Dạ hành (3)



Xứ Sogia là một trong những tiểu quốc chư hầu lâu đời của đế chế Aum. Vương quốc này nằm ở phía đông nam Vespero, liền kề biên giới với vùng đất Aras và hai tiểu quốc Malvasta khác. Con đường của những người Cigany dẫn thực chất là lối đi vòng, xuôi theo sông Mephis, một nhánh nhỏ chảy đổ ra biển phía đông của dòng Tigis dài rộng. Người dẫn đường cho Arko và Ruza là một thanh niên trẻ tuổi ưa trò chuyện, trong suốt chuyến đi, anh ta dường như nói không ngừng nghỉ. Ấy lẽ ra là một sự phiền toái cho Arko, tuy nhiên, dần dà chàng quen với điều đó và tìm thấy vài thông tin thú vị mà chàng nghĩ lúc nào đó sẽ có ích cho mình. Ví thử như con đường không thực sự đưa chàng đến lãnh thổ của tiểu vương xứ Sogia mà lại là một vịnh nước nhỏ khá hoang sơ. Từ chỗ này, theo lời chàng thanh niên, sẽ cần phải đi thêm nửa ngày đường nữa mới đến được lãnh thổ Sogia. Khi nghe đấy anh ta thông báo như vậy, Ruza đã phải thốt lên ngạc nhiên, bởi nó sai lệch đi một chút so với bản đồ mà nàng có trong tay. Và biểu cảm này của nàng khiến người dẫn đường giải thích thêm về "vùng đất thiêng".

"Vùng đất thiêng không thuộc về vương quốc nào cả." Anh ta nói. "Nó là một phần của con đường hành hương, dưới thời vua Alessous đệ nhị, ông ta đã ban tặng nó cho các ẩn sĩ."

Alessous đệ nhị là một vị vua sùng đạo. Sự sùng đạo của ông ta được sử quan Vespero ghi chép rất tỉ mỉ, đến độ lắm khi hậu thế khi đọc lại những dòng ghi chép đó dù muốn hay không cũng phải đặt ra câu hỏi ngờ vực độ chân thật. Hoặc có thể lòng mộ đạo của Alessous đệ nhị mới là căn nguyên sâu xa khơi gợi ra hoài nghi. Làm sao người ta có thể tin được rằng ông ta cầu nguyện đến hai mươi tư lần trong một ngày hay sẵn sàng đình chiến để không bỏ lỡ các chuyến hành hương của mình? Không chỉ vậy, ở Vespero, dân chúng còn lưu truyền thêm vô số giai thoại hoang đường khác về Alessous đệ nhị, tỉ dụ như có lần ông ta đã hạ lệnh làm một chiếc cân thật lớn và dùng nó để định mức thưởng cho các tu sĩ. Mỗi vị thầy tu sẽ ngồi ở một bên đĩa cân, còn ở đĩa cân bên kia, người hầu sẽ chất vàng bạc châu báu lên cho đến khi hai đĩa cân xứng với nhau. Số vàng bạc đó sẽ là phần thưởng mà vị tu sĩ nhận được. Lại một lần khác, vị vua mộ đạo này ra lệnh dát vàng lên toàn bộ các tượng thờ tại bất cứ điện thờ nào mà ông ta đi qua trên đường hành hương về Farland. Tất nhiên, chẳng ai dám chê trách lòng sùng tín này của Alessous đệ nhị, những mệnh lệnh ông đưa ra vẫn được thực hiện cho dù có hoang đường đến đâu đi chăng nữa, hoặc dẫn thẳng đến việc vét sạch sẽ ngân khố cũng như đem đến vô số khoản nợ cho hoàng tộc. Không những hào phóng quá mức cần thiết, Alessous đệ nhị còn cho phép rất nhiều tu sĩ tham gia vào việc triều chính của mình, đến độ có thời điểm thầy tu ngang hàng với tể tướng. Và vì thế mà triều đại của Alessous đệ nhị còn được mệnh danh là triều đại thần trị. Những rối loạn lẫn kiệt quệ mà triều đại thần trị gây ra đã khiến cho các vị vua kế vị sau đó, như vua Mehem đệ nhất hay vua Osman phải lao đao ít nhiều mới có thể chấn chỉnh lại được.

