Thap van dai son vuong(hoi1-5)
Thập Vạn Đại Sơn Vương
Đánh máy: Long Minh, Tử Long
Nguồn: Vietkiem
Được bạn: ms đưa lên
vào ngày: 3 tháng 6 năm 2005
Hồi 1
Vượt Cỏ Phân Mao
Mặt trời từ từ hạ xuống thấp, cách ngọn núi Tây chừng nửa con sào. Sương mờ đã bắt đâu dâng lên, xoá dần những vùng nắng chiều loang lổ trên ngọn cây đỉnh dốc. Cả một miền biên giới hoang sơ quạnh vắng chìm mau trong ánh hoe vàng và vùng không gian cô tịch thỉnh thoảng lại dao động vì những tiếng gà rừng eo óc, buồn tênh. Đột nhiên, giữa cảnh im lìm của núi đồi biên giới, chợt bật lên nhưng tiếng động gấp gấp. Tiếng vó ngựa khua mạnh trên đường mòn sạo gợn, khô cằn, chuyển nhanh về nẻo biên giới Việt... chợt nổi, chợt chìm giữa hẻm núi. Thoáng cái trên đỉnh đèo cao ở phía biên giới, vụt nhô ra hai bóng người cưỡi ngựa, in vào nền trời úa hai hình thể lắc lư, sừng sững, trong nắng chiều.
Xuống tới chân đèo, hai người lại mải miết cưỡi ngang qua một giải thung lũng hẹp, vượt lên một ngọn đồi đất mới ngừng lại cách nhau chừng nửa đầu ngựa. Người trước là một ông già Việt, chừng ngót sáu mươi, mặt quắc thước, mắt sáng, râu năm chòm, khổ người béo lẳn ẩn sau bộ quần áo chàm xanh. Chân lão đi giày tàu vải, súng lục đeo ở hai bên sườn, bên trái giắt thềm một con dao thổ rừng bao khảm. Người cạnh sau là một người gốc Hoa tuổi khoảng bốn mươi, mắt diều hâu râu quai nón, mặt mũi coi có vẻ dữ tợn, nhất là có một vết sẹo chạy dài từ thái dương tới quai hàm trái, hằn lên như chiếc đũa, trắng bóng trên nền da sạm nắng. Người này cao lớn vạm vỡ, cũng mặc quần áo chàm xanh, đeo bên sườn một khẩu pạc hoọc lớn, vai lại còn khoác chéo một băng đạn và ngay bên yên ngựa còn giắt thêm một khẩu súng trận, ngoài ra còn hai cái sắc khá to buộc trên lưng ngựa ô. Cả hai người yên lặng trên yên, đảo mắt nhìn khắp vùng biên giới đầy bất trắc. Lát sau ông già Việt quay bảo người gốc Hoa:
- A Voòng à!
Đang mải nhìn về phía sau lưng, nghe bảo, hắn vội quay lại:
- Dạ đại vương...
Hắn chợt dừng phắt lại, chớp mắt nhìn ông già có dáng e sợ vì lỡ lời. Nhưng ông già chỉ hơi đưa mắt một cái đoạn chỉ tay về phía thung lũng trước đầu ngựa.
- Hình như đã tới vùng cỏ phân mao rồi thì phải? A Voòng Lầu!
Voòng nhìn theo, nói luôn:
- Dạ phải!
Ông già khẽ gật đầu, đoạn im lặng nhìn về nẻo đất Việt, đôi mắt trở nên bâng khuâng, sâu thẳm. Không thấy ông già nhúc nhích, Voòng Lầu cũng ngồi im nhưng thỉnh thoảng lại đảo mắt nhìn quanh mình, có vẻ nóng ruột... bồn chồn... Hắn khẽ lên tiếng:
- Thầy à! Ta vượt thôi, khỏi chờ tối.
Ông già quay nhìn người thuộc hạ, rồi lại quay về nẻo cũ, đứng im.
- Thầy à... Đây là đất nhiều giặc cỏ lắm. Ta không nên ở lâu...
Ông già chưa kịp trả lời thì đột nhiên, một tiếng súng từ phía trước mặt nổi lên, tiếp theo là từng loạt súng dồn dập tới. Hai người vội nheo mắt, lắng tai nghe:
- Tiếng súng từ bên kia biên giới. Nhiều tiếng pạc hoọc lắm. Có lẽ tụi giặc Thoòng...
Vừa nói, Voòng Lầu vừa nhích ngựa lên cạnh ông già. Hắn rút phắt trong sắc ra một cái ống nhòm nhỏ, trao cho ông già Việt. Lão hướng về phía súng nổ chát chúa quan sát, đoạn trao ống nhòm cho Voòng:
- Đánh nhau lớn. Có quân tuần chạm súng với thổ phỉ!
Tiếng súng vọng về mỗi phút một thêm nhiều, quật vào những vách đá, vang truyền đi, náo động. Ông già đảo mắt nhìn địa thế, đoạn xốc nhanh lại bao súng, chuyển tay cương:
- Để ta xuống xem sao?
Nhưng người thuộc hạ vội giơ tay cản:
- Để tôi! Thầy cứ đứng đây!
Dứt lời, hắn đánh ngựa xuống đường mòn, phóng về nẻo thung lũng có tiếng súng nổ. Trên ngọn đồi, ông già cho ngựa nhích khuất sau một cành lá um tùm và nhìn về phía thung lũng, đợi chờ, khuôn mặt như không có vẻ xúc cảm. Chỉ mươi phút sau, Voòng Lầu đã phóng ngựa về nói nhanh:
- Thầy ạ! Bọn giặc Thoòng. Bên kia hình như không phải lính tuần. Tôi nghe tiếng quát toàn tiếng Việt.
Ông già khẽ hất hàm:
- Bên nào bị đánh?
- Có lẽ bọn nào đó bị giặc Thoòng phục đánh. Bọn chúng đông lắm, phải đến hàng trăm.
Hai thầy trò lại im nghe. Tiếng súng dội lên và đột nhiên thưa dần. Ông già mím chặt vành môi, mắt thoáng như bốc cháy.
- Một bên tháo chạy rồi. Súng nổ đuổi về nội địa Việt, có lẽ Thoòng...
Đang nói, lão ngừng phắt và nói gọn:
- Xuống cả!
Như đã quen đoán những quyết định trong óc chủ, Voòng rút phắt súng trận cầm tay và thúc mạnh gót chân vào hông ngựa, cùng lúc, hai con vật chồm lên, và Voòng lao đi trước. Vó câu khua động rừng chiều, gấp gấp, vượt qua đường mòn liến về phía biên giới. Vào sâu nội địa Việt Nam, hai người cho ngựa băng rừng, vào một đường mòn vắt qua một hẻm núi đá dựng như thành. Vừa lúc đó, tiếng súng phía trước chợt thưa dần rồi im bặt. Đang đi, Voòng Lầu dừng phắt ngựa lại, ngoảnh mặt lại phía sau. Đánh ngựa lên sát bên Voòng, ông già Việt vội ghìm cương, lắng tai nghe đoạn đưa mắt nhìn quanh. Rừng chiều đã trở lại cảnh im lặng mênh mông và hoàng hôn đang đổ mau xuống vùng biên giới. Voòng chỉ tay xuống đường mòn đầy dấu chân ngựa giẫm nhầu cỏ dại:
- Quân Thoòng vừa kéo qua đây, a thầy! Chúng phục đánh ngay bên kia hẻm núi!
Ông già lặng lẽ cúi nhìn vùng cỏ nát dưới chân ngựa, đoạn ngoảnh mặt về phía trước:
- Súng im hẳn, chắc bọn chúng đang rút về nẻo khác rồi.
Người thuộc hạ vội trỏ hướng Tây Bắc chếch, đầu gật luôn mấy cái:
- Da.... da..... Lối đó có đường xuyên núi về Tàu gần lắm a thầy!
Ông già hơi gật đầu không đáp, liền giật mạnh tay cương cho ngựa tiến qua hẻm núi. Tới chỗ hai bên mở ra thoai thoải, ôm lấy một vùng cỏ nhàu nát loang lổ máu tươi, ông già quay bảo người bộ hạ:
- Đám bị phục đánh có lẽ bị tử thương nhiều, a Voòng!
Người bộ hạ đưa mắt nhìn những vung máu loang trên cỏ, chưa kịp nói, thì ông già đã tiếp luôn:
- Đón đường rút của bọn giặc Thoòng xem sao?
Hình như đã quen với những quyết định chớp nhoáng của người trên, Voòng vội đảo mắt một vòng quan sát nhanh địa thế đoạn thúc ngựa vượt lên trước, ra ngoài hẻm, phóng thẳng lên một ngọn đồi khá cao, ngay phía trước. Hai người ghé sát bên nhau, Voòng đưa tay chỉ trỏ về nẻo Tây Bắc, mấy khắc sau, hai con ngựa bỏ đường mòn, tắt qua thung lũng, quay đuôi lại hướng Nam, băng rừng xuyên sơn. Khi hai người đảo sâu vào nội địa chừng hai cây số, thì mặt trời đã gục hẳn xuống bên kia ngọn núi Tây từ lúc nào và những tia nắng tàn cũng tắt hẳn trên đỉnh dốc. Sương lam lên dày đặc và không gian đả bôi nhọ mặt người. Tới một vùng núi đồi trùng điệp, dựa lưng vào một thung lũng hẹp, Voòng Lầu dừng ngựa bảo ông già:
- Trước mặt đây là con đường về sào huyệt bọn Thoòng. Chắc chúng sẽ qua đây.
Ông già quan sát quanh mình, đoạn gật đầu bảo thuộc hạ:
- Chỗ này đắc địa lắm? Đường cách bao xa?
- Dạ, chỉ vài mươi thước thôi. Nếu ra nấp sườn hẻm có thể nhìn chúng qua trước mặt.
Ông già nhảy phắt xuống đất:
- Dắt ngựa buộc sau chỗ khuất. Nếu cần ta có thể luồn rừng, phục đánh chúng.
Voòng Lầu ngó chủ, hơi ngạc nhiên về ý định của ông già nhưng vẫn lanh lẹ xuống ngựa, tìm chỗ buộc, đoạn theo sau lão, súng trận cầm tay. Tới sườn núi thấp, hai người tìm chố hốc đá ẩn kín, ngay khúc ngoặt, cách đường trước mặt chỉ độ mươi thước. Bốn bề im lặng sâu thẳm. Sương bốc mau căng bóng đêm. Con đường mòn trước mặt chỉ còn là một vệt mờ ẩn hiện trong cảnh tranh tối tranh sáng. Và bóng tối sụp xuống, trùm hết núi rừng. Không có tiếng động nào khác ngoài tiếng lá rì rào lẫn tiếng trùng đêm rên rỉ. Ông già có vẻ nóng ruột:
- Sao lâu thế? Hay chúng không về đường này?
- Thầy khỏi lo. Tôi thuộc khắp miền, nó sẽ đi qua đây mà. Ta đi tắt, tới trước hàng nửa giờ đó, a thầy.
Ông già toan nói, chợt im. Như đáp lời Voòng, vừa khi đó, phía trước bỗng nổi lên tiếng vó câu khua rầm rập. Và không lâu, ánh lửa hắt lên sườn cây, rừng rực. Voòng Lầu thấp giọng:
- Giặc Thoòng! Hình như đông lắm!
Ông già không đáp, vẫn chăm chú nhìn về phía ánh lửa. Chỉ thoáng sau ánh lửa đuốc sáng rực đá ra khỏi bóng cây và hai thầy trò ông già đã trông thấy đám đông người ngựa lố nhố đi dưới ánh đuốc đỏ khè, tiến dần về phía hai người. Bọn giặc tới thật gần, cười nói líu lo, khi chúng tiến sát đến gần chỗ hai người nấp, thốt nhiên tên đi đầu giơ tay làm hiệu về phía sau, cho cả bọn dừng lại. Đoạn, tên đó chiếu đèn bấm loáng loáng khắp hai bên sườn núi, rồi mới ra hiệu cho đồng bọn tiến lên. Mấy chục tên thổ phỉ cưỡi ngựa đi trước chậm chạp tiến qua họng súng. Ông già ghé sát vào tai Voòng Lầu thì thầm hỏi:
- Chủ tướng chúng là tên nào? Có phải tên cưỡi ngựa đen không?
- Dạ không phải đâu! Chắc Thoòng đi phía sau.
Đang nói, chợt Voòng Lầu khẽ giật tay ông già:
- Thầy coi kìa!
Lúc đó, ông già mới nhận ra, có mấy tên dắt ngựa, trên yên có mấy người bị trói ngồi chặt. Mấy người đàn ông kẻ mặc âu phục, người quần áo thổ, thảy đều bị thương, mặt mũi lem lước Và sau tốp đàn ông, là một cô gái quần áo tả tơi, môi mím chặt, mắt sắc như dao, vẻ mặt khinh khi giận dữ. Thoạt nhìn, đã nhận thấy ngay cô gái có một vẻ đẹp lạ lùng. Tuy bị bắt trói ngồi trên lưng ngựa, cô gái không hề lộ vẻ gì sợ sệt và những nét kiêu hãnh bướng bỉnh vẫn toát ra từ khuôn mặt, dáng dấp khác thường. Ngay xế sau lưng thiếu nữ là một gã xạ phang râu xồm, mặt mũi trông dữ tợn ngang tàng, hai tay luôn luôn tung bắt hai khẩu pạc hoọc trông rất thiện nghệ. Sau gã, là đoàn ngựa thồ những bọc hàng lớn, kế là toán quân hậu tập. Cả bọn rầm rập tiến qua.
Tới giữa hẻm núi, gã xạ phang râu xồm tiến ngựa lên phía trên cô gái bị bắt, nói một tràng tiếng Quan Hỏa và đột nhiên xả luôn mấy phát đạn về phía hai bên sườn núi. Nấp sau gốc đá, Voòng Lầu khẽ bảo ông già Việt:
- Giặc Thoòng đó, a thầy!
Ông già hơi cười chậm rãi:
- Coi bộ thằng tướng thổ phỉ này đa nghi như Tào Tháo và kiêu ngạo về tay súng lắm!
- Dạ. Bọn lạc thảo khắp vùng này đều gọi nó là “Đại Vương Pạc Hoọc” mà!
- À ra thế!
Ông già Việt vừa buông lời, Voòng Lầu chỉ kịp thấy một cánh tay lão thoáng khoa lên trong bóng tối, ngọn súng đã lóc như chớp giật, nhìn ra đã thấy khẩu súng của tướng thổ phỉ vừa tung lên đã bị hắt rơi xuống chân ngựa, còn bàn tay hắn đang xòe ra bắt... không khí.
Tiếng súng từ hẻm núi bật lên, cả bọn giặc còn đang giật mình, đứng sững, chưa hiểu đầu đuôi, thì viên tướng rừng xanh đã vùng chột dạ, vừa thẹn, vừa tức, hắn đảo mắt nhìn lên và chỉa phắt tay súng trái toan xả vào chỗ phát ra tiếng súng. Nhưng tay hắn vừa vung lên, thì từ hang núi, một tia chớp lại lóe lên và bàn tay trái Thoòng bị đau dội thình lình như bị dùi đâm, khẩu pạc hoọc rụng luôn xuống đất.
Biết gặp địch thủ, tướng Thoòng vội lẩn xuống nấp sau sườn ngựa, miệng quát lớn:
- Có quân phục! Tắt đuốc đi!
Nhưng từ vách núi, từng loạt đạn đã xả xuống đám quân Thoòng, khiến mấy tên nghã gục luôn.
- Tắt đuốc mau!
Tiếng tướng Thoòng quát lớn, qua mấy giây bàng hoàng những ánh đuốc mới tắt phụt, bọn thổ phỉ bắt đầu phản ứng luôn, bắn xối xả vào chỗ hai người nấp.
- Vắt đầu, vắt đuôi lên sườn núi! Chúng bây! Quân phục không nhiều đâu! Mau lên!
Trong bóng tối giữa tiếng súng nổ đạn reo, tiếng viên tướng thổ phỉ khẽ rít lên truyền lệnh cho bộ hạ, gấp gấp. Nhưng sau hốc đá, tiếng súng đã im bặt. Và khi đám quân Thoòng từ các ngả đánh thốc lên, chỉ còn gặp hốc đá vắng không.
Ánh đuốc lại bật lên sáng rực cả một vùng. Tướng Thoòng ôm bàn tay bị đạn, nhìn những vỏ đạn rơi vãi khắp hốc núi, mắt giận muốn nảy lửa, răng nghiến chặt vào nhau:
- Chỉ có mấy đứa! Hừ chúng đã rút mất rồi! Tụi nào lớn gan thật!
Hắn đưa mắt vọ trừng nhìn đám bộ hạ xúm quanh và bất giác ngó về phía bọn người bị bắt. Vẫn ngồi trên lưng ngựa, thiếu nữ thấy bộ điệu của “Pạc Hoọc Đại Vương” chợt phá lên cười chế nhạo.
Thoòng giận sôi lên, toan rút súng ra, nhưng nghi thế nào, hắn lại cố nén, quay đi khoát tay ra lệnh cho bộ hạ lên đường. Cả toán lại noi theo lối đường mòn, len lỏi giữa rừng sâu, tay súng lăm lăm, mặt mũi lầm lì dưới ánh đuốc. Trong đêm rừng hoang vắng chỉ có tiếng vó ngựa khua trên mặt đá dăm. Thoòng đi giữa đám bộ hạ, mắt luôn đảo nhìn khắp vùng, tới chỗ hơi khả nghi là vội cho quân tiến trước dò xét cẩn thận rồi mới tiến. Cứ tới đoạn nào có vẻ hiểm địa một chút là Thoòng lại ra lệnh dập đuốc, cho bộ hạ bỏ đường mòn, băng rừng đi một quãng xa, rồi mới lại bắt vào đường. Đám giặc Thoòng mỗi lúc càng tiến sâu vào miền núi hiểm, không một bóng nhà sàn của thổ dân.
Khoảng ba giờ sau, bọn chúng tới một dãy núi đá. Khu đường mòn thắt lại như cổ chày, phía trước mở ra một thung lũng chạy khá dài, đưa vào một dãy núi điệp trùng, cao ngất dựng ngang suốt chân trời.
Có lẽ tới địa đầu sào huyệt rồi, nên tướng Thoòng cho bật đuốc thêm sáng rực, đoạn phóng ngựa ra phía cửa núi, hướng về nẻo núi dựng sau thung lũng, bắn luôn năm phát súng pạc hoọc. Từ phía xa, chợt nổi lên năm phát súng vang vọng trong đêm. Thoòng quay lại, hạ lệnh cho bộ hạ bịt mắt những người bị bắt lại. Bịt kín mắt đám người bị bắt xong, viên tướng thổ phỉ truyền bộ hạ lấy một cuộn thừng dài, buộc ngang lưng người nọ với người kia thành một hàng dọc, cách nhau chỉ vừa đầu ngựa. Xong, hắn mới ra lệnh tiến vào thung lũng, quân chia làm ba cánh, hai toán áp hai bên, còn Thoòng dẫn đầu toán giữa áp tải những người Việt bị bắt cùng tụi quân vừa bị thương.
Đám giặc cỏ cứ thế băng rừng, tiến sâu vào thung lũng. Ánh lửa bập bùng thiêu cháy từng vòng bóng tối. Mặt mủi thổ phỉ trở nên lầm lì, không một tiếng nói cười giữa rừng sâu quạnh vắng, chỉ còn nổi lên những tiếng vó câu rầm rập khua không đều trên mặt đất gồ ghề.
Thoòng ngồi yên trên ngựa, thânhình lực lưỡng lắc lư theo nhịp vó câu từng bước một, mắt lim dim ngủ gà ngủ vịt, có vẻ yên tâm đã có hai cánh quân tiến áp hai bên sườn cách đó không xa. Nhưng đột nhiên một tiếng súng nhỏ chợt nổ vang ngay phía cánh quân bên tả, tiếp theo đó liền nổ luôn mấy phát nữa. Viên tướng thổ phỉ mở choàng mắt ra, rút phắt súng cầm tay, đảo nhìn về chỗ súng nổ. Có tiếng quát tháo nổi lên và qua mấy khắc, từng loạt súng bật theo, loạn xạ. Thoòng chớp chớp mắt, chưa biết tính sao, thì mộl viên đạn đã réo xẹt mang tai, tiếng nổ ngay lên phía hữu cách đó chỉ chừng mười thước. Viên tướng thổ phỉ chỉ còn kip lăn xuống chân ngựa thì tiếng súng đã nổi lên. Đạn xoáy tới tấp vào đám quân áp tải, khiến hai ba tên chưa kịp xuống ngựa đã thét lên ngã dụi trên yên. Tướng thổ phỉ định thần nhận thấy ngay tiếng súng phát ra từ mấy cây cổ thụ um tùm gần đấy. Hắn vừa bắn xả về phía đó, vừa truyền bộ hạ ứng chiến, tìm chỗ nấp, đánh gọng kìm kẹp lại, và lửa đuốc lần này không cho tắt vì viên tướng giặc quen nghề xung trận, nghe tiếng súng, đoán rõ đó chỉ là một số ít tay súng gan dạ đánh luồn giữa mấy cánh quân hắn thôi. Trong lúc biến, mấy tên quân áp giải người bị bắt cũng tìm chỗ ẩn, những vẫn chĩa súng về bọn họ đề phòng. Cô gái và đồng bọn vẫn ngồi trên yên không nhúc nhích, lắng nghe đạn réo quanh mình.
Bị trói xâu vào một chuỗi, cô gái còn đang suy tính ngược xuôi, chợt cảm thấy nhẹ bỗng hẳn trước sau. Nàng vội kín đáo xoay trở mình mới biết dây thừng buộc xâu đã đứt, không còn bị ràng buộc với trước sau nữa, chỉ còn hai tay bị trói chặt, mắt bịt bưng không rõ địa hình. Cô gái nghiêng đầu lắng nghe và cố lấy dáng bình thản của người ngoài cuộc. Có lẽ nàng dự đoán vẫn có những họng súng của giặc chĩa vào mình. Nhân lúc súng nổ loạn xạ, cô gái vùng kêu rú lên, rướn người lên một cái và lảo đảo ngã xuống bờm ngựa. Rồi chậm chạp đổ của người xuống đất quằn quại... theo hơi đuốc nóng rất gần đấy lăn tới. Tiếng súng vẫn nổ dồn, tiếng giặc quát tháo nghe đã hơi xa, khoảng đến hai mươi bước. Cô gái lăn thêm một vòng, cảm thấy đỉnh đầu nóng ran vì hơi lửa đuốc.
Nhưng vừa nằm sấp, nàng vội ngưng cử động, vì một viên đạn đã réo sát bên mang tai, tiếp theo đó có tiếng xạ phang quát theo từ bụi rậm gần đấy:
- Nằm im! Không vỡ sọ!
Cô gái vội rên thêm to, và quằn mình, đưa dần hai cổ tay bị trói ra phía trước. Lửa cháy nóng bỏng, cô gái vẫn nằm im, trong cái dáng của người bị thương kiệt lực, riêng hai cổ tay nàng vẫn lựa hơ vào lửa, miệng mím chặt chịu đau rát, tai vẫn lắng nghe động tĩnh.
- Cô gái đang bị lửa đốt!
- Bị đạn lạc vào, hình như không nặng lắm!
- Vào lôi ra mau, không chết cháy mất!
Tiếng bộ hạ tụi Thoòng lao xao bàn tán gần đó đưa tới. Nhưng có lẽ sợ bị đạn, chưa tên nào dám rời chỗ nấp. Cô gái vẫn nằm im. Và hình như cách đó không xa, cặp mắt vô hình nào đó đã thấu suốt, nến tiếp tục bắn rát vào tụi giặc, như hỗ trợ cho cô gái.
Bựt! Dây trói đứt tung, Cô gái quằn mình, xoay lưng lại lũ giặc, kín đáo giật khăn che mặt xuống. Khung cảnh rừng khuya bừng lên, thoáng cái, cô gái đã lượng được địa hình. Xuất kỳ bất ý, sau khi đã lăn vào bụi cây có con ngựa che cản họng súng giặc, cô gái chồm lên như một cái cần bật, lao mình vào thân cây.
- Nó chạy kìa! Đứng lại!
Tiếng quát và tiếng súng đuổi theo tới tấp, náo loạn. Nấp sau thân cây, cô gái chờ xong một loạt đạn đầu, và lao mình thẳng về tiếng súng đang bắn ngược lại phía quân Thoòng.
- Nằm xuống!
Vừa lao vừa chạy được mấy bước, chợt nghe có tiếng người kêu phía trước, thiếu nữ vội đâm sấp xoài trên mặt cỏ, trong lúc viên đạn réo ngay trên đầu, ngó lại sau vừa kịp thấy một tên thổ phỉ đuổi theo đang chới với buông rơi khẩu súng pạc hoọc, dúi vào một bụi cây cạnh đó. Và sau hàng chân ngựa thấp thoáng mấy bóng giặc Thoòng nhấp nhô trong đám lá thấp.
Thiếu nữ đảo mắt một vòng, không chậm một giây, lăn mình sau một thân cây mé tay mặt.
- Đây, lối này!
Tiếng người lạ chợt cất lên, khiến thiếu nữ ngồi phắt dậy, ấp lưng vào thân cây, định thần tìm kiếm. Nhờ ánh lửa bập bùng từ chỗ bọn thổ phỉ hắt tới, nàng ngó thấy một tay súng vừa khoa lên trong cảnh tranh tối tranh sáng, ngay sau một thân cây lớn, có cành lá dây leo chằng chịt, cách chỗ nàng chừng mười lăm bước. Thiếu nữ lao mình qua từng thân cây để tránh đạn thoăn thoắt, thoáng cái, đã phóng tới chỗ người lạ. Thấy cô gái chạy tới quá đà, người lạ liền giơ một cánh tay ra cản ngang và kéo mạnh cô gái vào chỗ nấp. Sức chạy của thiếu nữ đang mạnh, gặp sức kéo bất thình lình, khiến thiếu nữ ngã ngồi ngay vào lòng người lạ, thở hào hển. Ngẩng mặt nhìn lên, trong vùng sáng tối lẫn lộn, nàng nhận ra ngay người lạ là một ông già quắc thước, hai tay cầm hai khẩu súng, và dáng dấp cũng thoáng vẻ lúng túng.
Cô gái toan chống tay ngồi dậy, thì ông già đã bước chéo nửa vòng sang một bên và gắn luôn vào tay cô gái một khẩu súng:
- Hãy giữ lấy tùy thân. Cô cứ rút trước về sau, tôi bắn cản chúng rồi sẽ rút theo.
Đỡ lấy súng, thiếu nữ ngó về phía thổ phỉ, đoạn quay nhìn ông già lạ:
- Xin cho tôi được cự giặc Thoòng đã!
Ông già chỉ hơi nhíu mày một chút, đoạn chĩa súng về phía địch.
Hai người bắn rát, không cho tên nào thoát ra.
Tự nhiên về phía quân địch, tiếng súng thưa dần. Cả tiếng súng về nẻo cánh quân đàng kia nữa. Ông già nói nhanh:
-Ta rút thôi, gọng kìm nó sắp kẹp lại rồi.
Dứt lời, ông già khoát tay là hiệu và lập tức, thiếu nữ rút về phía sau len lỏi qua những bụi rậm chông gai, giữa bóng tối mịt mù. Đã có vẻ quen sống ở rừng sâu núi thẳm, nhưng lạ rừng, thiếu nữ không thể nào đi nhanh được. Thỉnh thoảng lại vấp dây leo, ngã dúi. Ông già luôn phải giơ tay dắt, Cứ thế hai người băng rừng, lần đi trong bóng tối đi được chứng hai mươi phút thì phía sau, tiếng súng nổi lên dồn dập. Ông già đứng ngó lại khắp nơi và bảo thiếu nữ:
- Chúng ta đã kịp tới chỗ ẩn nấp ban nãy rồi. Giờ chỉ còn phần tránh quân phía trước.
Thiếu nữ ngạc nhiên:
- Thế rạ..?
- Ta vừa luồn vừa đánh giữa hai cánh quân giặc Thoòng!
Hình như thấu rõ sức táo bạo và sự nguy hiểm của cuộc đánh luồn, thiếu nữ khẽ hỏi:
- Nhưng chắc phải còn...
- Một tay súng nữa đánh cầm chân cánh quân sườn.
Ông già thản nhiên tiếp lời và buông gọn:
- Ta đi mau đến chỗ buộc ngựa.
Và không để cô gái kịp hỏi chi nữa, lão bước vụt đi ngay, dẫn cô gái đi quanh co mãi trong bóng tối, cô gái phải hết sức định thần để theo sát. Mãi mười phút sau mới ra tới một chỗ khá quang đãng thấy một con ngựa đang đứng quẫy đuôi đuổi muỗi trong đêm mờ ánh sao thưa.
Lanh lẹ, ông già đỡ thiếu nữ lên mình ngựa, và nhảy lên theo, cầm cương, thúc chạy luôn... Đường hoang vắng và vó ngựa chuyển mau, từ bước một tới kiệu băm. Nhưng thình lình, ông già ghìm phắt tay cương, nghiêng đầu nghe ngóng. Đâu đây, có tiếng chân người, ngựa, dẫm xào xạc trên lá khô. Ông già lập tức cho ngựa lui vào chỗ khuất. Tiếng động chợt im bặt. Đứng đợi mấy khắc, không thấy động tĩnh gì, ông già liền khum hai bàn tay, đưa lên miệng, rúc mấy tiếng cú mèo. Gần đấy, có tiếng cú rúc theo. Ông già quay lại khẽ bảo thiếu nữ:
- Voòng Lầu thuộc hạ đó.
Thiếu nữ chưa kịp hỏi thêm thì nghe có tiếng động ở phía tả, thoáng cái đã thấy một bóng người cao lớn từ trong bóng tối nhô ra, tay dắt theo một con ngựa tiến đến trước đầu ngựa ông già và nhảy phắt lên yên rồi giật luôn cương tiến đi trước. Hai con vật lùi lũi đi trong đêm tối, chậm chạp luồn hết đồi nọ núi kia, tiến dần về hướng nam. Tới gần một dãy núi đá, ngựa chợt dừng lại.
- Đây đã ra khỏi địa phận sào huyệt giặc Thoòng rồi! Gần đây có đường mòn của thổ dân... chạy suốt qua biên giới.
- Chừng bao lâu nữa?
- Cũng phải hai giờ nữa, a thầy!
Suy nghĩ mấy khắc, ông già buông gọn:
- Bắt vào đường mòn.
Voòng Lầu tiến lên, giật tay cương. Nhưng người thuộc hạ chợt ngừng luôn, ngoái đầu lại, tần ngần:
- Đường này phẳng, nhưng thổ phỉ và quan quân cũng thường đi.
Băng rừng chậm, nhưng...
Hắn ngưng nói, nhìn ông già như chờ lệnh. Dưới ánh sáo thưa, đôi mắt lão sáng quắc trên khuôn mặt mờ mờ trong bóng tối.
- Thôi được!
Tiếng vó câu lại khua nhẹ trên mặt đất gồ, thoáng cái đã bắt tới đường mòn. Ngừng lại để quan sát một chút, đoạn, hai người tế ngựa luôn, đường mòn có vẻ đỡ gập ghềnh, chật hẹp, vì đêm tuy mờ tối, hai con ngựa vẫn chuyển sang chạy nước kiệu băm đều. Hết vượt đồi lại xuống núi, thỉnh thoảng lại lội qua một con suối, nghỉ qua loa, rồi hai con vật lại tung vó mang ba người dần về nẻo biên giới Việt. Tới một chỗ ngoặt, con đường vắt qua một hẻm núi, ngựa phóng thêm nhanh.
Nhưng giữa lúc hai con ngựa đang sải bước lớn phóng qua hẻm núi, thì hai người vụt có cảm tưởng rõ mình đang lao đầu vào một bức tường người ngựa sừng sững lù lù chắn ngay trước mặt. Hai người đàn ông giang hồ vừa kịp ghìm vội tay cương, thì thình lình giữa đêm mờ, một ánh hồng vùng bật lên, sáng rực như ban ngày. Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng ngồi lừ lừ trên lưng ngựa, phía sau lưng lố nhố hàng hai, ba chục tên thủ hạ lầm lì tay súng.
- Biết điều đó! Chúng tao mất công đợi đã khá lâu rồi! Hừ, ta đoán không lầm mấy. Có hai đứa mà dám phục đánh hàng trăm tay súng.
Ông già Việt và Voòng Lầu đưa mắt nhìn nhau, cả hai bất giác đảo một vòng quan sát địa vật. Cô gái bị bắt hình như xúc động quá nhanh, ngồi im như tượng sau lưng ông già lạ.
Trong lúc hiểm nghèo, thình lình bị đứng trước những họng súng tua tủa, hai người đàn ông bẫn không tỏ vẻ rối trí, cả hai vẫn bình tĩnh có vẻ thường trải qua nhiều phút nguy nan.
Thấy mấy người vẫn ngồi im trên lưng ngựa, tướng Thoòng tiến ngựa lên cách chừng năm sáu thước, đứng lại, mắt trừng nhìn thẳng vào địch thủ, giọng khô khan ra lệnh:
- Vứt cả súng ống về phía sau và xuống ngựa bước lên phía trước!
Mấy người vẫn ngồi im. Thoòng hơi nheo mắt, ngó nghiêng địch thủ, như muốn đoán xem trong óc đang toan tính cánh nào giữa thập phần thất thế. Và tia mắt Thoòng như xói vào những cặp súng đeo trễ bên sườn, thứ súng đã từng bắn Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng như bỡn.
Vụt cái, tướng thổ phỉ đánh tay vào bá súng bên sườn.
Rất lẹ, ông già và Voòng Lầu cũng đặt phắt tay vào chó lửa cạnh hông. Có lẽ sợ kẻ địch đánh liều, Thòng lại để tay nguyên trên mép bao. Hai người cũng vậy.
Tướng thổ phỉ cười gằn, lặp lại:
- Vứt cả súng ống về phía sau!
Dứt lời, hắn hơi quay nghiêng về phía sau, toan ra lệnh cho thủ hạ tiến lên. Biết đã tới khắc quyết liệt, ông già đưa mắt cho Voòng Lầu. Voòng Lầu cũng đưa mắt nhìn ông già. Những mũi súng của đám bộ hạ giặc Thoòng vẫn chĩa thẳng vào ba người và tướng thổ phỉ vẫn lừ lừ nhìn ba kẻ thất thế không chớp mắt.
Ông già cùng Voòng Lầu lúc đó ngồi trên ngựa, sóng hàng cách nhau chừng ba bốn thước. Cả hai đều lắc đầu thất vọng, dáng điệu chán nản, cùng chậm chạp rút súng ra ném xuống đất. Nhưng trong khi tướng Thoòng nhếch miệng cười đắc chí, và lũ bộ hạ sửa soạn hạ dần tay súng vì thấy dịch thủ ném súng đi, thì nhanh như chớp, đáng lẽ ném xuống đất, hai người đàn ông giang hồ đã ném chéo súng về phía nhau và giơ tay đón bắt. Hành động của hai người thật là nhanh nhẹn và bất ngờ, khiến đám bộ hạ của Thoòng không sao tưởng kịp.
Nhưng hai người đã nhanh, tướng giặc cũng nhanh không kém.
Thấy súng ném về phía nhau, viên tướng đã chợt hiểu ngay và lẹ làng rút phắt súng ra. Chỉ nghe hai tiếng đoàn đoàng vụt nổ, khẩu súng của thầy trò ông già Việt vừa được ném tới khoảng giữa hai con ngựa đã bị bật tung xuống đất. Và tiến về phía trước mấy bước, Pạc Hoọc Đại Vương hai tay súng chĩa thẳng về phía hai người, mặt hơi hếch lên, hai đuôi mép hơi kéo chếch xuống trong một nụ cười khan dữ dội.
Bị phản công quá lẹ, thầy trò ông già Việt chớp mắt luôn mấy cái, cùng liếc súng rụng xuống trên bãi cỏ, và cũng không ai bảo ai, cùng đưa mắt liếc tướng Thoòng, hình như lúc đó mới lượng được tài nghệ danh bất hư truyền của Pạc Hoọc Đại Vương. Nhưng... giữa lúc hai người cảm rõ cái nguy cơ của kẻ bị tước mất khí giới, thất thế hoàn toàn, và giữa khi tướng Thòng đang đắc chí vì thắng thế rõ ràng, thì ông già Việt chợt nghe cô gái ngồi sau lưng khẽ nói nhanh bên tai:
- Cứ ngồi im!
Và vừa kịp thấy động mạnh phía lưng thì tay súng cô gái đã vươn về phía tướng Thoòng.
- Chà! Thần xạ.
Ông già sững sờ bật kêu lên khẽ. Ngay phía trước, hai khẩu Pạc Hoọc của Thoòng đã bị rớt từ lúc nào và Đại Vương thổ phỉ đang ôm tay nhăn nhó trong lúc con ngựa cất cả hai chân trước lên, hí mạnh vì hoảng sợ. Vốn từng quen ứng biến, ông già Việt và Voòng Lầu không để phí một khắc. Trong lúc bọn bộ hạ Thoòng còn đang hoang mang chưa biết tính sao, thì ông già đã cất mình khỏi yên ngựa lao chụp lấy tướng thổ phỉ và khóa hai tay gã lại trong một thế võ chân truyền nửa ta, nửa Nhật.
Còn Voòng Lầu đã kịp rút phắt một trái lựu đạn ra, lao mình xuống theo. Tiến sát lại bên Thoòng. Voòng giật phắt kíp lựu đạn giơ lên cao, hướng về phía thủ hạ Thoòng, quát lớn:
- Đứng im! Không chết cả!
Mọi việc diễn ra nhanh quá, khiến đám thổ phỉ không kịp đối phó, qua mấy khắc sững sờ, cả bọn mới kịp ùa lên, định giải thoát cho chủ tướng.
- Bắn đi!
- Bắn!
Có mấy tên vừa thốt lời, thì Voòng Lầu đã khoa trái lựu đạn và dí vào sườn Thoòng tướng, quát như sấm:
- Chúng tao ngã thì chủ tướng mày cũng nát thây. Biết điều đứng im! Hạ súng xuống!
Nghe quát, đám thổ phỉ nhìn nhau, ồn ào bàn tán, nửa muốn tiến nửa không dám. Sợ có đứa không biết, bắn liều, ông già Việt vội ghì xoay mặt tướng Thoòng về phía bộ hạ. Cố vùng vẫy không thoát khỏi hai tay kìm chặt của ông già, thêm trái lựu đạn mở kíp sẵn bên sườn Pạc Hoọc Đại Vương lượng ngay cảnh thất thế nguy hiểm của mình vội hất hàm đưa mắt ra lệnh cho thủ hạ đừng động thủ vội.
Thấy bọn giặc không dám tiến lên, ông già liền đưa mắt cho Voòng Lầu đoạn hai người kéo Thoòng về phía ngựa, thiếu nữ cũng nhảy xuống nhặt mấy khẩu súng rơi, toan nắm lấy dây cương ngựa của tướng giặc, thì Voòng Lầu đã vội lắc đầu bảo khẽ:
- Nên để lại! Ngựa dó quen nghe hiệu chủ, không nên cưỡi lúc này.
Vừa nói, Voòng vừa nắm dây cương ngựa mình, ra hiệu cho thiếu nữ dắt ngựa đi trước, đoạn tay cương tay vẫn ghì lựu đạn vào sườn tướng giặc. Voòng theo một bên hắn, bước giật lùi, trong khi ông già vẫn kẹp chặt tướng giặc, biến hắn thành cái mộc che thân trước những họng súng thổ phỉ vẫn chỉa theo. Cứ thế, ba người dắt ngựa, kéo Thoòng lùi bước dưới ánh lửa bập bùng.
Thoòng vẫn vùng vẫy tìm kế thoát, nhưng phần vì tay bị thương, máu ra nhiều, phần địch thủ có đôi tay cứng như thép nguội khóa hắn bằng một thế võ hiểm, nên Thoòng đành miễn cưỡng bước theo, nín thinh cố nén uất giận. Nhưng, đám giặc vẫn tiến theo từng bước, súng vẫn chĩa về phía ba người.
Một tên có lẽ là đầu mục cận tướng của Thoòng đã tiến lên trên đám thổ phỉ khoảng một bước, chĩa súng về phía ba người và chỉ buy bộ hạ dàn hàng chầm chậm bám chặt theo, súng ống tua tủa chỉ chờ một cơ hội thuận lợi là khạc đạn. Cứ thế, ba người phía trên đi giật lùi từng bước, đám giặc phía sau cứ tiến theo, cách nhau chỉ chừng mươi bước. Hễ người trước bước chậm lại, đám sau cũng chậm, bước nhanh hơn. Chúng cũng theo nhanh không kém và cũng không hơn, lúc nào cũng vừa vừa tầm súng.
Giữa cánh rừng sâu thẳm, im lặng vô cùng, ngoài tiếng gió thổi rào ngọn lá, chỉ còn nghe rõ tiếng chân người, ngựa bước thậm thịch trên mặt đất rất chậm, đều nặng trịch và hồi hộp như tiếng đập của của mọi trái tim.
Dưới ánh lửa vật vờ, khuôn mặt thầy trò ông già Việt cùng cô gái đanh lại như đá tạc, mắt sáng quắc nhìn đám thổ phỉ, còn thổ phỉ trông càng nham nhở dữ tợn dưới ánh đuốc bập bùng, những cặp mắt cú mèo như sắp bốc cháy. Không khí nặng nề... ngột ngạt. Mười bước rồi hai mươi, ba mươi, sáu, bảy mươi... Tình thế nghiêm trọng, không thể khéo dài hơn nữa, ông già đưa mắt một vòng. Cách đó không xa là dãy núi chập chùng, gần đó, nhờ ánh lửa hắt tới, lão nhận được con đường mòn ăn quẹo sau một trái núi thấp, cách chỗ mấy người chỉ đồ ba bốn mươi bước. Lão vội đưa mắt ra hiệu cho Voòng Lầu và thiếu nữ. Hai người lấy mắt nháy lại.
Thình lình đang hết sức vùng vẫy, tướng Thoòng chợt rướn mình lên một cái, chỉ kịp kêu được một tiếng đã nghẹn họng và mềm hẳn người ra, toàn thân như tê liệt vì một ngón tay của ông già đã kín đáo ấn vào huyệt nơi nách. Lập tức, Voòng Lầu cùng thiếu nữ nhảy phắt lên ngựa, đồng thời ông già Việt xốc phăng tướng Thoòng leo lên yên, trong khi vẫn dùng hắn làm một cái mộc che cho cả ba người, khi lên lưng ngựa.
Thấy chủ tướng bị đưa lên ngựa đám bộ hạ vội quát tháo om sòm, có tên định xông lên, có tên giương súng toan bắn theo, nhưng Voòng Lầu vẫn khôn khéo kề bên tướng giặc, thấy thế tụi thổ phỉ tưởng ba người định bắt chủ tướng chúng đi. Voòng Lầu vội lên tiếng:
- Muốn chủ mày toàn mạng hãy để chúng tao đi, chúng tao sẽ thả chủ mày ra ngay chỗ này. Làm ngặt nữa, chủ tướng sẽ chết trong tay chúng ta!
Voòng dứt lời, liền đánh ngựa cùng ông già Việt tiến chậm về phía hẻm núi ngay trước mặt. Ngó lại thấy thổ phỉ vẫn tiến theo, biết chúng nhất định bám sát chủ tướng, ông già liền ra hiệu cho Voòng Lầu đoạn hai người thúc mạnh gót chân vào hông ngựa. Tới chỗ đường mòn bắt quẹo vào hẻm núi, Voòng Lầu liền bất thần tung luôn trái lựu đạn về phía quân Thoòng, cùng lúc ông già Việt hất mạnh viên tướng thổ phỉ xuống bên đường. Quân Thoòng còn đang luống cuống xoay trở, thì phía sau hai con ngựa đã quặt vào hẻm núi. Bên tai mấy người, còn nghe rõ tiếng lựu đạn nổ giòn tan, lẫn tiếng quát tháo của thổ phỉ, theo hơi gió hắt lên.
