. Hai đứa chúng tôi năn nỉ xin bố cho xem truyện tranh sau bữa ăn tối. Cả bọn săn đuổi con Holiday làm nó quýnh lên sủa không ngớt. Và những nụ cười mệt mỏi ngượng ngịu trên mặt, bao lần không đếm xuể, để chụp ảnh ngày sinh nhật, ngày lễ nghỉ và vào cuối niên học. Hai chị em ăn mặc giống hệt nhau trong bộ áo nhung, hay hàng len sọc vuông, hay màu vàng lễ phục sinh. Tay chúng tôi cầm giỏ đựng thỏ bằng sô cô la và trứng gà mà trước đó chúng tôi đã nhuộm màu. Những đôi giày da bóng có dây buộc và khóa. Cố giữ miệng cười trong khi chờ mẹ tôi căn máy ảnh. Những tấm hình thường mờ nhạt, còn mắt chúng tôi đỏ kè. Không cái nào trong những tác phẩm nghệ thuật để lại cho em tôi sẽ giúp cho ai đó mai sau thấy được những khoảnh khắc trước và sau đó, khi hai chị em chơi đùa trong nhà hay tranh giành đồ chơi. Khi chúng tôi còn là hai chị em.
Thế rồi em thoắt trông thấy. Thấy phía lưng khi tôi chạy vụt sang phòng bên. Nơi gia đình tôi đặt phòng ăn chính là căn phòng hắn chứa những ngôi nhà búp-bê đã hoàn tất. Tôi là đứa bé đang chạy ngay trước mặt em.
Em vội chạy theo tôi.
Em đuổi theo tôi qua các phòng tầng dưới, mặc dù đã luyện tập vất vả cho môn bóng đá, thế mà khi trở lại hành lang em vẫn thở dốc. Em chóng cả mặt.
Tôi nhớ tới điều mẹ tôi vẫn nói về một anh chàng cùng đón xe buýt với chúng tôi, tuổi gấp đôi chị em tôi mà mới học lớp hai. “Anh ta không biết tự lượng sức mạnh của mình, nên các con phải cẩn thận khi đứng gần.” Anh ta thích ghì chặt, như một con gấu, bất cứ ai tỏ ra tử tế với mình, ta có thể nhìn thấy nỗi xúc cảm ngây dại tràn ngập nét mặt anh ta và dấy lên trong anh lòng khao khát được vuốt ve mơn trớn. Trước khi bị chuyển trường, đưa đến một nơi nào đó không ai nhắc đến nữa, anh ta có lần nhấc bổng một cô bé tên Daphne lên rồi ghì chặt đến nỗi khi anh ta buông tay thì cô bé kia ngã lăn ra đường. Để đến được với Lindsey, tôi cố đẩy Cõi-Lưng-Chừng, đẩy cật lật đến nỗi bỗng dưng tôi có cảm tưởng sẽ làm em bị thương thay vì giúp được em, như mình muốn.
Em gái tôi ngồi trên những bậc thang cuối khá rộng trổ xuống lối ra cửa, nhắm mắt tập trung điều hòa hơi thở, tập trung vào câu hỏi tại sao em lại vào nhà tên Harvey này. Em cảm thấy bị bó trong cái gì đấy nặng trịch, như một con ruồi vướng mạng nhện, bị cuốn tròn trong những sợi tơ dầy. Em biết rằng bố tôi đã ra ruộng ngô vì bị ám ảnh với cái điều giờ đây đang len lỏi vào tâm trí em. Thì ra em muốn đem về cho bố những chứng cớ để bố dùng làm bậc thang leo trở lên với em, em muốn cung cấp cho bố những dữ kiện để những điều bố nói với Len có sức thuyết phục hơn. Nhưng giờ đây em lại thấy mình đang rơi theo bố vào cái hố sâu không đáy.
Em còn hai mươi phút.
Trong ngôi nhà này em gái tôi là người duy nhất còn sống, nhưng em không đơn độc, còn tôi cũng không phải là bạn đồng hành duy nhất của em. Tiểu sử cuộc đời kẻ giết hại tôi, thi thể những cô gái hắn bỏ lại đây đó, bắt đầu hiển hiện dần trước mắt tôi vào lúc này đây, khi em tôi lọt được vào ngôi nhà này. Tôi đang ở thiên đường. Tôi gọi tên từng người trong bọn họ:
Jackie Mayer, Delaware. 1967. Mười ba tuổi.
Một chiếc ghế nằm chỏng chơ, lật ngược mặt dưới. Cô bé nằm còng queo mặt quay về phía chiếc ghế, trên người chỉ mặc độc chiếc áo thun cộc tay kẻ sọc, không có quần áo gì khác. Cạnh đầu cô là một vũng máu nhỏ.
Flora Hernandez. Delaware. 1963. Tám tuổi.
Hắn chỉ định rờ rẫm thôi, nhưng cô bé khóc thét lên. Cô bé xíu so với tuổi. Tất trái và một chiếc giày về sau có tìm ra. Thi thể không tìm thấy. Xương xẩu nằm dưới hầm đất nện của một tòa chung cư.
Leah Fox. Delaware. 1969. Mười hai tuổi.
Trên một chiếc ghế nệm dài bọc vải, dưới gầm cầu lối ra xa lộ, hắn giết cô bé rất êm thấm. Tiếng xe chạy rầm rầm phía trên ru hắn ngủ gục trên cái xác. Mãi mười tiếng sau, khi một gã vô gia cư gõ gõ vào vách lều tên Harvey dựng bằng những tấm cửa phế thải, hắn mới lo thu vén đồ đạc bỏ trốn, mang theo cả thi thể Leah Fox.
Sophie Cichetti. Pennsylvania. 1960. Bốn mươi chín tuổi.
Là chủ nhà, bà dựng tấm vách bằng Sheetrock ngăn căn hộ tầng trên làm hai. Hắn thích cái cửa sổ hình bán nguyệt trên vách, giá thuê lại rẻ. Nhưng bà than thở hoài về cậu con trai và cứ đòi đọc thơ xon-nê cho hắn nghe. Hắn ngủ với bà bên nửa căn kia, đập vỡ sọ khi bà vừa mở miệng, rồi quẳng xát ở bờ lạch gần đó.
Leidia Johnson. 1960. Sáu tuổi.
Buck’s company, Pennsylvania. Hắn đào một cái hầm trần hình vòm trong một ngọn đồi gần mỏ đá rồi đợi. Cô bé này ít tuổi nhất.
Wendy Richter. Connecticut. 1971. Mười ba tuổi.
Cô bé đang đứng chờ ông bố ghẻ đón trước một quán nước. Hắn cưỡng hiếp cô trong một bụi cây rồi bóp cổ. Lần đó, khi dần tỉnh ra, ngoi lên từ trạng thái mê loạn thường bủa vây, hắn nghe có tiếng động. Hắn quay gương mặt cô gái đã chết về phía mình, rồi khi nghe tiếng người lại gần hắn cắn vào tai cô. “Xin lỗi ông bạn,” hắn nghe hai gã say rượu nói thế trước khi bước sang bụi cây gần đấy đứng tiểu tiện.
Giờ đây tôi nhìn thấy cái thành phố toàn nhưng nấm mộ trôi nổi bồng bềnh, lạnh căm, gió phần phật, là nơi các nạn nhân này tề tựu về, theo những người trên dương thế hình dung. Tôi có thấy những nạn nhân khác của hắn chiếm ngự vào nhà hắn – dấu vết của những gì cho phép nhớ đến họ, vào thời điểm họ lìa trần. Nhưng ngày hôm đó tôi để mặc họ đi tiếp, còn tôi chạy đến với đứa em gái của tôi.
Lindsey đứng ngay dậy, khi tôi tập trung được toàn thần trí vào em. Hai chúng tôi cùng nhau lên cầu thang. Em cảm thấy mình giống những thây ma hồi sinh trong các phim Samuel với Hal thích xem. Một chân đưa lên trước, đôi mắt vô hồn đăm đăm nhìn thẳng. Em vào căn phòng mà ở nhà chúng tôi là phòng ngủ của bố mẹ tôi, song không tìm thấy gì cả. Em đi một vòng hành lang trên gác. Cũng không nốt. Rồi em vào nơi mà ở nhà tôi vốn là phòng tôi trước kia, còn ở đây là phòng ngủ của kẻ giết tôi.
Đó là căn phòng ít trống trải nhất trong ngôi nhà và em cố không xê dịch gì hết. Thò tay vào giữa chồng áo len xếp trên kệ, em trù tính rằng em sẽ tìm thấy gì đấy trong lớp len ấm áp – một con dao, một khẩu súng, một chiếc bút bi hiệu Bic bị con Holiday gặm. Chẳng có gì hết thảy. Nhưng rồi nghe có tiếng gì đấy mà em không xác định được, em quay về phía chiếc giường, thấy chiếc bàn ngủ và trong cái quầng sáng của ngọn đèn chưa tắt là quyển sổ hắn dùng phác sơ đồ. Em đi tới đó, lại nghe tiếng động, lại một tiếng động nữa mà không giải thích được đó là những tiếng gì. Một chiếc xe hơi phóng đi. Tiếng xe phanh rít. Tiếng sập cửa xe.
Em lật từng trang trong sổ tập vẽ, nhìn những hình phác bằng mực những xà ngang, thanh giằng hay những tháp con, cột chống, nhìn những kích thước và chú thích chẳng gợi được cho em điều gì. Rồi, khi lật tới trang cuối, em mới nghe ra có tiếng bước chân bên ngoài, rất gần.
Đúng lúc tên Harvey vặn chìa trong ổ khóa cửa trước thì em nhìn thấy bức họa phác sơ sài bằng bút chì trước mặt. Hình vẽ cây cối bên trên một cái hố đào, cạnh đó là chi tiết về giá đỡ và ống dẫn khói thoát ra, và điều xoáy sâu vào đầu óc em là: bằng nét chữ mỏng như tơ nhện hắn ghi thêm mấy chữ “Cánh đồng ngô Stolfuz.” Nếu không có những bài báo sau khi phát hiện mẩu xương khuỷu tay của tôi hẳn em không thể biết người chủ cánh đồng ngô mang tên Stolfuz. Giờ đây em nhìn thấy điều tôi muốn em biết. Tôi đã lìa trần trong cái hố ấy; tôi đã gào thét, chống trả cật lực và rồi thua cuộc.
Em xé lấy trang giấy đó. Tên Harvey đang ở trong bếp chuẩn bị bữa ăn – món pa-tê gan hắn khoái, một đĩa nho xanh ngọt. Hắn nghe tiếng gỗ sàn cót két. Người hắn đờ cứng. Hắn lại nghe lần nữa, lưng hắn rướn lên, hắn hiểu ngay cơ sự.
Nho rơi lăn lóc xuống sàn, bị chân trái của hắn giẫm nát, trong khi đó em gái tôi ở phòng trên lao ra chỗ tấm mành mành nhôm, kéo chốt cái cửa sổ không chịu bật ra. Tên Harvey nhảy từng hai bậc thang một, còn em gái tôi lấy tay đấm bật tung lưới muỗi, leo ra mái hiên, lăn người xuống, đúng lúc hắn lên tới hành lang trên lầu, lao về phía em. Ống máng vỡ toang khi em tôi lăn qua. Lúc hắn bổ nhào vào phòng ngủ thì em tôi đã nhảy xuống trúng bụi gai hàng rào, lạng tiếp sang bụi cây mâm xôi và cuối cùng rơi giữa đống rác.
Nhưng em không bị thương. Như có phép lạ em không hề hấn gì. Tuyệt vời thay tuổi trẻ. Em đứng dậy khi hắn chạy trờ đến bên cửa sổ định leo ra. Nhưng hắn lại thôi. Hắn thấy em chạy về phía cây hương mộc. Con số in lụa trên lưng áo em quát trả vào mặt hắn. 5! 5! 5!
Lindsey Salmon với chiếc áo cầu thủ bóng đá của mình.
Khi Lindsey chạy về đến nhà thì Samuel đang ngồi với bố mẹ tôi và bà ngoại Lynn.
“Chúa ơi!”, mẹ tôi kêu lên, bà là người đầu tiên thấy em khi nhìn qua mấy khung cửa sổ nhỏ vuông vức hai bên cửa chính vào nhà.
Lúc mẹ tôi vừa mở cửa thì Samuel chạy ào ra, lấp đầy không gian, và thế là em, không nhìn mẹ tôi, cả bố tôi đang khập khiễng bước ra, ngả ngay vào vòng tay Samuel.
“Lạy chúa, lạy chúa, lạy chúa,” mẹ tôi kêu lên khi nhận ra vết bẩn và những vết trầy xước.
Bà ngoại tôi tới đứng bên cạnh mẹ.
Samuel đặt tay lên đầu em gái tôi, vuốt tóc em ra sau.
“Nãy giờ em ở đâu vậy?”
Nhưng Lindsey quay sang bố chúng tôi, giờ đây trông người ông bé hẳn – nhỏ hơn, yếu ớt hơn đứa con gái đang lên cơn giận này. Sao mà em sinh động thế! Câu hỏi này làm bận trí tôi suốt ngày hôm ấy.
“Bố đấy hả!”
“Bố đây, sao con?”
“Con làm rồi. Con lẻn được vào nhà hắn.” Người em còn run, nhưng em cố nén không bật khóc.
Mẹ tôi thảng thốt: “con làm gì?”
Nhưng em gái tôi không nhìn bà, dù chỉ một lần.
“Con mang về cho bố cái này. Con đoán chắc là quan trọng đấy.”
Em nắm trong tay bức vẽ đã vo tròn. Bức vẽ làm cho việc nhảy xuống đất gian truân hơn, nhưng cuối cùng em đã thoát nạn.
Câu nói bố tôi đọc ngày hôm ấy giờ đây bỗng trở lại trong trí ông. Lúc cao giọng lập lại câu nói ấy, ông nhìn vào mắt Lyndsey.
“Không có hoàn cảnh nào khiến con người phải thích nghi nhanh chóng cho bằng thời chiến.”
Lindsey đưa cho bố bức vẽ.
“Tôi phải đi đón Buckley đây,” mẹ tôi nói.
“Mẹ không muốn nhìn xem đấy là gì hay sao, hở mẹ?”
“Mẹ biết nói sao đây, bà ngoại con đến chơi. Mẹ phải đi chợ, làm món gà. Xem ra chẳng ai nhớ là cả gia đình tụ họp ở đây. Cả một gia đình, một gia đình và một đứa con trai, tôi phải đi đây.”
Bà ngoại Lynn đi theo mẹ tôi ra cửa sau, nhưng không tìm cách ngăn bà lại.
Mẹ tôi đi khỏi rồi em gái tôi mới đưa tay cho Samuel. Bố tôi thấy điều mà Lindsey đã nhìn ra qua nét chữ mạng nhện của tên Harvey: rất có thể đó là sơ đồ cái hố chôn tôi. Ông ngẩng lên.
“Giờ con tin bố rồi chứ?”, bố hỏi Lyndsey.
“Vâng, thưa bố.”
Bố tôi – giờ đây nhẹ lòng – thấy phải gọi điện thoại ngay.
“Bố!” em gọi.
“Sao con?”
“Con nghĩ hắn nhìn ra con rồi.”
Tôi không thể tưởng tượng còn có vận may nào lớn hơn việc em gái tôi thoát thân an toàn ngày hôm ấy. Khi rời khỏi vọng lâu, tôi rùng mình vì nỗi lo sợ còn choáng ngợp, không chỉ lo cho bố tôi, mẹ tôi, em Buckley và Samuel, nếu như em mất đi trên cõi dương thế, mà lo – quả là ích kỷ - cho cả chính tôi nữa.
Franny từ quán cà phê bước lại gần tôi. Tôi chẳng buồn ngẩng đầu.
“Susie ơi”, bà nói, “cô có chuyện này cần nói với cháu”
Bà dẫn tôi đến dưới một cây cột đèn kiểu cổ rồi kéo tôi ra khỏi vầng ánh sáng. Bà đưa tôi một mảnh giấy gấp làm bốn.
“Khi nào thấy người khỏe lại, cháu mở ra xem rồi cứ thế tìm đường đến đó.”
Hai ngày sau, tấm bản đồ của Franny đưa tôi đến một cánh đồng tôi vẫn thường đi ngang qua, nhưng chưa từng rẽ vào xem thử, dù thấy tuyệt đẹp. Hình vẽ có một đường chấm chấm, dấu hiệu chỉ một lộ trình. Tôi sốt ruột lùng sục, tìm một con đường ngoằn ngoèo giữa vô vàn luống lúa mì. Thế rồi tôi thấy nó ngay trước mặt, khi tôi vừa đặt chân giữa những luống ấy thì mảnh giấy tan vụn trong tay.
Tôi nhìn thấy một cây ô-liu cổ thụ tuyệt đẹp ngay trước mặt.
Mặt trời đã lên cao, phía trước cây ô-liu là một trảng đất. Tôi chờ một lúc cho đến khi thấy vạt lúa mì phía bên kia lay động, tức có ai đó – không cao hơn ngọn lúa – đang đi đến.
Cô bé trông nhỏ hơn tuổi của mình trên cõi trần, mặc chiếc áo vải bông dày in hoa, chỗ gấu và cổ tay đã bị sờn.
Cô bé dừng bước và chúng tôi chăm chú nhìn nhau.
“Hầu như ngày nào em cũng tới đây,” cô bé nói. “Em thích nghe những âm thanh này.”
Bây giờ tôi mới nhận thấy cành lúa mì xào xạc khi chúng cọ vào nhau trong gió.
“Em có biết cô Franny không?”, tôi hỏi.
Cô bé gật đầu, thái độ long trọng.
“Cô ấy đã đưa chị bản đồ để tìm đến nơi này.”
“Vậy hẳn chị đã sẵn sàng rồi,” cô bé nói, nhưng cô đang ở trong thiên đường của mình, và điều đó đòi hỏi cô phải xoay người cho chiếc váy xòe tròn. Tôi ngồi luôn xuống đất dưới gốc cây, quan sát cô.
Múa xong, cô bé lại ngồi bên tôi, còn hụt hơi chưa kịp lấy lại nhịp thở. “Em tên là Flora Hernandez,” cô bé nói. “Dưới trần tên chị là gì?”
Tôi trả lời em rồi bật khóc, thấy được an ủi khi quen biết một cô gái khác cũng đã bị hắn giết.
“Những người kia sẽ tới ngay thôi,” cô bé nói.
Rồi trong lúc Flora quay tròn, những cô gái và phụ nữ khác, từ mọi hướng, băng qua cánh đồng tề tựu lại đây. Nỗi đau trong tim chúng tôi đổ vào nhau như nước san từ ly này qua ly khác. Mỗi lần kể chuyện mình, tôi lại bớt được một giọt nhỏ đau thương. Ngày hôm ấy tôi biết tôi muốn kể lại câu chuyện của gia đình mình. Bởi vì những chuyện kinh hoàng ở trần thế là điều có thật và diễn ra từng ngày. Nó như bông hoa hay mặt trời kia, không ai và không có cách nào ngăn ngừa hay trấn áp được.
(end chapter 14)
__________________
CHƯƠNG 15
Thời gian đầu không có ai gây trở ngại cho hai mẹ con hắn, điều đó khiến mẹ hắn lấy làm thú vị vô cùng. Tiếng cười lanh lảnh của bà khi hai mẹ con rẽ vào đường ngang ở góc phố để nấp sau khi chuồn khỏi một cửa hàng nào đó, rồi bà lôi ra khoe với hắn những món vừa thuổng được, làm George Harvey cũng bật cười theo, chờ dịp thuận tiện, như lúc bà mải mê với chiến lợi phẩm mới thu được, để ôm lấy mẹ.
Cả hai mẹ con đều thấy nhẹ nhõm khi tránh mặt được ông bố suốt buổi trưa, được lái xe đến thành phố lân cận mua thức ăn và các thứ cần dùng khác. Buôn hàng đồng nát thì họ thạo nhất, và kiếm tiền bằng cách nhặt nhạnh sắt vụn, vỏ chai chất lên thùng chiếc xe hàng cũ mèm của lão Harvey chở vào phố giao hàng.
Lần đầu hắn và mẹ bị bắt quả tang, cô giữ két đối xử với hai mẹ con rất khoan dung. " Nếu bà có tiền để trả thì yên chuyện. Còn không thì bỏ hàng ra đây, cứ để nguyên cả bao bì thế lên quầy," cô tươi tắn vừa nói vừa nháy mắt với thằng bé George Harvey tám tuổi. Mẹ hắn móc trong túi ra một lọ thuốc viên Aspirin nhỏ, rụt rè đặt lên quầy. Bà cúi mặt sượng sùng. " Chẳng giỏi giang gì hơn thằng nhóc," bố hắn hay mắng bà thế.
Tình thế bị bắt quả tang là một kinh nghiệm nhớ đời cho hắn vì luôn đi kèm với nỗi hoảng sợ - cảm giác buồn nôn trộn trạo trọng dạ dày hắn, như trứng bị đánh trong tô - hắn đọc được từ sắc mặt lầm lì và ánh mắt nghiệt ngã của những người đứng quanh, rằng kẻ đang xăm xăm tiến lại phía mẹ con hắn chính là một nhân viên cửa tiệm vừa phát hiện ra mụ đàn bà mới lấy cắp hàng.
Từ đó bà tìm cách tuồn ngay đồ ăn cắp cho hắn lận trong người, còn hắn làm thế là vì bà bắt hắn tuân theo. Nếu trót lọt và ra được tới xe, bà hay vỗ vỗ lên tay lái và gọi hắn là tên đồng lõa tí hon của bà. Buồng lái là nơi bà thể hiện thứ tình mẫu tử đột ngột kéo đến như dông bão được một lúc - rồi lắng dần xuống, đến khi hai mẹ con nhìn ra trên vệ đường có thứ gì lóng lánh làm họ lo căng óc đánh giá xem " khả năng tiêu thụ" có cao lắm không, như mẹ hắn nói - lúc ấy hắn cảm thấy tự do. Tự do và ấm áp trong lòng.
Hắn nhớ lại lời mẹ hắn khuyên lúc trông thấy bên vệ đường một cây thập tự gỗ sơn trắng, lần đầu tiên cả hai lái xe trên một con đường ở bang Texas. Quanh đó là những bó hoa cả tươi lẫn héo úa. Đôi mắt kẻ sành tìm đồ phế thải của hắn lập tức nhận ra ngay mày sắc các bông hoa còn tươi.
