thanhcung 13 trieu p 113-132

Hồi 113 Khi ông vua cần gái

Hàm Phong hoàng đế thấy đại sự đã hỏng, hằng ngày chỉ biết tìm vui trong cung cấm, bên cạnh gái đẹp và trước be rượu nồng. Nhưng lâu ngày rồi ngài cũng chán bởi quanh quẩn chi có mấy nàng phi.

Viên tổng quản thái giám hiến kế, bảo ngài nên chọn một gái đẹp trong đám quan lại Bát Kỳ (quan lại người Mãn Châu) mà lâm hạnh. Thế là một đạo ý chỉ hạ xuống. Bọn quan lại Bát Kỳ lo lắng, cuống quýt cả lên. Có kẻ điên nào muốn đưa con gái mình vào chỗ thâm cung chẳng bao giờ thấy mặt trời ấy? Cho nên nhiều gia đình thương con vội vàng đem con gái giấu biệt. Nhưng đối với bọn thái giám đông đảo kia thì nhà nào có con gái mà có thể qua mắt được chúng. Gia đình nào có mấy đứa con gái, đứa nào bao nhiêu tuổi, chúng đều dò la biết rõ hết và nhớ như in trong bụng. Cho nên khi trên vừa lệnh xuống hoàng đế kén chọn tú nữ thì nhà nào có con gái và ở đâu đều đã bị chúng kéo tới giữ chặt lấy cửa, có muốn trốn cũng khó lòng. Song cứ tiền là qua hết. Nhà nào có tiền biết điều đó, chạy ngầm biếu tên tổng quản thái giám vài trăm lạng bạc thì hắn để cho qua đi và mới được thoát nạn. Bằng không, thì gia đình không thoát khỏi cảnh sinh ly tử biệt, con gái ra đi mà không hẹn ngày về.

Hồi đó có một viên võ quan phiêu kỵ là Hỉ Tháp Lạp, tuổi đã già nhưng không có con trai chỉ có đứa con gái duy nhất tên gọi Ái Cô. Ái Cô thông minh lanh lợi từ thuở nhỏ, mặt mũi lại xinh đẹp hết sức. Cha mẹ coi nàng như một đứa con trai, nên cho đi học chữ. Ái Cô thông minh, thạo chữ nghĩa lại khéo tay chân, thêu thùa may vá rất giỏi. Nhà nghèo, nàng đem nghề mọn này ra giúp đỡ gia đình sinh sống. Nàng còn mở một ngôi trường dạy trẻ để kiếm thêm tiền, nuôi dưỡng cha mẹ già.

Năm đó, chọn tú nữ vào cung, Ái Cô cũng bị ghi danh trông sồ. Nàng biết điều đó, khóc đến chết đi sống lại. Nàng định đưa cha mẹ đi trốn nhưng lại bị bọn thái giám và quan lại canh chừng, không thể trốn được. Đến hôm lên đường, nàng đành phải từ biệt cha mẹ, theo tên thái giám vào cung, mang theo cả một nỗi buồn đau uất hận.

Bọn tú nữ đứng thành một dãy dài ngoài cửa cung Khôn Ninh, cô nào cô nấy sợ quá, mặt xanh như chàm đổ, nước mắt dàn dụa xuống đôi má. Người ta đếm xem thấy tròn một trăm cô cả thảy. Bọn thái giám sốt ruột, quát bảo câm khóc. Nếu có cô ương bướng không nghe, chúng cầm roi quất ngay vào lưng, vào những làn da non mịn màng. Ái Cô chính mắt thấy cảnh tàn nhẫn đó, trong lòng lấy làm tức giận. Ai ngờ cả bọn xếp hàng đứng suốt từ sáng sớm cho mãi đến lúc chiều tà mà chẳng thấy hoàng đế ra.

Lúc này trời đang đồ lạnh. Ngoài cửa cung lại là khu sân mênh mông, trống trải, gió biển thổi xuyên vào da thịt bọn tú nữ khiến cô nào cô nấy mặt mày xanh lét, da tím lại, răng đập vào nhau cầm cập, toàn thân run bần bật. Bụng các nàng lúc đó đói như cào, lại mót cả tiểu lẫn đại tiện nữa. Có vài ba cô chịu không nối, oà lên khóc nức nở. Tên thái giám cà giận, giơ ngược hẳn cái roi da lên trời lấy hết sức bình sinh quật xuống, mặt hầm hầm dư dằn như cọp. Ái Cô lúc này không thể nhịn hơn được, vội chạy ra nắm lấy cái roi của tên thái giám, dõng dạc nói:

- Bọn tôi lìa bỏ gia đình, từ biệt mẹ cha để tới nơi đây, nếu có được chọn thì suốt đời cũng phải giam cầm nơi thâm cung, không còn được thấy mặt trời nữa, thử hỏi ai mà chả khóc chứ?

Giữa lúc lộn xộn om xòm đó, bỗng nghe mấy tiếng đằng hắng:

- Hèm! Hèm!

Hàm Phong hoàng đế đã tới, cả bọn lập tức im phăng phắc, không nghe một tiếng động nào nữa. Hoàng đế lúc đó vẻ mặt có vẻ tức giận lắm. Cả bọn lại càng phải giữ gìn hơn, không dám động cựa, lộn xộn. Duy chỉ có Ái Cô vẫn nói năng mạnh mẽ. Tên thái giám thấy vậy, khẽ kéo tay áo nàng nhưng nàng vẫn mặc kệ lờ đi. Hoàng đế Hàm Phong thấy hay hay, bèn hỏi xem nàng nói những gì. Tên thái giám đẩy nàng lên trước.

Nàng quỳ xuống tâu:

- Hiện nay bọn giáo đồ Quảng Tây cướp được Nam Kinh, phân nửa giang sơn đã thuộc về tay chúng. Chẳng nghe hoàng thượng cầu tướng soái để bảo vệ cơ nghiệp tổ tiên, trái lại, chỉ tuyển chọn gái đẹp làm khổ dân lành. Rồi đây, Mãn Thanh thiên hạ này sẽ do một tay hoàng thượng dâng cho kẻ khác. Tiểu nữ đến chỗ này không coi sống chết ra gì nữa, dù có búa rìu sấm sét cũng chẳng sợ, chỉ vì tôn kính hoàng thượng mà nói đó thôi.

Hàm Phong hoàng đế đang hầm hầm giận dữ, bỗng nghe Ái Cô nói một thôi những lời lẽ quang minh chính đại, bất giác hết giận làm lành ngây người ra nhìn nàng rồi ngài chợt cười nhạt một tiếng, phất tay áo và bảo:

- Phải! Phải lắm! Cho chúng về hết đi. Ta cũng chẳng thiết nữa!

Viên tổng quản thái giám nghe vậy, chỉ còn việc đưa hết bọn tú nữ về quê. Từ đó, khắp kinh thành ai cũng đều khen Ái Cô là người con gái tài đức song toàn, nhiều kẻ muốn tới để cầu thân. Về sau Ái Cô được gả cho chàng công tử con của một vị thượng thư người Mãn, vợ chồng ăn ở với nhau rất hoà hợp duyên may.

Đúng vào hôm tuyển lựa tú nữ đó, hoàng đế đã cùng hoàng hậu cãi vã nhau kịch liệt. Hoàng hậu thì khuyên hoàng đế nên bỏ chuyện tuyển tú nữ, bà nói:

- Hiện nay miền nam đang loạn lớn. Hoàng thượng lo việc hằng ngày còn chưa xong, còn hơi đâu mà đi tuyển tú nữ nữa?

Câu nói đó khiến hoàng thượng cả giận, cho rằng bà ghen. Hoàng hậu vốn rất hiền đức, bình sinh rất sợ tiếng ghen tuông. Nay nghe hoàng thượng bảo vậy, bà thấy oan cho mình quá, oan mà không cãi nổi, nên bà đành phải tranh biện đôi lời.

Thế là hai ông bà cãi nhau, cãi từ sáng cho tới chiều. Bọn tú nữ đứng đợi ngoài cửa cung lâu đến một ngày là vì thế.

Hàm Phong hoàng đế ra khỏi cung, lại nghe thêm lời nói của Ái Cô, bèn không tuyển tú nữ nữa.

Hàm Phong hoàng đế vốn có tính hơi kỳ cục. Ngài ở trong cung chơi với bọn phi tần chán chê rồi bảo gái Mãn Châu, người thô, xuẩn và không thích nữa. Gái Hán đẹp hơn, chơi vui hơn.

Trong cung Thanh, tuy cũng có vài gái Hán nhưng tư sắc bình thường, hon nữa lại quê miền Trực Lệ, Sơn Đông nên người đã cao lại to, chân cũng lớn nữa. Hàm Phong hoàng đế lại thích gái nhỏ nhắn, và nhất là gái ở phương nam. Ngai thường khen con gái miền nam nhỏ nhắn xinh xinh càng làm cho ngài thêm mê. Chính vì ý nghĩ này, Hàm Phong hoàng đế nhân lúc vắng người thường hỏi dò bọn thái giám xem trong kinh thành có bọn gái điếm miền nam không. Trong số thái giám thân cận, có một tên gọi Thôi Tam, tính rất giảo hoạt. Hắn thấy hoàng đế có ý ra ngoài tìm hoa hỏi liễu, liền ra ngoài phố, lang thang khắp nơi, dò xét tình hình thật rõ ràng đầy đủ để đợi ngài hỏi tới.

Quả nhiên, Hàm Phong lại nghĩ tới bọn gái điếm miền nam. Ngài hỏi thì Thôi Tam hồi tấu:

- Hoàng thượng ngọc thể, thiết tưởng bọn yên hoa hạ tiện ấy làm sao mà bọn nô tài này dám để chúng hầu hạ hoàng thượng. Đừng nói ở kinh thành này, ngay cả ở Tô, Hàng, bọn gái lầu xanh miền nam cũng rất ít. Ví bằng có đi nữa thì những nơi tục tĩu dơ dáy ấy hoàng thượng làm sao mà tới được.

Hoàng đế nói:

- Trẫm mơ tưởng gái đẹp miền nam quá cỡ rồi. Ngươi có cách gì đưa trẫm đi chơi được không? Ngươi chọn những nơi con nhà tử tế để trẫm tới nói chuyện dăm ba câu là đủ thích rồi.

Thôi Tam thấy hoàng đế có vẻ nóng ruột, bèn nói:

- Phía ngoài cửa Tuyên Võ môn, có nhiều quan lại người miền nam. Nô tài một lần đi qua thấy đứng trước cửa, tựa bên tường rất nhiều những cô gái chân nhỏ, cô nào cô nấy tô son điểm phấn chẳng khác gì ngọc chuốt hoa cười, tiếng nói miền Tô, Hằng thỏ thẻ như chim oanh hót buổi ban mai. Đàn bà con gái Tô, Hàng đều có cái thói quen tựa cửa đứng chơi. Bọn thanh niên cũng đúng vào lúc ấy ăn mặc bảnh bao, đạp gót qua chốn này, tha hồ ngắm đến no mắt mới thôi.

Hàm Phong hoàng đế nghe Thôi Tam nói vậy, trong lòng cảm thấy ngứa ngáy khó chịu, chỉ mong sao tới ngay được cổng Tuyên Võ để dạo chơi một phen. Ngài bèn bảo Tam dẫn mình đi.

Hai người một vua một tôi, cải trang vi hành len khói cung, cưỡi trên lưng hai con bạch mã, chạy thẳng ra cửa Tuyên Võ Khi tới giữa phố, hoàng đế mua một ít giấy và bút mực rồi tự xưng mình là Trần Công Sinh đất Tứ Xuyên. Ngài vào quán ăn điểm tâm rồi chờ cho đến tối mới ra đi. Hai người lên ngựa cho đi thong thả tới đầu phố, quả nhiên thấy hai bên bờ tường có rất nhiều đàn bà con gái, xấu có, đẹp có, già có, trẻ có, người nào cũng trang điểm lộng lẫy như hoa như ngọc, chỉ thò ra ngoài tường nửa mặt như e như ấp, thẹn thùng.

Có cô cậy mình nhỏ chân, kéo quần cao lên một chút để lộ đôi hài mũi, nhọn như cánh hồng lăng. Có cô làm bộ trốn tránh sau lưng người khác, chỉ để một chút má phấn trắng mịn, cặp mắt ngấp nghé nhìn trộm các chàng trai đang lang thang thả bộ trên đường. Rồi khi thấy có người tới, các cô lại rút mình vào phía trong, lấy cánh cửa che mặt, nhưng đợi khi người trai đó đi qua các cô lại thò đầu ra, nhìn theo bóng dáng sau lưng họ, khẽ bình phẩm vài câu.

Hàm Phong hoàng đế từ nhỏ được nuôi dưỡng tại thâm cung, chưa được dịp ra chơi bao giờ. Cho nên lần đầu được thấy phố xá vui vẻ, nhộn nhịp lại có rất nhiều các bà, các cô xinh đẹp, mắt ngài hoa lên. Ngài ngồi trên lưng ngựa thích chí cười vang như nắc nẻ, tưởng chừng cặp môi không thể nào còn ngậm lại được.

Hồi 114 Vua giải trí

Một hôm, Hàm Phong hoàng đế cưỡi ngựa chạy qua trước cửa một ngôi nhà, thấy có nhiều chàng trai trẻ đi đi lại lại trước căn nhà đó, miệng ca những bản tình ca của đôi trai gai yêu nhau: Ngài nhìn kỹ lại, thì ra ở đầu tường có bốn cô nàng, cô nào cô nấy xinh đẹp như đoá phù dung đượm giọt sương mai, thân hình lả lướt, óng chuốt như cành tơ liễu rũ bên hồ. Trong số bốn cô có một cô nhỏ nhất, tuổi chừng mười lăm mười sáu, sắc nước hương trời, xinh hơn mấy cô kia gấp bội.

Nàng liếc cặp mắt thu ba hết bên này qua bên kia, y như những cái câu móc hồn người. Đôi chân của nàng thật tuyệt! Chúng nhỏ nhắn xinh xinh, vừa nhọn, vừa thon, lại đi một đôi hài bằng vải đoạn hồng có thêu hoa, đặt trên mặt đất chỉ dài có hai tấc. Hàm Phong hoàng đế ngắm nghía một lúc, bật ra tiếng khen:

- Trời! Đẹp thật!

Trước mắt bốn cô gái xinh đẹp nọ, còn có một bà sồn sồn, vừa mắng tụi thanh niên nọ vừa đuổi chúng đi song đồng thời lại làm điệu hết sức tình tứ với bọn chúng: điệu đến nỗi hoàng đế cũng phải ngây người ra nhìn. Hàm Phong cưỡi ngựa chạy đi chạy lại qua cửa nhà này đến ba lần. Bọn gia đình nọ năm người biết ý mắc cỡ đóng cửa đánh ầm một tiếng bỏ vào trong hết.

Hàm Phong hôm đó vào cung mơ tưởng tới người đẹp suốt đêm không ngủ được. Tuy cưỡi ngựa qua lại đến mấy lần nhưng ngài chẳng dám tới gặp mấy cô gái để trò chuyện. Ngài dặn Thôi tổng quản đi dò la xem sao. Thôi tổng quản đi luôn một hơi ba ngày liền mới quay về cung, trông mặt tươi tỉnh lắm.

Gặp hoàng đế, Thôi liền tâu:

- Bệ hạ có biết ngoài cửa Tuyên Võ có một mỹ nhân tên gọi cô Lan Nhi chân nhỏ đó không?

Hàm Phong hoàng đế nói:

- Trẫm làm sao biết được! Cô Lan Nhi chân nhỏ là ai vậy? Lan Nhi chân nhỏ là thế nào?

Thôi tổng quản lại tâu:

- Bốn cô gái đẹp mà hôm nọ bệ hạ đã gặp, có còn nhớ không? Nô tài đã đi dò la rồi. Bọn gái đó đều là con gái nhà họ Trương, người Tô Châu, cha tên gọi Trương Vân Đài đã từng làm quan đến chức thị lang bộ Hình. Ông Đài ở quê đã có vợ con đầy đàn: nhưng khi tới kinh ông lấy một cô gái lầu xanh về làm vợ bé, sinh được bốn cô gái, rồi bỗng nhuốm bệnh mất. Mụ vợ bé họ Trúc goá chồng giữa lúc mới có bốn chục, cảnh gia đình đã đến lúc cùng quẫn quá rồi. Nhưng nhờ được bốn cô con gái đều đã lớn mà lại đẹp, mụ liền dùng làm chiêu bài để câu bọn ong bay bướm lượn, gái trai cờ bạc, chứa thổ, đổ hồ, kiếm tiền độ nhật. Bọn khách này cũng khoái cái lẳng lơ chơi bời của mụ ta và đều có vẻ quý mến mụ. Bởi thế trong thành Bắc Kinh bọn ăn chơi thảy đều kéo tới đây du hí. Bọn này rất thích bốn cô con gái, nhưng mụ Trúc giữ chặt, không một ai dính được cô nào của mụ cả. Bọn công tử nhà giàu càng thấy khó, càng tung tiền ra như nước. Nhưng mụ Trúc càng thấy chúng chịu xài tiền thì lại càng dấp dính, nhử mồi, nay hứa, mai hẹn mà chẳng tên nào gần được con gái mụ nữa chứ đừng nói đụng tới người. Mụ theo chiến thuật đó, chẳng bao lâu đã có gia tài bạc triệu. Lúc này, khách làng chơi, nếu chẳng phải vương công đại thần, mụ đâu có thèm tiếp Bốn cô con gái, cô lớn tên gọi là Hà Nhi, cô nhì gọi Quế Nhi, cô ba gọi Dung Nhi, cô tư gọi Lan Nhi vừa nhỏ nhắn xinh xinh, vừa duyên dáng tình tứ, lại thêm có đôi chân chỉ dài độ hai tấc nên người thành Bắc Kinh đều gọi nàng là cô Lan Nhi chân nhỏ…

Hàm Phong hoàng đế nghe tên thái giám Thôi Tam kể lể nguồn gốc tới dây, bèn cất tiếng hỏi:

- Có phải cô nàng đứng dằng sau mấy cô chị, má thoa phấn môi tô son, cặp mắt thi liếc bên này bên kia như làn thu ba lóng lánh, mà trẫm thấy hôm nọ đó không?

Thôi tổng quản liền đáp:

- Dạ! Chính phải đó.

Hàm Phong hoàng đế vỗ tay xuống đùi đánh đét một cái nói:

- Tuyệt thật! Một mỹ nhân, tiếng đôn quả chẳng ngoa chút nào. Làm cách nào cho trẫm đến chơi với cô ta một tối đi?

Thôi tổng quản tâu:

- Bệ hạ đừng nóng lòng. Nô tài được biết lão gia Hổ làm thủ quỹ cho tiệm vàng Phúc Ký ở phố lớn vốn bồ bịch với mụ Trúc từ xưa. Nô tài sẽ nhờ lão ta nói giùm.

Hàm Phong hoàng đế nghe tới đây vội hỏi:

- Ngươi dám nói trẫm tới nhà mụ ta chơi gái ư?

Thôi tống quản xua tay bảo:

- Không! Không! Nô tài sẽ nói một vị mộc khách, thương gia tỷ phú tỉnh Giang Tây, lên kinh, nghe Trương gia có bốn cô con gái nên muốn tìm tới chơi và nhờ ông ta giới thiệu giùm.

Hàm Phong hoàng đế gật gù, miệng tươi như hoa, khen lấy khen để. Thói tổng quản thấy hoàng đế khen bèn hứng chí ra đi. Lão thủ quĩ tiệm vàng Phúc Ký được Thôi tổng quản uỷ thác liền tới nhà mụ Trúc thương lượng, qua ngày hôm sau, lão trở về báo Thôi tổng quản y theo lời của mụ Trúc.

- Nếu ông khách nào, đó có lòng thương con gái mụ ta, thì cứ xin mỗi một cô muốn gặp mặt phải bỏ ra năm vạn lạng tiền. Đặc biệt với Lan Nhi phải thêm mười vạn lạng tiền "gia tư (tiền cho để cho khỏi mắc cỡ). Riêng mụ ta phải cho thêm năm vạn lạng nữa. Tổng cộng tất cả là ba mươi lăm vạn lạng bạc, thiếu một cũng không được.

Lão thu quĩ nói tới đây hạ thấp giọng, miệng tủm tỉm cười, ghé sát vào tai Thôi tổng quản nói:

- Còn tớ nữa, cúng xin năm vạn lạng đấy nhé.

Thôi tổng quản vội trở về hồi tấu, Hàm Phong hoàng đế vừa nghe tới con số cộng: bốn mươi vạn lạng bạc một đêm chơi, bất giác lè lưỡi dài như lưỡi rắn ráo, mặt bần thần như chuột rút. Nhưng chỉ trong giây lát ngài đã tươi tỉnh lại ngay, bởi vì ngài nhớ tới bốn cái mặt đẹp như hoa, đôi chân của Lan Nhi chân nhỏ. Thế là lập tức ngài bảo Thôi tổng quản vào kho lấy ngay bạc đưa tới tiệm vàng Phúc Ký. Chẳng mấy chốc Thôi tổng quản đã đem đủ bốn mươi vạn lạng mang đi, trích năm vạn lạng cho lão Hổ thủ quỹ tiệm vàng, còn ba mươi lăm vạn lạng chuyển giao cho mụ Trúc, mẹ bốn cô gái nọ.

Khi không vớ được ba mươi lăm vạn lạng, mụ mừng quýnh, đến phát điên lên. Quả thật, từ lúc cha sinh mẹ đẻ đến nay mụ chưa bao giờ một cú vớ được nhiều tiền như vậy. Mụ Trúc cười, cười hoài, có lúc cười lên khăng khắc, bởi vì mụ như muốn điên rồi. Thế là mụ ta một mặt giục con mụ tô son điểm phấn, một mặt bảo sửa soạn đón tiếp khách quý.

Đến ngày thứ ba, Thôi tổng quản lẻn đi mướn một cỗ xe, đưa hoàng đế vào ngồi trong, phía ngoài lấy cái vải bố che kín còn mình thì ngồi trên càng xe, lẻn ra ngoài cửa Tuyên Võ, thẳng tới nhà họ Trương.

Tới nơi, Thôi tổng quản đỡ hoàng đế xuống xe, mụ Trúc đón rước vào nhà. Hoàng đế nhìn kỹ mụ Trúc thấy mặt mụ trát đầy son phấn, cặp chân, mày cong vút, bèn cười nói:

- Nương phong vận đỏm dáng thật đáng yêu?

Mụ Trúc nghe nói, nguýt một cái dài đến mấy trượng, giơ cánh tay thon thon trắng trắng vỗ đảnh đét một cái vào vai hoàng đế, một tay che miệng tủm tỉm cười nói:

- Khéo cái miệng trơn cứ như mỡ heo ấy!

Hàm Phong hoàng đế khoái chí, cười phá lên, có lúc nghe lạc đi thành hô hố, ý như tiếng còi lệnh, chân thoăn thoắt bước vào giữa phòng khách, nơi đây trang trí rất lịch sự: sàn lót thảm hoa, trên tường treo đèn lồng đỏ hắt ánh sáng lung linh mờ ảo ra khắp phòng.

Thế rồi, bỗng các đại thần cũng biết chuyện, cả bọn vội vã kéo tới phía ngoài cửa Tuyên Võ để đón giá. Trong chốc lát, mấy căn nhà họ Trương đầy nghẹt cả vương công đại thần.

Trong số có một vị đại học sĩ tên gọi Đỗ Thụ Điền xông thẳng vào nhà sau tha thiết khuyên can hoàng đế. Còn một vị nữa, ngự sử Thẩm Bào Trinh, dâng luôn một tờ sớ đàn hặc Thôi tổng quản, nói họ Thôi dám đưa hoàng đế đi chơi bời bậy bạ, xin hoàng đế giao nội vụ phủ dùng gậy đánh chết.

Nào ngờ vị phong lưu thiên tử ấy mê say năm mẹ con nhà mụ Trúc đến cái độ bất chấp cả triều đình can gián, chẳng chịu về cung. Thôi tổng quản hoảng quá, vội chạy vào nói nhỏ với ngài:

- Xin thành thượng hồi cung cho. Thánh thượng cứ giao phó bốn cô này cho nô tài. Trong ba ngày nô tài thế nào cũng thu xếp đưa cả vào vườn Viên Minh. Lúc đó thánh thượng tha hồ muốn vui chơi lúc nào lại chả được, còn ai dám tới quấy rầy thánh thượng nữa.

Hàm Phong hoàng đế nghe xong, xua tay báo:

- Chớ! Chớ có đưa về vườn Viên Minh. Ở đấy đầy những "hũ dấm" (ám chi các bà hay ghen). Chớ có đưa về đó mà khổ cả.

Thôi tổng quản suy nghĩ một lát, rồi dập đầu tâu:

- Nô tài biết một chỗ rất u tĩnh, cách vườn Viên Minh không xa. Xin thánh thượng cho bốn chị em họ Trương ở đó là tất nhất. Trong ba ngày, thế nào nô tài, cũng xin xếp đặt nơi ấy ổn thoả, lại sẽ đưa thánh thượng tới đoàn tụ. Việc trước tiên lúc này là mời thánh thượng hồi cung đã. Nếu không thì cái đầu lâu của nô tài không còn có cách chi bảo đảm được.

Hàm Phong hoàng đế thấy Thôi tổng quản cầu khấn quá đỗi bèn hứa hồi cung.

Bên ngoài đã bày đặt lọng giá sẵn sàng. Lúc lâm biệt ngài còn bịn rịn chẳng muốn rời tay. Nhưng cuối cùng cũng đành dứt áo ra đi. Phía ngoài văn võ triều đình đón rước, đỡ hoàng đế lên xe loan. Bỗng ngài sực nhớ ra một điều gì đó, bèn vội gọi Thôi tổng quản đến trước xe loan dặn nhỏ một câu:

- Ngươi thu xếp cho bốn chị em họ Trương, chớ có quên mụ Trúc đấy nhé. Mụ ta hay tuyệt, hiếm có đó!

Nói xong, ngài cười sằng sặc, vang cả khu phố. Ba mươi hai tên phu kiệu ghé vai vào, chạy một mạch ngài về cung.

Hàm Phong hoàng đế trở về, Hiếu Trinh hoàng hậu chẳng dám khuyên can lấy một lời chỉ vì bà sợ mang tiếng là người ghen tuông nhỏ nhen. Nhưng đám phi tần khi thấy ngài lại đem lòng oán hận. Biết vậy, ngài cũng mặc kệ, chẳng thèm để ý đến.

Ba hôm sau, Hàm Phong hoàng đế lại võng lọng tới vườn Viên Minh. Trong vườn, tất nhiên đã có một bọn phi tần đứng đón.

Giữa lúc ngài đang trỏ chuyện với bọn phi tần, thì bỗng Thôi tổng quản bước tới, khẽ kéo ống tay áo làm hiệu. Tức thì ngài theo viên thái giám bước ra khỏi cửa Tảo Viên môn, đi thẳng về phía tây, quanh qua một góc đường, đến một khu rừng thông cao rậm âm u. Thôi tổng quản đi trước, quanh qua phật điện, bước sang cái cửa ngạch phía tây, tới một rừng trúc. Hai người đi qua khu rừng trúc thì thấy một dãy tường sơn trắng lộ ra một cái cửa tò vò. Bước qua cái cửa đó, hai người lại thấy một dãy bức màn tượng che khuất sau gian tịnh xá, phía ngoài rèm treo mấy cái lồng chim yểng. Khi có người tới chúng hót vang lên: "Có khách! Có khách!". Người nhà phía trong nghe tiếng chim hót, vén rèm bước ra.

Hàm Phong hoàng đế chú ý nhìn thì ra là mụ Trúc. Ngài nhảy chồm lên trước, nắm lấy tay mụ, bá vai mụ bước vào nhà. Từ phía trong, bốn chị em Hà, Quế, Dung, Lan cũng bước ra đón ngài, vây chung quanh thăm hỏi rối rít như đàn chim.

Hoàng đế hai tay kéo bốn cô kéo xuống giường, quay đầu lại hỏi Thôi tổng quản chỗ này là nơi nào. Họ Thôi hồi tấu:

- Đây chính là Thiên Phật tự, xưa vốn là một vương phủ. Về sau vương gia này không con nối dõi, nên đem sửa làm chùa. Hiện nô tài đã cho đuổi hết bọn sư Lạt Ma đi chỗ khác, và đưa hai mươi tên thái giám từ vườn Viên Minh lại để chầu chực hầu hạ. Xong đâu đấy, nô tài mới ra ngoài đưa bốn vị cao nương tới đây để hoàng thượng sớm tối lâm hạnh, như thế có phải tiện lợi không.

Hàm Phong hoàng đế gật đầu nói:

- Người thực vất vả quá vì ta. Ta thưởng cho người một vạn lạng bạc nhé!

Thôi tổng quản lĩnh thưởng xong lui ra, chạy tới kho nhận bạc. Còn hoàng đế tử đó nằm chơi liên miên với bốn chị em nhà mụ Trúc, chẳng thèm để ý tới việc về vườn Viên Minh nữa.

Hồi 115 Tìm gái gây chuyện

Hồi này, thế lực của quân tóc dài ở miền nam càng ngày càng mạnh. Hồng Thiên hoàng sau khi cướp được Nam Kinh rồi liền phát một đạo binh đánh Trấn Giang. Bọn quân lính Mãn Châu ở Trấn Giang, chẳng bắn lấy một mũi tên, bỏ thành trì chạy sạch.

Đoàn quân tóc dài lại cướp thêm Dương Châu. Viên tướng thống soái quân tóc dài lúc đó là Lâm Phương Tường.

Tường xung trận rất oai hùng, cướp được một hơi, nào phượng Dương của tỉnh An Huy, nào Quy Đức của tỉnh Hà Nam, lại vượt sông Hoàng Hà chiếm Hoài Nghĩa. Nhưng đến đây, Tường bỗng chuyển hướng, đánh thốc lên tỉnh Sơn Tây, đánh Trúc Lệ, cướp Bình Giá. Tường chiếm Cao Thành, sau đó đánh phá Thâm Châu, rồi dọc sông Vận Hà, đánh lấy cả một dải miền Tĩnh Hải…

Ngoài đạo quân trên, Hồng Thiên hoàng còn sai một đạo quân khác đánh cướp hết các vùng Niêm Tổ, Liêm Trấn, Phụ Thành… Thế là quân tóc dài càng ngày càng xích lại gần kinh đô, quan quân toàn thành cũng như văn võ đại thần được tin tức này ai nấy đều hoảng hốt sợ hãi.

Tiếp sau đó sớ tâu bầy thành trì miền nam thất hãm liên tiếp bay về kinh như bướm. Nơi quân cơ tiếp được công văn, vội đưa vào cung bất kể ngày đêm.

Nhưng lúc đó hoàng đế đang mải mê trong đám váy yếm, chẳng thèm để ý tới triều đình thì biết làm thế nào? Bọn đại thần hoảng hốt lo sợ chẳng biết xoay sở ra sao, chỉ còn cách ngày ngày ngồi đợi ngoài cửa ngọ môn. Họ ngồi đã mỏi đít mòn trôn mà vẫn chẳng thấy thánh chỉ hạ xuống.

Đệ nhất quân Bắc phạt của Hồng Thiên hoàng thắng lợi. Tiếp đó Hồng sai hai chiến tướng Cát Vân Nguyên và Lý Khai Phương điều động lộ quân thứ nhì cũng hướng bắc chinh phạt.

Đệ nhị quân này đánh thẳng một mạch suốt An Khánh, Đông Thành, Thư Thành, những châu quận phồn hoa náo nhiệt nhất, sau đó lại đánh luôn cả Lư Châu. Tuần phủ An Huy là Giang Trung Nguyên chết trận tại Lư Châu. Thanh thế của đệ nhị quân cũng vang dậy trong ngoài. Tiếp theo họ đánh chiếm Lục Hợp, Lâm Thanh, Châu Đường, Cao Châu.

Hiếu Trinh hoàng hậu một mặt cấm chỉ mọi người không được huyên náo, một mặt cho gọi Thôi tổng quản tới. Bà dám chắc chỉ có hắn là biết hoàng thượng nơi đâu. Bà quát bảo trói gô Thôi lại giao cho nội vụ phủ khảo vấn:

- Trước đây, hoàng thượng xuất cung đi chơi, là do chính mi dụ dỗ đưa ngài đi. Ngày nay cũng lại là mi chứ chẳng phải ai khác.

Thôi tổng quản chịu không nổi cực hình, đành phải cung khai ra hoàng thượng đang ở Thiên Phật tự. Nội vụ phủ liền sai áp Thôi tổng quản tới chùa Thiên Phật, quả nhiên tìm thấy hoàng thượng. Hàm Phong hoàng đế hỏi lý do tại sao thì Thôi tổng quản kể chuyện hoàng hậu nổi giận bắt trói hắn đưa tời cho Nội vụ khảo vấn tra tấn. Hoàng đế nghe nói vậy, biết không còn thể giữ bốn chị em nhà mụ Trúc được nữa, bèn ra mặt hồi cung. Đồng thời truyền thả Thôi tổng quản rồi rỉ tai bảo hắn đưa bốn chị em nhà kia ra mé sông ngoài Cấm thành ở tạm.

Hiếu Trinh hoàng hậu thấy hoàng đế về cung bèn quỳ xuống khuyên can. Bà nói:

- Hiện nay, quân vụ biến loạn, hoàng thượng có lo ngày đêm, còn lo chưa xuể. Thế mà tại sao còn tự ý đi tìm vui một mình, gác hết mọi việc triều chính như vậy?

Hoàng đế nghe xong cười khì khì đáp:

- Trẫm nhân việc nước lo phiền, ở trong cung buồn quá, nên xuất kinh vài hôm đi săn đó thôi, nàng hoảng hốt nóng nảy làm gì?

Nói đoạn, ngài bước ra khỏi cung Khôn Minh về ngự thư phòng. Ngài thấy sớ tấu chất trên án thư cao như núi. Cầm lên xem thì toàn những bản tấu cấp báo các nơi thất thủ gọi về. Ngài giật mình vội triệu tập toàn thể vương công đại thần mở Ngự tiền hội nghị bàn tính đến mấy canh giờ liền mới quyết định được một số việc phải làm. Ngài lập tức truyền chỉ phái Binh bộ thượng thư Bảo Thắng đích thân chỉ huy đại quân tới Bình Giã chống một lộ của quân tóc dài lại sai Thân vương Khoa Nhĩ Bí Mông Cổ tên là Tăng Cách Lâm Bị thống lĩnh kỵ binh địch lại một lộ khác ở Liêu Trấn.

Cả hai người đều là chiến tướng, vâng lệnh hoàng đế, hăng hái xuất quân. Chẳng bao lâu, Bảo Thắng quả nhiên đánh bại quân tóc dài, lấy lại một dãy Cao Thành, Tăng vương cũng thu phục được một dãy Phụ Thành. Tăng vương còn dùng kế sách của đạo viên Trương Tấn Tường, phá vỡ đê sông Vận Hà để rót nước vào doanh trại quân tóc dài do Phùng Quang Đồn chỉ huy cho chết chìm hết. Tướng Lý Khai Phương của đoàn quân tóc dài tới đại doanh của Tăng vương đầu hàng.

Tăng vương dùng tù xa nhốt Phương đưa về kinh. Hàm Phong hoàng đế truyền dụ đưa Phương ra trướng bên mé tây thành chặt đầu. Từ đó, quân tóc dài lộ thứ nhất cũng như lộ nhì đều phải trốn về Nam Kinh.

Thấy đất nước có vẻ thái bình rồi, Hàm Phong hoàng đế lại nhớ đến những giây phút mê ly bên người đẹp. Ngài lại ngầm gọi Thôi tổng quản tới hỏi xem bốn chị em nhà mụ Trúc có còn đó không. Thôi tổng quản lắc đầu nói:

- Sau khi hoàng thượng bảo nô tài đưa họ ra ở mé ngoài cấm thành thì ít lâu sau họ đều lấy chồng quan lớn làm phu nhân cả mất rồi.

Hàm Phong hoàng đế nghe nói đành nuốt nước miếng, than tiếc, chứ còn biết làm cách gì hơn. Thôi tổng quản biết hoàng đế trong lòng chẳng thể nào vui được.

Cách mấy hôm, bỗng Thôi tổng quản hí hửng chạy tới trước mặt hoàng đế, khẽ bảo ngài:

- Gần đây nô tài nghe tin ở mé nam thành có một mỹ nhân tên gọi Băng Hoa, lại còn gọi là Cái Nam thành.

Hoàng đế nghe nói, tỏ vẻ ngạc nhiên, liền hỏi:

- Tại sao lại gọi là Băng Hoa?

Thôi tổng quản đáp:

- Chỉ vì nàng ta sắc đẹp như hoa mà tính lại lạnh như băng khiến chẳng ai dám đùa cợt gì. Ví thử có mấy tiên du côn lãng tới trêu ghẹo thì thế nào cũng bị nàng mắng nhiếc đến phải bỏ đi. Do đó, mọi người mới dành cho nàng cái tước hiệu Băng Hoa.

Hoàng đế nghe xong gật đầu, lại hỏi:

- Tại sao lại gọi Cái Nam thành?

Thôi tổng quản tâu tiếp:

- Đó là vì nàng đẹp quá, đẹp có thể trùm lên trên trên hết bọn chị em suốt một dãy cửa Nam thành.

Hoàng đế nghe giải thích xong nhảy bỗng lên, tỏ vẻ khoái chí nói:

- Đã có thứ người đẹp đến thế thì trẫm phải đi thăm một phen mới được.

Thôi tổng quản vội ngăn lại nói:

- Hoàng thượng nên cẩn thận! Nàng là người đàn bà có chồng. Nhà nàng lại mở một tiệm bán hài đinh ở một đường phố hết sức náo nhiệt, e khó có thể lọt vào tay được.

Hoàng đế nói:

- Trâm không tin, để trẫm đi xem cái đã. Trẫm quyết làm cho Băng Hoa hoá thành Đào Hoa, khiến nàng phải vào cung bầu bạn với trẫm vui ngày đêm mà gây khoái lạc.

Nói đoạn ngài giục Thôi tổng quản thắng ngựa. Ngài cải trang thành một chàng công tử con nhà giàu, lẻn khỏi cung, nhảy lên ngựa. Cùng với Thôi tổng quản, hai người một trước một sau, chạy ra ngoài cửa Nam thành.

Ngài thấy một căn nhà nhỏ mở tiệm bán giày đinh, trong có một gã đàn ông hói đầu, râu quai nón mọc tua tủa, nằm bò trên mặt ghế khâu giày, mà không thấy người con gái nào cả. Hai người đi qua đi lại trước nhà đến mấy lần, cố ý nhìn xem người đẹp đâu, nhưng tuyệt nhiên không thấy nàng ta bước ra, Hàm Phong cụt hứng, chẳng biết làm cách nào, đành tiu nghỉu trở về.

Qua ngày thứ hai, hai thầy trò lại ra đi, cũng không thấy như lần trước. Nhưng lại dò la biết được gã đàn ông hói đầu nọ chính là chồng của nàng ta.

Hoàng đế thở than thành tiếng:

- Một cành hoa đẹp như thế kia mà đem cắm vào bãi cứt trâu!

Qua ngày thứ ba hoàng đế lại đi lần nữa. May thay lần này ngài đã thấy được nàng, may hơn nữa là lần này không thấy tên đàn ông nọ trong tiệm mà chỉ có một đứa gái nhỏ đầu bù tóc rối đang ngồi bên cạnh quay hàng giặt áo mà thôi.

Hoàng đế và Thôi tổng quản nhảy xuống ngựa, nhanh chân bước vào tiệm. Chỉ thấy bùn lầy khắp mặt đất, mùi hôi thối xông lên mùi nồng nặc. Hoàng đế chưa bao giờ tới một nơi ô uế dơ dáy như vậy nhưng chỉ vì gái mà đành phải bước liều vào trong.

Người con gái thấy khách hàng vào vội bỏ cái áo đang giặt xuống, giơ hai tay nước còn nhỏ ròng ròng; một mặt xốc cái cheo áo cao lên, một mặt bước lên nhà trên gọi người bán hàng.

Hoàng đế nhìn mặt nàng, quả nhiên thấy da trắng như tuyết, đôi mày dài cong vút, thật chẳng khác gì một pho tượng Phật Quan Âm. Ngắm đến tay nàng, ngài thấy nó trắng nõn lại mũm mĩm xinh xẻo lạ thường, tuy làm lụng suốt ngày nhưng tuyệt nhiên không có một nếp nhăn hoặc một vết sẹo nào.

Ngài lại nhìn tới thân hình nàng. Thật là một tấm thân vừa phải, không có chỗ chê! Đứng trước pho tượng thiên nhiên đó, vị hoàng đế phong lưu tài hoa nọ mặt thộn ra, mắt gần như không chớp nổi.

Thôi tổng quản giả trang làm một kẻ mua giày bước tới trả giá với nàng. Hoàng đế đứng bên cạnh tha hồ nhìn. Ngài không cầm nổi lòng nữa, bèn lên tiếng nói nhỏ với nàng.

- Ngày hôm trước, tôi có lại đây thăm nàng mà không gặp, vậy nàng đi đâu thế?

Người con gái hình như không nghe thấy, cứ lẳng lãng cúi đầu lựa giày chọn dép cho Thôi tổng quản.

Hoàng đế lại hỏi tiếp:

- Người chồng đầu hói của nàng hôm nay đi đâu?

Đến lần này thì nàng ta đã tỏ ý giận, quay mặt đi chỗ khác, chẳng thèm để ý tới hoàng đế. Ngài đến phút này mật xem ra đã lớn, liền thò tay qua quầy hàng nắm lấy tay nàng.

Nàng bỗng nổi giận như điên, cầm ngay chiếc hài đinh trong tay, thẳng cánh giáng một cái vào mặt hoàng đế. May Thôi tổng quản lẹ tay ngăn được.

Nàng ta giận càng sôi lên, cặp chân mày dựng ngược, kêu ầm lên, cả phố nghe thấy. Dân chúng đổ xô ra đông nghẹt, ai cũng đều mắng chửi:

- Giữa thanh thiên bạch nhật mà dám chọc gái, thật là khốn kiếp! Bọn mình đập bỏ mẹ nó đi!

Thế rồi một kẻ nói đánh hai kẻ nói đánh, cuối cùng cả đám đông quát rầm lên đòi đánh. Thôi tổng quản thấy câu chuyện đâm ra gây cấn, vội tuốt kiếm trong mình ra, đứng chặn ngay trước cửa không cho kẻ nào vào. Đám đông thấy Thôi tổng quản tuốt kiếm lại càng tức, nhất tề quát lớn:

- Thằng khốn kiếp! Cầm đao với tuốt kiếm, mi không còn coi phép nước luật vua ra gì nữa hả? Đánh bỏ mẹ nó đi!

- Đánh! Đánh! Anh em!

Cả một đám đông gậy gộc giơ lên tua tủa xông tới cửa tiệm. Hoàng đế thấy nguy quá rồi, vội nhảy lên mặt quầy hàng, vung đôi tay giật lấy giày đinh, hài đinh treo trên kệ liệng ra ngoài. Một số bị ngài ném trúng lỗ đầu sứt tai, máu chảy lênh láng. Đám đông bên ngoài lại càng tức. Họ lượm những chiếc hài, chiếc giày ngổn ngang dưới đất ném lại.

Hàm Phong hoàng đế hồi thiếu thời đã có luyện qua nghề võ, biết cách tránh né nên đều thoát cả. Trong nháy mắt căn tiệm thì thấy giày hài bay qua bay lại như bươm bướm. Thôi tổng quản đứng chặn cửa nẫy giờ bị ném vỡ đầu, máu cũng chảy xuống xối xả. Thế này mà y vẫn cầm kiếm đâm lia lịa.

Đám đông bên ngoài thấy lưỡi kiếm của Thôi tổng quản quá lợi hại, người nào cũng sợ chết, không dám nhảy vào nữa.

Giữa lúc nguy cấp quá đỗi bỗng nghe tiếng thanh la khua vang, cả bọn la lên:

- May quá! Quan tuần hành ngự sử đã tới!

Tiếng ồn ào bỗng im bặt. Quan ngự sử thấy đám đông đánh nhau vỡ đầu sứt tai, máu chảy lênh láng, nào gậy nào gộc nào dây nào nhợ vứt ngổn ngang, bèn cả giận quát lớn:

- Bắt lấy nó!

Bọn sai dịch nghe lệnh tức thì xông vào, tính cột cổ hoàng đế. Nhưng hoàng đế ngài cứ ngồi ngất ngưởng trên quầy hàng, chỉ nhếch mép cười.

Thôi tổng quản thấy bọn sai dịch xông vào, bèn nhào tới trước kiệu quan ngự sử. Lúc đó ông này mới nhận ra là viên thái giám tổng quản trong cung. Được Thôi tổng quản thì thào mấy câu, quan ngự sử cuống quýt nhảy xuống kiệu chạy vội vào tiệm, quỳ mọp dưới chân quầy hàng chắp tay lạy.

Đám đông dân phố thấy vậy, biết là tai vạ tày trời đã tới, anh nào anh nấy tháo chạy tán loạn.

Hồi 116 Hồng Tú Toàn xây cất kinh

Đô Tuần thành ngự sử lạy xong, nhường ngay kiệu của mình để hoàng đế trở về cung, sau đó quay sang Thôi tổng quản hỏi thăm tình hình cơ sự ra sao? Thôi tổng quản bèn đem chuyện hoàng đế nghe tiếng Băng Hoa xinh đẹp nổi tiếng nên đích thân tới xem, rồi nói đùa vài câu khiến nàng nổi giận hò la xóm giềng tiếp tay, gây chuyện om sòm. Viên tuần thành ngự sử đã mười năm nay không được thăng quan, nghe Thôi tổng quản nói liền, nghĩ tới cơ hội đã đến. Thế là y một mặt an ủ Thôi tổng quản, một mặt vỗ ngực nói:

- Đại gia khỏi bận lòng, việc này xin để cho hạ quan lo liệu. Hạ quan xin với đại gia là chỉ trong ba ngày thế nào hoàng thượng cũng được như ý.