Vậy nên, Arko cũng không nấy gì làm ngạc nhiên khi giờ chàng được nghe thêm chuyện vua Alessous đệ nhị ban tặng đất đai cho các ẩn sĩ. Thay vào đó, chàng quan tâm đến vị trí đặc biệt của "Vùng đất thiêng" hơn.

"Chúng tôi thường giấu các thuyền hàng ở vịnh nước ấy, trước khi chuyển về Aras bằng những thuyền nhỏ hơn." Người dẫn đường nói thêm, dường như không quan tâm nhiều đến điều mình nói ra.

"Quân lính Vespero không biết gì về "Vùng đất thiêng" sao?" Arko hỏi lại, trong lúc vẫn đều tay đưa mái chèo.

"Họ không quan tâm đến nơi này." Anh thanh niên nhún vai "Nhiếp chính vương còn phải lo thu thuế của đám quý tộc Thrace, còn đám quý tộc Thrace thì lo trốn thuế. Này anh bạn phương Nam, chúng tôi may mắn ở chỗ đó, chứ nếu là thời tiên đế Renando hay nữ hoàng Eriki thì chắc vẫn còn chui rúc ở trong rừng đấy."

"Các anh quả thật rất may mắn." Arko bâng quơ, trong đầu chàng vẫn vờn quanh những lời kể vừa được nghe về "Vùng đất thiêng".

"Một điều tôi phải dặn anh và tiểu thư đây," Dường như nhớ ra điều gì, người thanh niên nghiêm túc nhắc. "Đó là khi đi qua khu rừng, đừng ngoảnh mặt hay đáp lời nếu nghe thấy tiếng người."

"Khu rừng này có người sao?" Ruza hỏi, nàng tỏ vẻ tò mò.

"Nó vốn là nơi ẩn cư của các ẩn sĩ... và cả phù thủy nữa đấy." Người thanh niên thật thà.

Đến tảng sáng, con thuyền độc mộc của họ cập bờ. Theo chân người dẫn đường, Arko và Ruza được đi xuyên qua khu rừng rậm rạp, hướng thẳng đến biên giới Sogia. Bấy giờ đã là cuối thu, nên sương mù bao phủ khu rừng, đặc quánh hơi lạnh và che mờ tầm mắt. Người dẫn đường cũng vì thế mà đề nghị đốt thêm đuốc, dù nền trời đen đêm đen mịn đã tan dần màu u tối. Thỉnh thoảng anh ta nhắc nhở hai anh em chàng phải bám sát theo sau mình, rồi lại im lặng dò dẫm bước đi trong màn sương. Arko nhận ra người dẫn đường dường như kiệm lời hơn lúc trước. Anh ta không màng đến những lời ba hoa thừa thãi nữa, thay vào đó, người thanh niên nọ lẩm nhẩm điều gì đó bằng thứ ngôn ngữ cổ của người Cigany. Chàng nhíu mày, nắm chặt lấy tay em gái Ruza, đẩy em đi giữa và tự nhận phần đi cuối để canh chừng. Ba con người, trong làn sương lạnh chớm đông cẩn trọng bước từng bước trong khu rừng thiêng. Những âm thanh của thú đêm giờ này đã tắt, không gian trở lên tĩnh hơn một chút và người ta thậm chí có thể nghe được tiếng lá khô xào xạc hay tiếng một cành củi gãy giòn dưới mỗi bước chân. Xen lẫn vào đó, Arko còn nghe thấy tiếng thì thào của người dẫn đường, nghe lẫn vào tiếng gió hú hao hao âm thanh phì phò của một con rắn đang bò trườn về phía con mồi. Mặc dù chàng không hiểu được thứ ngôn ngữ kỳ lạ đó, nhưng theo âm điệu, chàng lờ mờ đoán rằng nó gần giống như lời cầu nguyện hoặc thần chú nào đó. Người Cigany luôn gắn liền với thuật phù thủy và bùa chú, danh tiếng của họ cả hàng thế kỷ nay đều được lưu truyền như vậy. Khi mặt trời ló dạng hoàn toàn, nắng ấm xua tan màn sương bao phủ khu rừng, cũng là lúc họ rời khỏi chốn lạnh lẽo âm u đó. Chuyến đi trở lên dễ dàng hơn rất nhiều. Tuy nhiên, Arko chợt nhận ra Ruza có vẻ mệt mỏi và chàng đề nghị người dẫn đường nên dừng lại nghỉ ngơi dưới một gốc cây cổ thụ.