" Con phải tập được cách nhìn, dù đó là người chết cũng đừng lấy làm e ngại," mẹ hắn nói. " Thỉnh thoảng có mấy thứ đá hay ngọc cũng đáng công thu nhặt lắm".
Ngay hồi ấy hắn đã cảm thấy họ đang làm điều gì đó sai trái. Hai mẹ con xuống xe, đi tới chỗ cây thập tự. Đôi mắt mẹ hắn thành hai chấm đen sì hắn quen thấy ở bà mỗi khi hai mẹ con bới móc lục lọi. Bà tìm thấy một viên đá hộ mệnh có hình con ngươi và một viên khác hình trái tim, chìa cho hắn xem.
“ Chẳng biết bố sẽ làm gì với ba thứ này, nhưng ta cứ giữ lấy, chỉ mẹ con biết với nhau thôi.”
Bà có một chỗ cất giấu bí mật, không bao giờ tiết lộ với bố hắn.
“ Con muốn cái hình con ngươi hay hình trái tim?”
“ Hình con ngươi”, hắn đáp.
“ Mẹ thấy mấy bông hồng này còn tươi chán, treo trong xe được lắm”.
Đêm ấy hai mẹ con ngủ trong xe, không về kịp chỗ bố hắn đang làm qua ngày cái việc cưa xẻ ván bằng tay.
Hai mẹ con nằm co quắp vào nhau mà ngủ, như thỉnh thoảng vẫn phải làm thế, biến buồng lái thành một cái ổ không mấy thoải mái. Mẹ hắn lăn qua trở lại trên ghế, cứ như con chó nhay kéo tấm chăn. Sau những lần co kéo trước đây, George Harvey nghiệm ra rằng tốt nhất là cứ nằm trơ ra đấy, bà có ẩy hắn sang phía nào cũng mặc. Bà chưa tìm được thế nằm thoải mái thì chẳng ai nhắm mắt được.
Nửa đêm, hắn đang mơ tới những căn phòng ấm cúng của các cung điện như trong loại sách có tranh ảnh minh họa hắn xem ở thư viện công cộng thì có ai đó đập rầm rầm vào mui xe. George Harvey và mẹ ngồi bật ngay dậy. Đó là ba tay đàn ông đang nhòm qua kính xe với tia nhìn mà George Harvey nhận ra liền. Đó là cách bố hắn nhìn thỉnh thoảng khi ông uống rượu say. Tia nhìn này có hai hiệu ứng: tập trung cả vào mẹ hắn, đồng thời hư vô hóa thằng con, như thể hắn không hề có mặt ở đó.
Hắn hiểu rằng không được la hoảng.
“ Con ngồi yên. Bọn chúng mò đến không phải vì con đâu”, mẹ hắn thì thào. Người hắn bắt đầu run bần bật dưới tấm chăn nhà binh cũ hai mẹ con đang đắp chung.
Một trong ba gã đứng chặn trước mui xe. Hai gã kia đập vào hai bên mui xe, vừa cười hô hố vừa thè lưỡi.
Mẹ hắn lắc đầu quầy quậy, song chỉ làm chúng điên tiết thêm. Gã đứng chặn trước xe lấy mông huých vào càng xe làm đầu xe rung rinh khiến hai gã kia càng ôm bụng cười ngặt nghẽo.
“ Mẹ sẽ từ từ dịch người ra”, mẹ hắn thì thào, “ làm như sắp rời khỏi buồng lái. Khi nào mẹ bảo thì con nhổm tới chìa mở máy nhé”.
Hắn hiểu mẹ vừa giao hắn một việc rất quan trọng. biết mẹ cần hắn hỗ trợ. Dù mẹ hắn bình thản như vẫn quen tỏ ra ngoài mặt, hắn vẫn nghe ra cái âm thanh kim loại trong giọng bà, mũi cọc sắt chuyên chọc xuyên nỗi sợ hãi nhô lên.
Bà cười duyên với lũ đàn ông, rồi trong khi chúng reo hò và toàn cơ thể thư giãn thoải mái trở lại thì bà dùng khuỷu tay gạt cần số vào đúng vị trí. “ Nào!” bà nói bằng giọng đều đều, George Harvey chồm tới trước, vặn chìa khóa. Động cơ già nua của chiếc xe tải sống dậy nổ ầm ầm.
Sắc mặt bọn đàn ông thay đổi hẳn, nỗi khoái trá vì sắp được mồi biến đâu mất, rồi trong lúc bà lùi xe được một đoạn khá dài thì chúng sững sờ nhìn theo, hoang mang do dự. Bà cài sang số chạy rồi hét con trai: “ Lăn xuống sàn!” hắn cảm thấy cơ thể của một tay đàn ông tông mạnh vào xe, cách chỗ hắn đang nằm cuộn người chỉ vài tấc. Rồi cơ thể đó bị hất tung lên mui xe, nằm ở đó chỉ một giây, thời gian đủ để mẹ hắn sang số lùi lần nữa. trong trí hắn chớp nhoáng lóe lên nhận thức về phương cách làm sao để tồn tại được ở cuộc đời này: đừng mang thân phận một đứa trẻ hay một người đàn bà. Đó là hai số phận phải chịu nhiều khốn đốn nhất.
Tim hắn đập loạn lên khi thấy Lindsey chạy vội đến bụi cây hương mộc, nhưng rồi ngay lập tức hắn trấn tĩnh lại. Đây là một kỹ năng mà mẹ, chứ không phải bố, đã truyền dạy cho hắn – chỉ ra tay hành động sau khi cân nhắc hậu quả xấy nhất có thể xảy ra cho từng phương án hắn còn có thể chọn lựa. Hắn thấy ngay là quyển sổ ghi chép của hắn bị xe dịch và nhận ra trang giấy vừa bị xé mất của tập phác họa. Hắn kiểm tra cái túi đựng con dao. Hắn mang dao xuống hầm, quẳng xuống cái hố vuông vức khoan xuyên qua móng nền nhà. Hắn gom từ tấm kệ sắt lô đá hộ mệnh của mấy người đàn bà mà hắn còn cất giữ. Hắn nhặt viên đá hộ mệnh hình bang Pennsylvania từ chuếc vòng cổ của tôi, nắm chặt trong tay. Viên đá mang may mắn. Còn những viên đá kia hắn trải lên một chiếc khăn tay trắng, rồi buộc túm bốn góc cột thành một túi nhỏ. Hắn thò tay xuống cái hố dưới móng nhà, nằm xoãi người để thọc sâu tới tận vai. Những ngón tay của hắn mò mẫm, trong khi tay kia giữ túi vải, cho đến lúc thấy đầu thanh cốt thép hoen gỉ còn nhô ra khi thợ nề đổ xi măng lên làm móng. Hắn treo túi chiến lợi phẩm vào đấy rồi rút tay ra, đứng dậy. Tập thơ xon-nê hắn đã chôn ngay đầu mùa hè trong rừng ở gần Công viên Valley Forge, nhẩn nha thủ tiêu dần dần tang vật là cách hắn vẫn làm từ trước đến nay, nhưng giờ đây hắn chỉ dám mong là còn kịp thì giờ.
Nhiều lắm cũng chỉ mất độ năm phút. Có thể do hắn bị sốc và tức giận. Hắn kiểm tra lại những thứ mà người khác xem là có giá trị: khuy măng-sét, tiền mặt, đồ nghề. Song hắn không có nhiều thì giờ để xem kỹ, hắn biết. Hắn phải gọi cho cảnh sát.
Hắn hồi hộp. Hắn đi đi lại lại, bước ngắn và nhanh, hơi thở dồn dập, rồi khi người trực máy ở tổng đài lên tiếng thì hắn cao giọng ra vẻ cáu gắt.
“ Nhà tôi bị phá cửa đột nhập. Yêu cầu cảnh sát đến ngay”, hắn vừa nói vừa chuẩn bị sẵn phần mào đầu tường thuật sự vụ theo ý hắn, nhẩm tính cách làm sao chuồn khỏi đây cho nhanh và những gì cần mang theo.
Bố tôi gọi điện tới đồn cảnh sát, yêu cầu gặp Len Fenerman. Nhưng không ai biết ông Fenerman đang ở đâu. Họ cho bố tôi biết hai cảnh sát mặc sắc phục đã được phái đi điều tra. Khi Harvey mở cửa, hai cảnh sát viên này thấy một người đàn ông mắt còn ứa lệ, hoang mang lo lắng, song nếu xét về mọi phương diện khác, trừ ác cảm gây ra cho các viện chức khi thấy một anh đàn ông không tự kiềm chế xúc động, thì hắn ta phản ứng rất bình thường, không rối trí khi bị cật vấn về diễn biến sự việc.
Mặc dù đã được thông báo qua điện đàm về bức phác họa Lindsey đã lấy được, việc Harvey sẵn sàng để họ khám nhà gây cho hai viên cảnh sát ấn tượng tốt về hắn. Họ thấy hắn có vẻ chân thành khi bày tỏ mối đồng cảm của hắn về gia đình Salmon.
Hai viên cảnh sát càng lúc càng thấy ngại ngùng. Họ chỉ khám chiếu lệ nên chẳng tìm ra gì khác ngoài việc thấy hiển hiện trước mắt gia cảnh một kẻ sống cô đơn cùng cực, trên tầng hai còn có một căn phòng đầy những ngôi nhà xinh xắn lắp cho búp bê, lên đến đó họ chuyển đề tài, hỏi hắn làm nghề lắp ráp này đã bao lâu rồi.
Sau này họ báo cáo nhận thấy thái độ của hắn đột nhiên thân thiện hẳn. Hắn vào phòng ngủ đem ra tập giấy có các sơ đồ, nhưng không đả động đến bức vẽ bị lấy mất. Hai cảnh sát viên nhận thấy càng lúc hắn càng xởi lởi khi đưa họ xem bản phác hoạ nhà cho búp-bê của hắn. Họ khéo léo hỏi tiếp một câu.
“ Thưa ông”, một viên cảnh sát nói, “ chúng tôi có thể đưa ông về đồn để lấy khẩu cung tiếp và dĩ nhiên ông có quyền đòi có mặt luật sư, nhưng…”
Tên Harvey ngắt lời ngay. “ Tôi sẵn sàng trả lời mọi câu hỏi của các ông ở đây. Tôi là kẻ bị thiệt hại, tuy tôi không có ý định đưa kiện cô bé đáng thương kia”.
“ Cô gái đột nhập vào nhà ông”, viên cảnh sát nói tiếp, “ đã lấy đi một thứ. Đó là bản vẽ một kiểu xây ở cánh đồng ngô…”
Sau này hai cảnh sát viên tường trình với thanh tra Fenerman là khi được hỏi thế Harvey trả lời ngay một cách đầy thuyết phục. Hắn giải thích có đầu có đuôi, ăn khớp hoàn toàn đến nỗi họ không nghĩ hắn sẽ bỏ trốn – nói cho đúng thì vì ngay từ đầu họ không hề nghi hắn là kẻ sát nhân.
“ Chà cô bé đáng thương đó”, hắn nói. Hắn đặt những ngón tay trên đôi môi mím lại. Hắn quay sang lật các trang trong tập vẽ, cho tới chỗ có bức họa rất giống bức mà Lindsey đã lấy.
“ Đây, có phải vức hình kia giống như bức này không?” Hai cảnh sát viên – giờ trở thành khán giả của hắn – gật đầu. “ Tôi từng hình dung thử xem sự vụ xảy ra thế nào”, tên Harvey bộc bạch. “Tôi xin thú nhận là tính kinh dị của vụ đó quả tình đã ám ảnh tôi mãi. Tôi nghĩ rằng cả vùng này ai cũng vắt óc nghĩ cách làm sao phòng ngừa những vụ tương tự. Băn khoăn tự hỏi vì sao họ không hề nghe, cũng chẳng hề thấy gì hết. Ý tôi muốn nói là cô bé kia chắc chắn phải có gào thét chứ”.
“Thế này nhé”, hắn vừa nói với hai viên cảnh sát vừa chỉ cây bút lên bản vẽ. “Xin lỗi, nhưng tôi có thói quen suy nghĩ bằng sơ đồ xây cất, thế nên sau khi nghe kể ở cánh đồng ngô có dấu máu, rồi đấy ở chỗ đó phải xới tung lên, tôi nghĩ có lẽ…” Hắn nhìn họ, thăm dò ánh mắt. Cả hai viên chức chăm chú lắm nghe. Họ muốn nghe hắn nói tiếp. Đến nay cảnh sát chẳng tìm ra được dấu vết nào, tử thi cũng không, manh mối chẳng có. Biết đâu tay đàn ông kỳ dị này có một giả thiết họ có thể dùng được. “Thế này nhé, kẻ gây ra vụ này hẳn đã xây gì đó ngầm dưới đất, một cái hố chẳng hạn, và xin thú thật là từ đó tôi mới nghĩ tới nghĩ lui, thêm chi tiết này nọ, theo cách tôi vẫn phác họa nhà cho bup-bê, thế nên tôi vẽ thêm ống khói và ngăn kệ, nói cho cùng, cũng vì thói quen thôi”. Hắn ngưng nói một lúc. “Tôi có thì giờ vì ở có một thân một mình”.
“Vậy ông có rút được kết luận gì không?” một viên cảnh sát hỏi
“Tôi vẫn tin rằng tôi đoán không sai lắm đâu”.
“Thế sao ông không báo cho chúng tôi?”
“Tôi có báo thì cũng chẳng đem được cô con gái còn sống về trả cho họ. Lần thanh tra Fenerman hỏi cung tôi khai thấy thằng con nhà Ellis khả nghi, nhưng hóa ra sai bét. Từ đó tôi không muốn đưa những suy luận vớ vẩn của mình ra cho ai biết”.
Hai cảnh sát viên cáo từ và báo trước hôm sau thanh tra Fenerman sẽ ghé qua, vì ông ta chắc chắn muốn kiểm tra lại mọi chuyện: xem tập phác họa, nghe những quyết đoán của Harvey về vụ cánh đồng ngô. Harvey đáp hắn xem đây thuộc phần nghĩa vụ công dân của mình, tuy đúng ra hắn mới chính là nạn nhân. Hai cảnh sát viên lập biên bản vụ em gái tôi đột nhập từ lúc phá cửa sổ hầm cho tới khi nó trèo ra ngoài cửa sổ phòng ngủ. Họ bàn đến những thiệt hại cần đòi bồi thường nhưng Harvey bảo sẽ tự bỏ tiền ra sửa, nhấn mạnh là hắn nhìn thấy nỗi đau buồn hằn trên khuôn mặt ông Salmon suốt nhiều tháng nay, giờ đến nỗi đau đó có lẽ đã lây lan sang em gái của cô bé tội nghiệp kia.
Càng ngày tôi càng thấy những cơ may cho phép chặn bắt tên Harvey ngày một giảm đi, đồng thời tôi mục kích sự suy sụp dần của gia đình mình mà tôi biết rõ từ tấm bé, giờ đây tôi còn thấy nó bắt lửa cháy phựt lên.
Sau khi đón Buckley từ nhà bà Nate về, mẹ tôi ngừng ở trạm điện thoại công cộng trước một tiệm 7 – Eleven(1) trên đường số 30. Bà bảo ông Len đến gặp, chỗ hẹn là một cửa hàng tạp phẩm giá rẻ trong khu thương xá cạnh siêu thị. Ông ta lên xe đi ngay. Xe ra khỏi cổng thì điện thoại reo trong nhà nên ông ta không nghe thấy. Ông ngồi trong chiếc xe như trong chiếc hộp bọc kín, nghĩ đến mẹ tôi, ý thức rằng những gì đã xảy ra quả là không nên không phải, rồi nghĩ đến chuyện ông không thể dứt khoát đoạn tuyệt với bà vì những lý do mà bản thân ông cũng không rõ, vì chưa hề dành đủ thì giờ phân tích cặn kẽ hay quyết tâm gạt sang một bên.
Mẹ tôi lái đoạn đường ngắn từ siêu thị tới khu thương xá, dắt Buckley đi qua nhiều lượt cửa kính đến một bãi hình tròn ở tầng dưới, nơi các ông bố bà mẹ có thể gửi con chơi ở đấy trong khi đi mua sắm
Buckley thích mê. “Sân làm trò xiếc! Con chơi được không?” nó hỏi, khi thấy đám trẻ cùng trang lứa đang từ giàn leo nhảy xuống rồi nhào lộn trên nền nhà có lót lớp đệm cao su.
“Con thích chơi lắm hả, cưng?”, bà hỏi cậu con.
“Thích lắm”, nó đáp.
Bà đóng vai bà mẹ phải nhượng bộ con. “Thôi được”, bà nói. Nó liền chạy ào tới chiếc cầu trượt bằng sắt màu đỏ. “Ngoan nhé!” bà gọi với theo. Trước giờ bà chưa từng cho phép nó chơi khi bà không có mặt tại chỗ để trông chừng.
Bà cho nhân viên trông trẻ ở sân chơi biết tên con mình, bảo là bà đi chợ trong siêu thị cạnh tiệm Wanamaker ở tầng dưới.
Vào thời điểm tên Harvey trình bày với hai viên cảnh sát hắn đã thử tưởng tượng tôi có thể bị giết theo cách nào thì mẹ tôi đang đứng trong tiệm tạp phẩm rẻ tiền của công ty Spencer’s, chợt bà cảm thấy có bàn tay chạm nhẹ vào sau vai. Bà quay lại, thấy nhẹ người sau thời gian đứng đợi, song chỉ nhìn thấy lưng ông Len Fenerman đang tìm lối đi về hướng cửa ra. Mẹ tôi đi theo ông, ngang qua những chiếc mặt nạ sơn dạ quang, những quả bóng màu đen vẽ mặt trừng trợn, những loại móc chìa khóa hình một lũ quỷ tóc xù và một cái đầu lâu to tướng răng nhe nhăn nhở.
Ông ta không quay lại lần nào. Bà bước theo, mới đầu còn căng thẳng, sau thành ra bực bội. Khoảnh khắc giữa những bước chân đủ dài để nghĩ suy, nhưng bà không muốn nghĩ đến bất cứ điều gì cả.
Cuối cùng bà thấy ông mở khóa một cánh cửa màu trắng ẩn vào tường mà trước nay bà không hề để ý.
Qua tiếng ồn ào trong hành lang tối om trước mặt bà biết Len đưa bà vào khi đặt máy và ống dẫn quanh trục giữa của khu thương xá. Hệ thống lọc không khí hay bơm nước. Bà không lấy làm bận tâm. Trong bóng tối, bà tưởng tượng đang ở trong chính trái tim mình, tấm phim phóng lớn bà đang thấy ở phòng mạch bác sĩ của bà vụt hiện ra trước mắt, cùng lúc đó bà thấy bố tôi, khoác lại áo như bằng giấy của bệnh viện, chân mang tất đen, ngồi ở mép bàn khám nghiệm, nghe bác sĩ giải thích cho cả hai về nguy cơ bị liệt tim do chứng sung huyết. Đúng lúc bà sắp buông mình chìm lỉm trong sầu muộn, muốn gào lên, loạng choạng, tâm trí rối loạn thì bà cũng vừa đi đến cuối hành lang, chỗ dẫn vào một không gian mênh mông, chiều cao bằng ba tầng lầu, vang động tiếng ro ro, rì rầm của máy chạy liên tục, đó đây chỗ nào cũng đầy những ngọn đèn tí hon gắn trên các bể chứa kín và trục quay bằng kim loại. Bà đứng lại, lắng nghe xem có một âm thanh nào khác ngoài tiếng rì rầm đinh tai của không khí được hút từ cả khu thương xá về tinh lọc ở đây rồi chuyển ngược trở lại. Không có tiếng gì khác.
Tôi nhìn thấy Len trước cả khi bà thấy ông. Đứng một mình ở một góc gần như tối om, ông ta quan sát bà một lúc, thấy mình không nhầm khi đọc được nỗi khát khao trong đôi mắt bà. Ông thấy có lỗi với bố tôi, với gia đình tôi, nhưng ông ta chọn buông thả để mình chìm trong đôi mắt ấy. “Anh chỉ muốn chết đuối trong đôi mắt em thôi, Abigail ạ”, ông ta muốn nói với bà nhưng biết rằng không được phép làm thế.
Lần hồi mẹ tôi nhìn ra hình thù các thứ kết nối chằng chịt hợp thành cái khối sắt thép bóng loáng này, và trong một khoảnh khắc tôi nghĩ hẳn bà thấy chỉ cần một căn phòng này là đủ, một lãnh thổ xa lạ cách biệt là đã đủ để bà cho tất cả lắng dịu xuống. Đó là cảm giác khi không để cho ai hay bất cứ điều gì làm phiền mình nữa.
Giá không hề xảy ra chuyện có bàn tay ông Len đưa ra, các đầu ngón tay ông chạm nhẹ các ngón tay bà thì có lẽ tôi đã níu giữ được mẹ ở đó, cho riêng một mình tôi. Không gian này sẽ chỉ là nơi tạm nghỉ để hồi sức khá ngắn ngủi trong cuộc đời của người đàn bà tên Salmon.
Nhưng ông ta đã chạm vào tay bà và bà quay người lại. Bà vẫn chưa thể nhìn thẳng vào mặt ông ta. Nhưng ông ta chấp nhận tâm trạng hồn một nơi thân xác một nẻo của bà.
Tôi nhìn mà đầu óc quay cuồng, tay bíu chặt vào chiếc trường kỷ trong vọng lâu, cố hớp hơi để thở. Tôi thầm nghĩ bà sẽ chẳng bao giờ biết được rằng trong lúc bà luồn tay vào tóc ông Len, còn ông ta vòng tay ra sau lưng ghì sát bà vào người, thì kẻ giết tôi đang tiễn chân hai viên cảnh sát ra cửa.
Những nụ hôn tới tấp trên cổ xuống đến ngực mẹ tôi gây cho tôi cảm giác đang có những bàn chân chuột nhắt giẫm nhẹ lân mình, như những cánh hoa đang rơi. Dẫn đến sa đọa nhưng lại tuyệt vời quá đỗi. Chúng là lời thì thào rủ rê bà bỏ đi để thoát khỏi tôi, khỏi gia đình và nỗi sầu muộn của mình. Bà để thân xác mình đi theo tiếng gọi đó.