Sau đó y thấp giọng xuống thì thầm với Thôi tổng quản:

- Đại gia về cung, xin cho hạ quan vài ba lời khen trước mặt hoàng thượng nhé

Thôi tổng quản nghe rồi, gật đầu bước đi. Quan tuần thành ngự sử lúc đó mới làm le, quát tháo rùm lên, hạ lệnh bắt hai vợ chồng tên chủ tiệm giày về nha thẩm vấn.

Anh chủ tiệm giày chồng nàng Băng Hoa vừa từ ngoài về, nghe quan tuần thành ngự sử hô lính trói mình, hoảng hồn vía, sợ quá run lên bần bật, khóc lóc xin tha. Chỉ có người đẹp Băng Hoa là chẳng sợ chút nào. Nàng nói:

- Đi thì đi! Bọn mình có phạm phép nước luật vua gì đâu mà sợ.

Thế là hai vợ chồng anh hàng giày đóng cửa tiệm lại, nhờ vả xóm giềng coi giùm, rồi theo bọn sai nha tới dinh. Quan ngự sử chiếu lệ hỏi qua một lượt, không định tội mà cũng chẳng cho hai vợ chồng Băng Hoa về. Lại còn cho giam mỗi người một nơi.

Giam đến ngày thứ ba, bỗng có hai bà nọ tới lãnh Băng Hoa đem về mật thất, cho nàng tắm rửa bằng nước thơm sạch sẽ rồi lấy cho nàng mặc một bộ đồ bằng gấm tuyệt đẹp. Băng Hoa lấy làm lạ vội hỏi căn do thì hai bà nọ bảo:

- Hoàng thượng biết nàng là người trinh trắng trong sạch nên bảo thưởng cho nàng một bộ đồ, tắm rửa sạch sẽ đi rồi đưa nàng về tiệm.

Băng Hoa nghe nói mừng rỡ lắm liền trang điểm lại cẩn thận. Không ngờ trang điểm xong thì nàng trở nên một mỹ nhân vô cùng xinh đẹp, khiến ai thấy cũng phải mê. Hai bà nọ ở bên cạnh khen lấy khen để nói:

- Người đẹp như thế kia, đến con mụ già này cũng phải mê chả trách hoàng thượng mới vừa thấy đã phải ngứa ngáy tay chân rồi.

Câu nói đùa đó khiến Băng Hoa mắc cỡ đỏ mặt. Nàng nói:

- Đừng có đùa nữa!

Lát sau một chiếc kiệu được đem tới. Hai bà nọ đỡ nàng lên kiệu, bỏ bức màn xuống, bốn bên đều có lụa che phủ kín mít, ngồi bên trong nhìn ra chẳng thấy được gì.

Đoàn phu kiệu chạy một lúc lâu mới đỗ lại. Hai bà nọ liền bước lại tháo bức màn che, đỡ nàng xuống đất. Băng Hoa đưa mắt nhìn quanh, chỉ toàn thấy bọn đàn bà mặc Kỳ trang (ăn mặc quần áo kiểu Mãn Châu), tô điểm xanh đỏ cùng mình, cô nào cô nấy, bà nào bà nấy chỉ đều trố mắt nhìn mình như để lường phỏng điều gì, âm thầm lặng lẽ, chẳng nói một câu nào.

Nàng lại nhìn về phía trước, thấy ngôi nhà rộng lớn lắm, suốt một dãy tường vàng chói có một dãy hành lang dài. Về mặt chính bắc có một toà cung điện đồ sộ huy hoàng hết chỗ nói.

Băng Hoa lòng đầy hoài nghi, vội hỏi:

- Nơi này là nơi nào vậy? Bà đã bảo là cho tôi về tiệm tại sao lại đưa tới chốn này?

Hai bà nọ nghe nàng nói bèn đáp:

- Nàng đừng sợ! Đây là nơi cung cấm đó. Hoàng hậu nghe tiếng nàng đẹp nên cho đưa vào cung để gặp một chút cho biết đẹp đến thế nào, xong tức khắc đưa, nàng về tiệm ngay.

Băng Hoa nghe đoạn làm thinh chẳng biết nói gì hơn.

Hai bà nọ đỡ nàng theo đường sỏi đi vào nhà. Nàng chỉ thấy phía trong màn gấm treo đầy trên cửa sổ sơn quét toàn một màu hồng. Bàn ghế trong nhà đều một màu đỏ như son. Trên giường căng màn bằng the màu quý, lót bằng nệm gấm hoa năm sắc, có bức bình phong vẽ những người đàn bà ăn mặc hết sức đẹp đẽ.

Hai bà nọ đưa nàng tới ngồi vào một ghế to và êm ái trước gương Sau đó, có hai cung nữ bưng trà lên cho nàng uống.

Băng Hoa đến lúc này mới biết mình đã bị hai bà nọ lừa vào cung để làm phi tử. Nàng đứng phắt dậy nói:

- Tôi đi về đây.

Bọn cung nữ hai bên bước tới ngăn lại. Sau đó, Hàm Phong hoàng đế tử phía trong bước ra, đi thẳng tới trước mặt nàng, cầm lấy tay, miệng luôn luôn gọi:

- Mỹ nhân! Mỹ nhân đừng buồn lòng nhé.

Băng Hoa tự biết mình đã lọt vào cạm bẫy của họ, bèn nhè lúc mọi người không đề phòng, xông tới cây cột lớn, húc mạnh vào, máu tươi chảy ra lênh láng.

Hàm Phong hoàng đế thấy vậy nói hai tiếng "Đáng thương, đáng thương!" luôn miệng, rồi rút lui khỏi căn phòng. Ngài còn dặn mấy mụ quản sự chịu khó săn sóc dưỡng thương cho nàng, ít hôm sau ngài sẽ tới thăm.

Băng Hoa lúc đó mê man bất tỉnh. Bọn cung nữ vực nàng lên giường băng bó vết thương, và đứng quanh giường chầu chực chờ đợi. Một lát sau, Băng Hoa tỉnh lại. Mụ quản sự ngồi cạnh khuyên giải. Mụ bảo nàng:

- Trời cho nàng sắc đẹp nhường ấy, thì phải lấy một người chồng giàu sang phú quý, hưởng một cuộc đời giàu sang vinh hiển, có thế mới không hổ mình là phận gái má đào. Được thánh thiên tử ngài đa tình đưa nàng vào cung, trăm chiều cưng quý lại sợ nàng giận tức nên không dám gần gũi. Nàng được hưởng đủ mùi phú quý vinh hoa, sủng ái hết mức, thử hỏi liệu nàng có sung sướng hơn cái lúc mà nàng còn ở trong tiệm giày, đói rách khổ sở không?

Những lời khuyên giải này, lúc đầu, Băng Hoa chẳng thèm để ý tới, nhưng lâu về sau cũng thấy có vẻ hợp tình hợp lý.

Thế là nàng đã quyết định và bảo mụ quản gia yêu cầu cho gặp lại người chồng cũ một lần để xem anh ta có cho đi lấy chồng khác hay không, nếu không thì thà chết chứ nhất định không chịu thất tiết.

Mụ quản gia đem lời Băng Hoa tâu lại với Hàm Phong hoàng đế. Ngài bằng lòng cho vào cung gặp mặt vợ. Lúc đó, anh chồng hói đầu của Băng Hoa đã được vào làm thị vệ quan (quan hầu) trong Loan nghi vệ. Khi gặp nhau, Băng Hoa thấy chồng mình mũ áo đàng hoàng, ăn mặc oai vệ, thì chi còn biết khóc lóc thương xót cho cả hai. Nhưng anh chồng hói đầu của nàng lại bảo nàng:

- Duyên số vợ chồng ta đến đây hết rồi. Nàng ở trong cung nên hầu hạ hoàng thượng cho chu đáo.

Băng Hoa nghe xong, thở dài nói:

- Vậy thì chàng cũng nên cố gắng làm quan cho chu đáo!

Thế rồi một đêm êm đềm lặng lẽ, hoàng đế tới cung lâm hạnh với người đẹp Băng Hoa, qua ngày sau, người ta đã thấy Băng Hoa được phong làm quý nhân.

Hàm Phong hoàng đế bị Băng Hoa làm cho mê tơi, liền mười mấy ngày chẳng thèm hỏi tới triều chính. Bên ngoài, văn thư khẩn cấp bay như bươm bướm, chất đống cao như núi.

Lại nói Thái Bình Thiên quốc hồi đó đã đóng đô tại Nam Kinh chiếm được tới tám tỉnh. Trong triều Thanh văn võ đại thần anh nào anh nấy mật teo lại hết, chẳng có chủ kiến gì.

Hiếu Trinh hoàng hậu cũng vô phương, chỉ còn cách chạy tới tam cung của hoàng đế, quỳ bên phía ngoài đọc "Tổ huấn".

Hoàng đế thấy vậy không còn cách nào nằm liều được nữa, đành phải nhỏm dậy trở về xem xét mọi việc triều đình qua quýt cho xong. Rồi chớp mắt ngài lại đã chui tuột vào cái tổ ấm của Băng Hoa mặc cho bọn đại thần khuyên can, chẳng thèm để ý tới.

Trong khi đó ở miền nam, Thái Bình Thiên quốc càng ngày càng mạnh. Hồng Thiên hoàng lại bỏ ra sáu trăm vạn lạng bạc, xây cất một toà cung điện hết sức rộng lớn ở Nam Kinh.

Trung vương Lý Tư Thành cùng Hồng Thiên hoàng đích thân đề mấy câu đối, chữ viết dõng dạc đàng hoàng lắm. Một câu viết như vầy:

"Duy hoàng đại đức viết sinh, dụng Hạ biến Di, đãi kha Âu Mỹ Phi Úc tứ châu nhân, quy ngã bản đồ nhất nãi thống"

(tạm dịch: chỉ có Hoàng đại đức sinh, dùng Hạ mà biến Di, đợi khi đuổi hết bọn người Âu Mỹ Phi Úc bốn châu để thống nhất bản đồ về một mối).

"Từ văn chỉ qua vi võ, bát loạn phản chính tận diệt Lam, Bạch, Hồng, Hoàng, Bát Kỳ tịch, hết chư phiên phục thiên tư niên"

(Hãy lấy văn mà làm võ, dẹp loạn đem lại điều ngay, diệt hết xanh, trắng hồng vàng tám loại cờ, bắt bọn phiên bang hải khuất phục ngàn năm).

Câu đối thứ nhì viết như vầy:

"Tiên chúa bản nhân từ hậu tứ lục lại tham quan, đoạn tốn lục thật vương thống tự.

Mao cung thực tâm đức, trượng nhi mưu thần chiên tướng trùng tâm thập bát tỉnh giang san".

(Tạm dịch: Tiên chúa vốn nhân từ, giận bọn tham quan ô lại làm đứt dòng nối của sáu mươi bảy vua. Mao cung thật đức độ cậy nhờ các mưu thần chiến tướng, đổi mới non sông mười tám tỉnh).

Câu thứ ba là:

"Độc thủ kình thiên, trung chính Đại Minh tân khí tượng.

Đan tâm báo quốc, tảo trừ dị tộc cựu y quan".

(Một tay chống trời sửa lại cho nhà Đại Minh, có một bộ mặt mới. Lòng son đền nợ nước, quét hết những đồ quần áo cũ của bọn khác họ), (Khác họ đây chỉ nhà Mãn Thanh).

Câu thứ tư:

"Hổ Bí tam thiên, trực tảo U, Yên chi địa. Long phi cứu ngũ, trùng khai Nghiêu, Thuấn chi thiên"

(Với ba ngàn quân Hổ Bí, ta đánh thắng tới đất U, Yên.

Số năm, chín rồng bay ta lại mở cõi trời Nghiêu, Thuấn).

Trong phòng ngủ, Hồng thiên vương cũng có một đôi câu đối như sau:

"Mã thượng đắc chi, mã thượng trị chi! Tạo ức vạn niên Thái Bình Thiên Quốc ư cung đao phong trích chi gian, tư thành kiến dã.

Đông diện nhi chinh, Nam diện nhi chinh, cứu trấp nhất tỉnh vô tội thần dân như thuỷ hoả đảo huyền chi hội, thi vị nhân nhân"

(Cưỡi trên ngựa mà được, ngồi trên ngựa mà cai trị, tạo lập nước Thái Bình Thiên Quốc lâu đài ức vạn nằm giữa chôn cung đao mũi lưỡi, ấy thực là người giỏi đó.

Quay mặt về phương đông mà đánh, quay mặt về phương nam mà đánh, cứu giúp hai mươi mốt tỉnh dân vô tội thoát vòng nước lửa bỏng sôi, đó chính là người nhân vậy).

Bắt chước Hồng Thiên vương, bọn chư vương cũng cho xây cất vương phủ. Ngoài vương phủ có hai cửa viên môn, ba cổng đại môn, cao đến vài trượng. Trên bức tường xây cửa đều có vẽ long vẽ hổ đủ năm mầu sắc. Bước qua cổng phủ, vào trong thấy ngay một con đường chạy chính giữa. Giữa con đường đó, có xây một cái đài cao hai bên treo chừng mấy chục cái thanh la để môi khi bên ngoài có chuyện gì xảy ra, thì đánh thanh la báo hiệu. Bên trong phủ, cấm không cho một người đàn ông nào vào.

Cửa cung của Thiên hoàng, trên cổng cao treo một tấm biển đề Vinh Quang môn, cổng thứ nhì treo một tấm biển đề Thánh Thiên môn. Hai bên là hai hàng dậu gỗ sơn son, trên mặt những hàng dậu này có rất nhiều tấm biển đều ghi những câu tán tụng Thiên hoàng của kẻ bề tôi bên dưới. Hai bên trái phải còn có hai ngôi đình lợp ngói bằng pha lê.

Đi dần vào cửa thứ nhì, hai bên có cất đến mấy chục gian triều phòng. Về phía tây triều phòng, xây một cái giếng đá hoa năm màu. Trên những viên đá hoa này, có chạm khắc hai con rồng hết sức tinh xảo. Trước điện, là một cái nhà bia, cột thì bằng vàng mà tường thì sơn son, nào rồng bay, nào phượng múa, rất là hoa lệ. Trên vách bốn mặt điện, vẽ đủ bốn loại thú: rồng, cọp, voi, sư tử.

Về phía đông chính điện, có một dải tường bao quanh. Phía trong tường là một cái hồ vuông, đáy lát đá xanh, rất là trong sạch. Trên hồ, có một chiếc thuyền bằng đá dài hơn mười trượng. Thiên hoàng thường ngồi trong chiếc thuyền đá này mở tiệc thết rượu.

Hồng Thiên hoàng rất cưng chiều tiểu Thiên hoàng, cho nên đặc ý làm cho một toà phủ đệ gọi là Tiểu Thiên hoàng phủ ở chân núi Chung Sơn. Trong phủ, có cây cao suối mát, lâu đài khúc chiết mười phần u nhã. Tiểu Thiên hoàng này cũng là một người hiếu sắc, cho nên người làm trong phủ toàn là một bọn nữ quan. Bọn nữ quan này người nào cũng đều mặt hoa da phấn, da ngà tay ngọc. Tiểu Thiên hoàng suốt ngày cùng bọn nữ quan đùa giỡn, những chuyện phong lưu tình tứ đều giở ra cho kỳ hết.

Nói đến bọn nữ quan của triều Thái Bình thì thật nhiều điều đáng chú ý. Mũ áo của họ khác hẳn mũ áo của bọn nam quan. Người nữ quan cao cấp nhất mặc áo long bào bằng đoạn vàng. Cấp thứ nhì mặc áo màu tía và màu hồng. Còn mặc màu xanh, màu lam, màu đen, là bọn cấp dưới nữa.

Trên chiếc mũ, người ta có thể phân biệt ba loại quan như sau: Ba cấp vương thì dùng mũ bằng đoạn màu vàng. Từ cửu phẩm trở lên thì dùng mũ sa; cửu phẩm và hương quan thì dùng khăn chít đầu bằng đoạn.

Còn áo thi nữ quan tất cả đều có thêm một miếng hậu bối (miếng vái khâu ở sau lưng áo để che lưng). Búi tóc thiên đội chiếc mũ nhỏ bằng nóc có giải buông xuống lòng thòng.

Thiên hoàng định phẩm cấp cho nữ quan nhấn mạnh vào kiểu quần hàng. Đệ nhất đẳng tên gọi là Phùng thường, quần may loại ống rộng… Đệ nhị đẳng tên gọi Nữa thường (quần móc). Đô là loại quần không dùng chỉ khâu mà dùng móc, móc chéo lại, để cho dễ cởi. Đệ tam đẳng tên gọi Khai thường, tức là loại quần mở. Đệ tứ đẳng tên gọi Tán thường, đó là loại không mặc quần có ống mà mặc váy vây quanh lại. Đệ ngũ đẳng tên gọi Tán bào, đó là loại không mặc quần mà cũng chẳng mặc váy phần dưới thân để truồng chỉ mặc áo một cái áo bào dài che. Ngoài ra còn có một loại nữ tên gọi Già toái. Đó là loại mà bọn nữ quan thường dùng vào mùa hè để cho mát. Già toái chỉ có ba miếng vải che lấy hông, một miếng che phía sau, còn hai miếng che hai bên đùi.

Thiên hoàng định chế phục như trên cho nữ quan, nguyên có một dụng ý. Đã làm nữ quan thì không thể tránh khỏi chuyện dâm loạn. Tiểu Thiên hoàng tỏ ra ác đến quả cỡ. Hắn dâm ô với đám nữ quan trong phủ mình thì khỏi cần nói, nhưng ông còn khoái cưỡng chiếm cả những cô gái mới choai choai hoặc còn nhỏ tuổi.

Nhiều lúc Hồng Thiên hoàng thấy rõ con trai tỏ tình thân ái với phi tần của ông, cũng chẳng nói gì. Từ đó, tiểu Thiên hoàng càng lớn mật hơn. Hắn tư tình luôn cả Hồng phi và Nghi phi vốn là hai nàng phi cưng quý nhất của Thiên hoàng.

Nhưng cả hai nàng đều biết Hồng Thiên hoàng yêu quý cậu con trai cho nên đều không dám tới mách mà chỉ còn có cách im lặng chịu đựng và lại đâm ra ganh ghét nhau mà thôi.

Hồng phi người Dương Châu, tướng mạo tuy tầm thường nhưng được cái tuyệt khéo. Tính tình nàng lại tao nhã, điềm đạm. Chỉ cần cặp mắt sắc như dao, long lanh như giọt nước, liếc một cái là đủ để cho hồn phách đám đàn ông lên mây rồi. Nàng chỉ thích cười, khi cười nàng đẹp tuyệt trần! Do đó, Hồng thiên hoàng hết sức sủng ái. Và cũng ỷ vào đó nàng khinh thường cả Nghi phi.

Nghi phi người Quan Đông, vốn con nhà gia thế. Nàng đẹp tuyệt, da trắng mặt hoa, tính tình hoà nhã thuận thảo, người lại trẻ măng. Đối với nàng, Hồng Thiên hoàng đã có bao năm ân tình đằm thắm. Ngài thường đến cung nàng ăn ở luôn tại đấy.

Cái gay cấn là cả hai nàng phi này đều yêu tiểu Thiên hoàng cả. Vì một khoá đôi rương, hai cô đâm ra ghen nhau, ghen đến độ không thể dung nhau được nữa.

Ai ngờ trong cung của Nghi phi lại chứa chấp một chàng trai trẻ đẹp. Anh chàng trai trẻ này vốn là con trai của một gia đình nghèo khổ tại Nam Kinh, mặt mũi trắng trẻo xinh đẹp. Hôm Nghi phi vào thành Nam Kinh để hầu hạ Hồng Thiên hoàng thì anh chàng trai này đứng bên lề đường thơ thẩn nhìn người qua kẻ lại. Nghi phi ngồi trong xe trông thấy bất giác lòng xuân xúc động. Khi vào cung rồi, nàng bèn cho người lẻn ra phố đưa anh chàng trai nọ vào cung, để đêm ngày tư tình qua mặt Hồng Thiên hoàng.

Về sau Nghi phi lại có thêm tiểu Thiên hoàng, thành thử một mình nàng bao cả hai chàng, trong lòng vô cùng sung sướng. Tiếc thay việc tốt nhiều khi hư, lương duyên trời ghen.

Một hôm, giữa lúc Nghi phi đang hú hí tình tự giữa ban ngày ban mặt thì Hồng phi bước vào khám phá ra chuyện bí mật khiến Nghi phi hoảng hồn bạt vía, run lên cầm cập mà Hồng phi cũng mắc cỡ đến đỏ mặt tía tai.

Anh chàng trai nọ chẳng còn cách gì hơn là quỳ xuống chân Hồng phi, dập đầu xin tha. Hồng phi để ý nhìn thấy quả là một chàng trai trẻ trung đẹp đẽ hết sức gợi tình. Đến lúc này, chính nàng cũng không cầm nổi lòng dục nữa, bỗng che mặt phì cười, quay đầu đi khẽ nói:

- Làm thế thì mắc cỡ chết!

Nghi phi đứng cạnh thấy rõ nỗi niềm tâm sự của Hồng phi, vội bảo chàng trai nọ.

- Ngươi ở đây hầu phi tử nhé! Ta đi một lát sẽ lại.

Nói đoạn Nghi phi vội quay đi, bước luôn ra ngoài. Thế là bên trong, Hồng phi cùng anh chàng trai nọ hoàn thành ngay hảo sự. Và từ đó về sau, Hồng phi cũng thường lưu anh chàng trai nọ trong cung mình, nhiều lần có ý như không muốn cho về với Nghi phi nữa.

Riêng anh chàng trai nọ cảm thấy Hồng phi có vẻ phong tao phóng đãng hơn Nghi phi nhiều, nên cũng say mê. Nghi phi thấy mất cục cưng, tức giận bèn dùng kế "mượn đao giết người" để trả hận.

Hồi đó cả hai cha con Thiên hoàng cũng đều say mê Hồng phi. Biết thế Nghi phi bèn dò la lúc Hồng phi đang cùng chàng trai nọ ân ái trên Dương đài liền lẻn tới mách tiểu Thiên hoàng.

Tiểu Thiên hoàng biết chuyện, cơn giận nổi lên như sấm sét, tức thì chạy tới cửa phòng của Hồng phi nghe ngóng, quả nhiên bắt gặp gian phu dâm phụ đang vào lúc mê đắm nhất.

Tiểu Thiên hoàng đích tai nghe gõ, lòng ghen thật khủng khiếp, đang tính xông vào. Chợt nhớ mình cũng chẳng đàng hoàng ngay thẳng gì, tất hơn là đi báo phụ hoàng mới giải quyết được việc này. Nghĩ vậy, liền quay lui, và tới cung vua cha.

Hồng thiên hoàng lúc đó đang ngồi tựa thành giường xem bọn thị vệ và nữ quan chơi trò đuổi bắt ú tim, thoạt nghe lời cáo mật của cậu trai cưng, tức đến hộc máu ra, bao nhiêu râu tóc dựng ngược lên cả. Thế là ngài nhảy chồm lên như cái lò xo, mang theo một tốp thị vệ, chạy tới cung Hồng phi giữa lúc nàng đang còn loã lồ thân thể, tóc tai rũ rượi, chưa kịp trang điểm lại sau một cơn mưa gió nặng nề.

Bọn thị vệ áp điệu Hồng phi cùng cả anh chàng trai nọ ra ngoài. Hồng thiên hoàng chẳng thèm tra hỏi gì nữa, hạ lệnh chém ngay tức khắc tại cửa cung.

Lúc sắp chết, Hồng phi kêu oan, bảo nàng trúng kế của Nghi phi chứ thực ra anh chàng trai nọ vốn do Nghi phi đưa vào cung.

Hồng Thiên hoàng nghe nói vậy, nhưng không tin, vẫn hạ lệnh chém ngay cặp gian phu dâm phụ này.

Sau khi giết chết Hồng phi, Hồng Thiện hoàng lập tức truyền dụ cho các tướng lãnh tìm cách dâng hiến mỹ nhân lên cho ngài.

Hồi đó dưới trướng của quan hưu đô đốc, có một vị tướng quân họ Phàn tìm được một cô nàng xinh đẹp tuyệt trần ở Tô Châu, tên gọi Minh Cô. Nàng vốn là một tiểu thư con nhà gia thế, có học thức, lại biết cả đao kiếm. Lúc đoàn quân tóc dài của Thái Bình Thiên Quốc tới Tô Châu thì Minh Cô chạy theo cha mẹ trốn về thôn quê. Nàng bị quân lính bắt, cha mẹ lại sắp bị chém. Nàng vội xông tới ngăn cản. Bọn quân lính thấy nàng xinh đẹp nên tha cho cha mẹ nàng. Chúng đem nàng vào trại, tính làm việc phi lễ, Minh Cô bèn bảo chúng:

- Bọn bay nếu hãm hiếp ta thì ta chỉ còn có một chết, chi bằng đưa ta tới gặp chủ tướng của bọn bay, ông ta thấy ta đẹp yêu quý ta, có phải bọn bay được một món tiền thưởng hay không?

Bọn lính nghe nàng nói có lý, đưa nàng lên dâng cho viên tướng của mình. Phàn tướng quân thấy Minh Cô sắc nước hương trời, bèn thưởng bọn lính năm trăm lạng bạc, giữ nàng lại trong trướng. Đến đêm Phàn tướng quân mò vào, mong được sung sướng với người đẹp. Nhưng Minh Cô lại đem cái lối nói với bọn lính nói với tướng quân họ Phàn khuyên ông đưa nàng lên dâng cho Hồng Thiên hoàng sẽ được quan cao lộc hậu.

Câu của Minh Cô nói ra đúng lúc Hồng Thiên hoàng có dụ truyền các tướng lãnh tìm kiếm người đẹp cho ngài. Bởi thế Phàn tướng quân nghe qua tỉnh ngộ, liền đích thân đưa Minh Cô tới Thiên kinh.

Hồng Thiên hoàng nhìn thấy Minh Cô sung sướng tưởng đến phát điên, ngài truyền dụ thưởng Phàn tướng quân mười vạn lạng bạc.

Minh Cô đẹp tuyệt, da trắng mặt hoa, thân hình óng ả. Ngay đêm đầu lâm hạnh. Hồng Thiên hoàng thấy nàng vẫn còn là một xử nữ trinh trắng nên cưng quý lắm. Ngài phong nàng làm Minh phi, bổ khuyết vào chỗ trống của Hồng phi.

Hồng Thiên hoàng ở lỳ trong cung Minh phi luôn một tháng, thực là ngồi cùng ngồi, đi cùng đi, mười phần yêu quý. Minh phi nhân dịp đó, bèn xin Hồng Thiên hoàng cho đưa cha mẹ nàng vào cung để được gặp mặt. Hồng Thiên hoàng ưng thuận ngay.

Minh phi gặp cha mẹ, không khỏi bi thương, khóc rống lên. Thấy chung quanh chẳng có ai nàng bèn thổ lộ tâm sự mình với cha mẹ là có ý định hạ thủ Hồng Thiên hoàng, và như thế tánh mạng nàng e cũng khó toàn. Hai mẹ con ôm lấy nhau khóc lóc thê thảm.

Minh phi xin Hồng Thiên hoàng cấp cho cha mẹ nàng một cây cờ vàng nhỏ. Nhờ cây cờ này, cha mẹ nàng mang theo trong người thì bất cứ đi tới đâu trong nước Thái Bình Thiên Quốc đều được cả. Minh phi dặn nhỏ khuyên cha mẹ nên trốn lên phương Bắc trước đi, để khi câu chuyện ám sát của nàng chẳng may bị đổ bể thì cũng không có hại gì cho cha mẹ. Sau đó, nàng tiễn chân cha mẹ ra khỏi cung.

Minh phi đặt một bữa tiệc ngay trong phòng ngủ của mình rồi mời Thiên hoàng tới, chính nàng hầu rượu cho Hồng. Giữa tiệc rượu nàng nói cười luôn miệng, làm duyên làm đẹp khiến Thiên hoàng uống hết chén này tới chén khác. Minh phi thấy đã đến lúc hành động bèn dặn bảo bọn cung nữ dọn dẹp tiệc rượu, đích thân đỡ Hồng lên giường rồi tự mình cũng thay đồ ngủ, cởi bỏ hết đồ trang sức.

Sau khi bọn cung nữ dọn dẹp xong, Minh phi bèn khoá chặt cửa phòng lại. Trên giường Thiên hoàng đã ngủ say, thở phì phò. Căn phòng im lặng như tờ. Mình phi rón rén bước tới bên tường, rút thanh bảo kiếm, lăm lăm cầm trong tay.

Nàng bước lại gần giường, thò đầu vào mùng xem thì quái lạ thay, chiếc giường không có ai nằm cả. Thiên hoàng biến mất lúc nào rồi! Giữa lúc Minh phi đang ngạc nhiên thì nàng không ngờ Thiên hoàng đã ở đằng sau mình từ lúc nào, mặt hầm hầm nổi giận. Thì ra hôm đó, Minh phi mời Thiên hoàng uống rượu đã khiến ngài có ý nghi ngờ. Một điều khiến ngài nghi thêm là xưa nay Minh phi không bao giờ uống rượu mà nay bỗng nhiên lại uống. Do đó, ngài giả đò say, đi ngủ trước trên giường lẳng lặng chờ xem động tĩnh của Minh phi.

Thiên hoàng thấy Minh phi đóng cửa phòng, tới cạnh tường lấy cây kiếm, biết ngay nàng có ý không lành. Ngài bèn lẻn ra sau giường bò xuống đất, đến đằng sau nàng. Đợi khi Minh phi cầm thanh bảo kiếm tới cạnh giường, Thiên hoàng mới tuốt cây bội đao cầm chặt trong tay, chờ phút hạ thủ. Ngài giận lắm nên khi Minh phi vừa quay đầu lại, ngài không một hai gì hết, múa cây bội đao một vòng, chém bay đầu Minh phi.

Sau đó, ngài lắc liên hồi cái chuông nhỏ, truyền gọi cung nữ lượm đầu của Minh phi đem ra treo ngoài cửa cung làm hiệu lệnh. Chỉ trong giây lát, tin Minh phi mưu sát Thiên hoàng truyền đi khắp cung nội, các bà hoàng hậu, phi tần vội vàng tới thỉnh an.

Thiên hoàng sau khi giết Minh phi, tự thấy mình như được trời phù hộ, lấy làm sung sướng lắm, ngài truyền lệnh trong cung ngay đêm đó bày tiệc ăn mừng, nốc một lúc hàng mấy bát rượu lớn. Lúc đó, ngồi bên cạnh Thiên hoàng nào là hoàng hậu, nào là phi tần đủ khắp tam cung lục viện, mùi hương phấn thơm ngát, tiếng thỏ thẻ như chim hót líu lo. Lòng cao hứng nổi dậy, Thiên hoàng ôm bên này bế bên kia, kiếm vui tìm khoái đủ kiểu. Đến lúc cao hứng, ngài liền gọi luôn một lúc mười bà phi vào tẩm cung lâm hạnh. Ngài không quên, truyền gọi thêm mười bà phi khác vào theo để "thưởng xuân", đứng bên vỗ tay hoan hô trợ hứng.

Hồng Thiên hoàng ngày ngày cùng với bọn phi tần, nữ quan mua vui hưởng lạc, một mình ngài đảm đương cả chục cô mà sức vẫn thừa.

Các vị vương gia trong triều đình của Thái Bình Thiên Quốc không những hiếu sắc mà còn ham cả trai nữa. Trong mỗi vương phủ đều có nuôi năm, ba tên trai trẻ xinh đẹp bảnh bao. Còn cung Thiên hoàng có hơn hai chục tên. Những tên trai trẻ này đều đánh phấn, kẻ lông mày, ăn mặc hết sức diêm dúa, trông qua không thể biết đó là trai.

Hồng Thiên hoàng lại nghe lời Hà Y Chính mỗi ngày nuốt một viên trân châu, một miếng bạch ngọc để điều dưỡng thân thể. Gã thầy lang còn đưa ra một phương pháp nấu châu, ninh ngọc như sau: viên trân châu cần tròn trịa tinh vi không một chút tì vết, nhét vào trong miếng đậu hũ, đem đun cách thuỷ độ nửa ngày. Khi lấy miếng đậu hũ ra, thì viên trân châu nở to ra đến ba, bốn lần cũng trắng bóc như miếng đậu hũ.

Nếu viên trân châu có tì vết, không được tròn trịa tinh vi thì có nấu đến cả ngày cũng không thể hoá được, cứ trơ trơ ra đó. Trân châu nấu kiểu đó, cứ bỏ vào miệng là chạy tuốt ngay xuống dạ dày, tan biến đi luôn.

Còn phép ninh ngọc thì như sau: Lấy loại bạch ngọc thượng hảo hạng đem ninh chung với gốc cây địa du thụ. Ninh liên tục hai mươi bốn giờ, không cho bốc hơi ra ngoài, bạch ngọc nát ra là ăn được. Lúc ăn, cần cho đương, rất dễ nuốt. Nước ngọc ninh này đóng cục lại như băng. Nếu dùng ngọc có tì vết hoặc thứ ngọc hạng bét thì ninh hoài cũng cứ trơ ra, chẳng thể chín được.

Trong nhà bếp của Thiên hoàng, có bốn chú hoả đầu quân chuyên việc nấu châu, ninh ngọc.

Các chú này đều là bọn con buôn châu ngọc, hiểu rõ việc chọn lựa châu ngọc thật, giả, tất, xấu. Chỉ vì Thiên hoàng cần ăn châu ngọc nên nhà bếp mỗi tháng phải tăng thêm tiền chợ lên đến hơn mười vạn lạng bạc nữa.

Nói đến việc ăn uống của Hồng Thiên hoàng, ai nghe cũng phát hoảng. Một bữa ăn của ngài, trừ mười sáu món phụ ra, còn hai mươi bốn món chính, gọi là hai mươi bốn món "Sinh".

Đó là sáu giống chim, sáu giống thú, sáu giống cá, sáu giống sò hến. Giống chim ngài khoái ăn nhất là bồ câu, sẻ, trĩ và ưng (ó), nhất quyết không ăn gà, vịt. Giống thú thì ngài thích nhất bò, dê, mang và thỏ, không ăn heo. Giống cá thì ngài mê nhất là cá chép, cá trôi, cá diếc, cá hoàng. Ngoài ra ngài không bao giờ chê tôm, ba ba, rùa, sò huyết. Những món này phải thay đổi luôn luôn, không được dâng mãi một thứ.

Tính ra cứ mỗi một bữa cơm của Thiên hoàng ít ra cũng phải tốn đến ngàn lạng bạc.

Nấu nướng bất luận cách nào đều phải cả con. Lớn như bò, dê cũng phải để cả con trên mâm, bày trên chiếu, trông thật kỳ cục, tức cười. Các món chim, trông y như chúng còn sống. Mãi đến khi hạ đũa thì lúc đó bọn nữ quan mới giúp ngài nhổ hết những cái lông đó.

Tính tình của Thiên hoàng vốn mừng giận thất thường. Giữa lúc đang ăn uống vui cười, chỉ cần một chuyện nhỏ chẳng được như ý là ngài trút hết cả con giận lên đầu mấy tên thị vệ hầu cận. Ngài quát một tiếng "dùng hình" tức thì hình quan phải tóm ngay cổ tên thị vệ bị hình phạt đem đi.

Trong cung Thái Bình Thiên Quốc có một loại cực hình tên gọi Điểm thiên đăng (đốt đèn trời). Cách trừng phạt như sau: lột hết quần dưới áo trên của kẻ bị hình phạt, lấy giấy hoa gấm quấn suốt từ đầu tới chân rồi đem tẩm dầu vừng, bên ngoài còn bó nhựa thông sáp trắng, chẳng khác chi một cây đèn cầy cao lớn.

Khi đem đốt cây đèn người ấy thì phải cắm lộn đầu xuống đất rồi mới châm lửa vào chân. Lúc đầu, kẻ chịu hình còn kêu la được, tiếng thê thảm như quỷ gọi ma hú. Lúc cháy tới đùi thì tiếng kêu càng lúc càng nhỏ, cháy tới bụng dưới thì chỉ nghe thét lên một tiếng lớn. Và đến khi cháy tới ngực thì không còn thấy rên rỉ gì nữa…

Hồi 117 Tìm hoa bẻ nhụy

Hồi này, bọn quân tóc dài của Thái Bình Thiên quốc ở miền Nam một ngày một mạnh, Hàm Phong hoàng đế ở trong cung mỗi ngày nhận được không biết bao nhiêu tin chiến bại đâm ra chán nản, không thiết gì triều chính, ngay cả văn thư cũng chẳng thèm xem nữa. Chán nản với thời thế, ngài quay vào cung cấm vùi đầu trong váy lụa, úp mặt trên ngực gợi tình của bọn phi tần, mỹ nữ.

Ngài lại mới được Băng Hoa sắc nước hương trời, mười ngày thì tám ngày ngài nằm tại cung của nàng. Có khi ngài ôm nàng ngủ ngay cả lúc ban ngày, lại còn sai thái giám gọi đám cung nữ tới trước long sàng chơi trò ú tim đuổi bắt cho ngài cười và người đẹp vui lòng.

Một hôm, có một nàng phi tên gọi Chương Giai, trước đó cũng được hoàng đế hết sức sủng ái, nhưng từ khi có người đẹp Băng Hoa thì lập tức bị bỏ rơi, bèn không giấu được những lòi trách móc của mình đối với hoàng đế. Một con cung nữ mỏng môi nào đó lập tức chạy lên tâu hót với hoàng đế. Chương Giai bị triệu vào ngay.

Nàng Chương Giai được lệnh truyền, tưởng hoàng đế triệu tới lâm hạnh, nên tô điểm hết sức diêm dúa trước khi đến bệ kiến. Hoàng đế mặt vẫn thản nhiên, khi cười lúc nói như thường, lại còn thưởng cho nàng luôn ba ly rượu. Chương Giai vốn không biết uống rượu, nhưng đâu dám trái lệnh, đành uống luôn một hơi cạn hết cả ba ly. Rượu vừa uống xuống tới bụng, bỗng nàng thấy người nóng bừng, mặt đỏ lên như gấc chín, mắt hoa đổ hào quang, tim đập thình thình…

Nàng Chương Giai bình nhật rất thích đánh đu tiên. Hàm Phong hoàng đế bảo nàng:

- Nàng đánh đu tiên đẹp nhất, trong cung không ai bì kịp, nên trẫm đã cho sửa soạn cây đu để nàng cho mọi người thưởng ngoạn.

Nói đoạn, ngài cho người lột hết quần áo của Chương Giai rồi đỡ nàng lên đu. Nàng Chương Giai vừa bị say nhừ, vừa bị loã lồ thân thể, nên khắp mình run lên bần bặt, làm gì còn sức để đu nữa. Nhưng hoàng đế đã ra lệnh thì làm sao mà đám trái. Nàng lảo đảo bước tới gốc cây đu, bước lên. Bọn cung nữ đứng dưới kéo dây, đu bay bổng lên không. Lúc đầu, đu còn thấp, Chương Giai còn giữ được chặt. Nhưng về sau, đu bổng tít lên cao đưa nàng Chương Giai thân thể trần truồng tít mãi lưng chừng trời. Lúc này nàng không còn đủ sức để giữ chặt đu nữa. Nàng oà lên khóc, rồi kêu la xin hoàng đế tha mạng.

Hoàng đế nghe nàng kêu cứu, chẳng những mặc mà còn giục bọn cung nữ kéo dây đu nhanh hơn, mạnh hơn nữa. Bỗng mọi người nghe một tiếng thét, Chương Giai tuột tay, bị đu quăng đi mãi ra xa, rơi xuống đất cứng, đầu bể tan, xương gẫy vụn, chết ngay tức khắc.

Bọn cung nữ thấy cảnh thê thảm quá, quay mặt đi không dám nhìn. Hoàng đế cười nhạt một tiếng, bảo bọn thái giám lôi xác Chương Giai ra ngoài chôn đi. Sau đó, đưa tay ra khoác vai Băng Hoa bước vào, thủ thỉ chuyện trò, cùng nhau hoan lạc.

Hàm Phong hoàng đế ý sủng ái Băng Hoa hết chỗ nói. Nàng cậy được cưng chiều đâm ra kiêu ngạo. Nàng giữ chặt lấy hoàng đế, không cho ngài tới các nàng phi tần khác. Nhưng ở đời có gì bền được mãi. Hàm Phong hoàng đế ở với nàng hoài dần dần sinh chán. Ngài lừa nàng nhiều phen đi ăn mảnh…

Nàng biết đâm ra ghen. Rồi nàng đánh ghen, nàng eo xèo với hoàng đế. Ngài lúc đầu còn bỏ qua, nhưng lâu về sau, càng chán ghét nàng.

Hàm Phong hoàng đế tính vốn thích gái chân nhỏ. Các hồi trên đã nói qua rồi. Băng Hoa tuy được ngài sủng ái nhưng đôi chân nàng to quá, đôi hài của nàng lớn đến trên bốn tấc.

Ngài đã nhiều lần phàn nàn về nó, cho rằng nàng tuy đẹp nhưng vẫn còn chưa đủ. Thôi tổng quản lại cho ngài biết gái Dương Châu chân nhỏ, vừa xinh vừa đẹp, tuyệt nhất trong nước. Ngài tiếc rằng lúc đó Dương Châu đã lọt vào tay bọn tóc dài Thái Bình Thiên Quốc không thể tới đó để tìm hoa ghẹo nguyệt một chuyến cho thoả. Ngài dặn Thôi Tam lưu tâm xem ở kinh thành có gái chân nhỏ thì tìm cách đưa vào cung cho ngài và hứa sẽ trọng thưởng.

Thôi tổng quản ra ngoài thành làm tên ma cô lùng gái, lại tìm được một nàng chân nhỏ ở phía ngoài cửa Tuyên Võ như lần trước. Người đẹp lần này tên gọi Quỳnh Nhi.

Quỳnh Nhi vốn là con gái của một gia đình dân đã vùng Dương Châu. Gặp lúc loạn ly vì quân tóc dài, nàng phải lìa bỏ quê hương tị nạn lên kinh thành, ngụ tại nhà một người cậu. Người cậu này mở một quán cơm nhó tên gọi Đức Hưng phạn điếm ở đường phố lớn cửa Đông. Gia đình hết sức cùng khổ, vì nhà nghèo nên Quỳnh Nhi phải ở trong một căn phòng hết sức chật hẹp. Nàng giúp mợ nàng may vá thêu thùa suốt ngày để kiếm tiền thêm chu cấp gia đình. Nhà cửa vừa chật lại vừa tối, nàng phải mang một cái ghế nhỏ ra ngoài cửa để có ánh sáng mà làm việc. Nàng thường đặt đôi chân nhỏ nhắn xinh đẹp mịn màng trên ngưỡng cửa. Đôi chân còn mang một đôi hài màu hồng thêu chỉ viền trắng trông thanh tao lạ thường.

Chi vì cặp chân nho nhỏ, xinh đẹp đó mà khách qua đường phải dừng chân lại ngắm nghía rồi thốt ra lời tấm tắc khen ngợi. Đôi ba anh chàng hiếu sắc, thấy cặp chân ấy là hồn phách mê mẩn. Các anh chàng si tình này, thường lảng vảng qua cửa nhà nàng mỗi ngày ít ra cũng phải mười tám, hai mươi lần, để cố thấy cho được đôi chân, ngắm cho được đung nhan kiều diễm của nàng.

Quỳnh Nhi hương sắc đã xinh đẹp tuyệt trần mà tính tình lại rất trinh bạch. Mặc cho các chàng ong bướm ve vãn, nàng vẫn thản nhiên chẳng để ý tới ai. Tiếng tăm nàng ngày càng đồn đại xa gần, khách tài hoa khắp nơi đua nhau tới bắn sẻ mua hương. Tin đồn cũng đến tai Thôi tổng quản.

Thôi tổng quản tới đường Phố cửa Đông nhìn xem. Quả nhiên lời đồn đại chẳng sai! Đôi chân nhỏ xinh của Quỳnh Nhi làm cho thiên hạ mê mẩn tâm hồn.

Thôi ta đem tâm lực điều tra rõ hết hoàn cảnh của nàng. Hắn biết cậu nàng hiện mở quán cơm nhỏ, bèn tới gặp ông Ngô Tam Hưng. Ông Hưng, cậu nàng, đang bí tiền, không biết xoay sở vào đâu để độ nhật, bỗng nghe nói Thôi tổng quản trong cung tới tìm, hứa nói giúp ông ta vào làm đầu bếp trong cung thì mừng quýnh lên. Thôi tổng quản còn cho biết lương bổng hằng tháng định là năm mươi lạng. Đáp lại ân huệ này chỉ có một điều kiện là đưa cô cháu mình vào cung mà thôi.

Ông Ngô Tam Hưng bàn tính với vợ. Mụ vợ kéo tay cô cháu gái Quỳnh Nhi vào phòng trong, khuyên bảo nàng:

- Tính tình cháu vừa cao ngạo, vừa trinh bạch, nếu không tìm được con nhà đàng hoàng thì làm sao thoả được lòng mong mỏi của cháu. Nhà cậu mợ đây nghèo quá, muốn tìm chỗ môn đăng hộ đối, nhưng tìm đâu ra người vừa lòng xứng ý được Nếu kiếm cho cháu một người chồng tầm thường kém cỏi thì rồi cuộc đời cháu lại khổ như mợ đây thôi! Cháu may mắn được hoàng thượng để mắt đến, cháu thoả mộng ước lâu nay. Gia đình cậu mợ cũng vì cháu mà được chỗ nương nhờ. Vậy có phải đẹp cả đôi đường không?

Quỳnh Nhi nghe nói có lý liền bằng lòng ngay. Ngày hôm sau Thôi tổng quản sửa soạn đủ số bạc, lẻn ra khỏi cung đưa Quỳnh Nhi vào.

