thanh cung 13 trieu p 47-69

Hồi 47 Như chim liền cánh, như cây liền cành

Thuận Trị hoàng đế từ khi được Đổng Ngạc Phi thật là vừa đôi phải lứa, lúc nào cũng khanh khanh trẫm trẫm khiến bao nhiêu sầu buồn tích luỹ từ trước đều tiêu tan như tro bụi.

Về phía Đổng Ngạc Phi, nàng cũng một lòng phụng sự hoàng đế, có vẻ như quên hẳn người yêu xưa là Mao công tử.

Nàng ngấm ngàm mua chuộc bọn cung nữ cũng như thái giám trong cung hoàng Thái hậu, và cũng nhờ đó nàng mới biết được chuyện ngoại tình giữa bà Thái hậu với Hồng học sĩ.

Hoàng Thái hậu tuy nói rằng tấm hồng nhan đã luống tuổi xuân nhưng mỗi lần soi kiếng bà vẫn còn tin tưởng ở dĩ vãng vàng son của mình. Từ khi Đa Nhĩ Cổn chết, bà đã trải qua bao đêm võ võ phòng không trong chốn cung vi.

Bà hồi tưỏng lại thuở trước, biết bao bạn hữu của bà đều đã chết, chỉ còn lại có Hồng Thừa Trù xa xôi cách trở mãi Giang Nam. Bởi vậy bà bèn ngầm hạ đạo ý chỉ, gọi người bạn già về Kinh để những lúc buồn phiền có kẻ chuyện trò đấm bóp giải khuây.

Tất cả nhưng uẩn khúc đó của Thái hậu đã bị Đổng Ngạc Phi tìm hiểu rõ cả. Nàng tự nhủ với lòng quyết lợi dụng cơ hội gợi chuyện trước hoàng đế để tính mạng của tên Hồng tặc phải đi đứt chuyến này và chỉ cỏ thể mới thoả lòng oán hận của mình. Ý đã định, nàng quyết thực hiện.

Cách ít hôm, trời bỗng oi bức khó chịu. Hôm đó Đổng Ngạc Phi nằm ngủ trưa trên chiếc long sàng. Thuận Trị hoàng đế bất chợt tới nơi. Bọn cung nữ vội chạy vào gọi nàng tỉnh giấc để đi tiếp giá. Nhưng hoàng đế lắc tay ngăn lại bảo đừng. Rồi ngài tự tay vén bức rèm nhưng, rón rén bước vào. Nàng Tiểu Uyển lúc đó nằm nghiêng trên giường thiêm thiếp giấc nồng một bên má để lộ chút phấn hồng, càng làm tăng thêm phần duyên dáng đáng yêu của cái sắc chim sa cá lặn.

Thuận Trị hoàng đế bước sát lại cạnh giường. Ngài thấy Tiểu Uyển đôi mắt nhắm, mùi hương phảng phất, đang say sưa ngủ. Ngài lại nhìn đôi hài phía dưới, nhỏ như hình cái búp măng mùa xuân. Ngài thấy chúng xinh quá, liền cúi xuống lượm lên, lật đi lật lại trong tay. Khi nhìn tới gót hài, ngài bỗng thấy năm chữ "Châu diên nhu tiến trình" thêu bằng chỉ gấm.

Ngài gật đầu rồi mỉm cười trí ngài như đang để vào một chuyện gì. Một luồng gió nhẹ thổi từ ngoài vào lọt qua cửa số làm tung vạt áo lụa trên mình phi tử để lộ ra một miếng áo lót màu hồng trên đó có thêu một đôi chim uyên nhỏ đang quấn quýt bên nhau màu sắc thật là tươi đẹp. Ngắm nhìn một lát hoàng đế bất giác đâm ra bâng khuâng sờ sững.

Giữa lúc vắng lặng đó. Đồng Ngạc Phi bỗng tỉnh giác, nàng mở mắt ra thấy hoàng đế miệng cười chúm chím đang đứng phía trước. Nàng vội tuột xuống giường quỳ trên mặt đất để tiếp giá. Hoàng đế giơ tay nâng nàng dậy cười nói:

- Trời nóng nực như vậy, ở trong nhà mà làm gì! Phi đi hái sen với trẫm ở Thập Sát hải đi!

Đống Ngạc Phi tươi cười tuân chỉ. Nàng lại nói:

- Thần thiếp chưa tắm gọi gì cả Vạn tuế xin hãy ngồi ở ngoài nhà một lát.

Thuận Trị hoàng đế nghe xong, nghiêng đầu, tỏ ý lẳng lơ cười bảo:

- Trẫm chính đang muốn xem ái khanh tắm gội đây mà!

Đổng Ngạc Phi vội quỳ xuống tâu:

- Thần thiếp đâu có dám làm bẩn mắt vạn tuế. Lỡ bọn ngoại thần biết được thì còn ra thể thống gì nữa.

Hoàng đế xua tay lia lịa bảo:

- Sợ cái quái gì? Bọn ngoại thần đâu có để ý tới những chuyện đó. Nếu khanh xấu hổ, thì hãy bảo bọn cung nữ bỏ bức mành tương xuống. Trẫm ở phía ngoài nhìn xem cũng được rồi.

Đổng Ngạc Phi hết phương chối từ, đành phải bảo bọn cung nhân sửa soạn hương thang (nước nóng pha hương thơm), mở bức mành tương.

Thuận Trị hoàng đế ngồi ngoài mành nhìn vào bốn cung nữ vây chung quanh Đổng Ngạc Phi để kỳ cọ. Ngoài ra còn có bốn đứa nữa đứng canh, tay cẩm khăn mặt, kiếng soi, áo tắm nước hoa, thôi thì hằng hà vô số.

Một lát sau, Đổng Ngạc Phi tắm xong. Nàng trang điểm son phấn, cuộn bức mành tương. Hoàng đế bước lại gần, cười nói:

- Làn da của khanh sao mà trắng mịn thế! Khanh quả thật xứng với cái tên người ngọc.

Đồng Ngọc Phi nghe lời tán tụng của hoàng đế bỗng đôi má ửng hồng. Hoàng đế ngồi bên cạnh lặng lẽ ngắm nàng trang điểm. Rồi khi thấy nàng trang điểm đã xong ngài cầm tay nàng chạy ra khỏi cung, bước lên lương kiệu (kiệu đi chơi mát).

Bọn thái giám khiêng kiệu, chạy tới Thập Sát hải.

