Iretriya
Bạn đã nghe đến Iretriya rồi chứ? Đó là một vùng đất ở phía xa nơi cực bắc. Một vùng đất kì bí, lạ lẫm với nhiều người nhưng lại xinh đẹp hiền dịu đến mức nhẹ nhàng sâu lắng đối với tôi, như được âu yếm trong bàn tay ấm áp của mẹ thiên nhiên mỗi khi đặt chân đến và tận hưởng một phần cuộc hành trình của bản thân ở nơi đó.
Ở Viegarzterraria - một quốc gia nằm ở phía tây Iretriya, tương truyền rằng nếu muốn đến được Iretriya, bạn phải bước qua những con đường đi qua sa mạc khô cằn, một hồ nước rộng như biển, đi qua dãy núi cao nhất thế giới, vượt qua cánh rừng Taiga lá kim lạnh lẽo, chiến đấu với những con quái vật đáng sợ trong biển sương mù dày đặc. Và khi bạn bị lạc trong chuyến hành trình đó, một tia sáng lẻ loi sẽ loé lên như một sự công nhận của vị thần hồ ly sẽ dẫn bạn tới khu vực rìa núi của Uvekona. Đến lúc đó bạn sẽ hoàn thành chuyến hành trình của mình và đến được Iretriya.
Nghe có vẻ như đó là một câu chuyện kì bí nhưng sự thật thì có vẻ là như vậy nếu bạn đến Iretriya vào cuối thu cho đến đầu mùa xuân năm sau.
Còn tôi thì đến Iretriya bằng cách là đi vào mùa hạ trong khi băng qua một biển cát ngày nóng đêm lạnh của Zimpaer
Nếu phải nói là muốn đến Iretriya vào lúc nào là dễ nhất thì tôi sẽ nói là đi biển từ Maderxkiza là dễ nhất, mỗi tội hơi ngược đường tí khi mà bạn sẽ phải đi ngược về hướng đông bắc trong khi Iretriya là ở hướng tây bắc.
Đường thì xa hơn, mất nhiều thời gian và chi phí cũng như sức lực hơn nhưng chẳng ai muốn phơi xác ở Zimpaer đâu nhỉ? Quả thật rất nóng bỏng đấy!
Vì vậy nên tôi vẫn sẽ đề xuất việc đi từ biển vào thẳng trung Iretriya thay vì đi bằng mấy con đường kì quặc kia.
Nhưng đi bằng đường biển thì vẫn gặp phải một vấn đề khác. Đó là bạn sẽ phải đi qua nơi sâu nhất thế giới mà ở đó người ta gọi là Abyss. Rất nhiều tàu thuyền đã rơi vào đó mà chẳng ai biết họ có còn có thể quay trở lại bất kì một lần nào nữa không.
Thế nên lời khuyên duy nhất cho các bạn là đừng đến Iretriya. Nếu bạn không thực sự muốn đến.
Iretriya biệt lập với bên ngoài cũng như nó cũng cô lập chính mình với thế giới.
Quả thật lấy làm tiếc cho những ai đam mê thắng cảnh và có thú phiêu lưu, đi đây đi đó mà không được đến tận nơi và chiêm ngưỡng vẻ đẹp hút hồn của Iretriya.
Bề ngoài là một thiếu nữ được bao bọc bởi thiên nhiên hung bạo, dữ dội sẵn sàng lấy mạng bất cứ ai muốn lột bỏ lớp xiêm y để chiêm ngưỡng cái trần trụi của cơ thể người con gái ấy và yêu lấy nó. Một khi đã làm chủ được thiên nhiên, vượt qua “thử thách của thần” và bước vào Iretriya. Không ai là không thể yêu lấy người con gái như một thiếu nữ Ise ngượng ngùng, nũng nịu bởi sự bao bọc thái quá của mẹ thiên nhiên ấy mà mong muốn chiếm hữu, chiêm ngưỡng vẻ đẹp thần tiên ấy.
Tôi cũng là một con người như vậy. Nhưng đó là khi Iretriya bắt đầu nhận thức được giá trị của mình. Tôi mới thấy nó đẹp đến nhường nào, một vẻ đẹp của sự bí ẩn, cổ kính và quyến rũ đến lạ thường.
Thế là tôi đến Iretriya...
Bất cứ khi nào, mỗi khi đặt chân tới nơi đây, tôi lại cảm nhận được một tia nắng ấm cùng với làn gió mát như thể ánh nhìn của một cô bé từ trên đỉnh núi đằng kia. Nơi này đối với tôi có rất nhiều kỉ niệm, cũng như nhiều điều mà tôi muốn gặp lại nhiều lần như bất kì một nơi nào khác trên thế giới.
Iretriya như quê hương của tôi vậy. Nó là quê hương độc đáo nhất, đẹp đẽ và tuyệt vời nhất...Bầu không khí nơi đây ngọt ngào nhưng thông thoáng và lạnh lẽo quen thuộc. Nó làm tôi nhớ về cái ấm áp kì lạ của quá khứ năm ấy.
Bỗng chốc, một cơn gió buốt lạnh thổi ngang qua thân hình gầy gò, xuyên qua lớp ảo dày cộm. Tôi một lần nữa tưởng về cái ngày xưa với một cuộc gặp gỡ vô tình đến kì lạ. Nó làm cho tôi có một cảm giác như mọi thứ đã được sắp đặt từ trước mà lại không có một chút chứng cứ nào cho thấy rằng mọi thứ đều được dẫn đến một kết quả đã được định sẵn.
Vậy nên tôi đã ngó lơ nó. Câu chuyện kì lạ năm ấy, nhưng không phải của tôi, mà đó là một câu chuyện cũ của một đứa trẻ mà tôi vẫn thường hay nói đến.
Nó là niềm tự hào của tôi. Và hiện tại, mỗi khi nhìn vào chòm sao phương bắc, tôi lại tự hỏi rằng chúng nó đang ở đâu và hiện tại thì đang làm gì...
Từ rất lâu rồi, đó là khi một lần nữa tôi bước trên nền cát hướng về Iretriya.
Khi ấy, một người phu xe trong cuộc hành trình xuyên suốt cả cuộc đời của tôi, người đã cùng tôi băng qua sa mạc lớn nhất thế giới.
Với vẻ ngoài trẻ trung, một tâm hồn bay bổng với những nụ cười phóng khoáng mà tôi chiêm ngưỡng không biết bao nhiêu lần trong cái cuộc hành trình khó khăn gian khổ ấy.
Với ánh mắt tươi sáng rạng ngời của tuổi trẻ nhưng dày dạn kinh nghiệm. Anh ấy khác hẳn những gì mà người ta đánh giá là một tên thư sinh yếu đuối đang cố gắng vượt qua Zimpaer tựa như một con kiến nhỏ bé cố gắng chinh phục đại dương mênh mông.
Không biết đã vượt qua nơi ấy biết bao nhiêu lần rồi. Nhưng cái tôi trẻ trung của anh ấy vẫn như thường lệ. Chỉ khác một điều là đây là lần đầu tiên, trong suốt cuộc hành trình ấy, anh ta đã nói với tôi rằng: “cậu nên đến Iretriya đi, nơi đó tuyệt vời lắm...”.
Và tất nhiên, cuộc hành trình về phía đông bắc của tôi bị hoãn lại vì nghĩa đó.
Tôi đã bị mê hoặc và tò mò bởi câu nói của anh ta. Nhưng không phải là sự mới mẻ, mong muốn xê dịch của bản thân. Mà đó là sự nhớ về một mảnh đất mà mình vẫn luôn mong muốn gặp lại.
Đáng lẽ ra, cuộc hành trình của tôi sau khi đi về phía đông bắc thì mới tới lượt Iretriya ở ngay cạnh bên. Nhưng lời nói ấy đã làm tôi xao nhãng, từ đông bắc, tôi trở về hướng tây bắc, để cùng gặp lại những người bạn cũ và cũng thưởng rượu ấm dưới cái lạnh mùa đông và cái mát mẻ khi mà làn gió đông ấm nóng từ biển vào hoà quyện với cái lạnh của gió Vulpa từ trên núi Uve xuống.
Còn gì thoải mái hơn là được đắm mình trong màn sương ấm mà mẹ thiên nhiên đã ban tặng. Hệt như đang thư giãn trong một thế giới huyền ảo lạ kì.
Không biết có phải định mệnh không, hay đơn giản chỉ là một biến cố, một sự trùng hợp kì lạ với sự thay đổi lịch trình bất thường của tôi.
Tôi đã hoàn toàn chìm đắm vào giấc mơ ngọt ngào, lãng mạn đó của thiên nhiên và con người Iretriya, trước cả khi tôi đặt chân đến đó và thực sự tận hưởng.
Có lẽ đối với tôi, nơi đó đã là một nơi mà dù có đi bất kỳ nơi nào đi chăng nữa, tôi vẫn chẳng thể nào quên được cái dịu dàng, thoang thoảng, thư thái của làn gió Vulpa tên con đường đầy hoa tuyết và một bầu trời rực rỡ đỏ hồng nhạt nhoà và mơ hồ như một bức tranh lạnh lẽo của kí ức trên con đường mùa đông.
Khi người phu xe ấy gọi tôi dậy, cho đến lúc tôi chào tạm biệt anh ta và cảm ơn vì chuyến đi xuyên đại hoang mạc rộng lớn. Tôi đã mơ hồ đứng trước con thác quen thuộc của Neurbyro từ lúc nào...
Nhiều người nói cho rằng cực bắc là một nơi lạnh lẽo, Đã không biết bao nhiêu lần rồi, và lần cuối cùng là vào khoảng thời gian nào từ khi dấu chân trên nền cát trắng xứ Iretriya bị phai mờ dần trước những cơn gió lạnh.
Một lần nữa, đó lại là cảm giác lạ mà quen mỗi khi đứng dưới ngọn thác Fossen để tận hưởng cái nắng nhè nhẹ pha chút cái lành lạnh của mùa xuân.
Khi đó, ngay tại vị trí này, nhưng bây giờ chỉ còn là một thứ gì đó lạ lẫm trong tâm trí tôi.
Thời gian đã khiến mọi thứ thay đổi. Từ cảnh sắc thiên nhiên, mùi hơi ẩm của đại dương đến con người và văn hoá từ xưa cũ. Tất cả đều mới mẻ hết cả.
Ngọn Icecruel đã cao hơn nhiều so với trước đây. Vào lần đó, tôi có thể nhìn thấy đỉnh Ehphagi. Nhưng hiện tại thì nó được bao quanh bởi lớp sương mù dày đặc dưới lớp băng vĩnh cửu của miền núi cao. Nhờ vào thứ độ cao kì diệu đó mà Iretriya được chia làm ba khu vực thay vì là hai như những kì “tham quan” trước đó.
Nếu không muốn nói là kì lạ, thì tôi có cảm giác rằng núi non ở đây cao lên một cách bất bình thường như là có một vị thần nào đó đã nâng nơi này lên vậy.
Và quả nhiên thì đúng là như vậy đấy.
Người Engi với bộ râu dài của mình đã xác nhận điều đó từ vài thế kỉ trước khi tôi rời khỏi Uvekona với nhiều nuối tiếc về việc không thể nán lại lâu hơn, để một lần nữa tắm làn nước mát và làm ấm người bằng men rượu dưới ngọn thác thân quen.
Họ kể rằng, ngày đó, khi một con hồ ly khổng lồ xuất hiện từ phía đông nam, nó đi đến đâu là tuyết rơi dày đến đấy, mặt nước bị đóng băng ngay cả khi đó là vùng trung tâm đại lục và hồ Nesufayeh ở vùng xích đạo.
Để rồi con cáo ấy dừng lại ở trên ngọn Ehphagi hiện tại, đẩy ngọn núi ấy lên cao và tạo nên cảnh sắc huy hoàng của xứ Iretriya. Phần đồng bằng Garangujnzi từng là một vịnh lớn, bãi triều sâu và hẹp về phía đại lục, nhưng nhờ vào sự kì diệu của thiên nhiên nên người Ise phương bắc mới có thể tự hào về vẻ đẹp quê hương mình.
Vì vậy, bất kì chủng tộc nào dù có là ở rãnh Depth hay trên ngọn Cruel, đều tôn thờ vị thần hồ ly theo như tín ngưỡng của người Engi, họ đều tin và cho rằng chính vị thần ấy đã tạo nên đất nước, quê hương và con người họ.
Mặc dù vậy, vẫn chưa ai có thể chạm tới vị thần của dân tộc mình, vốn đang nằm ở vị trí cao nhất của cả thế giới. Điều ấy được coi là xâm phạm vào lãnh địa của “ngài ấy”. Đó là điều báng bổ nhất mà bất cứ dân tộc của Iretriya nếu họ dám làm.
Hoặc là họ chỉ đang bao biện cho việc họ không thể lên nổi độ cao lên tới sấp xỉ 52493ft ấy...
Iretriya này, so với ngày trước chỉ là một ngọn đồi thoải hiền dịu, xanh mùi cỏ cây với những cánh rừng dài gần như vô tận. Nối liền với vùng thảo nguyên xanh mướt từ đầu về phía nam của Garangujnzi hiện tại là hai điểm nhấn chính.
Bây giờ, bất cứ ai khi nhìn vào cũng phải thán phục và ghen tị với những gì mà mẹ thiên nhiên đã dành tặng cho Iretriya.
Khu vực đầu tiên là Garangujnzi với bốn thành phố của người Ise. Từ Bắc vào Nam: Uchies, Ẽccekyo, Elova và nơi tôi đang đứng là Neurbyro.
Khu vực thứ hai là Cruelmount của tộc Faerie và một vài chủng tộc khác sống ở khu vực rừng núi.
Khu vực thứ ba là núi tuyết Uvekona được đặt theo tên đứa con của vị thần sáng thế theo tín ngưỡng của người Ise. Dù có tôn thờ vị thần trên đỉnh Ehphagi như thế nào đi chăng nữa, người Ise vẫn sẽ không bao giờ quên đi cội nguồn văn hoá của dân tộc mình.
Còn về Faerie, họ là tộc tiên có hình dạng nhỏ bé ở trong những cánh rừng Taiga ưa lạnh với những cây thông già cổ kính. Họ thường được gọi là Colder vì họ là chủng Faerie duy nhất sinh sống ở vùng bắc cực.
Cũng vì lí do vậy mà họ thường bị những người Fae ở vùng nhiệt đới khinh bỉ và cười nhạo, cho rằng những Colder là những kẻ khó thích nghi và phải trốn chui trốn lủi ở bên rìa thế giới.
Nói đến đây rồi, chắc hẳn là nhiều người sẽ muốn hỏi tôi rằng: “vì sao ông lại chắc chắn là như vây? Tôi biết ông là nhà du hành nhưng chẳng phải theo những gì ông nói thì ông đang tự cho rằng mình đã ở đây trước cả khi nền văn hoá Iretriya ra đời sao? Rồi còn về địa hình địa chất nữa...”
“Ồ, đoán xem?” – tôi sẽ trả lời như vậy đấy.
Tất nhiên, tất cả đều là kiến thức mà tôi có được từ quá khứ. Hiện tại thì sao? Ai mà biết được chứ. Một kẻ lang thang mới từ đi từ vùng xích đạo qua sa mạc Zimpaer lần thứ mười bảy ngàn chín trăm mười hai thì làm sao mà có thể nhớ nổi khoảng thời gian trước đó đã đặt chân đến vị trí này từ lúc nào.
Tôi chỉ cần biết được rằng tôi đang ở đây, ngay dưới con thác “quen thuộc” vào một ngày cuối xuân mát mẻ ở vùng cận cực Iretriya và tận hưởng cái nắng ấm dịu nhẹ đang cố tấn công lên làn da rám nắng. Không biết bao nhiêu lần rồi tôi đã ngồi ở đây, dưới ngọn thác này, đặt chiếc ba lô ở bên cạnh, tay thì cầm một chén rượu ấm nóng.
Gió bắt đầu thổi, từng hạt nước li ti như một cơn mưa phùn man mát. Tôi bỗng cảm thấy khoai khoái hẳn ra. Như thể không bao giờ có thể chán được thứ rượu thuốc đem lại sự thoải mái tột cùng này. Và thế là một lần nữa trong vô số lần tôi đã từng ngồi ở đây, một li rượu nữa lại được nâng lên rồi hạ xuống như một thói quen thường lệ.
Neurbyro chào đón tôi với một nụ cười toả nắng. Từ phía xa xa, ngon núi tuyết như thở dài vì một lần nữa lại nhìn thấy một thằng như tôi. Nó đem một luồng khí lạnh tràn xuống chào đón tôi một cách nồng nhiệt bằng một màn sương mờ ảo kết hợp với gió ẩm từ phía đông.
Ngày đầu tiên của tôi có vẻ không suôn sẻ cho lắm. Người bạn già có biệt danh là “Sơn” ấy có vẻ không được vui như những lần đầu gặp mặt. Nhưng có vẻ như ông bạn già ấy đang đem một nỗi phiền muộn gì đó không dễ gì để nói ra.
Điều đó đối với tôi, cũng như một cái hờn dỗi của người bạn vì đã không rủ đi nhậu ngay khi chào mặt lần cuối cùng vào khoảng vài thập kỷ trước.
Nhung điều quan trọng hơn cả cái hờn dỗi của người bạn chí cốt ấy, phải là ngày mai, đi ngắm hoa ở Asu, ở Nurnberg. Phải tận hưởng hết thanh xuân vĩnh cửu của bản thân, một thứ thanh xuân chán nản và mơ hồ. Tựa như thứ thanh xuân ấy chẳng hề có nhưng nó vẫn luôn tồn đọng trong tâm trí ta.
Nhắc về Asu, không thể nào không nhắc đến con sông Yanbiery thơ mộng, mang hình dáng của một người thiếu nữ đang tuổi xuân uốn lượn quanh Elova rồi chợt quay phắt đi như đang quyến rũ một chàng trai hãy còn mang bản tính tò mò.
Yanbiery như chỉ dành cho Elova vậy. Tất cả những gì mà thiên nhiên ban tặng cho nơi đây, như một câu chuyện cổ tích về tình yêu đẹp đẽ. Hay trong cơn say mê yêu kiều trong những bữa tiệc xưa của người Ise, họ đã cho ra một thiên tình sử về quê hương đất nước họ.