Vào lúc ông Len nắm tay kéo bà rời chỗ bức tường đi đến một chỗ chằng chịt đường ống, nơi tiếng động rầm rĩ phía trên cao phụ họa thêm cho cuộc hòa âm thì tên Harvey bắt đầu thu xếp hành trang, ở sân chơi trò xiếc, em Buckley làm quen một cô bé chơi trò quay vòng Hula-Hoop, em gái tôi và Samuel nằm bên nhau trên giường của nó, quần áo vẫn mặc sẵn phòng khi phải đi ngay, tinh thần căng thẳng, bà ngoại tôi một mình ngồi nốc ba ly rượu mạnh trong phòng ăn, còn bố tôi cứ ngồi canh máy điện thoại.
Mẹ tôi giằng lấy áo khoác của ông Len giật phăng ra, rồi đến áo sơ-mi, mê man trong cơn thèm khát, ông phụ bà cởi nốt. Ông đứng nhìn bà cuống quít tự cởi quần áo, kéo chiếc áo len qua đầu, thả rơi chiếc váy, xong đến chiếc áo lót cổ lọ, trên người giờ chỉ còn quần áo lót. Ông ngây người nhìn bà.
Samuel hôn lên gáy em gái tôi, ngửi thấy mùi xà bông và thuốc sát trùng Bactine, chợt biết ngay từ giây phút đó, rằng cậu không bao giờ muốn rời xa em nữa.
Ông Len định thốt lên điều gì, tôi cũng thấy mẹ tôi đã đoán biết ngay khi ông vừa hé môi. Bà nhắm nghiền mắt, ra lệnh cho toàn thế giới phải im tiếng – lời gào thét inh vang trong óc. Bà lại mở mắt ra nhìn ông ta. Ông lặng thinh, miệng khép lại. Bà kéo tấm áo lót bằng vải bông qua đầu và tuột nốt chiếc quần lót. Mẹ tôi có dáng dấp của tôi, nhưng tôi thì sẽ chẳng bao giờ trưởng thành để có thân hình như bà được. Nhưng bà đặc biệt có nước da trắng ngà, có đôi mắt xanh thẫm màu đại dương. Bà ruỗng nát, chìm đắm, buông thả.
Lúc tên Harvey bước ra khỏi ngôi nhà của hắn lần cuối cùng thì mẹ tôi cũng thỏa được ước vọng lúc đó vô cùng khẩn thiết đối với bà, đó là tìm lối thoát ra khỏi trái tim đã kiệt quệ, tìm đường tự cứu lấy mình bằng một cuộc phiêu lưu tình ái.
End 15
------------*******-------------
CHƯƠNG MƯỜI SÁU
Đúng hôm tròn một năm kể từ ngày tôi qua đời, tiến sĩ Singh gọi điện thoại về nhà báo rằng sẽ không về kịp vào giờ ăn tối. Được tin, bà Ruana vợ ông vẫn tiếp tục luyện tập như thường lệ. Nếu trong khi tập kéo giãn cơ bắp trong người, trên tấm thảm ở cái góc vào mùa đông là chỗ ấm áp nhất trong nhà, mà không sao gạt khỏi tâm trí những thắc mắc về việc ông chồng hay cáo việc vắng nhà, thì bà đành chịu để chúng gặm nhấm làm bà mòn mỏi, cho đến khi cơ thể nài nỉ bà cứ để ông đi đừng níu giữ, nên tập trung đầu óc – như lúc này đây, bà khom người tới trước, hai cánh tay vươn ra cố chạm đầu ngón chân – lo vận động toàn thân, cho não bộ ngừng làm việc, quên đi mọi chuyện trừ cảm giác thanh thoát dễ chịu khi kéo giãn tối đa mọi cơ bắp và uốn cong được toàn thân.
Bệ dưới của khung cửa sổ phòng ăn thấp gần sát nền nhà, giữa bệ cửa và sàn là ống nẹp sắt chạy dọc chân tường của hệ thống lò sưởi mà bà Ruana thường vặn tắt, vì tiếng ồn làm rộn bà. Nhìn ra ngoài bà thấy cây anh đào, hoa lá đã rụng cả. Lồng chim trống hoác treo lủng lẳng ở một nhánh cây đang đung đưa.
Bà kéo cho giãn mọi cơ bắp, cứ thế đến lúc thấy ấm người và không còn nhớ mình là ai, ngôi nhà nơi bà đang ở cũng trôi vào quên lãng. Không nhớ mình bao nhiêu tuổi hay có một cậu con trai nữa. Thế nhưng bóng dáng ông chồng vẫn lẻn vào được vào, lảng vảng đâu đây. Bà linh cảm một điều. Bà không tin có người đàn bà hay thậm chí một cô sinh viên nào đó mến mộ đến độ níu kéo được ông, khiến ông sau này thường về nhà rất muộn. Bà biết nguyên cớ đó là gì, bởi bà từng trải nghiệm, ngày đó cách đây đã lâu, và đã phải đấu tranh gay gắt với chính mình mới thoát ra được, sau một thời gian dài mang nhiều thương tích. Đó là lòng hiếu thắng.
Bỗng bà nghe có tiếng ồn.. Tiếng con Holiday sủa cách hai đường phố vọng đến đây, thế là con chó nhà Gilbert sủa lại, thêm vào đó tiếng Ray đang lục đục trên gác. May thay, một lúc sau đùng đùng trỗi lên nhạc của Jethro Tull(1), át hết mọi âm thanh nào khác.
Trừ vài điếu thuốc lá thỉnh thoảng bà hút, kín đáo không để Ray thấy mà nại cớ bắt chước, còn thì bà rất chăm lo giữ gìn sức khỏe. Nhiều bà hàng xóm kháo nhau không hiểu bà làm thế nào mà trông trẻ hoài, có người còn hỏi xin bà bí quyết, bà thì cho rằng những lời yêu cầu đó chỉ là cái cớ để chuyện vãn với bà, người láng giềng sống biệt lập, sinh quán ở mãi đâu xa xôi. Tuy vậy, khi tĩnh tọa theo thế Sukhasana(2), làn hơi chậm dần theo nhịp thở sâu, bà vẫn không thể giải thoát tâm trí, rũ bỏ được mọi ý nghĩ. Nỗi băn khoăn còn luẩn quẩn trong trí – rằng bà sẽ phải tính sao đây khi Ray đến tuổi trưởng thành, còn ông chồng ngày càng bù đầu làm việc nhiều hơn – mới đầu chui vào gan bàn chân, chạy dọc bắp chân đến đầu gối, rồi lần lên phía bụng.
Tiếng chuông gọi cửa vang lên.
Được thoát nạn khỏi phải nghĩ ngợi tiếp, bà Ruana thấy nhẹ người, nên tuy vốn cho rằng việc tuân thủ các bước tuần tự là một phần của việc tập thiền, bà vẫn bật ngay dậy, vớ chiếc khăn choàng vắt ở thành ghế quấn quanh thắt lưng, đi ra mở cửa trong khi tiếng nhạc của Ray từ trên lầu dội xuống đinh tai. Bà thoáng nghĩ chắc có ai bên hàng xóm sang than phiền tiếng nhạc ồn, rồi họ sẽ thấy bà xuất hiện trong độc bộ áo nịt bó sát người màu đỏ, thêm cái khăn choàng quấn quanh lưng.
Ruth đứng ở ngưỡng cửa, tay ôm túi đựng hàng siêu thị.
“Cháu đấy à,” bà Ruana nói. “Có chuyện gì đấy?”
“Cháu muốn gặp Ray.”
“Cháu vào đây.”
Hai người phải nói to mới át được tiếng ồn từ trên lầu vọng xuống. Ruth bước vào nhà.
“Cháu cứ lên thẳng trên ấy,” bà Ruana gào, tay chỉ lên cầu thang.
Tôi quan sát bà Ruana chăm chú nhìn bộ đồ bảo hộ lùng thùng, chiếc áo lót cổ lọ và chiếc áo pác-ca của Ruth. Cô bé này mình sẽ nói chuyện hợp đấy, bà nghĩ thầm.
Lúc đang đứng với mẹ trong siêu thị, Ruth chợt nhìn thấy lô nến sáp xếp cạnh chồng đĩa giấy và dao nĩa bằng nhựa. Sáng nay vào lớp, cô nàng đã nhớ ra hôm nay là ngày gì đó rồi nhưng khi thấy những việc mình làm từ sáng đến giờ - nằm trên giường đọc quyển Chuông thủy tinh(3), phụ mẹ dọn dẹp cái góc mà ông bố nhất định gọi là nhà kho chứa đụng cụ của ông, còn cô nàng gọi là kho trữ thơ văn, rồi tháp tùng mẹ đi chợ - chẳng có gì để đánh dấu rằng đó là ngày giỗ của tôi, nên cô nàng nghĩ phải làm một điều gì đấy mới được.
Khi chợt nhìn thấy nến cô nàng biết ngay việc mình cần làm là đến tìm Ray, rủ cậu cùng đi. Vì hai đứa hay gặp nhau ở khu ném tạ nên dù cách đối xử chẳng giống các đôi lứa cùng tuổi, bọn trẻ trong trường vẫn trêu chọc gán ghép hai cô cậu với nhau. Dù Ruth có vẽ đến bao nhiêu tranh phụ nữ khỏa thân hay quấn đủ kiểu khăn trùm đầu, viết luận văn về nữ danh ca Janis Joplin hoặc phản đối quyết liệt chuyện đàn bà cứ phải cạo sạch lông chân lông nách, dưới mắt lũ bạn cùng trường ở Fairfax cô nàng vẫn là một thiếu nữ hơi kỳ quặc, có lần bị chúng bắt gặp đang làm màn H-Ô-N-M-Ộ-T-C-Á-I-Đ-I với một cậu trai cũng lập dị không kém.
Điều không ai hiểu được – và dĩ nhiên hai đứa đâu thể tiết lộ với ai – là hai đứa muốn làm thử xem sao. Ray mới chỉ hôn một mình tôi, còn Ruth chưa hề hôn ai, nên hai đứa mới hội ý thử hôn nhau xem sẽ cảm thấy thế nào.
“Tớ chẳng cảm thấy gì hết,” ngay sau đó Ruth nói, khi cả hai còn nằm trên lớp lá rụng dưới gốc cây đằng sau bãi đậu xe của giáo viên.
“Tớ cũng thế,” Ray thú nhận.
“Thế khi hôn Susie bạn có thấy gì không?”
“Có.”
“Thấy sao?”
“Thấy muốn thêm nữa. Tối hôm ấy tớ nằm mơ, thấy lại hôn cô nàng lần nữa, rồi lại thắc mắc không biết cô nàng có cùng mong muốn như mình không.”
“Thế còn chuyện ăn nằm với nhau?”
“Tớ đâu đã tiến xa đến thế. Bây giờ tớ hôn bạn đã thấy khác, không giống lần đó.”
“Mình thử lại cũng được,” Ruth nói. “Tớ chẳng ngại, với điều kiện bạn đừng tiết lộ cho ai biết.”
“Tớ tưởng bạn chỉ để tâm đến phái nữ thôi,” Ray nói.
“Tớ đề nghị thế này nhé,” Ruth nói, “bạn coi như tớ là Susie, tớ cũng thế.”
“Bạn nghĩ chuyện loạn bậy thật đấy,” Ray cười cười trả lời.
“Nghĩa là bạn không muốn chứ gì?” Ruth trêu.
“Cho tớ xem tranh của bạn đi.”
“Có thể óc tớ nghĩ loạn bậy thật,” Ruth vừa đáp vừa lôi trong cặp ra tập vẽ - đầy những hình phụ nữ khỏa thân phác theo ảnh trong tạp chí Playboy, nhiều bộ phận cơ thể được phóng lớn hoặc thu nhỏ lại, những sợi lông và chỗ da xếp nếp đã bị tẩy xóa trên tờ báo được vẽ thêm vào hay tô lại – “song ít ra tớ không bắt cây bút chì phải vẽ sai sự vật bao giờ.”
Lúc Ruth lên đến phòng Ray thì cậu đang nhảy theo tiếng nhạc. Cậu đeo mắt kính – lúc đi học thì không, vì kính dày cộp mà ông bố chỉ chịu xuất tiền cho loại gọng rẻ và bền bỉ nhất. Cậu mặc một chiếc quần jeans lụng thụng, bạc màu và chiếc áo thun cụt tay mà Ruth đoán – còn tôi biết rõ – là cậu cứ mặc thế đi ngủ chứ không thay.
Chợt thấy cô bạn ôm túi đồ xuất hiện ở ngưỡng cửa, cậu khựng lại ngừng nhảy, đưa tay lên tháo kính, rồi không biết phải làm gì, cậu huơ kính: “Chào bạn.”
“Bạn vặn nhạc nhỏ lại được không?” Ruth hét.
“Được chứ!”
Hét tiếng ồn mà Ruth vẫn còn bị ù tai mất một giây. Trong khoảnh khắc ấy cô nàng thấy có tia sáng lóa lên trong mắt Ray.
Cậu đứng phía tường bên kia, giữa hai người là chiếc giường ngủ, khăn trải cái thì nhàu cái thì vo cuộn vội, phía trên đầu giường có treo bức tranh Ruth phác họa tôi theo hồi ức.
“Tranh này bạn đem treo thật à?” Ruth nói.
“Tớ thấy tranh rất đạt.”
“Ngoài bạn với tớ ra có thấy ai thế đâu.”
“Có, mẹ tớ cũng thấy tranh rất đạt.”
“Mẹ bạn cảm nhận mọi thứ đều rất sâu sắc,” Ruth vừa nói vừa đặt túi xuống. “Thảo nào bạn cũng có tính dở hơi.”
“Trong túi có gì vậy?”
“Nến đấy,” Ruth đáp. “Tớ mua ở siêu thị. Hôm nay là ngày mồng 6 tháng Chạp.”
“Tớ biết.”
“Tớ nghĩ hay bọn mình đi ra ruộng ngô, thắp nến lên. Nói lời vĩnh biệt.”
“Bạn nói vĩnh biệt bao nhiêu lần nữa?”
“Tớ chợt nảy ra ý đó, có thế thôi,” Ruth đáp. “Tớ đi một mình vậy.”
“Không”, Ray nói. “Tớ đi với.”
Ruth để nguyên áo xống ngồi xuống chờ cậu thay áo thun. Cô nàng nhìn cậu đang quay lưng lại, trông người mảnh dẻ, song bắp thịt cánh tay nổi cuộn sẽ còn nảy nở tiếp, còn nước da, giống bà mẹ, trông mời mọc lôi cuốn hơn nước da cô nàng nhiều.
“Mình thử hôn nhau một lúc đi, nếu bạn thích.”
Cậu quay lại, cười hoan hỉ vì bắt đầu thích thử nghiệm kiểu này. Cậu không còn nghĩ đến tôi những lúc đó nữa – dù vậy thấy chưa đến lúc thú thật với Ruth.
Cậu thích cách cô nàng rủa xả và tỏ lòng căm ghét nhà trường. Cậu thích cách cô nàng hành xử thông minh khéo léo, cách cô nàng ra vẻ không hề tự ái về chuyện bố cậu là tiến sĩ (tuy không phải bác sĩ y khoa, như có lần cô nàng lưu ý cậu) còn bố cô nàng chỉ là người làm nghề dọc sạch loại nhà sắp phải phá sập, hay ở gia đình Singh sách xếp hàng dãy trong khi cô nàng thiếu thốn, thèm có sách biết bao.
Cậu ngồi xuống giường cạnh bên cô nàng.
“Cởi áo khoác ra nhé?”
Cô nàng làm theo.
Thế là vào ngày giỗ của tôi Ray ôm ghì lấy Ruth, hai người mê mải hôn nhau cho đến lúc cô nàng nhìn cậu kêu lên: “Bố khỉ!”, cô nàng nói. “Hình như tớ có cảm thấy gì đấy thật.”
Khi Ray và Ruth ra đến cánh đồng ngô, cả hai cùng lặng thinh, cậu cầm lấy tay Ruth. Cô nàng không rõ cậu nắm tay cô nàng vì cả hai bắt đầu buổi lễ tưởng niệm tôi hay vì cậu mến cô nàng. Đầu óc cô nàng đang rối rắm, không còn sáng suốt như thường lệ.
Thế rồi cô nàng nhận thấy mình không phải là người duy nhất tưởng nhớ đến tôi. Hal và Samuel Heckler đứng kia rồi, lưng quay về phía cô nàng, tay đút túi quần. Ruth thấy mấy cành hoa thủy tiên màu vàng trên mặt đất.
“Bạn mang hoa này tới à?” Ruth hỏi Samuel.
“Không”, Hal đáp thay em. “Khi bọn này tới thì đã thấy có rồi.”
Bà Sead đứng ở phòng con trai bà trên lầu nhìn ra. Bà quyết định khoác áo măng-tô đi ra cánh đồng ngô. Bà thấy không cần băn khoăn là có nên ra đó góp mặt hay chăng.
Bà Grace Tarking đang đi dạo quanh khu nhà thì gặp bà Stead cầm hoa trạng nguyên từ nhà đi ra. Hai bà trao đổi vài câu ngắn ngủi. Bà Grace bảo bà tạt về nhà rồi sẽ ra ngay.
Bà Grace gọi điện thoại đi hai nơi, một cho ông bạn ở một khu sang hơn gần đấy, một cho gia đình Gilbert. Gia đình này vẫn chưa hết bàng hoàng vì ngẫu nhiên đóng vai nhân chứng cho phép xác định rằng tôi chết thật rồi – con chó giống Labrador trung thành của họ phát hiện ra tang vật đầu tiên. Bà Grace đề nghị để bà đi cùng, hai ông bà Gilbert cao tuổi nên việc băng qua mấy sân cỏ hàng xóm và đường đất mấp mô ngoài đồng sẽ nhọc nhằn đấy, nhưng ông Gilbert bảo được mà, ông muốn đến đó. Họ có nhu cầu làm vậy, nhất là vợ ông – ông bảo bà Grace Tarking như thế, tuy tôi thấy rõ chính ông cũng suy sụp không kém. Ông luôn xoa dịu nỗi đau bằng cách hết lòng chăm sóc bà vợ. Có lúc hai ông bà đã định đem cho con chó rồi ấy chứ, song lại thôi vì nó là niềm an ủi lớn của họ.
Ông Gilbert tự hỏi không biết Ray, thường ngày lãnh việc mua các thứ cần dùng cho ông bà, cậu trai dễ mến, bị ngờ oan kia, có hay biết chuyện này không, nên ông mới gọi điện đến nhà gia đình Singh. Bà Ruana bảo cậu con trai hẳn có mặt ở đó rồi, và chính bà cũng sẽ đến.
Lindsey nhìn ra cửa sổ đúng lúc thấy bà Grace Tarking khoác tay bà Gilbert, còn ông bạn của bà Grace đỡ ông cụ đi qua bãi cỏ nhà O’Dwyer.
“Mẹ ơi, ở ngoài đồng đang có chuyện gì ấy,” cô nàng nói.
Mẹ tôi đang đọc Molière là kịch tác gia bà từng nghiên cứu kỹ hồi ở đại học, song từ đó không hề đọc lại. Trên bàn cạnh chỗ bà là sách của những tác giả ảnh hưởng sâu sắc lên cô nàng sinh viên tư tưởng cấp tiến là bà thời đó: Sartre, Colette, Proust, Flaubert(4). Bà chọn ra, rút chúng khỏi kệ sách trong phòng ngủ và tự hứa sẽ đọc lại toàn bộ trong năm nay.
“Ai muốn làm gì mẹ không để ý tới,” bà nói với Lindsey, “nhưng mẹ tin chắc bố con về biết tin thì sẽ rất quan tâm đấy. Sao con không lên lầu chơi với em?”
Từ mấy tuần nay em gái tôi tự nhận bổn phận săn đón mẹ, không thắc mắc về những tín hiệu bà phát ra. Bên dưới bề mặt băng giá kia có ẩn chứa điều gì đấy. Lindsey tin chắc như thế. Em ở bên mẹ, lấy ghế ngồi cạnh bà, ngó ra cửa sổ dõi theo mấy người hàng xóm.
Khi bóng đêm buông xuống thì nến của những người đến muộn phòng xa mang sẵn thắp lên rọi sáng cánh đồng ngô. Dường như mọi bạn bè tôi quen biết hoặc từng ngồi cạnh nhau từ mẫu giáo tới lớp tám đều có mặt. Sau khi chuẩn bị sẵn cho buổi thí nghiệm hàng năm về quy trình tiêu hóa ở loài vật diễn ra ngày hôm sau, thầy Botte ra về, chợt nhận thấy là đang có chuyện gì đấy. Ông cũng nối bước đi theo, chừng hiểu chuyện rồi ông quay về trường gọi điện thoại đi mấy nơi. Gọi bà thư ký từng đau buồn thống thiết vì cái chết của tôi. Bà sẽ đến cùng với con trai. Gọi cả vài thầy và cô giáo lần trước không đến được buổi lễ tưởng niệm chính thức ở trường, nay muốn có mặt.
Tin đồn về việc tên Harvey bị tình nghi là thủ phạm bắt đầu loan đi từ tối hôm lễ Tạ Ơn, truyền từ nhà nọ sang nhà kia. Đến trưa hôm sau thì đó là đề tài duy nhất mọi người trong khu bàn tán – sao lại như thế được nhỉ? Có lẽ nào tên đàn ông lập dị sống không điều tiếng hàng ngày họ thấy lại chính là kẻ giết Susie Salmon? Song không ai dám tới nhà tôi để hỏi chi tiết. Người ta chỉ dám hỏi anh em họ hàng của bè bạn, hay ông bố các cậu trai đang xén cỏ xem có biết gì không. Những ai người ta nghĩ là có nguồn tin về việc gì cảnh sát đang tiến hành đều bị chặn hỏi trong tuần lễ vừa qua; thế là lễ tưởng niệm vừa là cách bày tỏ lòng thương tiếc tôi, vừa là dịp láng giềng hỗ trợ tinh thần lẫn nhau. Một tên sát nhân sống ngay giữa chòm xóm, họ vẫn gặp hắn ngoài đường, hắn từng mua bánh con gái họ bán gây quỹ cho Hội nữ Hướng đạo, từng đặt mua báo tháng qua con trai họ.