Không để lỡ cơ hội, thầy trò ông già liền thúc ngựa chồm gấp, lẩn mau vào bóng tối. Được chừng non trăm thước ngoảnh lại phía sau, mấy người đã thấy ánh đuốc nhấp nhô. Và tiếng súng cũng tới tấp đuổi theo vang vọng cả rừng khuya, khiến chim đêm giật mình bay xào xạc. Thầy trò ông già vẫn theo lối mòn, đi ngựa cho dễ. Bóng tối dày đặc. Nhờ ánh sao nhạt, thêm Voòng Lầu đã thuộc đường, hai người cứ phóng nước đại, đầu cúi rạp xuống bờm ngựa. Thỉnh thoảng, một vài viên đạn lại xé rách không gian ngay bên tai mấy người.
Phóng một quãng xa, nhìn lại, vẫn thấy những ánh hồng nhấp nhô cuốn theo, chỉ cách chừng non trăm thước, Voòng Lầu vội cao giọng:
- Thầy ạ! Chúng đuổi riết, ta băng rừng thôi! Bên tay trái, có thung lũng ạ.
- Nẻo đó dễ đi không?
- Có thể chạy kiệu băm được một quãng dài!
Vừa nói, Voòng vừa cho ngựa chạy chậm lại một chút, cho sánh ngang ngựa ông già.
- Thầy cho cô đây đổi sang bên đó và cứ rẽ ngang đi! Để tôi đánh lạc hướng chúng rồi sẽ bắt theo!
Ông già im lặng đưa tay ra nắm lấy tay cô gái. Cô gái nhảy phắt sang ngồi gọn ở sau lưng. Đoạn ông già rẽ luôn tay cương cho ngựa rời đường mòn chạy về nẻo thung lũng, trong khi Voòng Lầu tiếp tục cho ngựa chạy thẳng theo đường mòn.
Bỏ đường mòn, ngoắt vào rừng cây được chừng bảy tám mươi thước, ông già Việt liền dừng ngựa đứng lẩn vào một lùm cây rậm rạp, ngoái nhìn ra lối cũ. Đêm tối mù. Súng vấn nổ đuổi theo, vang động rừng khuya. Không lâu, từ phía đường mòn, những ngọn lửa hồng nhấp nhô đã ra khỏi bóng cây, cuộn tới. Đứng đàng xa, hai người cũng trông thấy rõ bóng thổ phỉ cưỡi ngựa thấp thoáng ẩn hiện sau cây lá, dưới ánh lửa sáng rực. Tới chỗ hai người vừa vẽ, đám thổ phỉ phóng thẳng theo hướng Voòng Lầu, nhưng qua chỗ đó chừng mươi thước; chợt bảy tám tên đi sau thình lình dừng lại, tản ra quanh lối mòn, tên nào cụng cúi nhìn xuống mặt cỏ. Những tia đèn bấm quét lia lịa không gian và một vệt sáng xanh lè chiếu thẳng về phía hai người, rê từ thấp lên cao, đảo một vòng rộng và thu hẹp lại, cuối cùng phụt tắt.
Đứng sau lùm cây rậm, hai người thấy rõ bóng tướng Thoòng ngồi trên ngựa, giơ tay trỏ về phía đó và mấy tên khác đánh ngựa xúm quanh chủ tướng. Ông già Việt bảo thiếu nữ:
- Thằng tướng thổ phỉ này đã thấy dấu khả nghi rồi! Có lẽ nó sẽ chia thủ hạ lùng duổ:i về nẻo này!
Thiếu nữ chăm chú nhìn về phía thổ phỉ:
- Chắc nó thấy vết cỏ nát? Thằng Thoòng này quỉ quái đấy!
Ông già im lặng theo dõi cử động của địch, miệng lẩm bẩm:
- Lối xuyên sơn này có vẻ khó đi ngựa, hay là...
Đang nói, lão chợt ngừng vì bọn thổ phỉ đã chĩa súng về phía hai người ẩn, đạn réo là là ngay trên đầu ngựa. Và chúng chia nhau theo hàng ngang tiến lên, vừa tiến vừa cúi soi lửa xuống mặt cỏ, dõi theo vết chân ngựa. Cứ thế, chúng tiến ngựa tới gần chỗ hai người. Ông già Việt vẫn ngồi im không nhúc nhích, chăm chú ngó bọn thổ phỉ. Hình như, chúng đã tìm được dấu ngựa rõ ràng nên Thoòng mất hẳn vẻ dò dẫm, hắn ngoắc tay một cái, cả mấy tên thủ hạ liến đánh ngựa vọt lên, luôn tay súng nhả đạn tứ tung.
Rắc! Rắc! Liền hai cành cây trước đầu ngựa bị đạn xoáy đứt. Mấy chiếc lá vàng rơi lả tả xuống vai áo hai người. Thiếu nữ khẽ nới nhỏ bên tai ông già:
- Cụ tính sao! Ta đi, hay là...
Như đoán được ý nghĩ của thiếu nữ, ông già ngoái cổ lại:
- Không lên! Đi khỏi là hơn!
Dứt lời, lão rẽ phắt tay cương, cho ngựa tiến vào đêm tối. Quả như lời Voòng Lầu, chỗ này không mấy rậm rạp, chỉ có những cây lớn với những bụi cỏ hoang thấp và mặt đất khá phẳng. Nhìn lại phía sau, hai người vẫn thấy thoáng ánh lửa, đốm gần đốm xa, theo hình cánh cung nhấp nhô dồn theo.
Len lỏi giữa những thân cây, vượt qua những lùm cỏ hoang thấp nhờ ánh sao thưa lờ mờ chảy qua cành lá, hai người phân biệt được hướng trống băng đi, càng lúc càng nhanh. Có lẽ bọn thổ phỉ đã nhận rõ, nên chúng vẫn tiếp tục đuổi theo, và tiếng đạn vẫn réo nên tai hai người. Nhưng vừa tới một chỗ khá quang, đột nhiiên thiếu nữ khẽ kêu lên và ông già thấy rõ tay nàng như sắp rời khỏi sườn mình. Lão vội ngoái tay đỡ lấy thiếu nữ.
- Sao thế?
- Da..... Có lẽ... vào bả vai trái.
Giọng người con gái phào bên tai ông lão giang hồ, tiếp theo hơi thớ không đều. Đỡ chắc lấy ngang hông nàng, ông già ghé sát miệng xuống hỏi:
- Có thể... ngồi được không?
- Da.....
Chưa kịp nói, chợt thiếu nữ giật mình, như bị điện giật. Bàn tay ông già vừa rời khỏi lưng nàng và con ngựa đang phóng nhanh, lại trở về nước nhỏ, vì tay cương đã thình lình bị buông lỏng.
- Trời! Cụ làm sao thế?
Miệng hỏi, thiếu nữ cố gắng nhịn đau, vươn cánh tay đỡ lấy ông già, đồng thời bàn tay quờ nắm lấy dây cương, ghìm ngựa lại. Qua mấy khắc đau nhói, ông già đã gượng lại được ngay:
- Không sao. Chỉ sượt vào tay trái thôi.
Vừa nói lão vừa đỡ lấy tay cương, ngoảnh lại nhìn ánh lửa vẫn ẩn hiện sau cành lá, có vẻ vẫn chiếu thẳng về phía hai người, lão nói nhanh:
- Cố bám cho chặt! Mình phải đi kiệu đại đó!
Đoạn lão thúc ngựa lướt lên và bất ngờ rút súng bắn lại phía sau luôn mấy phát. Phía thổ phỉ sợ bị phục đánh nên vội tản cánh thêm cách nhau, không bảo nhau, đều hãm mau sức ngựa phi. Nhưng chỉ giây khắc, chúng lại tiếp tục đuổi theo và bắn thêm rát.
Ngựa trước đã cách ngựa 'su trên trăm thước. Con vật tỏ ra là một chiến mã đã quen băng rừng trong đêm tối, nên càng lúc càng lao đi nhanh, không vấp lẫn. Ông già cứ đành giữ yên tay cương, cho ngựa mặc sức chạy, chỉ còn thấy loang loáng những thân cây bụi rậm đen ngòm tụ lại phía sau. Đã cách đến gần hai trăm thước. Nhưng những ngọn lửa vẫn cuốn theo, vẫn đúng hướng ngựa trước. Cứ thế khá lâu, không sao đánh lạc chúng được. Còn đang toan tính, hai người thấy phía trước chợt sáng dần, định thần, nghe rõ có tiếng nước chảy thao thức trong đêm. Rồi loáng cái, ngựa đã tới bờ suối. Ông già lập tức cho ngựa xuống nước. Nước chảy xiết. Con vật phải lấy sức chống với luồng nước tiến qua từng bước một. Nước bắn tung tóe cả lên rnình hai người, mát lạnh. May suối chỉ sâu vừa tới bụng ngựa. Tới bờ bên kia, ông già liền cho ngựa vượt lên, phóng thẳng. Tưởng gấp quá hóa quên, thiếu nữ chợt khẽ hỏi:
- Sao ta không lộn lại theo dòng nước có hơn không? Ngựa mình sũng nước, chúng dễ dàng...
Có lẽ đoán được ý thiếu nữ, ông già thản nhiên:
- Thằng Thoòng đã nghi chắc không chiu đuổi theo vết nước trên cỏ đâu. Mình đi ngay lối có vết nước là hơn.
Thiếu nữ lặng im, ngoái lại phía sau lưng. Không thấy ánh lửa, những luồng đạn vẫn chạy rào rào qua cành lá. Ngựa phóng được một lát chỉ nghệ liếng súng vọng phía sau đã khá xa, rồi im bặt. Rừng khuya sâu thẳm.
- Chúng qua ngõ khác sục sạo rồi!
Thiếu nữ khẽ nói bên tai ông già, trong khi lão đánh ngựa chạy rẽ về phía Tây.
- Chúng bị lạc hướng rồi!
Vừa cố tình cô gái giơ cánh tay ra, thấy đau nhói mới vùng nhớ ra, hỏi ông già:
- Vết thương... cụ thế nào?
Không thấy đáp, nàng vội ghé sát về phía trước, mới biết lão ta đang thở dồn, và hơi thở lẫn tiếng nghiến răng khe khẽ. Lạ lùng, nàng vội động mạnh cánh tay không bị đau vào sườn lão. Cánh tay lạnh lạnh... Tưởng nước suối ban nãy, cô gái liền cúi xuống, thì một mùi tanh nồng đã theo hơi gió phả vào mũi. Giật mình, nàng khẽ kêu lên:
- Trời! Hình như cụ bị đạn bên sườn thì phải?
Nàng vừa nói vừa lần tay vào tìm và khẽ nói:
- Máu ra đẫm cả áo rồi! Thắng ngựa lại đã cụ.
Lúc đó, hình như đã chiu đựng lâu quá ông già giang hò mới khẽ cất tiếng không đều:
- Vâng, bị Ở sườn... lúc nãy... Không sao đâu.
Thiếu nữ toan đỡ lấy tay cương thì lão đã gạt đi.
- Phải đi thêm quãng nữa! Cũng sắp tới biên giới Việt rồi. Tay cô thì thế nào?
Thiếu nữ không đáp. Nàng nắm lấy cương ngựa ghìm phắt lại, vừa lúc con vật quay đầu về hướng Nam. Thiếu nữ lần rút mũi dao rừng bên mình ông già, nghĩ một khắc, đoạn cắt phăng vạt áo mình, nhanh nhẹn quấn chặt lấy chỗ bị đạn ngang sườn. Ông già cắn răng chịu đau, lặng lẽ quay nhìn cô gái lạ lúi húi băng bó. Xong, cô gái mới buộc vết thương ở tay mình.
Hai người lại phóng miết trong đêm, vượt núi bang rừng, theo hướng Nam, cho tới lúc ngựa ngừng bên một con suối rộng, nước chảy như thác. Người và vật đều mệt lả. Như cái máy ông già cho ngựa vượt luôn. Tới giữa dòng, đang lội bì bõm chợt con vật thở mạnh, bước loạng choạng và giẫm phải thạch bàn ngầm trượt ngã khuỵu, hất hai người xuống giữa dòng suối cuộn... Tuy mệt lả vì máu ra nhiều, ông già Việt đã chợt định thần khi ngựa loạng choạng sắp khuỵu, chắc đã lượng rõ mức nguy hiểm của nước cuốn... đá ngầm, lão vùng giật giọng:
- Nhảy xuống mau!
Nhưng, đã muộn. Người và vật đã kiệt lực, hai người chưa kịp cử động thêm thì con vật đã đổ quỵ xuống rồi. Và dòng suối lũ lồng lộn giữa rừng hoang, cuốn phăng người, vật... xuôi dòng vào sâu trong đêm tối mênh mông.
Đánh máy: Long Minh, Tử Long
Nguồn: Vietkiem
Được bạn: ms đưa lên
vào ngày: 3 tháng 6 năm 2005
Hoàng Ly - Đỗ Hồng Linh
Thập Vạn Đại Sơn Vương
Hồi 2
Ông Già Kỳ Lạ Là Ai?
Người thiếu nữ cảm thấy cái lạnh của nước suối. Trong đêm tối dày đặc, thiếu nữ mê lịm đi, không còn biết gì nữa, thân xác vật vờ chìm nổi giữa dòng nước vô tình... Cho đến khi thiếu nữ chợt tỉnh dậy, thì bên tai không còn tiếng nước vỗ ào ào nữa. Chung quanh chim kêu ríu rít tưng bừng và từ xa xa, có tiếng vượn vượn hú véo von theo gió đưa về.
Cô gái mở choàng mắt ra. Ánh sáng bình minh ùa vào rực sáng khiến nàng chớp mắt luôn mấy cái, vùng nhớ lại việc đên qua và tưởng mình đang mê ngủ. Nàng vội đưa mắt nhìn quanh. thấy mình đang nằm vắt trên đám dây leo thang chịt bên bờ suối ngay khúc nước đổ theo hình thước thợ. Dưới chân, nước rút từ lâu, chỉ còn lập lờ trong vắt nhìn rõ cả đá cuội dưới lòng suối cát vàng.
Thiếu nữ khẽ cựa mình chợt thấy đau bại hẳn một bên hông. Cô gái vội nhìn xuồng, thấy một vết tím bầm, mới rõ bị nước cuốn đập vào đá ngầm. Bỗng nhớ tới ông già lạ đã liều chết cứu mình, thiếu nữ vội đảo mắt ngó quanh, và liền nhẹ bám dây leo đu hẳn lên bờ. Thiếu nữ chực rùng mình luôn mấy cái, lúc đó nàng mới cảm thấy rõ cái lạnh của nước suối, sương đêm ngấm vào cơ thể. Nhưng có lẽ bị hắt lên dây leo ngay lúc bị chạm đá ngầm, nên thiếu nữ không bị uống nhiều nước. Và nhờ thiếp ngủ được một giấc khá lâu, nàng thấy đã hơi lại sức. Ouần áo còn ẩm nước và máu. Vết thương tay đã bầm tím cả lại. Thiếu nữ hít mạnh một hơi cho không khí ban mai vào đầy phổi. Nàng đưa mắt nhìn quang cảnh bình minh, nhưng vẫn không xua đuổi được những ý nghĩa nặng nề trong đầu óc. Cô kiếm một thân cây nhỏ làm gậy chống và tập tễnh men theo bờ suối tìm kiếm.
Đang lên lách giữa đám dây leo chằng chịt, chợt cô gái nghe có tiếng thở phì rên rỉ phía trước. Nàng giật mình vội men ngược dòng chừng mấy chục bước chợt đứng sững lại, nín thở, mắt chớp luôn mấy cái. Bên kia bờ, ngay dưới bụi rậm mọc vươn cả ra bờ nước, một con ngựa hồng đang nằm dụi thở phì phò, trên lưng không còn yên đóng.
Thiếu nữ liền bước tới, vén cao ống quần, lội qua suối cạn, đến bên con vật.
Vừa ngó qua, cô gái bất giác đưa mắt nhìn ra những tảng đá giữa suối, vẻ mặt hiện rõ nét xót thương. Bị cuốn vào đá ngầm sắc thân thể con vật rách như bị dao chém, có một vết ở bụng dài đến hai gang, lòi cả ruột gan ra ngoài. Liên tưởng tới chủ ngựa, thiếu nữ vùng thở mạnh, vội sờ bên sườn như muốn lấy súng để kết liễu cho sớm đời con vật khốn nạn cho đỡ phải kéo dài phút hấp hối đau đớn, nhưng súng đã bị rớt từ lúc nào rồi. Nàng đành quay đi, men ngược theo dòng đưa mắt tim kiếm. Nhưng bốn bề, chỉ có chim kêu, vượn hót, dưới nước trong, chỉ có một vài chiếc lá khô vàng sớm theo gió thổi nhẹ lướt theo dòng... Men ngược mãi, không thấy chi, cô gái lại lần qua chỗ mình nằm ban nãy.
Đang chăm chú tìm kiếm, chợt như nghĩ ra điều gì, thiếu nữ liền dừng bước, khum vòng hai bàn tay quanh miệng, hú lên mấy tiếng.
Tiếng hú gọi của thiếu nữ ngân dài trong nắng sớm vang vọng khắp rừng sâu. Hú xong tràng thứ nhứt, thiếu nữ toan hú nữa, nhưng vừa lấy hơi, đã ngừng ngay vì chợt nghe có tiếng người hú từ phía trước mặt vọng tới. Rồi đến tiếng hú phía tay mặt. Thiếu nữ nhíu mày, đưa mắt ngó về phía có tiếng hú đáp lại, vẻ mặt vừa thoáng mừng vừa e ngại. Nàng vội hú một tràng nữa, và tìm một chỗ kín ẩn luôn, chờ đợi. Chỉ nửa phút sau, đã nghe rõ nhiều tiếng chân người dẫm sào sạo trên lá rụng, từ hai, ba ngả tiến đến.
Nấp trong bụi rậm, thiếu nữ hồi hộp chờ đợi, nghe nhiều tiếng chân người giẫm trên lá khô tiến dần tới, bất giác nàng quay nhìn về phía sau lưng như tính trước đường rút.
- Chẳng lẽ tụi giặc Thoòng?...
Thiếu nữ còn đang nghi hoặc thì những tiếng chân người tới vùng suối chợt im bặt khá lâu. Thiếu nữ vội áp sát mang tai xuống mặt đất, nghe ngóng. Đến mấy phút sau, mới nghe vọng có tiếng chân bước rón rén từ phía bụi rậm trước mặt. Rồi mấy đầu người nhô ra khỏi bụi, mắt đảo nhìn quanh, và vụt ra khỏi chỗ khuất, mấy người đàn ông lực lưỡng đeo đao rừng tay chĩa ngọn súng về phía trước.
Nấp trong bụi nhìn ra, thấy bóng mấy người đàn ông, bất ngờ, thiếu nữ thở phào một cái và đứng phắt lên, vừa phủi quần áo vừa bước khỏi chỗ ẩn.
Thấy dáng người thình lình xuất biện, bọn đàn ông đồng loạt chĩa ngọn súng cả vào, nhưng khi thiếu nữ đã ra hẳn chỗ trống, thì cả mấy người đều đồng thanh reo lên, nửa sửng sốt, nửa mừng rỡ:
- Kìa cô Ba!
Thiếu nữ nhoẻn miệng cười, bước thẳng tới chỗ mấy người. Một người đứng tuổi trong bọn, ngó y phục rách mướp của thiếu nữ, giọng kính cẩn:
- Chiều qua, chúng nó về báo cô bị tụi thổ phỉ phục đánh, bắt đi rồi, anh em tôi vội lấy ngựa đi luôn, nhưng không rõ sào huyệt thổ phỉ ở đâu, cứ quanh quẩn vùng biên giới cả đêm. Mãi sau hỏi được một bọn xạ phang cho biết bên hiên giới, súng nổ gắt lắm, anh em tôi chưa hiểu đầu đuôi, bàn tính nhau...
Đang nói, chợt người đó ngưng lời, hỏi thiếu nữ:
- Thế cô Ba có bị bắt thật không? Sao...
Thiếu nữ gật đầu:
- Chúng phục đánh bất ngờ và đông đến hàng trăm. Bên ta bị thiệt hại nhiều. Chính thằng Thoòng trực tiếp chỉ huy trận đánh.
Cô gái chợt quắc mắt, giận dữ.
- Hừ! Làm thế nào chúng biết rõ lối ta đi để chặn cướp? Nếu không may được người giải cứu...
Nghe đến đó, cả bọn nhao nhao, toan hỏi, nhưng thiếu nữ đã vùng nhớ ra, vội khoát tay:
- À! Hãy tìm kiểm quanh đây xem đã!
Thấy vẻ ngơ ngác trên mặt mấy người, thiếu nữ liền buông gọn:
- Hai thầy trò một ông già lạ đã cứu ta, về tới khúc suối này, người và ta đây cùng bị thương, mệt lả, con ngựa đuối sức bị nước vật ngã hất cả xuống suối - Nàng chỉ tay ra chỗ con ngựa nằm hấp hối - Đêm qua suối lũ chảy như thác! Con ngựa bị đá ngầm xẻ bụng, ta may được dây leo quấn chặt lấy nên thoát... Đi! Thử kiểm dọc suối xem! À mà có bao nhiêu tay súng đi theo đây?
Người đứng tuổi liền hú lên một tràng và quay bảo thiếu nữ:
- Bẩm... năm mươi!
Thiếu nữ hơi nhíu mày, đoạn khẽ hất hàm:
- Thôi được! Cứ chia nhau tìm ông già đã! Chắc cũng bị cuốn... đâu đây!
Vừa lúc từng tốp người từ mấy phía kéo lại, trông thấy thiếu nữ đều tỏ vẻ vui mừng, kính cẩn.
Người đàn ông đứng tuổi vội sai đem lương thực và y phục đến cho thiếu nữ. Đoạn cả bọn chia nhau lần tìm theo dòng suối, chỉ để lại hai người săn sóc vết thương cho thiếu nữ.
Trong lúc đám thuộc hạ chia nhau tìm dọc theo dòng suối, thiếu nữ ngồi dựa lưng vào một thân cây nghỉ sức, mắt lim dim chỉ muốn nhắm lại, có vẻ còn mệt nhọc nhiều. Chỉ chừng hai mươi phút sau chợt thiếu nữ nghe có tiếng người bật réo to to, nhau cách đó chừng non năm thước. Thiếu nữ vội choàng mắt, nghiêng đâu nghe ngóng, đoạn quay bảo thuộc hạ:
- Đến xem đàng kia có gì lạ mà họ gọi nhau dữ vậy?
- Dạ.
Một thuộc hạ tiến về phía trước, chỉ thoáng cái đã thấy hắn trở lại, có người đàn ông đứng tuổi đi theo. Tới trước thiếu nữ, người đàn ông nói nhanh:
- Thưa cô, đàng kia thấy một xác người!
Như bị điện giật, thiếu nữ đứng phắt lên:
- Sao? Xác người? Như thế nào?
Người đứng tuổi giơ tay lau mấy giọt nước trên trán, gật đầu:
- Dạ. Xác người nằm trên một tấm thạch bàn ngay giữa dòng, nhưng không phải là ông già đã cứu cô Ba!
Thiếu nữ mở to mắt, đoạn nhíu mày:
- Sao? Không phải người già?
Nói xong, cô gái vừa vẫy tay, vừa bước rảo về phía đó.
- Hay người nào khác? À mà ban này ta đã đi xuôi theo dòng sao lại không thấy?
- Dạ! Phiến đá bị cành lá mọc che kín, thoạt trông không ai ngờ...
Thiếu nữ xăm xăm theo thuộc hạ, vạch cành lá, tiến mau, thoáng cái, đã tới đoạn suối có xác người. Đám thuộc hạ đang xúm quanh, chỉ (rỏ bàn tán. Cô gái liền tới bờ suối, lội nhanh xuống dòng, tiến đến bên xác lạ. Thấy thiếu nữ tới, đám thuộc hạ vội đứng tản ra, nhường chỗ.
Thạch bàn từ bờ suối mọc tới giữa dòng, rộng như một tấm phản, chỗ bên bờ cao, có một hốc lớn ăn trũng vào nền đá dựng, chỗ giữa dòng thoai thoải khá bằng phẳng. Một cây si mọc bên bờ nghiêng soi bóng nước, có một thân phụ tủa rễ xuống chấm mặt thạch bàn. Và một cành cây gãy khá to, nhiều nhánh lá um tùm từ thượng nguồn trôi đạt xuống, mọc cứng phủ một phần lớn ngọn “Tiểu thủy sơn”.
Xác người đàn ông nằm trên mặt đá, hai tay còn như quờ níu chặt lấy nhánh cây, một ống cẳng bị rễ si quấn treo ngược, một chân buông thõng xuống mặt nước, mặt úp sấp.
Thiếu nữ vừa tới bê xác người lạ, đã giật mình suýt kêu lên một tiếng kinh ngạc, vì nhận ngay ra mảnh băng lụa chính nàng đã xé tay áo buộc vết thương cho ông già lạ đêm qua. Cố nén xúc động, cô gái vội luồn bàn tay vào cổ nâng mặt nạn nhân lên, đồng thời gạt mấy nhánh lá rủ quanh. Khuôn mặt người lạ vừa lộ rõ dưới ánh nắng ban mai, cô gái giật mình, ngẩng phắt đầu lên không nén được một tiếng kêu khẽ đầy sửng sốt:
- Trời!
Và nàng cúi nhìn lại mặt nạn nhân, lẩm bẩm như nói một mình:
- Sao lạ thế này? Rõ ràng đêm quạ..
Thấy nữ chủ có dáng kinh ngạc, đám thuộc hạ tuy không hiểu chuyện chi, cũng đưa mắt nhìn cả về nạn nhân. Đó là khuôn mặt đàn ông không một chòm râu bạc, rõ khuôn mặt một người trai trẻ, tuy nằm bằn bặt, mắt nhắm nghiền, da dẻ tái xám hẳn đi vì ngâm nước nhiều, nhưng vẫn còn rõ những nét duyên dáng hào hoa và cương nghị phong trần. Quần áo tả tơi, có chỗ rách toạc, để hở cả bắp thịt rắn đanh và dây súng lục vẫn còn thắt ngang lưng. Qua giây khắc xúc động bất ngờ, cô gái như đã vùng chợt đoán ra. Nàng nín thớ, cúi xuống áp tai vào ngực nạn nhân, nghe ngóng hồi lâu. Đoạn ngẩng lên, đôi mắt thoáng lóe sáng tia hy vọng, nàng vẫy tay liền mấy cái:
- Còn thoi thóp thở. Mau khênh lên bở để la cứu chữa người. Mấy chú đi nhóm lửa cho nhanh!
Trong lúc mấy người thuộc hạ lực lưỡng xúm lại đỡ nạn nhân, thiếu nữ chợt quay hỏi người đứng tuổi đầu lãnh cả bọn:
- À mà có đưa theo đủ dụng cụ thuốc men cứu cấp không? Mau ra chỗ buộc ngựa lấy đem tới đây, không muộn mất!
oo Ông già Việt vùng tỉnh giấc, lúc tiếng chim họa mi hót thánh thót ngoài hiên. Dư âm véo von trong vắt của tiếng chim báo sớm còn vương vấn bên tai, ông già giang hồ vẫn chưa phân định hẳn cảm giác hư thực của mình. Rất nhanh, lão nhớ lại “Chuyện vừa qua”, tới lúc kiệt sức người bị cuốn theo dòng suối lũ.
Lão vội giụi mắt luôn mấy cái, chống tay toan ngồi dậy, chợt thấy đau bên sườn, nên lại nằm nguyên, tần ngần đưa tay khẽ sờ vào chỗ đau. Sợi băng trắng tinh quấn quanh sườn khiến lão bất giác đưa mắt nhìn quanh mình, cảm tưởng mang mang mơ hồ như lúc hôn mệ..
Lão đang nằm trên chiếc giường Tây có trái nệm trắng tinh, người đặp chăn len nhẹ, màn tuyn trắng muốt lay động trong gió sớm, trong một gian phòng bài trí theo lối mới có vẻ như ở miền kinh đô.
Ánh nắng chiếu qua cửa sổ vào phòng kéo những vệt dài tới tận cửa màn buông. Giường, nệm, gối, chăn, không gian thoáng mùi thơm mát nhe..... Không hiểu sao, đột nhiên ông già giang hồ vùng sờ tay lên cằm và mấy ngón tay thốt nằm chết dí trên làn da nhẵn nhụi. Bộ râu năm chòm cấy từ lâu, đã biến mất. Hơi giật mình, lão tung chăn, trở mình ngồi lên vén màn, xỏ chân vào đôi dép, vừa đưa mắt ngó quanh.
Cạnh đầu giường là cái tủ gương, cánh khép hờ. Lão bước mau tới, nhìn vào mặt kính tráng thủy hồi lâu và tự nhiên khẽ chép miệng thở dài. Trong gương không còn là ông già sáu mươi quắc thước, râu năm chòm nữa, mà chỉ còn khuôn mặt chàng trai trẻ chưa tới ba mươi với những nét sớm phong trần rắn rỏi, đôi mắt aáng vừa trở nên xa vắng... bâng khuâng. Chàng hơi nhíu mày, cười không thành tiếng như chế giễu mình, đoạn hơi nhún vai, quay ra.
Tình cờ cánh tủ khép hờ bị gió thổi hé rộng tờ từ. Chàng trai trẻ ngoẳnh nhìn và không khỏi ngạc nhiên thấy trong số ngăn đựng y phục cùng các thứ lặt vặt nhật dụng, có một ngăn xếp bộ quần áo Chàm của mình đã được giặt sạch sẽ, gấp gọn, trên đặt bao súng, dây đạn, cả chiếc dao thổ bao khảm của mình vẫn thường dùng. Chàng liền rút súng, thấy đã được lau chùi, nòng đã “xoi” cẩn thận, đạn thay mới kín đáo. Dao rừng cũng vậy. Chàng cầm khẩu súng tần ngần quay một vòng và cho vào bao đặt nguyên chỗ cũ.
Mặt có vẻ suy nghĩ đắn đo, chàng tuổi trẻ bước thẳng ra khỏi cửa phòng. Chìa khóa vẫn tra sẵn vào ổ. Chàng xoay một vòng và nhẹ nhàng mở rộng cánh cửa. Cửa phòng vừa mớ, chàng tuổi trẻ suýt bật lên một tiếng kêu sửng sốt. Ngay trước mắt chàng là một thung lũng rộng, chan hòa nắng sớm, và bên kia thung lũng là những rặng núi đá điệp trùng theo hình cánh cung vắt ôm lấy những quả đồi xanh mướt thấp thoáng những mái nhà sàn, của dân sơn cước. Tò mò chàng trai trẻ bước hẳn ra ngoài đưa mắt nhìn quanh, thấy mình đang ở trong một khu dinh cơ lớn, đủ nhà dọc, nhà ngang, cái bằng gạch, cái lá, đường đi lối lại thênh thang trông chẳng khác một doanh trại, và chỗ chàng đứng là mội dải hành lang của một tòa biệt thự nằm dựa vào sườn đồi, dưới chân lại có dòng suối trong uốn khúc lững lờ.
- Chà! Trang trại thật đẹp mắt!
Chàng tuổi trẻ chắp tay sau hông, lững thững bước một theo hàng hiên. Dừng lại ngắm con chim họa mi đang hót trên cành xòa trước mặt, rồi lại bước về phía cuối nhà, dáng dấp ung dung như một khách nhàn tân. Quanh mình, vắng vẻ hoàn toàn, chỉ thấy bóng người đi lại phía dưới đường trang. Nhưng vừa tới hồi nhà, chàng chợt gặp một gã đàn ông mặc quần áo Thổ vác súng dài đi đi lại lại bên hồi. Thấy chàng, gã vội đứng phắt lại, kính cẩn chào theo lối nhà binh. Chàng mỉm cười hơi gật đầu, và tiến tới gần hơn:
- Đứng canh ở đây sao?
Gã đàn ông nhìn chàng, mép hơi nhếch, có vẻ ngơ ngác không hiểu. Tưởng gã không biết tiếng Việt, chàng liền hỏi bằng tiếng Thổ.
Nhưng thấy gã vẫn như không hiểu, chàng thôi ngay, khẽ nhún vai, lững thững bước đi.
Nhưng mới bước vài bước, nghe tiếng chân người phía sau, chàng quay lại đã thấy gã đàn ông lực lưỡng bước theo. Chàng dừng, hắn cũng dừng, chàng thử rảo bước, hắn cùng rảo nhanh theo, không chịu rời. Tuy có vẻ canh chừng riết, nhưng dáng điệu vẫn tỏ ra kính cẩn lắm. Cuối cùng chàng tặc lưỡi, mặc hắn theo, không buồn lưu ý nữa.
Chàng xuống đồi, lần ra bờ suối, rồi men theo đường đất đỏ, đi về nẻo nhà gạch phía dưới. Nhưng mới đi được chừng mấy chục bước, đã thấy một người khác từ chỗ khuất nhô ra, tiến thẳng đến trước mặt mặt chàng, cúi đầu rất kính cẩn:
- Thưa quí khách, xin mời quí khách về nghỉ cho lại sức. Chủ nhân chúng tôi có ra lệnh chúng ti không được để cho quí khách đi lại vội, vì còn mệt.
Chàng trai trẻ chăm chú nhìn hắn và mỉm cười:
- Ta đã lại sức rồi mà. Nhưng chủ nhân các người là... ai chứ?
Hắn không đáp, chỉ lễ phép:
- Dạ. Xin quí khách về nghỉ kẻo mệt. Chúng tôi được lệnh...
Chàng tuổi trẻ liền nheo mắt, có vẻ hơi bực, toan hỏi nữa nhưng nghĩ thế nào, lại thôi. Chàng lẳng lặng quay về chỗ cũ; đi được mươi thước chợt có tiếng động phía sau lưng, quay lại, thấy có người chạy tới. Hắn có vẻ tần ngần:
- Xin quí khách miễn lỗi cho, chủ nhân của tôi cũng sắp về... À, qúi khách muốn cần chi cứ gọi, lúc nào cũng có người túc trực sẵn bên ngoài. Nếu quí khách muốn giải khuây, xin lấy sách vở ở trong tủ.
- Bao giờ mới về?
Hắn lắc đầu, hơi nhếch miệng cười:
- Dạ. Chúng tôi chỉ được biết đại lược như thế thôi, thường chủ nhân đi chừng một tuần, còn từ hôm đưa quí khách về ít bữa rồi đi, cũng đến năm, sáu hôm rồi...
Nghe hắn nói, chàng nhíu mày, ngạc nhiên:
- Thế ra, ta ở đây đã hàng tuần rồi sao?
- Dạ. Qúi khách mê man bất tỉnh lâu lắm. Chủ nhân phải ra lận tỉnh lỵ đưa bác sĩ về chữa, mãi mới gắp được viên đạn mắc trong người quí khách.
Thấy hắn vui vẻ thổ lộ, chàng không bỏ lỡ cơ hội tốt.
- Thế...
Nhưng ngay khi đó, hấn đã cúi đầu chào khách, đoạn lui luôn.
Hình như quen hoạt động ngược xuôi, tuy vết thương chưa lành, chàng trai trẻ giang hồ vẫn tỏ vẻ bứt rứt về nhưng phút giây tù túng. Nhất là việc riêng còn ngổn ngang và Voòng Lầu, thuộc hạ thân tín không hiểu sống chết, thất lạc nơi nào.
Hai hôm sau, một đêm chàng đang ngủ chập chờn chợt nghe có nhiều tiếng vó ngựa khua rầm rập, trong đêm tối, ngay phía dưới chân đồi. Rồi lại có nhiều tiếng người nói ồn ào. Ngạc nhiên, chàng ttai trẻ giang hồ liền ngồi dậy ra mở hé cửa sổ nhìn về phía trung tâm trang trại. Đèn đuốc sáng rực một vùng. Có một đàn người ngựa đang vượt qua cổng tiền, tiến vào khu sân rộng giữa mấy dãy dinh cơ.
Đám người ngựa lố nhố tới năm sáu mươi, súng đeo, dao giắt, quần áo sộc sệch tả tơi, trông biết ngay là vừa vượt đường xa đến.
Tới khu sân trại, cả bọn xuống ngựa mở những bao lớn thồ trên yên xuống. Giữa đám đông, chàng tuổi trẻ giang hồ trông thấy một dáng người quen, nhỏ nhắn, cách chỗ chàng đứng khá xa, nên không nhận ra được.
Người nhỏ nhắn xuống ngựa, vất dây cương cho một mã phu, giơ tay chỉ trỏ mấy cái, đoạn bước thẳng về phía nhà gạch ngang, và không thấy ra nữa. Ngồi sau khung cửa sổ, chàng tuổi trẻ quan sát cho tới khi bòn người dưới sân dắt ngựa về phía sau trang trại, mới vào giường nằm, suy nghĩ miên man.
Sớm mai, vừa rửa mặt xong, chợt nghe tiếng động bên ngoài, nhìn ra, thấy một người đứng tuổi, đẩy nhẹ cửa, bước vào. Chàng chưa kịp hỏi, hắn đã cúi đầu chào rất lễ phép.
- Chủ nhân mới về. Mời ông xuống... điểm tâm.
Chàng hơi gật đầu và theo hắn bước ra. Qua dãy hàng hiên, hắn đưa chàng thẳng xuống đồi, tới một con đường lớn, chạy về phía trung tâm trang trại. Kẻ qua người lại tấp nập, thoạt nhìn chàng có cảm tưởng mình đang đi giữa một đồn điền lớn, vì quanh mình hoàn toàn là sinh hoạt của ấp trại miền núi, với vẻ nhộn nhịp bình thản thông thường.
Người đứng tuổi đưa chàng trai trẻ giang hồ qua sân, tiến thẳng tới trước một căn nhà lớn. Tới cửa chính, hắn dừng lại, gõ mấy tiếng.
Cánh cửa mở rộng. Từ trong một cô gái cúi đầu chào và đưa chàng vào thẳng phòng khách, còn người dẫn đường đã lẳng lặng lui ra.
- Xin rước ông ngồi chơi! Cô Ba cháu ra ngay!
Đoạn người tớ gái thoăn thoắt vào trong.
Chàng trai giang hồ ngồi đưa mắt qua mấy chiếc ghế bọc da báo gấm đốm vàng và ngồi xoay sườn về phía cửa chính. Còn đang thắc mắc về hai tiếng “Cô Ba” lạ tai, thì chiếc rèm trúc bên cửa ngang đã lay động và nữ chủ vén rèn uyển chuyển bước ra. Trong khoảnh khắc chàng tuổi trẻ giang hồ thấy gian phòng như rực rỡ hẳn lên vì nhan sắc của thiếu nữ. Vừa thoạt nhìn, chàng đã thận ra ngay, vừa toan đứng lên chào,thì thiếu nữ đã hơi cúi dầu, nhoẻn miệng cười và thoăn thoắt bước đến, khẽ giơ tay làm hiệu cản lại, đoạn ngồi xuống đối diện chàng, dáng điệu rất dịu dàng, tự nhiên.
- Em vừa ở Tàu về tối qua, được người nhà cho biết ông đã khá mạnh. Mấy hôm không săn sóc vết thương của ông, em vẫn không yên tâm. Hiện ông thấy thế nào?
Chàng trai trẻ khẽ vặn mình, nhếch miếng cười:
- Dạ, cũng đã khá! Chỉ vài hôm nữa, có thế cưỡi ngựa được rồi.
Thế cô cũng vừa...
Thiếu nữ khẽ chớp hàng mi cong, mặt thoáng khác, nhưng vội nhoẻn cười:
- Trông ông còn... chưa lại sức hẳn, vả lại vết thương chưa liền, cần tĩnh dưỡng nhiều đã.
Chàng trẻ tuổi cũng mỉm cười:
- Còn cô vết thương cũng chưa khỏi, sao đã hoạt động vội?
Thiếu nữ lắc đầu:
- Em chỉ bị thương xoàng ở tay, bó chóng lành lắm.
Như vùng nhớ ra, nàng nghiêm mặt:
- Em đã cho đi kiếm Voòng Lầu, nhưng chưa có tin gì cả. Chỉ biết chắc chắn là Voòng Lầu không mắc tay giặc Thoòng đêm đó.
Đang nói, chợt cặp một thiếu nữ long lanh có vẻ tinh nghịch, nàng mỉm cười:
- À! Em đã cho người về Hà Nội mua các đồ hoá trang cho ông rồi...
Chàng trai trẻ nghĩ ngay tới bộ diện giả và đột nhìn đỏ cả tai. Tự nhiên, chàng trẻ buổi giang hồ nhìn thẳng vào đôi mắt long lanh của thiếu nữ, trong khi thiếu nữ cũng tinh nghịch ngó chàng. Hình như hai người đều muốn soi thấu những ý nghĩ bí ẩn thường giấu kín sau vẻ người hào hoa, bình dị của nhau. Nhưng cả hai đều tôn trọng sự bí mật riêng của nhau, nhất là thiếu nữ. Vì chàng tuổi trẻ từng đội lốt ông già, lại là ân nhân của nàng trong những giờ phút gian lao nhất.
Vẻ nghịch ngợm biến nhanh trên khuôn mặt đẹp đẽ của cô gái.
Cô chớp khẽ hàng mi cong, giọng nghiêm thân mật:
- Ông có việc riêng ra đi, nếu... có cần chi xin ông đừng ngại. Em ở đây có gần hai trăm tay súng đóng rải rác mấy nơi, ước có dịp để rỏ máu đền đáp ơn sâu.
Chàng buổi trẻ mỉm cười:
- Người cưỡi ngựa, mang súng ở miền biến giới, giúp nhau khi thất thế là thường, sao còn nhắc tới làm gì? À, không biết những người bị bắt cùng với cộ..
Thiếu nữ ngắt lời, giọng thản nhiên:
- Em đã sang đánh cứu họ về rồi. Chật vật lắm! Phải đánh vào tận sào huyệt Thoòng Mềnh. May những thứ bị cướp còn nguyên. Bọn thuộc hạ có bắt mấy tên thân thiết của Thoòng thồ về cả tối qua.
Như chợt nhớ ra, nàng hỏi:
- À, em chưa được biết...
Đang nói, chợt thiếu nữ ngưng lại có dáng ngại ngần. Nhưng người tuổi trẻ giang hồ đã dăm đăm nhìn thiếu nữ, đoạn trầm giọng:
- Từ lâu, người ta gọi là Hồng Lĩnh...
- Còn em là Phượng Kiều...
Chàng tuổi trẻ hơi gật đầu, toan nói gì lại thôi. Vừa lúc đó, người tớ gái bưng trà nước cùng các món điểm tâm ra. Phượng Kiều mời Hồng Lĩnh ăn, cô gái chuyện trò rất thân mật, dáng điệu tự nhiên, cởi mở. Nhưng tuyệt nhiên, không ai đi sâu thêm vào những bí ẩn riêng của nhau. Điểm tâm xong, chàng tuổi trẻ giang hồ cáo lui về phòng riêng.
Buổi chiều và luôn ngày hôm sau, chàng trai trẻ đã mấy lần đi dạo xuống khu trung tâm trang trại, không khỏi ngạc nhiên vì chẳng thấy bóng dáng thuộc hạ của Phượng Kiều đâu, cả cô gái nữa. Nhưng chỉ có mấy tên đeo súng lầm lì quanh quẩn trong trang và bốn tên hộ vệ chàng vẫn không rời một bước.
Đêm sau, đang yên giấc, chợt Hồng Lĩnh vùng tỉnh vì súng nổ chát chúa gần đây. Chàng vội tung chăn, bước đến cánh cửa gỗ, hé nhìn ra.
Phía trung tâm, đèn đuốc sáng rực như ban ngày, lố nhố thấp thoáng những bóng người cầm súng nấp khằp nơi, bắn xả cả ra tứ phía. Bên ngoài hình như có khá đông tay súng, vì ánh lửa, vụt lóe vụt tắt luôn luôn trong đêm tối vì những tiếng reo hò vang dội cả một vùng, lắng tai nghe toàn tiếng Quan Hỏa.
Ngoài khu trang, phía xa xa cách chừng mấy cây, hình như tận phía rặng núi bên kia thung lũng, lại cũng có tiếng nổ ròn tan, tới tấp.
Hồng Lĩnh đứng bên cửa quan sát trận chiến, trong đầu óc nổi lên nhiều nghi vấn. Còn đang ngạc nhiên chưa hiểu chuyện chi, thì chợt tiếng gõ cửa rất gấp. Người trẻ tuổi bước vụt tới bên tủ gương, khẽ mở cánh, quơ nhanh dây súng đeo vào sườn, với tay súng, tay dao, chàng men từng bước đến bên cửa ra vào:
- Ai?
