thanh cung 13 trieu p133-152

Hồi 133 Nội loạn trong Thái Bình thiên quốc




Lại nói Thiên vương Hồng Tú Toàn Thái Bình Thiên quốc, sau khi được tin thắng trận các nơi gởi về: nào là đại bản doanh Giang Nam của quân Thanh đã bị đánh tan, khâm sai đại thân Hướng Vinh đã chết, trong lòng mừng như cờ mở, cho như thế là đã toàn thắng, quân Thanh quyết không còn có thể đủ sức tái chiến và xâm phạm vào lãnh thổ của mình được nữa. Toàn còn nghĩ rằng Phiên tuy chưa chết, nhưng từ đây về sau quyết chẳng thể làm được gì hơn. Cái cơ chiến thắng, Toàn thấy như là đã quá rõ, không còn phải lo âu gì nữa. Theo kế sách của Toàn, thì việc còn lại sẽ chia làm hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là bình định miền Hoa Nam, sau đó mới đến việc đuổi nhà Thanh khỏi Bắc Kinh, thâu hồi hoàn toàn lãnh thổ Trung Hoa. Nhưng bất cứ giai đoạn nào, Toàn cũng vẫn phải duy trì chương trình truyền đạo của Dương Tú Thanh, bởi vì đó là một việc rất nên và rất cần: có thế quyền rồi lại có thêm cả giáo quyền nữa thì ngai vàng của mình nhất định sẽ trường cửu đến muôn đời. Nghĩ vậy, Hồng Thiên vương càng lấy làm mừng. Nhưng rồi lại từ cái mừng quá đó, Toàn càng hoang dâm, phè phỡn vô độ… Ngoài ra dưới trướng Thiên vương, Dương Tú Thanh tay nắm trọng quyền, cũng từ cái tâm lý ấy, phát sinh ra rất nhiều những hành động sai trái, đưa Thái bình Thiên quốc đến nội loạn và diệt vong…




Thanh vốn là một tên quỷ dâm dục. Hằng ngày, Thanh cho người đi lùng khắp chợ thôn quê những danh hoa lệ thảo về dinh để sung vào bọn thị nữ luân phiên hầu hạ Thanh.




Đáng thương thay, biết bao con gái của những gia đình tử tế miền Hoa Nam thời đó đã bị tên quỷ dâm dục họ Dương làm tan nát cuộc đời! Bởi thế người Hoa Nam thời đó mới có danh xưng: Dương Mai đô đốc và Hoa Giới đại vương để tặng cho Toàn và Thanh.




Trang tuyệt sắc giai nhân mà Thanh sủng ái nhất là Phó Thiện Tường. Sau khi Tường bỏ đi, bọn tay chân thay thế bằng Chu Cửu Muội, người đẹp mới từ Dương Châu đưa về, vừa tròn 19 tuổi. Nàng Cửu Muội sành sỏi văn thơ, tài mạo thực song toàn, giống hệt như Thiện Tường thuở nọ.




Dương Tú Thanh mừng lắm, liền cho đưa vào phủ Đông vương vừa thay thế chức vụ của Thiện Tường, vừa đến đêm nàng làm phận sự thị tẩm nữa.




Chu Cửu Muội thoạt đầu không chịu, nhưng thân liễu yếu đào tơ, thử hỏi làm sao chống lại được. Cuối cùng nàng cũng đành phó thác tấm thân trinh bạch của mình cho tên quỷ háo sắc giày vò




Cửu Muội hận lắm nhưng làm sao báo thù được? Nàng giả bộ vui vẻ chiều chuộng, nhưng thề với trời đất là không đội trời chung với Thanh.




Một hôm, nhân lúc Thanh uống rượu, nàng lén bỏ thuốc độc vào, nhưng không ngờ bị lộ, nàng bị Thanh bắt uống cho kỳ hết chén rượu độc. Thuốc độc ngấm vào tạng phủ, Chu Cửu Muội ngã lăn ra, miệng lẩm bẩm than thở:




- Tiếc rằng ta không giết được tên ngoại đạo cõng rắn cắn gà nhà! Nhưng hồn ta thề sẽ theo đuổi mi tới cùng!




Ít tháng sau, Thanh lại cho bọn tay sai đi lùng khắp nơi đem về được một nàng, sung vào phủ Đông vương như trường hợp Chu Cửu Muội. Thế rồi nàng Lý cũng bỉ Thanh cưỡng hiếp như bao nhiêu cô gái khác.




Lý cô nương căm phẫn đến xương tuỷ. Nàng tìm cách báo thù. Nhân một hôm tiệc tùng say sưa, Dương Tú Thanh đã ngà ngà, nổi cơn khát tình, liền cho gọi Lý cô nương vào phòng.




Lý cô nương cho đây là một dịp tốt nhất để hạ thủ Tú Thanh, vội giắt một con dao nhỏ dài độ hơn tấc vào trong lọn tóc làm vũ khí.




Thanh say rượu, lảo đảo bước vào phòng. Lý cô nương hôm đó ăn mặc hết sức lộng lẫy, trang điểm cực kỳ xinh đẹp. Bởi đã có dụng ý, nàng đem hết tình tứ duyên dáng ra để hầu tiếp Thanh. Nhưng vốn là một loại quỷ râu xanh đã nhiều phen kinh nghiệm đường đời, nhất là sau trường hợp chết hụt vừa rồi, Thanh bỗng có ý nghi ngờ hành động của Lý cô nương.




Thế nên sau khi thoả mãn, Thanh giả vờ như không biết gì, làm một giấc say sưa.




Lý cô nương chắc mẩm tên quỷ râu xanh đã đến ngày tận số. Đợi cho Thanh ngủ say, tiếng ngáy nghe phì phò rõ mồn một trong phòng vắng, nàng mới khẽ lần sau lọn tóc, lấy ra con dao nhọn, nhè giữa cổ Thanh đâm xuống một nhát mạnh.




Nàng tin chắc Thanh phải đứt họng mà chết không kịp ngáp.




Không ngờ nhát dao của nàng không trúng cổ họng, mà chỉ ngập sâu vào vai trái của Thanh. Thanh thét lên một tiếng vội nhỏm dậy, tức giận đến cùng độ, hô bọn võ sĩ đem ngay nàng ra xử tội.




Thì ra Thanh có ý ngờ từ trước nên vẫn đề phòng. Lý cô nương vừa đâm nhát dao xuống thì Thanh vội né lệch người sang bên, khiến vai trái của y bị ngập cán dao là thế, Lý cô nương bị bọn tay chân Thanh quấn vải khắp người rồi tẩm dầu vào, đem trói đứng vào một cây cọc và châm lửa đốt. Hình phạt đó, thật độc ác và man rợ.




Sau nhát dao của Lý cô nương, lại đến cái quần lót vấy máu của Triệu Bích Nương. Bích Nương nhan sắc xinh đẹp, tuổi mới mười lăm, mười sáu. Nàng bị ép đưa vào Tú quán nữ công (nơi phụ nữ thêu thùa may vá), và là một tay thợ tài tình tuyệt mỹ. Nàng đan một cặp mũ, trình lên cho Thanh. Thanh xem qua, thấy tuyệt đẹp, khen lấy khen để. Nhưng có kẻ ghen ghét, đặt điều nói xấu, khiến nàng bị hình phạt "điểm thiên đăng" như Lý cô nương.




Đã mấy lần bị chết hụt về chuyện bức gái, Dương Tú Thanh lúc này không còn tin tưởng đám "gái quê" nữa, cho là không thể "xài" được. Thanh nghĩ tới Hồng Tuyên Kiều, mà đã lâu rồi chưa gặp lại. Thanh nhớ lại cái ngày gặp gỡ buổi ban đầu. Hồng Tuyên Kiều, nàng thật là một người tình luôn biết làm đẹp lòng Thanh. Còn ai bằng nàng, nhất là nàng đã vừa đẹp lại vừa có cái bí quyết phòng the khiến Thanh điên đảo cả lên.




Nghĩ vậy rồi, Dương Tú Thanh cho người gọi Hồng Tuyên Kiều về ở với mình (Nàng Kiều có cái tài là cùng một lúc có thể ở được cả với bốn anh, không anh nào dám ghen tuông, làm mếch lòng người đẹp).




Hôm đó, trời đã sang hè, Dương Tú Thanh muốn làm vui lòng người đẹp, bèn cho chế tạo một cái giường "nghỉ mát" chạm trổ hết sức tinh vi. Chung quanh căn phòng dùng để làm phòng hoa chúc, Thanh cho lót kính pha lê sáng choang.




Ở chính giữa, Thanh lại còn cho đặt một cái hồ nước nuôi cá vàng, thả rong chằng chịt bên trong. Trong các khe giường, có những cái ống thông hơi, gió thổi vào vừa mát vừa rít lên như giọng sáo vi vu từ phương trời xa vọng tới.




Chuẩn bị xong xuôi, mười phần coi như hoàn hảo cả mười rồi, Thanh mới tổ chức một cuộc đón rước nàng Kiều về.




Dương Tú Thanh vốn có nhiều hầu thiếp. Từ khi Tuyên Kiều về phủ Đông vương, bọn hầu thiếp này đành chịu cái cảnh phòng không lạnh lẽo. May cho họ là khi đó, trong phủ Đông vương, bỗng từ đâu có một anh thừa tuyên tên gọi Trần Tôn Dương. Dương người bảnh trai, mặt xinh như hoa, tay chân đẹp như ngọc, khiến gần hết các cô các bà trong vương phủ không ai là không muốn gần gũi, nhất là muốn được "hầu hạ" Dương đôi ba phen cho thoả. Thậm chí, nhiều cô còn muốn Dương thay thế Thanh để ban ơn mưa móc cho họ.




Trần Tôn Dương đi qua hết cô này đến cô nọ, tiếc rằng mình không có phép "phân thân" để thoả mãn được hết các cô các bà đã có lòng yêu quý mình.




Cái gì lâu cũng lộ. Chuyện tư tình của Dương với bọn cơ thiếp của Thanh về sau lộ ra, thế là ầm ĩ cả lên.




Đông vương Dương Tú Thanh rõ chuyện, giận đến tím mặt lại, liền ra lệnh chém Tôn Dương rồi moi gan róc thịt. Trớ trêu thay Tôn Dương lại là em vợ của Vy Xương Huy. Huy lúc đó đang ở Giang Tây, được tin này lấy làm căm lắm, quyết tìm kế diệt Thanh.




Tội ác của Tú Thanh đã đến lúc không còn ai có thể chịu nổi. Thiên vương Hồng Tú Toàn trong lòng cũng đã thấy chán ghét, bèn hạ mật chiếu bảo Vy Xương Huy trở về Nam Kinh.




Huy đem quân về nhưng Thanh cấm không cho vào thành, Huy khẩn khoản mãi, xin để hết bộ hạ lại chỉ mang theo có vài chục tên quân vào mà thôi.




Thanh chấp nhận và cho Huy bệ kiến Hồng Tú Toàn, Toàn giả bộ giận quát Huy:




- Hiện nay, quân quyền của Thiên quốc đều do Đông vương nắm giữ, người há lại không biết hay sao? Đông vương không muốn cho ngươi về, tại sao ngươi lại tự tiện về? Ngươi phải đi ngay tới Đông vương phủ mà xin xá tội đi. Nếu Đông vương chịu tha thì ngươi phải tức tốc đi ngay, nghe chưa?




Nói đoạn, Hồng Tú Toàn lặng lẽ rơi đôi giọt lệ trên má, Xương Huy nhìn thấy, đoán biết Thiên vương quả đến lúc quẫn bách, mà chẳng tiện nói rõ cho mình biết.




Vy Xương Huy bèn sang phủ Đông vương, xin yết kiến Thanh để cầu ân xá. Tú Thanh lập tức mời vào. Huy cất tiếng khẩn khoản xin tha theo lời của Thiên vương đã mách.




Dương Tú Thanh nói:




- Chuyện đó có hề gì! Song đến tháng tám, đúng ngày sinh nhật của ta, đệ có biết ta sẽ tiến xưng vạn tuế chưa?




Huy nói:




- Tứ huynh (anh thứ tư) công cao vọng trọng, thế cao vòi vọi ai dám sánh bằng được. Huynh nên sớm chính vị rõ ràng đi! Đệ lâu nay ở ngoài diệt giặc, quả thực không được tỏ tường.




Nói đoạn, Huy vội dập đầu công cốc xuống nền nhà, miệng hô lớn:




- Vạn tuế! Vạn tuế!




Huy còn hạ lệnh cho bọn tuỳ tùng quỳ theo đồng thanh hô:




- Vạn tuế! Vạn tuế!




Dương Tú Thanh thấy thế, cho rằng bọn Huy đã thuận theo phe mình cả, lòng mừng như cờ mở liền hạ lệnh mở tiệc ăn uống, khao thưởng hết cả mọi người từ Huy trở xuống, tha hồ ăn uống say sưa.




Vy Xương Huy vào tiệc, lúc đầu hết lời nịnh nọt tán dương Dương Tú Thanh. Thấy Tú Thanh đã ngà ngà say, Huy đứng dậy nói lớn:




- Thiên vương có lệnh: Tú Thanh mưu nghịch bất đạo phải lập tức giết ngay!

Hồi 134 Thiên muội Hồng Tuyên Kiều bị băm nát




Thanh vừa nghe xong, biết nguy, vội né tránh. Nhưng bọn tuỳ viên của Huy đã nhất tề xông lên, vung kiếm chém bay đầu Tú Thanh, lăn long lóc trên thềm nhà, máu phun ra có vòi, thân ngã gục xuống như cây chuối đổ.




Chém xong Thanh, bọn Huy xông vào tận hậu thất chém cho bằng hết nào con trai, con gái, nào thị thiếp, cơ hầu, chỉ còn để lại có mỗi một thiên muội Hồng Tuyên Kiều.




Vy Xương Huy vừa kéo vừa bế Hồng Tuyên Kiều đem về Bắc vương phủ, việc trước hết là phải thoả mãn với Tuyên Kiều rồi sau đó mới báo cho Thiên vương biết.




Huy tưởng giết Thanh xong là yên chuyện, nào ngờ dư đảng của Thanh đâu đã chịu bó tay đang tập hợp lại tấn công phủ Bắc vương.




Huy mở cửa thành, cho bọn bộ hạ của Thanh vào để giáp chiến.




Giữa lúc hai bên giao đấu còn vô cùng quyết liệt, thì Dực vương Thạch Đạt Khai từ Giang Tây đem quân về. Yên vương Tần Nhật Cương cũng từ An Huy tới. Hai vị này cũng đã vâng mật chiếu của Thiên vương quay về để diệt nội loạn. Khi vào thành họ nghe Tú Thanh đã bị Xương Huy giết chết, hai cánh quân đang hỗn chiến ghê hồn, bèn đứng ra điều đình.




Nhưng Vy Xương Huy không chịu, quyết giết cho bằng hết dư đảng của Đông vương. Dực vương Thạch Đạt Khai thấy Huy không nghe mình, liền nổi máu hoả quát lớn:




- Ngươi đã giết chết Đông vương rồi thì nên thôi đi, chứ sao lại diệt cả gia tộc của y? Diệt cả gia tộc của y chưa đủ, lại còn muốn diệt hết cả bạn bè y nữa. Thiên quốc của bọn ta chẳng vì Đông vương mà mất, nhưng e rằng sẽ mất vì chính ngươi đấy.




Vy Xương Huy không đáp. Thạch Đạt Khai hầm hầm tức giận đi ra.




Đêm đó, cả hai phủ Yên vương, Dực vương đều bị thủ hạ của Vy Xương Huy vây kín. Tần Nhật Cương chạy ra hỏi, liền bị giết ngay. Toàn gia của Dực vương bị giết sạch. Duy chỉ có mình Thạch Đạt Khai không rõ nhờ đâu mà biết được nên leo thành trốn chạy được ra ngoài.




Khi thoát mạng rồi, Khai liền tập hợp đồng đảng từ ngoài đánh vào. Huy chạy tới báo với Hồng Tú Toàn. Toàn bất giác thất thanh bảo:




- Người không nghe lời Đạt Khai, bây giờ thì hỏng cả rồi! Người còn giết sạch cả toàn gia của hắn thì bảo sao hắn chịu nổi chứ?




Huy lặng thinh chạy ra ngoài, quay ngay giáo lại, hô thủ hạ, vây luôn cung điện của Thiên vương. Bọn anh em của Hồng Thiên vương bị vây liền bắt tay giảng hoà với dư đảng của Đông vương, nhất tề quay giáo, cùng đánh bọn Vy Xương Huy.




Bọn Vy Xương Huy cô thế không địch nổi hai mặt, bèn bỏ chạy. Dư đảng của Đông vương thừa thế xông vào Bắc vương phủ, thấy một người chém một người, thấy hai người chém hai người, chém sạch giết sạch, không sót mống nào. Thế là vợ con, quyến thuộc của Xương Huy đều làm quỷ không đầu dưới lưỡi dao oan nghiệt, ngay cả đến Thiên muội Hồng Tuyên Kiều, cốt ngọc đa ngà cũng bị bọn chúng xẻ thịt róc xương ra, rồi băm nát như cám.




Vy Xương Huy hối hả chạy ra ngoài thành, chỉ còn lại độ vài chục tên thủ hạ, lấy thuyền vượt sông, đến Thanh Giang không may lại gặp phải bọn Tiền Sứ của đảng Đông vương ở bên ngoài. Bọn này hè nhau xông tới, bắt trói bọn Huy như trói heo rồi áp giải về Giang Ninh.




Thiên vương Hồng Tú Toàn giận lắm, liền truyền lệnh đem Huy ra xé nát thành từng mảnh, còn đầu lâu thì gởi cho Thạch Đạt Khai, dùng lời nói ngon ngọt dụ Khai trở về.




Thạch Đạt Khai tạm nguôi cơn giận, trở về Giang Ninh.




Mọi người đưa Khai lên làm phụ chính, giống như Dương Tú Thanh thuở nọ. Nhưng Thiên vương Hồng Tú Toàn bị cái gương tầy liếp của Dương Tú Thanh nên không thể không do dự, nghi kỵ. Toàn lo rồi đây Khai lại cũng diễn lại cái trò của Thanh.




Hồng Nhân Phát và Hồng Nhân Đạt, anh em của Toàn lại không hợp ý với Khai. Bởi thế, biết rõ nỗi khó khăn của mình, Thạch Đạt Khai liền từ biệt Thiên vương kéo binh ra khỏi thành Nam Kinh đi luôn.




Tất cả mọi chuyện xảy ra đều do Tiền quân sư dự liệu và sắp xếp Hạ mật chiếu triệu bọn Vy và Trạch trở về để diệt Thanh chính là kế sách của quân sư họ Tiền. Nhưng đến lúc Vy và Dương xung đột, chém giết nhau tơi bời rồi, thì không ai biết Tiền quân sư đi đâu. Từ đó, Hồng thiên vương mất một người tham mưu thượng thặng.




Chính sự trong cũng như ngoài lúc này đều do Hồng Nhân Phát và Hồng Nhân Đạt lo liệu giải quyết. Nhưng Đạt và Phát đâu có phải là những người đa mưu túc kế, chính trị giỏi giang.




Bởi thế, công việc trong phủ Thiên vương, cũng như Thái bình Thiên quốc càng ngày càng rối rắm, chẳng khác gì búi bòng bong, không gỡ ra được.




Lại nói Tăng Quốc Phiên đóng quân tại Giang Tây chờ đợi, được quân Thanh ở Lưỡng Hồ tới tăng viện, liền tấn công Nam Khang. Các tướng Lý Nguyên Độ, Lưu Vu Thuần cũng thu phục được các huyện Nghi Hoàng, Sùng Nhân, Tân Kim. Nhờ đó quân vụ miền Giang Tây của triều đình nhà Thanh, mới dần dần khởi sắc…




Chưa hết, Tăng Quốc Phiên thừa dịp chiến thắng, bèn hợp binh với Quan Văn đánh tan quân tóc dài ở thành Hán Dương, giết chết Chung thừa tướng, Lưu chỉ huy. Mặt khác, Hồ Lâm Dực cũng tái chiếm thành Võ Xương, bắt sống được mười bốn tến kiểm điểm của quân tóc dài là bọn Cổ Văn Tân. Như thế Võ Hán đã ba lần mất lại ba lần chiếm lại.




Quân Thanh của Tăng Quốc Phiên thừa thắng càng tiến, tái chiếm các huyện như Hoàng Châu, Hưng Quốc, Tam Châu, Tam Thung, Quảng Tế, chỉ trong vòng có mười ngày mà đã quét sạch được hết miền Hồ Bắc.




Trên bộ đã chiến thắng, mặt thuỷ cũng thu được nhiều chiến công: bọn Dương Tải Phúc thống đốc thuỷ sư với hơn bốn trăm chiến thuyền, Lý Tục Tân chỉ huy lục quân hơn tám ngàn người, cứ theo bờ sông Dương Tử đánh xuống, chạm giáo với quân tóc dài nhiều keo, keo nào cũng đại thắng. Phúc và Tân nhân đà chiến thắng kéo luôn quân vào mãi Cửu Giang.




Tăng Quốc Phiên ở Nam Dương nghe tin, đích thân tới Cửu Giang để khen thưởng binh sĩ. Trên đường đi, Phiên được ngựa lưu tính phi báo cho biết bọn Tiêu Khải Giang, Lưu Tràng Hựu đã cướp lại được Viên Châu.




Người em của Phiên là Tăng Quốc Thuyên cũng tổ chức được một đội quân do ngả Bình Hương tiến về, hội họp tại Châu Phượng Sơn rồi đánh lấy An Phúc.




Được những tín báo tiệp từ bốn phương gởi tới, Tăng Quốc Phiên cảm thấy tinh thần sảng khoái lắm. Khi đến Cửu Giang, Phiên nhìn thấy thuỷ lục, hai quân thanh thế có bề thịnh đạt, thì lấy làm hả dạ vô cùng.




Lúc đó hai viên thống lĩnh Dương, Lý cũng tới đón rước Phiên. Phiên mặt như hoa nở, cầm tay hai tướng Lý, Dương khen ngợi rồi lại truyền gọi các tướng tá tới để uỷ lạo một phen nữa, Phiên lại còn trích ra nào vàng bạc, nào lương thực trong kho để khao thưởng cho binh sĩ, cho các tay anh hùng hào kiệt đất Tương Châu.




Các chiến sĩ của Phiên thấy Phiên rộng lượng và đối đãi tử tế với quân sĩ như vậy, thảy đều vui mừng và cảm phục, có kẻ nào lại không theo lệnh của Phiên.




Khao thưởng xong, quân Thanh đều được lệnh tấn công thành Cửu Giang. Tưởng chỉ cần trong vài ngày, không ngờ đánh phá luôn một lèo hơn tháng mà chẳng ăn thua gì! Chẳng mấy chốc đã thấy qua năm thứ bảy Hàm Phong.

Hồi 135 Thạch Đạt Khai binh bại, chạy đến Quảng Tây




Tăng Quốc Phiên được thám mã phi báo tướng tóc dài Thạch Đạt Khai kéo binh vào Hồ Nam. Đấy vốn là quê quán của Phiên, mồ mả tổ tiên bà con thân thích của Phiên đều ở cả đấy, Phiên giật mình, nỗi lo sợ hiện rõ trên nét mặt.




Phiên vội gởi văn thư thông tư cho tuần phủ Trương Châu là Lạc Bỉnh Chương hạ lệnh phải ráo riết phòng ngự. Chương đã từ lâu vốn không dám sơ hở, nay được thêm tin cảnh báo lại càng lo lắng hơn.




Nhưng không ai ngờ được rằng chính vụ đối phó với tướng tóc dài Thạch Đạt Khai này, lịch sử của Thanh triều đã ghi thêm một đại nhân vật nữa. Đó là Tả Tôn Đường người huyện Tương Âm.




Tả Tôn Đường tên thật Quý Cao là một thanh niên thích tự do phóng dật. Đường thường cho mình sẽ có ngày giúp vua cứu nước. Lạc tuần phủ thấy Đường có tài mời về làm mạc khách, song đãi như một thượng khách. Thuộc liêu có việc trình lên, Chương đều giao cho Đường giải, quyết xét đoán giùm.




Ở đời, kẻ tài sắc thường gặp gian truân. Đó là định lý của ông xanh kia chăng? Chính thế! Đường danh càng cao thì càng bị người gièm báng, quyền càng trọng thì càng bị người. kỵ ghét. Vì thế suýt nữa Đường đã bị Lạc tuần phủ làm cho tiêu đời.




Câu chuyện như sau:




Tổng binh Vĩnh Châu là Phàn Nhiếp tính vốn ương ngạnh hay tự do hành động bất chấp cả lệnh trên. Lạc tuần phủ dâng sớ đàn hặc Nhiếp kiêu căng tự phụ, do đó có chỉ xuống cách chức Nhiếp.




Không ngờ Nhiếp vận động với Đô sát viện tâu lên nói Nhiếp vô tội. Thanh triều hèn hạ chỉ sai tổng đốc Hồ Quảng là Quan Văn tra xét vụ này.




Quan Văn giấu kín chuyện Nhiếp, mật tra về tờ sớ của Lạc tuần phủ. Thế là Văn khui ra cái chuyện Tôn Đường xử lý mọi việc với tự tích đầy đủ, Văn cho triệu ngay Đường tới Võ Xương và khép Đường vào trọng tội.




Lạc tuần phủ dâng sớ khiếu nại không được, bèn viết thư gởi gấp lên kinh cho biên tu Quách Tung Đào, bảo Đào chạy chọt vận động tại dinh đại thần quân cơ Túc Thuận.




Đào vốn có tình đồng hương với Tôn Đường, tất nhiên sốt sắng vận động cho Đường thoát nạn. Đào nhờ cả Phiên Tổ ấm làm hành tẩu Nam thư phòng dâng sớ cứu Đường nữa.




May thay lúc đó Tăng Quốc Phiên cũng như Hổ Lâm Dực từ ngoài dâng sớ tiến cử Tôn Đường, khen Đường có tài đại dụng. Cả trong lẫn ngoài, tất cả mọi nơi đều thiết mưu lập kế cứu Đường, nhờ đó Đường mới được thoát tội về nhà.




Đến lúc Thạch Đạt Khai kéo binh vào Hồ Nam đánh bại bọn tổng binh Lưu Bội Nguyên, Bành Định Thái, công hãm các huyện Hưng Ninh, Nghi Chương, Quế Dương, Lạc tuần phủ vốn quý trọng Đường, tái thỉnh Đường hạ sơn, uỷ thác cho mọi việc quân sự.




Tả Tôn Đường nhận uỷ thác của Lạc tuân phủ, tức khắc truyền lệnh cho bọn Lưu Tràng Hựu, Giang Trung Nghĩa và Điền Hưng Thứ kéo quân từ ba ngả về tiếp viện.




Chỉ trong vòng một tháng, quân binh tề tập đầy đủ được hơn bốn vạn, đào hào đắp luỹ bố trí khắp nơi. Tổng đốc Quan Văn và Hồ Lâm Dực còn thông tư cho tướng Đô Hưng A điều động quân đội từ Cát Lâm, Hắc Long Giang trở về Đát Ngạc, đồn trú miền Tưng Nam, đồng thời phái tri phủ Túc Hãn Khánh thống suất thuỷ sư với ba mươi hai chiếc pháp thuyền khắc kỳ đại hội tại Tràng Sa.




Hồi đó tướng Thạch Đạt Khai kéo binh tới đâu là uy hiếp hết hai bên dọc đường, quân của Khai đông đến hai ba chục vạn, có ý muốn cứ hiểm tự hùng, kéo cờ rạch đôi sơn hà với Hồng Thiên vương.




Lúc đầu Khai đánh Võ Chương, Kỳ Dương nhưng mấy thành này kiên cố quá không hạ nổi, đành quay mũi tấn công Bảo Khánh, lập doanh trại dài tới hơn trăm dặm.




Lưu Tràng Hựu và Điền Hưng Thứ kéo viện quân lục tục kẻ trước người sau, tới nơi tức thì khai chiến. Nhiều cuộc ác chiến xảy ra liên tiếp, cả đôi bên đều tử thương tương đương, lâm vào tình trạng giằng co bất phân thắng bại.




Hồ tuần phủ cho rằng Bảo Khánh là nơi quan trọng, cần phải có một viên tướng tài thống đốc quân đội mới xong, do đó, Hồ bèn sai Lý Tục Nghi đem năm ngàn quân đi khắp nơi gọi về tất cả những đoàn quân tăng viện lẻ tẻ đặt dưới quyền tiết chế duy nhất.




Thạch Đạt Khai vốn kiêng dè oai danh của Nghi, nên khi nghe Nghi tới, liền tuyển lựa những hạn quân tinh nhuệ dũng cảm mang đủ ba ngày lương, thề phá cho bằng được Bảo Khánh mới nghe.




Lý Tục Nghi đem hết tốc lực hành quân, hội thương quân vụ với Lưu Tràng Hựu, dùng kế tránh thực đánh hư để phá địch. Nghi điều động quân binh theo Bắc lộ tấn công, vượt bến đò Tư Thuỷ xuất phát về tây đánh bọc hậu doanh trại của Khai.




Thạch Đạt Khai vừa thề quyết cướp thành, không ngờ bị Nghi đánh thốc vào trại, hoặc cắt ra làm đôi làm ba, hoặc bao vây khoá chặt, hoặc chọc hông đập sườn, khiến Khai không biết mối đầu nào mà sờ nữa, cuối cùng đành phải vừa đánh vừa lui.




Quân Thanh lúc này đã chiếm được thượng phong, bèn hùng hổ truy kích y như một cơn gió lốc thổi mạnh. Khai quay lại chống cự đôi lần nhưng vẫn không ngăn nổi mũi nhọn của quân Thanh trên đường truy kích. Một trận đánh quân tóc dài hao một số, hai trận đánh quân tóc dài lại hao thêm một số Hết lần này qua lần khác, người ta đã thấy quân tóc dài hao hụt đến vài vạn rồi.




Khai thấy khó lòng đứng chân nơi đây, vội truyền lệnh cho đoàn quân chuyển hướng về tây nam rút chạy. Quân tóc dài đã đi xa, đất Hồ Nam hết giặc giải nhiệm.




Lý Tục Nghi quay về Ngạc, Tăng Quốc Phiên nghe quê hương không việc gì lúc đó mới an lòng.




Bỗng Tăng Quốc Phiên nhận được mật chỉ của triều đình giục tiến quân vào Tứ Xuyên chặn lối Thạch Đạt Khai. Phiên chẳng dám trễ lệnh vội huy động quân mã ngược sông tiến lên. Nhưng khi tới Hồ Bắc, Phiên dò la tin tức tuyệt thiên không nghe Khai tới vùng này. Thì ra tin mật báo nọ chỉ là tin bậy làm khổ Phiên một phen lật đật vội vàng mà chẳng có công trạng gì. Mãi về sau Phiên mới được biết Khai không vào Tứ Xuyên mà chạy về ngả Quảng Tây trốn tránh.




Thái Hồ, Tiêm Sơn hai huyện đã được Đa Long A tái chiếm và đuổi hết quân tóc dài. A tiến đánh thêm Phượng Dương, thâu hồi luôn các huyện Thái Bình, Thạch Đại và Kim Luyện.




Tin báo tiệp đưa về như bươm bướm. Tăng Quốc Phiên vô cùng hào hứng, sắc mừng hiện rõ trên nét mặt của một nhà nho dày dạn phong sương, quyết một lòng diệt ngoại đạo đuổi lũ quỷ Tây phương. Phiên thấy quân tình khởi sắc, bèn quyết định tiến đánh An Khánh.




Giữa lúc này, Phiên được tin người em thứ tư là Tăng Quốc Thuyên đã mộ quân nghĩa dũng từ Hồ Nam tới. Phiên liền chia quân cho Thuyên, sai xuất binh ra Tập Hiền quan quyết thu phục cho bằng được An Khánh.




Bỗng một tin động trời truyền tới doanh Tăng Quốc Phiên: đại doanh Giang Nam của quân Thanh tan vỡ hoàn toàn, tướng Trương Quốc Lương tử trận, tướng Hoà Xuân rút chạy về Thương Châu mình bị nhiều vết thương nặng cũng đã chết. Phiên thở dài ảo não, mang thêm một mối lo buồn nữa.




Nguyên lai Hoà Xuân và Trương Quốc Lương hợp nhất thành một đại doanh rồi kéo thẳng tới Giang Ninh quyết chiến với quân tóc dài. Đánh một trận, bọn Lương cướp lại được Mạt Lăng quan. Đánh trận thứ hai bọn Xuân lại đại phá quân tóc dài ở nhiều nơi như Thất Ung kiều, Vũ Hoa đài.




Hồng Thiên vương Tú Toàn được tin cấp báo đại bại, hoảng hồn bạt vía, vội hạ chỉ cho quân tóc dài đóng tại An Huy chiếm lấy thành huyện Lai An để làm thanh viện cho hai miền nam bắc Đại Giang.




Hoà đại thần (tức Hoà Xuân) được tin này liền sai tổng binh Thành Minh hiệp lực với bọn Bát Kỳ đang đêm tập kích cướp lại thành Lai An. Tình hình Giang Ninh đối với Thái bình Thiên quốc vẫn bị nguy ngập. Do đó Hồng Thiên vương lại hạ chỉ cho quân tóc dài đóng rải rác dọc sông xuất binh đi khắp nơi phá quấy. Nhưng quân Thanh đã tiên liệu điều đó, tìm cách chặn đứng âm mưu phá quấy của quân tóc dài.




Thuỷ sư của Thanh triều cược huy động ráo riết đi bố phòng khắp nơi, bọn tổng binh Lý Đức Lân, Ngô Toàn Mỹ chia đều chặn đánh ráo riết.




Hồng Thiên vương được cấp báo bại trận ở nhiều nơi, quân sĩ tổn thất lên tới hàng ngàn, tức bực đến cùng cực. Vương truyền lệnh toàn thể quân tóc dài chia hai đầu xông ra hai cửa lớn Thái Bình và Thần Sách quyết đánh phá đại bản doanh của quân Thanh.




Bọn phó tướng quân Thanh là Trương Ngọc Lương và Phùng Tử Tài cấp kỳ ứng chiến. Lương và Tài phi ngựa vào trong trận cướp lá cờ lớn của quân tóc dài chém bay đầu được mấy tên thủ lãnh, để tỏ rõ thần oai.

Hồi 136 Quân Thanh thảm bại tại Giang Nam




Quân tóc dài thấy tướng Thanh oai dũng liền lui vào trong thành cố thủ. Hoà Xuân lại định ra một kế: sai quân sĩ đào hào đắp tường vây kín thành Giang Ninh xa rộng đến hơn trăm dặm, sau đó còn bố trí chung quanh đến tám vạn quân để chuẩn bị xung sát. Phía ngoài sông, Xuân cho thuỷ sư dùng ván ghép lại thành những thuỷ doanh liên lạc luôn luôn với bộ doanh khiến thuỷ lục hải quân đều có cái thế ỷ đốc, vây chặt tứ bề thành Giang Ninh.




Tục ngữ có câu "chó cùng thì dứt giậu", một tay chọc trời khuấy nước, dám tự xưng Thiên vương mười mấy năm trời như Hồng Tú Toàn há lại không có một chủ kiến nào trong lúc nguy cấp này? Huống hồ dưới trướng Toàn lại còn có cả một triều đình đa mưu túc kế giúp sức! Bởi vậy Lý Tú Thành đứng lên hiến kế hàng binh ở nhiều mặt để đối phó với quân Thanh ở Giang Nam. Thành vốn thuộc loại nhân kiệt tiếng tăm của Thái bình Thiên quốc, mặc dầu Thành học hết sách vở, hiểu hết thao lược, nhưng giữa lúc quá nguy khốn thực chẳng còn có kế gì khác hơn nữa.




Hồng Thiên vương dùng kế của Lý Tú Thành sai quân tóc dài ở An Huy, Giang Tây chia đều quấy phá khắp miền Chiết Mân để khiên chế đại doanh Giang Nam của Thanh triều và hứa nếu giải vây được Giang Ninh sẽ có trọng thưởng.




Quân tóc dài ở Giang Tây ứng mệnh liền cất quân đánh phá Chiết Giang. Quả nhiên bọn quan lại Chiết Giang vội chạy tới cầu viện ở đại doanh Giang Nam. Thế là Hoà Xuân đành phải phân binh nam hạ sai Châu Thiên Thụ cứu viện Chiết Giang.




Miền Chiết Giang vừa tạm yên ổn bỗng tỉnh Mân lại có quân tóc dài kéo đến. Mân và Chiết kề nhau, đã cứu Chiết chẳng lẽ không viện Mân. Xuân lại phải sai Châu Thiên Bồi đem quân cấp tốc đi ngay. Thế là Xuân chỉ còn lại có quân lực yếu, người ít, đánh mãi đến hằng tháng chẳng ăn thua gì!




Trong lúc tình hình dai dẳng chưa liệu trước được gì, bỗng lại có những tin cấp báo nguy ngập khác, quân tóc dài do Tứ Nhãn Cầu chỉ huy đánh phá tan hoang khắp nơi.




Nguyên do tướng tóc dài Trần Ngọc Thanh thua chạy khỏi Hoãn Đông liền qua về đánh Phổ Khẩu. Tướng Thanh Đức Hưng A không kịp đề phòng, bị Tứ Nhãn Cẩu đánh cho một trận tơi tả: Thế là toàn quân của A lạc lõng chạy vội về Dương Châu. Tiếng tăm của Tứ Nhãn Cẩu vang dậy trong ngoài, suốt một dọc từ Giang Phố thiên trường đến Nghi Trưng thảy đều lần lượt thất hãm.




Sư oai có thừa, Tứ Nhãn Cẩu rầm rộ kéo tới Dương Châu như nước lũ, đánh thốc vào cửa tây bắc thành. Khốn thay cho Dương Châu hôm đó, tướng Đức Hưng A lại đang ngất ngưởng trên chiến thuyền của thuỷ quân trên sông. Quân Thanh không chủ soái chẳng biết làm sao đối phó. Doanh tổng Phú Minh A, thủ bị Chiêm Khải Luân thấy tình thế quá gấp đành phải thay Hưng A điều động quân đối địch. Mặt khác, thủ bị Trương Đức Bưu kéo ra cửa tây nghinh chiến.




Tú Nhãn Cẩu vốn là một tay tướng đã từng có kinh nghiệm chiến trường, lại còn là người khôn ngoan quỷ quyệt khôn lường. Cẩu thấy cửa nam không có phòng bị, liền cho quân leo thành nhảy vào.




Thế là thành bị phá. Hàng ngàn, hàng vạn quân tóc dài xông vào như nước vỡ bờ. Còn ai là người cản nồi nữa! Quân Thanh kẻ chết kẻ bị thương, kẻ chạy trốn hỗn loạn. Bọn tướng Chiêm, Phú thấy tình hình hỏng rồi, chẳng còn lòng nào ham đánh, vội cướp đường chạy trốn, cuống cuồng như chó gặp hoả tai.




Thành bị phá rồi Đức Hưng A mới biết! A sợ quá, chân tay run lên cầm cập, vội vàng một mạch chạy trốn. Tới hồ Thiệu Bá, Hưng A thu thập được ít tàn quân đóng trạm đồn tại cầu Vạn Phúc, cố giữ mặt đông bắc, một mặt mang hoả bài tới đại bản doanh Giang Nam cầu viện.




Hoà Xuân lâm vào tình trạng bất đắc dĩ, đành phải sai Trương Quốc Lương cho quân vượt sông sang bắc, tập họp với quân Giang Bắc đánh thành Dương Châu.




Lương vừa tới nơi, bỗng một tướng tóc dài mở cửa thành xông ra, Lương phi ngựa lên trước nghinh chiến, múa tít cây đại bao, lúc chém lúc đâm, sức mạnh muôn phần. Quân tóc dài thấy Lương oai mãnh quá vội chạy vào thành.




Cửa thành chưa đóng kịp thì Lương đã phóng ngựa bay vào thành, hô quân đột nhập. Quân tóc dài hoảng hốt chạy trốn, quân Thanh tiến tới. Hai bên ác đấu một trận tơi bời, rút cục quân tóc dài đại bại, quân Thanh cướp lại được Dương Châu.




Đại thắng ở Dương Châu, Trương Quốc Lương chuyển quân đánh Nghi Trưng, Nghi Trưng thu phục, Lương lại tiến đánh huyện Lục Hợp.




Huyện Lục Hợp ở phía bắc Giang Ninh, chỉ là một cô thành, thế mà vân chống cự được với quân tóc dài đến sáu năm trường.




Đã từ lâu, huyện lệnh Lục Hợp gặp lúc loạn ly, chiêu mộ quân nghĩa dũng cố thủ cộ thành. Sáu năm qua, Ôn Thiệu Nguyên so giáo với giặc ước hàng trăm trận, quân tóc dài không làm gì nổi. Nhưng đến khi Đức Hưng A lui về đóng ở Thiệu Bá, thành Dương Châu đã lấy lại thì Trương Quốc Lương tất nhiên kéo binh cứu viện cho Ôn Thiệu Nguyên.




Lương tới cầu Trần Bản, cách thành còn độ mười dặm, quân tóc dài được tin, liền đem đội binh tính nhuệ nhất ra chặn đánh, một mặt đào địa đạo để nổ phá chân thành. Giữa lúc Lương tiếp chiến với quân tóc dài ở mặt trước, thì mặt sau, thành Lục Hợp đã bị mìn nổ tung, bật hết từng đoạn đài Quân tóc dài ùn ùn kéo vào thành hò hét vang trời, đâm chém, đốt phá, tiếng khóc, tiếng la thê thảm.




Huyện lệnh Ôn Thiệu Nguyên thất thủ, nhảy xuống giếng tự tử. Vợ con của Nguyên cũng tuẫn tiết theo chồng.




Ngày mồng bảy tháng ba nhuận năm Hàm Phong thứ mười, quân tóc dài từ Hoãn Chiết chia làm mấy ngả nhất loạt tấn công tiến vào đại bản doanh. Trương Quốc Lương ngày đêm cự chiến đến nỗi không còn được lấy một phút để nghỉ ngơi nữa.




Cuộc chiến xảy ra liên tiếp tám ngày tám đêm. Quân tóc dài đến ngày càng đông, đứng xa trông nườm nượp như đàn kiến. Sức người có hạn bởi vì người ta cũng là thịt là xương.




Xung trận liên tiếp tám ngày tám đêm liền, dù có phải mình đồng da sắt, thì rồi cũng có lúc gân chùn gối mỏi, mắt hoa đầu váng, khó lòng mà chống chọi với muôn người. Chiến trận kéo dài tới ngày thứ mười bốn. Trời mưa to gió lớn, đêm đến rét kinh khủng, Trương Quốc Lương vẫn phải đốc thúc quân kháng chiên mọng mỏi đợi sáng. Bỗng trong doanh lửa cháy.




Rồi chỉ chớp mắt, lửa tràn lan khắp nơi. Lương biết lòng quân đã biến vội chạy ra khỏi doanh lui về giữ Đan Dương. Quân tóc dài gặng sức đuổi đánh. Chúng phá Lật Dương, chiếm Nghi Hưng, tấn công thành Đan Dương. Lúc đầu chúng còn sợ uy danh của Lương không dám lại gần, chỉ đắp các tường đất làm thành doanh. Về sau chúng cho một số quân cảm tử lẻn vào trại, đợi khi Lương xuất chiến, lừa dịp đâm trộm. Tên sát thủ đâm một mũi giáo trúng ngay hông Lương, Lương chịu đau, nhịp đâm lại chết hắn. Giữa lúc đó lưng Lương trúng thêm mấy ngọn thương, vết ngập quá sâu. Lương đã đến lúc hăng máu, bất chấp cả đau đớn, múa tít cây đại đao, hớt luôn một lúc mấy cái đầu tóc dài. Lương cử chém lia lịa, mở một đường máu chạy như cuồng tới bến Đại Dương, xuống ngựa, quay mặt về bắc, lạy mấy lạy rồi chết.




Trương Quốc Lương đã chết, thành Đan Dương thấy rõ khó lòng cố thủ. Chúng tướng vội bảo vệ Hoà Xuân xông qua vòng vây, mở một đường máu chạy thục mạng ra ngoài.




Khi cả bọn tới được Thương Châu, quay nhìn lại, thì ra quân tóc dài đang đuổi gấp đằng sau, quyết không chịu bỏ.




Xuân bất đắc dĩ phải quay lại nghinh chiến. Bỗng một viên đạn bay vèo tới trúng ngay giữa ngực Xuân, Xuân vội vàng quay ngựa chạy trở về, lui mãi tới Hữ Dã quan, hộc ra từng bát máu đặc, mặt tái xám đi rồi tắt thở.




Trận đại bại quả là thê thảm. Hai chủ soái đều chết. Doanh vụ xứ Hồ Bắc là đề đốc Vương Tuấn, tổng binh Thọ Xuân là Hùng Thiên Hỷ cũng trận vong. Duy chỉ còn có mỗi một mình đốc giang là Hà Thanh Quế thoát chết, chạy trốn về tới Tô Châu, nhưng lại bị tuần phủ Tô Châu là Từ Hữu Nhâm không cho vào thành khiến Quế phải chạy tít mãi đến Thượng Hải mới đám nghỉ ngơi ăn uống.




Quân tóc dài cướp được Thường Châu, tấn công Tô Châu. Từ tuần phủ thấy giặc tới miễn cưỡng điều động quân sĩ chống chọi được vài giờ thì quân tóc dài vượt thành, tràn ngập như thác lũ. Từ tuần phủ trốn chạy không kịp, đành chịu chết dưới ngàn vạn lưỡi dao của quân tóc dài băm nhỏ ra như cám.




Tin cảnh báo truyền về tới kinh đô. Triều đình gia ơn phủ tuất cho những kẻ trận vong. Duy chỉ còn có Hà Thanh Quế bị cách chức và bắt về tra hỏi. Ngoài ra còn chọn một viên đại thần làm Giang đốc.




Giữa lúc triều đình còn bàn tính chưa xong thì quân cơ đại thần Túc Thuận đằng hắng một tiếng, cử một tay nhân tài xuất chúng có thể lật ngược thế cờ, dẹp tan được Thái bình Thiên quốc.




Tìm một viên đại thần làm Giang đốc, triều đình nhà Thanh nhiều người có ý đề cử Hồ Lâm Dực. Duy chỉ có một mình Túc Thuận cho rằng chỉ nên nhiệm dụng Tăng Quốc Phiên.




Hàm Phong hoàng đế đắn đo một lúc rồi chấp thuận đề nghị của Thuận. Một đạo chỉ dụ ban xuống, Tăng Quốc Phiên bổ nhiệm Lưỡng Giang tổng đốc, đốc biên Giang Nam quân vụ, Phiên phụng chỉ xong tức thì viết biểu tâu về triều:




"Hiện nay lộ quân An Khánh đã đóng sát chân thành. Cánh quân này chính làm căn bản trong cuộc khắc phục Kim Lang, chớ nên vội rút. Thần vâng án mệnh, quyền chế Lưỡng Giang, đóng quân Tam Ngạn để vững lòng dân miền Ngô Hội, và gây thanh thế cho Huy Binh. Thần sẽ thương lượng với Quan Văn và Lâm Dực lấy thêm vạn lính, lên đường đi trước. Tuy vậy thần vẫn cho người về Tương Châu mộ thêm quân nghĩa dũng đưa tới hành doanh để đủ quân điều động. Còn việc quân lương, quân giới, thần về lấy Giang Tây, Hồ Nam làm căn bản. Thần cùng sẽ thông tư cho phủ thần hai tỉnh này dốc toàn lực để bố phòng ba tỉnh Giang Sở. Có phòng ngự xong xuôi cẩn thận, lúc đó mới có thể nói tiên đánh và càn quét. Nên chăng thế nào, kính mong thánh thượng xét soi!".




Tờ sớ dâng lên, được triều đình chuẩn ngay Phiên nhận thêm thượng dụ chiếu theo ý trong tờ sớ mà lo liệu hành động.




Hồ Lâm Dực đồng thời cũng bảo tấu cho Tả Tôn Đường được đặc cấp tứ phẩm kinh đường với nhiệm vụ biện lý quân của Tăng Quốc Phiên. Phiên lại cùng với Dực hội thương điều động năm ngàn bộ hạ của Bào Siêu cũng như ba ngàn người của bọn Chu Phẩm Long. Đường Nghĩa Huấn vượt đò sang sông về nam ngạn, đồn trú tài huyện Ký Môn, Hy Châu.




Hồng Thiên vương Tú Toàn được tin Tăng Quốc Phiên đồn trú tại Hoãn Nam, biết rằng Phiên có ý đóng đô Giang Ninh, bèn cho Lý Tú Thành làm Trung vương, đem theo bọn Cổ Lang Hiền, Lại Du Tân chỉ huy vài vạn quân tóc dài tiến thẳng vào Nam Huy.




Lúc đó, mấy lộ quân của Tả Tôn Đường và Bào Siêu, còn chưa tới hoãn, Lý Tú Thành theo đường châu Quản Đức kéo thẳng tới phủ Ninh Quốc. Tướng giữ thành là Châu Thiên Thụ không đủ sức địch, bị tử thương, Ninh Quốc bị hãm.




Huy Châu giới nghiêm. Tăng Quốc Phiên tức tốc sai Lý Nguyên Độ lo việc phòng thủ Huy Châu. Độ vừa tới Huy Châu thì, tướng tóc dài là Thị vương Lý Thế Hiền chỉ huy một lộ quân đông đảo ồ ạt kéo tới. Độ không chống nổi đành phải lui về giữ Khai Hoa.




Hiền phá tan thành phủ Huy Châu, tiến quân uy bức Kỳ Môn. Tăng Quốc Phiên hoảng sợ muôn phần… May nhờ được Bảo Siêu đem quân tới viện. Trương Vận Lan cũng được tin cảnh báo, vội chạy tới yểm trợ. Phiên liền sai Siêu ra giữa Hoàn Đình, còn Lan thì giữ Đa huyện.




Chủ đích của quân tóc dài là phải cướp cho kỳ được Kỳ Môn. Chúng chia ba đường tiến đánh: một đường qua phía tây hãm trấn Cảnh Đức, một đường tiến qua hướng đông hãm huyện Vụ Nguyên, còn một đường nữa đi sang ngả bắc, vượt qua núi Dương Sạn, đánh thốc vào đại bản doanh của Tăng Quốc Phiên.




Dưới trướng của Phiên lúc đó chỉ có hai chi quân của Siêu và Lan là dùng được, nhưng lại đã điều động hành quân ra ngoài cả rồi. Doanh trại của Phiên quả thực trơ trọi, vô cùng nguy hiểm, Phiên bất đắc dĩ đích thân chỉ huy ba quân chống giặc.

Hồi 137 Lan quý nhân sinh hoàng nam




Lại nói trong cung cấm tại Bắc Kinh, Hàm Phong hoàng đế được tin Lan quý nhân có thai, ngày đêm chỉ mong, nàng sinh cho mình một hoàng nam. Ngài không ngờ ông xanh kia thực đã hết lòng chiều mình: Lan quý nhân quả nhiên sinh, con trai như ngài mong ước.




Cái tin vui này loan truyền ra ngoài nhanh như chớp. Không những hoàng đế, hoàng hậu vui mừng mà đến cả văn võ bá quan trong triều đình, muôn dân trăm họ ngoài thôn dã, ai cũng đều múa nhảy hát ca. Trong các nha môn đinh thự, ngoài các phố phường làng mạc, đâu đâu cũng treo đèn kết hoa ăn mừng.




Sung sướng vì có được hoàng nam, Hàm Phong hoàng đế thăng Lan quý nhân lên chức Lan quý phi. Hoàng tử vừa sinh, ngài đặt tên là Đái Thuần.




Lan quý phi nhờ sinh hoàng tử, càng kiêu ngạo hết chỗ nói. Chẳng những nàng không thèm để ý tơi bọn phi tần trong cung cấm, mà ngay cả đến Hiếu Trinh hoàng hậu, nàng cũng coi chẳng vào đâu. Mặt khác, chính hoàng hậu cũng có đôi phần nể nang. Thực ra chú bé gọi hoàng nam nọ, đâu có phải là con trai của Lan quý phi? Chú bé tốt phước này chính là con trai của một cô gái Hán trong vườn Viên Minh tên gọi Sở Anh.




Sở Anh họ Sở mà tên Anh, vốn là một tiểu thư trong một gia đình có đọc sách. Cha nàng người Hồ Nam có giữ chức: tiểu kinh quan tại Kinh vài năm, kiếm ăn cũng khá. Sở Anh lớn lên, trông xinh đẹp lả lướt, phong vận lắm. Đám quan trường nghe tiếng nàng, nhiều anh nhờ mai mối, nhưng cha nàng tính thanh cao khảng khái, thường bảo bọn này dơ dáy bẩn thỉu, đâu có xứng với tài sắc của con gái ông, thành thử anh nào cũng cụt vòi co lưỡi lại hết và lặng lẽ rút êm.




Không ngờ, Sở Anh vừa bước sang tuổi mười sáu, thì cha nàng bỗng nhuốm bệnh, lăn ra chết. Thế là nhà cửa tiêu điều, gia đình chỉ còn lại mấy bàn tay trắng. Nghe tin trong cung cấm mướn gái Hán phục dịch, bà mẹ của Sở Anh tham số bổng lộc khá lớn bèn đưa nàng vào cung.




Khi bước chân vào cung, Sở Anh tâm niệm rằng từ đây chỉ là kiếp con sen quét tước lau chùi nhà cửa, trông coi giữ gìn cung vàng điện ngọc mà thôi chứ chẳng còn có một cái gì gọi là mở mặt với đời nữa.




Nhưng Sở Anh không ngờ rằng trong cung Thanh lại có một ông vua Thanh đa tình, lẳng lơ, chỉ thích gái Hán, khoái hơn nữa là gái Hán chân nhỏ mà ông ta vẫn gọi là "Tam thốn kim liên" (ba tấc sen vàng). Ông đó chính là Hàm Phong hoàng đế.




Sở Anh vốn là gái Hán có những đường nét gợi tình đáng yêu, lại vừa có cặp "Tam thốn kim liên" thì Hàm Phong hoàng đế làm sao lại có thể bỏ nàng nằm lạnh lùng trong cung cấm của ngài được.




Thế rồi một hôm, nàng đang dạo quanh bụi mẫu đơn để ngắm nghía mấy bông hoa vừa mới nở thì Hàm Phong hoàng đế tản bộ dưới dãy hành lang. Chợt nhìn thấy cặp "Tam thốn kim liên" của nàng đặt nhẹ trên thám cỏ xanh, ngài như bị nó gắn chặt lấy. Đôi mắt ngài nhìn chăm chăm tự nhủ sao Trời Phật tự nhiên lại đem cho ngài một vưu vật mà không thèm báo trước như vậy.




Ngài tươi hẳn mặt lên, vội vẫy bọn thị vệ theo hầu. Bọn này hầu hạ ngài, đã quen với cái vẫy tay ấy quá rồi, nên biết ngài sắp gây ra một vụ ngoạn mục gì đây, vội hè nhau lỉnh sang góc vườn khác, hoặc chui vào bụi cây, giấu kín thân hình nhưng không quên dành cho đôi mắt được rảnh rang qua kẽ lá để thưởng thức một màn tuồng vô cùng hấp dẫn.




Hàm Phong hoàng đế đương nhiên là bước tới gần người đẹp, gọi hầu hạ theo cái điệu của mình. Trời thì trăng gió thì mát, thảm cỏ thì xanh lại êm: thử hỏi còn có giường chõng nào, chăn nệm nào, êm ấm sướng khoái bằng nơi này nữa không?




Hôm ấy là hôm đầu tiên được nếm của chua trong đời Sở Anh. Chẳng biết nàng có thấy gì lạ lùng không, nhưng đối với tay phong lưu mã thượng như hoàng đế Hàm Phong thì ít ra cũng có một vài âm hưởng dội vào lòng, khiến ngài thấy được một vài cái lạ, cái khác ở trên thân thể ngọc ngà của nàng. Quả thế? Bởi lâm hạnh một lần chưa đủ, ngài làm luôn một hơi đến mấy lần. Và hình như vẫn còn thèm thuồng lắm!




Ít hôm sau ông vua phong lưu mã thượng tất nhiên cần tìm cái mới khác, bỏi vì dù sao cái của Sở Anh cũng đã cũ, ngài chẳng khám phá được gì thêm. Thế là ngài quất ngựa truy phong, khiến người con gái Hán "Tam thốn kim liên" mỏi mắt trông chờ mà chẳng bao giờ được gặp lại.