Hàm Phong hoàng đế ngồi trên lầu Cao Sơn Thuỷ, truyền triệu vào. Nàng Quỳnh Nhi với đôi chân nhỏ nhắn xinh xinh dài có hơn hai tấc, nước da mịn màng, trắng như trứng gà bóc, đứng phía dưới lầu, khuôn mặt duyên dáng hơn bao giờ hết.

Hoàng đế ngắm nghía một lúc, bất giác buột miệng thốt lên: "Đẹp quá!" Hai hàng cung nữ đưa Quỳnh Nhi bước yểu điệu thướt tha lên lầu, dịu dàng quỳ xuống làm lễ bệ kiến và thỏ thẻ chúc mấy tiếng: "Vạn tuế! Vạn vạn tuế!"

Hoàng đế cho phép nàng bình thân. Quỳnh Nhi đứng dậy, phong độ chẳng khác gì cành dương liễu phất phơ trước gió, đoá hoa đào đượm đỉnh sương mai. Hoàng đế gọi nàng lại gần, cầm lấy tay nàng ngắm nghía kỹ một lần nữa, quả thấy da thịt nàng trắng như tuyết, mềm mại như nhung, mắt đẹp, đôi chân mày như vẽ, miệng cười như đoá hoa hàm tiếu. Đêm đó, hoàng đế lâm hạnh ngay Quỳnh Nhi tại đó.

Hôm sau, hoàng đế để nàng ở trong hiên Giáng Tuyết, ngày ngày tới nơi đó sủng hạnh, chỉ vì nàng có đôi chân nhỏ đẹp, đúng với ý thích, nên ngài bắt hai tên cung nữ dẫn nàng đi theo khắp đó đây để cho ngài ngắm đôi chân. Nhiều lúc ngài dẫn nàng đi rồi bỗng thả tay ra để mặc nàng lả lướt một mình. Đôi tay nàng lúc đó uyển chuyển theo nhịp của chiếc lưng thon óng ả, chẳng khác gì làn gió đông thổi nhẹ phớt qua đoá hoa sen.

Hoàng đế càng ngắm càng yêu. Để cho căn phòng hợp với cái đẹp của đôi chân nàng, ngài bắt lót nệm gấm thêu hoa hết cả sàn phòng. Quỳnh Nhi đi bằng một đôi tất bằng lụa trắng muốt, bước trên nệm nhẹ nhàng như chiếc lá bay.

Hồi 118 Hai vụ đầu độc tuyệt xảo

Quỳnh Nhi rất thích đi dạo giữa các khóm hoa, nhất là vào buổi sáng mai còn đượm những giọt sương.

Có Quỳnh Nhi bên cạnh, Hàm Phong nhạt tình ngay với Băng Hoa, Băng Hoa lúc đầu chưa biết thì lấy làm lạ, về sau biết được liền đem lòng ghen ghét Quỳnh Nhi. Nàng được biết Quỳnh Nhi tính ưa sạch sẽ bèn cho cung nữ đem các thứ đồ dơ đến bôi vào cành cây, lá cây để trả thù.

Hôm sau Quỳnh Nhi thức dậy, gọi cung nữ đưa mình đi thăm hoa hải đường thì chỉ ngửi thấy toàn mùi hôi thối đến không chịu nổi. Quay nhìn bốn phía mới hay cành cây nào cũng đều có đồ dơ dáy. Ngay cả quần áo nàng cũng có nhiều chất dơ dính vào từng đám một. Nàng vội vàng chạy lùi lại, ai ngờ đạp phải một bãi phân to tướng ở giữa đường. Nàng hét lên một tiếng: "Ối chao!" Rồi cất bước chạy vội đi chỗ khác. Nàng chạy vội quá bị trượt chân té ngã, đập trán vào thềm máu chảy ròng ròng trên khuôn mặt đẹp.

Bọn cung nữ vội vực nàng dậy, chạy vào trong cửa, nhưng ngửi thấy mùi cứt, thối đến lợm giọng, chúng đua nhau ọe ra hết đồ ăn thức uống, mật xanh, gan vàng. Chúng cũng phải cố nhịn, để xúm lại thay áo đổi quần cho Quỳnh Nhi, lấy nước hương lan để tắm rửa cho nàng. Quỳnh Nhi không chịu nổi mùi hôi thối, đâm ra nhuốm bệnh.

Bệnh nàng kéo dài luôn một tháng trường. Hoàng đế săn sóc nàng thật đặc biệt. Nhưng trong lúc Quỳnh Nhi lâm bệnh, hoàng đế không có cách gì lâm hạnh với nàng được nữa. Ngài sang cung của Băng Hoa để giải buồn. Băng Hoa thấy kế sách của mình kiến hiệu, trong lòng rất thích thú.

Ít lâu sau, bệnh Quỳnh Nhi đã lành hẳn, hoàng đế lại bỏ Băng Hoa quay về với Quỳnh Nhi. Băng Hoa máu ghen sôi lên sùng sục. Nàng bàn tính với bọn cung nữ thân tín, tìm ra một kế sách "nhổ cỏ nhổ cả rễ" để khỏi phải lo ngại về sau.

Hồi đó thời tiết đang dần dần đổi sang hè. Quỳnh Nhi mỗi ngày tắm ít ra phải tới năm lần, còn đầu tóc thì nhất định phải gội một lần vào buổi sáng sớm.

Sau khi gội xong, nàng bỏ xoã tóc ra sau lưng để chờ khô, rồi cùng hai tên cung nữ chèo một chiếc thuyền con ra giữa đám hoa sen, vừa thưởng ngoạn vừa dốc những giọt sương mai đọng trên lá sen vào miệng để thưởng thức mùi hương.

Mãi đến khi mặt trời mọc cao hàng cây sào, ánh thiền quang đã toả khắp mặt hồ sen nàng mới chịu bảo cung nữ chèo thuyền trở vào.

Tin tức nầy lại được truyền tới tai Băng Hoa. Nàng thông đồng với một tên thái giám, bảo lẻn ra ngoài mua thuốc độc mang vào cung rồi đem đổ xuống hồ sen để đêm đó, sen hút nước đã bị đánh độc lên lá.

Qua hôm sau, Quỳnh Nhi không hay biết, vẫn theo cách uống nước sương như bao lần trước, không thấy mùi vị gì cả.

Chẳng bao lâu, thuốc độc phát tác. Hàm Phong hoàng đế thấy nàng lăn lộn trên giường một hồi, hai mắt trợn lên, chân duỗi thẳng thế là đã trở thành người bạc mệnh thiên thu. Quỳnh Nhi qua đời giữa lúc tình nặng duyên thắm, Hàm Phong hoàng đế xúc động ôm lấy thây nàng, đau đớn. Ngài khóc chán mới bảo bọn nội giám mua quan quách khâm liệm khiêng ra ngoài vườn chôn cất tử tế.

Cái tang bất ngờ đau đớn ấy làm Hàm Phong hoàng đế đau xót muôn phần, lâu dần ngài đâm mang bệnh, một thứ bệnh tương tư thật thống khổ, bi thương.

Thôi tổng quản thấy bệnh hoàng đế không có thuốc nào trong cung chữa được, liền lẻn ra ngoài tìm. Quả nhiên hắn lại tìm được một người đẹp chẳng thua gì Quỳnh Nhi thuở nọ. Hắn đưa người đẹp vào cung để hầu hạ hoàng đế.

Hàm Phong hoàng đế còn mê man trên giường bệnh. Nhưng thấy người đẹp mới, thì cho rằng Quỳnh Nhi đã đầu thai sang kiếp khác mà về với mình. Ngài hỏi tên thì nàng thưa:

- Tử Anh…

Hoàng đế thấy Tử Anh từ tiếng nói đến câu cười, cái gì cũng khiến ngài tưởng như Quỳnh Nhi ngày nọ. Rồi bệnh ngài sau đó cũng khỏi luôn.

Ngài cưng yêu chiều quý Tử Anh chẳng khác chi Quỳnh Nhi. Ngài phong nàng làm quý phi. Tử Anh vốn sinh trưởng trong gia đình cùng khổ nghèo nàn, nhưng tính lại ham đọc sách, thích nghe chuyện văn chương. Bởi thế nàng xin hoàng đế mời một ông thầy vào vườn Viên Minh để dạy cho nàng học.

Hoàng đế tự nhủ bọn thị độc đâu có hiếm gì, nhưng nếu để chúng thấy mình mới tìm thấy một quý phi, thế nào chúng chả dâng sớ khuyên can. Điều đó quả là khó chịu. Mời một ông thầy già vào vườn dạy học cho nàng là hơn. Nghĩ vậy, hoàng đế gọi Thôi tổng quản vào tính toán bàn bạc.

Thôi tổng quản nghĩ một chập, liền nhớ tới một người. Người đó họ Trịnh đậu cử nhân, vào kinh thi hội nhưng bị rớt. Trịnh cử nhân hiện ngụ tại Trường An khách điếm; hết sạch tiền lộ phí, đành phải lưu lạc nơi đất khách quê người, viết mướn câu đối hoặc thư từ cho khách để lấy tiền độ nhật.

Thôi tổng quản vốn người đồng hương với tên chưởng quỹ của Trường An khách điếm, thường tới đó bàn tán chuyện mua vui. Hắn cũng thường gặp Trịnh cử nhân tại khách điếm này.

Ông cử nhân họ Trịnh tuổi đã ngũ tuần có bộ râu đã lốm đốm bạc. Ông là người rất hoà nhã. Nay hoàng đế cần thầy dạy học cho Tử Anh, Thôi tổng quản nhớ ngay tới ông. Hắn nói với Hàm Phong hoàng đế, rồi ba chân bốn cẳng chạy ra Trường An khách điếm mời ông…

Trịnh cử nhân tuy có gặp Thôi tổng quản nhiều lần nhưng không biết hắn ta là ai, chỉ nghĩ hắn là một viên quan nào đó. Bởi thế khi hắn ta ngỏ ý mời đi dạy học ông cho rằng tới chỉ dạy một công tử hay một tiểu thư, nên nhận lời đi ngay.

Thấy Trịnh cử nhân bằng lòng rồi, Thôi tổng quản liền đi mướn chiếc xe, bốn mặt che vải xanh bít bùng kín mít. Trịnh cử nhân ngồi bên trong, chẳng thấy tí gì bên ngoài.

Xe chạy đã một lúc lâu, hết khúc quanh này qua khúc quanh khác, trước còn nghe tiếng huyên náo nơi chợ búa, nhưng về sau tiếng người càng vắng, càng xa.

Chiếc xe chạy trên một đám đất trống một hồi khá lâu rồi đỗ lại. Mở rèm xe ra nhìn, Trịnh cử nhân chỉ thấy những bức tường dài thành hàng, phía trong không biết cơ man nào là lâu đài, mái ngói, đỉnh nhà, chen chúc trong những chòm cây như muốn tranh giành nhau để ngoi lên không trung mong thoát khỏi cảnh chật chội phía dưới.

Trịnh cử nhân nghĩ đó là vườn hoa nhà ông lên nọ, nhưng trong lòng vẫn nghi ngờ thắc thỏm. Ông tự nhủ, đã mời ta làm thầy dạy học thì xe phải vào cửa trước chứ tại sao lại lách qua cửa ngách để vào vườn hoa?

Trịnh cử nhân bước sâu vào vườn hoa, thấy cây cỏ rậm rạp um tùm, chỗ nào cũng san sát cửa, nhà tường vách, cỏ cây. Thôi tổng quản đưa Trịnh cử nhân đi loanh quanh hết khu này tới khu khác trong vườn. Khi đi qua cầu Cửu Khúc (chín nhịp), ông cử họ Trịnh thấy lộ ra một cái cửa tò vò, trên có một tấm biển khắc hai chữ "Tao Viên". Bước qua cổng tò vò, ông thấy một dãy nhà che rèm lụa. Bước xuống phía hành lang ông thấy bốn đứa thư đồng đứng thành một hàng dài.

Khi ông vừa bước tới, tất cả bọn chúng vội quỳ gối xuống, đồng thanh nói:

- Thỉnh an gia sư.

Đoạn chúng cuộn rèm cửa lớn. Trịnh cử nhân bước vào phòng. Ông thấy bên cửa sổ, giá sách chất đầy sách.

Thôi tổng quản mời Trịnh cử nhân ngồi xuống ghế. Tên thư đồng đưa trà lên, Thôi tổng quản lấy ra một bức thư, hai tay nâng cao đưa cho Trịnh cử nhân, bên trong đựng hai trăm lạng bạc, rồi nói:

- Thưa! Đây là tiền thù lao hằng tháng. Nếu khi nào tiên sinh muốn gởi về nhà thì xin cứ giao cho tôi, tôi sẽ gói ghém cẩn thận và gởi đi, xin tiên sinh đứng ngại.

Trịnh cử nhân xem chữ đề trên thơ thấy viết: "Dưỡng tâm trai chủ nhân" ngoài ra không còn tên họ gì nữa bèn hỏi:

- Chủ nhân của ông tên gọi là gì?

Thôi tống quản đáp:

- Chủ nhân tôi là một vị vương gia bậc nhất tại kinh thành này, tiên sinh khỏi cần hỏi, sau rồi sẽ rõ. Hiện nay vương gia tôi đi vắng trong nhà chỉ còn có đàn bà không tiện ra đây mời chào tiên sinh. Tiên sinh cứ dạy cho học trò tấn tới ắt vương gia tôi không bao giờ dám để tiên sinh phải buồn lòng đâu.

Trịnh cử nhân xem thấy bọn Thôi tổng quản có vẻ kênh kiệu, cái gì cũng ra tuồng khoe khoang hợm hĩnh, trong lòng cảm thấy băn khoăn, chẳng hứng thú chút nào. Song ông thấy nơi này tinh nhã, xếp đặt ngăn nắp lịch sự, đành miễn cưỡng ở lại.

Qua ngày hôm sau, tên học trò bước ra bái yết thầy. Trịnh cử nhân nhìn xem học trò mình như thế nào thì suýt ngã ngửa, bởi đó là một trang mỹ nhân tuyệt sắc, có bốn con tì nữ xinh đẹp chẳng kém, đi bên cạnh hầu hạ.

Cô học trò tuyệt sắc nọ học mỗi ngày chỉ độ vài giờ là lại trở vào ngay. Qua ngày hôm sau, nếu tiên sinh khảo bài thì cô học trò thảy đều học thuộc không bao giờ quên lấy một chữ.

Trịnh cử nhân thấy học trò mình thông minh quá, trong lòng cũng lấy làm mừng. Ban ngày thì ăn sơn hào hải vị, ban đêm thì ngủ trong giường gấm màn the, hầu hạ thì đã có lũ thư đồng vô cùng chu đáo. Điều không xứng ý nếu có thì chỉ là sự mất tự do không được hành động theo ý mình. Đừng nói ra khỏi cổng vườn, ngay cả đến việc đi quá sang mé tả hoặc mé hữu một chút của thư phòng ông đã bị lũ thư đồng chặn lại rồi. Lũ này bảo:

- Trong vườn có đàn bà con gái du ngoạn, tiên sinh nên tránh đi là hơn.

Trịnh cử nhân ở trong vườn này đã ba tháng. Ông mong được ra phố đi chơi một hôm cho thoải mái đôi chút, nài nỉ với lũ thư đồng đến mấy lần nhưng chúng chỉ nói là đi xin phép chủ nhân đã.

Về sau, Trịnh cử nhân chịu không nổi cảnh tù túng, bèn lẻn ra ngoài vườn. Ông thấy phía sau vườn là một đám đất rộng bỏ hoang, cảnh tượng hết sức vắng lặng thê lương. Ông chả rõ đường nào, nên chạy được mấy bước lại phải trở về.

Lũ thư đồng đứng chực ở cửa liền nói:

- Khu này rất hoang vắng thường có cọp beo, trộm cướp, giết hại mạng người. Nếu muốn ra ngoài tiên sinh nên đi xe lừa, vừa phải có người bảo vệ mới được.

Quả nhiên, lũ thư đồng đi mướn một cỗ xe có hai tên đại hán lực lưỡng ngồi ngất ngưởng trên mui xe.

Trịnh cử nhân ngồi trong thùng xe, phía ngoài cũng có vải màu xanh che kín mít như trước. Xe bắt đầu quay bánh, độ vài giờ sau, Trịnh cử nhân đã nghe có tiếng nói tiếng cười, tiếng ầm ĩ ồn ào của chợ búa, đô thị.

Xe chạy một đỗi nữa mới ngừng lại, Trịnh cử nhân mở rèm xe, bước xuống nhìn chung quanh, thì ra đây chính là cửa ngoài của khách điếm Trường An mà ông đã ở dạo nọ.

Anh chưởng quỹ khách điếm trông thấy Trịnh cử nhân vội chạy ra đón vào nhà, lấy hai phong thư của gia đình đưa cho ông.

Trịnh cử nhân xem thư, thấy nhà đã nhận được ba lần sáu trăm lạng bạc, gia đình đều được bình an như thường, lấy làm mừng lắm, liền dắt tay anh chưởng quỹ vào bàn nhậu.

Ông hỏi anh chưởng quỹ:

- Này, anh có biết cái nhà mà tôi đến dạy học ấy là nhà ai không? Tên tuổi họ là gì? Công danh sự nghiệp ra sao?

Anh chưởng quản lắc đầu đáp:

- Nào tôi có biết gì đâu!

Chẳng biết anh ta nói thật hay dối, Trịnh đành nâng chén mời. Uống một hồi xong Trịnh ra ngoài đi chơi phố.

Ngày đã tàn hai tên xà ích giục Trịnh cử nhân lên xe trở về. Từ đó, cứ hai tháng, ông cử lại lên xe ra ngoài phố đi chơi một chuyến.

Cô học trò tuyệt sắc nọ trải qua một năm học hành, đọc qua bao nhiêu kinh sử, Trịnh cử nhân tuổi đã già tính lại nhân từ hoà nhã, do đó, tình thầy trò ngày càng thắm thiết.

Cô đem tâm sự nào dài nào ngắn ra nói với thầy, duy (:hi có hỏi về gia đình nhà cửa thì nàng tuyệt nhiên chẳng chịu hé môi.

Ít hôm sau, Trịnh cử nhân thấy năm đã gần tàn, tháng đã gần hết, ở nơi đất khách quê người, bất giác nhớ nhà, lòng cảm thấy thật thê lương. Giữa lúc đang buồn bã, ông thấy bóng cô học trò duyên dáng bước ra, bên cạnh có bốn đứa tì nữ theo hầu. Trịnh cử nhân đưa mắt nhìn nàng, thấy mặt nàng đỏ ửng, hình như có hơi rượu. Ông bước lại gần hỏi.

Nàng nhìn ông nhoẻn miệng cười, rồi ngồi phịch xuống ghế, không nói năng gì cả.

Bỗng ông nghe nàng thét lên một tiếng, hai tay ôm bụng kêu đau quá rồi môi son của nàng tái nhợt đi, mắt đứng lại mất hết tinh thần và bạc ra.

Bốn đứa tì nữ thấy vậy, hoảng quá, chân tay bấn loạn, run lên từng hồi, vội hè nhau vực cô học trò vào nhà trong.

Lũ thư đồng lúc đó cũng hối hả cuống cuồng chạy đi bỏ mặc Trịnh cử nhân một mình trong thư phòng.

Trịnh cử nhân suốt từ đầu tới cuối chẳng hiểu sự thể ra sao, đành chỉ ngồi mà rầu rĩ. Mãi đến chiều tối mới thấy Thôi tổng quản hớt hải chạy tới báo một tin động trời cho ông:

- Đáng thương quá! Cô học trò nhỏ của tiên sinh bị cấp bệnh chết mất rồi! Chủ nhân tôi có dặn đưa tiên sinh ra khỏi hoa viên. Đây là gói bạc năm trăm lạng, tiên sinh cầm lấy trở về nhà, xin đừng nói với ai chuyện này.

Thôi tổng quản vừa nói đoạn thì đã có một cỗ xe lừa đỗ trước cửa vườn. Hắn đưa tiễn Trịnh cử nhân lên xe, đóng kín vườn lại rồi trở vào.

Trịnh cử nhân về đến khách điếm Trang An, kể rõ tình hình trên rồi hỏi anh chàng chưởng quỹ về cái gia đình mà mình đến dạy học. Lúc đó anh chưởng quỹ mới vỗ vai ông mà bảo:

- Cái huê viên mà ông vào đó chính là vườn Viên Minh. Cô học trò tuyệt sắc giai nhân chính là quý nhân của đương kim hoàng đế đó!

Kể câu chuyện bi ai này tới đây, có lẽ quý vị có điều thắc mắc về cái chết, của cô học trò tuyệt sắc nọ. Câu chuyện là thế này: Cô học trò sắc nghiêng ngước nghiêng thành đó chính là nàng Tử Anh. Hàm Phong hoàng đế thấy nàng ham học, bèn cho Thôi tổng quản đi mời Trịnh cử nhân tới dạy cho nàng.

Tử Anh học một năm trời, vốn người thông minh, nên hiểu biết nhiều, khiến nhà vua mừng rỡ khôn xiết. Nào ngờ, Băng Hoa dò la biết hoàng đế lại mới có một quý nhân muôn phần sủng ái, đêm đêm quấn quýt bên cạnh, còn minh thì lại bị quên đi, khiến nàng lại nổi lòng thù hận. Nàng cố làm thân với Tử Anh, thường lẻn tới trò chuyện, hay đưa những của ngon vật lạ tới cho Tử Anh.

Tử Anh vốn là gái mới lớn lên, đâu có biết đó là mưu gian của con tinh hồ ly. Nàng đâm ra quý mến Băng Hoa, bao nhiêu tâm sự, nhất là đối với hoàng đế, đem ra kể hết cho nghe, hai người chơi với nhau thân như chị em, Băng Hoa dần dần biết Tử Anh đã lọt vào cạm bẩy của mình chỉ còn đợi ngày giật dây mà thôi. Nàng nghĩ ra một độc kế, lén đưa cho Tử Anh một lọ thuốc độc nhỏ.

Đây là rượu thuốc dê thần. Cứ sáng sớm uống vào thì tối tha hồ mà hầu hạ hoàng đế, không còn biết mệt nữa.

Tử Anh tin là thật. Nàng đang được hoàng đế sủng ái, muốn lấy lòng ngài, bèn dốc cả lọ thuốc kia vào miệng.

Tử Anh vốn không biết uống rượu. Cho nên khi chất rượu thuốc này vào tới dạ dày thì mặt nàng ửng đỏ, tai nóng như lửa đầu óc choáng váng, tim đập thình thịch. Tuy vậy, nàng vẫn gắng gượng lên lớp học như mọi hôm. Không ngờ vừa tới nơi thì sức thuốc ngấm tới, chất độc phát tác, tắc ngay cổ hầu nên nàng chỉ thét được có một tiếng là chết.

Hàm Phong hoàng đế thấy người yêu chết một cách cấp kỳ như vậy, vội ôm vào lòng, luôn mồm gọi ngự y. Khi ngự y chạy vào tới cung thì người đẹp Tử Anh đã chết trong lòng ngài.

Hàm Phong hoàng đế thấy chết luôn hai người yêu đều bất đắc kỳ tử vì trúng độc, biết thế nào cũng có kẻ hạ độc thủ. Ngài lặng lẽ cho bí mật điều tra để tìm cho ra manh mối…

Hồi 119 Một vụ án tình sôi nổi

Hàm Phong hoàng đế dặn bọn thái giám sưu tra trước hết bọn cung nữ trong cung của Tử Anh rồi đến phòng các nàng phi khác ở chung quanh. Không một vết tích gì khả nghi! Băng Hoa quả là người kỹ lưỡng, hành động bí mật.

Bọn thái giám cũng như cung nữ dưới quyền đều được nàng đối đãi quá tử tế khiến không một ai dám mở mồm ra nói một câu nguy hiểm cho nàng. Hoàng đế thấy điều tra mãi mà không ra đành thôi.

Ngài buồn chán âm thầm mỗi khi nhớ tới Quỳnh Nhi cũng như Tử Anh, hai người đẹp lúc nào cũng tươi vui, nhí nhảnh ríu rít như đôi chim oanh hân hoan mỗi độ xuân về. Ngài càng nhớ càng thấy tê tái, nước mắt thánh thót rơi trên đôi gò má.

Từ ngày đó, ngài chẳng thèm triệu hạnh một bà hậu, một nàng phi nào nữa. Ngài lủi thủi một mình trong Hàm Bích Sơn phòng, chỉ có bọn cung nữ và thái giám, hầu hạ hai bên mà thôi.

Nàng phi Băng Hoa từ hôm đầu độc chết Tử Anh rồi, ngày ngày mong ngóng hoàng đế triệu hạnh, nhưng chẳng thấy thánh chỉ. Nàng chỉ còn biết thở vắn than dài trong cô phòng tịch mịch mà thôi.

Rồi Hàm Phong hoàng đế nhớ thương đôi cánh xuân hoa của ngài quá đến nỗi nhuốm bệnh, ngày đêm mê man như bất tỉnh.

Hàm Phong hoàng đế vốn tính nóng nảy, nay nhuốm bệnh, càng nóng nảy thêm. Bọn cung nữ hầu hạ, nhiều khi bị ngài đánh chửi hung dữ. Trong lúc bệnh hoạn, ngài vui buồn giận tức vô thường. Có khi ôm chầm lấy con cung nữ nào đó rồi kéo sát vào lòng, có khi xô xấp xuống giường. Có khi gian dâm như cuồng như loạn, lại cũng có khi nắm tóc kéo xềnh xệch trên mặt đất rồi ném ra ngoài cửa. Nhất là lúc khùng lên, giận dữ quá độ về chuyện gì, ngài tuốt cây bội đao ra chặt phắt một nhát bay đầu con cung nữ. Bọn cung nữ thật là vô cùng cơ khổ, không biết kêu cứu vào đâu được!

Ngự y xem mạch bốc thuốc mà vẫn bệnh nào tật nấy không chút thuyên giảm.

Tin này dần dần truyền tới cung Khôn Minh khiến Hiếu Trinh hoàng hậu hay biết. Hậu vội vã phượng giá đích thân tới vườn Viên Minh đưa hoàng đế vào cung, rồi tự tay nâng giấc hầu hạ.

Hàm Phong hoàng đế vốn kính trọng Hiếu Trinh hoàng hậu, nay thấy bà tận tuỵ săn sóc cho mình thì cảm động lắm. Nhờ đó sức khoẻ ngài càng khá, bệnh hoạn lui dần.

Cung Thân vương Dịch Cân là em ruột Hàm Phong hoàng đế. Hai anh em ngày thường rất quý mến nhau. Do đó, Hiếu Trinh hoàng hậu cho người đi mời vương vào cung.

Cung Thân vương vừa gặp Hàm Phong hoàng đế, bèn khuyên:

- Hiện nay quốc gia đa sự, cần nhờ đức hoàng thượng chấn chỉnh, hoàng thượng nên bảo trọng thân thể, khôi phục tinh thần, chăm lo việc nước, trên thì bảo vệ cơ nghiệp của tổ tông, dưới thì cứu vớt trăm họ ra khỏi cảnh nạn lớn mới phải.

Hàm Phong hoàng đế nghe em khuyên một hồi, bỗng tỉnh ngộ. Từ đó, sức khỏe ngài khá dần. Ngài truyền dụ toạ trào.

Các quan văn võ triều đình đã lâu không có buổi chầu nào, nghe nói hoàng đế toạ trào, ai cũng đều vui mừng hoan hô vạn tuế. Hoàng đế đã lâu không hỏi đến việc triều chánh, lúc này mới biết Nam Kinh đã thất thủ, Hàng Châu cũng mất, quân trú phòng ở các nơi đều không đánh mà lui cả. Sau đó ngài lại tiếp được cấp báo của tổng đốc Lưỡng Quảng là Kỳ Anh nói quân Anh đánh vào thành Quảng Châu.

Hàm Phong hoàng đế nghe tin liền nói:

- Làm sao bây giờ? Làm sao bây giờ?

Văn võ bá quan trong triều miệng ngậm kín như hến, giương mắt nhìn, không nói được lời nào. Mãi về sau, Thượng thư bộ hạ là Tiên Thuận mới quỳ tâu được mấy câu:

- Bọn Kỳ nhân chúng tôi đều hèn nhát chẳng ra gì, chỉ biết ngồi ăn bổng lộc triều đình nào có biết chiến trận. Xin bệ hạ truyền chỉ xuống cho Tịch thị lang Tăng Quốc Phiên đem quân hương đoàn ra trợ chiến mới mong chiến thắng.

Một đạo chỉ dụ hạ xuống. Cả bọn quan võ người Mãn đều thấy mất mặt, chỉ còn có cách độn thổ.

Ít hôm sau, tướng Hướng Vĩnh đem đại binh từ Hồ Bắc đánh thốc xuống, dồn quân tại Hiếu Lăng Vệ, gọi là Giang Nam đại doanh. Mặt khác, Hương Kỳ Thiện cũng đem quân bản bộ đánh từ Trực Lệ, Thiểm Tây, Hắc Long Giang thẳng xuống Dương Châu, xưng là Giang Bắc đại doanh. Hai lộ quân này bắt đầu đại chiến với quân Thái Bình Thiên Quốc.

Đông vương Dương Tú Thanh của Thái Bình Thiên Quốc thống lĩnh thần binh nghênh chiến. Thế nào gọi là thần binh?

Đó là một đội quân ở phía trước có một số con trai độ mười hai, mười ba tuổi, mặc áo ngũ sắc, trang điểm như thiên thân cột trên ngọn cây tre, một tay phóng lửa khói còn một tay múa tít đao thương, khiến trận tiền mù mịt khói lửa, gọi là Thiên ma trận. Phía sau Thiên ma trận, còn có một đội nữ binh, trang điểm hết sức cầu kỳ, có một cô gái người Quảng Đông tên gọi Tiêu Tam nương điều khiển.

Nữ tướng Tiêu Tam nương đầu đội mũ dắt ngọc châu, cặp tóc bằng ngọc báu, đi giày man hoá, mặc quần đỏ. Nàng quả thật là đẹp. Nàng xông ra trận tuyến, dùng mũi kiếm vẫy một cái, tức thì quân sĩ liều mạng xông lên.

Tướng Mãn Thanh là Kỳ Thiện cung xua quân liều chết xông lên. Thiện nhớ tới chữ "hèn nhát" có ý muốn rửa nhục, nên chỉ huy trận chiến vô cùng hăng hái… Thiện đánh liền năm trận, thắng luôn năm trận.

Hồng Thiên hoàng thấy quân Thanh quá mạnh, liền bỏ dùng sức để dùng trí. Hồng cho quân lên tới Hiếu Lăng Vệ, châm một mồi lửa đốt thiêu sạch Giang Nam đại đoàn, khiến quân Thanh chạy mảnh giáp không còn.

Liền đó tướng Lâm Phượng Tường đem quân Thái Bình xông ra, Giang Bắc đại doanh nghe tin Giang Nam đại doanh đã bị đại bại, hoảng hồn bạt vía, tức thì ồ ạt chạy như nước vỡ bờ.

Tướng Kỳ Thiện trong đám loạn quân, chẳng biết chạy ngả nào, vừa tức vừa giận vừa xấu hổ, bèn tuốt cây bội đao tự vẫn chết ngay trên lưng ngựa.

Quan Thái Bình Thiên Quốc tiến như sóng cồn. Lâm Phượng Tường liền quay mũi dùi chuyển xuống đánh Giang Bắc. Dương Tú Thanh cũng mang hai vạn quân đánh thẳng tới Hà Nam, Quý Đức, Phượng Tường lại bắt được một số tàn quân, vượt qua Hoàng Hà đánh tỉnh Sơn Tây.

Tin cấp báo bay như bươm bướm về kinh. Hàm Phong hoàng đế lập tức triệu tập bọn đại thần các bộ tại ngự tiền hội nghị.

Ngài hạ chỉ phái tổng đốc Trực Lệ là Nỗ Nhĩ Kinh làm khâm sai đại thần chuyên biện quân vụ tỉnh Hà Nam, một mặt thúc giục Tăng Quốc, chiêu mộ bọn hương dũng đi tiễu giặc ở Hồ Bắc.

Tăng Quốc Phiên và Trương Lượng Cơ lập ra thuỷ trận tại sông Trường Giang, chặn đứng được quân của Thái Bình Thiên Quốc.

Hàm Phong hoàng đế sau khi nghe lời khuyên can của Cung Thân vương, đem lòng yêu quý vương. Điều đáng chú ý là ngài trước đây, do hiếu sắc quá độ cho nên thân thể đã suy. Quân vụ hồi này lại quá nhiều, quá gấp, ngài chẳng còn đủ sức khỏe để giải quyết mọi việc. Cho nên, việc quân cơ đại sự ngài đều giao cho Cung Thân vương toàn quyền. Ngài sợ vương ra ngoài vất vả, bèn giữ lại trong cung, ngủ luôn trong đó. Vương ở trong cung đến hơn mười ngày.

Không ngờ lúc đó, người con trai của vương ở nhà, gây ra một án tình rắc rối.

Con trai cả của Cung Thân vương tên gọi là Trưng bối lặc. Ông bối lặc này tứ đổ tướng đều giỏi hết, chuyên tụ tập với bọn ma cô, du đãng, tối ngày hết gái đến cờ bạc, hết đá gà đến đua ngựa, không ngón chơi nào là không rành.

Trưng bối lặc quá quen về món gái làng chơi, nên bọn mụ dầu hoặc em út khắp kinh thành Bắc Kinh, ai cũng biết danh.

Người ta gọi Trưng là đại gia. Trưng đại gia có tính rất kỳ cục. Nhà thiếu gì tiền, nhưng Trưng lại không muốn chơi theo lối quang minh chính đại bằng cách bỏ tiền ra hỏi cưới mấy nàng hầu. Trưng bối lặc lang thang suốt năm ngoài chợ, ngoài xóm chơi bời phóng đãng, theo kiểu lêu lổng, tốn kém không biết bao nhiêu mà kể. Trong nhà Trưng chỉ có mỗi một bà phúc tấn, chẳng có vợ hai, vợ ba nào cả. Bà bối lặc tính lại không hợp với chồng, suốt năm suốt tháng ở lỳ bên nhà cha mẹ, không thèm về phủ.

Trưng bối lặc lang thang đây đó chơi bời, rút cuộc bị lậu, có lẽ cả giang mai nữa. Cung Thân vương biết chuyện, liền bắt nhốt kỹ trong phủ, cho đi mời thầy thuốc tới chữa. Trưng bối lặc bị nhốt luôn đến nửa năm, bệnh lúc đó mới hết. Cung Thân vương thả ra, Trưng bối lặc, tính nào tật ấy, lại chuồn ra ngoài chơi bời phóng đãng như cũ.

Hồi đó, vào giữa tháng sáu, trời nóng bức hết sức khó chịu, trai thanh gái lịch thành Bắc Kinh đều tới bể Thập Phân để hóng mát. Bể Thập Phân này rất rộng, bốn mặt đều có hồ sen, hoa nở nào trắng, nào hồng, thơm ngát cả một vùng rộng rãi vây quanh. Dọc bờ bể có rất nhiều phòng trà, quán nước, có bọn chị em tiếp khách, đánh trống ngâm thơ. Du khách tới đây, có người thích ngắm hoa, có người lại thích nghe ngâm thơ, cũng có người thích uống trà hóng mát. Rồi lại cũng có cả những chỗ mà bọn trai gái mặc sức nô đùa, cười cợt tình tứ, diễn đủ trò đồi phong bại tục.

Một hôm, Trưng bối lặc đem bọn đàn em tới một phòng trà uống chơi. Ông nhìn qua bên hàng hiên, thấy một thiếu phụ mặc đồ Kỳ trang (quần áo theo kiểu người Mãn Châu) ngồi đó từ lúc nào, cũng đang uống trà. Người thiếu phụ ngồi có một mình, mặt mũi xinh đẹp, mi thanh mắt tú, dạ trắng như trứng gà bóc, môi điểm chút son hồng, mình mặc chiếc áo lụa trắng mỏng, lộ rõ thân hình nhỏ nhắn với bộ ngực nở đầy. Cặp mắt đen lay láy liếc về phía Trưng làm cho Trưng đại gia hồn vía lên mây.

Người đẹp trước mắt như miếng mồi ngon, Trưng đại gia làm sao mà bỏ qua cho đặng, phóng luôn mấy cái liếc đưa tình. Người đẹp đã không giận mà lại còn mỉm cười, nhìn đáp lại Trưng đại gia sướng điên lên, tim như muốn phá vỡ cả lồng ngực mà chui ra.

Giữa lúc đó, có một thằng bé lưng đeo sọt bắp sen, ngó sen, miệng rao bán inh ỏi. Người thiếu phụ giơ tay ngoắc lại hỏi mua. Thấy vậy, Trưng đại gia liền bảo một tên gia nhân bước sang trả tiền thay cho người đẹp và bảo:

- Bắp sen này, đại gia đã mua rồi, xin biếu cô nương. Đại gia tôi có lòng quý mến, muốn nói vài câu chuyện với cô nương, chẳng biết cô nương có vui lòng cho phép hay không?

Người thiếu phụ nhoẻn miệng cười tình, mắng yêu:

- Đại gia ngươi quý mến ai thì mặc xác hắn! Ai thừa hơi mà trò chuyện với đại gia ngươi?

Người thiếu phụ vừa nói, vừa bóc bắp sen ăn. Trưng đại gia cởi chuỗi ngọc đang đeo đưa sang tặng nàng, có ý thực lòng.

Người thiếu phụ thấy vậy bèn nói:

- Gia đình ta người đông, tai mắt nhiều lắm. Cùng trò chuyện với đại gia thật bất tiện. Bảo đại gia ngươi tìm một nơi thanh tịnh vắng vẻ mà gặp nhau thì hơn.

Trưng đại gia nghe câu nói đó, lòng sung sướng, liền đứng dậy, sai gia nhân đưa người đẹp ra bãi bể Thập Phân, rồi vào trong một tửu quán tên là quán Tràng Xuân. Trưng đại gia thường uống rượu ở đây. Điếm tiểu nhị biết ông là một vị bối lặc, hôm nay lại có thêm một người đàn bà, vội đưa vào ngay mật thất. Hai người lập tức lên giường.

Người thiếu phụ thực quả thuộc hạng phong lưu tình tứ. Rượu ngà ngà say rồi, nàng càng đẹp, càng duyên dáng, khiến Trưng đại gia lòng càng yêu quý hơn. Ông nhìn ngắm nàng như ngây như dại. Người thiếu phụ bật cười nói:

- Nhìn cái gì mãi vậy? Ngủ với nhau cả một đêm mà vẫn chưa nhận ra ta là cô ruột của ngươi ư?

Trưng bối lặc nghe nói giật mình đánh thót một cái, vừa lạ vừa nghi hoặc. Ông để ý hơn, quả cũng thấy mặt quen quen, hình như có gặp ở chỗ nào. Ông nghĩ mãi không hiểu tại sao nàng lại bảo là cô ruột mình. Ông cật vấn, nhưng nàng chỉ che miệng cười, không chịu nói.

Trưng bối lặc không nản, càng hỏi dồn. Lúc đó nàng mới bảo:

- Trước hết ngươi hãy quỳ xuống làm lễ bái kiến đi đã, rồi ta hãy nói chuyện thân quyến.

Trưng đại gia đã bị tửu sắc làm cho mê loạn, nhất nhất theo lệnh người đẹp. Nàng đỡ Trưng dậy, bảo:

- Tội nghiệp thằng cháu của tôi! Để ta nói hết cho mà nghe. Ngươi có còn nhớ năm ngươi cướp vợ không? Năm đó ta có tới phủ người dự tiệc cưới, ngươi cứ gọi ta là bà cô Tiểu Lan đó mà.

Trưng bối lặc đến lúc này mới sực nhớ ra, bèn nói:

- Chồng cô có phải là Lan đại gia không?

Người thiếu phụ gật đầu đáp lại, Trưng đại gia liền vỗ tay đánh đét một cái rồi bảo:

- Chuyện này hỏng bét. Bà chính là cô ruột của tôi rồi. Mới năm năm xa cách mà nhớ mãi mà không ra. Hôm qua gặp mặt tại sao cô không cho biết?

Hồi 120 Bốn đóa hoa tuyệt sắc

Ngày qua tháng lại, trời đã sang hè. Hai cô cháu nhà Trưng lại đưa nhau tới bờ bể Thập Phân để nghỉ mát.

Giữa lúc đang vui vẻ khoan khoái bỗng từ đám đông xông ra một bọn vô lại du ôn, bế xốc lấy hông người thiếu phụ, chạy đi như bay.

Người thiếu phụ giả đò kêu la cầu cứu. Cũng có người động lòng nghĩa hiệp muốn giải cứu, bên cạnh có kẻ biết bọn du đãng nọ chính là những em út của Trưng bối lặc thì vội bảo:

- Ấy chớ! Bọn chúng là tay chân của Trưng bối lặc đó? Nhảy vào để chết à?

Người nọ nghe nói tới Trưng bối lặc, hoảng hồn bay vía, đứng dẹp qua một bên, không dám nhúc nhích nữa, chỉ còn biết nhìn theo bọn du côn nọ xốc nách người thiếu phụ mỗi lúc một xa dần.

Trong kinh thành, thiên hạ đồn rầm lên: Trưng bối lặc bắt cóc đàn bà con gái nhà tử tế. Nếu ở một chỗ khác thì tin đồn này hẳn có một hậu quả trầm trọng. Nhưng tại cái bãi bể đầy rẫy trai gái này, thì chẳng ai thấy lạ cả. Thực ra, chính do hai người đã bày ra trò này để có cớ tình tự với nhau trong căn nhà nọ, chẳng sợ ai dị nghị dòm ngó. Hoạ chỉ có đức ông chồng của người thiếu phụ đa tình kia là âu sầu mà thôi.

Anh chồng nọ sầu khổ quá chẳng thèm làm quan nữa, suốt ngày khóc sướt mướt chạy cùng khắp kinh thành để tìm vợ.

Suốt ngày ông bù đầu xoã tóc, xé áo, khóc lóc kêu xin, rồi chạy hết phố này qua đường nọ, gặp ai cũng bảo Trưng bối lặc cướp vợ mình.

Chuyện dần dần đến tai Đô lão gia. Ông sai người đưa Lan thái gia vào y viên chữa trị, một mặt dâng sớ lên đàn hặc Trưng bối lặc.

Thân phụ của Trưng bối lặc là Cung Thân vương Dịch Cân lúc này đang ở trong cung giúp Hàm Phong hoàng đế giải quyết mọi việc quốc gia trọng đại. Khi tờ sớ vào tới cung, hoàng đế đọc thấy, chẳng nói chẳng rằng, chỉ trao lại cho Cung Thân vương.

Cung Thân vương xem tờ sớ tố cáo chính con trai mình bắt cóc và gian dâm cô ruột, hoảng hồn, bạt vía, mặt tái xanh vội ném cả thân hình quỳ mọp xuống đất và dập đầu lia lịa.

Hàm Phong hoàng đế nói:

- Chú nên về nhà xem sự thể ra sao.

Cung Thân vương cầm bản tấu chương, vội ra khỏi cung đến thẳng nhà Trưng bối lặc. Hỏi ra mới hay Trưng bỏ nhà đi chơi đã lâu ngày chưa về, vương biết chuyện này có thật rồi, bèn cho gọi hết bọn tôi tớ trong nhà, căn vặn từng đứa một. Một vài đứa không chịu nổi hình phạt, đã cung khai ra chuyện Trưng bối lặc mướn phòng chứa gái ở khu phố cửa nam. Cung thân vương nghe xong, vội về phủ, đem theo bọn gia nhân sai dịch đến đó, đập cửa xông vào. Quả nhiên tóm cổ được cả chàng và nàng đang du dương trên giường.

Cung Thân vương nhận ra người thiếu phụ nọ đúng thật là con em họ mình, tức đến hộc máu, râu ria dựng ngược lên tua tủa như đinh. Vương giơ thẳng cánh tát đôm đốp vào mặt ông con mất dạy rồi quát giải về giao cho Tôn nhân phủ. Xong đâu đấy, vương mới vào cung, trước hết tự nhận tội mình, rồi sau tâu hết mọi việc cưỡng chiếm cô họ của ông con trời đánh!

Hàm Phong hoàng đế nghe tâu nối giận liền hạ dụ cách tuột chức tước của Trưng bối lặc, giao cho Tôn nhân phủ tống vào hình lao. Còn người thiếu phụ nọ, cũng giao cho Tôn nhân phủ đánh ba trăm hèo vào lưng, giam cầm ba năm, tới khi mãn hạn sẽ trao trả cho người chồng quản thúc.

Mãi về sau, khi bà phúc tấn, vợ Cung Thân vương mất, Trưng bối lặc nhờ người đến kêu với Hiếu Trinh hoàng hậu tha cho về nhà tống tang ma chay cho mẹ. Không ngờ sau khi được về nhà, Trưng bối lặc lại còn hoành hành vô pháp hơn xưa. Trong phủ của Trưng từ con a đầu, đến mụ vú trẻ, tất thảy đều bị Trưng cưỡng hiếp. Nhưng vì Trưng có tiền nên bọn này không tố cáo kêu ca gì, mà còn có vẻ bằng lòng lắm.

Trong phủ có một tên đẩy xe tên gọi Triệu Tam Hỉ. Hỉ có một con vợ cũng ở ngay trong phủ. Người trong phủ ai cũng gọi chị ta là Hỉ đại tẩu. Thị tính lẳng lơ, ai cũng bắt chuyện, gạ gẫm được. Trong phủ từ người trên kẻ dưới tất cả đều biết qua chị hết. Trưng bối lặc cũng biết luôn, rồi mắc bệnh.

Hết hè sang thu, bệnh của Trưng càng nặng thêm. Mấy ông lang đều lắc đầu, khoanh tay ngồi nhìn. Trưng lúc này cũng tự biết mình hỏng rồi, cho người đi mời cha tới để được nhìn một lần chót.