"Gần đây có một hồ nước ngọt, tôi sẽ đi lấy thêm nước, chúng ta còn cần đi thêm một đoạn đường nữa mới đến nơi. Hai người hãy cứ ngồi nghỉ ở đây." Người dẫn đường nói rồi rời đi, theo hướng có tiếng nước chảy róc rách cách đó không xa.

Còn lại hai anh em dưới bóng cây râm mát, Arko mới hỏi về đôi chân sưng rộp của Ruza. Tất nhiên, điều này khiến Ruza hơi ngạc nhiên một chút, bởi nàng đã cố che giấu việc này vì không muốn ảnh hưởng quá nhiều đến chuyến đi. Đôi hài bằng da hươu của nàng vốn rất thoải mái, và chỉ có vậy, nó là kiểu hài dành cho nữ giới quý tộc ở phương nam – nơi người ta chẳng bao giờ phải nghĩ đến chuyện đi bộ băng qua rừng rậm cả. Trong suốt cuộc hành trình, nàng có thể cảm nhận được rõ hai chân mình thảm hại thế nào, chúng sưng rộp ở phần gót chân và đầu ngón chân, còn lòng bàn chân lẫn mu bàn chân đều được thử qua độ sắc nhọn của những cái gai gỗ, còn móng chân bung rời ra khỏi vị trí để lộ ra một mảng hỗn độn máu thịt. Và giờ thì có lẽ nàng không đủ can đảm để nhìn kỹ đôi chân này. Đã vài lần nàng muốn khóc thút thít vì phải cố gắng lết cặp chân đau mỏi đi qua những bụi cây sắc lẻm gai nhọn, nhưng do sợ làm rầy rà làm mất thời gian nên nàng đành im lặng. Anh trai nàng đã nhận ra cái dáng đi tập tễnh khổ sở của nàng khi họ rời khỏi khu rừng.

"Em không nên giấu mọi người." Chàng quỳ trên một chân, nhìn qua đôi chân sưng vù với những đầu ngón chân đã bật móng, chi chít vết xước còn đang rớm máu của Ruza lẫn đôi hài đã thâm đen một mảng huyết chết ở phần mũi.

"Em sợ nó ảnh hưởng đến mọi người." Nàng thành thật. "Anh biết đấy, chúng ta không có nhiều thời gian."

"Ôi em gái của anh, đấy là suy nghĩ rất ngốc nghếch." Arko đảo mắt và thở dài, rồi chàng cúi người lần tìm kiếm trong đám cỏ gần đó. "Với đôi chân này thì em cũng có đi nhanh được đâu."

"Nhưng ít ra em sẽ không phải nghe trách cứ của anh trai mình." Ruza xịu mặt phụng phịu, nàng cảm thấy vừa cáu giận vừa tủi thân bởi suy nghĩ trở thành gánh nặng.

"Được rồi, được rồi, Ruza yêu quý. Chân của em sẽ không làm ảnh hưởng gì cả, giờ anh sẽ đắp lá thuốc cho em và khi anh chàng du mục kia quay lại anh sẽ cõng em đi tiếp."

"Nhưng..."

"Không phải ai cũng có được ân điển này đâu." Chàng bật cười, sau đó nhai dập một nắm lá xanh mềm mại rồi đắp lên những vết thương của em gái mình. "Thứ lá này sẽ giúp em thấy dễ chịu hơn, cho đến lúc chúng ta kiếm được thầy lang tử tế ở Sogia. Còn giờ thì anh nghĩ em có thể cầu nguyện, như em thường làm."