Hàm Phong hoàng đế có ngờ đâu chỉ vài lần gặp gỡ đó thôi cũng đủ để bao nhiêu chuyện động trời tiếp diễn mãi về sau. Số là Sở Anh sau mấy lần chịu ơn mưa móc đã cảm thấy mình thay đổi dần. Đôi má từ hồng đã đối dần sang xanh, tím, ham của ngọt đã biến sang thèm của chua, và nhất là cái bụng vốn thon thon bỗng chuyển sang hình cái bầu có nắp…




Cái bầu ấy lớn dần theo ngày tháng, Sở Anh tất nhiên mừng nhưng cũng có lúc lo vì ai biết trước được ngày mai.




Ông vua đa tình nọ thì còn đuổi theo mảnh tình khác, đâu có để ý gì tới nàng mà biết tới cái bầu nọ, nhất là ngài lại đang mê say một trang sắc nước hương trời là Lan quý nhân.




Thực thế! Lan quý nhân lúc này được sủng ái quá cỡ, do đó nàng cũng lên mặt quá cỡ. Trong vườn Viên Minh, nàng đã qua mặt Hàm Phong hoàng đế, che mắt bịt tai ngài để tha hồ làm theo tiếng gọi hận thù của mình. Không biết bao nhiêu gái Hán đã bị nàng ngầm sai thủ hạ đánh chết hoặc ném xuống hồ cho chìm mất xác.




Bỗng một hôm có kẻ đến ton hót với nàng chuyện Sở Anh đã từng chịu lâm hạnh đôi lần với hoàng đế. Thế là nàng bảo thái giám cho gọi Sở Anh tới. Lúc đầu, nàng chỉ có mỗi một ý nghĩ là đập chết vứt xác cho quạ chuột rúc rỉa bụi rậm nơi bìa vườn, có thế thôi. Nhưng không ngờ khi nhìn tới cái bụng của Sở Anh nàng bỗng thay đổi chủ kiến ngay.




Cái bầu của Sở Anh lúc đó đã khá lớn cho nên bất cứ ai nhìn vào cũng có thể nhận ra. Lan Nhi dò hỏi đủ điều từ chuyện ăn nằm ngủ nghỉ của đức vua đến chuyện hầu hạ nâng giấc của Sở Anh và quyết chắc đó đích thị là "long chủng" rồi. Chủ tâm giết Sở Anh của nàng bỗng đổi hướng cấp kỳ. Nàng không giết đã đành, trái lại còn sai đem Sở Anh về nuôi dưỡng cẩn thận ở nhà sau.




Sau khi giấu kín được Sở Anh, Lan quý nhân tìm cách độn bụng, giả bộ có thai để đánh lừa ông hoàng đế đa tình ham con. Nàng thỏ thẻ với ngài là đã có thai, có thai đã mấy tháng. Nàng sợ tai mắt dòm ngó trong vườn quá nhiều, bại lộ mật kế của mình, bèn bắt Sở Anh độn vải cho chân to ra, không còn là cái cặp giò "Tam thốn kim liên" nữa. Chưa hết, nàng còn bắt Sở Anh ăn mặc theo Kỳ trang (kiểu Mãn Châu), nhập bọn vào đám cung nữ, rồi đưa về cung, giấu trong một căn mật thất.




Chín tháng mười ngày mang thai lao khổ, Sở Anh sinh hạ một chú bé trai trông thật kháu khỉnh. Giữa lúc Sở Anh mệt lả nằm trên giường đẻ, Lan quý nhân đích thân rót một chén thuốc đổ vào miệng nàng. Chỉ trong nháy mắt Sở Anh hộc ra từng ngụm máu tím bầm, mặt tái mét đi, chết luôn.




Thi hành xong một giai đoạn của cái mật kế, Lan quý nhân hẳn nhiên coi như đắc sách, và tiếp tục giai đoạn hai. Nàng cho người ra ngoài ngầm thuê nhũ mẫu đưa vào cung nuôi nấng bú mớm trong mật thất. Ít hôm sau, Lan quý phi vác cái bụng độn vải như cái thúng của mình xun xoe ra trước mắt mọi người, đột nhiên nàng kêu đau bụng, rồi cũng làm cái bộ mặt nhợt nhạt, cái điệu đau đớn yếu ớt, nàng lên giường sinh và cuối cùng, sau một hồi rặn đẻ như hết hơi, nàng sinh hạ một hoàng nam.




Một bà đỡ sồn sồn từ trong phòng đẻ bước ra vừa reo vừa khoe cho mọi người thấy một hoàng nam máu me còn đỏ hỏn khắp mình. Tất nhiên ai cũng cho rằng đó chinh là cục máu cưng của nàng, chứ đâu có dám nghi ngờ gì khác.




Hoàng đế và hoàng hậu thấy hoàng nam khôi ngô kháu khỉnh vui mừng khôn xiết, trong khi đó, Lan quý nhân cười thầm trong dạ và tự nhủ kế mình đã đạt, việc lớn của mình đã thành. Yên chí như vậy, bất giác nàng đâm kiêu hãnh ngang ngược, bất chấp hết mọi người.




Thấy ở trong cung còn có Chính cung nương nương không thể tự do hành động được, Lan quý phi nỉ non to nhỏ với hoàng đế cho nàng sang ở bên vườn Viên Minh. Tháng ba lại vừa mới dứt, xuân hết hè đã sang. Chiếu lệ thì đây là lúc có thể chuyển qua bên vườn Viên Minh được. Do đó, Hàm Phong hoàng đế liền chuẩn y lời xin của Lan quý phi.




Dọn sang vườn Viên Minh, Lan quý phi lại cũng ở tại Thiên Địa Nhất Gia Xuân như cũ. Đã lâu, Hàm Phong hoàng đế không tới vườn này, nay lại được trở về, ngắm nhìn cảnh xưa hoa cũ mà lấy làm thích, lại cảm thấy nhẹ nhõm khác hẳn những ngày khi còn phải nghe nào chiếu chỉ, nào biểu chương. Trời xuân lại vừa dứt thời tiết thêm ấm áp, cảnh vật trong vườn càng tươi tất xanh thắm. Cảnh đã đẹp, mà Lan quý phi của ngài lại càng đẹp, Hàm Phong hoàng đế vừa mê về sắc lại vừa say về hương, thế là ngài ném tuốt luốt mọi việc đại sự của triều đình ra sau ót.




Những lúc ngồi xem hoa, chờ trăng, ngài chỉ còn thấy có cái gấu váy của Lan quý phi là có nghĩa hoặc cái giải yếm của nàng là còn có sinh thú của cuộc đời.




Suốt ngày Hàm Phong hoàng đế đưa người đẹp đi du ngoạn khắp nơi. Hơn nữa sau cơn đau kịch liệt vừa qua mất đến gần mấy tháng, thân thể suy nhược, ngài cần phải có thì giờ tĩnh dưỡng, có người nâng giấc có dịp vui chơi bên hoa cạnh nước, để lấy lại sức của tuổi xuân trai mười tám. Ngài thường ngồi trên chiếc kiệu sơn màu vàng hoặc ngồi ngất ngưởng trên chiếc thuyền rồng để đỡ phải cất giò đi lại phí sức tốn mồ hôi. Điểm đặc biệt nhất là trong vườn có nuôi một đàn hươu.




Mỗi ngày ngài phải uống một chén máu hươu để cho da đẻ mau hồng, thịt gân được cứng chắc, khiến Lan quý phi hầu hạ được chu đáo hơn. Đàn hươu sao tính có đến vài trăm con, hằng ngày thả gậm cỏ trên khu đất rộng bát ngát hai bên cầu Bích Lộc chẳng bao lâu đã thấy thưa dần, hươu càng thưa, hoàng đế càng mạnh, Lan quý phi càng thả sức chiều hoàng đế nhất là trong những đêm mưa gió sụt sùi… Lan quý phi tự tay mình lấy máu hươu để cung phụng cho hoàng đế. Bỏi thế cứ mỗi ngày nàng lại đem vài tên cung nữ tới vườn hươu săn bắn.




Hàm Phong hoàng đế thấy Lan quý phi cưỡi ngựa bắn cung tuyệt hay, bèn đem nàng đi xa săn bắn muông thú. Ngài hạ lệnh cho ba ngàn ngự lâm quân bảo vệ đoàn săn bắn tới chân núi Vạn Thọ săn bắn suốt một ngày, bắn được vô số chim, nào chim sẻ nào chim cút. Trời đã về chiều.




Bọn quần thần văn võ trong vườn Viên Minh biết hoàng đế sắp về liền chỉnh tề áo mão sắp hàng đủ mặt ở cửa vườn để chờ đợi thánh giá.




Tiếng khánh, tiếng chiêng, tiếng chuông, tiếng trống vang rền vọng lại từ xa. Ngự giá chẳng mấy phút đã về tới cửa vườn Văn võ bá quan nhất tề quỳ xuống đất. Lúc này chính là lúc quạ cú câm bặt, tứ bề phẳng lặng như tờ. Bỗng có tiếng vó ngựa lọc cọc nện đều trên đường đá. Triều thần ngước nhìn ra thấy đi đầu là một thiếu phụ mặc Kỳ trang cưỡi ngựa xông tới cửa vườn.




Thấy trăm quan quỳ thành hàng thẳng tắp đôi bên đường lộ, người thiếu phụ ngồi nghiễm nhiên trên ngựa cười nói:




- Sao hôm nay thằng lùn đông quá vậy?




Tiếng nói cười xoen xoét của người thiếu phụ vừa tắt thì con ngựa cũng đã qua hết dãy người bước vào trong. Lũ quan lớn nhỏ hoảng hồn bạt vía không dám cất đầu ngước mắt nữa. Họ hỏi lẫn nhau, lúc đó mới biết người thiếu phụ đó chính là Lan quý phi, cục cưng của đương kim hoàng đế của họ. Họ lè lưỡi lắc đầu chỉ dám thốt một tiếng nhỏ "Trời" bên tai nhau, để mong vơi bớt cái sợ hiện còn rất "vĩ đại" trong lòng họ.




Lan quý phi cưỡi ngựa đi vào một lát mới thấy thánh giá tới. Suốt cả ngày hôm đó, Hàm Phong hoàng đế quả đã được khoan khoái phi thường.




Qua ngày hôm sau, ngày sinh nhật của Lan quý phi, thánh chỉ của hoàng đế hạ xuống cho đặt tiệc trong vườn Viên Minh uống rượu xem hát tuồng. Ngài hạ lệnh Lan quý phi hôm nay phải cải trang làm Ý quý phi để hầu ngài, nâng khăn chuốc rượu cho ngài. Ngày thứ nhất, Ý quý phi hầu rượu tại hiên "Hồ trung Phật nguyệt trượng". Kể từ hôm đó, mọi người trong cung, nhiều lúc thường gọi Lan quý phi là Ý quý phi, có lẽ cũng còn để tránh phạm huý.




Rượu đến canh khuya, hoàng đế ngà say, nàng mới dìu ngài đi ngủ. Nhưng qua ngày hôm sau, có lẽ vì đau bệnh rượu, bệnh gái, ngài bỗng hộc ra máu. Lan quý phi giật mình kinh ngạc, vội truyền cho ngự y vào cung tức khắc, một mặt báo tin về cung cho hoàng hậu biết.




Hiếu Trinh hoàng hậu đối với hoàng đế vốn có tình vợ chồng vô cùng thâm hậu, cho nên khi nghe tin chẳng lành này, bà vội vàng chạy vào trong vườn thăm. May mà máu hoàng đế thổ ra chỉ là do cấp khí công phế, mửa ra máu phổi chứ không có gì nguy hiểm. Bởi thế, ngự y lo thuốc thang điều trị, chỉ có năm, ba hôm, ngài đã dần dần bình phục lại được. Ngài an dưỡng trong vườn thêm nửa tháng nữa, lúc đó bệnh coi như đã hết hoàn toàn và ngài lại đã đi lại được như thường.




Khi còn nằm trên giường bệnh ngài thường có Hiếu Trinh hoàng hậu ngồi cạnh săn sóc an ủi và khuyên giải. Bà có lúc tâm tình khuyên ngài nên bảo dưỡng thân thể, chớ nên sủng ái Lan quý phi quá độ. Cũng có lúc bà nói thẳng với ngài rằng Ý quý phi không phải là người sủng ái được đâu, chỉ tại vì nàng thường có ý can dự việc triều chính. Nói đoạn bà còn cả quyết rằng triều chính không phải là việc của bọn đàn bà, ngay cả chính bà nữa.




Thực thì từ khi sinh hoàng tử, Lan quý phi có những cử chỉ ngôn ngữ bộc lộ tính kiêu hãnh quá độ ngay đối với cả hoàng đế nữa. Hàm Phong hoàng đế cũng thấy rõ điều đó, nhưng chỉ tại quá yêu quá cưng nàng mất rồi, cho nên không muốn chỉ trích hạch hỏi gì. Nay nghe lời hoàng hậu khuyên bảo, ngài biết bà nói vậy là có ý tốt đó thôi. Ngài cũng biết Lan quý phi là một người đàn bà vô cùng thâm hiểm và chỉ muốn nhân lúc bệnh hoạn chẳng thèm gặp mặt nàng nữa. Nhưng phải cái hoàng hậu vốn là một bậc quốc mẫu, không thể hầu hạ ngài mãi trong thâm cung được. Lúc đó là lúc ngài thấy lòng trống trải cần một người đàn bà, một đôi tay ngà ngọc nâng giấc hầu hạ.

Hồi 138 Kế hoạch bao vây hoàng đế




Ngài đang băn khoăn về nỗi niềm này, bỗng hình ảnh của Tứ Xuân (bốn nàng Xuân) từ đâu vụt hiện ra trước mắt.




Ừ đúng! Ngài còn có bốn cây danh hoa khuynh quốc mà chỉ vì say mê Lan quý phi, ngài đã ném ra sau ót. Hình ảnh của bốn đoá hoa sắc nước hương trời này càng hiện rõ như in trong trí nhớ. Bao nhiêu duyên tình êm đẹp, bao nhiêu kỷ niệm mê ly thuở nọ, tất cả đều kéo về với ngài, và chỉ trong giây lát, ngài quên phứt hết cái giọng ca êm ái, cái điệu tình lẳng lơ của Lan Nhi buổi gặp gỡ đầu tiên.




Thế là Hàm Phong hoàng đế truyền gọi Mẫu Đơn Xuân và Hạnh Hoa Xuân tới hầu ngài. Ngài ngắm kỹ cặp người ngọc này mà ái ngại. Ái ngại bởi vì những cây danh hoa này của ngài hồi này gầy đi nhiều, kém sắc đi nhiều, và tất nhiên cũng kém duyên đi nhiều, đâu có còn được cái xinh cái giòn của người con gái đương tơ thuở nọ.




Ngài ái ngại, rồi ngài ngậm ngùi. Ngài lên tiếng hỏi tại sao hai nàng tiều tuỵ dung nhan. Chỉ thấy Hạnh Hoa Xuân của ngài oà lên khóc nức nở, những giọt lẹ nóng hổi ướt đẫm cả vạt áo long bào của ngài. Ba cái đầu nặng trĩu trong suy tư. Mãi về sau Mẫu Đơn Xuân mới thỏ thẻ tố cáo cho ngài nghe, nào là Ý quý phi ngược đãi bọn nàng ra sao, nào là bọn thái giám, cung nữ sợ thế lực của Ý quý phi không dám cho bọn nàng ăn no mặc đẹp ra sao, nào là tình cảnh hết sức khó sống ở trong vườn Viên Minh ra sao. Hai nàng Xuân kể ra không biết bao nhiêu những nỗi khổ cực chua chát.




Mẫu Đơn Xuân vừa kể xong, Hạnh Hoa Xuân lại tâu tiếp cho ngài nghe việc Ý quý phi chuyên kiếm chuyện với gái Hán qua mắt ngài, và đối đãi vô cùng tản ác. Nàng tố cáo để ngài biết là không biết bao nhiêu gái Hán đã bị Ý quý phi bắt đem đập chết trong các căn nhà hoang vắng bí mật, hoặc đem dìm chết dưới hồ Thái Dịch.




Hàm Phong hoàng đế nghe xong bỗng nổi cơn thịnh nộ, ngài gầm lên mấy tiếng như hổ gầm, xô đổ cái án thư trước mặt, răng nghiến lại ken két. Thế là qua ngày hôm sau, ngài truyền chỉ triệu Ý quý phi tới.




Vốn người khôn ngoan thâm hiểm, Ý quý phi chỗ nào chả đặt tai mắt để nghe ngóng. Hoàng đế nổi cơn thịnh nộ như thế nào, tên tổng quản An Đắc Hải đã biết, tức tốc thông tin cho Ý quý phi biết ngay. Nàng biết hoàng đế thịnh nộ, liền xoã hết đầu tóc, bế hoàng tử trong lòng, lẹ làng bước vào cung, quỳ trước mặt ngài, dập đầu lìa lịa, xin tha tội, mặt mày làm ra bộ thiểu não đáng thương hết sức.




Thật là một chuyện quái đản: khi không thấy Ý quý phi thì hoàng đế nổi giận lôi đình, nhưng khi thấy nàng thỉ ngài lại thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra. Nhìn thấy mặt Ý quý phi ngài nhớ tới bao đêm ân ái mê ly. Ngắm nghía khuôn mặt nàng, ngài lại cảm thấy lòng mình như say như mê. Chỉ chừng ấy cũng đủ để cho ngài dẹp hết cơn thịnh nộ khủng khiếp hôm qua. Đã thế ngài còn thấy mềm lòng hẳn khi Y quy phi khóc lóc thảm thiết, rồi vừa khóc vừa xin, trong khi đó hoàng tử đang ọ ọe trong lòng nàng như cô ý xin cha tha tội cho mẹ.




Thử hỏi tình cảnh đó người có tình cảm, ai lại không xúc động mà lòng chẳng se lại. Hàm Phong hoàng đế quả đã để cho lòng se lại khiến trên mặt trận cân não, ngài đã chịu hạ phong để cho Ý quý phi toàn thắng.




Ý quý phi còn khôn ngoan hơn nhận thấy hoàng đế lại đã mắc vào bẫy tình cảm của mình, bèn tỉ tê kể lể gán đủ chuyện xấu xa cho Mẫu Đơn Xuân và Hạnh Hoa Xuân. Đáng lý Hàm Phong hoàng đế không nên nghe, không nên tin lời nàng nói lúc này mới phải. Trái lại còn nghe và đem bao lời khuyên an ủi nàng là khác.




Thế rồi suốt một đêm ban ơn mưa móc, ngài quên hết mọi chuyện. Đường đường một vị hoàng đế vạn tuế gia rút cục lại bị cái đũng quần hồng của Ý quý phi làm mê tít tự lúc nào! Thấy cá đã mắc câu Ý quý phi dại gì để cá chạy mất.




Nàng sửa soạn cấp kỳ đưa ngay thánh giá về Thiên Địa Nhất Gia Xuân, tự mình nấu nướng sơn hào hải vị, hầu hạ lo liệu ăn uống chu tất để cho ngài an lòng điều dưỡng bệnh hoạn. Ý quý phi ngầm bảo An Đắc Hải ở bên ngoài bất cứ có chuyện gì cũng không được thông báo vào trong.




Ấy cũng vì vậy nên Hạnh Hoa Xuân, Mẫu Đơn Xuân chỉ gặp hoàng đế được cỏ một hôm rồi từ đó cách tuyệt không còn được gặp lại nữa.




Mãi đến tháng năm, hoàng đế mới bình phục hẳn và thân thể mới thấy khỏe mạnh trở lại. Ngài thường tản bộ hóng mát hết vườn nọ tới vườn kia, nhớ lại thuở nào phi này tẩn nọ.




Ngài cao hứng liền truyền cho triệu hết lại, rồi xuống chỉ mở yến tại nhà Thanh Thuỷ Trạc Anh thất.




Bọn phi tần đã từ lâu không được gặp hoàng đế, tự nhiên cảm tình đâm nhạt không dám nói năng gì nhiều. Duy chỉ có mỗi một mình Ý quý phi cậy mình dược hoàng đế sủng ái, lúc nào cung xun xoe nũng nịu trước mặt ngài, khi cười lúc nói chẳng còn để cho ai chen chân vào nữa. Mọi việc, mọi chuyện của hoàng đế, nàng giành lấy mà làm hết. Nàng cũng cậy mình sinh hoàng tử không thèm chơi với nàng phi cô tần nào nữa, họ đối với nàng có còn giá trị gì nữa đâu. Phía ngoài có vị đại thần quân cơ nào dâng sớ vào cho hoàng đế xem, nàng qua mặt hết chẳng cho hoàng đế biết tí gì. Nàng bảo họ:




- Ấy chớ! Hoàng thượng đang uống rượu mua vui. Chớ có đưa vào, làm rộn ngài, phải tội chết!




Thế là anh đại thần, tiểu thần nào cũng co vòi hết, bố bảo cũng chẳng dám nói thêm, chỉ còn nước ném tập sớ lại ra về, lòng phân vân chẳng biết giải quyết quân quốc trọng sự ra sao!




Ý quý phi lại còn âm mưu với tên thái giám tổng quản An Đức Hải giả mạo ý chỉ của hoàng đế phê toẹt vào tập sơ rồi trả lẹ ra ngoài.




Cách ít hôm hoàng đế toạ trào. Ý quý phi lúc đó mới đem việc phê vào tờ sớ tâu lên. Ngài tuy lòng không vui mừng chỉ vì quá yêu nên chẳng tiện nói ra. Thấy hoàng đế chẳng nói gì mình trong những trường hợp như vậy, nàng tiến thêm một bước, cứ mỗi khi thấy bọn đại thần vào bàn việc triều chính với hoàng đế, nàng cũng cố mon men tới ngồi lỳ một bên nghe ngóng, nhiều khi đưa đại ý kiến của mình ra. Đã thế hoàng đế tính lại lười, chẳng muốn để ý tới nhiều chuyện, do đó có nhiều bản sớ tâu lên, ngài đều bảo Ý quý phi xem xét rồi phê giùm trả về. Thế là từ đó Ý quý phi đã có thể để can dự vào triều, chính và nghe ngóng được mọi chuyện xảy ra bên ngoài rồi.




Đã có năm ba tên tay chân giảo hoạt lẹ làng chạy vạy xoay tiền nhờ thế lực của Y quỷ phi. Chúng đi đúng đường do An Đắc Hải vạch ra để đưa tiền về hiếu kính Ý quý phi.




Một mặt nàng lượm tiền bạc của ngoại nhân đưa vào, một mặt bao biện hết mọi việc trước mặt hoàng đế.




Hàm Phong hoàng đế về sau cũng biết sự tệ hại đó của Ý quý phi, nhưng phải cái ngài ốm quá, yếu quá chẳng còn chút hơi sức nào để gắng gượng xem sớ nữa. Do đó cứ môi lần có chuyện đại sự cần giải quyết ngài lại cho mời Hiếu Trinh hoàng hậu và cho gọi viên đại thần vào tâu rõ, để bà ngồi trong rèm hỏi han tự sự. Cũng có khi Hậu bận việc không tới được thì ngài lại cho Ý quý phi ngồi cạnh đọc tờ sớ cho mình nghe để giải quyết. Chưa hết, ngài còn tìm hai vị: Thuần thân vương và Cung thân vương vào trong vườn Viên Minh để giúp ngài giải quyết mọi việc quốc sự.




Đã có lúc hoàng đế ngồi nhàn đàm với vị thân vương Thuần Cung, Ý quý phi bất chấp cả tỵ hiềm, kiêng kỵ, ngồi chễm chệ một bên để góp chuyện.




Thấy Thuần thân vương mặt mày bảnh bao, tuổi lại còn trẻ mà goá vợ, nàng bèn thỏ thẻ với hoàng đế làm mai, đem cô em gái mình là Dung Nhi gả cho vương.




Thuần thân vương thấy đó là lệnh của hoàng đế, đâu dám không theo. Thế là từ đó trong thì có mình, ngoài thì có em, Ý quý phi cùng Dung Nhi chẳng khác chi con giăng con mồi liên lạc chặt chẽ với nhau, để xoay trở ngoài tài lợi, còn cả đến quyền hành triều chính nữa là đằng khác.




Ý quý phi tuy khôn khéo kết bè lập cánh rộng rãi khắp nơi, thế mà vẫn không kéo được hai vị đại thần quan trọng là Cung thân vương và Túc Thuận. Hai vị này tuyệt nhiên không quan hệ với Ý quý phi, trái lại còn khuyên can Hàm Phong hoàng đế chớ để cho nàng can dự vào triều chính.




Hàm Phong hoàng đế đã biết Ý quý phi gian hoạt bất trắc lắm, nhưng phải cái yêu quá hoá mê, thành thử không thể cấm đoán nàng một cách dễ dàng. Hơn nữa nàng dự chính từ lâu đã quen rồi, ngựa quen lối cũ khó có thể sửa đổi được tính nết. Hàm Phong hoàng đế muốn tránh nàng, nhiều lần nhờ Hiếu Trinh hoàng hậu giúp mình, nhưng hậu lại quá kém, ăn nói lúng túng chẳng ra sao mỗi khi có việc do đại thần tâu lên. Trái lại nếu nàng bên cạnh thì mọi việc được giải quyết mau lẹ, rành mạch, không việc gì là không xong xuôi trôi chảy. Ngoài ra nàng hình như còn có một cái oai lạ lùng, khiến bọn đại tuần đều tự cảm thấy e ngại sợ hãi.




Lâu dần về sau Ý quý phi cậy mình có tài, càng ngày càng kiêu hãnh ngang ngược. Hiếu Trinh hoàng hậu cũng muốn sửa tính đổi nết cho nàng, nhưng lại phải cái mặc cảm kém tài, nên nhiều lúc đành im lặng ngồi nhìn.




Mùa xuân năm đó, trong cung chiếu lệ tổ chức đưa rước thuyền rồng. Hàm Phong hoàng đế đưa bọn mỹ nữ cung tần, quý phi, hoàng hậu lên ngồi trên thuyền dự yến xem rước.




Thực ra hồi này, vì vẫn chưa được mạnh hoàn toàn nên ngài chỉ đem một mình Hiếu Trinh hoàng hậu ngồi riêng trên một chiếc thuyền nhỏ từ từ bơi lượn. Trên bờ, thấy thuyền rồng lững lờ trong hồ, mọi người đồng thanh hô lớn ba tiếng "An lạc độ" (trẩy yên vui: đây là tiếng hô cầu chúc nhà vua đi thuyền được yên ổn vui vẻ). Nguyên lai, trong cung Thanh có cái lệ là hễ hoàng đế đi thuyền, khi ra khỏi bến thì bọn cung nữ đứng trên bờ đều phải đồng thanh hô lớn ba tiếng "An lạc độ" mãi đến khi cặp bến bờ kia mới ngừng hẳn tiếng hô. Tục lệ có tính mê tín dị đoan khiến kẻ thức giả chẳng thèm để ý tới làm chi, nhưng hai bên bờ có đến mấy ngàn cung tần, mỹ nữ đồng thời cất tiếng oanh giọng én, thử hỏi làm sao lại chẳng gây được hào hứng cho mọi người.




Chính thế! Hoàng tử Đái Thuần, tuổi còn nhỏ, ham vui, càng lấy làm khoái khi nghe thấy hô, cũng nhảy nhót hô theo.




Ý quý phi dắt tay Thuần tới làm quen với đám phi tần cung nữ, rồi cùng ngồi trên một chiếc thuyền riêng du ngoạn. Nàng được tin hoàng đế mở tiệc tại Ánh Thuỷ Lan Hương liền kéo cả đám tới nơi đây chờ đợi.




Ánh Thuỷ Lan Hương là một khu đất sát ngay cạnh hồ, phía trước cột ba chiếc thuyền rồng còn có rất nhiều thuyền nhỏ đậu sát ngay hông. Ý quý phi hồi nhỏ vốn ở miền Hoa Nam, học được cách chèo thuyền rất thạo.




Yến tiệc đã xong. Ý quý phi thấy chiếc thuyền nhỏ xinh xinh đậu sát bên bờ, nàng bỗng động lòng nhớ tới nghề mọn thuở xưa, liền nhảy lên cầm chèo. Hàm Phong hoàng đế vụt nhìn xuống hồ thấy nàng, miệng ngài nói: "Tuyệt lắm" rồi ngài gọi: "Để cho trẫm cùng đi với". Ý quý phi thấy hoàng đế cũng hứng chí muốn đi, vội lái lẹ thuyền quay vào bờ đón ngài bước xuống.




Không ngờ Hàm Phong hoàng đế vừa bước xuống thuyền, chân chưa đứng vững thì thuyền đã xô ra. Vốn yếu đuối lại vừa khỏi bệnh, người chưa khỏe hẳn, chân chưa vững mạnh, thuyền tròng trành, ngài bỗng nghiêng đi, rồi bắn tung ra mạn thuyền, rơi tõm xuống nước.




Những tiếng hô "cứu" thốt từ trên bờ đến lạc cả giọng. Bọn thái giám, cung nữ xôn xao cuống cuồng. Họ chạy lên rồi lại chạy xuống, chạy xuống rồi lại chạy lên, ra sức gào "cứu". Trên bờ, dưới hồ, khắp tứ phía chưa đầy chớp mắt đã biến thành y như một cái chợ cháy vô cùng hỗn loạn.




Hiếu Trinh hoàng hậu đang ở trong nhà, được tin cấp báo, vội vàng chạy ra xem, lòng hoảng sợ đến cực điểm… May được cái nước sát bờ, phía dưới lại có bậc đá xây thành kè dài.




Ấy chính nhờ cái kè này, mà khi rớt xuống nước, hoàng đế đã bám cứng được một cục đá, vẫn thò được cái đầu và đôi vai lên, chi có phần dưới mình từ ngực trở xuống chìm hẳn trong nước mà thôi.




Bảy, tám tên thái giám nhất tề nhảy ùm xuống hồ như một lũ nhái luống cuống ghé vai công kênh hoàng đế lên bờ, mình ướt như chuột lột. Hoàng hậu bước quýnh quýnh trên bờ tay bắt chuồn chuồn, miệng há hốc, mặt xám ngoét lại, chẳng biết xám vì sợ hay vì giận.




Hàm Phong hoàng đế vừa được đưa lên bờ thì hoàng hậu đã hò hét ầm lên, bắt bọn thái giám khiêng ngay ngài vào một căn phòng xông hương thơm ngát gần đó để thay đổi áo quần, một mặt quát bảo mấy tên thái giám khác bắt ngay Ý quý phi tông vào Vĩnh Hạng nhót lại để chịu tội.




Hàm Phong hoàng đế vốn ốm yếu lâu ngày, chưa được bình phục hẳn, nay lại bị một cơn hoảng, nào ướt nào lạnh, bất giác bệnh cũ phát lại dữ dội. Hiếu Trinh hoàng hậu suốt ngày đêm thuốc thang hầu hạ bên cạnh, chẳng được lúc nào thư thái tâm thần. Ôm một lèo mãi tới lúc sang thu, hoàng đế mới dần dần khỏe lại.




Vua và hậu thì như thế, Ý quý phi càng thiểu não hơn. Bình nhật nàng hống hách vênh váo biết bao, thế mà nay đành khoanh tay ngồi nhà đá đã bốn, năm tháng trường, thử hỏi còn mong chì tìm lại được thời và thế của ngày nào? Lũ hoạt đầu cầu danh móc lợi đã từng khúm núm hầu hạ nàng bấy lâu nay, thấy nàng sa chân lỡ bước thất thế kẹt vận, đã chẳng những không chút động lòng từ tâm, trái lại còn nhờ gió bẻ măng, chết đuối đạp thêm.




Túc Thuận chống đối Ý quý phi từ lâu, Thuận ngầm thông với bọn cung nữ hầu hạ nàng, cố ý tới cáo mật với Hiếu Trinh hoàng hậu nói nàng ở Vĩnh Hạng suốt ngày oán giận hoàng thượng. Ghê gớm hơn nữa nàng còn dám dùng bùa chú Mãn Châu để thư ếm hoàng thượng nữa.




Hiếu Trinh hoàng hậu nghe xong vội tới Vĩnh Hạng gặp ý phi, hậu nói:




- Nàng hãy tạm thời yên tâm chờ đợi. Đợi ít hôm nữa hoàng thượng vui vẻ, ta sẽ giúp nàng cầu xin ân điển của ngài tha cho nàng ra.




Hậu chỉ nói ra có thế, vậy mà không hiểu tại sao cái chuyện trù ếm hoàng đế của Y phi lọt đến tai Hàm Phong hoàng đế.




Ngài bất giác nổi cơn thịnh nộ. Khéo thay Túc Thuận lúc đó đứng cạnh. Ngài hỏi Túc Thuận:




- Ý trẫm muốn truất phế Lan quý phi cho nàng tự tận, khanh nghĩ thế nào?




Thuận giật mình đánh thót một cái, vội quỳ xuống đất đập đầu tân:




- Nô tài chẳng dám can dự vào việc trong cung cấm!




Câu chuyện này truyền tới tai Hiếu Trinh hoàng hậu. Hậu vội vàng chạy tới gặp hoàng đế, đem hết tâm lực biện hộ cho Ý quý phi. Hậu nói:




- Những chuyện đó bất quá chỉ là do bọn người ganh ghét nàng đặt điều phao nhảm đó thôi. Thần thiếp cũng thường khi tới gặp nàng thấy nàng tỏ ý hết sức cung thuận, tự biết lỗi mình và hối lôi nhiều lắm, thần thiếp dám xin thay nâng cầu xin hoàng thượng ban cho ân điển tha tội cho nàng. Bị giam trong lãnh cung lúc nào cũng tưởng nhớ tới hoàng thượng. Nàng khóc lóc ngày đêm, tình cảnh thật là đáng thương hết sức.




Hàm Phong hoàng đế vừa nghe lời Hiếu Trinh hoàng hậu cầu xin ân điển, vừa nghĩ tới việc ý quý phi sinh cho mình một mụn hoàng nam, nhất thời không thể bỏ danh hiệu Phi tử của nàng. Thế là cơn thịnh nộ của ngài dần dần tiêu đi lúc nào không biết. Hiếu Trinh hoàng hậu lại cứ ở bên cạnh cầu xin ân điển. Cuối cùng ngài nể mặt hoàng hậu đại xá cho Ý quý phi và truyền lệnh phóng thích nàng ra khỏi lãnh cung.

Hồi 139 Vua sợ chạy đi Nhiệt Hà




Lại nói Diệp Danh Thám gây chuyện rối rắm tại Quảng Đông, khiến các nước Tây phương liên quân đã đánh phá thành Quảng Châu lại còn điều động hải quân tiến bức Kinh, Tân (Bắc Kinh và Thiên Tân). Thanh triều phải phái hai đại thần Quế, Hoa tới giảng hoà, bồi thường cho họ đến bảy, tám trăm vạn lạng bạc mới hy vọng cuộc chiến tranh nguội đi được.




Trong hiệp ước giảng hoà có khoản nói rõ là sau khi thanh toán khoản tiền bồi thường thì Liên quân phải trả thành Quảng Châu lại cho Trung Quốc. Thế nhưng liên quân chiếm đóng Quảng Châu luôn tới nay đã hai trăm năm rưỡi mà vẫn ở lỳ, tuyệt nhiên chẳng có ý gì trao trả.




Sự kiện này làm cho một tay anh hùng yêu nước rất lấy làm giận, bấy lâu hậm hực trong lòng không lúc nào nguôi.




Tay anh hùng đó là viên đầu mục Đoàn luyện binh ở trấn Phật Sơn. Viên đầu mục nọ cho rằng chuyện tai vạ mất Quảng Châu đều là do tên lãnh sự nước Anh là Ba Hạ Lễ mà ra, khiến nỗi Trung Quốc phải chịu nhục quốc thể cắt đất bồi thường. Y bèn ra một cáo thị trong quảng đại quần chúng xin đem một ngàn lạng bạc tiền thưởng cho bất cứ ai chặt được cái đầu lâu của tên Ba Hạ Lễ.




Ba Hạ Lễ nghe được tin này giật nảy mình đánh thót một cái, mặt mày xám ngoét lại. Hồi đó công sứ nước Anh còn ở Thượng Hải. Lễ vội vàng đánh một điện tối khẩn lên Thượng Hải bẩm cáo việc này cho tên công sứ. Nhận được tin, tên công sứ Anh quốc nổi cơn thịnh nộ liền gởi văn thư cho Quế Lương yêu cầu tâu về triều cách chức tổng đốc Lưỡng Quảng là Hoàng Tôn Hán, mặt khác buộc Lương phải giải tán ngay tổ chức Đoàn luyện.




Quế Lương chẳng biết làm cách nào chỉ đành một mặt trả lời tên công sứ Anh quốc, một mặt kiểm điểm lại điều ước tạm thời không thay đổi. Bọn ngoại quốc thấy Lương không chịu thay đổi điều ước, cho rằng Lương không có chút nào thành ý giảng hoà; thế là tàu binh nước Anh có dịp kéo nhau vào Tràng Giang diễu võ dương oai, suốt một dọc từ Thượng Hải tới mãi Hán Khẩu. Bọn Pháp bắt chước tụi Anh cũng cho quân đi khắp nơi xông xáo khiêu khích. Đã phá phách quấy rối, cướp bóc hiếp đáp, tụi Pháp lại còn ngang nhiên cho bọn cố đạo đi khắp nơi xây cất nhà thờ đạo Thiên chúa. Bọn quan địa phương sợ quá, đâu có dám sờ đến lông chân mấy ông cố đạo, chứ đừng nói tới đem lý luật ra mà ngăn cản.




Nhưng giữa cái đám quan hèn ấy bỗng xuất hiện một vị Mã thân vương tên gọi Tăng Cách Lâm Bật không chịu hèn.




Ông thấy bọn ngoại quốc láo xược, ngang ngược, chẳng coi ai ra gì, chịu không nổi, bèn nổi cơn thịnh nộ, viết ngay một tờ sớ tâu lên đàn hặc viên tổng đốc Trực Lệ là Đàm Đình Tương, kết tội Tương không lưu ý gì tới việc tuần phòng sông bể, đồng thời đích thân sai người tới cửa bể Đại Cô, xây đắp pháo đài và chôn một hàng cọc gỗ rào hẳn cửa bể lại. Chưa hết, muốn cho cẩn thận hơn, ông còn cho rèn những cái khoá sắt để khoá trái cả cửa sông lại.




Đến ngày hội nghị để thay đổi hiệp ước, binh thuyền các nước đều rầm rập kéo tới Thiên Tân. Bọn quan binh Trung Quốc đưa thư tới, buộc tất cả các binh thuyền ngoại quốc phải đổi hướng tới cửa Bắc Đường bỏ neo, chứ không được qua lại cửa Đại Cô.




Nhưng người Anh đâu có chịu, nhất định cho tàu chiến cứ việc xông vào cửa Đại Cô. Cửa Đại Cô đã bị xích sắt chăng kín lại khoá chặt.




Thế là người Anh khai hoả. Súng đại bác nổ ầm ầm, khoá xúc xích đứt tung, mười ba chiếc tiểu đĩnh chở nghẹt lính liên tiếp xông vào, trên mũi cắm cờ hồng, khiêu chiến với pháo đài, chĩa họng súng bắn xối xả vào pháo đài, vào các trại bộ binh trên bờ.




Vừa xáp lại gần bờ, bọn lính Anh nhảy lên bờ xông tới cướp pháo đài; súng trên pháo đài lúc này buộc phải bắn trả. Mấy chiếc tiểu đĩnh trúng đạn chìm nghỉm; mặt khác bọn lính Anh xung kích trên bờ cũng bị quân nhà Thanh giết chết đến mấy trăm tên, ngoài ra còn bắt sống thêm một viên tướng Anh chỉ huy.




Cuộc ác chiến kéo dài thêm một lúc nữa. Quân Anh bị thảm bại, chỉ còn lại có mỗi chiếc tiểu đĩnh, hoảng hốt chạy như bay ra mãi ngoài khơi. Những chiếc chiến thuyền lớn của Anh quốc, thấy quân mình đại bại, liền rút lui khỏi cửa Đại Cô kéo tới Lữ Thuận rồi Hải Sâm, quan sát địa hình địa vận rồi từ từ rút về hướng nam đi mất.




Nhân dân tỉnh Quảng Đông nghe nói người Anh đại bại, bèn vội vàng đóng tàu sửa thuyền, e rằng bọn "quy trắng" kéo lại báo thù, trong khi đó, bọn phú thương lại đi quyên tiền ba trăm vạn lạng, ngầm đưa tới cho người Anh, xin đừng gây chiến nữa.




Bọn công sứ Anh và Pháp chiếu hội với thông thương đại thần là Hà Chiết Thanh, tình nguyện giữ đúng điều ước tám năm. Thanh chỉ mong hai chữ "bình an", nhưng phải cái Hàm Phong hoàng đế tín nhiệm Tăng vương, nghe lời vương nên chẳng thèm trả lời bọn ngoại quốc về việc này, trái lại chỉ bảo Thanh cứ chiếu theo hoà ước thời Đạo Quang hoàng đế, còn truyền chỉ cho Thanh vẫn ở lại Thượng Hải để lo liệu việc nghị hoà, không được quay về bắc, ví thử có tàu binh bọn "quỷ trắng" chạy vào trọng sông thì thẳng tay tiêu diệt.




Mặt khác Tăng Cách Lâm bật huy động hơn một trăm vạn nhân công sửa sang lại cửa Bắc Đường. Về sau quả nhiên có kẻ chủ trương đưa quân địch vào cửa Bắc Đường, và leo lên bờ tại nơi đây. Hàm Phong hoàng đế lại hạ chỉ triệt thoái hết quân đội tại Bắc Đường, hàn lâm viện biên tu là Quách Tung Đào vội dâng sớ khuyên can nhà vua. Thân sĩ Bắc Đường là ngự sử Trần Hồng Dực cũng tâu xin chớ có rút quân tại Bắc Đường. Nhưng Hàm Phong hoàng đế không nghe.




Chẳng mấy hôm, một đoàn tàu nhỏ chở đầy lính Anh và lính Pháp kéo tới cửa Bắc Đường, nhổ hết nhưng cái cọc gỗ để lấy đường sửa soạn tấn công. Tên tướng Anh Ngạch Nhĩ Kim, tên tướng Pháp Át La đem hơn một trăm chiếc tàu binh đánh thốc lên bờ. Lên được bờ rồi, chúng kéo đại bác lên bắt đầu khai hoả, tiếng nổ ầm ầm. Quân Tàu hoảng hốt chẳng dám ló mặt ra, chỉ cho người tới trại quân ngoại quốc báo tới Bắc Kinh trao đổi điều ước nghị hoà.




Bọn ngoại quốc đến lúc này lâm vào tình trạng cưỡi hổ khó xuống, đời nào chiều theo. Chúng bất chấp lời đề nghị của bọn Thanh, tức tốc huy động một vạn tám ngàn Liên quân từ Bắc Đường đánh thốc vào nội địa. Vô phúc cho Liên quân gặp đúng lúc nước thuỷ triều rút xuống, khiến các chiến thuyền nằm phơi vườn trên bãi sình. Chúng sợ quân Thanh giáp công từ hai bên bờ liền treo cờ trắng bay phất phới giả bộ cầu hoà. Quả nhiên quân Thanh thấy cờ trắng không dám tấn công thực.




Nước thuỷ triều lại dâng lên ồ ạt. Những chiếc tàu Liên quân này xuất kỳ bất ý xông vào bờ đổ bộ; tiếng súng nổ ầm ầm không ngớt. Quân Thanh bị đột kích, hốt hoảng bỏ chạy tán loạn. Một vạn tám ngàn Liên quân kéo thẳng tới vùng Tân Hà.




Tăng vương chỉ huy ba ngàn quân tinh nhuệ kéo tới để chống cự. Nhưng đại bác của quân ngoại quốc quả lợi hại thật. Tiếng nổ ì ầm, đạn bay vun vút… Một trận xung kích vô cùng ác liệt xảy ra. Đáng thương thay cho ba ngàn quân tinh nhuệ của Tăng vương chết sạch, chi còn sống sót có bảy mống.




Tân Hà bị chiếm, Đại Cô trở nên nguy ngập. Hàm Phong hoàng đế vội sai đại học sĩ Thuỵ Lân đem quân Bát Kỳ từ kinh đô ra Thông Châu phòng thủ.




Quả nhiên Liên quân sau khi đại thắng kéo tới bức Đại Cô nhè trúng pháo đài ở ngạn bắn trước. Đạn đại bác bay lên bờ vô phúc trúng ngay vào kho thuốc súng của quân Thanh.




Một tiếng nổ long trời lở đất, xé tan cả một bầu trời đầy mây hôm đó. Rồi trong nháy mắt, ngọn lửa bốc lên cao muôn trượng.




Khói đen toả ra khắp bốn phía, cả một toà pháo đài rộng lớn bị thần hoả ngấu nghiến chẳng đầy một buổi, chỉ còn trơ lại mấy bức tường đất lộn gạch cháy xém chênh vênh. Quân lính chết chẳng biết bao nhiêu, chỉ cần biết hôm đó, đề đốc Lạc Thiện đã bị cháy còng queo trong đống thuốc pháo như con bò thui.




Tăng vương lúc đó đóng quân tại nam ngạn thấy cơ nguy khủng khiếp như vậy vội lui quân về Thông Châu, cắm tại vịnh Trương Gia. Vương thấy Thiên Tân xem chừng khó giữ, vội cho chạy văn thư cáo cấp về kinh như bươm bướm.




Hàm Phong hoàng đế xem sớ giật mình thon thót, lòng nóng như lửa đốt, bất giác bệnh cũ lại tái phát. Ngài chỉ còn có một cách sai Quế Lương tới Thiên Tân đề nghị hoà.




Quế Lương tống đạt dấy chiếu hội tới dinh công sứ Anh. Viên công sứ Anh hồi thư cho Lương biết, phải tăng thêm khoản bồi thường mở cửa Thiên Tân cho người ngoại quốc vào buôn bán. Còn, một điều nữa là phải để cho quân ngoại quốc kéo tới Bắc Kinh để trao đổi điều ước.




Hàm Phong hoàng đế trong lúc bệnh hoạn tính tình hết sức khó chịu. Ngài nghe nói bọn quỷ trắng muốn kéo binh vào kinh, hơn nữa tên sứ thần nghị hoà lại là tên Ba Hạ Lễ ngày nọ, thì tức bực khôn tả liền hạ chỉ cự tuyệt thẳng tay.




Hàm Phong hoàng đế nghe lời Hiếu Trinh hoàng hậu cho người cấp tốc về Hà Nam triệu hồi ngay Bảo Thắng về kinh và hạ lệnh đem một vạn cấm binh tới Thông Châu giao chiến với quân giặc, mặt khác, truyền cho Di thân vương Tải Viên mở một bữa tiệc cho mời bọn công sứ Anh Pháp tới dự.




Rượu được mấy tuần, Viên đưa ra việc nghị hoà. Ba Hạ Lễ lớn tiếng đáp:




- Nếu muốn nghị hoà mà không cho gặp mặt hoàng đế Trung Quốc thì nhất định không được. Ngoài ra, Thanh triều phải để cho mỗi nước đem hai ngàn quân kéo vào Bắc Kinh, lúc đó mới khai hội.




Điều kiện gay cấn như vậy thử hỏi Tải Viên làm sao mà chấp nhận được, đành phải trả lời là hỏi ý kiến triều đình lại rồi mới trả lời dứt khoát được.




Ba Hạ Lễ thấy Di thân vương không tự quyết được vấn đề, từ đó không thèm nói năng gì nữa, mặc cho vương cười nói lấy lòng chi cũng mặc kệ, nhắm mắt giả ngáy khò khò trên giường. Tải Viên cụt hứng, chẳng còn cách gì hơn, đành lủi thủi ra về như chó cụt đuôi.




Qua ngày hôm sau, quân tình phi báo về. Kinh càng vô cùng nguy ngập: quân của Bảo Thắng ở Thông Châu đại bại, quân của Tăng Thuỵ cũng thua lớn. Tướng Anh Ngạch Nhĩ Kim chỉ huy quân quỷ trắng đang ùn ùn kéo vào kinh thành.




Toàn thể thành Bắc Kinh được tin động trời này chỉ trong nháy mắt đã biến thành nồi nước sôi. Đại học sĩ Đoàn Hoa cùng thượng thư Túc Thuận thấy tình thế quá nguy quá gấp, đang đêm vội chạy vào vườn Viên Minh xin bệ kiến hoàng đế.




Hàm Phong hoàng đế lúc này bệnh tình đã nặng lắm. Bên cạnh ngài có Hiếu Trinh hoàng hậu lo lắng nâng giấc. Trong phòng bên có Ý quý phi lo liệu thuốc thang.




Bỗng có tin Đoan Hoa và Túc Thuận xin vào bệ kiến. Hoàng đế nằm trên giường bệnh liệu rằng việc lớn bên ngoài có phần chẳng lành, mặt bỗng trắng bệch ra như tuyết, tay chân run lên bần bật.




Hiếu Trinh hoàng hậu một mặt truyền gọi ngự y vào xem mạch hốt thuốc, một mặt cho hai vị đại thần vào gấp long sàng hỏi chuyện.




Túc Thuận liền đem hết tình hình chiến sự bên ngoài kể lại đầy đủ và tâu tiếp:




- Hiện nay thế giặc quá mạnh: hoàng thượng vốn thân vạn thắng, nên sớm liệu xuất thủ, tới một chỗ an toàn nhất mới nên.




Hàm Phong hoàng đế, cất tiếng run run bảo:




- Hiện nay trời còn tối, Trẫm lại bệnh, thân thể hết sức mỏi mệt, chạy tới đâu bây giờ được?




Thế là cả bọn quay lại bàn tính một hồi. Cuối cùng Hiếu Trinh hoàng hậu quyết đoán việc này lên tiếng:




- Chi bằng bọn ta kéo đi Nhiệt Hà!




Hàm Phong hoàng đế nghe xong cũng gật đầu cho là phải.




Bọn ngư y lúc này cũng còn ngồi nơi đây, liền chạy lại tâu xin hoàng thượng uống máu hươu để tinh thần thêm sảng khoái hơn, khí lực mạnh mẽ hơn.




Thế là mấy tên thái giám vội chạy ra ngoài đi tìm hai con hươu chọc huyết lấy máu đem tới, hơi nóng còn bốc lên nghi ngút.

Hồi 140 Đốt cháy vườn Viên Minh




Hàm Phong hoàng đế tiếp chén huyết uống một hơi cạn, quả nhiên thấy trong mình lập tức khỏe mạnh hẳn lên, tinh thần cũng hăng hái hơn. Ngài bèn truyền dụ cho Cung thân vương ở lại giữ kinh sư, mặt khác sai Túc Thuận thống lãnh quân ngự lâm bảo vệ Hoàng gia lên hành cung Nhiệt Hà, còn Đoan Hoa thì lo liệu mọi việc ở trong vườn Viên Minh.




Tin này vừa quyết xong thì truyền vội ra ngoài. Vườn Viên Minh đang yên tĩnh bỗng trở thành sôi động chưa từng thấy. Nào ngựa hí nào lừa chạy, nào oanh la nào én kêu, tất cả vùng lên như một tổ ong vỡ.




Hàm Phong hoàng đế đến lúc này cũng chẳng còn lo được gì nhiều. Ngài chỉ còn biết gượng bước ra sân, lật đật mãi mới lên được cái xe che lọng vàng đậu trong vườn.




Túc Thuận vội chạy ra mở cửa vườn cho xe ra. Bốn chiếc xe đã chuẩn bị sẵn sàng, trong trải một chiếc chiếu lác. Chiếc xe đầu do Hiếu Trinh hoàng hậu ngồi, tay bế hoàng tử Đái Thuần. Còn ba chiếc xe kia thì bọn phi tần tranh nhau leo lên, ngồi chen chúc như nêm cối, đến nỗi mỗi cái phải chứa đến năm, sáu cô, vẫn chưa hết, khiến cô nào cô nấy bại cả đít, tê cả vai mà cứ phải chịu đựng. Nhưng kẻ đáng thương nhất có lẽ là Ý quý phi. Bình nhặt trong cung cấm vàng son lộng lẫy, nàng được sung sướng như thế nào, mền ấm nệm êm như thế nào, vậy mà nay đêm khuya khoắt phải bỏ vườn trốn chạy, chịu đựng hết mọi gian lao khổ cực. Người ta đã thấy nàng rên rỉ âm thầm, giọt lệ tầm tã trong chéo khăn.




Bọn được ngồi xe quả đã là phúc lắm, còn một đám đông phi tần không có xe, đành phải lê bước theo, kẻ khóc người mếu, lẽo đẽo thành một cái đuôi dài mờ dần trong đêm tối. Trong số này, cũng có năm ba cô, lâu nay đối tốt với bọn thái giám, đến lúc không đi được, nhờ chúng cõng cho từng chặng đường. Rồi đi dọc đường may thay mướn được mấy cái xe bò, cho cả bọn leo lên đầy, nghe cút kít, ục ịch cùng cả đường.




Ý quý phi trải qua một đêm hãi hùng ngoài sương gió trong chiếc xe bánh lăn lọc cọc trên con đường gồ ghề khi hất lên, lúc nhồi xuống, khiến tóc tai nàng đã bù lại bù thêm, trán đã dơ dáy còn bị chạm vào thùng xe sưng húp. Nàng xúc động can tràng; thương tâm quá, bất giác nàng khóc lên hu hu. Tình cảm đã thê lương, tiếng khóc của nàng chen lẫn những tiếng nức nở rền rĩ của bọn phi tần bên cạnh còn làm tăng thêm nỗi niềm sầu thầm cho một ông vua mắc bệnh nặng chạy loạn.




Trời bắt đầu sáng, Ý quý phi thấy Túc Thuận đuổi tới một đàn lừa ngựa, và đã đến sát bên cạnh xe. Đến lúc này, nàng chẳng còn e dè gì nữa, vội tháo bức rèm xe, lớn tiếng gọi:




- Lục gia! Lục gia! Xe tôi hỏng rồi. Nhờ Lục gia thay giúp cho tôi một cỗ xe khác được không?




Lời nói còn chưa dứt, mắt nàng đã thấy rưng đôi dòng lệ. Thuận giữa lúc xua vội đàn lừa ngựa tiến gấp lên trước đuổi kịp hoàng đế, bỗng nghe Ý quý phi gọi, liền quay lại đáp:




- Giữa đường giữa sá, còn tìm đâu ra xe tốt nữa chứ? Ta cố đi tới phía trước, nghỉ một lát đỡ mệt rồi hãy hay!




Vừa nói xong, Thuận đã ra roi cho ngựa vọt lên. Quả nhiên có một thị trấn thật! Đoàn người ngựa dừng lại nghỉ mệt.




Ý quý phi nhìn quanh bốn phía, không thấy Túc Thuận liền hỏi tên thái giám ngồi cạnh, mới biết Thuận đang tâu trình mọi việc trước mặt hoàng đế. Đợi cho Thuận tâu xong, nàng lết tới bảo Thuận cố tìm cho mình một cỗ xe. Nhưng Thuận nghe xong lắc đầu quầy quậy bảo:




- Bà có biết lúc này là lúc nào không? Tôi làm gì còn thì giờ để làm những việc đó cho bà nữa chứ!




Qua ngày hôm sau, Ý quý phi lại gặp Túc Thuận. Nàng không còn đủ sức để chống nổi cảnh vất vả khổ cực trên chiếc xe ọp ẹp long bánh mất đinh này được nữa. Miệng vừa khóc vừa xin Thuận thay cho chiếc xe. Thuận nghe xong, mặt bỗng sa sầm, nghiêm giọng nói:




- Lúc này là lúc anh em chạy loạn, chứ đâu phải ngày thường. Giữa lúc thâm sơn cùng cốc này, mướn xe tốt đâu được mà mong. Xin quý phi an phận mình là hơn. Còn được ngồi trong một cỗ xe hỏng lúc này, kể cũng là may lắm rồi đó! Quý phi không thấy bên cạnh đường còn thiếu gì quý nhân, cung nữ bỏ chạy theo xe, miệng mếu lệ rơi đó sao? Trong chiếc xe hỏng, quý phi đã thấy các phi tần đều chịu một tình cảnh đó sao? Không một ai đòi xe mới cả, chỉ duy mình quý phi là hạng người gì mà dám đòi sướng hơn hết cả mọi người?




Mai mỉa mấy câu xong, Túc Thuận lại quất ngựa đánh trót một cái, cho ngựa nhảy vọt lên trước. Ý quý phi chẳng biết cách nào hơn, chỉ còn nước nghiên răng trợn mắt chửi thầm:




- Tên gian tặc cả gan thật! Chỉ vài hôm nữa mi sẽ biết tay ta.