Đó chính là cái hồn của người Ise, họ là những con người mơ mộng nhưng cũng thực tế. Họ luôn luôn tự làm chủ được mình là bản sắc văn hoá độc đáo của họ. Họ là những con người có chính kiến và tư tưởng. Điều đó có nghĩa là họ - những con người không dễ gì bị lung lay bởi những dòng thông tin ngoài mặc dù nó chính xác đi chăng nữa.
Những con người mang tính tự hào dân tộc thái quá nhưng lại khó chấp nhận mọi thứ từ bên ngoài, như thể họ đang đóng một cánh cửa cuối cùng vào vậy. Chỉ có một người duy nhất mới có thể thay đổi được họ, suy nghĩ của “người ấy” là suy nghĩ của mọi người dân Ise. Người Ise phức tạp vậy đấy.
Ngày trước, có một người đã hỏi tôi rằng: ông thấy thành phố này như thế nào?
Thực sự tôi không nhớ rõ câu hỏi đó được đặt ra vào khoảng thời gian nào, tôi cũng đã quên đi câu trả lời trước đó mà tôi đưa ra, hoặc đơn giản hơn là tôi đã im lặng, im lặng vì tôi không muốn đưa ra cảm nhận riêng lẻ về một nơi mà nó luôn thay đổi, và tôi không biết được rằng tôi còn có thể tới nơi đây bao nhiêu lần nữa.
Nhưng vào thời điểm hiện tại, chúng ta hãy cùng đặt ra câu hỏi là “nếu thực sự phải trả lời câu hỏi đó, một cách bắt buộc thì tôi sẽ trả lời một cách không do dự rằng: “đây là một nơi tuyệt vời!”
Đó là câu trả lời y như kịch bản sẵn có của tôi khi người hỏi là một tay phóng viên, một nhà báo hay là một người nào đó tượng trưng, thay mặt người dân nơi đây làm một nhiệm vụ đó là xin cảm ngận của các du khách khi đến và ở đây.
Đó là những người tôi không rõ lai lịch và bất kì ai có khả năng lan truyền lời của tôi một cách không kiểm soát được.
Nhưng nếu anh(chị) ta là một người mà tôi hoàn toàn hiểu hết mọi thứ, biết về nguồn gốc của họ, hay là một trong những người tôi có thể tin rằng là: “họ sẽ không công khai chuyện này đâu” khi nghe bất cứ lời nào tôi trả lời.
Họ sẽ cho rằng câu chuyện sẽ chỉ kết thúc như một cuộc tán phét ngẫu hứng của đôi bạn thân hay những người có cùng một cái nhìn toàn cảnh trong chuyến du lịch. Đứng trước những người mà tôi hoàn toàn có thể thành thật mà không có một chút rủi ro. Lúc đó, câu trả lời của tôi sẽ là: “nơi này thật bẩn thỉu...”
Tại sao? Có nhiều lí do để tôi có thể trả lời một cách giống nhau trong bất kì thời điểm nào trước đó nếu có người hỏi một cách dai dẳng và liên tục.
Nguyên nhân khiến một kẻ ưa cái đẹp như tôi phải nói như vậy khi đánh giá người bạn già chí cốt của mình thì đơn giản sẽ được giải đáp ngay sau câu chuyện dưới đây.
Một người yêu mến quê hương sẽ nói gì khi có người hỏi về quê hương họ?
“Còn gì đẹp đẽ và tuyệt vời hơn quê hương tôi chứ?”
Đó là sự thật, chẳng có ai lại nói rằng quê hương mình nhàm chán và như “cái bộ phận sinh dục” của họ đâu. Hoặc là đặc biệt lắm mới có một thanh niên phát biểu kì quặc như vậy thôi, chứ hầu hết theo như thường thức trong các tác phẩm văn hoá đại chúng thì đều như trên, rất yêu quý quê hương mình và chỉ đưa ra tất cả những gì có thể thấy ở mặt tốt của nó.
Còn nếu gặp phải một người du khách đến với nơi này lần đầu tiên và gặp phải một điều xui rủi nào đó khiến cho người đó không có ý định trở lại nơi này nữa.
“Ồ, vậy hả? Rất cảm ơn vì đã phục vụ, đây là lần cuối cùng mấy người được nhìn thấy mặt tôi ở đây.”
Quào, người ấy đã gặp phải chuyện gì thế nhỉ? Tại sao anh(chị) ta lại có vẻ không thoải mái như vậy?
Mấu chốt chính là các mặt đối lập của một vấn đề.
Thế giới luôn tồn tại nhiều mặt, nhưng đa phần cái cách mà ta được người khác nói đến, để ta thực sự nhìn vào luôn là mặt tích cực của nó, một cách thái quá, như thể luôn họ cố gắng tránh né tất cả những gì hướng tới hiện thực - hiện thực chính là một thứ tàn khốc mà họ không muốn đối mặt, là thực tế của thế giới.
Nhưng, chính ý thức của họ đã từ chối những gì mà họ không mong muốn để hướng đến điều tốt đẹp hơn.
Họ không chấp nhận sự thật, cốt để tẩy trắng lấy cái vùng kí ức mà đáng ra sẽ là kinh nghiệm thực tiễn cả đời của họ. Vì một tâm hồn trong sạch là thứ mà họ hướng đến, hay nói cách khác, thứ đó – “tạp niệm” chính là thứ “khí âm” mà họ coi nó là không nên tồn tại trong cuộc đời họ, thứ “chướng khí” ấy sẽ làm hao mòn linh hồn họ, đẩy tâm họ vào sự ô uế, họ muốn thanh tẩy nó đi, vĩnh viễn trong sạch để phù hợp với đức hạnh mà họ vẫn cho rằng đó là lẽ phải.
Vậy nên, họ đã quyết định sẽ tự lừa dối chính mình để có một cuộc đời tươi đẹp như trong chính trong cái thứ gọi là “tâm” của họ, một cái tôi trong sạch không vướng bụi trần, “khổ hạnh gian lao ắt sẽ giành được sự hạnh phúc tột cùng.” điều đó, tôi không có ý kiến gì về nghiệp chướng của họ. Như một bậc hiền nhân đã từng phán xét: “thuốc chữa bách bệnh chính là tâm tính, tính âm thì xấu, tính dương thì tốt, đắc đạo sẽ khiến con người ta “bất tử tâm”.
Nghe qua thì cảm thấy thật thanh thản, tâm hướng về Đất Mẹ. Nhưng ngẫm lại thì toàn là cái gì đâu không, khó hiểu và ngay cả bản thân tôi cũng không hiểu vì sao mọi người lại tin vào mấy cái lời qua loa sáo rỗng như thế.
Tôi chỉ nghĩ vậy, tôi không có nói ra. Nói xấu về tôn giáo của một quốc gia cai trị bằng tôn giáo thì khác nào tự treo cái đầu của mình lên cho mọi người nhìn vào và lăng mạ.
Còn tin vào cái văn hoá của họ và sùng bái nó thì hẳn là sự đồng hoá. Thế nên nhiều người đã không quen thuộc được và phải rời đi. Nhưng nó cũng để lại một bài học cho những người đến sau. Như tôi của hiện tại - một người chưa hề biết gì ngoài Iretriya của hơn vài thế kỷ trước.
Đó là lí do trừ khi thông tin được tiếp cận bởi chính bản thân bạn, người đã làm lớn chuyện lên kia sẽ dần bị xoá nhoà bằng một mớ câu chuyện rối ren, qua loa đại khái và rồi mờ nhạt dần như thể chuyện ấy chưa từng xảy ra.
Từng câu chuyện một qua lời của mỗi người sẽ cắt đi một chút ít, để rồi dần dần sự thật được phơi bày ra trước thính giác của bạn là một câu chuyện nghe có vẻ là thật nhưng thật ra lại rất phi lí. Đó là lí do khi đến một nơi xa lạ, bạn chỉ nên tin vào bản thân, và những người đã đi cùng bạn từ lúc đầu. Bạn chỉ có thể tự mình trải nghiệm và đưa ra kết luận. Không phụ thuộc vào người khác.
Một lần nọ, khi tôi đang ở trên một ngôi đền ở Vulpeschain, đã được gặp một vị thạc sĩ có cái tên kì lạ như một loài cây thuộc họ Meliaceae đã kết luận rằng: “cọ nhà xí ở chùa là phương thuốc báu hơn cả, kể cả đó là giai đoạn cuối của một căn bệnh nan y!”.
Nghe có vẻ mỉa mai nhưng ngay cả tôi cũng phải đồng ý với quan điểm đó. Không biết đó là bậc tiên nhân nào đã phán xét trần thế nhưng quả thật đó là lời sấm truyền mà ngay cả những chuyên gia cũng phải cúi đầu nể mười phần vì kinh sợ...kinh sợ vì độ kì ảo còn hơn cả “quái dị” của trí tưởng tượng loài người.
Từ lúc tôi bắt đầu đặt chân tới nơi này đã được vài năm. Theo lịch của người Ise, bắt đầu từ lúc vị thần hồ ly của họ xuất hiện và ban vẻ đẹp đến cho quê hương của họ.
Đến nay đã là năm 1828. Và tôi của hiện tại là một người “có quyền công dân” của nơi này, thân thế do chính tôi tạo ra đang trú ngụ trong một căn nhà nhỏ ở trung tâm thành phố Elova thuộc khu vực Garangujnzi sầm uất.
Mỗi khi nhìn về phía cửa sổ, đưa con mắt về phía tây, đó là sự hùng vĩ của dãy Uve - thuộc khu vực Uvekona. Tôi lại bị choáng ngợp bởi sự kì diệu mà thiên nhiên đã tạo nên khung cảnh tuyệt vời nơi đây.
Xét vào khoảng thời gian trước. Khi mà Uve chỉ là một dãy núi trung bình của thế giới và chẳng có một vị thần nào trú ngụ trên đỉnh cao nhất của nó cả. Uve như một dải cao nguyên bằng phẳng. Nhưng rồi từ khi có một tia sáng màu trắng vẫn luôn mập mờ ở trên đỉnh cao nhất kia bắt đầu xuất hiện. Uve đã trở thành dãy núi có độ cao lớn nhất thế giới vè vẫn không ngừng tăng lên.
Có nghĩa là nơi này đã cao hơn khoảng 45000ft từ lúc vị thần ấy xuất hiện, trung bình mỗi năm cao hơn 24,61ft.
Về việc địa hình nơi này như thế nào, tạo hoá đã ban tặng những gì?
Tôi không quan tâm, cũng không muốn biết lí do tại sao lại ưu ái nơi này như thế.
Bởi vì nếu cảm thấy thế giới thật bất công đối với quê hương bạn, hãy làm tâm thư thật cảm xúc, trung thực bằng tất cả tấm lòng của mình và gửi nó lên cho tạo tác gia, có khi họ lại để tâm đến đấy, có khi họ lại thực hiện ước mong của bạn đấy.
Nhất là một kẻ lười biếng đã khiến thế giới loạn cào cào lên như hắn ta.
Khi ngọn tháp chuông ở thánh điện vang lên ba hồi chuông như thường lệ vào mỗi buổi chiều tà, cùng với tiếng lách cách, chiếc xe đạp cũ kĩ của người đưa thư đã đưa tôi từ những miền kí ức xưa cũ trở về hiện thực.
Một tiếng chuông như thường lệ bên ngoài cửa sổ, nó "tinh, tinh..." lên một tiếng.
Đó là tiếng đánh chuông của một cậu thanh niên trẻ tuổi, dưới chiếc áo len dày và chiếc khăn quàng cổ là đôi mắt màu xanh lam của người Santalie, với một điệu cười thân thiện và sự nhanh nhẹn trong giao tiếp, không ai có thể biết được rằng cậu đã vượt qua đại lục Luxuria rộng nửa vòng địa cầu để lên tới xứ Garangujnzi này bằng cách nào.
Họ chỉ được biết rằng là cậu xuất thân ở khu vực cận cực Nam nghèo ma tố và nổi tiếng với nhiều nhà khoa học phi thường.
Vừa hay, đúng với chủ đề ta đang bàn ở trên, tờ Daily World của hiệp hội KH-CN khu vực phía Đông Nam Luxuria, qua nghiên cứu của các nhà sinh vật học, họ đã đối đầu trực diện lại với những gì mà thế giới luôn tuyên truyền về chủng DelPhils - một loài cá được cho là một người bạn của nhân loại: dáng vẻ thân thiện, thông minh, dễ thương,... Với cái đầu tròn dài và đôi mắt long lanh màu đại dương sâu thẳm.
Chúng là một trong những chủng loài hiếm hoi được con người yêu quý, nhưng ngược lại, với tộc Chandrao sinh sống ở vùng biển Bắc thì lại không cho là như vậy. Chúng có những tập tính khiến cho họ phải dè chừng, họ coi chúng như một mối đe doạ giữa đại dương, như người ta vẫn hay coi các loài thú ăn thịt khác là mối đe doạ trong đất liền.
Tuy nhiên, vấn đề ở đây không phải là bàn về vấn đề về các giống loài hay sự việc liên quan đến vẫn đề chủng tộc, đó chỉ đơn thuần là một ví dụ về sự phiến diện một phía quan niệm, sự sai lệch sẽ đưa đến những rủi ro không đáng có.
Thế giới quan của tôi không cố định mà luôn thay đổi, như cách mà tất cả mọi thứ đều đang chuyển động hay nói cách khác thì đó chính là con sông trước đôi mắt nhoè lệ của vị triết gia, nó đang chảy. Người ấy đã nuối tiếc chỉ vì “dòng sông tại sao lại chảy nhanh như vậy.” Nhưng với bản thân tôi, dòng chảy tâm hồn đã ngừng vận động, nên sự cảm thông với một người ấy là không tồn tại.
Vì tôi và họ ở hai thái cực khác nhau, hai thế giới đối lập nhau, nhưng luôn song song cùng tồn tại. Tôi không hiểu được ông ta, cũng như vị triết gia đã cho ra một câu nói hết sức có ý nghĩa như thế nào. Ngược lại, ông ta cũng không có cách nào hoàn toàn hiểu được tôi.
Cũng như cái cách luôn tự đặt ra nhiều vấn đề, câu hỏi và tự mình sẽ tìm ra câu trả lời để giải quyết những vướng mắc đó trong tâm thức của bản thân. Nhiều người sẽ tự hỏi rằng những tờ báo mà cậu trai xứ Santalie kia có đúng xuất phát từ phía bên kia bán cầu hay không?
Về phía tôi, chẳng cần bàn về tính chính xác, ta chỉ cần hiểu rõ rằng chẳng có ai lại có thể tưởng tượng ra chừng ấy ý tưởng trong một ngày để làm ra một tờ báo dày năm trang đầy đủ những tin quốc tế cả. Mặc kệ những kẻ luôn luôn đặt ra câu hỏi “tin chuẩn không anh?” mỗi khi được chiêm ngưỡng những tri thức và tin tức từ tờ báo kì lạ.
Hiện tại, từng khoảnh khắc bình yên của thời gian. Tận hưởng nó là một trong những nghĩa vụ của tôi vì chính cái tâm hồn bạc bẽo của cuộc đời thường đưa đến cho ta một dáng vẻ sa sút thâm tệ.
Tại sao ư? Tại vì tôi hay bị cuốn vào mấy câu chuyện kì quái. Cũng có thể cho rằng cuộc đời này vốn như một vần thơ. Một vần thơ bị quên lãng. Nhưng vẫn giữ được cái nét đặc trưng đầy phong thái ung dung thi ca của kẻ cô độc, một con người đã cất lên những lời thơ bởi sự tuyệt vọng của bản thân, khi mà họ đã nắm được vận mệnh của “thế giới”.
Nhưng họ, lại ngã gục trước ngưỡng của vận mệnh. Chỉ một bước nữa thôi chính là mơ ước được đặt chân tới thiên đường.
Tuy nhiên, “Tận hưởng sự bình yên quá lâu cũng chính là cái chết.” Tôi đã suýt quên đi việc đó, một công việc cũng như khẳng định chính sự tồn tại của bản thân tôi, một công việc kì quặc ở xứ Garangujnzi để khiến “thế giới” phải biết đến sự tồn tại của chính tôi.
Tôi chẳng phải là “đặc biệt”, tôi cũng không dám tự đề cao chính bản thân mình nếu bằng một lí do nào đó bắt buộc tôi phải tự đánh giá ý nghĩa của bản thân tôi đối với sự tồn vong của thế giới.
Tôi chỉ đơn giản là một kết quả sai trong một phép tính đơn giản nhưng người thực hiện lại cho ra một sai số đáng lẽ ra không tồn tại.
Như thể đó - một phép tính mang ý chủ quan, hay là do bản ngã của thế giới đã cố tình thiết lập như vậy?
Tôi không rõ, nhưng nơi này, chỉ cần không muốn, thế giới này cũng sẽ “không cho phép mày tồn tại” trong một vở kịch mang ý thức, khi mà câu chuyện đã dẫn đến một kết thúc tốt đẹp, một kết thúc mà ai cũng mong muốn.
Nhưng chỉ với vài nét bút, màu đen sẽ bao trùm lấy không gian tươi sáng vốn có và phá hủy cả cốt truyện như một bảo vật thủ công tuyệt mỹ chỉ cần lỡ chạm nhẹ và đánh rơi, nó cũng trở thành một đống gạch vụn.
Khó chịu thay, đơn giản như sự bình yên trong cuộc sống thanh tịnh nơi thành Headaechi này vốn dĩ không tồn tại.
Như mấy kẻ mơ mộng luôn tự cho tâm hồn mình xen vào thế giới thứ ba, luôn miệng thở ra mấy lời đẹp đẽ, hít lấy hít để những làn khí mùa đông mát rượi, nhưng cơ thể lại thiếu đi một chút thơ mộng của văn chương, để rồi thứ tôi tận hưởng không phải là xứ hào hoa tiên cảnh, thứ mà khiến cơ thể tôi hứng thú chỉ có thể là “quái dị” mà thôi.
Có lẽ vì nó thú vị. Hoặc là sự nhạy cảm của mấy cái giác quan kì quặc – giác quan thứ sáu, bảy, tám,...hay gì đó mà tôi vẫn chưa thể nào nhận ra được chức năng để có thể tồn tại của nó.