Trên thiên đường của mình, tôi váng vất vì hơi nóng và năng lượng càng lúc càng tăng do số người đổ về cánh đồng ngô cứ đông dần, thắp nến lên và bắt đầu lầm rầm hát bài ca truy điệu, gợi cho ông O’Dwyer hoài niệm về ông nội ông quê quán ở Dublin(1). Mới bắt đầu mấy người hàng xóm của tôi còn ngại ngùng, nhưng khi ông O’Dwyer lĩnh xướng thì bà thư ký nhà trường cũng hát theo dù giọng không du dương bằng. Bà Ruana Singh đứng ở vòng ngoài, xa chỗ con trai bà. Ngay trước khi bà đi, tiến sĩ Singh đã gọi về bảo rằng sẽ ngủ lại tại văn phòng của ông. Nhưng có những ông bố khác đi làm về vừa đậu xe trong sân xong là nhập vào dòng người trong xóm. Làm cách nào để vừa lo sinh kế nuôi gia đình vừa đảm bảo an ninh cho con cái? Giờ đây họ cùng hiểu ra, đó là điều không thể làm nổi, dù có đặt ra bao nhiêu quy định, luật lệ cũng thế thôi. Chuyện từng xảy ra với tôi hoàn toàn có thể xảy ra với bất cứ ai khác.
Không ai gọi điện đến nhà tôi. Gia đình tôi không bị ai làm rộn. Bức tường bất khả xâm phạm quây quanh vách nhà lợp ván, ống thông khói lò sưởi, những chồng củi xếp lớp, lối xe ra vào và hàng rào, tương tự một lớp băng trong suốt bọc cả thân cây khi nước mưa vừa rơi xuống gặp lạnh đông ngay lại. Ngôi nhà của chúng tôi nhìn thì y như mọi căn khác trong khu phố này, nhưng thật sự không giống hẳn. Do vụ án mạng, cửa nhà tôi mang màu đỏ máu, phía sau cánh cửa đó diễn ra những gì thì khó ai hình dung nổi.
Khi bầu trời đây đó có ánh sáng hồng lên thì Lindsey hiểu chuyện gì đang diễn ra. Còn mẹ tôi suốt từ nãy đến giờ không hề rời mắt khỏi trang sách.
“Họ đang làm lễ cho chị Susie,” Lindsey nói. “Mẹ nghe xem này.” Em hé mở cửa sổ. Khí lạnh tháng Chạp và tiếng hát văng vẳng lùa vào nhà.
Mẹ tôi vận hết sức lực để bật ra: “Nhà mình tổ chức lễ tang rồi. Với mẹ vậy là xong.”
“Xong gì cơ?”
Hai cánh tay mẹ tôi tựa trên thành chiếc ghế bành màu vàng. Bà hơi cúi người tới trước, hướng khuôn mặt về phía tối khiến Lindsey khó thấy nét mặt bà ra sao. “Mẹ không tin rằng chị con mong mình có mặt ngoài đó. Mẹ không nghĩ rằng thắp nến và làm mấy chuyện kia mới tỏ lòng tưởng nhớ chị con. Có những cách khác.”
“Cách nào cơ?”, Lindsey hỏi. Cô nàng ngồi khoanh chân trên tấm thảm con trước mặt mẹ tôi, bà ngồi trên ghế, lấy ngón tay di vào hàng chữ chỗ đang đọc dở trong quyển Molière.
“Mẹ muốn mẹ còn là gì khác nữa chứ không chỉ là một bà mẹ.”
Lindsey nghĩ rằng em hiểu được ý bà muốn nói gì. Chính em cũng từng muốn mình là gì khác nữa chứ không chỉ đơn thuần là một đứa con gái.
Mẹ tôi đặt quyển Molière lên bằng ăn sáng, từ trên ghế bà trườn người ngồi luôn xuống thảm. Tôi ngạc nhiên quá đỗi. Mẹ tôi không ngồi bệt xuống sàn bao giờ, bà toàn ngồi ở bàn dành cho việc thanh toán hóa đơn hay trong chiếc ghế bành cao quá đầu, thỉnh thoảng ngồi ở một góc ghế tràng kỷ với con Holiday nằm cuộn tròn bên cạnh.
Mẹ cầm bàn tay em giá tôi ấp vào tay mình.
“Mẹ sắp bỏ chúng con mà đi hay sao?”, Lindsey hỏi.
Mẹ tôi lao đao cả người. Bà nên nói điều mình biết chắc sẽ xảy ra bằng cách nào đây? Cuối cùng, bà chọn câu nói dối: “Mẹ hứa sẽ không rời bỏ các con.”
Điều mà bà mong ước nhất là được trở lại làm cô gái không có gì ràng buộc, bận bịu sắp xếp trưng bày đồ sứ ở hiệu Wanemaker, lo giấu viên quản lý cái tách hiệu Wedgwood bà lỡ tay làm gãy quai, mong có ngày sang Paris sống như bà Beauvoir và Sartre(2), rồi hôm ấy trên đường về nhà cứ bật cười một mình khi nghĩ về anh chang Jack Salmon ngang tính nhưng xét ra cũng đáng yêu, lại không ưa khói thuốc. Cô mới kể cho cậu ta nghe rằng vào quán cà phê ở Paris chỉ thấy toàn dân hút thuốc, làm cậu có vẻ mê cô nàng lắm. Cuối hè năm ấy, cô mời anh về nhà, với cả hai người đó là lần đầu trong đời, cô châm thuốc hút, anh bảo đùa cũng muốn làm một điếu. Khi anh đưa cái tách bằng sứ xanh sứt quai để gạt tàn thuốc, cô mới kể lể thêm thắt cho câu chuyện làm gãy quai cái tách sứ Wedgwood rồi giấu trong áo măng-tô đem về dùng trong nhà.
“Lại đây, bé yêu,” mẹ tôi gọi, Lindsey vâng theo. Em tựa lưng vào ngực mẹ, bà lóng ngóng ôm cô nàng đung đưa như ru con trên thảm. “Lindsey ơi, con giỏi lắm, bố nhờ có con mới gượng sống tiếp được đấy.” Rồi hai mẹ con nghe tiếng xe chạy vào sân.
Lindsey để yên cho mẹ ôm mình vào lòng, trong lúc đó bà miên man nhớ lại cảnh bà Ruana Singh đứng hút thuốc sau nhà. Hương thuốc lá Dunhills dịu tỏa ngát bay theo đường phố, đưa bà đi thật xa. Người bà yêu, trước khi gặp bố tôi, thích hút thuốc Gauloises. Một kẻ tự cao tự đại, bà nghĩ thế, nhưng bộ dạng sao mà nghiêm nghị thế, đến nỗi bà cũng lây phong cách đó.
“Mẹ có thấy họ thắp nến không?”, Lindsey hỏi, mắt nhìn đăm đăm ra cửa sổ.
“Con ra đón bố kìa,” mẹ tôi nói.
Em gái tôi ra đón bố ở phong treo mũ áo, ông vừa mắc chùm chìa khóa và áo choàng. Ừ, mấy bố con đi chứ, ông nói. Dĩ nhiên là bố con mình ra đó.
“Bố ơi!” Em trai tôi từ trên lầu gọi xuống. Bố và em gái tôi lên ngay với nó.
“Tùy con thôi,” bố nói với Lindsey trong khi Buckley ôm xoắn lấy ông.
“Cứ phải che giấu, sợ em biết sẽ có hại cho nó, mãi, con mệt quá,” Lindsey đáp. “Con thấy không nói cho em biết là không thực tế. Chị Susie không về nữa. Em con biết thế mà.”
Em trai tôi ngẩng nhìn chị dò hỏi.
“Người ta tụ tập làm lễ cho chị Susie,” Lindsey nói. “Chị và bố sẽ dắt em theo.”
“Mẹ ốm à?”, Buckley hỏi.
Lindsey không muốn nói dối em, song em cảm thấy nói thế lại diễn tả đúng nhất điều em biết được.
“Ừ.”
Lindsey bảo bố chờ em đưa Buckley lên phòng thay quần áo, sau đó sẽ xuống để bố con đi ngay.
“Chị à, em có gặp chị Susie rồi,” nghe Buckley nói, Lindsey thảng thốt nhìn em.
“Lần chị bận chơi bóng đá chị ấy đến ngồi chơi với em, hỏi chuyện nữa.”
Lindsey không biết phải nói gì, em dang tay ôm choàng Buckley, ghì em vào lòng như thằng bé vẫn thường ôm siết con Holiday.
“Em tôi thật là đặc biệt,” Lindsey nói với em trai tôi. “Chị sẽ luôn ở bên em, dù có chuyện gì xảy ra đi nữa.”
Bố tôi đi thật chậm xuống cầu thang, tay trái bám lan can bằng gỗ, ông bước từng bước một cho đến khi đặt chân lên nền gạch hoa.
Ông cố ý gây tiếng động báo rằng mình đang đi tới. Mẹ tôi cầm quyền Molière lên, đi nhanh vào phòng ăn, để ông không thấy bà được. Bà đứng ở một góc phòng ăn, cắm cúi đọc sách, tránh mặt cả nhà. Bà chờ cho đến khi nghe tiếng cửa mở ra rồi sập lại.
Các người láng giềng và thầy cô, bạn bè tôi cùng người thân của họ một lúc nào đó đứng quây lại ở một tụ điểm không xa nơi tôi bị giết. Vừa ra khỏi nhà là bố, em gái và em trai tôi đã nghe tiếng hòa ca vọng lại. Mọi giác quan của bố tôi tập trung cả về nơi tỏa hơi ấm và ánh sáng. Ông tha thiết mong mọi người vẫn còn giữ hình ảnh tôi trong tâm khảm họ. Trong lúc nhìn họ tôi hiểu ra điều này: hầu như tất cả, không trừ một ai, đều muốn nói lời vĩnh biệt đối với tôi. Từ nay tôi trở thành một trong số những bé gái bị mất tích. Họ sẽ trở về nhà, để tôi nằm lại yên nghỉ vĩnh viễn, tương tự một lá thư nhận cách đây đã lâu, sẽ không giở ra đọc lại nữa. Cả tôi cũng có dịp chào vĩnh biệt, chúc họ mọi điều tốt lành, xin ơn trên phù hộ vì họ là những kẻ có lòng. Cái bắt tay chào hỏi ngoài đường, thấy món đồ đánh rơi thì tìm cho ra khổ chủ để hoàn trả, đứng ở cửa sổ mãi đằng kia đưa tay vẫy chào, nhoẻn miệng cười, thấy trẻ con nghịch thì ngầm nháy mắt với nhau thông cảm.
Ruth là người đầu tiên nhìn thấy bộ ba gia đình tôi, cô nàng liền kéo tay Ray. “Ra giúp ông ấy đi!” cô nàng thì thầm. Ray – đã gặp bố tôi ngày đầu tiên của cuộc điều tra thủ phạm, hóa ra còn kéo dài khá lâu – tiến ra trước. Samuel cũng nối bước. Hai cậu tự nhiên làm nhiệm vụ hai mục sư trẻ, đưa bố và hai em tôi đến nhóm người đang đứng, họ dạt ra cho rộng lối, mọi người nín lặng cả.
Suốt mấy tháng trời bố tôi chẳng ra khỏi cửa trừ khi lái xe đến hãng hay về nhà, hoặc ngồi ở sân sau, cũng chẳng gặp mặt người hàng xóm nào. Giờ đây ông nhìn kỹ mặt từng người một, và chợt hiểu rằng, cả những người ông không nhận ra là ai, đều quý mến tôi. Tim ông căng lên, ấm lại, hình như đã lâu lắm rồi ông mới lại có cảm giác đó, nếu không kể những giây phút ngắn ngủi bên Buckley, những lúc cậu con trai bất chợt biểu lộ lòng trìu mến với ông.
Bố nhìn ông O’Dwyer. “Bác Stan này,” bố nói, “mùa hè cháu Susie hay đứng ở cửa sổ nhìn ra phố, lắng nghe tiếng bác hát trong vườn nhà. Cháu nó thích lắm. Bác hát cho chúng tôi nghe nhé?”
Nhờ có giọng ca thiên phú, loại ơn phước hiếm ai được ban, và khi cần nhất lại không có được – chẳng hạn để cứu một người thân khỏi tay thần chết – ông O’Dwyer cất tiếng, chỉ hơi rung ở nốt nhạc đầu thôi, sau đó tiếng ông vang dội, trong veo và thanh thoát.
Mọi người hòa tiếng đồng ca.
Tôi hồi tưởng lại những đêm hè bố tôi vừa nhắc tới. Nhớ lại là tôi chờ mãi trời mới sẩm tối, tôi vẫn mong mỏi vì đêm đến sẽ dịu cơn nóng bức. Thỉnh thoảng, đứng ở cửa sổ nhìn ra mặt tiền nhà mình, tôi đón làn gió nhẹ thổi qua mang theo tiếng nhạc từ nhà ông O’Dwyer vọng tới. Trong lúc tôi lắng nghe ông lần lượt hát hết mọi bài dân ca Ireland ông thuộc nằm lòng, thì gió bắt đầu đưa đến mùi đất, mùi không khí đượm chút ẩm của rong rêu, báo hiệu cơn dông sắp tới.
Tôi vẫn còn nhớ một khoảnh khắc im ắng tuyệt vời, lúc đó Lindsey ngồi làm bài trên chiếc trường kỷ cũ trong phòng em, bố tôi đọc sách trong phòng làm việc, còn mẹ tôi ngồi đan móc hay rửa chén bát ở dưới nhà.
Tôi thích thay quần áo ra, mặc chiếc áo ngủ dài bằng vải bông, ra hiên sau đứng. Khi mưa bắt đầu rơi nặng hạt trên mái nhà, gió nhẹ từ mọi phía thổi tới xuyên qua lưới muỗi, áp vải áo ngủ sát vào người tôi. Thật là ấm áp, tuyệt diệu, thế rồi chớp lóe lên và ngay sau đó là tiếng sấm rền.
Mẹ tôi hay đứng ở bậc cửa mở ra hàng hiên, sau khi cảnh báo tôi bằng câu quen thuộc: “Rồi thì con sẽ cảm liệt giường cho mà xem,” bà thôi không nói gì nữa. Hai mẹ con cùng lắng nghe tiếng mưa như trút nước, tiếng sấm rền, ngửi mùi đất tỏa ngát chào đón chúng tôi.
“Con trông như một tay vô địch, chẳng bao giờ quỵ ngã,” một tối nọ mẹ bảo tôi thế.
Tôi quý biết bao những khoảnh khắc như lúc đó, khi hai mẹ con dường như có cùng chung một cảm nghĩ. Tôi quay sang, trên người khoác mỗi chiếc áo ngủ mỏng, trả lời bà: “Đúng thế mẹ ạ.”
(Hết chương Mười Sáu).
____________________________
CHƯƠNG (GIỮA 16 -17): Những bức ảnh chụp bất chợt
Với chiếc máy ảnh bố mẹ tôi làm quà, tôi chụp lia lịa người trong nhà vào những lúc bất thần nhất, phim có đến hàng tá. Nhiều đến nỗi bố tối bắt chọn ra xem cuộn nào đáng mới cho rửa ra ảnh. Lúc những phí tổn cho trò đam mê của tôi lên cao quá, tôi mới sắp hai cái hộp trong tủ áo: hộp “phim đưa đi rửa” và hộp “phim giữ lại”. Mẹ tôi bảo đó là biểu hiện duy nhất về khả năng thu dọn sắp xếp của tôi.
Tôi thích cách các bóng đèn chớp sáng trong hộp hình khối vuông của máy ảnh hiệu Kodak loại Instamatic đánh dấu được lưu lại trên tấm hình. Chụp hết bóng, tôi gỡ cái hộp bốn mặt ra, chuyền tay nọ sang tay kia cho đến lúc nó nguội. Những dây tóc bóng đèn cháy đứt đổi ra màu xanh cẩm thạch chảy hay đôi khi làm ám đen mặt kính mỏng. Nhờ chiếc máy ảnh tôi nắm bắt được những khoảnh khắc, tìm được cách làm thời gian ngừng trôi, níu thời gian đứng lại. Không ai có thể lấy mất của người chủ thực thụ là tôi hình ảnh đã thu được ấy.
* * *
Vào một đêm hè năm 1975, mẹ tôi quay sang hỏi bố tôi: : “Anh đã bao giờ yêu ai ở biển chưa?”
Bố đáp: “Chưa”.
“Em cũng chưa”, mẹ tôi bảo. “Mình cứ thử tưởng tượng đây là biển và em sắp ra đi, có thể rồi mình sẽ chẳng bao giờ gặp lại nhau nữa”.
Hôm sau bà rời nhà, đến ở căn lều ván của ông ngoại ở New Hamphshire.
Mùa hè năm ấy, mỗi lần mở cửa Lindsey hay Buckley, không thì bố tôi, hay thấy ở bệ cửa khi thì nồi thịt hầm, khi thì ổ bánh bơ nướng trong loại khuôn hiệu Bundt. Thỉnh thoảng có bánh táo nướng – món bố tôi ưa nhất. Khó đoán trước món nào ngon hay dở. Món hầm lò của bà Stead thật là khó nuốt, bánh bơ của bà Gilbert còn hơi ướt nhưng ăn được. Còn khi nếm bánh táo nướng của bà Ruana ấy à: ta ngỡ đang ở thiên đường.
Sau ngày mẹ tôi ra đi, nhiều buổi tối dài đằng đẵng bố tôi cố tìm quên bằng cách ngồi ở phòng làm việc đọc lại những đoạn thư Mary Chesnut(1) gửi ông chồng những năm thời Nội chiến. Ông cố gắng gạt khỏi đầu óc mọi oán trách, mọi hi vọng viển vông, nhưng không làm nổi. Chỉ một lần ông gượng cười được.
“Ruana Singh nướng bánh táo thật cừ”, ông ghi vào sổ tay.
Một ngày mùa thu, lúc xế trưa, ông nhấc điện thoại, nghe tiếng bà ngoại Lynn ở đầu dây.
“Anh Jack này:, bà ngoại dõng dạc, “bà đang tính dọn đến ở chung đấy:.
Bố tôi nín thinh, nhưng qua đường dây bà nghe ra mối băn khoăn lưỡng lự của ông.
“Bà sẵn sàng đỡ đần con và các cháu. Bà luẩn quẩn trong cái lăng này đến nay cũng chán rồi”.
“Bà Lynn à, chúng con vừa bắt đầu quen với nếp sống mới”, ông lắp bắp tìm chữ. Đến nay vẫn phải gửi Buckley sang cho bà mẹ của Nate trông hộ, nhưng dĩ nhiên không thể tiếp tục nhờ mãi được. Sau bốn tháng từ ngày mẹ tôi ra đi, sự vắng mặt nhất thời của bà có chiều hướng trở thành tình trạng thường trực.
Bà ngoại tôi cứ khăng khăng một ý. Tôi nhìn bà đang cố tự kiềm chế không uống ngụm Vodka cuối cùng còn lại trong ly. “Bà sẽ không uống thêm giọt nào, từ bây giờ đến…” – bà suy nghĩ lung lắm – “ năm giờ chiều, với lại”, bà nói, “khó quái gì, bà sẽ dứt rượu hẳn, nếu con thấy điều đó là cần”.
“Bà biết nói thế nghĩa là sao chứ?”
Sự tỉnh táo sáng suốt như luồng điện, bà ngoại tôi cảm thấy thế, chạy suốt từ bàn tay cầm điện thoại xuống tận đôi chân xỏ hài đi trong nhà: “Biết chứ sao không. Bà nghĩ kỹ rồi”.
Chỉ sau khi đã buông điện thoại bố mới tự hỏi: biết sắp xếp để bà cụ ở đâu đây?
Cả mấy đứa tôi cũng băn khoăn như thế
Đến tháng Chạp năm 1975 là tròn một năm kể từ khi tên Harvey khăn gói bỏ trốn, thế nhưng không ai tìm được tông tích nào của hắn. Một thời gian dài, chủ các cửa tiệm dán hình phác họa chân dung hắn ở cửa kính cho đến lúc băng keo dán bám bẩn bung ra hoặc giấy bị toạc. Lindsey và Samuel chỉ đi dạo quanh quẩn trong khu gần nhà hoặc la cà ở hiệu mô-tô của anh Hal. Lindsey không muốn đến quán nước chỗ đám trẻ hay tụ tập. Chủ quán thuộc kiểu người hăng say bảo vệ an ninh trật tự. Ông phóng ảnh tên Harvey to gấp đôi, dán ngay ở cửa quán. Ông sẵn sàng cung cấp mọi chi tiết rùng rợn cho bất cứ người khách nào muốn biết: đó là một bé gái, ở cánh đồng ngô, chỉ tìm ra mẩu xương khuỷu tay.
Chờ mãi không thấy gì, cuối cùng Lindsay yêu cầu anh Hal trở em đến đồn cảnh sát. Em muốn biết đích xác cuộc điều tra đã tiến hành đến đâu rồi.
Em chia tay Samuel ở tiệm sửa mô-tô, rồi anh Hal trở em đi dưới mưa tuyết tháng Chạp.
Mới đầu, khi nghe em trình bày, thấy Lindsey nhỏ tuổi, mấy viên cảnh sát chẳng quan tâm lắm. Đến chừng có người nọ người kia nhớ ra em là ai thì họ dãn dần ra xa. Hóa ra chính cô gái này đây: táo tợn, đầu óc bất thường, tuổi mới mười lăm. Ngực cô nhô lên như hai cái tách nhỏ đầy vun, đùi chưa lẳn nhưng bắt đầu có nét cong lượn, mắt cô như hòn đá lửa trên cánh hoa.
Trong lúc cùng với anh Hal ngồi chờ trên băng ghế gỗ bên ngoài văn phòng cảnh sát trưởng, Lindsey nhác thấy thứ gì trong căn phòng đó mà cô nghĩ đã từng thấy ở đâu rồi.
Nó nằm trên bàn viết của thanh tra Fenerman, đập vào mắt vì màu chói chang. Cái màu mà mẹ chúng tôi vẫn đặc biệt dùng riêng tên màu đỏ son để gọi, rực rỡ hơn màu hồng nhung, đó chính là sắc đỏ riêng của sáp tô môi, trong thiên nhiên hiếm khi tìm được. Mẹ chúng tôi tự hào có sắc da hợp với màu đỏ son. Mỗi lần quàng giải khăn độc đáo này thắt nút ở cổ, bà hay nhắc lại rằng cả bà ngoại Lynn cũng không dám mặc hay mang thứ gì màu này.
“Anh Hal à!”, em gọi, cơ bắp toàn thân như căng hết lên, mắt nhìn chằm chằm mòn đồ càng lúc càng thấy quen thuộc đang nằm trên bàn viết của ông Fenerman.
“Anh đây”.
“Nhìn kìa, anh thấy miếng vải màu đỏ chứ?”
“Có”.
“Anh vào lấy ra đây cho em được không?”
Thấy Hal nhìn mình, em bảo: “Em nghĩ đó là khăn của mẹ em.”
