SỔ GHI CHÉP THỨ BA (I)


          LỜI DỰ ĐOÁN CỦA THẰNG TAKEICHI về tôi một đúng, một trật. Cái dự đoán vô sỉ của nó là tôi được lũ con gái "yêu thương" thì đúng, còn cái lời chúc phúc rằng tôi sẽ là "một họa sĩ vĩ đại" thì sai trật hoàn toàn.

          Tôi chỉ có thể là một họa sĩ truyện tranh vô danh của một tờ tạp chí hạng bét mà thôi.

          Vì sự kiện ở Kamakura mà tôi bị đuổi học khỏi trường cao đẳng, đến tá túc ở một căn phòng ba chiếu[3] trên tầng hai nhà ông cá bơn. Ngoài một số tiền nhỏ nhoi hàng tháng từ quê gửi lên, nhưng không phải trực tiếp cho tôi mà gửi qua tay ông cá bơn (nghe nói số tiền này là các anh tôi lén cha tôi mà gửi), thì tất cả mối liên hệ với cố hương đều bị cắt đứt. Ông cá bơn lúc nào cũng khó chịu, dù tôi cứ mỉm cười lấy lòng nhưng ông ta chẳng thèm cười lại. Cái sự thay đổi đến mức kỳ dị này khiến tôi cảm thấy thật ti tiện, không phải, đến mức buồn cười thì đúng hơn rằng tại sao con người có thể tay đổi nhanh chóng như trở bàn tay vậy?

[3] Chiều rộng nhà ở của Nhật Bản được tính bằng số chiếu tải dưới nền, 1 tấm chiếu gọi là 1 chiếu. 1 chiếu cơ bản là khoảng 1,6 mét vuông.

          "Không được đi ra ngoài. Đừng có đi ra ngoài đấy nhé".

          Ông cá bơn cứ nói toàn những lời như vậy.

          Có lẽ ông cá bơn cứ dõi mắt canh chừng vì sợ tôi tự sát chăng? Chắc ông sợ tôi lần theo dấu người con gái đã mất mà lại nhảy xuống biển nữa hay sao nên cấm tiệt tôi không được ra ngoài. Thế nhưng không được hút thuốc với uống rượu, từ sáng đến tối chỉ vùi trong cái bàn sưởi kokatsu nơi căn phòng ba chiếu, đọc mấy tờ tạp chí cũ, sống ngơ ngơ lay lắt như vậy, tôi chẳng còn có khí lực gì muốn tự sát nữa.

         Căn nhà của ông cá bơn nằm gần trường y Okubo. Trước nhà tuy có gắn tấm bảng "Thanh Long Viên, chuyên thư họa và đồ cổ" nhưng vì một căn nhà chia làm hai hộ nên cổng vào thì hẹp, trong nhà thì bày toàn những thứ vô dụng phủ đầy bụi bặm (không phải ông cá bơn dựa vào những thứ tạp nhạp này mà bán buôn mà nghe nói ông ta kiếm được bộn tiền nhờ vào việc nhượng quyền sở hữu cổ vật từ chủ này sang chủ kia). Hầu như ông cá bơn không khi nào ngồi ở tiệm cả. Mỗi sáng ông ta làm cái mặt khó đăm đăm, vội vàng chạy đi, để lại một người nhân viên chừng 17, 18 tuổi giữ nhà nhưng thực ra thì để canh chừng tôi thì phải. Mỗi khi rảnh rỗi, chú lại chạy ra ngoài chơi bóng ném cùng lũ trẻ hàng xóm. Chú ta xem kẻ ăn bám ở tầng hai này là ngu si hay bị thần kinh gì đó và thường giở giọng người lớn thuyết giáo cho tôi nghe. Vì khí chất của tôi không thể nào mà đi cãi nhau với người ta được nên tôi cứ làm ra vẻ mặt mệt mỏi hay cảm động mà lắng tai nghe, mà phục tùng. Trước đây hình như đã có lần tôi nghe người nhà đồn rằng đứa nhỏ này là con rơi của Shibuda nhưng vì một lý do nào đấy mà ông cá bơn này không nhận mặt. Vì tôi không có hứng thú gì đến chuyện riêng tư người khác nên không biết rõ chi tiết. Nhưng đôi mắt của chú nhỏ này quả thật có chút gì làm người ta liên tưởng đến đôi mắt cá. Có lần đêm khuya tôi nghe thấy tiếng hai cha con này gọi mỳ gõ, ngồi ăn với nhau mà chẳng ai nói với ai tiếng nào.

          Trong nhà ông cá bơn, việc cơm nước đều do chú nhỏ này đảm nhiệm. Thức ăn cho cái gã phiền phức ở tầng hai được đặt vào một cái mâm do chú ta một ngày ba lần bưng lên bưng xuống. Còn chú nhỏ và ông cá bơn thì ăn uống xì xụp vội vàng ở trong một căn phòng tăm tối bốn chiếu rưỡi dưới cầu thang.

          Vào một buổi tối cuối tháng ba, ông cá bơn không biết trúng quả không ngờ hay là đã tìm ra được đối sách cho tôi rồi hay sao ấy (cho dù hai suy đoán này của tôi đều đúng thì chắc cũng còn nhiều nguyên nhân vi tế khác mà tôi không tài nào đoán được) nên mời tôi xuống lầu. Kẻ ăn bám đang ngơ ngơ ngác trước bàn ăn thịnh soạn có cả rượu sake, cả sashimi cá ngừ, đang cảm phục sự khoản đãi của chủ nhân, đang chiêm ngưỡng thì được ông cá bơn rót rượu mời.

          "Từ giờ trở đi, cậu tính làm gì đây?".

          Tôi không trả lời, với tay lấy vài con cá mòi khô trên dĩa, nhìn vào đôi mắt bạc của lũ cá nhỏ, bỗng trào nỗi thương cảm, nhớ thuở còn rong chơi, nhớ đến cả Horiki, cảm giác bỗng dưng vô cùng muốn tự do khiến tôi suýt trào nước mắt.

          Từ sau khi đến ngôi nhà này, tôi chẳng còn lòng dạ nào mà diễn hề nữa, chỉ nằm dài trong nhà, chịu sự miệt thị của ông cá bơn và chú nhỏ. Tôi cũng chẳng muốn đuổi theo ông cá bơn mà giãi bày điều gì, và hầu như trở thành một kẻ ăn bám ngu ngốc toàn phần.

          "Cậu đã được miễn khởi tố, và cũng không tính là có tiền án tiền sự gì cả. Bởi vậy, chỉ cần có cái tâm sáng rõ là có thể làm lại được cuộc đời. Nếu cậu muốn cải tà quy chánh, có thể cứ nói trực tiếp một cách nghiêm túc cho tôi hay, tôi có thể suy nghĩ mà giúp cậu".

          Cái cách nói chuyện của ông cá bơn, không phải, của tất cả người trong thế gian này đều phiền toái, mông lung, phức tạp quanh co một cách né tránh như vậy. Đối với những lời nói có vẻ cảnh giới nghiêm trọng đến mức vô ích, với chiến thuật lôi kéo ồn ào vô số này tôi luôn khó xử, không biết xoay xở ra sao thành ra khi thì tôi biến những lời nghiêm túc thành trò cười bằng vai hề của mình hay chỉ biết gật đầu không nói không rằng, thể hiện một thái độ thất bại thảm hại mà thôi.