Cung Thân vương nghe nói con mình bệnh sắp chết, không buồn chút nào, trái lại rất lấy làm vui vẻ, cầu mong cho Trưng chết lẹ. Đến khi Trưng cho người mời, vương nhất quyết không tới.

Câu chuyện này chẳng hiểu do đâu mà Hiếu Trình hoàng hậu lại biết được. Bà bảo Cung thân vương nên đến thăm con một lần chót, gọi là thương kẻ tử biệt. Nể Hiếu Trinh hoàng hậu, vương lúc đó mới đi. Khi tới nhà, vương thấy Trưng nằm giữa giường như con mèo ốm, chỉ còn thoi thóp thở. Vương lấy tay bịt mũi bước hẳn vào phòng xem, thấy Trưng mình mặc một cái quần đen dùng chỉ trắng thêu đến hàng trăm con bươm bướm. Nhìn thấy vậy, vương văng tục ra chửi, rồi nhiếc: "Cho mày chết! Khốn nạn cái thân mày, biết chưa con!"

Nhiếc chửi một lúc, vương quay mình bước ra khỏi phòng, về luôn. Lát sau, Trưng trợn trừng mắt lên, chết tốt. Ai cũng nói Trưng tự mình tác nghiệt thì chịu lấy. Có nhân có quả, chẳng ai thương.

Trong lúc ở Bắc Kinh xảy ra việc nhố nhăng này thì ở Quảng Đông, liên quân Anh Pháp hên tục gây chuyện rắc rối.

Nhân cơ hội này, quân tóc dài Thái Bình Thiên Quốc tiến chiếm Thái Bình. Vu Hồ, Tri Châu, An Khánh suốt một giải châu quận dọc sông Tràng Giang. Từ Nam Kinh, Lý Trung vương cũng đem quân đánh thốc tới Hàng Châu.

Hàm Phong hoàng đế lúc đầu còn hăng hái lo, giải quyết những việc quân quốc đại sự, nhưng về sau thấy mọi sự càng ngày càng nát, càng hỏng, ngài đâm ra chán nản, chẳng thèm ra chầu nữa. Ngài vùi đầu trong đống yếm khăn của bọn phi tần cung nữ để giải khuây.

Hàm Phong hoàng đế rất thích bọn gái non miền Nam. Bọn gái Mãn Châu trong cung thô kệch ngài nhìn chúng hằng ngày thấy chán quá, lại bảo nhỏ Thôi tổng quản lẻn ra ngoài lùng gái Giang Nam đem về cho ngài. Trong vườn Viên Minh, tuy còn có Băng Hoa nhưng chơi lâu ngài đã chán rồi.

Chẳng bao lâu Thôi đưa về một lúc đến bốn cô toàn là loại tuyệt sắc miền Giang Nam để ở tại vườn Viên Minh cho ngài hú hí ngày đêm. Hoàng đế ban cho bốn người đẹp của ngài bốn cái tên hết sức thơ mộng. Một cô tên Hạnh Hoa Xuân, một cô tên Đà La Xuân, một cô tên Hải Đường Xuân, còn cô thứ tư tên Mẫu Đơn Xuân.

Bốn cô Xuân này chia ở bốn nơi trong vườn. Hạnh Hoa Xuân ở Hạnh Hoa thôn quán, Đà La Xuân ở Võ Lâm xuân sắc, Hải Đường Xuân ở Thiên Nhiên đồ hoạch lâu. Mẫu Đơn Xuân ở tại ương Kính minh cầm thất. Những nơi dành cho bốn cô danh hoa khuynh quốc này đều hết sức u nhã thanh tịnh.

Từ khi có người đẹp Giang Nam sắc nước hương trời, Hàm Phong hoàng đế quên hết cả giang sơn đất nước, thậm chí quên luôn cả đoàn quân tóc dài đang làm mưa làm gió ở phương nam. Ngài luân phiên lâm hạnh hết cô này đến cô khác trong số bốn người đẹp, vô cùng khoái lạc.

Trong bốn cô thì Mẫu Đơn Xuân có sắc đẹp và tình tứ hơn cả. Nàng người Tô Châu miền Sơn Đường thương. Nàng vốn con gái của một gia đình tầm thường, nhà ở ngay trên yếu đạo qua lại Hổ Khẩu. Bọn phú thương hằng ngày xe ngựa dập dìu qua cửa nhà nàng như nước chảy.

Mẫu Đơn Xuân có nhiều thì giờ nhàn rảnh lại thích đứng ngoài cổng chơi. Hồi đó, có một anh chàng buôn muối người Dương Châu giàu có, theo chân bạn hàng qua Hổ Khẩu, thấy nàng đẹp quá, lập tức tới nhà xin bỏ ra một ngàn quan tiền để mua nàng về làm vợ bé.

Người mẹ của Mẫu Đơn Xuân nghe nói tới một số tiền lớn liền bằng lòng ngay, nhưng nàng khăng khăng không chịu.

Họ Quách nhờ người đến nói năm lần bảy lượt mới được nàng cho biết, nếu thực tâm yêu nàng thì phải chọn ngày lành tháng tốt làm lễ tơ hồng lạy trời, tế đất thề nguyền làm vợ chồng nàng mới chịu lấy.

Anh chàng họ Quách mê nàng như điếu đổ, không dám trái ý nàng điều gì bèn ưng chịu ngay và chọn đúng ngày mười hai tháng tam là đem người đẹp về nhà.

Nào ngờ đầu tháng bảy, quân Thái Bình Thiên quốc của Hồng Tú Toàn tiến đánh thành Dương Châu. Quách trốn chạy về Tô Châu đem luôn cả hai mẹ con Mẫu Đơn Xuân lên Bắc Kinh. Dọc đường nàng cố tránh không cho Quách ngủ chung cùng phòng với mình.

Khi nàng vừa đặt chân tới Bắc Kinh thì Thôi tổng quản đã bủa cả một cái lưới săn người đẹp từ Dương Châu tới.

Thôi được tin nhà họ Quách có gái đẹp, tới ngay điều đình, nguyện đưa sáu ngàn lạng bạc đổi lấy Mẫu Đon Xuân để đem vào cung. Đồng thời còn cho Quách một chức quan ngũ phẩm trong kinh.

Mẫu Đơn Xuân nghe nói chuyện vào cung thì không bằng lòng chút nào. Nhưng tên Quách nọ tham công danh tiền tài, lừa nàng đưa tắp vào vườn Viên Minh.

Mẫu Đơn Xuân ở trong vườn tại riêng một khu có phong cảnh cực kỳ xinh đẹp. Cây cối xum xuê, nước chảy róc rách nghe như tiếng đờn cầm lơ lửng ngân trong đêm vắng. Đường đi lối lại quanh co. Hoa nở tươi như trăm ngàn đôi môi cô thiếu nữ chờ đón buổi xuân sang.

Vừa bước chân tới đây, nàng đã thấy có hai người đàn bà mặc Kỳ tràng chạy ra đón và dắt vào một khu nhà rộng lớn. Trong một căn phòng trang trí vô cùng lịch sự nàng thấy một người đàn ông mặt to tai lớn ngồi trên giường. Sau lưng người đàn ông này có một số đông đàn bà mặc Kỳ trang đứng hầu. Người đàn ông bận quần áo vàng. Nhiều người đàn ông khác mặc áo bào đều gọi người ngồi trên giường là Phật gia.

Mẫu Đơn Xuân bước vào nhà thì đã có một mụ vú già tiến đến đưa nàng tới chiếc giường làm lễ yết kiến và bảo cho nàng biết người đàn ông ngồi trên giường chính là đương kim hoàng đế.

Mẫu Đơn Xuân đến lúc này chẳng còn biết tính cách nào hơn, đành phải ưng chịu. Hoàng đế thấy nàng quả là một trang tuyệt sắc giai nhân, ngay từ lúc đầu đã đem lòng sủng ái hơn ai hết.

Đồng thời với Mẫu Đơn Xuân, còn có năm, sáu cô gái Hán khác nữa cũng được đưa vào cung. Trong số này có một người Dương Châu, tuổi vừa mười lăm, và cũng rất đẹp. Vào cung chưa được mấy ngày, người đẹp Dương Châu cảm thấy buồn chán, kêu la xin cho ra khỏi cung. Mẫu Đơn Xuân khuyên nàng nên nhẫn nại chờ đợi ít lâu, nhưng nàng không nghe cứ xin xỏ hoài. Một đêm, giữa lúc canh khuya vắng lặng, nàng trốn ra ngoài vườn, bị bọn thị vệ tuần canh bắt được, lại đưa trở về cung.

Hàm Phong hoàng đế biết chuyện, nổi giận lôi đình, lập tức sai mục quản sự kéo nàng ra ngoài, dùng giải lụa trắng thắt cổ chết. Bọn con gái Giang Nam từ đó sợ quá, không cô nào dám có ý trốn tránh nữa, đành phó thác tấm thân cho định mệnh.

Người đẹp thứ nhì, là Hải Đường Xuân. Nàng vốn là một con hát ở vùng Đại Đồng, tiểu danh là Ngọc Hỷ. Nàng thường hay tới hát tại các rạp tỉnh Thiên Tân. Tiếng hát của nàng trong trẻo mê ly, mặt mày nàng lại càng quyến rũ hơn, khiến bất cứ ai mới thấy nàng là đã mê rồi. Nàng lại còn biết gẩy đờn cầm, thổi sáo. Bọn vương tôn, công tử nhiều anh mê nàng, bỏ không biết bao nhiêu tiền cho nàng xài, nhưng không anh nào có hân hạnh được nàng để mắt xanh tới.

Bên cạnh những quan hệ vương giả ấy, nàng còn có một mối tình nghèo. Một anh chàng thư sinh nghèo xơ xác tên gọi Kim Chung Thiềm say mê sắc đẹp của Ngọc Hỷ quá, đến nỗi không ngày nào không mò vào rạp hát để ngắm dung nhan, nghe giọng hát của người đẹp. Mỗi lần đi xem hát là mỗi lần anh ta phải tìm chỗ ngồi ở hàng ghế sát sân khấu. Ngay cả những ngày mưa gió bão bùng, Thiềm ta cũng cố xem hát cho bằng được, không bỏ vắng một đêm nào. Chỉ khi gánh hát không trình diễn mới chịu nằm co ở nhà mà rầu rĩ nhớ nhung.

Anh chàng Thiềm si tình này cũng khá. Chàng có cặp mắt đẹp, đôi lông mày thanh, bộ mặt xinh trai, thuộc loại đàn ông có vẻ ngoài hấp dẫn.

Đêm đêm, Ngọc Hỷ trình diễn trên sân khấu, thường thấy phía dưới cớ anh chàng si mê mình quá, cũng lấy làm lạ. Lúc đầu nàng chẳng để ý, nhưng lâu ngày nàng cũng thấy lòng mình vương vấn.

Mùa hè sang thời tiết oi bức. Bọn vương tôn công tử sợ nóng, không tới xem. Nhiều ghế khán giả bỏ trống ở phía trước.

Nhưng anh chàng Thiềm si tình nọ vẫn trung thành tuyệt đối với gánh hát. Mở màn ra trình diễn, Ngọc Hỷ lại đã thấy Thiềm ngồi đó nhìn mình không chớp mắt rồi.

Anh chàng Thiềm mồ hôi trán chảy ra như tưới, mà vẫn ngồi, cung kính lịch sự nghe hát. Chàng sợ người đẹp chê mình là thiếu nhã nhặn, đến nỗi ngay cái quạt cũng không dám đem theo để phe phẩy cho đỡ nóng.

Ngọc Hỷ biết thế, bất giác cảm động. Nàng hát trên sân khấu cũng có phần hào hứng hơn nhiều, làm Thiêm càng thấy mê ly quyến rũ hơn.

Ngọc Hỷ trình diễn xong vai mình, cởi bỏ hết áo tuồng, lẻn ra trước sân khấu, ngồi cạnh anh chàng Thiềm nọ.

Kim Cung Thiềm không ngờ mấy năm nay cái lòng yêu chân thành của mình lại được người đẹp hiểu cho và đáp ứng lại chàng sung sướng ngoài sức tưởng tượng. Nhưng Thiềm vốn là một anh chàng học trò thuộc loại mọt sách, hết sức ngốc nghếch về đường tình ái. Vừa thấy người đẹp tới cạnh mình, đã xấu hổ mặt đỏ tía tai, không biết ăn nói thế nào với người đẹp. Cuối cùng lại cũng phải Ngọc Hỷ gợi chuyện trước rồi Thiềm ấp úng một lúc lâu mới trả lời nổi.

Ngọc Hỷ hỏi Thiềm tên họ, hết chuyện này sang chuyện kia, đến cả cảm nghĩ của khán giả đối với diễn viên như nàng trong gánh hát. Câu chuyện về sau đã thấy hào hứng. Thiềm mất hẳn được cái nhút nhát e lệ lúc ban đầu.

Khán giả trong rạp thấy thế, không xem hát nữa mà hầu hết đổ dồn mắt vào cặp nhân tình đang trò chuyện thân mật trước sân khấu. Họ tấm tắc khen ngợi Thiềm, cho Thiềm là người được diễm phúc hiếm có ở đời.

Kim Cung Thiềm thấy người ta đổ dồn mắt về mình càng mắc cỡ, miệng ấp úng nói không ra lời. Mặt chàng càng đỏ tía, tai chàng càng tía. Chàng là một tay văn chương, nhưng đứng trước người đẹp, chàng thấy chữ nghĩa bay biến đằng nào hết. Lúc này chàng mới biết cái sức mạnh khủng kiếp của đàn bà, của môi son má phấn!

Ngược lại, Ngọc Hỷ thấy chàng càng ấp úng, càng mắc cỡ, càng đỏ mặt tía tai, lại càng yêu chàng, yêu với cả tấm lòng chân thực của mình. Nàng thì thầm bên tai chàng cho biết nhà nàng ở đường nào, rồi nhoẻn miệng cười vô cùng tình tứ và nhẹ bước quay đi.

Kim Cung Thiềm phải đợi một lúc lâu sau khi Ngọc Hỷ đi rồi, mới gọi được hồn, thu được phách trở về. Nhớ lại lời nàng thì thầm, chàng muốn đi ngay tới địa chỉ của nàng, nhưng chàng sực nhớ đến cái túi tiền.

Vốn là một anh học trò kiết xác, nhân dịp vào kinh đi thi, chàng góp nhặt mãi mới được chút ít, không có nhiều để ăn xài như đám công tử vương tôn. Thấy người đẹp, chàng mê, chàng bỏ tiền ra mua vé xem hát. Mua quá nhiều, tiền đã cạn sạch. Người đẹp hẹn chàng, nhưng biết lấy gì để đưa đón người đẹp buổi sơ giao? Lúc này chàng không còn gì nữa, chỉ còn một tấm lòng yêu chân thành mà thôi.

Anh nhìn tới cái hầu bao mà lòng như dao cắt, trí như muốn cuồng, con tim đánh lên những hồi trống trận khủng khiếp trong lồng ngực, chỉ muốn phá tung cái chỗ nằm chật hẹp đó mà ra.

Hồi 121 Người đẹp Hạnh Hoa Xuân

Kim Cung Thiềm say mê Ngọc Hỷ đã đến lúc ăn không ngon ngủ không yên, nhưng không còn một xu dính túi.

Thiềm chỉ còn biết đứng ngoài cổng rạp hát mà ngó, mặt ngây ra như kẻ mất hồn. Thiềm muốn đi cho khuất chốn này nhưng chân lại chẳng muốn rời. Chàng muốn nghe theo lời người đẹp tới chỗ hẹn nhưng tiền chẳng có một xu thì đi đâu.

Thiềm quyết định… Chàng quyết đem cái áo sa đài tới tiệm cầm đồ, để lấy tiền mua một cái áo dài bằng vải bố rẻ tiền mặc thế cái áo sa kia.

Ngọc Hỷ nhìn thấy, mặt cười như hoa nở, bước tới đón Thiềm. Vị sư phó thấy chàng chỉ là một anh thư sinh kiết xác, cũng có vẻ coi khinh, chẳng thèm để ý tới. Ngọc Hỷ xem chừng mọi người trong phòng đã lạnh nhạt với chàng bèn quảng cáo với đám đông:

- Anh Thiềm vốn là sư phó trong nhà Lục vương gia rất có thế lực. Các ngươi nếu có ý gì khinh khi, hãy coi chừng kẻo bọn mình khó sống tại đây đó.

Cả bọn trong nhà này đều giật mình kinh sợ, vội vã dọn rượu lên cho Ngọc Hỷ và Kim Cung Thiềm ăn uống trò chuyện.

Ngọc Hỷ ngồi bên cạnh Cung Thiềm, hai người vừa tình tự vừa ăn uống hết sức thân mật, âu yếm. Người sung sướng nhất phải là Cung Thiềm. Chàng có cảm nghĩ như mình bay bổng lên trời, đang đi vào thế giới đầy hoa thơm cỏ lạ, giữa các nàng tiên xinh đẹp.

Cơm rượu xong Thiềm móc trong ống tay áo ra mấy chục bạc để lên bàn đứng lên cáo từ định ra về, Ngọc Hỷ vội giơ tay nắm lấy ống tay áo chàng cười nói:

- Chàng quả thật là ngốc. Ai cần đến tiền của chàng. Chàng nhớ điều này nhé: hễ chàng tới với thiếp thì chàng không được quyền trở về nữa đâu.

Nói đoạn, Ngọc Hỷ kéo Cung Thiềm ngồi lại xuống ghế.

Thiềm ta sung sướng như điên, miệng mở to định nói lên điều gì mà không nói ra được, cũng chẳng đóng lại được nữa.

Hai người lại trò chuyện cười đùa trong phòng một lúc lâu nữa rồi mới chui vào màn the nệm gấm, cùng nhau hoàn thành mộng đẹp mơ ước bấy lâu.

Qua ngày hôm sau, Ngọc Hỷ lấy tiền của chính mình ra, lì xì cho bọn bồi phòng với bọn anh chị trong tửu quán, mất vừa, đúng một ngàn lạc bạc.

Bọn người chỉ biết có tiền này thấy có tiền thay đổi hẳn thái độ. Chúng cám ơn rối rít, lại xun xoe không một điều gì là không tích cực chu toàn.

Từ đó tất cả đám nhân viên trong quán coi Cung Thiềm như một vị thượng khách. Mỗi lần diễn hát xong, Ngọc Hỷ trở về đã thấy Cung Thiềm đứng đợi mình tại cửa phòng.

Mối tình của hai người lúc này đã mặn nồng lắm rồi, thế mà bọn vương tôn công tử vẫn còn như người nằm trong trống, chẳng biết tí gì, vẫn tung tiền ra chi cho người đẹp như tung qua cửa sổ, không đếm được là bao nhiêu.

Ngọc Hỷ lấy tiền của bọn vương tôn công tử đem về đưa cho Kim Cung Thiềm. Về sau Ngọc Hỷ điều tra ra là Cung Thiềm chưa có vợ nên quyết định lấy chàng. Nàng đem tất cả tiền của dành dụm được trong bao năm đưa cho Thiềm để chọn mua một ngôi nhà, mong xây dựng một cái tổ uyên ương ấm cúng trong tương lai. Cả ngày chàng và nàng chỉ lo bày biện xếp đặt căn phòng như thế nào cho lịch sự, cho ấm cúng.

Họ đi mua bàn mua ghế, mua tủ, mua đủ bộ lệ để trang trí khiến cho căn phòng xinh đẹp ưa nhìn hết chỗ nói. Họ tính chọn ngày lành tháng tốt để cưới nhau đàng hoàng rồi mới về nhà mới, tạo lập cuộc đời vợ chồng trăm năm đầu bạc như đã từng ao ước.

Ngày cưới và ngày về nhà mới đã tới, Kim Cung Thiềm mướn rất nhiều đầy tớ trai gái, để hầu hạ trong nhà. Qua ngày hôm sau Thiềm đi thuê một cô xe đánh tới nhà Ngọc Hỷ đón nàng về nhà mới, làm cô dâu.

Nhưng không ngờ khi Thiềm tới nhà Ngọc Hỷ, thì chỉ thấy nhà cửa vắng hoe chẳng có một bóng người. Chạy vào phòng ngủ của nàng Thiềm chỉ thấy phấn sáp ngổn ngang, chăn gối tiêu điều, ngoài một mụ già ngồi giữ căn phòng chẳng còn ai cả.

Thiềm vội hỏi mụ già, thì mụ ấp úng trả lời một cách ngớ ngẩn mơ hồ rằng nàng đã vào cung rồi!

Thiềm hỏi đi hỏi lại ba bốn lần nhưng cũng chẳng hiểu rõ được nguyên nhân đấy đủ. Chẳng còn cách nào hơn chàng chạy tới rạp hát đợi khi vãn hát. Khán giản xôn xao bàn tán bảo Ngọc Hỷ tối qua đã bị trong cung đem ba vạn lạng bạc tới mua nàng về làm phi tử mất rồi.

Thiềm nghe đoạn, hồn phách lên mây, mối tức hận tràn ngập trong lòng.

Ngọc Hỷ tiến cung là chuyện thật! Nguyên do Thôi tổng quản dò xét biết nàng đẹp, đem tiền tới bà bầu gánh hát nói rõ ý muốn mua nàng đưa vào cung, do đó mới có chuyện chia uyên rẽ thuý đau thương này.

Ngọc Hỷ vào cung, Hàm Phong hoàng đế thấy nàng đẹp, cặp má hồng thắm như cánh hoa hải đường, bèn đặt tên là Hải Đường Xuân.

Kim Cung Thiềm ở bên ngoài dò xét sự thể rõ ràng đích xác rồi, lặng lẽ về nhà, leo lên đầu giường thắt cố chết.

Hải Đường Xuân, sau khi bị đưa vào cung nhớ thương Kim Cung Thiềm quá đến nhuốm bệnh, suốt ngày không dậy được, uất ức đau khổ quá, cũng chết theo Cung Thiềm trong một buổi chiều mưa gió bão bùng.

Nhưng trong số "bốn cái xuân" của Hàm Phong hoàng đế, quốc sắc thiên hương nhất, da thịt nõn nà nhất, tươi tắn trẻ măng nhất phải nói là Hạnh Hoa Xuân.

Hạnh Hoa Xuân vốn con nhà lương thiện, cha mẹ mất sớm, nàng mồ côi từ lúc còn nhỏ tuổi. Người chú ruột đem nàng bán cho một gia đình giàu cô họ Thạch để làm a hoàn. Gia đình họ Thạch chỉ có mỗi một mụn con gái nên Hạnh Hoa xuân suốt ngày chỉ hầu hạ Thạch tiểu thư. Thân phụ Thạch vào cung làm quan, đem theo cả quyến thuộc. Dĩ nhiên Hạnh Hoa Xuân cũng phải đi theo.

Về sau Thạch tiểu thư được gả cho một cậu công tử con một vị thượng thư họ Từ. Hạnh Hoa Xuân lúc đó cũng theo Thạch tiểu thư về nhà họ Từ hầu hạ, vẫn làm a hoàn như cũ bồi phòng.

Cậu công tử họ Từ làm quan đến chức thị lang thường gọi Từ thiết gia thấy Thạch tiểu thư nhan sắc xinh đẹp, hết lòng yêu thương cưng chiều. Nhưng lại cũng vì quá cưng chiều, Từ thiết gia biến thành anh chồng râu quặp, khúm núm e dè trước phu nhân không dám ho he lấy một tiếng.

Hồi đó, Hạnh Hoa Xuân tuổi đã mười lăm, hiểu biết chuyện đời rồi. Mắt nàng trong sáng như mặt nước hồ thu, má nàng như đôi trái đào chín, miệng nàng xinh như đoá anh đào đương độ xuân sang. Chỉ một cái cười của nàng, cũng đủ để cho hàng vạn người mê say đắm đuối, hồn phách bay bồng chín từng mây.

Tiểu chủ nhân của Hạnh Hoa Xuân là Thạch thị lang thấy nàng quá đẹp, có ý thèm muốn, nhưng phu nhân nhà ghen quá, nên chẳng dám bờm xơm công khai mà chỉ âm thầm tính cuộc lâu dài.

Tuy chỉ là một con a hoàn, nhưng Hạnh Hoa Xuân được bà chủ mẫu cưng chiều, lại tự thấy mình có cái nhan sắc hơn người, nên chỉ muốn cưới một người chồng vừa ý. Ông chủ trẻ dù có tán tỉnh bao nhiêu cũng mặc, nhất định không chịu.

Mãi về sau Thạch thị lang chịu không nổi nữa, đành phải quỳ gối trước mặt phu nhân, cầu xin cho phép lấy con a hoàn làm vợ bé. Bà phu nhân nghe nói nổi cơn thịnh nộ rồi đem Xuân cất giấu đi một nơi.

Hồi đó, có một bà phúc tấn tôn thất chơi rất thân với bà phu nhân Thạch thị lang. Bà phu nhân họ Thạch bèn đem Xuân gởi sang nhà bà phúc tấn tôn thất này. Chồng bà phúc tấn là bối lặc tôn thất lại chơi thân với Thôi tổng quản rất tâm đầu ý hợp. Ông được biết Thôi tổng quản lúc đó đang có sứ mạng tìm người đẹp Giang Nam cho hoàng đế. Bởi thế ông vừa thấy Xuân đã tấm tắc khen đẹp, vội chạy đến phỉ báo cho Thôi tổng quản hay.

Thôi tổng quản đến nhà bối lặc tôn thất xem mặt cũng phải ưng chịu tức thì. Thế là bà phúc tấn của ông bối lặc tôn thất lập tức đi mời bà phu nhân Thạch Thị lang tới để nói rõ câu chuyện. Thôi tổng quản xin đem hai vạn lạng bạc mua con a hoàn đưa vào cung. Bà phu nhân thị lang nghe thấy số tiền quá lớn, liền thuận ngay. Hơn nữa, bà cũng nghĩ cái thứ "đồ chua" này mà còn để trong nhà, thì thế nào chồng bà cũng tìm mọi cách để chiếm đoạt chi bằng đưa tắp vào cung là êm chuyện, sạch mắt, khỏi phải ghen tuông khó chịu gì nữa.

Trước hôm Hạnh Hoa Xuân vào cung, Thạch thị lang làm một bữa rượu để thết đãi. Xuân ngồi ghế nhất, rồi hai vợ chông quỳ lạy trước mặt, cầu xin khi ở trước vạn tuế gian nói tốt cho đôi điều. Quả nhiên, Xuân được hoàng đế hết sức sủng ái.

Hạnh Hoa Xuân cũng nói tốt nhiều lần cho Thạch thị lang trước mặt hoàng đế. Thạch thị lang nhờ đó thăng quan tiến chức vù vù, chưa đầy một năm đã leo lên đến chức chánh sứ tỉnh Hà Nam.

Hạnh Hoa Xuân tính hay cười, mà lúc cười thì nàng đẹp lắm. Miệng nàng chỉ hé cười là đủ để cho người ta thần hồn bay bổng, tâm như mê, lòng như cuồng rồi.

Bởi thế, Hàm Phong hoàng đế giữa lúc giận tức đến đâu, mà thấy nàng cười một tiếng, là ngài hết giận làm lành ngay.

Hàm Phong hoàng đế tính vốn hay rượu, rượu say rồi thường cáu giận. Lúc đã cáu giận thì ít ra cũng có một vài tên thái giám hoặc cung nữ bị hại, nhẹ thì roi đánh gậy quật, nặng thì bị giết tức thì. Khi tỉnh lại, ngài hối hận quá đỗi, nhưng việc đã rồi, chỉ còn biết lấy hàng ngàn lạc bạc phủ tuất kẻ bị hại mà thôi. Đặc biệt không bị hoàng đế khiển trách hoạ chỉ có Hạnh Hoa Xuân. Mỗi lần ngài nổi giận, nếu được Hạnh Hoa Xuân cười lên một tiếng, rồi lăn vào lòng ngài, thì sự giận tức có lớn đến đâu chăng nữa cũng xẹp ngay. Mặt ngài tươi tỉnh hẳn lên, lòng ngài như quên hết mọi chuyện đã qua, vội giơ tay kéo sát nàng vào mình, thì thầm:

- Thật là viên ngọc như ý của trẫm đây.

Cũng vì vậy nên có bà phi cô tần nào lỡ chọc giận hoàng đế, thì phải chạy ngay tới Hạnh Hoa Xuân cầu cứu. Lúc đó, lỗi có lớn đến đâu chăng nữa, hoàng đế cũng gật đầu bỏ qua.

Toàn thể bà con trong cung nội mới tặng nàng cái biệt hiệu là Hoan Hỉ phật, cũng còn gọi là Lưu Hải Hỉ.

Hạnh Hoa Xuân cũng là người tốt, đối đãi với bọn cung nữ thật tử tế, hoà thuận. Nhưng nàng có một tính xấu là rất thích tiền. Trong phòng nàng đặt một cái rương lớn. Hễ được hoàng thượng thưởng tứ vật gì là nàng bỏ ngay vào đó.

Nói đến tiên với nàng thì đừng hòng lấy được một xu, một đồng nào. Dù cho kẻ đó có lừa, có bịp, có doạ, có nạt nàng nhất định cũng liều chết với rương tiền, không xuất ra một xu. Hàm Phong hoàng đế biết nàng có tính này nên thường tứ cho nàng rất đặc biệt. Do đó, nàng để riêng ra được rất nhiều tiền của châu ngọc. Nàng giầu, nên rất sợ bạn hữu vay mượn. Nàng ra ngoài thường giả bộ than nghèo kêu túng để chẳng ai vay mượn hoặc xin xỏ mình.

Suốt ngày ở trong cung, nàng chỉ nghĩ cách làm tiền. Nàng ỷ vào cái thế hoàng đế sủng ái, có bà phi, cô tần nào bị ngài nổi giận khiển trách, trừng phạt, chạy tới cầu cứu thì nàng chìa tay ra đòi tiền, một lần mở mồm là ít ra cũng năm trăm hoặc một ngàn lạng, thiếu một đồng cũng không được. Số tiền như thế kể ra quá lớn, nhưng vì tính mạng bà nào, cô nào cũng phải gật đầu cả. Việc nguy cấp đến đâu, mà tiền không có hay không đủ số là nàng mặc kệ, nhất định không giúp. Lúc đó, ai có việc mà thực sự không có tiền buộc phải viết một văn tự nợ thì mới có hy vọng nàng đi giùm. Văn tự nợ đến kỳ hẹn là nhất định phải thanh toán, không thể khất lần được, dù chỉ chậm một ngày hoặc thiếu một đồng; nhất định phải đủ số và đúng hẹn, nàng mới chịu và mới hy vọng được nàng cứu giúp lần thứ hai. Ấy cũng vì cái tính ham tiền mà nàng bị hầu hết bọn phi tần oán giận.

Mẫu Đơn Xuân tính gian xảo điêu ngoa, khác hẳn Hạnh Hoa Xuân. Nàng thấy Hạnh Hoa Xuân như vậy, bèn nghĩ ra một kế để chơi cho biết mặt. Nàng biết Hạnh Hoa Xuân rất thích đánh bạc, bèn mưu tinh với mấy tay bài bịp lừa Hạnh Hoa Xuân, để cho được lúc đầu rồi mới dốc túi vào phút chót. Quả nhiên, Hạnh Hoa Xuân thoạt vào đầu ăn luôn một hơi năm bảy bàn, tiền vào như nước. Nàng thích lắm, lúc nào cũng chỉ muốn gầy sòng, ngoài nhưng lúc bận hầu tiếp quân vương ra, đều có mặt tại sòng bạc, rủ rê hết người này tới, người kia nhập cuộc. Nàng đã trúng kế Mẫu Đơn Xuân.

Ngày một ngày hai nàng thua, thua mãi, lúc đầu ít còn muốn lấy tiền trong rương ra trả, nhưng về sau thua nhiều quá, mỗi lần ít ra cũng vài ngàn lượng, nàng xót của thương tiền, quyết không xuất trả nữa. Nàng khất lần, hết hạn này đến hạn kia. Khi đến hẹn nàng lại thối thác lý do này, nguyên uỷ nọ để trì hoãn tiếp.

Một hôm, Hàm Phong hoàng đế đi bách bộ trong vườn, lững thững bước từ Tầm Vân tạ đến Di Lan đình… Ngài bỗng nghe tiếng nói xôn xao, quát tháo, rồi tiếng đàn bà quát mắng đánh đấm nhau túi bụi.

Ngài nhón bước, lẹ ra trước đình và thấy trên bãi cỏ một đám cung nữ đứng thành vòng tròn, bên trong có hai nàng phi mặc quần áo Hán đang ôm nhau vật lộn cấu xé, đánh tát nhau túi bụi.

Nhìn kỹ hơn, ngài thấy một nàng người mảnh mai bị một nàng khác to béo đè lên trên, đôi chân nhỏ xinh đang đạp giãy lung tung để cố thoát trong khi đó nàng vóc to béo thì chiếc quần hoa thạch lựu lấm bết trong vũng bùn nước ướt nhẹp.

Hàm Phong hoàng đế thấy hai người giằng xé kéo co, cũng phải phì cười. Ngài rẽ đám cung nữ bước vào đích thân kéo cả hai nàng dậy. Cả hai người đều đứng im cúi đầu lặng thinh, nhưng tay vẫn nắm chặt lấy tóc nhau, không chịu buông ra.

Nhìn kỹ Hàm Phong hoàng đế mới biết một người là Hạnh Hoa Xuân, còn người kia thì Mẫu Đơn Xuân. Hai bên cung nữ lúc đó mới đồng thanh hô lên một tiếng:

- Vạn tuế gia tới đó! Không buông tay ra nữa sao?

Lúc đó hai nàng phi nọ mới chịu buông tay, đầu tóc rũ rượi, hơi thở hồng hộc, mặt mày xám ngoét.

Hoàng đế hỏi chuyện, Mẫu Đơn Xuân vừa thở vừa tâu:

- Hạnh Hoa Xuân đánh bạc thua, không muốn trả tiền!

Hoàng đế hỏi Hạnh Hoa Xuân thua bao nhiêu thì nàng tâu:

- Thua hết cả thảy là hơn sáu ngàn lạng bạc.

Hàm Phong hoàng đế nghe xong, bỗng phì cười bảo:

- Trẫm trả cho nhé. Đừng gây lộn nữa. Mau về hầu rượu cho trẫm đi.

Mẫu Đơn Xuân nghe hoàng đế nói vậy, chưa nén được cơn tức, hất hàm bĩu môi nói:

- Chỉ mình Hạnh Hoa Xuân được Phật gia sủng ái mà thôi. Phật gia thế nàng trả nợ một lúc luôn sáu ngàn lạng. Bọn thiếp quả thực không thể nào hiểu nổi. Chả trách đã lâu lắm ngài chẳng có thưởng tứ một chút gì cho bọn thiếp.

Hàm Phong hoàng đế thấy Mẫu Đơn Xuân có vẻ hờn dỗi, bất giác cười lên sằng sặc, bảo nàng:

- Trẫm thưởng! Trẫm thưởng cho nàng mà! Cũng thương cho sáu ngàn lạng được không?

Bọn phi tần đứng cạnh thấy hoàng đế ban thưởng, cũng nghĩ ngay đến mình, đều nhất tề tiến lên xin thưởng. Thế là hoàng đế phải thưởng hết tất cả, mỗi một cung nữ ngài thưởng ba trăm lạng.

Lời ban thưởng vừa chấm dứt, thì một loạt tiếng ca tụng ơn đức của hoàng đế vang lên:

- Đa tạ vạn tuế gia ân thưởng.

Hàm Phong hoàng đế được ca tụng, lòng vui sướng khoan khoái Ngài đi giữa, một tay ôm lấy vai Hạnh Hoa Xuân, một tay ôm lấy vai Mẫu Đơn Xuân, theo sau là cả một đoàn dài cung nữ phi tần, kéo thẳng tới gian chính thất mở tiệc vui say chè chén.

Đêm đó, Mẫu Đơn Xuân cùng với Hạnh Hoa Xuân, cả hai người đều được triệu vào lâm hạnh. Từ đó về sau, Hạnh Hoa Xuân khởi đầu hẳn một cái lệ là hễ mình thua bạc thi hoàng đế phải trả. Bọn phi tần cung nữ thấy vậy, bèn hùa nhau thông đồng để móc túi Hạnh Hoa Xuân, kỳ thực là móc túi Hàm Phong hoàng đế.

Ít lâu sau, Hạnh Hoa Xuân dành dụm riêng tây được một số khá lớn, lên tới mười vạn lạng bạc. Nàng lén gọi thái giám đưa ra khỏi cung, giao lại cho chủ mẫu, bà bố chánh sứ họ Thạch, để giúp nàng cho vay lấy lãi. Lãi càng ngày càng nhiều vốn càng ngày càng to, lúc đó, Hạnh Hoa Xuân lại sợ bà chủ mẫu manh tâm cướp mất của mình, nên lại bảo tên thái giám tới nhà bà chủ mẫu xin cho một mảnh giấy làm bằng cớ.

Bà bố chánh sứ nghe nói, tức giận sôi lên, lập tức đem số tiền trả vào cung. Hạnh Hoa Xuân sợ quá, tình nguyện đem một vạn lạng bạc biếu kính bà chủ mẫu nhưng bà không chịu nhận. Hạnh Hoa Xuân không còn cách gì khác, nên trước mặt hoàng đế, nàng xin cho người con trai bà chủ mẫu một chức nhỏ "tiểu kinh quan" gọi là để đền ơn.

Về sau, khi bọn ngoại quốc Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật, Áo, Nga, kéo vào đánh phá Bắc Kinh, Từ Hi thái hậu phải dắt vua chạy ra Tây An thì Tây Thái hậu nhân dịp loạn lạc này sai thái giám đem Hạnh Hoa Xuân ra thắt cổ chết, cướp sạch tiền nong mà nàng đã tích cóp được từ bao năm.

Hồi 122 Người đẹp Đà La Xuân

Trong cung Thanh thời Hàm Phong hoàng đế có bốn cái Xuân: Xuân Hạnh Hoa là một ta đã kể ở hồi trước. Nay đến Xuân thứ chót tức đến cái Xuân Đà La. Lúc mới vào cung, Đà La Xuân có một hoàn cảnh thật là bi đát.

Hàm Phong hoàng đế sau khi ôm được ba người đẹp trong tay Hạnh Hoa Xuân, Mẫu Đơn Xuân, Hải Đường Xuân, còn muốn thêm một cái Xuân nữa để cho đủ bộ tứ Xuân.

Một hôm, hoàng đế cải trang thành một khách thương vi hành ra ngoài cửa Tuyên Võ đạo chơi. Khi bước lên cầu Kim Toả ngài nhìn thấy một cô gái ôm giỏ quần áo vừa giặt từ chân cầu đi lên một ngôi nhà cao và tối om như mực. Ngài ngồi đợi bên ngoài, mong người đẹp trở ra, nhưng không thấy.

Ngài đành về hôm đó và dặn bảo Thôi tổng quản đem vài tên thị vệ đến nhà cô gái điều tra, Thôi tổng quản vâng chỉ chuẩn bị sẵn sàng.

Qua ngày hôm sau, bọn Tổng quản tới cầu Kim Toả, trước hết cho bọn thị vệ đi dò la các nhà chung quanh, mới biết gia đình nhà này họ Lý, chỉ có hai mẹ con. Người mẹ goá, cô con gái mới mười bảy tuổi.

Dò biết được như vậy. Thôi tổng quản cho rằng nhà chỉ có đàn bà thì dễ bắt nạt bèn vào tiệm vàng mua một ngàn lạng bạc đựng trong bốn cái quả sơn son thiếp vàng, bảo bốn tên thị vệ bưng theo.

Thôi tổng quản đi trước, đấy cửa bước vào, cho đặt bốn cái quả vàng giữa nhà trên, nói rõ ý mình. Bà quả phụ họ Lý nghe đoạn, tức thì nói:

- Con gái tôi đã gả chồng rồi! Mà nếu chưa gả chồng đi nữa, nó cũng chẳng muốn chết già trong thâm cung đó đâu. Ông đem tiền của ông đi đi. Dù có phải là nhà vua đi chăng nữa thì cũng phải có lý, có lẽ mới được, chứ không thể cương bức con gái nhà lương gia làm những việc hạ tiện như thế này. Thôi ông đi đi! Nếu không, tôi sẽ tới tố cáo ngay tại nha môn quan đề đốc bây giờ!

Thôi tổng quản nghe xong, bất giác cả giận, nói:

- Mụ chỉ là một người đàn bà, liệu con gái mụ có thể thoát khỏi được tay vạn tuế gia được không? Được! Ta sẽ đi ngay. Nhưng ta hẹn cho mụ mười giờ nữa, mụ sẽ thấy gia đình nhà mụ nhà tan người mất cho xem.

Bà goá phụ họ Lý tính còn nói nữa, nhưng cô gái chạy vội ra kéo bà vào trong.

Đợi khi Thổi tổng quản đã đi rồi, lúc đó cô gái mới bảo mẹ:

- Con nghe nói đương kim hoàng đế thuộc loại quỷ đói sắc, bọn cường đồ này tạm thời vào cung, nhất định sẽ trở lại. Nếu con không trốn ngay thì thế nào cũng bị độc thủ của chúng. Chi bằng con hãy tạm lánh trong nhà bà dì con lúc này đã.

Thế là bà goá phụ họ Lý vội đưa con đi giấu tại nhà bà dì.

Trời gần tối, Thôi tổng quản đem theo hơn chục tên thị vệ, hùng hổ xông vào cửa trước, tính để cướp cô gái.

Nhưng xông vào lục lọi một lúc chẳng thấy cô gái đâu, bọn chúng nắm lấy bà goá phụ, kéo xềnh xệch lôi ra ngoài phố.

Chỉ trong nháy mắt, khắp kinh thành đồn rầm lên. Cô gái nghe tin, định xông ra để cứu mẹ, nhưng bà dì ngăn cản bảo:

- Cháu xông ra lúc này, chính là tự nhảy vào lưới đó Chúng bắt mẹ cháu, chi là để doạ mà thôi. Theo ý dì, nhân cơ hội này, cháu nên tìm thằng chồng sắp cưới mà lấy tắp ngay đi. Cưới xong, hai vợ chồng cháu đưa nhau tới cầu khẩn tại nha quan thống lĩnh. Lão gia thấy đũa đã có đôi, gái đã có chồng rồi thì thôi chứ còn gì. Đương kim hoàng đế hẳn cũng chẳng nỡ chia uyên rẽ thuý vợ chồng cháu đâu mà ngại.

Đến lúc quá khẩn bách này, cô gái không còn tự chủ được nữa, vội nhờ bà dì tìm mụ mối tới nhà bà gia nói chuyện.

Nhưng không may cho nàng là anh chàng rể đã đi miền nam từ hai năm trước chưa về, còn đang sống trong vùng giặc giã chẳng biết sống chết ra sao.

Cô con gái được tin này oà lên khóc nức nở, vừa khóc cho số phận mình vừa khóc cho số kiếp của người yêu. Khóc một lúc lâu, vào lúc đêm khuya, tứ bề vắng lặng, nàng cởi sợi dây lưng treo cổ lên xà nhà tự vẫn.

Bà dì biết được, vội chạy vào phòng đỡ nàng xuống, cứu sống lại. Bà chỉ lo cho án mạng lại xảy ra, bọn người trong cung đến đòi người, chắc sẽ gây ra nhiều lôi thôi nguy hiểm nên bà khuyên nàng tới am sư nữ cắt tóc đi tu là hơn. Cô gái nghe lời, sửa soạn ra đi. Thân mẫu Lý tiểu thư vốn có một bà ni cô quen biết tên gọi Nguyệt Chân. Ni cô này trụ trì am Bạch Y trên núi Tây Sơn. Bởi thế, Lý tiểu thư lẻn trốn tới am này đầu phật.

Ni cô Nguyệt Chân hỏi ra mới ì biết bà Lý đã bị bọn cường đạo trong cung bắt và hoàng đế còn định bắt nàng vào cung. Bà nghe xong vừa thương vừa sợ, vội khuyên Lý tiểu thư thôi khóc, kẻo lộ hành tung ra ngoài:

- Theo ý của Lý tiểu thư thì nàng muôn xuống tóc làm ni cô ngay.

Nhưng Nguyệt Chân khuyên can, bảo:

- Cháu đã vào chùa thì bọn quan binh kia chẳng dám vào đây tra xét đâu. Hơn nữa thằng chồng sắp cưới của cháu hiện nay chưa biết sống chết ra sao. Nếu cháu xuống tóc quy y mà nay mai chồng cháu trở về liệu ni này ăn nói thế nào. Nay cháu tới nương cửa phật để tránh khỏi tai nạn, cháu có thể tu hành mà vẫn để tóc được. Đợi khi nào mẹ cháu được thả ra, chồng cháu được trở về, lúc đó ta sẽ cùng nhau bàn tính. Nếu mọi người khuyên cháu xuống tóc thì xuống, nếu không thì thôi, chứ lão ni này quả không muốn nhúng tay vào việc đó.

Lý tiểu thư đành nghe lời khuyên của ni cô tạm thời để tóc tu hành, sớm đánh chuông chiều đánh trống, lúc mõ lúc chiêng, dưa muối qua ngày nơi am thanh cảnh vắng của nhà thiền.

Bọn quan nha đi tìm kiếm Lý tiểu thư khắp kinh thành, đâu có chịu ngừng tay. Đánh hơi được tin nàng trốn tránh ở tại nhà bà dì, thế là chúng xông tới lục soát. Không thấy bóng Lý tiểu thư đâu, chúng bắt luôn bà dì đưa vào ngục giam lại, ngày ngày tra khảo.

Đáng thương cho bà Lý, tuổi đã già lại bị đói khát uất ức, đánh đập, tra tấn trong nhà lao, nên chẳng được bao ngày, bà chết luôn.