Lẽ dĩ nhiên, Ruza ngoan ngoãn nghe theo anh trai nàng. Hai anh em ngồi nghỉ trên thảm cỏ cho đến khi người dẫn đường quay lại với những bình nước ngọt mát lành. Hành trình của họ lại tiếp tục. Dọc đường đi, như một cách gợi chuyện để bớt buồn chán, Ruza hiếu kỳ đặt ra những câu hỏi về "Vùng đất thiêng." Đấy là một chủ đề nhàm chán lẫn nhạt nhẽo mà Arko không hề muốn tham dự, thế nên chàng giữ im lặng và lắng nghe em gái trò chuyện với người thanh niên du mục. Cũng giống như Arko, đêm qua Ruza đã nghe thấy những lời lẩm bẩm khó hiểu của anh ta, thế nên hôm nay nàng hỏi về nó.

"Đấy là phong tục của người Cigany chúng tôi, thưa cô. Mỗi khi đi vào "Vùng đất thiêng," chúng tôi đều phải cầu nguyện chúa của mình bảo hộ."

"Vì lẽ gì lại như vậy?" Ruza nhíu mày khó hiểu. Nàng vẫn nghĩ rằng nơi chốn thuộc về các ẩn sĩ là một vùng đất an lành.

"Sacerdonito."

"Đó là cái gì?"

"Nữ tư tế Cựu giáo, thưa cô." Chàng thanh niên lưỡng lự giải thích thêm. "Bà ta cũng trú ngụ trong khu rừng và bà ta không thích bị làm phiền."

"Anh nghĩ sao về việc này, anh trai của em? Nghe thật lạ." Ruza nghiêng đầu hỏi anh Arko. Thái độ sợ sệt của người dẫn đường khi nhắc đến nữ tư tế làm nàng hiếu kỳ hơn. Thông thường, các nữ tư tế hầu như chẳng có gì khác biệt so với các tu sĩ, về cơ bản họ đều là những kẻ phụng sự thánh thần cũng như truyền đạt ý muốn của các ngài đến với con người phàm trần. Họ được kính trọng bởi sự uyên bác lẫn lối sống thanh bạch, ấy là điều Ruza vẫn luôn nghĩ trong đầu. Thế nên mới thật lạ lùng làm sao vì ở nơi này người ta lại đề cập đến một nữ tư tế với vẻ sợ sệt e ngại hơn là lòng kính ngưỡng.

"Có lẽ là một câu chuyện hoang đường." Arko đáp lại bâng quơ.

"Anh thật sự nghĩ thế sao, anh bạn phương nam?"

"Những tín đồ của Tân giáo luôn muốn phỉ báng Cựu giáo, hẳn người Cigany các anh hiểu rõ điều này hơn ai hết mới đúng."

"Đấy là anh chưa biết Sacerdonito có thể làm được những gì thôi."

"Tôi chỉ cần biết tín đồ Tân giáo phương Bắc đã làm những gì," Arko xẵng giọng.

Chàng thanh niên du mục khẽ lắc đầu bất lực, anh ta im lặng làm tiếp công việc dẫn đường của mình. Tân giáo và Cựu giáo luôn là một vấn đề nhạy cảm trong mọi cuộc chuyện trò ở lục địa Aurian, kể cả với người phương Nam lẫn người phương Bắc. Thậm chí, trong một vài thời kỳ, nó còn dẫn đến những cuộc chiến đẫm máu. Cho đến tận bây giờ, mâu thuẫn đức tin ấy vẫn còn hằn sâu trong ý thức của tín đồ hai bên, dù các điện thờ Tân giáo phương Bắc đã mở rộng cửa chào đón tín đồ Cựu giáo phương Nam. Sự dạy dỗ của hiền triết Brahami đã cho Arko một góc nhìn bao dung hơn đối với Tân giáo, tuy nhiên, có vẻ như chiều ngược lại không tồn tại. Bằng chứng là cách người ta nhắc đến tư tế Cựu giáo bằng biểu cảm kinh hãi như khi nhắc đến đám phù thủy phụng thờ quỷ dữ. Chàng cho rằng định kiến đó chẳng khác nào một sự xúc phạm nặng nề. Vậy nên, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi trong suốt quãng đường còn lại, hầu như chẳng ai muốn nói thêm bất cứ điều gì. Và cho đến đầu buổi chiều, Arko đã có thể nhìn thấy cờ hiệu màu cam đặc trưng của tiểu vương xứ Sogia cùng tháp canh thấp thoáng phía đằng xa. Chàng trút một tiếng thở dài nhẹ nhõm, sau một khoảng thời gian vướng vào những rắc rối như vừa rồi thì lá cờ hiệu ấy chẳng khác nào điềm báo phước lành của thánh thần, nó làm mong muốn được quay trở về kinh đô Virat yêu quý đương ngự trị trong tâm trí chàng lại càng thêm mãnh liệt. Sự giúp đỡ mà chàng chắc chắn được nhận từ lão vương Oman – vị tiểu vương chư hầu trung thành với đế chế từ thời tiên hoàng, sẽ giúp chàng cùng em Ruza có thể sắp xếp mọi sự và an toàn lên thuyền về Virat.