Thật là phiền phức.
Dù tôi có quyết định mọi sự việc đi theo chiều hướng nào, bước tiếp theo ra sao thì bản thân tôi vẫn luôn tự nhận thấy rằng tất cả đều xuất phát từ vô thức. Hay bản thân tôi tự cho rằng mình không phải là người đã đề xuất ra những hành động cụ thể ấy và trở thành người dẫn đường từ lúc nào.
Như thể một thứ gì đó đã khiến tôi phải suy nghĩ, khiến tôi, một cách ngẫu nhiên gặp phải vấn đề mà chỉ tôi mới có khả năng giải quyết được để rồi tôi tự mình quyết định là sẽ đi sâu vào nó.
Nhưng rồi sau không biết bao nhiêu lần như vậy, tôi bỗng nhận ra rằng: “mình là một kẻ thích chõ mũi vào chuyện của người khác”.
Vốn dĩ từ xưa tôi đã không ưa gì những kẻ như vậy. Nhưng ai mà ngờ được rằng “nó” lại là chính bản thân tôi ngày hôm nay.
“Thứ đó”, như một thứ tệ nạn xã hội, một khi đã dính vào thì khó có thể buông ra được.
Hiển nhiên, tôi không có tò mò hay cái tính lả lướt linh tinh vào mấy vấn đề kì quặc như “quái dị” vốn dĩ là tôi cũng chẳng muốn dây vào nó. Nhưng có vẻ số phận luôn biết cách để trêu đùa mỗi một con người.
Ấy vậy mà, khi lằn ranh của chiếc bánh xe định mệnh bắt đầu dừng lại trên nền đất đỏ vàng, chiếc đồng hồ của sự sống mắc kẹt lại vào trong một khoảng thời gian vô nghĩa. Tôi ở đây nhờ ơn của một con cáo, đúng vậy, là “một con cáo đến từ thế giới khác”.
Chính xác là vậy đấy!
Tuy đã xác định được chủ thể gây ra một trong những “dị thường” đã lôi kéo vài ba năm của tôi ở lại với những người dân lương thiện thuộc sứ xở sương giá lạnh lẽo và còn nguồn cơn gây ra sự việc thì nó mờ nhạt, như một đám mây. Nhưng chẳng ai biết đấm mây ấy sẽ đột nhiên trở thành một cơn bão từ bao giờ. Và “con cáo” kì quặc này cũng vậy.
Lí do duy nhất khiến cho nó mờ nhạt có lẽ là do chính bản thân nó còn không rõ mình là thảm họa. Hay là nó quá thiếu hiểu biết để nhận thức được điều đó. Thế giới đã chấp nhận nó mà nó còn không hay biết hoặc là một lỗ hổng ở đâu đó vẫn chưa được vá lại. Chấp niệm của thế giới vẫn luôn vướng mắc vào những “dị tượng” khó để có thể cho ra một khái niệm cụ thể và tôi có nghĩa vụ phải giải quyết điều đó.
Tôi tự cho mình cái quyền như vậy. Vì có lẽ có nơi đặt chân lên vẫn thú vị hơn lơ lửng trong vĩnh hằng không có điểm kết thúc.
Thế giới này, dù cho khó có thể dự đoán được cái kết của nó, nhưng những gì ảnh hưởng đến sự cân bằng bởi sự vô trách nhiệm của thế giới và sự hỗn loạn hiện tại.
Tôi khó có thể tin được rằng nơi này vẫn còn trong trạng thái như vậy từ kỉ Kerrya. Nó cho thấy rằng theo một khía cạnh nào đó, tạo tác cũng không bề vô trách nhiệm như tôi thường hay nói tới.
Nhưng việc phải xử lí một “dị biến” mới xuất hiện làm cho tôi có cảm giác như đang bắt nạt một đứa con nít. Nghĩ tới đây chỉ khiến cho tôi cảm thấy việc mình sắp làm cứ như tội phạm.
Một “dị thường” mà vẫn chưa nhận thức được thì không khó để doán ra được rằng nó còn non nớt, như một đứa trẻ và hoàn toàn vô hại, hoàn toàn không có khả năng phòng vệ.
Nhưng đấy là đã loại trừ các rủi ro không may có thể xảy đến còn lại vì nơi này vẫn chưa hứng chịu bất cứ thứ gì liên quan tới nó. Điều đó hoàn toàn không thể nào có thể giải thích được rằng, nó vô hại.
Như khi ta nhìn vào một con Ferbgus nhỏ nhắn dễ thương thì không ai có thể nghĩ rằng nó là loài thỏ ăn thịt có khả năng giết một con trăn dài hơn bảy mét chỉ với độc dược của cơ thể nó tiết ra để rồi trở thành thiên địch của những loài quái vật khổng lồ cả.
“Tùy vào cách ứng xử vào tình huống thực tế mà sẽ ảnh hưởng đến cả quá trình phía sau.” Chẳng có ai lại muốn mất mạng vì cái lí do vớ vẩn đó đâu nhỉ?
Do vậy nên, đến cả tôi cũng phải cẩn thận, nếu không thì càng khiến cho công việc cần làm trở nên phức tạp hơn. Dù sao đi nữa thì cũng đỡ hơn việc phải trực tiếp nhúng tay vào. Nhờ người khác có vẻ sẽ gay cấn hơn. Tôi thích điều đó, và làm một tên đứng ngoài tất cả các sự việc. Muốn lủi đi cũng dễ hơn. Tôi thử hỏi còn cái lí do nào mà bản thân lại không làm như vậy?
Mà, tất nhiên là có rồi! Có hai lí do cơ bản mà chỉ có tôi biết. Một là do tôi không có khả năng thực hiện(cái này không có đâu!) hai là nếu đủ các điều kiện, tôi sẽ tiến hành một cách quá nhanh và dễ dàng. Điều đó thật không vui vẻ gì cả. Vì sao? Vì tôi thấy thế!
Cái bản chất của tôi và cái khoái cảm kì lạ khi đá xoáy người khác khiến con tim tôi rung động không ngừng. Nghe cứ như một thằng dở hơi đang tự mãn vì cái bản tính không ra gì của nó vậy. Nhưng còn hơn là cố để tỏ ra mình là người tốt, trong khi “thằng cha này chẳng có gì đặc sắc cả.”
Mà nói đi thì cũng phải nói lại. Dù biết là mình đang gặp một vài trục trặc nhỏ. Một vài năm cũng chẳng phải là vấn đề quá lớn. Nhưng nó khiến tôi cảm thấy bất bình thường. Đơn giản thôi, vì một dân du mục lại quyết định sẽ thay đổi lối sống thường ngày của họ. “Nếu quay lại thì sẽ ra sao?” Tôi tự thắc mắc.
Nhưng bỏ qua cái vấn đề không đáng để quan tâm đó. Sống như thế này cũng khiến cho tôi có cảm giác muốn nhòm ngó, chen chân vào cuộc đời của người khác. Để rồi trở thành một nhân vật phụ có ảnh hưởng lớn tới cốt truyện, cuộc đời của nhân vật chính. Khiến cho người đó mãi không dứt tôi ra khỏi kí ức của họ được.
Mặc dù việc đó đi ngược lại hẳn với cái nguyên tắc vàng của tôi rằng tôi chỉ là một người cố vấn cho họ. Không trực tiếp nhúng tay vào. Để cho họ cố gắng mà vươn lên. Nghe như việc làm của người tốt ấy nhỉ?
Nhưng tôi đâu có nói là làm không công? Và tôi bỏ đi lúc nào thì bố thằng nào biết. Chắc họ cũng chẳng lấy gì để mà căm hận tôi đâu, đúng không?
Tôi chỉ xúi họ một xíu thôi, mà ngay từ đầu họ phải tự đưa ra quyết định, hoặc là tin tưởng vào tất cả những gì tôi nói, hay là chửi thẳng vào mặt cái thằng không quen biết bị bệnh ảo tưởng kì quặc kia. Nhưng “hầu hết” đều là những cố vấn tốt đẹp, những lời hay ý đẹp như “Đức Thánh Mẫu”, làm gì có chuyện tôi xui dại họ rồi bay đi như một cơn gió được. Có lẽ...
Tuy vậy, trong cái nghề này cũng có quy chuẩn đạo đức riêng. Giống như trong mọi công việc hay hoạt động xã hội khác, đạo đức luôn là vấn đề được ưu tiên và đặt lên hàng đầu.
Mặc dù đấy là quy định do tôi tự tạo ra và cái nghề kì dị này mà có lẽ chỉ có mình tôi đặt ra và tuân theo. Nhưng dù sao thì “chỉ những kẻ cặn bã mới coi thường luật lệ.” Mà tôi thì không cho mình là một người như vậy. Một quý ông sẽ luôn luôn phải hoàn hảo trong mọi tình huống, mặc dù hơi trái ngược với bản tính của tôi trong tâm và lời ra tiếng vào.
Tôi là một kẻ được đánh giá là “nói năng thì không đâu vào đâu” bởi một người duy nhất nhưng hầu hết đều cho rằng tôi là môt thứ gì đó bí ẩn dưới vóc dáng của con người. Nhưng chỉ có người ấy có thể nhìn được một cách rõ ràng vào bản chất của tôi và đấm lại vào cái mỏ hỗn láo của tôi. Đó là một quý cô không được thân thiện cho lắm.
Khi đã nhắc đến quý cô - người khách kì lạ thì tôi lại nhớ về ngày hôm đó, khi trời bắt đầu đổ mưa vào một trời đêm yên tĩnh, tiếng mưa rào đều đều. Âm thanh làn mưa cùng với đĩa chạy nhạc cổ điển và chiếc đèn dầu lờ mờ ngay phía trên mặt giấy trắng. Khi đó trước mắt tôi là cuốn tiểu thuyết “phiêu lưu cùng ngài Lẩu”. Mặc dù khá là chắc kèo và tự tin về lượng tri thức của mình, của biết năm du ngoạn trên thế giới. Nhưng bằng một lí do nào đó, tôi vẫn không thể nào lí giải được cái sự chi tiết trong tưởng tượng của lão.
Có lẽ mấy cuốn sách được viết dựa trên trí tưởng tượng của tác giả là mấy thứ cuối cùng tôi còn hứng thú. Đó là lí do mà tôi không hề thắc mắc tới trí óc của họ, một ý thức luôn luôn sáng tạo theo như họ luôn miêu tả, nhưng có một điều chắc chắn rằng, tất cả đều dựa trên cái có sẵn, nghĩa là họ đã luôn dựa trên nền tảng là thế giới, “sáng tạo” mà họ tìm ra là họ đã tiến tới gần được chân lí của thế giới và dựa trên nó.
Một cách khác, đó chính là dựa vào cảm nhận của họ, thính giác, thị giác, xúc giác của họ cảm nhận được, nhưng không phân biệt được chính xác sự kiện đang diễn ra, vì thế mà góc nhìn của họ bị méo mó, rồi dựa vào đó, họ sẽ xuyên tạc ra những thứ đáng ra về mặt lí thuyết, nó không nên tồn tại, nhưng “thế giới” này lại chấp nhận điều đó và hiện thực hoá tất cả dưới một hình thức khác, hay còn gọi là sự “tồn tại song song”.
Nó không bù trừ nhau cũng không giao hoà, tất cả mọi thứ chỉ đơn giản là liên kết với nhau với một mức độ nhất định hoặc là không có sự liên kết. Tạo tác khiến cho thế giới đa dạng, phong phú nhưng cũng khiến nó khó hiểu và nguy hiểm vô cùng. Nhưng tạo tác vẫn luôn cân bằng được mọi thứ. Có thể nói rằng “bản chất của sự sáng tạo” như một cái tôi tự nhiên nhưng lại sở hữu một bản ngã đối lập. “Kẻ làm người phá”, ta có thể so sánh gần như vậy.
Hôm đó đáng ra là ngày đáng lẽ mà tôi sẽ bình thản nghỉ ngơi. Cũng như dừng lại cái công việc chen lấn vào các vấn đề của người khác.
Việc ở lại nơi này quá lâu cũng khiến cho tin đồn về tôi được lan rộng. Bọn họ thật chẳng biết giữ mồm miệng gì. Mặc dù tôi đã cố gắng tặng quà cho họ như một phiếu khuyến mại của trung tâm mua sắm. Hay giảm giá sốc do cái miệng hay báo giá đột biến của tôi mỗi khi họ bắt đầu cố tình lảng tránh tôi hay đề cập tới vấn đề nhân quyền gì đó, cũng như “đạo đức” của họ cho rằng người với người là phải giúp đỡ lẫn nhau...không công...và tôi lại phải nhấn mạnh lại một lần nữa rằng tôi không hẳn là một “người”.
Mà thôi, suy cho cùng thì con người cũng là một chủng loài nhiều chuyện. Lúc này nếu phải dùng một câu để miêu tả lên ý đó thì còn gì khác ngoài “buôn” cá tính của họ không cho phép họ nín cái miệng lại trước khi tôi kịp kề con dao vô hình vào cổ họ và thì thầm to nhỏ về sự cần thiết của việc giả vờ câm, điếc trong cuộc sống.
“Thế giới đã thay đổi rồi...” – tôi nhận ra được điều đó. Chỉ có thứ duy nhất vẫn vậy, vẫn chẳng hề di chuyển lấy một li dù cho vạn vật vẫn luôn chuyển động để tiến hoá, để thích nghi. Đó là tôi của hiện tại, một “thứ” mà có lẽ từ khi ẩn số của quá khứ đã biển đổi vạn vật và giải thích mọi thứ. Biến nó trở thành một hằng số, lồng ghép, gắn kết, quyết định mọi thứ có liên kết với nhau. Tôi vẫn chỉ là một “thứ gì đó” kì quặc của thế giới vẫn đang tồn tại bấp chấp mà ngay cả bản thân còn không thể hiểu được.
Khi mà tôi còn không thể hiểu được chính mình. Vậy nên tôi luôn cẩn trọng, giấu kín bản thân. Không phải là do lo sợ tạo tác sẽ tìm ra ẩn số kì lạ và xoá bỏ nó. Mà ngược lại, tôi còn muốn hắn ta chú ý đến bản thân mình hơn. Nhưng sự tồn tại vô lí của tôi cũng là một khái niệm ẩn để chứng minh rằng tôi có ở đây và luôn hiện diện lúc này. Vì vậy nên thông tin của tôi vẫn luôn là thứ gì đó bí ẩn với tôi. Và tôu không cho phép bất cứ ai lan truyền về nó bởi vì bất cứ điều gì về tôi đều là giả tạo.
Chính vì cái lí do đó mà tôi không muốn làm việc cho mấy kẻ vô luật lệ. Nhưng chỉ lần này thôi, khi mà một cái gì đó trỗi dậy trong tôi, trong làn sương lạnh giữa cơn mưa chuyển mùa hạ - thu vào đêm hôm tăm tối.
Đó là vài âm thanh đằng sau cánh cửa chính dưới tầng một...giữa làn mưa là tiếng bước chân nặng nề bước về phía bậc thềm trước cửa nhà.
Tôi bước về phía cầu thang, và nhận thấy rằng tay vịn bằng kim loại lạnh lẽo, ánh lên một lớp hơi nước mỏng, sàn nhà lạnh như băng làm tôi có chút hoài nghi về chất lượng của những tấm gỗ. Nhưng vẻ như căn nguyên của cái bầu không khí này không phải đến từ phía thiên nhiên mà bắt nguồn từ phía sau chiếc cửa nhà đã bị băng đá làm kẹt chặt. Phía dưới kẽ hở của nó, vẫn còn những làn khí lạnh tràn vào.
Ôi trời, dù cho đây là vùng cận cực đi chăng nữa, tại sao họ lại không để cho tôi có một chút khoảng thời gian ấm cúng vào mùa hạ, khi những cơn mưa hiếm hoi còn đọng lại âm thanh tí tách bên ngoài cửa sổ, để tôi có thể tự do thả mình vào những trang sách kia, hoà làm một với trí tưởng tượng bên tách cà phê nóng hổi để làm ấm tâm hồn. Để rồi ngay vào khoảng thời gian ấy, hai nhóc ấy đến để phá hủy sự bình yên vốn có giữa mùa hạ tươi đẹp.
Nhưng lần đó, cho đến bây giờ, tôi mới nhận tra tâm hồn của mình đã hư hỏng thế nào. Có lẽ tạo tác đã cho tôi một cơ hội để sửa chữa lại mình chăng? Tôi cũng chẳng rõ nữa. Tôi chỉ biết rằng, khi đó, tôi mở cánh cửa, đó là một quyết định đúng đắn mà tôi cho rằng lần ấy chính là định mệnh. Định mệnh để tôi có thể nhìn nhận lại mình, định mệnh để tôi có thể thoát ra khỏi thứ đã trói buộc tôi tại nơi đây.
Một đứa nhóc đứng ở đó, ngay trước cửa nhà. À không, là “hai đứa”... Trong tay đứa lớn hơn là một con nhóc mới chỉ vài tháng tuổi. Thằng anh trông mới vài năm tuổi, nhưng dựa vào hiện thực thì có lẽ là lớn hơn. Bởi vì lũ trẻ như thế này thường đói ăn, suy dinh dưỡng và chẳng bao giờ có thể phát triển một cách đầy đủ cả.
Đứa em thì bằng một lí do nào đó trông có vẻ đầy đặn hơn, nhưng có vẻ nó cũng sắp đi đời rồi. Khi mà một thằng nhóc vô gia cư dám nghĩ đến việc nhờ vả vào người dân nơi này. Thì có nghĩa đấy chẳng gì khác mà chính là lựa chọn cuối cùng của nó. Hơn nữa trên đỉnh đầu chúng nó, dưới chiếc áo choàng đen mẫm bóng và ướt át, là đôi tai của động vật…một mèo và một “cáo”...
Con người, họ coi á nhân là giống loài lai tạp, hạ đẳng, họ không chấp nhận sự giao hoà giữa các chủng tộc với nhau dù cho thế giới hay tạo tác đã chấp nhận điều đó. Đó là “đạo đức” của họ, là tín ngưỡng của họ. Tôi không quan tâm đến vấn đề của xã hội. Nhưng có lẽ đây không chỉ là vấn đề của riêng con người.