Tiếng đập cửa ngưng ngay. Có tiếng đàn ông lạ rít lên:
- Mời ông đi ngay! Cô Ba muốn gặp!
Hồng Lĩnh nhíu mày, im một khắc.
- Ông à ! Cô Ba cho người tới đón đó!
Nghe rõ tiếng gã gác biệt thự, Hồng Lĩnh liền với tay mở khóa, đoạn cẩn thận đứng né sát vào tường.
- Cửa mở đấy!
Chàng vừa dứt, cánh cửa lập tức bị đẩy tung ra, một bóng người ập vào, tay cầm súng lăm lăm. Gian phòng mờ tối, hắn đảo mắt nhìn quanh. Hồng Lĩnh đứng chếch sau lưng, điềm tĩnh lên tiếng:
- Có chuyện chi đó?
Hắn hơi giật mình, quay phắt lại:
- Mời ông đi ngay! Cô Ba muốn nhờ ông chút việc, sai tôi đến đưa đi.
Với tay vặn to ngọn đèn dầu hoả, Hồng Lĩnh thấy người đó quần áo tả tơi, trán rớm máu, có lẽ vừa bị đạn hớt qua. Và gã gác nhà cũng dừng ngay bên khung cửa. Chàng trai trẻ giang hồ nheo mắt:
- Đi xa không? Thế không phải... dưới kia sao?
Bên ngoài tiếng súng vẫn vang dồn. Hồng Lĩnh hơi hất đầu làm hiệu. Gã gác biệt thự né sang bên, nhường lối cho người mới tới.
Chàng trẻ tuổi giang hồ bước theo, một tay khép cửa lại. Đêm tối mịt mùng. Ngoài trang, những tia lửa vẫn lập loè giữa đêm khuya, tiếp liền tiếng súng nổ giòn tan. Đạn réo ngay trên đầu hai người. Gã dẫn đường đưa Hồng Lĩnh xuống chân đồi. Hai ngời:
phải khom mình tránh đạn từ phía ngoài xa bắn vung vãi cả vào sườn đồi, nóc nhà, tung cả cành cây, mái ngói.
Men thẳng đến bên dòng suối ven đồi, gã dẫn đường cùng Hồng Lĩnh ngược theo chiều suối, len lỏi giữa đêm tối. Được độ mấy chục thước, người dẫn đường chợt dừng bên một gốc cây.
Trong bóng tối, Hồng Lĩnh thấy bóng hai con ngựa đen ngòm đứng dưới cây.
- Lối này chúng chưa vào được vì là khu đất giáp với khu sau. Mời ông! Ta cần đi gấp, không chậm mất!
Miệng nói, tay hắn tháo dây cương, trao cho Hồng Lĩnh và chờ chàng lên yên xong, hán cũng nhẩy phắt lên con ngựa bên, đoạn đánh đi bước. Bóng tối như loãng dần theo bước chân ngựa.
Hồng Lĩnh theo gã đẫn đường phóng kiệu băm trên đường mòn lượn giữa những quả đồi trọc, thoáng cái đã bắt vào một con đường khá rộng. Nhưng mới đi chừng trăm thước, hắn đã quẹo về tay hữu, băng qua thung lũng và Hồng Lĩnh thấy con ngựa đang phóng về phía rặng núi đá sừng sững ngay trước mặt. Càng đi, càng xa tiếng súng phía trại, nhưng càng gần tiếng nổ phía trước. Thoáng cái đã tới chân núi, súng nổ chát chúa. Đạn xé không gian ngay trên đầu. Đưa mắt nhìn, Hồng Lĩnh thấy mình đã vào rìa khu núi đá và tiếng súng nổ từ ba nẻo phía tả bắn chếch ngay vào núi.
Người dẫn đường đưa chàng len vào hẻm bên hữu, luồn về phía sau tiếng súng. Chàng cùng hắn vừa xuống ngựa thì từng loạt đạn đã từ ngoài bẵn xối xả tới. Đêm tối mù, chàng còn chưa nhận rõ mọi vật quanh mình, thì chợt có bóng người nhỏ nhắn từ đâu tiến nhanh đến bên chàng.
- Chúng nó đông lắm! Chúng em có ít tay súng đi vắng, thành thử phải phiền ông...
Nhận ra Phượng Kiều, chàng trẻ tuổi giang hồ mỉm cười, hỏi:
- Bọn nào mà lại chia quân đánh cả trong, ngoài vậy?
- Thoòng Mềnh! Nó mượn cả quân thổ phỉ khác nữa!
Hồng Lĩnh nghe rõ tiếng thở mạnh của Phượng Kiều:
- Hừ! Có nội ứng nên nó mới biết rõ đường ngang ngõ tắt vùng này? Nó có vẻ quyết đánh đến cùng lắm!
Đạn bắn xối vào chỗ mấy người. Phượng Kiều thấp giọng:
- Nếu bây giờ có tay gan dạ chỉ huy một tốp người đánh bọc hậu chúng, chắc có thể chuyển thế trận được.
Hồng Lĩnh cười thản nhiên:
- Nhưng cần định rõ địa hình!
Phượng Kiều quay bảo gã bên cạnh:
- Giữ trận cho ta mấy phút! Mời ông vào đây.
Phượng Kiều quay ngoắt, đưa Hồng Lĩnh đi vài chục bước, vào một cái hang khá rộng, đèn đuốc sáng trưng. Cô gái trải một tấm bản đồ trước mặt Hồng Lĩnh, lấy tay chỉ trỏ căn dặn, đoạn gấp lại. Nàng quay bảo một gã đàn ông túc trực sẵn:
- Ra bảo toán ba tập trung lại, theo ông Hồng Lĩnh.
Dứt lời, thiếu nữ mỉm cười rút khẩu súng bên mình trao cho người tuổi trẻ:
- Đền ông khẩu súng trước! Ông đùng cho đủ bộ đôi!
Hồng Lĩnh cầm lấy súng, hơi nhếch miệng cười, đoạn cùng Phượng Kiều bước nhanh ra khỏi hang. Hai người chia tay nhau, băng đi trong đêm mờ.
Tiếng súng phía ngoài vẫn bắn xả vào, những tiếng quát tháo vẫn nổi lên. Lúc sau, chợt quân Thoòng rối loạn vì bị đánh thốc phía sau lưng. Tiếng quát tháo càng nổi lên, náo động giữa hàng loạt đạn bắn rát. Súng từ chân núi phản công, trong, ngoài bọc lấy kẹp chặt. Có nhiều tiếng rú thét trong đêm, rồi tiếng rên rỉ. Phía xa, nẻo trang trại, chợt tiếng nổ cũng trội hẳn lên một lát rồi im bặt, lát sau như kéo dần tới phía đằng này. Thế chiến chuyển hẳn. Súng thưa dần, rồi có những tiếng chân ngựa khua rầm rập... như đuổi nhau gấp gáp.
Đèn đuốc bật lên, sáng cả một góc núi. Phượng Kiều chạy lại bên Hồng Lĩnh.
- Không được ông giúp, thật đêm naỵ.. nguy với quân giặc.
Hồng Lĩnh đưa mắt nhìn quanh, bảo Phượng Kiều:
- Có một toán quân nào đánh đuổi thổ phỉ tại phía trang trại, rồi đánh thọc bên sườn cánh quân Thoòng Mềnh ở đây, nên thế trận chuyển mau hẳn đi.
Phượng Kiều như cũng chợt nhớ ra:
- À vâng, em có nghe tiếng súng khác thường chuyển dần về hướng này... hay là...
Đang nói, thiếu nữ vội ngừng ngay, cùng mọi người nhìn ra phía thung lũng trước mặt. Từ các ngả, bọn quản gia giữ các vị trí ngoài, đang lục tục kéo về mạn cửa hang, và bọn đang dìu dắt quân bị thương đi lên con đường thung lũng chợt đứng rẽ cả ra hai bên, nhường lối cho một bọn người cỡi ngựa từ ngoài thung lung phóng vào.
Như đã quen đường lối, bọn này tiến thẳng tới cửa hang, chỗ Hồng Lĩnh, Phượng Kiều cùng mấy gã đầu lĩnh đứng. Hồng Lĩnh còn đang ngạc nhiên nhìn mấy người lạ đi đầu, tới chỗ nào bọn quân gia cúng cúi đầu chào kính cẩn, thì một người đứng tuổi đã vượt ngựa tới trước Phượng Kiều. Và thiếu nữ đã reo lên:
- Kìa! Thầy! Lại tưởng...
Nguròi đứng tuổi nén dây cương cho một gia nhân, vừa xoa tay, vừa cười:
- Sao? Bên ta có bị thiệt hại gì không? Thầy vào trại thấy bị đánh, phải cho chúng nó đánh thốc ra ngay, rồi mới mở ường về phía này. Chỉ ngại bọn giặc vào được cơ sở trong này...
Người đứng tuổi chợt ngừng, vì vừa nhận ra khuôn mặt người lạ trong bọn. Ông đưa mắt nhìn Hồng Lĩnh có vẻ ngạc nhiên xúc động bất thần. Phượng Kiều liền mỉm cười:
- Quên! Con chưa kịp giới thiệu. Đây là ông Hồng Lĩnh, người đã cứu con khỏi tay bọn Thoòng! Còn đây thầy em...
Người cha Phượng Kiều đã lấy lại vẻ thản nhiên, ông giơ tay ra, miệng hơi nhếch cười, và nhã nhặn:
- Trần Tắc...
Hồng Lĩnh bằt tay ông và từ tốn:
- Cụ về vừa kịp! Nếu không, bọn thổ phỉ cũng chưa chịu tháo lui!
Trần Tắc cười, thân mật:
- Tôi mằc ở xa, nhưng có được con Phượng cho biết về tài bắn của ông. Ơn ông giải cứu thật...
Nói đến đó, chợt ông quay bảo mấy gã đầu lĩnh đứng quanh:
- Liệu đôn đốc cho nó quét dọn sạch sẽ cả khu đi ngay! Nhớ để ý những xác nằm ở hốc đá, bụi rậm, nghe!
Đoạn ông khoát tay bảo Phượng Kiều, Hồng Lĩnh:
- Thôi! Ta vào trong nói chuyện, đứng ngoài sương khuya làm gì!
Cả ba cùng vào hang. Hang rất sâu có nhiều hốc hai bên. Chỗ nào cũng có đèn đuốc thắp sáng, thỉnh thoảng lại thấy thấp thoáng bóng quân canh.
Hồng Lĩnh đã từng ở hang sâu nhiều, cũng phải khen thầm vi trí hang sâu này, đặc biệt là thêm lối kiến trúc dựa vào hình thể thiên tạo để biến thành một nơi cư trú rất thuận tiện. Càng vào trong, chàng càng có cảm tưởng rõ rệt mình đang đi sâu vào một nguồn bí mật lạ lùng, và càng thấy chủ nhân là người mưu trí khác thường.
Hai cha con Phượng Kiều đưa Hồng Lĩnh qua nhiều ngách hang, cuối cùng tới một căn nhà rộng. Ba người đàm luận một lát, đoạn Phượng Kiều truyền gia nhân dọn chỗ cho khách ngả lưng, rồi hai cha con cáo thoái lộn lại phía hang.
Cảm thấy mệt mỏi, người tuổi trẻ nằm xuống, cố dẹp những ý nghĩ vẩn vơ, và nhắm mắt ngủ luôn. Sớm sau, chàng trẻ tuổi tỉnh giấc lúc ánh nắng đã chiếu vào tận giường nằm. Tung chăn dậy, bước xuống đất đã thấy chậu nước và khăn bông đặt sẵn trên giá gỗ, chàng rửa mặt qua loa rồi đẩy cửa sổ nhìn ra ngoài trời. Lúc đó mới rõ căn nhà này nằm dựa ngay vào vách đá, nép vào một hốc rộng, mái nhà có dây leo phủ kín rủ cả xuống cửa sổ. Chỗ chàng đứng ở trên cao, nhìn xuống thung lũng thấy ngọn cây xanh rờn và con đường vắt qua nhỏ như con rằn uốn khúc. Lạ nhất là suốt khu thung lũng, không một mái nhà thổ dân, trông hoàn toàn hoang dã, không ai ngờ bên trong chứa một sự sống... sát máu bí ẩn.
Đang nghĩ liên miên, chợt có gia nhân vào mời, đưa chàng lộn lại nẻo hang đêm qua, lúc đó mới rõ căn nhà chàng ngủ, trông đường xuống phía trước, chỉ độc đạo qua hang.
Hai cha con Phượng Kiều đang ngồi chờ khách cùng dùng điểm tâm qua loa rồi lên ngựa về trang trại. Phượng Kiều thường sánh ngựa với Hồng Lĩnh, chuyện trò vui vẻ, chỉ riêng người cha có vẻ khác lạ. Ông luôn ngó người tuổi trẻ, mặt thỉnh thoảng lại loé lên một tia nóng bỏng. Nhưng mỗi khi nói chuyện, ông vẫn lấy vẻ tươi cười vồn vã. Thái độ khác lạ của Trần Tắc, tuy rất kín đáo, cũng không qua cặp mắt của chàng tuổi trẻ giang hồ. Riêng Phượng Kiều vẫn vô tình không hề lưu ý tới vẻ khác thường của cha. Nàng vẫn đánh ngựa sóng hàng với Hồng Lĩnh và chuyện trò thân mật tự nhiên. Thấy thế, người tuổi trẻ giang hồ thường giữ ý, cho ngựa tiến lên hoặc lùi lại sau nàng. Và lấy làm lạ về thái độ của Trần Tắc, chàng luôn đi cặp ngựa bên, gợi chuyện để dò ý tứ ông già ra sao. Nhưng mỗi khi nói chuyện với chàng, người cha Phượng Kiều lại tỏ ra vui vẻ, không có gì khác lạ cả.
Ánh nắng đã chan hòa thung lũng. Sương trắng mắc ngang rặng núi đá cũng đã tan hẳn. Mấy con ngựa thủng thẳng bước một trên đường. Tới bên dòng suối có cành lá um tùm, đột nhiên, Trần Tắc đừng ngựa, đảo mắt nhìn quanh. Ngoảnh lại thấy cha đang quan sát, nghe ngóng, Phượng Kiều vội lùi ngựa, khẽ hỏi:
- Có gì đó, thầy? Trần Tắc khẽ giơ tay làm hiệu miệng lầm bẩm như nói một mình, cặp mắt vẫn nhìn xói vào bờ bụi:
- Cha vừa nghe có tiếng động khác thường...
Dứt lời đột nhiên ông già rút phắt súng bắn vãi luôn mấy phát về phía trước. Lúc đó, Hồng Lĩnh đã vào khúc quẹo, chợt nghe súng nổ phía sau, vừa quay đầu lại, đã thấy một luồng đạn réo sạt bên tai.
Nhanh như cắt, chàng lăn luôn xuống chân ngựa. Nhưng súng đã im bặt và ngay lúc đó hai cha con Trần Tắc đã phóng ngựa lên. Thấy chàng tuổi trẻ đang chống tay đứng lên, thiếu nữ cười hồn nhiên:
- Trời! Ông Hồng Lĩnh tưởng có quân phục sao?
Người tuổi trẻ giang hồ phủi quần áo và đưa mắt nhìn Trần Tắc, lúc đó đang cắm súng vào bao, chàng mỉm cười điềm nhiên:
- Vâng, tưởng bị phục thật! Vì... đạn bắn ngay bên mang tai...
Phượng Kiều nghe nói, vội nhìn cha có dáng trách móc, đoạn bảo Hồng Lĩnh:
- Cha em nghe có tiếng động lạ đâu đây nên bắn dè chừng về nẻo đó, không ngờ ngựa trước đã vào khúc quẹo.
Trần Tắc nghiên mặt chỉ tay về phía hữu:
- Có tiếng động rất nhẹ, tôi ngờ có kẻ lạ lẩn quất quanh mình.
Hồng Lĩnh đưa mắt ngó qua về phía ông ta trỏ, đoạn nhảy lên ngựa, mỉm cười:
- Có lẽ con vật nhỏ nào chạy trên lá khô đó. Thôi! Chúng ta đi.
Mấy con ngựa lại tiếp tục bước, nhưng từ đấy chàng tuổi trẻ đi sát bên Trần Tắc không rời một bước và chuyện trò vui vẻ tự nhiên như thường.
Tới trang trại, hai cha con Phượng Kiều đưa Hồng Lĩnh về nhà riêng trên sườn đồi, rồi xuống khu trung tâm. Mặt trời khuất mau dưới rặng núi Tây và bóng tối đổ xuống rừng sâu, trùm lấy vùng trang trại bí mật.
Trong căn phòng rộng ở dãy nhà chính giữa, Trần Tắc ngồi bên bàn, đăm dăm nhìn ngọn lửa vật vờ theo hơi gió. Dưới vùng ánh sáng đỏ khè, khuôn mặt ông rắn lại như đá tạc, giữa khuôn mặt tối mờ vì nham nhở ánh nến, hai con mắt người đàn ông đứng tuổi quắc sáng, trông thư tráng màu... chết chóc.
Ông ngồi im như pho tượng, thỉnh thoảng mới đưa mắt nhìn xa bóng tối, nghĩ ngợi triền miên như đang tính toán cân nhắc một quyết định gớm ghê.
Ngoài đêm, tiếng chim cú mèo chợt rúc lên, tiếp liền mấy tiếng chim lợn quái gở bay qua để rớt xuống trang trại... Một hơi gió lọt qua khung cửa, thổi ngọn lửa nến rạp xuống. Người đàn ông đứng tuổi ngẩng phắt mặt lên. Cánh cửa hé mở từ từ, Phượng Kiều lách mình vào, nhẹ bước tới trước bàn, lạ lùng hỏi:
- Thầy bảo gì con?
Trần Tắc nhìn con một khắc và thình lình trầm giọng:
- Con có biết kẻ đó là ai không? Kẻ đã tình cờ cứu con?
Phượng Kiều mở to đôi mắt, như ngạc nhiên chờ đợi. Người cha chậm rãi:
- Ngay từ lúc thoạt nhìn, cha đã ngờ ngợ, sau thấy rõ dấu vết riêng của hắn mới giật mình, tin chắc.
Trần Tắc ngừng lại, nhìn thẳng vào đôi mắt mở to của Phượng Kiều. Thiếu nữ chớp hàng mi cong, khẽ hỏi, giọng cố làm cho tự nhiên:
- Thầy bảo người đó...
Trần Tắc buông từng tiếng một:
- Là một con người rất nguy hiểm!
Và không để cho con gái có một phản ứng, họ Trần giáng tiếp luôn mấy nhát búa.
- Hắn chính là tên tướng giặc khét tiếng miền Thập Vạn Đại Sơn, hắn là tay súng đã hạ rất nhiều người...
Ngạc nhiên, Phượng Kiều khẽ kều lên:
- À! Thế rạ..
Trần Tắc cười không ra tiếng, tiếp lời:
- Chính hắn! Dân bản địa đã gọi hắn là “Thần Xạ Đại Sơn Vương”... và ba năm nay, hắn hùng cứ một miền Thập Vạn Đại Sơn, thu phục được khá nhiều bộ hạ.
Phượng Kiều hơi nhíu mày có dáng nghĩ ngợi, đầu gật gật nhẹ và lẩm bẩm như nói một mình:
- Thảo nào... chỉ hai thầy trò mà dám phục đánh hàng trăm quân Thoòng!
Như không để ý tới lời con, Trần Tắc tiếp:
- Hắn xuống biên giới phải có mưu định gì? Hừ! Thoòng Mềnh chưa thanh toán xong, đã đến kẻ khác nguy hiểm gấp trăm! Rồi đây...
Tưởng cha băn khoăn về sự có mặt của Hồng Lĩnh. Phượng Kiều tiến sát lại, miệng hơi nhếch cười:
- Nhưng... Ông ta là ân nhân của con, và cha cũng rõ ông ở đây chỉ là tình cờ...
Trần Tắc dăm đăm nhìn con gái. Mấy lần, ông định nói gì lại thôi. Cuối cùng họ Trần nhìn trừng vào ngọn lửa nến vật vờ, mặt mày nỗi khắc càng thêm rắn lại. Thấy cha im lặng, Phượng Kiều cũng im lặng. Hai cha con, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng tư. Một lúc khá lâu, Trần Tắc mới ngẩng đầu lên, khẽ bảo con:
- Thôi! Đêm đã khuya, con đi nghỉ, chuyện đó để... thầy liệu định!
- Nhưng...
- Được! Cha đã có ý định... rồi con sẽ rõ!
Phượng Kiều muốn nói gì, lại thôi, cô gái có vẻ tần ngần mấy khắc, đoạn lui ra. Trần Tắc đưa mắt nhìn bóng con gái khuất sau khung cửa tối, cặp mày ông nhíu lại, vành môi mím chặt. Chờ cho cô gái ra khá lâu, người đàn ông đứng tuổi chậm chạp đứng lên, bước ra ngoài hiên và đi vào đêm tối. Đêm về khuya, khí núi bốc lên lành lạnh.
Trong căn nhà ven đồi, chàng tuổi trẻ Hồng Lĩnh nằm thao thức, không sao nhằm mắt nổi. Chàng duỗi thẳng chân, nằm ngửi nhìn lên đỉnh màn tranh tối tranh sáng, tai nghe hơi gió đêm lùa qua khẽ hở rì rào. Tiếng động ban đêm sắp chìm hẳn, và mí mắt người tuổi trẻ vừa khép lại, sắp thiu thiu ngủ, chợt chàng hơi giật mình chớp mắt luôn mấy cái để chống với giấc ngủ đang chậm đến.
Bên ngoài, rõ ràng có tiếng động thật nhẹ nổi lên, một thứ tiếng động mà người giang hồ từng trải đã quen nghe. Tiếng một vật rắn chạm vào một vật, nổi lên và chìm luôn trong làn gió.
Chàng nhỏm phắt dậy, lẹ làng lăn xuống đất, ẩn mau vào bóng đêm, ngay sau ánh đèn dầu chỉ còn bằng hột dỗ, xanh lè. Ngoài hiên, im bặt, tuyệt không tiếng động của gã canh biệt thự. Chỉ có tiếng côn trùng rên rỉ trong gió thoảng. Khá lâu sau, mới có tiếng chìa khóa tra vào ổ, lắng nghe thật kỹ mới rõ. Rồi cánh cửa từ từ hé ra, cho một bóng người lách vụt vào, nhanh và êm như một cái bóng.
Hắn lách ngồi, vào trong rồi, mới đứng phắt lên cao lớn, sừng sững. Một vệt sáng xanh lè từ tay người lạ bật lên, quay lia một vòng.
Người lạ bước thẳng tới bến giường.
- Thầy ạ! Thầy!
Người lạ sờ thấy giường không vội quay phắt lại lia đèn bấm về phía ngọn đèn dầu.
- Thầy ạ?
Từ trong bóng tối, Hồng Lĩnh đã bước vụt ra.
- Trời ! Voòng Lầu! Sao...
Người lạ tiến nhanh đến bên Hồng Lĩnh, thấp giọng:
- Thầy! May quá! Tôi phải lên qua mấy chặng canh của chúng, suýt đụng phải tên chủ. Ta đi thôi.
Hơi ngạc nhiên, Hồng Lĩnh hỏi thuộc hạ:
- Sao... gấp thế? Mà từ hôm đó Voòng Lầu phiêu bạt chỗ nào?
- Chuyện dài lắm a thầy! Giờ phải đi ngay! Thầy đang nằm trong hang hổ dữ.
- Nhưng... sao?
Voòng Lầu vội ghé tai chủ, thì thầm to nhỏ mấy tiếng gì không rõ khiến Hồng Lĩnh tỏ vẻ kinh ngạc hết sức. Người tuổi trẻ đặt tay lên vai thuộc hạ:
- Vậy! Ta rời ngay chỗ này. Hừ! Thật không ngờ...
Voòng Lầu nhìn ra phía cửa, bảo Hồng Lĩnh:
- Thầy thu xếp mau lên! Chỉ hai mươi phút nữa, tên gác có thể tình lại.
Dứt lời, Voòng bước vụt ra ngoài. Hồng Lĩnh đến bên tủ gương thay quần áo, thoáng cái, chàng đã đến bên đèn, gọn ghẽ trong bộ y phục màu chàm. Quàng dây đạn quanh sườn xong, chàng xốc lại bao súng, v~ bước ra phía cửa. Tay đã đặt vào cánh cửa, chàng tuổi trẻ còn quay lại đưa mắt nhìn quanh phòng, rồi mới lách ra.
- Xong chưa, thầy?
- Rồi! Ta đi chứ! Tên gác sao?
- Dạ. Tôi đã nhét giẻ vào miệng và trói lại cẩn thận rồi.
Hai người bước vụt đi trong đêm tối. Về khuya, gió thổi hơi mạnh.
Trên nền trời tối nhạt, thấp thoáng ẩn hiện lờ mờ mấy vì sao thưa...
Trung tâm trang trại, nằm im bặt như đã thiếp trong giấc ngủ, chỉ có một, hai ánh đèn le lói lọt qua khe cửa dãy nhà ngang, hắt ra. Hai người đàn ông giang hồ tới đầu hiên quan sát thận trọng đoạn xuống phía chân đồi, bên suối.
- Quanh đây chỗ nào cũng đều có vọng gác ngầm. Ta nên băng ngang qua suối đi một đoạh rồi hãy ngược rìa địa khu.
- Được! Cố tránh chạm trán với chúng, nhất là chạm súng. Ta muốn ra khỏi nơi đây đã.
- Dạ!
Hai bóng người mất dạng bên suối rừng, trong đêm chỉ nghe tiếng nước chảy tha thiết... mơ hồ...
Hai người đi được chừng nửa giờ, thì phía trong trang trại tự nhiên có vệt sáng đèn bấm loé lên, rồi phụt tắt. Hai bóng người, một cao, một thấp, vụt qua sân có dáng vội vã, khuất mau sau phía nhà kho, lát sau, thấy đã đứng sững ngay trên sườn đồi cạnh biệt thự của Hồng Lĩnh ở. Tia đèn bấm lại lóe lên. Từ mấy ngả, có bốn, năm bóng người nữa đổ tới. Thì thầm bàn tán xong, cả bọn chia hai phía, tiến đến bên biệt thự.
Bóng người cao lúc đầu rón rén đến đầu hàng hiên lắng tai nghe ngóng. Bên trong, không một tiếng động. Hắn vội áp tai vào bên cửa sổ rồi nghển cổ, nhìn vào trong. Mấy khắc sau, hắn giơ tay vẫy nhẹ về phía sau. Từ chỗ tối, bóng người thấp nhô ra, tiến lại. Hai bóng người ghé sát vào nhau, đang thì thầm bàn tán gì, chợt cùng áp lưng vào tường, nhớn nhác. Đâu đây, hình như về phía hữu, có tiếng người ú ớ như bị bóp cổ. Như chợt hiểu, cả hai bước vòng luôn ra lối hiên trước. Bóng cao vấp phải một vật, mất đà, suýt ngã. Ánh đèn bấm từ tay người đi sau vội lóe lên. Và cả hai cùng khẽ bật kêu, kinh ngạc:
- Kìa! Thằng gác!
Đoạn, cùng lúc, tiến nhanh lại khung cửa đẩy mạnh. Cửa mở tung cho gió đêm lùa vào căn phòng trống. Giơ tay vặn cao ngọn đèn dầu, người thấp nghiến răng:
- Hừ! Chậm ra tay, nó đã thoát trước mất rồi!
Ánh đèn dầu hắt trên khuôn mặt người đàn ông đứng tuổi những vùng sáng vật vờ, soi rõ những nét dữ dội vụt hiện trong ánh mắt Trần Tắc. Trần Tắc bước đến lên giường, lia đèn bấm luôn mấy vòng.
Gã cao lớn đứng bên nghe rõ tiếng nghiến răng của chủ, lùi lại chút:
- Nó gớm thật! Giá chủ nhân quyết đinh hạ ngay đêm trước...
Trần Tắc quay lại, cười không thành tiếng:
- Ta đã một lần ra tay! Nhưng... nó đã kịp tránh khỏi luồng đạn.
Chớp mắt luôn mấy cái, Trần Tắc chợt thấy tên gác đứng bên khung cửa, vội trừng mắt, dằn giọng hỏi:
- Mày bị từ bao giờ, nhớ không?
Gã gác sợ:
- Bẩm... chắc mới đây. Nó thình lình đánh vào đầu, nhưng...
không phải Hồng Lĩnh.
Ngạc nhiên, Trần Tắc hỏi dồn:
- Sao? Sao biết được ?
- Da..... Vì ngay lúc con đang nhìn về phía cửa chính khóa chặt, thì... bị đánh từ phía sau lưng...
Trần Tắc nhíu mày ngó quanh, lẩm bẩm:
- Vậy có lẽ có đồng bọn tới. Mà chắc cũng không lâu đâu.
Đoạn quay phắt, vẫy tay ra lệnh:
- Chúng nó chưa ra khỏi nơi này, mau huy động đủ người chia các ngả sục tìm! Mà nhớ huy động cho êm ả, nghe!
oOo Nằm trằn trọc mãi mới ngủ được, vừa thiếp đi, Phượng Kiều đã chợt tỉnh giấc. Còn đang lắng nghe tiếng chim rừng kêu ríu rít bên ngoài, thì cửa phòng đã hé mở, con hầu gái rón rén bước vào.
- Cô Ba à! Lạ lắm!
Ngạc nhiên, Phượng Kiều vội chống tay ngồi lên, xỏ chân vội vào dép:
- Sao? Có gì đó?
Con hầu gái thấp giọng:
- Tối qua con thấy dưới nhà ngang rộn rịp lắm, vừa giờ con, đi qua, thấy vắng hẳn đi. Hình như họ theo lệnh cụ đi đâu đó.
Phượng Kiều hơi nhíu mày, có dáng suy nghĩ. Đoạn nàng khoát tay, bảo người hầu gái:
- Sửa soạn các thứ mau! Để ta ra xem!
- Dạ ! Mọi thứ con đã sắp sẵn rồi. Mời cô sang phòng tằm.
Con hầu gái vừa bước ra, Phượng Kiều đã gọi giật lại:
- À này! Nhớ ra bảo thắng ngựa sẵn, có khi ta cần đến ngay đó!
Nói xong thiếu nữ sang phòng bên, rửa mặt và trang điểm qua loa, đoạn thay y phục đi rừng, bước nhanh ra bên ngoài. Cô gái đưa mắt nhìn quanh thấy vắng người thốt nhiên tần ngần ngó về phía biệt thự Hồng Lĩnh. Linh tính như báo trước sự gì khác thường, nàng vội rảo bước qua sân, đi thẳng về nẻo đó Tới hiên, nàng tiến thẳng đến khung cửa, thấy cánh khép hờ, liền đẩy mạnh, bước vụt vào.
Trong mấy giây, thiếu nữ đứng sững như lặng đi vì sự trống không của căn phòng. Nàng cắn chặt vành môi, đưa mắt nhìn những đồ vật vẫn nguyên chỗ, chỉ có tủ quần áo là bị lục tung, có cái rơi cả xuống đất.
- Thôi đúng rồi!
Thiếu nữ vùng nhớ tới thái độ của cha và không nén được hơi thở mạnh. Nàng bước nhanh ra khỏi phòng, lộn lại khu trung tâm. Tới sân, gặp người hầu gái, thiếu nữ vội khoát tay:
- Bảo dắt ngựa ra đây! Và vào lấy súng ngay!
Người hầu gái vừa quay đi, Phượng Kiều không kịp đợi, liền bước về phía tàu ngựa. Vừa trông thấy mã phu đang lúi húi nịt dây yên, thiếu nữ hỏi luôn:
- Xong chưa...? Sao lâu thế?
Mã phu vội vàng ngẩng đầu lên:
- Dạ xong rồi đây cô Ba!
Phượng Kiều tiến đến sát, hỏi:
- À! Chú có biết sớm nay cả nhà đi đâu không?
Gã gia thân hấp háy mắt:
- Thưa, hình người có việc gấp lắm! Ngay hồi đêm, cụ đã truyền đóng ngựa đến mấy chục con đó!
- Ngay từ đêm?
- Vâng.
Gã gia nhân nịt xong nút cuối, đứng lên, và trao tay cương cho nữ chủ, vừa tiếp:
- Cụ đi có vẻ gấp lắm! Hình như cũng đi gần thôi vì không ai mang theo lương thực.
Phượng Kiều đỡ lấy cương, dắt ngựa ra vừa tới ngoài, đã thấy người hầu gái chạy ra đưa dây súng. Thiếu nữ coi qua, quàng vào lưng, đoạn nhảy phắt lên yên, tế thẳng ra lối cổng tiền. Đi được chừng trăm thước, còn đang đưa mắt định hướng, đã thấy một người cưỡi ngựa phi kiệu đại phía rừng trước băng ngang. Nhận ra gã đầu lãnh thuộc hạ. Phượng Kiều vừa giơ tay vẫy, vừa đánh ngựa rẽ tới. Hai đầu ngựa đối nhau, Phượng Kiều hất hàm:
- Chú đi đâu về mà có vẻ hớt hải thế?
Gã đầu lĩnh thở hổn hển, nhìn nữ chủ, mặt thoáng biến đổi.
Phượng Kiều tinh mắt, thấy ngay. Thiếu nữ nhìn thẳng vào mắt hắn, cặp mày nhíu lại:
- Đi đâu về mà hỏi lại lúng túng thế?
Gã chớp mắt luôn mấy cái, nhớn nhác ngó về phía sau, ấp úng:
- Da..... thưa cô Bạ..
Thấy vẻ khác lạ của gã đầu lĩnh vẫn từng quen tuân lệnh mình, thiếu nữ chợt đoán ngay, liền chặn luôn, mắt nàng quắc lên dữ dội:
- Cụ dặn phải giấu ta, phải không? Hừ!
Nàng dằn giọng, nói như truyền lệnh:
- Không được giấu. Phải nói cho thực. Có chuyện gì?
- Da..... thưa... Cụ sai về huy động thêm người. Mà không được để cô biết.
Thiếu nữ vẫn không rời mắt hắn. Thấy hắn chợt ngưng, cô gái dịu giọng:
- Sao? Cứ nói! Ta không để cụ rõ đâu!
Mặt thoáng vẻ mừng, hắn cho ngựa nhích lại gần thêm một chút, thấp giọng:
- Cô Ba!.... Đã vây được ông khách hôm qua trốn đi rồi! Hiện ông ta không có đường ra, rút vào một hẻm núi, các tay súng ta đã bao vây bốn mặt, kín lắm.
Thiếu nữ mím chặt vành môi, cố lấy vẻ bình tĩnh, lặp lại:
- Vây kín bốn mặt?
Nàng lẩm bẩm:
- Nhưng để làm gì? Mà tại sao... lại thế?
Tưởng nữ chủ hỏi mình, gã thuộc hạ nhanh miệng:
- Không hiểu sao... cụ cho lệnh cứ gặp là bắn ngay, ai hạ được sẽ có thưởng.
Phượng Kiều nhìn về phía xa, có vẻ suy nghĩ. Đoạn, như có chủ đích, cô gái bảo gã gia nhân:
- Thôi! Ta cho về nghỉ, không phải huy động thêm nữa. Cụ có hỏi đã có ta nói cho. À, hiện mọi người ở chỗ nào.
- Bẩm, ở ngang hẻm núi năm ngoái cô hạ được con báo gấm đó.
- Thế à!
- Vâng... Cô Ba đi tắt chỉ độ mười lăm cây thôi. Nhưng... nếu cu.....
Thiếu nữ giật mạnh tay cương cho con ngựa phóng đi, được mấy bước, nàng còn quay lại vẫy tay, cao giọng:
- Cứ về trại nghỉ! Để ta đến gặp cụ.
Và cô gái thúc mạnh gót chân vào hông ngựa cúi rạp xuống. Con ngựa băng qua dải thung lũng bước về rặng núi phía tay tả. Mặt trời nhô lên cao dần, chiếu sáng những giọt sương đêm còn đọng trên lá cây, ngọn cỏ. Chim rừng thánh thót, véo von. Nhưng thiếu nữ không lưu ý tới cảnh đẹp bình minh, cứ mải miết ra roi cho ngựa băng rừng vượt suối. Tới cách quèn “Súa” chừng non cây số, chợt nàng nghe tiếng súng nổ vang phía trước và chim rừng sợ hãi vỗ cánh bay loạn xạ. Đến khi cô gái tới khu hẻm thì tiếng súng đã thưa dần, chỉ còn lẹt đẹt một hai phía. Nàng vội cho ngựa vào đường mòn vắt qua một ngọn đồi trúc thấp. Phi ngựa lên đỉnh, thiếu nữ ghìm cương đảo mắt nhìn quanh, thấý lố nhố nhiều bóng người thấp thoáng ngay bên chân rặng núi đá chếch phía hữu. Chỗ Phượng Kiều dừng ngựa cách chân núi đá cũng đến trên hai trăm thước, nên định thần nhìn mãi, không nhận nổi hình dáng cha ở chỗ nào. Lắng tai nghe, lại thấy tiếng súng nổ ở cả phía lên kia hẻm núi Quèn “Súa” này, nàng đã có lần sang săn bắn, nên khá rõ địa thế. Còn đường mòn chỗ nàng đứng chạy xuống dưới thung lũng hẹp và vắt qua quèn, ngay trong hẻm này có nhiều chỗ ẩn trú có thể tránh được luồng đạn từ khắp phía bắn tới.
Thiếu nữ đứng, quan sát, suy nghĩ mấy phút, chợt cặp mắt vụt sáng lên, nàng giật mạnh tay cương, đánh ngựa xuống thẳng phía chân núi đá. Vừa băng qua thung lũng, nàng đã trông thấy ngựa buộc rải rác bên những gốc cây. Nàng liền cho ngựa vượt lên, tiến thẳng đến chân núi.
Nghe tiếng vó câu khua dồn, đám thuộc hạ vội quay cả lại. Mấy tên khác reo lên:
- Kìa cô Ba!
Đưa mắt nhìn, không thấy cha, thiếu nữ mừng thầm, lấy vẻ bình thản hỏi:
- Sao? Họ vẫn ở trong hẻm? Đông không?
Một gã đầu bọn chỉ huy tốp thuộc hạ đó, vội rời hẳn chỗ nấp, tiến đến, vừa thay đạn vừa nhếch miệng cười:
- Ra sao được, cô Ba? Hai tay súng khó thoát nổi mấy chục người.
Sớm muộn sẽ hết đạn thôi.
Phượng Kiều nhìn gã thuộc hạ mấy khắc, đoạn nghiêm giọng:
- Này Hai Cao! Chú nghĩ thế nào? Ông ấy là ân nhân, làm sao cụ lại...
Hình như cảm thông nỗi khó xử của cô chủ, Hai Cao chép miệng:
- Cụ hạ lệnh sao, bọn tôi phải làm thế. Cụ có vẻ quyết liệt lắm.
Chỉ phiền cái, ông ta lại là kẻ đã cứu cô.
Thiếu nữ đưa mắt về phía hẻm núi ngay trước mặt có dáng suy nghĩ, và vùng bảo Hai Cao:
- Để ta vào, sẽ liệu. Chính ta cũng muốn biết tại sao cụ lại quyết hạ Ông ấy!
Dứt lời nàng nhảy phắt xuống ngựa, buộc cương vào gốc cây, đoạn xăm xăm bước về phía hẻm. Bọn thuộc hạ đưa mắt nhìn nhau. Hai Cao có vẻ khó nghĩ, đoạn hắn xách súng chạy tới giọng khẩn cầu:
- Cô Bạ.. thưa, vào đó nguy hiểm lắm. Cụ đã dặn kỹ...
Phượng Kiều cười thản nhiên:
- Không sao. Ông ta là kẻ đã cứu ta mà!
- Nhưng bây giờ khác. Dầu sao cô Ba chớ nên quên người đó là Thần Xạ Đại Sơn Vương. Và cụ đã...
Thiếu nữ vụt cau mày liễu, quắc mắt:
- Đã bảo... mặc ta. Dễ ta không biết tùy cơ ứng biến chắc?
Thấy cô chủ nổi giận, bọn thuộc hạ không dám khuyên ngăn, còn Hai Cao hình như bị đưa vào thế khó xử quá, hết đưa mắt nhìn cô chủ, lại nhớn nhác ngó về tả, hữu như chỉ mong Trần chủ nhân chợt tới.
Có lẽ đã thừa đoán được tâm trạng của bọn thuộc hạ, Phượng Kiều làm mặt giận, rảo bước thẳng, mặc cả bọn vò đầu bứt tai sau lưng. Và nhả luôn hai phát đạn một lúc. Hành động của thiếu nữ bất ngờ, nhanh như cắt, khiến Hồng Lĩnh chưa kịp đối phó, đã nghe đạn réo xẹt bên mang tai, rồi tiếng Voòng Lầu nấp ở vách núi trên kia, vùng bật lên:
- Hảo lớ! Hảo lớ!
Nhìn ra đã thấy Phượng Kiều đang cắm súng vào bao ngoảnh lại, còn thấy một bóng lớn đổ xác từ lưng chừng vách đá xuống đường mòn, khẩu súng cũng đang văng theo xác đổ.
Phượng Kiều vẫn đứng nguyên:
- Nó leo qua núi, chĩa súng bắn vào lưng ông...
Nàng chép miệng, giọng đượm buồn:
- Vội quá không làm hơn được!
Chàng tuổi trẻ giang hồ chợt cảm lòng thành thực của Phượng Kiều. Chàng lặng lẽ bước ra, đăm đăm nhìn thiếu nữ, chậm rãi:
- Thôi! Giờ cô nên ra khỏi hẻm này, để mặc tôi đối phó...
Phượng Kiều đăm đăm nhìn Hồng Lĩnh. Thiếu nữ bất giác khẽ thở dài:
- Nhưng quanh hẻm, hiện có nhiều tay súng bao vây chặt, làm thế nào có thể...
Hồng Lĩnh đưa mắt nhìn quanh, đoạn nhếch miệng cười chua chát:
- Cô cứ yên tâm ra ngoài. Tuy lâm tử địa, nhưng chưa đến nỗi tuyệt vọng đâu?
Thiếu nữ đưa mắt ngắm địa thế. Trong mấy khắc, hình ảnh đêm trước đây vụt hiện lên trong đầu óc, từ lúc sa cơ bị giặc Thoòng đánh bắt, đến phút hai người đàn ông giang hồ không quen xả thân giải cứu rồi suýt lại bị sa tay giặc Thoòng, cả... bị suối lũ lại cuốn dị..
Những hình ảnh gian nan linh động bất ngờ, nổi lên rõ rệt như một cuốn phim rực rỡ, trong đó hình dáng ông già quắc thước với hai tay súng thần xạ nổi bật lên như tô bằng ánh điện sáng ngời.
- Nhưng... tình thế...
Thiếu nữ vừa cất lời, chợt tiếng súng từ bốn phía lại nổ ran, đạn réo ngay trên đầu. Cô gái chau mày, đảo mắt nhìn quanh hẻm. Vừa lúc đó, phía sau, có tiếng gụi lớn, vọng truyền vào hẻm:
- Phượng Kiều... iều... Ra mau...au...
Nghiêng đầu lắng nghe, thiếu nữ nhận ra ngay tiếng cha gọi.
Nàng còn đang tần ngần chưa biết tính sao, thì Hồng Lĩnh đã giục:
- Thôi! Cô nên ra!.... Và tôi thành thực khuyên cô nên về ngay trại là hơn.
- Như ông làm sao thoát khỏi chỗ tử địa này?
- Chúng tôi chờ bên ngoài xông vào!
Tự nhiên, Phượng Kiều buột miệng:
- Thế thì ông chưa biết thầy tôi. Người từng quen chạm súng nơi địa hiểm, biết ông là Thần Xạ Đại Sơn Vương, đời nào lại còn cho quân ló đầu vào tấn công. Chắc chắn, bên ngoài chỉ vây chặt và chờ bên trong ló mặt ra thôi!
Lời nói của thiếu nữ khiến Hồng Lĩnh bất giác đưa mắt nhìn Voòng Lầu, như trao đổi và thông cảm về một mối lo đã dự tính.
Tiếng Trần Tắc lại gọi phía sau, lần này gần lắm. Như có sẵn chủ định, Hồng Lĩnh vội vẫy tay bảo Phượng Kiều:
- Cô nên ra mau! Đứng đây e bất tiện, lỡ lạc đạn có khị..