Đúng lúc Hal đứng lên đi lấy thì ông Len từ phía sau lưng Lindsey đi lại về phòng trực. Ông vỗ nhẹ lên vai Lindsey, ngay sau đó nhìn thấy và hiểu ra Hal đang làm chuyện gì. Em và thanh tra Fenerman thảng thốt nhìn nhau.
“Làm sao ông lại có được cái khăn của mẹ tôi?”
Ông ta lắp bắp: “Chắc có lần bà bỏ quên trong xe chú đấy mà”.
Lindsey đứng mặt đối mặt với ông ta. Em nhìn thấu suốt sự tình, đùng đùng đòi biết ngay cái tin động trời. “Mẹ tôi ở trong xe ông để làm gì mới được chứ?”
“Chào Hal“ ông Len nói.
Anh Hal cầm cái khăn trong tay. Lindsey giật phăng lấy, giọng đầy phẫn nộ: ’’Làm thế nào ông lại có được cái khăn của mẹ tôi?“
Tuy ông Len là nhân viên điều tra, song Hal lại là người đầu tiên nhìn thấy – cái vầng sáng như cầu vồng trên đầu em gái tôi – khả năng lĩnh hội bằng cách tổng hợp mọi màu sắc của tia sáng khúc xạ qua lăng kính. Hiện tượng này hay xảy ra trong giờ đại số hoặc giờ Anh văn, em gái tôi là đứa đầu tiên tính ra ngay tổng các ẩn số x, hoặc chỉ ra các ám hiệu, ẩn ý nước đôi tiềm ẩn trong câu văn cho lũ bạn cùng lớp. Anh Hal đặt tay lên vai em, hướng em quay ra cửa. “Mình về thôi”, anh bảo.
Sau đó, ở trong phòng của cửa tiệm sửa xe mô-tô, em khóc ròng, kể hết cho Samuel về điều mình nghi hoặc hầu vợi bớt đau buồn.
Năm nay em trai tôi lên bảy, em xây cho tôi một pháo đài. Trước kia cả hai chị em tôi đã có dự tính hai đứa cùng xây, nhưng sau đó bố tôi không sao bắt tay khởi sự. Xây gì cũng gợi bố nhớ lại chuyện đã cùng dựng túp lều vải với tên Harvey nay biến mất không chút tăm hơi.
Một gia đình với năm bé gái dọn vào ở trong ngôi nhà của tên Harvey. Tiếng cười khanh khách từ chiếc hồ bơi – chủ nhà mới cho đào đất xây lên vào mùa xuân sau vụ Harvey bỏ trốn – vang vào tận phòng làm việc của bố tôi. Tiếng cười nói của các bé gái – những đứa may mắn chưa bị lâm nạn.
Ông đau đớn như thể tiếng cười biến thành những mảnh kính vỡ vụn chọc vào tai mình. Suốt mùa xuân năm 1976 – sau hôm mẹ tôi bỏ đi – ông đóng kín cửa sổ phòng làm việc, ngay cả lúc lúc trời oi đến chiều tối vẫn còn nóng bức, để khỏi nghe những âm thanh kia. Ông dõi mắt nhìn theo cậu con trai bé bỏng thui thủi chơi trong khoảng vườn giữa ba bụi liễu tơ, lẩm bẩm nói chuyện một mình. Buckley bưng mấy chậu sành rỗng cất trong nhà để xe ra. Em lôi tấm thảm chùi giày vứt bên hông nhà. Tóm lại, tất cả thứ gì dùng được vào việc dựng bức tường thành cho pháo đài. Có Samuel, anh Hal và Lindsey phụ một tay, em vần hai tảng đá lớn vốn dùng làm mốc cho lối đi vào nhà để xe ra tận vườn sau. May cho em hết sức là Samuel thấy thế mới hỏi: “Bé định lấy gì lợp mái đây?”
Buckley ngẩn ra chưa biết nói sao thì Hal đã nhẩm tính, soát lại xem ở tiệm của mình có những thứ gì, anh nhớ ra có hai tấm uốn sóng không dùng tới, vẫn dựng tạm vào vách tường sau nhà.
Một đêm hè nóng bức nọ, bố tôi từ trên lầu nhìn xuống, không thấy con trai mình đâu. Buckley đã chui vào nằm trong pháo đài của em. Em lấy tay bê, dùng đầu gối làm chỗ tựa, khệ nệ đưa được mấy chậu sành vào bên trong, rồi kê vào đấy một tấm ván cao gần đến mái tôn uốn sóng. Ánh sáng lọt vào vừa đủ cho em đọc. Theo yêu cầu của em, anh Hal đã vẽ bằng cách phun sơn màu đen lên một bên cửa bằng ván ép mấy chữ XIN MIỄN VÀO rõ to.
Thường em hay đọc The Avengers(2) và X-Men. Em nằm mơ thành Wolverine(3), có bộ xương bằng thứ kim loại rắn nhất trong toàn bộ vũ trụ, lại còn có khả năng dù bị thương thì chỉ sau một đêm là bình phục ngay. Những lúc cảm thấy cô độc lẻ loi quá, em nghĩ đến tôi, thấy nhớ giọng nói của tôi, em ước gì tôi từ trong nhà đi ra, gõ gõ lên nóc pháo đài của em, hỏi em cho tôi vào được không. Đôi khi em ước giá Samuel và Lindsey lân la chỗ em thường xuyên hơn, hoặc bố lại bày trò chơi với em như trước đây. Không phải với vẻ mặt mà nét ưu tư thường trực vẫn lộ ra qua nụ cười, không phải với nỗi âu sầu đến tuyệt vọng giờ đây vây bủa mọi thứ như có sức hút vô hình. Nhưng em trai tôi tự không cho phép mình luyến tiếc nhớ mẹ. Em đào đường hầm tự tìm lối thoát cho mình bằng cách đọc sách truyện kể về các nhân vật yếu ớt biến hóa thành quái vật nửa người nửa thú khỏe như vâm, có búa thần hay mắt phát ra tia nhìn xuyên thủng cả thép, hoặc leo được đến đỉnh các toà nhà chọc trời. Khi giận lên em thành quái vật Hulk da màu xanh lục, thường thì em chỉ là Người Nhện. Khi có chuyện buồn lòng, em biến hóa thành nhân vật nào đó vững chãi kiên cường hơn một cậu bé con, cứ thế em lớn lên với năm tháng. Một trái tim thoáng cái biến thành hòn đá, từ tim thành đá. Nhìn em những lúc đó tôi nhớ câu bà ngoại Lynn hay nói mỗi khi Lindsey và tôi lén trợn trạo mắt hay trề môi chun mũi sau lưng bà: “Coi chừng đó, nhìn xem mặt cháu giờ đang nhăn nhó kiểu nào. Có khi bị méo xệch luôn suốt đời đấy”.
Một hôm, Buckley, lúc đó học lớp hai, về nhà với một câu chuyện em viết thành bài: “Ngày xưa có một thằng bé tên là Willy. Nó rất ưa trò thám hiểm. Lúc thấy một cái hố nó bèn chui xuống, nhưng không thấy trở lên nữa. Thế là hết chuyện”.
Bố tôi đầu óc vẫn còn rối bời nên nghe mà chẳng nghĩ ngợi gì xa xôi. Bắt trước cách mẹ tôi trước kia vẫn làm, ông dán trang giấy em viết lên cửa tủ lạnh, đúng chỗ trước đây dán bức tranh về Cõi-Lưng-Chừng của Buckley mà bây giờ mọi người đã quên mất. Song em trai tôi có linh cảm là chuyện mình kể có gì lạ lẫm bất thường. Em hiểu thế khi thấy thầy cô giả vờ làm mặt kinh ngạc, theo kiểu mấy nhân vật trong truyện tranh. Thừa lúc bà ngoại Lynn lui cui ở nhà dưới, em bó tờ giấy đi mang lên phòng cũ của tôi. Em gấp lại thành mảnh giấy vuông vức bé xíu, nhét vào chỗ giấu nay trống huếch dưới gầm cái giường bốc cọc để căng màn của tôi.
Mùa thu năm 1976, vào một ngày oi bức, ông Len Fenerman kiểm tra lại cái két to có khóa an toàn để trong kho lưu trữ tang vật. Trong két có xương lũ chó và mèo của các gia đình vùng lân cận mà ông ta tìm thấy chỗ góc kẹt dưới hệ thống ống dẫn trong nhà Harvey, có cả biên bản của phòng thí nghiệm xác minh dấu vết của vôi bột. Lần đó chính ông đích thân giám sát việc khai quật, nhưng dù họ đào đi đào lại sâu mấy đi nữa cũng không phát hiện thêm xương cốt hay thi thể nào khác trên phần đất nhà hắn. Vệt máu trên nền nhà để xe là tấm danh thiếp duy nhất của tôi. Ông Len đã bỏ ra hàng tuần rồi hàng tuần, rồi hàng tháng để nghiên cứu bản sao tờ sơ đồ Lindsey lấy trộm được. Ông lại dẫn cả một nhóm trở lại cánh đồng ngô đào xới nhiều lần. Cuối cùng tìm thấy ở đầu đằng kia cánh đồng một vỏ chai Cô-la. Đây là bằng chứng hiển nhiên: có dấu tay trùng khớp với dấu tay
(những bức ảnh chụp bất chợt Cont.)
Harvey ở nhà hắn và có dấu tay khác trùng khớp với dấu in trên giấy khai sinh của tôi. Ông không còn nghi ngờ gì nữa: quả là ngay từ ngày đầu ông Jack Salmon đã đoán đúng.
Song mặc dù ông ta truy tìm ráo riết, tên George Harvey cứ như đã bốc hơi tàng hình khi vừa ra khỏi vòng rào nhà hắn. Ông gọi điện hỏi khắp lượt mà không có nơi nào có hồ sơ mang tên như tên hắn. Như thể hắn chưa hề có mặt trên thế gian này.
Thứ duy nhất hắn bỏ lại là mấy ngôi nhà ráp cho búp bê. Ông Len mới nghĩ đến chuyện gọi điện tới người vẫn thường nhận hàng ký gửi của hắn để bán, ăn hoa hồng lẫn của các hiệu chuyên bán đồ chơi, gọi cho cả những gia đình khá giả từng đặt hàng hắn làm theo mẫu tòa nhà của họ. Không chút tăm hơi. Ông gọi đến các xưởng chuyên làm loại bàn ghế, cửa và cửa sổ tí hon lồng kính mài, nắm cửa bằng đồng thau, ông liên hệ cả mấy hãng chuyên chế tạo loại cây và bụi gai làm từ vải. Cũng không ra manh mối nào.
Ông ngồi xuống bên cái bàn gỗ thô sơ ở tầng hầm của trụ sở cảnh sát, trên bàn ngổn ngang tang vật. Ông lật xấp giấy rao tìm con mà bố tôi đưa in để phân phát mọi chỗ. Ông còn nhớ gương mặt tôi, song vẫn muốn nhìn lại lần nữa trên tờ giấy. Ông đi đến kết luận rằng việc khu vực đang phát triển xây cất rầm rộ thời gian gần đây có khi lại đem đến lời giải cho vụ của tôi. Trong đống đất cát đào lên xới sang chỗ khác biết đâu chẳng có những manh mối đem lại câu trả lời ông chờ đợi.
Nằm ở đáy thùng là cái túi đựng chiếc mũ đính chuông của tôi. Khi ông trao nó cho mẹ tôi, bà ngã quỵ xuống thảm. Ông vẫn không quyết chắc được là ông phải lòng mẹ tôi vào thời điểm nào. Tôi thì biết chắc đó là hôm ông ngồi ở phòng sinh hoạt nhà tôi, lúc đó mẹ tôi vẽ phác những hình nhân trên tờ giấy gói hàng, trong khi Buckley và cu Nate nằm đấu chân vào nhau, ngủ quên trên đi văng. Tôi thấy tội cho ông ta. Ông muốn tìm thủ phạm hạ sát tôi nhưng thất bại. Ông thử tìm tình yêu bên mẹ tôi nhưng chuyện chẳng đi đến đâu.
Ông Len nhìn tờ họa đồ vẽ cánh đồng ngô Lindsey đã trộm được, biết mình không thể né tránh sự thật: do quá thận trọng, ông đã để sểnh mất tên sát nhân. Ông không thể đổ lỗi cho ai hay viện cớ gì khác. Dù không ai biết được nhưng ông tự biết, chính vì hôm đó ông đến với mẹ tôi ở khu thương xá nên ông là kẻ phải chịu trách nhiệm về việc tên George Harvey vẫn được tự do ngoài vòng lao lý.
Ông rút ví từ túi quần sau, bày lên bàn những tấm ảnh của các vụ án ông phụ trách nhưng đến nay chưa hoàn toàn khóa sổ được. Trong số đó có cả ảnh vợ ông. Ông lật úp mặt tấm ảnh. Ông không muốn tiếp tục chờ đến ngày có thể ghi rõ hung thủ là ai, nguyên do vì sao hay sự thể đã diễn ra thế nào. Ông sẽ chẳng bao giờ hiểu rốt ráo mọi lẽ cớ sao vợ mình tự vẫn. Ông cũng chẳng bao giờ hiểu nổi tại sao có nhiều trẻ em mất tích đến thế. Ông đặt mấy tấm ảnh đó vào trong két chung với những tang vật thuộc về tôi rồi tắt nến trong căn phòng lạnh lẽo.
Tuy nhiên có một điều ông không biết được.
Ngày 10 tháng 9 năm 1976, ở bang Connecticur, lúc quay về chổ đỗ xe, một người thợ săn chợt thấy dưới đất có gì lấp lánh. Đó là viên đá hộ mệnh mang hình bang Pennsylvania của tôi. Rồi ông ta nhận ra là đất quanh đấy có dấu vết bị bị gấu bới tung. Những mẫu vụn gấu bới lên tung tóe nhìn lại hóa ra là mảnh xương bàn chân của một đứa bé, không nhầm vào đâu được.
Mẹ tôi chỉ trụ lại New Hampshire được mỗi một mùa đông, rồi bà nảy ra ý định lái xe đi suốt đến tận bang California. Đó là điều bà tâm niệm sẽ làm, song đến nay chưa có cách nào thực hiện được. Một người đàn ông bà quen ở New Hampshire mách là có thể tìm việc tại các đồn điền trồng nho chế rượu vang ở vung thung lũng phía Bắc thành phố San Francisco. Chỗ làm lúc nào cũng sẵn dễ xin, chỉ là lao động chân tay thôi, và nếu muốn ẩn danh thì cũng chẳng ai bắt khai lí lịch. Cả ba điều này thật hợp ý bà.
Ông ta ngỏ ý muốn chung chạ với bà, nhưng bà dứt khoát từ chối. Bây giờ bà hiểu là quan hệ dan díu kiểu đó chẳng đưa đến đâu cả. Ngay buổi tối đầu tiên trải qua với ông Len ở khu vực giữa lòng khu thương xá bà đã biết cả hai sẽ không xây đắp gì chung với nhau được ngay cả khi trong lúc ân ái với ông cơ thể bà rơi vào trạng thái vô cảm.
Bà thu dọn đồ đoàn vào mấy xách tay, lên đường trực chỉ California. Dừng chân ở thành phố nào bà cũng gửi bưu ảnh cho các em tôi. “ Gửi lời chào từ Dayton. Loài chim tiêu biểu của bang Ohio là chim hồng y” hoặc “chiều hôm qua đến Mississippi kịp lúc mặt trời lặn. Sông rộng mênh mông làm sao.”
Ở Arizona, bang xa nhất bà từng đặt chân đến sau khi lái xuyên tám bang, bà trả tiền thuê phòng rồi lấy nguyên một thùng nước đá mua từ máy đặt bên ngoài khách sạn,, xách về phòng. Sáng hôm sau bà sẽ đến California, để đánh dấu sự kiện này bà tự thưởng cho mình một chai sâm banh. Bà nghĩ đến những gì gã đàn ông ở New Hampshire kể lại, rằng suốt một năm trời ông ta phải cạo nấm mốc bám vào thành các thùng gỗ khổng lồ chứa vàng. Ông phải nằm ngửa, dùng dao cạo từng lớp nấm. Nấm có màu và độ mềm như gan nên dù ông tắm rửa kỳ cọ kỹ đến thế nào đi nữa, hàng mấy tiếng đồng hồ sau lũ ruồi vẫn cứ xúm xít bu theo người.
Bà nhấm nháp sâm banh trong chiếc ly nhựa và nhìn mình trong gương. Bà tự buộc phải đối diện với chính mình.
Bà hồi tưởng lại đêm giao thừa đầu tiên mà cả nhà cùng thức chờ, bà ngồi với tôi, em gái, em trai và bố tôi trong phòng sinh hoạt. Hôm ấy bà đã sắp xếp dỗ Buckley ngủ cho đẫy giấc trước đó.
Em thức dậy lúc trời đã sập tối, đinh ninh rằng khuya hôm ấy sẽ có một lão ông còn tốt bụng hơn cả ông già Nô-en đến nhà. Trong trí tưởng tượng em hình dung lễ giao thừa như một tiếng nổ long trời báo hiệu em khởi hành bay đến một cõi nào đó, nơi chỉ có toàn đồ chơi.
Vài giờ sau, lúc em ngáp vắn ngáp dài nằm vùi vào lòng mẹ và bà lùa mấy ngón tay vào tóc em vuốt ve, thì bố tôi loay hoay pha ca-cao trong bếp, còn tôi với em gái lo bày bánh sô cô la nướng theo kiều Đức để bưng ra. Khi đồng hồ điểm mười hai tiếng, nghe tiếng hò reo từ xa cùng với vài tiếng súng bắn chỉ thiên ở khu lân cận vọng đến thì em trai tôi ngớ ra. Nỗi thất vọng cùng cực ào đến với em, đột ngột đến nỗi mẹ tôi hết hồn không biết phải làm gì. Giờ nghĩ lại bà tưởng như nghe bài “Tất cả chỉ có thế này thôi sao?” của Peggy Lee bản soạn cho thiếu nhi, kết thúc bằng màn gào khóc nức nở.
Bà nhớ lại cảnh bố tôi bế Buckley lên rồi cất tiếng hát. Cả nhà hòa giọng ca theo. “Hãy lãng quên người ta quên ngày trước và đừng bao giờ hoài tưởng nữa, nên quên người cũ, quên cả những ngày của thời xa xưa ấy – Auld lang syne (1)”
Buckley ngẩng mặt nhìn mọi người. Em tóm bắt lấy những từ ngữ lạ như chụp bong bóng xà phòng bay trước mắt. “Lang syne?” em lặp lại, vẻ ngơ ngác.
“Mấy chữ đó có nghĩa gì?,” tôi hỏi mẹ.
“Nghĩa là những ngày xa xưa,” bố tôi đáp.
“Những ngày trôi qua từ lâu rồi,” mẹ tôi nói. Thế rồi bà đột nhiên quay ra gom những vụn bánh trên đĩa của bà vào một góc.
“Này, mắt đại dương ơi,” bố tôi nói. “Mình định bỏ bố con tôi đi đâu đấy?”
Và bà nhớ đã đáp lại câu hỏi của bố bằng cách vặn tắt, như thể tâm tư bà có một vòi thoát – cứ vặn khóa sang bên phải một cái, thế rồi bà đứng lên bảo tôi phụ bà dọn dẹp.
Mùa thu năm 1976, khi đến bang California, bà lái thẳng ra bờ biển, tìm chỗ đậu xe. Bà có cảm tưởng như suốt bốn ngày dài chỉ toàn lái từ nhà này đến nhà khác – những gia đình ầm ĩ tiếng cãi vã, tiếng chửi rủa oang oang, tiếng gào thất thanh, những gia đình ngày ngày sống trong trạng thái căng thẳng phi thường – và bà cảm thấy nhẹ nhõm khi nhìn qua kính lái xe thấy biển trước mặt. Những quyển sách đã đọc thời sinh viên vụt trở lại trong tâm tưởng bà. The Awakening (2). Sự kiện xảy đến với nhà văn Virginia Woolf (3). Trong ký ức mọi hình ảnh xưa sao đẹp quá – mong manh và viễn vông – đá cho vào đầy túi, lội xuống nước đi ra xa.
Bà quấn chiếc áo len quanh hông thắt gút lại rồi men theo bờ đã lần xuống bãi. Xuống đến nơi, bà thấy quanh mình chỉ còn những tảng đá lởm chởm và sóng nước. Bà bước dò dẫm thận trọng nhưng tôi chỉ chú ý nhìn chân bà hơn là ngắm phong cảnh bà đang thưởng ngoạn – tôi lo lỡ bà sẩy chân.
Ao ước của mẹ tôi, đến được nơi có những con sóng này, nhúng chân xuống nước của một đại dương khác với đại dương ở bờ bên kia của quê quán mình là nỗi ám ảnh thường trực – mục đích đơn thuần là gột rửa tội lỗi. Ào xuống một cái thế là ta có thể làm lại tất cả từ đầu. Hay là, đúng ra cuộc đời giống cái trò chơi đáng ghét trong giờ thể dục hơn: trong một không gian khép kín ta phải chạy từ đầu này đến đầu kia, nhặt các khúc gỗ lên rồi bỏ xuống, cứ thế miên man không dứt? Trong trí bà vang câu hãy ra với sóng đi, sóng kìa, sóng kìa, và tôi để ý thấy hai bàn chân bà dò dẫm lần đường trên mặt đá, rồi khi nghe bật lên tiếng trẻ con kêu – cả hai mẹ con cùng nghe thấy một lượt – chúng tôi giật mình ngước lên.
Trên bãi biển có một đứa bé con.
Bấy giờ mẹ tôi mới thấy giữa mấy vách đá có một rẻo cát, một bé gái đội mũ đan màu hồng, quần áo lót ngắn tay, chân xỏ giày cao cổ đang bò lẫm chẫm trên tấm chăn, nhoài người ra cát. Chỉ có một mình em trên tấm chăn với một món đồ chơi nhồi bông – chắc là cừu, mẹ tôi đoán thế.
Lúc leo xuống bà thấy đứng quay lưng về phía mình là một nhóm người – quần áo đóng bộ, lăng xăng tíu tít một cách căng thẳng. Họ mặc y phục màu đen và xanh dương, chân xỏ ủng, mũ đội lệch một bên trông rất điệu. Rồi với con mắt một nữ nhiếp ảnh viên chuyên chụp cầm thú trong thiên nhiên, tôi nhìn ra ngay cái giá chống ba chân và tấm nhôm tròn mà một anh chàng quay lúc sang trái lúc sang phải tùy ý muốn để ánh sáng rọi hay không rọi vào đứa bé đang bò trên tấm chăn.