          Đến mãi sau này khi nhớ lại những gì ông cá bơn hướng về tôi mà nói lúc ấy chỉ như là một lời trình bày đơn giản sự việc, nhưng cái dụng tâm không cần thiết của ông, và cái lối thể hiện khoe mẽ bề ngoài của những con người thế gian vẫn làm tôi cảm thấy u uất không chịu nổi.

          Lúc đó, ông cá bơn chỉ cần nói thế này thì có phải hay không?

          "Từ tháng tư tới, cậu hãy nhập học một trường nào đó đi. Trường công hay tư gì cũng được. Sau khi nhập học rồi thì nhà cậu ở quê sẽ gửi tiền sinh hoạt phí nhiều hơn đấy".

          Mãi đến sau này tôi mới hiểu ý ông cá bơn muốn nói là như thế. Nếu vậy thì tôi chỉ cần làm theo là xong thôi nhưng vì cái dụng tâm loanh quanh của ông cá bơn trong lời nói mà cách sống của tôi lại hoàn toàn thay đổi.

          "Nếu cậu không có cái tâm nghiêm chỉnh muốn bàn bạc với tôi thì tôi cũng chẳng có cách nào khác".

          "Bàn bạc cái gì cơ ạ?". Tôi thật tình vẫn không tài nào đoán ra.

          "Cái tâm tư sâu kín của cậu ấy".

          "Ví dụ ạ?"

          "Ví dụ như là giờ trở đi cậu muốn làm gì chẳng hạn".

          "Vậy là đi làm việc là được chứ gì".

          "Không phải, tâm tư cậu muốn gì kia?".

          "Nếu vậy thì vào trường đại học thì sao ạ?".

          "Vậy sẽ cần đến tiền. Nhưng vấn đề không phải là tiền bạc mà là cái tâm tư của cậu kìa".

          Tại sao không nói thẳng một câu là bởi vì tiền bạc thì có nhà cậu từ quê gửi lên rồi? Chỉ cần dựa vào câu nói ấy thì tâm tư tôi cũng sẽ an định ngay mà. Tôi như bước đi giữa đám sương mù.

          "Sao nhỉ? Cậu không có cái gì là hy vọng tương lai à? Cái người được giúp đỡ chắc là không thể hiểu được cái việc giúp đỡ người khác là khó khăn như thế nào đâu".

           "Xin lỗi".

          "Tôi thật tình lo lắng cho cậu. Vì đã nhận lời chăm sóc cậu nên tôi không muốn thấy cậu có tâm trạng nửa vời như thế này được. Tôi muốn cậu hãy thể hiện rõ ràng quyết tâm đi theo con đường chính đáng để làm lại cuộc đời. Cậu hãy nói một cách nghiêm túc với tôi về điều đó thì tôi cũng có thể liệu đường mà giúp cậu được. Cậu có hiểu không? Cái tâm trạng của tôi ấy? Nói chung là từ giờ trở đi cậu định như thế nào?".

          "Nếu ông không cho tôi ở đây nữa thì tôi sẽ đi làm..."

          "Thực tình thì cậu muốn làm công việc gì? Trong thời buổi này tốt nghiệp Đại học Đế quốc Đông Kinh cũng còn chưa chắc..."

          "Không phải tôi muốn vào làm trong công ty đâu".

          "Vậy thì làm gì?".

          "Họa sĩ", tôi trả lời nhất quyết.

          "Cái... cái gì cơ?".

          Tôi sẽ chẳng bao giờ quên được cái vẻ rụt cổ lại mà cười khùng khục đầy vẻ gian tà của ông cá bơn. Tuy có vẻ khinh miệt nhưng thực ra lại khác. Nếu ví cuộc đời như biển sâu, thì đó là cái hình bóng huyền bí lảng vảng ở đáy tận cùng sâu thẳm ấy. Nụ cười đó cho ta thấy thoáng qua bản chất cuộc đời của nhân gian.

          Sau khi bị ông cá bơn nói những lời như vậy thì chẳng thể nào nói chuyện được nữa, cậu không nghiêm túc được một chút nào hay sao, cậu suy nghĩ lại đi chứ, dành trọn một đêm để động não đi nào; tôi lủi thủi lên tầng hai như bị đuổi. Trằn trọc cả đêm cũng chẳng suy nghĩ được gì. Và khi bình minh lên, tôi bỏ trốn khỏi nhà ông cá bơn.

          "Chắc chắn đến tối tôi sẽ quay trở về. Tôi đến nhà một người bạn để trao đổi về định hướng tương lại nên đừng lo lắng. Thật sự đấy".

          Tôi lấy bút mực viết vào giấy mấy dòng như vậy. Rồi sau khi viết đầy đủ tên họ cùng địa chỉ nhà Horiki, tôi lén lút bỏ đi.

          Không phải tôi bỏ trốn vì cảm thấy nhục nhã khi bị ông cá bơn thuyết giáo. Mà bởi vì, đúng như ông cá bơn nói, tôi là cái thằng tâm tư không nghiêm túc, chẳng biết trong tương lai mình phải làm gì, hơn nữa hiện đang là một kẻ gây phiền phức cho nhà ông cá bơn, lỡ như trong thời gian ở đây tôi tức khí phát phẫn lên, lập chí làm lại cuộc đời thật thì mỗi tháng ông cá bơn đã nghèo hèn lại phải viện trợ tiền cho tôi nữa. Nỗi khổ tâm đó làm tôi không thể nào chịu nổi.

          Tuy nhiên không phải tôi rời nhà ông cá bơn để đến chỗ Horiki bàn về "con đường tương lại" thực sự đâu. Tôi viết như vậy chỉ để làm co ông cá bơn yên tâm được một chút nào đó thôi. (Tôi viết như vậy vì sợ sẽ phải gây choáng váng và bàng hoàng khó xử cho ông cá bơn hơn là một đối sách theo kiểu truyện trinh thám để bỏ nhà ra đi). Chuyện này một khi bại lộ ra ngoài, thì tôi sẽ quanh co ngụy biện rằng mọi chuyện đúng như vậy đấy. Đây cũng là một cái thói hư tật xấu trong tính cách của tôi. Nó là cái tính cách ti tiện mà nhân gian gọi là "dối trá". Nhưng viết vậy không phải để trục lợi cho mình mà vì sợ đến nghẹn thở cái sự thay đổi đột ngột. Và mặc dù biết rõ điều này sẽ gây cho mình bất lợi về sau nhưng đó hình như là cái trò trình diễn ngu ngốc và yếu kém của tôi chăng? Tôi nghĩ rằng có thể vì cái yếu tố trình diễn này mà tôi thường hay thêm thắt ngôn ngữ này kia chăng? Tuy nhiên tôi cũng nhận thấy những bậc "chính nhân quân tử" cũng hay dùng thủ đoạn này. Lúc đó, tôi cứ thế mà viết thẳng họ tên và địa chỉ nhà Horiki từ đáy ký ức của mình.