Thiếu nữ dùng dằng, không muốn rời chỗ đứng. Nàng cũng không lên tiếng đáp lại giọng cha gọi. Chợt mắt nàng thoáng rực lên một tia sáng quyết định. Nàng bước thẳng tới trước Hồng Lĩnh, giọng nhanh và thấp:
- Tình thế này, chỉ còn một cách, ông lấy tôi làm mộc, thoát nơi tử địa! Ngay bên ngoài có sẵn ngựa buộc. Đám quân đó không dám xả súng vào tôi đâu.
Hồng Lĩnh thản nhiên, lắc đầu:
- Cô chưa đánh giá được mạng tôi trước ông thân đâu. Nếu cần, ông sẵn lòng mua xác tôi với giá cả người thân thiết nhất của ông.
Câu nói của người tuổi trẻ giang hồ vụt gieo vào lòng cô gái họ Trần một sự ngạc nhiên ghê gớm, liền với sự chán nản nặng nề. Như linh cảm rõ được tầm nghiêm trọng sâu sắc của mối ẩn thù giữa hai người đàn ông, cô gái thông minh đăm đắm nhìn. người trai trẻ, đoạn chậm chạp quay mặt đi, không nén được một tiếng thở dài buồn mênh mang. Đưa mắt trông theo thiếu nữ cho đến lúc khuất bóng ngoài đường hẻm, Hồng Lĩnh lẳng lặng rời mỏ đá, bước về cạnh Voòng Lầu.
Khuôn mặt Thần Xạ Đại Sơn Vương trở nên xa xôi, bên tiếng súng thỉnh thoảng lại nổi lên loạn xạ rồi vụt chìm mau trong gió luồng hêm núi. Rất lâu không thấy chủ nói gì, người thuộc hạ khẽ lên tiếng:
- Thầy à! Chúng nó chỉ bắn canh chừng, có lẽ chúng nhất định chờ thì thôi.
Hồng Lĩnh ngước mắt nhìn lên cao.
- Mặt trời sắp đứng bóng. Phải chờ đêm tối mới liệu cách được.
Hừ! Hắn kiên gan lắm, nhất định không chịu ló mặt đối diện ta.
Người bộ hạ trung thành, đảo mắt quan sát và lầm bầm, bực tức:
- Hừ! Sắp ra khỏi hang hùm, còn bị nó vây hãm... chỉ đành chờ đêm tối.
Vừa nói, Voòng vừa trao bình nước cho chủ:
- Chỉ còn một ít. Thầy liệu dùng kéo dài đến đêm cho đỡ mệt.
Đỡ lấy bình nước, Hồng Lĩnh khẽ lắc lắc, đoạn nhấp giọng qua loa. Và hai thầy trò Đại Sơn Vương lẳng lặng ngồi dựa vào hông vách đá, mắt lim dim như thả tâm trí về miền Thập Vạn Đại Sơn để tưởng đến những tay súng ngang tàng cách xa chỗ chủ tướng hàng ngàn cánh rừng trùng điệp.
Thời gian lặng nề trôi qua, từng phút, từng phút... hồi hộp... rình nấp... giữa những tiếng súng nổ dập dờn như hú tim.
Mặt trời chậm chạp gục xuống bên kia hẻm núi. Bóng tối bôi nhọ rừng hoang. Nằm lọt giữa những vách núi đá dựng, vùng hãm địa bị bóng tối lẫn bóng núi đổ xuống, trông đen ngòm như than Tàu. Hai người đàn ông giang hồ ngửa mặt nhìn lên vòm trời nham nhở bên ngoài vách núi, rất lâu, không ai nói một lời. Chợt Vòng Lầu khẽ bảo Hồng Lĩnh:
- Thầy à! Không thấy chúng bật đuốc. Giờ có lẽ tới mười giờ đêm rồi còn gì?
Hồng Lĩnh có dáng suy nghĩ, người đàn ông giang hồ đưa mắt ngó ngọn núi đem ngòm khắc vào nền trời mờ tối, lẩm bẩm:
- Hẻm này hẹp lắm! Hắn có thể đủ thời giờ kiếm mìn phá núi và lựu đạn thả xuống lắm!
Hình như người thuộc hạ cũng đã nghĩ tới điều đó, Voòng nối lời:
- Quèn núi không cao mấy, từ sáng đến giờ, chúng nó có thể leo lên ngọn từ lâu, túc trực sẵn... a thầy! Bực quá, đây chỉ có đá, không có cây cối để chế ngay mộc che, dựa lưng mà đánh thốc ra!
Hai thầy trò im lặng, suy nghĩ. Bên ngoài tuyệt không tiếng động. Sự im bặt tiếng súng càng dìm vùng hãm địa vào sự im lìm...
chờn chợn... đây bất trắc. Mười phút sau, Hồng Lĩnh chợt hỏi Voòng Lầu:
- Còn hai lựu đạn, phải không?
- Vâng... mà thầy...
- Lương khô?
Voòng Lầu có vẻ tần ngần:
- Còn đủ một bữa cho hai người!
Hồng Lĩnh có vẻ ngạc nhiên:
- Sao... từ sớm đến giờ, Voòng Lầu không lấy ăn? Đem ra đây, chúng ta ăn ngay lấy sức còn ra!
Voòng Lầu lúi húi lục sắc trong bóng tối, đoạn giúi nắm cơm vào tay Hồng Lĩnh, miệng hỏi:
- Thế... thầy định đánh ra?
- Ừ! Không thể chờ lâu nữa! Phải thoát nội đêm nay, để chậm, có thể sinh biến khác. Hắn có đủ thời gian tính độc kế.
- Vâng nhưng nó có nhiều tay súng vây ngoài, chực sẵn, chỉ chờ trong ra là...
- Được rồi! Voòng cứ ăn đi cho khỏe đã!
Trong bóng tối chỉ còn nghe tiếng động khẽ của... bữa Sán mò.
Chợt đang nhai, Hồng Lĩnh ngừng lại, hỏi người bộ hạ:
- Kìa! Voòng không ăn đi?
Người bộ hạ ấp úng:
- Da..... Vẫn ăn mà...
Nhưng Hồng Lĩnh đã quơ tay về phía Voòng và bất giác khẽ bật cười, tay đưa khúc cơm:
- Nhai... mồm không, lấy sức đâu thoát vây?
Voòng Lầu ấp úng:
- Thầy... dùng cho khỏe đi! Tôi... không đói mà!
Hồng Lĩnh ấn miếng cơm vô tay thuộc hạ, giọng trở nên khô khan, nhưng vẫn dịu:
- Voòng ăn mau, còn ra chứ!
Hai cặp mắt thầy trò chạm nhau trong bóng tối đen mờ. Mấy phút sau Hồng Lĩnh đứng vụt lên, ném bi đông nước vào lòng Voòng Lầu.
- Còn ít, uống hết đi! Nào ta phá vây!
Miệng nói, hai tay xốc lại bao súng, người tuổi trẻ giang hồ quay ngẩng nhìn lên ngọn núi, với dáng vóc ngang tàng điềm tĩnh cố hữu của Đại Sơn Vương thần xạ. Người thuộc hạ uống vội mấy ngụm nước cuối cùng, đoạn khoác sắc đứng phắt lên theo.
Mấy khẩu súng rút xoạt ra khỏi vỏ. Hồng Lĩnh, Voòng Lầu dựa lưng vào nhau, liền men theo vách đá, ngọn súng Đại Sơn Vương chĩa về phía trước, súng của Voòng thủ túc chĩa về phía sau.
Đêm tối mịt mờ, sương dầy đặc, khí đá bốc ra lạnh ngắt. Gió từ vùng ngoài lùa vào hãm địa, xoáy vào hốc đá vi vu. Hai người đàn ông dựa theo vách đá, từ từ bước mặt, chân giẫm trên đá vụn, không tiếng động và trong cảnh im lìm, cả hai như nghe thấy tiếng đập của trái tim. Bất thình lình, phía ngoài, tiếng súng vùng nổi lên loạn xa..... Hai thầy trò Đại Sơn Vương vội đứng phắt lại, áp lưng vào vách đá, nghiêng đầu lắng tai nghe. Súng nổ khắp bốn phía, có cả tiếng súng trường, súng ngắn. Đạn xé không gian, có luồng réo ngay giữa hai vách núi từ hai cửa hẻm xói vào. Đá vụn rơi rào xuống cả chỗ hai người đứng. Rất nhanh, Hồng Lĩnh khẽ bảo Voòng Lầu:
- Có cuộc chạm súng phía ngoài!
Voòng cũng thấp giọng:
- Không phải đạn quân Trần Tắc bắn vào đây, a thầy! Luồng đạn đi hơi cao, chắc từ xa bằn tới!
Hồng Lĩnh gật đầu:
- Ừ! Đúng đạn quân nào tấn công quân phục vây quanh hẻm. Đạn bắn vào quân chân núi, lạc vào đây.
- Thầy tính sao?
Đại Sơn Vương Hồng Lĩnh không đáp, vẫn đứng im nghe ngóng quan sát. Bên ngoài, súng nổ giòn tan, cuộc chạm súng có vẻ mỗi khắc thêm gay go, lắng nghe, có nhiều tiếng quát tháo, khắp mấy phía.
- Quái lạ? Không biết quân nào lại chạm với quân Trần Tắc chỗ này?
- Vô tình gặp đánh? Hay cố ý giải vây?
Hồng Lĩnh lẩm bẩm như nói với Voòng Lầu:
- Súng nổ cả bốn phía, chắc có chuyện gì đây?
Hồng Lĩnh im lặng, nghe ngóng, hình như đang suy nghĩ lợi hại gấp. Mấy khắc sau, Đại Sơn Vương vùng bảo bộ hạ Voòng:
- Ta cứ thẳng tiến ra phía trước, chỗ nhiều tiếng súng nhất!
Giọng Voòng có vẻ thắc mắc:
- Nhưng bên ngoài tối mù, lại đang chạm súng, khó phân biệt lắm, a thầy!
Hồng Lĩnh thấp giọng:
- Phải nhân lúc quân vây đang lo chống cự phía trước mặt, ta tiến ra nếu cần đánh thúc ngay sau lưng chúng và ít nhất phải luồn chuyển sang thế quay ngọn súng về hãm địa này, nghe Voòng!
- Ạ.. Vâng.
Trong đêm tối hai thầy trò Đại Sơn Vương lại dựa lưng vào nhau men theo vách đá, thận trọng từng bước một. Bóng tối như lùi lại phía sau.
Mười phút qua, hai người đã ra khỏi lòng núi, tới chỗ mờ. Trên vòm trời, đầu hẻm, lấp lánh vài vì sao nhạt. Rời cửa hẻm. Như hai cái máy, thầy trò Đại Sơn Vương nằm phục xuống dưới chân vách núi, chỗ mở ra chạy cách đường mòn đến sáu, bảy thước. Yên trí về mặt sau, Voòng Lầu quay đầu về phía trước, và hai thầy trò áp tai xuống mặt đất, nghe ngóng. Hồng Lĩnh ghé sát miệng vào tai bộ hạ:
- Có tiếng chân bước gần đây.
- Vâng. Nghe êm lắm!
Hồng Lĩnh vội nhìn ngước lên. Lúc đó, súng vẫn nổ vang dội tứ phía. Tiếng chân quân Trần Tắc chạy qua chạy lại rầm rập và có tiếng quát gọi truyền nhau thỉnh thoảng vẫn bật lên, cách chỗ hai người nằm chỉ chừng hai mươi thước. Hồng Lĩnh vẫn nhìn lên, chờ đợi. Không lâu, quả nhiên từ chỗ mô đá chơ vơ trước mặt, cách vách đá độ hai, ba thước có một bóng người nhô ra, tay xách súng, hình như đang đảo mắt nhìn quanh, có vẻ một gã canh chừng hãm địa, không lo đánh nhau với quân tấn công. Tới cách chỗ hai người nằm độ ba thước, cái bóng đứng dừng lại, hình thù cao lớn đen ngòm, rõ trên nền trời tối nhạt.
- Triệt.
Hoàng Ly - Đỗ Hồng Linh
Thập Vạn Đại Sơn Vương
Hồi 3
Ông Già Kỳ Lạ Là Ai? ( tiếp theo)
Khuỷu tay Đại sơn Vương khẽ chạm vào Voòng Lầu, người bộ hạ nhào lên, thân hình cao lớn trườn sát bên vách đá không gây một tiếng động nhẹ. Tên canh cầm súng đứng ngang, lưng xoay về phía vách đá. Trên nền trời tối mờ, thoáng cái, đã thấy một bóng cáo lớn, từ vách đá nhô ra, và dính chặt vào bóng tên canh hẻm, phút sau, cả hai lặng lẽ đổ xuống mặt đất, không tiếng động, êm như hai cái bóng trong một cuốn phim câm.
Đại Sơn Vương trườn vụt lên, như một con rắn. Nhưng hai thầy trò vừa kéo xác tên canh vào được chỗ tối thì thình lình, một vệt sáng xanh đèn bấm từ vách núi bên kia đường mòn chợt loé lên lia thẳng vào chỗ hai người. Luồng sáng dừng phắt trên mình hai thầy trò Hồng Lĩnh, tiếp liền tiếng quát giật giọng của một kẻ giật mình vì chợt thấy bóng người:
- Ai? Đứng im!
Đang cúi mình kéo xác tên canh, thình lình bị tia đèn bấm chiếu thẳng vào người, hai thầy trò Hồng Lĩnh lăn mình trên mặt đá lởm chởm và theo đà lăn, Đại Sơn Vương Thần Xạ đã vẩy ngọn súng ngược theo luồng sáng, nhanh đến độ kẻ đứng bên kia đường mòn vừa lên tiếng quát, tay đặt vào cò súng chưa kịp có ý định bắn đã bị một viện đạn xuyên qua người, ngã xuống không kịp kêu một tiếng. Tiếng súng nổ khua động vùng cửa hẻm. Biết có thể lộ vì tiếng nổ ở vòng trong, ngay sau lưng đám quân phục, không thể lẫn với tiếng súng vòng ngoài, Hồng Lĩnh bảo Voòng Lầu:
- Hãy lui lại đã!
Hai thầy trò vừa kịp lùi lại chỗ vách đá khuất cửa hẻm, quả nhiên đã nghe thấy nhiều tiếng chân chạy rầm rập đến chỗ trước rồi đèn bấm loé lên luôn mấy vệt, lia quét trước hẻm.
- Sao? Có chuyện gì đó?
- Hai đứa bị hạ!
Im lặng mấy khắc. Rồi có tiếng quát khẽ:
- Cẩn thận! Chúng còn quanh quẩn đâu đây!
Những tia đèn bấm lại quét lia khắp đường mòn vách núi rồi tắt phụt. Nằm sau hốc đá, hai thầy trò Hồng Lĩnh áp má xuống đất, khẽ nhìn ngước lên, thấy rõ mấy bóng người lố nhố in vào nền trời mờ tối.
Biết địch đang tìm, không để mất cơ hội tốt, Hồng Lĩnh khẽ ghé vào tai Voòng Lầu:
- Hạ chúng thôi!
- Vâng.
Hai thầy trò nằm xuống cùng lúc, vung cánh tay. Liền mấy tiếng nổ xé không gian và ngoài cửa hẻm, liền mấy bóng người ngã xuống, không kịp biết hướng đạn đi.
- Nằm cả xuống!
Dứt tiếng quát, từ phía ngoài, sau mấy khằc nhốn nháo vì bị tấn công bất ngờ, đám quân phục vây đã kịp trấn tĩnh tinh thần, chĩa súng bắn rát vào chỗ hai người, đạn xối vào vách tung đá mịt mờ.
Nhìn ra không thấy bóng người, hai thầy trò chỉ thấy một vài cái đầu nhô ra thụt vào loáng thoáng trên nền trời, và cứ theo tiếng nổ, bắn vào chỗ phát ra. Bên vòng ngoài, hình như đám quân nào đó đánh Trần Tắc đã nghe thấy tiếng súng nổ vòng trong, nên tiếng súng dội hẳn lên, có vẻ như muốn phối hợp rõ rệt cố dồn mau quân Trần Tắc vào thế bị trong đánh ra ngoài đánh vào cho thật nhanh. Nhất là ở hai phía đầu hẻm, súng nổ rộn ràng mỗi phút thêm gần. Vừa bắn, vừa nghe ngóng, hai thầy trò Hồng Lĩnh thấy rõ tiếng quân Trần Tắc quát gọi nhau, như sắp loạn động.
Nhưng mấy lần định tiến ra, hai thầy trò lại phải tạm ngưng ý định mạo hiểm, vì vẫn thấy súng từ phía sau các mô đá cửa hẻm bắn vào không ngớt, lại rất gần, ló ra là thành mục tiêu bất lợi ngay.
Thêm nữa, trời lại tối, khó biết địch nấp đâu để quét, nên Thần Xạ phải thận trọng đứng nguyên vị trí sau mô đá chắn, để liệu thế tỉa dần địch thủ. Chợt Voòng Lầu ghé tai Hồng Lĩnh khẽ bảo:
- Thầy à! Ta phải đề phòng phía sau trống lắm! Nó có thể...
Hồng Lĩnh vừa ngó lại nẻo sau, chưa kịp cất tiếng, đã vội cùng Voòng Lầu nghiêng đầu lắng nghe. Vì phía cửa hẻm trước mặt, súng nổ tới tấp, rõ ràng từ bên vòng ngoài ập lại và quân Trần Tắc đã bắt đầu loạn động, gọi nhau không còn phép tắc chi nữa. Nhưng phía hẻm sau lưng, đạn cũng nổ dồn dập, luồng đạn đi xối cả vào vách đá, và...
như có bước chân rầm rập chạy tới. Đại Sơn Vương vội áp tai xuống mặt đất nghe và ngẩng phắt lên, nhanh giọng:
- Có tiếng chân ngựa chạy tới!
Hai thầy trò ý thức ngay thế nguy hiểm sau lưng không có vật chắn. Hai cặp mắt giang hồ đảo mau trong đêm tối và hai người rời vội mô đá, chạy vụt sang bên kia đường mòn, chỗ có một hốc đá nhỏ đã lọt mắt từ lúc rút vào hẻm, buổi sáng. Hai thầy trò Đại Sơn Vương vừa kịp dựa lưng vào vách núi, đã nghe tiếng chân ngựa phóng tới, rầm rập và hình như khá nhiều. Hai người vội chĩa súng về phía có tiếng chân ngựa, chờ đợi. Rồi tiếng chân ngựa lại nổi lên, tiến dọc theo đường mòn, thẳng về phía hai thầy trò Đại Sơn Vương thần xạ.
Hai thầy trò Đại Sơn Vương ngồi phục xuống, mím môi đợi chờ, mắt nhìn ra đường mòn như sắp nảy lửa.
Vó ngựa ập tới và dừng ngay chỗ tay hữu, lạo xạo, loạt soạt. Bóng núi đổ xuống đường mòn nên hai thầy trò Đại Sơn Vương nhìn ra, chỉ thấy lố nhố từng vùng đen ngòm di động trong bóng tối. Còn đang hồi hộp, chưa biết đối phó cách nào cho tiện, thì một vệt đèn bấm đã lóe ra, lia quét khắp đường mòn, vách núi, đồng thời, một giọng thanh thanh đã cất lên:
- Đại Sơn Vương đâu rồi? Đại Sơn Vương. Chúng tôi đến đưa ông ra khỏi hãm địa đây.
Tiếng nói trầm nhưng cũng đủ vang âm giữa lòng núi. Hai người đàn ông giang hồ ngạc nhiên, chưa làm kịp một cử động gì trước sự việc xảy ra quá nhanh, thì vệt sáng đèn bấm đã rê ngay tới chỗ hai người nấp, và lần này, một giọng nói ồ ồ bật lên:
- Hình nhự.. kia rồi... bên vách dá!
Đường sáng xanh dừng phắt, hơi di động trên nửa thân ngoài của Voòng Lầu, và rời ngay, quay phắt về phía đường mòn, từ từ rê đám bóng đen lố nhố. Nấp bên vách, hai thầy trò Đại Sơn Vương nhận ra có đến mười mấy người cao lớn cỡi ngựa, mặt mũi đều hóa trang, tay lăm lăm súng dài, đều ngồi im trên yên, nhìn cả về phía hai người.
Giọng thanh thanh từ sau vệt đèn bấm lại cất lên:
- Ông Hồng Lĩnh!
Đại Sơn Vương cùng bộ hạ đứng vụt lên, không còn đủ thời giờ để đoán bọn lạ mặt đó là ai nữa, hai thầy trò lao thẳng ra đường mòn.
- May quá ! Vừa kịp. Đây! Ông lên đây!
Người cầm đèn bấm khẽ vẫy Hồng Lĩnh và người tuổi trẻ giang hồ, thoáng cái, đã ngồi gọn sau lưng người lạ cầm đèn, trong khi Voòng Lầu lên yên ngựa của người khác. Chờ cho ngựa trước khuất hẳn, hai con ngựa đưa theo Hồng Lĩnh, Voòng Lầu mới cất bước.
Đại Sơn Vương không khỏi ngạc nhiên vì người đàn ông ngồi phía trước mình. Tuy giữa đêm tối, nhưng cũng rõ dáng nhỏ nhắn khác hẳn đồng bọn. Người đó không nói thầm một lời, chỉ cầm cương ngồi im, nghe ngóng phía trước. Bên ngoài, súng vẫn nổ vang, dồn dập ngay phía cửa quèn. Ngựa ra còn cách cửa hẻm chừng mấy thước, chợt thấy một bóng ngựa từ ngoài phóng vào, cùng lúc, một tia đèn thấm lóe lên, lập loè giữa bóng tối, rồi ngựa lại lộn ra luôn. Người nhỏ nhắn khẽ bật lên, nhanh giọng:
- Ra được rồi! Chúng đã đánh dạt quân vây khỏi cửa quèn.
Dứt lời người đó giật mạnh tay cương, chân thúc mạnh vào hông ngựa. Con vật như cất hẳn thân lên, phóng nước đại ra phía cửa quèn dẫn cả đám người ngựa sau, lướt nhanh trên đường mòn. Người lạ cùng Hồng Lĩnh cúi rạp mình xuống, ra roi mạnh, con vật lao đi, vụt cái đã thấy trời đất như sáng hẳn ra. Biết đã tới chỗ nguy hiểm nhất, người lạ giật mạnh tay cương cho con vật cất mình nhảy vọt lên. Và khi chân ngựa vừa chấm đất, thì đã thấy lố nhố những bóng người ngựa từ hai bên vách núi lướt tới, cuốn theo thành hai hàng tả hữu, để con ngựa của người nhỏ nhắn, Hồng Lĩnh, cùng đám trong hãm địa ra, lọt ra giữa, cứ thế, phóng đi, ngựa vừa phóng, súng vừa xả về hai bên, ào ạt.
Ngồi trên yên, Hồng Lĩnh nghe đạn réo veo véo bên tai, hiểu ngay sức liều mạng giải cứu của đám người lạ, và cũng không khỏi thầm khen phục tài điều khiển của người nhỏ nhắn, cùng sự gan dạ của đám tùy tùng. Rất nhanh, ngựa vọt khỏi hẻm núi, thoát ra thung lũng băng đi trong sương mờ. Phía sau, đám quân Trần Tắc vẫn xả súng bắn theo, và hình như đã kịp thời lên ngựa đuổi, vì đã vượt khỏi thung lũng, Hồng Lĩnh vẫn nghe súng nổ ngay sau lưng, không cách xa là mấy.
Có vẻ đã dự định trước, vừa qua thung lũng, thì hai con ngựa mang thầy trò Đại Sơn Vương vọt hẳn lên, rồi ngoắt ngay xuyên vào cánh rừng phía tả. Đi được mấy phút, đã nghe phía sau súng nổ rộn rã vang khắp một miền rừng núi âm u. Hai con ngựa dừng lại, sát nhau. Người nhỏ nhắn cùng thuộc hạ nghiêng tai về phía sau, nghe ngóng. Ngồi sau ngựa, Hồng Lĩnh và Voòng Lầu cũng nghiêng theo.
Tiếng súng dội hẳn lên giây lát rồi thưa dần, và như đang cuốn về phía khác. Người thuộc hạ thấp giọng:
- May ra đánh lạc hướng được rồi...
Người nhỏ nhắn không đáp, vẫn lặng lẽ nghe ngóng, và chợt lẩm lẩm như nói một mình:
- Chỉ ngại có kẻ nào bị bắt...
Người thuộc hạ thấy chủ tướng ngồi im mãi, vội khẽ giục:
- Ta nên đi khỏi đây đã... rồi sẽ liệu!
Người nhỏ nhắn không đáp, chỉ giật mạnh tay cương, cho ngựa tiến lên. Càng vào rừng, càng tối vì cây cối um tùm che kín cả vòm trời. Nhưng hai con ngựa có vẻ đã quen đường lối, cứ phóng kiệu băm đều trong rừng, len lỏi qua những gai góc, bờ bụi. Gã thuộc hạ khi vượt lên trước, lúc lùi lại sau, cẩn trọng dè chừng bất trằc. Hình như chú ý vào đường đi, nước bước của con vật và mãi lo phòng hờ mọi chuyện bất ngờ, nên hai thầy trò người nhỏ nhắn đều ngậm miệng rất lâu, không ai nói nửa lời.
Ngồi sau lưng hai thầy trò Đại Sơn Vương thấy thế cũng làm thinh theo. Từ lúc được đám người lạ mặt đưa ra khỏi hãm địa, Hồng Lĩnh không khỏi ngạc nhiên về sự việc xảy đến bất ngờ, giữa lúc tình thế thập phần gay go, nguy hiểm. Tuy đã trải qua nhiều biến đổi, bất kỳ, người tuổi trẻ giang hồ không khỏi xúc động trước, sự phá vây giải cứu của đám người lạ mặt. Nhất là người chỉ huy. Đánh phá, đương đầu với hàng bao nhiêu tay súng của Trần Tắc, mở một con đường máu vào hãm địa, đích thân đánh ngựa dẫn đầu, rồi lại mở một sinh lộ đưa kẻ bị vây ra. Giữa những họng súng khạc đạn không ngừng...
tất cả sự việc diễn ra rất nhanh, khiến Hồng Lĩnh thấy rõ sức xả thân của... người chỉ huy lạ mặt. Lạ mặt? Sự hóa trang và bóng tối đã trùm lên người lạ, nhưng dáng dấp nhỏ nhắn cùng giọng nói thanh thanh, khiến Hồng Lĩnh ngờ ngợ ngay từ lúc lên yên.
Đã mấy lần, người đàn ông giang hồ định cất tiếng hỏi kẻ cứu mình, mong vén màn bí mật ngay nhưng lại thôi, ngồi im lặng mặc người đó đánh ngựa qua vùng đồi lạ, rồi hãy hay. Trong đêm khuya rừng rú, chi còn nghe tiếng vó ngựa khua trên mặt đất ẩm sương, và một vài tiếng chim giật mình vỗ cánh loạn bay.
Đang lim dim mắt, Hồng Lĩnh mở choàng ra, thấy bóng đêm lùi lại phía sau, vì ngựa đã bằt vào con đường mòn đang vắt qua một ngọn đồi. Tới đỉnh, ngựa dừng bước, thở phì phò. Trước mặt, một vùng tráng địa, lọt giữa những ngọn đồi nằm theo hình cánh cung, chạy chếch về phía xa, mờ tối. Người nhỏ nhắn đang cùng Hồng Lĩnh đưa mắt nhìn quanh, chợt Voòng Lầu ngồi ngựa cạnh, nhanh giọng:
- Dưới kia có người chạy tới!
Mọi người vội nhìn theo tay Voòng trỏ, thấy ngay ở đầu khu đất trống dưới chân đồi, có nhiều tiếng chim hoảng bay vỗ cánh xào xạc.
- Có người thật! Chắc ngựa phóng... kìa rõ ràng động tới đâu chim chỗ đó giật mình bay lên.
Người nhỏ nhắn nhìn về phía thuộc hạ, lẩm lẩm:
- Chẳng lẽ... đi khá lâu đã mất hướng, họ lại còn tới được đây sao?
Hai thầy trò Đại Sơn Vương cùng nhìn nhau, và đảo mắt nhìn tứ phía. Hồng Lĩnh khẽ bảo người nhỏ nhắn:
- Ta nên cho ngựa tạm lánh vào chỗ khuất xem sao? Rất có thể, ngựa dưới sẽ ngược lên đường mòn này...
Người lạ mặt lặng rẽ cương cho ngựa tạt khuất sau những lùm cây gần đấy. Người tùy tùng cũng lẳng lặng rẽ theo. Hai ngựa đứng kề nhau bốn người ngồi im, cành lá rũ xuống che khuất cả người ngựa.
Vạch lá ra, vẫn nhìn xuống khu tráng địa được. Dưới thung, chim vẫn loạn bay và vật động đó chuyển mau về phía chân đồi. Chỉ hơn phút sau, tiếng vó ngựa đã khua rộn đêm rừng từ cuối chân đồi, chuyển dần lên đỉnh. Tới chỗ mấy người vừa đứng, ngựa đừng lại ẩn giữa đám cành lá um tùm, Hồng Lĩnh, Voòng Lầu nhìn thấy cả mấy ngọn súng đen, nhô lên khỏi vai đám người đó, nhưng không nhận được hình dáng quen thuộc nào.
Hai thầy trò Đại Sơn Vương nghiêng về phía hai thầy trò người nhỏ nhắn, thầm hỏi. Nhưng hai người cũng vẫn ngồi yên, nhìn qua kẽ lá, như muốn tìm một dáng người quen trong bọn cỡi ngựa. Không thấy người nhỏ nhắn nói gì, Hồng Lĩnh ghé sát xuống phía trước thì thầm:
- Hình nhự.. không phải quân Trần Tắc!....
- Không phải? Bọn này có vẻ la.....
Mấy người cùng nín thở, nhìn ra. Thoáng sau, đã nghe rõ tiếng chân ngựa từ dưới đồi ngược lên. tới chỗ bọn đang đợi. Rồi một giọng lạ cất lên, nghe ồ ồ không rõ. Rất nhanh, người nhỏ nhắn bảo Hồng Lĩnh:
- Quân tuần!
Hồng Lĩnh khẽ gật đầu, toan nói, lại chợt thôi ngay, vì từ đám ngoài đường mòn, tiếng người Pháp vừa cất lên tiếp liền là tiếng người nào khác, giọng hơi cao:
- Chắc chúng không đi ngã này! Quan đồn à!
Giọng nói quen quen, vừa nghe, bất giác thầy trò Đại Sơn Vương đưa nhanh mắt nhìn nhau, và Hồng Lĩnh ghé sát về phía trước khẽ bảo:
- Trần Tằc!
Người nhỏ nhắn có lẽ cũng đã nhận ra tiếng Trần Tắc, nhưng vẫn ngồi im và chỉ đưa mắt chăm chú nhìn ra. Bên ngoài hai người cỡi ngựa từ dưới lên, đã tiến tới. Bóng một thằng Tây cao lớn cùng bóng Trần Tắc hiện rõ lên nền trời, mỗi người tay đều cầm roi ngựa, Trần Tắc quật nhanh roi vào cành lá bên đường, giọng bực tức:
- Hừ! Không biết bọn nào dám lộng hành thế! Mà nó trốn lối nào?
Viên Tây Đồn đảo nhìn xuống thung và chợt ghé sát ngựa lại bảo Trần Tắc những gì không rõ. Chỉ thấy Trần Tắc ngồi im trên ngựa có dáng suy nghĩ, rồi viên Tây Đồn khoát tay ra lịnh cho đám quân tuần tiến thẳng. Đám quân tuần, nối ngựa nhau, đi qua chỗ bốn người nấp, Trần Tắc và viên chỉ huy quân tuần đi kế bên nhau bàn luận. Đứng sau lùm cây rậm, mấy người) chỉ nghe rõ mấy tiếng “Về thẳng trại...
đã”.
Chờ cho đám người ngựa đi khỏi mấy người mới lách ra. Người nhỏ nhắn có dáng vội vã vừa tới đường mòn, đã đánh ngựa xuống chân đồi, và cứ thế, noi theo đường mòn vượt qua khu tráng địa, nhắm thẳng về phía núi đá trước mặt. Đi được một khoảng khá xa, chạy qua một con suối khí rộng, người nhỏ nhắn chợt dừng ngựa, hơi quay về phía sau, bảo Hồng Lĩnh:
- Chỗ này đã khá xa hiểm địa. Chúng ta có thể chia tay được rồi.
Dứt lời không chờ Hồng Lĩnh đáp, người nhỏ nhắn nhảy phắt xuống ngựa, trao tay cương cho Hồng Lĩnh.
- Trên ngựa đã có ăn mọi thứ cần dùng, hai thầy trò cứ thẳng đường, nếu muốn tới tỉnh lỵ Cao Bằng...
Người thuộc hạ cùng đã cho ngựa đến bên Voòng Lầu nhảy phắt xuống tiến đến cạnh ngựa Hồng lĩnh. Nhưng Đại Sơn Vương đã nhảy xuống, đến trước mặt người nhỏ nhắn. Qua ánh sao thưa, người tuổi trẻ giang hồ đăm đăm nhìn thẳng vào mặt người vừa cứu mình.
Không hiểu sao, người đó quay mặt đi, và toan chuyển bước tới bên ngựa thuộc hạ. Đại Sơn Vương chợt mất hết vẻ nghi hoặc. Chàng tiến thêm một bước, giọng trầm trầm, đượm nhiều cảm động pha xót xa.
- Sao người ân đã vội chia tay, không để Hồng Lĩnh này kịp nói lời thông cảm. Đường đời rồi đây còn bao nhiêu uẩn khúc, tình cờ. Cô Phượng Kiều!
Đang nghe chợt thấy Hồng Lĩnh thình lình hạ tiếng Phượng Kiều, người nhỏ nhắn hơi giật mình chưa kịp có phản ứng thì Đại Sơn Vương đã tiếp luôn, giọng trầm đều.
- Cô! Tôi đã biết ngay từ lúc lên yên.
Nhưng người tuổi trẻ vội im ngay vì người nhỏ nhắn, đã quay phắt đi có vẻ xúc động lúng túng:
- Không... Không... Ông lầm rồi... tôi...
Và như bị một ám ảnh gì, người nhỏ nhắn vùng nhảy lên ngựa thuộc hạ giật cương phóng nhanh trong đêm tối.
- Cô Phượng Kiều!
Đại Sơn Vương gọi với theo nhưng ngựa đã băng qua suối. Chàng tuổi trẻ giang hồ đứng im nhìn theo hướng ngựa. Trong bóng tối chỉ nghe tiếng chân ngựa bước vội vàng, rồi những tiếng vó câu khua rập xa mau, trong đêm tối. Chàng đứng khá lâu. không nhúc nhích. Người thuộc hạ thấy chủ im lặng, cũng im theo. Đến mười phút sau mới nghe một hơi thở dài, th')ảng nhẹ như hơi gió phào trên mặt lá rừng khuya. Voòng khẽ lên tiếng:
-Thầy a! Ta đi chớ!
Đại Sơn Vương chậm chạp quay lại, đăm đăm nhìn người thuộc hạ đứng tuổi, giọng chàng trầm hẳn di:
- Ừ! Mình đi thôi!
Đoạn hai thầy trò nhảy lên ngựa, Hồng Lĩnh giật tay cương cho ngựa tiến thẳng về phía rặng núi đá vẫn khắc ngọn lên nền trời.
- Thầy à! Ta đi đâu?
- Về thị trấn Cao Bằng?
Chàng tuổi trẻ chợt quay hỏi Voòng Lầu:
- Voòng nghĩ sao về hành động của Phượng Kiều?
Voòng không đáp ngay. Hình như trong đầu hắn đã bắt đầu cảm thấy chuyện riêng của chủ trở nên rắc rối nhiều. Hắn chép miệng:
- Không ngờ cô ta liều mình đến như thế.
- Và đã xử sự khiến trượng phu phải khâm phục. Nhưng tình thế này càng khó cho ta.
Hai người lại ngồi im. Con ngựa vẫn chồm trong đêm tối. Vó câu khua trên đường vọng vào tai hai người đàn ông những tiếng động...
đơn điệu, khô cằn. Lá rụng bị ngựa giẫm xào xạc, thỉnh thoảng, vài con chim giật mình bay vụt. Đại Sơn Vương quay bảo thuộc hạ:
- Voòng à! Thị trấn còn mấy giờ ngựa nữa?
- Ít nhất cũng vài ba giờ, nếu phải xuyên rừng hiểm trở!
- Giờ vào khoảng mấy giờ rồi nhỉ?
Voòng thủ túc vội ngước mắt nhìn lên trời đã nhạt hẳn sao thưa, lầm bầm như nói một mình:
- Có lẽ đến giờ đêm rồi.
Tay cương buông thõng, con vật thu mau về nước nhỏ và bước một, thở mạnh. Người ngựa đều thấm mệt. Trời đêm lạnh lạnh. Hồng Lĩnh nghe tiếng ngựa thở, vội sờ tay vào cổ ngựa. Bờm ngựa ẩm hơi sương và mình con vật đã loáng mồ hôi.
- Chỗ này quang đãng có bản nào không?
Voòng Lầu nhìn về phía núi đá sừng sững đen ngòm trước mặt, và gật đầu:
- May ra, mình đã ra khỏi rừng hoang lâu rồi mà?
- Hãy tìm chỗ tạm nghỉ đã!
- Dạ!
Voòng Lầu chỉ tay về phía núi đá dựng:
- Thầy à! Hay ta cố đi tới chân núi kia, tìm một hang nào có lẽ tiện hơn.
Hồng Lĩnh suy nghĩ mấy khắc, đoạn gật đầu, đánh ngựa đi. Con vật đã thấm mệt vì mang nặng và phải quần thảo khá lâu, nên bước một cũng đã hơi loạng choạng. Trong đêm rừng, chỉ còn tiếng vó ngựa khua mặt đường mòn sương ẩm. Hai người đàn ông giang hồ ngồi trên lưng ngựa, mỗi người theo một ý nghĩ riêng tây, mắt lim dim ngủ gật, mặc con vật chậm bước. Lát sau, Voòng Lầu khẽ đập vào lưng chủ:
- Thầy à! Đến núi rồi, bản thổ dân ở phía trước.
Hồng Lĩnh hé mắt nhìn quanh và lẳng lặng rẽ cương cho ngựa bỏ đường mòn, vòng qua bản, men rừng, tiến đến chân núi.
Bản thổ thiếp sâu trong giấc ngủ. Trong đêm mờ, những mái nhà sàn lô nhô giữa cây lá, xa trong le lói ánh lửa bếp hắt qua phên nứa.
Ngựa đi qua bản, rẽ vào cạnh những nương ngô vắng lặng. Thỉnh thoảng chỉ nghe tiếng rím “Đon” chạy rào trên lá rụng và bên kia thung, một vài tiếng chim khảm khắc bâng khuâng rã rời. Tới cuối một nương ngô, núi đá dựng lù lù ngay trước đầu ngựa. Hai thầy trò xuống yên, đưa mắt nhìn quanh, thấy có chòi canh ngô của thổ dân ngay sát chân núi. Voòng Lầu bước tới, sục quanh, thoáng cái đã quay ra gọi Hồng Lĩnh:
- Trong này, có cái hang rất rộng, a thầy!
Hồng Lĩnh dằt ngựa tới, Voòng đỡ lấy cương dắt ngựa lách qua cành lá ngay sau chòi độ mấy thước. Voòng đánh lửa soi tìm trong sắc mang theo lấy ra một thoi nhựa trám, kiếm một hốc nhỏ, thắp nhựa cắm vào. Ánh lửa đỏ khè hắt khắp lòng hang. Hồng Lĩnh nhận thấy hang khá sâu, rộng, có nhiều thạch nhũ rủ xuống. Nền hang khá bằng phảng. Bên vách còn vất bừa bãi những tàu lá chuối đã úa nhầu. Cạnh đấy, có những thanh nứa khô nằm bên mấy hòn đá bắc làm bếp, chắc của thổ dân trong bản. Voòng Lầu vừa buộc ngựa bên vách đá, đang tháo yên cương, sắc, chợt gọi:
- Thầy à! Sắc của họ để lại cho sao nặng thế?
Chàng tuổi trẻ đến bên, vỗ mạnh vào sắc mấy cái đoạn, bảo thuộc hạ:
- Mở ra xem!
Voòng nhanh nhẹn ôm đến dưới ánh lửa và tháo khóa, thọc tay vào, miệng nói như reo:
- Nhiều thứ lắm, a thầy? Thầy xem này...
Vừa nói, Voòng vừa ra lôi từng thứ ở trong ra, đặt lên mấy tàu lá úa sẵn dó:
chăn màn, vải dầy thay chiếu, nến, diêm quẹt... đủ mọi thứ thường dụng không thiếu.
Rồi tới lương khô, thịt ướp, đường muồi, thuốc lá, thuốc lào, chanh... đủ thứ, cả bi đông nước... Hết hai lượt trên, vừa thọc tay xuống đáy sắc, Voòng Lầu đã lôi ra mấy gói khá lớn, miệng lẩm bẩm:
- Quái! Còn gì nữa đây?
Giở mấy gói đầu ra thấy toàn đạn súng lục còn nguyên hộp, và hai khẩu súng. Tới gói cuối, là một bó bạc khá lớn, vừa tiền giấy đủ loại, vừa vàng lá, bạc. Đếm ra, đến vạn bạc.
- Thầy a, sao nhiều thế này?
Voòng Lầu nhìn chủ vẻ mặt lộ rõ nét ngạc nhiên. Hồng Lĩnh đứng im đưa mắt nhìn các món nằm la liệt trên mặt đất, cặp mày của Đại Sơn Vương hơi nhíu lại có dáng suy nghĩ rất nhiều. Đoạn, chàng hơi nhếch miệng cười, bảo Voòng:
- Cô ta chu đáo quá! Nhưng lộ phí nhiều thế, tiêu chi hết. Voòng gói vào, ta sẽ tìm dịp hoàn lại!
Nhưng người thuộc hạ vừa lôi trong bó giấy bạc ra mấy tờ bìa nhỏ đưa mắt ngó qua, đoạn nhanh giọng:
- Thầy này! Còn có mấy thứ này nữa. Thày xem cái gì đó?
Hồng Lĩnh vội đỡ lấy, vừa liếc mắt xem đã không giấu được vẻ ngạc nhiên. Đó là hai tấm giấy “Thông hành” đương thời, một cái mang tên Hồng Lĩnh, một cái Voòng Lầu. Chỉ hơi khác là:
Trên hai chữ Hồng Lĩnh, có thêm chữ Trần, còn Voòng Lầu, phiên âm ra Vương Lâu, gốc người Nùng Mống Cái.
- Cô ta chu đáo quá! Lo cho chúng ta từ việc thông hành.
Nhưng... quá lo xạ..
Vừa nói, người tuổi trẻ giang hồ vừa thản nhiên cho mấy tấm giấy vào ngọn lửa, và nhìn giấy cháy, nhếch miệng cười chua chát, ngang tàng:
- Khi nào ta chịu mang giấy đội lốt họ Trần Tắc, nhờ chữ ký của Trần để tùy thân!
Chàng quay nhìn thuộc hạ:
- Voòng nghĩ sao?
Người thuộc bạ nhìn chủ, bộ mặt phong trần trông càng gan lì dưới ánh lửa đỏ khè trong hang đá.
- Thầy tính phải làm! Mà đó là giấy của Trần Tắc, kẻ thù?...
Hồng Lĩnh lắc đầu:
- Không hẳn thế? Cô ta đã lấy giấy ký sẵn của cha, điền tên ta vào, họ Trần!
Người thuộc hạ nhếch miệng cười, khiến vết sẹo trắng hằn rõ trên gò má rám nâu:
- Trần Tắc thù mình mà? Nó thấy mặt thầy là hạ độc thủ luôn, thầy trò mình phải...
Voòng trở nên thờ thẫn, nhìn chủ vừa bâng khuâng vừa lo lắng, trầm giọng:
- Nhưng... cô Phượng Kiều...
Hồng Lĩnh nhìn thuộc hạ, có lẽ cảm thông sự băn khoăn của Voòng, chàng đưa mắt nhìn ra đêm tối. Thấy chủ đứng im suy nghĩ, Voòng Lầu cũng không dám lên tiếng nữa, cứ lẳng lặng sửa soạn chỗ nằm, xong rót một ly nước đưa cho chàng.