Mẹ tôi bật cười, song chỉ có một tay phụ việc quay phim ngoảnh lại phía vách đá thấy mẹ tôi đang đứng, còn những người khác đều tất bật. Tôi đoán là họ quay phim quảng cáo, song quảng cáo gì? Những bé gái mới, thế chỗ con của họ? Lúc mẹ tôi cười, tôi thấy gương mặt bà tươi lên, song cũng thấy những nếp hằn mới khá lạ lẫm.
Bà nhìn những con sóng phía sau đứa bé kia, thấy sóng vừa đẹp vừa mê hoặc lòng người đến thế - chúng có thể dần dâng cao không ai để ý rồi thoắt cuốn đứa bé theo. Tất cả những kẻ ăn mặc kiểu cọ kia sẽ ùa chạy theo tìm cách vớt nhưng đứa bé sẽ chết đuối trong nháy mắt. Không ai, kể cả bà mẹ cô bé, dù từng sợi dây thần kinh luôn sẵn sàng để đối phó với mọi thảm họa, kịp cứu thoát em bé nếu biển đột ngột nổi sóng to ập vào, khi cuộc sống trôi đi như thường nhật nhưng ở một bờ biển xưa nay lặng sóng bỗng dưng tai ương khủng khiếp không rõ từ đâu đổ xuống.
Ngay trong tuần lễ đó bà tìm được việc ở nhà máy rượu vang Krusoe, trong một thung lũng nhìn xuống vùng vịnh. Bà gửi cho em gái và em trai tôi những tấm bưu ảnh mặt sau viết chi chít, tô lên đó những mảng sáng trong cuộc sống của bà, hy vọng rằng trên khoảng trống giới hạn của tấm bưu ảnh bà vẫn gây được cảm tưởng mình đang vui sống.
Vào những ngày nghỉ, bà đi dạo phố ở Sausalito hay Santa Rosa – những thị trấn nhỏ có mức sống cao, không ai quen biết ai – và tuy bà tập trung mọi cố gắng hy vọng quen dần với mọi tình huống mới lạ, mỗi khi bước vào một cửa hàng bán quà lưu niệm hay quán cà phê nào đó, bốn bức tường quanh bà bắt đầu hít thở như một buồn phổi. Rồi bà cảm thấy nỗi ưu phiền bắt đầu tấn công, bò dọc bắp chân lên đùi lần vào đến gan ruột bà, những giọt lệ như đạo quân tí hon dấn tới vành mi mắt bà – và bà phải hít thật sâu, giữ hơi lại, cố nén để đừng òa khóc trước mặt mọi người. Bà vào quán ăn gọi cà phê và bánh mì nướng, nước mắt ròng ròng rỏ giọt lên mặt bánh. Bà vào một tiệm hoa, hỏi mua hoa thủy tiên, nghe bảo không có, bà cảm thấy như mình bị cướp đi hết mọi thứ. Kể cả một ước muốn khiêm nhường như thế - một đóa hoa vàng tươi.
Lễ tưởng niệm tự phát đầu tiên cử hành ở cánh đồng ngô làm bố tôi nảy ý muốn tiếp tục làm thế. Từ đấy, năm nào bố cũng tổ chức một buổi lễ tương tự, song số người hàng xóm và bạn bè đến dự ít dần đi. Những người luôn có mặt là Ruth và ông bà Gilbert, nhưng ngày càng thêm đám học trò trung học đến viếng. Năm tháng trôi qua, đám này chỉ còn biết đến tôi qua cái tên đôi khi được dùng như một lời đồn đại đầy đe dọa để cảnh cáo những đứa có vẻ thích sống đơn độc tách biệt. Nhất là đám con gái.
Mỗi lần có những người xa lạ nhắc đến tên mình, tôi tưởng như bị ai lấy kim châm một cái. Không phải cảm giác ấm áp mỗi khi bố nhắc tới tôi hoặc khi Ruth ghi vào nhật ký của cô nàng. Đó là cảm giác sống dậy rồi bị chôn trở lại trong khoảnh khắc một lần hít thở. Tương tự như khi trong giờ học môn kinh tế tôi được phân vào cột hàng dọc những hàng hóa trao qua đổi lại được: cột ‘Nạn nhân án mạng’. Một vài thầy cô, chẳng hạn thầy Botte, còn nhớ đến tôi như nhớ đến một cô bé bằng xương bằng thịt. Thỉnh thoảng trong giờ nghỉ trưa, thầy ra ngồi trong chiếc xe Fiat màu đỏ, nhớ về cô con gái mất vì bệnh bạch cầu. Xa xa, qua cửa kính xe, cánh đồng ngô hiện ra mờ mờ ảo. Những lúc đó thầy thường đọc một bài kinh cầu nguyện cho tôi.
Chỉ sau vài năm ngắn ngủi Ray Singh đã thành một thanh niên đẹp trai, đến nỗi khi đi giữa đám đông sức quyến rũ của anh chàng tỏa ra như hào quang. Những đường nét viên mãn của kẻ đã trưởng thành tuy chưa in sâu, nhưng ở tuổi mười bảy như cậu, đã hiển hiện khá rõ. Cậu gợi cho người khác hình dung về trạng thái vô tính mơ hồ, vì thế cậu thu hút cả phái nam lẫn phái nữ, với hàng mi dài và mí mắt dày, tóc rậm và đen nhánh, những nét thanh tú cho thấy cậu vẫn còn trong tuổi thiếu niên.
Khi nhìn Ray trong tôi dấy lên nỗi khát khao không hề cảm thấy đối với bất cứ ai khác. Đó là ao ước được chạm tay vào và ôm giữ lại, được tìm hiểu cặn kẽ chính cái cơ thể mà anh chàng vẫn nghiên cứu với con mắt lạnh lùng dửng dưng. Anh chàng thường ngồi ở bàn học, đọc quyển sách mình chuộng nhất – Cơ thể học của Gray (1), rồi tùy theo đang đọc gì, anh chàng đặt đầu ngón tay lên động mạch ở cổ hay miết ngón tay cái lên cơ bắp dài nhất trên cơ thể mình, chạy từ hông tới khoeo chân. Anh chàng gầy mà hóa hay, vì xương cốt với cơ bắp lộ rõ dưới làn da.
Lúc xắp xếp hành trang lên đường đến đại học bang Pennsylvania, đầu óc anh chàng đầy ắp những thuật ngữ cùng định nghĩa khiến tôi đâm lo. Thế thì còn nghĩ đến chuyện khác sao được nữa? Tình bạn với Ruth, tình thương của mẹ, kỷ niệm về tôi sẽ bị đẩy ra phía sau, để anh chàng có chỗ đặt nào là thủy tinh thể với màng bao, kênh thông hình bán nguyệt trong tai, hay là môn tôi chuộng nhất – đặc tính của hệ thần kinh giao cảm.
Tôi lo như vậy lại là thừa. Bà Ruana tìm khắp nhà xem có thứ gì để đưa cậu con trai cầm theo, thứ gì vừa to và nặng như quyển của Gray, giúp anh chàng giữ được phần của con người thích sưu tầm hoa đem về ép, thâm tâm bà mong thế. Không để anh chàng biết, bà lén nhét vào hành lý quyển thơ Ấn Độ. Trong đó có ảnh chân dung tôi, lâu nay rơi vào quên lãng. Ở cư xá sinh viên Hill House, lúc anh chàng soạn hành lý ra, tấm ảnh của tôi rơi xuống cạnh giường. Dù anh chàng rành phẫu thuật đến đâu – hễ nhìn vào mắt là thấy mạch máu của nhãn cầu, nhìn mũi thấy các xoang hốc phía sau, nhìn mặt tôi nhận ra sắc tố dưới lớp biểu bì – anh chàng vẫn không thể nhìn đôi môi mà quên mình đã từng hôn.
Tháng sáu năm 1977, vào ngày lẽ ra tôi tốt nghiệp trung học, nếu còn sống, thì Ruth và Ray đều đã đi xa. Hôm trường ở Fairfax bế giảng, Ruth đã dọn đến thành phố New York, hành trang là chiếc va ly cũ màu đỏ của bà mẹ, đựng áo quần mới may tuyền một màu đen. Còn Ray, tốt nghiệp sớm hơn, đã kết thúc năm học đầu ở đại học Pennsylvania.
Cũng hôm ấy, trong bếp nhà chúng tôi, bà ngoại Lynn cho Buckley một quyển sách chỉ dẫn làm vườn. Bà chỉ cho em biết rằng cây mọc lên từ hạt giống, rằng giống củ cải em ghét ăn lại ra quả nhanh nhất, còn hoa em vốn ưa thích cũng mọc lên từ hạt. Rồi bà dạy em tên các loài hoa: cúc Zinnia với cúc vạn thọ, hoa păng xê và tử đinh hương, hoa cẩm chướng, dã yên thảo và cây bìm bìm.
***
Thỉnh thoảng mẹ tôi từ California gọi điện về. Bố mẹ tôi trao đổi gấp gáp vài câu gượng gạo. Bà hỏi thăm Buckley, Lyndsey và con Holiday. Bà hỏi chuyện nhà ra sao, bố có chuyện gì cần kể cho bà biết không.
“Cả nhà vẫn nhớ em,” bố nói thế hôm tháng Chạp năm 1977, khi cây đã trơ cành, lá rụng bị gió thổi hay bị quét đi, mặt đất sẵn sàng để đón nhưng chưa thấy tuyết rơi.
“Em biết”, bà đáp.
“Còn việc dạy học? Anh tưởng đó là dự tính của em.”
“Trước kia dự tính thế thật,” bà thừa nhận. Bà đang gọi điện trong văn phòng nhà máy rượu vang. Sau bữa ăn trưa nhốn nháo bây giờ có yên ắng hơn, nhưng lát nữa sẽ có năm chiếc xe được thuê chở đến đây một nhóm các bà cụ say khướt. Mẹ im lặng một lúc rồi nói một câu gì đấy mà khó ai phản bác lại được, không cứ gì bố tôi: “Các dự tính cũng đổi thay.”
Ở New York, Ruth thuê của một bà cụ ở Lower East Side góc buồng xép vốn là chỗ treo quần áo, rộng chỉ vừa đủ chỗ ngả lưng. Đó là loại buồng duy nhất cô nàng trả nổi tiền thuê, vả lại cô nàng không định ngồi nhà suốt ngày. Sáng sáng cô nàng cuộn tấm nệm đôi dẹp vào một góc, thế là có được một khoảng trống để xoay xở thay quần áo. Mỗi ngày cô nàng chỉ về lại đây một lần rồi đi ngay. Căn buồng chỉ là chỗ cô nàng cần để ngủ qua đêm và để có địa chỉ cư trú, một cái lồng chim tuy bé tẹo nhưng cũng đảm bảo cho cô nàng có nơi trú chân trong thành phố này.
Cô nàng nhận việc chạy bàn trong một quán rượu. Trong giờ nghỉ cô nàng thả bộ đi không sót xó xỉnh nào của khu phố Manhattan. Tôi nhìn cô nàng, chân xỏ đôi ủng tạo cho cô nàng có vẻ ngang ngạnh, khi bước cô nàng nện gót trên hè xi măng, biết rằng hễ cô nàng tìm đến nơi nào thì y như rằng ở đó đã xảy ra án mạng mà nạn nhân là đàn bà. Dưới gầm khoang cầu thang hay ở tầng nào tít trên cao của những ngôi nhà chọc trời lộng lẫy. Cô nàng thường đứng cạnh cột đèn đường đưa mắt rà soát dãy phố bên kia đường. Cô nàng viết vài câu kinh cầu nguyện ngắn vào nhật ký lúc ngồi ở quán cà phê hay quán rượu, nơi cô nàng ghé vào gọi món nào rẻ nhất trong thực đơn rồi đi vào phòng vệ sinh.
Với thời gian, cô nàng dần dần tin rằng mình có một thị lực thứ hai không ai khác có được. Cô nàng không biết nên làm gì với khả năng này ngoài việc tỉ mỉ ghi lại mọi chi tiết có thể sau này sẽ cần đến, nhưng cô nàng thầy mình dần dần can trường hơn, không còn biết sợ hãi như xưa. Thế giới những phụ nữ và trẻ em quá cố mà cô nàng nhìn thấy quả có thực, hiện hữu song song với thế giới hàng ngày cô nàng sống trong đó.
Ray ngồi ở thư viện đại học Pennsylvenia, đọc một bài về những người già, bài có nhan đề in đậm ‘Hoàn cảnh đưa đến cái chết’. Bài viết tóm lượt công trình nghiên cứu tiến hành ở các nhà dưỡng lão, tại đó nhiều bệnh nhân phản ánh với y tá và bác sĩ rằng đêm đêm họ thấy có người đứng ở cuối giường. Người đó thường tìm cách bắt chuyện hoặc gọi tên họ. Đôi khi các bệnh nhân bị những ảo giác này rơi vào trạng thái kích động đến nỗi người ta phải cho họ uống thuốc an thần hay buộc tay chân vào thành giường.
Bài viết giải thích tiếp rằng các bệnh nhân có những ảo giác này do trước đó đã bị những cơn đột quỵ nhẹ thường xảy ra trước khi chết. “Thói thường người ta cho đó là Thần chết. Nếu nhất thiết phải trao đổi về điều này với gia đình bệnh nhân, ta nên trình bày cho họ rõ đó là một loạt những cơn đột quỵ nhẹ có tác động cộng hưởng làm tình trạng kiệt quệ trầm trọng thêm.”
Ray đặt ngón tay làm dấu chỗ đang đọc dở trên trang sách rồi ngưng một lúc, thử hình dung giả như mình đang đứng ở bên giường một người bệnh cao tuổi, sẵn sàng đón nhận mọi tình huống xảy đến, biết đâu cũng sẽ thấy có gì đó lướt qua chạm vào người, như Ruth đã cảm nhận ở bãi đậu xe nhiều năm trước đây.
Tên Harvey vẫn lang bạt nay đây mai đó ở vùng Hành lang Đông Bắc, kéo dài từ khu ngoại vi quanh thành phố Boston xuống tới lằn ranh phía bắc của các bang miền nam, ở vùng này hắn dễ kiếm ra việc, ít bị tra hỏi và thỉnh thoảng tìm cách sửa mình. Hắn thích cư ngụ ở bang Pennsylvania và đã đi cùng khắp tiểu bang có chiều dài đáng kể này. Thỉnh thoảng hắn cắm lều ngủ qua đêm ở phía sau một siêu thị 7-Eleven nằm ở lối ra xa lộ địa phương dẫn về khu chúng tôi, ở đó còn sót lại một cánh rừng nằm giữa một siêu thị mở suốt ngày đêm và khu đường ray vào sân ga xe lửa, lần nào đi qua đó hắn đều thấy có thêm nhiều vỏ lon và mẩu thuốc lá hơn trước. Hễ có cơ hội hắn hay tìm đường lái xe về gần khu nhà cũ. Hắn liều lĩnh làm chuyện này buổi sáng tinh mơ hay lúc đêm khuya, khi lũ gà lôi rừng, trước kia có rất nhiều ở vùng này, băng qua con lộ và đèn pha của xe hắn rọi trúng những hốc mắt nhấp nháy phản chiếu ánh đèn lúc chúng lạch bạch chạy từ ven đường này sang bên kia. Sau này lũ thiếu niên và trẻ nhỏ không bị sai ra hái dâu ở khu giáp ranh vùng phố thị của chúng tôi nữa, vì hàng rào nông trại, nơi dâu leo mọc rậm đến trĩu rạp xuống, đã bị phá đi lấy chỗ xây nhà. Dần dần hắn biết cách để không hái phải nấm dại và thỉnh thoảng hắn ăn nấm trừ bữa khi phải ngủ qua đêm trên bãi cỏ chưa cắt tỉa trong công viên Valley Forge. Một đêm nọ, tôi mục kích cảnh hắn tình cờ tìm thầy thi thể hai người cắm trại thiều kinh nghiệm, chết vì ăn phải nấm độc, mới nhìn trông không khác loại nấm ăn được. Hắn khẽ khàng lục lọi móc hết tiền bạc tư trang rồi bỏ đi.
Chỉ có anh Hal, cu Nate, và con Holiday được Buckley cho vào trong pháo đài của em. Mảng cỏ bị hai tảng đá đè bẹp gí không mọc được nữa, và khi trời mưa nền pháo đài trở thành vũng nước hôi hám, nhưng nó vẫn còn đứng vững tuy Buckley không hay chui vào nữa. Cuối cùng chính anh Hal năn nỉ Buckley tu bổ nó.
“Mình phải trát kín lại không để nước vào, Buck ạ,” một ngày nọ anh Hal bảo em. “Em lên mười rồi, đủ lớn để cầm loại súng phun để hàn.”
Bà ngoại Lynn đồng lòng ngay, bà quí đám con trai. Bà khuyến khích Buck làm theo lời anh Hal. Mỗi khi biết anh Hal sẽ ghé qua nhà, bà sửa soạn thật đỏm dáng.
“Bà ngoại làm gì đấy?”, bố hỏi, vào một sáng thứ Bảy. Mùi thơm ngọt ngào của vỏ chanh, bơ và bột bánh vàng rộm từ lò nướng đã bắt ông rời phòng làm việc.
“Bà nướng bánh xốp,” bà ngoại Lynn đáp.
Bố tôi trố mắt nhìn bà ngoại, tự hỏi bà đã thành người dở hơi chưa: ông vẫn khoác áo choàng, mới mười giờ sáng mà trời nóng hơn 30 độ, thế mà bà đã diện quần chẽn, trang điểm xong xuôi. Rồi bố thấy anh Hal ngoài sân, người chỉ mặc áo lót.
“Lạy Chúa, bà ơi,” bố nói. “Cậu ta còn trẻ quá mà…”
“Nhưng t-u-y-ệ-t v-ờ-i!”
Bố tôi lắc đầu, ngồi vào bàn ăn. “Bao giờ bánh xốp nướng vì tình mới ăn được, hở Mata Hari (2)?”
Vào tháng Chạp năm 1981, ông Len không muốn nhận cú điện thoại từ Delaware về một vụ án mạng ở Wilmington liên qua tới xác một cô gái phát hiện ở Connecticut năm 1976. Một viên thanh tra tận tụy ở lại làm thêm giờ đã kiên nhẫn lần tìm manh mối viên đá hộ mệnh có hình bang Pennsylvania trong vụ ở Connecticut, và truy đến danh sách ghi các đồ vật mất tích trong vụ án của tôi.
“Vụ này đã khóa sổ rồi,” ông Len trả lời người ở đầu dây bên kia.
“Chúng tôi muốn biết các anh hiện có dữ kiện gì.”
“George Harvey”, ông Len nói to khiến các nhân viên ở các bàn bên cạnh phải quay nhìn. “Án mạng xảy ra tháng Chạp năm 1973. Nạn nhân tên Susie Salmon, mười bốn tuổi.”
“Có tìm ra xác cô bé Simon đó không?”
“Salmon, nghĩa là cá hồi! Chúng tôi tìm được mỗi một mẩu xương khuỷu tay,” ông Len nói.
“Cô bé còn bố mẹ chứ?”
“Còn.”
“Ở Connecticut tìm được răng. Các anh có hồ sơ về răng của cô bé không?”
“Có.”
“May ra gia đình họ sẽ thôi không còn khắc khoải mãi,” người kia nói với ông Len.
Len lại xuống tìm hộp đựng tang vật mà ông ta từng mong sẽ không bao giờ phải nhìn tới nữa. Hẳn ông sẽ phải gọi cho gia đình tôi. Nhưng ông muốn dềnh dàng trì hoãn, đợi khi nào biết chắc các món viên thành tra ở Delaware có trong tay là gì rồi mới tính tới.
Trong suốt tám năm qua, từ khi Samuel kể về bức sơ đồ Lindsey lấy trộm được, anh Hal vẫn âm thầm lùng tìm tung tích tên George Harvey thông qua mạng lưới nhóm bạn ưa lái mô-tô của anh. Song, giống ông Len, anh tự hứa sẽ không hé môi điều gì cho đến khi biết chắc đó là đầu mối thực sự. Đến nay anh chưa dám chắc về điều gì cả. Một đêm khuya nọ, lúc một người trong nhóm Hell’s Angel tên là Ralph Cichetti tự động kể ra là đã từng vào tù, rằng anh ta tin rằng bà mẹ bị chính kẻ thuê nhà giết chết thì anh Hal mới đặt những câu anh hay hỏi. Nhằm mục đích loại nhân vật ra khỏi vòng khả nghi nếu không khớp. Anh hỏi về chiều cao, sức nặng và nghề nghiệp. Người kia khi nghe đến cái tên George Harvey thì chẳng có phản ứng, nhưng điều này không nói lên được gì. Tuy nhiên vụ này có vẻ không giống những vụ trước. Bà Sophie Cichetti đã bốn mươi chín tuổi. Bà bị đập chết ngay trong nhà, người ta tìm thấy vũ khí là một món đồ không cạnh sắc vứt gần thi thể còn nguyên vẹn của bà. Anh Hal đọc nhiều truyện về tội phạm hình sự nên biết rằng loại hung thủ này khi ra tay thường lặp lại một số hành vi rập theo một trình tự nhất định, theo những cách thức kỳ dị nhưng đối với chúng lại rất quan trọng. Vì thế, trong lúc anh Hal căng lại dây xích cho chiếc Harley rệu rã của Cichetti, hai người nói lan man sang đề tài khác, rồi nín thinh một lúc. Mãi đến khi Cichetti tình cờ kể một chi tiết khác thì tóc gáy anh Hal mới dựng cả lên.
“Hắn làm nghề lắp ráp nhà cho búp bê,” Ralph Cichetti nói.
Anh Hal gọi điện yêu cầu được nói chuyện ngay với ông Len.
Năm năm tháng tháng trôi qua. Cây cối trong vườn nhà chúng tôi cao hẳn lên. Tôi quan sát theo dõi người thân trong gia đình, bạn bè, hàng xóm và các thầy cô tôi từng theo học hoặc nghĩ rằng đã theo học, quan sát ngôi trường trung học tôi từng mong được vào học. Lúc ngồi ở vọng lâu, tôi giả như mình đang ngồi trên cành cao nhất của cây thích, dưới kia em trai tôi bị hóc que và vẫn chơi trốn tìm với cu Nate, hoặc là tôi đang ngồi trên một tay vịn cầu thang ở New York, chờ Ruth đi ngang qua. Tôi cùng ngồi học với Ray. Cùng ngồi xe với mẹ tôi chạy dọc xa lộ ven bờ biển Thái Bình Dương vào một buổi trưa ấm áp, không khí đẫm mùi muối biển. Nhưng bao giờ tôi cũng kết thúc ngày của mình với bố tôi trong phòng làm việc của ông.