*

* *

Hela đón nhận tin con tàu đưa chồng nàng cùng hai người em của chàng và nhũ mẫu Mariam cập cảng Perlo với sự mừng vui vô cùng. Nàng lệnh cho các cung nữ giúp mình trang điểm và chải tóc từ rất sớm. Xiêm áo cùng những hộp trang sức cũng được bày la liệt trên chiếc giường lớn của nàng để tiện cho việc lựa chọn, dẫu cho đứa nữ tỳ thân cận luôn miệng ngợi khen bất kể nàng mặc hay đeo gì đi chăng nữa. Những lời khen ấy êm ái, dễ nghe và lặp đi lặp lại đến độ Hela phải nghiêm mặt thốt lên đầy cáu gắt, bởi nàng cho rằng nó đang nói chỉ để chiều lòng mình. Kẻ hầu luôn có thói nịnh bợ, đứa hầu kề cận nàng cũng chẳng phải ngoại lệ, Hela tự nhủ. Thế nhưng, đáp lại gắt gỏng của nàng, nữ tỳ vẫn khăng khăng mình đang nói sự thật. Thậm chí, nó còn viện ra những lời lẽ mà đám dân thường ở Virat thường rỉ tai nhau mỗi khi nhắc đến hoàng hậu Hela để chứng minh rằng mọi lời tốt đẹp dâng lên nàng không phải là phỉnh lừa, từ vóc dáng mảnh mai, cân đối với làn da trắng hồng mà phụ nữ vùng Assyria luôn tự hào, đến khuôn mặt trái xoan được tô điểm bởi đôi con mắt xám tro ánh mang đầy vẻ thông tuệ, cả bờ môi căng mọng đỏ khỏe khoắn và đầy gợi cảm. Nàng, trong con mắt của dân chúng, có sắc đẹp của một nữ thần đầy tôn quý cùng trí tuệ tuyệt vời chẳng thua kém bất cứ vị hiền triết nào. Vì lẽ đó mà nhiều người vẫn thường gọi nàng là viên ngọc thứ mười một của đế chế Aum. Ấy đều là tán dương của dân gian dành cho nàng, đứa nữ tỳ vừa nhẹ đưa lược bằng ngà voi luồn qua mái tóc đen nhánh, gợn sóng mượt mà của nàng vừa thuật lại chẳng thiếu lời nào. Và, dĩ nhiên, hay ho đến độ nàng hồ nghi không biết có thật chúng được dùng để nói về nàng hay không. Nàng không quen nghe những điều thế này, cũng không hài lòng khi kẻ hầu người hạ quen thói cãi lời, nhưng niềm vui sướng khi sắp được chào đón hoàng đế khiến đã xóa mờ đi cái nhíu mày phật ý vừa thoáng hiện trên mặt.

"Thưa lệnh bà, mọi thứ đã xong rồi ạ."