Ít hôm sau đoàn người nào hoàng đế, hoàng hậu nào phi tần hoàng tử, cung nhân đã tới được Nhiệt Hà vào trú tại hành cung. Hàm Phong hoàng đế một mặt truyền dụ cho Cung thân vương mở cuộc nghị hoà với bọn tướng soái Liên quân càng sớm càng tốt, mặt khác vẫn hạ lệnh cho hai lộ quân của Tăng và Thuỵ cố thủ các nơi hải khẩu.




Đối với tên tướng giặc Ba Hạ Lễ, không còn có ai có thể ghét hơn Tăng vương. Bởi vậy Tăng vương nghĩ mãi mới ra một kế sách hòng diệt tên quỷ trắng này. Vương cho đặt một bữa tiệc mời Lễ tới dinh, rồi hô phục binh bắt Lễ giam vào tu xa, đưa tắp về kinh nhốt kỹ.




Viên công sứ Anh thấy mất Ba Hạ Lễ, lòng vô cùng tức giận, buộc Cung thân vương phải trả gấp. Mặt khác, Bảo Thăng cũng truyền hịch khắp miền Giang Nam gọi quân binh chiến đấu cần vương.




Chỉ ít hôm sau tướng bộ hạ của Tăng vương là Bào Siêu, tướng bộ hạ của Viên tướng quân là Trương Thăng đồng thời cả Đoàn luyện tỉnh An Huy là Miêu Bái Lâm đều rầm rập kéo binh về kinh để ứng phó với tình thế.




Bọn ngoại quốc thấy quân Thanh kéo về quá nhiều, cũng lấy làm ngại, đành chịu chiếu hội với Cung vương, yêu cầu vương trao trả Ba Hạ Lễ trong ba ngày. Nhưng vương không chịu, vương buộc quân Anh Pháp phải lui quân về Thiên Tân trước đã, rồi sau đó mới mở cuộc hoà hội.




Viên công sứ Anh không trả lời yêu sách này. Cung vương chẳng biết cách nào hơn, bèn cho người lên hành cung tại Nhiệt Hà, tâu với Hàm Phong hoàng đế, nói rằng ngoại nhân hết sức cường mạnh ngoan cố.




Hàm Phong hoàng đế thân thể vốn bệnh hoạn lâu ngày, lại thêm cảnh chạy loạn, ngày đêm trúng phải phong hàn, bởi thế khi tới Nhiệt Hà bệnh tình của ngài càng thêm trầm trọng.




Muốn bảo toàn sức khỏe cho hoàng đế, Hiếu Trinh hoàng hậu gác hết mọi chuyện bên ngoài, nào chuyện loạn tóc dài, chuyện bọn cướp bể thổ phỉ, nào chuyện Liên quân đang bức bách kinh thành. Mọi việc đại sự đều do Cung thân vương tiện nghi hành sự tại kinh đô, còn những việc nhỏ thì đích thân bà phải tự coi lấy các bản sớ hằng ngày để giải quyết, cùng với hai vị đại thần là Đoan Hoa và Túc Thuận. Nhân Ý quý phi giải quyết công việc có vẻ lẹ làng sáng suốt, khẩu tài, chữ viết lại lẹ và tốt, hoàng hậu bèn cùng gọi nàng tới, giúp một tay để lo việc triều chính. Nhiều khi gặp những chuyện khó khăn nghi ngại, Ý quý phi một lời quyết đoán. Nhờ thế mà Hàm Phong hoàng đế mới được tiêu diêu tự tại, tĩnh tâm điều dưỡng.




Bọn ngự y cũng theo hoàng đế tới đây, hằng ngày chẩn mạch hốt thuốc. Mấy trăm con hươu nuôi trong vườn Viên Minh trước đây nay cũng cho đưa lên đây hết.




Hằng ngày Hàm Phong hoàng đế đều có uống máu hươu, nhờ đó thân thể ngài ngày một khang kiện, mặt mũi sáng sủa tươi tắn hơn xưa nhiều. Bên cạnh ngài có viên thái giám An Đắc Hải phục thị hằng ngày không rời bước. Nhiều hôm Hải còn đưa hoàng đế đi khắp đó đây trong hành cung du ngoạn nữa.




Hành cung Nhiệt Hà tuy toạ lạc miền Bắc xa xôi hoang lương cô tịch nhưng từ đời Càn Long, Gia Khánh đã được sửa sang xây cất lại, cũng có đủ nào đào liễu cỏ hoa, nào yến oanh đua hót líu lo. Hàm Phong hoàng đế thấy phong cảnh cũng nhiều chỗ nên thơ, bỗng sinh lòng cảm khái, ngài nhớ lại cái cảnh huy hoắc tại vườn Viên Minh, biết bao phong lưu khoái lạc. Thế mà nay chỉ côn thấy có một khu vườn trống hoang lương, tuy còn có liễu xanh đào thắm, nhưng hương phấn ba cung sáu viện nay còn đâu. Cảnh xuân càng tươi mát, lòng tưởng nhớ của ngài càng mênh mang vô tận…




Hiếu Trinh hoàng hậu đã có chủ ý, nhất thiết việc triều đình đều không được cho hoàng đế hay biết, trong khi đó, sai bọn thái giám An Đắc Hải đem hết sức hầu hạ để ngài được rỗi rảnh tâm tư chóng khỏi bệnh. Ngay đến bà cũng vậy, bà thường tránh mặt hoàng đế không để cho ngài thấy mặt, sợ ngài khích động tình dục, có hại đến thân thể. Bà còn hạ lệnh cấm cả Ý quý phi và bọn phi tần không được tới gần ngài, e rằng ngài nhìn thấy bọn này, lại nhớ tới cảnh xưa khi ở trong vườn Viên Minh mà động lòng bi thương buồn bã, rồi có thể lại triệu hạnh một đôi cô, gây tai hại cho sức khỏe của ngài.




Nhưng hoàng đế sống tại hành cung càng ngày càng mạnh, dưỡng bệnh lâu ngày chẳng cỏ việc gì làm, nên buồn, nhiều lúc vào ra mà thở vắn than dài. An Đắc Hải biết rõ tâm tư của ngài hơn ai hết, bèn chạy ra ngoài hành cung, lẻn gọi vài con mặt phấn môi son vào hầu hạ đấm bóp.




Quả thật thần diệu! Bởi vì từ hôm đó hoàng đế không còn buồn nữa, ngài vui ngay lên được. Trong đời hoàng đế, ngài có bao giờ ngủ với gái mà phải lén lút đâu, ấy thế mà nay ngài phải giấu giếm thậm thụt mới dám chơi. Ở đời có cái kỳ là cái chơi càng vụng trộm lén lút thì bọn làng chơi lại cảm thấy thú vị. Trường hợp này cũng chính là trường hợp hi hữu tại Nhiệt Hà của Hàm Phong.




Chơi đã đến lúc quen mùi, ngài cảm thấy trong hành cung chơi không đã, thế là ngài nổi hứng bảo An Đắc Hải lén đưa từ ngoài vào mấy đứa nhà thổ lậu cho ngài nếm của lạ.




Nhiệt Hà vốn là nơi tứ chiếng lớn rộng xài sang, thiếu gì bọn khách thương từ quan ngoại qua lại, do đó làm sao tránh khỏi rải rác đó đây năm ba cái tổ quỷ của đám chị em ta. Thế rồi từ lúc hoàng đế xuất hạnh, văn võ bá quan cũng theo ra. Nhiệt Hà bỗng trở thành một nơi thị tứ phồn hoa vô cùng náo nhiệt.




Bọn quan lại văn võ chạy theo vua phò giá nhất thời, đâu có mang theo được bà xã bởi thế nhiều ông đã hỏi thăm nhau tới đó, mấy mụ dầu lúc này xem ra lên chân ra phết. Hèn cho bọn hèn, sang cho bọn sang, đó là quy luật của làng chơi.




Do đó trong đám chị em bình dân, người ta đã thấy xuất hiện gần đây một loại đĩ thượng hạng đang tung câu giật mấy ông lớn xa bà xã. Đây chính là đám chị em đánh hơi tiền từ Thiên Tân, Bắc Kinh chạy lên.




Chính ở mấy cái tổ quỷ hạng sang này, Hàm Phong hoàng đế thường lui tới biểu diễn cái trò phong lưu mã thượng vốn có từ nhỏ trong cung cấm! Hàm Phong hoàng đế ốm yếu đã từ lâu, thân thể tuy nói là bình phục chứ thực chưa phải khỏe mạnh hoàn toàn. Ấy thế mà nay ngài thả cửa ngày đêm ăn chơi trác táng cho nên chẳng bao lâu thân thể ngài lại bắt đầu còm cõi, đôi vai ngài xọp lại, xương sống ngài gồ lên, hình như hơi sức ngài đã xuất hết tự bao giờ.




Mùa thu sang, heo may đã bắt đầu len đến. Hàm Phong hoàng đế bỗng thổ huyết ra đầy nhà. Hiếu Trinh hoàng hậu cũng như văn võ bá quan khắp triều hoảng hồn bạt vía, chẳng biết đường nào mà lần, chỉ còn cách gọi ngự y vào bắt mạch hốt thuốc, lo lắng điều trị mà thôi.




Nhờ thuốc tốt, chứng thổ huyết ở ngài đã hết nhưng thân thể ngài gầy còm ngày một trông thấy. Chính Hàm Phong hoàng đế cũng tự biết mình vô dụng rồi, cho nên ngài cho truyền Hiếu Trinh hoàng hậu và Quý phi tới bên giường ngày đêm hầu hạ bầu bạn. Ngài cũng hỏi tình hình chiến sự của Liên quân Anh Pháp ra sao. Hiếu Trinh hoàng hậu lúc đầu khuyên ngài bất tất nhọc lòng tìm hiểu mà chỉ cần ngày đêm lo dưỡng bệnh, nhưng phiền nỗi ngài cứ khăng khăng một mực muốn biết, bắt đem các bản sớ tấu về cho xem.




Hiếu Trinh hoàng hậu không còn cách gì cản ngăn được nữa, bèn đưa cho ngài xem cả một tập sớ dày cộm về vụ này. Ý quý phi có nhiệm vụ ngồi ngay trước giường bệnh lớn tiếng đọc lên cho ngài nghe. Lúc đó ngài mới cược biết Cung thân vương đã hội thương với sứ thần các nước, đổi nơi hội nghị sang Thông Châu, nhưng bọn quỷ trắng ngoại quốc không thèm trả lời.




Hàm Phong hoàng đế liền hạ nghiêm dụ xuống dặn Cung thân vương không được làm gì mất thể diện triều đình. Do đó Cung thân vương không dám liều lĩnh nghị hoà. Thế là hai bên giằng co mãi không đi tới quyết định nào. Liên quân Anh Pháp nổi khùng lên, lập tức xông vào tấn công Hải Định.




Cấm vệ quân canh gác hai bên tả hữu hoàng cung thấy bọn lính ngoại quốc xông vào, hoảng hồn bạt vía vội vàng bỏ chạy tán loạn. Cung thân vương thấy lính chạy hết ráo, chỉ còn trơ lại có mỗi một mình, không còn có cách gì đứng vững được, vội chạy ra ngoài cửa Quảng Ninh, rồi chui tọt vào điếm Tràng Tân trốn biệt.




Thuỵ Lân lúc đó bí quá đành phải xuất đầu lộ diện. Lân cho gọi bộ quân tổng thống là Văn Tường thảo luật, cuối cùng quyết định đem thả tên sứ Anh Ba Hạ Lễ ra. Lân và Tường không ngờ sự thả tên Lễ này ra gây lại hậu quả vô cùng tai hại.




Số là Lễ bị nhà Thanh giam giữ trong lao, nay được ra lấy làm tức, lại xấu hổ nữa, nên chạy lẻn tới vườn Viên Minh đốt một mồi lửa, lửa lan rộng nhà cháy cửa xém, mù mịt cả một góc trời.




Ngự lâm quân lúc này đã bỏ trốn hết chẳng còn lấy một tên. Trong vườn bọn thái giám thấy hoàng đế đã chạy cũng tan đi hết, kẻ thì về nhà, kẻ thì bỏ đi biệt tích, chỉ còn lại có mấy bà già ốm, không lết đi được mới ở lại. Như vậy thì thử hỏi còn có ai để mà ngăn được ngọn lửa này nữa.




Hôm đó gió tây lại thổi mạnh. Trong vườn lâu đài xây cất hết tầng nọ đến tầng kia, chỉ trong nháy mắt đã bắt lửa cháy lên ngùn ngụt. Đứng từ xa kinh thành, người ta cũng thấy được ngọn lửa cột khói. Một đám khói rộng lớn như một đám mây hồng càng ngày càng lan mãi ra tận chân trời.




Thật đáng tiếc cho một khu vườn rộng bao la bát ngát, nào cung điện, lâu đài, nhà cửa, vườn hoa, vàng ngọc, châu báu, tất cả lúc này chỉ còn là những miếng mồi ngon của thần lửa. Vườn Viên Minh cháy suốt ba ngày ba đêm, cháy luôn một hơi, cháy tàn hoại sạch, chỉ còn lại có mấy bức tường trơ trọi đen thui.




Vườn Viên Minh bị cháy đáng tiếc thật, nhưng đối với độc giả có lẽ của quý đáng tiếc và cần biết phải là Tứ Xuân đã từng tô điểm cho vườn này thêm đẹp chuỗi ngày qua.




Ta hãy kể trước hết Mẫu Đơn Xuân. Nàng nghe nói gái Hán trong cung cấm bị Lan quý phi bắt trói đập chết khá nhiều, liền tìm cách trốn ra khỏi vườn.




Nàng vốn biết gái Hán với kỳ nữ (tức gái Mãn) ăn mặc có khác, rất dễ nhận, cho nên bắt chước ăn mặc theo lối kỳ nữ, để lỡ khi cần dùng đến. Dự phòng như vậy, nàng theo bọn Kỳ nữ bắt chước từ cách chải đầu búi tóc cho đến các cách thức chào hỏi lễ nghi. Nàng mình mặc quần áo Kỳ nữ chân đi giày đế phấn, má trát phấn dầy, môi thoa son đỏ chót, trông chẳng khác một Kỳ nữ chút nào.




Nàng đối với bọn thái giám và cung nữ rất tốt. Bởi thế hôm hoàng đế hối hả bỏ vườn chạy ra ngoài, bọn thái giám đã vội phi báo cho nàng hay. Thế là Mẫu Đơn Xuân vội cải trang thành Kỳ nữ. Đã từ lâu nàng dành dụm được ít tiền nên có chút vốn. Nàng liền lẻn tới Thiên Tân, mua vé tàu thuỷ thẳng đến Tô Châu, về nhà.




Mẹ nàng vẫn còn sống tại quê nhà. Ít lâu sau mẹ nàng đứng lên làm mối cho con gái lấy một anh chàng thư sình đọc sách. Từ đó hai vợ chồng Mẫu Đơn Xuân tự do tự tại an hưởng cái cảnh gia đình tới mãi già!

Hồi 141 Hồng nhan đa bạc mệnh




Vườn viên Minh bị Ba Hạ Lễ đốt cháy rụi… Trong số Tứ xuân, ta có thể nói Mẫu Đơn Xuân là người tốt phúc nhất như hồi trên đã kể. Còn ba nàng Xuân kia, cuộc đời ra sao?




Trước hết ta kể Hải Đường Xuân. Hải Đường Xuân từ khi bị đưa vào cung, tưởng nhớ đến người yêu cũ là Kim Cung Thiềm ngày đêm không dứt, nhiều khi quên cả ngủ, bỏ cả ăn.




Hàm Phong hoàng đế quả đã đem hết lòng sủng ái đối với nàng nhưng mối tình vương giả đó đã không an ủi được tâm hồn của một con người chỉ sống được nhờ tình. Bởi thế chưa đầy một năm trong cung vàng điện ngọc, nàng quá buồn rầu mà chết. Dù trong tam cung lục viện có hàng ngàn người đẹp nhưng cái chết của Hải Đường Xuân quả đã để lại cho Hàm Phong hoàng đế một nỗi buồn thấm thía.




Đến nàng Xuân thứ ba: đó là Hạnh Hoa Xuân. Có thể nói rằng Hạnh Hoa Xuân là người đã được hoàng đế cưng yêu lâu nhất và cũng nhờ đó dành dụm được nhiều tiền hơn cả mọi người. Tuy giàu nhất nhưng nàng lại cô độc nhất. Trong cung nàng chẳng giao du với một ai. Bất luận kẻ nào, hễ có ý nhờ nàng tâu giùm hoàng đế, y như phải có tiền mới được không tiền là không xong. Do đó, trong cung không ai là không giận ghét nàng.




Số tiền dành dụm của Hạnh Hoa Xuân càng ngày càng nhiều. Nàng đã có tới hai mươi vạn lạng bạc. Nàng gởi ra ngoài nhờ bà chủ mẫu cho vay lãi kiếm lời, món thì năm vạn, món thì ba vạn. Tiền lời thu được, nàng đều đưa cho tên thái giám tổng quản, đem gởi lấy lãi. Đó mới là tiền. Hạnh Hoa Xuân còn có nhiều vàng nữa. Số vàng của nàng lúc đó đã tính được đến hai ba ngàn lạng. Ngoài bạc vàng ra, nàng còn thiếu gì hoa tai vành cánh bằng châu bằng ngọc. Giàu, ai cũng muốn và cứ tưởng hễ giàu là ai cũng phải luồn cúi mình. Hạnh Hoa Xuân đã lầm ở điểm này. Nàng có tiền, nhưng lại vừa keo kiệt, vừa bất cận nhân tình, thành thử chẳng ai thèm lui tới giúp đỡ




Ấy chính vì thế mà hôm loạn ly giặc giã, bọn cung nữ thái giám ai lo phận nấy, tìm đường trốn chạy, dù có biết cũng mặc kệ, chẳng thèm báo cho nàng hay. Sáng sớm tinh sương, nàng thức dậy thì có ngờ đâu hoàng đế đã ra đi, mọi vật xáo trộn không còn có thể hiểu nổi nữa.




Nàng giật mình hoảng sợ, và cũng lo cuốn gói theo. Nhưng lúc sắp lên đường nàng thấy một đám cung nữ, thái giám già hùng hùng hổ bổ xông vào phòng, rồi một tiếng gầm lên, tất cả đều động thủ. Trước hết, chúng thắt cổ cho nàng chết, mắt không kịp nhắm, miệng không kịp ngáp, chỉ hắt ra được mấy tiếng ặc ặc! Làm cái việc giết người xong, chúng làm thêm cái việc cướp của! Bao nhiêu vàng ngọc châu báu của nàng, vơ vét hết ráo. Thật đáng thương cho một kiếp đào hoa xinh đẹp như mộng, mà thây ma nằm quanh queo trên giường không chôn cất, để mãi cho đến rữa đến nát, ruồi bọ mang đi.




Số kiếp Hạnh Hoa Xuân đã thế, thì số kiếp Đà La Xuân cũng chẳng hơn gì. Nàng sống dưới một cái am nhỏ, lễ Phật, ăn trường chay, hoàn toàn trong trắng, không bận chút hồng trần. Người trong cung ai thấy nàng cũng lấy làm thương xót.




Ấy cũng nhờ vậy nên khi hoàng đế đã bỏ chạy lên Nhiệt Hà, nàng được viên tổng quản thái giám ngầm tới báo tin cho hay.




Từ khi bước chân vào cung. Đà La Xuân đã coi cái chết như vô nghĩa, bởi thế, khi nghe viên thái giám báo tin, nàng chẳng hề hoảng sợ, vẫn thản nhiên tụng kinh niệm Phật, gõ mõ điểm chuông. Bọn cung nhân và thái giám đã đi hết, nàng bỗng lại thấy một tên tiểu thái giám tới khuyên nàng nên chạy ra khỏi vườn, còn nói thêm cho nàng biết trong vườn chẳng còn ai tra xét, có thể yên tâm mà đi thẳng về nhà.




Đà La Xuân nghe nói có thể về nhà được, bỗng thấy xúc động, lòng nhớ cố hương dâng lên ào ạt. Thể là nàng gói ghém chút ít đồ đạc quần áo, theo gót tên tiểu thái giám ra khỏi am. Nàng bước qua từng khu vườn này tới dãy nhà khác, chỗ nào cũng vắng lặng quạnh hiu, khiến lòng càng thêm ảo não.




Nàng nghĩ thân phận mình: mẹ nàng thì đã vì thương nàng mà chết tại trong cung, còn nhà thì chẳng có mà về. Lúc này nàng mới cảm thấy mình bạc phận, nếu có ra khỏi vườn thử hỏi rồi đi đâu nương nhờ qua ngày đoạn tháng!




Nàng suy nghĩ vẩn vơ như vậy một lát rồi bỗng quyết định với một ý định liều lĩnh trong trí. Giữa lúc quyết định này chân nàng cũng vừa bước tới cây cầu Vạn Phương. Tên tiểu thái giám vô tình cứ lẹ làng bước tới phía trước. Nàng nhân lúc xuất kỳ bất ý, nhón đôi gót ngọc lao mình xuống đáy hồ dưới cầu. Một tiếng bùm vang lên trong cảnh tĩnh mịch của một khu nhà hoang vắng lặng, mặt hồ vừa bị xao động nay lại đã khép lại và phẳng lỳ như một tấm thảm xanh. Thế là một cánh hoa xinh tươi thơm ngát chỉ trong nháy mắt đã trớ thành héo hon tàn úa.




Trong vườn lúc này càng thê lương ghê rợn hơn, không một bóng người, không một luồng sinh khí, hoa chỉ thấy chập chờn vài cành cây khô trong đám cỏ rậm như những bóng ma.




Tên tiểu thái giám từ xa nghe một tiếng ùm trên mặt hồ, vội quay lại không còn thấy Đà La Xuân, biết đã xảy ra chuyện chẳng lành. Hắn vội quay lại, nhưng nàng đã gieo ngọc trầm châu biết nơi đâu mà tìm. Hắn chỉ còn biết nhìn vào mặt hồ mà bật lên tiếng nấc để tiễn đưa hồn của một cành hoa tuyệt thế nhưng bạc mệnh từ lúc mới ra đời.




Cái ngày Đà La Xuân chết chìm trong hồ nước chính là ngày thứ bảy trước khi vườn Viên Minh bị Ba Hạ Lễ đốt cháy rụi.




Than ôi! Cả một khu vườn bao la bát ngát, biết bao cung điện lâu đài ao hồ đều lộng lẫy xinh đẹp, chỉ trong chốc lát đã biến thành một nơi đồng trống, rải rác đống tro tàn và những cây cột cháy xém chớm chở trên mặt đất, bỏ mặc cho sương rơi gió hú lúc đêm trường.




Tin vườn Viên Minh ra tro báo tới tai Hàm Phong hoàng đế, khiến lòng ngài như lửa đốt. Bệnh ngài đó càng nặng thêm. Đã có đôi lần ngài ngất đi trên giường bệnh. Phi hầu đã có mấy phen giọt ngắn giọt dài.




Trong khi hoàng đế chết đi sống lại tại hành cung Nhiệt Hà thì liên quân Anh Pháp mưu tính tấn công Cấm thành.




Hiếu Trinh hoàng hậu được tin động trời này, hốt hoảng truyền dụ cho Cung vương mau mau nghị hoà với đối phương.




Giữa lúc nguy cấp này, có một viên thiếu tướng nước Nga tên gọi Phổ Tra Khâm nhận thấy đảy là một cơ hội thuận lợi nghìn năm một thuở cho mình: Cho nên Khâm tới khuyến cáo viên công sứ Nga tên là Y Cách Đa đứng ra điều giải giữa đôi bên để mở cuộc hoà nghị.




Cuộc hoà hội được tổ chức. Vẫn là hoà ước thời Đạo Quang, nhưng thêm chín khoản nữa. Nước Pháp cũng tăng thêm mười khoản nữa. Mở cửa Thiên Tân cho người ngoại quốc vào ra buôn bán. Bồi thường cho Anh một ngàn hai trăm vạn lạng bạc chiến phí. Bồi thường cho Pháp sáu trăm vạn lạng binh khí.




Hoà ước hội được đưa lên Nhiệt Hà. Hàm Phong hoàng đế vội triệu Thuỵ Hoa và Túc Thuận vào cung, thương nghị.




Hoa và Thuận vốn không ưa Cung vương đã từ lâu, cho nên khi nghe xong hoà ước liền nói:




- Giải quyết đại sự như vậy, thì hỏng bét rồi còn gì! Cứ theo hoà ước này, thử hỏi chúng ta còn gì nữa không?




Hàm Phong hoàng đế không có ý gì để quyết định lúc này. Nhân vì ngài thường vời Hiếu Trinh hoàng hậu và Ý quý phi tới bàn soạn triều chính hằng ngày, cho nên lúc này ngài cũng cho gọi tới để cùng bàn tính, Hiếu Trinh hoàng hậu vốn tính trung hậu, nay gặp chuyện đại sự này, nhất thời không dám có lời đoán định. Chỉ có một mình Ý quý phi tỏ ra can đảm, cứ thao thao bàn cãi. Nàng nói:




- Hiện nay quân giặc đã ở chân thành. Bọn ngoại quốc, nếu không được thoả mãn, ắt chẳng chịu thôi. Việc này thực ra thì hỏng đã từ đầu, do bọn khốn nạn Kỳ Anh, Ngưu Giám, Quế Lương, Hoa Sạ Nạp gây ra. Lúc đầu, kể ra cũng vẫn có thể giải quyết được. Nhưng tiếc rằng chúng toàn là một lũ hèn nhát sợ chết, nịnh bọn ngoại nhân, động tí thì xin hoà, cuối cùng mới sinh ra chuyện nguy khốn trầm trọng như ngày nay. Nay thiên tử mông trần ở bên ngoài, kinh sự nguy vong chỉ một sớm một chiều. Phía nam có bọn tóc dài gây hoạ. Phía bắc thì có bọn thổ phỉ lộng hành. Nội loạn lo chưa xong thì làm sao mà chu toàn được ngoại hoạ. Chi bằng ta xin Phật gia tuỳ cơ quyết đoán, chuẩn y hoà ước của chúng. Một là để cho ngoại binh sớm lui hai là để Phật gia xa giá sớm hồi loan dưỡng bệnh ở trong cung. Còn nếu cứ ở lại mãi nơi hành cung này thì thử hỏi chúng ta còn làm được gì hơn nữa chứ!




Một thiên đại luận này của Ý quý phi quả đã đánh trúng vào điểm yếu của Hàm Phong hoàng đế. Ngài ốm bệnh ở bên ngoài, ngày đêm chỉ mong trở về cung, do đó, ngài chuẩn y ngay ý kiến của Ý quý phi, phê ngay vào hiệp ước, một mặt ngài truyền dụ cho Cung vương sửa sang cung điện, bồi đắp lại thành quách.




Việc sửa sang, bồi đắp lại ròng rã đến mấy tháng, suốt từ đầu thu đến cuối đông mới xong. Liên quân Anh Pháp lúc đó cũng đã rút khỏi kinh thành. Cung vương lĩnh chỉ đưa hoàng thượng hoàng hậu xa giá về cung. Không ngờ Hàm Phong hoàng đế bỗng nổi cơn ho hen dữ dội khiến ngài nằm liệt tại hành cung, không đi lại được một bước.




Thế là cuộc hồi loan đành phải hoãn. Ý quý phi bế hoàng tử Đái Thuần sớm hôm hầu hạ bên giường bệnh của hoàng đế để lo liệu thuốc thang. Hàm Phong hoàng đế sau một cơn chạy loạn, nhìn thấy Ý quý phi săn sóc bên giường, nhớ lại tình xưa nghĩa cũ, quên luôn cả mối giận thuở trước, dần dần lại sủng ái nàng.




Ý quý phi thấy mình lại được sủng ái, dại gì bỏ mất cơ hội. Nàng bèn bỏ tiền túi của mình ra liên lạc với hai tên tổng quản họ An và họ Thôi ở trong cung. Nàng lại còn giao cho Thôi tổng quản bắt liên lạc ngầm với một người cháu ruột ở bên ngoài tên là Vinh Lộc.




Ý quý phi vốn có một người anh trai tên gọi là Quế Tường. Khi còn ở Thiên Địa Nhất Gia Xuân được Hàm Phong hoàng đế rất sủng ái, nói chi nghe nấy, nàng đã tìm cách đề bạt anh mình làm một viên kinh quan để thông tin trong ngoài cho mình. Nhưng Tường quả thực là một thứ ngốc có chuôi ra! Tuy làm kinh quan đấy, nhưng Tường chẳng hiểu một điều gì hết. Nàng thấy anh mình vô dụng, bèn thay đổi phương pháp, quyết đề bạt người cháu ruột Vinh Lộc.




Khác hẳn cha, Lộc vô cùng giao hoạt thông minh, Lộc có công danh rồi, liền chạy chọt khắp triều đình. Nhiều người thấy Lộc xuất thân trong gia đình được sủng ái, tự nhiên có một biệt nhãn đối với y. Thế là chẳng bao lâu, Lộc bò lên được cái ghế Mãn thượng thư. Với địa vị này, Lộc tất nhiên là đã có quyền và thế lớn. Thấy Cung vương là người thân tín của Hoàng thượng, Lộc tìm cách lân la giao thiệp, trong khi đó Cung vương quả chẳng bao giờ ngờ tới âm mưu của Lộc. Do đó Lộc và Cung vương thật hết sức ăn ý với nhau.




Thế rồi, ngày nay, Lộc lại được cô ruột mình sai Thôi tổng quản ra bắt liên lạc với mình, thực không còn gì tốt đẹp hơn.




Lộc vội vàng đem tài mình ra giúp cô ruột, liên lạc với Cung vương. Cho nên ít hôm sau, người ta thấy Cung vương trở thành một đảng với Ý quý phi.




Ý quý phi thấy vây cánh trong ngoài đã đủ, bèn nắm quyền trước hoàng đế. Hiếu Trinh hoàng hậu vốn là người ăn nói kém, cho nên hễ có sớ tấu gì đưa lên, bà đều giao cho Ý quý phi đọc cho hoàng đế nghe. Hàm Phong hoàng đế lúc này đã quá suy nhược, việc triều chính đều giao cho Hiếu Trinh hoàng hậu quyết đoán. Nhưng Hiếu Trinh hoàng hậu thấy Ý quý phi thông minh và tài cán hơn mình, lại đem hết mọi việc triều chính bàn soạn với nàng.




Đấy là lúc đầu, mãi về sau, Ý quý phi chấp cả hoàng hậu, độc đoán độc hành, phê đại vào các tờ sớ rồi mới đưa cho hoàng hậu xem.




Hiếu Trinh hoàng hậu không vui lòng, nhưng tính vốn không ham tranh quyền cướp vị, bà để mặc nàng tự ý giải quyết.




Bọn đại thần trong triều được tin Ý quý phi được quyền nghe việc triều chính, bèn gói ghém một vạn lạng bạc chạy vào ngõ hậu của bọn tổng quản thái giám An, Thôi, nhờ chúng đem vào hiếu kính nàng.




Ý quý phi đã nhận tiền người, tất nhiên phải vì ngươi mà làm ơn làm phước. Cũng có khi nàng nói tốt cho họ trước mặt hoàng thượng. Những lần đầu bất ngờ, hoàng đế quả đã không nghi ngờ gì nàng. Nhưng về sau, thấy nàng toàn nói tốt cho đại thần ngài bỗng sinh nghi, không còn tin nàng và cũng từ đó đã có ý chán ghét nàng.




Bệnh tình của Hàm Phong hoàng đế lúc này càng ngày càng thêm nặng. Ý quý phi biết ngài đã đến lúc nguy kịch rồi, bởi thế nàng nghĩ ngay tới địa vị tương lai của mình. Nàng bế hoàng tử Đái Thuần ngày nào cũng xúng xính trước giường bệnh của hoàng đế. Nàng nói:




- Phật gia chỉ có mỗi một hoàng tử. Sau việc bách niên, tương lai thảy đều do Đái Thuần thừa kế ngôi báu. Hiện nay các đại thần bên ngoài đều có chủ trương lập trưởng quân, tại sao Phật gia không nhân lúc này mà lập định thái tử, để tránh cho mẹ con tôi gặp phải trở ngại sau này?




Hàm Phong hoàng đế nghe đoạn, biết thâm ý của Ý quý phi, nhưng ngặt cái ngài chỉ có mỗi một hoàng tử, thì tương lai kế vị quyết không thoát khỏi tay con nàng. Do đó, ngài chậm rãi gật đầu, lại còn an ủi nàng không nên bận tâm làm gì, ngôi vị thái tử quyết về tay con nàng, và tất nhiên, nàng sẽ trở thành thái hậu.




Ý quý phi nghe Hàm Phong nói vậy, lúc đó mới yên tâm.




Bệnh của Hàm Phong hoàng đế là một chứng bệnh lao tổn, thân thể càng ngày càng còm đi, khô đi như con mắm, tinh thần càng ngày càng mệt mỏi yếu đuối. Tuy vậy, lòng ngài vẫn còn xét đoán minh bạch lắm. Trong lúc đau yếu ngài lặng lẽ theo dõi những hành động của Ý quý phi. Có lẽ ỷ thế mình phải là bà thái hậu nay mai, tính nàng đã thấy có vẻ hỗn xược kiêu căng… Thậm chí, có cả những trường hợp đấu khẩu với Hiếu Trinh hoàng hậu, không chịu nhường bước. Cũng có khi ngài thấy sớ tâu đưa lên, Ý quý phi không thèm bàn tính với Hiếu Trinh hoàng hậu, tự do độc đoán độc hành, phê ý mình vào tờ sớ rồi trả về.




Hàm Phong hoàng đế biết Ý quý phi rồi đây ắt quỷ quái tinh ranh lắm, bởi thế ngài vô cùng tức giận trong lòng. Lừa lúc nàng không có bên cạnh giường. Hoàng đế liền vời Túc Thuận lại bảo:




- Ý quý phi hỗn xược quá đỗi, nếu để thị lại, tương lai hoàng gia thế nào cũng bị hại lớn. Trẫm đã định lúc trẫm còn sống đây, hãy cho hắn một cái chết, để trừ hại mai hậu cho nơi cung cấm.




Túc Thuận nghe xong, giật nảy mình, chỉ còn có nước cúi mọp xuống đất, đập đầu nghe coong coong, miệng chẳng thốt được lời nào. Ngừng một lát, hoàng đế lại nói:




- Nếu không trẫm sẽ để lại di chiếu, rồi sau khi trẫm chết, triều đình đem Ý quý phi ra tuẫn táng.




Hiếu Trinh hoàng hậu vốn người trung hậu, nghe hoàng thượng nói vậy, ngẫm lại thương thay cho Ý quý phi, bà cầu ơn đến mấy lần ở hoàng đế. Bà nói:




- Ý quý phi sinh hạ hoàng tử, mẹ sở dĩ quý được là nhờ con. Xin vạn tuế gia đặc ân, tha cho nàng đôi phần. Nếu vạn tuế gia cho nàng được chết, về sau hoàng tử lên kế vị, truy niệm sinh mẩu, hỏi còn làm người cách nào?




Hiếu Trinh hoàng hậu nói đoạn, lệ tuôn ròng ròng trên gò má.

Hồi 142 Tên thái giám hào hoa




Hiếu Trinh hoàng hậu đem hết lời lẽ chân thành để cứu Ý quý phi khiến Hàm Phong hoàng đế cũng phải cảm động.




Ngài nói:




- Vậy, nể mặt hoàng hậu, trẫm sẽ tha chết cho nàng. Ý quý phi vốn người thâm hiểm, điêu xảo. Trẫm chết rồi, không ai có thể chế ngự được nàng đâu. Chỉ còn cách trẫm viết lại tờ di chiếu, khiến nàng không dám lộng hành nữa.




Nói đoạn, ngài cố gượng ngồi dậy, bảo Túc Thuận đem bút nghiên lại, rồi cất tay run run viết di chiếu:




"Nay trẫm tư cho Hiếu Trinh hoàng hậu: Ý quý phi nhờ con mà được phú quý, không thể nào không tôn lên làm thái hậu. Tuy nhiên, nàng không phải là người có thể tin cậy. Cho nên, bất cứ việc gì, hậu cũng phải quyết đoán lấy. Nếu nàng chịu an phận thủ thường, không có điều chi lầm lỗi: ắt trước sau đều xứng với ân lệ. Nhưng nếu nàng rắp tâm làm bậy, hậu hãy triệu họp đình thần, đem ý chỉ này của trẫm tuyên bố và lập tức giết đi, để tránh hậu hoạ. Khâm thử".




Viết xong tờ di chiếu, Hàm Phong hoàng đế gọi hoàng hậu tới cạnh giường, ký tên vào; lại gọi cả Túc Thuận cùng ký tên vào. Xong xuôi rồi, ngài giao cho hoàng hậu giữ.




Hiếu Trinh hoàng hậu đang định cất đi, bỗng lại quay lại trả cho hoàng đế và tâu:




- Tờ sớ này cũng truyền báo cho ngoại thần. Vậy xin cho mời Cung thân vương tới đây ký tên vào luôn. Tương lai nếu có chuyện gì xảy ra, ắt có trong, có ngoài hưởng ứng.




Hàm Phong hoàng đế, nghe đoạn cũng cho rằng phải: thế là ngài truyền dụ tìm Cung thân vương Dịch Hàn hoả tốc tới hành cung. Hàm Phong hoàng đế một mặt cất tạm tờ di chiếu dưới gối.




Đến hồi này Ý quý phi đã bố trí được đầy đủ tai mắt bên cạnh hoàng đế. Nàng thấy ngài đối với mình ngày một lãnh đạm, trong lòng đã thấy lo. Vì thế nàng dặn dò hai tên tổng quản An và Thôi lưu tâm xem xét động tĩnh.




Rồi hôm đó, hoàng thượng cùng hoàng hậu, Túc Thuận mật nghị trong phòng. Thôi tổng quản đứng ngoài cửa sổ cũng nghe được một vài điều, tiếc phải cái không dám đứng lâu, sợ có kẻ nhìn thấy. Do đó, những lời nói của hoàng đế, hắn nghe không được trọn, nhưng dù sao, hắn cũng cho rằng bất lợi cho Ý quý phi. Thế là hắn vội vàng ba chân bốn cẳng phi báo ngay cho nàng hay.




Ý quý phi lo sợ quá nhất thời chẳng đoán ra được chuyện gì. Lòng nàng như lửa đốt, nàng chẳng nhắm mắt được đến mấy đêm liền. Nhưng may cho nàng một cơ hội tốt đã tới.




Hoàng đế ốm lâu ngày, liệt giương liệt chiếu, mình gầy như con mắm, cảm thấy nhức mỏi quá đỗi. Do đó, ngài nghĩ tới chuyện tẩm quất cho thân thề giãn xương giãn thịt. May thay, cái nghề tẩm quất này, viên ngự y họ Lục cũng biết.




Thế là Lục được đưa vào ngự phòng hè huyệt đấm kỹ cho ngài. Có lẽ họ Lục nghệ thuật còn dở dang, nên hoàng đế vẫn thấy nhức mỏi, chẳng thoải mái được chút nào.




Viên tổng quản thái giám vội đi gọi một tay đấm bóp trứ danh hơn. Hắn là tên thái giám Lý Liên Anh. Anh quả thật là một tay cự phách trong làng này. Hắn được học chân nguyên, nên sờ đến đâu là hoàng thượng mát đến đó, đấm đến đâu là ngài rên hừ hừ tới đó. Gân cốt của ngài như giãn ra hết, các bộ phận trong người ngài tự nhiên như được tiêu tan hết mọi đau nhức mỏi buồn.




Khi Lý Liên Anh tẩm quất ngực, thì hoàng đế chịu quá, ngài "khì" từ thuở nào! Thế là từ đó, đôi bàn tay thần diệu của Anh có thể còn hơn cả sâm cả nhung, đối với hoàng đế. Chỉ cần một hôm, anh ta đã được hoàng đế khoái, rồi cưng lại chiều nữa.




Cứ mỗi ngày, Hàm Phong hoàng đế ít ra cũng truyền gọi Lý Liên Anh một lần, nếu không là chân tay ngài bải hoải, tinh thần bần thần, mặt mày ngài xám ngoét lại. Lý Liên Anh vốn người khôn ngoan, tinh quái. Đợi lúc hoàng đế thiêm thiếp ngủ say, hắn mới từ từ đưa mắt nhìn chung quanh phòng để quan sát tình hình. Hắn nhác thấy một tờ giấy lòi ra một góc dưới gối, trong đó có một câu: "Nàng không phải là người có thể tin cậy". Hắn liền đoán tờ giấy này ắt phải có điều quan trọng đối với một kẻ nào đó. Hắn phân vân một lát, nhưng bỗng hắn nghĩ tới Ý quý phi. Hắn tự hỏi: phải chăng nội dung tờ giấy nọ nói về Ý quý phi?




Nghĩ như vậy rồi, hắn đánh bạo đưa tay khẽ kéo tờ giấy ra xem. Thế là bao nhiêu ý, bấy nhiêu lời trong tờ di chiếu, hắn đọc hết và đã nhớ hết trong bụng. Giữa lúc đọc tờ di chiếu, hắn không ngờ đằng sau hắn cũng có một người đang nghển cổ đọc theo. Người đó chính là Thôi tổng quản. Thôi và Anh vốn cùng một giuộc thì có lo gì, cho nên Anh chẳng để ý tới, mà chỉ định đánh cắp tờ di chiếu.




Bỗng Hiếu Trinh hoàng hậu bước vào phòng. Thôi tổng quản đứng đằng sau, thấy trước, vội lấy mũi giày khe đá một cái vào đít Anh báo hiệu, Anh giật mình đánh thót, vội lấy chiếc khăn tay phủ tờ di chiếu lại, rồi lui ra ngoài vội chạy đi báo Ý quý phi.




Nguyên Lý Liên Anh chính là người thân tín nhất của Ý quý phi. Anh vào cung tuy chưa có bao ngày, nhưng rất được nàng sủng ái và tín dụng. Anh người Hà Giang, đi học nghề trong một cái quán do đó mọi người cứ gọi hắn là…




Anh nhà nghèo mạt, hiền hậu nhưng bữa ăn không đủ no. Tại vùng Hà Giang có rất nhiều người làm thái giám trong cung. Nhà Thôi tổng quản lại ở ngay bệnh cạnh nhà Anh, thành thử đôi bên là láng giềng của nhau. Đã nhiều lần, Thôi về nhà, mang theo vàng bạc nhiều lắm. Anh thấy mà mê. Thôi còn kể lại cho Anh nghe trong cung thú vị như thế nào, thế lực ra làm sao, đủ mọi thứ hấp dẫn mê ly.




Anh lúc này mới có mười sáu tuổi, nhưng hắn là con người dám làm. Anh nghe Thôi nói xong, liền dối cha mẹ, đem cắt luôn cái "của quý" để thực hiện mộng giàu sang của mình. Không ngờ, Anh đau quá, đau đến mê đi, ngã lăn quay trên vũng máu tưởng chết.




Cha mẹ Anh hoảng hồn bạt vía, vội chạy đi mời ông lang dùng thuốc để cầm máu mới hết chảy. Anh nằm luôn một lèo ba, bốn tháng lúc đó mới bình phục.




Khỏe khoắn bảnh bao như thường rồi, Anh mới vào Kinh tìm tới nhà Thôi tổng quản, cầu xin đưa vào cung làm một tên tiểu thái giám. Thôi tổng quản giữ Anh ở lại nhà chờ cơ hội. Mấy hôm sau, may thay Ý quý phi cần mướn một tên thái giám trẻ ở trong phòng, để sai vặt lau chùi quét tước và chải đầu búi tóc cho mình. Cơ hội tới, Thôi tổng quản đưa ngay Anh vào cung. Ý quý phi thấy Anh mặt mũi bảnh bao nói năng lại hoạt bát nên có ý thích. Nàng gọi Anh chải đầu búi tóc. Thực là một dịp tốt để cho Anh trổ tài. Anh vốn là một tên trai trẻ khéo chiều chuộng đàn bà đến cái mức vô địch. Bên cạnh những tấm thân ngà ngọc, Anh vuốt ve êm dịu. Anh nịnh nọt vô cùng khéo léo và được lòng hết cả giới yếm khăn.




Đã sẵn cái tài ấy, Anh lần đầu được Ý quý phi cho chải đầu búi tóc. Do đó Anh hết sức thận trọng trong khi làm việc. Ý quý phi vốn rất quý mái tóc của mình, chỉ sợ hư tóc hoặc hỏng mất da đầu. Anh biết thế bèn dùng hết cái khéo của đôi tay nâng niu mái tóc của nàng, lúc chải chuốt, lúc ve vãn tuyệt nhiên không có một cử chỉ nào khiến nàng bực bội không vừa lòng.




Đầu Ý quý phi chải xong, không một sợi tóc rụng, không một mảy da đầu bị sầy xước. Đến lúc búi thì lại còn là một nghệ thuật, mấy ai đã được biết để điểm tô. Ý quý phi soi vào gương sướng đến điên người. Lòng nàng càng khoái thì đầu nàng càng muốn thay đổi. Cứ mỗi ngày nàng đổi kiểu một lần. Tóc càng thay đổi, tài nghệ của Anh càng nồi bật. Lần nào chải cũng vậy, Ý quý phi đều thấy đầu mình mới đẹp lạ lùng.




Cứ mỗi lần có cái đầu mới, Ý quý phi lại có một cái mới để dành riêng cho mái tóc của mình lần đó. Lý Liên Anh quả khéo vẽ ra những cái tên khá kỳ khá thú: hôm nay thì là đầu Giàu sang chẳng dứt (phú quý bất đoạn đầu), ngày mai thì lại đầu Thiên hạ thái bình. Rồi ngày mốt thì là đầu Hoà khí một đoàn. Rồi ngày mốt mốt nữa thì lại là đầu Long phượng song hỉ, hoặc là đầu Cát lợi…




Ý quý phi có cái tính kỳ lạ là rất khoái hai tiếng "cát lợi". Nay nghe nói tới cái đầu Cát Lợi thì còn gì thích cho nàng hơn.




Lý Liên Anh lại còn một cái tài đặc biệt nữa, tài ăn nói. Cứ mỗi lúc rảnh việc Anh lại đem những chuyện cũ nơi đồng quê xóm cũ ra kể. Đây cũng còn là một cái khoái của Ý quý phi. Kể chuyện cổ đối với nàng quả là một chuyện cần thiết nữa là khác. Bởi thế cứ mỗi lúc buồn chẳng có gì làm, nàng lại cho gọi Anh vào phòng mình để kể chuyện.




Cái tên Lý Liên Anh quả thật nhiều chuyện. Ngày nào cũng kể chuyện, hết chuyện này tới chuyện kia, thế mà chẳng bao giờ hết. Anh tính lại rất thông minh. Bất cứ một chuyện tiếu lâm nào, Anh cũng nhớ để kể, mà cứ, hễ kể là tức cười ngay. Cứ môi lần chọc cười, Anh làm cho Ý quý phi cười đến lệch giường lệch chiếu, cười đến chảy nước mắt, cười đến són ra quần. Tiếng nàng cười lên khi thì như nắc nẻ, khi thì như cả một cái thác đổ dồn, nàng cười đến ngất đi, đến lịm đi.




Có lúc hứng nổi lên từng cục, nàng đỏ mặt tía tai, bọt mép đổ ra, giơ đôi tay ra đấm thùm thụp vào lưng vào vai Anh, miệng thì rủa:




- Thằng quỷ ổi! Thằng quỷ!




Lý Liên Anh lại còn cái tài lạ nữa là có một bộ xương da vô cùng hấp dẫn. Tha hồ cho quý ông quý bà đấm đánh chửi bới. Anh vẫn cười, vẫn tươi. Bởi thế những lúc sầu khổ tức giận của đời mình, Ý quý phi đều phải nhờ Anh đến tiêu sầu giải muộn cho.




Nhưng cái tuyệt kỹ khiến thiên hạ mê ly nhất là Anh có một giọng hát vô cùng hấp dẫn. Bất luận điệu hát nào từ Nam cho đến Bắc, nào điệu vui điệu buồn, nào điệu quê điệu kính, Anh đều hát được cả. Tiếng hát của Anh lại còn du dương uyển chuyển, chỉ cần nghe qua là ai nấy đầu say, đều mê cả.




Chuyện ca hát vốn là cái thích độc nhất của Ý quý phi. Nàng thích hát, thích nghe hát xem tuồng. Bởi thế tài hát của Anh quả rất hợp vị với nàng. Thế là từ ngày có Anh bên cạnh, nàng có thêm một cái thú cố hữu trong dòng máu, lúc thì ngồi nghe Anh ca một vài điệu kinh lả lơi tình tứ, khi thì ngồi học một vài điệu quê tuy chất phác nhưng vui cười. Cũng có khi nàng đồng ca với Anh vang động cả một khu nhà, khu vườn.




Lý Liên Anh tuy còn nhỏ nhưng rất giỏi tâm lý, nhất là tâm lý đàn bà. Cứ hễ người đàn bà nào gặp phải nghịch cảnh hoặc niêm đau khổ, dù bí ẩn đến bực nào, Anh cũng có thể tìm ra được. Cho nên khi nói chuyện với bọn cung nữ bất cứ cô nào, Anh cũng nói trúng tâm lý phong phóc. Do đó đám cung nữ từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên cô nào bà nào cũng đều có mỹ cảm đối với Anh.




Nói đến một cái tài mọn nữa nhưng quan trọng chẳng kém các tài trên của Anh, ta phải nói tới tài "đấm bóp". Quái lạ nhất là cứ mỗi khi được Anh đấm bóp cho thì bất cứ ai cũng thấy toàn thân mình sướng quá, tinh thần thoải mái đến cực độ đến mức mắt miệng gì cũng đều nhắm ngậm lại hết. Tên thái giám oắt con, chưa ráo máu đầu mà được thiên hạ quý mến rồi!




Đối với Ý quý phi thì những cái tài trên của Anh nhất định phải là những tài siêu việt của các bậc siêu nhân xưa nay chưa từng thấy. Đấy là lý do khiến nàng sủng ái Lý Liên Anh đến kinh khủng. Nàng sủng ái Anh đến cái độ ép hắn phải ở lại với mình suốt đêm, nằm chung giường với mình nữa. Những lúc thức giấc trong đêm khuya thanh vắng, nàng lại gọi Anh dậy để trò chuyện tán gẫu. Cái tên Anh quả khôn ngoan rất mực. Hắn khéo chiều ý nàng, đối đáp mọi lẽ đều đẹp lòng nàng, khiến hắn cũng đôi lần phải nhận rằng mình quá là một "cục cưng" của nàng.




Ý quý phi sủng ái Lý Liên Anh đến độ dần dần lạnh nhạt đối với Thôi tổng quản. Thấy được sủng ái, Anh cũng tỏ lòng cảm kích và nhớ ơn Ý quý phi. Hắn thường đưa ý kiến để giúp đỡ nàng.




Bởi thế nên khi thấy tờ di chiếu của hoàng đế có hại cho nàng, Lý Liên Anh vội chạy đi báo cho nàng hay. Ý quý phi nghe xong nhất thời quả chưa tìm ra mưu chước để đối phó.




Nàng chỉ còn cách ngày ngày đưa hoàng tử ngồi ở trước giường, mượn tiếng săn sóc hầu hạ lúc hoàng đế bệnh tình trầm trọng để dò xét những cử động của Hiếu Trinh hoàng hậu.




Cung thân vương Dịch Hàn hồi này đã tới hành cung cho nên cũng có ký tên trên di chiếu. Thực ra thì vương đã lén gia nhập đảng của Ý quý phi từ lâu rồi. Bởi thế vương lẻn tới thông tin cho Vinh Lộc, trong khi đó ở một chỗ bí mật khác cả một bọn đại thần như đại học sĩ Túc Thuận, Trịnh thân vương Đoan Hoa, ngự tiền đại thần Ngạch Phó Cảnh Thọ, quân cơ đại thần thượng thư Binh bộ Mục Ấm, Lại bộ tả thị lang Khuông Nguyên, thự Lễ bộ tả thị lang Đỗ Hán, thái bộc tự thiếu khanh Tiêu Hựu Doanh, ngày ngày chụm đầu lại bàn tính ráo riết chỉ sợ trong tương lai Ý quý phi ỷ thế lực của con mình làm lớn mà thao túng quyền hành. Bởi thế cả bọn quyết định đợi khi Hàm Phong hoàng đế mất rồi khuyên Di thân vương là Tải Viên lên nối ngôi hoàng đế.




Tải Viên biết rõ Ý quý phi sinh một hoàng tử, thế mà mình cưỡng đoạt ngai vàng, chỉ sợ quần thần bất phục. Bởi thế Viên bèn nói thác ra là hoàng tử còn nhỏ tuổi, đương kim hoàng đế có di chiếu sai mình làm Giám quốc nhiếp chính vương.




Bọn Túc Thuận nghe ý kiến của Viên chẳng ai trả lời, nhưng biết làm sao hơn. Thế là việc nối ngôi này đành ném đó, bàn không xong.




Hàm Phong hoàng đế chết! Ngài chết trong điện Yên Ba Trì Sảng. Bọn Túc Thuận lúc đó không làm cũng không xong, thế là tự xưng mình làm Tán tương chính vụ đại thần loan truyền Đại hành hoàng đế có di chiếu lập Di thân vương Tải Viên làm tự quân, đổi niên hiệu là Kỳ Tường năm thứ nhất. Lại truyền dụ cho bọn kinh ngoại vương (vương ở ngoại kinh đô) và đại thần, nhất là Cung vương, Vinh Lộc hãy ở lại, bất tất phải đi đưa đám tang bởi vì bất nhật sẽ đưa linh cữu về kinh.




Ý quý phi lúc này cung đã liệu biết mưu đồ của Túc Thuận, nên khi hoàng đế mất nàng thu lấy và cất đi ngọc tỷ truyền quốc (cái ấn).




Quả nhiên Túc Thuận tiến cung hỏi về chiếc quốc tỷ ở Hiếu Trinh hoàng hậu. Hoàng hậu thấy bọn Túc Thuận kéo tới một cách dữ tợn, chỉ sợ có chuyện xảy ra, Hậu bèn giúp Ý quý phi nói dối Thuận là chiếc ngọc tỷ truyền quốc đã bị Lục vương gia lấy mang về kinh rồi.




Túc Thuận nghe nói chiếc quốc tỷ không còn ở hành cung liền chạy vội về kinh. Ý quý phi thấy việc đã đến lúc nguy ngập liền bế hoàng tử Đái Thuần quỳ trước mặt Hiếu Trinh hoàng hậu cầu xin bà cứu giúp.




Hiếu Trinh hoàng hậu thấy Ý quý phi vừa nói vừa mếu, tình cảnh thật đáng thương. Bà cũng nghĩ rằng nàng sinh ra hoàng tử về sau thế nào cũng kế thừa đại thống. Bởi thế bà chạy lại đỡ dậy, miệng hứa sê giúp.




Thế là Ý quý phi viết ngay một tờ chiếu đóng dấu ngọc tỷ lên trên rồi lẻn đưa cho viên tổng quản thiện phòng là Hỉ Lưu ngay đêm phi chạy lẹ về kinh giao cho Thuần vương, Cung vương, Vinh Lộc ba người thân tín của mình và đặn họ theo kế mà hành động.




Bọn Túc Thuận muốn giữ Hậu, Phi hai bà lại Nhiệt Hà còn đích thân mình đưa tử cung (linh cữu) về kinh. Nhưng khổ cái là Hiếu Trinh hoàng hậu không chịu. Thuận chẳng còn cách gì hơn đành phải mời Hiếu Trinh hoàng hậu cũng như cả đoàn người đưa linh cữu về kinh cùng mình một lượt.

Hồi 143 Cuộc đấu trí giũa Túc Thuận và Từ Hi thái hậu




Thâm ý của Túc Thuận lúc này là đưa linh cữu nhà vua về kinh trước đã rồi mới đòi quốc tỷ ở Cung thân vương và lập Di thân vương Tải Viên làm hoàng đế. Nhưng Thuận không ngờ rằng Hiếu Trinh hoàng hậu đã đoán biết kế sách của y nên quyết không để cho y một mình về kinh trước. Hậu còn buộc phải cho Ý quý phi cùng đưa linh cữu về kinh, Thuận chỉ còn cách là nghe theo.




Thuận bèn mưu ngầm với Đoan Hoa sai đoàn thị vệ của Di thân vương phao tin hộ tống Hậu, Phi hai cung nhưng kỳ thực định tới nửa đường đột nhiên hạ thủ giết chết cả hai mẹ con Ý quý phi rồi chỉ đưa mình Hiếu Trinh hoàng hậu về cung mà thôi.




Không ngờ Ý quý phi cũng đã liệu được mưu này của Thuận, nên khi Hỉ Lưu đưa chiếu thư về kinh thì bà đã có dụ sai Vinh Lộc đem bốn ngàn cấm binh tới Nhiệt Hà để bảo hộ ấu chúa.