          Tôi rời khỏi nhà ông cá bơn, đi bộ đến khu Shinjuku, bán mấy quyển sách mang theo rồi chẳng biết làm gì, hoang mang trăm lối. Mặc dù tôi chan hòa với mọi người nhưng chưa một lần biết thế nào là "tình bằng hữu". Trừ cái gã Horiki là bạn chơi bời ra thì tôi chỉ còn lại toàn thống khổ đó tôi mới gắng sức diễn hề và cuối cùng chỉ để chuốc lấy sự mệt mỏi rã rời. Mỗi lần trên phố tình cờ gặp mặt người quen, hay chỉ cần thấy giống như người quen thôi là tôi đã giật bắn người lên, choáng váng như thể bị chóng mặt vậy. Tôi biết mình được người ta yêu quý nhưng hình như tôi thiếu cái năng lực để mà yêu quý người khác vậy. (Phải nói thêm là tôi rất nghi ngờ rằng không biết nhân gian thật sự có khả năng "yêu" hay không nữa). Một kẻ như tôi thì làm sao mà có bạn thân cơ chứ. Không những thế tôi còn thiếu khả năng "thăm hỏi" nữa kia. Cổng nhà người ta đối với tôi còn đáng sợ hơn cổng địa ngục trong tác phẩm "Thần khúc" của Dante nữa, còn đằng sau cái cổng kia tôi có cảm giác như một con quái thú rồng tanh tưởi đang ngọ nguậy rập rình vậy. Đó là cảm giác thật sự của tôi, hoàn toàn không khoa trương một tí nào.

          Tôi không có bạn hữu cũng không có chỗ nào mà đi nữa.

          Horiki.

          Tưởng nói đùa chơi ai ngờ là thật. Tôi quyết định đến nhà Horiki ở Asakura đúng như điều đã ghi trong thư. Cho đến bây giờ, tôi chưa lần nào đến nhà gã Horiki này cả, chỉ dùng điện tín để gọi gã đến chỗ tôi mà thôi. Nhưng tôi nghĩ rằng nếu lần này chỉ đánh điện tín thì với hoàn cảnh sa sút hiện nay của mình, có lẽ gã sẽ không đến đâu nên tôi mới quyết ý làm chuyện  khổ sở nhất đời là "đến thăm" nhà gã. Tôi thở dài, leo lên tàu điện và khi nghĩ rằng sợi dây độc nhất nối kết mình với nhân gian chỉ là cái gã Horiki kia thôi tự nhiên tôi cảm thấy một cơn buốt lạnh thê thảm chạy dọc sống lưng mình.

          Horiki đang ở nhà. Ngôi nhà hai tầng của gã nằm ở sâu trong một con ngõ hẻm dơ dáy. Horiki chỉ sử dụng một căn phòng sáu chiếu ở tầng hai, còn ở dưới dành cho ba người là cha mẹ gã cùng với một gã người làm trẻ làm công việc may và đính quai cho những chiếc guốc gỗ geta.

          Ngày hôm ấy, gã Horiki đã cho tôi thấy một mặt khác của bản chất người đô thị nơi gã. Nói theo kiểu thông thường thì đó là sự ma mãnh sắc sảo. Thứ vị kỷ gian trá và lạnh lùng của Horiki làm một kẻ quê mùa như tôi phải trố mắt ngạc nhiên.

          "Trời cậu đó à? Thật kinh ngạc quá. Thế cha mẹ cậu dã tha thứ cho cậu rồi hả? Hay là vẫn chưa?".

          Tôi không thể trả lời rằng mình đã bỏ trốn.

          Tôi dựa vào câu nói đó để lừa gạt Horiki dù biết rằng không sớm thì muộn gã cũng phát giác ra sự thật.

          "À, biết làm sao khác được. Mọi chuyện cứ thế mà diễn ra".

          "Này, không phải chuyện đùa đâu đấy. Tớ khuyên cậu nên thôi những trò ngu ngốc đó đi. Hôm nay tớ có việc phải làm. Dạo này bận kinh khủng đi cơ".

          "Bận à? Bận việc gì đấy?"

          "Này, này, đừng có ngắt đứt mấy sợi chỉ trên đệm ngồi như thế chứ?".

          Vừa nói chuyện, tôi vừa cầm một sợi chỉ tua ren nơi góc chiếc đệm ngồi, day day trên tay một cách vô tình rồi bứt bứt chơi. Cái gã Horiki này đối với những đồ vật trong nhà mình, ngay cả một sợi chỉ diềm tua của chiếc đệm ngồi cũng xót, như không biết liêm sỉ là gì, cằn nhằn tôi với ánh mắt giận dữ. Thử nghĩ lại thì từ khi kết bạn với tôi, gã Horiki này chưa chịu mất một thứ gì cả.

          Bà mẹ già của Horiki đặt lên bàn hai bát chè đậu đỏ.

          "Này, vậy là sao đây?".

          Horiki như một đứa con hiếu thảo thật sự, hướng về phía mẹ gã nói bằng giọng lịch sự gần như mất tự nhiên.

          "À, con xin lỗi. Thì ra là chè đậu đỏ à? Thật là tuyệt vời quá. Mẹ không cần phải lo lắng quá cho tụi con như thế này đâu. Tụi con có việc phải đi ra ngoài ngay bây giờ đấy mà. Nhưng mà mẹ đã cất công nấu chè như thế này bỏ đi thì phí quá nên tụi con xn nhận vậy. Cậu cũng ăn một chén đi. Mẹ tớ đã cất công làm mà. Trời ngon quá, tuyệt vời làm sao".

          Hắn nói rồi hí hửng vui mừng, ăn ngon lành như chẳng phải diễn kịch một chút nào. Tôi cũng húp chè nhưng lại thấy mùi nước sôi, khi ăn đến miếng bột nếp thì đó không phải bột nếp mà là thứ gì tôi không biết rõ. Nhưng tôi hoàn toàn không khinh miệt sự nghèo hèn đó. (Tôi không nghĩ rằng món chè đó dở và còn cảm động trước sự tận tâm của bà mẹ già. Nếu như tôi có chút cảm giác gì sợ hãi với sự nghèo hèn thì cũng không phải là sự khinh miệt). Chính nhờ vào chén chè đậu đỏ và sự vui mừng của Horiki trước chén chè đó mà tôi thấy được bản tính tằn tiện của người kinh đô, cũng như thực cảm được một gia đình ở Tokyo, nơi mà con người ta hành xử khác hẳn nhau khi ở trong nhà và khi ra đường. Tôi chán chường với cảm giác mình chỉ là một thằng ngu chạy trốn cuộc sống con người, không đủ khả năng để phân biệt cách ứng xử trong nhà và ra ngoài đường, ngay cả gã Horiki này cũng muốn vứt bỏ mình nữa. Tôi vừa cầm chiếc đũa son đã phai màu vừa thấy mình cô đơn vô hạn.

          "Xin lỗi nhé, hôm nay mình có việc bận rồi".

          Horiki đứng dậy, vừa mặc áo khoác vừa nói.

          "Xin lỗi nhé, tớ phải đi đây".

          Đúng lúc đó có một người con gái đến thăm Horiki. Vận mệnh tôi chuyển xoay nhanh chóng.

          Horiki đột nhiên trở nên xởi lởi.

          "À, xin lỗi nhé. Tôi cũng đang dự định đến chỗ chị đây. Vậy mà bỗng nhiên chị lại đến tìm. Không sao cả đâu. Mời chị vào nhà".