Tôi xắp xếp những bức ảnh chụp bất chợt, thu thập suốt thời gian theo dõi quan sát vào ký ức, và tôi có thể vạch ra được rằng một sự kiện – cái chết của tôi – nối kết những bức ảnh đó với nhau thành một mối duy nhất. Ngày trước khó ai tiên đoán được rằng sự mất mát tôi gây ra khi chết đi lại có thể làm thay đổi những khoảnh khắc ở trần thế đến mức nào. Song tôi đã chụp bắt được chúng, và sẽ cẩn trọng cất giữ mãi. Bao lâu tôi còn ở thiên đường dõi mắt nhìn theo thì không hình ảnh nào bị mất đi cả.
Ở buổi thánh lễ một chiều nọ, trong khi Holly thổi kèn xắc-xô và bà Bethel Utemeyer đàn hòa âm, tôi trông thấy nó: con Holiday chạy đua vượt qua một con Samoyed trắng mượt. Ở trần thế nó đã già lắm rồi; sau ngày mẹ tôi bỏ đi, nó hoàn toàn nằm ngủ dưới chân bố tôi, mắt lúc nào cũng lom lom canh cho bố. Nó đứng cạnh khi Buckley dựng pháo đài, và chỉ mình nó được phép nằm ở hàng hiên khi Lindsey và Samuel hôn nhau. Trong những năm cuối cùng của nó, sáng Chủ Nhật nào bà ngoại Lynn cũng làm cho nó một cái bánh kếp quết bơ đậu phọng to bằng mặt chảo, đặt trên sàn, ngắm không chán mắt trò lấy mõm táp bánh của nó.
Tôi chờ xem nó có đánh hơi thấy tôi không, vì tôi háo hức muốn biết rằng ở đây, tức thế giới bên kia đối với dương thế, tôi có vẫn là cô bé nó từng nằm lăn ngủ bên cạnh hay không. Tôi không phải chờ đợi lâu: nhìn thấy tôi nó cuống quít chạy xồ tới đẩy tôi ngả lăn chiêng.
CHƯƠNG MƯỜI BẢY
Với tuổi hai mươi mốt, Lindsey đã trải qua nhiều giai đoạn của quá trình trưởng thành mà tôi không bao giờ có dịp thử nghiệm, nhưng về sau tôi thấy chẳng có gì đáng cho tôi phải tiếc nuối nữa. Thực ra em đi đâu cũng có tôi bên cạnh. Tôi lên nhận văn bằng tốt nghiệp đại học và cưỡi mô-tô ngồi sau lưng Samuel, vòng tay ôm chặt anh chàng, áp sát người vào lưng tìm hơi ấm…
Okay, đó là Lindsey chứ không phải tôi, tôi cũng tự biết thế. Nhưng khi dõi theo em, tôi thấy mình hòa nhập vào trong em dễ dàng hơn bất cứ người nào khác.
Buổi chiều sau lễ phát bằng tốt nghiệp, Lindey và Samuel đi mô-tô về nhà bố mẹ tôi, sau khi hứa đi hứa lại với bố tôi và bà ngoại Lynn sẽ không đụng tới chai sâm banh nhét trong bọc gài bên hông xe cho đến khi về tới nhà. “Chúng con chẳng gì cũng là sinh viên tốt nghiệp cơ mà!”, Samuel nói. Bố tin tưởng Samuel – dù quen biết lâu năm rồi nhưng cậu ta cư xử đàng hoàng trước sau như một với cô con gái còn sống sót của ông.
Nhưng lúc hai cô cậu còn ở trên đường số 30 từ Philadelphia về nhà thì trời đổ mưa. Ban đầu mưa nhỏ thôi, như những mũi kim hắt vào em gái tôi và Samuel ở tốc độ năm mươi dặm một giờ. Nước mưa mát lạnh rơi xuống mặt đường nhựa nóng khô nẻ liền bốc thứ mùi cháy khét của nhựa nung suốt ngày dưới cái nắng gay gắt tháng Sáu. Lindsey thích tựa đầu chỗ giữa hai bả vai Samuel, hít thở mùi đường nhựa và mùi lá các bụi cây nằm rải rác hai bên đường. Em nhớ lại vài tiếng đồng hồ trước khi trời nổi cơn dông, gió lốc thổi tốc lễ phục màu trắng của các sinh viên tốt nghiệp đang đứng chờ trước Hội trường Macy. Có một lúc trông ai như cũng sắp bay bổng theo chiều gió.
Cuối cùng, tám dặm trước lối rẽ về nhà chúng tôi, mưa bỗng nặng hạt quật rát cả người. Samuel quay ra sau kêu to để Lindsey nghe ra rằng anh chàng phải dừng xe lại.
Hai người tạt vào lề đường, ở một đoạn có cây cối xum xuê như thường thấy ở giữa hai khu thương mại lớn, những khoảng đất trống dần dà sẽ biến đi theo đà phát triển đô thị, nhường chỗ cho một thương xá khác hoặc một đại lý buôn phụ tùng xe hơi. Chiếc mô-tô đảo qua đảo lại nhưng không đỗ xuống vệ đường rải sỏi ướt nhẹp. Samuel dùng chân chống xe, nhớ lờianh Hal dặn, chờ Lindsey xuống đi ra xa vài bước rồi mới xuống sau.
Anh chàng đẩy miếng kính che mặt trên mũ bảo hiểm lên rồi nói to với em gái tôi: “Chỗ này không được. Anh phải đẩy xe tới dưới những gốc cây kia.”
Lindsey theo sau, tiếng nước mưa nghe nhỏ hẳn dưới chiếc mũ bảo hiểm có độn của em. Hai người tìm chỗ đặt chân trên sỏi đá và bùn lầy, đạp lên cả cành cây và rác rưởi vun bên đường. Mưa có vẻ càng lúc càng to hơn, em gái tôi lúc đó mới thấy mình thay bộ lễ phục, xỏ bộ quần áo da theo lời anh Hal là đúng, anh bảo cần phải mặc vậy, còn em phản đối bảo trông mình giống mấy người bệnh hoạn sinh lý.
Samuel đẩy mô-tô vào hàng cây sồi sát bên đường. Lindsey theo sau. Tuần trước hai đứa đến cắt tóc ở cùng một hiệu trên đường Market; tuy tóc Lindsey nhạt và mịn hơn tóc Samuel, ông phó cáo vẫn cắt cho hai đứa cùng một kiểu ngắn như lông nhím. Chúng tháo mũ bảo hiểm rồi thì chỉ nháy mắt sau những giọt mưa to len qua kẽ lá đã bám trên tóc, thuốc tô riềm mi của Lindsey bắt đầu chảy xuống má nhoèn nhoẹt. Tôi nhìn Samuel lấy đầu ngón tay cái lau vết loang trên má Lindsey. “Chúc mừng em đã tốt nghiệp,” anh chàng nói trong bóng tối và ôm hôn em.
Ngay từ lần đầu tiên hai đứa hôn nhau trong bếp nhà tôi, cách hai tuần sau ngày tôi mất, tôi biết rằng anh chàng – như tôi và em gái luôn khúc khích cười khi chơi búp-bê hay xem Bobby Sherman trên truyền hình – là người duy nhất em sẽ yêu suốt đời. Giữa lúc em gái tôi gặp khó khăn thì Samuel luôn ở cạnh đỡ đần em, nên lớp keo gắn bó hai đứa kết chặt ngay từ lúc đó. Cả hai đứa cùng vào trường Temple, sát cánh bên nhau. Anh chàng ghét học ở đó nhưng nhờ Lindsey thúc bách nên cũng đi đến cùng. Nhờ em ham học quá nên anh chàng mới trụ được lâu thế.
“Mình thử tìm chỗ nào tán lá kín nhất dưới đám cây kia để núp đi,” anh chàng hỏi.
“Thế còn xe?”
“Chắc lát nữa tạnh anh Hal sẽ phải đón bọn mình.”
“Chán quá!” Lindsey nói.
Samuel cười, nắm tay kéo em cùng đi. Đúng lúc ấy tiếng sấm đầu tiên rền vang làm Lindsey giật bắn người. Anh chàng kéo em sát lại. Những tia chớp lóe còn ở mãi đằng xa nhưng ngay sau đó tiếng sấm vang rền đất trời. Em cảm nhận giông bão không giống tôi, chỉ thấy hốt hoảng bồn chồn và tinh thần căng thẳng. Trong trí em toàn tưởng tượng thân cây bị xẻ đôi, nhà cửa bốc cháy và lũ chó trong khu ngoại ô cuống cuồng chạy xuống hầm trốn chui trốn nhủi.
Hai người chạy dưới tàn lá, tuy nấp bóng hàng cây cao mà vẫn ướt sũng. Mới xế chiều mà trời tối mịt, chỉ còn ánh đèn pin của Samuel. Tuy vậy cả hai vẫn thấy đây là chỗ có nhiều người qua lại. Ủng của họ đạp lạo xạo trên vỏ hộp hay va phải vỏ chai. Lúc ngước mắt nhìn qua tán lá rậm rạp trong bóng tối, cả hai thấy một hàng cửa sổ kính đã vỡ của một ngôi nhà cổ kiến trúc kiểu thời nữ hoàng Victoria. Samuel lập tức vặn tắt đèn.
“Anh nghĩ có người trong nhà đó không?” Lindsey hỏi.
“Không thấy đèn đóm gì.”
“Trông như có ma ám vậy.”
Hai đứa nhìn nhau rồi em gái tôi nói điều cả hai cùng nghĩ. “Miễn khô ráo là được!”
Cả hai nắm tay nhau chạy ào tới ngôi nhà dưới cơn mưa như trút nước, cố gắng không để bị vấp ngã trong lớp đất nhão như bùn.
Lúc đến gần hơn Samuel nhìn ra sườn mái nhà dốc đứng và cây thập giá nhỏ bằng gỗ treo dưới đầu hồi. Phần lớn cửa sổ tầng trệt đều được chặn bít bằng những tấm ván, còn cửa chính lại mở toang, hai cánh cửa quật qua quật lại, đập vào bức tường trát vữa bên trong. Tuy Samuel thích đứng dưới mưa ngước mắt ngắm nghía sườn mái chìa và đường gờ trên tường hơn nhưng anh chàng đành chạy ào vào trong với Lindsey. Hai người dịch sâu vào trong, cách xa cửa một quãng, run lập cập căng mắt nhìn ra cánh rừng vây quanh, ngôi nhà xây ở một khu vực nằm ngoài khu ngoại ô thành phố. Tôi đi rà soát ngay một vòng các căn buồng của ngôi nhà cổ này. Chẳng có ai khác ngoài hai đứa. Không có yêu tinh ma quái nấp sẵn ở ngóc ngách nào đó, không có dân vô gia cư tìm đến đây ăn dầm ở dề.
Những khu đất bỏ hoang phế kiểu này dần dà sẽ không thấy đâu nữa, song chính những nơi này lại in dấu ấn lên tuổi thơ của tôi đậm hơn bất cứ đâu. Chúng tôi dọn đến một trong những khu định cư đầu tiên thiết kế trên vùng đất trước kia là trang trại – khu này sau đó trở thành kiểu mẫu và từ đó nảy sinh vô số những khu dân cư muôn màu muôn vẻ khác. Song trí tưởng tượng của tôi hay tìm về lân la ở những khúc đường chưa đặt nghẹt bảng hiệu quảng cáo màu mè chói lọi, hệ thống cống rãnh, mặt đường tráng nhựa và những thùng thư to quá khổ. Với Samuel cũng thế.
“Đẹp hết ý!”, Lindsey nói. “Theo anh ngôi nhà này xây bao lâu rồi?”
Tiếng Lindsey vang dội trở lại từ mấy vách tường, như thể cả hai đang đứng trong một giáo đường trống không.
“Mình đi một vòng xem sao,” Samuel nói.
Những khung cửa sổ tầng trệt bị bít ván nên khó thấy được gì, nhưng nhờ ánh đèn pin của Samuel họ nhận ra có lò sưởi và thanh gỗ ốp chạy vòng quanh tường.
“Em nhìn xuống sàn mà xem,” Samuel nói. Anh chàng quỳ xuống, kéo theo Lindsey. “Em thấy các thanh gỗ họ ghép công phu chưa? Chủ nhà này hẳn thừa tiền hơn hàng xóm rồi đấy.”
Lindsey tủm tỉm cười cười. Nếu ông anh Hal chỉ quan tâm xem động cơ mô-tô vận hành ra sao, thì Samuel đầu óc lúc nào cũng luẩn quẩn nghĩ đến gỗ và đồ mộc.
Anh chàng lấy ngón tay di di lên mặt sàn, bảo Lindsey làm theo. “Một công trình cổ đẹp như vậy mà để hư hao hết,” Samuel nói.
“Chắc xây kiểu thời Victoria?” Lindsey cố đoán thử.
“Thoạt đầu anh cũng nghĩ thế,” Samuel đáp, “nhưng kiểu Gô-tích Phục hưng(1) thì đúng hơn. Anh có thấy họa tiết cây thập tự ở đầu hồi, như vậy nhà này xây sau năm 1860.”
“Anh nhìn kìa,” Lindsey nói.
Cách đây đã lâu, rất lâu, có người chất củi đun bếp lửa ở giữa nhà.
“Thật là cả một thảm kịch,” Samuel nói.
“Sao họ không dùng lò sưởi nhỉ? Phòng nào cũng có sẵn mà.”
Nhưng Samuel còn đang bận nhìn lên lỗ thủng trên trần nhà do lửa gây ra, cố nhận cho ra các họa tiết trên các vì kèo viền theo khung các của sổ.
“Mình lên gác đi,” anh chàng nói.
“Em có cảm tưởng như đang ở trong hang động,” Lindsey nói khi leo cầu thang. “Im ắng quá, đến cả tiếng mưa cũng không nghe thấy.”
Samuel vừa đi vừa vỗ vỗ bàn tay lên lớp vôi trên vách. “Vách tường kiểu này có nhốt người xây bít kín lại cũng được đấy.”
Thế là đột nhiên lại có một khoảnh khắc gây xốn xang nhức nhối mà cả hai với thời gian tập dần được cách lờ đi, để cho trôi qua, còn tôi tiếp tục sống để ngăn ngừa điều đó. Cách lảng tránh câu hỏi vô cùng quan trọng: Tôi đang ở nơi chốn nào? Có đến nhắc đến tôi không? Có nên nêu thắc mắc và trao đổi ưu tư về tôi không? Hiện thời câu trả lời thường là ‘không’ làm tôi thất vọng. Không còn có lễ tưởng niệm Susie trên cõi đời này nữa.
Nhưng có điều gì đó làm cho ngôi nhà này và thời điểm một buổi tối – những dấu mốc như ngày lễ tốt nghiệp và ngày sinh nhật luôn luôn cho thấy là ở đâu đó trong tâm khảm mọi người hình ảnh tôi vẫn sống động hơn bao giờ hết – đã tác động khiến lúc đó Lindsey để tâm hồi tưởng về tôi lâu hơn mọi lần. Cho đến nay em chưa hề mở môi với ai. Em nhớ lại cảm giác như đang ở trong cơn mê khi đột nhập vào nhà tên Harvey và từ đấy vẫn thường xuyên sống lại trạng thái đó: rằng tôi đang ở đâu đây bên cạnh em, thâm nhập vào tâm trí và tay chân em, và cùng đi song song như hai chị em sinh đôi.
Lên đến đầu cầu thang thì cả hai thấy lối đi vào căn phòng mà lúc đứng dưới họ cứ ngẩng lên nhìn mãi.
“Anh muốn ngôi nhà này thuộc về anh,” Samuel nói.
“Anh nói gì lạ vậy?”
“Ngôi nhà này cần bàn tay của anh, anh cảm thấy rõ như thế.”
“Có lẽ anh nên đợ lúc mặt trời ló ra đã rồi quyết định cũng chưa muộn,” Lindsey đáp.
“Đây là ngôi nhà đẹp nhất anh thấy từ trước đến nay,” anh chàng nói.
“Samuel Heckler”, em gái tôi trêu, “thợ chuyên gắn ráp đồ vỡ hỏng.”
“Cứ chê đi rồi biết,” anh chàng đáp.
Cả hai đứng đó, không nói gì nữa, hít thở mùi không khí ẩm ướt luồn qua ống khói lùa vào trong phòng. Dù tiếng mưa rơi chưa dứt, Lindsey cảm thấy như đang trú ẩn ở một nơi xa xôi nào đó của thế giới này, bên cạnh là người mình yêu thương nhất đời đang chở che ấp ủ mình.
Em nắm tay anh chàng, và tôi cũng cùng đi với hai người đến cửa một căn phòng nhô ra xa nhất phía mặt tiền. Phòng này hình bát giác, xây nhô ra trên cửa chính ở tầng dưới.
“Cửa sổ lồi,” Samuel nói. Anh chàng quay qua Lindsey, “Khi các mặt của cửa sổ xây nhô ra, quây lại như thế này, làm thành căn phòng bé tí, người ta gọi là cửa sổ lồi.”
“Anh nhìn thấy là mê mẩn rồi chứ gì?” Lindsey cười hỏi.
Tôi giã từ, để hai người ở lại đó với bóng đêm và tiếng mưa rơi. Tôi tự hỏi không biết khi Lindsey và Samuel đưa tay kéo khóa mở bộ đồ da ra thì liệu em có nhận thấy trên bầu trời không còn lóe lên những tia chớp nữa, và tiếng rên vang trong cổ họng Ông Trời – tiếng sấm làm kinh động nọ - cũng đã ngưng bặt rồi.
Ngồi trong phòng làm việc của mình, bố tôi với tay cầm quả cầu tuyết lên. Cảm giác mát lạnh ở đầu ngón tay khi chạm thủy tinh làm ông thấy tâm hồn thanh thản, ông lắc lắc quả cầu để nhìn chú chim cánh cụt biến mất rồi lại từ từ hiện ra khi bông tuyết rơi xuống hết.
Anh Hal đi từ chỗ làm lễ tốt nghiệp về được đến nhà bằng xe mô-tô, nhưng việc này thay vì trấn an bố tôi – rằng nếu có một chiếc mô-tô đương đầu nổi với dông bão, cho phép người lái về được đến nhà an toàn, thì chiếc mô-tô kia hẳn cũng sẽ thế - hình như càng làm tăng mối lo cho ông rằng có khả năng xảy ra toàn chuyện ngược lại.
Suốt buổi lễ tốt nghiệp của Lindsey ông cảm nhận điều có thể gọi là nỗi hân hoan trĩu nặng ưu sầu. Buckley ngồi cạnh ông, tự đảm nhận nhiệm vụ nhắc bố cười hay phản ứng tùy theo tình thế đòi hỏi ra sao. Bản thân ông cũng biết phải làm gì đấy chứ, nhưng hồi này khả năng kết hợp các đầu mối dây thần kinh của ông không còn được nhanh nhạy như người bình thường – hay ít ra đó là cách ông tự lý giải. Tương tự khái niệm khoảng thời gian cần để phản ứng, trong các hồ sơ đòi bồi thường thiệt hại mà ông nhận được. Có một khoảng thời gian trung bình, tính bằng giây đồng hồ, cho đa số người kể từ thời điểm họ nhận thấy có gì đấy đang ập đến – một chiếc xe hơi khác, một khối đá lăn trên triền đồi xuống đường – và thời điểm họ phản ứng lại. Thời gian bố tôi cần để phản ứng lại tính ra lâu hơn so với đa số người khác, như thể ông sống trong một thế giới mà ở đó ông bị cướp mất vĩnh viễn khả năng cảm nhận chính xác mọi thứ.
Buckley gõ vào cánh cửa chỉ khép hờ của phòng làm việc.
“Vào đi con,” bố nói.
“Hai anh chị ấy không bị gì đâu bố à.” Ở tuổi mười hai em trai tôi trông đã có vẻ nghiêm nghị, làm gì cũng có ý tứ. Tuy chưa làm ra tiền để mua đồ ăn thức uống trong nhà hay biết lo bếp núc, song em trông coi sắp xếp mọi chuyện trong gia đình.
“Hôm nay con mặc trông ra vẻ lắm đấy,” bố tôi nói.
“Cám ơn bố.” Em trai tôi chú trọng việc này lắm. Em muốn bố tôi tự hào về em nên chịu khó bỏ thì giờ sửa soạn cho tườm tất, thậm chí sáng nay em còn nhờ bà ngoại Lynn cắt bớt chỗ tóc trên trán đã dài phủ cả mắt. Em trai tôi đang ở thời kỳ khó khăn nhất của tuổi thiếu niên. Bình thường em chỉ mặc loại áo thun cộc tay và quần jeans kiểu rộng lùng thùng, nhưng hôm nay em lại muốn đóng bộ. “Anh Hal và bà ngoại chờ bố con mình dưới kia,” em nói.
“Chờ chút bố xuống ngay.”
Lần này Buckley đóng hẳn cửa lại, nghe rõ tiếng then sập vào ổ khóa.
Mùa Thu ấy bố tôi đưa đi rửa cuộn phim cuối cùng trong các cuộn ‘Phim giữ lại không rửa’ cất trong tủ của tôi. Ông đi lại mở ngăn bàn, thận trọng lấy ra mấy tấm hình cầm lên ngắm, như ông vẫn thường làm mỗi khi bảo cả nhà đợi ông thêm ít phút trước bữa tối, hoặc khi ông xem truyền hình hoặc đọc báo thấy có tin tức gì đó làm ông đau lòng.
Ông đã nhiều lần giảng cho tôi hiểu rằng những gì gọi là ‘ảnh nghệ thuật’ của tôi chỉ là chụp bất thần không ngắm và căn kỹ, song tấm chân dung đẹp nhất của ông là tấm tôi nghiêng chếch máy chụp, khuôn mặt ông chiếm hết khung vuông 8 x 8 cm nếu xoay ảnh thành hình quả chám, khi cầm lên như giữ viên kim cương giữa hai đầu ngón tay.