Linh cữu vừa ra khỏi thành thì từ xa người ngựa của Lộc đã ùn ùn kéo tới. Thấy cả một chi cấm binh đến bảo vệ mẹ con Ý quý phi, Thuận bực mình và băn khoăn lắm. Vinh Lộc lại luôn kèm sát Ý quý phi, nửa bước chẳng rời, không cho Thuận một cơ hội nào để hạ thủ. Song Thuận vẫn còn hy vọng rằng nếu tự mình đem vệ binh về sớm hơn một ngày thì vẫn có thể giả thác di chiếu của tiên đế, phế bỏ danh hiệu Ý quý phi, không cho ấu chúa vào thành rồi cứ đưa Tải Viên lên ngôi hoàng đế. Đến lúc đó gạo đã thành cơm lo gì Ý quý phi phụng chiếu hay không phụng chiếu nữa Đoàn người đưa linh cữu ra khỏi hành cung. Túc Thuận dẫn đoàn vệ binh đi sau linh cữu. Hiếu Trinh hoàng hậu và Ý quý phi ngồi xe đi sau đoàn quân của Thuận. Còn Vinh Lộc chỉ huy cấm quân bảo vệ lưỡng cung đi sau cùng.




Thấy bóng kinh thành với ngọn cờ bay phất phới xa xa, Ý quý phi vốn đã liệu trước âm mưu của Túc Thuận nên khi tới quán dịch liền bàn tính với Hiếu Trinh hoàng hậu kế hoạch đối phó. Thế là một hậu một phi liền được thay thế bằng hai tên cung nữ cải trang giống hệt ngồi thế vào xe còn hai bà thuê vài cỗ xe nhẹ, đi nhanh, có một chi quân của Lộc ngầm theo bảo vệ, vượt đường nhỏ lên trước linh cữu rồi phóng nhanh về kinh trước.




Về tới cung, Ý quý phi lúc này cờ đã đến tay liền cho gọi ngay Cung vương, Thuần vương, đại học sĩ Châu Tổ, Bồi Quế Lương, Hộ bộ tả thị lang Văn Tương, hữu thị lang Bảo Quân, hồng lô tự thiếu Khanh Tào Dục Anh, tất cả một bọn đại thần tâm phúc vào cung để mật nghị.




Ý quý phi cũng đưa chiếc truyền quốc tỷ cho bọn đại thần thấy rõ nghị định đưa ấu chúa Đái Thuần lên ngôi hoàng đế cải niên hiệu là Đồng Trị nguyên niên. Tất cả mọi việc đều xếp đặt đâu đấy trước cả!




Qua ngày hôm sau Cung thân vương phái một đại đội người ngựa tới đóng dọc suốt một giải của Đại thạch môn để chuẩn bị đón linh cữu, mặt khác sửa soạn đèn đuốc màn trương đàng hoàng tại điện Thái Hoà-làm như nơi để phụng an linh cữu cho bá quan vào hành lễ.




Sang ngày thứ ba, Di thân vương Tải Viên cùng Đoan Hoa vào thành trước. Hiếu Trinh hoàng hậu sai người tuyên đọc chiếu thư cho Viên và Hoa nghe. Hoa lớn tiếng nói:




- Bọn tôi chưa từng vào thành. Vậy chiếu thư từ đâu mà có.




Cung vương nói:




- Hiện có truyền quốc tỷ tại nơi đây!




Di thân vương cũng nói:




- Tiểu vương vâng di chỉ của tiên đế giám quốc nhiếp chánh. Hiện nay hoàng tử còn nhỏ nếu không có ta chấp thuận thì dù có thái hậu, quý phi thảy đều không có quyền triệu kiến thần công…




Giữa lúc Di thân vương đang còn muốn nói nữa thì Vinh Lộc xuất hiện lớn tiếng quát:




- Thái hậu có chỉ bắt trói ngay hai tên kia lại cho ta?




Lệnh quát vừa dứt thì đá có một đám vệ binh nhảy lên bắt lấy. Mấy tên khác cũng xông lại lột ngay áo mão của Viên và Hoa keo thốc ra ngoài cửa Long Tôn môn, tống ngay vào nhà lao của Tôn nhân phủ giam kỹ lại.




Trong lúc tại Kinh đã xảy ra việc bất ngờ này thì Túc Thuận vẫn còn trên đường hộ tống linh cữu vua tuyệt nhiên không biết gì! Tới Mật Vân, Thuận cho tạm nghỉ lại.




Thuần vương mật triệu Đại tướng tử và Đại văn tử của dinh thần cơ ngày đêm đi gấp tới Mật Vân để bắt Thuận.




Thuận lúc đó đang nằm trong phòng ngủ, hai tay ôm hai bà như ý phu nhân, ngáy tựa bò rống.




Khi quân binh của Thuần vương vây kín phòng ngủ, Thuận mới choàng tinh dậy, quát tháo, buông lời chửi bới om sòm…




Đám binh sĩ đập phá cửa phòng nhất tề xông vào trói gô Thuận lại rồi xích chân xiểng tay đưa về giam tại nhà lao Tôn nhân phủ.




Thanh toán xong bọn địch thủ, lúc đó lưỡng cung hoàng thái hậu mới cùng Đồng Trị hoàng đế mặc đồ tang phục ngồi trên tố xa có bạch mã kéo, xuất Hoàng thành do cửa lớn để đưa linh cữu vào thành và phụng an tại điện Thái Hoà.




Hành lễ xong, lưỡng cung hoàng thái hậu đưa Đồng Trị hoàng đế lên điện chịu trăm quan triều hạ. Sau đó, hoàng đế hạ chỉ dụ định tội bọn Túc Thuận, Đoan Hoa và Tải Viên, lời lẽ như sau:




"Tải Viên, Đoan Hoa, Túc Thuận kết đảng làm điều gian, chuyên quyền ngang ngược, tự ý giáng nhiều chỉ dụ tuyên thị trong ngoài. Kíp đến ngày mười bảy tháng bảy hoàng khảo (vua cha) băng hà, chúng lại cũng dám tự xưng mình là Tán tương vương, Tán tương đại thần. Thực ra thì lúc kịch bệnh sắp lâm chung, hoàng khảo xuống dụ thẳng cho bọn Tải Viên lập trẫm làm hoàng thái tử chứ tuyệt nhiên không có cái dụ gọi là dụ Tán tương chính sự bao giờ. Lạm dụng danh hiệu Tán tương ấy, Tải Viên tự chuyện mọi việc chẳng thèm thỉnh chỉ. Thậm chí lưỡng cung hoàng thái hậu diên dụ cho hắn nhiều việc mà hắn cũng cả gan trái lệnh, chẳng thi hành. Ngự sử Đổng Nguyên Thuần tâu xin hoàng thái hậu rủ rèm nghe chính đấy là việc nên làm. Thế mà bọn Tải Viên chẳng những tự chuyên sửa đổi chi dụ lại còn dám không nghe lệnh của hoàng thái hậu khi triệu chúng tới trước mặt có Doãn Đằng lúc đó đang tương tán trẫm cung. Doãn Đằng thỉnh hoàng thái hậu xem các sớ tấu, thế mà chúng cũng dám gầm thét om sòm, quả thực là không còn vua chúa nào nữa. Những tình trạng như vậy không thể một lúc mà nói hết được, nhiều lần chúng lại còn bảo thân vương không thể triệu kiến được, đấy là cái ý ly gián của chúng. Bao điều vừa kế chính là những tội trạng của bọn Tải Viên, Túc Thuận, Đoan Hoa đó.




Riêng tên Túc Thuận còn dám ngồi vào ngai vàng của trẫm. Mỗi khi vào nội đình (trong cung vua) để làm việc hắn ra vào tự do trước mặt, quả là không còn pháp kỷ gì nữa. Hắn chuyên dùng những đồ đạc ngự dụng trong hành cung. Rồi những khi truyền lấy đồ đạc để dùng thì hắn lại chống đối, không tuân chỉ. Hắn còn tự ý chia tách lưỡng cung hoàng thái hậu. Lúc triệu tới đối chất, lời lẽ của hắn tỏ ra dìm bên này má nâng bên kia, chủ đích chỉ để gây chuyện oán thù lẫn nhau.




Phàm bất cứ tội trạng nào cũng đều phải kính qua mẫu hậu hoàng thái hậu và thánh mẫu hoàng thái hậu rồi các vị nghị chính vương, quân cơ đại thần cứ theo từng điều khoản mà liệt kê xong mới truyền xuống cho hội đồng các vương công đại thần biết. Nay căn cứ vào sự án luật nghị tội của hội đồng Vương Công đại thần, thì bọn Tải Viên phải đem ra lăng trì xứ lý. Bởi thế phải tức khắc triệu kiến Nghị chính vương Dịch Hân, quân cơ đại thần Hộ bả tả thị lang Văn Tường, Hữu thị lang Bảo Quân, hồng lô tự thiếu khanh Tào Dục Anh, Huệ thân vương, Chuẩn thân vương Dịch Tung, Thuần thân vương Dịch Hoàn.




Chung quân vương Dịch Hợp, Phu quân vương Dịch Huệ, Duệ thân vương Nhân Thọ, đại học sĩ Cổ Trình, Châu Tổ Bồi, Hình bộ thượng thư Miêu Lâm, tất cả đều phải tới để được rõ về tội của Tải Viên, không ai được kiếm một cớ lý nào để thoái thác. Nay cứ theo sự xác nhận của toàn ban đại thần rằng bọn Tản Viên, Đoan Hoa, Túc Thuận ngang ngược, không chịu thán phục, đều thuộc tội đại ác đến cùng cực, đối với quốc pháp không thế khoan hồng, đồng thời cũng không thế có ý gì khác được.




Tuy nhiên trẫm nghĩ tới bọn Tải Viên đều thuộc dòng tôn thất riêng Tải Viên lại là cố mệnh đại thần, nhất định được điều khoan hồng. Song cái điều mà y tự nhận mình là Tán tương chính vụ thì hoàng khảo (vua cha) đâu có cái dụ ấy.




Bởi thế, nếu không trị tội y nặng nề, thi biết lấy chi đáp lại lòng phó thác của hoàng khảo, hơn nữa biết lấy gì tô điểm thêm cho pháp kỷ để chỉ rõ cho muôn đời về sau. Do đó, phải chiếu theo ngay lời nghị tội toàn ban đại thần mà lập tức lăng trì xứ tử. Có thề, mới xứng với cái tội đã gây ra. Song pháp luật của quốc gia còn có nhưng điều khoản nghị thân và nghị quý để đến phút chót còn có thể giám khinh. Trong trường họp hoàn toàn không thể khoan thứ, trẫm chỉ còn có thể miễn cho tội đem ném ra ngoài chợ. Mà Tải Viên, Đoan Hoa chỉ phải theo lệnh tự tận mà thôi. Vậy phải sai ngay Túc thân vương Hoa Phong, Hình bộ thượng thư Miếu Lâm tới căn nhà không trong Tôn nhận phủ lập tức truyền chỉ bảo chúng tự vận. Việc quyết định này bất quá chỉ là vì quốc thể mà làm chớ chẳng phải trẫm có tư ý gì với bọn Tải Viên, Đoan Hoa.




Còn đến Túc Thuận, thì cái âm mưu bội nghịch còn ghê gớm hơn cả bọn Tải Viên. Tội đó chính là tội phải đem lăng trì xử tử chỉ để làm sáng tỏ phép nước và khoái nhân tâm.




Song lòng trẫm có chỗ bất nhẫn, vậy trẫm gia sớ cho được sửa lại làm tội trảm lập quyết (tội chém ngay).




Vậy phải sai ngay Duệ thân vương Nhân Thọ, Hình bộ lư thị lang Tải Linh, tới pháp trường, giám thị cuộc hành trình đế làm điều răn cho những tên đại nghịch bất đạo.




Lại đến Cảnh Thọ, hắn là một vị quốc thích, ấy thế mà mồm câm như hến, không nói một lời. Sau đó, bọn Mục Âm, Khuông Nguyên, Đỗ Hàn, Tiêu Hựu Doanh, đứng trước sự cướp đoạt quyền chính của Tải Viên mà không thể lực tranh, thì đó đều thuộc bọn người có ân nịch chức. Mực Âm vốn là một quân cơ đại thần chức việc đã lâu, ngôi vị ở trước mọi người, tội tình lại càng nặng hơn. Toàn thể ban vương công đại thần nghị tội, xin đem Cảnh Thọ, Mực Âm, Khuông Nguyên, Đỗ Hàn, Tiêu Hựu Doanh, cách hết chức tước, đày đi Tân Cương khổ sai. Lý do nào có thể căn cứ để thể tình cho chúng chỉ là ở chỗ: bọn Tải Viên hung hãn bức bách quá khiến chúng bị kìm chế, bó buộc phải theo.




Bởi thế, trẫm gia ân cho như sau: ngự tiền đại thần Cảnh Thọ bị cách chức tức khắc, nhưng còn được để lại cho tước công và phẩm cấp của ngạch trật phò mã, miễn phải nghiêm khiến; Bộ binh thượng thư Mục Âm bị cách chức tức khắc, cho làm phát vãng quân đài (làm lính) đem công chuộc tội, Lại bộ tả thị lang Khuông Nguyên, thự lễ bộ hữu thị lang Đỗ Hàn, thái bộc tự thiên khanh Tiêu Hựu Doanh, cả ba tên đều bị cách chức tức khắc, nhưng gia ân cho miễn phải đi đày. Khâm thử".




Cả một tờ thượng dụ dài dòng và rõ ràng từng mục, đều là chủ ý của Ý quý phi.




Thế là cậu bé Đái Thuần ngất ngưởng ngồi lên ngai hoàng đế và Ý quý phi ngang nhiên thăng lên ngôi hoàng thái hậu.




Hiếu Trinh hoàng hậu ở phía đông, người trong cung đều gọi Đông thái hậu. Ý quý phi ở về phía tây, người trong cung gọi là Tây thái hậu.




Lúc đó, Túc Thuận đang nằm trong nhà lao của Tôn nhân phủ. Thuận nhận được thánh chỉ, vô cùng phẫn nộ, quay mặt về phía Tải Viên và Đoan Hoa lớn tiếng nói:




- Tụi bay chẳng nghe lời tao, mới ra cơ sự này!




Sự thể như sau: Lúc Hàm Phong hoàng đế lâm nguy, Túc Thuận có khuyên Di thân vương đánh cắp chiếc quốc tỷ trước rồi sau hãy điều khiển binh tướng, cầm chân hai thái hậu và ấu chúa lại không cho quay về kinh, mặt khác hạ dụ cách hết chức tước của bọn Cung vương, Vinh Lộc, cướp lấy binh quyền, nhiên hậu mới về kinh làm việc. Nhưng Di thân vương vốn nhát gan, không dám hạ thủ, để quốc tỷ rơi vào tay Tây thái hậu. Đã thế, bọn Thuận lại để cho lưỡng cung thái hậu về kinh trước, để họ được cùng phe đảng bàn bạc. Cơ hội tưởng không còn gì tốt hơn nữa. Thế mà rồi ra đều hỏng bét chỉ tại Di thân vương vừa nhát vừa ngu mà thôi.




Khi tù xa Túc Thuận đi dọc trên đường tới pháp trường, đám người hiếu kỳ đi xem đông như trẩy hội. Thấy Thuận thân hình béo mập, trắng trẻo, lại vì lúc quốc tang phải mặc áo bào trắng, chân đi giày vải, bị trói ngồi trên xe bò, họ xì xào chỉ trỏ, lộ vẻ vui mừng như là đã trả thù được cho chính mình. Lúc tù xa đi qua con đường chợ bò chợ ngựa, lũ trẻ con đứng hai bên đường, khoái chí vừa vỗ tay hoan hô vừa quát tháo:




- Bớ Túc Thuận! Tên gian tặc! Không ngờ mi lại có cái ngày hôm nay!




Hơn thế, đám đông còn lấy bùn đất ném vào Thuận khiến chỉ trong nháy mắt, bộ mặt trắng trẻo, cặp má phinh phính của Thuận bỗng đen ngòm. Pháp trường đông nghẹt người, khung cảnh vô cùng náo nhiệt.




Đầu Thuận vừa văng xuống thì bỗng trong đám người có một chàng thiếu niên chạy tới quỳ trước ngựa của Duệ thân vương, mặt mày đầy lệ. Vương hỏi xem ai thì chàng thiếu niên nọ tự nhận mình là con trai của cố đại học sĩ Bá Tuấn. Chàng ta xin xuất một ngàn lạng bạc mua cái đầu của Thuận để tế vong hồn của cha. Duệ thân vương vốn đã biết Bá Tuấn chết một cách oan uổng, hơn nữa lại thấy chàng thiếu niên khóc lóc thê thảm, liền bằng lòng. Tức thì chàng niên thiếu ấy lấy ngay một ngàn lạng bạc thưởng cho bọn đao phủ, tay xách lủng lẳng cái đấu của Thuận về nhà mời thân bằng cố hữu tới làm lễ dâng đầu lâu tế cha!




Tại sao lại có chuyện chết oan uổng này? Số là năm thứ tám đời vua Hàm Phong, Bá Tuấn làm đại học sĩ. Tuấn tuy là người Mãn nhưng thường cũng được cử ra làm chủ khảo.




Có một năm Tuấn được chỉ định làm chủ khảo Bắc Vi. Chẳng biết cớ sự ra sao bỗng có kẻ tế cáo Tuấn thông đồng hối lộ chấm đậu cho một tên làm nghề kép hát tên gọi Bình Linh.




Bọn công tử con nhà Kỳ hạ (người Mãn) vốn khoái ca hát cho nên nhiều lúc cao hứng cũng nhảy lên sân khấu, không ngờ đến trò vui đó lại dẫn tới chuyện nguy hiểm này. Song nếu người ta chịu xét lại văn bài thì đâu đến nỗi, bởi vì khi vào thi ai lại có thể xét kỹ được lai lịch nguồn gốc. Nhưng hồi đó Túc Thuận đang chuyên quyền, có ý muốn tạo ra một đại án, cho nên mới xảy ra những hậu quả vô cùng khủng khiếp.




Được đơn tố cáo Thuận vào ngay điện tấu với Văn Tông hoàng đế bắt trọn ổ toàn ban giám khảo Bắc Vi, từ quan chủ khảo tới ông cử nhân, chém luôn một lúc tới năm, sáu chục người. Riêng vị phó chủ khảo Chu Phượng Tiêu thoát chết chỉ là nhờ bị đau mắt, xin nghỉ, không vào trường thi, Tiêu giữ được mạng nhưng chức tước bị cách tuột.




Hình bộ thẩm vấn và định tội Bá Tuấn trảm lập quyết. Tất cả bọn đại thần người Mãn nghe án vội chạy tới quỳ trước ngai vàng khẩn cầu tha tội Tuấn. Nhưng Văn Tông hoàng đế lúc đó chỉ nghe lời Túc Thuận, chẳng những thế, còn bảo cả bọn đại thần này:




- Trẫm đâu có giết một vị tể tướng. Trẫm chỉ giết một bọn khảo quan mà thôi.




Hôm bị đưa ra pháp trường hành hình, Bá Tuấn phải chiếu theo luật lệ chỉ được mặc một chiếc áo đen phủ ngoài đi bộ tới cửa chợ rau, tạ ơn xong, rồi lẳng lặng đợi thánh chỉ. Tuấn quay lại dặn người con trai hãy đứng đợi tại chùa Tích Chiếu. Người con trai nghe lời cha vừa sắp bước đi thì bỗng thấy Hình bộ thượng thư Triều Quang kêu khóc ầm ĩ từ xa chạy lại.




Trời đã sang giờ thìn giờ tị, bọn đao phủ không cho Tuấn nói chuyện nhiều nữa liền chạy lại quỳ xuống xin Bá đại nhân thăng thiên (tức là chết). Lúc lâm tử, Bá Tuấn dặn con không cược quên cái thù giết cha này.




Một tiếng phập vang lên chắc nịch, đầu lâu văng ra xa đến mấy thước nằm xám ngoạch trên mặt đất loang lồ những dòng máu tươi. Có những người thời đó phúng Bá Tuấn câu đối như sau:




"Kỳ sinh dã sinh kỳ tứ dã ai, vu lộ lôi đình gi ai thánh đức"




"Thần môn như thị thần tâm như thuỷ, hoàng thiên hậu thổ giám cô trung"




(Lượt dịch: ông sống đã vinh mà chết lại càng thương, mưa móc sâm chớp đều là thành đức.




Cửa người bày tôi như chợ, lòng người bày tôi như nước trời cao đất dày hãy thấu cho nỗi cô trung).




Người con trai của Bá Tuấn chờ đợi lúc báo thù. Y đã thấy được cái ngày Túc Thuận cụt đầu trên pháp trường.




Thực ra không phải chỉ riêng con trai Bá Tuấn sung sướng được thấy kẻ thù bất cộng đới thiên đã chết một cách khốn khổ mà cả bọn đọc sách kinh thành ai cũng đều hả dạ.




Từ hôm đó cả thiên hạ đều đã nằm trong tay của Đồng Trị hoàng đế. Đồng Trị tôn xưng Thượng mẫu hậu hoàng thái hậu là Từ An hoàng thái hậu còn Thượng thánh mẫu hoàng thái hậu là Từ Hi hoàng thái hậu. Cung vương lại tâu xin hai bà thuỳ liêm thính chính ngồi trong rèm để nghe việc triều chính. Từ An hoàng thái hậu ngồi ở mé tây cùng nhận bá quan triều bái công việc triều chính.




Từ An thái hậu vốn người trung hậu lại không giỏi ăn nói, cho nên bất cử tấu sớ nào của bọn vương công đại thần đều do Từ Hi thái hậu hỏi han và trả lời để giải quyết.




Tiếng nói của Từ Hi đã lớn lại trôi chảy, giọng điệu cương quyết khiến bọn đại thần nghe mà phát sợ. Tuy vậy, cứ mỗi khi tới những điểm quan trọng hậu vẫn không muốn quyết định một mình, luôn luôn cùng bàn với Từ An xong rồi mới chịu truyền dụ.




Từ An thấy Từ Hi đầy đủ trí thông minh, tất cả đều hơn mình một bực nên mọi việc nhường cả cho Từ Hi giải quyết.




Song lúc thấy Từ Hi lầm lẫn, bà không hề chịu bỏ qua. Chủ ý của Từ Hi là làm sao nắm được quyền bính trong tay nhưng gặp phải Từ An giải quyết mọi việc hết sức nghiêm chỉnh nên không có cơ hội nào mà thao túng cả. Bởi thế Từ Hi bèn xếp đặt theo kế hoạch: ngoài thì liên lạc với Vinh Lộc là cháu mình, trong thì mua hết cả hai tên tổng quản An, Thôi cũng như tên thái giám tài hoa Lý Liên Anh để ngầm bảo chúng luôn luôn theo dõi đều mọi hành động của Từ An Thái hậu, chuẩn bị biện pháp chế ngự đối với bà này.




Trong khi Từ Hi mưu mô vậy thì Từ An vẫn như ngồi trong trống không hay biết tí gì. Bà biện lý mọi việc triều chính hết sức công bình chính trực. Mỗi khi có việc cần phó thác cho Cung thân vương chủ trì bà đều nói:




- Bọn tôi là đàn bà không biết nhiều điều, chỉ xin Lục gia lấy lòng trung làm việc nước giúp hoàng đế giải quyết mọi việc cho khỏi sai lầm, khi có việc chỉ cần Lục gia tâu rõ cho nghe một tiếng là đủ.




Cung thân vương vâng chỉ dụ của Từ An thái hậu nên thường vào cung tâu bày và bàn bạc việc triều chính.




Lại nói Từ An thái hậu vốn biết Tăng Quốc Phiên là một viên quan khá bèn thăng cho Phiên từ chức Lưỡng Giang tổng đốc lên chức đại học sĩ. Một chuyện đột ngột xảy ra khiến hậu quả thêm rắc rối giữa hai cung thái hậu. Số là Hà Quế Thanh để mất thành trì đại bại trước quân tóc dài ở phương Nam cho nên Hình bộ nghị án trảm quyết. Thanh vội vàng ngầm nhờ đến mười bảy ngươi đồng hương đồng quán và đổng tuổi ở kinh dâng sớ nói Thanh vô tội để cứu mình. Thanh lại còn phải xuất ra một vạn lạng bạc để mãi thông với Vinh Lộc khẩn cầu Lộc nói tốt cho mình trước Từ Hi thái hậu. Bọn này vốn thường cho Từ An thái hậu nhu nhược nên chẳng thèm để ý tới.




Chúng không ngờ câu chuyện này gây hậu quả khác hẳn. Từ An thái hậu theo tờ sớ của thường thị khanh Lý Đường Giai bèn hạ dụ chém Hà Quế Thanh. Trên tờ dụ có nói rõ Hà Quế Thanh lâm trận bỏ trốn, tội không thể tha.




Vụ án này khiến từ quan tướng tới sĩ tất thảy đều xanh mặt, gân giật lên thon thót, tứ chi cửu khiếu teo rúm lại hết.




Từ An thái hậu lại còn điều động Lý Đường Giai vào quân cơ và chỉ trong vòng một năm, đã thăng lên tới chức thượng thư.




Ít lâu sau ngoài tiền tuyến tướng Bảo Thắng thắng trận được mấy keo liền tỏ bộ kiêu căng hoành hành chẳng coi ai ra gì hết, đã thế Thắng lại còn tham lam dâm đãng làm hại dân lành không biết bao nhiêu mà kể. Lý Đường Giai biết vậy liền dâng sớ dàn hặc bằng một bản tấu chương hết sức chi tiết rõ ràng.




Từ An thái hậu xem xong nổi cơn đại nộ liền truyền dụ bắt ngay Bảo Thắng đưa về kinh tống vào nhà lao lớn của Hình bộ thẩm vấn minh bạch rồi hạ lệnh đem chém.




Vào hồi này bọn đại thần người Hán, trong số đó có Tăng Quốc Phiên, Lý Hồng Chương, Tả Tôn Đường chiến thắng bọn tóc dài, bọn thổ phỉ, bọn Hồi phỉ lập được khá nhiều công.




Bởi thế Từ An thái hậu bèn hạ chỉ phong cho bọn này tước hầu hoặc tước bá. Đã từ lâu Từ Hi thái hậu cho rằng Từ An là người nhu nhược nay thấy bà giải quyết mấy việc cứng rắn ghê khiếp bết giác cũng e ngại lo sợ ngày đêm trong lỏng và để hết tâm trí vào việc đối phó với bà, mong thực hiện mưu tính thao túng quyền hành sau này.

Hồi 144 lý Hồng Chương đại chiến quân tóc dài




Giữa lúc trong triều Đông thái hậu có biệt nhãn đối với bọn Tăng Quốc Phiên, nào phong bá phong hầu thì ngoài tiền tuyến phương Nam các tay em Phiên như Tăng Quốc Thuyên, Dương Tải Phúc, Bào Siêu liên tiếp báo tin mừng về kinh.




Sau khi khắc phục An Khánh, Tăng Quốc Thuyên dọc sông trẩy xuống Giang Ninh. Hai bên bờ sông, nhất là những nơi hiểm yếu, quân tóc dài vẫn còn đóng chặt. Thuyên bàn tính với Dương Tải Phúc điều động thuỷ sư chinh tiễn.




Bọn tướng tóc dài Trung vương Lý Tú Thành, Thị vương Lý Thế Hiền đại bại đành phải chạy trốn vào Giang Tây. Tới rồi, chúng đánh cướp Thuỵ Châu.




Lúc này, tuần phủ Chiết Giang đã cải nhiệm về tay Vương Hữu Linh. Bị quân tóc dài tấn công, Linh cố thủ được vài tháng, hết đường cứu viện, đành phải cắn ngón tay lấy máu viết thư, cho người chạy tới An Huy cầu viện. Tăng Quốc Phiên lúc đó đang phải nỗ lực đối phó với địch về mặt Giang Huân, nên không thể chia quân tới viện. Phiên đành phải thúc giục Tả Tôn Đường đem quân từ Cống Châu tới cứu. Nhưng quân của Tả chưa tới nơi thì thành đã mất.




Để mất Chiết Giang, Tăng Quốc Phiên tự nhận lỗi lớn tại mình, tự xin nghiêm trị. Thế nhưng chiếu chỉ từ trong kinh, đã chẳng những khoan miễn mà còn thăng Phiên lên chức Hiệp biện đại học sĩ, đồng thời sai Tả Tôn Đường làm trấn thủ Chiết Giang, hợp tác Phiên để hoạch định đại cuộc.




Đứng trước tờ chiếu đặc biệt này, Tăng Quốc Phiên vô cùng cảm kích, do đó càng cố gắng đem hết tâm lực để đền báo.




Trước hết, Phiên yết bảng cầu người tài. Ấy cũng vì đó mà một nhân tài xuất hiện, đó là Lý Hồng Chương.




Lý Hồng Chương tên tự là Thiếu Thuyên, người huyện Hợp Thi tỉnh An Huy, đậu tiến sĩ đời Đạo Quang đã từng được bổ nhiệm chức Đạo viên tinh Phúc Kiến, Tăng Quốc Phiên nghe tiếng Chương đa tài, vời vào làm mạc khách, sau đó tiến cử về triều.




Tăng Quốc Phiên sai Lý Hồng Chương quay về chiêu mộ đạo quân nghĩa dũng, chiếu theo bình chế Tương quân lúc trước mà tổ chức, để huấn luyện cho nghĩa quân vùng Hoài, Từ. Phiên lại chọn mấy tay danh tướng của Tướng quân như Trinh Học Khải, Quách Tùng Lâm để giúp Chương.




Lý Hồng Chương sau khi tuyển mộ dân binh, hết tâm huấn luyện tổ chức thành một đại đội hương dũng quân gọi là Hoài quân, dùng làm hậu ứng cho Tương quân.




Tháng hai năm thứ nhất niên hiệu Đồng Trị, Chương đem quân Hoài dũng đến An Khánh, Tăng Quốc Thuyên cùng với em là Tăng Quốc Bảo cũng đem quân Tương dũng kéo sang.




Thế là ba quân tề tựu. Thống soái Tăng Quốc Phiên quản hạt miền đông nam lúc này mới có đủ tinh binh mãnh tướng thực hiện được cái hoài bão "Bình Tây sát Tả" của mình nghĩa là đuổi cho bằng hết bọn quỷ trắng phương Tây và diệt cho kỳ sạch bọn tà đạo ma giáo ngoại lai. Quân nhiều lương đủ, thống soái Tăng Quốc Phiên liền phân binh nhiệm để phát động một chiến dịch đại quy mô tiêu diệt quân tóc dài. Lộ quân tiến đánh Giang Ninh được Tăng Quốc Thuyên thống lãnh có hai lộ thuỷ sư Dương Tải Phúc và Bành Ngọc Lân phụ tá. Lộ quân tiến chiếm Giang Tô do Lý Hồng Chương chỉ huy có thuỷ sư Hoàng Dực Thăng phụ tá Lộ quân khôi phục Chiết Giang quy cho Tả Tôn Đường điêu khiển, có Niết ty Quảng Tây là Tưởng Ích Phong được biệt phái đem quân bản bộ trước đây trợ chiến. Ngoài ra ở nhiều vùng khác, suốt giải Lư Châu thì giao cho Đa Long A suốt giải Ninh Quốc giao cho Bào Siêu, suốt giải Dự Châu giao cho Lý Tục Nghi lúc đó đã được điều nhiệm tuần phủ An Huy.




Tất cả những lộ quân quan trọng trong việc chỉnh tiễn tiêu diệt quân tóc dài này đều do Tăng đại soái thống lãnh.




Ngoài những lộ quân này ra ta còn thấy một số đơn vị khác tuy không nằm trong hệ thống chỉ huy trực tiếp của Tăng đại soái nhưng vẫn nằm trong kế hoạch diệt địch chúng của ông, đó là Viên Giáp Tam ở Hoài Thượng, Đô Hưng A ở Dương Châu, Phùng Tử Tài ở Trấn Giang.




Bình uy của Thống soái Tăng Quốc Phiên chẳng mấy chốc truyền khắp miền Hoa Nam quân tóc dài nghe mà hãi hùng.




Từng toán lương dũng xưa nay vốn có tâm không chịu ngoại đạo, hưởng ứng phong trào Bình Tây sát Tả, tự động đến đầu quân như nước. Nhờ đó quân Tương Hoài của Tăng đại soái chỉ trong vòng mấy tháng đã trở thành đông đảo rộng lớn lẫy lừng…




Chẳng bao lâu, tiệp phi báo về đại bản doanh Thống soái như bươm bướm, quân tóc dài bại trận khắp nơi. Tướng tóc dài Trần Ngọc Thành (Tứ Nhãn Cẩu) bị Đa Long A đánh bại về sau bị hành quyết tại phủ Vệ Huy tỉnh Hà Nam. Ngọc Thành chết, Thái bình Thiên quốc mất một danh tướng, miền Sở Hoản mất một tay cự phách chống quân Thanh.




Đã thế mặt Ninh Quốc, Thái Bình Thiên quốc lại bị Bào Siêu công phá, đuối Phụ vương Dương Phụ Thanh chạy dài…




Hôm đó Lý Hồng Chương chỉ huy quân Hoài dũng đang tính lên đường thì đám thân sĩ đất Giang Tô là Tiền Đỉnh Minh, Phan Phúc Keo tới đón tiếp tại đất Hoãn và dâng quân mười tám vạn lạng bạc. Thế là vừa xuất phát quân binh đã khởi hứng, khí thế lại càng hăng hái bội phần.




Bỗng đám chư binh ở Ngô huyện là đám Vương Thao xin vào yết kiến, Chương mời vào. Thao dâng kế:




- Các quan lớn của ta nơi đây thường mượn bọn Tây dương đánh giặc. Theo ngu ý của tôi thì mướn bọn này lương vừa tốn kém lại không được đông đảo. Chi bằng ta lấy quân của ta bổ sung vào và chỉ mướn bọn Tây dương huấn luyện cho quân ta về cách sử dụng súng đạn bắn phá, như thế kết quả có lẽ tốt đẹp hơn.




Chương nghe kế, gật gù khen phải! Bởi thế, khi Thao đi rồi Chương mới cho gọi Ngô Hú vào hỏi xem tình trạng của quân Tây dương, Hú nói:




- Thuỷ sư đề đốc Anh quốc và Pháp quốc, cả hai tuy nhận giúp ta, nhưng họ vốn là hạm trưởng ngoại quốc cho nên không chịu thuộc quyền điều động của ta. Người tốt hơn cả chỉ có Hoa Nhĩ người Mỹ, Nhĩ là người có tội đối với nước ta, chạy trốn về Thượng Hải. Do đó, Ngô mỗ mới hội thương với viên lãnh sự người Mỹ, giúp ta huấn luyện cách sử dụng súng đạn Tây dương để cho y có dịp chuộc tội. Nhĩ vì thế nên đem hết tâm lực để phục vụ cho ta. Nếu ta gọi hắn về huấn luyện quân đội, hắn quyết không bao giờ dám biến tâm!




Chương nghe nói, lấy làm mừng lắm, liền truyền lệnh cho Hú điều động ngay Hoa Nhĩ tới. Hai ngày sau, Nhĩ tới yết kiến Chương, Chương dùng lời lẽ ngon ngọt khuyến uỷ, bảo Nhĩ hết sức huấn luyện cho ba ngàn quân Hoài dũng, còn gọi là quân Thường thắng. Thanh triều có chỉ xuống, Lý Hồng Chương thụ lý chức tuần phủ Giang Tô. Như thế, Chương vừa chỉ huy quân sự, lại vừa cai trị cả địa phương.




Lý Hồng Chương truyền lệnh cho tham tướng là Lý Hằng Tung hợp binh với Hoa Nhĩ, đồng thời liên lạc với quân Anh, Pháp đánh lần hai thành Gia Định và Thanh Phố. Mặt khác chính thuỷ sư đề đốc Anh là viết thư yêu cầu Chương cho quân hội binh tiến đánh phố Đông Sảnh huyện.




Lý Hồng Chương bèn truyền lệnh cho các tướng Trình Học Khải, Lưu Minh Truyền, Quách Tùng Lâm, Đằng Tự Võ, Phan Đinh Tân tiến quân sang trấn Châu Phố thuộc huyện Nam Hồi làm Bắc lộ. Đề đốc Anh Hà Bá, đề đốc Pháp Bốc La Đức, từ Tùng Giang tiến binh sang Vệ Kim Sơn làm Nam Lộ.




Hai lộ quân vừa xuất phát thì bỗng được tin Lý Tú Thành xuất quân tấn công châu Thái Thương. Quân của tri châu Lý Khánh Thánh bị địch quân đánh phá tan nát. Thành thừa thắng tiến đánh Gia Định, quân Tây Dương thua to. Gia Định bị hãm, Thanh Phố vì thế lại càng bị uy hiếp nặng nề…




Trước tình thế nguy cấp Lý Hồng Chương vội điều động Trình Học Khải chuyển quân về chặn ách Hồng Kiều cản đánh để cầm chân Tú Thành. Mặt khác Chương cấp báo cho hai viên đề đốc Anh, Pháp gấp rút đem quân về cứu Thanh Phố.




Lúc này chính là lúc hai viên đề đốc Anh, Pháp vừa đánh lấy được Phụng Hiền. Nhận được công văn của Chương họ chuyển quân chọc mũi dùi về Thanh Phố thì vừa gặp bộ hạ của Tú Thành. Hai bên giao chiến. Đề đốc Pháp Bốc La Đức trúng đạn chết, đề đốc Anh là Hà Bá hoảng hốt vội kéo binh rút lui.




Tướng Mỹ là Hoa Nhĩ lúc đó đang giữ thành Thanh Phố thấy quân Anh, Pháp đều trốn chạy cũng vội vàng xông ra khỏi trùng vi chạy trốn về Tùng Giang.




Tướng tóc dài Lý Tú Thành kéo đại binh ồ ạt xuống Thượng Hải như nước vỡ bờ. Trình Học Khải trấn giữ Thượng Hải, trong tay chỉ ước độ tám trăm quân ứng chiến với trên dưới mười vạn quân tóc dài. Thật là hai lực lượng xa cách nhau một trời một vực.




Quân tóc dài lại công hãm Từ Cốc, Sử Trí Ngạc vội cho người về Hồ xin cứu viện.




Lý Hồng Chương liền sai tướng Mỹ Hoa Nhĩ thống lĩnh quân Thường thắng tới cứu lấy thành Từ Cốc, Nhĩ trúng đạn chết, quân Thường thắng đành phải quay về Tùng Giao do viên tướng Mỹ khác tên gọi Bạch Tề Văn thay quyền chỉ huy.




Không ngờ Văn đóng cửa thành lại đòi lương rồi kéo quân đi khắp nơi cướp bóc.




Lý Hồng Chương liền cất hết chức tước Văn, đuổi về Mỹ rồi chọn Qua Đăng, một viên tướng Anh chỉ huy quân Thường thắng.




Bạch Tề Văn coi việc bị đuổi là một điều nhục, đã chẳng không về nước mà còn quay lại phản. Văn bỏ sang hàng Lý Tú Thành nằm trong trướng quân tóc dài để lập mưu định kế.




Chẳng bao lâu Văn rút cục cũng bị Hoài quân bắt được giải tới Thượng Hải. Vô phúc cho Văn thuyền đi tới giữa sông lật úp khiến Văn chết đuối, kết liễu cuộc đời của một tên phản phúc.




Lý Hồng Chương sau khi giải cứu được Tùng Hồ liền tiến quân lên Tô Thường gọi hàng tướng tóc dài Lạc Quốc Trung ở Thường Thục và Tiền Thọ Nhân ở Thái Thương. Chương đánh Phúc Sơn lấy lại Côn Sơn, uy hiếp Tô Châu.




Lý Tú Thành từ khi đại bại ở Giang Ninh vội chạy vào Giang Bắc. Nghe tin phủ Ninh Quốc đã bị Bào Siêu công phá, Lương Sơn thì Đông cũng như Tây đều bị Quốc Phiên chia quân phòng vệ, Thành bèn chạy về Tô Châu.




Đến đây Chiết Giang bình, ta kể qua chiến sự giữa Tăng Quốc Phiên và Thạch Đạt Khai.




Sau khi rút khỏi Giang Ninh đại tướng tóc dài là Thạch Đạt Khai lúc đầu chạy sang Giang Tây chống cự với Tăng Quốc Phiên, rồi lại chạy sang Hồ Nam, nhưng nơi đây Khai lại bị Lạc Bỉnh Chương sai tướng truy kích kịch liệt khiến phải chạy về Quảng Tây. Tướng Ích Phong được tin liền tức khắc điều động quân binh đánh đuổi.




Thạch Đạt Khai lúc này chạy đã quá xa không còn liên lạc được với Hồng Thiên vương Tú Toàn cho nên một mình một cờ, chạy dài suốt một giải Hồ Quảng. Bởi thế Khai tự nhủ chi bằng chạy vào Cầm Thục chiếm thế độc bá sơn hà còn hơn.




Hồi này bọn cướp cạn miền Tứ Xuyên là Lam Đại Thuận, Lý Vĩnh Hoà thừa lúc loạn ly rối rắm kéo nhau đi bốn phương cướp bóc lung tung. Thạch Đạt Khai liền cấu kết với bọn này rồi thừa cơ vào Thục.




Thanh triều thấy Lạc Bỉnh Chương có công chinh tiễu giặc cướp liền bổ nhiệm tổng đốc Tứ Xuyên. Chương hành quân lên hướng tây trước hết dẹp yên hai nhóm cướp Lam và Lý sau đó mới bao vây và ra sức tấn công quân của Khai.




Thạch Đạt Khai vốn là một kiệt tướng tóc dài đạp bằng hàng trăm thành, chuyên dụng chiến thuật xuất quỷ nhập thần nơi biên địa, thường tránh thực mà đánh hư, vô cùng thần tốc và tài tình. Do đó, Lạc Bỉnh Chương bèn tương kế tựu kế, bàn mưu với viên mạc khách Lưu Dung, tìm cách bức bách Khai phải nhập biên rồi bao vây bốn mặt khiến Khai hết đường trốn chạy, tự nhiên rơi vào rọ lưới của mình.




Quả nhiên Thạch Đạt Khai kéo đại binh vượt sông Kim Sa lên hướng tây thẳng đường tới Việt Hoà Sảnh. Tức thì Chương sai trọng quân ngầm theo sau gót, mặt khác truyền hịch cho thổ ty Công bộ là Lãnh Thừa Ân đánh chặn phía trước.




Thạch Đạt Khai cố tránh đường tắt cho nên khi tới miền Sài Dã, Khai tính cho quân vượt đò sang sông. Bỗng một cơn mưa như trút nước ầm ầm đổ xuống thêm. Nước lũ trên núi tràn về như thác khiến Khai phải bỏ hẳn ý định ấy. Quân tóc dài không còn cách gì sang sông.




Xuyên tướng là Đường Hữu Canh đem quân đuổi tới. Khai chạy lên bãi Lao Nha. Canh hợp binh với quân địa phương bao vây tả hữu, bức bách quân Khai.




Thạch Đạt Khai đành liều vượt sông. Chập tối, quân lênh đênh giữa dòng bị Canh huy động quân sĩ tấn công. Quân tóc dài chết chìm đến quá nửa.




Thê thiếp của Khai cả thảy năm người, thêm một đứa con trai nhỏ, đều chìm đáy sông, và bị nước cuốn trôi đi mất tích.




Khai vội bơi vào bờ. Nhưng vừa chân chạm đất thì Lãnh Thừa Ân đã chờ đấy từ lâu, bắt sống được, tống vào tù xa, đưa tới trước hàng quân. Khai biết mình đã tới số, bèn quỳ xuống cầu kinh để sớm được lên thiên đường hưởng cảnh yên bình.




Đường Hữu Canh áp giải Thạch Đạt Khai đến Thành Đô (thủ đô Ba Thục). Khi đem ra lấy khẩu cung, Khai miệng nói xoen xoét, đàm luận hết sức lanh lẹ. Khai tự khai mình ba mươi ba tuổi. Đối với các tướng của Thái bình thiên quốc, cũng như tướng của Thanh triều, Khai đều phê bình, chê biếm cho là kém cỏi tầm thường cả, duy chỉ phục có mỗi một mình Tăng Quốc Phiên mà thôi. Khai khen Phiên là người tri nhân thiện nhiệm, kế hoạch tinh vi, kỷ luật nghiêm minh, thực chưa từng có một vị nguyên soái nào như vậy.




Về sau, Khai bị phanh thây ngoài chợ Thành Đô. Từ đó, Thái bình Thiên quốc lại mất thêm một tay kiện tướng khiến Thiên vương Hồng Tú Toàn khi hay tin, chỉ còn biết nhỏ nước mắt vừa để cảm thương vừa để buồn lo cho cơ nghiệp đang tan vỡ, khó có thể tái đồ lại được.




Sau khi mất Thạch Đạt Khai, Thiên vương Hồng Tú Toàn, chỉ còn một yếu địa: đó là thành Giang Ninh. Ở nhiều nơi khác, vây cánh tuy còn, nhưng sức tàn cũng chỉ còn như hơi thở của kẻ sắp lâm chung, Toàn tự biết cùng rồi, cho nên nhất luật phong vương cho các tướng chỉ huy ở các nơi, hy vọng được họ cảm kích, ra sức đền đáp lại mình. Nhưng Toàn không ngờ rằng càng phong vương nhiều thì kỷ luật càng loạn và mệnh lệnh tuy có ra mà không mấy ai thi hành.




Tăng Quốc Phiên được tin các miền Tô, Chiết đã khôi phục được cả, duy chỉ còn có Giang Nam chưa lấy lại được, liền một mặt tưởng lệ tướng sĩ, một mặt điều động tấn công.




Lý Tú Thành đem theo bại tốt đông chừng vài vạn, chia giữ Đàn Dương và Câu Dung, rồi đích thân mình đem theo vài trăm kỵ mã vào Giang Ninh, khuyên Hồng Tú Toàn bỏ kinh đô (Kim Lăng) tị nạn, nhưng Toàn không nghe. Thành vội viết thư cho Lý Thế Hiền tiến đánh Giang Tây, còn mình thì ở lại Giang Ninh để bảo, vệ kinh đô.




Thành đã nhiều lần xua quân cảm tấn kích doanh trại của Tăng Quốc Thuyên. Bởi thế, Thuyên phải tăng cường quân nghĩa dũng trấn thủ các nơi hiểm yếu.




Chuẩn bị một kế hoạch tấn công quy mô, Thuyên trước hết cướp Vũ Hoa đài sau đó san phẳng lớp tường đá ngoài cửa Tụ Bảo môn, và chia quân chặn ách Hiếu Lăng vệ. Tại vùng này duy chỉ có bái Cửu Phục, vốn một trọng trận đối diện bờ sông Giang Ninh là được quân tóc dài bảo vệ đến mức tối đa. Chúng tập chung tại đây đến mấy trăm chiến thuyền tích cực yểm trợ các nơi, một mặt tiếp ứng cho bên trong thành, một mặt chặn đứng sông Tràng Giang. Ngoài ra lại còn có nhiều đồn ải như đồn Lam Giang, đèo Thảo Hài, bãi Thất Lý, đồn Yến Tử, ải Thượng Quan, ải Hạ Quan, cắm cờ Thái bình Thiên quốc san sát, khí thế hết sức hung hãn.




Dương Tải Phục lúc này đã đổi tên ra Dương Nhạc Bân, chỉ huy thuỷ quân kéo tới bãi Cửu Phục, hợp lực với quân của Bành Ngọc Lân chia đầu giáp công. Lân thì tiến. Quân từ đèo Bách Hải sang, Bân thì xua quân từ đồn Yến Tử sang. Cả hai cánh quân đều mang súng lửa, đạn lửa, tuỳ nơi mà quăng vào.




Bãi Cửu Phục hai bên bờ mọc đầy lau lách. Bân đổ dầu vào rồi nổi lửa. Nam bắc hai bờ suốt dọc sông Đại Giang trong nháy mắt biến thành biển lửa. Thuyền bè của quân tóc dài đậu tại nơi đây nhiều chiếc bị thiêu rụi.




Bành Ngọc Lân sai tổng binh Thành Phát Tường xông qua khói lửa tiến lên, trước, hết leo lên nam ngạn. Quân tóc dài tại bắc ngạn lúc đó đang còn phải tử chiến với Dương Nhạc Bân. Tổng binh Hồ Tuấn Hữu trúng đạn chết. Bân giận lắm bèn truyền lệnh cho quân sĩ chỉ lui quân khi phá được bãi này. Bọn bộ tướng là Du Tuấn Minh, Vương Cát, Nhiệm Tinh Nguyên thay phiên nhau tấn công quân tóc dài theo chiến thuật xa luân chiến.




Hai quân đánh nhau ác liệt mãi đến chập tối, quân Thanh nhờ bóng đêm lẻn lên bãi, xông qua làn đạn, đạp lên thây người mà tiến. Thế là bãi Cửu Phục thất thủ. Quân Thanh bắt được đến hơn ba trăm con ngựa chiến và chém chết tại nơi đây có đến hơn vạn quân tóc dài.




Châu Cửu Phục bị phá, Giang Ninh càng thêm nguy khốn. Tăng Quốc Thuyên thừa thế đánh lấy luỹ đá tại núi Chung Sơn mà quân tóc dài gọi là Thiên Bảo thành. Thành Thiên Bảo vốn là bảo chướng thứ nhất xây ở ngoài thành Giang Ninh.




Thuyên phá được ải này, tức là đã nối khắp được vòng vây. Mặt khác Bào Siêu lại đánh tan cả Câu Dung và Kim Đan.




Quân tóc dài tan vỡ, vội chạy qua Giang Tây. Siêu liền hợp quân với thuỷ sư của Dương Nhạc Bân nhất tề truy kích quân tóc dài về ngả Giang Tây.




Bành Ngọc Lân cũng di quân về đồn trú tại Cửu Giang. Thanh triều sợ Tăng Quốc Thuyên cô thế, vội hạ chỉ cho Lý Hồng Chương kéo quân tới giúp, cùng phá Giang Ninh. Tăng Quốc Thuyên, từ khi khởi chiến Giang Ninh phí bao tâm lực, chịu bao khổ sở mới có được trận vây thành này.




Đây chính là lúc thành công đã tới tám, chín phần rồi, vậy lại có người khác từ xa tới để chia công, đừng nói Tăng Quốc Thuyên mà ngay cả các tướng lãnh bộ hạ của Thuyên thảy đều giận dỗi.




May được Lý Hồng Chương, vốn người tế nhị khôn khéo, hơn nữa còn là người do Tăng Quốc Phiên bảo tiến, bởi thế Chương không muốn hoạt động của Thuyên. Chương thối thác mình nhuốm bệnh để kiếm cớ không đi. Mặt khác, Chương tải năm vạn lạng bạc bằng tàu thuỷ tới dinh Thuyên để sung quân phí.




Được tăng quân phí, Thuyên liền cổ lệ tướng sĩ tiến đánh luỹ âm Kiên tại núi Long Bác Tử. Luỹ Âm Kiên này nếu so với luỹ Chung Sơn, còn kiên cố hơn nhiều, bởi thế quân tóc dài mới gọi là Địa Bảo thành.




Chẳng giữ được bao lâu, Địa Bảo thành cũng tan vỡ như Thiên Bảo thành. Thuyên lợi dụng ngay mặt thành này làm pháo đài rồi cứ ngày ngày nã đại bác vào trong thành Giang Ninh.




Trong thành hết lương. Dân chúng đói kêu khóc rầm rĩ. Phủ Thiên vương lúc đó đưa rau cỏ, hành hẹ, gạo thóc ra bán cho dân với giá cắt cổ, cân lạng ngang hàng với vàng y. Ít hôm, gạo hết, bán đến đậu. Rồi đậu hết, bán đế bắp. Nhưng rồi bắp cũng hết, phải bán đến thục địa, ý dĩ, hoàng tinh, hoặc trâu dê, heo, chó, gà vịt đủ loại. Các thứ này rồi cũng hết sạch. Lại phải đi hái rau ngoài bãi, đem nấu với đường cho chín, rồi viên lại thành từng viên, đặt một cái tên rất đẹp gọi là Can lộ liệu cơ hoàn (viên thuốc ngọt chữa đói).




Rồi đói đến mức dân chúng bất chấp giặc thù, cả mạng sống, cứ đêm đêm, họ rủ nhau buộc dây leo ra ngoài thành để kiếm ăn. Quân tóc dài lúc đầu còn cấm đoán, lùng bắt, sau cũng đành chịu, nhiều khi họ còn dám leo ra cả ban ngày nữa.




Thành Giang Ninh bị vây hãm đã đến lúc quá nguy. Bởi thế, không chịu đựng nổi cảnh lo rầu đau khổ. Hồng Thiên vương Tú Toàn trong một hôm trời mây u ám, quỳ xuống dưới đất, ngửng mặt lên trời, miệng lẩm bẩm cầu xin Chúa gia ơn đưa mình lên Nước Trời, đoạn gục mặt xuống lan can, lệ rơi đẫm tay áo hoàng bào. Rồi một lúc sau, vương nâng chén thuốc độc đặt lên môi, từ từ nhắp từng hớp để cho chất độc ngấm dần vào phủ tạng, cuối cùng bật lên mấy tiếng nấc bi ai, và ngã vật trên tấm thảm nhung đỏ chói, sắc mặt tái mét đi, ngực thoi thóp mỗi lúc một yếu dần…




Hồng Thiên vương Tú Toàn chết, bọn Hồng Nhân Phá, Hồng Nhân Đạt cùng lập ấu chúa Hồng Phúc Châu lên ngai vàng, tuổi lúc đó mới mười lăm, mười sáu hy vọng xây dựng lại cơ đồ




Tăng Quốc Thuyên được tin Toàn chết vội loan cho quân sĩ luân lưu đánh phá, đào địa đạo nhiều đến ba, bốn chục đường chực chui vào thành nhưng đều bị quân tóc dài chặn lấp mất hết. Lý Thần Điển, một bộ tướng của Thuyên sai bọn Ngô Tôn Quốc chọn chỗ quân tóc dài đặt nhiều đại bác nhất để từ đó đào địa đạo tiến vào. Mãi đến ngày mười sáu tháng sáu địa đạo mới được hoàn tất.




Thuyên truyền lệnh cho binh sĩ kẻ nào lui sẽ chém, trái lại kẻ nào có công sẽ được trọng thưởng, rồi bắt đầu châm ngòi địa lôi. Một tiếng nổ vang lên như sấm động, cửa thành tức thì bật tung ra và vỡ nát đến mấy chục trượng, khói toả mịt mù.




Lý Thần Điển đốc thúc quân sĩ gươm giáo ồ ạt xông vào. Quân tóc dài dòng thuốc pháo mồi lửa từ trên mặt thành ném xuống như mưa. Quân Thanh tử thương, vô số có kẻ bị cháy như đình liệu. Toàn quân cơ như khựng lại.

Hồi 145 Thái Bình thiên quốc tan rã




Bọn Bành Dục Quất, Tiêu Phu Tứ có nhiệm vụ xung phong phá ải nhảy vọt lên trước, giơ cao mũi giáo đâm chết luôn mấy tên quân tóc dài, như được khích lệ, hăng hái xông lên, chia đường, tràn ngập khắp nơi. Trung lộ, thi có bọn Vương Viễn Hoà, Vương Sĩ Ích, Chu Hồng Chương, La Vũ Xuân, Thẩm Hồng Tân, Hoàng Xuân Xương, Hùng Thưởng Tần, hùng hổ tấn kích thẳng vào phủ Thiên vương của Hồng Tú Toàn; hữu lộ, có bọn Lưu Liên Tiệp, Trường Thi Nhật, Đàm Quốc Thái, Thôi Văn Điển, xung trận do ngả Đài Thành tiến tới cửa Thần Sách môn, trong khi đó bọn Chu Nam Quế, Chu Duy Đường, Lương Mỹ Tài, cũng đã dùng thang leo lên cửa Thần Sách để vào trong, đánh nhau với quân tóc dài, suốt dọc núi Sư Tử, cướp lấy cửa Nghi Phượng môn. Tả lộ, thì do bọn Bành Dục Quất, Võ Minh Lương từ chỗ nền cũ của Nội thành đánh thẳng tới Thống Tế môn. Còn bọn Tiêu Phụ Tứ, Hùng Đăng Võ, Tiêu Khánh Diễn, Tiêu Khai Ấn, thì lại chia đường đánh phá hai cửa Triều Dương và Hồng Võ.




Đại tướng tóc dài lúc đó là Trung vương Lý Tú Thành. Thành đang chỉ huy quân đánh cận chiến với quân Thanh, từ trong các ngõ hẻm, các góc nhà, bỗng thấy bốn mặt thành đều bị tràn ngập, biết rằng đại thế đã cùng, liền cướp đường xông ra cửa Hạng Tây môn.