          Tôi lấy chiếc đệm ngồi dưới chân, lật úp lại và đưa cho Horiki. Dường như có vẻ vội vàng, Horiki giật lấy tấm đệm ngồi và lật úp lại một lần nữa, đưa cho cô gái. Trong phòng, ngoài chiếc đệm ngồi của Horiki chỉ còn lại độc nhất một chiếc dành để tiếp khách mà thôi.

          Người con gái cao và gầy. Chỉ tựa vào một bên mép chiếc đệm. Nàng ngồi nơi góc phía gần cửa ra vào.

          Tôi mơ hồ lắng nghe câu chuyện giữa hai người. Hình như nàng làm cho một tạp chí, nhờ Horiki vẽ tranh minh họa hay gì đó và hôm nay đến lấy thì phải.

          "Việc cần lắm ạ".

          "Xong rồi, vẽ xong từ lâu rồi đấy. Đây này".

          Điện báo chợt đến.

          "Hãy về nhà ngay. Tôi đến đón cậu cũng được nhưng bây giờ đang có việc bận. Bỏ nhà ra đi à? Sao nhẹ dạ quá thế?"

          "Nhà cậu ở đâu vậy?"

          "Dạ, ở Okubo ạ", tôi đáp ngay không cần suy nghĩ.

          "Vậy thì gần chỗ công ty tôi đấy".

          Chị nói với tôi là mình sinh ra ở Koshu, năm nay hai mươi tám tuổi. Hiện chi đang sống ở một căn hộ ở Koenji cùng với đứa con gái năm tuổi. Chồng chị chết đã ba năm nay.

          "Có vẻ như em trải qua một tuổi thơ không hạnh phúc. Em lại nhạy cảm nữa. Thật tội nghiệp em".

          Thế là tôi bắt đầu cuộc sống như một gã chồng hờ. Sau khi Shizuko (tên người nữ ký giả này) đi làm ở một tòa soạn báo khu Shinjuku, tôi cùng với cô con gái Shigeko năm tuổi của chị ở lại trông nhà. Cho đến lúc đó thì mỗi lần mẹ vắng nhà, cô bé đều chạy đến chơi ở phòng của người quản lý khu chung cư nhưng bây giờ có một chú "nhạy cảm" đến chơi cùng nên cô bé vui thích lắm.

          Tôi lơ ngơ ở đó chừng khoảng một tuần. Nơi hàng dây điện gần sát cửa sổ có một con diều hình cô gái bị mắc dây rách nát bụi bặm bay phần phật trong gió xuân nhưng vẫn bám chắc lấy sợi dây điện, không chịu buông như thể gật đầu khẳng quyết điều gì đó. Mỗi lần nhìn ra, tôi đều cười khổ rồi đỏ mặt lên, nó còn ám ảnh tôi ngay cả trong nữa.

          "Em muốn có tiền".

          "Bao nhiêu chứ?"

          "Muốn nhiều. Người ta nói "tiền hết thì tình cũng phai" là sự thật đó".

          "Thật ngớ ngẩn và cổ hủ nữa".

          "Vậy à? Chị không hiểu đâu. Cứ thế này em sẽ bỏ trốn đấy".

          "Vậy chứ ai nghèo đây? Rồi ai bỏ trốn đây? Ngốc nghếch quá".

          "Em muốn mua rượu và thuốc lá bằng chính tiền của mình cơ. Nếu ma về vẽ thì em hơn đứt Horiki nhiều đấy".

          Lúc ấy tự nhiên trong tâm trí tôi hiện lên bức hình chân dung tự họa vẽ thời trung học mà Takeichi gọi là "ác ma". Một kiệc tác bị đánh mất. Mặc dù bức tranh này bị mất đi sau nhiều lần dọn nhà nhưng tôi cảm giác chắc chắn đây là một bức tranh tuyệt tác. Cho dù sau đó tôi đã vẽ rất nhiều tranh nhưng so với tuyệt phẩm trong trí nhớ chúng đều không bằng được và tôi lúc nào cũng có cảm giác mất mát một thứ gì đó lớn lao, như thể ngực mình bị trống rỗng đi vậy.

          Một ly rượu áp-xin còn để lại.

          Tôi thầm hình dung về cảm giác mất mát khó bù đắp này như thế. Mỗi lần nói chuyện về hội họa, ly rượu áp-xin còn lại đó lại hiện lên trước mắt tôi. Và bất chợt ý muốn cho người đàn bà xem bức tranh đó, làm cho chị tin vào tài năng của tôi, chợt đốt tâm can.

          "Này, sao vậy em? Mặt mũi nghiêm trang thế kia mà nói đùa được, thật là dễ thương".

          Tâm tư tôi xoay chuyển bao ý nghĩ không phải đùa đâu, thật đó, tôi muốn chị xem bức tranh kia rồi bất chợt chán nản bỏ cuộc.

          "Tranh hoạt họa ấy. Ý em muốn nói là nếu vẽ truyện tranh em giỏi hơn Horiki nhiều".

          Vậy đó, khi giở ngôn ngữ hoạt kê của thằng hề để lừa người ta thì trái lại làm cho người ta tin tưởng chân thành.

          "Đúng vậy, chị cũng cảm động lắm. Xem những tranh hoạt họa em vẽ cho Shigeko, chị cũng phải bật cười đấy. Hay là em thử vẽ xem sao nhé? Chị nói một tiếng nhờ ông trưởng ban biên tập là xong ngay ấy mà".

          Nhà xuất bả này phát hành nguyệt san hàng tháng nhưng hầu như trẻ em chẳng mấy ai biết đến tên tuổi.

          ...Khi nhìn thấy mày, hầu như đàn bà ai cũng muốn làm một cái gì đó cho mày đến mức không chịu nổi... Mày lúc nào cũng nhút nhát và hài hước... Đôi khi mày tuyệt vọng tiêu trầm quá độ nhưng điều đó càng hấp dẫn đàn bà hơn...

          Shizuko thuyết phục và động viên tôi rất nhiều. Khi nghĩ đến tình cảnh phiền phức của một gã chồng hờ, tôi trở nên tuyệt vọng. Mặc dù tôi tâm niệm "tiền quan trọng hơn đàn bà" và ráng sức để có thể sống tự lập, thoát khỏi Shizuko, nhưng cuối cùng tôi rơi vào tình cảnh phải dựa dẫm vào nàng. Tôi được người đàn bà mạnh mẽ vùng Koshu này chăm lo đủ đường cho tôi từ sau khi tôi bỏ nhà ra đi và kết quả là tôi càng trở nên nhút nhát với Shixuko hơn.

          Dưới sự chủ trì của Shizuko, nàng mở một cuộc họp ba người gồm nàng, Horiki và ông cá bơn, cho rằng tôi đã bị toàn thể gia đình ở quê hương từ bỏ, và tôi đa trở thành chồng nàng "trước bàn dân thiên hạ". Rồi nhờ sự chạy vạy bôn tẩu của Shizuko, truyện tranh tôi vẽ kiếm được nhiều tiền hơn ngoài dự tưởng. Tôi dùng số tiền đó mua rượu và thuốc lá nhưng nỗi cô đơn vô vọng và u uất của tôi ngày càng đan kết lại. Tiêu trầm chồng chất tiêu trầm. Đến khi tôi vẽ truyện tranh "Những cuộc phiêu lưu của Kinta và Oita" thì chợt nhớ cố hương và cảm thấy mình cô đơn vô hạn, cầm bút cũng không nổi nữa, cứ gục đầu trên trang giấy trắng mà ứa nước mắt ra.