Chỉ là họ là số đông nên ta vẫn hay tưởng nhầm rằng họ đã áp đặt cho thế giới mà họ mong muốn là vậy thôi. Một số khác thì họ vẫn chấp nhận, họ vẫn coi phần chủng tộc lai của những đứa trẻ hay những loài được cho là “dị hợm” kia là một công dân của xã hội. Nhưng số đó là những kẻ sẽ bị chèn ép. Định kiến là thứ không thể nào coi thường được. Nó khiến ta tách biệt dần với xã hội để rồi một ngày nào đó ta sẽ chẳng thể nào hoà nhập lại được một lần nào nữa.
Còn lí do tại sao mà tôi lại dè chừng một vấn đề nhạy cảm như vậy mặc dù tôi cũng không hẳn là người được gọi là “người của công chúng”. Nhưng từ xa xưa, khi thực hiện “công việc” tôi có nghe tới một vài vụ lùm xùm của một nhóm á nhân. Rồi sao ư? Tất nhiên là tôi hoàn toàn đồng ý là họ “có thể” đòi quyền bình đẳng.
Nhưng dựa trên luật pháp nơi đây thì họ không hề “có quyền”. Để rồi họ - nhóm á nhân bị tóm và đưa vào một trại tập trung. Vì tò mò bên tôi chỉ làm vài tấm hiện trường ở đó và bán thông tin với giá cao. “Chẳng ảnh hưởng gì đến tình hình chính trị thế giới đâu nhỉ?” – tôi đã nghĩ vậy nhưng không ngờ cái tầm của nó còn xa hơn thế.
Mọi chuyện còn tồi tệ hơn rất nhiều. Ai mà biết được mỗi vài tấm hình mà lại gây ảnh hưởng lớn tới vậy. Mà kệ đi, cũng chẳng ảnh hưởng gì đến bản thân tôi. Hơn nữa là mấy mùa gần đây, khi tôi nghe được có mấy vụ như vậy thì cũng dao động đến tôi đôi chút. Là kẻ đã gây ra nguồn cơn của sự việc , tôi cũng có cảm thấy tội lỗi chứ!
Mặc dù đó là những ngày xưa, còn hiện tại thì tôi không dám chắc về luật lệ của nơi này, tôi cũng không biết cái “hoà bình” giữa các chủng tộc được nêu lên ở hiến pháp của lãnh chúa Headaechi nó thực sự có thật hay chỉ đơn thuần là danh nghĩa trên mặt giấy tờ.
Tất nhiên là vì đã “lỡ tay” để cho tình hình thế giới lúc nào cũng căng như dây đàn. Hay có thể gọi là tôi đã tạo ra một xu thế mới về các cuộc cách mạng chống phân biệt chủng tộc. Chỉ cần vậy chắc các bạn cũng đã hiểu được rằng vai trò “bên thứ ba” của tôi bị lung lay dữ dội và đúng như lập trường của bản thân thì tôi sẽ không bao giờ hành động thiếu suy nghĩ như vậy thêm một lần nào nữa.
Nhất là khi tôi đang yên vị trong một chiếc ghế công chức. Tất nhiên là công việc giả mạo trong một cái thân thế giả mạo. Dạo này, do đã ở đây khá lâu nên cũng có một vài tin đồn về phía tôi. Một kẻ tự cô lập bản thân mình, một kẻ có năng lực nhưng không hề có chút ít gì về các mối quan hệ, không gì khác ngoài một kẻ đáng ngờ.
Nhưng tôi là ai, ở đâu, đang làm gì?
Ai mà biết được chứ? Ngay cả tôi còn không biết rõ bản thân mình, cả đời sống trong cái sự giả tạo. Kerenia Giinian của Iretriya, Naeven Perera của Zurambarues Akduxian, Karzyim Morsiels của Viegarzterraria,...mỗi nơi tôi đến là một cái tên mà tôi tự gọi bản thân mình. Mọi người đều cho đấy là kì lạ. Nhưng mỗi nơi tôi đều chỉ quay trở về sau một khoảng thời gian dài, đủ để họ kể từ khi sinh ra đến khi linh hồn rời xa khỏi nhân thế đều không thể gặp tôi lần thứ hai và thắc mắc về bản thân tôi.
“Chú em quả là một tên nhóc nhàm chán. Nên kiếm một tên nào đó theo cùng đi chứ? Không là chú sẽ trở thành siêu cấp hướng nội đấy.” – một lão già kì quặc sống ở con rãnh sâu nhất đại dương ngay cạnh Iretriya đã nói với tôi như vậy lần cuối cùng trước khi tôi rời khỏi rãnh Depth. Mặc dù vào vài thế kỉ trước thì tôi không hề để tâm lắm. Nhưng nếu phải suy nghĩ lại thì tôi cũng muốn trải nghiệm một chút.
Nếu các bạn thắc mắc tại sao vài thế kỷ trước mà tôi vẫn nhớ như in thế. Bởi vì thời gian vài thế kỷ của các bạn chỉ là một khoảng thời gian không đáng kể với tôi thôi. Trừ khi tôi đã lỡ bước qua một cánh của nào đó và reset cái kí ức không đáng để tâm trong đầu thì tôi mới quên. Còn nếu muốn thì tôi vẫn có thể cất nó vào trong ngăn kéo rồi lôi ra như lúc muốn đọc lại đống tài liệu.
Và thử suy nghĩ xem. Một ông già lúc nào cũng ôm lấy cái rãnh nước của mình rồi làm neet ở trong đấy thì làm gì có tư cách khuyên nhủ người khác ra ngoài chạm cỏ. Trong khi tôi mới là cái người đã đi mọi nơi, mọi chỗ trên thế giới. Thế nên việc tôi biết nhiều và có nhiều kinh nghiệm hơn là điều mà tôi gần như chắc chắn, nếu không muốn nói là quá tự tin vào bản thân.
Khi bước vào cánh cổng đi tới Iretriya, cái đầu tiên tôi thấy không phải là cái tôi vẫn kuôn muốn tận hưởng. Đúng vậy, thiên nhiên và con người không phải là điều tôi muốn nhắc đến đầu tiên. Cái tôi muốn nói đến là arketyp ether (năng lượng nguyên mẫu – năng lượng gốc) ở đây cao hơn bất kì nơi nào trên thế giới mà tôi đã từng đặt chân qua, nó nhiều và dày đặc đến mức dư thừa và gây ra hiện tượng “ô nhiễm AE” là nguyên nhân căn bản để tạo nên các hiện tượng dị thường.
Nói cho dễ hiểu thì khi AE ở một khu vực nào đó có mật độ cao bất thường thì nơi đó sẽ là nơi dễ để các nhánh khác của không gian và sự truyền đạt tri thức vào nhánh chính thông qua nhánh phụ của quy luật mà tạo tác đã đề ra xâm nhập vào. Điều đó khiến cho các hiện tượng vốn không phải của thế giới này xuất hiện, xen vào kẽ hở của tử giới. Rồi hoà tan và trở thành một phần của thế giới hiện thực. Nhưng những thứ vốn có của thế giới cũ sẽ không nhận ra hay tác động ngược trở lại được những dị thường ấy.
Lúc ấy, những “biến số” mới như tôi sẽ ra trung gian để giải quyết các vấn đề liên quan đến hiện tượng dị thường hoặc là tạo tác sẽ sử dụng những thứ có sẵn ở nơi đây, lôi kéo nó vào “không gian mẫu” rồi biến nó thành một “thứ vừa thuộc, vừa không thuộc phạm vi tồn tại của thế giới này” hay nói cách khác là khiến cho sự tồn tại của thứ vôna tồn tại trở thành không tồn tại để giải quyết nếu “dị thường” ấy trở nên đột biến.
Và đó là lí do và là giải thích cho câu trả lời trên của tôi. Cũng như nhiệm vụ của tôi hiện tại.
Đây là một nơi với thiên nhiên kì vĩ, con người lương thiện và mến khách, nhưng có điều nơi này “bẩn thỉu” vì sự đối lập của xã hội trong quá khứ và hiện tại.
Không chỉ về yếu tố tự nhiên như tôi vừa đề cập ở trên mà còn là yếu tố con người nữa.
Chỉ có điều đó là không thay đổi.
Nhưng tôi có thể đoán chắc rằng là vào một ngày nào đấy, nơi này sẽ lấy lại được vẻ đẹp vốn có của mình và mọi người ở nơi đây cũng đều sẽ như vậy.
Quay lại với vấn đề về các nửa “quái dị” như các bạn á nhân. Thứ thực sự bảo vệ họ là nhân cách và đạo đức của con người, chiếm một phần rất nhỏ trong cộng đồng. Nhưng nếu trực tiếp đứng lên bảo vệ họ, thì sẽ bị cả xã hội kì thị, ghét bỏ.
Tôi là một người cũng không thích rước họa vào thân cho lắm. Tôi muốn ổn định hơn là phải nay đây mai đó trong cái khu chật chội này, cũng chẳng lí do gì để mất cái căn nhà và cái công việc chỉ thực sự cần thiết để có thời gian cho các vấn dề mới ở nơi đây.
Tôi không muốn làm bẩn hồ sơ của mình bằng công việc “giúp đỡ người khác”. Nhưng nếu đó là vấn đề ở ngay trước mắt, khi mà tôi không còn bị trói buộc vào nơi này thì những điều trên chỉ là thứ vụn vặt. Tôi có thể mặc nhiên bỏ qua chúng để có thể tiến về phía trước.
Và đó là lí do, khi một cảm nhận lạ thường đã nhắn nhủ tôi rằng vấn đề đang ở ngay phía trước. Tôi ngạc nhiên, có lẽ là số phận hoặc một thứ gì đó đã tác động vào tôi để buộc bản thân phải hành động.
Nhưng khi tôi thực sự thấy được rằng, cái lạnh lan toả cùng làn khói trắng, trước ánh mắt xanh lam của đứa trẻ, nó mang một sự khẩn thiết xen lẫn ý chí và nghị lực lạ thường. Cậu ta đã gục ngã, cánh tay phải của cậu đã bị đóng băng...”cáo”, mặc dù vậy cậu vẫn còn ôm lấy nó, tính mạng của cậu đang bị đe doạ bởi nó, một con quái vật đáng lẽ ra không nên tồn tại. Nó đã khiến cậu rơi vào ảo giác, ngay từ khi cậu phải chịu cơn đau về tinh thần khủng khiếp nhất.
“Tôi sẽ kết thúc nó - sự đau khổ mà cậu vẫn phải chịu đựng. Rồi cậu sẽ được sống một cuộc sống bình thường.” – tôi đã nghĩ như vậy. Nhưng đó là trước khi tôi đặt bàn tay lên ngực con cáo nhỏ bé, ý chỉ của cậu đã kéo tinh thần cậu trở lại, cậu dùng chút sức lực cuối cùng để nắm lấy gấu quần tôi. Miệng lẩm bẩm gì đó trước khi lịm đi.
“...”
“Đó không phải là cách để nhờ vả người khác đâu nhóc”. Chắc hẳn qua cuộc đời như vậy cậu cũng là một người có thể hiểu được lí lẽ, lặn lội ở nơi mà mọi người sống bằng lừa lọc, hẳn bài học đầu tiên mà cậu nên biết là: ”một thằng cha nào đó tự nhiên nhảy ra trước mặt mình, thì không cần biết nó có tốt hay không, đừng dây vào nó.”
Nhưng vấn đề ở đây thì lại khác, chẳng có ai đến và nói rằng cậu nên đi theo hướng nào cả. Chính cậu đã tìm đế tôi, nói cách khác, nếu tôi chìa bàn tay ra lúc này, tôi là “ân nhân” của cậu. Tôi không thích điều đó, tôi không muốn mắc nợ ai, cũng không muốn ai phải mắc nợ tôi bất cứ điều gì. Cái được gọi là “ân nhân” không hề tồn tại và tôi đơn giản chỉ là một kẻ muốn lợi dụng lấy sự non nớt của cậu để mua vui mà thôi. Nhưng có vẻ như tôi đã hơi vội vàng trong vấn đề này, có lẽ thời gian đã khiến tôi đánh mất đi đức tính kiên trì vốn có.
“Không phải ai cậu gặp cũng như tôi đâu, đây là lần đầu tiên nên tôi sẽ coi như là khai trương. Lần sau cậu nên cẩn thận với những kẻ như tôi từ nay về sau nhé!” – tôi cười thầm. Có lẽ, ấn tượng ban đầu cũng phải hơi đặc biệt một chút chứ nhỉ?
Nhưng có lẽ một cậu nhóc gặp được tôi như số mệnh và đổi lại. Tôi, có lẽ là người duy nhất cho đến thời điểm hiện tại, được diện kiến vị thần tối cao của nơi này, hoặc là tôi đã nhầm. Bởi vì vị thần đó chưa bao giờ rời khỏi “đó” bất kể thời gian nào từ lúc “ngài ấy” xuất hiện.
Cậu ta vẫn ở đó, nhưng có vẻ mọi thứ sẽ dần trở nên tồi tệ hơn nếu tôi cứ đứng đây, ở ngay trước mắt cậu ấy và nhìn. Chỉ vậy...
“Ngài ấy”, à không, bé cáo ở phía sau thì có vẻ không được hài lòng cho lắm nên có sắp có chuyện rồi.
Nhưng bình tĩnh trong mọi tình huống mới là cách giải quyết vấn đề, đúng chứ?
Việc tôi chỉ ở đây và đợi đến khi mọi chuyện có vẻ diễn biến xấu đi, nhưng một phần nào đó vẫn có tia hi vọng. Giống như một quả bom hẹn giờ vậy.
Tôi sẽ đợi đến khi nào tới những giây cuối cùng. Bởi vì những giây cuối cùng là những giờ phút căng thẳng nhất.
Vì muốn tận hưởng cảm giác ấy, bất kể rủi ro là nơi này có trở thành một “cực” mới hay không? Thì tôi vẫn sẽ ở đó, bình tĩnh đứng đợi. Nhưng không quên sử dụng mọi giác quan của mình để quan sát.
Dù sao thì tôi cũng là một con người cẩn thận mà. Tôi hoàn toàn có thể phá giải quả bom ấy, nhưng phải chắc chắn rằng không gì có thể cản trở được thì tôi mới có thể thoải mái hành động như lúc này đây.
Tôi nhìn đồng hồ một lần nữa trước những làn hơi lạnh từ phía dưới bốc lên.
Cậu ta đã hoàn toàn mất ý thức.
Tôi cho là vậy, mọi công việc chờ đợi lúc ban đầu kết thúc, thời gian hoàn toàn trùng khớp với dự đoán trước đó của tôi.
Nhưng bằng một cách nào đấy, tôi vẫn có thể cảm nhận được chút gì đó yếu ớt từ phía bàn tay lạnh buốt của cậu.
“thật là...”
Tôi lấy trong túi áo một điếu thuốc ra, bật lửa và bình tĩnh rít một hơi rồi phả ra nhè nhẹ. Rồi cúi xuống, nâng nhẹ cằm câu ta lên, nhìn thẳng vào đôi mắt đang mỏi mệt ấy.
“Thế, cậu nhóc đến đây có việc gì?” – tôi hỏi, có lẽ là cậu ấy không nghe rõ hoặc là cậu không còn khả năng để trả lời.
Sự im lặng chính là những gì cậu đáp lại về phía tôi. Không chỉ vậy, ánh mắt thẫn thờ của cậu cũng lạnh lẽo như đôi tay của cậu vẫn đang bám chặt lấy tôi vậy.
Nó khiến một kẻ không có cảm quan về nhiệt độ như tôi cũng bất chợt cảm thấy lạnh lẽo đến không ngờ...
* *
*
Quay lại với Headaechi vài hôm trước, khi mà cuộc đời bi thảm của hai đứa nhỏ đang đi dần đến một bước ngoặt mới, đó là thứ ánh sáng kì diệu và mới mẻ hơn.
Ngay lối vào Elova, một cậu mèo trắng nhanh nhẹn len lỏi giữa những khu chợ, mang một chiếc túi nhỏ và địu đứa em bên sườn, dáng vẻ hoạt bát của cậu không thể nào khiến cho người ta có thể tưởng tượng được đến cảnh tượng hiện tại nơi mà cậu đang nằm sõng soài trên chiếc phản với một ông chú kì lạ.
Cậu không có tên, những người ở nơi đây thường gọi cậu là Trắng(Shiro), tương đồng với màu lông của cậu.
Khác hẳn với những định kiến cổ lỗ sĩ từ đời nào của “người ấy” rằng nơi này là một trong những nơi mà vấn đề chủng tộc trở nên thật sự đáng quan ngại và phiền phức.
Người Ise bây giờ đã thay đổi nhiều, phần lớn họ không hề để tâm đến vấn đề liên quan đến chủng tộc nữa, có thể nói họ là những con người tiến bộ hơn cả trong tất cả những nơi mà “người ấy” đã từng đi qua cho tới hiện tại.
Nhưng không phải bất kì ai cũng có thể dễ dàng thay đổi và chấp nhận nhiều cái mới của thời đại mới, đồng thời gạt bỏ đi cái cũ vốn dĩ đã có từ lâu đời và được một số thành phần coi như đó là một nét văn hoá đặc trưng riêng.
Nhưng những nhà văn hoá ấy đang giữ gìn thứ được cho là không còn phù hợp với hiện tại.
Đúng, là hủ tục...
Các nhà “nhân quyền” không bao giờ chấp nhận thủ tiêu thứ quan niệm được cho rằng là: loài người thượng đẳng. Họ sẽ cố gắng duy trì nó theo một mức độ, miễn là điều đó không bị cấm đoán.
Những thành phần như vậy không có nhiều, nhưng một khi đã bị rơi vào tầm ngắm của họ thì bất kể là á nhân nào cũng khó mà thoát khỏi một cuộc sống mà ta có thể tưởng tượng như là địa ngục.
Anh em họ không hề biết về những điều như vậy khi đến Neurbyro.
Họ ban đầu ở Uvekona với những người Engi râu dài vốn đã sinh sống lâu đời với các á nhân. Có thể nói rằng cuộc sống ở đó dù có lạnh lẽo bởi những lớp băng dày và những cơn gió lạnh trên khu vực cao nguyên xung quang ngọn Ehphagi từ trên đỉnh núi nơi thần cự trị tràn xuống. Thì ở nơi đó vẫn còn sự ấm áp nơi lòng người.