- Thầy đi ngủ cho đỡ mệt đã! Mai còn lên đường...
Hồng Lĩnh đỡ lấy nước uống, đoạn vào màn nằm luôn.
- Voòng à ! Ngả lưng đi chớ! Thức làm gì cho mệt!
- Dạ!
Voòng Lầu vội ghé miệng thổi tắt đốm lửa, đoạn nhanh nhẹn vào theo. Qúa mệt mỏi, Đại Sơn Vương vừa nằm đã ngủ thiếp luôn. Mi mắt Voòng cũng khép lại, nhưng người thuộc hạ trung thành cố chống với giấc ngủ. Vốn quen với dọc ngang gian hiểm bất thần, Voòng thận trọng, cố thức canh cho thầy ngủ. Voòng vờ vào màn cho Đại Sơn Vương bằng lòng nhưng khi Sơn Vương ngủ rồi, Voòng lặng lẽ nhỏm dậy, rón rén ra ngoài cửa hang. Đêm đã về khuya, trời tối nhạt, không đen sẫm như trước nữa.
Gió thổi rào lá cây. Bên ngoài, tiếng trùng đêm cũng lịm đi trong lòng đất. Voòng Lầu ra ngoài quan sát một lượt, rồi mới trở vào, đưa lưng vào vách đá, cho đỡ mỏi. Ngồi được mấy phút, muỗi nhiều quá, thêm khí đá vách hang toát ra buốt lưng, Voòng Lầu phải vào lấy chiếc chăn dạ khoác, rồi lại dựa vào vách nghĩ vẩn vơ. Bên tai, chỉ còn thoảng hơi gió lùa khuya và tiếng muỗi vo ve đơn điệu. Gần đấy, tiếng Đại Sơn Vương thở đều đều và tiếng đuôi ngựa khẽ quật đuổi muỗi. Người đàn ông giang hồ ngồi chống với giấc ngủ được một lúc, rồi mệt quá, mắt lim dim khép dần lại. Đang thiu thiu ngủ gà ngủ vịt, chợt Voòng giật mình mở choàng mắt ra. Con ngựa vừa hí lên một tiếng, rồi im bặt trong đêm tối.
Vốn từng trải giang hồ, thuộc làu tính ngựa, Voòng ngồi thẳng người lên, hếch mũi, nghiêng đầu nghe ngóng. Ngoài cửa hang, hơi gió thoảng vào, và lẫn vào hơi gió, rõ ràng có tiếng động khác thường.
Tiếng động nổi lên, rào ngọn lá, rồi thoảng chìm ngay. lm lặng mênh mông. Con ngựa chợt lại vùng giật dây cương, chân giậm thình thịch có vẻ kinh hoảng, nhưng không hí nổi nữa. Và một mùi kỳ dị theo hơi gió thốc vào ruột hang tanh khẳm, khai khai, hôi hám... rất khó phân biệt. Lẫn cả mùi khẳm hùm, mùi khai rím, mùi cầy hôi, khiến kẻ vốn sinh trưởng tại miền núi rừng như Voòng Lầu cũng không thể đoán nổi mùi của giống gì nữa. Voòng áp vội tai xuống mặt đất, và thoảng cái, tiếng động nhẹ đã thoảng truyền vào tai lành nghề, nhưng rõ là mãi ngoài cửa hang. Người đàn ông giang hồ tung chăn, đứng phắt lên, nhanh như cắt không tiếng động. Voòng Lầu quơ tay lên mặt sắc vớ thanh dao rừng, và dựa lưng vào vách đá, quắc mắt nhìn ra đêm tối. lm lặng vẫn thẳm sâu.
Con ngựa lại hoảng hốt giật cương, chân giẫm lạch bạch. Voòng thọc vội tay vào sắc sờ tìm một nhánh tỏi, bỏ vào miệng nhai giập giập vội vã, và men đến bên ngựa, một tay vuốt nhẹ lên bờm, một tay xát tỏi vào mũi con vật. Xong, tay lăm lăm thanh dao rừng, người đàn ông giang hồ nép vào vách sau sườn ngựa. Không một tiếng động lạ và con ngựa đã đứng im vẫy đuôi nhẹ đuổi muỗi rất bình thản. Mùi tỏi sực mũi đã đánh bạt cả hơi vật lạ nào đó. Đứng độ non nửa phút, không thấy gì khác, Voòng liền rón rén men vách ra cửa hang. Nhưng vừa ra tới cửa, gặp ngay luồng gió tạt vào, đưa theo mùi lạ lúc nãy, Voòng đứng phắt lại, hếch mũi đánh hơi một vòng. Mùi lạ rất gần nhưng trước mặt Voòng là cành lá lòa xòa, tuy bên ngoài trời không đến nỗi tối om. Voòng cũng không nhìn thấy chi cả. Hắn trừng ngó ra, như muốn rách mắt. Thốt nhiên, lá cây loạt soạt khẽ, ngay phía trước. Vòng vội ngồi thụp xuống, nín thở, nhìn ngước lên nền trời.
Cành lá vẫn lay động. Voòng mím chặt môi cố quan sát. Trái tim như muốn ngừng đập. Cành lá vừa từ từ rẽ hai bên, và nửa thân trên vật lạ nhô hẳn ra hình thể cao lớn dị thường lắc lư trên nền trời tối nhạt, cao vượt cã cành cây cao. Thoáng cái, Voòng đã ước lượng được hình thể đó phải cao tới hai thước rưỡi... hay hai thước bảy. Và hình thù ra khỏi lùm cây, đen ngòm, sừng sững in vào nền trời, một hình thù phi thú phi nhân. Hình thù dị thường đứng nhìn về phía cửa hang mấy khắc, và từ từ tiến vào. Chỉ hai bước, hình thù đó đã đứng ngay trước mặt Voòng Lầu. Ngồi nhìn ngược lên, Voòng càng thấy cao ngất ngư, nửa thân trên hình thù vượt khỏi miệng hang trong đêm mờ, lúc đó mới giống một người khổng lồ. Trong mấy khắc, Voòng lúng túng chưa biết xử trí sao, thì hình thù đã khom mình, đưa phần trên vào miệng hang tối, phần dưới bất động, như nó đứng quan sát ruột hang. Ngồi dưới chân, Voòng phải nín hơi vì mùi khẳm khai tanh lộn mửa theo hơi thở “vật” phì ra.
Hình như, vì gần quá, con ngựa đã thấy, nên lại lồng lên, hí ú ớ không thành tiếng nữa. Và như có định kiến, hình thù to lớn có chân, bước vào hang tối, một ống cẳng đưa qua mặt Voòng. Không dám chậm trễ, Voòng đứng vụt lên, chuyển mạnh tay dao, chém xả vào hình thù kỳ dị một nhát. Dao vừa hạ xuống, đã bật lên, Voòng có cảm tưởng như vừa chém vào một cây khô. Vừa bật ra, Voòng đã lăn vèo trên nền hang, đồng thời, lia dao vào cẳng hình thù quái dị. Phập.
Bị liền hai nhát thình lình, hình thù giật mình đứng thẳng người lên, đầu đội phải nóc hang đến bịch một cái, và hình như có mắt thấu nhìn qua bóng tối, vật lạ quật một tay vào đúng chỗ Voòng Lầu, sượt qua tai, khiến Voòng nghe hơi gió phải rùng mình.
Nhanh nhẹn, Voòng lại lăn chếch một cái nữa, lia luôn nhát dao rừng cách mặt đất chừng ba bốn mươi phân. Phập. Vòng vừa kịp cảm thấy mồ hôi muốn toát ra, thì đã thấy có bàn tay nào quờ nắm ngay được lưỡi dao giật mạnh, và dao rời khỏi tay Voòng, tiếp theo là một tràng keng ngay trên nóc hang. Bị mất dao, Voòng đủ bình tĩnh nhoài tới vách hang, miệng quát một tiếng lớn, vừa muốn đánh thức Đại Sơn Vương dậy.
- Thầy a!
Nghe tiếng quát tháo, hình thù cao lớn ngoảnh phắt lại phía cửa hang. Và trong lúc Voòng còn dang dựa vách lần ra ngoài, thì từ trong lòng hang, có tiếng Hồng Lĩnh bật lên:
- Voòng đứng sát vào vách đó!
Tiếp theo, là tiếng rú của hình thù, có vẻ đau đớn. Biết Đại Sơn Vương đã kịp thời tỉnh giấc đối phó, Voòng Lầu rút phăng súng ra, nhưng tiếng Hồng Lĩnh lại cất lên:
- Đừng làm kinh động dân bản! Dụ nó ra!
- Mất dao rồi, thầy!
Voòng vừa dứt lời đã thấy mấy tiếng keng keng ngay vách đá, sờ vội trên nền hang, hắn tìm dược mấy lưỡi dao lá liễu, lúc đó mới rõ Đại Sơn Vương dùng dao nhỏ đánh “đòn gió” quái vật. Hang tối mò, định thần nhìn kỹ, chỉ thấy một khối đen ngòm hơi động đậy, Voòng Lầu liền lần vách men ra cửa hang. Con ngựa lần này hoảng sợ quá, đã chúi đầu vào vách, đá hậu lung tung.
Hình thù phi thú phi nhân hình như dưng dửng nhìn trước nhìn sau, chưa định xông về phía nào. Lạ nhất là bị luôn mấy nhát dao nhưng vật lạ không lồng lộn lên như các loài thú dữ, và vẫn có vẻ bình tĩnh lắm. Ra tới cửa hang, Voòng Lầu vội thét lớn dụ quái vật.
Nhưng Voòng vừa cất được mấy tiếng, vội im bặt ngay, vì trong hang, đột nhiên có tiếng ngựa hí hoảng hồn, rồi có nhiều tiếng thình thịch, xô xát. Voòng còn đang đứng nhìn vào hang, thì chợt thoáng thấy một khối đen xì từ trong lao ra, Vòng nhanh mắt, né khuất ngay về một bên vách cửa.
Khối đen vụt qua sát mặt Vòng, lao thẳng vào lùm cây cạnh đấy, giãy đành đạch mấy khắc rồi im luôn. Voòng còn đang ngạc nhiên đã thấy cái bóng quái vật cao ngất đen ngòm lừ lừ từ trong hang tiến ra.
Không chặm một khắc, Voòng lập tức lao mình ra nẻo chòi canh ngô, đồng thời ngoắt người, phóng lại một lưỡi dao đúng lúc quái vật ra tới khung cửa hang. Quái vật bị trúng “đòn gió” ngay háng, rú lên một tiếng kỳ dị và tiến thẳng ra phía Voòng. Nó vừa ra khỏi hang, đã thấy bóng Đại Sơn Vương từ trong vụt ra theo, và tiến bước sau lưng quái vật. Phía trước, Voòng cố dụ nó ra chỗ rộng cho dễ xoay. Ra tới nương ngô, Voòng nấp ngay sau chòi canh, áni thở, lắng tai, mắt trừng về phía hang. Đột nhiên, Voòng nghe rõ tiếng rú lạ của quái vật, tiếp theo là tiếng chân giẫm nặng nề trên cành khô răng rắc.
Đoán chắc Hồng Lĩnh đã ra thoát hang, đánh quái vật, Voòng liền ngồi thụp xuống, lấy mắt lượng chiều và phóng ngược lên một lưỡi dao về phía có tiếng động mạnh.
Trong đêm tối mờ, Voòng nghe rõ tiếng thở hồng hộc của quái vật chuyển nhanh tới chòi lá. Voòng vừa lẩn vào nương ngô, đã nghe tiếng rắc mạnh, rồi tiếng chòi lá đổ rầm vào bụi rậm. Đoán quái vật bị đau làm dữ, Voòng thận trọng rút vào thêm mấy thước nữa. Chỉ thoáng qua đã nghe rõ tiếng thở hồng hộc của quái vật, ngay bên chân núi sát nương, tiếng thở như xa dần, rồi im hẳn...
- A Voòng!
A Voòng đứng phắt lên:
- Thầy à!
Vừa nói. Voòng vừa rẽ những lá ngô, tiến về phía có tiếng Hồng Lĩnh khẽ gọi. Gặp Hồng Lĩnh đứng ngay trước cửa hang, Voòng Lầu hỏi luôn:
- Nó đi rồi, a thầy?
- Nó bị mấy lưỡi dao, máu ra nhiều lắm!
Ánh đèn bấm loé lên. chiếu rõ một vùng cỏ nát cành gẫy, chòi tung ngửa cột lên trời, và xác con ngựa nằm chỏng trơ trên bụi thân thể giập nát.
Theo ánh đèn bấm, hai thầy trò Đại Sơn Vương thấy từng vũng máu đọng trên cỏ, lần theo dấu máu mới biết quái vật bỏ đi dọc theo chân núi.
- Thầy à! Tôi đi rừng nhiều, chưa gặp giống này? Chưa thấy giống nào khỏe như thế! Và lạ nhất là khi lồng lộn, chạy nhanh, cả lúc gặp địch thủ. Nếu nó nhanh nhẹn, chắc còn nguy hiểm nữa. Đó là giống dã nhân.
Đại Sơn Vương khẽ gật đầu và nhìn về lối dã nhân đi, có vẽ suy nghĩ. Mười khắc sau, mới lẩm bẩm:
- Quái lạ! Chẳng lẽ...
Voòng chưa kịp hỏi, nhìn về phía bản đã thấy bóng thổ dân trong bản cầm đuốc nứa sáng rực tiến thẳng ra. Nhìn kỹ, thấy chân núi mấy chục người, toàn đàn ông, kẻ xách súng hỏa mai, người mang cung nỏ, dao rừng... vừa đi vừa quan sát tứ phía như dò tìm cái gì.
Voòng Lầu nhanh giọng hỏi Hồng Lĩnh:
- Thầy tính sao?
Đại Sơn Vương nhìn về phía thổ dân, chậm rãi:
- Chắc họ thấy liếng động lạ ngoài này, nên ra đó. Ta vào hang.
Hai thầy trò vào tới nơi, Đại Sơn Vương truyền Voòng Lầu nhóm lửa và hai thầy trò thản nhiên ngồi bên lửa, uống nước. Chỉ mấy phút sau, đã nghe lòng chân người giẫm trên lá rụng, rồi tiếng người cất lên có vẻ sửng sốt ngay ngoài cửa hang.
- Coi kìa!
Tiếp theo nhiều tiếng bàn tán, và có tiếng chân người bước vào hang. Hai thầy trò Hồng Lĩnh ngẩng nhìn ra, thấy ánh đuốc hắt vào, rồi một đầu người ló ngoài cửa hang và giật lùi ra ngay:
- Có người trong hang!
Tiếng người đàn ông bản thổ kêu lên có vẻ ngạc nhiên. khiến Hồng Lĩnh và Voòng Lầu cùng đưa mắt cho nhau, cả hai lấy dáng điệu bình thản, Voòng cời lửa cho cháy to thêm... chờ đợi.
Thấy bên ngoài vẫn im lặng, Hồng Lĩnh ngoảnh nhìn ra thấy nhiều thổ dân lố nhố ngoài khung cửa, đang nấp nhìn vào thấy có người nhìn ra, liền lùi giạt cả ra hai bên, chĩa súng hỏa mai vào, như muốn đề phòng bất trắc. Biết bọn thổ dân ngạc nhiên, e ngại, Hồng Lĩnh liền nói vọng ra mấy tiếng bản thổ cho họ yên lòng. Quả nhiên, sau mấy khắc do dự thì thào bàn tán, cả bọn đều đeo ngược hỏa mai, bước vào chỗ hai người ngồi. Một người đứng tuổi, dáng là chức dịch trong bản chắp tay vái hai thầy trò Đại Sơn Vương rất cung kính, giọng vẫn có vẻ ngạc nhiên:
- Con ngựa bị vặn chết ngoài kia, chắc của hai cái quan!
Hồng Lĩnh mỉm cười, khẽ gật đầu. Bọn thổ dân đưa mắt nhìn nhau kinh ngạc, giương mắt tò mò ngó hai khách miền Kinh. Người chức dịch giọng càng ngạc nhiên:
- Sao hai cái quan không việc gì? Dã nhân nó... đâu rồi.
Vừa nói người thổ dân vừa đưa mắt nhìn súng ống, dao rừng cùng các vật dụng sang trọng quanh hai người lạ. Hồng Lĩnh mỉm cười kể qua loa lại chuyện vừa xảy ra đoạn bảo đám thổ dân:
- Chúng tôi không muốn bắn súng, sợ làm kinh động bản dân ban đêm. Nhưng dã nhân bị thương cũng nặng...
Đám thổ dân nhìn nhau và ngó trân trối hai khách Kinh, sự kính phục hiện rõ trên những khuôn mặt ngây ngô chất phác. Một chàng trai đứng sau người chức việc rụt rè lên tiếng:
- Bẩm... dọc chân núi có nhiều vết máu, hèn chi, lúc nãy tiếng dã nhân rú vang vọng về tới bản...
Mỗi người góp một đôi câu. Người chức dịch phải xua tay bảo họ đứng im và kể qua về chuyện dã nhân đến bản cho thầy trò Hồng Lĩnh nghe. Thì ra ít bữa nay, dã nhân không biết từ đâu về, thỉnh thoảng lại xuất hiện, lần vào bản kiếm thịt ăn. Nhiều thổ dân gặp bất ngờ đã bỏ mạng vì quái vật. Nạn dã nhân làm suốt vùng kinh sợ, chưa ai chống cự nổi, vì thường nó đi lại rất êm, xuất hiện thình lình, chợt gặp một vài người mới làm dữ. Có trông thấy hình thù nó, dân vùng đã thất đảm, nhất là có người tình cờ đã trông thấy dã nhân xé xác một con hổ xám lớn, phải kinh sợ vì sức khỏc phi thường của quái vật. Lần đầu thấy có người đánh đuổi quái vật bằng dao rừng, thổ dân không khỏi lạ lùng, không dám tưởng ai có tài nghệ đến thế. Xong, người bản địa khẩn khoản mời hai vị khách Kinh ân nhân về bản. Từ chối không được, thầy trò Đại Sơn Vương phải thu xếp mọi thứ, rời hang đá, theo thổ dân về bản. Lúc đó đã hai giờ sáng.
Rửa mặt mũi tay chân, dùng qua loa chén xôi với gà luộc tại nhà người chức dịch xong, hai người đàn ông giang hồ vừa ngả mình nằm, gà trong bản đã lên tiếng gáy.
Hồi 4
Thượng Khách Của Vua H Mông
Tướng Thập Vạn Đại Sơn mở mắt ra, lúc ánh nắng chan hòa trong căn nhà sàn mênh mông. Nhìn bên cạnh không thấy Voòng thuộc hạ, người tướng lạc thảo trẻ tuổi đưa mắt ngó qua bức màn thổ cẩm và chống tay ngồi dậy. Nhà sàn vắng vẻ không một bóng người. Chàng vén màn, bước xuống sàn nứa:
- A Voòng! A Voòng!
Có tiếng chân bước nhanh lên thang gác và Voòng Lầu ló dạng:
- Thầy đã thức.
Hồng Lĩnh hỏi:
- Sao nhà vắng thế? Chủ nhân đâu?
- Dạ, ông ta đi sắm ngựa. Tôi đã nhờ ông lúc sớm như lời thầy dặn.
Hồng Lĩnh hơi gật đầu, đoạn đưa mắt nhìn ánh nắng ngoài khung cửa:
- Mấy giờ rồi nhỉ?
Voòng Lầu nhìn ra bóng nắng:
- Có lẽ đã tới mười giờ.
Vừa nói, Voòng vừa lấy trong túi ngực ra chiếc đồng hồ quả quít cũ liếc mắt qua, tiếp luôn:
- Đúng mười giờ kém ba phút thôi!
Hồng Lĩnh đưa cao mày.
- Thế ra ta đã ngủ một giấc dài quá nhỉ? Bao giờ có ngựa?
- Cũng ngay bây giờ thôi, thầy? Tôi đã dặn kỹ lắm.
Miệng nói, chân bước đến bên giường, Voòng nhanh nhẹn lục sắc, lấy khăn mặt, xà phòng, bàn chải đánh răng mang ra đặt bên thau nước đã múc sẵn. Hồng Lĩnh rửa mặt, thay y phục, lát sau đã gọn ghẽ trong bộ quần áo Chàm sẫm, đầu chít khăn chữ “nhân” trông hệt một chàng trai quý tộc Thổ.
- À này Voòng! Từ nay nên buộc súng đạn dưới yên ngựa. Chỉ giữ trong mình mỗi người một khẩu. Ta sẻ xuôi qua nhiều phố phường để về được Hà Nội.
Voòng mở to mắt, có vẻ ngạc nhiên khẽ hỏi:
- Bẩm thế còn...
Như đã thấu cả ý nghĩ Voòng, Đại Sơn Vương nói:
- Được! Việc Trần Tắc ta đã tính cả rồi. Voòng hãy đi lo ngựa, chúng ta còn lên đường.
- Dạ, ngay bây giờ?
Đại Sơn Vương khẽ gật đâu, nhìn ra xa, mặt trở nên bâng khuâng, lẩm bẩm một câu gần như vô nghĩa. Voòng Lầu đã bước đi, nghe chủ lẩm bẩm nhắc đến dã nhân có vẻ bí ẩn lạ lùng. Voòng đứng lại, ngoảnh nhìn chủ, nét ngạc nhiên hiện rõ trên khuôn mặt người đàn ông đứng tuổi. Voòng định hỏi chủ nhưng có lẽ đã quen thuộc với những việc bất thường khác lạ của Đại Sơn Vương nên lại lẳng lặng quay đi.
Voòng vừa xuống cầu thang sàn, đã thấy chủ nhà cùng hai gã gia nhân từ ngoài cưỡi ngựa về. Thấy Voòng, chủ - người chức địch tối qua - xuống yên, chỉ vào hai con ngựa gia nhân cưỡi về, nói luôn:
- Cái quan đã dậy chưa? Để mời cái quan ra xem ngựa!
Voòng tiến đến bên cặp ngựa, vỗ mạnh lên mông và vừa vuốt bờm vừa ngắm nghía, đoạn quay bảo người chức dịch Thổ:
- Ngựa khá đó! Nước Hai hả?
Chủ nhà nhìn khách có vẻ hơi ngạc nhiên:
- Dạ dạ, cặp ngựa nước hai đó! Sao cái thầy tinh mắt thế?
Voòng hơi nhếch cười khô khan, lạnh lùng:
- Cao Bằng có tiếng ngựa nước hai mà!
Đoạn Voòng chỉ tay về phía gốc cây rợp nắng, bảo hai gã gia nhân kia:
- Buộc tạm vào đó!
Và như đã thông thạo nhân tâm. Voòng liền móc túi lấy bạc xòe đưa biếu thêm tớ thầy người chức dịch xong lên nhà. Chỉ mấy phút sau, hai thầy trò Đại Sơn Vương đã từ giã bản Thổ, bằng ngựa nước hai trên đường mòn đi về thị trấn Cao Bằng.
Quá trưa, vó câu đã đặt trên đường thị trấn. Gặp đúng ngày phiên chợ tỉnh, nên thổ dân khắp các bản gần xa đổ về mua bán rất đông, ngựa thồ đi từng đoàn tấp nập. Hai thầy trò tướng Thập Vạn Đại Sơn đi giữa đám thổ dân, ngồi trên yên chỉ trỏ chuyện trò, trông đúng là một cặp tớ thầy của chàng trai Thổ giòng quí tộc.
Nhưng hình như vẻ mặt quắc thước đẹp ngang tàng của Đại Sơn Vương Hồng Lĩnh đi tới đâu cũng nổi bật hẳn lên giữa những bộ mặt thổ dân chất phác, nên thường bị kẻ qua người lại lưu ý ngắm nhìn.
Nhất là các cô sơn nữ. Nhiều nàng ngồi trên lưng ngựa thồ liếc mắt ngây nhìn :chàng trai Thổ” chít khăn chữ nhân duyên dáng nghiêm trang, đến nỗi quên cả tay cương. Không những các cô sơn nữ, Cả tới cáC cô người Kinh buôn bán dọc phố cũng vậy. Ngựa thầy trò Hồng Lĩnh cao lớn,vạm vỡ khiến các cô nàng phải chú ý ngay, không thể ngờ lại có chàng thổ dân đẹp trai xuất sắc đến thế.
Cử chỉ của các cô khiến Voòng bực bội lắm. Trước Voòng còn làm lơ cứ nghiêm mặt nhìn thẳng, sau thấy lắm cô ngó sát sạt chủ mình, Voòng nhiều lần phải lừ lừ mắt nhìn thẳng vào các cô cho đỡ bực.
Thấy cặp mắt diều hâu của Voòng, các cô cũng chẳng coi ra gì cứ tiếp tục ngó như thường khiến Voòng đành phải quay mặt đi. Nhân lúc ngựa đi kề, Voòng liền bảo Hồng Lĩnh:
- Thầy à! Phố phường hôm nay đông lắm, nhưng thầy trò ta vẫn bị chú ý nhiều, phiền nhất là các ả...
Hồng Lĩnh mỉm cười:
- Các nàng hả? Ờ! Mặc họ chứ? Ở tỉnh nhỏ, họ chú ý tới khách lạ là thường mà...
Voòng đưa mắt nhìn quanh, và chợt bảo Hồng Lĩnh:
- Thầy đã thấy đói chưa, kia có quán ăn coi sạch sẽ lắm.
- Ờ! Trông được đó? Voòng đói chưa? - Chàng cười - Uống rượu chớ?
Voòng lắc đầu:
- Dạ đâu dám...
Đại Sơn Vương gật đầu:
- Ta cùng uống cho vui mà! Voòng nhịn đã lâu rồi?
Miệng nói, tay rẽ phắt cương, Hồng Lĩnh đưa Voòng thẳng tới trước một quán rượu ngay kế chợ. Buộc ngựa vào gốc cây gian đó, hai thầy trò Đại Sơn Vương vào thẳng quán. Ngước mắt ngó qua quán, Hồng Lĩnh bảo Voòng Lầu:
- Đây có lẽ khá? Quán Khách trú, a Voòng! Chắc phải có rượu ngon.
Hai thầy trò ung dung bước vào, dừng lại bên cửa, đưa mắtnhìn qua bên trong, kiếm chỗ ngồi. Quán rượu đông người, thực khách ngồi chật phòng, ăn uống truyện trò ồn ào. Hai thầy trò còn đang tìm chỗ, đã thấy một chú tửu bảo chạy ra, lễ phép:
- Mời hai ông vàọ.. Đây còn bàn tốt.
Nhìn theo ngón tay trỏ của tửu bảo, hai thầy trò Hồng Lĩnh thấy tại góc phòng bên mặt, còn hai bàn trống, khuất sau mấy dãy bàn thực khách. Hồng Lĩnh tần ngần đưa mắt ngó về phía thang lầu khẽ hất làm hỏi tửu quán:
- Trên gác sao?
Tửu bảo cười, ấp úng:
- Dạ dạ.... còn rộng nhưng...
Tửu bảo không muốn để “khách rừng” lên thượng lầu, Voòng hơi trừng mắt:
- Sao? Còn chỗ mà chúng ta không được lên sao.
Tửu bảo ngó cặp mắt diều hâu của Voòng, có vẻ sợ hãi:
- Dạ.... Vì hiện có khách dữ lắm! Nhà hàng không dám để khách nào lên...
Hai thầy trò Đại Sơn Vương đưa mắt nhìn nhau. Hồng Lĩnh khẽ hất đầu, đoạn hai thầy trò ung dung tiến thẳng về phía cầu thang, lên gác. Gã tửu bảo muốn chạy theo gọi lại, nhưng có lẽ thấy dáng diệu điềm nhiên của hai “khách rừng”, nhất là thân hình to lớn của Voòng Lầu, nên lại thôi ngay, chạy vội đi tìm chủ quán.
Hai thầy trò Đại Sơn Vương lên tới gác trên và không cần nhìn trước, cứ bước thẳng vào phòng. Phòng tuy rộng, nhưng chỉ chừng mười lăm thực khách đang ăn uống quanh hai cái bàn tròn. Hai thầy trò nhìn thoáng qua, thấy lố nhố vừa quần áo Tây, Ta, lẫn lộn, song không lưu ý mấy, cứ khoan thai tiến thẳng về góc phòng một bàn trống kế bên cửa sổ. Thấy có tiếng chân người bước vào, mấy người đàn ông đang ăn vội ngẩng nhìn lên và khẽ bảo đồng bọn. Lúc thầy trò Hồng Lĩnh kéo ghế ngồi thì cả hai bàn thực khách đều đưa mắt nhìn hai người có vẻ bực tức vì có người lạ lên ngồi lẫn cùng phòng.
Lúc thực khách nhìn, hai thầy trò Đại Sơn Vương còn đang lúi húi kéo ghế, và hình như cũng muốn nhìn qua để biết mặt đám “khách dữ” thế nào mà nhà hàng sợ không muốn để ai lên, nên hai thầy trò có ý ngồi nghiêng đối diện nhau và cùng đưa mắt về phía bọn khách dữ, đúng lúc bọn khách dữ ngừng đũa, trừng nhìn hai người, hình như cả hai phía đều như bị điện giật. Đám khách dữ vừa ngó hai thầy trò Hồng Lĩnh, đã thấy mấy người mặc quần áo xạ phang đưa mắt cho nhau rất nhanh, qua mấy khắc sửng sốt, cả bọn lại quay xuống ăn uống tự nhiên như không có chuyện chi lạ. Và Voòng Lầu giọng nhanh, thấp, bảo Hồng Lĩnh:
- Thầy à! Bọn Thoòng Mềnh!
Đại Sơn Vương thản nhiên:
- Ta đã thấy! Thoòng Mềnh cùng bộ hạ ngồi với mấy người chắc viên chức chi ở hạt này! Thoòng ngồi quay mặt về phía này.
Tửu bảo đã chạy lên, có dáng hốt hoảng, nhưng thấy hai đám vẫn ngồi nguyên bình thản, hắn ta mừng ra mặt, tiến thẳng tới chỗ đám khách dữ, kính cẩn:
- Bẩm... Quí ngài có cần chi nữa để...
Nhưng hắn vội lấm lét chớp mắt luôn mấy cái, vì một người râu xồm, dữ tợn nhất bọn đã lừ mắt một cái, lẩm bẩm trong miệng, chỉ có đồng bọn cùng tửu bảo là nghe rõ, vì giọng lơ lớ khó nghe:
- Cần cái đầu của mi!
Gã tửu bảo thấy rợn gáy cuống lên, đành tiến đến trước hai ông khách rừng:
- Bẩm quí khách dùng chi xin...
Đang nói hắn ngưng ngay, hoảng lên vì Voòng Lầu đã quắc mắt diều hâu nhìn tửu bảo, giọng trầm như không ra khỏi họng:
- Chỉ sợ bọn kia thôi hả?
Và như muốn trút hết cái bực tức, đồng thời cũng muốn lên tiếng trước, Voòng Lầu đấm mạnh tay xuống mặt bàn:
- Đem rượu và thịt nướng lên mau! Chúng tao đói rồi!
Tiếng Voòng quát giọng Quan Hỏa nghe vang âm như tiếng chuông, khiến không gian như đảo lộn lên, tửu bảo giật nẩy mình, vừa định thần ngó, chỉ thấy bàn tay ông khách rừng thu về, để lại trên mặt bàn, một lỗ hổng như cái bát! Lạ nữa là cái bàn ăn chỉ khẽ động đậy khiến gã tửu bảo phải xanh mặt vì sức nội công ghê gớm của ông khách rừng. Hắn nhớn nhác nhìn hai người và chạy biến xuống dưới nhà, thoáng cái đã đem rượu thịt lên.
Từ nãy giờ, chàng tướng trẻ miền Thập Vạn Đại Sơn chỉ ngồi mỉm cười, thản nhiên như không lưu ý tới quanh mình, nhưng người tướng lạc thảo giang hồ đã quan sát địa hình địa vật kỹ càng. Chỗ ngồi rất thuận, trông qua song sắt, thấy cả cặp ngựa buộc dưới cây bên kia đường. Chỉ ba thước là tới cửa, thông ra hàng hiên thượng lầu, cách mặt đất chỉ bốn năm thước Tây. Nên khi rượu thịt lên, chàng ung dung ăn uống cùng Voòng Lầu, thỉnh thoảng đưa mắt về phía bọn Thoòng vẫn thì thầm lo nhỏ với mấy người kia, lát sau thấy một tên cao lớn trong bọn Thoòng đứng lên, cùng một người mặc âu phục. Cả hai điềm nhiên xuống lầu, Đại Sơn Vương đưa mắt cho Voòng:
- Nội bất xuất, ngoại bất nhập! Để ta ăn xong đã!
Vừa dứt lời, Voòng Lầu buông phắt đũa, đứng lên, như đã quá hiểu ngầm ý chủ. Người đàn ông giang hồ đưa mắt một vòng qua dãy bàn ăn Thoòng Mềnh và bước theo hai người xuống trước, nhanh và êm như lướt sàn. Thấy Voòng Lầu xuống theo, cả bọn cũng đưa mắt nhìn Thoòng Mềnh cùng người đàn ông mặc âu phục. Pạc Hoọc Đại Vương vẫn ngồi khoanh tay trên bàn, lừ mắt nhìn theo Vòng và chậm chạp quay nhìn sang bàn Hồng Lĩnh, cặp mắt cú vọ không hề chớp, khuôn mặt của viên tướng thổ phỉ rắn lại, sau mấy giây suy nghĩ.
Thấy Thoòng tướng ngồi im, cả bọn cũng ngồi không nhúc nhích, đợi chờ, và có vẻ tin tưởng lắm. Nhất là Thoòng, vị tướng thổ phỉ đã hiểu hơn ai hết về tài lực của hai viên cận tướng vừa xuống thang.
Một Voòng dầu thiện nghệ cũng không sánh được cặp thủ hạ dũng mãnh đó, dầu Thoòng đã thấy tài sức Voòng đã giải cứu thiếu nữ Phượng Kiều. Hơi đưa mắt thấy bọn Thoòng Mềnh bất động ngồi im, Hồng Lĩnh thản nhiên cầm ly rượu đầy đưa lên miệng, nhấm nháp từng ngụm nhỏ, phong thái vẫn ung dung như một khách bàng quang vô sự. Chàng tuổi trẻ ngồi nghiêng sườn về phía Thoòng, thỉnh thoảng hơi liếc mắt bâng khuâng nhìn xuống đường như ngắm cảnh phố rừng tấp nập.
Tuy ngồi im, nhưng bọn Thoòng Mềnh vẫn không ngừng quan sát Hồng Lĩnh, thỉnh thoảng lại rì rầm bàn nhỏ với nhau, hình như muốn tìm hiểu xem chàng trai Thổ trẻ tuổi có dáng thư sinh đó là ai? Riêng Thoảng Mình có vẻ thắc mắc nhiều, hình như đang tưởng nhớ đến ông già bí mật có dị tài đã cùng Voòng Lầu phục đánh hàng trăm quân hắn đêm nào. Hắn chỉ nhận rõ được Voòng và vẫn còn ngờ ngợ về Hồng Lĩnh. Thấy chàng ngồi ung dung uống rượu, Thoòng tướng có vẻ bực bội, nhưng dè dặt, cố nén. Sự im lặng của hai bên, khiến căn phòng trở nên ngột ngạt, căng thẳng. Năm phút đợi chờ kéo dàị..
nặng trịch... Thình lình, từ ngoài đường vọng lên những tiếng dân gian kêu la hỗn độn, lẫn tiếng chân người chạy ngược xuôi nhốn nháo.
Thập Vạn Đại Sơn Vương hơi nhếch miệng cười và điềm nhiên nâng ly rượu lên môi. Đám thủ hạ Thoòng Mềnh dáo dác nhìn xuống đường, có một hai tên nhổm mông toan đứng dậy, nhưng Pạc Hoọc Đại Vương đã mím chặt vành môi hở mắt nhìn thủ hạ và cả bọn lại theo chủ tướng ngồi im, cũng đảo mắt về phía Hồng Lĩnh. Chàng trai trẻ vẫn ngồi nhắp từng ngụm rượu một, dáng ung dung như không biết có chuyện xảy ra dưới đường. Ở nhà dưới, có tiếng khách khứa nổi lên, ồn ào, tiếng chủ quán vọng lên, nghe rõ mồm một:
- Piết trước mà! Khổ tui! Khổ tui!
Giọng người khách trí hoảng than lên tiếng Việt lơ lớ khiến Hồng Lĩnh bất giác nhếch miệng cười. Riêng Pạc Hoọc Đại Vương, chẳng hiểu sao, cũng chợt mỉm cười, tay giơ vuốt chòm râu quai nón. Tiếng ồn ào chuyển mau về phía cầu thang, rồi có nhiều tiếng chân bước thình thịch lên cầu thang. Và Voòng Lầu hiện ra chậm chạp, sừng sững ngay ngoài khung cửa thượng phòng, mỗi tay nắm một ngực áo hai đầu mục lực lưỡng của Thoòng Mềnh, lôi sềnh sệch, theo sau lố nhố nhiều người. Voòng quẳng mạnh hai thân hình to lớn nằm sóng xoài bên bàn bọn Thoòng Mềnh, giọng thản nhiên:
- Không biết bảo chúng nó à! Xuống định trộm ngựa, lại còn định giết người. Hà ! Mỗi thằng một dao một súng này!
Dứt lời, Vương rút ném xuống sàn, cặp dao, súng lăn xoảng vào ngay chân Thoòng Mềnh. Cả bọn biến sắc mặt, chưa biết tính sao thì Pạc Hoọc Đại Vương đã đứng vụt lên đá tung cả dao súng về một góc phòng, thuận chân xúc luôn một gã đầu mụt. nam dưới sàn, hất bổng thẳng về phía Voòng Lầu, và thình lình, rút phắt súng ra, vẩy theo.
Đoàng... Đoàng...
Liền hai tiếng nổ dội lên, Voòng Lầu vừa kịp vật mình xoài bên khung cửa, mọi người chỉ kịp chớp mắt một cái nhìn ra đã thấy khẩu súng trên tay Thoòng Mềnh rơi bắn xuống sàn, tay Pạc Hoặc Đại Vương còn xòe ra chưa kịp thu vào, và chàng tuổi trẻ Hồng Lĩnh đang quay khẩu súng trên ngón tay vẫn ngồi trên gác, mỉm cười, giọng trầm trầm, chậm rãi:
- Sức chúng địch sao nổi sức Voòng Lầu Đa Sát Hải Sơn Vương Bắc Hải.
Không hiểu sao, lời Hồng Lĩnh vừa buông ra, cả bọn Thoòng đều nhìn dồn cả về phía Voòng Lầu, và Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng từ từ tiến tới trước Voòng, hàm răng viên tướng thổ phỉ cắn chặt vào nhau quai hàm bạnh ra, khiến bộ râu quai nón khẽ rung rung theo hơi gió quạt trần.
Voòng đã đứng dậy, thấy Thoòng Mềnh tiến đến, người đàn ông giang hồ vẫn đứng im như pho tượng, chỉ cặp mắt diều hâu trừng nhìn Thoòng, như chờ đợi một hành động rửa hận của viên tướng thổ phỉ dữ tợn. Mọi người cũng nín thở ngó theo. Nhưng bất ngờ, Thoòng Mềnh đã giơ bàn tay hộ pháp vỗ mạnh lên vai Voòng Lầu một cái, và nhìn Voòng không chớp, giọng Thoòng đượm ngạc nhiên:
- Đa Sát Hải Sơn Vương miền Nam Hải Quảng Tây dó ư? Chính Voòng?
Voòng hơi nhếch miệng:
- Vậy Thoòng muốn chi?
Pạc Hoọc Đại Vương gật gù:
- Thảo nào tài sức khác người, đấm thủng gỗ mà không sụp bàn?
Nhưng còn...
Viên tướng thổ phỉ ngừng lại chút, hơi đưa mắt về phía chàng tuổi trẻ Hồng Lĩnh như muốn hỏi.
Voòng hơi nheo mắt, đoạn lạnh lùng:
- Thầy ta đó!
Trong lúc Pạc Hoọc Đại Vương đưa cao lông mày đầy vẻ ngạc nhiên, Đa Sát Hải Sơn Vương, Thoòng điềm nhiên:
- Thần Xạ Đại Sơn Vương! Thoòng chưa nhận ra hùm thiêng.
Thập Vạn Đại Sơn, thầy ta, thầy các tướng giặc cỏ đó sao?
Thoòng Mềnh quay phắt về phía Hồng Lĩnh, vẻ mặt không giấu được nét kinh ngạc:
- Trách nào bắn rơi nổi súng ta!
Thoòng lim dim mắt, dáng suy nghĩ và khẽ đưa cao mày ra hiệu cho bộ hạ, đoạn viên tướng thổ phỉ tiến đến trước Hồng Lĩnh. Viên tướng thổ phỉ chậm bước, thân hình vạm vỡ dồn xuống bước chân, khiến sàn gỗ khẽ rung, không khí phòng ăn trở nên nặng trịch thêm, và mọi người ngồi im, ngó theo hồi hộp chưa biết Thoòng tướng xử trí ra sao? Cả Voòng Lầu cũng đứng im ngoài khung cửa, lừ cặp mắt diều hâu nhìn theo Thoòng địch tướng đang đến trước Hồng Lĩnh. Tướng thổ phỉ đến cách Hồng Lĩnh chừng một với tay dừng lại, mắt vọ nhìn thảng vào chàng tuổi trẻ, hai đầu mép hơi cúp xuống chòm râu rung khẽ theo hai cánh mũi phập phồng. Chàng tuổi trẻ vẫn ngồi yên, mấy ngón tay lơ đãng quay khẩu súng, thấy Thoòng Mềnh tới, từ từ nhìn chếch lên, cặp mắt sáng quắc hơi nheo lại.
- Thần Xạ Đại Sơn Vương! Lâu nay vẫn nghe tiếng tiên sinh ngang dọc một miền Thập Vạn Đại Sơn, dưới tướng có nhiều thuộc hạ!
Lại đã thu phục được cả Đa Sát miền Bắc Hảị..
Hồng Lĩnh hơi ngạc nhiên vì câu nói có vẻ văn hoa lễ độ của viên tướng vốn nổi danh dữ tợn nghịch xược, nhất là giọng Thoòng, vừa đủ nghe, chàng đang chú ý tới điểm khác thường đó, thì Thoòng đã tiếp tuôn một câu bất ngờ, tuy giọng vẫn đều đều:
- Nhưng... hùm dữ đã lìa rừng!
Vừa dứt câu,trong lúc mọi người chưa kịp nghĩ thì bất thình lình Thoòng Mềnh đã quát lên hai tiếng:
- Hây a!
Nghe vang âm thập phần dữ dội, đồng thời chuyển mình, tay trái khua ngang mặt Hồng Lĩnh, và tay phải xòe ra chém mạnh xuống ngang cần cổ chàng tuổi trẻ Việt một nhát, với tất cả sức vận công của tay thượng võ điểm truyền và cái nhanh vút của cái tài nghệ mấy chục năm giang hồ chém giết dồn lại. Nhát đòn tấn công bất kỳ xuất ý của Pạc Hoọc Đại Vương nhanh đến nỗi chính đám thủ hạ thổ phỉ cũng không ngờ được, chỉ còn ngồi im kịp chớp mắt một cái và hầu hết đều thoáng nghĩ ngay tới sự gục ngã của chàng trai. Nhưng người tướng lạc thảo Thập Vạn Đại Sơn vẫn ngồi im, thân thể như đã dính vào ghế, khi bàn tay dịch thủ chém xuống, chỉ thấy cánh tay chàng vụt hất lên nhanh như một cần máy. Cả bọn định thần nhìn, đã thấy cánh tay Thoòng Mềnh bật ngược lại, và thân hình cao lớn cũng theo đà bật lảo đảo về sau vì sức mạnh của cái hất tay.
- Chà! Cao cường quá!
- Cao cường quá!
Liền mấy miệng người bật kêu lên sửng sốt, trong lúc Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng bị hất đòn, đã lấy ngay lại thế, và chuyển hết sức, lao mình vào Hồng Lĩnh. Nhưng chưa kịp lao tới Thoòng Đại Vương đã dừng phắt lại, vì chợt có một bàn tay người đặt mạnh vào vài, phía sau, và ghìm lại như một kìm sắt nguội. Đại Vương Thoòng phải hụp vội người xuống, đồng thời nhảy xả một bước quay phắt lại. Voòng Lầu đã đứng đó, nhếch miệng cười khan dằn giọng:
- Thoòng Mềnhl Hãy thử gặp Đa Sát Hải Sơn Vương đã, sao vội hỗn với thầy ta!