Nhưng tại cửa này cũng đang có bọn Trần Trực và Dịch Lương Hổ đánh phá dữ dội. Bất đắc dĩ, Thành đành phải quay về núi Thanh Lương, chui vào đám nhà dân lụp xụp bên đường để ẩn núp, trong khi đó Hoàng Dực Thăng đã đốc suất thuỷ sư phá tan Trung quân, rồi luỹ đá đồn Lạng Giang và cũng tiến thẳng tới cửa Hạng Tây môn. Thế là ba tướng Thực, Hổ và Thăng hợp lực lại, nhất tề đánh phá cửa này. Chẳng bao lâu cửa bị phá nát. Tất cả các cửa thành đến lúc này thảy đều bị phá, chỉ còn có phủ Thiên vương là chưa đánh vào mà thôi.




Trời sắp tối. Tăng Quốc Thuyên truyền lệnh cho quân sĩ tạm nghỉ. Đặc biệt chỉ có cảnh quân của bọn Vượng Viên Hoà, Vượng Ích và Chu Hồng Chương là vẫn phải tấn kích kịch liệt suốt đêm.




Canh ba đêm đó, trong phủ Thiên vương, bỗng nổi cửa sáng rực một góc trời. Rồi một chi quân tóc dài, tay cầm súng, đông đến hơn ngàn, xông ra và cứ thẳng đường phố thục mạng chạy, quân Thanh thấy vậy, không truy kích, chỉ kéo nhau vào phủ Thiên vương đập tắt ngọn lửa, kiểm, qua các xác chết. Phần lớn đều là cung nữ trong phủ, đặc biệt không thấy thi thể Thiên vương Hồng Tú Toàn và ấu chúa Phúc Châu đâu cả.




Trời lúc này đã sáng rõ. Tăng Quốc Thiên hạ lệnh đóng kín cửa thành rồi cho lùng bắt và đem chém quân tóc dài đến hơn mười vạn người, suốt trong ba ngày đêm liên tiếp.




Qua ngày mười chín, Tiêu Phu Tứ mới tìm ra được bọn Hồng Nhân Phát và Lý Tú Thành bắt đem hỏi cung, lúc đó mới biết thây ma Hồng Thiên Vương Tú Toàn đã đem chôn kỹ trong nội cung, còn ấu chúa Phúc Nhân thì nhân đêm đôi bên giao chiến đã nhờ đường hầm trốn chạy ra ngoài.




Hạ xong thành Giang Ninh, thủ đô của Thái Bình Thiên quốc, Tăng Quốc Thuyên vội cho phi tinh mã báo tiệp cho Tăng đại soái Quốc Phiên. Phiên liền uỷ nhiệm cho tổng đốc Hồ Quảng là Quan Văn cầm đầu phái đoàn mang công hàm về triều tâu báo.




Một đạo chỉ dụ của Thanh triều ban xuống, nội dung nói:




"Ngày hôm nay Quan Văn và Tăng Quốc Phiên có một bản sớ tâu tiệp về việc bình an thành tỉnh Giang Ninh, thực đã làm cho thần dân trong thiên hạ ai cũng phải ngợi khen ca tụng.




Tên nghịch tặc tóc dài Hồng Tú Toàn khởi loạn năm thứ ba mươi niên hiệu Đạo Quang, đánh phá từ Quảng Tây đến Lưỡng Hồ, Tam Giang, đồng thời chia quân gây loạn khắp các tỉnh Trực Lệ và Sơn Đông, hành tung phản nghịch cơ hồ gần khắp cả thiên hạ. Năm thứ ba niên biểu Hàm Phong hắn chiếm cứ thành tỉnh Giang Ninh, tiêm xưng nguỵ hiệu.




Trăm họ miền Đông Nam, bị Toàn giết hại, thê thảm chẳng bút nào tả xiết, do đó, tội hắn đã dầy, người cũng như thần thánh ai ai đều giận. Hoàng khảo ta là Văn Tông Hiến hoàng đế lấy làm cả giận vâng mệnh Trời phạt hắn nên đặc sai Lưỡng Hồ tổng đốc là Quan Văn làm khâm sai đại thần, cùng với tiền nhiệm tuần phủ Hồ Bắc là Hồ Lâm Dực tảo thanh miền thượng du Sở Bắc, do đó Dực đồn trú suốt giải Tú Tùng trù hoạch kế sách đông chinh. Mặt khác lại còn bổ nhiệm Tăng Quốc Phiên làm Lưỡng Giang tổng đốc kiêm nhiệm chức khâm sai đại thần định kê đông chinh, miền Giang Hoãn.




Hiệu lệnh đã được vâng theo triệt để, công lao thành tích mỗi ngày một rạng rỡ vẻ vang.




Tháng bảy năm thứ mười một, Hoàng khảo ta đi Thượng Tân, lúc đó phần nửa quận huyện Giang Chiết bị luân hãm, đã có di chiếu để lại lấy cái việc chưa tiêu diệt được bọn nghịch tặc vong bản tà đạo, tay sai của lũ quy trắng làm căm giận bực ghét. Trẫm tuy vâng kế nghiệp của tiên liệt, nhưng còn quá nhỏ, phải phụng nghinh lưỡng cung Hoàng thái hậu buông rèm nghe chinh chỉ bảo việc nên làm, bèn bổ nhiệm Tăng Quốc Phiên Làm hiệp biện đại học sĩ tiết chế quân vụ bốn tỉnh để thống nhất mọi quyền hành.




Từ khi thu nhiệm đến nay vị đại thần ấy chia quân đi tiêu diệt bọn nghịch tặc khắp miền thượng dụ, đồng thời thông sức cho các tướng Bành Ngọc Lân, Dương Nhạc Bân, Tăng Quốc Thuyên, thuỷ lục đều tiến, khắc phục liên tiếp hàng trăm thành quách đồn ải ở dọc sông. Chém đầu đến mười mấy vạn tên nghịch phỉ cũng như tên ngoại quốc tiếp viện, hợp lực vây khốn thành Giang Ninh, cắt đứt đường tiếp tế của giặc.




Ngày mười sáu tháng sáu năm nay, Tăng Quốc Thuyên thống suất chư tướng định chiếm lại thành Giang Ninh (kinh đô của Thái bình Thiên quốc), đã bao năm rơi vào tay giặc.




Suốt trong ba ngày từ mười sáu, mười bảy, đến mười tám, tướng sĩ lùng bắt chém sạch bọn nguỵ vương, nguỵ chủ tướng, nguỵ thiên tướng đến hơn ba ngàn tên cũng như bọn đồ đảng đông có tới hơn mười vạn không thoát được lấy một đứa! Đây thực là một việc nhờ ơn Trời phù hộ, Liệt thánh rủ lòng thương, nhờ Lưỡng cung Hoàng thái hậu nơm nớp lo việc cai trị, biết đề bạt nhân tài, dùng kẻ hiền năng, khiến sự trong ngoài một lòng, tướng sĩ tuân mạng, cho nên mới thành được công lớn này, trên có thể an ủi linh hồn của Hoàng khảo trên trời, dưới có thể thoả nguyện toàn thể nhân dân trong bôn bể. Trong trường hợp này, nếu không phải là người có đức có nhân thử hỏi làm sao mà được thế. Càng ngẫm tới cái ý chí của Tiên hoàng chưa thực hiện được, tự mình chưa thấy được thành công thứ hỏi nỗi mềm bi thương làm sao cho nguôi được?




Phen này tên nghịch tặc họ Hồng khởi loạn tại Việt Tây, đã mười lăm năm trộm chiếm Kim Lăng, cũng đã mười hai năm giày xéo, mười mấy năm công hãm hơn trăm thành trì, ấy thế mà quân ta đã lần lượt quét sạch diệt trừ được mầm mống độc ác.




Bọn đại thần chỉ huy quân đội mưa móc chất chứa, phong trần gian nan nếm đủ, thật rất nên đền đáp đặc ân, thù lao xứng đáng. Khâm sai đại thần hiệp biện đại bọc sĩ Lưỡng Giang tống đốc Tăng Quốc Phiên thủ xướng việc đoàn luyện đồng thời thành lập chu sư tại Hồ Nam từ năm thứ ba niên hiệu Hàm Phong đã từng cùng bọn Tháp Tê Bố, La Trạch Nam kiến lập nhiều công trạng đặc biệt, bảo toàn các quận huyện tỉnh Hồ Nam, khắc phục các thành trì miền Võ Hán, tảo thanh khắp toàn bộ tỉnh Giang Tây, nhất là trong lúc chinh đông xuất quân từ Tú Túng đánh lấy tiềm sơn Thái Hồ, tiến đánh Kỳ Môn nhiều lần đánh lấy lại được các quận huyện miền Huy Châu rồi đoạt thành tỉnh An Khánh đế làm căn bản, sau đó truyền lệnh chia quân thuỷ lực lại khắc phục các châu quận miền hạ du. Nay công lớn đã cáo thành đều do vị đại thần này tính toán kế hoạch không có chỗ nào sai. Vừa mưu dũng kiêm bị lại vừa trí nhân thiện nhiệm, điều động rất là xác đáng.




Bởi thế, Tăng Quốc Phiên được gia thưởng hàm Thái tử Thái bảo, tứ phong đệ nhất đẳng hầu tước, thế tập đời đời, đồng thời thưởng cho mão Song Nhãn Hoa Linh, tuần phủ Chiết Giang Tăng Quốc Thuyên vốn nho sinh lòng nhưng theo Tăng Quốc Phiên tiễu địch ở mấy tỉnh, công trạng khá rực rõ, năm thứ mười niên biểu Hàm Phong từ nơi đất Tương chiêu mộ nghĩa đũng, khắc phục được thành tỉnh An Khánh đền năm thứ nhất và thứ hai niên hiệu Đồng Trị, khắc phục liên tiếp mấy nơi như Sào Huyện, Hàm Sơn, Hoà Châu, thống suất các dinh thuỷ lục, tiên bức Kim Lăng, đồn trú tại Vũ Hoa đài công phá nguỵ thành.




Khi bị quân giặc vây dinh, khổ thủ cô thành đền mấy tháng, cố sức đánh lui quân địch; rồi đến tháng giêng năm nay đánh lấy luỹ đá ở núi Chung Sơn để nối vòng vây Giang Ninh, đốc thúc tướng sĩ ác đấu, khai quật địa đạo, thâu lượm tên đạn lâu tới nửa tháng mà vẫn không chịu rút, cuối cùng khắc phục toàn thành, diệt trừ được tên đầu trò phản tặc, tất cả sự thực đều nhở ở cái đức kiên nhẫn chịu đựng khổ cực và cái tâm trung dũng vì nước. Bởi thế Tăng Quốc Thuyên được gia thưởng hàm Thái tử Thiếu bảo, tử phong đệ nhất đảng bá tước, đồng thời thưởng cho mão đội Song Nhãn Hoa Linh. Lại đền đề đốc Lý Thần Điển tuy ở giữa đám súng đạn tơi bời, thế mà vẫn khai quật đại đạo thề chết diệt giặc, rồi khi thành bị nổ tan liền đi đầu xông vào để cho quân sĩ theo sau, nhờ đó mà cướp được thành, thực là mưu dũng hơn người. Bởi thế Lý Thần Điển được gia phong ân tứ đệ nhất đẳng tử tước đồng thời thưởng cho áo Hoàng mã quải, mão đội Song Nhãn Hoa Linh, Sau Cùng Tiêu Phu Tứ độc biện phào đài đi trước cướp cửa xông vào bắt được bọn Lý Tú Thành và Hồng Nhân Phát thực quả có một huân lao cao cả lấy lừng.




Bởi thế Tiêu Phu Tứ được gia phong ân tứ đệ nhất đẳng nam tước đồng thời thưởng mão đội Song Nhãn Hoa Linh. Khâm thử".




Ngoài bốn yếu nhân như tờ chiếu đã nói ra, người ta còn thấy đến một trăm hai mươi người, vừa văn quan, vừa võ tướng đều được huân công thăng thưởng. Thế là một cuộc loạn ly lớn lao tới đây đã kết thúc.




Tăng Quốc Phiên từ An Khánh tới Giang Ninh trước hết cho quật mồ kéo thây ma Hồng Tú Toàn lên thì thấy thây Toàn dùng vải đoạn vàng thêu rồng liệm quanh mình, đầu Toàn húi trụi không có tóc, râu Toàn đã bạc trắng và vì theo dị giáo (tôn giáo lạ của nước ngoài), nên không dùng quan quách chôn cất. Phiên hạ lệnh cho bắn nát thây Toàn, đốt xương ra tro rồi đem xử tử bọn Hồng Nhân Phát và Lý Tú Thành. Duy chỉ Hồng Phúc Chân (con trai Toàn) không biết trốn chạy nơi nào. Tuy Phiên vẫn tấu về triều là tất cả đều đã chết hết nhưng thực ra Chân đã chạy ra Quảng Đức rồi quay sang Hồ Châu biệt tích.

Hồi 146 Lùng bắt ấu chúa Phúc Chân




Lúc này các quận huyện Chiết Giang lần lượt được thu phục nhưng Hồ Châu vẫn còn do tướng tóc dài tên gọi Hoàng Văn Kim trấn giữ, quân nhà Thanh ở Tô, Chiết đánh dẹp mãi mà chưa xong.




Kim đón ấn chúa tóc dài Hồng Phúc Chân đến Hồ Châu nuôi dưỡng. Lý Hồng Chương dò la được tin này, vội chạy hịch cho bọn bộ tướng nô lực lập công. Do đó bọn Chiết tướng (tướng ở Chiết Giang) là Cao Nguyên Thắng, Vương Nguyệt Lương, Thái Nguyên Cát, Đặng Quang Minh, đem quân đánh mặt đông nam Hồ Châu, còn bọn Tố tướng (tướng ở Tô Châu) là Dương Đỉnh Hân đem quân đánh mặt tây bắc Hồ Châu. Hai cánh quân này phá tan các luỹ đá ở ngoài thảnh, tiêu diệt quân địch vô số.




Hoàng Văn Kim thống suất vài vạn quân mở cửa tây xuất chiến. Quách Tùng Lâm liền điều động quân thuỷ lục đánh mé tả. Vương Vĩnh Thắng chỉ huy bộ quân theo đường tắt qua núi đánh mé hữu, Kim xoay trần cả đôi cánh tay múa tít cây đại đao tả xông hữu đột nhưng chỉ được có mấy hồi đã bị đại bác bắn chặn lại, dù vậy Kim vẫn liều chết, cố đánh tiếp. Bỗng có tin báo cửa đông bị vỡ, Kim tức thì tâm hoảng ý loạn vội phò ấu chúa Phúc Chân chạy về hướng tây, trốn vào mãi giữa thung lung núi tại phủ Ninh Quốc. Không ngờ Kim lại chạm trán với Bào Siêu tại đây và bị Siêu đánh cho một trận tan hoang, thây nằm ngổn ngang đầy đường.




Kim không biết tính cách nào hơn là chạy quay về Thuần A, Chiết Giang. Nhưng mới được nửa đường lại gặp phải Chiết tướng Hoàng Thiếu Xuân. Trông trước ngó sau thấy hết đường chạy, Kim đành phải liều mạng đánh tràn mình bị đến mấy chục vết thương mới thoát khỏi vùng vây.




Được tin bọn Lý Thế Hiền, Uổng Hải Dương hiện ở Giang Tây, Kim liền quyết kế chạy sang để cầu viện. Nhưng đi mới được vài chục dặm, vết thương của Kim phát tác dữ dội, Kim thổ huyết rồi chết. Khi lâm chung, Kim chối lại cho người em là Hoàng Văn Anh cố hộ vệ Phúc Chân tới được Giang Tây.




Hoàng Văn Anh đưa Phúc Chân tới Quảng Tín, sau lưng bị Chiết quân truy kích ráo riết, trước mặt lại có quân Giang Tây đang sẵn sàng, chỉ còn cách chuyển hướng chạy sang Thạch Thành.




Án sát sứ Tịch Quảng Điền vừa tấn công Lý Thế Hiền tại Sùng Nhân, được tin Hồng Phúc Chân đã chạy vào Giang Tây, e rằng Chân liên hợp với Hiền, liền xuất lính khinh kỵ chạy tắt đến huyện Thạch Thành thì vừa gặp bọn tóc dài Hoàng Văn Anh. Không còn kịp trốn tránh nữa, Anh đành miễn cưỡng tuốt kiếm chống cự. Nhưng Anh lúc này đã lực kiệt, thế cô, đánh đấm qua loa rồi cam chịu quy hàng đồng thời với cả mấy chục viên tướng tóc dài khác, trong số còn vài người họ Hồng như Hồng Nhân Cao, Hồng Nhân Chính.




Một điều lạ cho Điền cũng như toàn cánh quân Thanh lúc đó là không thấy ấu chúa Hồng Phúc Chân đâu cả. Điền cật vấn bọn Anh nhưng tất cả đều không chịu thực cung.




Mãi sau Điền dụ dỗ đứa trẻ chăn ngựa cũng bị bắt lúc đó, mới biết Phúc Chân đã chạy trốn, còn lẩn quất trong núi chưa ra.




Tịch Quảng Điền liền chia quân chặn hết các cửa rừng, rồi tự mình đốc suất bộ tướng lục tìm. Suốt hai ngày, tên bộ tướng của Điền tên Chân Gia Lương mới bắt được Chân.




Điền như bắt được của báu, liền áp giải ngay về Nam Xương, tuần phủ Thẩm Bảo Trinh cấp tấu ngay về triều. Một đạo chỉ dụ hạ xuống truyền cho chính pháp ngay tại chỗ. Chân bị đem xé xác còn bọn Anh, Cao, Chính tất cả đều bị bêu đầu ngoài chợ để răn chúng. Họ Hồng như thế đã hết. Sự nghiệp lẫy lừng trong mười lăm năm trời bỗng nhất dán tiêu tan.




Khang vương Uổng Hải Dương, một đại tướng của Thái Bình Thiên quốc, sau khi tụ tập được đến mười vạn quân thiện chiến, hầu hết là những tín đồ của đạo mới đã kéo tới Giang Tây để đón ấu chúa, chỉ còn cách chỗ ấu chúa bị bắt có vài trăm dặm bỗng nghe được hung tin này kẻ nào kẻ nấy thất vọng rã rời, Dương chán nản quá bèn trốn chạy vào Phúc Kiến.




Mặt khác Lý Thế Hiền cũng từ Cống đem quân vào Mân, thấy nơi đây sơ hở không bố phòng cẩn mật liền cướp phá lấy luôn hai quận Đinh và Chương làm căn cứ.




Án sát sứ Trương Vận Lan đem năm trăm quân đối địch. Quả bất địch chúng, Lan không chống nổi Hiền, liền bị chém chết ngay tại trận tiền. Đề đốc Lâm Văn Sát cũng cùng chung số phận với Lan ở Chương Châu. Hai châu miệt tỉnh Mân rung động khủng khiếp, Lý Hồng Chương được tin này phi hịch cho bọn Hoàng Thiếu Xuân, Lưu Minh Đặng hành quân từ Cù Châu sang Diện Binh làm Trung lộ, bọn Lư Điển, Vương Đức Bảng chuyển từ Kiên Xương qua Đinh Châu làm Tây lộ, bọn Cao Liên Thăng xuất trận từ Ninh Ba vượt bể vào Phúc Kiến rồi ra Hưng Tuyền làm Đông lộ. Tuy ba lộ quân này rầm rộ kéo tới Mân nhưng e rằng còn khó thắng, Lý Hồng Chương cũng vội sai bọn Quách Tùng Lâm và Dương Đinh Huân điều động quân sĩ thuyền tới Mân, hợp lực với ba lộ quân kia vây khốn Chương Châu, mặt khác Bào Siêu cũng kéo binh Từ Giang tới Võ Bình. Thế là quân Thanh đã hội họp đầy đủ chỉ còn chờ lệnh tấn công.




Được tin đại quân của Thanh triều kéo tới. Lý Thế Hiền và Uông Hải Dương vội bỏ Mân chạy sang Việt, đánh lấy Trấn Bình. Nhưng trong một cuộc thảo luận kế hoạch quân sự Hiền bất đồng ý kiến với Dương, Dương tuốt kiếm đâm chết luôn Hiền.




Thế là hai tướng chỉ còn lại một. Dương lại tính kéo tàn quân về Giang Tây. Giữa đường Dương bị Tích Bảo Điền chặn đánh, bị mấy mũi mâu vào lưng đành phải bỏ ý định, chạy về Quảng Đông cướp ngay Châu Gia Ứng.




Lý Hồng Chương được tin này thôi thúc Bào Siêu đem quân vào Việt, đích thân mình cũng điều binh theo để đốc chiến.




Do đó Chiết quân vây Châu Gia ứng ở mặt đông nam, Bào quán ở mặt tây còn mặt bắc thì giao cho Việt vây kín. Duy chỉ còn có mặt nam, đó là nơi đồn trú của địch quân.




Uổng Thanh Dương đốc quân toàn trại xuất chiến. Quân Thanh thua, Dương lại phát binh tấn công Chiết quân, bọn Hoàng Thiếu Xuân, Lưu Điển, Vương Đức Bảng cũng đều bại, Dương thừa thắng đuổi đánh ráo riết. Quân Thanh chạy dài.




Các lộ quân Thanh được tin quân nhà thất trận bèn tức thì cùng lúc ba mặt giáp công. Uổng Hải Dương bị một phát đại bác chết ngay trong trận… Quân tóc dài rút chạy vào thành, suy tôn Tăng vương Đàm Thề Nguyên lên thay. Nguyên vốn nhu nhược nên hoảng hốt vội mở cửa nam chạy ra.




Quân Thanh truy kích tới núi Hoàng Sa. Đây là một vùng hiểm trở, hoang vắng không đường đi lại. Quân tóc dài bị dồn vào đây, hết đường chạy, bốn mặt lại bị quân Thanh vây kín.




Biết đã đến ngày tận số quân tóc dài đều quỳ cả xuống chân núi, mặt ngước lên trời miệng lẩm bẩm cầu chúa cha, chúa con, chúa thánh thần thương họ, chóng đưa họ lên cõi Thiên đàng, xong đâu đấy phất cờ trắng xin hàng.




Nhưng với quân Thanh thì lúc này không có hàng, bởi thế Đàm Thể Nguyên, các tướng lãnh song hành cũng như toàn quân tóc dài đều bị giết chết, không còn sót lấy một mống.




Thái Bình Thiên quốc tan rã hoàn toàn. Đấy là hồi tháng mười hai năm thứ tư niên hiệu Đồng Trị.

Hồi 147 Giết tên thái giám đực rựa




Loạn ngoài vừa yên thì loạn trong lại nhóm. Loạn ngoài là cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên quốc. Loạn trong là xung đột giữa hai bà hoàng thái hậu nhà Thanh.




Đã từ lâu, Từ Hi thái hậu vẫn tưởng Từ An thái hậu là người nhu nhược, nay bỗng thấy bà này thẳng tay giết Hà Quế Thanh; tống Bảo Thắng vào lao, phong tước hầu tước bá cho bọn Tăng Quốc Phiên, Lý Hồng Chương… trong lòng cũng lấy làm hoảng. Bà vội về cung triệu An Đắc Hải tới bàn tính kế hoạch.




An Đắc Hải là ai vậy? Là một tên thái giám được Từ Hi thái hậu sủng ái và tin dùng nhất. Đừng nói đối với cung nội nữa mà cả đến khắp trong triều đình Hải cũng có những quyền hành rất lớn. Hải thường cậy thế lực của Từ Hi áp bách cả bọn Vương công đại thần.




Hồi này quyền hành của Cung thân vương cũng chẳng nhỏ. Vương vốn là một đại thần thân tín của Tử An, thấy Hải lăng loàn kiểu đó, sớm đã có nỗi lòng căm giận. Cho nên khi Đông hậu triệu kiến, vương liền tâu Hải tham tàn bất pháp như thế nào, vượt phận chuyên quyền ra sao, trong khi đó Hải cứ nghênh ngang và càng lộng hành hơn trước.




Ở bên ngoài Hải cung cậy thế Tây thái hậu kéo bè lập đảng khắp nơi. Khá nhiều đại thần đã chạy theo phe của Tây hậu, do đó bè cánh của Tây hậu ngày một đông thêm và cũng do đó quyền hành của Hải ngày một lớn thêm.




Một hôm Tây hậu truyền cho Hải vào cung bàn tính. Bà nói:




- Từ An thái hậu càng ngày càng chuyên quyền, động một tí là giết đại thần, giam tướng lãnh. Người phải cẩn thận đề phòng lắm mới được. Ở bên ngoài, người có đánh trống gõ mõ om sòm, làm ăn xoay sở quá đáng e xúc phạm tới Đông hậu thì nguy đấy, chẳng phải chuyện chơi đâu.




An Đắc Hải nghe xong, đã chẳng chút sợ hãi lại còn hậm hực nói:




- Sợ bà ta cải quái gì? Hoàng thượng vốn là hoàng thượng của Thái hậu bọn tôi mà uy quyền của bà ta dù có lớn tới đâu chăng nữa cũng chẳng thể qua mặt được thái hậu bọn tôi. Nguyên do chỉ tại thái hậu nể nang, việc gì cũng nhường bước bà ta mà ra. Theo ý nô tài thì từ nay Hoàng thái hậu đừng chịu vậy nữa. Cứ nhường một bước là y như Đông hậu tiến một bước. Kiểu này thì đừng nói bọn nô tài tôi một ngày kia không còn có cơm ăn mà ngay cả hoàng thái hậu cũng mất luôn cả chỗ đứng nữa là khác.




Mấy câu này của Hải đã đánh trúng tâm lý Tây hậu. Bà gật đầu, miệng khẽ buông tiếng lo ngại:




- Đúng! Đúng thế!




Thế rồi từ đó Hải thường xun xoe trước mặt Tây thái hậu để hiến kế dâng mưu, nào là chuyên quyền phải làm sao, kết bè kéo cánh phải như thế nào. Hải còn thường xuất cung tới nhà Vinh Lộc để bàn tính công việc.




Cung thân vương cho người luôn luôn theo dõi, dò xét Hải nên mọi hành động của Hải và đồng bọn đều bị ông khám phá hết. Vương vào cung tâu bày với Đông hậu, xin cho hạ bằng được An Đắc Hải. Đông hậu tuy vậy chứ vẫn nể mặt Tây hậu, chẳng tiện thẳng tay.




Một hôm vì quân vụ miền Giang Nam, vương phải vào cung xin gặp Đông hậu. Bà bảo vương tới thỉnh ý ở Tây hậu. Khi đi tới cửa Tây cung, vương thấy An Đắc Hải cũng vừa dợm bước vào.




Rõ ràng Hải nhìn thấy Cung thân vương mà chẳng chịu tới chào hỏi, đã thế còn làm bộ lật đật chạy vội qua cửa như có việc gì cần kíp lắm. Vương còn giận hơn nữa khi vào tới cung lại bị bọn thái giám chặn lại, nói thái hậu có việc bận chưa được phép vào. Vương đành tức tối mà ngồi chờ ngoài cửa cung.




Không ngờ đợi tới chiều tối mà vẫn chẳng được truyền vào vương tức giận giậm chân xuống đất bình bịch, mặt hầm hầm đi ra khỏi cung. Tới giữa đường gặp Thuần thân vương, Cung vương kể cho nghe thái độ vô lễ của Hải và thề quyết phải giết hắn.




Tại sao lại có chuyện bỏ mặc Cung thân vương? Nguyên do chỉ tại hôm đó Từ Hi thái hậu bận bàn chuyện đi Sơn Đông lấy "long y" (áo rồng) với An Đắc Hải, không ngờ được rằng có Cung thân vương xin vào yết kiến. Còn Hải quả có thấy vương nhưng cố ý bảo bọn thái giám không thông bảo chỉ là để đùa dai vương một phen.




An Đắc Hải được mật chỉ của Tây hậu lẻn ra khỏi cung tìm đường đi Sơn Đông chuẩn bị xuống Giang Nam thay Tây hậu cho cắt may áo long y bằng gấm vàng.




Theo luật lệ của triều nhà Thanh thì đã là thái giám, cấm không được phép rời kinh thành một bước. Phạm tội đó, thì lập tức đem chính pháp (chém đầu).




An Đắc Hải xuất kinh chuyến này, đã không biết che giấu lại còn phách lác om sòm suốt dọc đường. Thực tế, Hải mượn uy của Tây hậu tự xưng khâm sai đại thần mặc sức quấy nhiễu địa phương, bức bách quan lại.




An Đắc Hải ngồi trên một cặp thuyền nổi, hiệu là Thái Bình thuyền, phía trên cắm Tam Túc Ô kỳ, hình mặt trời, còn hai bên cắm không biết bao nhiêu là cờ long phụng. Hắn còn mang theo rất nhiều đồng nam đồng nữ, thảy đều xinh đẹp.




Chưa hết, dọn đường, hắn còn truyền gọi bọn ca kỹ của nhà quan lên trên thuyền để sai bảo hầu hạ, so tơ nắn phím.




Thái Bình thuyền của Hải lướt giữa dòng sông, người xem đứng đông nghẹt trên bờ, chẳng khác gì nghênh đón xa giá vậy. Thuyền chạy qua Đức Châu vào giữa hôm hai mươi mốt tháng bảy. Đó là hôm sinh nhật của Hải. Hắn ăn mừng ngay tại thuyền. Trong khoang giữa, Hải cho bày long y, rồi cho rất nhiều trai gái lên thuyền mừng thọ. Tin này truyền ngay tới tai tri phủ Đức Châu là Triệu Tân. Tân vốn hiểu luật, biết rằng thái giám tự ý xuất kinh là phạm pháp bèn thân tự, mang theo nha dịch đuổi theo tra xét. Nhưng thuyền của Hải đi đã xa đuổi không kịp nữa, tri phủ Triệu Tân không dám chậm trễ vội chạy tới bẩm cáo với Sơn Đông tuần phủ Đinh Bảo Trinh.




Sau lời bẩm cáo này, tuần phủ Trinh cũng còn nhận được văn thư của nhiều phủ huyện khác gởi về, đều tố cáo An thái giám quấy nhiễu địa phương, bức bách quan lại. Đọc xong ông nổi cơn thịnh nộ một mặt gởi công văn cho các phủ huyện Đông Xương, Tế Ninh truy bắt, một mặt viết một bản mật tấu gởi về kinh.




Cung thân vương tiếp được bản mật tấu, nổi giận đùng đùng, đi vội vào cung tâu với Từ An thái hậu.




Bệ kiến xong, Cung thân vương đem theo tờ chỉ dụ giết An Đắc Hải và cả bản tấu chương của Đinh Bảo Trinh nhất tề trình lên. Đông hậu đọc xong, hoảng sợ nói:




- Tên khốn kiếp, đến ngay cả Tổ huấn của nhà ta mà hắn cũng giẫm đạp lên. Không thể nào nể mặt Tây hậu được nữa, quốc pháp, gia pháp là điều tối khẩn phải duy trì.




Nói đoạn, Đông hậu lập tức ấn ký ngay vào tờ chỉ dụ.




Cung thân vương đỡ lấy, tức tốc quay ra.




Tiếp được mật chỉ của nội đình, tuần phủ Đinh Bảo Trinh mở ra xem thì thấy như sau:




"Căn cứ theo tập sớ của Đinh Bảo Trinh tâu về việc một tên thái giám ra ngoài phách lác bịp bợm do Triều Tân tri phủ Đức Châu tâu trình, rằng: "Vào khoảng tháng bảy có tên thái giám họ An ngồi bên trong hai chiếc Thái Bình thuyền, thanh thế rất là hống hách, tự xưng vâng chỉ sai đi may cắt long y, trên cắm một lá cờ Tam túc kỳ hình mặt trời, hai bên treo cờ long phụng, trong khoang chứa rất nhiều trai gái, cũng có cả nữ nhạc nắn phím so tơ, khiến hai bên bờ người đi xem đông nghẹt, lại đến ngày hai mươi mốt tháng ấy, mượn cớ ngày sinh nhật, tên thái giám giữa bày long y cho trai gái vào lễ lạt vì thế Châu này vội đi lùng bắt thì thuyền đã giương buồm xuôi trẩy về Nam, sau đó, tuần phủ Trinh liền thông sức cho các châu phủ Đông Xương, Tế Ninh đuổi theo bắt lại.




Ta xem xong quả lấy làm quái lạ, sợ hãi vô cùng. Tên thái giám này đã tự ý đi xa, lại còn có nhiều hành vi bất pháp. Nếu không nghiêm trị thì còn biệt lấy gì răn đe nơi cung cấm.




Bởi thế ta giao cho Mã Dân Di, Trương Chỉ Vạn, Đinh Nhật Xương, Đinh Bảo Trình phải cấp tốc cho bắt ngay tên thái giám họ An cùng bọn tuỳ tùng, phải nói rõ chứng cớ xác thực, rồi khỏi cần thẩm vấn, tức khắc đem ra chính pháp, không cho hắn lẻo mép biện luận che đậy.




Nếu như tên thái giám họ An nghe được tin đã hoảng sợ quay về thì việc bắt hắn sè giao cho Tăng Quốc Phiên thi hành mau chóng và đem hắn chính pháp tức khắc.




Việc quan trọng này ví thử sơ sót không chu đáo thì đó là lỗi của các đao phủ sẽ bị tra hỏi sau này, còn bọn tuỳ tùng xét ra nếu thuộc loại thổ phỉ, thì bắt ngay rồi phân biệt ra từng loại mà nghiêm phạt, khỏi cần phải tâu xin ý chỉ nữa.




Hãy chiếu theo tờ mật vụ sáu trăm dặm này mà thi hành. Khâm thử".




Mười ngày sau khi chém tên thái giám An Đắc Hải, Từ An thái hậu lại sai Cung thân vương soạn thảo đạo chỉ dụ thứ nhì, nội dung như sau:




"Ngày mồng ba tháng này, Đinh Bảo Trinh căn cứ vào tờ bẩm của tri phủ Đức Châu là Triều Tân tâu rằng có tên thái giám họ An đi trên chiếc thuyền lớn tự xưng là khâm sai, đi lo may long y, cạnh thuyền có treo cờ long phụng lại đem theo rất nhiều trai gái, suốt dọc đường phách lác bịp bợm khiến nhân dân hết sức kinh hãi". Do đó ta đã hạ dụ sai các đốc phủ các tinh Trực Lệ, Sơn Đông, Giang Tô lùng bắt và đem chính pháp tức khắc. Nay theo tờ sớ của Đinh Bảo Trinh tâu lên thì tên thái giám phạm pháp là An Đắc Hải đã bị bắt và bị chém tại huyện Thái Ân. Còn bọn tuỳ tùng thì cũng ngày hôm nay ta đã truyền dụ cho Đinh Bảo Trinh phân biệt tội trạng để nghiêm trị.




Gia pháp của triều ta rất là nghiêm ngặt đối với bọn hoạn thư đời này tới đời kia, nếu phạm ắt bị trừng trị. Bởi thế, mỗi khi có kẻ ra ngoài phách lác, bịp bợm, sinh sự, không kẻ nào là không bị trị tội tức khắc. Ấy thế mà tên thái giám An Đắc Hải dám lớn mật làm càn, gây ra không biết bao chuyện bất pháp, tội chết thực là đáng! Kể từ nay về sau bọn thái giám phải mở mắt nhìn rõ sự nghiêm phạt để dốc lòng kính sợ cố tránh. Viên đại thần tổng quản nội vụ phủ phải nghiêm sức cho bọn tông quản thái giám. Từ nay về sau phải kiểm soát gắt gao bọn thái giám trực thuộc để chúng hết sức cẩn thận khi thừa hành phận sự.




Nếu có kẻ không chịu an phận mình ra ngoài gây chuyện thì chẳng những kẻ chính phạm đã phải chiếu luật trị tội mà đến cả tên thái giám tổng quản cũng bị trừng phạt nữa.




Ngoài ra, cũng cần thông dụ thẳng cho các đốc, phủ các tỉnh cần nghiêm sức cho các địa phương dưới quyền hễ gặp bất cứ tên thái giám nào mạo xưng vâng lệnh thừa hành công vụ thì lập tức bắt ngay xích lại rồi tâu rõ để trừng trị, không được khoan hồng thả ra, bất luận tên can phạm đó chưa hoặc đã phạm pháp".




Tây thái hậu được xem hai đạo chỉ dụ đó xong mới biết An Đắc Hải đã bị chính pháp. Bà bất giác vừa thương tâm vừa căm hận, vừa mắc cỡ. Bất chấp cả thể diện của một thái hậu, bà hầm hầm chạy tới Đông cung.




Từ An thái hậu lúc đó đang ngủ trưa, nghe Tây hậu tới chẳng hiểu có chuyện gì vội ngồi dậy đón vào. Từ Hi bước vào phía sau còn có một bọn cung nữ và thái giám khá đông thanh thế, vẻ hùng hổ dữ dằn lắm.




Thấy Đông hậu ra đón nhưng Tây hậu chẳng thèm hành lễ, giận dỗi ngồi phịch xuống ghế, không nói tiếng nào cặp má biến dần từ đỏ đến tái. Đông hậu thấy vậy muốn làm lành bèn cười hì hì lên tiếng hỏi:




- Chuyện gì mà giận dỗi quá vậy?




Tây hậu chẳng đáp, bỗng oà lên khóc rối vò đầu, giậm chân, y như một con điên. Mấy cung nữ vội chạy tới vỗ về, khuyên nhủ. Đông hậu ngơ ngác đứng ngây người ra nhìn.




Tây hậu khóc chưa đã, bèn lăn nhào tới trước mặt Đông hậu, đầu gối quỳ trên sàn gạch còn cái đầu thì gục vào lòng Đông hậu, quay đi lắc lại, vừa khóc vừa nói:




- Thái hậu vốn là chính cung xuất thân. Tôi chỉ là đứa con ở xuất thân. Nay đứa con ở phạm pháp cầu xin chính cung thái hậu cho tôi chết quách cho rồi.




Tấn kịch bi hài do Tây hậu dàn diễn làm cho Đông hậu bối rối, vò đầu bút tóc mãi mà vẫn không tìm ra nguyên uy.




Bà đành phải nhẫn nại lựa lời ngon ngọt khuyên uý Tây hậu.




Đến lúc này Từ Hi mới thôi khóc, nghiêm nét mặt chất vấn Từ An:




- Lục tiên đế còn tại thế, tôi còn chưa được phong hậu, thế mà ngài vẫn thường gọi tôi bàn việc triều chánh. Nay tôi đã làm hoàng thái hậu, thế mà giết Hải, hậu chẳng thèm hỏi han gì tôi mà chỉ bàn tính với Lục gia. Như thế, chẳng những Lục gia không coi cái con hoàng thái hậu nầy ra gì mà đến cá thái hậu, rõ ràng cũng khinh rẻ tôi nữa. Bây giờ tôi chỉ cầu xin thái hậu cho một cái chết để tôi khỏi mất mặt trước hoàng thượng đó thôi. Xin nói thực để thái hậu biết, chính tôi đã sai Hải tới Sơn Đông chứ có phải ai khác đâu. Nay giết Hải, thái hậu thực đã vạt mất hẳn cái mặt tôi rồi, thử hỏi tôi còn sống sao nổi trong cái cung này chứ?




Nói đoạn, Tây hậu lại lu loa khóc lớn, mồm năm miệng mười chỉ xin Từ An giết quách bà ta đi.




Từ An thái hậu chưa từng thấy một cảnh tượng quái gở như thế, nên tay chân bà run bần bật, ú ở mãi mới bật ra được câu nói:




- Từ nay về sau tôi chẳng hỏi tới triều chính nữa. Mọi việc sẽ để cho thánh mẫu thái hậu trông coi hết cả đó, hoàng thượng vốn là hoàng thượng của thánh mẫu hoàng hậu. Tôi chỉ cầu xin được chết già trong cung cấm, được ăn một bát cơm thái bình kể ra cũng đủ mãn nguyện rồi.




Nói xong, Từ An thái hậu đã giỏ lệ, ướt đầm cả đôi má.




Giữa lúc lưỡng cung đang lâm vào cái thế nan giải, bỗng có tin báo nhà vua tới.




Lúc này, Đồng Trị hoàng đế tuy mới tuổi mười hai nhưng vóc người cao lớn, lại bận một chiếc áo thường, đội một cái mão nhỏ, nên trông hết sức bảnh bao, thanh nhã.




Đồng Trị vừa bước vào, liền hành lễ chào lưỡng cung, xong hỏi hoàng thái hậu vì sao nổi giận, thì Từ An liền kể cho nghe việc giết An Đắc Hải.




Đồng Trị hoàng đế tuổi còn quá nhỏ nên từ lúc lên ngôi, vẫn không có hỏi đến triều chính, suốt ngày chỉ đi chơi trong hoàng cung. Tất cả mọi việc đều do lưỡng cung Hoàng thái hậu quyết định. Bởi thế, việc giết An Đắc Hải Đồng Trị chẳng biết một tí gì. Nay nghe Từ An kể lại, liền khanh khách cười lớn rồi bảo:




- Cái thằng chó đẻ khốn nạn ấy, giết đi là phải lắm.




Từ Hi nghe Đồng Trị chửi An Đắc Hải, mặt mày biến sắc, vội đứng dậy hậm hực trở về cung. Đồng Trị đâu có biết gì nỗi lòng của Tây hậu, dắt bọn thái giám vào vườn thượng uyển du ngoạn.




Đồng Trị hoàng đế ghét cay ghét đắng An Đắc Hải là có nguyên do của nó. Làm vua, Đồng Trị có đến ba bốn ngàn thái giám trong cung cấm, nửa thì nịnh nọt tâng bốc, nửa thì oán giận. An Đắc Hải người bảnh trai lại vừa thân thiết với Từ Hi thái hậu, luôn luôn ở bên hầu hạ. Tây hậu lúc này tuổi xuân còn đầy, tình còn tràn, cho nên rất thích đùa giỡn với bọn thái giám. Có người bảo An Đắc Hải đâu phải là thái giám thật, hắn vẫn nguyên vẹn đàn ông đánh lộn sòng vào cung, bắt chước kế sách của Lã Bất Vi đời Tần thuở trước.




Đồng Trị hoàng đế tuy còn nhỏ, nhưng rất khôn lanh. Chỉ cần nghe những lời bàn tán xì xào, ngài đã tự thấy căm hận tên An Đắc Hải đến xương tuỷ rồi.




Dần về sau, Hải được lòng Từ Hi, càng chẳng coi ai ra gì, ngay cả đến hoàng đế cũng chẳng dám sỉ nhục khinh thường hắn. Có một hôm, đang đứng nói chuyện gẫu với bọn thái giám, thấy hoàng đế đi tới, thế mà hắn cứ lơ đi, trong khi bọn kia kẻ nào cũng đều bước tới thỉnh an.




Hôm đó, Đồng Trị hoàng đế giận quá, ra lệnh dùng tới gia pháp, hắn mới hoảng sợ, đập đầu xuống đất cầu xin tha tội.




Từ Hi thái hậu nằm trong phòng, thấy hoàng đế nổi giận, liền gọi ngài vào quát mắng, răn dạy:




- An Đắc Hải vốn là một nô tài tín cẩn của tiên hoàng, nếu có điều lầm lỗi, cũng nên xin chỉ thị của thái hậu trước đã rồi hãy dùng tới gia pháp chứ!




Câu nói làm cho ông hoàng đế nhỏ tức điên, ông lượm con dao trên mặt bàn chém một nhát vào sau ót hình người sành dùng làm đồ chơi của ông, cái đầu lâu đứt lìa văng xa đến mấy thước. Tên thái giám hầu cận hỏi sao lại làm thế thì Ông hậm hực đáp:




- Giết thằng chó đẻ Hải đó.




Bởi vậy, nay nghe tin Hải bị giết, làm sao mà hoàng đế chả vui sướng.




Đồng Trị hoàng đế có một cuộc sống hơi khác cái vị hoàng đế tiên nhiệm chút ít. Từ nhỏ ngài sống hoặc ở vườn Viên Minh hoặc ở hành cung Nhiệt Hà. Hai nơi cung cấm này không có cái khung cảnh đồ sộ, nguy nga như trong đại nội, lại rất gần phố xá, chợ búa, cho nên bọn thái giám thường hay bế ngài ra phố, ra chợ đi chơi. Lớn lên, ngài đã quen với những cảnh ồn ào, náo nhiệt nơi thị tứ. Thế rồi khi về kinh, chính mình lại được làm hoàng đế, cả ngày phải ở trong những cung điện tôn nghiêm, tịch mịch, ngài rất buồn bã. Do đó bên canh ngài cần có một bọn thái giám con nít bầu bạn, suy nghĩ tìm tòi cho ngài nhiều kiểu chơi, nhiều trò vui. Chúng bày ra nào trò đá banh, đánh cầu, nào bơi lội, trượt tuyết, nào ca hát. Chơi vui quá, hoàng đế chẳng đứng xem nữa, nhảy luôn vào cùng nghịch phá với cả bọn.




Cậu con trai Cung thân vương là Tải Trung cùng tuổi Đồng Trị, đã từ lâu vẫn bầu bạn vui chơi với ngài ở vườn Viên Minh hay hành cung Nhiệt Ha, nhưng từ khi quay về cung nội ở Bắc Kinh, Đồng Trị không gặp bạn đã lâu nên bèn truyền gọi vào cung.




Tải Trung vốn là một chú bé nghịch ngợm, quỷ quái. Trung lang thang khắp kinh thành, lại học thêm được nhiều lối chơi hết sức quái lạ, bèn mớm cho Đồng Trị để cả hai cùng bày trò.




Thấm thoát vài năm Đồng Trị hoàng đế đã mười bốn, đây là cái tuổi bắt đầu tò mò, tìm biết. Bên cạnh lại có tên quỷ con Tải Trung chỉ dẫn; bởi thế, chỉ mấy tháng mà người ta không tính kịp số cung nữ bị ngài "thử coi" lên tới bao nhiêu.




Từ An thái hậu thấy Đồng Trị đã "lớn trước tuổi" bèn nói nhỏ với Từ Hi nên tính đến chuyện hôn nhân cho hoàng thượng.




Có điều cần lưu ý là sau cuộc gây gổ, hờn dỗi của Từ Hi với Từ An thì từ đó, Từ Hi trở nên độc đoán. Mỗi khi lâm triều buông rèm nghe chính sự, nếu có bọn đại thần tâu lên, Từ Hi chẳng bàn bạc gì với Từ An, cũng chẳng đợi Từ An mở miệng, liền tự ý quyết định. Thế là Tử An cũng đâm chán nản, nhượng bộ hoàn toàn, ngay đến cả lâm triều cũng bỏ luôn.




Cung thân vương tuy trung thành với Từ An nhưng thấy bà như vậy nên vừa chán vừa lo cho mạng sống của mình, đành phải quay hướng đổi chiều. Vương cố tìm cách liên lạc với bọn Thôi tổng quản và Lý Liên Anh, nhờ hai người này trước mặt Từ Hi nói tốt cho mình.




Từ Hi biết rằng Cung thân vương chủ mưu giết An Đắc Hải cho nên hận vương đến xương tuỷ và chỉ chờ dịp để cách hết chức tước của vương. Nhưng sau nghe Vinh Lộc, bà có nghĩ lại. Lục gia (Cung thân vương) chẳng những là thân thuộc của hoàng gia mà còn là một đại thần cố mạng của tiên triều. Hơn nữa mật chiếu của tiên hoàng hiện nằm trong tay bọn họ, nếu bức bách quá e họ đưa mật chiếu ra thì tai hại không biết nhường nào. Nghe xong, Từ Hi thái hậu khen phải và dẹp bỏ luôn mối thù hận xưa kia.




Chỉ thương cho Từ An thái hậu một mình đơn độc không còn người tâm phúc để bàn tính mọi việc. May là Từ Hi trong lòng vẫn cho rằng mật chiếu của Hàm Phong hoàng đế còn trong tay Từ An cho nên vẫn còn ba, bốn phần e ngại, không dám hạ ngay độc thủ.




Thực ra thì tờ mật chiếu của Hàm Phong hoàng đế không nằm trong tay Từ An thái hậu mà cũng chẳng phải trong tay Cung thân vương mà lại ở trong tay Thuần vương phúc tấn.




Lúc Hàm Phong hoàng đế lâm chung, Lý Liên Anh thấy tờ di chiếu liền đi báo với Tây thái hậu. Bà vội cho người tới nhờ Thuần vương phúc tấn đi lấy giùm. Khi bước vào, đúng lúc Hàm Phong tắt thở, Thuần vương phúc tấn thấy chưa có ai tới, vội rút lấy tờ mật chiếu trong áo hoàng đế. Bà cũng tính đưa tờ mật chiếu cho Từ Hi thái hậu xem, nhưng lại sợ nhiều chuyện xảy ra sau này, cho nên bà đem luôn về nhà giấu biệt rồi chỉ bảo là không thấy đâu cả.




Làm như vậy Thuần vương phúc tấn tin chắc rằng lưỡng cung tránh được nhiều chuyện lôi thôi về sau, hai nữa khiến Từ Hi thái hậu trong lòng e ngại trăm phần, không dám khinh nhờn Từ An thái hậu. Đó mới chính là một giải pháp hay nhứt.




Đốn khi Đồng Trị hoàng đế tuổi đã thành niên, lưỡng cung đã làm lễ đại hôn cho hoàng đế rối thì hai bà mới bắt đầu tranh chấp kịch liệt.

Hồi 148 Hồn ma báo oán




Đồng Trị hoàng đế đã trưởng thành, chuyện trai gái lúc này coi như đã thành thạo. Gái trong cung cấm thiếu gì, cô nào cũng đẹp như mộng, hoàng đế lại trẻ, sức trai đang hăng, ngài mặc sức "ngự", có ngày tới chín, mười cô. Ngài có toàn quyền đi, đi bất cứ chỗ nào trong cung cấm với ba ngàn cung nữ. Bọn cung nữ khát tình đua nhau đem thân dâng cho ngài. Họ chẳng phải trốn tránh, kiêng kỵ gì, cứ thấy hoàng đế là kéo lại, với những bộ ngực tròn vo căng cứng, nhưng cặp giò thon thon, những bổ mặt tươi như hoa, những làn da trắng nõn…




Có một hôm trời nóng bức ngột ngạt, bọn thái giám xúm nhau lại ngồi hóng mát trước cửa cung, tán láo tới chuyện giết Túc Thuận thuở nọ, một tên nói:




- Lúc bị đem ra xử trảm, Thuận chửi Tây thái hậu thậm tệ. Bọn khoá tử thủ dùng đao đâm vào mồm Thuận, đánh rụng luôn cá mấy cái răng cửa, máu chảy lênh láng mà Thuận vẫn chỉn bới không ngớt.




Một tên thái giám khác lên giọng hiểu biết, kể tiếp:




- Tụi bay còn chưa biết vụ án tình của người cha Túc Thuận đâu. Để tớ kể cho mà nghe. Cha Túc Thuận là Trịnh thân vương Ô Nhĩ Cổn, chính là con của bà thái thái người Hồi đó Bà này vốn thuộc gia đình lương dân. Có một hôm, Trịnh thân vương ở triều về, xe chạy qua khu Biểu Bối hồ Đông, vương bỗng thấy một cô gái tuyệt sắc, lòng tự nhiên đâm ra vấn vương mơ ước. Thế là vương cho gọi tên tâm phúc họ Triệu tới giao đi dò la gia thế người đẹp và thu xếp cách nào để đem người đẹp về cho vương làm bà nhỏ.




Tên tâm phúc họ Triệu tức tốc lên đường.




Sau vài hôm, Triệu đã biết rõ tung tích người đẹp: cha nàng vốn người Hồi (theo đạo Hồi), gia cảnh hết sức nghèo khổ. Cô con gái cũng đã có chỗ dạm hỏi, làm sui gia rồi. Tên Triệu được tin này, rầu lắm coi như hỏng việc.




Không ngờ Trịnh vương gia cứ đòi lấy cho bằng được, bèn lệnh cho tên tâm phúc họ Triệu, bất cứ giá nào cũng phải mang người đẹp về, chậm nhất là sau ba tháng chứ không được lâu hơn. Vương bỏ ra luôn một lúc chín, mười vạn lạng bạc để lo vụ này.




Tên họ Triệu, trước tiên thuê căn nhà gần nhà cô gái và tìm cách bắt quen với cha cô. Chẳng bao lâu hai người đã trở thành đôi bạn tri kỷ. Tên Triệu thường đem tiền giúp đỡ, do đó cha mẹ cô gái Hồi nọ đâm ra hết sức cảm kích hắn.




Hạn ba tháng đã gần mãn. Tên Triệu chưa biết tính cách nào, trong lòng lo lắng ngày đêm thì giữa lúc đó, Trịnh thân vương bỗng nhận thánh chỉ giữ chức Quảng bộ quân thống lĩnh. Ba ngày sau khi đáo nhiệm nha môn, Trịnh vương đã có ngay một vụ án trộm đưa tới.




Tên họ Triệu nhìn thấy bọn trộm bỗng nảy sinh một kế. Hắn cho tiền bảo chúng khai cho cha cô gái nọ đã oa trữ đồ gian mà chúng đánh trộm và nhất định đổ cho ông ta là nhà chứa. Thế là ông ta bị bắt cấp kỳ và sau đó bị đem ra pháp trường chém đầu cả xốc với bọn trộm kia.




Tên Triệu lúc đó lại ra mặt tử tế, đem tiền bạc ra giúp mẹ con gái cô nọ chôn cất người thân, cấp cho họ ít tiền độ nhật. Ngoài ra hắn còn xúi người giả tạo những văn tự nợ do cha nàng ký tên vay rồi kéo nhau tới đòi nợ.




Hai mẹ con cô gái bị chủ nợ thúc bách gắt gao, lúc đó tên Triệu mới đứng ra nhận lãnh bồi hoàn các món nợ khiến hai mẹ con cô gái cảm kích hết chỗ nói, coi hắn như một ân nhân. Mặt khác tên Triệu lại còn ngầm bảo tụi ma cô địa phương xông vào nhà chọc ghẹo cô gái để cho nhà trai sinh nghi sinh chán, cho nàng chi là một loại mèo mả gà đồng thất trinh thất tiết chẳng ra gì, cuối cùng thối hôn luôn.




Hai mẹ con cô gái đã nhục nhã lại khốn cùng và một khi đến bước đường cùng, họ đành chạy tới cậy nhờ tên Triệu.




Hắn liền dàn xếp với bà mẹ cho cô gái vào phủ Trịnh vương làm vợ bé, ngoài ra còn hứa nói với vương thưởng thêm cho ba ngàn lạng bạc nữa. Bước cùng, mẹ con đành ôm nhau khóc mà cam chịu.




Ai ngờ người con gái nọ một khi bước vào vương phủ, chỉ qua năm sau là đã sinh cho vương một cậu bé kháu khỉnh.




Đó chính là Túc Thuận Cậu bé mới được vài tuổi thì Trịnh vương bỗng bị ung thư chết tốt. Bệnh ung thư của vương có cái tên khủng khiếp là lạc đầu thư (tức là bệnh ung thư rụng đầu) bởi nó thường mọc quanh cổ thành một vòng tròn, bệnh dần dần lở loét ung thối mãi đến khi đầu rụng ra khỏi cổ là chết.




Ở trong thành Bắc Kinh lúc đó có một bọn đao phủ thủ chuyên môn chém người rồi sau đó khâu đầu vào cổ y như cũ. Cái đầu của Trịnh thân vương cũng nhờ bọn đao phủ này khâu lại giùm rồi mới đem chôn cất. Nhưng điều kỳ lạ nhất là cái tên họ Triệu nọ đồng thời cũng bị lạc đầu thư như Trịnh thân vương và cuối cùng cũng chết rụng đầu ghê sợ như vương.




Tên thái giám vừa kể xong câu chuyện kỳ lạ khiến cả bọn nghe mà phát ớn phát run. Bỗng từ trong cửa tò vò Đồng Trị hoàng đế bước ra. Cả bọn giật mình vội chạy tới thỉnh an.




Hoàng đế chẳng để ý chuyện gì khác mà chỉ hỏi tên thái giám vừa kể câu chuyện:




- Trịnh thân vương tìm hết trăm kế ngàn phương để đưa người con gái về nhà để làm gì vậy? Tại sao lại gọi là "bà bé"?




Nghe hỏi, bọn thái giám thảy đều muốn phá lên cười mà chẳng dám, muốn giải thích mà chẳng thể mở miệng. Mãi sau, có vài tên liều lĩnh nhất, đem hết tất cả các ngón chơi ra chỉ dẫn cho nhà vua một cách hết sức tỉ mỉ để ngài rõ hết cái chuyện gọi là "chơi gái" nó ra làm sao và nó thích thú lạ lùng như thế nào!