Còn ở Garangujnzi này, một nơi vẫn thuộc khu vực đó, nhưng lại hoàn toàn xa lạ. Không một ai có thể biết được rằng điều kì diệu nào sẽ đến với họ trong tương lai.
“Chào bác ạ!”
Một giọng nói nhỏ nhẹ làm người lính già đang lờ đờ bỗng giật mình tỉnh dậy khỏi cơn mộng mị lúc sáng sớm.
Đó là một cậu nhóc á nhân, nhỏ con mà lễ phép, đặc trưng của cậu nhóc đưa đồ này là luôn luôn có một chiếc ẫm trên lưng và chiếc túi da nhỏ nhắn bên sườn.
Hôm nay, cậu lại bắt đầu công việc đưa đồ hằng ngày của mình.
Đó là một công việc không hẳn là dễ dàng, cậu đã phải chạy vặt từ Uchies về Neurbyro chỉ để giao những món hàng nhỏ và những bức thư không chính thức.
Nhiều khi chủ của những món hàng ấy nói rằng cậu phải tránh lũ cảnh vệ và gọi cảnh vệ là “bọn chó săn” hay là sẽ doạ giết anh em cậu nếu dám đọc trộm nội dung của những bức thư mà cậu chắc chắn rằng nó là thứ gì đó mờ ám.
Hiển nhiên, cậu không muốn chết và biết là làm những việc như này không hẳn là chính đáng gì, nhưng liệu còn việc gì để có thể đưa thức ăn vào dạ dày cậu và nhóc em hay không?
Đáp án sẽ là không, nếu không có một người đàn anh nào đó “giới thiệu” một công việc nhẹ lương cao cho cậu ở trong khu vực thành Headaechi ở phía Tây Garangujnzi.
“Shiro này!” - một giọng nói bất ngờ xuất hiện khi cậu đang ở một mình tại con hẻm nhỏ khi đang về tới khu ổ chuột ngoại ô Elova.
“Dạ, anh Owen...tại sao anh lại ở đây ạ?”
Cậu có hơi ngạc nhiên, nhưng vì anh ấy là một người kì lạ, luôn xuất hiện từ phía sau lưng cậu một cách bất thình lình nhiều lần nên cậu đã bắt đầu cảm thấy quen thuộc dần rồi.
“Chú em có muốn làm việc ở Headaechi không?”
“Headaechi...cái nơi trông đẹp đẹp ấy à? Tất nhiên là có rồi anh.”
Cậu trả lời, không quên nhìn vào ánh mắt của Owen.
Với cậu, một á nhân khi vừa đến Neurbyro, đã gặp anh Owen khi gặp một vài rắc rối với người lính gác cổng. Owen đã giúp cậu vào, còn giao những công việc cho cậu và cho cậu chỗ ngủ.
Mặc dù có phần hơi kì lạ như việc bóc lột một đứa trẻ vô tội và bắt chúng nó thay mình làm những công việc phạm pháp mà cậu vẫn hay cho rằng là như vậy.
Hay thường xuyên bỏ bê hai anh em cậu rồi chuồn đi mất hút. Cũng như việc hay xúi giục cậu làm những trò đồi bại của giới tay chơi. Dắt cậu đi lừa tiền, ăn xin, dạy cậu cách tán gái bằng tiền mà vốn dĩ đứa trẻ như cậu không nên hiểu và dạy cách lẩn trốn khỏi những gã “thợ săn” mà vốn dĩ chúng nó chỉ đuổi theo anh ấy.
Rồi trộm vặt, buôn lậu, trèo tường, cậy khoá, móc túi,...nhiều khi cậu còn thắc mắc nếu anh ấy là một người tốt, nghĩa là theo đúng những gì mà những bà lão phúc hậu vẫn thường hay kể cho anh em họ nghe thì anh ấy có cần phải làm những việc như này nữa hay không?
Nhưng có lẽ một con người như thế rất khó để có thể quay trở lại và hoà nhập với xã hội thường niên một lần nữa.
Nhưng cậu vẫn hỏi, hỏi với chất giọng của một đứa trẻ vẫn còn ngây thơ nhưng đã phải lặn lội dưới vòng tay của một tên cặn bã.
Mỗi lần như cậy, cậu đều nhìn thấy anh ấy ngồi thẫn thờ, tay cầm một điếu thuốc. Anh ta đã bảo cậu rằng thứ này là độc hại, doạ sẽ giết cậu nếu cậu dám động đến nó và vơ hết những thứ tệ nạn về phía anh ta.
Anh ấy dạy cậu cách tránh xa rượu, bia và ma túy. Anh ta bảo rằng những thứ đó chỉ dành cho người lớn tuổi, còn gái điếm thì dành cho tất cả mọi người...
Và giờ đây, sau gần hơn một năm từ khi anh em họ từ biệt những người Engi ở xứ lạnh phương bắc, họ đến với căn lều lụp xụp ở khu ổ chuột vùng ngoại ô Elova.
Họ đã được người đàn anh lần đầu tiên giới thiệu cho cậu một công việc mới ở một khu vực mới, với những hứa hẹn về một cuộc sống ấm áp, hạnh phúc hơn nơi vùng cực phía bắc Luxuria.
Một đứa trẻ như cậu, vốn dĩ đã lặn lội trong thế giới phía bên dưới chân những kẻ quyền quý, bấu víu vào những gì xót lại để có thể tồn tại. Cậu là một người vốn dĩ đa nghi.
Nhưng đứng trước cậu là một người đàn anh mà cậu đã vô cùng thân thuộc, một tên cặn bã độc mồm độc miệng, nhưng đó cũng là một người đầu tiên, duy nhất mà cậu nhận được sự tin tưởng từ chính trái tim mình và có thể nói rằng cậu sẽ nghe theo bất cứ điều gì anh ấy nói vào lúc này.
“Vậy cầm lấy bức thư này và đến Headaechi nhé. Chỉ cần đưa nó cho chú lính gác cổng thôi.” - giọng nói của Owen khác hẳn mọi ngày, nó ngọt ngào một cách đáng sợ.
Nhưng có lẽ Shiro chẳng còn để ý nữa rồi, cậu đã hoàn toàn chỉ nghe theo những lời nói đó và cuộc hội thoại diễn ra như thường lệ.
“Vậy hả anh? Nếu đến đấy thì em sẽ có cuộc sống tốt hơn đúng không anh Owen?”
“Tất nhiên rồi!”
“Em còn có thể gặp anh nữa không anh?”
Nghe câu hỏi ngay thơ của Shiro cất lên một lần nữa, người đàn ông bất chợt đứng lặng một hồi. Có lẽ con người tên Owen Wakerfields Nallbert này đang nhớ về lần đầu khi Shiro hỏi và cất lên một thứ giọng điệu ngây ngô như vậy. Nhưng cậu chỉ đành quay mặt đi, giọng nói của cậu ngắt lại như thể có một con dao đang kề vào cổ vậy.
“Không”
“Tại sao vậy ạ?”
“À, không có sao đâu” - Cậu quay mặt đi để không cho Shiro thấy được khuôn mặt không ra dáng đàn anh của mình – “Có lẽ anh sẽ rời khỏi nơi này một thời gian”
“Anh sẽ đi đâu, anh Owen? Liệu chúng em có thể đi cùng anh được không?” - cậu thắc mắc.
“Không được đâu, vì nơi anh sắp đến là một nơi rất xa, cậu cũng không muốn bé ấy phải chịu khổ vì cuộc hành trình của chúng ta đâu, đúng chứ?”
“Dạ...”
“...Vì vậy hãy cố mà sống tốt lên nhé nhóc!”
“Vâng”
Người đàn anh ấy mỉm cười một lần cuối rồi tiến về phía góc tường bên kia, biến mất.
Shiro lúc này vẫn chưa hiểu được rằng đây sẽ là lần cuối cùng cậu còn có thể gặp lại Owen Wakerfields Nallbert vì ngay sau khoảng thời gian này, người đàn anh ấy sẽ biến mất khỏi cuộc đời.
Cậu chỉ để tâm tới những quyền lợi mà anh Owen đã đề cập trước đó
Vì vậy, cậu đã nghe theo những lời đó. Như một chú mèo con đã bị thuần phục, dụ mồi bởi mớ cá rán ngon ngọt.
Và cậu đã đồng ý...đi đến Haedaechi một mình, bỏ lại phía sau một chàng trai gầy gộc và bốn tên “thợ săn” mà hắn vẫn thường chạy trốn.
Có lẽ sau lần này, con chuột gầy gò khó có thể trốn được một lần nữa, khi mà nó đã bị vây quanh bởi bốn chú mèo mập mạp.
Khó có thể hình dung được cảnh chú chuột ấy có thể sống được dới những nanh vuốt sắc nhọn của lũ mèo.
Còn về phía Shiro, mặc dù là một gợi ý từ người đàn anh, nhưng đó hẳn là một quyết định mà cậu sẽ mãi không thể nào quên được suốt cả cuộc đời phiêu bạt của mình.
Khu vực dành riêng cho quý tộc và là nơi đặt trụ sở của đội kị sĩ – thành Headaechi được đặt ở vị trí cao hơn 1000m so với mực nước biển, đằng sau là một thung lũng nhỏ hẹp bị chia cắt bởi con sông Vulpa thiêng liêng.
Tương truyền mỗi vài thập kỉ, nhưng không xác định được chính xác là vào khoảng thời gian nào, vị thần ấy sẽ xuống núi một lần và hoà mình vào làn nước ấm áp của sông Vulpa, đem lại một năm mà mọi người thường xem là năm họ nhận được sự chúc phúc của thần, năm mà mọi thứ đẹp đẽ của thiên nhiên đất nước họ sẽ luôn hướng về phía con người họ.
Tín ngưỡng là vậy, nhưng nếu xét về vị trí địa lý, thì đó cũng là một nơi đắc địa. Lưng tựa vào núi, mắt nhìn ra biển.
Theo cách gọi của những người phương Đông thì đó là thế “rồng cuộn hổ ngồi”.
Đằng phía sau con sông rộng lớn đổ ra biển chính là nơi ở vốn đã quen thuộc với hai anh em họ.
Đó là khu vực giao giữa Uvekona và phần lãnh thổ phía bắc Shyod. Mặc dù hai người họ vẫn thường xuyên đi qua khu vực mới này của lãnh chúa, nhưng vì nó chưa chính thức được xáp nhập vào Garangujnzi nên việc ra vào còn hạn chế, nhất là với á nhân bọn họ.
Tiếp tục với câu chuyện còn đang dang dở, cậu Shiro và bé ấy đã tới Headaechi với một bức thư giới thiệu được đưa vội bởi anh Owen mà cậu hằng kính mến.
Và người nhận là một chú lính trông có vẻ thân thiện, ngắm nhìn lá thư một lúc rồi mới hỏi lại một câu kì lạ.
“Cậu chắc chứ? Cậu muốn đến và gặp những người đó ư cậu bé?” - giọng điệu chú ấy như thể muốn ngăn cản cậu nhóc ấy lại. Cũng như ánh mắt của chú khi nhìn vào mộ cô nhóc còn ngái ngủ ở tấm lụa phía sau lưng.
“Họ không tốt đẹp gì đâu, nhìn hai đứa cũng tội, hay là để chú dẫn về chỗ Gyshpo nhé! Ở đấy có nhiều người bạn giống nhóc lắm.”
“không” - cậu nói – “đây là di nguyện của anh ấy, cháu muốn gặp họ.”
Tất nhiên, khi người đàn anh kính mến ấy đưa cho cậu một lá thư cuối cùng rồi lặng lẽ rời đi, cậu coi nó như một nhiệm vụ cuối cùng mà anh ấy giao cho cậu, đó cũng là cách để cậu bày tỏ tấm lòng trân trọng, tôn kính của mình đối với anh ấy.
Vậy nên, khi một người lính họ mới gặp lần đầu, dù có giọng nói hiền dịu và khuôn mặt phúc hậu đi chăng nữa, cậu cũng không thay đổi ý định sẽ gặp người sẽ đọc được bức thư của người đàn anh Owen.
Mặc kệ chú ấy có lòng tốt hay muốn nói bất cứ điều gì đi chăng nữa, ý chí ấy của cậu vẫn không thay đổi.
“Đi ra ngoài kia, cậu nhóc”
“Không” - cậu nhắc lại lần nữa với chất giọng quyết liệt.
Người lính ấy biết không cản được cậu, bắt đầu đe doạ rằng:
“Nếu nhóc đi vào đó thì chú cảm thấy không ổn đâu”
“Tại sao lại không ổn ?”
“Vì họ là những kẻ phân được gọi là những con chiên ngoan đạo của nhân loại, họ sẽ bắt nhóc và làm đủ mọi điều đấy.”
“Điều gì? Chú nghĩ tôi tin à? Đừng có mà đe doạ tôi.”
“Nhóc đừng khiến chú mày cảm thấy có lỗi với nhóc chứ? Nhóc không được vào.” - người lính nhắc lại.
“Tại sao chú lại phải cảm thấy có lỗi với cháu? Chú có làm gì đâu mà lại cảm thấy có lỗi ạ? Chú chỉ cần đưa bức thư này vào thôi. Đây này, thư và dấu đây ạ.”
Người lính thở dài, thầm nghĩ rằng nếu ngay từ đầu nói rằng bức thư này là giả thì mọi chuyện sẽ đâu vào đó rồi. Nhưng vì hành động thiếu suy nghĩ của mình mà cậu sẽ gián tiếp hại hai đứa nhóc ngây thơ.
Cậu cũng muốn đuổi chúng đi dù phải cưỡng ép, nhưng có lẽ sức ép từ phía quý tộc và cái bản hợp đồng của cậu có sức nặng hơn nên cậu đã quyết định là sẽ thực hiện đúng với nhiệm vụ cậu vốn được giao.
Vậy nên dù có hơi do dự nhưng cậu vẫn đứng dậy và rời khỏi chiếc ghế gỗ bên chiếc bàn nhỏ.
“Thôi được rồi” - giọng chú ấy trầm xuống, chú ấy thở dài và bắt đầu mở chiếc cổng to bằng sắt.
Cậu có cảm giác như là thấy chú ấy đang tự trách mình.
Cậu không hiểu, tại sao người ấy lại phải cương quyết như vậy, kể cả việc nói xấu những người ở đây – khu vực chỉ dành riêng cho quý tộc.
Để rồi cậu tự hỏi mình rằng quyết định của mình bây giờ là đúng hay sai?
Tất nhiên là về việc gặp họ, những người được đề cập đến trong bức thư. Họ là những người hoàn toàn xa lạ, cậu không biết một chút ít gì về họ cả. Nhưng dựa vào những gì cậu biết thì người đàn anh kính mến của cậu chắc chắc sẽ không bao giờ hại anh em cậu cả.
Nhưng rồi dòng suy nghĩ ấy bị lấn át đi bởi sự hồi hộp của chính bản thân cậu về những con người mới và công việc mới ở khu quý tộc đang chào đón cậu.
Shiro lúc ấy đã nghĩ về một cuộc sống mà mọi thứ tươi sáng hơn biết bao nhiêu. Ít nhất là so với khu ổ chuột ngoại ô Elova ngày trước.
Và những hi vọng ấy về một ngày mai tươi sáng hơn.
Nhưng nó như thể một gáo nước lạnh dội vào mặt cậu.
Cô hầu gái ở trước cửa sau khi nhận bức thư đã vội vã chạy vào trong nhà.
Theo tiếp sau là những tiếng ồn, ầm ĩ khiến cho bản thân cậu bắt đầu cảm thấy tò mò.
Lúc ấy là chín giờ tối, vì bây giờ là đầu hè nên trời bắt đầu mờ dần và chìm vào trong bóng hoàng hôn.
Một cái tát đã chào đón cậu trước cả khi cậu kịp nhìn mặt con đàn bà ấy. Con đàn bà mà cậu sẽ không bao giờ có thể quên được cái khuôn mặt già khú đầy nếp nhăn của nó. Trông nó cay nghiệt như một con quỷ dữ, nó lấy tay cào mặt mình với con mắt đỏ au, lồi ra, giọng đanh đảnh như mấy con chó cảnh.
“Mày...chính mày...” – nó lao vào túm lấy cậu trong sự điên dại, rồi quẳng cậu đi như một con xúc vật trước nặt nó.
Cậu không hiểu chuyện gì đang xảy ra, chỉ tỏ ra sợ hãi, tay chân cậu cứng đờ, không nhúc nhích được.
Một lúc sau, vài người nữa ở bên mụ ta, cái miệng chó ấy vẫn còn đang chửi bới, bắn hết nước bọt tùm lum ra khỏi khoé miệng. Đứng cạnh đó, là một tên trông có vẻ điềm đạm, hắn đứng đó nhìn, nhưng không phải ánh nắt thương cảm hay gì mà với con mắt không còn là của một con người.
“Thằng Owen...nó còn dám đưa thứ này cho bọn tao ư? Cái gì mà “mong muốn cuối cùng” của đứa con này chứ? Nó muốn tao nhận nuôi bọn á nhân à?”
Rồi hắn lệnh cho một tên lính cầm chiếc roi da tới, một tên nữa trong tay một chiếc gậy bằng sắt.
Shiro sợ rồi, nhưng cậu không thể di chuyển được, xậu muốn chạy, nhưng không thể, cậu muốn khóc nhưng bờ môi đầy cay đắng ấy vẫn mím chặt lại, không để cho mấy kẻ này có thể thấy được vẻ yếu đuối của cậu.
Một tiếng roi vút xuống, cùng với tiếng cười xen lẫn tiếng chửi rủa. Cậu nằm đó, cơ thể cậu bắt đầu phản ứng lại một cách yếu ớt. Cậu co người lại và lật đứa bé vào trong.
Rồi chiếc gậy bằng sắt ấy cũng tiếp tục tra tấn cả thể xác lẫn tinh thần của đứa nhóc ấy và bé con. Sự ầm ĩ ấy đã kéo rất nhiều cảnh vệ về phía nơi này.
Cậu nhìn thấy họ, những con người của “chính nghĩa”. Nhưng họ chỉ đứng nhìn, chỉ ở đó. Đó là những kẻ giữ gìn trật tự, bảo vệ người dân, chứ không phải là bọn súc sinh như anh em cậu...