Giọng khinh ngạo của Voòng khiến tướng thổ phỉ bừng giận, quắc mắt nhìn Voòng như sắp bốc cháy. Mấy khắc im lặng, nặng nề...
Thoòng Đại Vương đưa mắt nhìn Hồng Lĩnh, và thừa biết Voòng không khi nào chịu để thầy bị tấn công, nên Thoòng Đại Vương từ từ tiến nhích lại trước Voòng rất chậm. Voòng vẫn đứng im như pho tượng, tay trái chống nạnh bên sườn, tay phải nhè nhẹ vuốt hàm râu quai nón xồm xoàm, mắt hơi nheo lại nhìn Thoòng Thoòng chậm bước, một tay buông thõng, bàn tay xòe ra, một tay cũng khẽ mân mê bộ râu quai nón, mắt cũng nheo lại. Cả hai viên tướng như muốn quan sát cân lượng tài lực nhau, và chỉ nhìn qua hai người đàn ông vạm võ gân guốc gan lì, cũng râu xồm, mắt diều hâu, sẹo mặt, mọi người cũng đã đoán ngay được đôi bên địch thủ kỳ phùng. Đám bộ hạ Thoòng nín thở, mấy người mặc âu phục nhíu mày lại, còn đám thực khách đều thụt lùi lại, ló đầu ngó vào sợ sệt như đã đoán được trận chiến nẩy lửa sắp diễn ra. Sát khí như trùm khắp gian phòng. Vụt cái, đúng lúc Thoòng tiến đến cách Voòng non thước Tây, hai người đàn ông thình lình cùng quát lên một tiếng nghe vang âm rờn rợn như muốn đoạt khí nhau và cùng lúc chuyển mình, lao vào nhau như hai con mãnh hổ vồ mồi. Hai tiếng quát khởi thế công của hai viên tướng giặc khiến hầu hết thực khách giật nẩy mình, khách vừa định thần đã thấy đôi bên địch thủ, lộn đầu xuống, lăn mình trên sàn như hai quả cầu, cách nhau đến hai, ba thước chẳng ai đánh trúng ai. Mọi người đứng ngây nhìn, không hiểu sao, chỉ thấy chàng tướng trẻ Thập Vạn Đại Sơn chợt bật lên một lời khen khá lớn:
- Khá lắm!
Thì ra, cùng một khắc, hai người đàn ông đã khởi tiến công, nhưng đến khắc thứ hai, cả hai tay lão luyện đều chuyển thế, vờn lộn sang một bén để lợi dụng sức trượt đòn, đá tung lại, nếu một trong hai người vẫn theo thế tấn công hụt, thì sẽ bị miếng đá chân truyền đó, nhưng cả hai đều chuyển thế, nên đều đá vào không khí và lăn tròn trên sàn. Chỉ có tay thượng võ mới hiểu ngay được sức chuyển thế công lão luyện của Thoòng, Voòng.
Hai người đã đứng vọt lên, lừ mắy nhìn nhau, như bắt đầu lượng rõ tài sức nhau sau miếng đòn giống nhau đó. Cả hai tiến lại trước mặt nhau, cách non thước. Thoòng giậm mạnh một chân xuống sàn, miệng lại quát lên một tiếng “Hầy”, mình chuyển tấn công nhưng lại thôi ngay. Nhưng hình như Voòng đã đoán được, nên Thoòng vừa chuyển mình đánh dữ, thì Voòng cũng quát lên một tiếng, giậm chân nhảy chéo sang bên sườn địch thủ, đồng thời phát ngang bàn tay trái vào cổ Thoòng, chân phải vừa chấm sàn đã giậm luôn một cái, bật người lại, tay phải quật vòng lại. Thoòng thụp rút đầu xuống tránh cái phạt trái, vừa xong, đã thấy tay mặt địch thủ quật vòng lại. Thoòng hất mạnh tay trái lên, thuận đà xoáy nửa vòng len vào bụng Voòng, đánh ngược lên một cùi tay. Nhưng Voòng đã kịp thời gập thót bụng lại, tay trái hất ngược lên ngang nách Thoòng. Thoòng giật mạnh cúi xuống, và nhảy lui lại tránh luôn một đòn tay phải của Vòng. Thấy Thoòng lui lại, Vòng cũng thu ngay về thế “Đồng tử bồng ngân bình” chờ đợi.
Thấy địch thủ trổ thế võ “Quý Châu”, Thoòng cũng thủ thế, đợi chờ, không xông ngay, Voòng thấy thế, xông tới luôn, và hai địch thủ xoắn vào nhau trổ hết thế võ chân truyền, phóng ra những đòn dữ nhất, từ Hầu Quyền, Hạc Quyền, tới Thái Cực, võ Thổ, vố Mường...
của mấy mươi năm lăn lộn giang hồ. Kẻ trúng đòn nọ kẻ trả lại đòn kia ngay, đôi bên kỳ phùng địch thủ đánh chỉ trúng nhau những đòn thường, không sao hạ nổi nhau, đến mười mấy hiệp vẫn tỏ ra ngang sức. Đám bộ hạ của Thoòng cùng thực khách, tửu bảo trước còn đứng im, sau cũng múa chân, múa tay, reo hò vang dội, như đang xem một cuộc lôi dài. Thay đã kéo dài khá lâu, Thoòng, Voòng đều nóng ruột càng dồn hết tài lực mong kết liễu trận đánh cho mau. Thoòng nghiến răng:
- Ta không hạ ngươi, quyết không về cố quận.
Voòng trợn mắt:
- Ta không quật ngã ngươi, quyết không nhìn núi đồi !
Hai người lao mình vào nhau, lần này không dụng võ đánh, mà khóa tay nhau bằng võ Nhật. Nhưng đúng lúc Pạc Hoọc Đại Vương và Đa Sát Hải Sơn Vương vừa khóa lấy nhau thì có tiếng quát thình lình:
- Thôi! Được rồi!
Và hai viên tướng giặc thấy một người nhảy vụt vào, hai tay gạt hai người ra, khiến cả hai đều cảm rõ như vừa chạm phải cánh tay thép nguội lùi giật ra hai bên:
Thần Xạ Đại Sơn Vương. Chàng tướng Thập Vạn Đại Sơn nhìn hai người, miệng mỉm cười:
- Quả là một cặp địch thủ kỳ phùng. Đấu nữa chỉ thêm mệt sức!
Và chàng bảo Thòng:
- Sẽ có nhiều phen gặp gỡ! Giờ ta có chút việc bận, xin cáo biệt...
Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng.
Dứt lời, Thần Xạ Đại Sơn Vương, khẽ hất hàm ra hiệu cho Đa Sát Hải Sơn Vương, đoạn hai thầy trò tướng lạc thảo Thập Vạn Đại Sơn từ tốn nghiêng mình chào Thoòng Mềnh cùng đồng bọn và ung dung bước về phía cầu thang. Bỗng Thoòng hét lớn:
- Thần Xạ! Đa Sát!
Hai thầy trò Hồng Lĩnh đã tới cầu thang, bỗng xoay lại bọn Thoòng. Đang bước khoan thai thình lình, thầy trò quay phắt lại, đúng lúc đó, Thoòng Đại Vương chĩa hai ngọn pạc hoọc vào hai người, và bóp cò. Đoàng! Đoàng! Hai tiếng nổ chát chúa, vang cả thượng lầu.
Đồng bọn Thoòng Mềnh đưa mắt ngó ra, đã thấy hai thầy trò tướng lạc thảo Thập Vạn Đại Sơn đứng như hai pho tượng tháp bên nhau, một người một tay súng chĩa vào Thoòng Mềnh và Pạc Hoặc Đại Vương đang xòe hai tay chới với giữa không gian, hai khẩu Pạc Hoọc bách chiến đã tung qua vai, nằm quay trên sàn. Tưởng chủ tướng bị hạ, đồng bọn Thoòng lập lức thọc tay vào ngực áo, rút phắt súng ra.
Nhưng qua mấy khắc ngơ ngác, Thoòng Đại Vương đã cử động, hai tay tê chồn và kịp thời nhận ra chủ ý của hai địch thủ ngang tàng, độ lượng. Hai viên đạn chỉ xói vào ngọn pạc hoọc còn tay Thoòng chỉ bị tê thôi. Địch thủ nếu có ác ý thì hai viên đạn nổ trước khi Thoòng bóp cò nửa khắc, đã đủ thời giờ hạ Thoòng vào tim, vào trán... hay nhẹ ra cũng phải xói vào bàn tay để tước súng đi.
Vừa lúc đồng bọn rút súng ra, Thoòng Mềnh đã khoát tay, đưa mắt cản và từ từ tiến lại trước hai thầy trò Hồng Lĩnh. Nhìn thẳng vào mặt địch thủ, tướng thổ phỉ trầm giọng có vẻ bình tĩnh lạ lùng:
- Không ngờ còn hai kẻ rút súng nhanh hơn Thoòng Mềnh! Danh lớn Pạc Hoọc Đại Vương đã hai phen lu mờ vì rút súng chậm hơn nửa khắc! Mối nhục này ta nguyện rửa và cái ơn không hạ độc thủ ta bữa nay, sẽ có phen ta đền đáp! Thần Xạ, Đa Sát hãy ra khỏi nơi này!
Thoòng nói một hơi, chậm rãi, giọng đều đều, cặp mắt đầy lửa hận, đượm vẻ ngang tàng. Hai thầy trò đứng im, nhìn vào mặt Thoòng, và hơi đưa mắt nhìn nhau, miệng Thần Xạ Đại Sơn Vương hơi nhếch cười, đoạn hai thầy trò lẳng lặng cho súng vào ngực áo, bước xuống thẳng cầu thang. Voòng rút ví lấy tiền ném cho chủ quán, và hai thầy trò tướng lạc thảo bước ra, trước những cặp mắt khiếp phục của mấy hàng thực khách.
Ra tới cửa, Voòng Lầu chợt kéo tay chủ tướng đứng lại. Người thuộc hạ giang hồ từng trải, hé cửa nhìn sang bên kia đường chỗ buộc ngựa, và ngửa mặt nhìn lên hàng hiên thượng lầu:
- Thầy à! Dầu sao nên cẩn thận là hơn! Thằng Thoòng hiểm lắm, nhất là thủ hạ nó giờ lại đông, có mấy viên chức bản hạt này hỗ trợ!
Hồng Lĩnh hơi gật đầu, đảo mắt quan sát một vòng ngoài, đoạn nhìn lại phía cầu thang. Vừa dứt lời, không để Hồng Lĩnh kịp nói chi, Voòng cởi phắt áo ngoài, ngoái lại quơ một chiếc ghế, khoác áo vào, và nhanh nhẹn đểy tung cửa, ném mạnh “ghế trùm áo” ra ngoài đường mé bên trái, đồng thời, lao mình vụt ra, về phía tay phải, được mấy bước, mới nhào mình xuống đường, lăn vèo mấy vòng như quả cầu.
Đoàng... Đoàng... Đoàng...
Từ trên thượng lầu liền mấy tiếng súng phát ra thình lình, ngay lúc “ghế áo” từ trong vụt ra. Và lúc ngọn súng nã áo ghế bên trái, kịp thời quay chĩa về bên mặt nhả đạn, thì Voòng Lầu đã lăn vèo qua đường, nhỏm phắt dậy ẩn sau một trụ đèn xi măng. Khách bộ hành tới đó, chợt nghe tiếng súng, chẳng hiểu chuyện chi, nhớn nhác nhìn quanh, thấy ghế áo, người lên, họ kinh hoảng chạy tứ tán như vỡ chợ.
Thần Xạ Đại Sơn Vương đứng trong cửa tửu quán nhìn theo Voòng, thấy Voòng đã thoát, nấp sau trụ đèn, Thấn Xạ liền quay bảo thực khách:
- Cứ ngồi nguyên trong này! Chạy ra chết uổng đó!
Dứt lời chàng hất rộng cửa, toan phóng mình ra, chợt đứng ngay lại, vì Voòng đã khoa tay làm hiệu và đang vẩy ngọn súng lên trên lầu. Liền hai ba người từ trên đổ xuống giãy đành đạch trên đường, ngay trước mặt Hồng Lĩnh. Lẫn với tiếng đóng cửa rầm rầm, tiếng thét gọi nhau hốt hoảng của dân hàng quanh tửu lầu, chàng nghe rõ có tiếng quát tháo trên lầu thượng, tiếng Pạc Hoọc Đại Vương quát mắng thủ hạ. Tiếng súng chợt im bặt. Rồi có tiếng Thoòng Mềnh vọng xuống:
- Thần Xạ cứ ra, ta đã trị bọn thủ hạ làm liều rồi đó!
Hồng Lĩnh nheo mắt nhìn sang bên kia đường. Voòng Lầu vẫn đứng sau trụ đèn xi măng, ngọn súng chĩa lên thượng lầu. một tay giơ lên làm hiệu cản thầy. Trên lầu thượng, tiếng Thoòng Mềnh lại vọng xuống, lần này lớn hơn:
- Thần Xạ! Hãy ra khỏi đây ngay! Tiếng súng đã khua động thị trấn, quân tuần có thể tới ngay.
Nghe Thoòng nhắc tới quân tuần, Thần Xạ nhíu mày, vụt nhớ tới “đạo quan binh”, chàng đảo mắt nhìn theo dọc hai bên đường phố, phút chốc đã vắng teo. Còn đang tính toán, chợt bên kia trụ đèn, Voòng Lầu vẫy nhẹ liền mấy cái. Hồng Lĩnh không chậm một giây, tung cửa chạy vụt qua đường. Quả nhiên, không một tiếng súng bắn theo. Nấp sau trụ đèn, Hồng Lĩnh nhìn lên lầu thượng vẫn thấy Thoòng cùng đồng bọn đứng im cả ngoài hiên, nhìn hai thầy trò địch thủ.
- Tôi chỉ hạ có hai đứa. Chắc Thoòng giết một. Nhưng... vẫn phải cẩn thận, vì nó có thể thí một tên bộ hạ thường.
Voòng vừa dứt lời, Đại Sơn Vương Thần Xạ chợt hất đầu:
- Thôi ta đi!
Và rời trụ đèn, tiến thẳng tới chỗ buộc ngựa. Voòng cũng bước theo nhưng không chịu rời tay súng dè chừng bất trắc. Trên hiên thượng lầu, bọn Thoòng vẫn đứng nhìn theo không một cử động khác thường. Hai thầy trò đưa mắt nhìn quanh, chỉ thấy một vài con ngựa thồ thạp bé của thổ dân, tuyệt không thấy bóng ngựa trận của bọn Thoòng.
- Quái! Chẳng lẽ chúng đi bộ tới quán?
- Chúng về Cao Bằng làm chi? Trông có vẻ ung dung lắm, chắc mấy tên âu phục đi bên, có thể chúng ở đây lắm?
Thầy trò Hồng Lĩnh tháo dây cương buộc, nhảy phắt lên lưng ngựa. Nhưng hai thầy trò chưa kịp giật tay cương, đã nghe thấy tiếng vó câu phóng rầm rập trên mặt đường nhựa từ phía chợ chuyển nhanh tới. Hai thầy trò đảo mắt về phía có tiếng ngựa, vừa lúc có tiếng Thoòng Mềnh lừ trên thượng lầu hắt xuống:
- Quân tuần thị trấn! Mau chạy về phía tả? Đã có ta cản đường cho!
Hai thầy trò đưa nhanh mắt nhìn nhau, không giấu được vẻ ngạc nhiên nghi kỵ, nhưng tiếng chân ngựa đã tới gần, và có tiếng dân phố reo lên:
- Quân tuần! Quân tuần!
Rất nhanh, bốn gót chân giang hồ thúc mạnh hông ngựa và tay cương giật gấp. Hai con vật chồm lên, lao thẳng. Nhưng sau lưng lố nhố đầu ngựa đã vụt tới. Dọc phố lúc đó vắng teo, dân làng đã nấp giạt vào hai bên hè. Hình như phía sau đoàn kỵ mã trông rõ hút ngựa phía trước, vì hai thầy trò Hồng Lĩh chợt nghe tiếng súng nổ phía sau lưng. Thầy trò Đại Sơn Vương cúi rạp xuống bờm ngựa, tay vỗ vào hông ngựa chạy như máy. Vừa may tới ngã tư, ngựa quặt luôn. Hai bên hàng phố ló đầu ngó ra nhìn theo hai người, chỉ trỏ bàn tán, cả các cô nàng đều nhận ra ngay hai thầy trò chàng trai Thổ vừa đi qua.
Ngựa quặt được chừng mấy chục thước, chợt phía sau, nhiều tiếng súng nổ dội hẳn trong gió thoảng, còn phân biệt rõ cả tiếng Pạc Hoọc quen tai của vùng lạc thảo biên thùy. Voòng Lầu đánh ngựa sát bên Hồng Lĩnh:
- Thầy à! Không phải tiếng súng bên đuổi ta!
- Bọn Thoòng Mềnh dám đứng trên lầu thượng chạm súng với quân tuần ư?
Hai thầy trò không bảo nhau, đều cùng dừng phắt ngựa lại. Ngoái lại phía sau, quả nhiên không thấy bóng quân tuần đuổi theo. Hai thầy trò đánh sát ngựa vào bên đường, cho bước một dưới bóng cây.
- Thầy à! Bọn Thoòng mười mấy tên ở trong một cái túi dám cản quân tuần ngay bên “đạo quân binh”! Lạ thật! Bị quân đông tiếp viện tới, chúng rút sao thoát được?
Hồng Lĩnh có dáng suy nghĩ, cặp chân mày hơi nhíu lại.
- Chính ta cũng thấy lạ!
Chàng đưa mắt nhìn quanh, có dáng nghĩ ngợi. Phía tửu lầu, súng vẫn nổ giòn tan, kinh động cả thị trấn. Thiên hạ chạy giạt tứ tán, như có tai biến, thấy hai thầy trò ngồi trên lưng ngựa, đều len lén lánh xa.
Ngựa tới một ngã ba, có một con đường nhỏ đâm ra. Hồng Lĩnh, Vòng Lầu rẽ phắt tay cương, cho ngựa vào đường nhỏ. Tiếng súng nghe thật gần, lẫn cả tiếng quát tháo đốc chiến vọng tới. Hồng Lĩnh ngửa mặt quan sát địa thế mới rõ con đường nhỏ chạy sóng hàng với con đường trước tửu lầu cách nhau mấy lớp nhà ngói. Ngựa vào ngang tiếng súng, đưa mắt nhìn quanh. Hồng Lĩnh chợt bật Lên:
- Có thế chứ! Coi kìa, Voòng?
Ngay đó, sau một cánh cổng mở vào vườn hậu một ngôi nhà gạch, dưới gốc cây, mười mấy con ngựa lực lưỡng đã yên cương đứng vẫy đuôi, thở phì. Hai thầy trò dừng hẳn ngựa, đưa mắt nhìn khu vườn hậu, thấy một gã xạ phang ngồi dựa một gốc cây khuất sau ngựa, đang lim dim ngủ gật, thỉnh thoảng lại choàng mắt ngơ ngác nhìn quanh mỗi khi có tiếng súng dội tới.
- Thầy à! Chắc bọn Thoòng cũng rút ra lối này đây! Hèn chi chúng dám chạm súng với quân tuần phía trước.
Hai thầy trò ngồi im, nghiêng đầu nghe ngóng. Phía tửu lầu, tiếng súng nổ giòn tan. Chàng tướng lạc thảo Thập Vạn Đại Sơn hơi cau mày, lẩm bẩm như nói một mình:
- Quái! Cũng đến hàng mấy phút lrồi, sao chúng chưa rút hậu?
Định chờ quân binh đổ tới vây gọn chắc?
Vòng cũng nheo mắt, hướng về tiếng súng:
- Thoòng vốn thiện chiến, khi nào dám kéo dài trận chiến giữa một thị trấn đầy quan binh? Hay có chuyện chi đây?
Đại Sơn Vương nghe tiếng súng vang dội, đảo mắt nhìn quanh mình một vòng, và chợt bảo thuộc hạ:
- Voòng à! Để ta theo lối hậu này, tới xem sao.
Dứt lời chàng nhảy phắt xuống ngựa. Voòng Lầu nhanh giọng:
- Thầy à? Ta nên...
Nhưng Đại Sơn Vương đã đoán được ý nghĩ thuộc hạ chàng ném mạnh tay cương cho Voòng:
- Thoòng Mềnh dám cản đường quân tuần cho ta rút. Thầy trò ta hãy trở lại ngay! Đây là dịp tốt nhất!
Nói xong, chàng rảo bước tới cổng trống, lao mình vào vườn cây, thoáng cái, đã khuất dạng. Đã quá quen với tính chủ, người thuộc hạ chỉ ngó theo đoạn tắc lưỡi một cái, dắt ngựa chủ đến bên dưới bóng cây, chờ đợi.
Vào vườn hậu, Thần Xạ Đại Sơn Vương băng qua vườn cây, tới cuối vườn gặp một tường gạch dựng đứng cao tới hai thước có cổng đóng chặt. Chàng đảo nhìn địa thế, và nhảy vọt lên nắm lấy một cành cây rủ bên tường nhà, hai tay thoăn thoắt lần ngược lên cao tung mạnh thân qua ngọn tường, lá cây chỉ khẽ rào một cái, hai chân người đàn ông giang hồ đã đặt trên một mái ngói thấp. Quan sát một lượt nữa và chuyền qua mái hết lớp nhà nọ tới nhà kia, chỉ trong nháy mắt đã lần tới căn nhà trông thẳng sang tửu lầu.
Vừa tung mình lên một sân thượng có cành lá rủ um tùm, Hồng Lĩnh vội ẩn mình ngay, vì chợt thấy lố nhố những bóng người hai bên tả hữu phía trước. Định thần nhìn kỹ, mới biết là bóng quân binh đã leo mái chặn hậu, kẹp lấy khu tửu lâu. Ngó về hậu tửu lầu chỉ có một cửa gác hẹp trông xuống một sân thượng, thành thử ngọn súng quan binh hai bên chĩa cả vào đó, cứ thấy ai ló dạng là bắn luôn. Phía trước tửu lầu, tiếng súng trường vẫn nổ dồn, có vẻ như quân binh cố đánh thốc vào. Vừa ngó qua, Hồng Lĩnh đã hiểu ngay, nếu tình thế kéo dài thêm chỉ mười lăm hai mươi phút, quân lính thị trấn tiếp viện tới vây, bọn Thoòng Mềnh sẽ như cá bị dồn vào giỏ. Đại Sơn Vương Thần Xạ rút phắt ra một chiếc “mùi xoa” huyết dụ, ló đầu về phía cửa hậu tửu lầu gọi lớn:
- Pạc Hoọc Đại vương Thoòng!
- Pạc Hoọc Thoòng!
Vừa gọi, chàng vừa phất nhẹ “mùi xoa”. Phía cửa hậu, liền mấy đầu người ló ra thụt vào, rồi khuôn mặt tướng thổ phỉ râu xồm hiện ra. Súng quan binh bắn thốc vào luôn khiến khuôn mặt Thoòng ẩn vội, còn hơi hé một phần nhỏ. Hồng Lĩnh nấp sau tường, cây rậm, phất mạnh khăn lớn tiếng:
- Rút ngay, không bị vây chết đó! Cứ ta phất khăn là phải phóng xuống sân thượng từng người một!
- Đoàng!
Từ phía quan binh một viên đạn bay vèo tới, réo trên đầu Hồng Lĩnh. Chỗ chàng đứng rất thuận lợi, có thể quan sát cả ba bề bốn bên, lại có cây và một bờ tường khá cao chắn trước. Một bóng lính nhô lên nóc nhà bên tả. Thần Xạ liền nhô lên, vẫy ngọn súng sang. Bóng lính đổ xuống. Lại một bóng trên nóc nhà hữu, cánh tay viên tướng lạc thảo lại vẫy súng. Thêm một bóng người tung lộn như trái cầu. Khăn huyết dụ phất mạnh. Từ cửa hậu, một bóng giặc phóng xuống sân thượng. Cứ thế đến mấy lần. Trước còn tay bắn tay vẫy, sau Hồng Lĩnh buộc luôn khăn đỏ vào cổ tay, cứ thế đảo mắt vẫy tay mấy phía nhanh như chày máy đến nỗi quan binh thấy luôn mấy lính bị hạ vì tay súng chỗ lùm cây rậm, nhưng động nhô lên, vừa chĩa súng vào đã thấy cánh tay đỏ khoa lên giữa hàng lá xanh, và một viên đạn xối vào giữa trán, nên đám còn lại phát kinh sợ, không dám khinh thường.
Đám quân binh phục hai bên sườn hậu tửu lầu cả loạn, nhanh theo hai cánh tay Thần Xạ hoạt động. Nhưng phía trước tửu lầu, tiếng súng trường của quân binh vẫn nổ giòn, dầu áp lực hai bên sườn đã rút hẳn. Còn tiếng súng ngắn thưa hẳn, thỉnh thoảng mới nghe một vài tiếng pạc hoọc bật lên. Đạt Sơn Vương Thần Xạ rung mạnh cánh tay buộc khăn đỏ, hô lớn:
- Thoát mau! Chậm trễ phía trước, quân binh sẽ ập vào!
Tiếng hô vừa dứt, đã thấy từ cửa hữu tửu lầu, liên tiếp những bóng quân Thoòng phóng ra nhanh vun vút. Sau cùng, về phía trước vừa dứt tiếng pạc hoọc, cửa sau xuất hiện dáng dấp cao lớn của Pạc Hoọc Đại Vương, hai cánh tay vẫy ra tả hữu liền mấy phát trước khi phóng xuống sân thượng. Nhìn qua kẽ lá thấy lố nhố bóng giặc Thoòng chạy thoăn thoắt trên nóc nhà, ngọn tường, rút về nẻo vườn buộc ngựa, Hồng Lĩnh liền bắn luôn mấy phát nữa và cũng băng mình khỏi chỗ nấp, thỉnh thoảng bắn lại mấy phát.
Dư biết đã đến lúc thập phần nguy hiểm vì quân binh có thể luồn đón đường rút, Hồng Lĩnh vượt tường lướt mãi nhanh như mèo, thoáng cái, đã bíu cành cây tung mình xuống vườn buộc ngựa, vừa lúc Pạc Hoọc Đại Vương cũng kịp tháo tới. Thần Xạ Đại Sơn Vương giơ cánh tay còn buộc khăn đỏ:
- Nên dẫn thủ hạ thoát mau, không, bị cản đường. Thôi ta có lời chào Thoòng, sẽ có ngày hội ngộ.
Miệng dứt lời, chân đã phóng qua cửa, không để Thoòng Mềnh kịp cất lời. Vòng Lầu đang ngồi trên ngựa, tay nắm sẵn cương chờ đợi, băn khoăn... Chợt thấy bóng chủ phóng ra. Voòng tươi hẳn mặt, đánh ngựa vọt tới, nắm luôn cương cho chủ. Thần Xạ Đại Sơn Vương đỡ luôn cương thót lên lưng ngựa, nhanh giọng:
- Ta đi thôi! A Voòng! Quan binh sắp đuổi tới rồi.
Hai con ngựa nước hai chồm lên, vọt đi. Ngoảnh nhìn ra ngã ba đã thấy đầu ngựa quan binh lấp ló, vừa lúc Thoòng Mềnh cũng phóng ngựa trong vườn ra. Ngựa hai thầy trò phi tới đầu đường, Hồng Lĩnh ngó lại thấy Thoòng Mềnh đang cùng mấy thủ hạ bắn cản quân binh, còn đám sau tiếp tục thoát ra. Chàng tuổi trẻ hất hàm bảo Voòng:
- Quân binh thận trọng dừng bước ngựa. Pạc Hoọc Thoòng chắc đủ sức còn cho bộ hạ thoát. Mình đi thôi!
Hai con ngựa lao đi, phóng trên đường vắng ngắt, xa mau vùng súng nổ. Qua hết phố nọ tới phố kia, chỉ loáng mắt, tám vó câu kiêu đại đã đặt tới khu bìa thị trấn. Phía sau, vẫn còn thưa thớt tiếng súng, trước đầu ngựa đã là đồi núi điệp trùng. Hai thầy trò tế ngựa nhắm thẳng rặng núi trước mắt, bỏ đường lớn, băng ngang, đi theo đường mòn, đi được mười lăm phút, nhìn lại không còn thấy mái nhà thị trấn, và chợt thấy bóng ngựa nhấp nhô trong nắng loé. Nhìn kỹ nhận ra quân Thoòng. Không hiểu Thoòng theo ngựa thầy trò hay tình cờ, Đại Sơn Vương nhíu mày bảo người thuộc hạ:
- A Voòng! Bọn Thoòng chạy cùng đường với ta? Phải đánh lạc hướng chúng.
- Dạ! Tất quan binh đang đuổi theo chúng?
Hai thầy trò ngó thấy bên tả có rừng rậm, liền phóng tới, chạy một đỗi đến một thung lũng, vừa chớm ló ngựa ra đường mòn đã vội rẽ phắt ra phía hữu. Trước đầu ngựa, thình lình một toán người ngựa vụt nhô ra, ngay trên đường mòn, ập tới. Thoạt nhìn đã nhận ra ngay người cỡi ngựa đầu là Trần Tắc, kế tới Hai Cao, tay khoa súng theo đà phi ngựa. Họ Trần cũng đã nhận ra viên tướng lạc thảo miền Thập Vạn Đại Sơn, tay trái giơ lên làm hiệu, tay phải nã luôn một phát súng về phía Hồng Lĩnh, miệng Trần hô lớn, tay ngoắt cương, cho thuộc hạ tiến lên.
- Hắn kia! Bắn!
Đám thuộc hạ, và gia nhân vừa lính dõng phóng ngựa lên tay súng bóp cò luôn một loạt. Nhưng hai thầy trò Hồng Lĩnh đã kịp băng ngang. Đạn vèo bên tai, hai thầy trò cúi rạp xuống bờm ngựa. Chàng tướng lạc thảo ngang tàng đây kinh nghiệm không nao núng trước sự việc quá bất ngờ. Óc lóe lên cơ mưu, ĐạI Sơn Vương thấp giọng bảo thuộc hạ:
- Phóng ngược lại, dẫn bọn này tới đầu ngựa quân Thòng, rồi rẽ ngang.
Hai con ngựa chạy ngoằn ngoèo giữa những tàng cây, không xa bọn quân Trần Tắc vì Hồng Lĩnh có ý để cho quân địch đuổi theo. Cứ vài mươi thước hai thầy trò mới bắn lại một phát, hai phát, dụ địch.
Mãi tới khi thấy loáng thoáng bóng ngựa Thoòng phóng lại, Hồng Lĩnh mới cùng Voòng Lầu rẽ cương ngang, phi đại vào khu rừng bên phải.
Quả nhiên trên đường mòn, đám quân Trần Tắc chạm trán với quân Thoòng, vì hai thầy trò Đại Sơn Vương rẽ ngang chừng hơn trăm thước, đã thấy tiếng súng nổ lên loạn xạ lẫn tiếng ngựa hí, người hò. Đại Sơn Vương ngó lại phía sau, trên khuôn mặt rắn đanh, thoáng nở một nụ cười nửa miệng:
- Tội cho Thoòng, nó bi kẹp giữa hai cánh quân đông! Nhưng chắc nó đã mưu thoát hiểm!
Voòng ngồi trên yên chỉ ngoái lại sau, và theo thầy thúc mạnh gót giày vào hông ngựa. Hai thầy trò xa dần tiếng súng và cứ thẳng trước mặt tiến tới. Thấy đã khá xa, hai thầy trò ngoái lại sau, tuyệt không thấy bóng ngựa theo, liền hạ nước phóng đại xuống kiệu băm.
Phía trước, rừng thưa dần, thung tráng địa mở rộng, theo bước ngựa đi. Chợt gió mát phía trước thoảng tới. Đại Sơn Vương liền cho ngựa đi bước một, mặt nhìn lên cao, hít một hơi dài, đoạn bảo thuộc hạ:
- Quái a Voòng! Trong gió thoảng có hơi nước mát! Sắp mưa chăng?
Người thuộc hạ cũng ngửa mặt nhìn trời, mũi hơi nghiêng trước ngọn gió. Hai thầy trò còn đang thắc mắc, thì ngựa đã vượt khỏi lùm cây rậm và đột nhiên gió mát hẳn lên, phần phật thổi vào quần áo.
Và trước mặt hai thầy trò Đại Sơn Vương, dòng sông rộng chợt hiện ra, loáng bạc như dải lụa loang nắng uốn mình giữa núi đồi xanh ngắt.
- Bằng Giang!
Chàng tuổi trẻ khẽ bật lên mấy tiếng và quay bảo thuộc hạ:
- Sông rộng chắn đường rồi! A Voòng!
Hai thầy trò nhổm lên nhìn suốt vùng Bằng Giang quạnh vắng, không một bóng thuyền bè. Tít phía chân trời, khắc vào nền mây xanh úa, một vài mái nhà gạch ẩn hiện giữa những vùng cây trên những ngọn đồi cao quanh thị trấn. Gió từ dưới sông lên, phả vào mặt mũi hai người đàn ông giang hồ một thứ hơi lành lạnh của nước nguồn.
Hai người rút khăn lau những giọt mồ hôi lấm tấm trên khuôn mặt phong trần, và cùng ngồi im trên lưng ngựa nghe tiếng súng vẫn nổ đì đẹt phía sau, cặp mắt sáng quắc vụt trở nên âm u, bâng khuâng như vừa ám hơi sương chiều, khói nước đang chầm chậm dâng lên kéo giăng mỏng manh trên mặt Bằng Giang. Một túc khá lâu, Voòng Lầu với tay về phía sau yên lấy bình nước đưa cho Hồng Lĩnh, giọng Voòng rất thấp như không dám khua động bầu không khí im lặng bao tỏa quanh mình chủ tướng:
- Thầy a! Ta đi dọc bờ sông... may có thuyền sang ngang. Đứng đây mãi ẹ.. bất lợi!
Đại Sơn Vương lặng lẽ đỡ lấy bình nước, ngửa cổ uống mấy ngụm, đoạn trao lại cho Voòng và lặng lẽ giật tay cương... Hai con ngựa chậm bước men ngược dòng sông đi mãi. Một quãng khá xa vẫn không một bóng thuyền bè. Hình như tuồng súng nổ thình lình tại thị trấn đã đuổi giạt thuyền bè vào bờ, neo lại nghe ngóng động tĩnh, không thuyền nào dám đi vội khi chưa rõ biến động ra sao.
Đến một chỗ có dãy đồi trọc chạy ra sát bờ nước, hai thầy trò Đại Sơn Vương liền cho ngựa lên một ngọn đồi khá cao, quan sát khắp vùng sông nước. Chợt thấy một con thuyền buôn, đậu khuất giữa lùm cây rậm bên kia bờ, Voòng Lầu khẽ reo lên.
- Kìa có thuyền.
Dứt lời, Voòng vội khum hai bàn tay gọi vọng sang bên kia sông và giơ tay vẫy lia lịa. Mãi mới thấy có bóng người từ trong khoang ló ra và thu ngay vào mất dạng, gọi vẫy mấy, thuyền đó vẫn im lìm. Có lẽ nhìn sang thấy bóng người ngựa, lại có tiếng súng nổ về phía đó, nên người trên thuyền hoảng sợ, cứ tảng lờ như không hay biết chi cả. Voòng Lầu cau mày:
- Hừ! Vừa có đứa ló dạng lại không chịu ra mặt nữa. Đa Sát Hải Sơn Vương giận dữ rút phắt súng ra, vùng vằng quay một vòng trên ngón tay, rồi nghĩ sao, lại cố nét bực dằn mạnh vào bao.
- Thầy à! Đành phải đánh ngựa qua sông thôi! Ướt hết vậy!
Hồng Lĩnh chưa kịp cất tiếng, chợt giơ tay làm hiệu cho Voòng Lầu và nghiêng đầu lắng nghe. Từ phía thượng lưu, vừa có tiếng cất lên, giọng hò trong vắt theo hơi gió vọng về:
Ai lên ngọn nước Bằng Giang, Mà xem giặc cỏ dọc ngang vẫy vùng.
Ai lên biên giới điệp trùng Mà xem giặc cỏ xưng hùng một phương.
Người tướng lạc thảo Thập Vạn Đại Sơn quay phắt nhìn Voòng thủ hạ, vừa lúc Đa Sát Hải Sơn Vương đưa nhanh mắt ngó chủ tướng, mấy ngón tay gân guốc sờ vội lên bộ râu quai nón xồm xoàm như muốn giật tung. Theo hơi gió, tiếng ngừng mấy khắc, lại cất lên lần này nghe càng gần, như chạy lướt trên mặt nước:
Cao Bằng nát cỏ biên cương, Đố ai biết Đại Sơn Vương vượt nhầu.
Chọc trời quấy nước mặc dầu, Hùm thiêng thất thế mất đầu như chơi.
Tiếng hò bốc lên cao vòi vọi, như thấu mây xanh, rồi lả lướt đổ xuống mặt Bằng Giang, truyền đi, trong vắt, và vụt tắt bất ngờ trên khói nước, dư âm bí ẩn còn ngân dài mãi trong tai hai thầy trò Đại Sơn Vương như muốn xoáy vào tận ruột gan.
Hồng Lĩnh, Voòng Lầu vội nhổm hẳn lên nhìn về phía có tiếng hò lạ lùng, chưa kịp trao đổi với nhau lời nào, đã thấy một con thuyền độc mộc từ sau một lùm cây rậm ven sông nhô ra lướt vùn vụt trên nguồn nước, trên thuyền có hai dáng người thanh nhỏ đang ngồi khua nhẹ mái chèo. Con thuyền độc mộc nhọn như thoi lướt đi về phía hai người, cứ thẳng giữa dòng, như không trông thấy hai người đàn ông phong trần đang ngồi im trên ngựa, bên bờ:
Sau lưng quân kỵ tới rồi Bằng Giang ngăn lối hết đời Đại Vương...
Giọng hát lạ lùng cất lên, như bỡn cợt nghe rõ tiếng gái Kinh, tiếng vừa tắt, thì tiếp sau đáp lời câu hò giễu cợt, tiếng súng thình lình nổ dội hẳn lên, và như sắp ập tới sau lưng hai người. Nhìn kỹ, thấy hai người trên thuyền độc mộc là hai thiếu nữ, mặc y phục miền sơn cước sặc sỡ, tuy cách đến mấy chục thước, vẫn nhận được dáng dấp thanh trẻ khác thường.
Hai thầy trò Đại Sơn Vương khẽ đưa mắt nhìn nhau, Hồng Lĩnh vừa khum tay quanh miệng, định lên tiếng gọi, chợt ngừng ngay, vì từ phía thuyền thiếu nữ, giọng hò lại cất lên, lờ lững vô tình...
Hai viên tướng lạc thảo giang hồ cùng quay phắt nhìn lại phía sau. Chỉ thấy rừng cây, đồi cỏ, lớp lớp điệp trùng... nhưng rõ ràng tiếng súng đang chuyển về phía hai người. Voòng Lầu không chậm một giây, liền vỗ ngựa xuống chân đồi, thoáng cái đã thấy ngựa vọt lên một ngọn đồi cao hơn, đứng ngó về nơi súng nổ mấy khắc, đoạn giơ tay vẫy Hồng Lĩnh. Đại Sơn Vương đánh ngựa lên theo, đớ lấy ống nhòm quan sát. Quả nhiên, cách mấy dải đồi, thấy nhiều bóng ngựa lố nhố sải vó về phía hai người, mãi xa xa lại thấp thoáng môt tốp quặt về tay hữu, theo hình cánh cung. Không bão nhau, hai thầy trò đều nhìn mặt sông. Thuyền thiếu nữ sơn cước vẫn lướt trên dòng đã tới ngang chỗ hai người.
- Sau lưng quân kỵ tới rồị..
Tiếng hát lại cất lên và con thuyền độc mộc chợt quay ngang lơ lửng giữa dòng, vì hai cô gái đã bỏ tay chèo. Hai thầy trò đưa mắt cho nhau, trao đổi một mối nghi hoặc khó hiểu.
- Men ngược thượng lưu hay sang sông?
- Sang sông?
Voòng Lầu giơ tay vẫy gọi hai cô gái trên thuyền. Nhưng thuyền vẫn lặng lẽ trôi. Phía sau tiếng súng thêm gần. Voòng Lầu trừng mắt nhìn con thuyền giữa dòng, thốt nhiên cười nhạt một mình:
- Hừ! Bằng Giang đâu rộng bằng Bắc Hải! Rồi sẽ biết tay Hải Sơn Vương! Vượt thôi thầy!
Hồng Lĩnh nheo mắt, nghĩ một khắc và tặc lưỡi:
- Đành vượt thôi!
Hai thầy trò vỗ ngựa chạy thẳng xuống đồi ra bờ sông. Lúc này hai thiếu nữ trên thuyền đã quay nhìn lên bờ, thấy một người đàn ông đã tiến ngựa sát mé sông, chợt hai nàng chỉ trỏ và cất tiếng cười vang như càng trêu chọc. Không ngần ngừ, hai thầy trò đánh luôn ngựa xuống nước. Hai con vật trù trừ mấy khắc đoạn bước xuống dòng ra xa dần. Gần hết thân ngựa chìm xuống mặt nước, chỉ có đầu cất lên, khiến thầy trò Hồng Lĩnh phải đứng khom mình trên yên cho khỏi ướt. Tiếng cười của hai cô gái càng vang lên, khiến Voòng Lầu bực tức cho ngựa bơi thẳng tới chỗ hai nàng. Nhưng hai nàng vẫn nhởn nhơ trên thuyền hình như muốn trêu chọc, nên cứ lượn thuyền phía trước.
Tới giữa dòng, chợt một cô nàng cất tiếng cười khanh khách:
- Ta vẫn nghe danh hai thầy trò tướng giặc Thập Vạn Đại Sơn giờ mới gặp! Có cần lên thuyền chạy cho nhanh, dể ta giúp một tay.
Voòng Lầu, Hồng Lĩnh càng ngạc nhiên, không ngờ có người lại thiết rõ mình đến thế? Còn đang lạ lùng đã thấy thuyền lướt tới gần, chỉ cách độ vài sải tay, và thiếu nữ trẻ hơn lại cất tiếng, tay trỏ vào Voòng Lầu:
- Người râu xồm dữ tợn này là Đại Sơn Vương ư?
Vừa nói, nàng vừa chống chèo bơi đến ngó hai thầy trò, cười tinh nghịch. Đa Sát Hai Sơn Vương thình lình vung mạnh tay về phía thiếu nữ. Chỉ thấy loáng một vệt sáng vụt sang. Phập Nhìn ra, một lưỡi dao lá liễu đã cắm phập ngang cán chèo.
Cô nương ngơ ngác nhìn dao và nhìn hai người đàn ông rồi cười ngất, mặt đỏ ửng. Cô nàng rút phắt ngay lưỡi dao, ném vụt về phía Voòng. Phập! Lưỡi dao cắm ngay vào mép yên, ngay trước chân Voòng.
- Khá đó? Cô em quả chẳng tay vừa!
Hồng Lĩnh bất giác bật lên khen, còn đang để ý nhìn thiếu nữ xinh đẹp lạ lùng trong lớp xiêm y miền núi, thì thuyền độc mộc đã lao tới, và bất thần cô gái đứng vụt lên nhún mình nhảy vọt sang đầu ngựa Voòng Lầu. Voòng vừa ngạc nhiên trước sự việc xảy ra đột ngột.
thì bóng thanh nhỏ của cô gái đã áp tới, một cánh tay gạt mạnh tay cương đồng thời bàn chân lia ngang ống cẳng Voòng nhanh như chớp.
Nhưng tuy bị đánh thật bất ngờ, Voòng đã không hổ danh Hải Sơn Vương, tay cương đã khoa nửa vòng, hai chân xuống Trảo mã tấn thật nhẹ trên yên, đỡ ngọn cước quyết liệt của thiếu nữ, thuận đà tay trái gạt luôn chân nàng. Nhưng cô gái đã kịp thời giậm chân đó xuống lưng ngựa còn chân kia đá bách ra. Bị giậm lưng, con ngựa đau vùng hí lên, chùn gân, trầm luôn cả mình và hất luôn hai người tung xuống nước.