Bọn quan nha biết bà Lý không còn ai là thân nhân, cấp cho một cỗ quan tài gỗ tạp, khâm liệm qua quýt rồi đem chôn dưới một nấm mồ ngoài đồng hoang vắng. Còn bà dì nọ, nhờ được ông chồng bỏ ra ít tiền chạy chọt đút lót, mãi chúng mới thả ra.

Lý tiểu thư trốn trong chùa tuyệt nhiên không biết một tí gì xảy ra ở bên ngoài. Mãi đến khi bà dì nọ được thả ra đến cho hay tin, nàng mới oà lên khóc, đến chết đi sống lại nhiều phen. Miệng nàng kêu gào đòi cùng chết để theo mẹ.

Suốt ngày đêm nàng khóc, chỉ thiếp đi khi đã kiệt sức. Vì thấy nàng đã đến lúc liều, các sư sãi trong chùa phải ngày đêm đề phòng.

Lý tiểu thư thấy khó tìm được cái chết nơi đây nên bèn nghi ra một cách. Nàng nói với Ni Nguyệt Chân rằng mình đã đau khổ đến cùng cực rồi ni cô nên cho nàng xuống tóc quy y.

Ni Nguyệt Chân thấy lòng nàng đã thành, liền bằng lòng chọn ngày tốt thế phát cho nàng.

Đến ngày hôm đó, trên Phật đài hương hoa đèn nến sáng choang, Lý tiểu thư quy y trước toà sen, có hai vị sư ni niên trưởng hai bên, thả tóc nàng xoã xuống thành hai lọn buông thõng xuống hai bên vai, dài mãi tận mặt đất. Ni Nguyệt Chân bước tới trước Phật đài đọc một quyển kinh xong, thì hai sư ni đứng hai bên cầm kéo hót lẹ, tóc rơi rụng xuống đất. Đến lúc này, Lý tiểu thư lệ tuôn rơi tầm tã, mình khoác lên tấm áo cà sa, tay cầm một chuỗi hột mầu ni, chân đạp đất.

Thật đáng thương một đoá hoa nghiêng nước mà phải chịu cái cảnh nâu sồng dưa muối nơi am thanh cảnh vắng, sớm hôm sầu tủi lặng lẽ bên cạnh đám sư nữ.

Đứng trước cảnh tình ấy, ai chẳng động lòng thương xót. Nào ngờ số kiếp nàng còn nặng nợ, vận hạn vẫn chưa lui.

Thế là một hôm nọ, mười mấy tên thái giám bỗng xông vào chùa, quát bọn nữ ni phải ra hết để đón giá.

Ni Nguyệt Chân vội đem cả bọn sư nữ ra lom khom quỳ trên mặt đất. Đột nhiên một đoàn xe tứ mã cao mui rầm rập đi vào, quả nhiên Hàm Phong hoàng đế tới chùa thật.

Bọn nữ ni đồng thanh hô: "Phật gia vạn tuế, vạn vạn tuế!"

Hoàng đế đi thẳng vào nội điện, lễ Phật xong ngồi trên sập, cho gọi khắp lượt bọn ni cô ra bái yết. Một tên thái giám truyền chỉ vào phía trong, bảo phải tới đủ, không được thiêu một ai, nếu dối trá thì chỉ trong chốc lát am Bạch Y này lập tức sẽ ra tro. Ni Nguyệt Chân không biết làm sao đành quỳ xuống tâu lên:

- Trong thuở bần ni còn có một tên đồ đệ mới tới, tuổi tre e lệ, chưa rành lễ phép, sợ rằng xúc phạm đến thánh giá.

Hoàng đế truyền chỉ xuống bảo phải gọi người đồ đệ đó ra ngay, sẽ tha thứ cho tội thất lễ. Lý tiểu thư lúc đó trốn ở sau điện, nghe rõ cả mọi chuyện, nghĩ bụng mạng mình nguy rồi, chi bằng nhân lúc này tự tận cho xong nghĩ vậy, nàng nhác thấy một con dao bầu để trên bàn, liền cầm lấy đâm vào cổ. Nhưng nàng không ngờ trong lúc nguy cấp đó, ba bốn tên thái giám từ phía sau phóng tới chụp lấy con dao nọ, rồi chẳng cần hỏi tra gì, hai đứa xốc nách nàng, hai đứa đẩy đằng sau, vừa kéo vừa xô ra phía trước điện.

Lý tiểu thư tuy tóc đã cắt, nhưng làm sao che được cái mặt tươi như hoa, cặp mày ngài cong vút, cái cổ trắng nõn, tấm thân tròn trịa mịn màng như ngọc như ngà, thật chẳng giảm hơn lúc ngồi giặt tại đầu cầu Kim Toả bao nhiêu:

Hàm Phong hoàng đế nhìn kỹ người nàng, không khỏi lòng mừng như mở cờ, miệng cười toe ra như ống loa, tha thiết nói:

- Người đẹp, người đẹp! Thật là mòn gót mới tìm ra, vất vả cũng bõ công phu! Thôi, nàng hãy về cung với trẫm hưởng phú quý

Lý tiểu thư quỳ phía trước, chỉ khóc, nước mắt chảy đầm đìa trên mả, không nói ra được lời nào. Hoàng đế thấy nàng quả đáng thương, lại bị xúc động bơi cái sắc mê hồn; thế là ngài bước xuống, lấy ống tay áo mình lau lệ cho nàng. Ngài đem lời an ủi:

- Trẫm và nàng kiếp trước có duyên nợ cùng nhau. Từ hôm gặp nàng ở cầu Kim Toả, lòng trẫm nhớ nhung chẳng khuây, mộng mị đã nhiều ngày. Nay trẫm tới đây đón nàng, thực không phải để ép buộc nàng phải hiến thân cho trẫm, mà thực chỉ cầu mong nàng thương trẫm với một tấm tình si mê chiều quý. Thôi nàng hãy về cùng trẫm đi, để cho trẫm ngày ngày chỉ cần nhìn nhan sắc của nàng cũng đã đủ thoả nguyện rồi. Nếu nàng quyết chí tu hành, trẫm sẽ không dám cưỡng. Nhưng chốn am thanh cảnh vắng này quá chật hẹp, quá tầm thường, đâu có phải là chỗ nàng ở được. Trong vườn Viên Minh của trẫm, Phật điện có thiếu gì. Nàng cứ vào vườn và muốn tu tại nơi đâu thì tu. Trẫm còn cho mấy con cung nữ tới hầu hạ là đằng khác. Trẫm xin thề rằng tuyệt không cưỡng bức nàng điều gì.

Lời nói của Hàm Phong hoàng đế vừa ngọt ngào lại vừa ôn tồn. Bọn thái giám chưa từng được nghe những lời lẽ êm dịu như vậy bao giờ. Bởi thế chúng lấy làm lạ vô cùng.

Sau đó, hoàng đế quay hỏi vọng ra ngoài:

- Xe rước mỹ nhân đã sửa soạn xong chưa?

Phía ngoài có tiếng đồng thanh đáp:

- Dạ! Đã xong!

Thế là hoàng đế hạ lệnh cho đỡ người đẹp của ngài ra xe, Lý tiểu thư thấy bọn thái giám đến đỡ nàng vội chạy tới trước mặt ni cô Nguyệt Chân rồi lăn vào lòng bà. Nhưng đến lúc này thử hỏi Nguyệt Chân còn có cách gì để che chở cho nàng được nữa? Bà chỉ còn thiết tha căn dặn mọi điều rồi ghé tai thì thầm bảo rằng:

- Vào cung, tiểu thư không nên quật cường ngang ngạnh làm chi, mà có cũng chẳng được đâu. Lỡ hoàng thượng nổi giận thì mất mạng đó. Nay hoàng thượng đã vui lòng cho nhập cung, ta xem ra ông cũng biết thương số phận người con gái lắm đấy. Miễn làm sao tiểu thư đừng có thất chí, thì ngài cũng chẳng nỡ bắt ép gì đâu.

Lý tiểu thư nghe lời Nguyệt Chân, quyết định một chủ ý tức là chết mà thôi. Thế rồi nàng để mặc cho bọn thái giám đưa đi…

Hồi 123 Lan Nhi, cô gái Mãn tài hoa

Từ khi Lý tiểu thư vào vườn Viên Minh, Hàm Phong hoàng đế dặn bảo cung nhân để nàng ở trong chùa Tây Sơn phật tự. Ngài lại sai tám con cung nữ tuổi còn trẻ măng tới hầu hạ nàng.

Lý tiểu thư ngụ tại chùa này theo đúng nghi lễ của nhà chùa nào ăn chay trường, nào lễ phật hằng ngày.

Hàm Phong hoàng đế dù có những đoá hoa nghiêng nước như Mẫu Đơn Xuân, Hạnh Hoa Xuân với cả một bọn mỹ nữ cung tần xinh như mộng, đẹp như tranh vẽ nhưng lâu ngày vẫn khiến ngài buồn chán. Trong cung cấm, cánh sen tuy có đến ba ngàn, nhưng có cánh nào mà xinh mà đẹp, mà tình được như tiểu thư họ Lý đâu! Lý tiểu thư quả thật xứng đáng là một loại hoa trong muôn hoa một loại hương trong muôn hương, tuyệt thế vô song, không ai dám so bì.

Hàm Phong hoàng đế nhớ tới nàng tiểu thư họ Lý, nhớ người đẹp chim sa cá lặn mà những ngẩn ngơ lòng! Ngài lẻn bước ra đi, lần tìm về ngả chùa Tây Sơn để gặp người đẹp.

Lý tiểu thư vội ra cổng tam quan rước hoàng đế vào chùa, rồi nàng quỳ trước phật đài tụng hết cuốn này tới cuốn khác, mặc kệ bọn cung nhân hầu hạ hoàng đế. Nàng đợi khi hoàng đế gọi nàng, lúc đó mới chạy tới trước mặt ngài, lom khom quỳ lạy, mãi mà không chịu cất đầu lên.

Hàm Phong hoàng đế trong lòng nóng như lửa đốt không chịu nổi nữa bèn đưa tay kéo nàng đứng dậy. Nhưng ngài chỉ thấy nàng khóc lóc thê thảm, giọng nói:

- Vạn tuế hứa với tiện thiếp là cho vào cung tu hành. Vậy thánh chỉ của hoàng đế tưởng rằng cũng phải được chú ý tới lắm mới phải.

Hàm Phong hoàng đế bị nàng hạ một câu đó tắc ngay cổ, miệng không còn cách gì nói thêm, đành chỉ ngồi im mà thôi. Người đẹp ở ngay trước mặt, thế mà ngài không có cách gì cướp vào tay mình được, thử hỏi nỗi buồn của ngài đến độ nào!

Về sau, ngài thưởng cho người đẹp cái danh hiệu Đà La Xuân, và thường đến trò chuyện với nàng. Đà La Xuân thấy hoàng đế không có ý bức bách mình nên từ đó cũng không tỏ vẻ lãnh đạm như trước. Nàng đem chuyện mẹ nàng bị quan phủ dùng cực hình khảo đả đã đến nỗi phải bỏ mạng và cầu xin ngài trị tội viên quan phủ.

Hàm Phong hoàng đế y theo lời cầu xin của nàng, hạ dụ xuống. Lại bộ cách tuột chức viên quan phủ, đày đi mãi sang Ninh Cổ tháp sung quân.

Đà La Xuân thấy thù đã trả, lòng buồn từ đó cũng khuây dần. Nhưng cứ mỗi lần hoàng đế triệu hạnh là mỗi lần nàng cự tuyệt thà chết chứ không chịu. Đã có khi nàng cầm đao, tuốt kiếm định tự tử.

Trước tình cảnh đó, Hàm Phong hoàng đế đành khoanh tay chịu, chỉ còn cách gác lại chuyên này.

Hồi đó ai cũng biết Hàm Phong hoàng đế khoái gái nhỏ chân. Bởi thế bọn đại thần muốn lấy long ngài bèn cho người đi về vùng Dương Châu, Tô Châu, Hàng Châu, tìm không biết bao nhiêu cô gái nhỏ chân, có loại xinh như măng dòng, có loại đẹp như Hồng Lăng. Cô nào cô nấy đều mặc quần cao ống để cho lộ hẳn đôi chân nhỏ và xinh của mình cho ngài ngắm. Khắp vườn Viên Minh lúc đó người ta chỉ thấy những dâu chân nho nhô xinh xinh in khắp các lối đi.

Các cô đều đua nhau đi giầy, loại nào cũng đẹp, cũng thêu tuyệt kỹ cả, có đôi dùng chỉ xanh và đỏ để thêu những đoá hoa tươi sặc sỡ trên gấm; có đôi gắn những chiếc nhạc vàng nhỏ xíu kêu rốn rảng, lại có cả những đôi được rút ruột phía dưới đặng để đổ vào trong một lớp phấn hương, nên lúc đi cứ mỗi bước là mỗi lần tung phấn ra và mùi lương xông lên ngào ngạt.

Hàm Phong hoàng đế càng ngắm càng mê, vừa mê về chân lại mê cả sắc lạc cả hồn phách. Ngài như đã bay bổng mãi từng mây nào rồi, chỉ khổ một điều là quy củ lệ luật trong cung Thanh hồi đó, cứ hễ gái nhỏ chân mà bước vào cung thì phải chặt đầu.

Về sau nhờ Mục tổng quản nghĩ ra một giải pháp là tung tin ra ngoài, nói bọn thái giám trong cung không đủ để sai bảo, nên phải mướn đàn bà con gái người Hán để vào phụ giúp.

Tin này truyền ra, đám phụ nữ con nhà nghèo khó liền kéo vào cung làm mướn. Do đó trong cung đưa ra hai điều kiện:

Một: Còn nhỏ tuổi.

Hai: Chân nhỏ

Ngoài ra còn chọn những cô da trắng tóc dài, mặt mũi xinh đẹp để đưa và canh gác chung quanh tẩm cung của hoàng đế Bọn gái nhỏ chân này cứ đến đêm khuya lại bị hoàng đế gọi vào lâm hạnh hết cô này đến cô khác, có đêm tới ba cô liền. Sau khi lâm hạnh, hoàng đế đều tặng thưởng cho hết, nào vàng bạc, nào ngọc ngà. Ngài còn chọn trong số đó, cô nào đẹp, xinh, duyên dáng nhất thì giữ lại, rồi phong cho làm cung tần. Chẳng đầy nửa năm bọn gái Hán được phong cung tần ở đầy nghẹt cả vườn hoa, hoàng đế ở trong vườn có không biết bao gái đẹp hầu hạ sung sướng quá không muốn về cung nữa.

Chiếu theo lệ luật của cung nội thì mỗi năm hoàng đế chỉ ở trong vườn Viên Minh độ ba, bốn tháng gọi là "nghỉ mát" để tránh cái nóng của mùa hè. Đến tháng tám, sau ngày đi săn ở Mộc Lan thì ngài trở về cung.

Song năm nay, Hàm Phong hoàng đế ở luôn một mạch, tới tháng mười cũng chưa thèm trở về cung. Đến khi bà Hiếu Trinh hoàng hậu khẩn khoản tới đôi ba lần, ngài mới bất đắc dĩ trở về. Nhưng trong ba, bốn chục ngày ở lại cung đó, ngài làm sao quên được đám gái đẹp mơn mởn kia đang sẵn sàng chờ ngài đến? Nhiều lúc ngài đâm ra nhớ nhung, tương tư, ngẩn ngơ đến tức cười.

Chỉ vì Hàm Phong hoàng đế khoái bọn gái Hán chân nhỏ nên bọn này đâm ra lên mặt gớm! Trong đám được cưng chiều nhất phải kể Hạnh Hoa Xuân, Mẫu Đơn Xuân. Hai nàng Xuân này tác oai tác phúc quá xá trong vườn Viên Minh. Bọn phi tần người Mãn có ý ngán, đều phải tới phụng thừa hầu hạ nịnh nọt. Thật đáng thương cho chúng đều là những cô tú nữ được hoàng đế chọn vào cung, chỉ mong một ngày nào đó được ngài sủng ái thì gia đình thân tộc cũng được thơm lây.

Ngờ đâu hoàng đế say mê gái Giang Nam chân nhỏ ném tất cả bọn chúng ra phía sau, khiến nhà cửa tiêu điều, buồng the vắng lặng. Bọn chúng không còn cách gì khác, đành phải tới gõ cửa mấy nàng Xuân để may ra có nhờ vả được gì chăng? Trong đám tú nữ mới được đưa vào cung có một cô gái Mãn tên gọi Lan Nhi, tuổi vừa độ chanh cốm đang thì. Đã trẻ lại đẹp, đã tình lại duyên dáng nàng còn thông minh, tài ba nữa.

Từ khi vào vườn Viên Minh, nàng cũng chịu cái cảnh lạnh lùng đơn chiếc như bao nhiêu chị em khác trong một ngôi nhà nhỏ, dưới bóng cây cao rậm, làm bạn với cỏ hoa.

Giữa cảnh nhà hoang vắng âm thầm, nàng chỉ nghe văng vẳng xa đưa những tiếng đàn giọng sáo, những tiếng nói cười say sưa ngả nghiêng bên tiệc rượu từ những ngôi nhà cao, những lầu son gác tía lộng lẫy đâu kia! Nàng hỏi ra mới biết đó là những yến tiệc náo nhiệt của hoàng đế đang mải miết say sưa bên đám gái Hán. Nghe như vậy, nàng chỉ còn biết thở dài đóng cửa, cài kín buồng the, mài miệt trong sách vở thi hoạ, để quên đi ngày tháng.

Chẳng mấy ngày Lan Nhi đã viết, đã hoạ được vô số tác phẩm, đều vào hàng tuyệt bút. Lan Nhi quả là một cô gái thông minh tuyệt thế. Rồi đây, nàng sẽ làm những chuyện động trời, nàng sẽ gây sóng gió cho dòng lịch sử Trung Hoa.

Ngay cả đến cái triều đình nhà Thanh dài lâu hàng ba, bốn trăm năm kia, cũng do một tay nàng điều khiển. Đấy là những trang lịch sử tân kỳ mà chúng ta sẽ lần lượt đọc thấy ở sau.

Ta hãy kể lược lại mảnh đời của Lan Nhi khi còn hàn vi, chưa có được phút huy hoàng oanh liệt của mai này.

Hồi 124 Từ Hi thái hậu

Lan Nhi chính là nhũ danh của Từ Hi thái hậu sau này, một người đàn bà đã làm rạng danh giới phụ nữ trong chế độ quân chủ và cũng là một bà hậu đã đưa nhà Mãn Thanh đến giai đoạn kết cục.

Từ một cô gái nhà nghèo, nghèo đến mức không đủ bát ăn, Lan Nhi đã nhảy vọt lên tới địa vị của một bà phi, rồi địa vị của một bà thái hậu nắm trong tay vận mệnh của cả đất nước, cả dân tộc Trung Hoa một thời.

Đạt tới địa vị cao cả và vinh diệu như vậy, Lan Nhi hẳn phải có sắc có tài lắm. Tài sắc của Lan Nhi như thế nào?

Nguyên Lan Nhi là một cô gái dòng họ Na Lạp vốn người Mãn Châu thuộc đội Chánh Hoàng kỳ. Tổ tiên của nàng thuộc bộ lạc Diệp Hách. Hiếu trang hoàng hậu của vua Thái Tông trước đây cũng họ Na Lạp. Gia đình môn hộ của Lan Nhi phải kể là khá giả có tiếng tăm. Lan Nhi chính là tên tục của nàng, do cha mẹ đặt cho từ hồi nhỏ, cha nàng tên gọi Huệ Trưng. Dòng họ Na Lạp truyền tới Huệ Trưng thì đã quá suy vì nghèo khố.

May được ông nội trước có công lớn với triều đình, do đó, Huệ Trưng mới được nhờ ơn thế tập và mỗi năm có chút lương bổng lãnh về nuôi gia đình.

Ông Trưng xuất thân nghề viết thiếp, sáu năm trong nghề, ông trở thành một tư viên. Vợ ông thuộc dòng họ Đông Giai, do đó, ông nhờ thế lực bên vợ nhẩy một phát từ cái chức nhỏ tư viên lên cái chức hải quan đạo tỉnh An Huy miền Vu Hồ.

Triều nhà Thanh, trong chức vụ đạo ban, phải nói quan đạo là lớn nhất, triển vọng to tát nhất. Ông Trưng may vớ được cái chỗ khuyết này, thật là một chuyện hiếm có, tha hổ rộng bước đường quan từ đấy. Lòng ông sung sướng như mở cờ, ông liền mang gia đình lên đường nhậm chức.

Gia quyến của ông Trưng tuy không đông lắm, nhưng cũng đủ trai đủ gái. Ngoài bà vợ họ Đông Giai và cô gái Lan Nhi ra, còn cậu trai tên gọi Quế Tường và cô gái út Dung Nhi.

Như thế gia đình gồm có năm người. Trong hai cô gái, thì Lan Nhi là chị, lúc đó đã mười hai tuổi.

Theo lời bà thái thái Đông Giai thì khi sinh ra cô bé Lan Nhi, bà có một cái mộng quái lạ. Bà mộng thấy vầng mặt trăng sáng long lanh từ trên trời rớt xuống ngay bụng. Bà giật mình tỉnh dậy, cảm thấy đau. Hôm sau bà sinh ra một bé gái, đó là Lan Nhi.

Người Mãn Châu thường coi trọng con gái hơn con trai. Con gái khôn lớn còn có hy vọng làm hoàng hậu. Vì trọng gái, cho nên các gia đình người Mãn thường cho con gái ngồi ghế đầu.

Bà Đông Giai đã có cái quan niệm đó do tập quán, nay lại còn có cái mộng kỳ lạ nọ gây niềm hy vọng, nên càng quý Lan Nhi coi như vàng như ngọc. Thêm một điều nữa là Lan Nhi mặt mũi lại xinh đẹp hơn Dung Nhi nhiều, thân hình duyên dáng khôn tả, tính tình ôn nhu thuận theo rất mực. Đã thế, Lan Nhi còn thông minh hơn người chẳng mấy kẻ dám bì kịp.

Trong số bạn gái chơi thân với Lan Nhi, có lẽ chỉ có một mình nàng là nhà nghèo, khổ sở nhất, bạn thì mặc nào tơ nào lụa, nào gấm vóc, trái lại nàng chỉ có vài manh áo vải, vài chiếc quần thô. Tuy vậy, với cái sắc đẹp tuyệt trần, dù chỉ khoác cái áo dài vải bố màu xanh lá cây, nàng cũng nổi bật hẳn, không ai dám chối cái giá trị nghiêng nước nghiêng thành của nàng.

Cô gái này giàu ư? Đừng khoe giàu với nàng vì có dát vàng điểm ngọc vào người, cô cũng chẳng sánh được cặp mắt hồ thu lóng lánh đa tình của Lan Nhi. Cô gái kia sang ư? Sang cũng chẳng làm cách nào cho cô vẻ quý phái hơn được cái bộ mặt trái xoan như ngọc như ngà điểm sáng cặp môi son tươi nở đoá hoa như Lan Nhi.

Lan Nhi có hai cái tật tệ hại hết sức mà mãi tới già nàng cũng không thể bỏ được.

Cái tật thứ nhất, đó là cử chỉ của nàng quá khinh bạc, kiêu hãnh. Nàng chỉ cần che miệng cười duyên hoặc vuốt mớ tóc mây lờa xoà bên má một cái, cũng đủ cho hàng ngàn người mê say như điếu đổ.

Cái tật thứ hai là thích ca những bài ca ngăn ngắn. Hồi nhỏ, nàng được ông Huệ Trưng cho đi học. Tuy thông minh hơn người, nhưng sách vở có hạn, nàng cũng chỉ học đến một độ nào đó thôi. Nhưng giọng ca tiếng hát của nàng thì hình như đã có từ kiếp trước. Vừa mê say lại vừa thông minh sáng trí, Lan Nhi thông thạo đủ nào là Kinh điệu, nào Côn khúc, nào Nam Bắc tiểu điệu. Nàng chỉ cần nghe qua một lần là ca lại đúng in như cũ, chính không trật một chữ, không sai một âm. Nàng còn được trời cho cái giọng uyển chuyển, lên bồng xuống trầm tuỳ nghi khiến những bản nàng hát có một sức quyến rũ mê hồn. Lúc đầu, nàng chỉ ca một mình, cho mình nghe cho khuây khoả nỗi lòng, nhưng về sau, nàng còn ca cho các chị em bạn gái nghe, đệm thêm sênh, phách, đàn địch nữa. Khi nghe nàng ca, quả không ai là không ngừng hết mọi việc để lắng nghe, nghe rồi họ mê, họ say, không muốn rời nàng ra nữa.

Bà mẹ Đông Giai thấy con ca hát, có nếp sống như phóng đãng tự do quá, cho rằng chẳng đẹp tốt, đã nhiều phen ngăn cấm. Bà thì thế, nhưng ông, thì lại khác. Ông Huệ Trưng cưng con gái, lại còn thích nghe con gái ông hát. Thế là học được bài kinh điệu nào từ trước, ông đem ra dạy con hết!

Hai cha con Huệ Trưng từ đó say mê với điệu hát, câu ca. Nhà chưa có gạo, chưa có củi ư? Mặc kệ nó! Hát đã, ca đã. Hai cha con ông cả ngày, cả đêm, sáng cũng ca, tối cũng ca, no cũng ca, thậm chí đói cũng ca. Khi thì hai cha con ca bản "Tam Nương giáo tử", Lan Nhi thì làm Tam Nương, còn ông thì làm lão Tiết Bảo. Có khi ca bản "Phần Hà Loan", cũng có khi ca bản "Nhị tiến cung".

Hai cha con dùng phòng khách làm sân khấu, kéo cho kỳ được bà Đông Giai làm khán giả. Bà này lúc trước còn khuyên can nhưng về sau thấy không thể can nổi, bèn để mặc. Tất cả cảnh đời này của Lan Nhi là đều nằm trong thời gian mà ông Huệ Trưng chưa đi nhận chức hải quan đạo miền Vu Hồ.

Rồi Lan Nhi theo cha lên đường nhậm chức. Vu Hồ vốn là một thị trấn đông đảo náo nhiệt. Phía trước cửa Tây thành là bờ sông lớn. Dọc bờ sông các quán rượu tiệm trà mở cửa san sát. Trong các quán tiệm, khách ăn uống tới lui tấp nập. Các rạp hát cũng nhờ đó đông đảo, sầm uất.

Lan Nhi lúc đó vốn còn tính trẻ con, thích xem hát lại thêm cha có tiền nên thường đem theo một con a đầu, một thằng bé, ngày ngày tới rạp.

Anh chàng chưởng quỹ rạp hát biết nàng là con gái ông quan đạo nên đặc biệt chú ý và xu phụng hết chỗ nói. Nàng Lan Nhi đi xem hát, có cái tính rất cổ quái là không thích ngồi trong ghế đàng hoàng, mà lại chỉ thích ngồi ở những ghế sát Sàn sân khấu. Nàng đi xem hát lâu ngày, biết tên hết các tài tử trong gánh hát. Toàn ban gánh hát, ai cũng đều biết nàng, và thường gọi nàng là Lan tiểu thư.

Lan tiểu thư hằng ngày tới rạp hát xem hát, người ta không ai biết được nàng đã đi đến bao lần. Mỗi khi có những ngày sinh nhật của cha mẹ hoặc của anh, của chị em, nàng đều cho gọi gánh hát về nhà hát mua vui.

Lan Nhi ngoài tính thích xem hát, lại còn khoái vào quán. Cha nàng làm quan tại đất Vu Hồ này vốn có thân binh, cho nên ông thường cho hai tên đi bảo vệ nàng khi ra ngoài du ngoạn và vào quán ăn uống. Dân chúng miền Vu Hồ không ai không biết nàng là tiểu thư con ông quan đạo và họ thường cũng gọi là Lan tiểu thư.

Nói đến ông quan đạo này, phải nói đây là một trường hợp đặc biệt. Ông ở lâu tại kinh thành làm một kẻ bị sai phái, hết sức nghèo nàn khổ sở, bới thế khi kiếm được một chỗ béo bở, ông bèn mở túi tham ra, tha hồ ăn hối lộ tham tàn, đòi đút lót thậm thọt, không một cái gì bậy bạ mà không làm, để vét cho nhiều tiền tiêu xài cho bõ những lúc cơm hẩm canh đậu hũ. Ông ăn hối lộ, tham nhũng đến nỗi chưa đầy một năm mà đã có đơn tố cáo. Nhưng những đơn này đều nhờ thế lực trong triều tìm mọi cách bưng bít đi nên chưa xảy ra việc gì.

Qua năm thứ hai, ông bố vợ trên kinh chẳng may chết mất, thế lực từ đó không còn. Ấy cũng chẳng qua cái vận đen đã tới với ông quan đạo Huệ Trưng.

Ông quan đạo Huệ Trưng không dè tóm ngay phải một chiếc thuyền của Giang ngự sử, bảo vị này chở hàng lậu. Đã thế lại còn đòi hối lộ tịch thu luôn cả một bè tre trị giá ba ngàn lạng bạc.

Vị ngự sử họ Giang vốn có uy thế trong kinh, lại quen rất nhiều các vị vong gia. Khi về tới kinh, ông hậm hực, bực tức dâng ngay lên một bản tấu chương đàn hặc Huệ Trưng.

Lúc này, ông bố vợ Huệ Trưng đã chết, chẳng còn ai là người ở kinh giúp ông để chạy chọt, tâu bày. Thế là một đạo chỉ dụ hạ xuống, cắt chức, điệu ông về quê. Được lời xét xử này, ông tự cho là may lắm, bèn xếp trống cuốn cờ, so vai rụt cổ, đem gia quyến về An Khánh tỉnh An Huy trú ngụ.

Giang ngự sử còn muốn dâng lên thêm một tờ sớ bắt Huệ Trưng phải thanh toán hết mọi khoản tiền thu được khi tại nhiệm trước nha môn quan án sát. Nhưng may được tuần phủ An Huy, vốn có chút tình thân thích họ hàng với Huệ Trưng, hơn nữa Trưng còn bỏ ra đúng một vạn lạng bạc để chạy chọt lo gỡ, nên cơn sóng gió ngặt nghèo qua đi được.

Huệ Trưng làm quan một thời gian, đã quen mùi phú quý, nay ăn không ngồi rồi tại vùng An Khánh thì quả thật là buồn. Thấy thế bà Đông Giai mới khuyên ông năng lui tới nha môn quan tuần phủ, để cầu mong một chức vụ dưới quyền.

Quan tuần phủ An Huy Hạc Sơn thấy Huệ Trưng tính tình cần mẫn lại thông minh, ăn nói cũng khá, nên thường sai đi đây đó, lo liệu giải quyết nhiều việc giúp mình. Huệ Trưng nhờ đó mà được nể trọng.

Hồi đó, miền bắc tỉnh An Huy xảy ra ngập lụt. Bà Đông Giai liền khuyên chồng nhân cơ hội đó, xuất ra một vạn lạng bạc để phát chấn cứu giúp dân chúng. Rồi đến hôm sinh nhật quan tuần phủ, lại còn lén đưa tới biếu đến hai vạn lạng bạc.

Tất cả ba keo như vậy, tiền của trong nhà coi như đã cạn, ngay cả đến đồ nữ trang của bà Đông Giai cũng phải bỏ cả vào đấy nữa mới đủ.

Quan tuần phủ Hạc Sơn đã được tiền của người tất nhiên phải giúp người gỡ nạn trừ tai. Ông bèn giúp Huệ Trưng, dâng một tờ sớ vào triều khen Trưng là người vừa thông thạo vừa mẫn cán, hăng hái làm điều thiện, đồng thời bảo cử Trưng đảm nhiệm chức vụ sai sứ trong công cuộc chẩn tế.

Không ngờ số mạng Huệ Trưng đúng là rủi ro. Tập tấu sớ nọ mới đi được ba ngày, thì tuần phủ Hạc Sơn nhuốm bệnh rồi lăn ra chết. Nội vụ giao lại cho án sát sứ Thự Lý xét. Nhưng ông án sát này lại chính là một tay đối thủ với Huệ Trưng.

Một đao thượng dụ hạ xuống, bố chánh tỉnh Sơn Đông là Nhan Hy Đào được thăng chức An Huy tuần phủ. Đào vừa nhận chức, Lý bèn đem hết chuyện Huệ Trưng tham lam, hối lộ ra sao, cấu kết với thượng ty thế nào, tố cáo một loạt với Đào.

Nhan Hy Đào vốn là một vị quan thanh liêm nổi tiếng. Bình sinh Đào ghét cay ghét đắng bọn tham quan ô lại. Nay nghe chuyện Huệ Trưng, hỏi sao Đào chẳng chán ghét Trưng.

Huệ Trưng vào nha môn xin yết kiến ba lần, nhưng quan tuần phủ họ Nhan đều không cho gặp Trưng phát hoảng, vội chạy đi dò la tin tức lúc đó mới biết án sát Lý thọc gậy bánh xe, phá chuyện làm ăn của mình.

Trước đây, Trưng có ít tiền, nhưng đem biếu cho quan tuần phủ tiền nhiệm hết rồi, đến nỗi mắm muối, cơm áo độ nhật, trong nhà cũng đã khó khăn thì còn lấy tiền đâu nữa để biếu kính quan trên lần này?

Trưng không có cách nào khác, chỉ còn nước liều mặt dạn mày dày, hằng ngày lên cổng nha chầu chực, may ra quan tuần phu mới có nghĩ tới mà đoái thương. Nhưng quan tuần phủ họ Nhan đã ghét thì Trưng làm sao mà được vào gặp mặt? Thực thế, chẳng bao giờ họ Nhan cho gọi Trưng vào tương kiến cả. Trưng xoay xở một số tiền, nhỏ to với một vài tên hoạt đầu chuyên chạy cổng sau nơi các dinh thự quan lại, đề nhờ họ nói tất cho mình trước quan tuần phủ.

Quan tân tuần phủ họ Nhan đã ghét Huệ Trưng tới xương tuỷ. Bởi thế khi nghe tới tên Trưng, ông lắc đầu lia lịa, còn đưa thêm cả bộ mặt Trương Phi đến phát khiếp nữa. Mấy tên hoạt đầu thấy thái độ ấy, tắc họng, muốn nói mà lưỡi cong lại không phát thành tiếng.

Thời giờ thấm thoát thoi đưa. Huệ Trưng nấn ná tại An Khánh đã một năm tròn, mà thất nghiệp vẫn hoàn thất nghiệp.

Rồi hai năm… rồi ba năm cũng chẳng có việc làm.

Khi còn làm chức quan đạo, Huệ Trưng có đầy đủ phương tiện, tiền bạc để ăn tiêu huy hoàng, ăn thì ăn ngon, mặc thì mặc đẹp, ra ngoài thì nào xe nào ngựa, cho nên dù sao ngày nay cũng không thể để mất thể diện được. Hơn nữa. Lan tiểu thư lại là người thích làm dáng, khoái ăn chơi, thì tuy đất An Khánh không bằng Vu Hổ, nhưng cũng là nơi thị tứ tỉnh thành, có vài ba đường đại lộ, năm ba cái quán trà, rạp hát, nàng không thể nào không chi tiền, không dung dăng dung dẻ đó đây, để gọi là trình diện với thiên hạ, khoe cái sắc đổ quán xiêu đình của mình.

Đã thế, Huệ Trưng lại còn bị cái bệnh nghiền, bao nhiêu tiền đều chui tọt vào nõ của cái dọc tẩu nọ. Cũng chính nó còn làm hại Trưng thêm nữa, bởi quan tuần họ Nhan vốn thâm thù bệnh này, nay ông rõ Trưng có tính bê tha nghiện ngập, lại càng chán ghét già, khiến từ đó ông không thèm để ý tới nữa. Có điều khiến ông vẫn còn nhân nhượng, không dâng sớ đàn hặc Huệ Trưng, đó là vì Trưng vốn ty viên trong Kỳ tịch.

Huệ Trưng thất nghiệp luôn ba năm, tục ngữ có câu "Miệng ăn núi lở", thật là đúng ở trường hợp này. Còn chút ít tiền dành dụm cuối cùng đều hết sạch, đến nỗi phải đi vay để độ nhật, về sau không vay mượn được, cầm bán mãi đến sạch nhân, đến miếng ăn cũng lần không ra nữa.

Mẹ con Lan tiểu thư bốn người cả thảy nhiều bữa phải chịu đói, chịu rét. Lan tiểu thư vốn thích trưng diện, thích ăn chơi, thích phồn hoa náo nhiệt, nhưng chẳng may gặp gia cảnh thê lương như vậy thì làm sao dám đòi này đòi nọ để tiếp tục như thế nữa. Với tuổi mười lăm, mười sáu, tuổi dậy thì của cuộc đời son trẻ ngây thơ, Lan Nhi đã phải chịu cái cảnh túng quẫn, kể tội nghiệp thật! Đã có nhiều lần cô nhìn hình bóng trong gương mà tự thương mình.

Lan tiểu thư càng lớn thì sắc đẹp càng mặn mà. Với nhan sắc đổ nước nghiêng thành, da trắng như tuyết, mặt xinh như ngọc mà hằng ngày phải chịu cái cảnh đầu bù tóc rối, áo quần lam lũ, một gáo nước lại một gáo bùn, hỏi sao nàng chẳng oán than buồn khổ. Cứ mỗi lần xúc động can trường, thương xót thân mình, nàng lại chạy xuống bếp trốn trong các góc kẹt để khóc ròng, khóc cho vơi hết nỗi khổ, nỗi buồn.

Bà Đông Giai thấy con gái đẹp xinh như đoá hoa hải đường trên cành xuân thế kia mà phải chịu cái cảnh nghèo túng khố sở, cũng không nhịn nổi nữa, thế là bà chạy tới gây chuyện cãi lộn với chồng. Thực ra, ông Huệ Trưng thấy vậy cũng làm sao không thương, nhưng cùng quẫn đến hết mức rồi, đành chịu chứ biết làm sao hơn?

Đã đến lúc quá quẫn, nào là tiền nhà, tiền cửa, nào là tiền gạo, tiền muối, trăm thứ tiền đòi hỏi, gia đình Huệ Trưng y như nằm trên chiếc chảo rang. Đã thế, ông Trưng lại thiếu thuốc hút. Cái thứ thuốc phiện bữa có bữa không, thất thường rõ rệt, lại thêm lo buồn sầu khổ tứ phía dồn về, ông Trưng ngã bệnh nằm liệt giường.

Bệnh ông liên miên, hết ngày này qua tháng khác, từ mùa thu năm trước đến mùa hè năm sau, đúng một năm tròn, mà vẫn không bớt, trái lại càng nặng thêm.

Bà Đông Giai vì nhà không tiền, nên lúc nào cũng bỏ mặc ông chẳng để ý tới, mãi về sau, thấy bệnh tình có bề trầm trọng mới hoảng lên. Bà vội lục mãi dưới đáy rương, lấy ra một cành thoa bằng vàng, từ hồi còn là một cô dâu, rồi bảo cậu con trai cả là Quế Tường đi cầm lấy tí tiền về để chạy chữa thuốc thang cho chồng.

Quế Tường lớn hơn Lan Nhi một tuổi, năm đó mười tám tuổi, nhưng ngây ngô đần độn hết chỗ nói. Tường chẳng biết một tí gì, nên hôm nay, mẹ bảo đem đồ đi cầm thì thẹn đến đỏ mặt, chối đây đẩy, bảo con chẳng biết đến việc ấy.

Lâu nay, những chuyện cầm cố mua bán ở ngoài chợ, trên phố, đều do bà Đông Giai đi làm lấy hết, nhưng nay ông Huệ Trưng nằm đấy, bệnh thế đã đến lúc nguy kịch, cho nên bà chẳng tiện rời khỏi ông mà đi xa, do đó mới bảo Tường. Thấy Tường không chịu đi, bà Đông Giai thở dài:

- Mày là một thằng ngu ngốc! Chỉ có chút việc đó mà không làm được, thì hỏi sau này trông vào mày làm sao đây?

Nói đoạn, bất giác lệ bà tuôn xuống như mưa. Lan Nhi ở bên cạnh thấy mẹ khóc lóc thê thảm, liền đứng dậy cầm cành thoa đi lên phố.

Anh chủ tiệm cầm đồ thoạt thấy một cô gái sắc nước hương trời vào tiệm, thì hồn phách bay biến từ lúc nào. Y nhe bộ răng cải mả ra cười khì khì, trố đôi con mắt to như hai con ốc bươu, để ngắm người đẹp. Y ngồi trước cái quầy lót kính, vừa cười vừa liếc, xoắn xuýt hỏi Lan Nhi:

- Nào cô bé cô lớn ơi! Cô muốn lấy bao nhiêu tiền đây?

Lan Nhi thấy điện bộ của anh chủ tiệm cầm đồ như vậy, thẹn đỏ mặt và cũng thấy bực mình. Nàng đáp:

- Ông xem giá bao nhiêu thì đáng bấy nhiêu, chứ còn phải hỏi gì nữa?

Anh chủ tiệm cầm đồ nói:

- Mười tiền thôi chứ bao nhiêu?

Lan Nhi nghe nói bất giác cười thầm trong bụng. Nàng nghĩ một cây thoa vàng, nhưng là vàng giả này mà giá đáng mười tiền thì quả buồn cười. Bởi thế nàng không do dự gì cả đưa ngay cây thoa cho anh ta.

Thật đáng thương cho anh chàng chủ tiệm cầm đồ, chỉ vì cái sắc của Lan Nhi mà mắt bị mờ, nên đã coi của giả ra của thật, mất toi mười tiền.

Nàng Lan Nhi cầm số tiền về nhà vội đi mời thày lang.

Ông lang tới nhà bắt mạch, chỉ thấy lắc đầu lia lịa, bảo nàng:

- Bệnh lao đã tới thời kỳ chót, không làm gì được nữa rồi! Nên lo liệu hậu sự cho ông nhà đi thôi.

Bà Đông Giai nghe lời cụ lang hồn vía đã vội lên mây. Bà nghĩ gia đình bà lưu lạc tha hương, chẳng may ông chồng có mệnh hệ nào thì ngay đến cỗ quan tài cũng không có tiền nổi.

Y nghĩ đó vừa lẩn quẩn trong óc bà, thì trên giường kia, chồng bà, ông Huệ Trưng, mặt đã nhăn lại, mắt đã trợn trừng lên, lạc hết tinh thần.

Bà Đông Giai vội kêu các con tới đủ mặt, con trai Quế Tường, con gái Lan Nhi, Dung Nhi, tất cả đều xúm quanh gọi nhưng không kịp nữa, ông Huệ Trưng đã đi xa rồi, hoạ chăng chỉ còn vài hơi thở hắt ra mà thôi. Rồi chỉ thấy đôi chân ông duỗi mạnh ra một cái, thế là xong cả một cuộc đời ba chìm bảy nổi vật lộn với đời, nhưng rút cuộc tàn trong bệnh hoạn và nghèo khổ.

Bà Đông Giai ôm lấy chồng mà kêu khóc. Bà nghĩ tới cảnh goá bụa cô đơn mà khóc thêm, khóc đến thê thảm khôn nguôi.

Lan Nhi, Dung Nhi, Quế Tường cũng oà khóc theo mẹ. Thế là cả nhà đều cùng khóc đến đất thảm trời sầu.

Thật đáng thương, ông Huệ Trưng khi nằm xuống, đến cái quần dài, cái áo cộc lành lặn cũng không có đủ nữa. Cụ Chu, lão bá hàng xóm thấy cảnh đáng thương quá, liền đi khắp từ đầu phố tới cuối phố, quyên góp được ít tiền nhưng mới chỉ đủ để mua vải liệm cho ông Huệ Trưng, chứ chưa đủ để mua quan tài.

Chu lão bá lúc bí kế bèn nghĩ ra được một cách.

Ông đem theo cô gái Lan Nhi tới gia đình các vị quan lại đồng liêu với cha nàng trước để xin giúp đỡ. Trong số quan lại này, có kẻ thì đang còn tại nhiệm, có kẻ đã hưu, cũng có kẻ vốn người trong Kỳ tịch với ông Huệ Trưng thuở nào…

Hồi 125 Anh hùng gặp lúc gấp

Chu lão bá đem Lan Nhi đi quyên tiền, các bạn đồng liêu của ông Huệ Trưng nghe nói hoàn cảnh ai chẳng động lòng thương cảm. Họ nghĩ tới bản thân rồi đây trên bể hoạn mênh mang, biết đâu là bến là bờ, ai biết được tương lai sẽ ra sao. Do đó, kẻ năm chục, người hai chục, của ít lòng nhiều, ai cũng bỏ tiền ra giúp đỡ. Lại thêm các quan viên trong Kỳ tịch hết lòng lo liệu mà tang lễ có phần long trọng.

Lan Nhi nhan sắc tuyệt trần, mặt như hoa, mày như liễu, mang đồ hiếu phục vào, người ta càng thấy đẹp, nét đẹp bi thương, vượt hẳn lúc thường. Nàng vốn tính thông minh, cho nên khi theo Chu lão bá tới các gia đình quyên giúp, cứ vừa khóc vừa nghẹn giọng thê thảm khiến không ai nỡ chối từ.

Bọn công tử con các gia đình quan lại này lại càng mê mẩn thần hồn đua nhau bỏ tiền ra để vừa giúp đỡ vừa lấy lòng. Bởi thế số tiền quyên giúp sau khi tính lại, đạt tới con số hơn ba trăm lạng.

Bà Đông Giai bỏ ra hai trăm lạng vào việc tẩm liệm, tế lễ, còn hơn một trăm thì chi vào việc đưa linh cữu ông Huệ Trưng về Bắc Kinh.

Gia đình ông Huệ Trưng ngày thường ở cái đất An Khánh nghèo túng cùng kiệt chẳng ai thèm để ý đến. Nay nghe nói đưa linh cữu về Bắc Kinh, bọn chủ nợ từ bốn phương tám hướng liền ồ tới vây quanh lấy bà Đông Giai, sấn sổ đòi nợ, kẻ năm chục, người ba chục, nào tiền muối, tiền mắm, nào tiền gạo, tiền củi, tổng cộng tới hai trăm lạng mới đủ.