Đồng Trị hoàng đế càng nghe càng thấy tân kỳ và độc đáo. Ngài khoái quá, cho như câu chuyện hấp dẫn nhất từ khi ngài bắt đầu ngồi trên ngai vàng. Thế rồi từ đó, hễ bắt gặp cô cung nữ nào ở bất cứ chỗ vắng vẻ nào hoàng đế ta cũng ôm đại lấy kéo vào để "làm theo lời kể" xem nó ra sao.




Tin tức thú vị này chẳng mấy chốc đã bay đi khắp cung cấm, cuối cùng lọt vào tai Từ An thái hậu. Hậu bèn đem việc bàn với Từ Hi, cưới vợ cho ông vua nhỏ sớm phát động xuân tình.




Thực ra Từ Hi thái hậu đã có ý đó từ lâu. Thế là hai bà truyền dụ lập tức xuống cho bộ Lễ, bộ Công và phủ nội vụ chuẩn bị.




Theo luật lệ trong hoàng cung thì trước khi làm lễ Đại hôn cho hoàng đế, bắt buộc phải chọn tám cô cung nữ hơi lớn tuổi một chút để đưa vào tẩm cung của hoàng đế cho ngài "làm quen". Cách làm quen như vậy gọi là: Tư trướng, Tư tẩm, Tư nghi, Tư môn.




Đồng Trị hoàng đế chọn ngay tám con cung nữ mà hằng ngày ngài đã "quen biết". Sau đấy luật lệ còn buộc ngài chọn sẵn và chỉ định một số người như sau: Thường tại vài người, Quý nhân vài người, Tần vài người, Phi vài người, Hoàng quý phi vài người. Tất cả đều được chuẩn bị xong xuôi, lúc đó mới tuyển lựa đến Hoàng hậu.




Hồi đó Từ Hi thái hậu đã có ý định chọn con gái thị lang Phượng Tú làm hoàng hậu, nhưng theo ý Từ An thì bà lại thích con gái của Thừa Ân công là Sùng Y hơn. Thế là lại xung đột. Sau rồi Từ An thái hậu bàn tới Từ Hi:




- Bọn mình khỏi tranh chấp làm gì. Đây là việc của chính hoàng thượng, tốt hơn là ta mời ngay hoàng thượng lên đây để tuỳ ý ngài.




Từ Hi thái hậu cho hoàng thượng chính là con trai mình, chẳng lẽ lại không nghe theo mình nên bà chấp nhận ngay ý đó. Hai nàng cách cách kể trên bình nhật vẫn thường vào du ngoạn trong cung bởi thế Đồng Trị hoàng đế đã thấy cả, ngài chẳng do dự phút nào, chọn con gái của Sùng Y lâm vợ, sau gọi là Hiếu Triết hoàng hậu và cũng phong cho Phượng Tú làm Tuệ phi.




Quyết định này chính là của Đồng Trị hoàng đế, Từ Hi thái hậu đến lúc này đành chịu thua một keo nhưng trong lòng vô củng hậm hực, không những đối với Từ An mà cả với Đồng Trị nữa.




Việc tuyển lựa đã xong, hoàng cung lại một phen tưng bừng náo nhiệt. Hôm lễ đại hôn người ta mở toang cửa Đại Thanh môn để rước bà hoàng hậu qua đó. Nàng Tuệ phi thì trước đó một ngày đã phải vào cung để sửa soạn hầu hạ hoàng hậu và hoàng đế.




Hoàng hậu lễ cáo với trời đất xong lại qua nhà Tôn miếu yết kiến hai bà thái hậu. Còn hoàng đế thì leo lên ngồi ngất ngưởng trên đại điện nhận lễ triều hạ của trăm quan.




Hai mươi bốn tấm cánh cửa lớn của đại điện lúc đó đã mở toang. Trên bao cửa chỗ nào cũng thấy chạm trổ chữ "Thọ" và sơn son thiếp vàng. Trong điện, nền nhà không phải bằng gạch lát mà toàn bằng vàng đúc sơn màu đen bóng, trơn loáng.




Phía sau đái điện là tẩm cung (phòng ngủ) của hoàng đế. Tẩm cung dài tới ba mươi hai gian, trần thiết thật hết sức lộng lẫy. Phía sau nữa là tẩm cung của hoàng hậu. Tẩm cung này dài hai mươi bốn gian, đặc biệt dành ba gian riêng cho Tuệ phi. Tẩm cung của hoàng đế và hoàng hậu tuy tiếp cận ba gian này của Tuệ phi nhưng không có lối thông sang, có điều lại đều có một dãy hành lang dài chạy thông sang tẩm cung của Từ Hi thái hậu, mục đích để hai người tiện đường qua thỉnh an. Đó là ý riêng của Từ Hi cho nên mới có cái lối kiến trúc đặc biệt và ít thấy này. Từ khi lấy Hiếu Triết hoàng hậu, Đồng Trị thấy nàng mặt mày xinh đẹp, cử chỉ lại đoan trang, tính tình thì nhu mì duyên dáng tuyệt nhiên không có gì kênh kiệu, khinh bạc nên đem lòng sủng ái vô bờ. Hai vợ chồng trẻ này quyến luyến ngày đêm bên nhau trong tẩm cung. Hoàng hậu rất thuộc thơ Đường, hoàng đế thuận miệng đọc một câu thì hoàng hậu đọc tiếp ngay sau, không bao giờ vấp váp. Vì vậy, càng được hoàng đế yêu quý.




Những lúc hai người ăn ở, trò chuyện trong cung, bọn cung nữ và thái giám hầu hạ tuyệt nhiên chưa thấy hoàng hậu cười đùa lẳng lơ bao giờ. Trái lại Tuệ phi thì hết sức khinh bạc, kênh kiệu, lẳng lơ, sàm sỡ. Mỗi khi hoàng đế đến phòng ngủ của Tuệ phi, bọn cung nữ và thái giám chỉ thấy nàng õng ẹo, núng nịu làm duyên lấy dáng, rồi những tiếng cười lả lơi vang lên mãi.




Về sau, thái độ này đến tai hoàng hậu. Bà truyền dụ bảo Tuệ phi phải tu sửa tính nết lấy điều đoan trang cẩn trọng làm gốc để bảo vệ thể thống nơi cung cấm. Lời dụ này chẳng được Tuệ phi để ý, cứ thói nào tật ấy, càng ngày càng quá trớn hơn trước. Nàng cậy mình là người của Tây thái hậu, được thái hậu quý mến, chẳng coi hoàng hậu ra gì. Lại còn hay tới gặp Tây thài hậu để nói xấu hoàng hậu nữa.




Tây thái hậu vốn không ưa Hiếu Triết cho nên nghe lời Tuệ phi, càng ghét bỏ hoàng hậu.




Ngày nào cũng vậy khi hoàng hậu và hoàng đế tới cung của Tây thái hậu để thỉnh an, y như đều nhận được lời dặn dò của Tây thái hậu, với bộ mặt nghiêm nghị:




- Hoàng thượng tuổi còn nhỏ, đại sự của quốc gia là khẩn yếu, chớ có lưu luyến nơi thâm cung để cười cợt chơi bời.




Hiếu Triết hoàng hậu nghe vậy, trong lòng thấy oan ức vô tả nhưng đành cam chịu bởi không biết nói cùng ai.




May là Đông thái hậu yêu quý bà, nên thường hay gọi hoàng hậu vào cung an ủi và khuyên bảo. Chẳng ngờ câu chuyện này lộ ra ngoài, khiến Tây thái hậu càng tức giận. Bà bảo Đồng Trị:




- Tuệ phi hiền hậu khôn khéo, hoàng đế nên thường gần nàng. Còn hoàng hậu tuổi quá nhỏ, chẳng hiểu được luật lệ, hoàng đế không nên quyến luyến mãi để đại sự của triều đình bị bỏ bễ.




Câu này, Tây thái hậu cứ nói đi nói lại hoài, nói đến nỗi Đồng Trị phát bực phát phiền, cuối cùng cũng không dám năng lui tới tẩm cung hoàng hậu nữa. Tây thái hậu ngầm sai người tới dò la cử động của hoàng đế, thấy đêm nào ngài tới cung của Hiếu Triết, thế là sáng hôm sau, bà lại cho một trận nên thân. Đồng Trị tức quá đồng thời cũng chẳng thèm đến cung của Tuệ phi nữa, quyết nằm một mình tại cung Kiến Thanh.




Những lúc rỗi rảnh, cô quạnh, ngài lại cho bọn tiểu thái giám quen thuộc hồi nọ đi tìm cho ngài những trò giải trí mà xưa kia ngài thích.




Nhưng Đồng Trị sau đại hôn đâu có còn là Đồng Trị trước kia nữa. Những trò chơi lúc trước trở nên nhạt nhẽo và càng khiến ngài buồn chán hơn.




Thấy vậy, Thôi tổng quản bèn nghĩ ra một cách: đưa gánh hát vào cung. Lúc đầu, ngài xem hát, thích lắm. Về sau khi được xem qua tán tuồng "Du long hí phượng" thì lòng xuân của ngài bị kích thích mạnh, bèn bảo tên tiểu thái giám dẫn ra phố tìm thú vui.




Cuộc du ngoạn bên ngoài quả thú vị hơn trong cung cấm. Hoàng đế mệ chơi không muốn về nữa, ở lỳ suốt ngày trong cái nhà chứa. Thôi tổng quản biết vậy, nhưng không dám khuyên ngăn.




Mỗi ngày, sau khi thỉnh an hoàng thái hậu, ngài toạ triều một lát rồi lẻn cổng hậu, tìm đến nhà chứa. Khi ra phố, ngài tự đặt cho mình một cái tên riêng: Trần Bạt Công, người tỉnh Giang Tây. Sau khi chơi bời đã đời, hoàng đế lảng vảng tới phòng trà, quán rượu, hoặc lang thang vào bất cứ chỗ nào ồn ào, náo nhiệt đông vui.




Có một hôm, Tả đô ngự sử là Mao Văn Đạt cùng với Mãn đường quan là Vĩnh Hy kéo nhau ra nhậu tại quán rượu Xuân Yến ngoài cửa Tuyên Võ môn. Chén chú chén anh được một lát, hai ông quan lớn của triều đình bỗng thấy ở phía đông bích một gã thiếu niên ăn mặc hết sức bảnh bao, cũng đang ngồi nhậu lai rai, phía sau có một chú tiểu đồng cầm quạt đứng hầu. Nhìn kỹ một lúc lâu, cả hai anh đại thần giật thót mình, thì ra chàng thiếu niên đó chính là đương kim hoàng đế cải trang, đang ung dung tự tại nâng ly rung đùi.




Đồng Trị hoàng đế hình như cũng thấy hai anh đại thần, bèn gật đầu nhếch mép mỉm cười, ra chiều đắc ý lắm. Chỉ tội cho hai anh quan lớn tin chắc rằng hoàng đế biết mình rồi, hoảng hồn bạt vía bỏ cả rượu, chê cả thịt, vội vàng vàng vàng xuống cầu thang, thoáng cái là mất hút.




Hai đại thần ra thoát, hú hồn hú vía, vội chạy ngay tới nha môn của quan thống lãnh rỉ tai cấp báo.




Quan thống lãnh bộ quân nghe xong, chút xíu té quỵ, chân tay run bắn lên. Ông chạy vội ra quát tháo inh ỏi, nào gọi tướng, nào hô quân tức khắc người ngựa để lên đường. Nha môn bộ quân thống lãnh lúc này được một phen nhộn nhịp tưng bừng: ngựa hí người chạy, tất cả đều như điên như cuồng lao tới quán rượu.




Thấy vậy Mao Văn Đạt vội đuổi theo ra đầu đường chặn quan thống lĩnh lại, giọng trịnh trọng nhưng vẫn không hết vẻ hoảng hết nói:




- Ngài điều binh khiển tướng rầm rộ như thế này khiến thiên hạ xôn xao bàn tán, lỡ thánh giá có gì bất trắc xảy ra thì tôi với ngài lấy vai nào gánh đủ tội trọng? Rồi lại tin tức đồn đãi làm mất hết tự do đi lại của hoàng thượng khiến hoàng thượng đâm giận thì ngài với tôi công đã chẳng được lại chỉ thêm khổ, hỏi ích lợi gì?




Viên thống lãnh nghe vậy đâm ra chùn, vội hỏi:




- Vậy theo cao kiến của đại nhân thì làm sao cho ổn thoả nhất?




Mao Văn Đạt suy nghĩ một lúc rồi bảo viên thống lãnh quay về nha môn chọn lấy hai mươi tên quân dung kiện ăn mặc thường phục lẻn tới lầu Xuân Yến ngầm bảo vệ hoàng đế. Nếu ngài đã đi chơi chỗ khác thì cứ nên ngầm theo dõi mà bảo vệ, không để hoàng đế biết.




Viên thống lĩnh gật đầu khen phải, y kế thi hành.

Hồi 149 Vua đi chơi mắc bệnh kín




Đồng Trị hoàng đế từ khi vi hành ra ngoài, nếm được mùi đời dân dã, thấy thích thế là đường lớn lộ nhỏ, hang cùng ngõ hẻm, không một chỗ nào ngài không đặt chân tới.




Có một hôm, ngài lang thang vào tiệm bán giấy, biển đề là Lưu Lang xưởng để mua ít giấy ngọc bản tiên. Sau khi mặc cả, thành tiền mười hai lạng bạc, ngài móc trong hầu bao ra mấy thỏi vàng trái dưa ra trả cho chủ tiệm.




Không ngờ anh chàng chủ tiệm này quýnh quá, không hiểu vàng trái dưa (quả tử kim) là gì, bèn trả lại, không chịu nhận.




Tên tiểu thái giám mặc kệ, nhận hay không cóc cần, y xách luôn gói giấy đi.




Anh chủ tiệm vội nhảy phóc qua mặt quày tóm lấy áo chú tiểu thái giám, giữ chặt lấy. Một tên phổ ki khác cung từ trong góc phòng xông ra đuổi kịp Đồng Trị hoàng đế, chộp lấy ngực, miệng la quát rùm lên, vu cho tội ăn cắp và quyết đưa vào cửa quan.




Nghe huyên náo ngoài cửa, anh thủ quỹ đang đếm tiền trong phòng trong cũng vội vã chạy ra nhìn hoàng đế một lát rồi lên tiếng hỏi:




- Mi là ai mà dám vào ăn cắp đồ?




Đồng Trị hoàng đế đáp:




- Ta tên Bạt Công, họ Trần, người Giang Tây.




Hoàng đế vừa nói đến đấy bỗng tử đâu không biết, hơn mười tên võ sĩ hùng hùng hổ hổ xông tới đưa những cánh tay rắn như sắt chộp lấy bím tóc cả hai tên chủ tờ tiệm giấy, lật ngửa mặt ra sau quát:




- Bọn bây tới nha môn ngay tức khắc, nghe chưa?




Chủ tớ tiệm giấy chẳng chịu, la ầm lên:




- Thế giới đảo ngược hết rồi! Các ngươi không bắt mấy thằng cướp ngày mà lại đi bắt người lương thiện chúng ta sao?




Bọn võ sĩ nghe chúng chửi hoàng đế là thằng cướp ngày thảy đều vung tay chực đánh thì chính hoàng đế lại đưa tay ra cản. Và bảo hai tên chủ tớ tiệm giấy:




- Các ngươi không tin thì ôm giấy tới nhà lấy tiền, có gì mà phải gây chuyện?




Bọn võ sĩ nghe hoàng đế nói vậy mới chịu bỏ tay ra, chờ đợi.




Chẳng còn cách nào hơn, hai chủ tớ đành ôm hàng hoá lẽo đẽo theo sau. Đi quanh quẩn một hồi, hai anh chàng bước qua cổng thành. Vào trong, lại đi một lúc nữa cả hai nhìn lên bỗng chạm ngay mắt vào cửa ngọ môn của hoàng thành cao vòi vọi.




Thấy quang cảnh kỳ quái, hai chủ tớ tiệm giấy chợt sinh nghi, lại còn thấy hai người khách mua kia lắc lư bước thẳng vào ngọ môn thì bỗng hoảng hồn bạt vía, tay chân run bắn lên, mặt xanh ngắt như chàm đổ, vội ném cả gói giấy xuống đất rồi co giò chạy ngược ra.




Đồng Trị hoàng đế được mẻ cười nôn ruột.




Sáng hôm sau hoàng đế cho tên tiểu thái giám đem trả tiền giấy. Anh chủ và anh thủ quĩ vừa thấy đã lạy lấy lạy để, vừa xin lỗi, vừa lựa lời ngon ngọt nịnh bợ để chạy tội.




Tên thái giám chẳng thèm để ý, trả xong tiền rồi trở về.




Mấy ngày sau, Đồng Trị hoàng đế có chỉ triệu Văn Đạt một mình vào cung đề cập tới chuyện nhậu rượu trên lầu Xuân Yến, nói thêm nhiều chuyện khác nữa trong đó có cả chuyện cho võ sĩ theo dõi quả là điều rất bất tiện.




Văn Đạt dập đầu tâu can gián:




- Hoàng thượng thân đấng vạn thặng chớ nên liều mình trong những cuộc đại hiểm.




Đồng Trị hoàng đế đời nào chịu nghe. Ít hôm sau lại lẻn ra phố du hí như trước.




Một hôm sau khi chuồn qua cửa Hậu Tể môn và đi ngang qua nhà hội quán Hồ Nam, hoàng đế bỗng bảo tên tiểu thái giám:




- Tăng Quốc Phiên ở trong đó, ta vào gặp hắn một tí đã nhé!




Chẳng may Phiên đi vắng, thấy trước mặt có một căn nhà cửa bỏ ngỏ, Đồng Trị liền bước đại vào.




Chủ căn nhà đó họ Úc người Hồ Nam, đậu cử nhân. Lúc đó Úc cử nhân đang nằm bò trên giường ăn cơm, thấy một chàng trai trẻ ngang nhiên bước vào nhà mình chẳng thèm hỏi ai, ngồi phịch xuống chiếc ghế bày trước án thư. Thấy trên mặt án thư có bút giấy chàng ta liền cầm lên viết vẽ lung tung, đoạn chót có hai chữ "Bất diệu".




Úc cử nhân đang tính chạy lại cản thì đúng lúc chàng ta đứng dậy, miệng cười vang, ra đi.




Úc cử nhân thấy vậy lấy làm lạ lắm, vội hỏi nhỏ tên đầy tớ đi theo. Hắn đáp:




- Đấy là ông khách muốn tới thăm Tăng đại nhân nhưng không gặp bởi thế ông tiện bước vào nhà lão gia đó.




Úc cử nhân nghe xong đoán mãi mà chẳng ra ai. Đợi tới chiều tối khi Phiên trở về, Úc cử nhân vội chạy tới hỏi dò, đưa bức thư vẽ viết lung tung cho Phiên xem. Nhưng chính Phiên cũng không đoán nổi.




Qua ngày hôm sau Tăng Quốc Phiên bị triệu vào cung.




Phiên vừa tâu xong mọi việc, Đồng Trị cười hỏi:




- Hôm qua tại sao ông không có mặt tại hội quán?




Phiên lấy làm lạ hết sức, vội dập đầu tâu:




- Hôm qua thần được lệnh của Cung vương gia triệu tới hầu rượu tại vương phủ.




Đồng Trị lại cười nói:




- Cái ông cử nhân Hồ Nam ở đối diện nhà ông có vẻ bộ tịch lắm nhi?




Tăng Quốc Phiên đoán biết rằng hoàng đế hôm qua đã tự ý xuất cung vi hành đi chơi, giật mình đánh thót, không dám đối đáp nữa.




Trở về hội quán, Phiên vội đem chuyện hôm qua báo cho Úc cử nhân hay. Lúc đó Úc cử nhân mới vỡ lẽ ra người khách hôm qua chính là đương kim hoàng đế. Ông hoảng hồn bạt vía, vào thi hội cũng chẳng dám nữa, vội vàng thu xếp khăn gói rồi trốn khỏi Bắc Kinh.




Từ ngày có chuyện lạ lùng này xảy ra, bọn quan lớn quan bé trong kinh thành đều không dám ra ngoài lang thang, chỉ sợ gặp phải hoàng đế mà có khi mất mạng.




Hoàng đế trái lại lấy chuyện ấy làm vui. Ngài càng ngày càng bừa bãi hơn, bất chấp cả thể thống của triều đình. Ngày nào cũng như ngày nào, ngài dẫn dắt tên tiểu thái giảm lẻn ra phố lang thang hết chỗ ngày tới chỗ nọ, gần như không sót chỗ nào.




Ngoài cửa Tuyên Văn môn có một ngôi chùa tên gọi chùa Thổ địa. Trong chùa có một gã đàn ông thủ miếu quét dọn, lau bàn thờ, đốt nhang. Giữa lúc gã thủ miếu đang làm việc bỗng một chàng trai trẻ đội mưa lũn cũn ôm đầu chạy vào phía sau còn có một thằng tiểu đồng nối gót. Hai thầy trò quần áo đều ướt sũng, nước mưa chảy dòng.




Gã thủ miếu vốn có lòng thương người vội đưa cả hai vào nhà sau đốt hoả lò, vừa để hơ khô quần áo vừa để nấu nước pha trà mời khách.




Chàng trai trẻ vừa nhấm nháp chén trà nóng vừa lên tiếng hỏi:




- Chùa này không có vị hoà thượng nào trụ trì sao?




Gã thủ miếu đáp:




- Chùa này chỉ có sư đồ hai người chúng tôi, hoà thượng tôi hiện đang ra ngoài phổ khuyến.




- Ông năm nay bao nhiêu tuổi? Ở chùa này đã mấy năm rồi? Trước kia ông ở đâu?




Gã thủ miếu thấy khách hỏi đến hoàn cảnh của mình bèn cầm đứng cái chổi trong tay, chậm rãi đáp, nét mặt nghiêm trang như cố nhớ lại một chuyện gì trọng đại thuở trước:




- Tôi năm nay ba mươi sáu tuổi. Tôi tới chùa này đã bốn năm. Trước kia tôi vốn làm đày tớ trong nhà Trần đại nhân ở Tây quan đầu. Trần đại nhân mua tôi từ hồi còn nhỏ để làm công việc của một tên thư đồng. Đã hai mươi năm qua tôi hầu hạ Trần đại nhân thật hết sức chu đáo. Nhưng cách đây bốn năm, lỡ một phút sơ ý đánh vỡ mất một cái lọ cổ, Trần đại nhân giận lắm, đánh tôi một trận nên thân, tống tôi ra ngoài. Tôi loanh quanh chẳng biết đi đâu. Nhân được biết vị đài sư phụ miếu Thổ địa này từ trước, nên tôi chạy luôn về đây nhờ vả, làm kẻ thủ miếu lần lữa qua ngày. Khổ cái là chùa miếu nơi đây quá hẻo lánh, đèn nhang cúng viếng cũng tàn lạnh nên bọn tôi thực vô cùng đói khổ.




Chàng trai trẻ nọ lại hỏi:




- Anh làm thư đồng trong nhà Trần đại nhân đã hai mươi năm vậy Trần đại nhân đã lấy vợ cho anh chưa và có trả tiền công cho anh chứ!




Gã thủ miếu đáp:




- Tôi ở đấy hầu hạ đến hai mươi năm trời quả thực chưa từng thấy được một đồng kẽm công! Còn chuyện lấy vợ, ôi chao nói mà làm gì.




Chàng trai trẻ nghe hết câu, vẻ mặt bỗng có ý tức giận, hỏi tiếp:




- Trần đại nhân của anh hiện nay ở đâu?




Gã thủ miếu đáp:




- Đi Quảng Đông làm hải quan đạo đã ba năm.




- Trong nước ta, làm hải quan đạo nơi nào ngon ăn hơn?




Gã thủ miếu cười đáp:




- Chỗ ngon lành béo bở nhất trong nước thực không đâu bằng Quảng Đông.




- Anh có bao giờ mong được đi làm một viên hải quan đạo không?




Gã thủ miếu cười đáp:




- Đại gia nói đùa em đấy chứ? Số kiếp em chỉ làm một tên thủ miếu thôi đại gia ơi! Cơm không đủ no, áo không đủ mặc, em đâu dám vọng tưởng mà bẽ bàng.




Chàng trai nói:




- Anh đã nói vậy thì tôi sẽ đưa anh tới một chỗ no cơm ấm áo cho mà xem.




Nói đoạn chàng ta gọi lấy giấy bút, viết mấy chữ rồi thò tay vào trong bọc lấy ra một con dấu đóng lên trên, đưa cho gã thủ miếu, nói:




- Sáng mai, anh cầm tờ giấy này đưa cho quan lãnh binh bộ quân tự nhiên là có chỗ làm tốt cho mình.




Gã thủ miếu tiếp lấy tờ giấy, nửa tin nửa ngờ, chỉ còn biết trố mắt nhìn hai thầy trò chàng thiếu niên mà ngạc nhiên.




Mưa đã tạnh, quần áo của hai thầy trò chàng thiếu niên cũng đã khô. Chàng trai từ biệt ra đi.




Gã thủ miếu cầm tờ giấy mà đợi trời sáng. Quan thống lãnh bộ quân hồi này là Thuần Hiền thân vương nhận tờ giấy của gã thủ miếu. Vương mở ra biết mặt chữ đúng là của hoàng đế, vội cho đặt hương án, mở toang cửa giữa, mời gã thủ miếu vào trong rồi làm lễ Tam quy cửu khấu.




Gã thủ miếu thấy vậy sợ phát chết, đứng như tượng đá, chờ Thuần Hiền thân vương xếp đặt.




Vài ngày sau quan thống lãnh bộ quân bèn thay đổi áo quần mũ mão cho gã thủ miếu, sai người mang theo một bức văn thư đưa gã thủ miếu tới Quảng Đông gặp Trần đại nhân, chủ cũ của gã.




Trần đại nhân sau khi đọc công văn, mặt cắt không còn hạt máu, vội đưa ngay ấn tín hải quan đạo cho gã thủ miết, rồi lặng lẽ ra đi, không kèn không trống như một kẻ trốn chạy.




Thế là từ đó gã thủ miếu nghiễm nhiên thành một ông quan lớn, ông hải quan đạo. Gã thủ miếu cảm kích ân điển của hoàng thượng liền cho kiểm tra hết những tệ tham nhũng tích luỹ từ trước tới nay, giao cho sư gia trong nha môn làm một bản sớ tâu lên. Bộ lại trong triều vội phái người tới điều tra lại, thế là tất cả bọn quan viên đã từng làm hải quan đạo đất Việt đều một loạt bị cách chức.




Gã thủ miếu làm quan một lèo bốn năm tại Quảng Đông không ăn hối lộ, không tham nhũng, không làm một điều gì tệ hại, ấy thế mà gia tài cũng lên tới mười sáu, mười bảy vạn lạng, trở thành một phú ông đích thực. Về sau Đồng Trị hoàng đế biết chuyện, gật đầu khen gã thủ miếu, mà chính là để khen mình.




- Trẫm nhìn người quả chẳng sai tí nào.




Đồng Trị hoàng đế đâm quen lang bang ra phố, một ngày không đi khỏi cung, lòng thấy buồn lắm. Điều làm cho ngài nhớ nhất là ở bên ngoài thành, phía cửa sau có một anh chàng bán chè bà cốt. Mỗi lần ngang đây thế nào ngài cũng cùng tên tiểu thái giám làm một chén rồi mới đi. Nhưng ăn xong chẳng bao giờ trả tiền.




Thâm tâm hoàng đế không bao giờ nghĩ đến chuyện ăn chè xong lại phải trả tiền. Còn đối với anh bán chè thì thấy ngài mặt mũi khôi ngô, quần áo bảnh bao, cử chỉ lại hào hoa phong nhã, nên cho rằng đây là một vị công tử con nhà quan vương nào đó nên không dám đòi.




Ngày một ngày hai, ông vua trẻ xơi của anh hàng chè không biết bao nhiêu chén, thế mà chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện trả lấy một xu. Có một hôm hoàng thượng vào ăn, bên cạnh đang có mấy thực khách khác.




Bọn thực khách này ăn xong móc tiền túi ra trả. Hoàng đế nhìn thấy liền hỏi anh hàng chè:




- Anh lấy tiền để làm gì vậy?




Anh hàng chè nghe hỏi bỗng phá lên cười, cười đến bật ngửa ra sau. Cười xong anh ta mới bảo:




- Cậu đúng là một công tử rồi. Tôi không lấy tiền thì năm bảy miệng ăn lấy gì sinh sống?




Hoàng đế lại nói:




- Đã như thế, tại sao anh không lấy bạc mà chỉ thích lấy tiền?




Anh bán chè lại phì cười một lần nữa, đáp:




- Chè tôi rẻ mạt, đáng gì mà dám nói tới bạc. Một lạng bạc giả bằng mấy gánh tiền, làm sao dám lấy?




Hoàng đế lại hỏi:




- Anh bán hàng lấy tiền tại sao lâu nay anh không đòi tiền tôi?




Đến lúc này thì anh bán chè quyết chắc đây đích thị là một quý công tử rồi. Anh ta cố tìm một câu nói đẹp tai:




- Các vị vương gia tới quán ăn cho, quả đã là một điều vinh hạnh, đâu dám đòi tiền nữa.




Hoàng đế nghe xong mười phần thích thú liền bảo:




- Bọn tôi ăn chè của anh đã nhiều, hôm nay tôi tính thưởng anh nhưng túi lại không sẵn. Để tôi viết cho anh một tấm ngân thiếp, sáng mai đem đi mà lấy bạc nhé.




Anh hàng chè nghe nói đến bạc, sướng điên lên, vội chạy vào quán rượu cạnh đường xin một miếng giấy, mượn thêm cái bút cái nghiên. Hoàng đế viết: "Sức cho ty Quảng Sư giao bạc năm trăm lạng".




Viết xong, ngài lấy chiếc dấu nhỏ đóng lên trên rồi bỏ đi luôn.




Anh hàng chè vốn không biết chữ vội đem tấm ngân thiếp vào quán rượu hỏi. Lão thủ quĩ xem xong giật mình đánh thót một cái, miệng lắp bắp bảo anh hàng chè.




- Hôm nay con gặp tay tổ rồi, con ạ.




Đến đây lão thủ quĩ đảo đôi mắt nhìn quanh một vòng rồi ghét sát tai anh hàng chè thì thào:




- Đương kim vạn tuế gia đó!




Anh hàng chè đâu có tin, liền bĩu môi bảo:




- Làm gì có chuyện đó? Lão chỉ nói bậy!




Lão thủ quĩ tỏ bộ mặt nghiêm nghị:




- Trên tấm giấy viết rõ mấy chữ ty Quảng Sư đây này.




Ty Quảng Sư ở trong hoàng cung mà lỵ! Ty này chính là kho bạc của hoàng gia đó, nghe chưa? Để xem mi làm cách nào lấy?




Anh hàng chè nghe rõ đầu cuối hoảng hồn bạt vía vội chạy về nhà cất tấm ngân thiếp mãi tận đáy tráp gối đầu giường, không dám đưa vào cung lấy bạc, chỉ tính mong gặp lại hoàng đế trả tấm ngân thiếp. Nhưng không may chị vợ biết chuyện, thấy món tiền to, sướng quá ngày đêm thúc anh ta đi lĩnh ngay.




Vốn sợ vợ hơn cả sợ vua, thế là hôm sau anh hàng chè liều mạng xông vào cửa cung, tay cầm tấm ngân thiếp hỏi hết người này đến người nọ. Quả nhiên không một ai dám cản, rốt cuộc anh ta tới được ty Quảng Sư đưa tấm ngân thiếp trình lên. Nghe quan ty hỏi, anh hàng chè chỉ còn có cách kể hết sự thực.




Quan ty không dám quyết, vội vào trong trình lên. Vị đường quan xem tấm thiếp, không dám chậm trễ vào tâu ngay Từ Hi thái hậu rõ.




Từ Hi cho đi mời hoàng đế tới. Bà đưa tấm ngân thiếp cho hoàng đế xem. Ngài gật đầu nhận đã thưởng cho anh hàng chè. Thấy việc có thật Từ Hi liền cho đường quan đi lấy tiền trả:




- Ta chớ nên thất tín với dân. Phải trả cho sòng phẳng mới được.




Đường quan được chỉ vội ra ngoài lấy năm trăm lạng bạc trả cho anh hàng chè. Anh ta tưởng phát điên, về nhà làm thịt ngay một con heo lễ trời đất, mời bà con hàng xóm tới ăn khao.




Trong khi đó, Từ Hi thái hậu nghiêm khắc bảo với Đồng Trị hoàng đế:




- Hoàng đế ngày ngày ra ngoài gây chuyện làm mất cả thể thống của hoàng gia. Từ nay về sau không được làm vậy nữa…




Chợt Cung thân vương bước vào. Từ Hi thái hậu liền bảo vương:




- Này, hoàng thúc Lục gia! Hoàng thượng ngày ngày ra ngoài phố gây chuyện, nên khuyên can ngài đi mới được.




Đồng Trị lấy làm khó chịu nên xin phép lui ra. Ngài vừa về tới cung Kiều Thanh, ai ngờ Cung thân vương lại cũng vừa tới xin bệ kiến. Vương quỳ trước hoàng đế dập đầu tâu:




- Vừa rồi Thái hậu ban ý chỉ, hoàng thượng nghe rõ cả rồi. Hoàng thượng ngày ngày ra ngoài du ngoạn, thái hậu cứ cho rằng tại bọn thần tử chúng tôi không biết khuyên can, hoàng thượng nên sửa đổi, một là để hoàng thái hậu khỏi phải lo lắng, hai là để bọn thần tử chúng tôi khỏi bị thái hậu trách mắng. Thân thể của hoàng thượng vốn là vạn thặng chi khu, cần phải hết sức bảo trọng. Câu chuyện Bạch Long Dư hành thích tiên hoàng hồi trước hẳn hoàng thượng còn nhớ. Hoàng thượng tự ý xuất cung, tả hữu chẳng có ai theo hầu, chẳng may có chuyện xảy ra, không những lưỡng cung thái hậu sợ hãi lo âu mà bọn thần tử chúng tôi cũng mang tội suốt đời.




Ngày cả giữa thời thái bình vô sự đi nữa, hoàng thượng cũng phải nên tuân phụ Tổ huấn. Từ xưa các vị hoàng đế đâu có tự ý xuất cung bao giờ.




Nghe Cung thân vương nói đến hai chữ "Tổ huấn", Đồng Trị hoàng đế bỗng cảm thấy tức tối giận dữ trong lòng. Ngài giật bổng người lên như cái lò xo, hậm hực bảo vương:




- Vậy Lục gia thấy trẫm có gì trái Tổ huấn?




Lúc đó hoàng đế đang mặc bộ quần áo long bào màu đen thêu bướm trắng. Cung thân vương liền chỉ vào bộ quần áo mà nói:




- Hoàng thượng mặc bộ quần áo đó thực cũng đã trái Tổ huấn rồi. Bởi vì rằng di chế của tiên tổ không cho phép ăn mặc như vậy.




Hoàng đế nghe đoạn cười nhạt bảo:




- Bộ quần áo này trẫm cắt may giống hệt bộ quần áo của Anh Tải Trưng. Anh Tải Trưng là con trai của Lục gia. Tại sao Lục gia không về nhà dạy con trai mình mà lại tới đây để can ngăn trẫm? Thôi bây giờ Lục gia hãy đi đi! Trẫm sẽ có lệnh sau.




Cung thân vương nhìn nét mặt của Đồng Trị hoàng đế lộ ý giận tức bèn đập đầu thêm mấy cái rồi mới lui ra khỏi cung. Ông vừa quay lưng đì thì hoàng đế cũng hầm hầm bước vào thư phòng viết một đạo chỉ dụ, lấy chiếc bao thơ vàng bỏ vào, rồi cho gọi đại học sĩ Văn Tường tới.




Văn Tường và Cung thân vương vốn là chỗ giao tình mật thiết. Khi Tường vào tới cửa cung thì cũng vừa gặp Cung thân vương đi ra. Hai người liền đem chuyện khuyên can hoàng thượng ra bàn. Cung vương nói thêm:




- Hoàng thượng nghe tôi nói có vẻ không bằng lòng. Tướng quốc vào gặp hoàng thượng cũng nên giúp tôi khuyên can hoàng thượng thêm.




Vừa thấy Văn Tường, hoàng đế trao ngay cho phong thư màu vàng, bảo:




- Trẫm có một đạo chỉ dụ bên trong. Cấm không được tự ý mở ra. Ông đem ngay tới dinh quân cơ cho các đại thần xem, rồi theo đó mà hành động tức khắc.




Văn Tường giơ cao tay đỡ lấy thánh chỉ, liếc mắt nhìn thấy hoàng thượng tức giận ghê gớm, biết có chuyện gì nguy kịch rồi đây, vội quỳ xuống cầu xin hoàng thượng minh dụ.




Mãi rồi hoàng đế mới nói:




- Được! Có nói với ông cũng chẳng ngại gì! Trong đó có đạo chỉ dụ giết Cung thân vương.




Tường như bị sét đánh bên tai, hoảng hồn bạt vía, chỉ còn biết dập đầu, lắp bắp tâu:




- Lục vương gia vốn là cố mệnh đại thần, lại còn là một vị hoàng thúc. Cúi xin hoàng thượng tha cho tội chết.




Hoàng đế thấy Văn Tường cứ quỳ mọp dưới đất dập đầu tâu, không chịu cầm chỉ bèn phất tay áo đứng dậy bước nhanh vào tẩm cung. Văn Tường chỉ còn biết cầm tờ chỉ dụ chạy sang yết kiến Từ Hi. Thái hậu bảo Tường để tờ chỉ dụ lại và hứa tự sẽ tới khuyên can hoàng thượng.




Quả nhiên không thấy đạo chỉ dụ ban xuống nữa. Nhưng từ đó, hoàng đế chán ghét Cung thân vương không để đâu cho hết. Biết vậy nhưng vương mặc kệ, cứ vẫn Cương chính đứng giữa triều đình như cũ, thấy hoàng thượng không giữ "Tổ huấn" vẫn đem hết lời lẽ khuyên can. Cỏn Đồng Trị hoàng đế thì vẫn xuất cung du ngoạn như cũ, bất chấp hết: Tổ huấn, Tây thái hậu, cố mệnh đại thần…




Tại Bắc Kinh có một quán cơm ngon nổi tiếng gọi là Tuyên Đức lâu Một hôm thái tử Vương Cảnh Kỳ rủ thị lang bộ Hộ Vu Đức Diệu lén đánh chén trên lầu. Kỳ và Diệu tính vốn mê hát, Kỳ lên giọng trước ca bài Nhi Hoàng Diệu, sau đó tiếp bài Côn khúc. Trong quán cơm, đặc biệt có cả đờn cầm.




Kỳ và Diệu vừa nhậu vừa ca, ca đến lúc hứng lên liền đem đàn ra hoạ. Trước hết, Diệu thong thả dạo tiếng tơ đồng để hoạ với Kỳ đang cất cao giọng bản Chiết Kinh điệu. Xong một bản Kỳ lại thổi sáo để Diệu ca bản Côn khúc.




Thế rồi cứ hết bản này qua bản khác, thực khách dưới lầu nghe hay quá cũng đổ xô cả lên lầu mà nghe.




Giữa lúc đàn ca đang hay một chàng trai bỗng vén màn bước vào ngồi phịch xuống chiếc ghế đối diện hai tay danh ca, thộn mặt ra nghe, chẳng thèm gọi hỏi rượu thịt:




Nghe thái tử Kỳ hát xong chàng thiếu niên bèn củi đầu chào thị lang Diệu và trịnh trọng yêu cầu đại gia cho thưởng thức lại bài Côn khúc.




Thị lang Diệu thấy anh chàng mặt mày đường bệ, nói năng lịch sự, đàng hoàng, nên chồng tiện từ chối. Ông ca lại bản Chiết chu hội với tất cả say mê của mình.




Giữa lúc ấy bỗng phía dưới có tiếng vó ngựa phi tới. Nhìn ra thì thấy bốn, năm chục tên kỵ mã hộ vệ một cỗ xe sơn màu hồng từ từ đỗ lại dưới lầu. Rồi thấy một ông lão trong xe bước ra. Đó chính là Cung thân vương.




Cung thân vương bước lên lầu, tiến thẳng tới chàng thiếu niên, ghé tai nói nhỏ những gì chẳng ai rõ. Lúc đầu chàng ta lắc đầu quầy quậy, tỏ vẻ không chịu. Nhưng Cung thân vương cố nói, nói mãi, cuối cùng chàng uể oải đạp những bước nặng trịch xuống lầu, uể oải bước lên xe theo đoàn thị mã về cung. Lúc đó Vương thái tử, Vu thị lang mới biết chàng thiếu niên nọ chính là đương kim vạn tuế gia của mình.




Vu thị lang khi nãy được vạn tuế gia cúi chào, bây giờ nghĩ lại mới thấy run sợ, đinh ninh chuyến này thế nào mình cũng sẽ "được" lột da, tước bì để gặp Diệm vương.




Thế là Diệu và Kỳ, ông thị lang, ông thái tử ném hết cả rượu quăng sạch cả đàn, chạy một mạch về nhà, lên cơn sốt liệt giường suốt cả đêm, vợ con hỏi cũng không mở nổi mồm nói lên được tiếng nào.




Qua hôm sau, quả có một đạo thánh chỉ hạ xuống. Bọn Kỳ Diệu đã trối trăng vợ con để đợi chết nhưng không ngờ khi mở chiếu chỉ ra, cả hai nhảy lên vì sung sướng.




Thì ra đó là chiếu chỉ thăng cấp chức quan to hơn cho cả hai. Riêng thị lang Diệu nghĩ quẩn, cho rằng mình nhờ được một bài hát mà lên quan to, tự lấy làm nhục, càng nói ra càng nhục, bèn cáo lão về nhà.




Còn thái tử Kỳ vốn quen đức lý, coi thường dư luận vẫn ở lại nhận chức Lại bộ thị lang, được làm hành tẩu tại điện Hoành Đức, ngày nào cũng được gặp mặt hoàng đế.




Vương Cảnh Kỳ người Bắc Kinh vốn nổi danh trong làng chơi, nhanh nhẹn bặt thiệp nhất chốn đô kỳ. Những ban ca nơi trà thất, bọn gái chơi không một ai là Kỳ không quen thân.




Chính là nhờ Kỳ nên hoàng đế được chỉ lối mách đường rành rọt hơn lúc nào hết, khiến từ đó ngài càng gây rối làm loạn trên khắp kinh thành.




Kỳ khéo léo chiều chuộng hoàng đế, thường đưa vào các thanh lâu sang nhất nhưng lại là những nơi mở lậu. Hoàng đế thích những nơi này chỉ là tại nó bí mật, êm tĩnh, người ngoài khó mà phát giác ra được. Kỳ có quen một nãi nãi (chủ chứa) thường gọi là Chương Tam nãi nãi. Ả vừa trẻ lại vừa đẹp ngụ trong một mật động tại khu phía tây kinh thành. Mặc dầu Chương Tam còn trẻ nhưng đã là một mụ dầu, dìu dắt cả đám đông em út dưới trướng, cũng xinh đẹp mê ly chẳng thua nàng.




Vương Cảnh Kỳ đưa hoàng đế tới đây rồi thì chỉ muốn ở lại đây Ngài luân phiên thưởng thức hết cô này đến cô kia, từ mụ chủ cho đến loại em út mới vào nghề. Ngài không muốn về cung nữa. Khổ cái là Thái hậu ở trong cung biết ngài ham chơi nên tra hỏi luôn, khiến ngài dù cơn thèm chưa đã mà lắm bận đành phải dứt áo ra về. Đi đêm về hôm, chơi bời vô độ, hoàng đế lâm bệnh nặng.




Từ Hi thái hậu được tin vô cùng bối rối. Một mặt bà truyền lệnh cho ngự y vào cung bắt mạch hốt thuốc, một mặt, hạ lệnh cho Tuệ phi phải đêm ngày hầu hạ, luôn bên cạnh giường hoàng đế.




Đồng Trị hoàng đế toàn thân phát nhiệt, nóng như thiêu như đốt, nên bất tỉnh nhân sự. Bởi vậy, tất cả mọi việc đều do Thái hậu và Tuệ phi lo liệu xếp đặt.




Thế rồi cơn sốt hạ, nhưng tức khắc, một cơn sốt khác bỗng phát sinh. Toàn thân ngài mọc đầy mụn lậu.




Bệnh lậu này cực kỳ nguy hiểm. Khắp mình hoàng đế không chỗ nào là không có mụn. Bệnh phát quá nặng, hoàng đế lại mê đi. Trước long sàng của hoàng đế chỉ có mình Tuệ phi săn sóc hầu hạ. Đã từ lâu Hiếu Triết hoàng hậu không được gặp mặt hoàng đế. Do đó, ngày nay, hoàng đế nhuốm bệnh, bà chẳng biết mà đến thăm. Bọn cung nữ cũng như thái giám thì lại đều là người tâm phúc của Từ Hi thái hậu và Tuệ phi, bởi thế, Hiếu Triết hoàng hậu cũng như Từ An thái hậu hoàn toàn không hay biết.




Bệnh tình hoàng đế mỗi ngày một nguy kịch. Từ Hi thấy vậy liền cho Cung thân vương và cả một bang đại thần trong triều vào cung bàn gấp việc lập tự. Mọi việc đều được trù bỉ xong xuôi, chỉ còn chờ lúc hoàng đế ngã xuống là y kế thực hiện.




Không ngờ năm, bảy ngày qua đi, bệnh tình của hoàng đế giảm dần, phút nguy hiểm đã không còn đe doạ ngài nữa.




Hoàng đế đã tỉnh lại như trước, gọi người đòi ăn uống. Việc ăn uống hầu hạ lúc đó đều do một mình Tuệ phi lo liệu. Nhưng hoàng đế vốn không ưa Tuệ phi nên không thèm nói một lời nào với nàng.




Nhân lúc Tuệ phi không có bên, hoàng đế vẫy tay gọi tên tiểu thái giám tới bảo hắn cời chiếc ấn vàng trên chiếc áo lót của mình rồi lẻn đem sang mời hoàng hậu tới. Hiếu Triết tới liền.




Hai người xa nhau đã lâu nay được gặp lại, lòng càng bi thiết, thấy hoàn cảnh của nhau đều bi đát, thảm thê, bất giác cùng ôm lấy nhau khóc lóc.




Lát sau Hiếu Triết hoàng hậu gạt lệ trước, khuyên hoàng đế cũng nên thôi khóc. Hại người kể lể mọi nỗi tương tư, u sầu xa cách cho nhau nghe. Rồi hoàng đế hỏi:




- Hậu ở trong cung cô đơn lạnh lẽo lắm phải không? Tây thái hậu đối đãi với hậu như thế nào?




Vừa nghe tới mấy tiếng Tây thái hậu, Hiếu Triết bất giác đôi dòng lệ lại tầm tã tuôn rơi. Lệ rơi xuống ngay trên bàn tay hoàng đế khiến ngài thật lấy làm bất nhẫn. Ngài giơ đôi tay gầy ốm xanh xao lên kéo hoàng hậu vào lòng.




Một lát, hoàng hậu đứng dậy xin phép ra về nhưng hoàng đế không chịu. Hậu lắc đầu nói:




- Chỉ sợ "bà" biết khiến thần thiếp lại bị trách phạt?




Hoàng đế bảo:




- Bà còn ngủ chưa dậy có gì mà ngại!




Ai ngờ rằng Tuệ phi quay về cung rửa mặt chải đầu xong đã quay lại. Khi bước tới cửa ngoài, nghe tiếng nói xì xào bên trong. Tuệ phi liền hỏi bọn thái giám mới biết chính cung đang trong đó. Tuệ phi không dám vào, vội quay qua cung Từ Hi tâu trình:




- Hoàng thượng bệnh vừa thuyên giảm, gặp hoàng hậu sợ lại nguy hại cho thân thể ngài chăng? Bệnh mà phát lại thực không phải chuyện chơi nữa.




Từ Hi thái hậu bất giác cả giận, nghiến răng ken két rít lên:




- Con yêu hồ khốn nạn! Mi muốn làm mê chết hoàng đế phải không? Ta phải cho mi biết tay!




Thái hậu hầm hầm chạy đến cung Kiều Thanh, đạp tung cánh cửa nhảy vào giữa lúc Hiếu Triết hoàng hậu đang nằm ép bên cạnh giường hoàng đế thì thầm kể lể.




Từ Hi thái hậu thấy vậy, máu hoả tốc lên, bất chấp hoàng hậu hay không hoàng hậu, thể diện hay không thể diện, bỏ mọi lễ nghi phép tắc, xông lại tát luôn một hơi mấy chục cái vào đôi má hoàng hậu, miệng quát tháo ầm ĩ:




- Con yêu hồ khốn nạn! Con khốn nạn! Mi thấy hoàng đế bệnh đã bớt định tới quyến rũ làm cho ngài chết phải không? Khốn nạn! Khốn nạn! Khốn nạn!




Vừa quát vừa đánh, mặc cho hoàng hậu đầu bù tóc rối, miệng ói máu, kêu khóc cả tiếng.




Chưa hết khí tức, Từ Hi thái hậu quát bảo bọn cung nữ đem gậy lại.




Thấy nguy quá, Đồng Trị hoàng đế vội chống gượng đôi tay gầy ngay trên giường, dập đầu xin tha cho hoàng hậu.




Thấy hoàng đế như vậy, bọn cung nữ, thái giám cũng nhất loạt quỳ xuống dập đầu xin tha, đồng thanh nói:




- Lão Phật gia! Lão phật gia!




Hiếu Triết hoàng hậu lúc đó cũng đã quỳ xuống dập đầu câu xin:




- Lão Phật gia! Xin thái hậu thương cho kẻ đã từ cửa Đại Thanh môn bước vào cung mà giữ cho một chút thể diện!




Ai ngờ câu đó càng làm mếch lòng Tây thái hậu khiến bà thêm giận dữ. Tây thái hậu vốn trước không từ cửa Đại Thanh môn vào cung (chỉ có người chọn làm hoàng hậu và có lễ đại hôn mới được qua cửa này). Cho nên câu nói kia của Hiếu Triết hoàng hậu chỉ mang lại thêm hậu quá tai hại cho bà. Theo thể chế của tổ tiên nhà Thanh còn một điều đặc biệt này nữa: Hoàng hậu do cửa Đại Thanh môn mà vào cung thì chi có thể truất phế chứ không thể nhục mạ, đánh đập được. Đã có thể chế thì phải theo. Bởi thế, dù lồng lộn đến đâu Từ Hi thái hậu tới lúc này cũng đã biết mình đi quá trớn, đã phạm pháp. Câu nói của Hiếu Triết hoàng hậu tuy có hậu quả nguy hại về sau nhưng hiện tại nó đã cứu bà. Tây thái hậu tức đến mấy nhưng trước "tổ chế" đành phải ngậm miệng, dừng tay, hầm hầm quay phắt về cung.




Đồng Trị hoàng đế thấy tình cảnh này biết rằng đại sự chẳng còn tốt đẹp gì nữa, vội truyền chỉ triệu quân cơ đại thần là thị lang Lý Hông Tảo vào cung cấp kỳ.




Đồng Trị cho cuộn cao rèm ngoài, gọi Lý Hồng Tảo tới.




Tảo bước vào, thấy hoàng hậu đứng trước long sàng hình như lau nước mắt. Hậu muốn tránh đi nhưng hoàng đế đã nắm lấy tay áo, bảo:




- Hậu khỏi cần phải tránh! Lý sư phó vốn là một lão thần của tiên hoàng mà hậu lại là túc phụ của kẻ môn sinh của sư phó. Hiện nay trẫm có việc khẩn cấp cần bàn với sư phó, hậu có thể ở lại nghe được. Vậy hậu trước hết hãy yết kiến sư phó mong được sư phó giúp đỡ săn sóc cho về sau.




Nói đoạn hoàng đế bất giác nhỏ lệ ròng ròng. Trong khi đó, hoàng hậu bước tới làm theo lời hoàng đế. Lý Hồng Tảo thấy vậy vội vàng bỏ mũ, bò mọp xuống mặt đất, dập đầu lia lịa. Hoàng đế bảo Lý Hồng Tảo:




- Xin sư phó đứng dậy cho! Hiện tại không còn là lúc vua tôi giữ lễ nữa.




Nói đoạn hoàng đế gọi tên tiểu thái giám mang ghế đặt bên cạnh long sàng.




Hoàng đế bảo Lý Hồng Tảo ngồi xuống, giơ tay cầm lấy bàn tay Lý Hồng Tảo và chỉ nói được mỗi một câu.




- Trẫm bệnh sợ không thể lành được!




Hoàng hậu, hoàng đế cùng Lý Hồng Tảo cả ba đều bùi ngùi rơi lệ. Hoàng đế lại tiếp:




- Trẫm chưa sinh được thái tử. Tây thái hậu lại kình địch với hoàng hậu. Trẫm chết đi thử hỏi làm sao yên tâm được. Trẫm e rằng hoàng hậu cũng sẽ chẳng được an lành.




Hoàng đế giơ bàn tay gầy guộc vịn vào vai hoàng hậu, lại cố gượng tiếp:




- Đây không phải lúc khóc lóc. Ta phải gấp rút bàn việc đại sự. Nếu chẳng may trẫm bất trắc có mệnh hệ nào thì việc khẩn cấp nhất là việc lập tự quân. Theo hậu thì hậu muốn lập ai làm tự hoàng đế? Hậu nên nói cho sư phó để quyết định ngay và trẫm có thề bàn với sư phó viết ngay tờ di chiếu.




Hiếu Triết hoàng hậu thấy hoàng đế nói tới đây vội lau khô đôi dòng lệ đang tuôn chảy trên đôi gò má xanh gầy, quỳ xuống tâu:




- Quốc gia nhờ vào đấng quân trưởng. Thần thiếp quyết không mong cái hư danh thái hậu khiến làm hỏng cả đại sự của quốc gia.




Đồng Trị hoàng đế nghe nói khẽ nhếch mép cười gật đầu bảo:




- Hoàng hậu rất hiểu đạo lý, trẫm không phải lo ngại điều gì!




Nói đoạn hoàng đế quay sang thì thào bàn tính mọi việc với Lý Hồng Tảo, cuối cùng quyết định lập Bối lặc Tải Thụ làm Tự hoàng đế.




Đồng Trị hoàng đế vừa suy nghĩ vừa thong thả đọc trong khi Lý Hồng Tảo bò mọp trước giường viết tờ di chiếu.




Tờ di chiếu rất dài, trong đó, gần hết mọi điều đều căn dặn đề phòng những âm mưu của Tây thái hậu.




Tờ di chiếu viết xong, Đồng Trị hoảng đế cầm lấy xem đi xem lại cẩn thận rồi bảo:




- Được lắm! Được lắm!




Hoàng đế lấy chiếc ngọc tỷ đóng lên trên tờ chiếu rồi đưa cho Lý Hồng Tảo cất giấu. Nhưng Tảo chẳng biết giấu vào đâu cho kỹ nên cứ loanh quanh mãi. Về sau Hiếu Triết hoàng hậu đích thân xé rách cái mép ống tay áo của Tảo bỏ vào trong rồi khâu lại cẩn thận.




Đồng Trị hoàng đế nói:




- Sư phó nên về nhà nghỉ đi. Sáng mai trẫm còn muốn gặp mặt sư phó một lần nữa.




Lý Hồng Tảo dập đầu lạy tạ lui ra. Vừa khỏi tẩm cung thì gặp Thuần thân vương Dịch Tôn.




Lý Hồng Tảo gặp Tôn, biết rằng đại sự hỏng rồi, vội bước tới thỉnh an. Thuần thân vương lạnh lùng bảo:




- Sư phó mải mê công việc trong cung với hoàng thượng, dám làm đến cố mệnh đại thần chứ chẳng chơi. Sư phó kể đã vất vả lắm, bởi vậy xin mời tới cung thái hậu nghỉ ngơi đôi chút rồi ta bàn luận.




Nói đoạn Thuần thân vương bất chấp Tảo muốn hay không, nắm lấy tay áo Tảo kéo đi. Tảo hoảng hồn bạt vía, trống ngực đánh thình thình, hai chân khuỵu lại gần như không còn đi được nữa.




Tảo vất vả lắm mới tới được cung của Tây thái hậu. Ngước mắt lên nhìn, thì đã thấy các vương gia có mặt đầy đủ cả đấy rồi: nào Cung thân vương Dịch Càn, nào Thuần thân vương Dịch Hoãn, nào Phu quận vương Dịch Huệ, nào Huệ quận vương Dịch Tường.