          Đối với tình cảnh của tôi mà nói, lúc bầy giờ giúp tôi được chút gì chỉ có bé Shigeko. Con bé chẳng câu nệ phép tắc gì, cứ gọi tôi là "cha".

          "Cha này, có phải mình cầu nguyện điều gì thì thần linh cũng ban cho phải không ạ?".

           Tôi nghĩ chính mình cũng muốn nguyện cầu đây. Aaa, cầu Trời ban cho ta ý chí lạnh như băng, cầu Trời cho ta biết được bản tính của "con người". Người chèn ép người phải chăng là tội lỗi. Cầu Trời ban cho ta chiếc mặt nạ của sự giận dữ thù hằn.

          "Ừ, đúng đấy. Đối với bé Shige thì ước gì Trời cũng cho đấy. Còn đối với cha thì chắc không được đâu".

           Tôi sợ hãi ngay cả thần linh. Tôi không tin vào lòng tin yêu của các vị thần mà chỉ tin vào sự trừng phạt của họ mà thôi. Tín ngưỡng. Tôi cảm thấy đó chỉ như một tòa án mà ta đứng gục đầu chờ nhận roi vọt của thần linh. Tôi có thể tin vào địa ngục chứ không thể nào mà tin vào Thiên đường cho được.

          "Tại sao lại không được ạ?"

          "Vì đã không nghe lời mẹ cha".

          "Vậy à? Sao con nghe mọi người đều nói cha rất rốt cơ mà?"

          Đó chỉ là câu mọi người trong khu chung cư này nói lừa con bé để biểu thị hảo ý với tôi mà thôi. Tuy nhiên, tôi không thể nào giảng giải cho con bé hiểu là tôi sợ mọi người như thế nào, tôi càng sợ thì càng được người ta thích, và càng được thích thì lại càng sợ nên cuối cùng phải xa lánh mọi người. Cái bệnh bất hạnh ấy thiệt vô cùng nan giải.

          "Shigechan này, vậy con muốn cầu thần linh điều gì?"

          Tôi chuyển đề tài.

          "Shigeko à? Shigeko muốn cha thật sự của mình quay về cơ".

          Tôi choáng váng, tai ù mắt hoa. Kẻ thù à? Mình là kẻ thù của Shigeko? Hay Shigeko là kẻ thù của mình? Ở đây cũng có một người đáng sợ uy hiếp mình. Tha nhân, tha nhân không thể hiểu, tha nhân đầy bí mật. Đột nhiên tôi thấy gương mặt của Shigeko phản chiếu những điều đó.

          Tôi đã nghĩ chỉ có Shigeko là an toàn vậy mà con bé này đã cho tôi thấy cảnh "đuôi con bò đập chết con mòng hút máu trong lúc vô tình". Tôi biết từ giờ trở đi mình cũng phải sợ hãi ngay cả chính con bé này nữa.

           "Kẻ háo sắc sát gái có ở nhà không đấy?".

          Gã Horiki hình như đến thăm tôi thì phải. Ngày tôi bỏ nhà ra đi, hắn đã làm cho tôi buồn đau cơ khổ đến mức đó nhưng tôi vẫn không tạ tuyệt hắn mà còn mỉm cười ra chào đón.

          "Nghe nói truyện tranh của cậu ngày càng được người ta yêu thích đấy nhỉ. Tất nhiên không thể so với bọn amateur, bọn chúng chỉ có cái dũng của kẻ thất phu không biết sợ là gì. Tuy vậy. Cũng phải cẩn thận. Cái kiểu vẽ phác họa của cậu vẫn chưa là gì đâu".

          Hắn nói với thái độ như thể là thầy dạy tôi vậy. Tôi vừa buồn bực nghĩ thầm nếu ình cho gã này xem bức tranh "ác ma" của mình thì không biết cái vẽ mặt hắn sẽ như thế nào đây.

          "Đứng nói những lời như thế chứ. Tớ sẽ khóc thét lên đấy", tôi nói.

          Horiki càng lúc càng đắc ý.

          "Nếu chỉ dựa vào tài năng để kiếm sống thì sẽ có ngày đói rách thôi".

          Tài năng kiếm sống ư. Mình ngoài nỗi thống khổ ra thì còn có gì nữa chứ. Tài năng kiếm sống của mình à? Tuy nhiên cái việc sợ người, tránh người và lừa người như bản tính mình đây chẳng phải là tuân thủ theo pháp xử thế giảo hoạt của câu nói "không dây vào việc người thì họa không kéo đến" là gì? À á, cả mình và hắn hai bên đều hiểu lầm nhau, cả hai xem nhau như người bạn thân duy nhất rồi một đời không hề nhận ra sự hiểu lầm ấy, đến khi có một kẻ chết thì kẻ kia sẽ khóc lóc mà đọc điếu văn chăng?

          Có chuyện gì đây (chắc là do Shizuko ép hắn nên hắn mới miễn cưỡng nhận lời nhờ vả đây mà). Gã Horiki nghĩ hắn là nhân chứng trong vụ tôi bỏ nhà ra đi nên cứ nghĩ mình là đại ân nhân của tôi, đôi khi lại hành xử như một kẻ đã mai mối vợ chồng cho tôi vậy, nói với tôi những lời thuyết giáo với vẻ mặt vênh váo. Có nhiều lần hắn sau rượu, ghé nhà tôi ngủ rồi sáng dậy mượn năm yên (lúc nào cũng là năm yên) mà đi mất.

          "Tuy nhiên chuyện gái gú của cậu nên dừng lại được rồi đấy. Nếu làm quá, thế gian sẽ không dung tình đâu".

          Thế gian cụ thể là gì đây? Là số nhiều của con người chăng? Cái thực thể của thế gian nằm ở đâu kia chứ? Cho đến bây giờ tôi sống mà cứ nghĩ thế gian toàn là một cái gì đó cường liệt, khắc nghiệt và vô cùng đáng sợ. Khi nghe Horiki nói câu ấy, bất chợt tôi buột miệng:

          "Thế gian chẳng phải là cậu hay sao kia chứ?"

          Câu nói ấy đã phát ra đến đầu lưỡi nhưng vì ngại làm cho gã Horiki nổi giận nên tôi đành nuốt xuống.

          (Thế gian sẽ chẳng dung tình đâu.

          Chẳng phải thế gian. Chính là mi không tha thứ ấy chứ.

          Nếu lại tái phạm, thế gian sẽ cho mày biết tay.

          Chẳng phải thế gian. Là mi đấy chứ.

          Bây giờ thế gian đã chối bỏ mi.

          Chẳng phải thế gian. Là mi chối bỏ đấy chứ)

          Mi hãy biết về nỗi sợ của chính mi, sự quái đản, sự tàn ác, tính cáo già, tín phù thủy... Những từ đó lần lượt trôi qua tâm trí tôi nhưng tôi chỉ lấy khăn tay mà lau mồ hôi mặt rồi cười nói:

          "Cậu làm tớ toát mồ hôi lạnh này".