Bà Đông Giai không còn biết cách nào, đành phải xem xét khoản nào quá cấp bách thì trả trước. Ấy thế, mà cũng hết đến một trăm lượng. Bà quýnh lên, nói với bọn chủ nợ là bà không về kinh nữa, xin cho khoan hạn vài hôm.

Bà Đông Giai chỉ có một trăm hai chục lạng, thế mà đã trả nợ hết một trăm rồi thì còn lại được bao nhiêu nữa để mà về kinh? Bởi thế bà đành hoãn cuộc khởi hành, ở lại An Khánh ít lâu rồi tính tiếp.

Sự việc này càng làm cho lòng bà bi thảm hơn. Cỗ quan tài nơi đất khách còn nằm đó. Cả nhà chịu cảnh côi cút goá bụa; ngày qua đêm lại, chỉ có nước mắt rửa mặt! Trông lại chỉ còn có chút ít tiền, việc độ nhật ngày càng eo hẹp khó khăn! Trước đây, bà còn lấy danh nghĩa là chồng lỡ chẳng may chết nơi đất khách quê người để đi nhờ vả giúp đỡ, chứ nay thì đâu còn danh nghĩa đó mà kêu hay gọi?

Bà Đông Giai trong lòng ngày đêm lo rầu khôn xiết, nhưng anh em Quế Tường đâu biết được nỗi lòng đó của mẹ. Ba mẹ con Lan Nhi khi ông Huệ Trưng lâm chung, có may mỗi người một bộ tang phục, nhưng nay hết tiền, đành phải gởi vào tiệm cầm đồ Trường Sinh.

Trời đã sang thu, khí lạnh thấu xương, gió bấc thổi càng ngày càng mành, như đâm vào da, như cấu vào thịt.

Bà Đông Giai vì nghèo mà buồn lo, rồi đâm ra bệnh nằm liệt giường. Quế Tường, Dung Nhi, không rõ việc đời bao nhiêu, duy chỉ có Lan Nhi ngày đêm hầu hạ bên cạnh. Thấy mẹ khát, muốn uống trà, Lan Nhi bèn lục mãi đáy rương của mẹ lấy một ít tiền, bảo Quế Tường và Dung Nhi ở nhà săn sóc mẹ, còn mình thì chải qua cái đầu, sửa lại cái áo cho gọn gàng rồi ra đi.

Vừa ra khỏi nhà, nàng bị gió bấc thồi mạnh xuyên vào da thịt chi được che bởi một manh áo mỏng, khiến mặt mày nàng tải xám, so vai rụt cổ, bước trên đường phố.

May mà tiệm trà không xa nhà nàng lắm. Nàng chỉ phải đi qua có hai phố, quanh một khúc rẽ là tới. Tiệm trà này vốn quen vì nàng thường tới đây mua, nhưng lần này vừa bước vào cửa tiệm, nàng giật nảy mình khi thấy tên vô lại Người Du Sinh đang đứng cạnh quầy hàng.

Tên này rất háu gái. Thấy gái là lắc la lắp lém, y như mèo thấy thịt mỡ. Hắn thường đứng tại quầy hàng nhìn ra ngoài, hễ thấy cô gái nào đi ngang qua, là y như thò đầu ra, há hốc mồm, kiễng chân cao lên, trố đôi mắt ra nhìn như hai lỗ đáo. Nhất là những khi có cô nào vào mua trà, hắn liền sấn sổ tới trước mặt, mắt liếc, mồm cười, hỏi hết câu này tới lời nọ, cố bắt chuyện, tán tỉnh cho bằng được.

Ngưu Dụ Sinh tuy sốt sắng như vậy, nhưng chẳng có cô gái nào thích hắn. Cô nào cũng chán, cũng ghét hắn, gọi hắn là thằng dại gái.

Hằng ngày, hắn chỉ nhìn thấy những cô gái con nhà hạ tiện, những con a đầu hoặc những mụ nạ dòng tới mua hàng, thế mà hắn đã cho là tiên trên trời rồi. Thử hỏi lần này thấy Lan Nhi, hỏi sao hắn chịu nổi?

Vừa thấy nàng, hắn đã mắt la mày lét, ngấm nguýt nàng như muốn nuốt trửng vào bụng. Thấy thế, nàng đã ngán, chỉ muốn quay về, nhưng lại nhớ tới mẹ già muốn có một chén nước trà nóng, sợ rằng không mua, mẹ giận. Bởi thế nàng đánh liều, bước vào.

Ngưu Dụ Sinh đưa tay ra lấy tiền, ném vào trong quầy, vừa nhặt gói trà, vừa nghiêm nét mặt như tỏ vẻ quan trọng lắm, cất tiếng than thở giùm cho thân thế của Lan Nhi.

- Thật đáng thương quá! Người đẹp như thế kia mà quần áo chẳng đủ, đến nỗi rét run câm cập, mũi đỏ hỏn lên. Như vậy bảo sao không đau lòng?

Nói xong, hắn còn lắp bắp mãi những gì không biết nữa.

Lan Nhi đâu có thèm để ý, mặc kệ hắn.

Ngưu Dụ Sinh gói xong trà, đặt trên mặt quầy. Lan Nhi giơ tay với lấy, không ngờ, hắn chộp lấy tay nàng, kéo mạnh nàng vào lòng. Vì bất ngờ, nàng ngả người theo, thấy nàng đã đứng sát bên cạnh, bắn bèn vuốt vào má nàng, miệng nói nựng:

- Nàng tiên của anh ơi! Cái má trắng như phấn thế này mà lạnh toát như băng, bảo sao anh không thương em được!

Nói đoạn, hắn lùa bàn tay vừa đen đủi vừa dơ dáy xuống cổ nàng. Nàng hoảng hồn bạt vía, nhưng thân gái yếu ót, biết làm sao được. Nàng chỉ còn biết khóc lóc, kêu la.

Quả không may cho nàng là hôm ấy người trong tiệm đều đi vắng cả, khách qua đường cũng vắng vì trời lạnh. Ấy cũng vì biết vậy nên tên Ngưu mới tự ý đùa cợt, sờ soạng bừa bãi.

Thấy chẳng có ai đến giải vây cho nàng, hắn liền luồn tay sau eo nàng để ghì vào lòng. Giữa lúc nguy hiểm muôn phần đó tự bên ngoài xô vào một người lớn tiếng quát:

- Thằng khốn kiếp lớn mật thật! Giữa ban ngày ban mặt mà mi dám chọc ghẹo đàn bà con gái à?

Ngưu Dụ Sinh thấy có người nhảy vào, vội bỏ tay nàng ra, miệng lắp bắp:

- Đâu dám! Đâu dám!

Người khách qua đường nọ mặt hầm hầm tiến lên, chộp lấy Ngưu định đưa hắn tới Bảo giáp cuộc. Tên ma cô lúc đó hoảng hồn bạt vía, vội quỳ xuống đất lạy van xin tha.

Lão chưởng quỹ lúc đó cũng đã về tới. Y thấy chuyện rắc rối bèn mắng Ngưu tàn tệ.

Chung quanh hàng xóm nghe chuyện chạy tới kín cả cửa trước, cũng lấy làm tức. Họ xúi bảo tống hắn đến Bảo giáp cuộc.

Duy chỉ Lan Nhi nghĩ khác. Nàng sợ chuyện xảy ra to, khiến ai cũng biết mặt, biết tên mình, thực chẳng đẹp tí nào, nên khẽ bảo mọi người:

- Thôi tha cho hắn! Tôi về đây!

Ngưu Dụ Sinh thấy Lan Nhi nói vậy, vội chắp tay lạy.

Nàng chẳng thèm để ý tới hắn, cầm gói trà, quay mình bước ra khỏi tiệm.

Đi mới được mười bước, nàng bỗng thấy người đàn ông nọ chạy theo sát bên mình, khẽ hỏi:

- Cô là con gái nhà ai vậy? Tôi thấy cô mặt mày xinh đẹp quá quyết không phải con nhà tầm thường, mà sao lại nghèo khổ quá đến vậy?

Lan Nhi thấy người đàn ông hỏi có vẻ ân cần, quay đầu nhìn sang có ý dò xét. Không ngờ người đàn ông nọ mày xanh mắt đẹp, đích thị là một vị công tử chứ chẳng phải tầm thường.

Nàng biết chàng có lòng thực tâm thương xót hoàn cảnh mình, nên đem hết gia cảnh ra nói cho chàng nghe: nào là cha chết, mẹ bệnh, nào là lưu lạc nơi quê người đất khách… Nàng còn nói thêm nàng vốn là người trong Kỳ tịch (trong dòng dõi nhà vua người Mãn Châu).

Chàng công tử nghe nàng nói, miệng luôn luôn than thở:

- Thật đáng thương! Thật đáng thương!

Chàng kể với Lan Nhi rằng, cha mình làm quan Binh bị đạo tên gọi Phúc Thành. Khi tới cửa nhà nàng, Phúc Thành móc trong túi áo ra mấy chục đồng tiền đặt vào tay Lan Nhi bảo rằng:

- Nàng đem về tiêu trước đi. Tôi chẳng có tài sản, quyền thế gì, nên chẳng thể giúp nàng được nhiều. Tuy nhiên tôi sẽ cố nghĩ ra kế sách để giúp nàng về Bắc Kinh.

Lan Nhi thấy Phúc Thành đưa tiền, chẳng tiện lấy vội từ chối, Thành nhất định không chịu thu về. Nàng lúc đó băn khoăn không biết làm sao, nhưng thấy cái cảnh một trai một gái đứng trước cửa đưa đi, đẩy lại, người ngoài trông thấy thật là bất tiện. Nàng còn nhớ rằng trong nhà hiện đã hết nhẵn tiền, nay nhận của chàng số tiền này tuy ít nhưng cũng độ nhật được vài hôm. Tâm trạng khó xử của nàng lúc này là thế! Thật đáng thương cho những kẻ nghèo, chỉ vì không tiền mà đành phải khuất chịu.

Quân tử và anh hùng mà nhiều khi cũng khoanh tay trước đồng tiền, thử hỏi Lan Nhi chỉ là một cô gái mới lớn lên lại đang trong cảnh túng quẫn. Và nàng đành nhận. Đôi má nàng ửng hồng, xấu hổ quá không ngẩng mặt lên nữa.

May thay, Phúc Thành vốn là một chàng công tử tuy còn thiếu niên nhưng đã nhiều kinh nghiệm ở đời. Thấy thế chàng vội quay gót bước đi để giữ thể diện cho nàng.

Hồi 126 Cái tình là cái chi chi

Phúc Thành bước đi, Lan Nhi nhìn theo người khách hảo tâm với vẻ lưu luyến rồi mới vào nhà.

Nàng thấy mẹ nằm trên giường. Bà hỏi tại sao đi quá lâu, nàng giấu biệt chuyện chọc ghẹo của tên Ngưu mà chỉ nói bên ngoài có người đưa lễ vật tới viếng với bốn lượng, nàng đã nhận và để cho họ đi rồi.

Bà Đông Giai đang lo rầu vì nhà hết tiền, nay thấy có người đưa lễ tới, bỗng nhẹ người, nên chẳng tra khảo gì thêm nữa.

Bốn mẹ con Lan Nhi sống vất vưởng lo âu như thế mấy hôm nữa, bỗng một sáng, cửa ngoài có tiếng đập rầm rầm.

Quế Tường vội chạy ra xem, thấy một người có vẻ gia nhân của một gia đình khá giả, tay xách một gói hỏi:

- Đây có phải là nhà của Huệ Trưng mới mất không?

Quế Tường gật đầu bảo hải, người gia nhân nọ liền trao cái gói vào bảo:

- Đây là vật mọn của lão gia tôi đưa tới hiếu kính gia đình.

Quế Tường giơ hai tay ra tiếp cái gói, cảm thấy có gì nằng nặng bên trong. Tường vội quay vào nhà, mở ra thì thấy bên trong vừa đúng hai trăm lạng bạc. Bà Đông Giai trông thấy, mặt ngây ra, vội hỏi người gia nhân kia, mới biết tiền đó của Đạo đài nha môn đưa tới. Lan Nhi vụt hiểu ra, bảo mẹ:

- Có lẽ vị Đạo đài này trước kia là bạn thân với cha con. Đối với hoàn cảnh hiện tại, kể ra ta cũng chẳng nên khách khí làm gì. Mẹ cứ nhận đi rồi ta sẽ viết một tấm thiếp tạ ơn, gói mười lạng bạc để kính sự, rồi cho người gia nhân ra về, sau đó sẽ tính.

Chuyện khổ sở nhất lúc này là chuyện Quế Tường phải viết tấm thiếp. Tường tuy có theo học mấy năm, nhưng nào được bao lăm chữ nghĩa trong bụng! Bởi thế, viết một tấm thiếp tạ ơn quả thật thiên nan vạn nan. Tường loay hoay mãi một lúc lâu mà vẫn chưa viết xong, đó là chưa kể phần nội dung câu chẳng ra câu, lời chẳng thành lờ. Lan Nhi vốn là một cô gái thông minh, hằng ngày vẫn nhìn thấy việc này, nên nàng lại phải thế Tường làm việc đó.

Người gia nhân của Đạo đài nha môn ra về, bà Đông Giai thấy tiền, bệnh bỗng khỏi ngay. Bà liền bàn tính với Lan Nhi việc đưa linh cữu về kinh. Lan Nhi vâng lời mẹ chạy tới nhà Châu lão bá, nhờ lão đi mướn cho một chiếc thuyền. Thấy gia đình Lan Nhi toàn vợ goá con côi, Châu lão bá hết lòng giúp đỡ, vội đi mướn một chiếc thuyền lớn, mua rất nhiều vật dụng dành lúc đi đường, lại mướn cả mười hai người đô tuỳ, khiêng linh cữu xuống thuyền. Tổng cộng tiền thuê mướn đã lên tới sáu, bảy chục lạng.

Qua ngày thứ ba, hành lý thu xếp đã xong xuôi. Giữa lúc sắp khởi hành, gia đình Lan Nhi bỗng thấy người gia nhân hôm nọ bước vào nhà, mặt hầm hầm, hất hàm đòi lại số tiền hai trăm lạng bạc bữa trước và bảo tiền đó là tiền đưa tặng gia đình họ Chung ở phía tây thành chứ không phải tặng gia đình Huệ Trưng. Y còn bắt buộc phải mau mau trả lại, nếu không y lập tức đưa tới cửa công.

Bà Đông Giai nghe nói vậy, chẳng hiểu ra sao cả, lòng vừa bẽ bàng vừa sợ hãi. Châu lão bá lúc này cũng có mặt, nghè câu chuyện, biết thế nào cũng có điều kỳ quặc bên trong, bèn bàn với bà Đông Giai cho Quế Tường theo người gia nhân nọ tới nha môn…

Quế Tường tới gặp vị Đạo đài, đem hoàn cảnh bi đát của nhà mình ra kể cho ông ta nghe. Tường còn thêm là số tiền đã chi dùng mất hơn phân nửa, nếu bắt buộc phải trả lại, e không biết tìm đâu ra để bù vào. Sau hết, Châu lão bá cũng nói thêm:

- Đại nhân hãy tỏ lòng thương xót cho cả một gia đình cô nhi quả phụ bốn miệng ăn chỉ biết nhờ vào số tiền đại nhân để hồi hương. Chi bằng đại nhân coi như đã làm một việc từ thiện nhân đức để cho con cháu về sau. Hơn nữa đại nhân nghĩ tình đồng Kỳ mà coi như thưởng tặng cho họ, có lẽ là hay nhất.

Vị Đạo đài nghe hết mọi sự thể, lại là người khẳng khái, bởi thế ông vui vẻ gật đầu chấp thuận.

Quế Tường nghe vị Đạo đài nói vậy, mừng như mở cờ, tạ ân rối rít. Châu lão bá cũng vì Tường và gia đình bà Đông Giai mà nói thêm vài lời để cảm tạ và tâng bốc vị Đạo đài rồi mới xin ra về.

Mặt khác, vị đạo đài cho gọi người quản lý lại chi ra hai trăm lượng bạc khác để đưa tới cấp cho nhà họ Chung phía tây thành. Ông cũng không quên gọi cậu đại công tử lên quát hỏi:

- Tại sao mày dám dối cha mày, cho người đưa tới nhà Huệ Trưng? Có phải mày nhân tình nhân ngãi với con gái Huệ Trưng không?

Cậu cả nghe cha hỏi, lắc đầu chối dài. Thực ra thì từ ngày gặp Lan Nhi, trở về nhà, có hôm nào là hôm cậu không nhớ tới nàng? Hình bóng nàng đã như in vào tâm khảm chàng có lúc nào chàng quên được khuôn mặt xinh đẹp duyên dáng ấy. Càng nhớ bao nhiêu, chàng lại càng thương xót bấy nhiêu. Vốn là người có lòng từ thiện, chàng chỉ giận mình không có tiền. Nhưng đã hứa giúp, chàng không thể nuốt lời được, trái lại thấy cần phải thực hiện cho thật nhanh.

Giữa lúc băn khoăn, khó tìm được biện pháp, thì may thay dịp tốt đã tới với chàng: ở vùng An Khánh có một vị thân sĩ họ Chung. Cha chàng trước đây có nhờ vả Chung ông chút việc gì đó. Cách đây mấy hôm Chung ông vừa mất. Cha chàng biết nhà Chung ông nghèo khó nên bảo rằng sẽ gửi lê vật đến phúng viếng để đáp ân ngày trước.

Quả nhiên qua ngày thứ hai, Phúc Thành thấy người quản gia gói hai trăm lượng bạc giao cho gia nhân đem đi. Chờ tên gia nhân mang gói bạc bước ra khỏi nhà, chàng liền lẻn bước theo sau, gọi lại, bảo cha mình dặn khỏi đưa tới nhà Chung ông mà đưa qua cho gia đình Huệ Trưng.

Tên gia nhân thấy đại công tử bảo đó là lệnh đại nhân, đâu có biết chân giả, bèn đem gói bạc tới nhà Lan Nhi, nhận hồi thiếp rồi quay về nha môn, cậu cả đón lấy tấm thiếp đem giấu kỹ.

Khi quản gia hỏi, tên gia nhân chỉ nói tấm hồi thiếp tạ ân đã đưa cho đại công tử đem vào cho đại nhân xem rồi. Được báo cáo như vậy, viên quản gia cũng không nghi ngại gì nữa.

Qua ngày thứ ba viên quản gia lên gặp vị Đạo đài, nhân tiện hỏi tấm hồi thiếp thì nghe bảo rằng chưa thấy. Viên quản gia lấy làm lạ, vội chạy vào hỏi tên gia nhân thì tên này xác nhận là cậu cả đã lấy. Lúc đó cậu cả thấy khó che giấu nổi bèn lấy tấm thiếp đưa ra. Vị Đạo đài cầm lấy xem thấy phía trên tấm thiếp đề một dòng chữ: "Bất hiếu cô tử Na Lạp Quế Tường" (đứa con mồ côi bất hiếu là Na Lạp Quế Tường) bất giác lấy làm lạ vội truy vấn. Tên gia nhân lúc đó cứ thực tường khai, bảo đại công tử dặn khỏi đưa cho gia đình Chung ông mà đem sang cho gia đình ông cố hậu bổ đạo Huệ Trưng.

Vị Đạo đài nghe rõ sự thể, một mặt sai tên gia nhân tức khắc đi tới nhà Lan Nhi đòi lại gói đồ lễ, một mặt cho gọi cậu cả lên cật vấn.

Cậu cả thấy cha nóng giận, biết không thể che giấu được, bèn đem hết câu chuyện xảy ra ngày nọ, nào khi Lan Nhi bi tên ma cô trêu chọc trong tiệm trà, nào lúc nghe kể hoàn cảnh gia đình bi đát của nàng.

Vị Đạo đài không tin vẫn bắt con phải nói sự thực. Giữa lúc đó thì tên gia nhân đưa Quế Tường và Châu lão bá tới.

Kịp đến khi nghe Châu Lão bá kể lể thảm cảnh gia đình Lan Nhi thì vị Đạo đài lòng như se lại, liên tưởng tới cái cảnh thỏ chết cáo đau lòng, nên vui lòng coi hai trăm lượng bạc nọ như một số tiền từ thiện mà cho Quế Tường ra về.

Tuy nhiên, ông vẫn thắc mắc nghi rằng cậu cả nhà mình có tư tình với Lan Nhi. Ông cật vấn, ông doạ nạt… Cậu cả thấy cha không tin đành phải chỉ trời thề độc và cam đoan với cha là không bao giờ dám làm điều vô si như vậy.

Bà Đạo đài và viên quản gia lúc đó có mặt bên cạnh cũng lên tiếng khuyên giải và nói cậu cả vốn là người nhân đức từ thiện nên có hành động thương người đó thôi, chứ đối với việc tình ái yêu đương xưa nay chưa từng phạm, ắt không thể có điều vô sỉ nào đâu.

Vị Đạo đài nghe rõ chuyện thấy có lý, lúc đó mới an lòng, ngược lại còn ca tụng đức tính cậu cả vài ba câu. Tuy vậy ông vẫn cảnh cáo:

- Lần sau, mày không được độc đoán, độc hành như thế. Làm việc gì cũng vậy, phải bẩm rõ cho cha biết mới được, nghe chưa?

Đại công tử dạ dạ luôn mồm từ từ rút lui. Song ngay hôm sau, chàng vội lẻn tới nhà Lan Nhi để nghe ngóng tình hình.

Nhưng bóng người đẹp nay còn đâu? Lầu đã đóng, cửa đã cài then từ lúc nào! Chàng chạy qua hỏi thăm hai bên lân xá mới biết gia đình Lan Nhi đã lên thuyền về kinh. Chàng vội vàng chạy ra bến đò, tiếc thay chàng tới hơi trễ. Bóng người đẹp Lan Nhi đã đứng trên con thuyền tách bến lướt ra dòng sông.

Bến đò vắng lặng, cánh hồng còn đâu nữa, chàng đứng trên mom sông nhìn ra xa, ngắm mãi con thuyền mà chàng đoán là thuyền của ai kia đã hằng in bóng lâu nay trong tâm khảm.

Giữa lúc lòng bâng khuâng thương nhớ, chàng bỗng thấy từ trong khoang thuyền nhô ra một hình bóng giai nhân. Chàng đem hết tâm thần nhìn kỹ thì ra chính đó là nàng, là nguồn sáng của cõi lòng, là người yêu của cuộc sống quạnh quẽ từ đây của chàng. Chàng chăm chú nhìn, bỗng chàng thấy mơ hồ từ xa Lan Nhi như mỉm cười rồi nhẹ gật đầu tỏ vẻ hiểu được lòng chàng.

Đại công tử đứng trên bờ sông, cứ ngây người ra như tượng. Chàng nhìn mãi, nhìn mãi tới khi chiếc thuyền rời bến chỉ còn lại bằng một cái chấm nhỏ tận chân trời mà vẫn còn đứng trân người ra đó để nhìn. Một chiếc thuyền khác bỗng chặn ngang nẻo sông che khuất hẳn hình bóng chiếc thuyền nọ, lúc đó chàng công tử không còn thấy gì nữa mới thở dài, trở gót quay về.

Tình nghĩa của chàng công tử như thế, Lan Nhi hẳn cũng không phải là gỗ đá mà không cảm thấy. Đúng thế! Nàng ngồi trong khoang thuyền lòng lúc nào cũng nghĩ tới chàng, nghĩ tới thâm tình đã khiến chàng thân tự ra mãi bến đò để đưa tiễn, khiến nàng không khỏi hãnh diện phần nào bởi vì giữa lúc gia đình nàng hoạn nạn sa sút mà vẫn còn có một chàng công tử đa tình đa nghĩa lưu luyến để ý tới. Nàng tự hứa rằng kiếp này không thể quên chàng được.

Đến đây ta hãy tạm gác nỗi niềm tâm sự của Lan Nhi.

Lại nói bà Đông Giai đưa quan tài của chồng cùng với ba con một trai hai gái trên thuyền ngày đi đêm nghỉ thẳng hướng Bắc Kinh mà tiến. Mẹ thì goá con thì mồ côi, tình cảnh của bà Đông Giai thật là bi thương.

Bà Đông Giai nhớ lại cái ngày chồng mình ra đi phó nhiệm, cũng trên đường này, sung sướng vui vẻ biết bao. Rồi lúc tới Vu Hồ, hai bên văn võ ra tận bến đò đón rước long trọng.

Kịp đến khi về tới nha môn thì tiệc tùng la liệt, hôm nay một tiệc lớn, ngày mai một tiệc nhỏ, hãnh diện chừng nào.

Nhưng mà nay còn có ai nhỏ một giọt nước mắt thương gia đình bà nữa đâu! Đứng trước hoàn cảnh bi thương đó, bà Đông Giai bất giác dòng lệ tuôn trào!

Quanh quẩn với những ý nghĩ đó, miên man mãi trong tình thương nỗi nhớ bà Đông Giai không ngờ thuyền đã tới Thiên Tân đi Tử Trúc lâm, rồi chỉ ngày sau đã tới Bắc Kinh, về nhà.

Gia đình bà Đông Giai vốn là một dòng họ nhờ ơn thế tập cho nên còn có một toà nhà do hoàng đế ân tứ ở tại Tây trì Tử Hồ đồng. Về Bắc Kinh, gia đình bà Đông Giai tất nhiên ở tại toà nhà này.

Nhưng cái hoàn cảnh ngày nay so với lúc còn ông Huệ Trưng, chồng bà, quả khác nhau một trời một vực. Nhà cửa vắng lặng, lạnh lẽo, rèm màn xơ xác tiêu điều, thực không còn cảnh nào thê lương hơn thế nữa.

Riêng chỉ có nàng Lan Nhi là không đến nỗi hiu quạnh. Lúc còn nhỏ ở nhà, nàng có rất nhiều bạn gái. Bao năm đì xa về, nàng thấy bạn đều trưởng thành cả. Họ thấy nàng ngày nay không còn là cô gái nhỏ tầm thường nữa, trái lại xinh đẹp tuyệt trần, quả có một cái sắc chim sa cá lặn hơn họ một trời một vực.

Bởi thế cô nào cô nấy cũng thích đánh bạn với nàng. Nay thì cô Lý, mai thì cô Vương mời, hết ngày nọ đến ngày kia, chị chị em em, cười cười nói nói, trò trò chuyện chuyện, cứ như một bầy chim oanh chim én suốt ngày! do đó nàng cũng đỡ buồn bã âm thầm. Cũng có người thấy nàng lâm cảnh nghèo, thì mua son mua phấn tặng cho. Lại cũng có người thấy nàng thiếu áo thiếu quần, thì sắm áo đẹp quần sang cho nàng. Lại có cả những người thấy bà Đông Giai mải lo lắng về tiền, liền ngầm giúp bà. Bà Đông Giai nhờ vậy mà rồi cũng độ nhật qua ngày được.

Chẳng bao lâu, trời đã sang xuân. Đây chính là lúc đào hồng liễu xanh, ngày lành cảnh đẹp. Nhất là tới tháng ba, khí trời ấm áp, phong cảnh Bắc Kinh lại càng tươi đẹp, nhộn nhịp tưng bừng.

Bọn con gái trong xóm, vì quý mến Lan Nhi, không ngày nào là không tới rủ đi chơi. Họ đưa nàng hết tới Pha Lê sảnh, lại tới Đào Nhiên đình… Họ tíu ta tíu tít bên nhau như đàn chim oanh yến.

Nhưng rồi bỗng bẵng đi, không thấy họ tới nữa. Lan Nhi nhớ quá, nàng vội đi kiếm họ. Nàng tới nhà họ, lúc biết chuyện, hoảng hồn bạt vía, vội chạy về, trốn biệt trong nhà, không dám ló đầu ra nữa.

Bà Đông Giai lấy làm lạ hỏi con, mới biết năm nay hoàng cung có lệnh chọn tú nữ, bọn thái giám đang đi tra xét gắt.

Hễ thấy nhà nào thuộc Kỳ nhân có con gái trẻ đẹp là tức khắc bắt ngay không cần hỏi lý do, đưa tắp vào cung đợi tuyển.

Bởi thế các gia đình thuộc Tám kỳ trong thành Bắc Kinh, có con gái đều giấu kỹ trong nhà. Cô nào đã có người hỏi rồi thì phải giục nhà trai cưới vội đi. Còn cô nào chưa có ai hỏi, thì lại phải nhờ bà mối ông mai làm mối hộ. Một khi đã có người ưng thuận thì cưới ngay hôm đó, cứ hễ cắc là tùng ngay, chứ khỏi cần sêu tết lôi thôi gì cả. Thành thử trong kinh thành hồi đó, tình cảnh đâm ra xôn xao, không bút nào tả xiết.

Lan Nhi nhìn lại gia đình mình và chính bản thân mình lại càng lo lắng bội phần. Thân phận nàng có khác chi thân phận mấy chị em bạn của nàng. Nếu chẳng may thì hẳn là coi như tử biệt sinh ly rồi. Bởi thế nàng cũng như họ, trốn biệt trong nhà. Nàng cũng biết rằng gia đình nàng còn là một gia đình trong dòng họ Kỳ nhân có tên tuổi hơn cả những gia đình của bạn nàng…

Cô con gái thì nghĩ thế, nhưng bà mẹ lại nghĩ khác. Phải! Bà Đông Giai nghĩ rằng vào cung để được làm một cô tú nữ lại chả hơn ở nhà để chết đói chết rét sao? Đó là chưa kể khi được hoàng đế sủng ái nào phong là quý nhân, nào phong làm phi tử! Bởi thế, bà nguyện ý con gái bà phải vào cung, phải được tuyển làm tú nữ. Khi nghe rõ tin tức về việc tuyển lựa tú nữ rồi, bà liền đem ý mình nói cho con gái hay.

Không ngờ, Lan Nhi nghe bà Đông Giai nói rõ ý nguyện, thì giãy nảy lên. Nàng khóc rống, khóc như điên như dại, cơm không muốn ăn, trang điểm cũng không. Suốt ngày, nàng chỉ nằm mọp trong xó nhà, vừa sợ bọn thái giám nhìn thấy lôi đi, vừa đau khổ vì ý nguyện của người mẹ thương con vơi đầy, chỉ biết có một mà không hiểu được hai, cái tình cảnh của người con gái trong cung cấm!

Hồi 127 Cô tú nữ vào cung

Con gái đến tuổi dậy thì, cô nào chả mơ ước có một đức anh chồng xứng mặt nam nhi. Đó cũng chính là tâm sự của Lan Nhi lúc này.

Từ lúc được cậu cả, con trai ông Đại đài An Khánh ra ơn giúp đỡ, Lan Nhi cảm kích khôn tả xiết. Hơn thế nữa, cậu cả nhà ta lại trắng trẻo bảnh trai. Người ta thường chẳng bảo: "Từ xưa, chị Hằng thường yêu chàng trai trẻ" (Tự cổ, Hằng Nga ái thiếu niên).

Câu nói này thật rất đúng với Lan Nhi. Nàng thấy chàng quả là một trang anh tuấn, trong lòng thật xao xuyến bâng khuâng. Chỉ có một điều buồn là đôi bên gặp nhau đã muộn mà lại xa nhau quá lẹ, bầu tâm sự chứa chan thực chưa có dịp bộc bạch ký thác, để thêm hiểu lòng nhau.

Trong thâm tâm Lan Nhi, nàng tin tưởng rằng chàng công tử nọ (đã là đồng Kỳ) thế nào cũng có ngày lên kinh. Lúc đó, nếu đã gọi là có nợ có duyên với nhau, thì sở nguyện của đôi bên làm sao mà chả có cơ thành tựu được. Tuy nhiên tâm sự u uẩn đó đối với người con gái còn đang khoá kín buồng xuân, đâu có dễ gì mà thổ lộ với ai.

Thế rồi bỗng hôm nay, nghe mẹ khuyên bảo vào cung, thì nàng hoảng hồn bạt vía, chỉ còn có nước kêu khóc, miệng chối đây đẩy:

- Con không vào đâu! Con quyết không vào đâu!

Bà Đông Giai thấy con gái khóc lóc thảm thiết, cũng đâm ra e ngại, quyết ý của bà đã lung lay lắm. Nhưng cô con gái cưng của bà có biết đâu rằng chính mình đã tự đưa mình vào chứ chẳng ai khác cả. Lý do chỉ tại có một hôm, nàng không trốn biệt trong xó bếp, mà lại cao hứng đi tìm cô bạn ở gần phố. Chính trong cuộc đi thăm viếng này, có người đã nhìn thấy nàng, thấy cái khuôn mặt tuyệt thế giai nhân, cái thân hình óng ả lả lướt như tiên nga giáng thế của nàng.

Điều không may nhất cho nàng hôm đó, là một tên thái giám trong cung nội đã gặp nàng khi đi ngang qua Tây trì Tử Hồ đồng. Thấy nàng đẹp quá, hắn nhìn đến ngây người, quả quyết rằng trong thiên hạ không còn có ai có thể đẹp hơn thế nữa. Hắn thấy nàng mặc cái áo dài, bỏ một bím tóc lớn ra sau, cắt lớp tóc trước trán ngang cặp chân mày, và để lộ hắn cổ chân ra đến sáu tấc thì biết ngay rằng nàng đích thị là một cô gái trong Bát Kỳ.

Tên thái giám gặp nàng, vội chạy về cung nội báo ngay cho Thôi tổng quản biết. Viên Tổng quản họ Thôi mấy hôm nay đã tốn biết bao công đi tìm kiếm gái về cho hoàng đế mà vân chưa có kết quả, cho nên y tỏ vẻ buồn bã kém vui, bỗng nghe tin này lòng như cờ mở, vội chạy tới Tây trì Tử Hồ đồng.

Thế rồi hôm đó, giữa lúc Lan Nhi đang giặt quần áo thì bọn thái giám xông vào, dữ tợn như một đàn cọp. Chúng vừa thấy Lan Nhi đã quay sang hỏi nhau:

- Ai dám bảo nàng không là một tú nữ hạng nhất?

Lan Nhi hoảng quát chạy vào nhà. Bà Đông Giai thì vội chạy ra quát hỏi:

- Bọn ngươi tới đây làm gì vậy?

Viên tổng quản đáp:

- Bà còn không biết trong cung hiện đang tuyển tú nữ sao? Bọn tôi chạy cùng trời đất mà không tìm ra được một người đáng mặt. Nay biết nhà bà có một cô nương xinh đẹp lắm, hỏi tại sao lại không báo lên vạn tuế gia cho ngài biết? Thôi bà để bọn tôi thay bà, đưa cô ta vào cung cho, bảo đảm với bà là vạn tuế gia mà thấy thì thế nào cũng phong quý nhân tức khắc, rồi phong phi tử mấy hồi. Lúc đó thì cả nhà sẽ vinh hoa phú quý biết bao! Rồi bà còn phải cám ơn bọn tôi không hết đó…

Những lời ba hoa này không ngờ gãi đúng chỗ ngứa của bà Đông Giai, bà tự nhủ: "Gia đình mình đã quá khổ, thằng Quế Tường lại ngây ngô đần độn, chỉ còn hy vọng vào hai đứa con gái. Nay trong cung tuyển tú nữ, đây chính là một cơ hội tốt chớ nên để mất! Con Lan Nhi đã không chịu, ta sẽ khuyên bảo con Dung Nhi.".

Nghĩ vậy bà bèn quay vào kéo Dung Nhi ra bảo:

- Đây, ta đưa nó vào cung với các, ngươi!

Viên tổng quản nhìn Dung Nhi, chỉ lắc đầu. Bọn nhân viên Nội vụ phủ khuyên bà:

- Gia đình bà có con gái vào cung: nếu được vạn tuế sủng ái thì sẽ vẻ vang biết bao nhiêu! Nhưng con gái bà phải đẹp mới được! Nếu mà không đẹp thì chỉ có chết già trong cung thôi! Lúc đó, có phải chỉ làm khổ bà thôi không? Phải cô nương vừa chạy vào nhà đó mới được!

Bọn ngươi bảo con lớn nhà ta được thì hãy để cho ta thu xếp trong hạn kỳ ba ngày, các ngươi trở lại mà nhận tin. Bởi vì con lớn nó khó tính lắm, để ta khuyên bảo nó dần mới được.

Bọn tổng quản gật đầu, đáp liền mấy tiếng:

- Được lắm. Được lắm!

Rồi kéo nhau trở về.

Bà Đông Giai sau đó quay vào phòng Lan Nhi, khuyên dọc khuyên ngang mãi, cuối cùng bà hờn giận, nói:

- Gia đình ta suy vi nghèo túng quá rồi. Con nghĩ lại xem, lúc cha con chết đi, khổ sở biết chừng nào! Anh trai con thì ngốc nghếch, đần độn quá, mẹ thực chẳng mong gì được ở nó.

Mẹ chỉ còn hy vọng vào con thôi. Con hãy vì mẹ mà vào cung đi Nhờ ở cái sắc của con, cái tính thông minh của con, mẹ tin chắc thế nào cũng có lúc vẻ vang. May được vẻ vang rồi, con đừng quên người mẹ nghèo khổ cô đơn này là được.

Bà Đông Giai nói tới đây hai hàng lệ tuôn trào rơi trên má, Lan Nhi cũng cầm lòng không được, khóc lên thành tiếng.

Lan Nhi khóc một lúc, lòng đã thấy mềm đi. Thế là nàng theo ý mẹ, quyết dứt hẳn tình vào cung làm tú nữ.

Bà Đông Giai thấy Lan Nhi chịu nghe theo lời mình, mừng lắm liền ôm chầm lấy nàng, vừa cười vừa khóc.

Ba ngày sau, viên tổng quản trở lại. Hắn đưa cho Lan Nhi một bộ quần áo mới để nàng mặc vào. Bà Đông Giai cùng Quế Tường và Dung Nhi đưa nàng lên xe. Mẹ rồi em, cả nhà bịn rịn gạt lệ lúc chia tay. Mãi tới khi chiếc xe đã đi xa, bà Đông Giai mới dắt các con quay về.

Cuộc tuyển tú nữ lần này không do ý của Hàm Phong hoàng đế mà thực là của bà Hiếu Trinh hoàng hậu. Bà thấy hoàng đế suốt ngày suốt năm ở lì bên vườn Viên Minh chơi bời phóng đãng với bọn gái Hán, chẳng những bỏ phế việc triều chính mà còn bại hoại cả thân thể. Bà tuy là chủ của sáu cung nhưng thực chẳng giữ được hoàng đế. Hơn nữa hoàng đế có ba cung sáu viện đầy đủ, nhưng chưa từng có một hoàng tử nào. Việc kế vị sau này há chẳng phải là một việc trọng đại đáng lo nghĩ sao?

Loay hoay với chuyện đó mãi, sau bà mới nghĩ ra một kế. Bà nghĩ rằng hoàng đế là người hiếu sắc, thế thì tại sao bà lại không hạ một chỉ dụ cho Nội vụ tuyển tú nữ, mong có được vài cô tuyệt sắc giai nhân khiến hoàng đế sủng ái, may ra sinh được một vài hoàng tử thì thực may mắn vô cùng. Bà còn hy vọng thêm một điều nữa, là nếu ngài say đắm một vài sủng phi nào đó thì bà có thể giữ chân được ngài ở lại cung nội.

Chủ ý của bà đã định, bà chỉ chờ khi hoàng đế vào cung là nói cho ngài hay. Hàm Phong hoàng đế đối với Hiếu Trinh hoàng hậu tuy rất lạnh nhạt về tình ái, nhưng lại rất kính trọng về đức hạnh. Bởi thế, nghe bà nói, ngài ưng thuận ngay.

Một đạo thánh chỉ ban xuống. Tức thì sáu mươi bốn cô tú nữ đã tuyển lựa cẩn thận được đưa vào thâm cung. Tâm lý Hàm Phong lúc đó đều hướng về gái Hán, chứ không thèm để ý tới bọn Kỳ nữ, chỉ tại ngài không muốn trái ý hoàng hậu cho nên đành để cho cuộc tuyển lựa thành hình. Nhưng thực ra ngài tỉnh chọn lấy vài ba cô thôi, còn bao nhiêu thì sẽ cho về hết.

Sau cuộc tuyển lựa, không ngờ con số lên tới sáu mươi bốn cô. Tất cả đều được đưa vào vườn Viên Minh ở tạm trong đó.

Hàm Phong hoàng đế tuyển lựa xong tú nữ, lại quay về với bọn gái Hán như cũ. Ngài tìm bọn Tứ Xuân, lại chơi bời, lại yến tiệc say sưa, không thiết gì tới bất cứ một việc gì nữa.

Lan Nhi tất nhiên cũng có trong đám sáu mươi bốn cô tú nữ được đưa vào vườn Viên Minh. Nàng được cho ở trong một ngôi nhà, dưới bóng một khóm cây ngô đồng, cành lá xum xuê. Đây chính là một nơi nghỉ mát rất tốt trong những ngày hè nóng bức.

Tại đây vốn có bốn cung nữ giữ nhà quét cổng, nay thêm hai nữa, một chính là Lan Nhi còn một gọi Yến Nhi. Yến cũng như Lan, là tú nữ được tuyển vào kỳ này. Yến Nhi vốn con nhà khá giả, quần lành áo tốt, được ăn uống sung sướng, anh em lại đông, bởi thế nàng có một nếp sống hết sức vô tư, vui vẻ. Nhưng từ khi bị tuyển vào cung cấm, cuộc đời Yến Nhi trở nên buồn tẻ hiu quạnh. Nàng buồn bã rồi nhớ cha thương mẹ, khóc lóc suốt ngày đêm. Trái lại đối với Lan Nhi, cuộc đời lại khác hẳn. Nàng lúc nào cũng vui hy vọng tràn trề. Lúc còn ở nhà, nàng đã chịu bao cảnh khổ sở, nay bỗng được ăn ngon mặc đẹp, lại có cung nữ bên cạnh bầu bạn thì còn gì vui thú hơn. Tính nàng lại như trẻ con chỉ thích du ngoạn, thêm khu vườn Viên Minh rộng thênh thang, không biết bao nhiêu là cảnh đẹp, cho nên ngày ngày nàng nhảy nhót tung tăng trên các lối tắt đường ngang trong vườn để dạo chơi. Nàng nhởn nhơ chạy nhảy hết khu vườn này tới rừng cây nọ, thấy thích quá, vui quá, đến nỗi lòng nàng như quên hết đi quá khứ.

Nàng vốn là một cô gái thông minh, thấy cảnh trì tại nơi đây u nhã, bèn đem giấy bút ra nào viết, nào vẽ. Dưới bóng khóm ngô đồng sum sê, chung quanh lại nào hoa, nào lá, nàng say sưa với những ý tưởng trong đầu. Khi ở nhà nàng đã có cái vốn chư nghĩa kha khá, bây giờ, chịu chuyên tập, chẳng bao lâu nàng có thêm lối viết chữ thảo hết sức đặc sắc. Chữ đã tốt, hoạ lại càng hay. Nàng vẽ nào là lan, nào là trúc, trên còn đề thêm ít câu thơ cho tăng phần ý nghĩa và tình tứ. Nàng dùng hoạ phẩm của mình trang điểm cho các khung cửa sổ thêm phần sinh động và vui mắt thành thử căn nhà có bộ mặt hay đồi khác hẳn. Nó không còn âm u ảm đạm như xưa, mà sáng sủa rực rỡ và mới mẻ hẳn ra.

Lan Nhi còn trồng ở chung quanh nhà các giống lan tứ quý. Khi bước vào nhà nàng, không ai không ngửi thấy đủ mùi lan thơm phức vừa thanh nhã vừa di dưỡng được tinh thần. Nàng bắt bọn cung nữ ngày ngày quét dọn cửa nhà sân vườn hết sức sạch sẽ. Nàng đối đãi với bọn cung nữ y như chị em trong nhà.

Nhờ cái tình thân mật ấy, bọn chúng đều vui vẻ nghe nàng sai khiến. Đến ngay cả Yến Nhi suốt ngày nhớ mẹ thương cha lúc này cũng vui lên, tươi tỉnh bỏ được hết những nỗi sầu buồn như lúc mới bước vào cung cấm.

Lan Nhi sống một cuộc sống như vậy, phải chăng nàng chỉ định lấy vui chơi làm cứu cánh cho đời mình? Phải chăng nàng không nghĩ gì tới cha mẹ, anh em, dòng họ, và tương lai của cả chính mình?

Dọn dẹp trang trí cẩn thận, vất vả như thế, thực ra, Lan Nhi có một ý định sâu xa lắm. Nàng thấy đây là một nơi nghỉ mát rất tốt. Hiện nay, trời đang vào mùa cuối xuân, chưa nóng bức, nhưng ít lâu nữa hè tới với những buổi trưa ngột ngạt, thì một ngày nào đó, thế nào lại chả có thánh giá lâm hạnh tới nơi đây. Lúc đó, vạn tuế gia chẳng những sẽ phải để ý tới ngôi nhà, nàng khóm lan, những bức hoạ… mà còn phải hỏi han đến người tạo ra những cảnh vật đáng yêu đó nữa. Điểm đáng lo nhất đối với nàng thực chỉ là việc vạn tuế gia có đặt chân tới đây hay không.

Lan Nhi sau khi vào cung, đã sắp sẵn kế hoạch, và chỉ có mỗi một hy vọng đó. Là một tú nữ, nàng được cung nội phát lương tháng. Nàng để dành số tiền đó, đến khi đủ vài trăm lượng bạc liền thưởng cho bọn thái giám.

Đối với bọn thái giám, cô cung nữ nào đó cho tiền, nếu không nhờ được việc này, ắt cũng có thể nhờ được việc khác.

Nhưng trường hợp Lan Nhi lại khác. Khi bọn thái giám hỏi nàng cần nhờ việc gì thì nàng đều bảo chẳng có gì cần nhờ cả. Thành thử bọn chúng chỉ cho là nàng tốt, nàng tử tế, rốt cuộc anh nào cũng xử tốt với nàng cả. Nhất cử nhất động của hoàng đế, họ đều báo cho nàng hay. Nhưng khi nghe rồi, nàng làm bộ thản nhiên như không có điều gì đáng để ý cả.