May thay Tảo cũng là người khôn ngoan tinh ranh. Vừa thấy Cung thân vương, Tảo vội bước tới gần thỉnh an, cất tiếng nói ngay:




- Nguyên lai Lục gia đều có mặt tại cung cá. Tôi vừa mới được mật chiếu của hoàng thượng, chính giữa lúc chưa có ý kiến gì. Tôi định khi ra khói cung, là phải tìm ngay Lục vươn gia để bàn tính việc này đây.




Cung vương nghe xong, bèn nói:




- Mật chiếu gì?




Lý Hồng Tảo không run sợ gì nữa, liền xé toạc cái ống tay áo, kéo tờ mật chiếu của Đồng Trị hoàng đế ra và đưa lên.




Bọn vương gia ngồi đầy nhà nhìn thấy, ai cũng đổi sắc mặt. Giữa lúc đó. Từ Hi thái hậu cũng từ phía trong đi ra.




Cung thân vương chẳng dám giấu giếm, liền đưa tờ mật chiếu trình lên.




Từ Hi thái hậu miệng đọc mật chiếu, hai tay run bắn lên: Bà đọc xong, thì nỗi tức giận cũng đã lên đến cực điểm.




Bà nghiến răng ken két, xé toạc tờ mật chiếu luôn một hơi ra làm trăm mảnh rồi ném xuống đất. Những mảnh giấy vụn bay xuống lả tả. Cặp mắt giận tức của bà như cắm phập vào Lý Hồng Tảo, khiến Tảo hoảng hồn bạt vía, vội quỳ xuống đất dập đầu lia lịa, máu trán chảy ra lênh láng làm hoen ố cả mặt mũi, miệng không ngót lắp bắp, cố nói lên được mấy lời này:




- Thần… Thần… tội đáng chết! Xin lão Phật gia cho thần một cái chết toàn thây…!




Bọn đại thần lúc đó đứng cả hai bên, cũng nhất tề quỳ xuống, cầu xin giùm cho Tảo. Mãi một lúc sau, mọi người mới nghe thái hậu chi lên một tiếng:




- Đứng dậy. Khỉ!




Ai nấy thở phào, hú vía. Lý Hồng Tảo vội dập đầu thêm mấy cái nữa, để tạ ân, rồi mới lấm lét lui ra.




Về tới nhà, Lý Hồng Tảo đâu đã hết lo. Ngay đêm đó Tảo lẻn tới nhà Thôi tổng quản và Lý phái giám cúng cho bọn này năm vạn lạng bạc cầu xin hai tên nói tốt cho mình trước thái hậu.




Chờ cho Lý Hồng Tảo ra khỏi, Từ Hi thái hậu liền mở ngay một cuộc ngự tiền hội nghị giữa bà và các vị vương gia kể trên. Cao hứng thế nào không biết Từ Hi thái hậu cho mời luôn cả Từ An tới dự.




Trước khi bắt đầu Từ Hi thái hậu nho lệ ròng ròng rồi cất tiếng trong uất nghẹn.




Bệnh của hoàng thượng xem ra không thể cứu được thế mà việc lập Tự hoàng đế (vua kế vị) chưa định xong. Đó là một việc vô cùng trọng đại của chúng ta. Xin tất cả các vị giúp tôi suy nghĩ giùm xem nên lập ai?




Từ An thái hậu nghe đoạn nói tiếp ngay:




- Đất nước nhờ các bậc quân trưởng. Phổ Luân và Tải Thụ đều đã trưởng thành, có thể lập làm Tự hoàng đế.




Từ Hi thái hậu nghe xong bất giác mặt biến hẳn sắc, lớn tiếng nói:




- Bà cũng nói trưởng quân, họ cũng nói trưởng quân. Lập xong trưởng quân rồi thử hỏi hai con mụ già tụi mình có còn đất sống nữa không chứ?




Mấy câu nói của Từ Hi đã làm cho Từ An phát hoảng, từ đó chẳng còn dám nói thêm lời nào.




Ngừng một lát Từ Hi thái hậu dõng dạc tiếp:




- Bọn người nhà ta lấy chữ Phổ chẳng có đứa nào có thể lập làm Tự quân được. Theo ý tôi thì thằng con trai lớn của Thuần vương gia là Tải Điềm, năm nay bốn tuổi, rất gần dòng máu với hoàng đế, tưởng có thể lập làm Tự hoàng đế được. Mẹ của Điềm vốn là em gái tôi. Nếu bọn ta lập Điềm làm Tự hoàng đế thì thế nào cũng được chiếu cố tới cẩn thận.




Thuần thân vương lúc đó ngồi ở bên cạnh chẳng dám nói gì Từ Hi lại quay đầu lại bảo Từ An:




- Ý chị thế nào?




Từ An thái hậu chỉ còn biết gật đầu và luôn miệng nói "Được! Được lắm", tỏ vẻ ưng thuận. Từ Hi thái hậu thấy vậy, bèn quay sang bảo bọn vương gia đại thần:




- Các vị nghe cả rồi đấy nhé! Đông thái hậu đã cho chỉ ý lập con trai của Thuần thân vương Dịch Hoàn là Tải Điềm làm Tự hoàng đế rồi đấy nhé? Lục gia hãy mau mau viết chiếu đi.




Nội dung của tờ chiếu tóm lược như sau:




"Từ khi hoàng đế lên ngôi đến nay vẫn chưa có con nối dõi. Bởi thế bất đắc dĩ phải lấy con trai của Thuần thân vương Dịch Hoàn là Tải Điềm thừa kế Văn Tông, nối dòng đại thông.




Đợi khi nào hoàng đế có hoàng tử thì lúc đó hoàng tử sẽ làm tự quân của Đại hành hoàng đế".




Chiếu chi thảo xong, tất cả bọn vương gia đại thần đều ký tên vào rồi mới giải tán, ai về nhà nấy.




Đợi cho mọi người đi hết Từ Hi thái hậu mới cho người lén gọi Tuệ phi đến cung dặn dò cặn kẽ hết mọi kế hoạch.




Đó là cắt tuyệt hết cơm ăn nước uống cũng như thuốc men cho Đồng Trị hoàng đế.




Hoàng đế nằm trên giường bệnh, mà chẳng thuốc men cơm nước gì đem vào. Ngài vừa đói lại vừa khát, bèn sai tên tiểu thái giám tâm phúc của mình đi. Nhưng tên này đi đến nửa ngày trời mới trở về, chỉ thấy tay không bước vào. Ngài hỏi thì hắn chán nản tâu:




- Thái hậu truyền dụ cấm không cho đem cơm nước, thuốc thang gì vào cung ta nữa.




Đồng Trị nghe nói giật mình vội bảo tên tiểu thái giám đi đò la lần nữa lúc đó mới biết tờ di chiếu đã bị phát giác, quyền hành hiện nay đều nằm trong tay Tuệ phi và nếu hoàng thượng muốn ăn uống gì tất nhiên phải cầu xin ở Tuệ phi mới được.




Lúc này hoàng đế đã khỏe lên khá nhiều và đã có thể đi lại được Hoàng đế cho mời hoàng hậu tới và yêu cầu bà dùng ấn tử truyền hạ chỉ dụ xuống cho Tuệ phi. Nhưng Hiếu Triết hoàng hậu không chịu nghe. Bà khuyên hoàng đế an tâm tĩnh dưỡng, không nên đi lại nhiều. Nhưng hoàng đế vẫn khăng khăng một mực, thậm chí ngài phải quỳ mọp xuống trước hoàng hậu, không muốn đứng dậy nữa.




Hiếu Triết hoàng hậu thấy vậy đành phải ưng chịu. Hoàng đế gói linh ký của hoàng hậu lại đem đi. Khi đến cung của Tuệ phi ngài ở lại nơi đây một đêm sáng mai mới quay về Kiều Thanh cung.




Nhưng ngài về đến cung chưa được nửa giờ, bọn thái giám trong cung đều la hét ầm lên báo động đi khắp nơi "hoàng thượng đã về chầu giời".




Từ Hi thái hậu là người đầu tiên tới cung truyền dụ cho bọn thái giám tắm rửa, đội mũ, mặc quần áo cho hoàng đế rồi đặt xác ngài trong tẩm cung.




Mọi việc xong xuôi, Từ Hi thái hậu cho người lẻn đi mời Cung thân vương vào cung. Một tên thái giám đi trước dẫn đường mở hết cửa cung này đến cửa cung khác, qua rồi, lại khoá chặt ngay lại.




Hai người đi như vậy qua đến mấy chục lần cửa mới tới tẩm cung của Đồng Trị hoàng đế.




Cung thân vương bước vào chỉ thấy xác của hoàng đế nằm trên long sàng, đứng bên là Từ Hi thái hậu tay cầm một cây đèn cầy cháy leo lét.




Cung thân vương bước tới thỉnh an, Từ Hi thái hậu liền bảo:




- Đại sự đã tới giai đoạn này Lục gia tính giải quyết cách nào?




Cung thân vương vội dập đầu tâu:




- Thần đâu dám không phụng chiếu của thái hậu.




Từ Hi nghe đoạn gật đầu bao:




- Lục gia chịu phụng chiếu thì đại sự đã có cách giải quyết rồi!




Nói đoạn Từ Hi thái hậu cho lệnh triệu gấp ba vị vương gia là Thuần thần vương, Phu quân vương, Huệ quân vương và vài vị đại thần thân tín nữa vào cung để bàn định hậu sự.




Từ An thái hậu cũng có ngồi bàn định. Bà cũng muốn nói, nhưng khốn thay, đến một kẻ tâm phúc tín cẩn cũng không có thì còn biết làm gì hơn.




Từ An thái hậu bước tới cạnh long sàng, thấy thân thể hoàng đế khô đét lại, đầu đã rụng hết cả bím tóc, bất giác lã chã tuôn rơi đôi dòng lệ. Giữa lúc ngắm nhìn, Từ An thái bậu bỗng thấy ở phía dưới chiếc gối lộ ra một tờ giấy: Tò mò, bà cầm lên xem. Bỗng đôi má bà đỏ ửng lên như gấc chín rồi bà ném mạnh tờ giấy nọ xuống sàn nhà.




Từ Hi thái hậu thấy vậy vội hỏi, nhưng Từ An không mở nổi miệng để giải thích nữa. Tên tiểu thái giám vội chạy tới lượm lên dâng Từ Hi. Thì ra đó là một bức hoạ trên vẽ một đôi trai gái đang mùi mẫn yêu đương trong phòng kín. Nhưng điều thú vị hơn lại là một dòng chữ ghi bên cạnh: "Thần, Hoằng đức điện hành tẩu, Hàn lâm viện thị giảng Vương Khánh Kỳ trình lên ngự lãm".




Từ Hi thái hậu xem xong văng tục chửi:




- Tiên sư đểu! Thằng cha họ Vương này đểu thiệt.




Tuy miệng chửi đểu đấy nhưng tay bà vẫn khư khư giữ bức hoạ từ từ đút vào tay áo như có vẻ quý hoá lắm.




Tử khi nãy Cung thân vương đã chạy vội tới phủ Thuần thân vương. Vương bế chú bé Tự hoàng đế bốn tuổi vào cung.




Từ Hi thái hậu tiếp lấy bế xem, và chú bé bèn làm một giấc say sưa trong lòng bà.




Trời đã sáng tỏ. Một tờ thượng dụ đưa xuống cho thần dân tuyên cáo hoàng đế băng hà. Một đạo chỉ dụ khác tiếp theo lập con trai Thuần thân vương Dịch Hoàn là Tải Điềm lên làm hoàng đế, đổi niên hiệu là Quang Tự.




Thuần thân vương thấy con mình vào cung, nét mặt rầu rầu chẳng vui. Mấy hôm sau vương ngả bệnh. Vương dâng lên một tờ sớ từ hết cả chức tước. Tờ sớ viết rằng:




"Thần theo hầu Đại hành hoàng đế đã có mười ba năm. Thần gặp lúc thiên hạ nhiều chuyện nên làm việc chỉnh quân, luyện võ để mong ngày trung hưng, thịnh vượng. Do đó dù có gan não lâm đất thần cũng vẫn cam tâm. Không ngờ trời nọ chẳng thương, mình rồng đã mất.




Hôm trước thần đã chiêm ngưỡng di ảnh, thấy ngũ nội băng liệt, biết khí thế đã quá say khó vững. Tuy vậy song thần vẫn đem hết tâm lực nghe mệnh đế giúp sức lúc gian nan. Thế rồi thần chẳng được nhờ ý chỉ, cho chọn định tự quân trong lúc gấp rút mê muội, thần thực chẳng còn biết làm cách nào.




Kịp đến lúc về tới nhà tâm thần càng lo, lòng thần càng run, cứ như ngây như mộng, khiêu khích, phạm bệnh gan ngày trước, mà đến nổi trở nên phế tật. Bởi thế thần chỉ còn cách khẩn cầu hoàng thái hậu đặc biệt thi ân cho được xin lấy hài cốt này, khiến đã được che chở trong lúc này, mà cũng còn được mát mặt trong lúc khác. Được vậy, thần quả thực đã cảm đức cái ơn đầy đời đời kiếp kiếp vậy!".




Lương cung Hoàng thái hậu xem xong tờ sớ, biết rằng Thuần thân vương đã vì con trai vương làm Tự hoàng đế nên theo lệ phải tránh lui về.




Bởi thế hai bà chuẩn tấu, cho dứt hết mọi công việc, giữ lấy tước Thân vương thế tập.

Hồi 150 Bắt đôi gian phu dâm phụ




Lại nói Quang Tự hoàng đế mới bốn tuổi, khi vào cung làm hoàng đế, chỉ có một người bảo mẫu hầu hạ. Mọi việc lớn lao của quốc gia đều do hai bà thái hậu rủ rèm nghe chính sự, gọi là Thuỳ liêm thỉnh chính. Trong khi đó, bên ngoài dao ngôn đồn đãi om sòm, truyền đi khắp nơi, bảo Quang Tự hoàng đế vốn là con tự sinh của Từ Hi thái hậu, gởi nuôi tại nhà Thuần thân vương. Câu chuyện tình duyên kỳ thú đó ra sao?




Nguyên Tây thái hậu rất thích một món ăn gọi là Thang ngoạ quả. Hằng ngày, cứ sáng sớm tinh sương, nội phủ phải đưa ra hai mươi bốn lạng bạc để mua bốn cái Thang ngoạ quả cho thái hậu. Món ăn này do quán ăn tên "Kim Hoa phạn điếm" cung cấp. Trong quán này có một tên làm công họ Sử, tuổi trẻ, tính thích chơi bời lang thang. Sử nghe tên thái giám Lý Liên Anh ca tụng cung phủ đẹp đẽ đâm ra tò mò, mới bảo Anh cho mình theo vào cung dạo chơi một phen. Anh thấy Sử bảnh bao, lanh lẹ, lấy làm thích, bèn ưng chịu, nên thường đưa Sử vào chơi nơi cung cấm. Có một hôm, Sử theo Anh vào cung, vừa đi tới cửa Cảnh Hoà môn thì gặp Tây thái hậu.




Bà thấy Sử bèn hỏi là người ở đâu? Sử cũng như Anh, cả hai đều hoảng hồn bạt vía, vội bò rạp xuống mặt đường, rồi Sử tự khai hết về mình cho Tây hậu nghe. Bà thấy Sử đáng yêu bèn lưu Sử lại trong cung để hầu hạ. Hồi đó Hàm Phong hoàng đế đã chết, vậy mà hoàng thái hậu bỗng có thai, sinh ngay một đứa bé trai giống Sử như đúc. Sau khi sinh đẻ, Tây hậu bèn đưa thằng bé tới phủ Thuần thân vương nhờ nuôi hộ, mặt khác, hạ mật lệnh giết chết ngay Sử để bịt miệng. Từ lúc có con đích thị của mình, Tây thái hậu lúc nào cũng thắc thỏm mong có cơ hội để đưa vào cung. May thay cho bà, Đồng Trị lăn đùng ra chết! Thực là cơ hội ngàn năm một thuở! Thế là thái hậu đưa thằng bé vào cung lập là Tự hoàng đế tức Quang Tự. Ý nguyện của Tây thái hậu đến đây đã đạt, luôn luôn giữ ấu đế bên cạnh mình.




Đồng Trị hoàng đế chết đi, Hiếu Triết hoàng hậu tuy được gia phong tôn hiệu là Gia Thuận hoàng hậu, nhưng suốt ngày đêm chịu cảnh cô quạnh lạnh lùng trong thâm cung, chẳng một ai lui tới hỏi han. Thỉnh thoảng Từ An thái hậu có lại thăm, nhưng hai bên tả hữu, cung nữ thái giám vây quanh để ý dò xét nên cũng chẳng nói được gì.




Người trong cung thấy Hiếu Triết hoàng hậu bị Tày thái hậu ghét, kẻ nào cũng chà đạp thêm đến nỗi về sau, việc ăn uống hằng ngày cũng không đủ nữa.




Hiếu Triết hoàng hậu thấy tình cảnh đó, biết mình bị thái hậu ruồng rẫy, nên đôi ba lần định quyên sinh, nhưng chỉ e ngại liên luỵ tới cha mẹ. Theo quy luật trong cung nhà Thanh nếu hoàng hậu, cung phi trong cung tự tử thì cha mẹ, họ hàng đều bị tử tội hết. Do đó khi lên làm hoàng hậu, dù có bị khổ sở tới đâu cũng đành sống cam chịu mà thôi.




Hiếu Triết hoàng hậu, giữa lúc băn khoăn vô vọng đó, bỗng được ông thân sinh là Sủng ỷ thượng thư đưa vào cho một hộp bánh bột lọc. Ăn xong bà bèn viết bốn chữ "Làm thế nào được?" giấu kín ở dưới hộp bánh rồi cho người đưa ra khỏi cung.




Sủng Y thượng thư nhận được mật thơ của Hiếu Trinh hoàng hậu biết rõ nỗi khó khăn, đau khổ của con mình, bèn viết luôn vào trong tờ giấy nọ một câu: "Minh triết mạc như hoàng hậu" (Minh triết chẳng bằng hoàng hậu ư) rồi lại cho người đưa vào cung.




Hiếu Triết xem xong, giật mình tỉnh ngộ, bèn từ đó lập định chủ ý dứt hẳn ăn uống. Qua đến ngày thứ tám, thật đáng thương cho một bà hoàng hậu trẻ đẹp, nghiêng thành nghiêng nước, phải chết đói trong thâm cung.




Tin này đưa tới, Từ Hi thái hậu chỉ nói vỏn vẹn có mấy tiếng:




- Tao biết rồi!




Nhưng đối với Đông thái hậu thì vừa được tin dữ, bà vội chạy tới cung hoàng hậu ôm lấy thây ma khóc lóe thê thảm một hồi, rồi đích thân sang cung Từ Hi, bàn tính việc tống táng cho hoàng hậu. Nể mặt Đông thái hậu, Từ Hi bèn hạ một đạo ý chỉ cho nội vụ phải lo liệu việc tang ma. Khâm thiên giám chọn ngày an táng, sau đó cho quan tài hoàng hậu theo linh thân của Đồng Trị hoàng đế tới nơi lăng tẩm chôn cất.




Lăng tẩm cô tịch vắng lặng. Người ta chỉ thấy có minh Lý Hồng Tảo tới nơi đây bò mọp trước mộ hoàng đế và hoàng hậu khóc lóc thê thảm, lòng quặn đau khi nhớ tới tờ mật chiếu được hoàng đế và hoàng hậu lúc sinh tiền đã phó thác cho mình… tiếng khóc ấy, chỉ vài giờ sau là tới tai Tây thái hậu.




Hôm sau một đạo chiếu chỉ đưa xuống tống ngay Lý Hồng Tảo sang điện Hoằng Đức làm chức hành tẩu, nghe lệnh sai bảo. Thấy động ổ, bọn đại thần Từ Đồng, Ông Đồng, Hoả Quảng, bình nhật vốn bạn tri kỷ của Tảo tự biết nguy rồi, vội vàng dâng sớ xin về vườn tri sĩ. Nhưng ý chỉ hạ xuống tống khứ mỗi người đi mỗi nơi chờ lệnh sai khiến.




Ngự sử Trân Di lại còn dâng sớ đàn hặc Hàn lâm viện thị giảng Vương Khánh Kỳ, và tổng quản thái giám Trương Đắc Hỷ nói bọn này tâm địa hết sức đê hèn khốn nạn, hùa nhau làm điều gian xảo.




Từ Hi thái hậu xem xong sực nhớ tới bức tranh "Xuân Hoa" (bức tranh vẽ lúc nhà vua đang chơi gái trong phòng kín) tìm thấy ở dưới gối Đồng Trị hoàng đế bèn lập tức hạ dụ cách chức cấp kỳ Vương Khánh Kỳ, còn Trương Đắc Hỷ thì phát vãng lên tận Hắc Long Giang để sung quân.




Ngoài ra còn hai vị trung thần nữa đã từng tranh chấp với hoàng thái hậu về việc lập tự của Đồng Trị hoàng đế. Nguyên nhân việc này như sau: Trong ý chỉ của thái hậu trước đây có câu "đợi khi Tự hoàng đế có hoàng tử thì đương nhiên vị hoàng tử đó kế vị Đại hành hoàng đế". Sợ rằng câu nói đó không có bảo đảm, thái hậu sẽ thất tín trong tương lai, bọn đại thần này liền dâng sớ yêu cầu thái hậu đem việc lập tự này lập thành "thiết khoán" (cũng như giấy cam đoan) mà trong số nội các thị độc học sĩ, Quảng An là người quyết hệt nhất. Tờ sở đó như sau:




"Đại hành hoàng đế (ông vua trước) tuổi còn nhỏ đã đăng vị. Nhờ được Lưỡng cung thái hậu buông rèm cai trị, khiến mười ba năm qua thiên hạ đại định, thần dân trong toàn quốc mới được hưởng phúc thái bình. Song le việc lập tự của Đại hành hoàng đế chưa làm, lỡ một mai thuyền rồng rời bến xa chơi thử hỏi kẻ thần dân hưởng ân huệ bổng lộc biết trông vào đâu mà kêu trời gọi đất. May thay nhờ Lưỡng cung thái hậu giữ yên được chính vị khéo chọn người thừa kế, lấy hoàng thượng làm con nối dõi Văn Tông hiến hoàng đế có hoàng tử thì đương nhiên vị hoàng tử đó kế vị Đại hành hoàng đế. Ngửa trông thần dân ai cũng đều thấy Lưỡng cung hoàng thái hậu nơi thâm cung lo việc cũng như việc nhà, liệu tính thật xa xôi, coi việc lập con tức như lập cháu. Nếu đại hành hoàng đế không có hoàng tử tức có dòng dõi của chính ngài, thì vẫn được kế thừa khỏi phải thay thế. Kế sách nào vẹn toàn đến câu thực cũng chẳng hơn được kế sách do vậy xin sức xuống vương công đại học sĩ, lục bộ cửu khanh tập họp hội nghị để thiết lập và ban bành thiết khoán, coi đó như một mưu hay kế thế".




Từ Hi thái hậu xem xong tờ sớ biết rằng Quảng An không tin mình, bất giác cả giận. Bà chẳng những không chịu theo An ban lập thiết khoán, trái lại còn truyền chỉ đưa ông ra mổ xẻ một phen cho đã giận.




Lại bộ chủ sự Ngô Khả Độc thấy hoàng thái hậu không chuẩn y tờ sớ của Quảng An, trong lòng rất lấy làm lo ngại, nhất là Đồng Trị hoàng đế lại bị tuyệt tự. Do đó ông cũng nghĩ nên dâng lên một tờ sớ để đặt ý kiến của mình. Nhưng ông lại sợ địa vị mình thấp hèn, lời nói chẳng đi đến đâu, thể tất thái hậu chàng chịu nghe tới, bèn dùng thi gián kế, tức là dùng thây ma để khuyên can, xin hoàng thái hậu lập tức hạ chiếu lập tự cho Đồng Trị hoàng đế.




Vào lúc đó linh thân (quan tài) của Đế và Hậu (tức Đồng Trị hoàng đế và Hiếu Triết hoàng hậu) đang được chuyển lên Huệ lăng để an táng. Độc liền tới gặp trưởng quan của Lại bộ, xin được một công việc trong việc cúng tế, tất nhiên là được theo chân lên chỗ chôn cất. Đến khi công việc cúng tế xây lăng xong xuôi, Độc quay về kinh, nhưng khi đi qua thành Kế Châu, tạm trú tại miền Tam Nghĩa bên cầu mã Thân Kiều. Độc bèn viết một tờ di sớ để lại rồi uống thuốc độc tự tử, đúng vào nửa đêm ngày mồng năm tháng ba nhuận năm đó.




Qua ngày hôm sau, trưởng quan Lại bộ được tin này liền sai người tới đem xác Độc đi, một mặt dâng tờ di sớ của Độc lên… Trong tờ sớ Độc tự xưng mình là "Tội thần" (người bầy tôi có tội) lời lẽ hết sức thống thiết, ai cũng phải động lòng.




Từ Hi thái hậu xem xong tờ sớ, bèn giao cho Vương Công đại thần đại học sĩ Lục bộ, Cửu khanh, Hàu chiếm khoa đạo hội đồng nghị sự. Kết quả của cuộc đại nghị hôm đó bảo là Ngô Khả Độc chẳng hiểu gì về triều đình và gia pháp, khỏi cần đem ra hội nghị. Thành thử cái chết của Độc là cái chết "độc", cái chết oan, chết mà chẳng được một việc gì. Nếu gọi là được chỉ có một đạo chỉ dụ nhị tuất cho quan hàm ngũ phẩm mà thôi. Sau cái chết tỉa Ngô Khả Độc, chẳng thấy một vị quan nào cả gan dâng sớ về chuyện lập tự cho Đồng Trị hoàng đế nữa.




Lại nói Từ Hi thái hậu từ khi lập Quang Tự lên ngai vàng thì tha hồ thao túng quyền hành. Hằng ngày hai bà thái hậu rủ rèm nghe chính tại triều, nhưng người ta chỉ thấy lời của Từ Hi thái hậu. Ví thử có một vài lời nào đó của Từ An thì thực ra cũng chẳng được ai nghe.




Hồi này tên thái giám Lý Liên Anh đã được Từ Hi thái hậu sủng ái và tin dùng lắm, được thăng lên chức tổng quản.




Anh vốn tên ma đầu khôn ranh, cố tìm cách khai thác thời cơ. Anh biết thái hậu thích nghe hát, thế là y bèn đi rủ một số thái giám khác tập tuồng luyện hát rồi qua mặt Đông thái hậu, đóng tuồng ngay trong cung cấm cho Tây thái hậu xem. Quả nhiên, Tây thái hậu khoái quá! Chỉ tiếc rằng tuồng tích, ca nhạc của bọn thái giám này vốn liếng chẳng có bao, cho nên chỉ hát xướng múa may chưa được mấy hôm đã hết. Hơn nữa tiếng hát của bọn này đâu phải là thứ tiếng lọt mãi được vào tai của một bà Thái hậu xưa kia đã nổi danh về tiếng hát. Lý Liên Anh biết, bèn xin thái hậu cho đi gọi hết bọn đào kép nổi tiếng trong kinh thành vào cung, phối hợp cùng nhau để diễn cho bà xem.




Từ Hi thái hậu nghi ngại bảo:




- Chuyện hát xướng ở trong cung, gia pháp của tổ tiên đâu có cho phép. Lỡ chẳng may Đông thái hậu rõ chuyện, gây thêm nhiều điều phiền phức thì làm sao tiện.




Lý Liên Anh nghe xong nhún vai nói:




- Việc gì mà phải sợ, lão Phật gia chính là tổ tông rồi chứ còn ai nữa. Toàn thể thiên hạ của Thanh triều bọn tôi đều nhờ một tay lão Phật gia chống đỡ. Liệt tổ liệt tông ở trên trời kia hẳn cũng phải cảm kích lão Phật gia nữa là khác. Nay lão Phật gia muốn nghe vài câu hát, một bản tuồng, thử hỏi còn phải sợ ai điều nặng tiếng nhẹ nữa?




Tây thái hậu nghe xong bất giác phì cười, mặt tươi rói, bảo:




- Thằng khỉ! Khéo múa mép lắm! Đã vậy thì bọn mình cho đi đòi ngay một bọn về hát xem sao. Nhưng chớ có trống la ầm ĩ, kéo dài, diễn vài tuồng, ca vài bản giải buồn là đủ rồi nghe không.




Lý Liên Anh lại tâu:




- Cần gì mà giấu giếm! Tốt hơn bọn ta mời ngay Đông thái hậu, hoàng thượng, cả các vị gia gia lại xem, đem trống lớn mà nện, đem chiêng bự ra mà khua một hôm cho đã thèm.




Lúc đầu Từ Hi thái hậu còn e ngại nhưng tên Anh cứ nịnh mãi, khích mãi, xui mãi cuối cùng bà cũng phải gật đầu liều lĩnh thử xem.




Bọn vương công đại thần và luôn cả Từ An thái hậu thảy đều im lặng chấp nhận hành động vi phạm gia pháp này của Từ Hi.




Bọn đào kép trứ danh kinh thành nào là Trình Trường Canh, nào là Cảo Tam Nhi, nào là Dương Nguyệt Lâu, nào là Du Cúc, đều có mặt đầy đủ. Chúng kết hợp lại thành một ban mới, trổ hết tài nghệ bình sinh, cố diễn một tối cho lừng danh để lấy lòng thái hậu.




Tuồng hay quá! Khán giả phía dưới im phăng phắc. Giữa lúc đang diễn một màn tuồng mùi mẫn, tức là màn sư ông Hải Đồ Lê bắt tình mê ly với Phan thị tại núi Thuý Bình, mọi người bỗng thấy Thuần thân vương giơ đôi cánh tay lên trời, quát một tiếng khen "Hay!" chát chúa, đến nỗi khán giả giật bổng người lên chỉ chút xíu nữa là bắn ra khỏi ghế. Từ Hi thái hậu tuy không nói gì, nhưng cũng quay mặt về phía Ngũ vương gia, liếc qua một lượt. Thuần thân vương có lẽ không biết điều đó, bởi thế vương ta bất chấp thiên hạ, quát thêm mấy tiếng "Hay! Hay! Hay!" nữa liên tiếp thành một tràng dài. Cung thân vương ngồi gần đó, thấy chướng quá, vội lẻn tới kéo tay áo của Thuần thân vương mấy cái ra hiệu cảnh cáo, đồng thời ghé tai bảo nhỏ:




- Đây là nơi nội đình. Suồng sã bừa bãi thế không được đâu!




Thuần thân vương nghe xong, cố ý nói lớn để đáp lời Cung thân vương:




- Đây là nơi cung cấm đó sao? Ấy thế mà tôi cứ tưởng rạp hát chứ! Theo gia pháp của tiên hoàng thì trong cung đâu có được hát tuồng bao giờ? Mà lại là vở tuồng "Thuý Bình sơn" nữa thì quá thể. Tôi xem tuồng cứ nghĩ mình đang trong rạp hát, thành thử thấy hay cứ khen tràn!




Nói xong, Thuần thân vương vội chạy tới trước mặt Từ Hỉ thái hậu dập đầu tạ tội. Trong khi đó Từ Hi biết ngay Thuần thân vương có ý chế giễu và đồng thời can gián. Bà vội vàng truyền lệnh đình diễn vở tuồng nay tức khắc.




Từ sau hôm đó, trong cung tự nhiên có một cái lệ là cứ hễ lúc hoàng thái hậu rỗi rảnh, ắt có lệnh gọi bọn đào kéo rạp hát vào cung hát xướng om xòm. Trong đám kép hát, Từ Hỉ thái hậu khoái nhất là Xướng Tu Sinh, Trình Tường Canh và Tiểu Hoa Kiểm Cảo Tam. Một điểm rất đặc biệt là cứ mỗi lần trong cung có đám hát, là y như triệu hết bọn vương gia vào xem.




Thuần thân vương vốn tính ngay chính, đúng mức, tuy thường vào cung hầu cận Tây thái hậu, xem hát, nhưng trong lòng thật chẳng vui thích tí nào.




Có một hôm, Cảo Tam diễn màn tuồng "Tư Chí Thành", Tam đóng vai mụ dầu trong tổ điếm. Một khách làng chơi vừa đặt chân vào tổ điếm, Tam gân cái cổ lên để gọi:




- Con Năm, con Sáu, con Bảy đâu? Ra tiếp khách lẹ, lẹ lên!




Ở Bắc Kinh, loại điếm vào bậc nhì thường lấy số thứ tự mà gọi, chứ không gọi tên cúng cơm. Mấy tiếng gọi vừa rồi đó chính là mấy tiếng gọi em út của mụ dầu chứ chẳng có ý gì châm biếm chế giễu ai.




Không ngờ ngồi phía trước lại là ba vị thân vương: Thuần, Cung, Đôn. Thuần vương liệt hàng thứ năm, Cung vương hàng thứ sáu, Đôn vương đứng vào hàng thứ bảy. Hình như lúc đó Cảo Tam cố ý gọi xách mé tên mấy vị vương gia để đùa chơi thì phải. Đôn và Thuần vương, chẳng dám nói gì, nhưng Cung vương đâu có chịu nhẫn, nổi máu khùng lên, gầm vang một tiếng, quát bảo:




- Quân cuồng nô dám vô lễ thế à?




Tiếng quát vừa dứt, vương truyền lệnh cho bọn thị vệ nhảy phóc lên sân khấu kéo ngay cổ Cảo Tam xuống nọc dài ra trước mặt Hoàng thái hậu đánh luôn một hơi bốn chục hèo, máu tươi bắn ra lênh láng.




Sự kiện xảy ra vừa đột ngột vừa kỳ thú như vậy, thực không ai dè. Nhưng từ đó, Thuần thân vương thường lấy cớ khó ở không chịu vào cung Thái hậu xem hát. Mặt khác Tây thái hậu từ đó cũng không thèm triệu bọn vương gia vào cung xem nữa, để được tự do tự tại mua vui một mình. Về sau hát xướng quen đi, Tây thái hậu chọn anh kép xinh đẹp vừa ý nhất gọi xuống hỏi chuyện, và cho ngồi bên hầu rượu, trong khi bà vừa nhắm rượu vừa xem hát. Không còn ai để phải kiêng kỵ nữa, bà tha hồ nói cười đùa giỡn.




Thế rồi ngày một ngày hai, Tây thái hậu quả nhiên sinh chứng yêu mê luôn vài anh kép hát, giữ lại trong cung, không cho về nữa. Mọi người trong cung ai cũng rõ cả, duy chỉ Đông thái hậu là không biết gì.




Được ít hôm, Từ Hi thái hậu bỗng dưng nhuốm bệnh. Hằng ngày bà vẫn ra toạ triều, nhưng bơ phờ, mỏi mệt. Cuối cùng, bà đành để Từ An thái hậu rủ rèm nghe chính sự một mình.




Từ An thái hậu bèn lấy danh nghĩa hoàng đế, hạ chiếu xuống các tỉnh, tuyên triệu danh y vào cung để điều trị cho Từ Hi thái hậu. Danh y về kinh bắt mạch hốt thuốc đã nhiều, duy chỉ có mỗi một mình Tiết Phúc Thần người Vô Tích xem ra hiểu được bệnh tình của Tây thái hậu. Ông bắt mạch xong, bốc chỉ mỗi một thang thuốc là khỏi bệnh. Từ An mừng lắm, trọng thưởng luôn.




Một hôm, sau giấc ngủ trưa, Từ An một mình tới tẩm cung của Từ Hi, mục đích là thăm hỏi sức khỏe Tây thái hậu, tiện thể bàn tính thêm việc nước, có thế thôi.




Bà đi thẳng vào tiền đường của tẩm cung, trong ngoài vắng hoe, chẳng thấy bóng một ai. Bà đi thêm chút nữa, khi đã tới rèm ngoài mới thấy một con cung nữ đang xếp bằng đôi chân ngồi phía dưới bức rèm.




Thấy Từ An thái hậu bất chợt xuất hiện, sắc mặt nó vụt biến đi, tay chân luống cuống, miệng như sắp kêu gọi để báo động. Từ An thấy vậy vội xua tay bảo nó không được lên tiếng, rồi tự mình vén rèm bước vào.




Trong phòng lúc đó, màn mùng đều bỏ thấp kín bưng, phía trong có tiếng cười khúc khích. Từ An đằng hắng một tiếng.




Từ bên trong có tiếng hổn hển của Tây thái hậu:




- Ai đó?




Từ An đáp ngay:




- Tôi đây!




Miệng vừa đáp xong thì tay bà cũng vén luôn màn để nhìn vào. Bà chỉ thấy Tây thái hậu nằm trong đống chăn nệm vụt ngồi dậy, đôi má bỗng đỏ ửng lên như gấc chín. Đông thái hậu chạy vội lại khẽ đè bà xuống, miệng bảo:




- Muội muội mặt đỏ gay như thiêu như đốt thế kia, chớ nên cử động mạnh.




Giữa lúc đó bà bỗng thấy ở phía đuôi giường một cái bóng nhỏ nhảy vọt qua, lộ hẳn ra cái đôi sam bện dài lê thê. Đông thái hậu nhìn kỹ lại, đôi má cũng tự nhiên đỏ gay lên, xấu hổ cúi gục đầu xuống, một lúc lâu vẫn không nói được câu nào.




Những phút nặng nề trôi qua. Đông thái hậu bỗng biến sắc mặt, nét giận hiện rõ trên khuôn mặt xinh tươi hiền hoà thường nhật. Bà quát lớn:




- Cút ngay ra! Quân khốn nạn!




Anh chàng trần truồng như nhộng nằm phục dưới chân giường khi này không còn chỗ nào núp nữa, đành phải chui ra bò mọp dưới mặt đất, hướng về ngả Đông thái hậu dập đầu lia lịa.




Đông thái hậu quát hỏi tên gian phu lúc đó mới biết hắn vốn là một tên kép hát tại kinh thành được Tây thái hậu tuyên triệu vào cung để "cung phụng" bà ta đã sáu ngày mà vẫn chưa cho về.




Kép hát Kim nói tới đây, bỗng nghe Đông thái hậu quát lớn:




- Câm mồm!




Rồi bà gọi thị vệ kéo cổ Kim ra ngoài, chặt đầu ngay tức khắc. Tây thái hậu thấy chuyện kín của mình bị bại lộ, nửa xấu hổ nửa tức giận. Bà nhìn thấy tên Kim, cục cưng của mình bị thị vệ lôi đi chặt đầu, lòng quả đau đớn muôn phần. Nhưng biết làm sao hơn, dù sao bà cũng vẫn phải e cái thế, cái quyền của một bà chính cung hoàng thái hậu vai vế hơn mình chứ!




Đông thái hậu cầm tay Từ Hi, lựa lời an ủi:




- Muội không nên để tâm đến chuyện này nữa. Chị quyết giữ kín cho em. Tuổi muội muội còn trẻ, làm sao chịu nổi cảnh hiu quạnh lạnh lùng này được. Có điều là bọn xướng ca vô loài vốn tiểu nhân hạ lưu, được cưng chiều lúc này sẽ ỷ thế làm càn lúc khác, chúng hoành hành càn rỡ ở bên ngoài, hoặc có chuyện chi không vừa ý liền mang tâm oán hận rồi đồn nhảm phao xằng làm bại hoại hết danh giá của bọn mình.




Nói đoạn Đông thái hậu liền cho cung nữ đưa rượu thịt lên để hai người ngồi đối ẩm. Đông thái hậu lại tự tay nâng chén mời Tây thái hậu.




Tây thái hậu không ngờ Đông thái hậu lại có một thái độ khoan dung như vậy. Bà nghi ngại lúc đầu, nhưng về sau cũng đổi hẳn bộ mặt, hồi kính Đông thái hậu một chút.




Rượu đã vào được ít chén, hai bà tự nhiên thấy quên hết sự đời quên luôn cả chuyện dâm ô đê nhục vừa rồi, bỗng quay trở lại cái vui hồn nhiên thuở còn con gái xa xưa. Hai bà cười cười nói nói, tưởng như một cặp tri kỷ gắn bó muôn đời. Giữa lúc ngà ngà say, Đông thái hậu gợi chuyện xưa:




- Khi tiên đế còn tại thế, tiên đế đãi ngộ muội biết bao ân tình nồng mặn! Đối với chị ngài cũng tương kính như tân. Nay chị đã già chẳng còn được bao ngày ở trần thế. Muội còn đang xuân, thiết tưởng cũng nên có tâm bảo dưỡng để thân thể được mạnh khỏe thanh tao, một ngày kia hồn về thượng giới còn được hầu hạ tiên đế. Đã hơn hai mươi năm qua, muội cùng chị may được đồng tâm hiệp lực, bên ngoài thì giải quyết triều chính, bên trong thì giữ mực chốn cung đình, tuyệt nhiên từ đó tới giờ chẳng có một câu nửa lời nào xung đột nhau cả. Chỉ có lúc tiên đế lâm chung ngài lưu lại một di chiếu dặn Cung thân vương đề phòng muội muội chuyên chính lộng quyền làm bại hoại quốc sự, có vậy thôi. Nhưng xem ra muội muội lại là con người tài ba, xử lý quốc sự thông minh hơn chị thập bội. Muội muội cần nên cẩn thận dè dặt là hơn. Rồi đây chị về hầu hạ tiên đế, lúc đó có thể yên tâm trao lại tất cả cho muội muội rồi.




Nói tới đây khóe mắt Đông thái hậu bỗng ứa lệ. Tây thái hậu bị một bài diễn thuyết, câu lạnh, chen câu nóng, trong lòng quả đã cảm thấy đau nhức khó chịu. Mặt bà đỏ ửng hết phen này đến phen khác. Cuối cùng bà chỉ còn cách quỳ xuống, miệng thì thào qua tiếng nấc:




- Lời chỉ dạy của tỉ ti quả là lời phế phủ, em thực lấy làm cảm kích muôn phần. Từ nay về sau em xin đặc biệt cẩn thận.




Từ An thái hậu vội nâng Từ Hi đứng dậy, miệng chỉ còn nói thêm được một lời xúc cảm.




- Em mà giữ được như vậy thì nhà Đại Thanh ta quả có phúc lắm.




Đông thái hậu cáo biệt về cung. Trong thâm tâm, bà đinh ninh rằng Từ Hi tất phải thay lòng đổi dạ, đồng tâm nhất đức cùng bà. Bà có biết đâu rằng chuyện tư tình dâm dật bị bại lộ, đã làm cho Tây thái hậu hận bà đến xương tuỷ.




Đợi khi Đông thái hậu đi rồi, Tây thái hậu máu tức còn ngùn ngụt không biết trút vào đâu bèn nhè ngay con cung nữ giữ cửa, hạ lệnh đánh nó đến thập tử nhất sinh.




Chưa hết tức, bà còn kiếm thêm lọ cổ, be xưa, bao nhiều đồ quý giá, bà phá sạch, đập sạch. Giữa lúc đó, may thay có anh hề Lý Liên Anh của bà tới. Anh khuyên giải bà. Bà trở lại bình thường, càng thân thiết với hề Lý Liên Anh hơn.




Rồi chứng từ hôm đó, Từ Hi thái hậu ngày đêm bày mưu tính kế với Lý Liên Anh giết Từ An. Buồn thay, Đông thái hậu không ngờ tới, cứ thản nhiên an nhiên, chẳng khác gì kẻ ngủ trong trống.




Bỗng có vài việc xảy ra gây nên cơn thịnh nộ của Tây thái hậu, có lẽ vào quãng năm thứ sáu thứ bảy niên hiệu Quang Tự, do đó Đông thái hậu thế càng ngày càng cô, nguy hiểm, tới càng gần.




Thứ nhất, đó là việc trí tế ở Đông lăng năm thứ sáu Quang Tự. Đông thái hậu từ sau hôm khuyên răn Tây thái hậu, bèn bàn tính với Cung thân vương, tưởng nhờ đó sẽ diệt bớt uy phong của Tây thái hậu, khiến bà này dẹp bỏ dã tâm buổi trước.




Có một lần, mùa Xuân, Lưỡng cung thái hậu cùng tới Đông lăng làm chủ tế. Đợi đến lúc quỳ bái, Từ Hi thái hậu có ý muốn dời chiếu quỳ hàng lên ngang với Từ An thái hậu. Nhưng Từ An không chịu, hạ lệnh bắt đem ngay chiếu quỳ của Từ Hi lui xuống một bước. Từ Hi thái hậu chống trả, quyết phải được quỳ lạy cùng hàng với Từ An. Cuộc tranh cãi gay go bùng nổ ngay trước mặt vương công đại thần và bá quan văn võ triều đình.




Thế rồi trong lúc cãi vã, máu tức xông lên, Từ An thái hậu nói toạc hết chuyện bỉ ổi của Từ Hi thái hậu trong cung ra. Bà không còn giữ thể diện cho Từ Hi nữa. Bà lớn tiếng bảo Cung thân vương:




- Lúc sinh thời của Hàm Phong hoàng đế, Tây thái hậu chỉ là một Ý phi, mãi sau khi hoàng đế băng hà rồi mới được thăng thái hậu. Vậy ngày nay tế tiên đế quyết chỉ có một thái hậu trước tiên đế chứ không thể có hai. Một hậu và một phi tử, chiếu theo lệ trong lúc cúng tế thì ngôi vị của phi tử phải đặt ở bên dưới lùi xuống một bước. Tại trung ương có hai chiếu quỳ, cái bên tay phải thuộc tôi, còn cái bên tay trái là để dành cho Trung cung nương nương đã mất từ trước. Chính cung nương nương tuy mất trước tiên đế nhưng bà vốn là chính hậu của tiên đế. Bọn ta lúc này không thể nói gì khác hơn về bà.




Từ Hi thái hậu nghe Từ An nói một thôi một hồi, lời lẽ rất đúng, tự nhiên đâm ra hổ thẹn muôn phần. Thẹn quá hoá hận thù. Từ Hi thái hậu nổi tính bướng cố hữu, cãi lại kịch liệt:




- Tôi cùng Đông thái hậu cùng ngồi một chiếu buông rèm nghe chính mẫu nghi thiên hạ, chứ đâu chỉ có mỗi một ngày hôm nay. Ấy thế mà đã từ lâu chẳng thấy bà tranh chấp ganh tị. Hôm nay giữa lúc tế lễ tiên đế tại Đông lăng, bà lại bảo tôi là phi tần này nọ. Nhưng thôi! Nếu Đông hoàng hậu quyết giành lấy phần thắng cái điều tiết lễ nhỏ nhặt này, thì tôi xin chết trước lăng tẩm của tiên đế ngay bây giờ, để mong Đông thái hậu thoả nguyện.




Nói đoạn Từ Hi thái hậu khóc rống lên. Bà vừa khóc vừa kể lể, khiến Từ An thái hậu, vốn người trung hậu và cả nể, đứng trước tình cảnh đó bỗng đâm ra do dự, ngại ngần.

Hồi 151 Hồi tưởng những năm xưa




Trong khi Từ An thái hậu mất tiêu chủ ý thì bọn thân vương đại thần thấy việc càng ngày càng nghiêm trọng, vội rủ nhau nhảy vào dàn xếp cho êm chuyện. Rốt cuộc, họ chấp nhận ý kiến của Từ Hi thái hậu muốn được cùng Từ An thái hậu quỳ lạy trước bàn thờ ngang hàng nhau.




Cuộc tranh chấp hôm tế lăng tuy qua rồi, nhưng lòng oán giận của Từ Hi thái hậu đâu có qua. Ở trước lăng tẩm của tổ tiên, đứng trước mặt đủ vương công đại thần mà tát vào mặt bà, bôi nhọ luôn cả cái danh giá tôn nghiêm của bà, thử hỏi làm sao bà cho qua nổi.




Điều tra cho rõ thực hư, Từ Hi thái hậu phong phanh biết có bàn tay của Cung thân vương nhúng vào nội vụ. Thế là bà lập tâm triệt hạ Vương. Bà cho gọi Thuần thân vương vào cung bàn tính mọi việc. Bà cũng không quên đem việc quan trọng và tối mật của mình ra bàn soạn với Lý Liên Anh.




Hồi này Thôi tổng quản đã xin về dưỡng lão. Trong cung chỉ còn có Anh là người tín cẩn nhất của Từ Hi. Anh được thái hậu sủng ái, thăng lên tổng quản. Nhưng Anh vẫn nhớ tới họ Thôi, thỉnh thoảng đem tiền bạc ra giúp Thôi. Bởi thế Thôi vẫn thường nói với mọi người là Anh có lương tâm, ăn ở thuỷ chung.




Lý Liên Anh ở trong cung quyền hành lớn lắm. Bọn cung nữ, thái giám đều sợ hắn. Ngay như bọn vương công đại thần nhiều người cũng e nể, quay ra xu phụng nịnh bợ hắn. Lý Liên Anh chẳng bảnh bao tuấn tú gì, nhưng được cái khéo léo tài nịnh. Trong tiếng cười, câu nói của hắn, ai cũng thây ấm áp, nhẹ nhàng. Đã thế hắn lại còn biết cách ăn mặc lịch sự bay bướm, cử chỉ của hắn duyên dáng, đáng yêu.




Không phải Anh chỉ đem cái tài bách mỹ thiên kiều của mình ra với riêng Tây thái hậu, để lấy lòng một mình bà. Anh khôn ngoan lắm. Hắn xuề xoà với tất cả mọi người, cười nói mua vui với tất cả bọn đại thần khiến bọn này ai cũng đối tốt với hắn. Nghiêm nghị như Cung thân vương kia mà hễ thấy hắn cũng không thể cau có được.




Tây thái hậu thích tranh vẽ lắm, thích cả ảnh chụp nữa. Thế là Lý Liên Anh chạy ngay ra phố kiếm thợ vào cung chụp hình.




Thái hậu ăn mặc giả làm Quan Âm đại sĩ ngồi trên mui thuyền Bắc Hải. Bà bảo Lý Liên Anh cải trang thành một vị bồ tát đứng cạnh. Có khi thái hậu giả làm một bà Tây Vương mẫu còn Anh thì giả làm anh chàng Đông Phương Sóc đang học kiểu trộm đào. Tây thái hậu lại có khi cải nam trang, giả làm một anh chàng công tử Thái Nguyên trong khi Anh ăn mặc giả làm một Lý Vệ Công. Cũng chưa hết nữa! Có khi Tây thái hậu cùng Lý Liên Anh cải trang kép hát đóng tuồng, múa may quay cuồng, ca hát om xòm. Thật không biết bao nhiêu ảnh đã chụp giữa thái hậu và Liên Anh.




Bọn thái giám hầu cận có nhiều anh đánh cắp những ảnh này đem ra ngoài bán lén lấy tiền, có người bắt được những tấm ảnh này đưa vào cung khuyên Thái hậu không nên tái diễn, để giữ uy tín cho bà, nhưng bà đã chẳng nghe mà lại còn thêm quý Liên Anh hơn là khác. Có khi Tây thái hậu nằm trên giường, gọi Lý Liên Anh nằm dưới đuôi giường để trò chuyện.




Từ Hi thái hậu thân mật với Lý Liên Anh đến nỗi đem cả chuyện nhà kể hết cho hắn nghe. Bà bảo khi ba con ở nhà với cha mẹ thì chẳng được mẹ yêu. Sau khí cha mất, gia đình cùng khổ vô cùng. Nhờ được cái chủ ý xin kén làm tú nữ, nên mới được vào cung và được tiên đế sủng hạnh sinh ra hoàng tử. Khi sinh được hoàng tử, lúc đó địa vị mới cảm thấy vững.




- Không ngờ vận xui lại đến, - Thái hậu kể tiếp. - Hàm Phong lúc đó chưa lên ngôi, mà Văn Tông hoàng đế thì bị bệnh hết sức nguy ngập. Bên ngoài quân ngoại quốc tấn công phá thành đốt cháy rụi vườn Viên Minh. Bọn ta phải tòng vong theo tiên đế trốn chạy lên Nhiệt Hà để tỵ nạn. Hồi đó ta tuổi còn trẻ, bệnh tình của Văn Tông lại mười phần nguy kịch, hoàng tử thì quá nhỏ tuổi. Người cháu của Đông Cung là một thằng khốn mưu đoạt ngôi báu. Tình thế thực hết sức nguy cấp. Ta bế hoàng tử đến trước giường tiên đế, hỏi ngài cách giải quyết đại sự thì ngài vì bệnh tình quá trầm trọng mê man không còn biết gì, không nói lên được lời nào. Ta nói với tiên đế: "Con ngài đây này", lúc đó ngài mới mở choàng mắt nhìn qua thằng bé, bảo ta, "Tự nhiên là nó nối ngôi chứ còn gì". Nói đoạn ngài băng hà. Ta, thấy đại sự đã định xong, mới yên lòng. Không ngờ Mục Tông chỉ mới tuổi mười chín đã chết mất. Từ đó về sau cảnh ngộ của ta ngày càng tệ, ta đã tưởng rằng sự nghiệp đã tan tành hết. Đã thế Đông thái hậu lại còn chống đối ta nữa. Ngay cả hoàng đế, ta còn thấy ngài thân với Đông thái hậu hơn thân với ta, khiến ta buồn bã vô cùng.




Tây thái hậu nói tới đây bất giác thở dài thườn thượt. Lý Liên Anh đem hết tài ba cố hữu để khuyên giải bà. Nhờ Liên Anh lúc này bà đã quên được nỗi buồn. Lại nhớ đến thân thế và gia đình, bà đem kề nốt. Bà kể rằng, "Khi ta được làm phi tử rồi, ta nhớ nhà, nhớ mẹ quá. May thay, Văn Tông hoàng đế đặc ân cho ta về nhà "tỉnh thân" ta thăm viếng cha mẹ một lần. Trước đó, hoàng đế cho An tổng quàn tới chỉ bảo mẹ ta cặn kẽ, ngày nào ta về, giờ nào tới cổng, giờ nào kiến giá, giờ nào tinh thân, giờ nào thay áo, giờ nào mở tiệc giơ nào nghỉ ngơi, giờ nào quay về cung… Tất cả giờ giấc nhất định ấy được chép trên một tấm bảng đưa về trước và niêm yết ngay tại nhà lớn. Mẹ ta được tin đó, một mặt chuẩn bị yến tiệc rượu mừng để đón giá, một mặt cho đi mời hết tất cả thân thuộc bạn bè tới để hầu yến. Đúng ngày lên đường về nhà, ta sẽ ngồi trên một chiếc kiệu vàng có bốn mươi tên tiểu thái giám khiêng đi. Ngoài tụi này ra còn có một bọn cung nhân thái giám cầm quạt trương tán, mang khăn vác bồn (chậu) và nhiều thứ khác nữa đi theo. Chưa hết, còn hai ngàn tên quân ngự lâm nữa đi thành một hàng dài, tiền hô hậu hét để bảo vệ ta về tận nhà. Khi về gần đến, ta nhìn thấy cổng nhà treo đèn kết hoa đỏ khé, phía trên cao trùm một cái trướng mạng thiên ngũ sắc, ở dưới đất trải một chiếc nệm vàng dài mãi vào tận đến nhà trong. Bọn đàn ông trong họ đều ra ngoài phía cổng lớn quỳ đợi để đón giá. Còn bọn đàn bà thì quỳ đón ở trước cửa nhà trong. Kiệu tiến chầm chậm vào nội sảnh, ta xuống kiệu và trèo lên ngai ngồi. Trừ mẹ ta và các vị khách đàn bà trưởng bối ra, tất cả đều phải chia thành từng bọn từng lớp quỳ xuống để bái kiến. Mẹ ta cùng các vị nữ khách trưởng bối, đều mặc áo trào y, bước vào thỉnh an. Sau đó đến bọn khách đàn ông cũng lần lượt bước vào thỉnh an. Xong đâu đấy, ta mới cởi áo đại y, bước vào phòng mẹ ta để làm lễ "tỉnh thân". Mẹ ta vốn không ưa ta nhưng đã lâu năm không gặp nên bà vẫn xúc cảm, đôi dòng lệ tuôn như mưa. Ta nhìn thấy nhà cửa lúc này xây cất cũng khá cao rộng anh chị em đều giàu sang, cũng yên tâm lắm.




Một lúc sau mở tiệc rượu mừng. Bọn nữ quyến đưa ta vào nội sanh, ngồi vào bàn tiệc. Trên bàn tiệc ta ngồi, chỉ có mỗi một mình mẹ ta ngồi ở phía dưới hầu rượu. Ta vốn là người thích xem hát. Cách ta với bên ngoài có một bức rèm, bên ngoài ngồi đầy những nam khách. Ta sợ họ buồn, mới bảo cuộn rèm lên. Và cũng nhờ đó ta mới xem được rõ hơn. Thực là một hôm được xem hát thoả thích. Khi về tới cung thì trời đã lên đèn. Tiên đế được tin ta đã về, lóc cóc chạy tới phòng ta hỏi: "Hôm nay nàng về nhà, hai mẹ con gặp mặt nhau, trong lòng có sung sướng không?" Ta đáp, "Gia đình của thần thiếp mong ơn vũ lộ đã nhiều, hôm nay cốt nhục đoàn viên, thực là phi thường sung sướng". Tiên đế nghe ta nói vậy qua ngày hôm sau liền truyền dụ, triệu mẹ ta vào cung để mẹ con ta gặp nhau lần nữa.