          Tuy nhiên từ đó trở đi tôi giác ngộ một tư tưởng là "cái gọi là thế gian chẳng phải là con người cá nhân hay sao?"

          Khi nghĩ ra được phải chăng thế gian cũng chỉ là cá nhân thôi thì tôi mới bắt đầu có ý chí để làm việc nhiều hơn trước. Mượn lời nói của Shizuko thì tôi đã trở nên ích kỷ hơn một chút, không còn nhút nhát sợ hãi nữa. Và nếu như mượn lời nói của Horiki thì tôi trở nên bủn xỉn vô cùng. Con như bé Shigeko nói thì tôi không còn là người dễ thương đối với bé nữa.

          Mỗi ngày tôi tịnh khẩu, không cười không nói, vừa chăm lo cho bé Shigeko vừa vẽ không ngừng những loạt truyện tranh như "Cuộc phiêu lưu của Kinta và Ota", rồi bắt chước mẫu "Người cha vui vẻ" mà sáng tác ra truyện "Hòa thượng vô lo", rồi thì "Bé Pin nóng nảy" theo sự đặt hàng của các nhà xuất bản (Có những nhà xuất bản khác với chỗ Shizuko làm nhưng đều kém tiếng hơn chỗ Shizuko, có thể gọi là những nhà xuất bản hạng bét vậy). Tôi cứ từ từ vẽ với tâm trạng đầy u uất (cách vận bút vẽ của tôi rất chậm) chỉ để kiếm tiền uống rượu thôi. Khi Shizuko đi làm về, tôi giao hết cho nàng rồi đi ra ngoài, đến một quán rượu gần nhà ga Koenji hay đến quán bar[4] mà uống thứ rượu mạnh rẻ tiền. Đến khi tâm trạng trở nên vui vẻ hơn một chút, tôi mới quay về nhà.

[4] Nguyên văn Sutandoba (スタンドーバー), tức là phiên âm của từ stand bar, một dạng quán bar nhỏ chỉ có chỗ ngồi nơi quầy bar uống rượu.

          "Càng nhìn càng thấy khuôn mặt em kỳ lạ. Em có biết khuôn mặt của hòa thượng vô lo là anh vẽ từ khuôn mặt em lúc đang ngủ không?"

          "Gương mặt em khi ngủ trông già quá thể. Như gã đàn ông bốn mươi tuổi ấy".

          "Tại em hết. Em làm anh kiệt quệ. Đời là dòng sông, ta trôi như con thuyền, chống chèo dọc ngang xa mấy xa. A, bờ sông có cành liễu đứng rủ buồn".

           "Thôi đừng quậy nữa, ngủ sớm đi anh. À anh có muốn ăn cơm gì không?"

          Nàng rất bình tĩnh, chẳng coi lời nói của tôi vào đâu.

          "Có rượu nữa thì được đấy. Đời là dòng sông, ta trôi như con thuyền. Dòng người này, à không, dòng đời này đưa thân ta về đâu".

          Tôi vừa hát ngêu ngao vừa để cho Shizuko cởi quần áo cho, rồi sau đó rúc đầu vào ngực nàng mà ngủ. Đó là thói quen thường ngày của tôi.

Rồi từng ngày trôi qua, những chuyện lặp lại mãi

Cứ theo ngày cũ, theo tập quán cũ đừng đổi thay chi

Nếu tránh đi ngay cả niềm vui mãnh liệt

Thì nỗi buồn lớn lao cũng chẳng ghé thăm

Nơi tảng đá chắn ngang đường lạ

Một con cóc nhảy lượn vòng qua

          Khi tôi đọc bản dịch đoạn thơ này của Guy-Charles Cros do Ueda dịch, mặt tôi đỏ bừng hổ thẹn.

          Con cóc.

          (Đó chính là tôi. Không phải chuyện thế gian tha thứ hay không, bị chối bỏ hay không mà vấn đề tôi là một con vật còn hèn kém hơn cả chó mèo. Một con cóc. Cử động khềnh khàng chậm chạp).

          Tửu lượng tôi càng lúc càng tăng. Không chỉ dừng lại vùng gần ga Koenji nữa mà tôi còn làng thang đến Shinjuku, Ginza mà uống, ngủ lang bạt ở ngoài, không tuân thủ "phép tắc, tập quán" gì nữa. Ở quán bar tôi hành xử như tên vô lại, hôn hít mấy em ngồi kế bên, nghĩa là tôi đã trở nên một tên tửu đồ hoang dã, đê tiện như ngày trước, mà không, hơn ngày xưa nữa. Cùng quẫn tiền bạc, có lần tôi mang cả quần áo của Shizuko mà đi cầm nữa.

          Từ khi tôi dọn đến đấy, nhìn con diều rách nát mà cười đã hơn một năm rồi. Một ngày, khi những đóa hoa anh đào rụng rơi và những lá xanh đã nhú, tôi lại lén mang dây lưng và quần áo trng của Shizuko đến tiệm cầm đồ lấy tiền đến khu Ginza mà uống rượu. Sau khi lang bạt ngủ hai đêm liền ở ngoài, đến đêm thứ ba do mệt mỏi, theo quán tính tôi lại lê bước về nhà. Đến trước cửa phòng Shizuko, tôi chợt nghe tiếng hai mẹ con nói chuyện với nhau.

          "Tại sao cha lại uống rượu vậy?"

          "Không phải cha con uống rượu vì nghiện rượu đâu. Bởi vì cha con là người rất tốt, bởi vì..."

          "Vậy người tốt thì cứ phải uống rượu hả mẹ?"

          "Không phải đâu nhưng mà..."

          "Cha chắc sẽ ngạc nhiên lắm đấy nhỉ".

          "Chắc cha con sẽ không ưa đâu. Coi kìa, nó nhảy ra ngoài hộp rồi".

          "Giống y chang như bé Pin nóng nảy vậy mẹ nhỉ".

          "Ừ nhỉ".

          Tôi nghe tiếng cười đầy hạnh phúc của Shizuko. Khi mở hé cửa nhìn vào trong tôi thấy một con thỏ tráng nhỏ. Nó cứ chạy nhởn nhơ quanh căn phòng còn hai mẹ con Shizuko thì đuổi theo bắt lại.

          (Hạnh phúc thực sự là hai mẹ con này đây. Một kẻ ngu ngốc như mình chen vào giữa thế là cuộc đời hai người tán loạn cả lên. Một hạnh phúc thật giản dị. Hai mẹ con thật tuyệt vời. Nếu thần linh cũng nghe thấy lời nguyện cầu của một kẻ như tôi thì xin một lần, một lần trong đời thôi Người hãy ban cho tôi biết thế nào là hạnh phúc).

          Tôi nguyện cầu với tâm trạng như thể mình đang quỳ xuống chắp tay vậy. Rồi tôi nhẹ nhàng đóng cửa, đi đến khu Ginza và từ đó trở đi không bao giờ quay về căn nhà đó nữa.

          Tôi quyết định đến một quán bar gần khu Kyobashi. Trên tầng hai của quán bar này, tôi lại làm một gã chồng hờ, nằm dài cho qua ngày tháng.