Nữ tỳ lễ phép thưa với Hela như vậy, rồi chúng cúi đầu bước lùi sang hai bên để không in bóng trên chiếc gương trang điểm của nàng. Hela đứng trước gương, nàng hài lòng ngắm nghía dáng vẻ đã tô điểm lộng lẫy trên đó và tự tay chỉnh lại từng chiếc nhẫn lẫn hoa cài bằng đá quý cùng đai lưng nạm ngọc đang mang trên người. Nàng là người kỹ tính và rất cẩn trọng, bởi vậy mà một sự lệch lạc nho nhỏ như mặt đá khảm trên nhẫn không xoay đúng vị trí trên ngón tay cũng làm nàng khó chịu. Do đó mà những nữ tỳ theo hầu cũng không mấy ngạc nhiên khi chủ của họ luôn dành nhiều thời gian để chỉnh trang lại cầu kỳ như thế này, nhất là vào dịp nàng đón hoàng đế trở về cung điện Niveneh.

"Thưa lệnh bà, thần vừa nhận được tin báo từ nhà ngục." Đột nhiên, một thái giám tiến vào căn và khẽ tâu lên.

Hela nhìn gã ra hiệu rằng nàng vẫn đang lắng nghe, hai tay nàng hơi dùng sức mở hộp đựng son đỏ. Tin tức từ nhà ngục, theo nàng đoán, có lẽ là về tên thư lại lãnh nhiệm vụ coi sóc các tấu chương gửi đến Virat mà nàng đã hạ lệnh bắt giữ cách đây hai tháng. Dĩ nhiên, việc bắt giữ này được thực hiện theo cách ít ồn ào nhất, thậm chí cho đến giờ gia đình của kẻ tội nhân vẫn chưa hay biết hắn đã được đưa đến đại lao thay vì đi đến Bengal. Và trong từng đó thời gian, nàng đã phải vận dụng đến rất nhiều cách khác nhau để ép hắn đưa ra một lời giải thích có thể chấp nhận được, giải thích cho việc tin tức về tiểu vương xứ Nipeta tại sao lại không được chuyển đến tay nàng đúng lúc. Thế nhưng, tên thư lại vẫn một mực khẳng định hắn vô can, và sự cứng đầu này khiến hắn được thử qua vô số hình thức tra tấn khác nhau. Cái hiện thời đang áp dụng, nàng nhớ không nhầm, gọi là vòng cổ nhục hình. Hela phải thừa nhận rằng tên thư lại có sức chịu đựng vượt quá dự đoán của nàng khi đeo được cái vòng cổ bằng gỗ với đầy gai nhọn bọc sắt đó trong những mười ngày, thay vì hai đến ba ngày như kẻ tội nhân khác.

"Kẻ kia, thưa lệnh bà, hắn đã hôn mê rồi ạ." Viên thái giám cúi đầu thưa lại tin tức vừa nhận được.

"Cũng đã mười ngày không ăn uống rồi," Nàng lạnh giọng, ngón tay nhẹ phết son đỏ lên môi. "Truyền thái y đến chăm sóc cho hắn, hãy dùng những loại thuốc tốt nhất. Ta nghĩ đức ngài sẽ muốn gặp hắn khi ngài trở về..."

Và khi đó thì hắn sẽ ước rằng ta giết hắn luôn cho xong. Nàng bỏ lửng câu này không nhắc đến. Vết thương mà Arko thọ lãnh ở Aras, sự lăng nhục mà Ruza phải chịu khi bị giam ở thành Jagun, cũng như cuộc hành hương buộc phải lỡ dở, sau từng đấy chuyện thì hẳn tên thư lại khốn khổ ấy chẳng nên mơ tưởng đến việc phu quân của nàng sẽ khoan dung với hắn. Ấy là nếu hắn vẫn giữ thái độ thách thức đáng chết của mình. Chàng có thể là một hoàng đế nhân từ, trong phần lớn trường hợp và trong những trường hợp còn lại như đối với những kẻ mưu đồ phản loạn, những kẻ chống lại đế chế thì chàng chẳng khác nào một bạo chúa, dư thừa độ tàn nhẫn. Hơn mười năm chung sống với Arko, cùng chàng nếm trải những khổ đau mà hiếm vị quân vương nào trong lịch sử Aum hay trên khắp lục địa Aurian này từng phải bước qua để đến được ngai vàng, đã cho nàng hiểu rõ về chàng. Sự thấu hiểu đó không chỉ như một người vợ hiểu về chồng của mình, mà còn là thấu hiểu của một hoàng hậu, một kẻ bề tôi trung thành với đấng quân vương... Đáng tiếc rằng đôi lúc chàng lại không chịu hiểu nàng, ít nhất là mỗi lần cả hai nhắc đến tể tướng Nusam Khal – người cha nuôi mà chàng luôn rất mực yêu kính .