Lúc này, cậu mới nhớ tới người đàn anh kia và bức thư trên tay cậu lúc trước.
Nước mắt cậu bắt đầu rơi xuống thành từng giọt lệ. Đó không phải là cậu đau về thể xác, mà cậu đã tự cho rằng mình đã bị lừa dối một lần nữa, từ người đàn anh mà cậu yêu quý nhất để đến nơi đây và gặp những con quỷ đội lốt người.
Nhưng dần dần, cậu không chịu được sự đau đớn đến từ những đòn roi ấy, nhưng vẫn cố gắng giữ ý thức ở lại. Càng cố gắng chịu đựng cơn đau về thể xác, tinh thần của cậu lại càng tỏ ra mỏng manh, yếu đuối hơn.
Cơ thể cậu bắt đầu cảm thấy lạnh từ bên trong một cách kì lạ mặc dù mồ hôi và máu của cậu đang chảy thành hàng dài ở mọi nơi trên cơ thể.
Cho đến khi chiếc gậy sắt ấy nện xuống đầu cậu lần cuối cùng trong vô số lần trước đó khi cậu chưa mất ý thức. Từng cơn gió lạnh như thổi dần vào trong cơ thể cậu. Rồi một cái gì đó xuất hiện ở phía trong vòng tay của cậu, nó sáng chói, mang một màu xanh của bầu trời, xen lẫn cái xanh kì bí của chòm sao Sajae ngự trị trên bầu trời phía bắc.
Rồi cậu ngất đi. Nhưng có gì đó kì lạ vẫn đang âm thầm diễn ra mà cậu không thể nào tự mình cảm nhận được nó.
Cho đến khi con mắt ấy mở ra trong một con hẻm nhỏ phía dưới bức tường của dãy nhà quý tộc.
Cậu cảm thấy lạnh và trời đã tối từ lúc nào...
“Cậu nhóc, cậu đến đây làm gì thế? Sao lại bị thương thế này?” - lại là giọng nói của người lính gác cổng ấy, nhưng lần này như thể người ấy đã quên đi hết về anh em cậu vậy.
“Bé này là...”
Người ấy đặt một bàn tay lên má cô bé ở phía sau cậu. Rồi tỏ ra ngạc nhiên và luống cuống tới mức khiến cậu tỏ ra sợ hãi vì vẫn chưa hiểu hết được tình hình.
“...Con bé lạnh như băng vậy...”
Nghe đến đó, Shiro giật mình, mặc dù trong tâm trí cậu vẫn luôn tự mình mường tượng ra rằng tất cả chỉ là một giấc mơ kì lạ. Nhưng lá thư đáng lẽ ra trong tay cậu đã biến mất và thân thể cậu vẫn còn ê ẩm và đau đớn dữ dội.
Lần này, dù không tự mình giải thích được, nhưng bằng một lí do nào đó cậu vẫn cho rằng những dòng kí ức như một cơn ác mộng mãnh liệt ấy là sự thật.
Cậu giật phắt đôi bàn tay của người lính kia, chạy thật nhanh về phía ngoại ô thành phố trước sự ngỡ ngàng của những người bọn họ vẫn đang đứng ở phía sau, nhìn cậu với vẻ mặt bối rối.
Bất giác, giọng nói vừa nãy của người lính kia đánh thức cậu ra khỏi cơn mộng mị kì dị của bản thân, bắt đầu tự nghi ngờ về chính bản thân mình và cô em bé nhỏ.
Cậu đặt tay lên trán em ấy, thực sự rất lạnh...đúng như người ấy đã nói.
Càng đáng sợ hơn, đây là lần đầu tiên cậu thấy cô bé ấy bị như vậy, bình thường thì bé ấy là một cô bé hoàn toàn khoẻ mạnh, hay thậm chí là chưa từng bị mắc bệnh.
Và thế là cậu chạy, cậu tiếp tục chạy về phía trước, một cách vô định. Cậu tới bất kì nơi nào, cầu cứu bất cứ ai, để rồi cơn mệt mỏi lấn át trước khi cậu vấp ngã phía trước một gian nhà của thầy thuốc nổi tiếng nhất Elova.
Âu đó cũng là duyên số, cậu cố hết sức mình tự đứng dậy và gõ cửa, dù có phải cầu xin hay làm bất cứ thứ gì đi chăng nữa, hãy cứu lấy cô em gái của cậu. Đó là tất cả những gì cậu còn để có thể tự mình sống tiếp.
Chỉ cần mất “thứ duy nhất” đó, cậu sẽ chẳng thể nào sống được.
“Muộn rồi, quý khách, hãy đợi đến ngày mai tôi sẽ tiếp tục dịch vụ chữa trị.” - một người thầy thuốc mở chiếc cửa bằng gỗ của mình, sau lời nói đó, là vẻ mặt ngạc nhiên khi thấy hai đứa trẻ, một người anh bế đứa nhỏ trong tấm lụa ở phía trước cửa, cậu xin vị “lương y” này một lần giúp đỡ.
“Em cháu bị ốm nặng lắm, làm ơn giúp em cháu với.”
Vị “lương y” đứng đó một hồi rồi mỉm cười hiền từ trên một khuôn miệng giả tạo. Đang đôi tay chào đón hai đứa nhỏ vào căn nhà sạch sẽ của mình.
“Mời vào...”
“Cháu cảm ơn chú.”
“Không có gì đâu.”
Người “lương y” đưa cho cậu một bát cơm nóng với nụ cười hiền dịu.
“Ăn đi.”
“Vâng”
Ngay khi cậu đưa miếng thứ hai lên miệng, một cơn đau ập đến kéo theo cả dòng ý thức vốn đang yếu đuối của cậu theo.
Và một nụ cười đáng sợ của vị “lương y” mà cậu vẫn từng được nghe nói, nó hiển hiện lên trước mắt cậu. Một cơn đau đớn rạch ngang bụng cậu. Cậu có thể thấy được nội tạng của mình...Thoạt nhiên là sự ngạc nhiên của cậu, rồi sau đó là con mắt trắng bệch thù hận, rồi là những tiếng thét xé lòng, những âm thanh rú lên, khản đặc như một con thú đang hấp hối trước cái nụ cười ghê tởm, tàn ác của tên thợ săn...
Một cơn ác mộng kì quặc, điên rồ và ám ảnh ấy làm cậu giật mình tỉnh giấc lần thứ hai. Lần này, cậu thức dậy ở một khu chợ ở vùng trung tâm. Được đánh thức bởi tiếng khóc oà của cô công chúa nhỏ.
Khác với lần trước, trí nhớ của cậu chỉ còn mơ hồ về những thứ như một cơn ác mộng ngoài đời thực mà cậu cho rằng cậu đã và đang trải nghiệm vừa qua.
Cơ thể cậu vẫn còn ê ẩm, bên trong cậu vẫn còn thứ gì đó đang tra tấn lấy cậu từ phía bên trong.
Nó như những chiếc kim li ti đâm từ trong ra ngoài, gai góc và tê dại dần cơ thể.
Hiển nhiên là cậu sẽ sợ, sợ vì không hiểu được những chuyện gì đang xảy ra. Tại sao cậu lại ở đây, tỉnh dậy mà trong người còn những thứ mà cậu đã từng mơ thấy.
Cậu bị đánh đập, bị cho ăn phải một loại thức ăn kì lạ, cơ thể cậu ê ẩm, thể lực cậu cạn kệt, cậu chẳng còn gì ngoài cô em gái hãy còn đang lạnh buốt giữa bầu trời.
Mà kì lạ thay, cậu lại chẳng còn có thể nhớ bất cứ điều gì đã khiến cậu bị như vậy.
Chính vì không biết nên cậu sợ.
Để rồi cậu lê lết dưới ánh trăng mờ giữa một khu chợ tối mù mịt, tiếp tục bước đi trên con đường mà cậu đã từng quen thuộc.
Ở đó, cậu vẫn thi thoảng nghe được chút gì đó, nhưng đôi tai của cậu bây giờ đã đánh mất đi chức năng hiện tại của mình, nó chỉ yếu ớt nhận biết cho cậu thấy được một vài tiếng nói ở bên cạnh cậu mà thôi.
“Á nhân kìa.”
“Hả? Đâu?”
Một nhóm người trông có vẻ không đàng hoàng cho lắm đang chăm chú nhìn vào anh em cậu.
Cậu lại tiếp tục chạy, vì cậu sợ đám người đó sẽ làm gì đó với cậu và cô em gái nhỏ bé kia.
Hiện tại thì cậu chẳng thể làm được gì, cậu tiếp tục chạy ra khỏi con phố ấy đến khi bầu trời bắt đầu đổ mưa vào giữa màn đêm. Rồi cậu mới nghỉ ngơi ở một xó tường giữa trời đêm lạnh giá...
Đói, mệt, đau, lạnh...cậu đã phải chịu những thứ đó từ lúc những cơn ác mộng kì dị bắt đầu ập tới và chộp lấy chút ý thức.
“Em ấy lạnh...như chị ấy vậy...”
Cậu thở dài sau khi đưa bàn tay chạm nhẹ vào làn da của cô bé ấy. Nó thô ráp, chẳng còn mịn màng như ngày hôm qua.
Tiếng gió bắt đầu chậm lại, thay vào đó là những hạt mưa đêm hiếm hoi trong miền khí hậu của vùng cực.
Đôi mắt đã từng rất mạnh mẽ của cậu đã giàn dụa nước mắt từ bao giờ...nó nhoèn đi tầm nhìn của cậu và đưa ánh nhìn từng rất sáng và trong xanh như màu đại dương ấy chỉ còn lại là màu xám xịt của con phố và ánh đèn lờ mờ ban đêm.
Lí do duy nhất để sống cũng bị cướp đi, sống để làm gì? Có lẽ người anh sẽ tự hỏi như vậy...
Cậu cố gắng không để mất đi lí trí, bàn tay yếu ớt sử dụng chút hơi tàn còn lại để chạm tới đứa em. Trái tim cậu quặn thắt lại vì đau đớn.
Có lẽ đối với cậu lúc này, khi mà mí mắt sập xuống. Thì giấc mơ đêm này sẽ là cơn ác mộng kinh hoàng nhất. Dù tinh thần có cứng cỏi, ý chỉ có kiên cường thế nào đi chăng nữa. Cơ thể ấy cũng ép một người đang trong cơn tuyệt vọng đến cùng cực chạm tới giấc ngủ đáng sợ tưởng chừng như vĩnh hằng.
Nhưng trước đó một vài giây, khi mà ý thức chưa hoàn toàn vụt tắt. Cậu vẫn mơ hồ nghe được một âm thanh nào đó xen lẫn vào tùng hạt mưa. Và ở ngay phía trước, một tia lửa hồng nhỏ nhắn nổi bật giữa đêm đen.
Người đàn ông phì phèo điếu thuốc đứng lặng một hồi lâu. Ông ta đưa ánh mắt nhìn vào hai đứa trẻ, nói gì đó. Tai cậu bây giờ chỉ còn âm thanh ù ù và tiếng hạt mưa tí tách.
Nhưng cậu vẫn có thể hiểu được rằng, lão ta là lựa chọn, là hi vọng duy nhất. Với chút sức lực cuối cùng nắm lấy gấu quần lão ta. Ngay bản thân cậu còn chẳng thể nào hiểu nổi điều đó, vào thời khắc cuối cùng lại phải cầu xin một con người, những kẻ đã đày đoạ cuộc sống bình yên của cậu đến với bờ vực của sự tuyệt vọng.
Những kẻ đã bày ra những khái niệm về mặt đạo đức và nhân văn. Nhưng tất cả mọi thứ như vậy, đều hướng về con người. Chẳng khác gì tự cho mình cái quyền được đứng lên đầu tất cả những chủng tộc có trí thông minh khác.
Cậu khinh bỉ chúng, ghê tởm chúng, nhưng đồng thời vẫn sợ hãi chúng. Những lời độc địa, những cái nhìn sắc lạnh, từng tiếng thì thầm khi anh em cậu đi qua những dãy phố. Hay thậm chí là những cái động chân động tay cũng khiến cho vết cắt trong con tim ấy càng sâu thêm và để lại di chứng suốt cả một đời.
Ấy vậy mà đến cuối cùng. Đối với cậu, đã từng tự nhủ với lòng mình rằng: “dù có chết cũng không bao giờ cúi đầu trước “chúng nó” một lần nào nữa.”
Đây chắc chắn sẽ là lần cuối cùng của cuộc đời cậu. Không rõ sống chết ra sao, hay nay mai sẽ thế nào. Ngay cả sự sống của cô bé nhỏ nhắn đáng yêu đang nằm gọn trong vòng tay của cậu còn không bảo vệ được, thì nói gì đến cái lí tưởng ích kỉ chỉ nghĩ đến cảm xúc của bản thân mình kia.
Đơn giản là vì thế! Một thứ tình cảm thật cao đẹp, thật trong sáng và thật mạnh mẽ. Nó đã đánh bay cái tôi cuối cùng còn tồn tại trong bản thân cậu, để rồi chính cậu lại cắn răng chịu đựng một lần nữa. Để sẵn lòng mình quỳ lạy xuống trước một con người, một lão già trung niên. Với một hoàn cảnh không thể nào thê thảm hơn. Thậm chí cái cúi đầu của cậu còn chẳng thể nào hoàn chỉnh. Cậu lê lết dưới đất, khi mà cả thân thể cậu cố gắng rướn mình lên, nhưng không thể vì đôi tay của cậu đã đông cứng.
Lão ta vẫn đứng đó, vô cảm một cách tàn nhẫn và lạnh lùng.
Từng làn khói mỏng trắng lặng lẽ bay về phía trời cao.
Hai đứa trẻ và một người đàn ông. Âm thanh ảm đạm cùng với màn sương che mờ đi mọi thứ, ru ngủ lấy đứa trẻ kia. Cứ thế cho đến khi cậu bé chìm vào giấc ngủ sâu thẳm tận sâu trong tâm hồn. Tránh xa khỏi tất cả những gì vẩn đục nhất của xã hội, tận hưởng lấy khoảng thời gian thanh bình ngắn ngủi trước khi đến với ngày mai, cái ngày mà có lẽ cho tới hiện tại, cậu chẳng hề mong nó không đến như lúc này.
Hôm sau, chẳng biết mình đã ngủ mất bao lâu rồi, khi cậu mở rộng đôi mắt đỏ rực ấy dậy điều đầu tiên cậu nghĩ đến chẳng phải là cơn đau đầu vẫn còn đang hành hạ lấy bản thân mình, cậu lúc này chỉ cần quan tâm đến lí do sống cuối cùng và duy nhất của cậu thôi. Nhưng trái với những gì cậu có thể tưởng tượng được, cậu đang nằm trên một chiếc ghế sofa dài với tấm chăn mỏng và ở bên cạnh là một ông chú trung niên mặc bộ đồ bãi biển Gurenji với chiếc mắt kính râm cùng chiếc dép lào đang ngồi chễm chệ trên chiếc bàn gỗ giữa một nơi lạnh lẽo như phía cực Bắc đại lục Luxuria.
Chưa kịp hoàn hồn, cậu bất ngờ bật dậy khiến cho đầu óc hãy còn choáng váng...
“Sharo...Em đâu rồi?”
“Đằng kia, ngay bên cạnh chiếc bàn màu nâu xám ấy”
Đưa một ngón tay lên, ông ta ra dấu để ám chỉ rằng cậu nên im lặng, và lẳng lặng nhìn về phía chiếc giường nơi một cô bé đang nằm ngủ ngon lành. Sau đó lại châm điếu thuốc.
Cậu vội vàng chạy tới bên cạnh đó, thở phào nhẹ nhõm khi thấy cô gái bé nhỏ kia đang phập phồng gò má hồng mũm mĩm, với cơ thể đã được chăm sóc một cách chu đáo và tắm rửa sạch sẽ.
Sau cùng, cậu mới quay lại, chú ý đến người đàn ông đáng ngờ kia, chắc chắn không phải là người mà đêm qua cậu đã từng cầu xin và vứt bỏ đi niềm tự hào của chính bản thân để rồi quỳ rạp xuống.
Nhưng đó là kẻ khác, một kẻ điên, một tên đốn mạt khi đã vô tình trước những đứa trẻ như hai anh em cậu. Khi đã đạt được cái này, cậu lại mong muốn thứ khác. Bình thường, khi gặp họ - người dân nơi đây, cậu sẽ bị đánh đập, thậm chí là “giết”.
Mặc dù đa phần là không phải như vậy, nhưng những kí ức mơ hồ còn xót lại sau từng ấy cơn ác mộng kia đã bóp méo tư tưởng của cậu, về cái nhìn đẹp đẽ của cậu về những người Ise thân thiện, hiếu khách.
Nhưng khi gặp được một ông chú đã dang rộng cánh tay ra giúp đỡ cậu, cậu lại tỏ ra hoài nghi với người ấy. Đáng lẽ ra, một khi đã cảm thấy thương hại, họ sẽ miễn cưỡng giúp đỡ. Nhưng rồi lại bỏ mặc hai đứa bên ngoài. Nhưng ông chú này thì khác, lão có vẻ nhiệt tình hơn mọi người. Nhưng đối với cậu, thế giới quan của cậu không đồng ý sự tồn tại của một con người nào mà thực sự tốt cả. Vậy nên cậu hoàn toàn có lí do để nghi ngờ về lão.
Điều đó chắc chắn sẽ khiến cậu tò mò, mặc dù cậu rõ rằng, không nên tọc mạch vào chuyện của người khác.
Tuy nhiên, một cái gì đó đã đọng lại ở bản thân cậu, sau rất nhiều năm kinh nghiệm rong ruổi khắp nơi. Chẳng biết từ bao giờ, cậu đã có thói quen là sẽ không bao giờ đặt niềm tin tuyệt đối vào kẻ khác.
Bởi vì luôn có một giả thuyết nào đó cho thấy được rằng: “có thể cậu đang bị vướng mắc vào một vẫn đề phức tạp nào đó mà cậu chẳng hề hay biết, hay là kẻ đó đang lời dụng lòng tốt để lừa gạt mình”. Vì thế giới mà cậu biết, chẳng có một ai là người tốt cả, tất cả đều vì một lợi ích nhất định của bản thân, chẳng vì lí do gì mà lại giúp đỡ một người không quen biết.