          Thế gian. Tôi cảm giác như mình có thể bắt đầu lờ mờ hiểu về nó. Trong sự ganh đua giữa các cá nhân, trong cuộc tranh giành ấy, chiến thắng là tất cả. Con người không bao giờ phục tùng con người. Ngay cả kẻ nô lệ cũng biết ăn miếng trả miếng ti tiện theo kiểu nô lệ. Nếu không dựa vào sự thắng bại của cuộc ganh đua, thì công phu để sống còn không hiển lộ. Người ta rêu rao đại nghĩa, nhưng mục tiêu của sự nỗ lực chắc chắn phải là cá nhân, cá nhân vượt lên trên cá nhân. Cho nên sự nan giải của thế gian cũng chính là sự nan giải của cá nhân. Đại dương không phải là thế gian mà chính là những cá nhân. Khi hiểu được vậy tôi cảm thấy mình phần nào được giải phóng khỏi nỗi sợ hãi trước huyễn ảnh thế gian như biển lớn. Cách cư xử của tôi đã trở nên dày dặn hơn một chút, không còn suy nghĩ lo lắng vô độ như trước nữa mà chỉ hành động ứng với tình hình hiện tại thôi.

          Sau khi chối bỏ căn nhà nơi Koenji, tôi tìm đến quán bar ở khu Kyobashi và nói với má mì:

          "Tôi đã chia tay nàng và tìm đến đây".

          Tôi chỉ nói vậy và vậy là đủ rồi. Thắng bại của trường tranh đấu đã được quyết định. Từ đêm đó, tôi cứ mặt dày ngủ lại nơi tầng hai của quán bar. Cái "nhân gian" đáng sợ kia không gây hại gì cho tôi cả còn tôi thì chẳng cần biện minh gì thêm. Chừng nào má mì còn ưa tôi thì chừng đó tất cả đều xuôi chèo mát mái.

          Tuy thế "nhân gian" không một chút mảy may nghi ngờ trước sự hiện diện chắc chắn là quái dị của tôi. Tôi vừa như một vị khách của quán, vừa như ông chủ, vừa như thằng giúp việc, vừa như người thân thích của quán vậy. Những người khác cứ gọi tôi là "Yochan, Yochan", đối xử với tôi rất tử tế và còn mua rượu cho tôi uống nữa.

          Đối với cuộc đời, dần dần tôi chẳng dụng tâm gì nữa. Tôi nghĩ rằng cái gọi là cuộc đời cũng chẳng đáng sợ đến thế. Có nghĩa là cảm giác sợ hãi của tôi cho đến bây giờ như hàng vạn con vi khuẩn ho mãn tính sinh sản trong gió xuân, như vạn con vi trùng đục mắt tiềm phục trong nước ấm, như vạn con vi khuẩn gây hói đầu nơi tiệm hớt tóc, như những vi trùng gây ngứa lúc nhúc trên vòng da cầm tay trên tàu điện, như ấu trùng sán trong sashimi và thịt bò nướng tái, như sán lá gan náu mình trong trứng, như mẩu kính vỡ đâm sau gót chân khi đi dạo bộ bằng đôi chân trần, rồi run sợ theo lý thuyết của "mê tín khoa học" rằng mẩu kính đó sẽ theo đường máu tàn phá cơ thể, đục hư mắt và làm ta mù vĩnh viễn. Hàng vạn con vi khuẩn đang trôi nổi, ngoe nguẩy khắp nơi đó là điều chính xác "theo khoa học". Đồng thời với điều này thì chỉ cần mặc xác sự tồn tại của chúng, coi chúng như chẳng có liên quan gì đến ta, thì ngay lập tức ta có thể làm chúng biến mất xem đó chỉ như là một "bóng ma của khoa học" mà thôi. Tôi biết là như vậy. Những chuyện như là mỗi ngày ăn cơm hộp chỉ cần chừa lại ba hạt cơm như vậy thì lãng phí biết bao nhiêu gạo mà kể; hay mỗi ngày mỗi người tiết kiệm một chiếc khăn giấy chùi mũi thôi thì sẽ tiết kiệm được bao nhiêu bột giấy... Những cái "thống kê khoa học" như vậy làm tôi sợ rúm cả người. Mỗi ngày ăn cơm còn chừa lại một hạt, hay mỗi lần hỉ mũi, tôi đều khổ đau với cái ảo tưởng mình đã lãng phí một núi gạo hay một núi bột giấy rồi u uất buồn đau như đã phạm phải một tội lỗi tày đình. Thế những với cái "dối trá khoa học", "dối trá thống kê", "dối trá toán học" đấy đâu thể mà gom ba hạt gạo của mọi người được. Cho dù ứng dụng toán nhân toán chia vào những chủ đề đơn giản nguyên thủy nhất như một người cứ mấy lần bước vào nhà vệ sinh tăm tối do mất điện thì có một lần bước hụt vào bồn cầu, hay xác suất bao nhiêu phần trăm người bị lọt chân xuống khoản giữa tàu điện và bậc thềm nhà ga... Những tính toán xác suất ngớ ngẩn như vậy cho dù có xảy ra đi chăng nữa, thì tôi cũng chưa bao giờ nghe thấy chuyện có người bị thương vì lọt chân xuống bàn cầu cả. Những giả thuyết đó được dạy cho chúng ta như những "sự thật khoa học" rồi chúng ta chấp nhận hoàn toàn không hồ nghi. Khi dần dần từng chút biết được thực thể của thế gian này, tôi thấy tội nghiệp cho mình đã sợ hãi cho đến bây giờ, và tự dưng muốn cười lên sằng sặc.

          Dù nói vậy nhưng cái gọi là "nhân gian" vẫn làm tôi sợ hãi. Tôi chỉ tiếp xúc được với những người khách trong quán sau khi đã uống một ly rượu mạnh mà thôi. Ham muốn xem những cái đáng sợ đã khiến tôi mỗi tối xuống quầy bar, uống rượu với khách say sưa thậm chí còn cao đàm khoát luận nửa mùa về nghệ thuật. Điều này cũng giống như con trẻ sợ con vật gì thì ngược lại càng nắm nó chặt hơn[5].

[5] Cũng vậy, trẻ con càng sợ ma thì càng thích nghe chuyện ma.

          Họa sĩ truyện tranh. Đúng, nhưng tôi chỉ là một họa sĩ truyện tranh vô danh không có cả niềm vui bất tận lẫn nỗi sầu khổ lớn lao. Mặc dù trong tâm tư tôi luôn mong muốn có một niềm vui lớn lao phóng khoáng để rồi chịu đựng nỗi buồn dai dẳng về sau này cũng được nhưng cuối cùng hiện tại niềm vui của tôi chỉ là nói chuyện tào lao với khách và uống rượu của họ mà thôi.