Thật Sát hải là một vùng hồ sen bao la bát ngát, rộng có lối mười mẫu. Mỗi một cơn gió mát thối là mỗi lần lá sen lật lên úp xuống và đưa mùi hương thơm ngào ngạt khắp bốn phương. Bởi vậy cứ tới hồ sen là bất cứ ai cũng cảm thấy mát mẻ. Từ trong khóm sen giữa cầu, một chiếc thuyền vẽ từ từ ghé sát gần bờ. Bọn cung nữ đưa hoàng đế và phi tử lên thuyền, chèo ra giữa hồ. Nàng phi tử giơ tay hái một đoá hoa sen trắng dâng cho hoàng đế. Ngài cầm ngắm nghía, còn một tay cầm lấy tay nàng. Cả hai người ngồi trong cửa sổ của khoang thuyền, nhìn bọn cung nữ hái sen ngồi trên những chiếc mảng nhỏ nhắn xinh xinh đang lướt đi, lướt lại giữa những cụm sen lá xanh bông trắng, miệng hát bản thái liên khúc vừa êm ái vừa dịu dàng. Những tiếng hát duyên tình say mộng đó, vang đến tai hoàng đế, ngài luôn miệng khen hay.

Một lúc lâu bọn cung nữ, hái đã được khá nhiều hoa sen đem vào dâng cho hoàng đế. Ngài bảo xếp hết xuống dưới chân Đổng Ngạc Phi. Nàng ngồi trong khoang chung quanh đầy hoa sen; sắc hoa sánh với mặt người, mặt cùng như hoa trăm phần tươi đẹp.

Thuận Trị hoàng đế bất giác thở dài sung sướng thốt ra:

- Ái khanh quả có thể làm Liên Hoa tiên tử được.

Từ đó về sau bọn cung nữ đều gọi Đổng Ngạc Phi là Liên Hoa tiên tử. Hoàng đế sai dọn tiệc để cùng phi tử đối ẩm.

Hai người nâng chén tặng mời. Bọn cung nữ xếp bằng tròn ngồi cưới ván thuyền. Hoàng đế truyền lệnh ca nhạc. Tức thi những tiếng đờn tiếng phách dạo lên, những tiếng hát trong mà êm hoà theo:

"Trông bình khang

Nhìn thành Phượng

Liễu xanh buông mành cửa Thiên môn

Trên đường tơ tía rũ lơ thơ

Này Du lang chàng ơi!

Nhà ai én liệng song song,

Xa cách sông xưa

Khói xanh quyện sổ.

Ngắm trời trong tựa đường hóng hạnh

Cầu dài ván ghép,

Một giải xa xa gợn sóng tình,

Này đây quán rượu,

Nọ chốn trà lâu.

Giọng ai văng vắng tiếng mua hoa.

Sau sâu ngõ hẹp bóng ngang qua

Cành liễu la đà!"

Tiếng ca nhạc càng về sau càng rét rắc du dương. Nào du tử, nào tiên nương, ai lại chả vì hoa vì nhạc mà để hồn bâng khuâng mơ mộng.

Tiếng ca nhạc vừa dứt thì thuyền cũng vừa cập bến mé tây. Nhìn lên, Thuận Trị hoàng đế thấy cây cỏ xanh tươi, bóng râm mát rượi, người bỗng cảm khoái thốt ra:

- Thật là cả một thế giới thần tiên tao nhã!

Nói đoạn, ngài dắt tay Đống Ngạc Phi bước lên bờ chờ đợi, dặn bọn thái giám và cung nữ ở lại bên bờ chờ chứ không được đi theo. Thế là Đế Phi hai người, vai kề vai tay trong tay, bước dần vào lùm cây cao bóng rợp.

Đứng trước cảnh đẹp, Thuận Trị hoàng đế bỗng nổi sóng tình, vụt mở rộng đôi tay, ôm ghì tấm thân ngà ngọc của nàng Phi vào lòng, rồi từ từ đặt cái hôn nồng cháy vào miệng người ngọc. Ngài cười nói.

- Trẫm với khanh chẳng khác nào một cặp vợ chồng quê mà mặc tình ái ân vui sướng.

Nghe xong lời nói yêu đương của nhà vua, Đổng Ngạc Phi bỗng lệ sa thành giọt, đôi má phấn hoen nước mắt, mặt rầu rầu như bông hạnh sau cơn mưa.

Hoàng đế thấy vậy lại càng thương yêu. Ngài vội ôm sát nàng vào lòng thì thầm căn dặn. Đổng Ngạc Phi sụt sịt một lúc rồi mới nói:

- Thần thiếp thân hèn chẳng khác chi loại cỏ nội. May mà được ánh chiều dương soi rọi thần mới được hưởng vinh hoa phú quý. Rồi đây, gió thu thổi lạnh thâm cung, ôi thê lương biết bao cho thần thiếp!

Hoàng đế nghe xong liền vừa vuốt tóc người yêu vừa dặn dò:

- Ái khanh hãy an lòng! Trẫm được ái khanh giống như cá được nước. Chẳng những đời này nguyện cùng nhau trăm năm đầu bạc mà còn nguyện làm vợ chồng kết tóc xe tơ mãi mãi hết kiếp này đến kiếp khác. Trẫm cũng xin nói như Đường Minh Hoàng thuở nọ. Ở trên trời thì nguyện làm chim liền cánh ở dưới đất thì nguyện làm cây liền cành. Nếu khanh chẳng tin, trẫm sẽ nhìn trời mà lập thệ.

Thuận Trị hoàng đế vùa nói vừa giơ tay nắm lấy vai Đống Ngạc Phi kéo xuống rồi hai người song song quỳ dưới thê môn. Ngài lâm râm khấn:

- Hoàng thiên ở trên trời, tôi là Ai Thân Giác La Phúc Lâm cùng với Phi tử Đổng Ngạc thị xin nguyện ở đời này trăm năm đầu bạc, muôn đời về sau kết thành vợ chồng, chẳng bao giờ lìa nhau. Thảng hoặc giữa đường gặp biến, tôi nguyện từ bỏ thiên hạ để bảo toàn tình nghĩa vợ chồng.

Đổng Ngạc Phi nghe đoạn, vội dập đầu tạ ơn. Hoàng đế nâng dậy. Nàng liền nhân dịp này tâu rõ cho hoàng đế biết việc nàng bị Hồng học sĩ bắt đem về kinh, trong nhà còn có người anh ruột tên Sào Dân chẳng biết sống chết ra sao, khiến đêm ngày tâm niệm không quên. Bởi vậy, nàng cầu xin ân đức của ngài tuyên triệu Sào Dân vào cung để anh em có dịp gặp nhau thì dù chết cũng yên lòng nhắm mắt.

Thật là một việc quá tầm thường đối với một vị hoàng đế oai quyền khắp bốn bể! Bởi vậy lời cầu xin của Đổng Tiểu Uyển được Thuận Trị hoàng đế chấp thuận ngay.

Ngay ngày hôm sau hoàng đế hạ chỉ cho tổng đốc Giang Nam tuyên triệu Sào Dân lên kinh. Ít hôm sau, Mao Sào Dân tiếp được thánh chỉ, lập tức khởi trình.

Lại nói Hồng Thừa Trù đem Đổng Tiểu Uyển vào cung, tưởng rằng nàng vốn trinh liệt thế nào cũng chết ở trong cung. Đó chính là dụng ý nhờ đạo giết người. Chẳng ngờ sau khi vào cung nàng lại được hoàng đế sủng ái muôn phần, đến nỗi nhiều hôm ngài bãi cả chầu để tìm vui nơi người đẹp.