"Lần này tiên đế hiểu lầm ý ta. Tiên đế cứ tưởng rằng ta ở trong cung nhớ mẹ, nên muốn cho mẹ con ta gặp nhau, chứ tiên đế biết đâu rằng hai mẹ con ta không hợp tính. Hồi xưa mẹ ta chỉ quý có em gái ta, còn thường chửi ta là đồ tham tiền hám của. Việc tỉnh thân của ta bất quá chỉ là để bà biết cái oai của ta, cái giàu sang của ta đó thôi, chứ thực không có một chút nào thân tình cất nhục cả. Bây giờ, hoàng đế lại truyền cho mẹ ta tiến cung tất nhiên ta phải lợi dụng ngay cơ hội để bắc bậc làm cao, khoe mẽ chơi với bà một keo, cho bà biết oai của ta lần nữa chứ!




"Chiều theo quy luật đã định thì mẫu thân của hậu phi vào cung khi gặp con gái thì làm "đại lễ". Thế nhưng người làm con đâu dám nhận đại lễ ấy. Do đó khi thấy mẹ mình lạy mình, bà hậu nàng phi nào đó tất nhiên phải lách mình một bên. Đằng này ta kệ, ta cứ ngất ngưởng ngồi trên ngai son, để mặc cho mẹ ta quỳ lạy. Thậm chí ta còn cứ để cho bà quỳ mọp dưới đất, không gọi dậy nữa. Phải đởi một lúc lâu, có mấy đứa cung nữ tới nâng mẹ ta dậy, mới chấm dứt cuộc đại lễ đó. Nhìn gương mặt mẹ ta thấy có sắc giận. Nhưng ta giả vờ như không biết mà cũng chẳng nói một câu nào với mẹ ta. Trong dịp đi này, mẹ ta có ý nói nhờ ta giúp cho ông anh thăng quan tiến chức đấy! Ta biết vậy, nên cứ hễ mẹ ta bắt đầu nói là y như rằng ta chặn họng ngay bằng câu này: "Gia đình ta nay đã đủ lắm rồi. So với lúc con chưa vào cung khổ cực đến cái độ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc thì thật là vực trời xa cách. Theo con thấy thì anh con phúc bạc lắm, làm quan đến thế kể đã là vừa lòng đẹp ý. Thăng quan cao hơn nữa, e rằng anh ấy không làm được đâu!".




Mẹ ta nghe xong quả không chịu nồi nữa, bà đứng dậy muốn cáo từ về ngay. Nhưng ta còn lưu lại, truyền lệnh cho cung nữ làm cơm. Hai mẹ con ngồi ăn với nhau, nhưng bữa cơm nhạt nhẽo buồn tẻ làm sao! Cơm xong, một con cung nữ bưng một cái mâm lớn sơn đen đem lên, trong mâm chất đầy hoa cài đầu. Ta vốn là người rất thích hoa, thích nhất hoa mẫu đơn hồng lớn đoá. Ta chọn lấy một bông to bằng cái bát bự để con cung nữ cài vào mái tóc ta. Sau đó ta chọn thêm một bông cúc vạn thọ đích thân cắm vào mái tóc của mẹ. Ta vốn biết tính mẹ ta không thích hoa. Từ sau khi cha ta mất rồi, tuyệt nhiên mẹ ta không bao giờ cài hoa nữa. Hôm đó ta nổi hứng, đem cắm hết bông này đến bông khác lên đầu bà đến nỗi bao nhiêu hoa trong mâm đều hết sạch.




Trời ơi. Cả một cái đầu toàn hoa là hoa, nó tùm lum bao nghệu lên như một cái tổ quạ. Ta cứ mà cười, cười như nắc nẻ. Ai cũng nghi mẹ ta hẳn cũng vui như ta. Không đâu! Mẹ ta giận lắm, căm nữa là khác. Thế là mẹ ta xẵng tiếng thoái thác.




- Chồng chết, tôi chỉ còn là một goá phụ, giắt hoa cài bỗng đâu có phải lẽ.




Nói đoạn mẹ ta quơ tay lên bỏ hết hoa xuống mâm, rồi vội vàng cáo biệt xuất cung, y như một người muốn chạy trốn cho rảnh nợ. Từ hôm đó về sau, có lệnh tuyên triệu đến ba, bốn lần nhưng mẹ ta đều thoái thác, quyết không chịu vào cung nữa. Thế là mãi cho đến lúc bà chết, mẹ con ta không bao giờ được gặp mặt nhau.




Đến đây có lẽ ai cũng biết rõ tâm địa của Từ Hi thái hậu. Đến mẹ đẻ ra mà bà cũng còn oán giận và trả thù nhỏ nhen như thế thì thử hỏi với Từ An, chuyện làm mát mặt bà hôm tế Đông Lăng lam sao bà có thể quên?




Do đâu mà có chuyện tranh chấp danh vị đó? Từ khi Từ An thái hậu thấy quyền lực của Từ Hi thái hậu ngày một lớn dần, cử chỉ thái độ cũng do đó mà kiêu căng ngang tàng quá đỗi, nên bà muốn mượn chuyện danh vị để áp đảo Từ Hi, khiến Từ Hi phải chấm dứt ngay chuyện lộng quyền kia.




Ý định như thế cho nên hôm trước tế Đông Lăng vài ngày Từ An thái hậu đã mật nghị cùng Cung Thân Vương và kế hoạch đã được sắp sẵn xong xuôi.




Đến giờ tế trước lăng, Từ An thái hậu truyện dụ cho Vương công đại thần hội nghị để bàn việc tế lễ của hai bà thái hậu, ai trước ai sau. Cung Thân Vương đã nhận ý chỉ của Đông cung rồi, liền tâu xin Từ An thái hậu nên hành lễ trước, rồi sau đó là Từ Hi thái hậu.




Ấy chính là chỗ đã gây nên chuyện tranh chấp. Từ Hi thái hậu không chịu, viện lẽ cả hai người đã cùng ngồi một chiếu giải quyết việc triều chính, chẳng lý gì khi tế yết Đông Lăng lại đem chia ra sau trước. Bà nhất định Lưỡng cung ngang hàng hành lễ, chứ không thể người trước kẻ sau. Từ An thái hậu lại có lý lẽ rằng đứng trước triều đình, trước Vương công đại thần thì bà với Tây thái hậu đều là thái hậu. Không phân biệt ai bé ai lớn ai cao ai thấp, nhưng đứng trước tiên đế, trước Đông Lăng thì nhất nhát phải tuân rõ lớn bé cao thấp, bởi vì nếu không phân biệt như vậy thì tức là khinh thượng tiên đế rồi.




Lúc sinh tiền của Hàm Phong hoàng đế, Tây cung bất quá chỉ là một nàng phi, đến khi được thăng lên thái hậu, thì đó cũng chỉ vào lúc tiên đế đã băng hà, như vậy thì đối với Hàm Phong hoàng đế Tây cung vẫn là một nàng phi như trước. Bởi thế vị thứ của Tây cũng phải đặt ở bên mé tả, so với vị thứ của bà có hơi thấp xuống một bậc. Ngay như vị thứ của bà cũng vậy, chỉ có thể ở bên cánh mé hữu.




Ngôi chánh ở mé tả phải dành cho Trung cung hoàng hậu đã quá cố. Trung cung tuy mất trước tiên đế, nhưng lại là chính cung. Cho nên Tây cũng như Đông cung, quyết không thể vượt quá lễ nghi đó.




Lời lẽ của Đông thái hậu, thực là chính đại quang minh, thử hỏi còn có kẻ nào dám chỉ trích bài bác? Nhưng đối với Tây thái hậu thì lại khác. Trước mặt bá quan văn võ mà mất thể diện bà đâu có chịu, thà rằng chết chứ nhất định phải chống phải cãi. Huống hồ, bà lại còn là một người kiêu căng hách dịch đã quen, kiêu hách từ khi còn tiên đế và thậm chí ngay cả trước mặt tiên đế nữa. Nhưng chống cãi làm sao được bởi vì lời lẽ của Đông thái hậu quá phải, quá đúng. Bởi thế bà chẳng tìm được lời lẽ nào hơn, chỉ còn cách vu khống cho Đông thái hậu là đem chuyện phi tần ra để làm nhục bà, chứ thực ra thì bà đã là mẫu nghi thiên hạ từ lâu. Đã thế bà còn tăng cường áp lực của mình bằng cách khóc rống lên, bù lu bù loa doạ tự vẫn.




Từ An thái hậu tuy người nghiêm chính nhưng lại phải cái tính tình hiền hậu, tâm địa mềm yếu, hay thương người.




Bà thấy Từ Hi thái hậu khóc lóc thảm thiết quá đỗi, bỗng mất hết tự chủ, đâm ra do dự bất quyết. Mặt khác, bọn đại thần kéo nhau bâu quanh khuyên can dàn hoà. Rút cục Từ An thái hậu đành phải chiều theo ý kiến của Từ Hi thái hậu cá hai bà ngang hàng hành lễ.




Chỉ tại Từ An làm mất mặt mình trước triều đình, Từ Hi đâm oán giận đến xương tuỷ. Sau đó Lý Liên Anh lại điều tra ra rằng chuyện làm mất mặt này có chủ trương từ trước của Từ An và Cung thân vương, Từ Hi lại càng hậm hực, quyết thế nào cũng phải trả thù cả hai mới hả.




Lý Liên Anh co tài làm mật thám, cái gì hắn cùng điều tra ra, do đó Tây thái hậu càng sủng ái thêm.




Trong cung lúc này có một tên thái giám có biệt hiệu là Âm Lưu. Lưu thấy Anh quyền thế càng ngày càng lớn, sắp leo cả qua đầu mình cho nên bực dọc vô cùng. Lưu tính tình âm trầm, hành động lại kín đáo, bởi thế người ta mới cho hắn biệt hiệu Âm Lưu.




Khi Liên Anh chưa vào cung, Âm Lưu có thế lực rất lớn. Có Anh, thế lực của Lưu giảm sút nhiều. Y hằn học và quyết khôi phục lại. Lợi dụng nhưng cuộc hầu chuyện Từ Hi, Lưu không quên những lời nói xấu Liên Anh. Câu chuyện có đi có lại, vay trả trả vay ấy đã khiến cho hai bên đâm ra thù oán càng ngày càng chồng chất. Đã có lần Lưu và Anh kéo ra bãi vắng choảng nhau chí chết. Anh vừa trẻ lại vừa to con nên Lưu bị đại bại, tơi bời, thương thế có phần trầm trọng đến mức không thể vào hầu thái hậu, đành phải xin dưỡng thương.




Chính nhờ lúc vắng Lưu này, Anh tấn công Lưu dữ dội. Trước mặt thái hậu, Anh tha hồ nói xấu Lưu, moi hết những chuyện từ đời hồng hoang nào đó của Lưu ra để nói. Tây thái hậu lúc này đang tin dùng Lý Liên Anh nên nghe theo lời Anh, đâm ra chán ghét Âm Lưu. Còn Lưu cũng tự biết thế mình khó địch lại Anh bèn nhờ người đứng ra làm trung gian giảng hoà đôi bên. Anh chỉ sợ Lưu nói toạc ra chuyện đánh nhau hồi nọ trước mặt thái hậu, bởi thế giả tảng chịu hoà, dẹp hết bất bình, nhưng thực ra, hắn càng nói xấu Lưu hơn lúc nào hết. Hắn nói hoài nói mãi, nói riết đến nỗi Tây thái hậu, thiên hẳn về hắn. Thế là bà cho gọi ngay Âm Lưu tới, chửi mắng một phen chẳng còn ra gì.




Âm Lưu biết mình bị Liên Anh hại, bèn cũng mách với thái hậu răng: Lý Liên Anh ỷ quyền ăn hối lộ, tiếng xấu đồn dậy. Ngoài ra, Lưu còn kể thêm nhiều chuyện lỉnh kỉnh kỳ cục khác, vấy cả thanh danh của thái hậu vào nữa.




Thái hậu nổi cơn lôi đình kết án Lưu có ý huỷ báng cung đình, toan giao cho thị vệ chém đầu tức khắc, Âm Lưu hoảng hồn bạt vía, dập đẩu xuống sàn run run tâu:




- Nô tài tội đáng muôn thác! Nô tài chỉ xin cầu Phật gia thương đến nô tài đã ba mươi năm hầu hạ công phu. Buổi đầu ngày nọ, Phật gia đã có lần khen nô tài là một đứa trẻ trung thuận, cái công khuyển mã quả không phải không có. Bởi thế, chi dám mong Phật gia ban ơn cho nô tài một cái chết toàn thây, được thế, nô tài xin đội ơn lắm lắm!




Bọn thái giám, cung nữ đứng hầu hai bên cũng đều quỳ xuống vì Lưu mà xin cầu khẩn thiết. Thấy tình cảnh như vậy, thái hậu bèn thay đổi ý định. Bà cho giam Lưu vào căn nhà nhỏ ở ngoài cửa cung. Việc xong, bà lui vào tẩm cung, ngồi tựa vào thành giường, có thái giám Lý Liên Anh quỳ ngay bên cạnh đấm bóp cho bà.




Tây thái hậu cười bảo Anh:




- Cái thằng cha Lưu đáng ghét thật! Để ta cho hắn một cái chết chưa từng thấy!




Rồi bà bảo cung nữ mang tới chùm chìa khoá, tìm một cái chìa, đưa cho Anh và bảo hắn tới cung Cảnh Nhân mở cửa phòng Địa Tứ toà, lấy về một lọ thuốc bột. Khi Anh mang cái lọ về, bọn cung nữ xúm lại xem, thấy thuốc bên trong màu đỏ chói. Tây thái hậu ra lệnh đổ ra một ít thuốc hoà vào nước đựng trong chén đầy gần tới miệng, sau đó sai người đưa tới cho Âm Lưu. Âm Lưu nhìn chén thuốc cho rằng thái hậu muốn cho mình một cái chết toàn thây, đôi dòng lệ tuôn rơi trên má, uống một hơi cạn sạch. Uống xong Lưu dập đầu tạ ơn.




Tên thái giám mang thuốc tới, đỡ Lưu lên trên giường nằm rồi quay ra khoá cửa lại như cũ, trở về phục chỉ với thái hậu.




Sau giấc ngủ trưa, Tây thái hậu hạ lệnh cho bọn cung nữ tề tựu đông đủ trước tẩm cung của bà.




Lý Liên Anh đích thân hầu hạ đưa Tây thái hậu ra khỏi phòng ngủ. Bọn phi tần bước vội đón rước, Tây thái hậu cười bảo mọi người:




- Bọn mình đi coi cái chưa từng thấy. Nào!




Lý Liên Anh cầm chìa tiến lên trước mở khoá. Cả bốn đi vào Tây thái hậu leo lên ghế ngồi, nhìn lên chiếc giường đặt trong phòng, chỉ thấy trên mặt giường một cái thây co rúm lại thành một đống, như một đứa trẻ con, nằm quay vào trong.




Thái hậu sai người quay mặt thây ra ngoài. Mọi người nhìn kỹ mới thấy rõ cái thây ma bị rút ngắn hẳn lại, da thịt khô đét đi, mặt nhăn nheo, tóp lại như trái táo khô, trông hết sức ghê tởm.




Tây thái hậu chỉ bảo mọi người:




- Đấy là thằng Lưu già đó! Hắn uống thuốc độc cất ở cung Cảnh Nhân, nên sau khi chết thây ma co rúm lại như một thằng bé con đó.




Bọn phi tần thấy cái chết vô cùng kỳ quái, lại được nghe lời giải thích của Thái hậu, cô nào cô nấy hồn vía lên mây, gan mật như vỡ tung hết.




Giữa lúc bọn phi tần bàng hoàng, hoảng hồn. Tây thái hậu nói tiếp:




- Trong cung Cảnh Nhân, liệt tổ ta để lại rất nhiều độc dược vô cùng khủng khiếp. Có thứ uống vào thây nát vụn thành vôi. Có thứ uống vào thây hoá thành nước. Có thứ uống vào thây bốc lên thành khói. Khi có tên thái giám, con cung nữ nào phạm tội, hoàng thượng hoặc hoàng thái hậu đều lấy thuốc độc này thưởng cho nó. Thằng Lưu già cầu xin được chết toàn thây nên ta thưởng cho hắn thuốc gọi là "phản lão hoàn đồng" đó!




Nói đến đây, Tây thái hậu khoái trá, cười lên sằng sặc.




Bà sai Lý Liên Anh đưa thây lão Lưu về nhà hắn. Anh bước tới bên giường, tay cầm lấy cổ Lưu xách lên như xách một đứa bé đem ra khỏi cung, bỏ vào một cái hộp, chỉ vào mặt thây ma của Lưu mà bảo:




- Lão Lưu! Lão Lưu! Người mà cũng có ngày hôm nay ư?




Nói đoạn, Anh bảo một tên tiểu thái giám vác đi.




Thế là từ đó trong cung cấm không còn ai là đối thủ của Liên Anh nữa. Hắn muốn gì thì làm, tung hoành ngang dọc, chỉ nghe lời mỗi một Tây thái hậu mà thôi.




Một hôm, giữa lúc Tây thái hậu ngủ trưa, Lý Liên Anh nhân lúc rảnh lẻn ra ngoài hành lang mé phải dưới điện, đá cầu với một tên thái giám.




Cầu đá đang lúc hứng khoái thì hắn thoáng thấy Từ An thái hậu đem hai cung nữ và một thái giám đang đi từ xa lại Trái cầu vụt bắn tới chân thái hậu. Anh đứng ngay phía trước hành lang, biết rằng Từ An thái hậu sang thăm Từ Hi thái hậu thì phải vòng qua cái cửa tò vò thứ nhì kia rồi mới ra chứ không qua dãy hành lang phía dưới mái điện. Bởi thế hắn tuy thấy thái hậu mà lờ đi, giả bộ không thấy, vẫn thản nhiên cười nói với tên tiểu thái giám.




Từ An thái hậu vốn tính nghiêm chỉnh, thấy có người đá cầu ở hành lang, trong lòng đã có ý khó chịu. Đã thế bà còn nhác thấy Lý Liên Anh đứng đó mà không chịu dập đầu bái kiến thỉnh an, lại còn thản nhiên cười nói như ở chỗ không người. Hằng ngày bà thường nghe chuyện Lý Liên Anh được đặc sủng nên chuyên xu nịnh Tây thái hậu để hống hách, vốn dĩ đã chán ghét, nhưng nể mặt Từ Hi thái hậu nên chẳng muốn nói tới. Nhưng nay thấy hắn quá đáng như vậy, máu hoả của bà bỗng bốc lên hừng hực. Bà lập tức sai tên thái giám đi gọi Lý Liên Anh tới. Hình như hắn chẳng sợ, cứ lững thững bước tới trước mặt bà, đứng sững, chẳng thèm quỳ lạy như kẻ khác.




Từ An thái hậu thấy thế tức quá, quát bảo Anh quỳ xuống.




Một tên thái giám vội vác một cái ghế chạy tới mời Đông thái hậu ngồi. Bà chỉ thẳng vào mặt Anh mắng chửi một phen nên thân, còn bảo:




- Thằng khốn kiếp mất dạy kia! Mi ỷ thế ai mà dám làm tàng quá vậy? Nơi cung đình này không còn chút nào phép tắc lễ nghi nữa sao? Từ khi tiên đế thăng thiên, hoàng đế lại nhỏ tuổi. Ta nể mặt Từ Hi thái hậu không tới tra xét chúng bây, khiến chúng bây hư thân mất nết, trở thành một lũ khốn kiếp, làm giặc ngay trong cung cấm này rồi! Chúng bay tưởng muốn làm gì thì làm, ta không là gì phải không. Để cho chúng bay tự do quá, chúng bay biến thành quỷ, thành yêu, không còn biết sợ trời đất gì nữa. Chúng bay tưởng ta không trị được chúng bay nên chẳng coi ta ra gì phải không? Ta đã nhận di chiếu của tiên đế, bất luận ai ở trong cung này, ta cũng đều có quyền xử trị hết…




Từ An thái hậu càng nói càng tức. Đến lúc lửa giận đã lên tới cực độ, bà quát bảo thị vệ lôi cổ tên thái giám hỗn xược ra chặt đầu tức khắc.

Hồi 152 Một án tình trong cung cấm




Lúc Từ An thái hậu trách mắng Lý Liên Anh, một số thái giám đứng từ đằng xa, đã hết sức lo lắng cho hắn. Đến khi nghe thái hậu quát truyền thị vệ đem Anh ra chặt đầu thì cả bọn hoảng hồn bạt vía, vội chạy cả lại quỳ mọp xuống đất, lạy lấy lạy để cầu xin bà tha cho. Lý Liên Anh lúc này cũng đã thấy nguy, miệng lắp bắp tâu:




- Mong Phật gia nể mặt Tây cung thái hậu mà tha cho cái mạng chó của nô tài!




Từ An thái hậu vốn người nhân đức hiền hậu, khi thấy cả bọn đều quỳ mọp xuống xin tha, tình cảnh hết sức đáng thương, tự nhiên lòng thấy dịu lại. Đã thế, bà còn nghe Lý Liên Anh nói mong bà nể mặt Tây thái hậu, thì lòng giận quả đã giảm đi đến quá nửa rồi. Bà cũng nghĩ rằng nếu bà giết Lý Liên Anh thì quả có điều bất tiện đối với Tây thái hậu thực.




Thế là chuyện chết chóc tưởng đến nơi ngay, mà rút cục lại chỉ là một cơn gió lốc thổi qua. Giữa lúc đó, mấy tên thị vệ đã từ xa chạy lại. Chúng dập đầu trước thái hậu đợi lệnh.




Bọn thái giám thấy thị vệ đã chực sẵn, chỉ còn chờ một cái vẫy tay là kéo Lý Liên Anh đi, thôi thì anh nào anh nấy xì xụp van lạy đến trợt cả trán, chảy cả máu.




Một phút trôi qua nặng nể nghẹt thở! Người ta thấy Đông thái hậu dịu bớt giọng xuống, dụ bảo bọn thị vệ kéo Anh ra ngoài đánh hai trăm gậy. Lý Liên Anh nghe lời dụ, mừng như cha chết sống lại, vội dập đầu lia lịa tạ ơn thái hậu. Bọn thị vệ bước lẹ tới, kẻ nắm tay, người xốc nách, kéo thốc Anh ra ngoài đánh hai trăm gậy đến chết đi sống lại.




Tuy vậy, Đông thái hậu vẫn chưa hết giận, bà quay lại bảo bọn thái giám:




- Luật lệ của tổ tiên hai trăm năm nay bị cái thằng mất dạy đó làm hỏng hết! Nếu ta không nhìn ngó tới thì biết ăn nói thế nào với Tiên tổ chứ?




Nói đoạn, bà đem theo mấy con cung nữ hầm hầm tới cung của Tây thái hậu. Tây thái hậu lúc này ngủ trưa đã dậy. Bà vào phòng trang điểm nhưng chờ mãi chẳng thấy Lý Liên Anh. Bà lấy làm lạ, định cho người đi gọi thì bỗng có cung nữ báo Đông thái hậu tới.




Từ Hi thái hậu vội chạy ra đón vào. Từ An thái hậu bước vào phòng, mặt hầm hầm, ngồi phịch trên chiếc giao ỷ, nói toạc ngay:




- Thằng Lý Liên Anh bất quá chỉ là một tên thái giám chứ là cái gì mà định phá hết cả luật lệ của tổ tông. Hắn có tài thì để hầu hạ chủ hắn thôi chứ! Luật lệ của Tiên tổ nhà này phải để đó, không được phá phách. Nếu hắn còn lếu láo ngang ngược thì đừng có trách. Hắn là một tên nô tài của muội, đem so sánh với tên nô tài của tôi đây có khác chi? Ấy thế mà trong con mắt của hắn, hắn chỉ thấy có muội chứ không thấy có tôi. Hắn thấy tôi mà như thấy bọn phi tần nào khác, chằng thèm biết quỳ lậy là gì! Xem ra càng ngày hắn càng lộng hành, ngang ngược chẳng sợ ai! Tôi đã từng được nghe bên ngoài có kẻ đã bợ đỡ hắn hết mức, gọi hắn là cửu thiên tuế! Đấy! Muội muội thử xem một tên thái giám làm gì mà thanh thế to lớn đến khủng khiếp như vậy? Thế nào rồi đây hắn cũng gây ra nhiều chuyện tai vạ tiếng tăm như tên hoạn quan Nguỵ Trung Hiền thuở nọ cho mà xem! Lúc đó thử hỏi bọn ta còn mặt mũi nào nhìn thấy Tiên tổ dưới suối vàng.




Từ An thái hậu càng nói càng tức. Tiếng bà càng về sau càng lớn, càng nhát gừng. Từ Hi thái hậu nghe những lời giận tức của Từ An thái hậu, cho rằng bà đang dùng lời lẽ để chửi mình, mắng mỏ mình bất giác cũng nổi sùng lên, cất tiếng thẽo thọt nói:




- Lý Liên Anh chỉ là đứa nô tài! Phải rồi! Nếu tỷ tỷ muốn băm hắn ra thì cứ băm, muốn chém thì cứ chém! Tôi quyết chẳng bao giờ bao bọc che chở gì cho hắn đâu! Nghe qua giọng của tỷ tỷ tôi thấy như tỷ tỷ có ý oán giận tôi lắm, cho rằng chỉ tại tôi sủng dụng hắn quá, để đến nỗi hắn lếu láo xấc xược. Tỷ tỷ nghĩ thế là lầm! Còn lời đồn đại ở bên ngoài thì nghe làm sao được?




Từ An thái hậu nghe xong lại nói:




- Thằng khốn kiếp ấy lại là nô tài của muội, người ngoài muốn can thiệp có được bao nhiêu! Muội đã thích hắn, tôi đâu còn phải nói nhiều làm gì! Có điều tên tuổi của muội, thằng khốn kiếp ấy đã bôi nhọ hết rồi! Thật đáng tiếc!




Từ Hi thái hậu nghe Từ An thái hậu nói, càng ngày càng ghê khiếp, tức đến điên lên, nhưng không biết làm sao hơn, giơ cao ống tay áo đấm gió đến phịch một cái, y như muốn đấm vào mặt Từ An, rồi quay ngoắt ra sau bỏ đi, chẳng nói thêm một lời nào nữa. Từ An thái hậu thấy vậy càng tức hơn, cũng quay trở ra chẳng nửa lời cáo từ, bước những bước thật dài đi luôn. Thế là từ đó giữa hai bà Thái hậu Đông và Tây, hố mâu thuẫn càng ngày càng sâu. Hai bà lúc này chẳng khác gì mặt trăng với mặt trời.




Tây thái hậu thời thường vài bữa truyền chiếu gọi Nội vụ phủ đại thần là Vinh Lộc vào cung để bàn tính biện pháp khống chế Đông thái hậu. Lộc giơ thẳng hai cánh tay lên trời rồi đấm phịch một cái vào ngực mình, nói với Tây thái hậu:




- Xin Thái hậu yên tâm. Nô tài ở bên ngoài đã liên lạc rất nhiều đại thần rồi, họ đều thề quyết trung với thái hậu. Ví thử Đông thái hậu có ý chỉ đưa xuống, bọn nô tài tôi đều quyết không vâng chiếu.




Tây thái hậu nghe Lộc nói thế trong lòng sung sướng muôn vàn, liền khen Lộc là trung thần. Rồi cũng từ hôm lấy được lòng thái hậu đó, Lộc cứ lúc rảnh lại chạy vào cung, nhàn đàm với Tây thái hậu.




Vinh Lộc vốn tính quỷ quyệt ranh mãnh. Lộc bỏ tiền vàng ngọc ra ngấm ngầm mua chuộc hết bọn cung nữ thái giám. Lộc chỉ cần có mỗi việc là bọn chúng sẽ nói tốt cho mình trước mặt Tây thái hậu.




Trong số cung nhân này, Lý Liên Anh được coi như người số một ăn ý hợp lòng với Lộc. Hai người kết làm anh em.




Một hôm Anh bảo Lộc:




- Trong cung có một vị Ý phi. Nàng ta vốn là phi tử của Đồng Trị hoàng đế. Nàng khéo nói vô cùng, suốt ngày hầu hạ bên cạnh thái hậu, rất được lòng của bà. Tại sao ngươi không tìm cách liên lạc với nàng.




Vinh Lộc nói:




- Ừ, mỗi khi tôi yết kiến thái hậu đều thấy một nàng phi trang điểm rất duyên dáng, đi một đôi giày cao gót. Thái hậu hay nói chuyện với nàng. Trước mặt thái hậu tôi đâu đám nhìn kỹ. Không biết có phải nàng đó không?




Anh gật đầu bảo Lộc:




- Đúng nàng đấy! Nàng thực là một người đẹp, đôi má hồng hây hây, nước da trắng như trứng gà bóc. Nàng năm nay mới có mười tám. Thử một phen đi. Nếu chiếm được lòng nàng thì còn bằng vạn tôi ấy.




Lộc nghe xong nhớ chuyện trong lòng.




Qua ngày hôm sau, Lộc ra phố vào tiệm mua nào gương Tư Mã, nào hộp phấn, nào khăn tay khăn lông, toàn đồ nước ngoài hết sức đẹp và hết sức khéo đưa vào cung kính biếu thái hậu.




Tây thái hậu lúc này tuy tuổi đã cao nhưng vẫn thích những đồ quý, của lạ. Nắm được tâm lý bà, Lộc cứ mỗi lần vào cung là có đồ này, đồ nọ hiếu kính. Đồ hiếu kính của Lộc có đủ thử có khi đồ thêu, có khi có đồ chơi v.v… Trong số đó có một chiếc tàu thuỷ nhỏ bằng thép chạy dầu hôi của bọn Tây dương. Môi lần muốn cho nó chạy, cứ việc đổ dầu vào đất là nó phạch phạch chạy trên mặt nước. Bọn cung nhân thấy nó chạy, khoái chí vỗ tay cười nói, lại được một dịp tốt để nịnh thái hậu. Ý phi tuổi còn nhỏ, tính còn con nít thấy thế lại còn khoái nữa. Có một hôm, Lộc vào tâu Thái hậu xong đi ra, vừa mới tới cửa tò vò thì nghe có tiếng người gọi: "Lục gia! Lục gia!". Lộc vội quay đầu lại thì chẳng phải ai khác mà chính là Ý phi. Lộc nét mặt bỗng tươi lên như đoá hoa cúc, bước vội tới trước mặt Ý phi, bò sát xuống đất, dập đầu miệng duyên dáng thưa:




- Quý phi gọi nô tài có điều gì chỉ bảo?




Ý phi giữa lúc thảng thốt bất ngờ, tránh không kịp, chỉ còn cách lấy khăn tay thêu che kín đôi môi hồng, mỉm cười đáp lại:




- Lục gia đứng lên đi! Lục gia muốn giết tôi đó sao? Khi nãy Lão Phật gia quên mất mấy việc, xin mời Lục gia quay trở lại ngay cho Phật gia dặn thêm.




Lộc nghe nói lệnh của thái hậu, vội đứng dậy chạy vào phòng thái hậu. Xong việc dặn dò của Thái hậu, Lộc quay ra, khi đến cửa tò vò vẫn thấy Ý phi đứng đó. Lộc bước tới cạnh Ý phi khẽ nói:




- Nô tài có chút vật mọn muốn hiếu kính quý phi, chỉ khổ cái không có cơ hội phụng hiến.




Vừa nói Lộc vừa quay mắt nhìn quanh. May thay có một tên tiểu thái giám đang từ dãy hành lang bước tới. Lộc liền bảo tên tiểu thái giám chạy đi mời Tổng quản lại.




Để cho tên tiểu thái giám quay gót ra đi, Lộc mới bắt đầu kể câu chuyện bằng nào phong cảnh, nào chợ búa phố phường bên ngoài. Ý phi vào cung từ hồi còn nhỏ tuổi, âm thầm nơi đất cấm đã bao năm, nay nghe Lộc kể toàn chuyện kỳ lạ thích thú bên ngoài, vừa ngạc nhiên, vừa thèm thuồng. Lộc còn khéo đem những chuyện ngoài đời, tuy vụn vặt nhưng tươi vui, kể cho nàng nghe. Lộc cũng nói cả những tiệm ăn nào bán đồ cao lương mỹ vị ngon nhất, những quán nào bán gấm vóc tơ lụa bảnh nhất, những hàng nào bán đồ tạp hoá đẹp quý nhất.




Lộc vừa kể vừa vui vừa mùi mẫn đến nỗi Ý phi phải cười lên khanh khách. Nàng bảo Lộc:




- Lục gia lúc nào mua cho tôi chiếc tàu thuỷ nhỏ để xem chơi cho vui nhé!




Lộc nghe phán vội lên tiếng sung sướng:




- Có chứ! Có chứ!




Giữa lúc câu chuyện còn nhiều điều hứa hẹn thì Tổng quản Lý Liên Anh đã bước tới sau lưng, còn có thêm, bốn tên tiểu thái giám tay đứa nào cung bưng một vài gói đồ, gói thì to, gói thì nhỏ. Anh chắp tay thỉnh an, rồi đứng ngay người lại chỉ những gói đồ miệng nói:




- Đấy những gói đồ Lục gia cho đưa tới hiếu kính nương nương đó Lục gia có cái tâm quý ấy đã từ lâu, nhưng tiếc rằng lần nào vào cung cũng đều không có dịp gặp mặt nương nương để thưa chuyện. Bởi thế những đồ mang nào hết lần này qua lần khác đều đem chất tại nhà nô tài. Hôm nay may thay được gặp nương nương, Lục gia mới bảo đem tới để hiếu kính. Rất mong nương nương vui lòng nhận cho.




Ý phi nghe Lý Liên Anh, kể dài dòng chuyện tình nghĩa, đôi mắt nhìn chằm chặp Lục gia, lộ hẳn vẻ quyến luyến vui sướng lẫn cảm kích nữa. Vinh Lộc tiếp theo cất tiếng:




- Xin quý phi ban cho một lời để đưa những đồ này đi.




Ý phi tự nhủ nếu đưa về nhà mình để bọn cung nữ trông thấy thì thế nào cũng điều ong tiếng ve đồn đại. Chi bằng đưa tới cả cung thái hậu cất trong thư phòng, đợi tới đêm khuya hãy bảo con cung nữ tâm phúc lén chuyển về phòng mình thì quyết chẳng còn chi đáng ngại. Nghĩ như vậy Ý phi mới vẫy tay gọi bốn tên tiểu thái giám đem gói đồ theo mình qua cửa tò vò vào cung Tây thái hậu.




Vinh Lộc và Lý Liên Anh nhất tề cáo từ quay ra. Anh giơ tay vỗ mạnh vào lưng Lộc, đắc ý cười nói:




- Cá đã cắn câu rồi! Xin mời Lục gia cứ việc giật, giật cho khéo đấy nhé! Không khéo lỡ giật hụt, chớ trách bọn tôi nghe!




Qua ngày hôm sau Lộc cố ý vào cung sớm hơn một chút.




Quả nhiên khi vào tới tẩm cung nghe ngóng, Lộc được biết Thái hậu còn ngủ chưa dậy. Một con cung nữ chạy ra chỉ căn phòng gần đó bảo nhỏ Lộc:




- Xin mời Lục gia qua phòng đằng kia ngồi đợi một lát!




Nói đoạn con cung nữ móc trong túi ra một chùm chìa khoá để mở cửa.




Vinh Lộc bước vào trong, đưa mắt nhìn một vòng thấy trên tường có treo đầy thi hoạ ngọc ngà. Trên cái bàn thập cẩm bày biện thứ tự nào bồn chi, nào chậu lan toả ra một mùi hương thơm phưng phức.




Chiếc tàu thuỷ nhỏ chính Lộc mua hiếu kính cung đã thấy để nơi đây. Mặt đất trải một chiếc thảm dày, bước trên êm không nghe một tiếng động. Tựa sát vào cửa sổ là một chiếc án thư phía trên có đủ văn phong tứ bảo, đều làm bằng ngọc ngà, tiện dũa rất tinh vi. Ngoài ra còn có cái đồng hồ báo thức không to lắm mà cũng không nhỏ lắm để cả ở đấy. Vinh Lộc lẳng lặng ngồi xuống ghế trước án thư, tai nghe tiếng tích tắc của cái đồng hồ rõ mồn một. Lộc nhìn lên vách ngắm bức thư hoạ (tranh vẽ chữ). Bỗng Lộc nghe tiếng sột soạt của quần áo vang lên theo bước chân nhè nhẹ trong phòng lặng. Lộc vội quay lại nhìn, thì ra là Ý phi tươi như hoa, điểm thêm một nụ cười tình tứ, thầm thì bảo Lộc:




- Lục gia vì sao cho tôi quá nhiều đồ như vậy. Khiến lòng tôi lúc nào cũng thắc thỏm không quên. Không nhận thì sợ Lục gia giận. Mà nhận thì chẳng biết cách nào báo đáp. Tôi nghĩ chả còn cách gì, chỉ còn cách tạ ơn Lục gia mà thôi!




Nói đoạn, Ý phi che miệng cười tình, rồi ngồi xuống chiếc giường đặt nằm dài bên cạnh. Lộc đến lúc này đã hiểu ý người đẹp, nhân đà ngồi luôn xuống cạnh giường, kề sát đôi vai với Ý phi.




Biết Ý phi thích nghe chuyện linh tinh bên ngoài, Lộc lại giở cái chương trình cũ ra, nhưng lần này, vì đã sửa soạn từ lâu, kể toàn những chuyện tình tứ thú vị. Ý phi càng nghe càng khoái. Càng khoái càng cười. Có khi nàng cười lên khanh khách. Mắt nàng lóng lánh như dao cau, tình nàng bốc lên ngùn ngụt như lửa đỏ.




Lộc càng thấy Ý phi khoái thích, càng trổ hết tài nịnh ra. Lộc cảm thấy lòng vui sướng như đêm động phòng hoa chúc. Ý phi kéo dài đời cô quạnh trong thâm cung đã quá lâu lúc này tự nhiên quên hết mình đang ở đâu, ở trong hoàn cảnh nào. Thế rồi chẳng ai bảo ai, nàng và Lộc càng ngồi càng xích gần đến quá sát…




Giữa lúc đôi người đang say sưa mùi mẫn, bỗng con cung nữ khi nãy vào báo động:




- Lão Phật gia đã dậy rồi đó?




Ý phi giật mình, vội đẩy nhẹ Lộc ra xa, hối hả chạy lên tâm cung thái hậu. Một lát sau, Vinh Lộc cũng được lệnh tuyên triệu.




Lộc tâu bày mọi, việc với Thái hậu. Xong đâu đấy, lại cũng Ý phi đưa Lộc ra cửa tò vò như mọi lần trước. Nhìn quanh không thấy một ai, Ý phi lấy trong bọc ra một cái túi thêu bông sen đút lẹ vào ống tay áo Lộc và bảo:




- Túi này tự tay tôi thêu đó! Lục gia hãy giữ mà dùng.




Từ ngày đó, Lộc và Ý phi mượn căn phòng sách của Thái hậu để làm chỗ họp mặt. Tình càng đượm, duyên càng thắm, lửa càng nồng…




Ở đời có cái gì giữ được bí mật mãi! Câu chuyện "họp mặt" của Ý phi và Lộc đã trở thành một diễm tình sử đồn khắp cung sâu! Thái giám, cung nữ, đến cả lũ oắt cung nữ, oắt thái giám, ai cũng biết chuyện! Tiếng đồn càng đi xa, nghe càng ly kỳ, nhiều khi đẹp như mộng, nhưng cũng nhiều lúc khiếp như quỷ. Tiếng đồn bỗng một hôm lọt vào tai một nàng gọi là Thất cách cách (nàng Bảy).




Thất cách cách là cháu gái Từ An thái hậu, gọi hậu bằng bác gái ruột. Nàng có nhan sắc đổ nước nghiêng thành, mặt tươi như hoa, người lả lướt, như cành liễu tha thướt bên hồ.




Trong cung hồi đó có hai người đẹp: một là Ý phi, còn một nữa là Thất cách cách. Cả hai nàng đều hầu hạ cạnh Từ Hi thái hậu.




Thất cách cách tuy là người bên phe Từ An thái hậu nhưng nàng lại chạy sang cung Từ Hi thái hậu chơi. Từ Hi thái hậu thấy nàng xinh đẹp lại nhanh nhẹn, hoạt bát, lấy làm thích thường hay giữ lại bên mình, lúc thì thưởng cho quần áo, lúc thì cho ăn uống. Nói đến thông minh khôn khéo, thì Thất cách cách ắt phải chiếm được một chỗ ngồi danh dự! Mặt ngoài nàng luôn luôn tỏ ra kính quý Từ Hi thái hậu, nhưng chẳng bao giờ để cho bà lợi dụng. Từ Hi thái hậu có ý muốn giữ nàng luôn bên cạnh mình, nhưng nàng chối khéo bằng những lời lẽ êm ái dịu dàng, mà vẫn quay về với Từ An, nhưng nàng đều nói là không biết gì!




Từ Hi thái hậu vốn biết nàng và Từ An thái hậu có tình thân gia đình nhưng bà vẫn thích tài đùa giỡn của nàng, vẫn thường gọi về cung mình để có người cười nói, vui đùa bên cạnh. Người đẹp trong thiên hạ, tính vốn hay ghen, hay ghét.




Thất cách cách cậy mình tài sắc hơn người, thường tự phụ trong cung mình là nhất về sắc, chẳng thua ai về tài: ấy thế còn có kẻ dám đem Ý phi so sánh với mình, cho rằng Ý phi với mình là một cặp mỹ nhân không ai hơn ai! Làm sao mà nàng chịu được nỗi tự ái bị tổn thương. Lòng ghen tức đã đến lúc không kiềm chế nổi, Thất cách cách tìm mọi cách nói xấu Ý phi. Nàng chê trách Ý phi sao không biết tỵ hiềm trai gái, Vinh Lộc vào cung lần nào cũng đều do Ý phi đưa đón. Hai người dùng thư phòng của Thái hậu làm chỗ hẹn tình, dâm ô không còn e dè gì hết. Thậm chí có những lúc trò chuyện với thái hậu, họ cũng cười đùa mặc sức. Những cử chỉ hành động phóng đãng ấy thử hỏi làm sao qua mắt được thái hậu. Song cả hai người đều là những tay chân tâm phúc của bà, chẳng lẽ lại đem ra mắng trách? Do đó, cặp gian phu dâm phụ mới có đất sống mà tự do tình tự trong cung cấm!




Song, đối với Thất cách cách thì đây lại là một cơ hội ngàn năm một thuở để hạ địch thủ, tìm cho kỳ được những chỗ tội lỗi nhất của địch thủ để sửa soạn một cuộc thanh toán tận gốc.




Hôm đó, Thất cách cách vâng lệnh Đông thái hậu tới cung Tây thái hậu để xin tập sớ của Tổng đốc Lưỡng Quảng đem về cho bà xem. Khi qua bên cung Tây, trời vẫn còn quá sớm, thái hậu chưa dậy. Trong lúc chờ đợi nàng nẩy ra ý định vào phòng Ý phi chuyện vãn. Vừa tới cửa phòng, nàng đã bị tên tiểu thái giám gác cửa chạy vội lại xua tay ngăn lại. Thất cách cách lấy làm lạ, chẳng rõ cơ sự ra sao nên bất chấp, cứ đẩy cửa bước vào. Tên tiểu thái giám hoảng hồn bạt vía, chẳng còn cách nào hơn, đành đứng đàng sau thái giám hô lớn lên:




- Thất cách cách vào đó! Thất cách cách vào đó!




Ý phi lúc đó đang ở trong phòng, nghe tiếng hô, vội chạy ra đón. Giữa lúc đó Thất cách cách vẳng nghe tiếng đàn ông xì xào bên trong, nàng nhìn Ý phi thấy nàng đôi má đỏ ửng, mái tóc có nhiều chỗ rối lung tung. Khi nói chuyện với Thất cách cách, nàng thở hổn hển, như có chuyện gì mệt mỏi vừa qua.




Thất cách cách thấy vậy sinh nghi, hỏi Ý phi ngay một câu bắt nọn:




- Cô nói chuyện với ai trong phòng đó?




Ý phi biết chuyện đã vỡ lở, khó lòng chống chế, bèn đáp:




- Lục gia ngồi trong đấy!




Nói đoạn, Ý phi quay mặt vào trong gọi lớn:




- Lục gia mau ra đây! Thất cách cách muốn gặp!




Vinh Lộc nghe gọi, nhờ cơ hội đó, đáp lên một tiếng rồi vội vã bước ra. Lộc chắp tay chào Thất cách cách thỉnh an, miệng cố nở cho bằng được một nụ cười duyên dáng tình tứ:




- Thất cách cách tới có việc gì đấy?




Thất cách cách nghe hỏi, nghẹo cổ, nguýt một cái thật dài. bảo Lộc:




- Việc gì? Chốn này phải chăng chỉ mình ông được quyền tới, còn tôi thì không hẳn? Đến chốn này, tất nhiên phải có chuyện rồi. Dám hỏi Lộc gia có việc gì mà tới đây vậy?




Thất cách cách hỏi dồn một hơi, khiến Vinh Lộc một câu cũng không mở mồm ra đáp được. Lộc chỉ còn một cách chào thua, cất tiếng nói như van lạy cầu xin:




- Hảo cách cách! Tôi quả xin chịu thua! Tha thứ cho tôi!




Lộc nói xong, mặt thộn ra, trông hết sức chán. Giờ phút trôi qua nặng nề! Để tránh được cái ngượng ngập của mình, Lộc lại lên tiếng hỏi:




- Mấy hôm nay, Hảo cách cách đi chơi đâu. Lão Phật gia có chuyện chi dạy bảo… Thập sát hải hiện đang kéo hội vui lắm, Hảo cách cách đã đi chơi đó chưa?




Lộc đặt ra không biết bao nhiêu câu hỏi như vây, Lộc hỏi mà không cần đáp. Lộc cũng cố thêm những câu đãi bôi như:




- Vài hôm nữa rảnh, bọn tôi xin theo hầu Hảo cách cách đi du ngoạn một phen có được không ạ?




Nghe đã quá rườm tai, nhìn lại cái mặt Lộc càng chán, Thất cách cách chẳng thèm để ý tới Vinh Lộc nữa, mà quay sang nói chuyện với Ý phi.




Một lát sau, một tên tiểu thái giám chạy sang báo Tây thái hậu đã dậy. Thất cách cách vội bỏ Ý phi và Vinh Lộc, theo tên tiểu thái giám vào bệ kiến. Nhân thấy vắng người, Thất cách cách mới đem chuyện Vinh Lộc đùa bỡn với ý phi trong phòng, nói lại cho thái hậu nghe…




Chuyện tư tình bê bối dâm ô giữa Lộc và Y Phi, thực ra Tây thái hậu đã biết từ lâu. Nay nghe Thất cách cách nói ra, bà tự cảm thấy hết sức phiền cho mình. Bà nghi rằng Thất cách cách vốn là cháu gái của Đông thái hậu, còn Vinh Lộc lại là cháu trai của bà. Lỡ chẳng may việc này vỡ lở ra, đến tai Đông thái hậu thì thực chẳng ra sao. Bởi thế, bà vội kéo Thất cách cách lại bên mình, thì thào bảo nhỏ:




- Con yêu của ta! Quân tội lỗi chẳng may đã bị con bắt gặp. Con nên nghĩ ta với nương nương bên đó đều là người cùng một nhà cả, hãy tha thứ cho chúng. Hẳn chúng không dám quên ơn con đâu!




Nói đoạn Tây thái hậu liền giơ tay rút một cây trâm ngọc giắt trên mái tóc của mình cắm vào mái tóc của Thất cách cách. Thất cách cách vội quỳ xuống tạ ơn. Giữa lúc Thất cách cách tạ ơn xong đứng dậy thì Ý phi bước vào. Tây thái hậu bảo Ý phi thỉnh an Thất cách cách, Ý phi được lệnh, chẳng hiểu ý nghĩa ra sao. Nhưng vì là lệnh của Thái hậu, đâu dám trái, nàng đành phải làm theo! Thất cách cách đứng lên xin phép trở về, lấy cớ sợ Đông thái hậu chờ lâu. Chờ cho Thất cách cách đi xa rồi, Tây thái hậu sa sầm nét mặt, hỏi Ý phi:




- Tạ bảo mi phải thỉnh an Thất cách cách, mi có biết ta có dụng ý gì không?




Ý phi nghe nói, chết lạnh đi nửa người, không dám nói một tiếng nào, vội bò mọp xuống đất dập đầu lạy. Tây thái hậu truyền gọi Vinh Lộc vào cung.




Vinh Lộc đương nhiên có tật giật mình. Y chờ đợi một hậu quả tai hại sắp tới bởi tên thái giám tay chân sớm đã phi báo cho Lộc biết Tây thái hậu đang giận lắm. Rồi đến khi được lệnh tuyên triệu, Lộc sợ quá, mồ hôi lạnh toát ra như tắm. Lộc vội chày lên phòng Thái hậu, thấy Ý phi đang quỳ mọp ở đó, cúng vội vàng quỳ xuống ngay bên cạnh nàng.




Thái hậu cất giọng nghiêm khắc, dằn từng tiếng bảo Lộc:




- Tao nghĩ chúng bay là hai đứa trẻ thông minh, cho nên uỷ thác việc này việc nọ cho chúng bay, cho phép chúng bay được rộng rãi hơn người. Ai ngờ vì thế chúng bay đâm ta khinh nhờn, giấu ta làm những việc không còn biết trời đất gì cả. Nay câu chuyện vỡ lở rồi, con Thất cách cách nó đã biết hết. Về cung, thế nào hắn cũng mách lại cho Đông thái hậu hay. Ngày mai, chắc chắn là có một bản tấu chương đưa lên. Lúc đó, ta cũng khó rửa mặt cho chính ta, chứ đừng nói tới cưu mang tụi bay, tụi bay sửa soạn về rửa cổ lau gáy để lĩnh lấy một nhát dao…




Tây thái hậu nói xong, Ý phi và Vinh Lộc đã thấy đầu treo sợi tóc rồi! Cả hai người chỉ còn nước cầu xin Thái hậu tha thứ và cứu giúp. Lộc lại nói:




- Nô tài ngồi trong phòng quý phi thực không dám làm điều bậy bạ, tội lỗi! Chỉ vì lúc vào cung, nô tài được tin Lão Phật gia còn đang yên giấc, chưa dậy, nên mới rẽ vào phòng Ý phi. Nô tài biết rằng quý phi vốn được Lão Phât gia sủng ái thượng hầu hạ sớm hôm bên cạnh, bởi thế ghé qua để hỏi thăm tin tức của Lão Phật gia đó thôi. Hơn nữa, nô tài cũng muốn nhân dịp tới thỉnh an quý phi. Điều đáng trách của nô tài là ở chỗ không biết tỵ hiềm, tội thực muôn thác. Còn nếu nói nô tài có điều ám muội thì giữa thanh thiên bạch nhật này nô tài đâu có dám, muôn muôn lần không dám. Nô tài, nếu có chết, thực chẳng đáng tiếc chút nào! Có tiếc chăng chỉ là tiếc cho quý phi bị liên luỵ, mất hết thanh danh, khiến nô tài không còn có cách gì mà làm người được nữa. Chuyện này chỉ còn mong cầu Lão Phật gia cứu giúp cho mà thôi.




Nói đoạn, Lộc lại dập đầu xuống đất lia lịa, Tây thái hậu nghe Lộc kể lể, thề thất một thôi một hồi, cười nhạt bảo:




- Tụi bay khỏi cẩn nói dơi nói cuội trước mặt tao. Tao cũng chẳng có thì giờ để can thiệp vào chuyện của tụi bay. Việc đã làm thì ráng chịu lấy. Còn nói năng gì nữa Ngày mai, nếu may mà Đông thái hậu bỏ qua, không nói như ném phân vào mặt tao, bọn vương công đại thần không có một lá sớ nào như đâm vào mắt tao, sẽ tha cho tụi bay. Trái lại, chuyện nổ ra, tai tiếng tùm lum lên thì đó âu cũng là số kiếp của tụi bay rồi! Đã từ lâu, Đông thái hậu ngày ngày rình rập, mong chộp được chỗ sơ hở của tao, hoàng thượng cũng xa lánh tao, rất ít khi gần tao. Bản thân tao còn khó yên, thử hỏi còn bao bọc cho ai được nữa chứ? Thôi mặc! Chuyện của tụi bay, tụi bay lo liệu lấy! Chém thì cứ chém, lột da thì cứ lột da, chẳng liên can gì đến ta.




Ý phi nghe một tràng dài lời chửi mắng, mặt xám ngoét lại, mắt rưng rưng lệ. Tây thái hậu quát lên một tiếng bảo hai người:




- Đứng dậy!




Ý phi và Vinh Lộc lại dập đầu mấy lần nữa, lạy tạ nữa rồi lui ra khỏi phòng. Khi bước tới một khúc quẹo vắng người, Ý phi kéo tay Vinh Lộc khóc lóc thảm thiết. Lộc tìm lời ngon ngọt an ủi, rồi như sực nhớ ra một điều, vội bảo Ý phi:




- Để tỏi chạy tới bàn tính với Lý tổng quân! Quyết không để cho Quý phi liên luỵ đâu mà ngại!




Quả nhiên, đêm đó Lộc lóc cóc chạy tới nhà Lý Liên Anh thuật lại câu chuyện, rồi tha thiết vấn kế. Đã nhiều lần Anh bị Đông thái hậu khiển trách, oán hận chứa chất trong lòng đã quá đầy! Anh nghe Lộc nói, giơ tay vỗ phịch một cái vào ngực nói:




- Lục gia yên tâm. Chuyện này không nổ ra thì thôi. Trái lại, nếu nổ lớn, bọn ta quyết không chịu khoanh tay đợi số. Ta chỉ cần tung ra một độc kế là cả bọn thù nọ vào rọ hết. Lúc đó, chúng mới biết tay ta.




Vinh Lộc nghe xong có đôi chút yên lòng, liền cáo từ ra về. Đêm đó, Lộc trằn trọc trên giường, không sao ngủ được, cảm thấy mạng mình chẳng đáng giá là bao. Sáng hôm sau, Lộc khăn đóng áo dài, vội vã chạy vào cung nghe ngóng tình hình. Tây thái hậu dự triều sớm trở về cung.




Bà cho gọi Lộc vào trong. Lộc biết chuyện vỡ, có điều chẳng lành rồi, đành mặt dạn mày dày, bước vào phòng quỳ trước thái hậu, dập đầu. Tây thái hậu, mặt hầm hầm tỏ vẻ giận dỗi lắm, ném một tập hồ sơ vào mặt Lộc bảo xem đi. Lộc cầm lấy xem, mới biết đó là tập sớ của ông Đồng Hoà, trong đó tâu việc dâm ô cung đình của Vinh Lộc và Ý phi, xin lưỡng cung Thái hậu giao ngay cho nội vụ phủ xét xử chính hình. Ngoài ra còn thêm một điều: Từ Hy thái hậu kiêu sa phóng túng, bảo hộ riêng tư người thân thích của mình làm bậy.




Vinh Lộc mắt thì đọc tập sớ, tai thì nghe tiếng Tây thái hậu quát:




- Lũ nghiệt súc! Tụi bay làm chuyện đồi bại, kéo cả tao vào trong, khiến sư phó cười chê cả tao. Tụi bay cút ngay ra ngoài kia mà chết đi cho rảnh mắt tao, còn đợi gì?




Lời nói chưa hết, cung nữ đã vội vào báo có Đông thái hậu tới. Tây thái hậu vội đứng dậy đón vào.




Đông thái hậu mặt cũng hầm hầm, tỏ ra tức giận đến cực độ bước vội vào phòng. Tây thái hậu thấy Đông thái hậu tự nhiên có vẻ ngượng nghịu. Đông thái hậu vừa đặt người ngồi xuống ghế đã cất tiếng nói:




- Tờ sớ của ông sư phó hôm nay, muội muội đã đọc chưa?




Tây thái hậu còn chưa trả lời thi một cung nữ chạy vội vào báo Ý quý phi đã thắt cổ chết trong cung. Được tin này Vinh Lộc thấy đau nhói một cái trong ngực, mắt tóe hoa cà, chân như mềm ra, muốn khuỵu xuống…

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top