Hồi 128 Tiếng hát nên duyên

Xuân qua hạ tới, đây chính là mùa nóng bức, cần phút thừa lương, Hàm Phong hoàng đế mỗi bữa cơm xong, lại ngồi trên chiếc kiệu nhỏ, có tám tên thái giám khiêng tới Thuỷ Mộc Thanh Hoa các để tránh nắng và nghỉ trưa ở đấy. Đi từ tẩm cung của ngài tới gác này có hai con đường: một đường đi qua Tiếp Tú sơn phòng, còn một đường thì qua Đồng Âm thâm xứ. Nếu so sánh hai đường, thì đường đi qua Tiếp Tú bằng phẳng và gần hơn. Bởi thế, bọn thái giám hay đưa hoàng đế đi qua ngả này.

Lan Nhi điều tra được điều đó, bèn bỏ tiền ngầm cho viên Tổng quản thái giám và bảo y cho khiêng hoảng đế đi qua phía Đồng Âm thâm xứ. Viên tổng quản được tiền rồi, tất nhiên theo đúng hẹn mà làm. Phía ngoài Đồng Âm thâm xứ có một bức tường thấp bao quanh. Mặt đông, mặt tây, đều tiếp giáp đường đi. Từ bên ngoài nhìn vào, người ta chỉ thấy bóng cây ngô đồng che mát cả một vùng, gió thổi vi vu nghe như giọng sáo.

Thế rồi vào một buổi trưa, Hàm Phong hoàng đế ngồi trên kiệu đi qua. Một trận gió thổi ngang, ngài bỗng nghe văng vẳng tiếng ca êm ái du dương từ phía trong vọng ra. Giữa lúc nóng bức đến chảy mỡ, nhìn thấy một khu rừng cây có bóng mát, có cảnh đẹp, ai lại chả thích. Đã thế, lại còn có tiếng hát như ru hồn vào cõi mộng, thử hỏi một ông vua tình tứ ăn chơi như Hâm Phong làm sao không để ý tới? Ngài liền ra lệnh cho bọn thái giám đưa kiệu vào thẳng bên trong khu Đồng Âm thâm xứ. Phong cảnh nơi đây quả thật tươi đẹp và quyến rũ. Hai bên đường bóng mát che khắp, mùi hương hoa sực nức, cỏ cây xanh rờn.

Hoàng đế vừa vào trong vườn đã khen mát khen đẹp, cho rằng cảnh u nhã có le nhất nơi này. Bọn cung nữ và Yến Nhi thấy hoàng đế giáng lâm, hoảng hốt vội chạy cả ra sân đón rước.

Hàm Phong hoàng đế lúc đó chỉ lắng tai nghe tiếng hát, tiếng nhạc véo von êm ái tự bên trong vọng ra. Ngài hạ lệnh cho bọn cung nữ dừng lại và không được làm om sòm lên nữa.

Rồi ngài xuống kiệu đi thẳng vào trong nhà.

Ngài chỉ thấy chung quanh nhà, trên các bậc cửa sổ, dán dầy những bức hoạ tuyệt mỹ. Trong nhà vắng lặng, không một bóng người. Ngài nhìn vào bức hoạ, thấy lạc khoản đề hai chữ "Thiêu Lan" nét bút vô cùng duyên dáng và sắc sảo.

Bỗng tiếng hát lại vọng ra từ phía sau nhà. Tiếng nghe êm ái và dịu ngọt làm sao! Hàm Phong hoàng đế càng nghe càng say mê. Ngài quanh ra phía sau. Một ngọn giả sơn, nằm thu hình trong khóm trúc xanh. Một cô tú nữ ăn mặc Kỳ trang với chiếc áo hồng mỏng, tay cầm quạt lông ngỗng trắng, tựa vào phiến đá của ngọn giả sơn trên mặt hồ, miệng say mê hát khúc tình ca. Tiếng hát của nàng quả du dương êm ái! Giọng điệu càng uyển chuyển, tình tứ, như muốn đưa hồn người vào cõi mộng.

Hàm Phong hoàng đế nhìn kỹ hơn người tú nữ. Ngài nhìn từ đôi vai tròn trịa thơm tho, chiếc eo phía dưới yểu điệu lạ thường. Rồi đôi lọn tóc mây như đôi cánh ve buông trên đôi má. Trời! Cái cổ nàng sao trắng thế! Trắng hệt như màu bạch ngọc. Phía trên cái cổ xinh đẹp quyến rũ ấy, nàng chải một kiểu tóc theo lối Kỳ nữ, trên giắt đoá hoa hồng lớn rung rinh.

Cô tú nữ xinh đẹp miệng ca, đôi má phấn nhẹ lắc bên này sang bên kia như đánh nhịp, đôi lọn tóc mây cũng theo đó mà bay qua lại như đôi cánh én liệng trời xuân. Hôm đó nàng lại mặc một chiếc quần mỏng màu xanh lá hẹ để lộ cặp cổ chân trắng nõn, tiếp đến đôi chân lồng trong đôi giầy xinh xắn có rắc phấn mịn màng.

Đã bao ngày vui đùa với bọn Hán nữ, Hàm Phong hoàng đế cũng đã thèm món lạ rồi, nay bỗng thấy một cô gái Kỳ nữ tuyệt sắc giai nhân lại ăn mặc Kỳ trang lạ mắt, ngài tự nhiên cảm thấy thú vị, lòng như mở ra để chờ đón một cái gì mới mẻ.

Ngài đứng đó ngắm không biết đã bao lâu, thế mà cô tú nữ tuyệt sắc nọ vẫn tư lự thả hồn theo tiếng hát của mình, không hề quay đầu lại để cho ngài được chiêm ngưỡng cái đẹp trên khuôn của nàng.

Hàm Phong hoàng đế đã định đằng hắng để nàng phải giật mình quay lại, nhưng ngài lại thấy khúc hát của nàng đang đến đoạn lâm ly tha thiết lúc bổng khi trầm nên lại thôi, đành cứ đứng lặng phía sau lắng tai nghe cho xong khúc hát. Tiếng hát cô tú nữ mỗi lúc càng trong trẻo hơn, càng say đắm hơn.

Trăng thu vằng vạc, sáo vi vu.

Tiếng sáo đưa trăng giọng lững lờ

Trăng sáo mơ màng lòng ai oán.

Oán ai, ai oán ánh trăng mờ?

(Thu nguyệt hoành không tấu địch thanh,

Nguyệt hoành không tấu địch thanh thanh.

Hoành không tấu địch thanh thanh oán.

Không tấu địch thanh, thanh oán sinh).

Câu ca chót nàng bỏ giọng mới tình chứ. Thật là trăm nhớ ngàn thương, nghìn tiếc muôn buồn! Dư âm giọng hát như còn vọng mãi nơi xa xôi, nào đó, khắc ghi vào tâm hồn của bất cứ ai đã hơn một lần yêu hoa đắm nguyệt thổn thức dưới trăng!

Ngừng lại một thoáng, cô tú nữ lại hát tiếp. Nàng đưa hồn nhẹ theo tiếng ca, như say sưa với mai, như ngỡ ngàng với tuyết:

Khách ơi! Gác lạnh, khách yêu mai,

Gác lạnh, mai cười, khách lả lơi.

Lơi lả yêu mai, Đông gọi tuyết.

Tuyết mai, mai tuyết, khách tình ơi!

(Đông các hàn hô khách thưởng mai

Các bàn hô khách thưởng mai khai.

Hô khách thưởng mai, Đông khai tuyết,

Hô khách thưởng mai khai tuyết bồi).

Nhưng lần này khi người đẹp bận Kỳ trang hát tới đoạn chót của bài ca thì Hàm Phong hoàng đế không còn cầm nồi lòng mình nữa thốt lên một tiếng lớn:

- Tuyệt quá! Tuyệt!

Cô tú nữ làm như không biết có người nghe trộm đằng sau, lại còn lên tiếng tán tụng, giật mình quay lại nhìn. Đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là người mà nâng hằng ao ước bấy lâu, cũng là người mà nàng phải đem hết tâm lực bày mưu kế mới có được như ngày nay. Nàng với quỳ mọp xuống đất miệng tâu:

- Tiểu tỳ Lan Nhi khấu kiến thánh giá! Nguyện Phật gia vạn tuế, vạn vạn tuế!

Hàm Phong hoàng đế nghe mấy tiếng từ miệng nàng thốt ra, tưởng như vừa được nghe tiếng chim loan chim phượng nó êm ái nhẹ nhàng làm sao.

Ngài cho phép nàng ngẩng đầu lên. Không ngờ trong đám tú nữ của ngài lại có người đẹp đến thế này. Quả thật là mày tầm mắt phụng, tóc mây, má đào chín, môi anh đào hàm tiếu, cổ nõn nà, tay búp măng xinh xắn.

Hàm Phong hoàng đế ngắm mãi ngắm hoài mà không chán. Lòng ngài bỗng bối rối lạ thường. Ngài tự nhủ, vi hành du ngoạn đã nhiều, biết bao gái đẹp đã qua tay mà sao chưa từng thấy một người có cái tài, cái sắc mê hồn như nàng. Ngài còn dám cho rằng Kỳ nữ không thể có người đẹp được. Vậy mà nay ngài đã gặp nàng, thật một sự không ngờ.

Nghĩ vậy rồi, ngài bèn giơ tay vẫy gọi Lan Nhi rồi quay gót vào nhà, leo lên trên chiếc giường thừa lương xếp bằng ngồi chễm chệ. Lan Nhi theo vào. Ngài chỉ cho nàng ngồi xuống chiếu ghế bên cạnh hỏi:

- Nàng vừa ca bản gì vậy?

Lan Nhi khép nép thưa:

- Muôn tâu! Đó là bản Liên hoàn bốn cảnh!

- Nàng nói có bốn cảnh. Trẫm mới được nghe có Thu và Đông. Còn hai cảnh Xuân và Hạ nữa, nàng hát nốt trẫm nghe nào!

Lan Nhi tuân chỉ, chú ý vào giọng hát cho quyến rũ hơn, nàng ca:

Mùa xuân đã tạnh bạn tình ơi!

Tìm bạn thăm hoa sắc ghẹo người.

Hoa bạn có xa mà chẳng cách

Biết chăng hoa bạn tuổi đương thời?

(Xuân vu tình lai phỏng hưu gia.

Vũ tình lai bằng hữu gia hoa.

Tình lai phỏng hữu gia hoa kính,

Lai phỏng hữu gia hoa kính tà).

Ca xong bản Xuân cảnh nghỉ một vài phút, Lan Nhi lại tiếp bài Hạ cảnh:

Ao hè gió động lá sen xanh,

Lá xanh bông trắng lẳng lơ cành.

Hương thơm ngào ngạt ao hè đượm.

Gió động cành xanh ghẹo khách tình

(Hạ thiền phong hạ thuý diệp trường

Thiền phong hạ thuý diệp trường hương

Phong hạ thuý diệp trường hương mãn

Hạ thuý diệp trường hương mãn đường).

Hàm Phong hoàng đế nghe xong cười lên khanh khách khen hay:

- Bản này hay tuyệt, đáng khen lắm!

Lan Nhi được khen e lệ đứng dậy, rót một chén trà ướp sen dâng lên. Hàm Phong hoàng đế vừa uống trà vừa nhìn ngắm khuôn mặt nàng.

Hôm đó Hàm Phong hoàng đế đến một cách đột ngột nên Lan Nhi không trang điểm được gì. Nhưng không phải vì thế mà nàng kém xinh đẹp. Trái lại chính sự buông thả ấy, mà nàng mới có sắc đẹp thiên nhiên ít ai bì kịp khiến Hàm Phong hoàng đế ngạc nhiên và lập tức say mê ngay.

Nàng chỉ mặc có chiếc áo hồng mỏng ngắn lót mình, khiến tấm thân ngà ngọc lồ lộ bên trong, trông rõ mồn một từ nét thẳng đến đường cong. Bộ ngực đầy đặn tròn trĩnh của nàng nồi bật hẳn lên càng làm tăng vẻ bí ẩn của người con gái tuổi dậy thì. Đã thế, dưới áo mỏng, chiếc yếm thêu chỉ đỏ còn như tô điểm thêm vẻ quý phái cho bộ ngực ăn nhịp với cái eo mà hoàng đế tưởng như đó chính là nơi ấp ủ nguồn sống của chính mình.

Hàm Phong hoàng đế uống cạn trà, giơ tay đưa trả chén cho Lan Nhi. Nàng cất cao bàn tay lên đón chiếc chén. Quả là một bàn tay mà ngài chưa từng thấy! Ngón tay như ngọc, bàn tay như ngà. Đã mịn lại trắng mũm mĩm, óng chuốt như tơ. Móng tay được gọt dũa tinh vi, bôi một thứ sơn mỏng màu hồng nhạt. Lòng bàn tay nàng tươi hồng trông ngon mắt.

Giữa lúc đỡ lấy chén, Lan Nhi không ngờ hoàng đế đã như con chim cắt bắt mồi chụp ngay lấy cả bàn tay nàng gọn trong tay mình, chiếc chén Giang Tây rớt xuống thềm nhà vỡ tan tành.

Lan Nhi lúc đó vừa mừng vừa sợ. Nàng chỉ biết cúi đầu e lệ, không dám ngẩng mặt lên. Hàm Phong hoàng đế nhân dịp đó, giơ cả hai tay ra bế thốc nàng lên đặt ngồi trên mép giường rồi kéo xích người nàng về phía mình. Ngài cất tiếng hỏi tên tuổi của nàng, hỏi quê quán, gia đình cha mẹ, rồi hỏi tới ngày bước vào cung nội.

Lan Nhi trả lời rành mạch từng điểm, giọng trong trẻo, tiếng êm như ru, mà đâu vào đấy, không thiếu sót một điểm nào!

Hàm Phong hoàng đế nghe xong, nhìn thẳng vào mặt nàng, nháy mắt đưa tình, kéo sát nàng vào lòng, ghé miệng vào tai nàng thì thầm…

Người ta chỉ thấy Lan Nhi bỗng bật lên tiếng cười, và chỉ nói được mỗi một câu:

- Tiểu tỳ xin tuân chỉ.

Rồi đôi má nàng ửng đỏ, cặp mắt hồ thu lóng lánh đưa nhanh, nàng vội đứng dậy chạy ra trước viện, truyền gọi hai viên tổng quản Thôi Trường Lệ và An Đắc Hải ra phía sau.

Hàm Phong hoàng đế bảo hai viên tổng quản sang Thuỷ Mộc Thanh Hoa các truyền dụ cho bọn cung tần mỹ nữ nơi đây biết ngài hôm đó nghỉ ngơi tại Đồng Âm thâm xứ, cứ việc tự do giải tán, khỏi cần chờ chực hầu hạ. Bọn tổng quản nghe truyền, biết ngay việc gì sắp xảy ra, miệng vội nói tuân chỉ, tay từ từ khép cửa lại, lặng lẽ rút lui.

Lan Nhi hầu hạ hoàng đế ngơi nghỉ tại Đồng Âm thâm xứ, mãi lúc mặt trời xuống núi mới thấy ngài bá vai bá cổ nàng bước ra ngoài viện để hóng mát.

Lát sau, bọn thái giám khiêng kiệu lại. Ngài bước lên ngồi, mắt nhìn người đẹp như còn lưu luyến ước hẹn. Lan Nhi đưa ngài ra khỏi viện. Bọn cung nữ và thái giám lạy chào, cầu chúc ngài vạn an.

Lan Nhi lúc đó, bên ngoài thì mắc cỡ, đỏ mặt tía tai, nhưng trong lòng quả muôn phần đắc ý, nàng biết chắc rằng hoàng đế đêm nay khó thể quên nàng, và quyết chắc ngài sẽ cho tuyên triệu. Bởi thế nàng vội quay về phòng, trang điểm cực kỳ lộng lẫy.

Mùa hè làm sao tránh được mồ hôi. Thực ra, lúc xế chiều, Lan Nhi đã tắm qua một lần nhưng vì hôm đó, thừa tiếp thánh giá cho nên chiếc áo mỏng đầy khêu gợi kia đã ướt đẫm mùi hương. Nàng lấy nước thơm tắm lại lần nữa, thoa một lần phấn mỏng lên khắp da cho thêm mịn, thêm thơm. Mấy cô cung nữ cũng cố kiếm cho nàng một đoá hoa dạ hợp cài vào mái tóc mây đen nhánh của nàng, mùi hương thơm ngào ngạt khắp cả căn phòng.

Lan Nhi ngắm bóng mình trong chiếc gương tư mã một lần chót, cười sung sướng với cái duyên cái sắc của mình, lòng thấp thỏm đợi chờ lệnh tuyên triệu của hoàng đế…

Hồi 129 Lan Nhi thù gái Hán

Biết thế nào hoàng đế cũng tuyên triệu. Lan Nhi hôm đó trổ hết tài nghệ tô điểm, quyết cướp ông vua phong lưu đa tình này về mình. Sau bữa cơm tối, quả nhiên nàng thấy tổng thái giám phòng kính sự đi tới, tay giơ cao tấm bài vuông đầu màu xanh, miệng nói lớn:

- Lan quý nhân tiếp chỉ!

Nghe tiếng gọi đó, Lan Nhi biết hoàng đế đã gia phong cho mình làm quý nhân, trong lòng biết bao vui sướng. Nàng vội quỳ xuống lĩnh chỉ.

Bọn cung nữ đưa nàng vào ngoạ phòng, chiếu lệ, cởi bỏ hết y phục cho nàng, xức khắp mình nàng một lượt nước thơm hảo hạng. Mọi việc sửa soạn đã xong, bọn cung nữ lớn tiếng nói vọng ra:

- Lĩnh chỉ.

Tức thì viên tổng quản cầm một chiếc chăn chiên lớn bước vào, choàng lên mình Lan Nhi che kín khắp, rồi cong gối ngồi xổm trên mặt đất, đợi khi nàng ngồi vững hẳn trên vai, lúc đó mới vít chặt hai đùi nàng vào người mình rồi đứng dậy và lẹ làng kiệu tới tẩm cung của hoàng đế. Vài tiếng đồng hồ sau người ta lại thấy viên tồng quản đưa nàng quay về Đồng Âm thâm xứ.

Một điều lạ là Hàm Phong hoàng đế xưa nay lâm hạnh cung tần mỹ nữ hằng đêm đều không giữ ai lại, song đối với Lan Nhi, thì qua sau đêm đầu, ngài truyền chi cho thái giám giữ nàng lại tẩm cung.

Bọn thái giám và cung nữ trong viện của Lan quý nhân thấy vậy thì biết rằng ngài đã quá sủng ái nàng rồi. Ví thử trong tương lai, nàng sinh cho ngài một cậu hoàng nam thì đừng nói cung tần trong tam cung lục viện, ngay cả đến chính cung hoàng hậu kia cũng phải có biệt nhãn đối với nàng. Bởi thế không một kẻ nào không xu phụng nàng.

Yến Nhi vốn cùng ở với Lan Nhi từ Đồng Âm thâm xứ, song từ khi Lan quý nhân được sủng ái thì nàng rời qua Hương Viễn Ích Thanh lâu. Hàm Phong hoàng đế từ khi triệu hạnh Lan quý nhân rồi, thì quyến luyến không rời xa được nữa.

Ngài tới Đồng Âm thâm xứ để nghe nàng ca. Bao nhiêu năm học, các bản ca nàng thuộc quả có nhiều thực. Hôm nay nàng ca một bản, mai nàng ca một bản Hôm nay ca tiểu điệu, mai ca khúc mạn thanh tráng điệu. Nàng ca mãi khiến ông vua phong lưu phóng đãng như bị khoá chặt vào mấy cái gốc cây ngô đồng nơi đây. Thế rồi ngày ngày ở trong phòng Lan Nhi, đêm đêm ngài ngủ lại Đồng Âm thâm xứ, không quay gót về tẩm cung của mình nữa!

Nào là Mẫu Đơn Xuân, nào là Hạnh Hoa Xuân, tất cả đều bị ngài ném ra sau ót cả. Gần gũi hoàng đế, mọi chuyện trong cung, Lan quý nhân cũng thông hiểu đôi phần. Bởi thế, nàng thường khuyên hoàng đế nên lưu ý tới việc triều chính. Và hoàng đế cũng nghe lời nàng, truyền dụ cho quân cơ đưa các bản tấu sớ tới Đồng Âm thâm xứ cho ngài xét.

Hồi đó, khắp cả một vùng Tràng Giang (sông Dương Tử) đều bị Hồng Tú Toàn khuấy động lung tung. Bọn Tăng Quốc Phiên, Hướng Vinh, Bành Ngọc Lân, Tả Tôn Đường, cùng cả một bọn tướng soái tuy liều mạng chống đỡ, vẫn nay mất thành này, mai thua trận nọ, toàn là những tin thất lợi.

Hàm Phong hoàng đế xem các bản tấu sớ, thường bàn với Lan quý nhân. Nàng vốn có kiến thức nên nói với ngài:

- Đất nước thanh bình đã lâu, tướng soái Mãn Châu chúng ta hỏng hết rồi, chi bằng bệ hạ trọng dụng người Hán. Bọn Tăng Quốc Phiên từ nhỏ ở miền Tràng Giang, tất nhiên am hiểu hết nhân tình cũng như địa thế. Bệ hạ nên lấy tước vị mà lung lạc chúng. Bọn chúng chỉ là một lũ mọt sách ngốc nghếch ngu xuẩn, một khi đã được giàu sang rồi, thế nào cũng thay ta mà thẳng tay chém giết bà con chúng.

Hàm Phong hoàng đế nghe Lan quý nhân nói có lý, bèn làm theo nàng. Thế rồi ngài thăng chức cho bọn Tăng, Tả, Bành, Hướng, ngày lên vùn vụt. Ngài thấy Lan quý nhân chữ tốt, bèn bảo nàng phê giùm các bản tấu sớ cho ngài. Thế là bắt đầu từ đó, Lan quý nhân dần dần tham dự vào triều chính, bàn bạc quân sự.

Hàm Phong hoàng đế thấy Lan quý nhân vừa có sắc lại vừa có tài nên càng ngày càng sủng ái. Chẳng may chốc trời đã sang thu, ngài thấy tại Đồng Âm thâm xứ lạnh lẽo bèn đưa nàng về ở tại Thiên Địa Nhất Gia Xuân.

Thiên Địa Nhất Gia Xuân là một nơi rộng rãi. Lan Nhi vốn là một quý nhân có cái óc khá rộng, chí khá lớn. Nàng nuôi dưới trướng đến mấy trăm thái giám và cung nữ. Nàng đã nghe có người nói hoàng thượng sủng ái Tứ Xuân ngay từ lúc mới vào cung. Nàng cũng còn nghe đồn ngài để ở trong vườn Viên Minh rất nhiều cô gái chân nhỏ. Chính những cô gái này làm cho ngài trở nên hoang dâm vô độ. Vì thế nàng căm thù bọn con gái Hán và nảy sinh ý báo thù giùm cho bọn gái Mãn.

Tiếc rằng lúc đó mới vào cung, chưa được hoàng đế sủng ái chưa có quyền trong tay chưa làm gì được. Nhưng tình thế lúc này đã khác. Hoàng đế đã sủng ái nàng. Bất cứ lời nói nào của nàng, ngài cũng đều nghe cả. Quyền nàng càng ngày càng lớn. Do đó, thế nàng cũng ngày một mạnh.

Lúc này Mẫu Đơn Xuân, Hạnh Hoa Xuân ở trong vườn lâu lắm chẳng thấy hoàng đế tới, trong lòng rất lấy làm lạ.

Các nàng cho người dò la tin tức, được biết hoàng đế đã sủng ái một cô gái Kỳ nữ nào đó gọi là Lan Nhi. Bọn thái giám cũng như cung nữ thấy hai nàng đã thất sủng, còn hy vọng gì lợi lộc, đều bỏ và kéo nhau sang xu phụng nịnh bợ Lan quý nhân. Bọn chúng đem hết mọi chuyện sủng hạnh Tứ Xuân ngày trước ra sao, khiến nàng cay ghét bọn này không để đâu cho hết.

Một việc xảy ra đúng lúc: có một cung nữ người Hán lẻn tới Thiên Địa Nhất Gia Xuân để nghe ngóng tình hình tin tức về hoàng đế, núp trong một bụi cây thì thào nói chuyện với một tên thái giám. Lan quý nhân lúc đó đang ngồi trên cửa sổ, nhìn xuống thấy thế, bất giác nổi giận đùng đùng. Cũng lúc này, hoàng đế đang truyền gặp đại học sĩ Đỗ Thu Điền tại Hàm Đức thư ốc. Lan quý nhân tự nghĩ, phải nhân lúc hoàng đế không có mặt tại đây, hạ độc thủ một phen để cảnh cáo bọn chúng.

Nghĩ như vậy, nàng bèn lặng lẽ điều binh khiển tướng cho bọn thái giám đi bắt cô cung nữ người Hán và tên thái giám nọ vào tra khảo.

Thì ra cung nữ này vốn ở Yên Nguyệt Thanh Chân lâu từng được hoàng đế triệu hành, lâu ngày không thấy ngài tới lòng nhớ quá đỗi, bèn lẻn tới nơi đây dò la tin tức Lan quý nhân nhìn kỹ con cung nữ thấy dáng người xinh xẻo, da trắng, mặt xinh, cặp mắt tình tứ đôi chân nhỏ nhắn đi một đôi hài thêu hoa rất đẹp thì lại càng giận tức ghen ghét, nàng quát hỏi:

- Con khốn kiếp kia! Mỉ lảng vảng tới đây để dò la tin tức hoàng thượng phải không? Chính mắt tao đã nhìn thấy mi nói chuyện thậm thụt với tên thái giám, còn chối nữa không?

Sau cuộc trả hận bọn gái Hán, Lan quý nhân cảm thấy như có cái gì thông khoái trong lòng, cho nên cứ mỗi khi hoàng đế ra khỏi cung, nàng lại cho bắt bọn gái Hán trả thù theo kiểu này để tiêu khiển. Không một ngày nào là Lan Quý nhân không giết một hai cung nữ người Hán.

Có những cô nghe tin này, biết mình rồi đây cũng không thể sống nổi, đã sớm tự tử trước, cho khỏi nhục. Cũng có những cô sợ quá, đem tiền của dành dụm được, ngầm lót cho bọn thái giám để trốn khỏi vườn Viên Minh. Hành động tàn ác của Lan quý nhân càng ngày càng ghê khiếp, khiến một nơi đẹp đẽ như vườn Viên Minh bỗng trở nên một hoả ngục quỷ khốc thần sầu, trời thê đất thảm. Những sự động trời như vậy mà Hàm Phong hoàng đế tuyệt nhiên chẳng biết tí gì.

Lan quý nhân đã tìm cách che giấu nhà vua một cách tài tình. Vốn là một người hiểm độc và khôn ngoan, ranh mãnh, Lan quý nhân không dại gì động tới bốn nàng Xuân. Nàng nghĩ rằng bốn nàng vốn được hoàng thượng sủng ái một thời, rất có thể lúc nào đó, ngài cao hứng nhớ tới, thì cơ mưu ắt bại lộ. Ấy cũng vì vậy, bọn cung nữ Hán nhiều đứa vội đến nhờ bốn nàng Xuân che chở và ở luôn tại đấy tị nạn.

Hồi 130 Lan quý nhân có thai

Giữa lúc đắc sủng, Lan quý nhân lại còn được một tin mừng đặc biệt nữa: đó là nàng có thai, sau một năm hầu hạ hoàng đế. Bởi thế nàng vội đem tin mừng này tâu lên hoàng thượng.

Hàm Phong hoàng đế nghe tin vô cùng sung sướng và càng sủng ái Lan quý nhân hơn. Ngài tự nhủ: Đã bao nhiêu năm ngài thưởng thức số người đẹp không đếm xuể, chỉ cầu mong lấy một hoàng nam để kế nghiệp nhà Đại Thanh mà mãi vẫn chưa được. Hiếu Trinh hoàng hậu đối với ngài lại ít dịp ăn ở cùng nhau, chuyện sinh hoàng tử với bà quả là một việc khó khăn lắm… Nay Lan quý nhân có thai, nếu sinh cho ngài một hoàng nam, thì thực chẳng uổng công ngài sủng ái.

Kể từ hôm đó, Lan quý nhân muốn mưa thì được mưa, nàng muốn nắng thì được nắng, không có cái gì là không được. Nàng nói một câu là hoàng đế nghe liền một câu, nói hai câu là hoàng đế nghe ngay hai câu, thực là bảo sao nghe vậy Từ khi có thai, Lan Quý nhân hay chóng mặt, tính tình sầu não, chán cả chuyện chăn gối. Không hoàn toàn là chuyện thay đổi khi mang bầu. Có lê do nàng đã giết quá nhiều gái Hán trong cung. Hằng đêm, vào canh khuya, nàng tỉnh dậy nghe những tiếng ma hú, quỷ gào quanh căn nhà Thiên Địa Nhất Gia Xuân. Đã thế, cái thai của nàng hình như cũng hưng yêu tác quái, khiến nàng nôn nao suốt ngày, nghĩ lằng mình đã bị ma nhập.

Nàng tính toán thấy chi còn vài ba tháng nữa thì lâm bồn. Với nàng thì chẳng sao, nhưng với hoàng đế, nàng sợ ngài sẽ không chờ được, lại triệu hạnh tới bọn Tứ Xuân kia chăng? Cho bằng hãy khuyên ngài về cung nội để xa hẳn bọn yêu nữ đó. Nàng nghĩ là làm ngay.

Đã lâu rồi Hàm Phong hoàng đế chưa về thăm chánh cung hoàng hậu. Lại cũng lâu rồi ngài chưa toạ triều. Thực ra, ngài rất sợ việc này, chỉ thích chơi bời phóng đãng. Ngài chẳng muốn hồi cung chút nào.

Thấy Hàm Phong hoàng đế có ý do dự, Lan Quý nhân càng giục giã không thôi. Nay nàng nói, mai nàng lại nói. Nàng nói mãi cho đến khi hoàng đế phải nghe mới thôi. Nàng tìm mãi để nói lên một lời mà hoàng đế khó thể từ chối:

- Được bệ hạ sủng ái, đó là một vinh hạnh cho tỳ tử. Song tỳ tử cũng xin bệ hạ mở cho một lối thoát: đó là đừng cho nương nương biết là tỳ tử đã làm cho bệ hạ say mê để đến nỗi quên cả cung nội. Ví thử điều tiếng này mà loan truyền ra thì tỳ tử thực không còn mặt mũi nào để làm người nữa.

Lan quý nhân nói đến đây, bỗng hai hàng lệ tầm tã tuôn rơi. Hàm Phong hoàng đế thấy vậy, trong lòng cũng cảm thấy bi thương, có đôi chút bất nhẫn nữa, bèn hứa theo ý nàng, và quyết định chỉ trong vòng ba ngày là sẽ về cung nội.

Văn võ khắp triều được tin hoàng đế trở về cung, ai cũng đều tỏ vẻ cảm kích tấm lòng của Lan quý nhân. Nhưng tại sao họ lại cảm kích như vậy?

Nguyên từ vườn Viên Minh đến kinh thành xa hơn bốn mươi dặm. Bọn triều thần mỗi ngày lên triều bái, tất phải dậy từ nửa đêm, rồi kẻ có xe thì đi xe, người có ngựa thì cưỡi ngựa, lếch thếch kéo nhau để tới cổng vườn, vừa đúng gà gáy sáng. Đến lúc bình minh, bọn đại thần các bộ mới đem mọi việc tâu lên, và sau đó vâng thánh chỉ để quay về kinh thành thì trời cũng vừa trưa. Ngày nào cũng như ngày nào, bọn triều thần đều phải như thế cả. Khổ nhất là vào những ngày đại tuyết, đại vũ, đại hàn, đại thử, bá quan tha hồ mà xông pha mưa, tuyết, mặc sức mà dầu dãi phong sương. Trên con đường bốn mươi dặm ấy, không một ai là không kêu khổ. Ấy thế mà nay, chỉ nhờ có mỗi một lời nói của Lan quý nhân, hoàng thượng đã trở về cung, khiến họ đỡ được tất cả những nỗi cơ cực thử hỏi họ không cảm kích sao được?

Khi trở về đến cung. Hàm Phong hoàng đế thu xếp cho Lan quý nhân ở tại cung Hy Xuân. Ngài còn bảo bọn cung nữ và thái giám tạm thời giấu chính cung, đợi khi Lan quý nhẩn sinh hạ hoàng nam rồi hãy cho biết. Còn ngài vẫn ngày ngày sống bên cạnh Lan quý nhân như cũ.

Lan quý nhân từ khi có tin mừng, lại thường hay bị bệnh. Ngày nào cũng vậy, ngự y luôn luôn phải túc trực để bắt mạch và bốc thuốc. Nhưng phải cái thai hết sức kỳ quái, ba ngày yên thì lại ba ngày phá, và cứ thế kéo dài mãi. Thấy Lan quý nhân như vậy, hoàng đế lại cưng chiều hơn..

Phàm thuốc thang Lan quý nhân uống, đều phải hoàng đế đích thân xem qua trước. Nàng thấy được cưng chiều, lại càng nũng nịu thêm. Nàng thường bắt hoàng đế phải ngồi lại bên giường để trò chuyện cho vui. Ấy cũng vì vậy, nên tại điện Mâu Cần tuy có thiết triều đấy, nhưng mười lần thì ngài chỉ có mặt được một, hai. Những cuộc bê trễ này của hoàng đế thực chỉ làm khổ văn võ bá quan phải chờ đợi rồi lại phải lủi thủi về không.

Nhưng những cuộc bê trễ này cũng đã chọc giận hai vị đại thần được trọng vọng trong triều: một người là đại học sĩ Đỗ Thụ Điền, và một nữa là Tôn thất Túc Thuận. Thế rồi nhân một hôm vào chầu, được bệ kiến nhà vua, đại học sĩ Đỗ Thụ Điền liền trịnh trọng cất lời khuyên can nhà vua một phen. Ông nói:

- Hiện nay mối lo bên ngoài cũng như cả bên trong thực hết sức cấp bách. Đấng thiên tử cần nên chú trọng để mong bảo vệ được cơ nghiệp của tổ tông khỏi đổ nát mới phải.

Hàm Phong hoàng đế vốn kính trọng đại học sĩ Đỗ Thụ Điền. Nay nghe ông khuyên can, lại còn đưa ra cả cơ nghiệp của tổ tông, ngài chẳng biết nói sao, đành phải im lặng. Túc Thuận là người có uy thế hơn, bởi rằng Thuận vốn người tôn thất, hiện đang nắm giữ Tôn nhân phủ. Mọi chuyện trong cung Thuận đều biết hết. Thuận cũng biết rằng gần đây hoàng đế sủng ái một Lan quý nhân, mà Thuận cho rằng không được không nên.

Tại sao vậy? Tại vì trước đây Túc Thuận biết Huệ Trưng là cha ruột của Lan quý nhân có phạm phải một lỗi nhỏ, hơn nữa Lan Nhi ngày trước chỉ là một con tú nữ chuyên dọn dẹp quét tước ở Đồng Âm thâm xứ chứ chẳng phải lá ngọc cành vàng gì. Thuận bèn tìm cách thông tin cho chính cung hoàng hậu. Hiếu Trinh bình nhật vốn ghét bọn gái được hoàng đế quý yêu, nay được biết hoàng thượng say mê Lan quý nhân bỏ hết cả triều chính, thì sao chả nổi giận.

Rồi một buổi sớm, hoàng hậu ngồi trên chiếc xe vàng nhỏ tới cung Xuân Hy quỳ ngay phía ngoái, trước phòng ngủ của hoàng đế, lấy Tổ huân ra, đội lên đỉnh đầu, rồi đọc lên oang oang.

Hàm Phong hoàng đế giật mình đẩy Lan quý nhân ra một bên, nhảy xuống đất quỳ ngay bên cạnh giường để nghe lời răn dạy, một mặt, truyền dụ khuyên hoàng hậu thôi đọc.

Sau đó, hoàng đế vội mặc áo đội mão tới Mâu Cần điện. Tan trào, ngài đã vội chạy tới cung Xuân Hy. Mới tới cửa cung, ngài thấy một tên thái giám hoảng hết chạy ra quỳ xuống đất.

Ngài quát hỏi chuyện gì, thì tên thái giám tâu:

- Hoàng hậu đã chuyển chỉ ý, tuyên triệu Lan quý nhân tới Khôn Ninh cung rồi.

Hàm Phong hoàng đế chưa nghe xong câu nói đã hậm hực giậm chân, miệng nói liên hồi:

- Hỏng bét! Hỏng bét cả rồi!

Thì ra Khôn Ninh cung chính là chính cung của hoàng hậu. Phàm xét hỏi phi tần phải dùng đến hình cụ là đều ở cung này cả.

Hàm Phong hoàng đế nghe tên thái giám nói xong không kịp thay áo đổi mũ nữa, vội chạy đến cung Khôn Ninh, đi thẳng vào phòng giữa, nhìn thấy hoàng hậu mặt hầm hầm, ngồi phía trên, còn Lan quý nhân vừa khóc vừa nói, quỳ ở phía dưới, cái áo dài phía ngoài đã lột bỏ, chỉ còn có một tấm áo mỏng màu xanh lá hẹ lót mình. Hoàng hậu quát một tiếng:

- "Đánh!" tức thì đám cung nữ hai bên tả hữu, tay cầm gậy chu hồng nhè giữa lưng Lan quý nhân giáng thẳng xuống.

Hàm Phong hoàng đế thấy quá gấp, vội nhào tới lấy thân che đỡ Lan quý nhân rồi giơ tay cản mấy chiếc côn, một mặt nói với hoàng hậu:

- Chớ đánh! Chớ đánh! Nàng có thai đã năm tháng rồi đó!

Chỉ có mỗi một câu đó mới làm cho Hiếu Trinh hoàng hậu thất sắc được. Bà vội chạy xuống đất, đích tay nâng Lan quý nhân dậy. Lan Nhi vốn là một cô gái hết sức thông minh và khôn ngoan quỷ quyệt, vội quỳ xuống, trước hết tạ ơn hoàng đế, sau tạ ơn hoàng hậu. Hoàng hậu nói với hoàng thượng:

- Tại sao ngài không nói sớm cho thiếp nghe? Xuân thu bệ hạ đã luống mà vẫn chưa có hoàng nam, bao hy vọng trông ở cái thai của quý nhân đây. Thiếp dùng gậy đánh quý nhân, bất quá chỉ là tuân giữ Tổ huấn. Tuy nhiên nếu lỡ tay đánh quá cái thai bị thương, thiếp chẳng có tội với tổ tiên sao?

Nói đoạn, chính bà cũng xúc động, để đôi dòng lệ tuôn trào trên má. Hàm Phong hoàng đế vốn kính trọng Hiếu Trinh hoàng hậu, thấy bà đang trách mắng đánh đáp Lan quý nhân, mà bỗng bỏ hết giận tức trở lại xúc động thương khóc, ngài cũng lấy lời khuyên can và an ủi bà.

Hiếu Trinh hoàng hậu cũng nhân dịp này khuyên can hoàng thượng nên lưu tâm tới việc triều đình. Bà cho biết hiện bọn giặc tóc dài đã khuấy động can qua ngập trời, mười tám tỉnh đã mất phân nửa, thế mà ngài vẫn không bạ chỉ dụ để bảo toàn cơ nghiệp của tổ tông. Bà còn khuyên ngài chớ nên mê luyến nữ sắc nữa.

Hàm Phong hoàng đế nghe Hiếu Trinh hoàng hậu khuyên răn, bất giác kinh sợ muôn phần. Hiếu Trinh hoàng hậu lúc đó chưa bao tuổi, mới hai mươi ba thôi. Tuy tô son điểm phấn mười phần kiều diễm, nhưng thực ra bà chỉ là một người đàn bà có khuôn mặt xinh xắn mà thôi.

Đã từ lâu hoàng thượng và hoàng hậu không chung chăn chung gối, bởi thế nhân dịp này, hoàng thượng bất giác động lòng yêu thương đối với hoàng hậu. Ngay đem đó ngài ở lại cung Khôn Ninh.

Cái việc bảo hợp giữa hoàng thượng và hoàng hậu nơi cung cấm là một việc lớn chứ không phải chuyện chơi, kính sự phòng có bổn phận phải coi từng giờ, từng phút, từng ngày, từng tháng, từng năm mà ghi chép cẩn thận vào sổ. Hoàng đế ngủ một đêm thì sổ phải chép một đêm, ngủ hai ngây phải chép hai ngày.

Không ngờ hoàng đế với hoàng hậu lâu ngày xa nhau, nay mới gặp lại thành thử tình nồng, duyên thắm. Ngài ngủ hết đêm này rồi đêm khác, ngủ mãi, ngủ hoài, khiến viên thái giám kính sự phòng chép luôn một hơi là nửa năm.

Hiếu Trinh hoàng hậu lúc đó mới khuyên hoàng thượng cần điều dưỡng thân thể cho cường tráng. Bà cho ngài biết máu hươu rất bổ âm. Bởi thế trong cung đem về tới mấy trăm con hươu, mỗi ngày làm thịt mỗi con, lấy máu cho ngài uống.

Đã thế, Hiếu Trinh hoàng hậu cứ mỗi buổi sáng còn giục hoàng đế dậy sớm để toạ trào. Đến lúc đó, Hàm Phong hoàng đế dần dần mới rõ được mọi việc đại sự bên ngoài, nhất là bọn Hồng Tú Toàn đã cướp được Nam Kinh và đang tiến dần vào Bắc Kinh. Hàm Phong hoàng đế hoảng hồn bạt vía, nhưng nhất thời chẳng tìm ra kế sách gì. Thoái trào hồi cung, ngài đem việc triều chính ra bàn với hoàng hậu. Hậu nói:

- Thiếp chỉ là một người đàn bà làm sao hiểu được việc triều đình. Huống hồ cung nhân can thiệp vào triều chính là điều cấm kỵ của tổ tiên, mong bệ hạ chớ nên mưu tính việc lớn với đàn bà. Ngài nên tìm một vài kẻ đại thần nào đó mà bàn tính thì hơn.

Lời khuyên giải đó của Hiếu Trinh hoàng hậu vừa đúng ý, vừa nhũn nhặn, duyên dáng, càng làm cho Hàm Phong hoàng đế thêm phần yêu kính. Ít hôm sau Hàm Phong hoàng đế hạ một đạo dụ sai tổng đốc Trực Lệ là Nột Nhĩ Kính Ngạch làm khâm sai đại thần chuyên biện quân vụ miền Hà Nam để chống lại đoàn quân tóc dài đang xông lên miền Bắc.

Lại nói hồi đó Hồng Tú Toàn đã cướp được Nam Kinh, dựng nước tại đây, mở khoa thi chọn kẻ sĩ, khuyến khích nghề nông, đôn đốc nghề thợ. Bọn ngoại quốc thấy Toàn thanh thế ngày thêm lớn mạnh, quân đội lại đông, bèn hùa vào, miệng khen nào là cách mạng vì giống nòi, nào là vì dân để diệt bạo. Bọn ngoại quốc càng về sau càng tin tưởng Toàn hơn.

Gã ngoại quốc đầu sỏ phải nói là Hoa Kỳ. Hoa Kỳ sai một chiếm hạm thẳng xuống Nam Kinh. Hồng Nhân Can là em Hồng Tú Toàn biết ngoại ngữ ra tiếp viên thuyền trưởng.

Viên thuyền trưởng dâng quốc thư, gọi Toàn là Thái bình Thiên quốc Thiên vương. Toàn chấp thuận cho người ngoại quốc thông thương với điều kiện là yểm trợ cho Toàn.

Viên công sứ Hoa Kỳ tới Thượng Hải thông cáo cho lãnh sự các nước khác như Anh, Pháp. Thế là đối với Thái bình Thiên quốc, đám ngoại quốc Tây phương ai cũng bằng lòng vừa ý cả.

Hồng Tú Toàn cũng sai Hồng Nhân Can làm khâm sai đi Hoa Kỳ đệ quốc thư. Từ đó, người ngoại quốc bất cứ quốc tịch nào, thảy đều giúp Hồng Tú Toàn chống lại Thanh triều.

Tại Quảng Đông, các viên lãnh sự ngoại quốc chống đối tổng đốc Kỳ Anh, nên Kỳ được rút về kinh làm đại học sĩ, Từ Quảng Tấn ra thay làm tổng đốc Lưỡng Quảng và Diệp Danh Thám làm tuần phủ Quảng Đông.

Chiến thuyền Anh tiến vào Quảng Đông. Tấn đem quân Đoàn dũng chống lại. Quân Anh rút lui. Triều đình hạ chỉ thưởng Tấn tước tử, và Thám tước nam. Về sau, Thám còn được làm tổng đốc nữa.

Không ngờ sau khi được làm tổng đốc, Thám đâm ra kiêu căng, khinh thường hết quân Đoàn dũng. Quân Đoàn dũng tinh Quảng Đông trước đó đã lập được nhiều công, thấy thế đâu có chịu. Do đó, hai tên đầu mục của đoàn quân này là Quan Cự và Lương Tiếp bỏ lên tàu Anh xin hàng, và tình nguyện xin với viên lãnh sự Anh là Ba Hạ Lễ làm hướng đạo cho quân Anh. Viên lãnh sự Anh vốn ghét Thám, nhưng chưa tìm được ra cớ gì. May thay một câu chuyện xảy ra, giúp ích rất nhiều cho y. Số là hồi đó, có mấy chiếc thuyền buôn lậu á phiến giả mạo treo cờ Anh chạy vào bén. Viên chỉ huy tàu binh tuần sông bắt được giữ thuyền lại, trói giật mười ba anh thuỷ thủ Hoa tống vào lao.

Tin này đến tai viên lãnh sự Anh Ba Hạ Lễ. Đây là cơ hội nghìn năm một thuở cho Lễ, dại gì mà bỏ qua. Thế là Lễ viết thơ trách Thám, và bảo đó là thuyền của người Anh.