Họ Hồng biết chắc rằng Đổng Tiểu Uyển khi được sủng ái thế nào cũng tìm cách báo thù. Bởi vậy y liền nghĩ kế sách hạ thủ trước là hơn.

Y bèn kế vạch với thái hậu là hoàng đế tự ý lấy gái Hán bỏ phế cả triều đình. Thái hậu được tin này cả giận, lập tức muốn tới gặp hoàng đế. Họ Hồng ngăn lại bảo:

- Việc này phải chầm chậm giải quyết mới được. Trước hết thái hậu hãy hạ một đạo ý chỉ cấm gái Hán vào cung. Có thế thì sau này khi tra xét cung đình ta mới có cớ để kết tội.

Thái hậu nghe kế, liền hạ một ý chỉ cấm chỉ việc thông hôn giữa Mãn và Hán (nghĩa là người Mãn và Hán không được lấy nhau), lại không cho tuyển gái Hán làm cung nữ. Bà con cho treo tại phía trong cửa Thần Võ một tấm biển trên viết: "Kẻ nào đưa gái Hán vào cung sẽ bị chém!".

Thuận Trị hoàng đế đọc tấm biển, trong lòng ngấm ngầm lo lắng cho Đổng Ngạc Phi.

Qua được mấy hôm, Mao Sào Dân tới kinh. Đổng Ngạc Phi tiếp kiên tại cung Khôn Ninh. Tất nhiên khi gặp nhau, hai người có cả một nỗi lòng buồn vui khôn tả. Chỉ vì bọn cung nữ đứng trước mặt nên họ đành phải dùng tiếng anh em mà xưng hô. Trong khi trò chuyện, hoàng đế cũng triệu Sào Dân tới, hỏi han, rồi ban yến tại hoàng cung. Yến tiệc xong. Sào Dân lại được vào nội cung để gặp Tiểu Uyển. Hai người nói đến những lúc ân tình thuở nọ mà nay chịu cảnh phân ly thì bốn dòng lệ tuôn xuống như mưa. Hàn huyên còn nhiều điều muốn nói nhưng cung cấm đâu có phải là chỗ ngồi lâu nói nhiều.

Mao Sào Dân đành gượng gạo đứng dậy cáo từ lui ra. Lúc lâm biệt, hoàng đế thưởng cho Dân năm trăm lạng vàng, còn hạ chỉ cho tổng đốc Giang Nam kiến tạo hoa viên cho Dân và hết sức che chở.

Lại nói từ khi Mao Sào Dân từ biệt về quê thi Đống Ngạc Phi lòng buồn rười rượi bất giác nàng lâm trọng bệnh, suốt ngày đêm ngủ li bì trên giường. Quan ngự y đến chẩn bệnh và bốc thuốc. Hoàng đế cũng luôn luôn lại thăm, dùng lời ngon ngọt an ủi.

Trong khi Đổng Tiểu Uyển đang ốm yếu mê man thì bỗng bọn cung nữ, báo tin thái hậu tới. Tiểu Uyển giật mình hoảng sợ đến đổ mồ hôi hột, vội gượng dậy trang điểm.

Bỗng bốn tên cung nữ bước vào, không nói không rằng, túm ngay lấy Tiểu Uyển khiêng tắp ra ngoài. Thái hậu mặt hầm hầm ngồi ngay tại giữa nhà. Bọn cung nữ đưa Đổng Tiểu Uyển tới trước rồi bắt nàng quỳ xuống.

Hồi 48 Thuận Trị bỏ đi tu

Đổng Tiểu Uyển mặt cúi gầm vừa quỳ xuống thì bà thái hậu quát lên ầm ĩ:

- Con khốn nạn kia! Ngửng mặt lên cho tao xem mày mặt ngang mũi dọc ra sao nào?

Tức thì một tên cung nữ bước tới nắm lấy mớ tóc sau ót của Tiểu Uyển giật ngửa ra sau làm cho mặt nàng hất giơ lên trước. Thái hậu cười nhạt nói:

- À, mặt mũi con này bảnh bao lắm! Tát vào mặt nó cho tao!

Thế là tên cung nữ giơ thẳng cánh, cứ hai bên má nàng tát lấy tát để, một hơi đến ba bốn chục cái, đến nỗi đôi má nàng sưng híp và thâm tím cả lại, mắt đổ hào quang. Lòng nàng lúc đó vừa tức vừa rối loạn. Bỗng nhiên mắt nàng tối sầm rồi nàng mê đi.

Bọn cung nữ lấy nước lã tạt vào mặt nàng. Đống Tiểu Uyển dần dần tỉnh lại. Thái hậu bảo tên cung nữ hỏi nàng từ đâu tới. Nàng vừa sụt sùi khóc vừa cung khai lai lịch của mình một cách cặn kẽ. Tuy nhiên nàng vẫn cố giấu một điểm mà chỉ khai nàng vốn con gái họ Mao chứ không phái con dâu họ Mao.

Giữa lúc đang cung khai như vậy, Thuận Trị hoàng đế từ ngoài hối hả chạy vào. Ngài vốn sợ Thái hậu nên khi thấy cảnh tượng đó ngài chỉ biết cúi đầu, cung kính đứng nép một bên, chẳng dám nói một câu. Thái hậu hỏi Tiểu Uyển xong liền truyền lệnh cho bọn cung nữ đem đánh cho kỳ chết.

Tức thì, bốn tên kỳ phụ thô lỗ tay cầm chiếc côn sơn đỏ, tay cầm một chiếc bao bố màu đỏ xáp lại và sắp sửa ném nàng vào đó.

Đây là một lối trừng phạt trong cung Mãn thời đó. Hễ người cung nữ nào bị tội chết, thì dùng bao bố để bỏ vào rồi lấy côn đánh tới tấp cho đến chết mới thôi.

Thuận Trị hoàng đế lúc này không thể nhịn được nữa, bèn quỳ xuống trước mặt Thái hậu năn nỉ thay nàng.

- Nàng vốn là con nhà lương thiện mà Hồng học sĩ đem tiến vào cung. Nếu Thái hậu muốn đánh chết thì trước hết hỏi tội ông ta.

Vừa nghe hoàng đế nói tới Hồng học sĩ, Thái hậu chạm đến lòng riêng, tức thì lòng bà mềm lại, Bà bảo bọn cung nữ ngừng tay và đuổi nàng ra khỏi cung, Thuận Trị hoàng đế lại kêu nài.

- Người con gái Hán này đã ở trong cung lâu ngày, nếu đuổi ra khỏi cung thì thể diện của hoàng gia có chỗ bất tiện lắm!