Hẳn là tôi đã chịu khó lắng nghe những chỉ dẫn của ông về góc ngắm và phối cảnh khi chụp những tấm hình ông cầm trong tay. Khi đưa phim đi tráng, ông không rõ phim chụp những gì và vào ngày tháng nào. Có cơ man nào là hình chụp con Holiday, nhiều tấm chụp hai bàn chân tôi hay bãi cỏ. Những quả cầu xám mờ mờ trong không trung là đàn chim đang bay, còn những vết lợn cợn nọ là là do tôi thử chụp cảnh mặt trời lặn phía sau cành liễu rủ. Đến một hôm nào đó tôi quyết định chụp ảnh chân dung mẹ. Hôm mang ảnh về, bố tôi ngồi nán lại trong xe, thần người nhìn ảnh một người đàn bà ông có cảm tưởng chưa bao giờ thực sự thấu hiểu tâm tư.
Từ dạo đó, ông xem đi xem lại những tấm hình này không biết bao nhiêu lần, mỗi khi ngắm khuôn mặt người đàn bà này ông lại thấy trong lòng xôn xao. Phải một thời gian dài sau đó ông mới hiểu ra. Chỉ mới gần đây thôi, hệ thống liên hợp dây thần kinh trước bị hư hại nặng của ông nay lành lại, giúp ông tìm được tên gọi hiện tượng này. Lại một lần nữa ông rơi vào tình trạng phải lòng một người đàn bà.
Ông không hiểu nổi làm sao hai người đã lấy nhau, hằng ngày thấy mặt nhau mà lại có thể quên mất dung nhan của nhau được. Song, nếu ông phải tìm một cái tên cho hiện tượng đã xảy ra thì đúng là như thế thật. Chính hai tấm ảnh nằm cuối cuộn phim đã giúp giải mã vấn đề. Lúc ấy bố đi làm vừa về đến cổng – tôi nhớ đã đòi mẹ chỉ chú ý đến tôi trong lúc con Holiday sủa vang khi nghe tiếng xe chạy vào ga-ra.
“Bố vào đến nơi kia kìa,” tôi nói. “Mẹ đừng nhúc nhích nhé.” Bà ngồi yên. Một trong những lý do khiến tôi thích bộ môn nhiếp ảnh là uy quyền tôi có được đối với người đúng trước ống kính, cho dù đó là bố mẹ mình.
Tôi liếc thấy bố vào vườn bằng ngả cửa bên hông nhà. Ông xách cái cặp mỏng mà nhiều năm trước Lindsey với tôi từng hăm hở lục lọi, song chẳng thấy gì hay ho trong đó. Đúng lúc ông đặt cặp xuống, tôi bấm nút thu bức hình cuối cùng chụp mẹ tôi đứng một mình. Ngay hồi đó mắt mẹ đã có vẻ lơ đãng và lo âu khắc khoải, cứ như ẩn sau chiếc mặt nạ rồi lại hiện ra. Trong tấm ảnh kế tiếp chiếc mặt nạ đã có đó rồi, tuy chỉ phần nào thôi, nhưng đến tấm cuối cùng, khi bố nghiêng người hôn lên má bà thì chiếc mặt nạ đã yên chỗ đâu vào đấy.
“Anh đã làm em khổ tâm đến thế sao?” bố hỏi người trong hình, mắt đăm đăm nhìn những bức ảnh mẹ tôi bày thành hàng. “Sao lại ra nông nỗi thế được nhỉ?”
“Hết sấm sét rồi,” em gái tôi nói. Da em ươn ướt lần này không phải do mưa mà vì mồ hôi rịn.
“Anh yêu em,” Samuel nói.
“Em biết.”
“Không, anh muốn nói anh yêu em và muốn lấy em, rằng anh còn muốn ở hẳn trong ngôi nhà này!”
“Anh nói sao?”
“Thế là thoát nạn với cái trường đại học khốn khiếp kia!”, Samuel la to. Căn phòng nhỏ bé thu hết tiếng anh chàng, chỉ để dội lại một ít âm hưởng từ những bức tường đồ sộ.
“Không, với em thì không,” Lindsey nói.
Đang nằm cạnh em gái tôi, Samuel nhỏm dậy, quỳ trước mặt em. “Bằng lòng lấy anh đi nhé.”
“Samuel?”
“Anh chán cứ phải thức hiện những gì gọi là phải lẽ. Lấy anh đi, rồi anh sẽ biến cơ ngơi này thành một nơi tráng lệ.”
“Thế ai lo chu cấp cho hai đứa đây?”
“Mình chứ ai,” anh chàng đáp, “xoay xở được thôi.”
Lindsey nhỏm dậy, quỳ như anh chàng. Cả hai chưa mặc lại hết quần áo nên khi nhiệt độ trong người giảm dần thì bắt đầu thấy lạnh.
“Vậy đồng ý.”
“Đồng ý là sao?”
“Em nghĩ em cũng lo được,” em gái tôi đáp. “Nghĩa là, em bằng lòng!”
Có một số câu nói khuôn sáo tôi chỉ hiểu được khi chúng bay hết tốc lực đến tận thiên đường của mình. Tôi chưa từng tận mắt nhìn thấy một con gà bị chặt cụt đầu. Và cũng chưa hề quan tâm đến, ngọai trừ chuyện nó với tôi cùng phải chịu chung số phận. Song tôi cứ cun cút chạy loanh quanh trong thiên đường của tôi như…một chú gà mất đầu! Tôi sung sướng đến nỗi cứ gào mãi mấy câu. Ôi, em gái của chị! Samuel yêu quý của chị ơi! Ôi, giấc mơ của tôi đã thành sự thật!
Lindsey bật khóc. Anh chàng vòng tay kéo em sát lại, đung đưa người.
“Em có sung sướng không, cưng?” Samuel hỏi.
Em gật đầu trên vồng ngực trần của anh chàng. “Có”, em đáp, rồi sựng người lại. “Bố em”. Em ngước nhìn Samuel. “Em biết chắc là ông nóng ruột lắm.”
“Chắc chắn rồi,” anh chàng nói, cố gắng suy nghĩ cùng một hướng với em.
“Còn cách nhà bao xa?”
“Khoảng mười dặm,” Samuel đáp. “Hoặc tám.”
“Vậy mình chạy cũng tới,” em nói.
“Em đúng là điên.”
“Mình có giày để chạy trong giỏ xe mà.”
Không thể khoác bộ quần áo da để chạy nên hai đứa chỉ mặc đồ lót với áo thun cộc tay phóng ào đi. Chưa ai trong gia đình tôi từng ra đường mà gần giống với mấy người hay khỏa thân chạy bộ đến thế. Samuel, quen lệ bao năm, chạy trước cho em gái tôi chạy theo. Đường như vắng hẳn bóng xe ô-tô, nhưng khi có chiếc nào chạy qua thì nước bắn lên cao như bức tường làm hai đứa nín hơi phát ngộp thở. Hai đứa đã nhiều lần chạy dưới mưa, nhưng chưa từng gặp mưa to thế này. Cả hai bày trò xem ai tìm được nhiều chỗ trú hơn trong cuộc chạy đường dài này, nên không ngớt chạy ra chạy vào náu mình dưới những cành cây xòe ra, mặc cho đất cát bám đầy chân. Sau dặm đường thứ ba thì cả hai im lặng đều bước theo nhịp quen thuộc từ nhiều năm nay, tập trung vào hơi thở và tiếng giày ướt gõ trên mặt đường.
Một lúc nào đấy, khi chạy qua một vũng nước – vì chán vòng né tránh – Lindsey liên tưởng đến cái hồ tắm trong khu phố mà chúng tôi ghi tên đến bơi hàng tuần, cho đến lúc cái chết của tôi chấm dứt cuộc sống cởi mở không có gì che đậy của gia đình tôi. Hồ bơi nằm đâu đó trên đoạn đường này, nhưng Lindsey không ngẩn đầu tìm tường rào lưới mắt cá quen thuộc. Thay vào đó, em nhớ đến một kỷ niệm khác. Em và tôi ở dưới mặt nước, trong bộ đồ tắm viền đăng-ten. Hai chị em ở dưới mặt nước mà mắt vẫn mở, đó là một kỹ năng mới tập được – với em là lần đầu – đứa này nhìn thân thể đứa kia đang bồng bềnh dưới nước. Tóc lượn lờ trôi, đăng-ten ở mép váy rập rình, hai má phồng vì giữ hơi. Thế rồi thoắt một cái, hai đứa chộp lấy nhau, cùng trồi lên làm tóe sóng trên mặt nước. Chúng tôi hít không khí vào thật sâu trong phổi – tai vẫn còn lùng bùng – rồi cùng phá lên cười khanh khách.
Tôi dõi nhìn cô em xinh xắn chạy bộ, hai buồng phổi bơm không khí ra vào đều nhịp với đôi chân, kỹ năng học được ở hồ bơi này vẫn được dùng đến – căng mắt nhìn qua màn mưa, cố gắng nhấc chân theo nhịp Samuel định sẵn, và thế là tôi hiểu em không hề quên lãng tôi, cũng không chạy trở ngược kiếm tìm tôi mãi. Như một kẻ sống sót sau khi trúng đạn ở bụng, nay vết thương đang dần dần khép miệng, đóng lại – thành sẹo sau tám năm đằng đẵng.
Khi cả hai chỉ còn cách nhà chừng một dặm thì mưa ngớt hẳn, đây đó sau cửa sổ các nhà dọc đường có người đúng ngóng ra đường phố.
Samuel giảm tốc độ xuống, Lindsey cũng chạy chậm lại. Áo thun dán người chúng như lớp hồ.
Lindsey bị cứng khớp một bên người, em cố làm cho giãn cơ rồi khi hết cơn em lại chạy nhanh không kém Samuel. Thình lình cả người em như nổi gai ốc, em cười hớn hở miệng rộng đến mang tai.
“Mình sắp thành vợ chồng!” em kêu lên, anh chàng đứng khựng lại, ôm lấy em nhấc bổng lên, cả hai cứ thế đứng đó hôm nhau không cần biết đến chiếc xe hơi vừa vượt qua, người lái xe bấm còi inh ỏi.
Khi chuông cửa nhà tôi réo vang thì đã bốn giờ chiều, anh Hal đang đứng trong bếp, người khoác tấm tạp dề trắng cũ của mẹ tôi, lo cắt bánh sôcôla hạnh nhân cho bà ngoại Lynn. Anh thích được giao việc, thấy mình không vô tích sự, còn bà ngoại tôi cũng ưa giao việc cho anh. Hai người thành một nhóm làm việc ăn ý nhau. Còn cậu vệ sỹ Buckley thì chỉ mê ăn.
“Để tôi ra mở cửa,” bố tôi nói. Suốt lúc trời mưa, ông cố giữ để không suy sụp tinh thần bằng mấy cốc vại Whisky và sô-đa mà bà ngoại Lynn pha không đong liều lượng theo công thức nào cả.
Lúc này ông linh hoạt hẳn, dáng điệu thanh thoát như vũ công ba-lê đã nghỉ hưu, sau nhiều năm bắt buộc phải nhún nhảy chỉ trên một chân, nay thích dùng chân kia hơn.
“Bây giờ thì bố hết lo,” ông nói thế khi mở cửa.
Thấy Lindsey khoanh tay che ngực, bố tôi cũng phải bật cười, ông nhanh nhẩu quay vào buồng xép gần cửa lôi ra mấy tấm chăn để sẵn. Samuel lo quấn cho Lindsey trước, còn bố tôi choàng vội cái khác lên vai Samuel. Trên sàn nhà nước đọng thành vũng. Lindsey vừa quấn chăn đâu vào đấy thì Buckley, anh Hal và bà ngoại Lynn từ bếp bước ra.
“Buckley à,” bà ngoại bảo, “tìm chăn đem ra đây cháu.”
“Trời thế này mà hai em đi mô-tô về à?” anh Hal thắc mắc hỏi.
“Không, chúng em chạy bộ,” Samuel đáp.
“Trời đất?”
“Mình vào phòng sinh hoạt đi,” bố tôi nói. “Ta sẽ đốt lò sưởi lên.”
Trong lúc hai cô cậu ngồi quay lưng lại với lò sưởi, lúc đầu vừa run lập cập vừa uống ly rượu mạnh bà ngoại Lynn bào Buckley bưng ra trên tấm khay bạc, thì mọi người yên lặng nghe kể về chiếc mô-tô, về toàn nhà và căn phòng hình tám cạnh có loại cửa sổ lồi làm Samuel vừa thấy là mê mẩn.
“Thế chiếc mô-tô không sao chứ?”, anh Hal hỏi.
“Chúng em đã thử đủ cách,” Samuel đáp, “nhưng phải câu nó về thôi.”
“Hai đứa an toàn là bố mừng quá rồi,” bố tôi nói.
“Chúng cháu chạy bộ về nhà là vì bác đấy, bác Salmon ạ.”
Bà ngoại và em trai tôi ngồi ở đầu kia căn phòng, xa ngọn lửa.
“Chúng con không muốn có ai ở nhà phải lo lắng,” Lindsey nói.
“Nhất là bác, Lindsey không muốn bác phải lo âu.”
Căn phòng im ắng đi một lúc. Dĩ nhiên điều Samuel vừa nói là đúng, nhưng cũng nêu rõ một sự đương nhiên; Lindsey và Buckley khi tổ chức sắp xếp sinh hoạt của mình luôn luôn phải dự liệu những gì có thể tác động trực tiếp đến người cha sức khỏe mỏng manh.
Bà ngoại nhìn Lindsey, nháy mắt ra hiệu. “Hal, Buckley và bà đã làm bánh sôcôla hạnh nhân,” bà nói. “Còn vài cái Lasagna(2) để trong tủ lạnh, nếu muốn ăn thì bà bỏ ra sẵn cho rã đông.” Bà đứng dậy, em trai tôi cũng đứng lên theo, sẵn sàng phụ bà một tay.
“Cháu muốn ăn bánh sôcôla hạnh nhân, bà ngoại Lynn ạ,” Samuel nói.
“Bà ngoại Lynn à? Bà thích nghe cháu gọi tên như thế,” bà nói. “Thế cháu có sắp gọi Jack bằng tên ‘Jack’ chưa?”
“Có lẽ sắp ạ.”
Buckley và bà ngoại vừa ra khỏi phòng, anh Hal cảm thấy hình như bầu không khí lại căng thẳng như lúc nãy, vội nói: “Chãu cũng vào phụ luôn.”
Lindsey, Samuel và bố tôi lắng nghe tiếng lao xao trong bếp. Họ nghe rõ cả tiếng kim của chiếc đồng hồ đặt ở góc phòng mà mẹ tôi gọi là ‘chiếc đồng hồ thô kệch thời thuộc địa’(3).
“Bố cũng biết bố có tính hay lo,” bố tôi nói.
“Samuel không có ý nói thế đâu,” Lindsey nói.
Samuel nín lặng, tôi chăm chú nhìn anh chàng.
“Thưa bác Salmon,” cuối cùng anh chàng lên tiếng – vẫn chưa gọi bố tôi bằng tên ‘Jack’ – cháu đã ngỏ lời hỏi Lindsey có muốn lấy cháu không.”
Tim LIndsey như bật lên nằm chẹn cổ họng, nhưng em không nhìn Samuel. Em nhìn bố tôi.
Buckley bưng vào một đĩa bánh sôcôla hạnh nhân, anh Hal theo sau, một tay cầm mấy ly sâm banh dốc ngược, kẹp giữa mấy ngón tay, tay kia cầm chai rượu hiệu Dom Perignon năm 1978. Anh nói: “Đây là quà bà ngoại mừng ngày các em tốt nghiệp.”
Rồi tới bà ngoại Lynn, hai tay không mang gì hết ngoài ly Whisky sô-đa với đá cục, lấp lánh phản chiếu ánh đèn trông như một bình kim cương trong suốt không khác băng đá.
Với Lindsey như thể ngoài em với bố ra không còn ai nữa. “Ý bố thế nào ạ?”
“Ý bố là,” bố vừa nói vừa đứng lên bắt tay Samuel, “bố chỉ mong có được chàng rể như cháu mà thôi.”
Nghe hai chữ ‘chàng rể’ bà ngoại Lynn reo to: “Lạy chúa, cưng ơi! Bà chúc mừng hai cháu.”
Ngay cả Buckley cũng thoát ra khỏi sợi dây trói buộc hàng ngày, hồ hởi mừng vui, một thái độ hiếm thấy nơi em. Song tôi nhìn thấy sợi dây mỏng manh, đưng đưa vẫn nối liền em gái tôi với bố tôi. Sợi dây vô hình có thể làm chết người được.
Tiếng nút chai sâm banh bật nghe giòn tan.
“Cháu có tay nghề ghê gớm!” bà ngoại nói với anh Hal đang rót rượu.
Buckley là người nhìn thấy tôi trong lúc bố và em gái tôi cùng ra ngồi nghe bà ngoại Lynn không dứt lời chúc tụng cháu. Em trai tôi thấy tôi đứng dưới chiếc đồng hồ thô kệch cổ lỗ, thế là em sững người nhìn. Em nốc một ngụm sâm banh. Từ toàn thân tôi tỏa ra những sợi tơ, vươn lên, lượn lờ trong không trung. Có ai đấy đưa cho em miếng bánh sôcôla hạnh nhân. Em cầm nhưng không ăn. Em thấy dáng người và khuôn mặt tôi không hề thay đổi – tóc vẫn rẽ ngôi giữa, ngực vẫn lép, hông chưa nở - và định gọi tên tôi. Tất cả chỉ xảy ra trong một khoảnh khắc, sau đó tôi biến mất.
* * *
Trong những năm ấy, lúc nào chán việc ngồi nhìn xuống trần, tôi hay ngồi toa sau các xe lửa đổ về hay xuất hành từ nhà ga ngoại ô của bang Philadelphia. Trong lúc hành khách người lên tàu kẻ xuống ga, tôi lắng nghe tiếng họ trò chuyện lẫn với tiếng cửa tàu đóng mở, tiếng người soát vé xướng tên trạm xe dừng, tiếng đế giày thường và giày cao gót gõ cồm cộp ngắt quãng, mới đầu trên vỉa hè rồi trên nền sàn tàu lót ván sắt, rồi thành tiếng lộp nhộp nhẹ tai trên tấm thảm trải lối đi giữa hai hàng ghế. Lindsey gọi đó là kiểu nghỉ ngơi mà vẫn không ngừng hoạt động, trong thời kỳ em luyện để chơi thể thao; các cơ bắp của tôi vẫn trong tư thế sẵn sàng, nhưng mức độ tập trung hạ hẳn. Tôi lắng nghe những âm thanh ấy, cảm nhận những chuyển động của đoàn tàu và nhờ thế đôi khi tôi nghe được cả tiếng những người không còn sống trên thế gian. Tiếng của những kẻ như tôi – những kẻ làm việc quan sát.
Hầu như mỗi người trên thiên đường đều có người nào đó ở dương gian để dõi theo, một người thân thương, một người bạn, hay cả một người xa lạ từng tỏ ra tử tế với mình, mời ăn một món nóng sốt hay nở một nụ cười rạng rỡ đúng lúc mình cần nhất. Lúc nào không bận dõi mắt nhìn theo ai, tôi nghe những người đã quá cố đó chuyện vãn với người họ yêu thương dưới trần, họ làm một việc vô vọng không khác gì tôi. Lời tán tỉnh cho một bên và lời dạy khôn cho đám trẻ, tình yêu một chiều và nỗi hoài vọng người xưa, trống bưu thiếp trống một mặt sẽ chẳng bao giờ có ai ký tên.
Khi tàu ngừng hoặc chạy chậm lại trong khoảng giữa đường số 30 và Overbrook, tôi nghe được tiếng họ gọi tên và nói những câu như: “Cẩn thận kẻo vỡ kính đấy.” “Nhớ trông nom bố cháu nhé.” “Ô, trông kìa, mặc áo đó trong con bé lớn hẳn ra.” “Con sẽ luôn nghĩ tới mẹ.” “…Esmeralda, Sally, Lupe, Kessha, Frank…”Bao nhiêu là tên. Rồi tàu tăng tốc dần, khi ấy tất cả những câu nói trên từ thiên đàng vọng xuống, mà người trần không nghe được, cứ vang dần lên; mức ồn đạt cao điểm lúc ở quãng giữa hai nhà ga, khi ấy mức ồn của những nỗi nhớ mong của chúng tôi làm đinh tai nhức óc khiến tôi mở choàng mắt ra.
Nhìn qua khung cửa sổ của con tàu đột nhiên im ắng hẳn, tôi thấy bên dưới những người đàn bà đang phơi phóng hay rút quần áo xuống. Họ lom khom bên giỏ đựng, vắt những tấm khăn trải giường màu trắng, vàng hay hồng lên dây phơi. Tôi đếm quần áo lót của đàn ông, của bọn con trai và những chiếc quần đùi của bé giá bằng vải bông mang màu kẹo với tôi rất thân quen. Và loại âm thanh mà tôi nhớ và thấy thiếu vắng nhất – âm thanh của cuộc sống – át mất tiếng gọi tên người liên miên không biết lúc nào dứt kia.
Quần áo vừa giặt còn ướt: động tác chụp lấy, kéo lên, sức nặng của khăn trải giường đơn và giường đôi còn ướt.Những âm thanh của đời sống gợi lại trong tôi những âm thanh thời xa xưa hằn lại trong ký ức, lúc tôi nằm dưới dây phơi quần áo ướt, nước nhỏ ròng ròng, tôi thè lưỡi hứng nước, hoặc chạy luồn qua luồn lại, lấy đó là ụ đánh dấu ngăn đường để chơi trò đuổi bắt với Lindsey. Thêm vào đó là kỷ niệm mẹ tôi đe nẹt chúng tôi không được lấy tay dính đầy “bơ đậu phọng” túm vào mấy tấm khăn giường mới giặt sạch, hay về vIệt kẹo chanh nhớp nháp mẹ vừa khám phá dính trên áo sơ-mi của bố chúng tôi. Cứ thế, hình ảnh và mùi vị của đời sống thực tại, của óc tưởng tượng và của kỷ niệm cứ lẫn lộn vào nhau trong trí tôi.
Ngày ấy, sau khi quay đi giã từ Cõi trần, tôi ngồi tàu lửa đi mãi cho đến lúc trong tâm trí chỉ còn một điều này:
“Con giữ cho chắc nhé,” bố tôi bảo, lúc tôi giữ con tàu trong chai còn bố đốt những sợi dây đã dùng để kéo cột buồm lên, thả cho con tàu nằm trên mặt biển xanh làm bằng ma-tít. Và tôi căng thẳng đợi ông ra hiệu, nhận thức rất rõ ràng giây phút trọng đại khi cả thế giới trong cái chai hoàn toàn tùy thuộc vào mỗi một mình tôi.
(Hết chương 17)
____________________________________
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top