"Vậy còn tể tướng? Khi nào ông ta quay trở lại kinh đô?"

"Thưa lệnh bà, có lẽ là sau hai hôm nữa, tể tướng sẽ đưa phu nhân Viola về để kịp tham dự lễ hội mùa màng."

"Vừa hay khi đó đức ngài cũng đã có mặt ở Nineveh. Hãy truyền tin cho người của ta, giám sát ông ta đừng lơ là."

"Nhưng... thưa lệnh bà, tôi sợ nếu hoàng đế biết được chuyện này."

"Thì cứ nói rằng ta ra lệnh. Ta cũng mong ngài ấy biết càng sớm càng tốt, ngài chịu khổ nạn vì những kẻ phản phúc thế là quá đủ rồi." Hela nhếnh môi khẽ cười mỉa mai. "Nhà ngươi chỉ cần làm đúng theo lời ta, đừng để Nusam Khal đánh hơi được chuyện của tên thư lại..."

Đương lúc nàng dặn dò viên thái giám về việc giữ kín mọi tin tức với tể tướng Nusam Khal, công chúa Maya – một trong những người em chồng khác của nàng xin được diện kiến. Cũng giống như Ruza, nàng yêu quý Maya vô cùng, và vì thế mà khi nghe thấy tiếng bước chân của cô bé, nàng vội phẩy tay cho phép viên thái giám lui. Dẫu sao ở trước mặt Maya hay Ruza, bàn đến những chuyện hành hạ, trừng phạt kẻ khác cũng không phải là điều nên làm.

"Chào em gái của chị, em đã sửa soạn xong chưa?" Hela mỉm cười vui vẻ.

Công chúa Maya gật đầu lia lịa trả lời nàng, rồi em diễn đạt lời khen dành cho nàng bằng một chuỗi động tác tay linh hoạt. Maya bị câm, nhưng cái sự bất hạnh ấy cũng không ngăn được em bày tỏ suy nghĩ hay ý kiến của mình. Hiền triết Bhami, thầy dạy của các hoàng tử và công chúa, đã tập cho em lối giao tiếp bằng thủ ngữ, đôi khi là cả cách nói bằng khẩu hình miệng, từ khi em còn rất nhỏ. Cũng giống như Ruza, đối với Maya, Hela dành cho em tình cảm thân thiết vô cùng khi nàng chăm sóc và dõi theo em lớn lên từng ngày.

"Được rồi Maya, em cũng đẹp lắm. Nhưng nếu có thêm hoa cài này sẽ càng đẹp hơn." Nàng mở một trong số những chiếc hộp trang sức và lấy ra trong đó hoa cài tay. Món đồ xinh đẹp ấy được thợ kim hoàn lành nghề nhất Virat chế tác từ hoàng kim cùng đá quý. "Lại đây nào, chị sẽ cài nó cho em rồi chúng ta cùng đi đón đức ngài, Ruza và nhũ mẫu Mariam."

Vì sự vắng mặt trong suốt thời gian của của hoàng đế đã bị Hela che giấu, nên việc ngài trở về cũng diễn ra khá kín đáo và không hề kèm theo bất cứ một lễ đưa rước long trọng nào, như đáng ra phải thế. Tuy vậy, Hela vẫn cẩn thận thực hiện đầy đủ mọi nghi thức mà nàng cần phải làm với tư cách của người vợ chào đón lang quân trở về sau một chuyến đi xa. Theo đức tin của người Aum hay đúng hơn là của các tín đồ Bái hỏa giáo như nàng, những nghi thức ấy không chỉ để cảm tạ đấng bề trên đã bảo hộ cho chàng được bình an mà còn để xua đi những vận xui còn đeo bám. Hela đón chào Arko trước cánh cửa dẫn vào hậu cung ở phía đông, nàng dùng nhánh cỏ xanh để phủi bảy lần lên vai chàng. Khuôn mặt nàng đối diện với chàng và nàng nhận ra chàng nom có phần mệt mỏi lẫn tiều tụy, nước da chàng đen sạm đi trông thấy. Bộ dạng ấy đều là dấu hiệu cho nàng biết chuyến đi của chàng gian nan đến mức nào.