Nghe hoàng đế nói vậy, thái hậu thấy có phần đúng, bèn bảo bọn cung nữ đưa nàng ra giam tại chùa Ngọc Tuyền ở Tây Sơn. Hoàng đế lại khẩn cầu lần nữa. Nhưng Thái hậu chỉ vào mặt ngài thét lớn:

- Mày có thấy chỉ ý của ta yết ở Cửa Thần Võ không? Gái Hán mà vào cung thì bị chém đầu, nay ta nể mặt mày nên tha cái mạng cho con khốn nạn đó, mày còn muốn gì nữa?

Nói đoạn, bà quát báo bọn cung nữ lôi ngay nàng Đổng Tiểu Uyển ra khỏi cung. Một chiếc kiệu nhỏ chực sẵn bên ngoài.

Bọn cung nữ đấy nàng lên kiệu, bọn nội giám nhấc chiếc kiệu lên vai, rồi vội vã đưa nàng tới chùa Ngọc Tuyền tại Tây Sơn - Chùa Ngọc Tuyền vốn dành riêng cho các nhà sư Lạt ma tu hành. Theo qui cũ của cung nhà Thanh thì khi người cung nhân phạm tội nặng thì bị đánh chết, nhưng nhẹ thì gửi chùa học Phật.

Nàng Đống Tiểu Uyển từ khi tới chùa tự cảm thấy lòng nhẹ lâng lâng ngày đêm lễ Phật niệm kinh.

Nàng tự biết mình kiếp hồng nhan bạc mệnh cho nên quyết rũ sạch nợ trần dốc tâm tu đạo. Chẳng mấy ngày, nàng đã học thuộc lòng tất cả những bộ kinh trong chùa. Nàng vốn thông minh, thẩm thấu ảo lý của kinh điển nên ân oán đôi đường nàng đều bỏ đi hết, nào là Mao Sào Dân, nào là Thuận Trị hoàng đế nàng cũng đều quên đi cả.

Thuận Trị hoàng đế trái lại, mong nhớ nàng càng ngày càng kịch liệt. Từ khi nàng ra khỏi cung, hoàng đế tuy có cả một bầy cung tần mỹ nữ đông đảo hầu hạ ngày đêm nhưng ngài lúc nào cũng nhớ tới nàng ngày đêm khóc lóc bi thảm.

Thế rồi ít lâu sau, không còn nhẫn nại đước nữa, ngài bèn bỏ ra rất nhiều tiền cho bọn cung nữ và thái giám nhờ che mắt Thái hậu, để cho ngài lén lên chùa Ngọc Tuyển với Tiểu Uyển. Hai người gặp nhau, chỉ còn biết ôm nhau khóc vùi.

Về sau, Tiểu Uyển đem chuyện hồng trần hư ảo ra khuyên can và an ủi hoàng đế, nhưng ngài vẫn tha thiết một lòng chẳng muốn rời tay. Ngài ở lỳ trong chùa Ngọc Tuyền luôn ba ngày không chịu về cung. Thái hậu biết chuyện liên sai nên tổng quản thái giám đem kiệu tới để tiếp giá và bảo:

- Nếu hoàng thượng không chịu về cung, Thái hậu sẽ đích thân tới chùa.

Đổng Tiểu Uyển cũng khuyên nài hoàng đế nhiều lần và bảo ngài:

- Bệ hạ nếu không quên thiếp, thì xin được gặp lại ở Ngũ Đài sơn sau này.

Thái hậu lại cho thái giám tới giục và bắt buộc lần nữa, lúc đó Thuận Trị hoàng đế không còn biết làm thế nào đành phải lên kiệu trở về cung. Nhưng có ngờ đâu hai hôm sau, bỗng tên nội giám quản thủ chùa Ngọc Tuyền tơi báo cho ngài biết Đồng Ngạc Phi tự nhiên biến mất, không thấy đâu nữa.

Hoàng đế được tin này, trong lòng thương xót vô tận. Ngài bèn ngầm sai bọn thái giám tin cẩn đi khắp nơi dò la tìm kiếm nhưng tuyệt vô tung tích. Ngài cho gọi tên cung nữ hầu hạ Tiểu Uyển tới hỏi thì tên cung nữ này nói:

- Phi tử thành tiên biến đi rồi. Số là cách đây mấy hôm giữa một đêm gió mát trăng thanh, mọi người chỉ thấy phí tử ngắm trăng đi lại nhởn nhơ trên đạo đài phía sau chùa.

Bọn nội giám vội chạy tới xem thì bỗng phi tử biến đâu mất, không còn lại chút vết tích nào. Như vậy nếu không phải thành tiên biến đi rồi thì còn là gì.

Thuận Trị hoàng đế nghe xong đã không lấy làm buồn, mà còn lấy làm sung sướng, vỗ tay nói:

- Trẫm đã nói nàng là Liên Hoa tiên tử nay quả nhiên nàng thành tiên thật. Trẫm phải làm sao bây giờ?

Nói đoạn, ngài cười lên sằng sạc như điên.

Tin này truyền đến tai Thái hậu. Bà sợ hoàng đế điên nên sai người ngầm tới Tây Sơn đang đêm phóng một mồi lửa đốt chùa. Chùa Ngọc Tuyền cháy rụi, chỉ còn trơ lại một đám đất đen xám. Đáng thương cho bọn thái giám, cung nữ bị ngọn lửa bạo tàn thiêu chết theo chùa. Trong số này, người ta thấy có xác một người cung nữ trông hao hao như nàng Đổng Tiểu Uyển. Thái hậu bèn dặn bọn cung nữ phao tin là nàng Tiểu Uyến đã bị chết cháy. Tin này đến ai hoàng đế. Một điều lạ đối với mọi người là ngài thản nhiên như chẳng có một chút gì gọi là bi thương cả.

Nhưng rồi một tin động trời bỗng truyền đi nhanh như chớp: Hoàng đế đã bỏ đi mất rồi.

Khi tới thư phòng của ngài, người ta lượm được tờ chiếu do chính tay ngài viết:

"Thái Tổ, Thái Tông sáng cơ lập nghiệp là việc rất trọng. Việc nối dõi không nên khiếm khuyết lâu ngày. Con của trẫm là Huyền Hoa do Đông Giai thị sanh ra, thông minh đỉnh ngộ có thể kế nghiệp tổ tông. Nay lập Hoàng thái tử, lên ngôi hoàng đê. Trẫm đặc mệnh bọn nội đại thân Sách Ni,, Tô Khắc Tát, Cáp Quá, Tất Long, Nhao Bái làm phụ thần (bầy tôi phò tá).

Bọn họ là những cựu thần có công lớn, trẫm đem tâm phúc để ký thác. Hãy gắng sức tỏ lòng trung, bảo hộ tự quân lo giúp việc cai trị, bố cáo khắp trong ngoài, khiến đều nghe biết, Khâm thử".