Thám thấy chuyện chẳng lớn lao gì, bèn hạ chỉ thả hết mười ba thuỷ thủ Hoa bị giam và đưa về cho Lễ. Tưởng thế là yên chuyện, nào ngờ Lễ kiếm chuyện không chịu, bắt viên thuỷ sư đề đốc nhà Thanh phải đích thân tới tạ lỗi trước cửa nhà y, đồng thời phải đưa viên chỉ huy chiếc tàu binh nọ tới cho y xử tội.

Thấy người Anh vô lễ nhưng Thám chẳng thèm chấp và cũng chẳng đề phòng gì. Ba Hạ Lễ bèn yêu cầu viên công sứ Anh ở Hương Cảng đem chiến thuyền tới, đánh phá pháo đài Hoàng Phố. Thám cũng vẫn bỏ qua. Đoàn chiến thuyền Anh tiến đánh pháo đài núi Phượng Hoàng, cướp pháo đài Hải Châu, có ý ngấp nghé thành Quảng Châu. Quan ty đạo trong thành hoảng hốt chạy tới dinh tổng đốc xin yết kiến. Thám tay cầm lá đơn mặt tỉnh bơ, như không có chuyện gì xảy ra.

Bỗng vang lên một tiếng nổ như tiếng sét, chấn động cả thành phố. Thì ra đại bác của chiến thuyền Anh bắn phá thành, khiến bức tường ngoài đổ vỡ tan tành.

Thám lúc đó mới biết sợ, vội cho người đi giảng hoà. Viên lãnh sự Anh bảo viên công sứ Hương Cảng chỉ cần đòi một mình Thám tới nói chuyện mà thôi.

Thám được tin đó lại càng sợ, trốn kỹ trong thành Quảng Châu, không dám ra ngoài nữa. Lúc đầu Thám còn được viên lãnh sự Hoà Kỳ đứng ra điều giải nhưng về sau thấy Thám đã ma bùn lại còn bắc bậc làm cao, viên lãnh sự này khùng lẽn, bèn đi liên hiệp với công sứ Pháp Cát La, công sứ Anh Ngạch Nhĩ Kim, công sứ Nga Bố Quát Đình, công sứ Mỹ Lợi Đặc, nhất tề đem chiến thuyền tới Quảng Châu. Thám lúc đó hoảng hồn bạt vía, nhưng vẫn phải lên tiếng kháng cự. Thám một mặt hạ lệnh cho tổng binh Quỳnh Châu là Hoàng Khải Quảng đem một trăm mấy chục chiến thuyền câu và thuyền mành ra chống giặc, một mặt cho lập đàn "cầu cơ" trong tĩnh thất Thám hôm đó khăn đóng áo dài, quỳ lạy trước bàn thờ, cầu xin thần tiên xuống đàn cho cơ bút. Mấy phút sau, quả nhiên cơ bút hoạt động. Trên một chiếc mâm cát, cơ bút viết lia lịa, bảo cho biết: Ta là tiên ông Lã Đồng Tân. Thám thoạt thấy tiên ông, vội quỳ xuống, thì thụp lạy, chắp tay kính cẩn, miệng nhẩm khấn:

- Đệ tử là Diệp Danh Thám được uỷ nhiệm tới đây giữ chức vị trọng đại. Chẳng may bị bọn mọi hung hãn uy hiếp, thành trì nguy ngập, tình thế như trứng để đầu đẳng. Vậy nên, kính xin tổ sư mau biểu oai thiên, chỉ rõ cơ mưu cho biết phải làm sao.

Thám khấn xong, cơ bút bỗng ngoáy lia lịa, cuối cùng người ta ghi lại được bốn câu như sau:

"Ngày mười lăm, nghe tin tức, việc đã định, khỏi phải gặp"

(Thập ngũ nhật, thính tiêu tức, sự dĩ định, vô trước cấp).

Thám xem lời cơ bút, đoán rằng thần tiên bảo mười lăm ngày sau thì đám giặc ngoại quốc chắc chắn phải rút lui, khỏi cần phải lo sợ. Thám thư tâm, lại vắt cẳng nằm ngủ, bất chấp mọi việc xảy ra.

Hồi 131 Đông Vương Dương Tú Thanh

Diệp tổng đốc tin vào cơ bút của tiên ông, lòng lấy làm chắc lắm nên chẳng thèm để ý tới bất cứ việc gì xảy ra.

Ông nằm lì trong dinh tới nửa tháng liền để chờ quân ngoại quốc rút đi. Bọn quan ty đạo chạy tới xin luyện quân nghĩa dũng cũng bị ông từ chối.

Viên công sứ nước Anh đòi năm điều khoản. Điều khoản thứ nhất: buộc tổng đốc phải tới gặp. Điều khoản thứ hai: muốn xây cất một toà nhà Tây trên bờ sông phía nam, điều thứ ba: muốn thông thương. Điều khoản thứ tư: muốn vào thành. Điều khoản thứ năm: đòi tiền bồi thường sáu trăm vạn lạng.

Diệp tổng đốc, vẫn phớt lờ. Bọn công sứ các nước nổi khùng lên. Qua ngày hôm sau, người ta thấy cáo thị của viên công sứ Hương Cảng dán khắp nơi nói rõ ngày mai phá thành.

Dân chúng trong thành nghe tin hoảng hồn bạt vía, dẫn già dắt trẻ, trốn chạy lung tung. Diệp tổng đốc muốn cấm, nhưng lúc này vô phương.

Trời vừa lờ mờ sáng quả nhiên tiếng đại bác nổ vang rền ngoài thành, khói bốc mù mịt tứ phía. Diệp tổng đốc chẳng biết làm cách nào, tạm thời đành chịu vô Việt Hoa thư viện tránh nạn. Một vị thân sĩ Quảng Châu tên Sùng Diệu cùng với vị tướng quân chỉ huy ngầm liên lạc với địch rồi kéo cờ trắng lên thành cầu xin tạm đình chiến. Phía bên kia viên công sứ Hương Cảng cũng hạ văn thư cho quan dân toàn thành chạy đi lánh nạn nói đánh có mỗi một mình Diệp tổng đốc mà thôi. Được chỉ thị đó, nào quan tuần phủ, nào tướng sĩ nào thân sĩ tất thấy đều chạy lên núi Quan Âm lánh nạn.

Quân ngoại quốc lại nổ súng. Tổng đốc Diệp Danh Thám không có đất trốn nữa. Cửa thành bị phá tung. Quân Anh xông vào thành, vào Việt Hoa thư viện bắt Thám trói gô lại, điệu xuống tàu. Bên cạnh Thám lúc đó có một viên tuỳ tùng tên gọi Qua Thập Cáp. Cáp nhờ lúc quân địch không lưu ý, chỉ xuống mặt biển bảo Thám.

- Đại nhân xem kìa, nước biển có trong không?

Diệp Danh Thám nghe câu nói đó nhưng đâu có hiểu ý.

Qua Thập Cáp tức giận đến cực điểm. Y co cẳng nhảy tùm xuống nước mà chết.

Viên công sứ Anh lúc đó làm chủ tình hình hoàn toàn. Y cho tất cả đám quân Quảng Châu trở về nhà, chỉ điệu có một mình Thám từ Quảng Châu đi Hương Cảng, rồi lại từ Hương Cảng đi Ấn Độ, nhốt trong một căn lầu.

Tổng đốc Diệp Danh Thám tự lấy làm khoái, suốt ngày ngâm thơ vẽ tranh. Những lúc rảnh Thám lại còn đem kinh Lữ tổ ra tụng niệm nữa. Hoạ và thơ của Thám, lạc khoản đều đề "Hải Thượng Tô Vũ" lưu truyền tại ngoại quốc không ít.

Viên tuần phủ Quảng Tây thấy quân ngoại quốc bỏ đi rồi, lúc đó mới dâng sớ về triều, Hàm Phong hoàng đế đùng đùng nổi giận, lập tức hạ dụ cách chức một loạt từ tổng đốc Lưỡng Quảng cho tới văn võ quan viên toàn thành Quảng Châu. Ngài uỷ quyền cho viên tổng đốc Lưỡng Quảng khác tới giảng hoà với ba nước Anh, Pháp, Mỹ. Ngài lại sai vị đại thần biện sự Hắc Long Giang tới giảng hoà với nước Nga.

Lúc này, những điều khoản do ngoại quốc đề ra không còn nhẹ như những điều khoản trước nữa. Tổng đốc đại thần thấy những điều khoản quá ngặt nghèo, không dám tự chủ, bèn tâu về triều.

Hàm Phong hoàng đế trao những điều khoản này lại cho quân cơ đại thần hội nghị. Bàn bạc mãi, mất không biết bao nhiêu ngày giờ, thế mà quân cơ đại thần vẫn chưa tìm ra giải pháp.

Quân binh bốn nước chờ đợi mãi chẳng thấy trả lời bèn huy động chiến thuyền đánh thẳng tới Bắc Kinh. Chiến thuyền Anh mười bốn chiếc, Pháp sáu chiếc, Mỹ ba chiếc, Nga một chiếc. Tất cả hai mươi bốn chiếc thuyền bỏ neo tại Bạch Hà, Thiên Tân… ra điều kiện và nhờ tổng đốc Trực Lệ là Đàm Đình Tương chuyển tấu về triều.

Hàm Phong hoàng đế bèn sai Hộ bộ thị lang là Quách Sùng Luân, Nội các học sĩ là Ô Nhĩ Côn Thái ra Thiên Tân nghị hoà.

Viên công sứ Anh thấy hai anh quan này tước vị quá nhỏ, chưa có "toàn quyền quyết định" bèn bảo triều đình Trung Quốc không có thực tâm, hơn nữa còn coi thường họ, tức tốc huy động chiến thuyền từ Bạch Hà xông vào cửa bể Đại Cô, chiếm luôn pháo đài ở đây chẳng mất một chút sức lực nào!

Hàm Phong hoàng đế không còn cách nào khác, đành sai hai viên khâm sai đại thần có toàn quyền quyết định là Quế Lương và Hoa Sa tới nghị hoà với bọn chúng.

Lần này những điều khoản đề ra của bọn ngoại quốc còn nhiều, còn nặng hơn nữa. Chỉ riêng nước Anh đã đề ra tới năm mươi sáu điều khoản, trong đó có ba điều khoản nặng nhất:

1. Điều thứ nhất: ngoài năm cửa biển thông thương trước là Thượng Hải, Ninh Ba v.v… ra, còn phải mở thêm các cửa biển Ngưu Trong, Đăng Châu, Đài Loan, Hồ Châu, Quỳnh Châu; và suốt một dải Tràng Giang, từ Hán Khẩu tới Hải Châu, buộc phải dành cho họ ba nơi tuỳ ý lựa chọn để cho thuyền bè ngoại quốc qua lại bốc hàng buôn bán.

2. Điều khoản thứ nhì: người Tây phương được quyền cư ngụ lâu dài tại Bắc Kinh.

3. Điều khoản thứ ba: bồi thường hai trăm vạn lạng tổn thất hư hại về tàu bè, và hai trăm vạn lạng quân phí. Bồi thường xong, lúc đó mới trả thành Quảng Châu lại cho Trung Quốc.

Ngoài ba điều khoản này, người Anh còn đề ra nào là sửa đổi các sắc thuế, nào là cho phép các cố đạo vào truyền đạo Thiên Chúa.

Nước Pháp cũng đề ra bốn mươi hai điều khoản riêng của họ, và đòi bồi thường một trăm vạn lạng chiến phí.

Hai viên khâm sai đại thần tuy nói có toàn quyền quyết định, nhưng thấy vấn đề quá nghiêm trọng, không dám tự chuyên, vội thỉnh lệnh ở triều đình.

Hàm Phong hoàng đế lúc này không được khỏe lắm, thường hay bị bệnh, quả thực không còn hơi sức nhiều để đối phó mãi với bọn ngoại quốc tham lam này. Thế là ngài truyền dụ cho hai viên khâm sai đồng ý hết mọi khoản yêu cầu. Ngài cũng truyền lệnh cho họ cùng viên tổng đốc Lưỡng Giang là Hà Quế Thanh phải đích thân tra xét xem cửa biển nào nên cho thông thương và định lại các sắc thuế.

Bọn ngoại quốc thoả mãn hoàn toàn, hể hả ăn mừng, trước sau lần lượt rút khỏi Thiên Tân về Thượng Hải họp mặt. Đến đây, chuyện đối phó với bọn ngoại quốc Tây phương tạm thời kết thúc một giai đoạn.

Lại nói về Hồng Tú Toàn sau khi cướp Nam Kinh, định đô tại đây, lên ngai vàng, mở hội quần thần. Hôm đó, Toàn mình mặc áo long bào màu vàng thêu kim tuyến óng a óng ánh lên điện cho văn võ bá quan triều hạ, xong bèn mở yến khao thưởng.

Bỗng thám mã phi báo: Khâm sai đại thần của triều Thanh là Hướng Vinh thống suất đại binh đến mấy vạn đã tới đóng quân tại Hiếu Lăng vệ, về mé đông thành. Toàn giật mình cả sợ, nói:

- Thằng quỷ Hướng chống đối ta hoài! Phải tìm cách trừ hắn cho bằng được mới yên lòng.

Lời nói chưa dứt, lại đã có tin cấp báo: khâm sai đại thần Kỳ Thiện nhà Thanh cũng thống suất các quân mã bộ Trực Lệ, Thiểm Tây, Hắc Long Giang cùng với đề đốc Trực Lệ là Trần Kim Thu, nội các học sĩ là Thắng Bảo đã từ Hà Nam xuất phát tiến đánh Thiên Kinh (tức Nam Kinh, tên Thiên Kinh do đề xuất của Dương Tú Thanh mà có).

Toàn vội hỏi quần thần:

- Làm sao bây giờ? Làm sao bây giờ?

Quân sư Tiền Giang đứng lên dõng dạc nói:

- Bệ hạ khỏi lo! Dương Châu một giải ta đã có lão tướng Lâm Phượng Tường xuất binh thì thế nào Bắc quân cũng bị chặn lại. Huống hồ Kỳ Thiện chỉ là một kẻ vô dụng, hồi trước ở đất Việt ai cũng thấy rõ, lộ quân đó có gì phải ngại… Duy chi Hướng Vinh thì cần phải đề phòng cẩn thận. Vinh vốn là một vị tướng trải nhiều chinh chiến, lại có Trương Quốc Lương giúp sức, thanh thế khá lớn. Do đó, ta cần điều động thêm trọng binh đồn trú ngoài thành đối địch.

Giữa lúc đó, tin báo tiếp từ Trấn Giang, Dương Châu gửi về nườm nượp. Tấu nghị của Lâm Phượng Tượng cho biết:

"Ngày hai mươi mất tháng hai quân ta đại thắng, cướp Trấn Giang, ngày hai mươi ba, vây Dương Châu. Đường thẳng, tiến quân, không có gì trở ngại. Vàng bạc, châu ngọc, tù binh trai gái, bao nhiêu xin gởi về Thiên Kinh, kính mong thu, thưởng.

Kỳ Tiện thống suất lũ yêu có tới vài vạn đã đến bên thành, thần xem doanh ngũ của hắn không được tề chỉnh, chắc chắn không đủ sức đánh thành, không có gì đáng ngại. Thần để Tăng Lập Xương lại giữ Dương Châu, cũng đủ sức phòng ngự.

Thần xin tình nguyện đầu quân Bắc phạt".

Đọc xong tờ sớ, Toàn tươi cười hớn hở, quay bảo quân sư Tiền Giang:

- Quả đúng như lời quân sư tiên liệu.

Giang nói:

- Lâm thừa tướng tuy là tay hùng tài, nhưng cô quân, vào sâu trọng địa, e có điều sơ sót, kính mong bệ hạ cử đại binh để làm hậu viện.

Dương Tú Thanh nói:

- Vậy xin cử thừa tướng Cát Văn Nguyên chuyến này.

Giang nói:

- Cát thừa tướng được ư?

Thanh đáp:

- Phải! Cát Văn Nguyên vốn thân với Bắc vương, quyết không có dị tâm đâu.

Giang nói:

- Không phải nói chuyện phòng dị tâm đâu! Mà là nói đặc kế Bắc phạt kia! Nếu kế không vẹn toàn thì không được đâu.

Thanh nói:

- Quân tinh nhuệ của Mãn Thanh hiện đã tập trung tất cả tại miền Nam: các tỉnh phía Bắc hẳn rỗng không. Nếu có hai tướng Lâm, Cát cùng đi, thì lo gì mà chẳng thắng?

Giang thấy chẳng tiện tranh luận, bèn để cho Thanh cử Cát Văn Nguyên lên đường. Chuyện xung khắc trên đây của Tiền Giang có một lý do đặc biệt như sau: em gái Cát Văn Nguyên lấy Bắc vương Vị Xương Huy. Trong khi Huy là Bắc vương thì Thanh là Đông vương. Hai người thực tương đương.

Nhưng Thanh lại vốn muốn nắm trọn quyền hành, rất sợ Huy kiềm chế bên cạnh. Do đó, Thanh muốn tống khứ Nguyên đi để cắt hết vây cánh của Huy, tiện việc soát lập về sau. Tiền Giang biết chỗ uẩn khúc này nhưng sợ bất gián thân, dại gì nói ra cho gây ác cảm, thêm hại.

Hồng Tú Toàn nói:

- Lũ quỷ mặt Giang Bắc đã khỏi phải lo, thế còn bọn yêu mặt Giang Nam thì sao?

Giang đáp:

- Trước hết, cần phải tăng thêm trọng binh chia đi đóng giữ các nơi hiểm yếu, chi cần giữ vững, bất tất phải khai chiến, đợi khi chống giữ lâu ngày, sẽ có kế sách phá địch. Sau đó đem quân quấy rối suốt lối An Huy, Giang Tây cắt đường lương thảo của giặc ở mặt sau, sẽ khiến chúng dù có hùng mạnh đến đâu cũng không thể thoát khỏi tay ta được.

Toàn nghe đoạn, vỗ tay khen là diệu kế.

Thanh nói:

- An Huy, Giang Tây vốn là miền thượng lưu Giang Nam có một mối quan hệ rất lớn. Bởi thế, An Huy một dải, ta cần phải nhờ tay Đức vương, còn Giang Tây một dải, ta lại phải có Bắc vương gắng sức. Thần xin tình nguyện cùng với Thiên vương (Hồng Tú Toàn) bảo thủ thành này. Quân tướng bộ hạ của ta như Lý Tú Thành, Trần Ngọc Thành đều là những tay anh hùng luyện chiến, nếu chia đi trấn thủ Giang Nam thì còn có gì phải sợ hai tên yêu Trương, Hướng?

Dương Tú Thanh lại sai các tướng bộ hạ chia nhau trấn giữ các nơi hiểm yếu như Vũ Hoa đài, Thiên Bảo thành, Mạc Lăng quan, tạo thành những tấm tường đồng vách sắt đối phó với bên ngoài. Cho rằng kế sách như thế đã chu đáo, Thanh quay về bên trong xây dựng cung điện phủ đệ, xa rộng hằng năm bảy dặm, tha hồ dâm dật, say sưa chẳng thua gì Hồng Tú Toàn.

Thanh cho bộ hạ đi lùng bắt gái đẹp trong thành, chọn lấy ba mươi sáu cô tuyệt sắc để làm hầu thiếp, hiệu là Vương nương tuổi còn đôi tám, hãy còn hoàn toàn trinh trắng mới được. Thanh lại còn lăng nhăng với Thiên muội Hồng Tuyên Kiều, qua lại vụng trộm lu bù. Mỗi lần ra khỏi phủ, Thanh có tiền hô hậu hét, kéo thành lũ, thành đoàn hàng vài ngàn, có cờ quạt chiêng trống mao tiết đến mấy chục thứ, rầm rập om sòm. Lại còn có một con rồng năm sắc lớn, dài đến chừng trăm trượng, cao cũng hơn một trượng, uốn khúc lượn đi, theo sau có âm nhạc, nào kèn nào sáo, thổi đánh inh ỏi, tiếp nữa là một chiếc kiệu lớn có đến năm mươi sáu tên phu cáng. Hai bên kiệu lớn, có một đôi trai gái đi kèm, bên phải thì một tân đồng nam, bên trái thì một tân hầu thiếp tuyệt đẹp, một tên cầm Âu Là, một tên cầm phất trần, trông phảng phất thần tiên giáng thế. Cứ mỗi buổi sáng Thanh ngất ngưởng trong phu, bắt lũ quan thuộc vào bái kiến trước, rồi sau mới kéo nhau đi triều bái Hồng Thiên vương.

Thiên vương Hồng Tú Toàn chẳng chịu thua các vương bên dưới. Toàn cũng rượu gái lu bù suốt cả ngày nằm ở hậu cung để vui chơi mười ngày hoạ mới có một hai ngày thị triều. Tất cả mọi việc, nào quân sự chính trị, nào thăng thương, truất phạt đều do Dương Tú Thanh trông coi giải quyết hết…

Thanh vốn là một con quỷ râu xanh đói sắc. Hắn chơi quá, đến xọp cả người so cả vai rụt cả cổ, thế mà vẫn còn xúi Hồng thiên vương mở các khoa thi trai gái do chính hắn làm chủ khảo, Tiền Giang làm phó khảo. Nam trạng nguyên tuyển được Trịnh Văn Tướng người Trì Châu. Còn nữ trạng nguyên chọn được Phó Thiện Tường quê Kim Lăng. Nam khoa có đề thi là Súc phát hịch (hịch nuôi tóc). Trong bài văn của Trình Văn Tường có câu: "Phát phu thị phu mẫu chí di, vô tiên vô phạt, tu mi nãi trượng phu chi khí, toàn thụ toàn quy. Nhẫn khan biện pháp Hồ nô, y quan trang thiếp, tòng thử trâm anh hoa trụ, mao biện trùng tân" (tạm dịch: Tóc da vốn của cha mẹ cho ta, không được cắt, không được hớt, râu mày vốn là cái chí khí của kẻ trượng phu, phải cố giữ vẹn đến khi trở về với tổ tiên. Ngươi há nhẫn tâm nhìn cái bím tóc của bọn mọi Hồ mũ áo lê thê? Ngươi phải từ đây mũ hoạ trâm dải, tóc tai đổi mới).

Ấy chỉ nhờ có câu đó mà Tiền Giang phó chủ khảo lấy đô trạng nguyên đó. Còn nữ khoa thì đề ra là Bắc tranh hịch (hịch tranh nhau với phương Bắc). Trong bài văn của người đẹp Phó Thiện Tường có câu: "Văn Hán quan nghi hà tại? Yên vân thập lục châu chi phụ lão, dĩ ô yết bát niên, chấp tả đơn vu Lai đình. Liêu vệ bát bách tải chi kiên Hồ, đương phóng quy cửu điện. Ô kim giả thiên tâm hối hoạ, Hán đạo phương long trực tảo Bắc đình, thông âm hoàng long chi tửu tuyết thù Nam độ, tịnh thôi Bắc đại chi sào" (tạm dịch: Hỏi mũ áo nghi lễ nhà Hán đâu rồi? Phụ lão mười sáu châu Yên vân đã năm năm ấm ức thở than, cầm tả đan tại Lai đình. Tám trăm năm Liêu vệ dựng nên Hồ, hãy đuổi về nơi cửu điện. Nay lòng trời đã tha tội khiến Hán đạo hưng thịnh: hãy đánh quét miền Bắc, rượu hoàng long phải uống cho sướng, lửa hận thù nơi bến đò Nam, và đẩy sập tổ chuột của tôi mọi xứ Bắc).

Đấy lại là một bài văn hách nhất được phó chủ khảo Tiền Giang lấy đậu nữ trạng nguyên. Dương Tú Thanh vốn dốt, chữ nghĩa không được bao lăm, cho nên chỉ cậy nhờ vào tài văn học của họ Tiền khảo sát. Tuy nhiên, Thanh có cái hay là biết chấm người đẹp. Nữ trạng nguyên Phó Thiện Tường quả có đẹp thật. Đã đẹp lại tài. Thành thử, nàng đúng là một nữ lang tài mạo song toàn. Thanh bèn lấy ngay nàng vào Đông vương phủ làm nữ hạ thư (tức nữ bí thơ), ngày thì lo việc công văn thư từ, đêm thì nâng khăn, sửa gối trải mền.

Nữ trạng nguyên cảm kích ơn đức, dốc hết tâm lực báo đáp, tô điểm sửa sang vô cùng duyên dáng xinh đẹp để cung phụng đại vương. Thanh được người ý hợp tâm đầu, sủng ái nàng thật hết nhẽ. Không ngờ, cưng quá hoá kiêu, nữ trạng nguyên ta phê phán công văn bừa bãi, khinh người như rách bất cứ kẻ nào cũng bị nàng mắng chửi, thậm chí ngay Thanh cũng bị nàng coi thường.

Đông vương Thanh đùng đùng nổi giận liền ghép ngay bà nữ trạng tội hút thuốc phiện lậu đem cùm chặt vào "nữ quán" (nhà giam đàn bà). Hồng nhan nữ tử mà bị ghép vào tội trên thì quả thực không còn cách chi cho hết nhục! Bởi thế bà nữ trạng ta chán nản cuộc đời nên không muốn mạnh để nhìn đời mãi, dần dần còm cõi lao mình vào chứng bệnh trầm kha.

Trong cơn bệnh hoạn, người đẹp Phó Thiện Tường viết thơ gởi Thanh trong có đoạn: "Mong nhờ ơn sâu, không biết lấy gì báo đáp! Ngày xét văn thư, tận tâm kiệt sức; đêm ru giấc ngủ, an ủi canh trường. Do đó can vào cấm lệnh, hút ghiền thuốc xái. Ấy thế mà đã chẳng gia tội chết lại còn mong phóng thích có ngày, lập công có lúc. Buồn thay. Nhuốm bệnh đã ba tuần, mình gầy như que củi, ốm yếu âm thầm chỉ chờ chết tưởng chẳng còn thấy được từ nhan. Nay xin kinh cẩn trả về: vòng vàng một chiếc, nhẫn vàng một đôi đã từng mến tặng độ nào để gọi là gởi gấm chút tình thuở nọ".

Thanh xem thư xong, động lòng thương tiếc vội hạ lệnh phóng thích và cho phép dưỡng bệnh, tha hồ đi đó đi đây du ngoạn, khỏi bị cấm đoán. Đây là một ân sủng đặc biệt đối với người đẹp nữ trạng của Thái Bình Thiên quốc. Bởi vì theo định chế của quốc gia tóc dài, thì trừ chủ vương, thừa tướng cũng như đại tiểu quan viên ra, trai phải vào nam quân mà nữ phải vào nữ quân, không chung sống với nhau, thậm chí vợ chồng cũng không được ăn nằm với nhau, nếu phạm phải luật trời, thì cả đôi đều phải chặt đầu.

Đông vương Dương Tú Thanh cho người đẹp Phó Thiện Tường tuỳ ý du ngoạn thực là đã thương nàng nhiều lắm, đó là một đặc ân xưa nay chưa từng có.

Phó Thiện Tường, bà nữ trạng nguyên tài mạo song toàn, hách dịch chưa từng thấy, nay chỉ còn vang bóng một thời. Rồi một hôm không còn ai thấy bà đâu nữa. Thanh cho đi tìm khắp nhưng không thấy rồi cũng quên đi.

Theo kế hoạch của Thái Bình Thiên quốc, quân tóc dài cần chia ra làm hai lộ: lộ Bắc kéo thốc lên phương bắc hy vọng đánh chiếm Bắc Kinh, thủ đô của nhà Thanh, còn lộ Nam thì đánh phá miền Hoa Nam để tiêu diệt quân nhà Thanh đồn trú chống giữ tại đây. Với kế sách này, Hồng Thiên vương Tú Toàn tin tưởng thế nào cũng thành công.

Bởi vậy, lộ quân phương Bắc do Lâm Phượng Tường chỉ huy, bất thần đánh thốc lên Hà Nam, có Các Văn Nguyên yểm trợ, với một số quân đông đảo là hai mươi vạn. Tường ra khỏi Trừ Châu, chiếm đóng Lâm Hoài quan, tiến đánh Phượng Dương, quân thế rất là hùng hổ. Cát Văn Nguyên lại từ Phố Khẩu tiến đánh Hào Châu, rồi cùng hợp quân với Tường đánh thốc vào tỉnh Hà Nam. Quân Thanh ở Giang Bắc vội chia ra mà chống cự.

Hai bên đánh nhau nhiều trận kịch liệt. Trong khi quân Thanh bị tử thương vô số kể, thì quân tóc dài của bọn Tường cũng không khá hơn gì. Cuối cùng, quân tóc dài cô thế, vì từ miền Nam không có tiếp viện. Tuy vậy, Tường đã bàn tính với Nguyên dùng chiến thuật "xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị" cướp được Thâm Châu trong chớp nhoáng khiến quân Thanh vô cùng bối rối. Thâm Châu cách Bắc Kinh có sáu trăm dặm.

Tin cảnh báo chạy về Thanh triều như bươm bướm. Hàm Phong hoàng đế vội sai Huệ thân vương là Miên Du làm đại tướng, Khoa nhĩ bật quận vương là Tăng Cát Lâm Bật làm tham tán đại thần, đốc suất tinh binh Kinh kỳ và Sát Cáp Nhĩ ngày đêm cấp tốc lên đường đối phó. May thay, giữa lúc đó Bảo Thắng đã chiến thắng được quân tóc dài một trận lớn khiến Tường đành phải bỏ Thâm Châu, chạy sang Thiên Tân ở mặt đông. Nhưng chưa đến Thiên Tân, Tường lại bị Bảo Thắng truy kích và đánh cho một trận nữa. Thấy tình thế bất lợi quá, Tường đành phải bỏ mộng cướp Thiên Tân, rút lui để cố thủ Tĩnh Hải. Nhưng sự rút lui này đã đưa bọn Tường vào tình trạng thế cùng.

Phương Bắc như thế tạm coi như là yên. Nhưng phương Nam lại rối loạn quá đỗi. Phủ An Khánh của tỉnh An Huy lại bị Thạch Đạt Khai tái chiếm. Phủ Nam Xương tỉnh Giang Tây bị Vy Xương Huy vây đánh. Dương Tú Thanh còn sai bọn Dự vương Hồ Dĩ Hoãng, thừa tướng Lạt Hà Anh, Thạch Tướng Trinh chia quân ra tiếp ứng. Hai kinh Hoản, Cống không chịu đựng nổi, đoàn tóc dài coi như không có đối thủ.

Nhưng sự đời hay có cái lạ là trong tối thường có sáng, trong cái rủi thường có cái may. Đúng thế! Càng đúng hơn nữa cho trường hợp quan binh nhà Thanh lúc này. Hàm Phong hoàng đế tuy đã phái bọn Huệ thân vương Miên Du lên đường chinh tiễu nhưng mặt khác còn sai án sát sứ Giang Trung Nguyên tới Giang Nam để giúp đỡ điều lý mọi việc. Sau đó, Nguyên đi Cửu Giang bỗng nghe Nam Xương bị vây hết sức nguy cấp, Nguyên vội đi gấp tới cứu. Nhờ sự cứu giúp này, quân Thanh đã có cơ chuyển bại thành thắng.

Không ngờ, vừa vào thành Nam Xương ít hôm thì Cát Văn khởi loạn quy tập bọn thổ phỉ nổi lên cướp bóc dân lành, chống lại triều đình. Văn còn liên lạc với bọn tóc dài, vây khốn thành, phủ Nam Xương, Nguyên vội viết thư đến Hồ Nam cáo cấp ấy chính vì bức thư này mà một tay cự phách xuất hiện, ổn định lại tình thế nước Trung Hoa hồi đó và khiến Hồng Thiên vương Tú Toàn phải tự tử chết. Tay cự phách đó chính là Tăng Quốc Phiên, người làng Tương tỉnh Hồ Nam.

Phiên tự là Bá Hàm hiệu là Điều Sinh. Lúc sinh Phiên, người nhà nằm mộng thấy một con trăn lớn chạy vào nhà, da vẩy sáng quắc, từ đó tương truyền thành một chuyện lạ.

Hồi 132 Tăng Quốc Phiên quyết diệt quân tóc dài

Năm thứ mười tám đời vua Đạo Quang, Phiên đỗ tiến sĩ. Đến cuối đời Đạo Quang, Phiên đã leo lên ghế hữu thị lang bộ Lễ. Năm thứ nhất đời vua Hàm Phong, triều đình hạ chiếu cần người nói thẳng, Phiên ứng chiếu, Phiên sớ một bản điều trần ba điểm về thánh đức (đức của nhà vua), và về phong tục lệ. Lời lẽ của Phiên quá thẳng, đến nỗi bị khiển trách và suýt bị tù tội. May được đại học sĩ Kỳ Huề Tảo và vị giám khảo phòng thi hồi gọi là Quy Chi cố công giải cứu nên mới thoát nạn. Phiên về quê chịu tang mẹ giữa lúc loạn Hồng Dương (tức Thái bình Thiên quốc của Hồng Tú Toàn và Dương Tú Thanh) nổi lên, khói lửa ngút trời.

Một đạo chiếu chỉ hạ xuống, sai Phiên tiếp tay tuần phủ Trương Lượng Cơ đốc biện việc huấn luyện quân dịch, sưu tra bọn thổ phỉ. Phiên vốn là một danh gia về Lý học, đã xin được phép cư tang, cho nên không muốn dính tới việc quân nữa. Nhưng Phiên có một người bạn tên Quốc Trung Thọ, khuyên Phiên cứ nên vâng chịu, chẳng có gì là trái cổ lệ. Nghe bạn, Phiên rũ áo đứng dậy, mộ đám nông phu làm quân nghĩa dũng, dùng bọn thư sinh làm doanh, bắt chước Thúc Kế Quang đời Minh lập thành cơ ngũ, huấn luyện ngày đêm, thành lập được đến mấy doanh quân Đoàn luyện.

Trong khi Trương Lương Cơ đổi về làm tổng đốc Hồ Bắc thì Lạc Bỉnh Chương về làm tuần phủ Hồ Nam, Phiên với Chương vốn là hai bạn chí thân, mọi sự đều ý hợp, cho nên việc huấn luyện quân nghĩa dũng ngày càng thuần thục, số quân ngày càng đông.

Giữa lúc đó thì thư xin cầu viện của Giang Trung Nguyên gởi tới. Phiên vào gặp Chương nói:

- Giang Mãn Tiều gặp nguy không nên không cứu?

Mãn Tiều chính là tên tự của Giang Trung Nguyên. Khi còn ở kinh, Nguyên đi thi hội có vào yết kiến Phiên. Hai người nói chuyện khá lâu rồi mới từ giã. Phiên thường nói sau này thế nào Nguyên cũng lập danh rỡ tiết.

Phiên cùng với Lục tuần phủ thảo luận kỹ càng rồi mới sai hai ngàn quân nghĩa dũng đất Lương, hai ngàn quân nghĩa dũng đất Sở, cùng với sáu trăm doanh binh giao cho viên tu Quách Trung Thọ, đạo viên Hạ Đình Việt và tri huyện Chu Tôn Di đưa đi cứu viện. Em ruột của Giang Trung Nguyên là Trung Tế cùng với bọn học trò La Trạch Nam cũng dốc suất đám nông dân trong các làng xóm theo đi dẹp giặc.

Vài lời phê bình về sự nghiệp Hồng Tú Toàn của Dương Gia Lạc tác giả bộ Thanh sử thông tục diễn nghĩa do Thế giới thư cục ấn hành:

"Sự khỏi đầu của Tăng Quốc Phiên chính là sự tàn lụi suy vi của Hồng Tú Toàn. Thực ra một phần lớn lỗi lầm là do tự Hồng. Khi định đô ở Giang Ninh rồi, Hồng chẳng thèm quan tâm đền việc được mất, cứ nghiễm nhiên an cư, ăn chơi thoả thích, hoang dâm vô độ. Đã thế quân quốc đại sự, Hồng lại phó mặc cho Dương Tú Thanh. Thanh chuyên quyền, gian dâm bừa bãi cũng như Hồng, Kiều, lại kiêu ngạo còn hơn Hồng. Quân tướng như vậy hỏi thành công sao được.

Lâm Phượng Tường đem quân bắc phạt, chính đó là kế hay của Hồng. Tường đại thắng, vượt qua Hoài vào Biện, đi tới đâu thế đều như chẻ tre. Thực là một đoàn quân tinh nhuệ ít thấy. Thế nhưng Tường có điều thất sách hơn là không nhân lúc quân Thanh chưa tập hợp được, xông thẳng vào Tề, Lỗ, tiên nhắm Yên Kinh mà lại đem quân về hướng tây miền Hoài Khánh quanh đường cố đánh, rồi theo đường Sơn Tây quay vòng vào Trực Lệ, lao lực kiệt sức, thử hỏi làm sao mà chẳng thua. Quân tan vỡ ở Thân Châu, lúc đó mới biết hỏng thì than ôi! Đã muộn.

Hồng còn có một điều thiếu suy nghĩ nữa là khi đắc thắng, vừa chiếm được ít đất, đã vội lợi dụng sức mạnh quân sự và chính trị, bắt buộc dân tộc Trung Hoa phải theo tôn giáo mình.

Nội bộ chia rẽ vì đó, quần chúng bỏ rơi cũng vì đó, một phần lớn nho gia Trung Quốc đương thời nắm vai trò lãnh đạo quần chúng và chính quyền, không chấp nhận một giáo lý mới nên có thái độ bất hợp tác và cuối cùng còn quay giáo lại chống đối kịch liệt là khác. Đó là trường họp của Tăng Quốc Phiên, một nho gia lỗi lạc trong phía Đông Thành đã vang tiếng một thời trong lịch sử Trung Quốc.

Cho nên hồi này coi như một hồi nhắc lại điều đáng tiếc của Hồng, đồng thời cũng để nêu ra một cái lỗi hết sức nặng của Hồng mà hậu thế nên lấy đó làm gương!".

Dân tỉnh Hồ Nam đã lâu nổi tiếng là bài ngoại, nhất là đối với Tây phương. Họ thấy những chuyện gây hấn của Anh, của Pháp, của Hoa Kỳ mà lấy làm tức. Ấy cũng từ đó, họ đã tức lây sang cả tôn giáo Tây phương. Đây là một sự thiệt thòi của Thái Bình Thiên quốc. Ngay sau khi chiếm đóng được nơi nào, giáo chủ đạo mới Dương Tú Thanh tức thì đi truyền đạo Nhưng dân tộc Trung Hoa thẩm thấu tư tưởng Khổng, Mạnh đã quá lâu. Bởi vậy, khi Thanh khuyên họ bỏ đạo cũ, bỏ cả bàn thờ tố tiên để theo đạo mới của Thanh, thì họ đời nào chịu nghe ngay.

Một số lớn, vì lý do đó mà không theo, còn một số khác nữa thì lại cực đoan hơn, quyết chống lại, kịch liệt nhất phải nói là bọn nhà nho, bởi vì rằng bỏ việc thờ cúng tổ tiên là một điều cấm kỵ của những người coi trọng đạo hiếu. Bên ngoài, dân chúng đã không hưởng ứng, bên trong, nhất là hàng ngũ võ quan và binh lính, một khi bị giáo chủ Dương Tú Thanh bắt buộc phải theo đạo mới, thì dần dần băng hoại.

Bởi thế, quân tóc dài dù có những tướng tài như Thạch Đạt Khai, Lâm Phượng Tường cũng đành phải suy bại. Thật đáng tiếc cho sự nghiệp của Hồng Thiên vương! Ví thử Thái bình Thiên quốc chi chú trọng đến việc đuổi Mãn phục Hán theo đúng tôn chỉ của họ ngay từ đầu thì đâu đến nỗi. Người đời thường nói: xây nên thì dễ, mà giữ gìn thì khó, quả có đúng như thế.

Đây là cái lý do chính khiến Tăng Quốc Phiên, một nhà nho trói gà không chặt, đã lên tiếng, có thể hiệu triệu được dân chúng tỉnh Hồ Nam gia nhập hàng ngũ quản Tương, Sở của ông để chiến đấu. Mà một khi quân Tương, Sở của Phiên, dù chỉ là một đoàn ô hợp lúc ban đầu, ôm ấp một lý tưởng trong lòng thì đối thủ nhất định phải vô cùng gian nan vất vả để chống cự.

Lại nói đoàn quân Tương, Sở đến cứu Giang Tây, vừa tới Nam Xương đã gặp ngay sức chống cự dữ dội của quân tóc dài. Hai bên giáp chiến tơi bời. Quân Tương, Sở vừa được luyện tập mới xuất quân lần đầu, làm sao địch nổi quân tóc dài đã bao lần vào sinh ra tử. Hơn nữa, bọn chỉ huy như La Trạch Nam lại đều là bọn văn nhã thư sinh, văn thơ thì hay nhưng thao lược chính chiến đâu được như bọn tướng lĩnh đối phương.

Rốt cuộc quân Tương, Sở đại bại tử thương vô số kể. Song như đã nói, quân Tương, Sở còn có cái lý tưởng để chiến đấu, cho nên thua không nản, họ lại bày trận khác, quyết diệt cho bằng được quân tóc dài.

Thấy thế giặc mạnh, Tăng Quốc Phiên thảo sớ tâu về triều xin viện binh, mộ binh tập luyện, hy vọng có thể quét hết được quân tóc dài tại vùng Tràng Giang. Tờ sớ dài đến vài ngàn chữ, và gởi về đã được hồi tấu ngay. Được chiếu chỉ rồi, Phiên chuyển quân từ Tràng Sa tới Hàng Châu, đóng gấp chiến thuyền, thành lập thuỷ sư. Phiên cho đóng thử nhiều lần, cuối cùng mới quyết định đóng ba loại thuyền: loại thứ nhất gọi là Khoái Giải (con giải lẹ làng), hình dáng to bự cần đến hai mươi tám tay chèo, tám tay lái. Loại thứ nhì gọi là Tràng Long (con rồng dài) nhỏ hơn Khoái Giải một chút, cần đến mười sáu tay chèo, bốn tay lái. Còn loại thứ ba gọi là Tam Bản, nhỏ xíu, chỉ cần có mười tay chèo. Trên mỗi thuyền, đều có một thuyền trưởng chỉ huy, ba tay pháo thủ, hai tay cai chèo, một tay chánh lái và một tay phó lái. Khoái Giải là thuyền dành cho đại bản doanh của doanh quan. Tràng long dùng làm chính tiêu, còn Tam Bản dùng làm phó tiêu.

Phiên chiêu mộ thuỷ quân năm ngàn người. Rồi ngày đêm luyện tập tinh thục, tổ chức thành mười doanh. Sáu doanh toàn là quân mộ từ Hàng Châu. Chỉ huy sáu doanh này có sáu người: Thành Danh Tiêu, Chư Điện Nguyên, Dương Tải Phúc, Bành Ngọc Lân, Trâu Hán Chương, và Long Hiến Thám. Tất cả đều là doanh quan. Còn bốn doanh nữa là: Chữ Nhữ Hàng, Hạ Loan, Hồ Gia Viên, Hồ Tác Lâm: Riêng Chữ Nhữ Hàng đã từng làm đồng tri tỉnh Việt, rất am tường về tổ chức thuỷ sư.

Tăng Quốc Phiên lại tuyển mộ năm ngàn quân lục chiến chia làm mười ba doanh, do một số tướng lĩnh có tên sau đây chỉ huy: Châu Phụng Son, Sư Mai Cung, Lâm Nguyên Ân, Trâu Thế Kỳ, Trâu Thọ Xương, Dương Danh Thanh và cả người em sau rốt của Phiên tên gọi là Tăng Quốc Bảo nữa. Phiên còn đặc cử Tháp Tề Bố làm phó tướng đảm nhiệm chức tiên phong. Như thế, cả đội quân thuỷ lục của Phiên cộng lại được hơn vạn người do chính Phiên tổng hạt, chỉ còn đợi thuyền bè đóng xong, ăn uống đầy đủ, lương thực hoàn bị, nhất tề nhổ neo xuôi theo sông Tương, quyết một phen sống mái.

Quân Tương, Sở và quân tóc dài, quần thảo nhau suốt mười lăm năm, gây bao tai ương khủng khiếp cho dân tộc Trung Hoa. Quân tóc dài thực không phải tầm thường để cho quân Tương, Sở chiến thắng một cách dễ dàng. Phiên tấn công mặt này, thì quân tóc dài chọc thủng phòng tuyến ở chỗ khác. Cái thế chiến đấu cài răng lược giữa đôi bên càng ngày càng khốc liệt Cuối cùng, Tăng Quốc Phiên trí cùng lực kiệt, đành phải án binh chờ đợi. Thái bình Thiên quốc nếu có bị đánh tan, thực phải do bộ óc của một nhà nho khác nữa kế tục sự nghiệp của Phiên. Nhà nho đó chính là Lý Hồng Chương, đã từng định kế để có thể đánh chiếm Nam Kinh, thủ đô của Thái Bình Thiên quốc ở những hồi sau.

Tình thế bất lợi kéo dài cho quân tướng của Phiên nói riêng, cho triều đình nhà Thanh nói chung. Đã thế, đại bản doanh của quân Thanh tại Giang Nam lại bị quân tóc dài đánh cho một trận tơi bời, đến nỗi một manh giáp cũng không còn.

Hướng Vinh làm khâm sai đại thần thống đốc quân Thanh lo quá đến sinh bệnh mà chết.

Hồng Thiên vương Tú Toàn nhờ được thêm trận này, oai thế lại còn rực rỡ hơn xưa. Quân tóc dài mở những cuộc tấn công lớn vào các đoàn quân Thanh bị xé rách tả tơi ở khắp các mặt trận. Đó là tình hình chiến sự khẩn cấp vào năm thứ sáu, niên hiệu Hàm Phong, hồi tháng năm. Tiếp sau đó, quân Thanh lại còn phải lao đao nhiều keo lắm, đến nỗi có người đã e ngại cho cái ngai vàng nhà Thanh khó bề đứng vững.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top