"Mừng ngài về nhà." Nàng nói bằng giọng ngượng ngùng khi nhận ra chàng đang nhìn mình và mỉm cười ranh mãnh.

"Nàng, hoàng hậu của ta, nàng còn thiếu một nghi thức nữa. Ta sẽ chưa thể vào nhà khi nàng chưa thực hiện nó."

"Thiếp..." Hela nhíu mày, nàng không nhớ được còn bỏ sót điều gì. "Xin ngài thứ lỗi, thiếp không rõ mình sơ suất ở đâu."

"Chẳng phải phụ nữ Assyria các nàng thường gọi tên phu quân khi anh ta đi xa về sao?"

"Nhưng... nhưng thiếp không được nhũ danh của hoàng đế, thưa ngài."

"Nhưng nàng vẫn được gọi tên phu quân, đúng không?"

Yêu cầu của chàng mới khó khăn làm sao. Hela thầm nghĩ và nàng dành cho đức lang quân yêu quý của mình một cái liếc mắt sắc lẻm. Ở Assyria quả thật có phong tục như vậy, Hela mím môi, nhưng giờ nàng đang ở Virat, trong cung điện Nineveh – nơi không ai được gọi thẳng nhũ danh của chàng ra. Tuy nàng vẫn thường làm trái luật và gọi tên chàng, có điều đấy là lúc xung quanh không có ai hay bất cứ cặp mắt hiếu kỳ nào, khác hẳn so với cảnh các nữ tỳ, các công chúa cùng hoảng tử cũng như nhũ mẫu Mariam đang nhìn nàng như lúc này. Arko vẫn không chịu buông tha cho nàng, ngược lại, trông dáng vẻ của chàng thì dường như chàng còn nấy làm thích thú. Phía sau lưng chàng, công chúa Maya, công chúa Ruza đều đang mở to mắt háo hức, các nàng đều che miệng cố nín cười. Hoàng thân Sharum, cậu em chồng của nàng cất giọng húng hắng ho và đảo mắt một vòng như để cảm thán trước cảnh bắt bẻ ngớ ngẩn do anh trai bày ra. Nhưng không ai trong số họ tỏ thái độ bài xích, vì sự sủng ái mà hoàng đế dành cho lệnh bà Hela từ lâu đã chẳng phải chuyện lạ lùng. Và ngài cũng chưa bao giờ che giấu sự đối đãi lẫn sự quan tâm đặc biệt mà ngài dành cho nàng, như lúc này chẳng hạn.

Đến cuối cùng, Hela đành thở dài nhượng bộ, nàng bước lên thêm nửa bước nữa rồi kiễng chân toan gọi tên chàng bằng âm vực vừa đủ nghe để vẹn cả đôi đường. Thế nhưng chưa kịp mở miệng, nàng đã bị chàng ôm chặt vào lòng.

"Chào nàng, Hela." Arko nói và chàng hạ giọng rất thấp, chỉ đủ để một mình nàng nghe được vế sau. "Ta quên không nói, nàng có thể làm điều đó sau. Ý ta là khi chỉ có hai chúng ta, ta thích thế hơn."

"Phu quân của thiếp, đấy là một đề xuất thú vị." Hela đáp lại. "Nhưng còn phải xem đám phu nhân của chàng có kéo đến làm phiền hay không."

"Ta có thể thề với nàng câu trả lời là không."

Và Arko đã đúng. Bởi ngày hôm đó, chàng đã dành trọn thời gian để ở bên người vợ mình hằng nhung nhớ. Tất nhiên là sau khi hạ lệnh bắt giam gia đình của viên thư lại, kẻ đảm nhận việc truyền đi cũng như nhận lại các bản tấu cùng tin tức tại Virat. Đấy là những dấu hiệu đầu tiên báo hiệu sắp có một cơn bão ập đến với đế chế Aum. 

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top