Thái hậu đọc xong tờ chiếu, ngẩn người một lúc lâu rồi truyền cho bọn cung nữ đi tìm nội đại thần Ngao Bái vào cung, tính mọi việc xong xuôi rồi mới truyền dụ ra ngoài nói hoàng đế bị cấp bệnh đã mất, di chiếu lập thái tử Huyền Hoa lên ngôi.

Tin này loan truyền ra ngoài, văn võ bá quan hớt ha hớt hải vội tề tựu ngoài cửa Đại Thanh môn đợi chỉ. Lệnh thái hậu ban ra phàm quan Mãn cũng như quan Hán, tất cả không được vào cung, đợi sáng mai triền kiến tân hoàng đế tại điện Thái Hoà.

Qua ngày hôm sau, văn võ đại thần, bối lặc, thân vương nhất tề đợi giá tại điện Thái Hoà.

Tĩnh tiên (roi dùng để ra lệnh yên lặng khi làm lễ triệu bái) đập xuống ba lần, tân hoàng đế đăng vị. Thái tử Huyền Hoa năm đó mới có tám tuổi, ngồi trên ngai vàng, chịu trăm quan triều hạ. Ngao Bái và Hồng Thừa Trù đứng ở hai bên.

Hoàng đế hạ chỉ cải hiệu là Khang Hi, mặt khác, sai lo việc tang ma cho Thuận Trị hoàng đế tại Bạch Hổ Điển.

Lại nói Thuận Trị hoàng đế khi đó đã lẻn ra khói cung, bèn cải trang thường phục cho nên chẳng ai biết mà ngăn cản, cật vấn. Vốn sinh trưởng trong cung cấm ngài chẳng thuộc đường trong kinh thành. Ngài nghĩ nên theo hướng Tây mà đi. Lần lủi đi một lúc lâu, ngài đã ra khỏi thành Bắc Kinh.

Lúc đó vào lúc cuối thu, khí trời lạnh lẽo.

Nhìn phía trước mặt thấy cả một vùng hoang vắng thê lương, Thuận Trị hoàng đế nhớ lại lúc trước Đổng Tiểu Uyển thủ thỉ bên nhau trong khu rừng cây kia, biết bao nhiêu ân tình thắm đưọm thiết tha cho nên ngài bỗng sinh lòng cảm khái, bước thấp bước cao tiến sâu mãi vào cánh đồng lúa đã ngả màu vàng nhạt. Giữa lúc Thuận Trị hoàng đế mải miết bước thì từ phía xa ngài thấy một nhà sư đầu chốc lở tay cầm một bức hoạ đã rách cuộn tròn, miệng chẳng biết ca bản gì lúc bổng lúc trầm đang dần dần đi tới. Khi tới gần hoàng đế, nhà sư lên tiếng hỏi:

- A di đà phật! Sư phụ đấy ư?

Thuận Trị hoàng đế nghe xong trong lòng không khỏi ngạc nhiên. Ngài tự nhủ:

- Nhà sư này ta đã gặp ở đâu mà tiếng nói quen quá nhỉ?

Nghĩ vậy rồi ngài định thân nhìn lại. Ngài thấy nhà sự ghẻ lở đầy người, mắt phía tả mù, chiếc cà sa đụp và hàng trăm mảnh, đôi chân trần chẳng có giầy vớ gì cả. Ngài ngắm nghía nhà một lúc rồi hỏi lại:

- Người để chân trần như vậy mà không sợ lạnh ư?

Nhà sư bỗng sằng sặc cười lớn lồi nói:

- Lạnh là cái gì?

Thuận Trị hoàng đế bất giác xúc động thiền cơn, trong lòng hoát nhiên đại ngộ. Tiếp đó ngài nói theo:

- Ta là cái gì? Cái gì là ta?

Nhà sư lại nói:

- May thay! May thay!

Thuận Trị hoàng đế nhìn vào bức hoạ hỏi nhà sư xem bức hoạ vẽ cái gì, bỗng thấy nhà sư khóc rống lên nghe rất thảm thiết. Khóc một lúc lâu rồi nhà sư mới lên tiếng:

- Bần tăng vốn tu hành tại chùa Thanh Lương nơi Ngũ Đài sơn. Sư phụ của bần tăng đạo hạnh rất cao, tu luyện đã trên 80 tuổi bỗng một hôm bảo bần tăng rằng: Ngày mai ta sẽ hạ sơn. Bần tăng lúc đó nghe xong, không muốn rời xa sư phụ nên nắm lấy áo người mà khóc oà lên. Sự phụ của bần tăng thấy bần tăng khóc lóc thảm thiết bèn bảo: "Đó là số trời đã định, có khóc cũng vô ích. Ta thấy ngươi có lòng chí thành, ta cho ngươi bức hoạ này. Trong đo vẽ một người không có lông mày. Đợi hai mươi năm sau người đem bức hoạ này xuống núi, tìm vào kinh thành, tự nhiên có kẻ thế người vẽ thêm cặp lông mày cho người trong bức hoạ.

Thuận Trị hoàng đế nghe nhà sư nói có vẻ ly kỳ, bèn tỏ ý muốn xem bức hoạ. Quả nhiên khi mở bức hoạ ra, ngài thấy hình một vị hoà thượng đi chân không, mặt thiếu hẳn cặp lông mày. Ngài xem rồi bèn thò tay vào túi đẹp sau lưng lấy ra một cây bút vẽ thêm đôi lông mày vào bức hoạ.

Nhà sư thấy Thuận Trị hoàng đế thế mình vẽ đôi lông mày xong bèn vội bò xuống mặt đất dập đầu lia lịa, miệng gọi "Sư phụ" và nói:

- Sự phụ của bần tăng có dặn người vẽ cặp lông mày đó chính là hậu thân của người. Nhớ lời dặn đó, bần tăng đợi đến nay đã hai chục năm, bèn hạ sơn để tìm kiếm. Bần tăng phiêu bạt giang hồ đã mấy năm trường mới được gặp Quý đàn việt. Quý đàn việt nếu không phải là sư phụ của bần tăng thì thật không còn ai nữa. Vậy xin sự phụ mau mau trở về núi đi.

Thuận Trị hoàng đế nghe nói lại càng lấy làm lạ, hỏi thêm:

- Thế sư phụ của ngươi hiện nay ở đây?

Nhà sư lại đáp:

- Sự phụ của bần tăng sau khi cho bần tăng bức hoạ thì ngày hôm sau đã viên tịch.

Thuận Trị nghe đoạn, cúi đầu chốc lát, bỗng phá lên cười lớn rồ nói:

- Thôi được, ta theo người cùng đi.

Nhà sư còn nói thêm như để báo một tin mừng:

- Vị nữ bồ tát cũng đã đợi sư phụ lâu ngày ở trên núi.

Thuận Trị hoàng đế hỏi nhà sư vị nữ bồ tát đó là ai thì nhà sư bèn nói đó là vị nữ bổ tát ở chùa Ngọc Tuyền thuở nọ.

Thuận Trị hoàng đế nghe xong, liền nắm tay nhà sư chạy như bay về phía Ngũ Đài sơn.