Hồng Lĩnh đứng nhìn qua, đã lường được ngay tài võ của thiếu nữ lạ, hiểu ngay dụng ý của cô nàng, định kéo “Sơn Vương” xuống nước để thủy chiến cho dễ, chắc không biết “vua núi” lại còn là vua biển Bắc. Vì vừa rơi xuống nước, Hải Sơn Vương Voòng Lầu vụt trở lại phong độ thời xưa, chằng khác cá kình gặp nước lớn. Voòng lập tức vùng vẫy, dốc luôn ra kinh nghiệm gần hai mươi năm vẫy vòng trên biển cả.
Vừa tung mình xuống nước, Hải Sơn Vương đã lao thẳng tới chỗ thiếu nữ, vươn cả hai cánh lay lực lưỡng vồ lấy địch thủ, nhanh như một con rái cá.
Lĩnh đứng trên lưng ngựa, không khỏi ngạc nhiên, vì trước sức vươn tay tấn công của người thủ hạ vốn đã khét tiếng, cô gái sơn cước không tránh đòn mà lại nhào phăng vào, dùng một cánh tay trái gạt ngang tay địch thủ, tay phải vùng đánh mạnh xuống đầu Voòng, khiến Voòng phải hụp luôn xuống nước tránh đòn và trồi lên bên sườn cô gái. Vừa thấy Voòng nhô lên, cô gái đã lướt xoài tới đánh luôn. Hai địch thủ, một cao lớn lực lưỡng, một nhỏ nhắn mảnh mai xoắn lấy nhau. Hồng Lĩnh đứng ngoài chỉ thấy nước tung trắng xóa, hai hình dạng nửa người trồi lên hụp xuống, khiến từng đợt sóng dờn nổi lên chạy tới cả bên ngựa. Chàng hết đưa mắt quan sát trận thủy chiến tay đôi lại nhìn sang con thuyền độc mộc và khóng khỏi ngạc nhiên, vì cô gái thứ hai trên thuyền vẫn ngồi mỉm cười xem trận, không tỏ vẻ chi lo ngại cho cô gái dưới nước. Đột nhiên, cô gái sơn cước lặn mất trên mặt sông, chỉ còn Hải Sơn Vương đang vừa bơi vừa đảo mắt tìm kiếm. Chợt Voòng vùng nhô hơn nửa mình lên và đạp mạnh xuống, thoáng cái không hiểu sao, cả thân hình Hải Sơn Vương đã hụp luôn xuống, mất tăm. Trên mặt sông, trước còn thấy sóng dờn tỏ ra đang có sự giao đấu ngầm dưới nước, sau trở nên phẳng lặng như không.
Hồng Lĩnh đứng trên ngựa, tay cầm chặt cả cương ngựa Voòng Lầu, cho bơi cầm chừng, thấy hai người mất tăm khá lâu, chàng không giấu được vẻ ngạc nhiên, e ngại vội đưa mắt nhìn sang cô gái trên thuyền. Con thuyền độc mộc vẫn quay ngang lững lờ trên mặt nước, và cô gái vẫn ngồi nhìn xuống nước có vẻ bình thản, không chút lo ngại, hình như đã tin tưởng chắc chắn về tài thủy chiến của cô đồng thuyền.
Hồng Lĩnh còn đang nheo mắt suy nghĩ, đã thấy từ dưới nước một bóng người vọt lên, như cất hẳn mình lên khỏi mặt nước. Nhìn ra, cô gái miền núi. Vừa vọt lên, cô gái kỳ lạ đã xoài mình lướt trên mặt nước như một con thoi, lướt thẳng tới bên thuyền độc mộc, bíu leo lên.
Hồng Lĩnh thốt giật mình đảo mắt tìm khắp mặt sông, còn đang lo lắng vì không thấy tăm dạng Voòng Lầu thì đã thấy nước động ngay sau ngựa. Ngoái lại, thấy Hải Sơn Vương vừa từ dưới nước nhô lên, vừa thở mạnh, tay vừa vuốt mặt:
- Con nữ quái lợi hại! Không ngờ... Tay khác, đã bị nó cho uống nước dưới lòng sông rồi!
Không giấu được kinh ngạc, Hồng Lĩnh vùng đưa mắt nhìn sang thuyền hai cô gái lạ. Cô nàng vuốt tóc xòa xuống trán, cất tiếng cười khanh khách:
- Như thế đủ rồi! Xin có lời chào Đại Sơn Vương. Danh Sơn Vương quả bất hư truyền?
Dứt lời, cô nàng vỗ mạnh tay lên vai cô đồng hành và khoa một bàn tay làm hiệu cho thuyền đi. Biết cô nàng lầm Voòng Lầu là Đại Sơn Vương, Hồng Lĩnh quay sang người thủ hạ lúc đó đã leo lên hông ngựa. Thấy Voòng ướt như chuột, mặt vẫn còn hầm hầm. Chàng tướng trẻ Thập Vạn Đại Sơn bất giác phải thầm khen tài cô gái lạ. Chàng mỉm cười:
Hôm nay không ngờ lại có tay địch thủ xứng đáng tranh tài dưới nước với Hải Vương Biển Bắc! Vòng đưa mắt trứng then cun thuyền độc mộc đang xuôi dòng lướt đi, trên thuyền, cô gái vừa giao đấu nói vọng lại:
- Cứ vào bờ, sẽ có người trợ giúp! Hãy nhìn lại phía sau!
Giọng cô gái lanh lảnh vang trên sông rộng khiến hai thầy trò bất giác ngoảnh nhìn lại sau lưng, Giữa nắng vàng bên bờ nước trên ngọn đồi trọc, nhiều bóng kỵ sĩ vừa hiện ra, vó ngựa còn cất chồm về phía hai người. Lúc đó, ngựa hai thầy trò Đại Sơn Vương đã vào gần bờ bên này và con thuyền độc mộc đã lướt xuôi dòng cách ngựa đến bảy mươi sải tay. Đại Sơn Vương bảo thuộc hạ:
- Thôi để mặc hai cô gái dó! Còn phải đối phó với đám quân kia đã!
Voòng Lầu che tay ngang trán, nhìn lại toán quân trên bờ tuy cách sông nhưng cũng đoán được hình dạng quân tuần đang chỉ trỏ sang phía bên này sông. Vừa lúc đó có một toán người ngựa khác từ cánh rừng ngang phi tới bờ sông. Nhận ngay được hình dạng Trần Tắc, Hai Cao đứng yên trên một ngọn đồi trọc Voòng vội bảo chủ :
- Thầy a! Ta lên cho ngựa nhanh vào bờ! Có cả quân Trần Tắc mới tới!
Đại Sơn Vương nhìn lại, nhếch mép cười nửa miệng:
- Thằng Thoòng gớm thật! Nó lại dụ địch đến gặp mình, để thoát thân rồi!
Hai thầy trò đánh ngựa, cho bơi mau vào bờ. Còn cách độ mấy sải, chợt Voòng khẽ kêu lên:
- Nằm xuống, thầy! Nó bắn đấy!
Hai thầy trò vừa phục xuống lưng ngựa, đã nghe đạn réo trên đầu. Quan sát phía trước rẽ tay phải có bờ thoai thoải, hai thầy trò thúc ngựa rẽ nước theo hình chữ chi, vừa tránh đạn, vừa tiến vào, kịp khi vó câu chồm được trên bờ cỏ, ngoảnh lại sau thấy quân tuần cùng quân Trần Tắc đánh ngựa ùa cả xuống nước.
- Chúng vượt sông định đuổi ta đến cùng chắc?
Đại Sơn Vương thốt cả giận lẩm bẩm, và rút phắt súng ra, vẫy ngược lại phía sau liền hai cái. Voòng chỉ kịp thấy cánh tay chủ tướng rung lên, ngoái lại, đã thấy hai tên xông ngựa ra trước nhất, lộn trên yên và đổ liền xuống mặt sông Bằng như hai cây chuối ngã. Voòng Lầu vội đánh ngựa tới bên chủ nắm lấy tay súng:
- Thầy ạ, Ta còn nhiều dịp gặp nó. Giờ không nên nán lại nữa!
Viên tướng Thập Vạn Đại Sơn lừ mắt về phía sau lưng, ấn mạnh súng vào bao và vùng giựt mạnh tay cương cho ngựa vọt lên. Đợi cho chủ tướng lên hẳn, Voòng mới vọt theo. Hai thầy trò nằm rạp trên lưng ngựa, phía sau, đạn vẫn vãi theo, loạn xạ. Bên tay trái có cánh rừng rậm, rất gần, hai con ngựa băng lên mặt cỏ, lướt thẳng tới.
Nhưng hai thầy trò vừa tới vùng cây rậm, thình lình thấy từ trước, một toán người ngựa trong rừng chợt hiện ra, vó câu sải thẳng về phía hai thầy trò. Vì đã bắt đầu tới chỗ nhiều cây cỏ, và chỉ lưu ý tới sau lưng nên khi toán trước nhô ra, hai thầy trò vừa kịp đưa mắt làm hiệu cho nhau, thì toán trước đó đã ập trước đầu ngựa. Nhìn ra toàn người lạ mặt, mặc quần áo miền núi, đeo tên, nỏ, dao, súng loang loáng, thân hình cao lớn, khẽ dập dờn theo nhịp vó câu.
Dẫn đầu, là hai cô gái, trang phục như hai cô trên thuyền độc mộc vừa nay, và đâu có vẻ đẹp hoang dại lạ lùng. Vừa ập tới, một cô nàng khoa tay dao rừng lên, cất tiếng lanh lảnh:
- Hai ông cứ thẳng ngựa tới khu rừng trước mặt, sẽ có người đón!
Bọn đuổi theo sau lưng để mặc bọn tôi!
Lời vừa dứt, hai thiếu nữ đã vượt qua, rồi có thể đến mười lăm người nữa cứ vùn vụt đi, khiến hai thầy trò Đại Sơn Vương chỉ kịp tránh ngựa sang một bên, và đưa mắt ngó theo cho mãi tới khi đoàn ngựa lạ mất hút về nẻo Bằng Giang. Chỉ mấy phút sau đã nghe súng nổ dội hẳn lên mạn bờ sông. Đại Sơn Vương ngồi lắng tai nghe và quay nói với Voòng Lầu:
- Đi về phía nào Voòng?
Voòng nhìn chủ tướng, khuôn mặt đen sạm phong trần hiện rõ nét đăm chiêu:
- Thầy a! Hung cát khó lường, nhưng dầu sao có quân cản hậu, ta cứ thoát về nẻo có rừng rậm núi cao là hơn cả!
Đại Sơn Vương nheo mắt, có dáng nghĩ ngợi, đoạn hất đầu, buông thõng:
- Về nẻo rừng đó!
Tới cửa rừng, thấy một con đường mòn vắt ngang trước mặt, hai thầy trò liền dừng ngựa quan sát tứ phía. Xa xa, hai bên tả, hữu trên những ngọn đồi, thấp thoáng nhiều mái nhà sàn của dân sơn cước, sau lưng tuyệt không bóng người, chỉ nghe tiếng súng vẫn nổ vang rền. Phía trước, bờ bụi ngổn ngang, dây leo dã bắt đầu chằng chịt trên cả mặt cỏ.
- Bắt vào đường mòn.
Chàng tướng núi đánh ngựa rẽ ngang, cứ thế cùng thủ hạ cho ngựa tiến lên, để lại phía sau tiếng súng nổ. Con đường mòn uốn khúc giữa cánh đồng có vẻ hoang dã dần theo vó ngựa phi, vắt cả lên những đỉnh đồi cao, hai thầy trò cứ mải miết đi cho đến khi tới một vùng núi đồi cao lớn nằm bên rặng núi đá ngất mây, thì tiếng súng đã chìm hẳn nẻo sông Bằng và mặt trời sắp gục xuống bên kia đỉnh núi.
Hai viên tướng buông lỏng tay cương, đưa mắt nhìn theo những đám mây trắng xốp, nắng chiều đang lững thững trôi về nẻo trời xa. Trong cánh rừng chiều, những tiếng vó câu khua bước một trên đường mòn, đưa hai người đàn ông giang hồ, một nhịp buồn khô, quen thuộc.
Voòng Lầu nhìn sang chủ tướng, vì thấy khuôn mặt chủ phảng phất như đang ảm sương chiều nắng quái, người thuộc hạ đứng tuổi giơ tay gãi trán liền mấy cái, vùng lấy hình nước đưa cho chủ:
- Thầy dùng cho đỡ mệt !
Lời nói của thuộc hạ khiến Đại Sơn Vương lúc đó mới thấy miệng đã khát khô, vội đỡ lấy bình nước ngửa cổ uống một hơi dài, đoạn tay lau miệng, tay trao bình cho thuộc hạ.
- A Voòng! Vùng này, có vẻ quạnh vắng lắm. Không biết chân núi đá đằng kia có bản nào gần không!
Voòng nhìn xuống đường mòn, và ngẩng lên đưa mắt về phía trước.
- May ra có bản gần đây, a thầy! Đây đã xa thị trấn lắm, có thể tìm chỗ nghỉ đêm cho lại sức, thầy!
Đại Sơn Vương chưa kịp nói, chợt nghiêng phắt đầu, lắng nghe mấy khắc và ghìm luôn tay cương lại.
- Voòng à! Có nghe thấy gì không?
Voòng Lầu cũng ghìm cương, nghe ngóng và chợt nhếch miệng cười:
- Trước mặt có suối, a thầy! Tiếng nước đổ thạch bàn nghe rõ lắm.
Chắc bản thổ cũng không xa?
Đang nói, chợt Voòng im bặt, nheo mắt, nghiêng tai, đoạn lẩm bẩm như nói một mình:
- Có tiếng người phía suối. Tiếng lanh lảnh vọng đến!
- Nghe nghẹ..
Hai thầy trò đưa mắt cho nhau, Đại Sơn Vương nhẹ hất đầu, và hai thầy trò lại tiến ngựa thẳng đường mòn phía trước. Càng đi càng nghe rõ tiếng người nói lanh lảnh, hai người xuống đến chân đồi quả nhiên đã thấy một dòng suối rộng trong vắt, chạy ngang trước đường mòn. Đại Sơn Vương cho ngựa tới bên bờ nước, ngựa Voòng cách nửa thân. Tiếng cười nói từ dưới suối vẫn hắt lên, nghe rõ tiếng đàn bà con gái, thanh thanh líu lo như chim hót. Voòng thuộc hạ vừa cho ngựa tiến lên sát chủ, hai thầy trò vừa ló đầu ra khỏi một bụi cây bên đường, thình lình Voòng thấy chủ tướng như bị điện giật, vùng ghìm cương quay lại, giơ tay làm hiệu cản, mặt viên tướng lạc thảo miền Thập Vạn Đại Sơn bừng sắc đỏ.
Nhưng không kịp nữa. Voòng thủ hạ vừa giật ghìm cương, thì ngựa đã ló ra khỏi bụi rậm, và viên tướng miền Bắc Hải cũng chợt giật mình như bị kiến đốt thình lình, quay vội sang bên chủ tướng.
Vì, dưới suối trong veo, bên tay tả, một đám thiếu nữ đang vùng vẫy đùa nghịch hắt nước lên nhau và cười khanh khách, có cô đứng hẳn bên bờ, tất cả đều tắm theo lối dân miền núi, xuất hiện thình lình đã đập mạnh vào mắt hai viên tướng. Trong mấy khắc chàng tướng ngang tàng và mơ mộng chợt tưởng tới những nàng tiên tuyệt sắc, thân hình thanh khiết giữa làn nước Ngọc Tuyền. Nhưng chẳng hiểu sao, viên tướng trẻ tuổi lẳng lặng quặt luôn tay cương cho ngựa quay đầu lại và liếc mắt nhìn Voòng. Voòng vẫn ngồi thẳng trên lưng ngựa, mặt hướng về phía các “tiên nữ” nguyên trong dáng điệu khi ngựa vừa nhô khỏi bụi rậm. Nhưng... riêng cặp mắt đã nhắm nghiền lại từ lúc nào rồi, khiến Voòng giống hệt một hình tượng đang tham thiền nhập định.
- Quay ngựa lại thôi chớ! Ngồi tham thiền mãi các cô nàng tưởng... mở mắt nhìn trộm đó!
Người thuộc hạ đứng tuổi nghe chủ nói, vùng giật tay cương khiến con ngựa hơi giật mình, quay đầu lại. Hai vật vừa khuất sau bụi chợt, hai thầy trò nghe dưới suối có tiếng cô gái cất lên:
- Quái! Nghe như vừa có tiếng chân ngựa đâu đây! Có ai nghe thấy không?
Tiếng cười đùa, té nước chợt im hẳn. Rồi có tiếng lao xao:
- Có ai đâu ! Bẩm... chắc tiếng hươu nai đấy!
Tiếng cười lanh lảnh của một cô gái chợt bật lên:
- Giờ này chắc chưa tới đây được! Hôm nay anh chàng Đại Sơn Vương chạy ngựa chắc không khát nước nhỉ!
Lời chưa dứt, tiếng các cô lại phá lên cười, và lại tiếp tục đùa nghịch. Hai thầy trò Đại Sơn Vương đưa mắt nhìn nhau, Hồng Lĩnh khẽ bảo Voòng Lầu:
- Quái! Ta nghe sao đám thiếu nữ này lại biết vụ giao đấu ban nãy ở Bằng Giang? Hẳn cũng đồng bọn đây!
- Dạ.... nhưng saọ..
Hai thầy trò nhìn nhau có vẻ ngạc nhiên, suy nghĩ nhiều về mấy cô gái đẹp cùng bọn thủ hạ có hành tung bí mật nhự.. rừng thẳm biên thùy. Nhất là hai cô gái miền núi đẹp hoang dã như hoa ngàn, ngôn ngữ, cử chỉ lại có vẻ thông minh tinh nghịch duyên dáng hệt gái Kinh thượng lưu, bản lĩnh lại tỏ ra không kém điêu luyện, cao cường, tuổi đôi mươi dám tranh chiến với tướng hải khấu gần ba mươi năm vùng vẫy miền biển Bắc.
- Thầy tính sao? Chẳng lẽ nào đợi đám con gái tắm xong?
Đại Sơn Vương ngửa mặt nhìn lên cao. Mây trắng đã úa vàng, từng vùng nối nhau, lững thững trôi về nẻo cuối trời nắng nhạt. Một tiếng gà rừng chợt cất lên đâu đây, eo éo buồn tênh...
- Ta phải đến chân núi đá dựng, trước khi mặt trời lặn!
Voòng Lầu khẽ đưa mắt về phía suối. Hồng Lĩnh giật nhẹ tay cương:
- Vòng nẻo khác vậy!
Hai con ngựa nhẹ bước một, quay lưng lại dòng nước “Ngọc Tuyền”. Mới được mươi thước lại nghe tiếng cười khanh khách từ dưới suối đuổi theo, chẳng biết vô tình hay cố ý, có vẻ tinh quái lạ. Chàng tướng trẻ Thập Vạn Đại Sơn nhìn sang Voòng, và khẽ nhún vai:
- Nếu các cô nàng là gái Kinh, tinh quái dám giễu cợt cũng đáng trị bằng cách giấu xiêm y cho bõ ghệt. Tiếc thay các cô lại sơn nữ.
Thấy chủ tướng nói đùa, Voòng cũng lây vui nhẹ, quên cả bực bội, cũng nhếch mép cười. Lùi đã khá xa suối, hai thầy trò mới tìm lối đánh ngựa vùng qua cuối dòng suối, và tiến về phía núi đá dựng trước mặt. Qua dãy đồi cao, ngựa vừa xuống tới chân dốc, chợt Voòng Lầu đi phía sau, bật kêu lên:
- Thầy a!
Đang ngồi lim dim nhìn cảnh rừng chiều, thình lình nghe thủ hạ kêu lên, Hồng Lĩnh liền phục luôn xuống bờm ngựa. Một mũi tên cánh lớn từ phía lùm cây bên tả thình lình bay vụt tới chỗ Hồng Lĩnh.
Nhưng tên chỉ vút cao trên đầu và cắm phập vào một thân cây bên hữu, ngay trước đầu ngựa chàng tướng lạc thảo. Hồng Lĩnh ngẩng phắt lên, đảo mắt nhìn về phía phát ra mũi tên.
Vút!
Lại mũi thứ hai bay qua mặt, cắm phập vào một thân cây kế cây trước. Voòng Lầu đã rút luôn súng ra, chĩa vào bụi rậm gần đấy, toan lảy cò. Nhưng Hồng Lĩnh đã giơ tay cản kịp, đoạn chàng đánh ngựa đến trước thân cây, ngẩng nhìn mũi lên cắm, còn đang lay động, lại thấy một phát tên thứ ba vút tới, cắm phập vào thân cây phía trước nữa. Hai thầy trò nghển cổ nhìn theo, thì thấy một bóng người thanh nhỏ cưỡi ngựa vọt thẳng về nẻo núi đá dựng. Không chậm trễ, Đại Sơn Vương bảo Voòng Lầu:
- “Họ” đã sai người đón chúng ta! Nào theo sát, Voòng!
Hai con ngựa nước hai sải vó gấp gấp theo hút ngựa lạ trước, hết lên dốc xuống đồi, qua suối. Lúc thầy trò Hồng Lĩnh vừa băng qua thung, chợt thấy ngựa trước mất hút sau giữa vùng núi đá điệp trùng.
Hai thầy trò vội ngừng nước phóng cho ngựa đi bước một, và đưa mắt nhìn quanh. Cả một vùng núi rừng quạnh quẽ nằm im lặng dưới nắng chiều. Tứ phía không một bóng nhà thổ dân, khiến hai thầy trò có cảm giác như mình đang tới một vùng hoang vắng như sa mạc. Vó ngựa vẫn bước một thẳng về chân núi. Hai người đàn ông giang hồ lắc lư trên lưng ngựa, mất quan sát quanh mình, cố tìm một bóng nhà sàn, nhưng hoàn toàn thất vọng. Mé tay trái chỉ có một con suối chảy qua mấy cánh rừng, và có một đoạn khá dài uốn khúc dọc chân núi.
Hai thầy trò lại cho ngựa tới khúc suối, tìm chỗ quang đãng men đến bến bờ nước. Suối chảy khá mạnh, có chỗ nước xói vào ghềnh đá, nghe ào ào như thác reo.
- Quái! Chẳng lẽ ngựa trước tới chân núi, lại biến mất ư?
Đại Sơn Vương lầm bẩm, nhìn quanh trong lúc Hải Sơn Vương cúi mặt đăm đăm nhìn nước đổ. Đoạn ngẩng lên bảo chủ tướng:
- Tôi đã có lần tới một nơi như chốn này. Chưa biết chừng...
Voòng chợt ngừng, và như có sẵn chủ định rồi, Voòng bảo Hồng Lĩnh:
- Thầy à! Ta cứ men dọc theo suối xem sao.
Đại Sơn Vương gật đầu:
- Ta thường nghe miền Cao Bằng có lắm cảnh lạ! Có lẽ đây đó Voòng?
Hai thầy trò nhìn nhau cười như đã hiểu rõ dự đoán của nhau. Bờ suối có chỗ nhiều bụi rậm dây leo, hai người phải len ngựa khá chật vật mới qua được. Tới một chỗ khá quang, chợt Voòng ngừng phắt ngựa, chỉ tay xuống mặt đất, hào Hồng Lĩnh.
- Thầy coi này!
Đại Sơn Vương nhìn theo tay Voòng trỏ thấy một vùng cỏ bị giẫm nhầu, có chỗ cỏ vẫn còn ướt. Chàng tướng giặc giang hồ ngẩng lên, nhìn ra suối nước, chưa kịp quan sát thêm thì Voòng đã trỏ khúc suối ăn vòng vào chân núi khá rộng.
- Thầy coi chỗ đó nước dỗ xoáy rồi mới chảy xuôi. Chắc có ngách hang ngầm. Để tôi xuống xem.
Miệng nói, chân nhảy phắt xuống đất, rơi luôn xuống nước. Bên kia, chỗ sát chân núi có những cành lá dây leo rủ xuống sát mặt nước trông khá kín. Suối không sâu, tuy chảy khá xiết, Voòng dè dặt lội qua, Đại Sơn Vương nhìn sang, thấy Voòng vừa khuất vào bụi rậm chân núi chưa đầy mươi khắc, đã reo lên khá to:
- Đây rồi! Có thế chớ!
Và Voòng ló ra lách bụi, trở lại nhanh bên này suối.
- Thầy a! Có hang ngách ăn vào chân núi. Có cả dấu người mới qua. Chắc lối thông ngầm!
Đại Sơn Vương nheo mắt nhìn sang bên kia bờ, bâng khuâng trông rừng già đang ngả nhanh sang màu vàng úa. Và viên tướng trẻ đánh ngựa xuống suối, Voòng theo sau, hai thầy trò bì bõm lội qua nước xiết, tới bên kia bờ. Nước chảy không xiết lắm, nên ngựa qua không khó khăn. Tới sát chân núi, Voòng Lầu tiến ngựa lên trước, vén dây leo cho ngựa chủ tướng lách vào, xong, lại buông dây leo rủ xuống như cũ. Vừa lách qua cành rũ dây leo, Hồng Lĩnh đã khẽ bật lên:
- Có thế chứ! Đúng đường ngầm rồi!
Ngay chân núi có một hốc đá hình cánh cung uốn trên mặt nước, trông như một cửa tò vò. Hốc đá ăn vào lòng núi, miệng bằng nửa cái nia, từ trần tới mặt nước, khoảng gần một thước Tây.
- Thầy a! Chỗ này còn nguy hiểm hơn độc đạo Hoa Dung, lành, dữ chưa tường, e ...
Đại Sơn Vương ngó xem địa hình, đầu gật gật có dáng do dự. Phía sau lưng mặt trời đã gục hẳn xuống bên kia đỉnh núi Tây, cánh rừng quạnh vằng đang chìm trong ánh hoàng hôn và vùng không gian quanh cửa tò vò bắt đầu mờ sương đục. Đại Sơn Vương cúi sát mặt nước nhìn vào hang ngầm hun hút, cặp mắt lóe nhanh một quyết định. Chàng khẽ hất đầu bảo người thuộc hạ.
- Chắc bóng ngựa trước đã vào hang này! Và ta không nên để lỡ dịp quan sát một vùng cấm địa kỳ dị của Cao Bằng! Dứt lời, viên tướng lạc thảo thúc luôn ngựa, cho tiến mở lối vào cửa hang, Voòng theo sau. Nước ngập quá bụng ngựa, đầu hai người vừa chạm trần hang. Vào độ năm sáu thước, hang rẽ ngang phía trước tối om, phía sau chỉ thấy mờ mờ, rồi cũng tối hẳn. Hai người phải lấy roi ngựa khua quanh mình, lần lối, càng váo, hang ngầm như càng thắt lại, có chỗ phải nằm rạp trên lưng ngựa cho khỏi đụng trần. Hai thầy trò Đại Sơn Vương đi một lúc khá lâu, vẫn thấy tối om, ruột hang càng thắt lại, vách đá như muốn kẹp lấy người và ngựa, khiến có lúc hai thầy trò cảm thấy mình đang tiến dần vào đường cụt và không còn tin cả dự đoán của mình nữa. Dưới chân, nước vẫn chảy róc rách.
Đang khó thở vì bị kẹp giữa hai vách đá, chợt Hồng Lĩnh thấy nhẹ hẳn người, vội khua roi quanh mình, mới biết hang ngầm đã nở phình ra. Hồng Lĩnh nghe phía trước như có gió lùa, trừng mắt nhìn, thấy như đã bớt tối, chàng liền dừng ngựa, chợt ngạc nhiên vì không thấy tiếng chân ngựa sau lưng.
- A Voòng?
Không thấy tiếng đáp, Đại Sơn Vương vội quay lại gọi lớn:
- A Voòng!
Tiếng nước đổ khá mạnh, như muốn dìm cả tiếng người đi. Gọi mấy tiếng mới nghe tiếng thưa của Voòng nhưng ở cách sau lưng, khá xa. Không chậm trễ, Đại Sơn Vương đánh ngựa quay lại ngay, trong hang tối, hai thầy trò lần tìm nhau. Kịp khi Hồng Lĩnh tới được bên Voòng Lầu, thì viên tướng giang hồ không khỏi lạ lùng vì chỗ đó nước chì ngập tới móng ngựa, chưa đầy nửa gang tay.
- A Voòng! Sao không lên tiếng!
Trong bóng tối, Voòng thở mạnh, giọng rất thấp:
- Đáng lẽ tôi chưa lên tiếng vội! Thầy! Đây có lẽ nhiều lối đi, tôi vừa lạc vào một hẻm, hình như vừa chạm phải cái gì...
- Đánh lửa lên xem! Mà đèn bấm đâu, nãy giờ cũng quên khuấy.
- Có chớ, nhưng hình như rơi ban chiều mất rồi. Để tìm xem, may còn diêm.
Voòng lần khắp hành lý, loay hoay mãi mới lục được bao diêm, lại bị ẩm, đánh mãi mới lên lửa.
Lửa vừa bùng lên, hai viên tướng giặc ngang tàng vừa đảo mắt được nửa vòng, đã vội đưa mắt nhìn nhau. Vì, chỗ đó ruột hang ăn sâu vào thành một khu rộng đến mấy chục thước vuông, có lối ăn rẽ ra mấy ngã, trần hang khá caọ.. Từ trên trên rũ xuống nhiều thạch nhũ dị dạng. Lẫn với thạch nhũ, lủng lẳng mấy bộ xương người ôm một tấm gỗ khá rộng. Dưới nền hang trong hốc đá, lại có đến mười mấy bộ xương người lẫn ngựa, chó. Không bảo nhau, hai thầy trò Đại Sơn Vương cũng tiến ngựa đến trước tấm bằng gỗ, soi lửa coi. Trên bảng có nét dao khắc sơ sài, một hình hang đá, có nét sóng dập dờn, mỗi đoạn bên cạnh ghi một số. Cạnh có con số năm sáu, bảy, và nét sóng gạch tới sát nóc. Vừa ngó tới đó, Đại Sơn Vương thốt nhiên quay hỏi Vòng Lầu:
- Xem mấy giờ rồi!
Voòng ngạc nhiên, lẩm bẩm:
- Có lẽ tới sáu giờ rồi. Lúc vào cửa hang, mặt trời đã lặn. Miệng nói, tay Vòng lần rút chiếc đồng hồ quả quít ra xem.
- Gì đó thầy?
Đại Sơn Vương đảo mắt khắp ruột hang, và quay bảo Voòng, giọng chậm rãi:
- Hang này có thể ngập nước từ năm tới bảy giờ tối. Giờ đổ mưa nước lũ dồn xuống. Nếu bên ngoài đổ mưạ..
Chàng ngừng, chỉ vào tấm gỗ:
- Đây có ghi rõ cả!
Voòng Lầu vội đưa mắt nhìn quanh, ý thức ngay có nguy cơ thình lình mưa đổ. Người đàn ông giang hồ nghiêng tai nghe gió lùa, chưa kịp cất tiếng giục đã nghe bốn bề ầm ầm chuyển động, gió thốc ruột hang hun hút như tù và đêm đông âm u, rờn rợn và trên nóc hang như có sấm động chớp lòẹ.. Cùng lúc hai viên tướng già kinh nghiệm, khẽ bật lên như lời than dài tuyệt vọng:
- Mưa nguồn rồị..
Đại Sơn Vương mím chặt vành môi:
- Trời đang trút nước vào hang ngầm?
Voòng Lầu bất giác liếc nhanh những bộ xương chết rũ, nhanh giọng:
- Ta mau thoát đi thôi, thầy!
Đại Sơn Vương soi lửa xem bờ nước và ngẩng lên bảo Voòng:
- Mưa lũ lớn lắm! Thoáng cái nước đã lên mấy phân. Chỉ mươi lăm phút là tới nóc.
- Lùi hay tiến, a thầy!
- Đều không kịp. Phía sau, lui phải gần một giờ, lối trước hình nhự.. là lối cụt. Đi vào sẽ đụng vách núi.
Giọng viên tướng Thạp Vạn Đại Sơn trầm tĩnh lạ lùng, khiến người thuộc hạ phải mín chặt vành môi để nén xúc động quá bất ngờ.
Voòng ngó bờ nuớc, đánh ngựa ngược theo lối chủ tướng vừa đi. Chỉ mấy phút sau Voòng đã quay lại.
- Suối có thông, nhưng thạch nhũ lấp hết lối. Một con vịt mới có thể lách qua.
Bờ nước đã dâng ngập tới đầu gối ngựa và dưới ánh lửa úa vàng, nước lũ trông chẳng khác con thú dữ đang lồng lộn, độc hành. Đại Sơn Vương vẫn ngồi im trên lưng ngựa. Con vật có vẻ đã phát hoảng, phải ghim chặt mới chịu đứng nguyên. Trong phút nguy nan, hai thầy trò Đại Sơn Vương trở nên bình tĩnh khác thường. Hai người đánh ngựa vòng qua mấy lối hẻm, nhưng lối nào cũng tuyệt lộ, hốc chỉ ăn vào một vài thước là tới đá dựng như bưng. Đại Sơn Vương tần ngần đến trước bảng gỗ, lơ đãng xem lại nhưng nét khắc nguệch ngoạc.
Chợt cặp mắt quắc sáng.
- A Voòng! Tìm ra lối rồi!
Người thủ hạ tiến ngay lại, ngó vào bảng gỗ. Chẳng rõ có chi, đến nửa phút sau, hai người mới ngó về lối hẻm kín mít, và đưa mắt cho nhau. Nước đã lên đến đùi ngựa. Bên ngoài, hình như vẫn chớp loè sấm động. Hai con ngựa kinh hoàng hí mạnh hình như cũng biết đang ở trong lình thế thập phần nguy hiểm. Dưới vùng lửa bập bùng đỏ khè, khuôn mặt hai người đàn ông rắn lại như đá tạc.
Đưa mắt quan sát lại khắp các ngách hang như suy tính kỹ càng, Hồng Lĩnh khẽ hất đầu ra hiệu cho Voòng Lầu, đoạn hai thầy trò tiến ngựa tới ngách hang đầu gần nhất. Đến sát vách dựng, hai người quan sát khắp trên dưới thấy một vạch rêu phong ngay góc thành. Hồng Lĩnh thấy khả nghi, liền gõ tay vào đó, cảm thấy gõ gõ vào một viên đá rời. Chàng bèn lấy sức ấn mạnh, quả nhiên viên đá lùi ngay vào vách đá, để hở một lỗ hổng, có một vòng sắt tròn nằm ngay mép.
Hồng Lĩnh cả mừng nắm luôn lấy chiếc vòng, giật mạnh. Giật tới đâu thấy tường đá lấp ngách hang từ từ nâng lên lới đó, rất nhẹ nhàng, để lộ một ngách dài thăm thẳm. Hai người vội tháo nước ùa vào.
Nhưng nước chỉ thốc vào chừng hơn thước lại giật ra, nhìn kỹ thấy nền hang ngách chạy cao hơn hang ngoài. Càng đi vào sâu, lòng hang càng rộng, nóc càng cao. Chợt một mùi hôi khắm kỳ dị thốc vào mũi hai người. Và lập tức hai con ngựa hí lên, chồm vó trước không chịu tiến nữa. Voòng Lầu soi ngọn lửa về phía trước, chợt giật thót mình, khẽ bật lên:
- Lui lại, thầy! Quái vật!
Đại Sơn Vương nhoài mình hẳn về phía đầu ngựa và mím chặt vành môi. Cách đầu ngựa chừng ba thước, trước một hốc rộng một hình thù phi nhân phi thú đứng sừng sững chạm nóc hang, cặp mắt lồi đỏ ngầu nhìn thẳng về phía hai người.
- Dã nhân đêm nọ!
Voòng Lầu rút phắt súng ra. Nhưng Hồng Lĩnh vội cản:
- Không nên giết dã nhân, bất lợi cho ta sau này.
Dứt lời chàng rút trong mình ra mấy lưỡi dao lá liễu, ném cho Voòng Lầu. Hai thầy trò ghìm ngựa, khoa dao lá liễu trước ánh lửa, đợi chờ. Nhưng dã nhân vẫn đứng im, không nhúc nhích. Chẳng hiểu vì nhận ra ánh dao đã từng cắm vào thân thể đêm nọ, hay vì lẽ khác, quái vật có vẻ chờ đợi. Bên ngoài, vẫn chuyển sấm ầm ầm. Không thể kéo dài thời gian, Đại Sơn Vương liền nhích ngựa lên trước mặt quái vật. Con ngựa hí mạnh, vùng vẫy, muốn hất người xuống đất. Phải ghì chặt, thúc hông mãi, nó mới chịu bước, đầu vẫn lắc mạnh, chỉ muốn phá lộn lại sau. Cách chừng hai thước, chợt dã nhân từ từ tiến ra, đứng sững chắn lối. Thân hình cao lớn của quái vật như muốn chụp xuống vồ cả người lẫn ngựa. Lượng địa thế quá chật hẹp, khó xoay trở với dã nhân, hai thầy trò Hồng Lĩnh đưa mắt cho nhau đánh ngựa giật lùi ra. Dã nhân chỉ đứng nhìn theo không làm dữ. Giật mạnh vòng sắt cho cửa đá sập xuống, Hồng Lĩnh bảo thuộc hạ:
- Thể xác giống này kỳ dị lắm. Năm trước ở mạn Lao Kay - Lai Châu, có nhóm thổ săn gặp một dã nhân. Nã súng tới tấp, nhưng nó lè lưỡi liếm lành ngay vết thương. Sau phải hạ nó bằng từng loạt tiểu liên.
Nghe chủ tướng nói, Voòng Lầu cúi nhìn mực nước và lẳng lặng lôi ngựa tới ngách bên. Nhưng lại thấy sừng sững hình thù phi nhân phi thú đứng trước chắn lối. Cho tới ngách thứ ba cũng vậy. Trong đó nước đã dâng tới bụng ngựa, và sắp chấm nóc hang đường ngoài. Tình thế vạn nan không thể kéo dài hơn nữa, Hồng Lĩnh vội ra lệnh:
- Mở cả mấy cửa ngách ra. Ngách này ăn thông nhau như tổ ong, quái vật đều trấn giữ. Không thể tránh nó được nữa.
Nhanh nhẹn, Voòng Lầu giật tất cả cửa lên. Đại Sơn Vương ngắm ngạch thứ ba rung hơn cả, lập tức, hất đầu, giọng quyết liệt:
- Vào thôi! Nếu cần, hãy làm cho nó không thấy ngoại vật nữa.
Hai thầy trò Đại Sơn Vương khề sát nhau tiến ngựa thẳng vào ngách. Còn cách Dã nhân chừng ba thước, Voòng Lầu khoa ánh lửa như chong chóng, khiến quái vật phải đảo mắt ngó theo. Và bất kỳ xuất ý, hai người cùng lúc, phóng vụt hai lưỡi dao về phía dã nhân.
Vút! Vút! Hai lưỡi dao lá liễu loáng giữa vùng sáng úa và quái vật vùng rú lên, hai tay ôm lấy mặt. Cặp dao của hai người đã cắm phập vào mắt dã nhân. Đại Sơn Vương quát lớn:
- Lui mau!
Và không chậm một khắc, hai thầy trò đánh ngựa giật mạnh lui ra hang ngoài. Tiếng rú kinh khủng của dã nhân vang khắp lòng đá, và lúc hai thầy trò Đại Sơn Vương vừa tới cửa ngách, thì dã nhân đã vùng đuổi theo sau lưng. Nhanh như cắt, hai con ngựa chồm vào ruột hang. Hồng Lĩnh giật mạnh vòng sắt cho sập cửa lại, trong khi Voòng Lầu luồn sang đóng ngách khác. Bên ngoài quái vật gầm rú, phá cửa đá rầm rầm.
- Thoát mau thôi! Sức nó có thể nâng được một tảng đá ngàn cân!
Hai thầy trò đánh ngựa, noi theo ruột hang ngách lần ra. May, hang càng ra càng rộng, nên ngựa có thể chạy kiệu băm nhiều giai đoạn. Đi khỏi cửa ngách chừng trăm thước, hai người nghe phía sau có tiếng chuyển động như núi lở.
- Có lẽ nó phá được cửa rồi!
Tám vó câu chồm gấp gấp trên nền hang gập ghềnh, ngựa càng phóng, gió phía trước càng thổi vào thêm mạnh và lối đi càng mở rộng ra. Phía sau, là tiếng rú.
- Sắp đến cửa rồi! Nhanh lên thầy Hai con ngựa lao đầu giữa hai vách đá dựng, chuyển thình lình sang kiệu đại và bất ngờ vọt mạnh về phía trước. Ngựa đã vọt ra ngoài trời. Hai thầy trò Đại Sơn Vương cứ giữ tay cương cho ngựa phóng mình trong đêm mờ, sấm động. Ngựa băng qua cánh rừng thưa, một thung lũng rộng hiện ra trong đêm chớp. Hai thầy trò còn chưa kịp định phương hướng, chợt chớp mắt luôn mấy cái, cả hai vội co tay vuốt những giọt mưa chảy dòng trên mặt, mắt trừng nhìn phía trước.
Trong đêm rừng mưa gió, trước đầu hai người, thình lình hiện ra những ngọn lửa chập chờn.
- Thầy a! Có bọn cưỡi ngựa!
Đánh ngựa sát bên Voòng Lầu, Đại Sơn Vương nhanh giọng:
- Đến nước này cứ tiến thẳng và dè chừng bất trắc.
Hai con ngựa chồm đều. Voòng khoa đuốc lia lịa mở lối cho chủ tướng. Thoáng một cái, toán người ngựa phía trước đã ập tới trước hai viên tướng và dừng phắt lại. Hai viên tướng cũng ghìm luôn tay cương đưa mắt nhìn thẳng bọn người trước mặt. Những khuôn mặt lầm lì dàn hai bên, theo hình cung. Dẫn đầu là một cặp thiếu nữ tuyệt đẹp, vừa nhìn thấy, hai thầy trò Đại Sơn Vương đã không giấu được nét ngạc nhiên. Chính hai cô gái ngồi trên thuyền độc mộc tại Bằng Giang. Dừng ngựa, ngồi im, đưa mắt quan sát hai thầy trò Đại Sơn Vương, đoạn hai cô gái miền núi tiến ngựa lên sát đầu ngựa hai người.
Cô gái giao đấu với Voòng Lầu trước, nhoẻn miệng cười rất tươi:
- Chị em tôi có lời mừng hai ông đã vào được đây và thoát nạn lũ cuốn.
Ngừng một chút, cô gái hướng về phía Hồng Lĩnh:
- Đại Sơn Vương Thần Xạ đây, mà ban chiều tôi đã nhận lầm.
Nếu không có kẻ giữ hang thông báọ..
Sơn Vương đưa mắt nhìn Voòng Lầu. Chưa kịp nói gì, cô gái thứ hai đã tiếp:
- Vâng, lúc nào cũng có kẻ giữ hang, nhưng không được ra mặt, vì theo tục lệ ở động này.
Cô gái thứ nhất nghiêng đầu rất lễ độ:
- Từ phút này, hai ông là thượng khách của vua H'Mông! Chúng tôi được lệnh về Cao Bằng đón Đại Sơn Vương, nhưng...chuyện còn nhiều ẩn khúc, đêm nay, thượng khách cần phải nghỉ ngơi.
Đoạn không đợi thượng khách nói nửa lời, cô gái tiếp:
- Ngoài này mưa to gió lớn, ta về động thôi!
Dứt tiếng truyền, mấy chục vó câu rừng cùng chuyển bước, và ngựa tùy tùng tránh dạt sang hai bên, nhường lối cho hai cô chỉ dẫn hai thượng khách qua, rồi mới lục đục theo sau. Hai thầy trò Đại Sơn Vương nhìn nhau, thở một hơi dài như muốn đuổi hết không khí gian hiểm của một ngày phong trần còn đọng trong lồng ngực. Đại Sơn Vương đi sát cạnh thuộc hạ, mấy lần Voòng có vẻ ngạc nhiên thắc mắc định lên tiếng hỏi chủ tướng nhưng thấy Hồng Lĩnh vẫn thản nhiên lại thôi. Thỉnh thoảng Vòng lại đưa mắt ngó hai thiếu nữ, lại nhìn chủ tướng. Dưới trời mưa tầm tã, đoàn người ngựa vẫn chạy kiệu băm đều, từ đó, hai cô gái đi kế bên hai thầy trò, nhưng không nói câu nào nữa.