          Từ khi đến Kyobashi, tôi tiếp tục cuộc sống vô vị như vậy gần một năm. Truyện tranh tôi vẽ không những đăng trên những tạp chí dành cho trẻ con mà còn đăng tải trên những tạp chí khiêu dâm dành cho người lớn bán đầy nơi nhà ga. Lấy một bút hiệu nặc danh ngỗ nghịch là Joshi Ikita (Thượng Ty Kỷ Thái)[6], tôi vẽ hình đàn bà khỏa thân tục tĩu và chèn vào đó những bài thơ tứ tuyệt Rubaiyat:

                    Chính nghĩa, lý tưởng cuộc đời này

                    Nơi chiến trường máu chảy nát thây

                    Và đầu mũi dao kẻ thích khách

                    Chính nghĩa đâu nào cho tôi hay

                    Rượu tràn tim ta đầy niềm vui

                    Sáng nay thức dậy bỗng bùi ngùi

                    Hoang lương chợt đến sau đêm cũ

                    Tỉnh rượu, mọi chuyện đều đổi thay

                    Cảm giác tuyệt vời ta bước đi

                    Tìm trong nhân tính nỗi chung gì

                    Nhưng sao bên cạnh bao kẻ khác

                    Ta thấy đời ta đứng bên lề

                    Có lẽ ta đọc sai Thánh Kinh

                    Hay không trí huệ với thường tình

                    Nếu buông bỏ rượu với nữ sắc

                    Thử hỏi làm sao ta tái sinh?

[6] Lối chơi chữ trong nguyên tác rất thú vị "Thượng ty kỷ thái" 上司幾太 đọc là "Joshi ikuta" gần trùng âm với chữ "Tình tử sinh" 情死生きた có nghĩa là "đã tự sát vì tình nhưng còn sống sót".

          Tuy vậy, thời gian này cũng có một cô gái khuyên tôi bỏ rượu.

          "Mỗi ngày say xỉn từ trưa đến tối là không được đâu anh".

          Đó là một cô gái chừng mời bảy, mười tám tuổi bán thuốc lá trong một cửa tiệm nhỏ đối diện quán bar. Nàng tên Yoshiko, nước da trắng trẻo và có cái răng khểnh dễ thương. Mỗi lần tôi ghé mua thuốc lá nàng đều cười và khuyên nhủ như vậy.

          "Tại sao không được? Có gì xấu xa đâu. Rượu trân ai gội niềm cay đắng, làm tiêu tan u sầu đấy. Người Ba Tư ấy, từ xưa nhé, đã biết thứ bồ đào mỹ tửu làm cho con người say sưa, mang lại hy vọng cho những con tim khổ đau trần thế. Bé có hiểu không?"

          "Em không hiểu".

          "Con bé quê mùa này. Anh hôn em một cái nhé".

          "Hôn đi".

          Nàng thè lưỡi ra ngay không do dự sợ hãi gì.

          "Con bé quê mùa ngu ngốc này. Quan niệm trinh tiết để đâu thế hở?"

          Tuy nhiên, từ cách thể hiện của nàng tôi biết nàng còn là xử nữ, chưa trao thân mình cho ai cả.

          Năm mới sang, vào một đêm lạnh giá, tôi say rượu bước ra ngoài mua thuốc lá, vấp ngã xuống cái cổng trước cửa tiệm rồi rồi gọi "Yoshichan, ra giúp anh với" thế là Yoshichan chạy ra nâng tôi dậy, đưa tôi vào nhà. Vừa băng bó cánh tay phải cho tôi, nàng vừa rầu rầu nói "uống quá nhiều mà".

          Mặc dù tôi thấy cái chết cũng bình thường thôi nhưng mà bị thương rồi máu chảy đầm đài, trở thành kẻ tàn phế thì thực tình tôi không mong muốn chút nào nên vừa để Yoshiko băng bó vết thương nơi tay tôi vừa nghĩ thôi mình nên bỏ rượu là vừa.

          "Anh sẽ bỏ rượu. Từ ngày mai anh không đụng đến một giọt".

          "Thật không đấy".

          "Chắc chắn anh sẽ bỏ rượu. Nhưng nếu vậy thì Yoshiko phải làm vợ anh nhé?"

          Tất nhiên chuyện làm vợ chỉ là lời nói đùa thôi.

          "Nhiên rồi".

          Nhiên rồi là nói tắt của từ "đương nhiên". Mấy cậu trai, cô gái trẻ "hiện đại" thời bấy giờ hay dùng những từ tắt như vậy.

          "Được rồi. Ngoéo tay nào. Chắc chắn anh sẽ bỏ rượu đấy".

          Và rồi ngày hôm sau, tôi lại bắt đầu uống say từ trưa.

          Đến tối, tôi lảo đảo bước ra ngoài đến trước cửa tiệm của Yoshiko.

          "Yoshichan à, xin lỗi em, anh lỡ uống rồi".

          "Ghét quá, anh cứ giả vờ như anh đã uống say không bằng".

          Tôi giật mình, cảm thấy tỉnh rượu hẳn.

          "Không, thật đấy. Anh đã uống rượu thật đấy. Không phải là anh giả vờ say xỉn đâu".

          "Đừng đùa với em nữa. Anh thật tệ".

          Nàng không mảy may nghi ngờ một chút nào.

          "Em ra xem sẽ thấy ngay thôi. Hôm nay anh uống say từ trưa đấy. The lỗi cho anh nghen".

          "Anh diễn kịch hay quá nhỉ".

          "Không phải diễn kịch đâu. Ôi cô gái quê mùa thơ dại, Anh hôn em nhé".

          "Hôn đi".

          "Không, anh là kẻ chẳng có tư cách gì. Em đừng lấy anh mà làm chi nữa. Nhìn mặt anh xem này. Đỏ bừng đấy. Là anh đã uống rượu, hiểu chưa?"

          "Đó là tại mặt trời chiếu vào mới thế chứ. Đừng lừa em nữa. Chẳng phải hôm qua anh đã hứa rồi sao. Chắc chắn không uống nữa cơ mà. Chúng mình cũng đã ngoéo tay rồi mà. Anh nói đã uống rượu là nói dối, nói dối, nói dối".

          Nhìn gương mặt trắng trẻo của Yoshiko đang mỉm cười trong cửa tiệm tối tăm, tôi thấy thật tôn quý sự trinh trắng chưa biết gì đến dòng đời vẩn đục của nàng. Cho đến bây giờ, tôi chưa lần nào ngủ với một xử nữ trẻ trung hơn tuổi mình cả. Hãy cưới nàng đi thôi, rồi về sau chịu nỗi sầu khổ lớn lao nào cũng được. Niềm vui hoan lạc phóng khoáng chỉ cần trải nghiệm một lần trong dời cũng đủ. Cái vẻ đẹp trinh trắng kia tôi nghĩ chỉ là cảm giác huyễn hoặc của những thi nhân ngu ngốc, nào ngờ lại hiện diện nơi đây, giữa trần gian này. Cười nhau xong rồi, vào mùa xuân hai đứa đạp xe đi đến thác nước ngắm hoa lá rơi với dòng nước chảy. Có nghĩa là tôi đã quyết ý "một lần phân tranh thắng bại", không do dự gì cướp lấy đóa hoa kia.

          Vì thế hai chúng tôi kết hôn, và niềm vui tuy không lớn lao nhưng nỗi rầu buồn sau đó thì vượt quá mức tưởng tượng của tôi, đến mức có nói là "thê thảm" vẫn còn chưa đủ. Đối với tôi, cái thế gian này thật đáng sợ đến mức không thể nào tưởng nổi. Nó nhất quyết không phải là nơi mà mọi chuyện có thể quyết định dễ dàng chỉ bằng "một lần phân tranh thắng bại" như thế.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top