Về sau, người ta thấy Thuận Trị hoàng đế cùng Đống Ngạc Phi ẩn dật tu hành tại chùa Thanh Lương núi Ngũ đài sơn. Ngô Mai Thôn có một bài thơ tán Phật ở chùa núi Thanh Lương.

Bài thơ đó nói về sự tích Thuận Trị hoàng đế và Đổng Ngạc Phi. Thơ rằng:

Đẹp đôi ngắm cảnh dáng bồi hồi.

Binh phong đá đựng vách chơi vơi.

Sương mai còn ngắm đồng xanh cỏ.

Dưới núi rồng chầu, gió lộng khơi.

Hồi 49 Khang Hi - vua ăn chơi

Tin Thuận Trị hoàng đế xuất gia đầu Phật ở Ngũ Đài sơn truyền tới tai Thái hậu. Bà hối hận quá. Bà không ngờ việc đuổi Đổng Ngạc Phi lại gây ra cảnh xuất gia đầu Phật của con bà. Biết vậy nhưng không còn cách nào hơn, nhất là chuyện này lại cần phải giữ kín, bà chỉ còn lấy cớ lễ Phật đem theo Khang Hi hoàng đế tuần hành núi Ngũ Đài sơn để tìm kiếm. Hoàng thái hậu lên tới nơi, bèn lén tới chùa Thanh Lương, không để lộ hành tung cho một ai biết, nhưng bà chỉ thấy có một nhà sư ghẻ chốc đầy mình, vừa điếc lại vừa mù, hỏi chuyện thì mười câu đến chín chẳng nghe rõ. Bà không còn biết làm sao, đành đứng trước cửa chùa gạt lệ trở về.

Qua năm sau Thái hậu lại quay lên Ngũ Đài sơn lần nữa. Nhưng lần này bà chỉ thấy sơn môn nhà chùa đổ nát quá nửa, nhà sư ghẻ chốc cũng chẳng còn. Bà bèn hạ chỉ trùng tu chùa Thanh Lương coi như ngôi chùa của bà. Về sau, vì tuổi cao sức yếu, đi lại không dễ dàng như trước nên bà cũng chẳng tới Ngũ Đài sơn nữa. Tuy nhiên lòng bà luôn hướng về phía Tây mà nhớ nhung, hối tiếc âm thầm đau khổ một mình trong thâm cung suốt cuộc đời tàn.

Ngày tháng thoi đưa, Khang Hi hoàng đế dần dần lớn lên.

Ngài quả là một nhân vật khôi ngô cường tráng. Vào thời Thuận Trị, Mãn quân đã lần lượt đánh bại Minh tướng Sử Kha Pháp, tiêu diệt bọn con cháu nhà Minh là Phúc Minh hương, Lộ Vương, lại đuổi chạy Vĩnh Minh Vương, đập tan quân của Trịnh Thành Công, thu phục hải đảo Đài Loan. Về sau bọn Bình Tây vương Ngô Tam Quế, Bình nam vương Thiện Chi Tín Thanh, Nam vương Canh Tinh Trung làm phản, Bát Kỳ binh mã cũng đánh cho tan luôn. Bởi vậy, đến thời Khang Hi, quốc nội hết sức thái bình. Lúc đó, Thái hậu mời cho nhà vua hai vị sự phó: một vị người tỉnh Hà Nam, tên gọi Thanh Bàn, còn một vị tên Nguỵ Duệ Giới. Hai vị học sĩ này ngày ngày giảng giải kinh sư cho nhà vua ở Doanh đài. Thái hậu còn mời cả Thi giảng học sĩ Cao Sĩ Kỳ để giảng giải về Tống học. Khang Hi hoàng đế là người hiếu học, ngày ngày giảng luận với các vị học sĩ không biết mệt. Khi về cung ngài lại còn giảng lại cho bọn cung nhân nghe. Bọn này nghe mà chẳng hiểu rõ được ý nghĩa cao diệu, nhưng may được bà thái công chúa chỉ dẫn thêm cho nên họ cũng dần dần hiểu biết thêm ra.

Bà thái công chúa là ai vậy? Bà này chính là cô con gái nhỏ tuổi nhất của Thái Tông hoàng đế, em ruột của Thế Tông hoàng đế (Thuận Trị) và cũng là cô ruột của Khang Hi hoang đế. Chỉ vì bà quá đẹp, tuổi lại nhó, chỉ hơn Khang Hi có sáu tuổi, nên Thái hậu không muốn cho bà ra khỏi cung. Mãi tới năm hai mươi hai tuổi mà bà vẫn chưa từng kén phò mã. Khang Hi hoàng đế đối với bà cô này lại rất thân. Ngay từ lúc còn nhỏ, hai cô cháu đã từng ôm nhau nằm ngủ chung một giường. Nhũ mẫu, bảo mấu, cung nữ, kẻ hầu người hạ chung quanh nhưng ngài chẳng để ý tới ai, chẳng cần đến ai. Mỗi khi tiến cung ngài bèn tìm ngay cô ruột để vui đùa với nhau, đến khi đi học ngài nghe giảng ở thư phòng xong trở về cung thì cũng lại tìm ngay bà cô này để giảng lại. Bà thái công chúa này bụng vốn đầy ắp thi thư. Hai cô cháu thường ngày đàm luận sách vở với nhau, không bao giờ tỏ vẻ mệt mỏi.

Nhân đó, Khang Hi hoàng đế cùng bà thái công chúa này giao tình càng ngày càng thâm hậu. Những lúc vắng người họ thường hay dốc bầu tâm sự cho nhau nghe. Thành thử tuy phận là cô cháu nhưng cả hai hình như quên đi cả luân lý lễ nghi. Rồi đến khi Khang Hi hoàng đế lên mười bảy tuổi ngài cũng cùng cô ruột bầu bạn bên nhau, nhiều lúc đã thấy bộc lộ một cách rõ rệt tình yêu trai gái giữa đôi người. Thái hậu công chúa lúc đó hai mươi hai tuổi thì Khang Hi hoàng đế đã mười bảy. Tuổi đó chính là tuổi của người con gái đang độ tưởng mơ tình dục.