Mưa vẫn đổ hồi. Thỉnh thoảng ánh chớp lóe lên, soi vội cảnh xung quanh, lá rừng bay tơi tả như bướm giữa những vệt mưa đan sáng loáng. Hai viên tướng nghồ im trên lưng ngựa. quan sát cảnh thung lung rừng lạ phía trước. Đi được chừng hai mươi phút, hai người đã thấy những nương ngô, sắn, rồi những dải ruộng hiện ra bên những dãy đồi rậm rạp. Vượt khỏi con đường mòn vắt qua đồi, ngựa hai cô gái Thổ hạ nước đi, thầy trò Đại Sơn Vương cũng buông lỏng tay khấu, đưa mắt nhìn quanh.
Ánh chớp soi tỏ một con suối khá rộng chảy mạnh dưới chân đồi, và dựa vào dãy đồi trước, từng lớp nhà sàn nối nhau, chạy dài, trông khá sầm uất. Cô gái lên tiếng bảo Đại Sơn Vương:
- Sắp tới rồi! Chỉ còn một dải đồng nữa.
Ngựa băng qua suối lũ, vượt lên giữa lớp sàn. Tự nhiên tiếng cồng chợt nổi lên, đổ mồ hôi gấp gấp, dư âm vương vấn mãi bên tai hai người đàn ông giang hồ. Hai người nhin suốt mấy dãy sàn, chỉ thấy thấp thoáng ánh lửa le lói sau phên nứa, tuyệt không có bóng người.
Ngựa vẫn bước đầu, cuối cùng leo ngược đường mòn vào tận đỉnh một đồi cao. Hai thiếu nữ giơ tay làm hiệu cho cả bọn dừng lại.
Từ phía sau lưng Đại Sơn Vương, ba người đàn ông sơn cước tiến ngựa vòng lên, tới trước hai thiếu nữ, người nào cũng còn cầm đuốc nhựa, có vỏ bịt như lồng đèn.
- Giờ các ngươi đưa quí khách về nhà riêng an nghỉ Chúng ta sẽ đến sau.
Cô gái thứ nhất quay sang hai thầy trò Đại Sơn Vương:
- Hai ông cứ theo họ về thay y phục còn dùng cơm, chắc cà ngày, cũng đói rồi?
Dứt lời cô nàng vẫy cô đi bên, đoạn cả hai cùng đám tùy tùng tế ngựa đi thẳng về nẻo rừng phía tả. Còn ba gã tùy tùng dẫn luôn hai thầy trò Đại Sơn Vương về phía phải. Đi độ non trăm thước đã tới một khu quang đãng có nhiều căn nhà thấp lè tè dựa ngay vào ngọn đồi. Họ dẫn Hồng Lĩnh, Voòng Lầu vào một căn nhà khá rộng, Voòng tháo yên cương, và đồ dùng ra, một gã đỡ lấy yên ngựa ném cho hai gã kia dắt đi đoạn đưa khách vào thẳng bên bếp lửa:
- Xin quý khách nghỉ ngơi thay y phục, chúng tôi đi lo cơm nước.
Hai thầy trò gật đầu cùng bước đến buồng, lần lượt thay y phục, đoạn ra ngồi bên bếp lửa. Lúc bấy giờ, cả hai mới thấy thấm mệt.
Voòng Lầu lục sắc lấy thuốc lá đưa cho chủ tướng. Lúc đó viên tướng mới chợt nhớ từ trưa chưa được thưởng thức hương vị khói thơm. Voòng biết chủ tướng đang có điều suy tính quan hệ trong lòng.
Mấy lần, Voòng định lên tiếng hỏi, lại thôi. Lát sau xôi đồ, gà luộc, thịt rừng... dọn lên cùng chai rượu cẩm ngâm mật gấu pha mật ong.
Hai thầy trò dùng xong, Đại Sơn Vương truyền Voòng Lầu cùng đi ngủ luôn. Người thủ hạ thấy chủ tướng vừa đặt lưng xuống sập đã ngủ thiếp ngay như một người vô tư lự.
Sớm mai, hai thầy trò vừa thức đã thấy người lên mời Đại Sơn Vương tới gặp hai thiếu nữ sơn cước hôm qua. Để Voòng Lầu lại nhà khách, Đại Sơn Vương theo người thổ dân xuống thang, đi sang bên kia sườn ngọn núi. Gần trưa, Voòng nhìn ra, đã thấy chủ tướng trở lại cùng người đàn ông trước. Hồng Lĩnh cười chỉ hắn, bảo Voòng:
- Đây! Voòng Sềnh! Cận tướng của vua Hoàng Su Phì! Đoạn chỉ Voòng, bảo hắn:
- Và Voòng Lầu, vốn có danh Hải Sơn Vương Bắc Hải đó!
Hai người đàn ông cùng tỏ vẻ ngạc nhiên, cúi đầu chào nhau, xong, đều có vẻ nghĩ ngợi điều chi. Đại Sơn Vương mỉm cười vỗ vai hai người:
- Cả hai cùng họ, một Hoàng Su Phì, một Bắc Hải, có thể thân thuộc nhau không? A Voòng! Chúng ta sẽ lên Hoàng Su Phì?
Có Voòng Sềnh dẫn lộ!
Voòng Lầu ngạc nhiên:
- Dạ.... thế thầy. Không xuôi Hà Nội?
- Có chớ! Ngày hẹn Hoàng Su Phì còn gần tuần lễ. Xuôi Hà Nội, rồi ngược đường Hà Giang!
Đại Sơn Vương quay bảo Voòng Sềnh:
- Hãy sửa soạn, còn lên đường.
Người đàn ông H'Mông cúi đầu, lui ra để hai thầy trò Đại Sơn Vương lên thang. Thấy chủ tướng có dáng vui, Voòng Lầu thấp giọng:
- Thầy a! Còn... công việc kia, thầy định...
Không để thuộc hạ nói dứt lời, Hồng Lĩnh ngắt luôn:
- Hãy để đó đã. Ta cần đi Hoàng Su Phì, một công đôi ba việc.
Không nên bỏ lỡ dịp tới đất vua Mèo.
Chàng trầm giọng ghé sát tai người thủ túc đến nửa phút. Voòng nghe, mắt sáng lên, đầu gật lia lịa. Xong, có dáng suy nghĩ, người thuộc hạ bảo chủ tướng:
- Vậy tới Hà Nội tiện đường, tôi sẽ xuống Phòng, truyền cho bọn Bắc Hải biết lệnh thầy. Nhưng sao không thanh toán việc kia ngay?
Tôi ẹ..
Hồng Lĩnh đặt bàn tay lên vai thuộc hạ:
- Ta đã suy tính kỹ. Nên ngược Hoàng Su Phì đã! Giờ hãy sửa soạn, tối còn dự tiệc cùng nữ chúa Voòng Chí Plan!
- Dạ....
Voòng không dám hỏi thêm, vội lo thu xếp mọi thứ trong khi viên chủ tướng ngang tàng và... mơ mộng lần ra bờ suối ngoạn cảnh như một khách nhàn du.
Xẩm tối, Voòng Sềnh cận tướng vua Mèo đã tới đón hai thầy trò Đại Sơn Vương. Đoạn ba người lên lưng ngựa, hành trang chuẩn bị đầy đủ thồ sau yên, rời nhà sàn khách, tiến sang bên kia đỉnh núi, tới căn nhà nữ chúa Voòng Chí PLan. Tới trước một căn nhà sàn vô cùng rộng rẫi, trông đúng dinh thự của các tù trưởng sơn cước, ba người dừng ngựa nhìn vào, đã thấy đèn đuốc sáng rực, kẻ qua người lại đông như hội, ngựa buộc rải rác khắp sân trước vườn sau.
Voòng Sềnh đưa hai thầy trò Đại Sơn Vương qua sân, thẳng tới cầu thang. Ném cương cho mã phu túc trực sẵn, ba người lên thang.
Từ cuối sàn, Voòng Chí PLan cùng cô em tiến ra, cúi chào khách Đại Sơn Vương và đưa vào an tọa trên chiếc ghế tay ngai, ngay giữa hai chị em Voòng Chí PLan.
Hồi 5
Thượng Khách Của Vua HMông (tiếp theo)
Hai chị em Voòng Chí Plan đều mặc váy lính thuỷ, tra kim tuyến óng ánh. Tuy trong lớp xiêm y rực rỡ, Voòng Lầu thoạt trông đã nhận ngay chính hai thiếu nữ trên thuyền độc mộc.
Suốt bữa tiệc Đại Sơn Vương cứ ngồi vui vẻ uống rượu, đàm đạo với mọi người, rất nồng hậu, và không kém duyên dáng. Voòng thủ túc hơi ngạc nhiên thầm về tửu lượng chủ tướng, nhất là tài nói chuyện, cư xử. Chỉ thoáng cái, không khí trang trọng như lắng xuống, nhường cho bầu không khí thân mật bao phủ khắp mấy căn nhà sàn rộng mênh mông. Khắp hang động đều tỏ lòng yêu kính chàng trai trẻ giang hồ lịch lãm. Các cô gái luôn nhoẻn miệng cười, và nữ chúa Voòng Chí Plan cứ chuốc hết chén nọ chén kia cho chàng tướng lạc thảo biên thuỳ, khiến Voòng Lầu cứ ngồi thầm lo cho chủ tướng, chỉ e quá chén sinh điều bất lợi. Nhưng Đại Sơn Vương càng uống càng trở nên duyên dáng, chuyện trò vui vẻ.
Voòng Chí Plan càng đượm nồng thêm ánh mắt, cô cháu ruột vua H'Mông Hoàng Su Phì luôn luôn nhìn viên tướng Thập Vạn Đại Sơn sâu thăm thẳm, vừa vào tiệc, Voòng đã thầm lo ánh mắt cô chị, tiệc nửa chừng lại thêm lo vì ánh mắt cô em Voòng Chí Sliên. Hai cặp mắt đẹp hoang vu nhiều lần kín đáo nhìn hút lấy viên tướng núi biên thuỳ, khiến Voòng có cảm tưởng ánh mắt đó có ma lực ghìm chặt vó câu nơi sơn động và chủ tướng mình có thể thình lình truyền tháo yên cương, hoãn hành trình lại một thời gian vô hạn định.
Tiệc vui say, không ai lưu ý, chỉ có Voòng Lầu vì quen với nhiệm vụ quan sát canh chừng chủ tướng bất cứ lúc nào, nên nhận ra ngay.
Nhất là Hải Sơn Vương, khi chưa làm cận tướng Hồng Lĩnh đã có một thời suýt táng mạng vì ánh mắt giai nhân Bắc Hải. Liếc nhìn chủ, vẫn thấy vui cười như không còn nhớ tới ngựa nước hai vẫn đóng yên cương chờ sẵn, Voòng Lầu càng lo ngại.
Nhưng giữa lúc tiệc đang vui, Đại Sơn Vương Hồng Lĩnh chợt đứng lên, nhìn hai chị em họ Voòng, cùng thổ dân hang động, giọng vẫn đầm ấm lạ lùng:
- Xin ghi nhớ thịnh tình của nữ chúa động cùng khắp hàng dân động. Đường đời còn nhiều lúc tái ngộ. Giờ đã khuya, xin lên đường.
Cả sơn động H'Mông đều tỏ vẻ lưu luyến, nhất là hai chị em Voòng Chí Plan. Hai cô nàng tuy không nói nửa lời lưu khách, nhưng cả hai đều có vẻ bịn rịn khác thường. Voòng Chí Plan truyền bãi tiệc, đoạn cùng thuộc hạ lên ngựa đưa hai thầy trò Đại Sơn Vương một đỗi xa, mới trở lại, để Voòng Sềnh theo dẫn đường. Ra tới cửa hang, Sềnh đưa hai thầy trò Đại Sơn Vương vào một căn nhà nhỏ ngay trước hang. Đoạn Sềnh vào trong hang, một lát ra, bảo Voòng Lầu tạm tháo yên cương, ba người nghỉ qua đêm chờ lũ rút, sớm tinh sương mới thắng yên vượt hang, ra thung ngoài. Lúc qua ngách hang vẫn thấy dã nhân đứng sững bên vách nhưng tỏ vẻ rất hiền lành, khi Sềnh hú lên một tràng dài.
Thấy cặp mắt dã nhân mở trừng trừng, Voòng hết sức kinh ngạc, chưa kịp hỏi thì Sềnh đã điềm nhiên.
- Nó bị hai lưỡi dao bên mắt, nhưng bản động thuốc đắp khỏi ngay rồi. Xác thịt giống này rất lạ.
Đóng sập cửa đá, Voòng Sềnh quay bảo hai người:
- Từ ngày đưa dã nhân về trấn hang ngầm, chưa kẻ nào vượt nổi, trừ hai quí khách. Nhất là, vượt qua mà không hạ dã nhân, vì chúa chúng tôi đã có lệnh:
Kẻ nào hạ nó, sẽ bị coi nhự.. cừu địch! Cho nên hang động Dao càng thêm kính mến quí khách.
Voòng Lầu vội đưa mắt nhìn chủ tướng. Hồng Lĩnh chỉ hơi nhếch miệng cười, và lẳng lặng đánh ngựa xuống đường ngầm. Chỉ lát sau, cả ba đã ra khỏi hang, băng suối, tiến qua thung và cứ thế, Voòng Sềnh dẫn hai người xuyên sơn, xuống Bắc Cạn. Tới thị trấn, hôm sau ba người lại lên ngựa, cứ đường lớn, thẳng về Thái Nguyên đoạn trao ngựa cho Voòng Sềnh đánh đi túc trực một nơi, còn hai thầy trò Đại Sơn Vương đáp xe hàng về thẳng Hà Nội, trong lốt một cặp thầy trò khách trú trung lưu.
Tới nơi, hai thầy trò tìm một khách sạn trung bình ở ngay phố Ga Hàng Cỏ, thuê một buồng trên lầu, có ban công trông thẳng xuống đường. Suốt mấy ngày liền, Hồng Lĩnh cùng Voòng Lầu cứ y phục chỉnh tề thuê xe đi khắp phố phường. Nhiều đêm, chàng tướng trẻ một mình đi tới khuya mời về, tuy bề ngoài có dáng ung dung như một khách nhàn du nhưng vẻ mặt hiện nhiều nét suy nghĩ. Một buổi, Hồng Lĩnh đi bách bộ bên hồ Hoàn Kiếm, chợt thấy thoáng khuôn mặt quen quen trong một chiếc xe mui trần vụt qua. Chàng vội ngoái cổ trông theo còn nhận rõ nửa thân sau một thiếu nữ tầm thước, ngồi lái xe một mình.
- Hình như Phượng Kiều!
Hồng Lĩnh lẩm bẩm khẽ, còn nheo mắt bán tín bán nghi, thì một chiếc xe nữa vọt qua, có vẻ như săn đuổi cái trước, trên xe, có ba bốn người đàn ông dữ tợn mím môi, quắc mắt, trông đầy sát khí.
Trong óc vụt nẩy một quyết định, viên tướng Thập Vạn Đại Sơn bước nhanh ra bên đường, đảo mắt một vòng. Vừa may một người Pháp cao lớn từ đâu đến, đậu xe sát lề bên kia.
Chàng vội vàng qua đường, tiến sát tới bên xe nghiêng mình, bảo chủ xe.
- Phiền ngài cho mượn xe chốc lát! Tôi cần đuổi theo hai xe trước, có việc... riêng!
Người Pháp ngạc nhiên nhíu mày, ngó chàng công tử Việt, có vẻ khó chịu về lối mượn lạ lùng, vừa toan lên tiếng thì Hồng Lĩnh đã nắm lấy quả đấm xe, mở ra, miệng hơi nghệch cười:
- Việc gấp, sau sẽ giải thích ngài rõ! Ngài tha lỗi!
Lời vừa dứt, một cánh tay đã vung lên giáng xuống đầu người Pháp một quả đấm thôi sơn, nhanh và công hiệu đến nỗi người này chỉ kịp chớp mắt một cái, và ngất lịm ngay. Hồng Lĩnh nhảy phắt lên, đẩy chủ nhân sang bên, đoạn rú vọt xe đi, khiến khách bộ hành chỉ còn kịp đứng sững ngó theo, miệng há to, như vừa xem một pha cướp xe trên màn ảnh.
Xe phóng tới ngã ba Hàng Đào, đã trông thấy xe trước, Hồng Lĩnh xả hết tốc lực, lao đi như tên bắn, khiến các xe qua lại phải dạt cả sang nhường lối, thoáng cái xe đã bắt kịp xe trước. Cách đuôi xe trước chừng mười thước chàng đã thấy xe thiếu nữ tới gần chợ Đồng Xuân, hình như cố ý phóng vào phố đông. Đang đuổi, thấy phía sau có xe phóng nhanh, mấy người đàn ông xe trước có lẽ sinh nghi, ngoái lại xem chừng.
Chàng tướng núi thấy xe trước đã vào phố chợ, lập lực rẽ sang ngã khác, và mở tốc lực vòng theo bờ sông, để đỗ ngược xuống đầu phố Hàng Than. Quả nhiên, gặp phố đông, cả hai xe kia đều chậm nước phóng, xe Hồng Lĩnh vừa từ bờ sông quặt xuống đa gặp ngay thiếu nữ. Thấy bóng xe trước thình lình ập tới, thiếu nữ thoáng nhíu mày liễu, toan tìm lối ngoặt ngang, chợt giật mình kinh ngạc chớp vội hàng mi khi nhận ra kẻ lái xe là chàng tướng trẻ biên thuỳ. Xe sát đầu nhau, cùng lúc hai người bật khẽ:
- Ông Hồng Lĩnh.
- Kìa! Cô Phượng Kiều!
Hai xe hãm luôn tốc lực, Hồng Lĩnh nhanh giọng:
- Cô bị xe sau đuổi?
Vẫn còn sững sờ vì xúc động. Phượng Kiều gật đầu chưa kịp lên tiếng, thì Hồng Lĩnh đã nói luôn:
- Vậy cô cứ phóng thẳng. Để tôi cản chúng cho!
Chẳng hiểu sao, Phượng Kiều vụt hiện rõ vẻ ngần ngừ lúng túng:
- Nhưng... Ông...
Thấy xe sau đã đuổi tới gần, Hồng Lĩnh cứ vòng lên không nói nửa lời. Phượng Kiều ngoái lại thấy xe Hồng Lĩnh đã vọt đi rồi, tần ngần mấy khắc, đoạn tặc lưỡi phóng xe đi thẳng ra nẻo bờ sông Hồng.
Nhìn lại thấy thiếu nữ đã đi khỏi, chàng cứ cho xe mình lao thẳng tới, đón đầu xe mấy người đàn ông và gặp nhau ngay giữa Hàng Than.
Làm như vô tình chàng lập tức cho xe quay ngang lối. Phố đông, xe chắn mất đường khiến xe kia lao tới, thấy thế, phải dừng phắt lại, cách xe Hồng Lĩnh trên mười thước. Người lái xe quát lớn:
- Chú kia! Sao dám cho xe nằm ngang? Tránh mau không chết!
Thấy Hồng Lĩnh vẫn lúi húi rú ga, như không nghe tiếng, gã lái xe đảo mắt nhìn quanh, đoạn rồ máy, toan cho xe vòng lên hè. Hồng Lĩnh quan sát thấy xe bọn đó có thể vượt lên được liền mở phắt cửa xe, xốc phăng người Tây vạm vỡ đặt luôn xuống mặt hè, lấp cả lối và xua tay lia lịa, bảo khách qua đường:
- Này! Các ông bà nào có dầu xoa, người bạn tôi bị gió độc!
Chẳng hiểu sao khách qua lại chỉ len lén tránh xa, còn đám đàn ông biết kẻ trước cố ý cản đường, bốn người đàn ông dữ tợn mở cửa xe bước vụt ra, hầm hầm tiến lại phía Hồng Lĩnh.
Nhưng chợt thấy chiếc xe, và khuôn mặt, hình thù người Tây bị nằm ngất, cả bọn hơi giật mình dừng phắt lại.
- Ngươi là ai?
Hồng Lĩnh đang ngạc nhiên thấy thái độ khách bộ hành, nghe tiếng quát, liền chậm chạp quay về phía đám đàn ông lạ, định kiếm lời kéo dài tình thế cho Phượng Kiều kịp phóng mất hút hẳn. Nhưng, vừa nhìn rõ khuôn mặt bốn người kia, viên tướng núi như vừa chạm phải một luồng điện, hơi giật mình đứng sững, cặp mắt long lanh sáng, vùng thoáng màu mây xám, rồi lại vụt nhanh như bốc cháy. Đại Sơn Vương tiến thêm một bước, nheo mắt nhìn, quan sát kỹ vẻ mặt của bốn người kia, đoạn trầm giọng như nói để mình nghe:
- Oan gia! Đường xa ngàn dặm về đây tìm oan gia đã ngót tuần rồi... Không ngờ lại gặp!
Cả bọn cau mày, ngạc nhiên nhìn chàng phong lưu công tử, và chợt rợn người vì ánh mắt u uẩn lạnh lẽo nhìn thẳng vào mình.
- Một bọn lừa thầy phản bạn! Hai mươi năm rồi còn gì! Chưa nhận được ta sao?
Dứt lời, chàng từ từ vén tay áo lên, để ló một chiếc vòng ngọc thạch xanh kỳ dị, sáng như lân tinh. Vừa trông thấy chiếc vòng một người nhiều tuổi nhất trong bọn chợt bật thốt lên:
- À! Cái vòng xanh nhà họ Cao!
- Và danh sách bọn phản bạn trong đó! Rút súng ra!
Qua phút ngạc nhiên bất thần, bốn ngươi đàn ông dữ tợn đã trấn tĩnh tinh thần, trước kẻ địch thủ đơn độc. Một người cười gằn, hất hàm ngạo nghễ:
- Nhưng ngươi phải chăng là...
Không để gã nói hết lời. Hồng Lĩnh chậm rãi giục:
- Rút súng ra! Ta nhường cho một may mắn cuối cùng và cho một vinh dự được chết dưới ngọn súng của Đại Sơn Vương Thần Xạ!
Lời vừa dứt, gã đứng tuổi đã nhắc lại, giọng bàng hoàng:
- Thần Xa Đại Sơn Vương? Thế rạ..
Người này vừa nói tới đó, chợt im bặt, vì lợi dụng Hồng Lĩnh đang kéo tay áo đắp lấy cái vòng, và không thấy kẻ địch đeo súng ống chi, cùng lúc cả ba gã đồng bọn đã xuất kỳ bất ý rút phắt súng ra, chĩa vào Hồng Lĩnh, trong cái thế “tiên hạ thủ vi cường” của những tay thạo chiến. Nhưng Hồng Lĩnh quả không hổ danh thần xạ, súng của bên địch vừa kịp rút ra giơ lên, thì hai bàn tay chàng đã đánh vụt xuống hai bên sườn như hai cần máy, cùng lúc gạt hai thân áo ngoài về phía sau và đánh dính luôn vào hai báng súng dắt hai bên sườn.
- Đoàng... Đoàng... Đoàng...
Liền ba phát súng nổ ran nhanh như lửa loé, nhìn lại đã thấy ba người dữ tợn giật nẩy mình lên, buông rời tay súng, mắt trợn trừng, xác ngã lăn xuống mặt đường nhựa. Cuộc chiến xảy ra quá nhanh khiến khách bộ hành chỉ kịp ngó xác người gục xuống và vừa chạy giạt ra vừa ngoái cổ lại ngó chàng trai trẻ ngang tàng, đứng dạng chân, hai tay cặp súng như trò đùa.
Người đàn ông nhiều tuổi đã ý thức được sức mạnh ghê gớm của cánh tay bách phát bách trúng đối diện, nên nhớn nhác nhìn quanh chực tìm lối thoát, không còn dám tưởng tới việc đấu chiến nữa.
- Rút súng ra mau!....
Lời Đại Sơn Vương vừa quát, chẳng hiểu vì nhát hay vì khôn ngoan, người còn sót vùng quay ngay lưng lại chạy sang bên kia hè.
Viên tướng lạc thảo ngang tàng vốn từ xưa, chưa bắn vào lưng kẻ nào, thấy thế liền nổi giận, quát lớn:
- Quân hèn nhát, định mưu thoát quỷ quyệt.
Dứt tiếng, chàng cũng quay phắt lưng lại và bắn ngược lại sau luôn hai phát. Mọi người đứng quanh đấy vừa nghe đạn nổ, nhìn theo, đã thấy kẻ kia lảo đảo dụi vào một cửa hàng.
Đại Sơn Vương hé miệng thổi phù nòng súng, dắt vào mình, đoạn tiến đến bên mấy xác, chợt lấy chân lật ngửa, nhìn vào vết chàm tròn trên trán, nhếch cười nửa miệng và lặng lặng quay về chỗ xe đậu.
Chẳng biết người Tây cao lớn đã tỉnh từ lúc nào đang đứng nhìn Hồng Lĩnh. Gần đấy thấp thoáng mấy bóng đội sếp cũng đang nhớn nhác ngó thủ phạm. Hồng Lĩnh lừ mắt về phía mấy thầy đội thấy người Tây đứng gần đấy, chàng liền dịu giọng:
- Bất đắc dĩ phải mượn xe ngài... mong thứ lỗi. Nếu cần, ngài cứ khai với nhà chức trách:
Đại Sơn Vương đã trừ bọn phản thầy! Giờ xin hoàn lại xe ngài!
Dứt lời, chàng leo lên xe bọn kia, rồ máy bỏ đi thẳng để lại phía sau những nét mặt kinh hoàng ngạc nhiên của mọi người. Chàng cho xe chạy quanh mấy phố, đoạn bỏ xe hơi rồi thuê xe hàng về khách sạn. Vừa thấy chủ tướng, Voòng đã nói luôn:
- Thầy đã hạ được mấy đứa?
Hồng Lĩnh hởi ngạc nhiên:
- Sao Voòng đã biết?
- Làng phố bàn tán xôn xao, tin đến phố này đã tới mười lăm phút.
Voòng thấp giọng:
- Ngày mai báo chí sẽ loan tin. Thầy nên nguỵ trang cho tiện!
Hiện kẻ thù đầy rẫy quanh mình, chúng có thể mượn tay quan binh để trừ ta.
Đại Sơn Vương thuật qua chuyện xảy ra cho Voòng nghe:
- Phượng Kiều có mặt tại Hà Nội, bị bọn kia truy sát. Ta tưởng chuyện này có uẩn khúc chi đây.
Đưa mắt nhìn tấm lịch treo trên tường, Đại Sơn Vương lẩm bẩm:
- Ngày gặp vua H'Mông Hoàng Su Phì sắp tới...Việc dưới này thanh toán chưa xong...
Chợt chàng quay sang Voòng Lầu:
- Đã tới lúc Voòng phải có mặt tại Đồ Sơn. Hãy xuống gặp ngay và truyền chúng chuẩn bị đâu vào đấy, khi ta ở Hoàng Su Phì về. Tàu Ô Bắc Hải đã túc trực tại Vịnh Hạ Long rồi! Xong, Voòng về Hà Nội luôn, ta đợi để lên mạn ngược!
- Dạ!
Hai thầy trò ngồi uống trà bàn bạc một lát, Hồng Lĩnh lại ra phố.
Ngay đêm đó Voòng đáp tàu hỏa xuống Phòng. Hôm sau chưa thấy về.
Trong khi đó, quả nhiên báo chí Hà Nội đều đăng tin “Tướng lạc thảo Đại Sơn Vương Thần Xạ đã bí mật về Hà Nội và đã hạ một lúc ba người”. Có báo còn nói rõ tướng lạc thảo phi thường này đã “mượn” xe của chính viên thanh tra mật thám. Đoạn cuối các báo đều đặt những dấu hỏi lớn về hành tung của Đại Sơn Vương. Và cũng không quên loan báo:
“Nhà chức trách hiện đã giăng lưới khắp nơi, dè chừng hành động của viên tướng lạc thảo khét tiếng lợi hại này”.
Đại Sơn Vương lơ đãng liếc mắt qua những hàng chữ chạy dài trên báo, có dáng suy tư. Đoạn chàng ngả mình trên ghế bành, bâng khuâng nhìn lên trần nhà, cặp mắt mơ hồ như dõi theo hình ảnh những đợt thủy triều vỗ triền miên vào bãi vắng Đồ Sơn, xóa mau những vết chân của Voòng, trong đêm tối mịt mùng.
Hôm sau nữa cũng không thấy Voòng Lầu về. Hẹn kỳ lên ngược đã tới, Hồng Lĩnh thỉnh thoảng hết nhìn xuống đường, lại ngó lên tấm lịch treo tường. Đêm đó, vừa đi phố về, thay quần áo, lên giường nằm chợt nghe bên ngoài có tiếng gõ cửa. Hồng Lĩnh tung mình dậy, quơ vội khẩu súng tiến đến bên cửa.
- Tiên sinh à! Tiên sinh còn thức không?
Chàng hơi nhíu mày lại, rõ tiếng viên quản lý khách sạn. Chàng chưa kịp lên tiếng, đã nghe tiếp:
- Tiên sinh ! Có người quen dưới cảng muốn gặp.
Linh lính như báo trước có việc hệ trọng, Hồng Lĩnh vội mở phắt cửa ra. Dưới ánh đèn điện ngầu vàng, một người lạ mặt sạm đen, cao lớn, đựng bên viên quản lý khách sạn cúi đầu kính cẩn chào. Thấy cặp mắt người đó khẽ đưa đẩy, Hồng Lĩnh liền reo lên:
- Chà! Tưởng ai... hóa chú. Vào đây!
Vừa nói, chàng vừa đặt tay lên người lạ đẩy nhẹ vào, miệng vừa bảo viên quản lý:
- Cám ơn chú Sầu! Thôi chú xuống nhà nghỉ đi.
Chàng dắt người lạ vào, đóng cửa lại. Vừa vào, người lạ đã nhanh giọng nói luôn:
- Bẩm chủ tướng. Voòng Lầu bị bắt rồi!
Đại Sơn Vương đặt phắt tay lên vai hắn.
- Voòng bị bắt?
- Dạ, trên bãi biển. Vừa ngoài Tàu Ô chèo xuồng về, bị chúng chực sẵn. Đám bọn quan binh, đến hai mươi tay súng. Chúng tôi từ Phòng ra đón, mới tới đã thấy động phải nấp đi.
- Voòng đi có một mình?
- Dạ. Chúng tôi đã toan liều mạng đánh tháo nhưng lúc đó chỉ có mấy tay súng ngắn, còn quan binh có vẻ đã bố trí cẩn mật, hình như đã biết trước cả.
Đại Sơn Vương nheo mắt nhìn ra ngoài phố vắng, dáng suy tính.
Đoạn quay hỏi người lạ:
- Hiện chúng giam Voòng ở đâu?
- Bẩm... đã đưa ngay về Hà Nội. Hiện giữ tại Sở Mật thám để lấy khẩu cung, chưa đưa sang Hoa? Lò.
Đại Sơn Vương xem đồng hồ, quay bảo người thuộc hạ:
- Đến đây mấy người?
- Dạ, hai. Anh kia lảng vảng bên kia đường.
Đại Sơn Vương hơi gật đầu, lẩm bẩm một mình:
- Lạ thật! Sao chúng biết rõ hành tung của Voòng Lầu? Hừ!
Chàng đi đi lại lại khắp phòng, miệng mím chặt, cặp mắt như bốc cháy!
- Đi giải cứu ngay Voòng Lầu, chú xuống trước chờ ta.
Gã thuộc hạ, có vẻ ngạc nhiên về quyết định chớp nhoáng của chủ tướng, mấp máy môi toan nói gì, thấy chủ đã quay mặt đi, gã bên lặng lẽ mở cửa, xuống đường. Mấy phút sau, Hồng Lĩnh tắt đèn, lách mình ra ban công, đứng im mấy khắc, nhìn xuống đường. Viên tướng Thập Vạn Đại Sơn mặc y phục màu đen tới, đi giày vải nhẹ, mũ kéo sụp xuống trán, lưng thắt dây đạn, cặp súng bên sườn nằm khuất sau áo choàng mưa rộng.
Đại Sơn Vương dẫn cả hai thủ hạ thẳng tới trước Sở Mật Thám, đảo một vòng, quan sát. Khu sở được canh phòng cẩn mật, cổng kín, tường cao, ngoài vọng gác tiền lờ mờ hiện bóng lính canh đôi, lưỡi lê cắm ngọn súng sáng bạc dưới vùng sáng điện gần đấy hắt vào. Bên trong im lặng như tờ. Thỉnh thoảng một vài cơn gió thổi rào cành lá sấu, bàng, rụng lộp bộp xuống mặt đường và lăn lông lốc trên những vũng nước nham nhở.
Đại Sơn Vương đi khuất dưới bóng cây, xem xét một lượt đoạn dẫn thủ hạ vòng về phía sau Sở Mật Thám, vụt vào ngõ Liên Trì.
Hàng phố đều đã ngủ vùi từ lâu, cửa đều đóng kín mít. Đại Sơn Vương dẫn thủ hạ leo lên nóc nhà, len lỏi lần tới bên tường hậu. Nhưng vừa tới nơi, Đại Sơn Vương đã vội kéo thủ hạ nấp vào bóng tối, trừng mắt nhìn vào phía trong, hết sức ngạc nhiên. Vì gia cảnh vắng lặng, phía trong vừa thấp thoáng bóng người từ trên cây đu mình xuống đất, chập chờn vút vào nẻo trung tâm mất dạng. Một bóng rất nhanh, có vẻ từ bên ngoài vượt vào. Đại Sơn Vương chú ý quan sát thấy một cành cây xõa cách ngọn tường không xa. Chàng truyền thủ hạ canh chừng, đoạn rút trong mình ra một đoạn dây thừng nhỏ, tung quấn vào cành, rồi nhẹ nhàng đu mình vào phía trong, êm như lá bay.
Không chậm trễ, chàng cuộn vội thừng giắt lưng, đoạn rảo bước theo bóng người kia.
Men theo đêm tối, thấy có bóng lính canh đứng sững trong vọng gác, chàng lần êm tới sát sau lưng toan ghì lấy, chợt định thần nhìn kỹ lại, nhờ ánh điện vật vờ, mới rõ tên lính canh đã bị trói chặt cứng đứng im như pho tượng, mồm nhét đây giẻ. Ngạc nhiên, chàng đưa mắt về dãy nhà tạm giam và băng mình len lỏi tới. Tới phòng giam Voòng Lầu, chàng ngạc nhiên vì khoá đã mở, cánh cửa chỉ khép hờ.
Hé nhìn vào, thấy tối om, chợt từ trong, một tia đèn bấm lóc lên từ từ một vòng suốt căn xà lim trống rỗng, tiếp theo, có tiếng người lẩm bẩm một mình nghe thấy băn khoăn... bực bội:
- Quái lạ! Hắn đâu rồi? Chẳng lẽ...
Vừa nghe tiếng xong. Đại Sơn Vương đã nhận ngay ra, chàng liền lách vụt vào không chờ thêm một khắc. Thấy có kẻ lách vào theo gió lùa, bóng người đứng bên trong giật mình, vùng chiếu phắt đèn bấm vào, và lập tức khẽ bật lên:
- Kìa... Ông Hồng Lĩnh!
- Cô Phượng Kiều...
Đại Sơn Vương nhếch miệng cười, tiếp luôn:
- Cô cũng tới đây? Phải chăng...
viên tướng chợt ngừng lời chua chát, vì thiếu nữ run giọng:
- Ông...xin ông hiểu cho. Tôi đến đây định cứu Voòng Lầu...
Không ngờ...
Đại Sơn Vương đưa mắt nhìn quanh phòng giam, có dáng suy nghĩ, chợt hỏi Phượng Kiều:
- Cô đã trói tên lính canh bên ngoài?
Thiếu nữ lắc đầu đoạn tiếp luôn:
- Tôi mới được tin cách đây mấy tiếng không rõ ông đang ở đâu, nên tính vào cứu Voòng đã...
- Thế... Ông thân cô?
Thiếu nữ buồn rầu:
- Thầy tôi trên Cao Bằng. Tôi về đây có một mình cùng đứa ở gái...
Giọng cô gái đượm nhiều xót xa trách móc, khiến Hồng Lĩnh đứng im mấy khắc, rồi khẽ nói:
- Ta nên ra thôi! Đứng đây lâu bất lợi.
Không thấy Phượng Kiều đáp, chàng nhắc lại:
- Ta ra thôi! Cộ..
Thiếu nữ vẫn không nhúc nhích và tự nhiên chiếc đèn bấm trên tay nàng rơi phịch xuống sàn xi măng. Ngạc nhiên, Hồng Lĩnh vội cúi nhặt, trao lại nàng, chàng thấy thiếu nữ đang cúi đầu cắn chặt vành môi, ngực rung rung hình như thổn thức nghẹn ngào, cố nén. Chàng ngơ ngác mấy khắc, chẳng biết nói sao, lại nhắc:
- Đứng đây lâu bất lợi. Quân lính có thể...
Hình như cảm xúc chất chứa mãi, không nén được, thiếu nữ vùng bật lên, nghẹn ngào:
- Em không chịu được nữa, sống cũng bằng vô ích. Dây oan nghiệt mong chi cởi được...
Tự nhiên Hồng Lĩnh thấy lòng nao nao, nghe lời thổn thức của Phượng Kiều, chàng đành dìu thiếu nữ ra ngoài. Nhưng tới lúc ánh điện màu vàng hắt vào khuôn mặt não nùng tơi tả như đóa hoa phù dung trong mưa gió, chàng tướng trẻ Thập Vạn Đại Sơn mới hiểu rõ, trực giác vùng lóe lên một tia sáng thần kỳ như soi thấu tới chiều sâu bí mật của linh hồn. Chàng bất giác hoang mang lạ lùng, từ đáy lòng ngang dọc khô khan như vừa thoảng về một chứ gì điu hiu như hơi gió sông chiều...
Chính giữa giờ phút đó dĩ vãng chợt hiện về... hình ảnh một ngươi đàn ông, đầu tóc rũ rượi bị xích tay, lê chân xiềng lảo đảo giữa những hàng lưỡi lê trần, đi tới đoạn đầu đài, một buổi sớm còn đục ngầu bóng tối một người đàn bà ngất đi về bên kia thế giới, bên đứa con trai độc nhất sơ sinh... chỉ vì bị phản bội, hình ảnh gia đình chàng cách đây gần ba mươi năm... Cùng với hình ảnh Trần Tắc, những kẻ chủ mưu lừa thấy phản bạn... tất cả hình ảnh dĩ vãng nổi lên... chập chờn, rung rung, u uẩn, như những hình ảnh của oan khiên muôn đời...
- Anh ơi!..... Tiếng người con gái bật lên, rung rung, thiết tha đau xót, thoảng bên tai chàng tuổi trẻ.
- Em đã cố gắng. Nhưng không làm thế nào được nữa. Dẫu sao...
từ nay em sẽ chỉ còn biết giữ lấy hình ảnh anh và sống với hình ảnh... suốt đời...
Giọng nàng nói... mê man như trong ảo mộng, khiến chàng bất giác rùng mình, đưa mắt nhìn khuôn mặt hoa đầm đìa nước mắt, chàng cũng không sao nén nổi xúc động.
- Em ơi!
Phập. Vừa lúc viên tướng run giọng bật lời, thì một lưỡi dao đã từ bóng tối bay vút ngày trước mặt hai người, và cắm mạnh vào một thân cây bên cạnh. Đại Sơn Vương vội dìu Phượng Kiều vào chỗ khuất gần đấy và đảo mắ nhìn quanh. Bốn bề im lặng như thường, cành lá vẫn lay động rạt rào dưới ánh điện, vàng úa, đẫm mưa. Lưỡi dao còn rung, nhìn kỹ thấy có buộc kèm mảnh giấy. Đại Sơn Vương vừa định bước ra, thì Phụng Kiều đã ấn nhẹ chàng đứng nguyên chỗ, nói nhanh:
- Anh ra có thể làm mục tiêu cho chúng bắn! Để em.
Miệng nói dứt chân bước tới bên cây đứng ẩn phía sau, với tay về phía trước, rút lưỡi dao ra. Dao cắm rất sâu, tỏ ra kẻ phóng có sức mạnh lạ lùng. Phượng Kiều phải dùng hết sức lay hai, ba cái mới giật ra được. Nàng bước về chỗ cũ. Hồng Lĩnh gỡ mảnh giấy ra, liếc mắt xem qua, chợt cau mày “Hừ” một tiếng có vẻ giận dữ, ném mạnh lưỡi dao về phía trước miệng lẩm bẩm:
- Chọc giận đến thế là cùng!....
Thấy chàng bực tức khác thường, Phượng Kiều khẽ hỏi, giọng lo lắng:
- Có chi đấy... anh?
Hồng Lĩnh vẫn còn bực, lẳng lặng đưa mảnh giấy nhỏ cho Phượng Kiều. Trên giấy có nhưng hàng chữ viết nguệch ngoạc hằn bút chì:
“Đại Sơn Vương Thần Xạ. Voòng thủ túc đã được đưa lên miền núi. Nếu muốn giải cứu Voòng hãy vào chơi địa khu ta, giữa rừng Yên Báy, Tuyên Quang, động Cầu Mây vùng Thác Bà, Thác Ông. Sẽ có người tiếp đón.
Khách Giang Hồ” - Khách Giang Hồ!
- Khách Gang Hồ!
Viên tướng Thập Vạn Đại Sơn gằn giọng, quai hàm bạnh ra, cặp mắt quắc trừng nhìn vào đêm tối.
- Nó là ai, dám ngạo nghễ cả với ta? Hừ! Dám lén vào bắt cóc cánh tay mặt của ta đem đi! Rồi! Biết tay ta! Nhưng... nó là ai?
Thấy vẻ mặt Phượng Kiều đầy lo âu chàng chợt nhanh giọng:
- Kìa em! Làm sao thế?
Thiếu nữ ngả đầu vào ngực chàng tuổi trẻ như muốn ghì lấy một hình dáng muôn đời:
- Anh không... nên tới hang hùm! Khách Giang Hồ... Em có nghe tiếng từ hơn năm nay. Hắn là kẻ thần xuất quỷ nhập, nay đây mai đó, không ai biết rõ hành tung và thủ hạ dưới tay hình như rải rác khắp Trung Nam Bắc, chuyên mưu những chuyện vá trời. Nhà chức trách phải kinh tâm. Anh! Anh nên...
Thiếu nữ nói một hơi dài, chợt ngừng bặt vì cặp mắt Hồng Lĩnh vụt sáng hẳn lên.
- Thật thế ư? Có thật...
- Dạ! Hắn là con người vô cùng bí mật, không hiểu già hay trẻ xuất hiện dưới nhiều khuôn mặt, không ai rõ mặt bao giơ. Người ta đồn hắn là kẻ kỳ tài...
Đại Sơn Vương nghe tới đó, chợt đổi sắc mặt, miệng nhếch cười có dáng hài lòng:
- Nếu quả vậy, càng hay. Bấy lâu ta hằng ao ước một kẻ địch thủ kỳ phùng. Lần này...
Phượng Kiều biết ý chàng đã quyết độc thân tới hang hùm, nàng cả lo, khẽ nắm lấy tay chàng, giọng van lơn:
- Anh! Nếu có đi, cho em theo cùng... Em sẽ huy động thêm...
Nhưng Đại Sơn Vương đã lắc đầu:
- Không nên! Hắn đã ngạo mạn anh nhất định một mình vào tận sào huyệt xem hắn giở trò gì!....
- Anh... Nhưng...
- Em cứ yên lòng! Để anh đối phó, không khi nào để hắn chạm tới oai danh.
Vừa lúc đó, phía hậu sở, giọng cú rúc mơ hồ nổi lên. Đại Sơn Vương nhanh giọng:
- Thủ hạ báo có người tới. Ta ra thôi!
Hai người băng qua mấy dãy nhà, đu mình qua tường, ra hẳn ngoài phố.
- Ta chia tay chỗ này. Em về nghỉ... đường đời rồi còn có buổi gặp nhau...
- Thôi! Em về nghỉ...Và chớ theo ngầm lên đó!
Đoạn chàng buông Phượng Kiều ra.
- Anh...
Cô gái mấp máy môi, định nói thêm điều gì, nhưng chẳng hiểu sao nghẹn họng, chỉ đứng nhìn theo bóng thần Xạ Đại Sơn Vương cùng với đám thủ hạ khuất mau vào đêm mờ, về Hàng Trống.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top