Mà nếu có, thì đó chỉ là thứ đạo đức giả của bọn nhân loại, chứ đừng bao giờ áp đặt nó đến với những bán nhân dị biến ngoài kia. Cậu cho rằng khi mọi thứ diễn ra một cách quá dễ dàng thì chắc hẳn cậu đã vướng vào mọt cái bẫy, như một con thú tội nghiệp chết dần chết mòn còn không nhận thức được thứ gì đã tấn công mình.
Hiển nhiên, vì lẽ đó, việc tìm hiểu về nguồn gốc và lí do của cội nguồn sự việc là vô cùng cần thiết, để cho cậu ta biết được rằng có nên tin tưởng vào người đó hay không. Hay là sẽ phải cảnh giác với hắn - một tên đểu cáng sẵn sàng bán rẻ hai anh em họ.
Dù cho hắn có là ân nhân của họ. Nhưng cũng chẳng cần thiết phải lễ độ gì cả, cũng chẳng cần phải bày tỏ sự lễ phép với người bề trên. Cậu cứ vậy mà nhìn thẳng vào mặt lão, hỏi một câu mà chắc chắn ai cũng phải hỏi khi gặp một người lạ lần đầu.
“Ông là ai?”
Người đàn ông đó quay ra nhìn cậu, như đã đoán trước được câu hỏi mà cậu ấy chắc chắn sẽ đặt ra cho bản thân mình, lão chỉ cười mỉm một cách khó hiểu rồi lấy ngón tay trỏ vào đầu mình. Chiếc khuyên tai hình chữ thập của lão rung lên...
“Cậu có trí nhớ kém thật đấy, cậu Mèo. Ít ra cũng phải có một chút ấn tượng trước ông già này chứ?”
“Hôm qua, là ông?” - cậu gằn giọng – “Tại sao hôm qua ông chỉ đứng ở đó?”
“Đứng ở đó? Cậu không biết cậu đang đứng ở đâu à? Hay cậu vẫn còn phê vậy?”
“À không, tôi muốn hỏi tại sao? Ông đã cứu mạng hai anh em tôi, tôi biết điều đó và cảm ơn ông rất nhiều. Nhưng mà tại sao ông lại chần chừ mặc dù lúc đó ông đã thấy rõ anh em tôi, thậm chí tôi còn bám lấy ông được một lúc”
Người đàn ông mỉm cười châm biếm, sau đó tự minh hoạ bằng cách lấy tay chỉ lên thái dương của mình để chỉ cho cậu biết não cậu luôn luôn nằm ở đâu.
“Tôi không biết là hôm qua cậu đã mơ thấy gì, cũng như cậu có bị ảo giác hay mê sảng do dùng thuốc quá liều hay không? Nhưng tôi nhớ rất rõ là hai con mèo lang thang nào đó đã gõ cánh cửa nhà tôi một cách khẩn khoản trong tình trạng không thể nào tồi tệ hơn, và tôi đã đưa tay ra giúp chúng nó.”
“Gõ cửa nhà? Tôi đã thấy ông ở ngoài. Thậm chí còn là ở dưới lòng đường khi trời đang đổ mưa, lúc đó tôi đã nghĩ ông cũng chỉ là một kẻ lang thang giống như tôi, mặc dù không muốn dây dưa vào nhưng tôi vẫn tới. Tôi nhớ rất rõ, đấy không ai khác, là ông.”
“...rồi rồi, cứ cho là như vậy đi, nhưng cái đoạn cậu đoán tôi là một kẻ lang thang giống cậu thì có phần đúng rồi đấy, chỉ là phương pháp và điều kiện khác nhau thôi.”
“Lang thang? Ông có hẳn một căn nhà ở đây mà? Có thể tôi không đúng nhưng nơi này không thể nào là một ngôi nhà cho thuê đúng không?
“À, cậu đoán đúng rồi đấy, đây là nhà của tôi.” – lão khẳng định.
“Vậy “lang thang” là sao? Sở thích của ông à?” - cậu hỏi.
“Không hẳn là “lang thang”, dùng từ “nay đây mai đó” hay “phiêu lưu” thì có vẻ chuẩn hơn nhỉ? Mà “phiêu lưu” thì có vẻ không còn phù hợp nữa rồi...”
“Ông nói như thể ông đã đi khắp mọi nơi trên thế giới rồi ấy.”
“Thì đúng là như vậy mà.” – Lão ta thở dài một tiếng, tiện tay ném điều thuốc vào trong chiếc hộp giấy ở cạnh bên. “Thế theo cậu, sau khi thấy bộ dạng này của ta thì trông ta giống một người bình thường ở Iretriya lắm à?”
Cậu vẫn đứng đó, ngạc nhiên trước câu trả lời ngoài dự đoán với vẻ mặt tỉnh bơ của lão, cứ như thể lời ông ta nói là sự thật vậy. Mặc dù không biết được những gì lão nói có đúng sự thật hay không và không có cách nào để có thể xác định được danh tính của người đàn ông kì lạ trước mặt, cậu mặc nhiên cho rằng thông tin được đưa ra từ miệng lão, dù đúng hay sai vẫn là một thông tin tối quan trọng được đưa ra bởi chính chủ và là vốn ít ỏi để ta có thể biết được nhiều hơn về lão.
Ai trong chúng ta cũng hiểu được rằng, đây chính là bước đầu để tạo dựng được niềm tin. Để rồi sau này còn dựa vào đó mà tận dụng lấy nó. Một là đi theo và tin tưởng lão, hai là rời khỏi đây, rồi lại tiếp tục theo con đường cũ, rồi cứ thế mà vượt qua số phận nghiệt ngã vốn đã là cuộc sống của cậu.
Nhưng dù vậy, còn hơn là đi theo một người mà mình còn chẳng biết được đó là ai, có cũng chí hướng hay nên tin vào họ hay không, phải biết chắc rằng họ sẽ không bao giờ đâm sau lưng mình. Cứ như vậy, cậu cần biết mình có thể tin được vào người này hay không, hay là nên chạy trốn khỏi đó, khỏi số phận.
“Không, trông ông chẳng giống bất cứ ai ở Iretriya cả, ông quá to để là một trong những Colder, quá cao lớn so với người Engi, cách ăn mặc kì lạ và giọng điệu của ông đang từ chối nền văn hoá của người Ise, nói cách khác, mọi điều ông làm và chính sự tồn tại của ông như đang phủ định rằng ông là một trong số các chủng tộc ở Ise. Nếu cứ cho rằng tôi là một thằng kém hiểu biết thì đúng là tôi không nắm rõ hết mọi thứ về nơi này. Ông biết đấy, dù tôi có được đánh giá là một cậu nhóc với giọng điệu không được phù hợp với lứa tuổi là 12 đi chăng nữa, kiến thức của tôi vẫn còn hạn hẹp.”
“Ồ, thế thì sao? Tổng số thời gian ta ở lục địa Iretriya phương bắc này còn lớn hơn cả khoảng thời gian mà vị thần trên đỉnh Ehphagi kia bắt đầu tới và trở thành Neet ở trên đó đấy.”
“Ông có vẻ không có nghiêm túc được một giây nào nhỉ? Chẳng thằng ngu nào ở nơi đây lại tin vào mấy cái lời báng bổ vị thần tối cao của nơi này vậy cả.” - cậu nói. – “đến cả tôi còn được dạy rằng không bao giờ nói xấu về vị thần này vì làm thế sẽ chẳng có gì tốt đẹp sẽ xảy đến. Thậm chí anh ấy còn bảo rằng nếu ăn nói như vậy thì chỉ rước hoạ vào thân.”
“Thì tôi có bắt cậu tin đâu?” – lão ta mỉm cười.
Giọng điệu cợt nhả của lão làm cậu không được thoải mái cho lắm, nếu không muốn nói là nó khiến cho cậu cảm thấy khó chịu.
“Nhìn mặt tôi trông có quan tâm không?” - cậu nói. – “tôi chỉ cần biết ông là ai thôi, và đừng cố gắng nói sai sự thật.”
Lão ta nghĩ ngợi một hồi, có vẻ đã có được một câu trả lời thoả đáng, một lần nữa lão lại nở cái nụ cười chẳng mấy thân quen:
“Rồi rồi cậu nhóc, tôi chỉ là một người du hành thôi, nhưng chắc cái này cậu cũng sắp biết đến nó rồi nên tôi cũng chẳng cần phải giấu nữa, tôi là một chuyên gia về những hiện tượng kì dị, bất kể đó là thứ gì, bất kể nó ở nơi nào trên thế giới.”
“Hiện tượng kì dị?” - cậu tò mò hỏi.
“Thế này nhé, cậu có tin rằng ở ngay tại nơi này, cùng không gian này, toạ độ này, ngay trên vị trí cậu đang đứng, có một thế giới khác mang cái tên Mộng Tưởng Hương không?” – không đợi cậu trả lời, lão tiếp tục nói. – “mà nếu chỉ như vậy vẫn chưa khiến cậu tin tưởng hoàn toàn vào tôi đâu nhỉ? Nếu thực sự điều này cần thiết, hoặc là cậu có thể hoàn toàn ngó lơ những lời sau đây của tôi. Mặc dù tôi không có khuyến khích điều đó. Vì điều này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của cậu sau này rất nhiều...”
“Rồi thì tôi sẽ chú ý, kể cái cái câu chuyện cổ tích tự bịa đặt ông ngáo nãy giờ rồi phọt ra, tôi sẽ tin hết.” - cậu đá đểu lão.
“Nghiêm túc đi nào cậu bé, trông tôi có giống như đang đùa giỡn không?”
“Có.”
“À vậy à...” – lão thở dài, rồi uống một ngụm trà ở phía trước mặt.
“Thôi kệ đi, ta biết là không chờ nổi nữa đúng không? Xin lỗi vì cái ngữ điệu ẻo lả đặc sệt mùi giả tạo của tôi. Dù sao thì tôi cũng già rồi. Nên tôi sẽ vào chủ đề chính luôn, chẳng ai thích lắng nghe một kẻ không quen biết luyên thuyên về một thứ gì đó khó hiểu đúng chứ? – lão mỉm cười - “Chắc là cậu vẫn chưa biết đến nguồn gốc của “bé ấy” đúng không?”
“...ý ông là?”
“Ngày 18 tháng 7 vào lúc 21 giờ trên đường Marydalien thuộc Uvekona...cậu đã nhặt con bé ở bên cạnh một gốc cây nhỏ,và cậu cảm thấy thật kì lạ khi con bé vẫn còn có thể sống trong cái lạnh của Uve.”
“Cứ cho rằng ông nói đúng về tất cả mọi thứ đi, bởi vì ngay cả tôi cũng chẳng thể nào nhớ được vào năm trước tôi đã đi đâu và từng làm gì.”
Nói đến đây, cậu càng chẳng thể nào tin được vào gã, một người còn chẳng quen biết gì lại đang làm như biết tất cả mọi thứ về anh em cậu. Điều này không khiến cho cậu cảm thấy yên lòng hơn, mà còn làm cho cậu phải rùng mình vì sự bịp bợm đến trắng trợn của gã.
“Nó tính lừa trẻ con chắc” cậu nghĩ vậy nhưng cũng tự nhận ra rằng mình mới chỉ tầm 12 tuổi. Chỉ là...thế giới quan của cậu nhóc này có hơi “khác người” một chút. Nếu phải miêu tả một cách khái quát về góc nhìn của cậu ấy, thì “chẳng còn tin được vào bất cứ ai cả, chỉ có bản thân mình.” Là cái gốc của tính cách. Và vì đã có hơn nhiều năm chạy trốn, cậu cũng khá tự tin vào khả năng của mình, dù cho có mang theo một bé gái trên lưng...
Nhưng cái đáng sợ ở đây là cậu nhớ rất rõ từng khoảng thời gian khi mà cậu gặp được lí do sống của cuộc đời mình – em ấy, như cái cách mà người mẹ của ta nhớ từng giờ, từng phút, từng ngày, tháng, năm khi ta chào đời. Và lão nói đúng như những gì cậu có thể nhớ.
“Hửm...à ờ nhỉ! Cậu thì làm sao mà nhớ được chuyện của một năm trước.” – lão cười xoà.
“Đây là lần đầu tiên tôi thấy một đứa trẻ con – là cậu không tò mò khi tôi nhắc đến “dị tượng” đấy.”
“Ừ, rồi sao?” - cậu nói.
“Vậy cậu không muốn hỏi tại sao tôi lại nhắc đến hiện tượng dị thường trong cái câu chuyện tôi vừa cố ý gợi ra ở đây à?
“Không.”
“...lần đầu tiên tôi cảm thấy mất hứng vì một kẻ không chịu làm theo kịch bản như cậu đấy, cậu mèo, tôi thấy cậu chẳng có khiếu hài hước gì cả.” – lão thở dài.
“Rất cảm ơn vì lời khen của ông!”
“Cậu thật dễ khiến người khác tổn thương đấy!”
“Được rồi, vì trông ông khá là tội nghiệp, như kiểu mấy lão dở hơi nồng nặc mùi rượu bắt đầu luyên thuyên bằng thứ ngôn ngữ ngoài hành tinh của một giống loài thượng đẳng nào đó, cách duy nhất để khiến mấy lão nín lại là khiến cho mấy con bợm rượu ấy mửa hết ra, giống như cách mà tôi sắp lắng nghe ông vậy, nhưng tôi sẽ chẳng để vào tai đâu.” - cậu nói – “Vậy ông muốn kể một câu chuyện cổ tích nào nào?
“Được rồi, “Mèo” thì không thể nào chờ được cho đến khi vớ được một con cá rán nhỉ?” - lão ta mỉm cười, vẫn luôn là cái giọng điệu kì quặc
“Nhưng cậu biết không? Thế giới này vốn được tạo nên bởi căn nguyên là sự cho đi và nhận lại. Nói cách khác thì đó là sự trao đổi. Nếu cậu muốn bất cứ một thứ gì, cậu sẽ phải đánh đổi lấy thứ còn lại thuộc quyền sở hữu của cậu có giá trị tương đương, và tốt hơn hết, đừng có mong rằng cậu sẽ dễ dàng nhận được bất cứ thứ gì. Giống như khoảnh khắc một con mèo được cậu cho ăn một khúc xương cá, cậu nghĩ rằng đó là sự cho đi đúng không? Nhưng thật ra, cậu đã nhận lại được sự tin tưởng nhất định, hay một chút thân quen và mùi của cậu sẽ một phần nào đó nằm trong một ngăn trong bộ nhớ của chú mèo. Và cứ như vậy, sự lặp đi lặp lại một hành động sẽ để lại cho chú mèo ấy ấn tượng, sự tin tưởng của cậu đối với chú mèo ấy sẽ dần được tăng lên, và đến một lúc nào đó, khi cậu đã làm đầy cái ngăn đó. Cứ như vậy, cho đến khi nó dần hình thành một thói quen và con mèo đó sẽ phải hoàn toàn phụ thuộc vào cậu. Đó là quan hệ chủ - tớ...”
“...Ờm...tự nhiên ông chú muốn giảng giải triết học gì ở đây? Tụng kinh? Tóm lại là ông muốn nói gì?”
“Có nghĩa là tôi muốn hỏi về em gái cậu, hay nói cách khác là một nàng cáo nhỏ bé dễ thương đang say giấc nồng ở đằng kia”
“Hỏi?”
“Tôi chỉ muốn xác nhận một chuyện...đó là con bé có thực sự là “ngài ấy” không?”
“ngài ấy?” - cậu thắc mắc.
“Là “ngài ấy”...” – ông ta nói với quả giọng bí ẩn. – “Nếu tôi nói trực tiếp ra từ bây giờ, có lẽ cậu sẽ không tin ngay đâu, tôi sẽ phải mở màn bằng một màn kịch hoàng tráng để câu chuyện trở nên dễ hiểu hơn.”
“Không cần đâu, cảm ơn ông, ông cứ nói thẳng ra có khi lại dễ hiểu hơn đấy.”
“Thôi nào, cậu lắng nghe, có mất gì đâu đúng không? Tôi chỉ cần cậu chú ý và sẽ thật tốt nếu cậu hiểu ra từ khi câu chuyện bắt đầu mở màn ấy. Nếu cậu có thể hiểu rõ được, thì tôi sẽ cho cậu biết sự thật về con bé.”
“Sự thật? Làm gì có ai hiểu về em ấy hơn tôi?
“Ha ha ha...tất nhiên, trong mắt cậu thì tôi chắc cũng chỉ là một tên ba phải thôi đúng không? Sẽ thật tốt nếu cậu chỉ cần tin tưởng tôi vào lần duy nhất này thôi đấy.”
Cậu dừng lại, suy nghĩ về cái giá quá đỗi giản đơn mà lão ta đề ra. Tâm trí của cậu lúc này có lẽ đã phân theo làm hai cực, một là tin tưởng vào lão và lắng nghe, hai là quay lại với cuộc sống tối tăm như trước, và cậu hoàn toàn có thể mất em gái bất cứ lúc nào.
Nhưng cái khó nhất lại là việc lão ta giấu định danh, ít nhất cậu cũng muốn biết một chút ít gì đó từ lão. Vốn dĩ không rõ nguồn gốc của đối phương ngay từ đầu thì đã đi ngược lại với quan điểm của cậu về người lạ rồi. Cậu sẽ chạy trốn ngay lúc đó, nhưng lão hoàn toàn có thể bắt ép, hành hạ hai anh em cậu ngay đêm đó, nhưng lại không làm. Ban đầu, cậu đã tự tin tuyên bố rằng dù là ân nhân thì cũng chẳng khác, nhưng hành động của cậu vẫn theo một chừng mực nào đó tỏ ra tôn trọng và lắng nghe từng lời nói của lão ta.
Và cứ thế, một tia hi vọng của cậu đột nhiên được thắp lên khi nghe lão nói về bí ẩn của cô em. Đáng lẽ điều đó chỉ một mình cậu biết. Vậy mà, chỉ ngay trong một đêm, lão ta đã nhận ra điều đó. Cậu bắt đầu nghi ngờ từ khi lão tự nhận mình là “chuyên gia về quái dị” và chỉ cần ngó qua một vài lần đã nhận ra cậu và em gái cậu không phải anh em ruột thịt. Điều đó cậu chưa từng đề cập, mà giọng điệu của lão mỉa mai thay lại khiến cho cậu cảm giác rằng lão ta đã biết tất cả mọi thứ. Và lão hoàn toàn không nói khoác. Cậu tin chắc là vậy, mặc dù đó chỉ là linh tính cá nhân, mang tính chủ quan của cậu.