Chẳng ngờ Khang Hi hoàng đế chăm đọc sách quá đó bỗng sinh bệnh thổ huyết. Thái hoàng Thái hậu được tin lấy làm lo buồn hết sức. Bà liền sai mời ngự y tới điều trị. Viện ngự y khuyên nên tĩnh tâm điều dưỡng. Thái hoàng Thái hậu ý muốn nhà vua về cung Ninh Thọ để tự mình săn sóc cho cháu nhưng bà Thái hậu Đổng Giai lại muốn mang ngài về cung để thuốc thang chạy chữa cho con. Khang Hi hoàng đế chẳng nghe theo lời bà mà cũng không nghe theo lời mẹ. Ngài cứ ở lại cung Vĩnh Lạc, ý muốn duy nhất là cô ruột thái công chúa bầu bạn bên mình. Khang Hi còn cấm luôn cả bọn cung nữ, bảo mẫu không được tự tiện vào phòng, bà Thái hoàng thái hậu cho nhà vua nhỏ tuổi còn tính trẻ con nên cũng không ép. Thái công chúa suốt ngày quanh quấn bên giường bệnh. Vua tôi cô cháu kề đùi sát vế, trò chuyện tình tứ cùng nhau. Khang Hi lúc đó con trai đang sức, trông lại có vẻ bảnh bao khêu gợi. Thành thử, lâu ngày sống bên nhau hai người thân mật rồi một buổi đẹp trời, cùng nhau du dương vào cảnh mộng…

Khang Hi hoàng đế hôm đó được thoả thuê nguyện vọng, bệnh của ngài tự nhiên biến mất. Đó là về phía con trai chứ về phía con gái lại khác. Thái công chúa có tật giật mình, trong lòng có vẻ lo sợ, bèn đem chuyện tò tí của mình kể thầm với mẹ. Bà Thái hoàng thái hậu nghe xong, giật mình đánh thót.

Bà vội cho gọi hoàng đế tới trách. Không ngờ Khang Hi hoàng đế, trẻ tuổi hay bạt mạng, định ý phong cho cô ruột làm phi nữ. Ngài bảo với bà nội là nếu không theo lời, ngài chẳng thèm làm hoàng đế nữa.

Thái hoàng thái hậu sợ chuyện xảy ra to, đành phải lặng thinh chiều ý, mặc kệ ngài làm sao thì làm. Về sau khi bà nội mất rồi, Khang Hi hoàng đế bèn hạ một đạo chỉ dụ phong ngay cô ruột làm Thục phi. Khắp triều văn võ thấy thế ai cũng đêu lấy làm quái lạ. Do đó, mới có chuyện một vị quan ngự sử dâng sớ khuyên ngài thu hồi thánh chỉ đem công chúa kén phò mã. Khang Hi hoàng đế xem sớ xong tức giận đến lòi cả con ngươi ra. Ngài nghiến răng nói:

- Cô mẫu đã chẳng phải mẹ của trẫm lại chẳng phải con gái của trẫm, cũng không phải là anh chị em ruột thịt gì của trẫm. Nay phong làm phi tử, để bà khỏi phải xuất cung chịu cảnh khổ cực, có gì mà chẳng được?

Thế rồi từ đỏ, ngài chẳng cần kiêng dè gì nữa, tha hồ phóng túng bạt mạng. Ngài chọn trong đám cung nữ có cô nào đẹp là bày trò mây mưa. Bắt gặp bất cứ cô nào ngài cũng làm hết khỏi nói chuyện xấu hổ mắc cỡ. Cô nào đã bị "sủng hạnh" qua rồi thì tức khắc được phong làm phi tử. Người ta kể không đầy một năm mà số phi tử trong cung đã lên tới bốn mười sáu bà. Đại thần hay tiểu thần có khuyên can ngài bất chấp.

Lúc đó, có một tên thái giám tên gọi Tiểu Như Ý tính tình hết sức khôn khéo giảo hoạt. Hắn ra ngoài phố kiếm mua khá nhiều loại dâm thư ngầm đưa vào cung dâng cho ngài. Bình nhật ngài chỉ nghe Thi Độc học sĩ giảng giải nào kinh, nào sử, chưa từng được xem những loại sách thú vị này, cho nên ngài lấy làm khoái, bỏ cả kinh sử, chỉ vùi đầu vào việc nghiên cứu loại sách này đến hết ngày, sáng đêm. Ngài mê đến nỗi cơm chẳng thiết ăn, đêm chẳng thiết ngủ. Rồi cao hứng, ngài đem bọn phi tử đông đảo kia ra chiếu phép tắc trong sách mà thực hành để thí nghiệm.

Một hôm, hoàng đế ngồi chơi trên phiến đá nơi hòn non bộ trong hồ xem sách. Tên thái giám Tiểu Như Ý đứng hầu bên cạnh. Bỗng một con cung nữ từ xa đi tới. Ngài ngẩng lên, nhìn thấy. Ngài bỗng nảy một ý lạ. Thế rồi ngài đứng dậy len lén chui vào một cái hang trong chiếc giả sơn… Ngài dặn Tiểu Như Ý cứ làm như vậy như vậy… Khi con cung nữ vừa bước tới nơi, Tiểu Như Ý liền nhào ra, rồi chẳng nói chẳng rằng, hắn đưa tay túm chặt lấy đấy vào trong hang Con cung nữ hoảng sợ kêu la inh ỏi, giãy giụa hòng thoát nhưng một cánh tay nào đó đã ôm ghì lấy toàn thân, hết kế trốn chạy. Một lát sau, người ta chỉ còn nghe văng vẳng tiếng rên rỉ lẫn tiếng khóc từ trong hang vọng ra mà thôi.

Con cung nữ đã bị hoàng đế cho ăn xong hối hối hả hả chạy vụt ra ngoài không dám ngoảnh cổ lại nữa. Một con cung nữ khác tới, Tiểu Như Ý lại theo dùng sách cũ mà hành sự giúp nhà vua. Tinh ra hôm đó hoàng đế nhà ta đã ngự đến bốn con cung nữ. Ngài cảm thấy sướng khoái đến phát điên. Tiểu Như Ý lại còn phỉnh nịnh Khang Hi hoàng đế bằng cách mô tả bọn Hán nữ con gái Tàu, nõn nường như thế nào, mềm mại hấp đẫn ra sao. Thôi thì đủ thứ kỳ lạ diễn ra. Hoàng đế nghe xong liền ghi nhớ như sách trong lòng nguyện với mình rằng thế nào cũng phải tim ra để thưởng thức cho bằng được. Có lấn Khang Hi hoàng đế nghe nói trong nhà văn hoạ đại học sĩ Trương Anh và thượng thư Diêu Giang có khá nhiều gái đẹp. Trương và Diêu vốn sui gia với nhau. Mỗi người lấy bảy, tám bà phu nhân, bà nào cũng nõn nà khêu gợi mũm mĩm tình tứ. Vùng Bắc Kinh, có người đã phải nối hứng đặt vè:

Nếu nói gái đẹp.

Phải kể Diêu, Trương.

Mày có nàng Dương (quý phi).

Tao có nàng Tây (Tây Thi).

Hễ thấy là say.

Hồn bay muôn dặm.

Tiểu Như Ý học thuộc bài rồi về cung kể lại cho Khang Hi hoàng đế nghe. Thế là từ đó ngài đâm ra mơ tưởng bọn gái đẹp của hai nhà đến nỗi đêm quên ngủ ngày quên ăn.