Tuy nhiên, ngoài đề nghị có sức hấp dẫn khó cưỡng nổi kia, cậu có thể đặt mình và em vào một tình huống mà cậu hoàn toàn phải phụ thuộc vào gã. Điều đó khiến cậu cảm thấy khó chịu. Nhưng chẳng còn lựa chọn nào khác cả, cậu đành đánh cược vào canh bạc cuối cùng là chính bản thân mình.
Đặt sự tin tưởng vào lão và hi vọng rằng lão sẽ thay đổi được cuộc đời đầy tăm tối của bản thân mình:
“Được rồi, tôi tin ông. Nhưng ông hãy lưu ý rằng tôi sẽ giết chết ông trong một nhát nếu ông làm bất kể điều gì đó khuất tất với chúng tôi.”
“Lựa chọn đúng đắn đấy cậu trai trẻ! Ta vẫn luôn tin vào thính giác của loài mèo mà.” – lão nói, như chưa từng để ý đến lời đe dọa kia. Hoặc là lão tin rằng cậu bé ấy sẽ không thể có bất cứ hành động gì dưới sự dẫn dắt của lão.
“Nhưng mà tôi vẫn chưa biết tên của ông?”
“Hmm...cậu đã nói vậy thì ta cũng phải đáp lễ một chút chứ nhỉ?” – lão ta cười... – “cứ gọi ta là Karen Giniian. Gọi là Karen cũng được, ta không bận tâm đâu. Còn cậu, cậu Shiro, được chứ?”
“Không vấn đề gì.” – cậu thẳng thắn trả lời. Nghĩ đến ngày đầu gặp anh Owen và ngay cả “chị ấy” cũng đã gọi mình với biệt danh trùng với màu lông là “Shiro”.
Có lẽ việc được gọi như thế, đối với cậu thì nó giống như một bước ngoặt mới trong cuộc đời phiêu lưu với những con người trong suốt số phận của mình.
Karen bắt đầu nghiêm mình lại, dáng người cẩu thả của lão thẳng lên, vài tiếng thở dài vài tư thế kì lạ xủa lão xuất hiện khiến cho cậu cảm thấy buồn cười trong sự nghiêm khắc thái quá.
“Vậy như thế này nhé cậu Shiro! Tôi rất kị việc thân phận, hành động hay lời nói của mình bị lộ ra ngoài. Và chỉ một điều nữa thôi, đó chính là tất cả những gì mà tôi nói sau đây, cậu hãy chắc chắn rằng sẽ không ai được biết, không phải cho bản thân tôi, mà là cho sự an toàn của chính em gái cậu. Trước hết, tôi cần làm rõ một điều, cậu hoàn toàn có thể lắng nghe hoặc bỏ qua nó. Tin hay không thì tùy vào thái độ của cậu. Tôi cũng không muốn ép một con mèo phải lắng tai nghe mấy thông tin mà nó cho là vớ vẩn làm gì. Chỉ cần biết, nếu cậu có để ý đến nó thì cậu nên biết cách giữ mồm miệng và im lặng. Hoặc là cậu sẽ kêu to lên cho cả thiên hạ biết. Lúc đó, tùy vào từng trường hợp mà tôi sẽ lựa chọn việc mình có nên ở lại và tuân theo giao ước hay không. Cậu nên nhớ rằng cậu chính là người có lãi, lãi rất nhiều trong giao ước này, cậu phải biết cách làm sao để giữ lấy nó. Bù lại, tôi hoàn toàn có thể lo cho cả hai anh em cậu. Mọi thứ. Với khả năng của tôi, tôi dám chắc rằng sẽ chẳng một ai còn có thể biết đến sự tồn tại của hai người. Nói tóm lại, đây là chuyện hệ trọng.”
Cậu có hơi lo lắng trước những lời của Karen. Theo như cậu thấy, hay nói cách khác là những lời nói của lão từ lúc mới gặp mặt đến giờ, tật xấu của lão là luôn luôn luyên thuyên về nhiều thứ, nhưng tất cả thảy nội dung đều chỉ đi vào duy nhất một chủ đề. Mà ở đây không gì khác là giữ bí mật. Cậu chỉ cần làm vậy thôi.
Ngay từ đầu, Karen vốn dĩ cho rằng chẳng cần thiết phải cảnh báo cho cậu nhóc này. Vì cậu vốn đã rất biết giữ lấy thông tin cho riêng bản thân mình rồi. Mặc dù, từng câu nói của ông đều mang ẩn ý rằng cậu hãy tự mình thừa nhận lấy thân phận. Nhưng cậu đều cảnh giác một cách bất thường. Và luôn dò hỏi ngược lại ông.
Karen thích những con người cẩn trọng. Vì một dạng sinh vật sống tự cho mình khái niệm rằng mình “không tồn tại” như ông luôn cần một khoảng thời gian yên tĩnh.
Cậu Shiro cũng dần định thần lại, có vẻ cậu cũng có một linh cảm xấu về chuyện sắp xảy ra. Mặc dù ngay chính bản thân cậu còn chưa từng nghe đến một từ về vấn đề đó qua lời cảnh báo trên của lão Karen.
“Ông không cần phải lo lắng về việc đó, tôi biết cách để tự phế thanh quản của mình.”
“Mặc dù câu trả lời của cậu luôn ngoài kịch bản mà tôi đã dự đoán trước, nhưng tôi rất vui khi nghe thấy điều này! – lão cười với một nụ cười hiền hậu. Đột nhiên, lão trông có vẻ như vừa nhận ra được điều gì đó quan trọng. – à quên mất, tôi sẽ bắt đầu câu chuyện trước đó nhé!”
“Được rồi, nhưng trước khi bắt đầu, tôi có một câu hỏi. Nó có liên quan gì đến bí mật của em gái tôi mà ông đã nói trước đó không?”
“Một chút, nhưng nó thật sự cần thiết để cậu có thể hiểu được mọi chuyện. Nói cách khác thì nó cũng như một việc tóm tắt một quyển sách giáo khoa cho một con mèo vô gia cư vậy.” – lão cười khẩy...
“Bớt đá đểu lại đi Karen.”
“Đùa đủ rồi, trêu cậu quả là vui thật.”
“Trông mặt tôi có vui lên một chút nào không? Trò đùa của ông hài hước thật đấy!”
“Thôi thì vào vấn đề chính nào.” – lão nói, đồng thời nhấp một ngụm trà để giải quyết điệu cười đểu cáng trên nét mặt của ổng.
“Được rồi, cậu đã từng nghe về “gate” chưa? Truyển thuyết về một cánh cổng đã đưa các chủng tộc đến gần hơn với cây thế giới và trở thành một nhánh của nó.”
“Chưa lần nào cho đến hiện tại” - cậu nói.
“Dù sao thì nó cũng là truyền thuyết được tạo nên bởi con người. Do vậy, họ đã ban cho mình đặc quyền trở thành cái căn bản của thế giới. Ta có thể hiểu được rằng, khi thế giới này được cai quản bởi con người và các vị thần trong tín ngưỡng của họ, thì một thứ được gọi là “tạo tác” đã xuất hiện. Tất cả những chủng tộc hiện nay đề cho rằng ấy là Thiên chúa, người đã cấu thành nên quá khứ, hiện tại và tương lai. Họ cho là như vậy, và chỉ riêng con người mới được phép sinh sống trong “ngôi nhà” của họ. Đấy cũng là lí do khiến cho nhiều chủng tộc không ưa gì loài người.” – lão nói – “Còn về “gate”, loài người cho rằng nó là một thứ kì diệu đã đưa các chủng tộc khác họ đến, xâm phạm đến “ngôi nhà” của họ. Họ cho rằng các chủng khác là giống ngoại lai không có quyền được ở trên đất tổ của họ. Chỉ có con người là tuyệt đối. Nãy giờ kể lể cũng nhiều rồi, bây giờ thì nói thẳng luôn nhé! Chắc hẳn là cậu cũng không muốn nghe kể truện cổ tích đâu nhỉ? Vì chúng đâu có thật.”
“Vậy câu chuyện này có ý nghĩa gì? Nó giúp gì được cho tôi à?” - cậu hỏi.
“À không, nó là bối cảnh đầu tiên trước khi đưa cậu vào thứ được gọi là “cơ bản nhất”. Nghĩa là nếu tôi không cho cậu nghe về nó trước thì những gì sau đó chỉ toàn là những lời sáo rỗng khó hiểu.”
“Tôi hiểu rồi. Cảm ơn vì câu chuyện có vẻ như là có thật ấy nhé!”
“Rồi rồi, ít nhất thì cậu vẫn cố gắng lắng nghe nên tôi sẽ đặt một câu hỏi ngay bây giờ đây. Sau khi nghe câu chuyện trên. Theo cậu thì nguồn gốc của chủng bán nhân là gì?”
“...”
“Câu này khái quát quá nhỉ? Nhất là đối với một tên vô học như cậu mà. Tôi cũng khá chắc là trong não cậu bây giờ chỉ có “em gái, em gái,...” thôi đúng không?”
“Đừng có xem tôi như một thằng cuồng em gái thế!”
“Chứ không phải thế à?” – lão mỉa mai.
“Vâng, vâng, chắc chắn rồi...” - cậu gằn giọng.
“Haha...xin lỗi mà” – lão nói.
“Vậy, cậu Shiro, cậu có hiểu gì về khái niệm “nguyên tố căn bản” không? Cũng như về các “cổ chủng”.”
“Cổ chủng? Nguyên tố gì?”
“Đầu tiên, “nguyên tố căn bản” là các nguyên tố do tự nhiên quyết định, mà cũng là những nguyên tố cơ bản đã và từng được phát hiện và ứng dụng một cách tộng rãi. Các sinh vật chỉ kế thừa lấy nó như một hệ quả của sự tiến hoà dựa trên yếu tố môi trường và quan hệ với các giống loài khác, từ đó chúng bắt buộc phải phụ thuộc vào nhau hoặc là nương tựa vào nhau để sống. Giống loài này ảnh hưởng tới giống loài kia, tạo hoá đáng lẽ ra sẽ phải hình thành lên một chuỗi thức ăn mang đầy đủ tính liên kết giữa các sự vật và sự việc. Tuy nhiên, căn nguyên của thế giới vốn luôn biến động không theo một quy trình sẵn có. Nó khiến cho hệ sinh thái vốn đã xa cách nay lại hoàn toàn tách biệt với nhau. Đó chính là sự can thiệp của một thế lực tự nhiên mà ngày nay người ta hay gọi thứ tồn tại vô hình và khó có thể giải thích đó là ma thuật, ma năng. Và hiển nhiên, dù không thể giải thích rõ được về nguồn gốc của nó, nhưng mỗi chủng tộc lại có một quy trình ứng dụng và cách thức sử dụng riêng. Và bọn chúng phát triển một hệ thống xã hội riêng biệt, có hệ quy tắc ứng xử riêng. Và bằng một lí do nào đó, tất cả những quy tắc tiến hoá của các giống loài riêng biệt lại được gom lại về một nhanh duy nhất. Ta tạm gọi nó là phần “người”. Và chỉ có như vậy, cái thứ năng lượng được thiên nhiên ban tặng ấy vô tình lại thay đổi cái cơ bản mà đáng lẽ ra thế giới cần phải có. Cuối cùng thì lại khiến nơi này trở thành một nơi thuộc quyền kiểm soát của rất nhiều trong các chủng tộc cổ đại. Vốn có thể tự sử dụng nguồn năng lượng vốn có của tự nhiên thành một tấm khiên vững chắc để tự tay bảo tồn giống nòi. Còn lí do vì sao lại nhất định phải là phần “người”. Đơn giản thôi, vì con người là chủng tộc sở hữu trí thức có số lượng đông đảo nhất. Và cách suy nghĩ của bọn họ cũng khác với cách nghĩ của ta về thế giới. Xã hội của bọn họ phức tạp hơn tất cả. Vậy nên phần “người” là để biểu diễn những chủng tộc có thể dễ dàng làm chủ được ý thức của bản thân mình.”
Cậu mèo nghe rất rõ, tất cả mọi thông tin, nhưng: “chẳng hiểu gì cả, hiểu được chết liền!”. Cũng phải thôi, làm gì có thanh niên nào có thể nhét hết đống đấy vào não chỉ trong một lần. Đầu óc cậu choáng váng vì điều đó.
Đối với bản thân cậu, lão ta như đang nói liền mạch mấy cái điều như vậy để cho thấy rằng lão thực sự có hiểu biết rộng về mọi mặt. Tùy vào cách nói mơ hồ mà cậu có thể đoán ra được rằng lão là kẻ giả mạo. Nhưng có vẻ lần này thì không phải như cậu thường thấy.
Lão Karen có vẻ cũng thấy được điều đó, nên quyết định sẽ dừng lại một chút.
Đến cuối cùng, cậu Shiro chỉ có thể tiếp thu được rằng thế giới này có rất nhiều chủng tộc khác nhau về cả hình dáng lẫn văn hóa và tính cách, chức năng. Các chủng tộc luôn cô lặp nhưng vẫn tuân thủ theo một bộ quy tắc ứng xử riêng. Tuy nhiên, có một vấn đè ở đây là các chủng tộc đều liên quan đến các gia tộc cổ đại và những gì cậu biết, lão Karen biết thì có các chủng đặc biệt và chúng vốn dĩ không thuộc về thế giới. Nhưng tại sao người đàn ông này lại nắm rõ như vậy? Tất cả mọi thứ?
“Ông từ thế giới khác đến đây à, Karen?”
“Cậu cứ cho là vậy đi. Tôi sẽ xem đó như là một lời khen.” – lão cười. – “Tuy cậu chưa hiểu rõ hơn về vấn đề nên tôi chỉ cần nói ngắn gọn thế này thôi: đó là nếu cậu đột nhiên đối mặt với những hiện tượng lạ, không thể nào giải thích nổi. Khi đó, cậu sẽ phải mặc nhiên tự cho rằng đó là một hiện tượng “quái dị”. Và trong khoảng thời gian đó, có ba điều cơ bản cậu cần phải làm. Một là xác định xem đó có thực sự là “quái dị”, nếu đúng thì hãy đoán xem chủng loại của nó. Hai là tìm hiểu về nguồn gốc xuất hiện “quái dị”, bởi vì “quái dị luôn có lí do riêng của nó”. Ba thì chắc chắn là ai cũng sẽ nghĩ tới điều đó: cách giải quyết. Tuy nhiên, người ta thường hay bỏ qua những chi tiết nhỏ nhặt và nhảy qua hai bước đầu cơ bản nhất. Nên nhớ chắc chắn một điều rằng cậu hoàn toàn không thể nào giải quyết được vấn đề nếu không tìm ra được gốc rễ của vấn đề đó. Vì vậy những kẻ có suy nghĩ đánh giá thấp những vấn đề nhỏ nhặt, cơ bản thì thường là những kẻ sẽ gặp phải rắc rối đầu tiên. Tất cả mọi thứ về vấn đề đó nên được giải quyết một cách triệt để nhất. Và “quái dị” thì cũng như vậy.”
“Tôi hiểu rồi. Nhưng làm sao để có thể nhận biết được “nó”?” – cậu thắc mắc.
“Cậu đã từng nghe về ma thuật màu như đen và trắng chưa?”
“Chưa từng”. - cậu nói.
“Có lẽ đối với cậu thì khái niệm này khá là lạ. Nhưng đối với những người bình thường thì nó không khác gì một thứ ma thuật đáng nguyền rủa. Con người, họ cho rằng bất cứ thứ gì mang màu đen đều mang đến sự tăm tối và xui xẻo.”
“Còn màu trắng?”
“Là màu tượng trưng của Thiên chúa. Vốn dĩ tại sao lại gọi là đen và trắng một cách mơ hồ như vậy? Tại sao chẳng phải là gọi tên theo các nguyên tố, như ánh sáng hay bóng tối? Vì hai thứ đó hiếm hoi hay quá đại trà ư? Không, thực ra cách gọi như vậy là để đánh dấu những yếu tố kì lạ, quái đản không thuộc phạm trù ma thuật. Mà ở đây “chuyên gia” là tôi, đã tìm hiểu ra và giải thích rõ ràng điều đó. Gọi một cách tóm tắt thì đó chính là “quái dị”. Thứ tuyệt đối ta luôn phải tin vào bản chất của nó. Mặc dù nó đi ngược lại với quy tắc của tự nhiên. Thứ mà khi mọi thứ trên thế giới này họ đều giải thích bằng “ma thuật” thì “quái dị” lại là một phạm trù nằm ngoài nó. Tôi đã đặt tên cho nó là “dị tượng ngoại tinh cầu” đơn giản là vì nó đáng lẽ ra không nên tồn tại ở nơi này thì bằng một cách nào đó, nó đã ăn nhập với một nhánh của cây thế giới và dẫn đến “dị tượng”. Còn lí do tại sao tôi lại nhắc đến “quái dị” vậy hả cậu Shiro? Cậu có biết điều này không? Vì sao tôi lại mất công giới thiệu về nó cho cậu - thứ mà đáng lẽ ra không một sinh vật sống nào cần phải biết về nó cả. Biết về nó, một khi đã định hình được thì nó cũng như một lời nguyền vô tận, đeo bám cậu đến chết.”
“Tại sao? Không phải là ông định lôi anh em tôi vào cái thế giới nguy hiểm đó chứ?”
“Không cần thiết. Bởi vì chính con bé đã là một “dị tượng” rồi.”
“Em gái tôi? Ý ông là Sharon?”
“Em gái cậu. Bé Sharon đó.”
“Vậy...”
“Cô bé không phải là mèo, cũng không thuộc bất cứ một chủng tộc nào liên quan đến các sinh vật cổ đại. Cô bé chính là một “quái dị”. Một Huyễn Tưởng Thú bất tử - cáo tuyết Xiêra, một con cáo vô phép đến từ phương Nam...”
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top