Nói đẹp thì phải kể cô tiểu thơ thứ tư của Diêu Giang mới là tuyệt Biết vậy, Trương Anh tới cầu hôn cho con trai thứ hai của mình. Nhị công tử họ Trương lúc đó làm quan đã tới chức Kinh khanh. Lấy được con gái họ Diêu, anh chàng nhị công tử này hí hửng như bắt được vàng. Thôi thì hương, thôi thì hoa, ngày nào cũng như ngày nấy, nhị công tử cung phụng người đẹp thật là muôn phần chu đáo. Chàng và nàng tha thiết quyến luyến nhau, một bước cũng không rời, cả ngày chỉ ở quanh quẩn trong phòng.

Có lần, hôm đó là ngày vạn thọ của bà hoàng Thái hậu. Một đạo thượng dụ ban xuống trước đó mấy bữa buộc các bà mệnh phụ của bọn Hán quan đều phải theo người Mãn nhất loạt vào cung chúc thọ. Thế là đám phụ nữ của hai nhà Diêu, Trương vốn thích xem phong cảnh nơi cung đình, cho rằng chồng mình cũng làm quan tại triều, bèn chiếu theo phẩm trật ăn mặc đàng hoàng rồi vào cung chúc thọ. Hai cô nàng dâu của Trương học sĩ cũng có mặt trong đám đó.

Khi đoàn người vào cung, theo từng ban chúc thọ xong thì Thái hậu truyền dụ ban yến ngay tại nội đình, tiệc xong. lại được qua vườn thượng uyển du ngoạn. Thật là một ngày vui hiếm có! Suốt từ sáng tới lúc lên đèn mọi người mới nhất tề lui ra khỏi cung rồi lên kiệu về nhà. Nhóm đàn bà họ Trương đều nghỉ trên chiếc kiệu sáu người khiêng. Khi về tới nhà, mọi người xuống kiệu, xem lại mới biết thiếu mất Nhị thiếu thái thái, vợ chàng nhị công tử mà lại thừa hẳn ra một cô gái lạ nào đó. Đệ tứ tiểu thơ của nhà họ Diêu bỗng không cánh mà bay? Hỏi tới cô gái lạ kia, thì nàng chẳng hiểu đầu đuôi ra sao cả! Ông quan Kinh khanh được tin chạy tới xem, mới biết em vợ cưng của mình đã bị tráo đổi từ trong cung mất rồi. Tình cảnh đó, thử hỏi ông quan trẻ này làm sao mà chẳng giận, ông bèn quát hỏi cô gái kia om sòm. Trương học sĩ hay chuyện vội chạy tới ngăn con rồi bảo:

- Con chớ có làm om lên! Trong cung mà biết được thì cả nhà này chết sạch đó con ạ?

Ông quan con nghe ông quan bố cảnh cáo hoảng hồn bạt vía, đành câm mồm nuốt giận, lượm đỡ cô gái lạ kia vào trong cho đỡ thiệt. Ít hôm sau người ta thấy hoàng Thái hậu hạ một đạo ý chỉ mà đám mệnh phụ của bọn Hán quan triều đình đọc ý chỉ này chẳng hiểu sao cả, duy chỉ có cha con Trương học sĩ hiểu rõ tự sự nhưng trong lòng chua chát khôn tả nên lời.

Từ khi Khang Hi hoàng đế được thưởng thức cái suối mát của gái Hán rồi thì cái đám tỳ nữ kia (gái Mãn) coi như đồ bỏ đối với ngài. Chẳng được bao lâu, ngài lại cảm thấy buồn chán cảnh cung đình. Ngài bàn tính với tên thái giám Tiểu Như Ý tìm cách cho ngài đi lén ra ngoài cung du ngoạn.

Lúc đầu tên Tiểu Như Ý không dám phụng chi. Nhưng Khang Hi hoàng đế vốn tính ương ngạnh muốn sao là phải được vậy Tiểu Như Ý chẳng vâng chỉ cũng chẳng được nào!

Thế là vua tôi thay đồi quần áo, cải trang thành đôi chủ tớ lẳng lặng lén ra khỏi cung, đi hết đường này đến phố kia để du ngoạn. Hoàng đế bị nhốt trong cung cấm đã mười mấy năm, buồn chán vô vị, nay được chạy nhảy tung tăng giữa kinh thành như con chim số lồng, con cá sút câu, tưỏng không còn gì sướng khoái cho bằng. Ngài đi khắp nơi, khi thi vào quán cơm nhậu nhẹt, khi thi vào tố quỉ tìm hoa. Mỗi lần dạo chơi như vậy cứ tới tối mới rút về cung.

Không ngờ chỉ được mấy bận, bỗng một chuyện khá thú vị xảy ra. Số là hôm đó, Khang Hi hoàng đế cùng Tiểu Nhi Y đang lững thững bước trên con đường Lư Mã Đại bỗng thấy một chiếc xe lừa từ phía trước mặt chạy tới, trong xe có một người đàn bà rất xinh đẹp. Hoàng đế bất giác ngây người đứng ngắm đến nổi bánh xe suýt chạm vào người mà ngài vẫn không hay biết. Người đàn bà trong xe đôi mắt lóng lánh như mặt nước hồ thuỷ nhìn thấy mặt hoàng đế thộn ra như anh ngốc, bất giác cười lên khanh khách. Cái cười giòn dã ấy của nàng lại càng làm cho nhà vua mặt đã thộn lại càng thộn thêm.

Chiếc xe lừa lướt qua rồi tiến ra phía trước. Khang Hi hoàng đế vội đuổi theo sau. Chiếc xe chạy một lát tới cửa Tây Trực môn, trước một căn nhà thì đỗ lại. Hoàng đế cũng đuổi tới kịp nhưng mồ hôi nhễ nhại miệng thở hổn hển. Ngài đã biết nơi ở của người đẹp. Ngài chỉ còn việc bảo Tiểu Như Ý tìm kế sách nào để đem cho kỳ được người đẹp vào cung ngay đêm đó cho ngài. Ngài lững thững trở về cung đợi chờ…

Hồi 50 Khang Hi cuớp vợ nguời

Tên thái giám Tiểu Như Ý vâng ý chỉ của Khang Hi hoàng đế đi thẳng tới cổng nhà người đàn bà vừa để chờ đợi cũng vừa để điều tra. Hắn được biết chồng nàng họ Vệ, có mở một tiệm vải tại đường lộ lớn Lư Mã Đại Nhai. Hôm đó nàng về quê thăm mẹ. Người chồng vốn rất yêu vợ nên có dặn thế nào tôi cũng phải về nhà. Biết được vậy rồi, Tiểu Như Ý bèn bỏ tiền ra mua chuộc tên phu xe, còn hứa thêm là nhất định kiếm cho một chức quan sai vặt trong cung. Tên phu xe sung sướng đến điên người, vội vàng gật đầu đồng ý tiếp tay. Đến giờ, người đàn bà từ biệt mẹ ra cửa lên xe đi. Tiểu Như Ý cũng đẩy một chiếc xe lặng lẽ theo sau. Hai chiếc một trước một sau chạy thẳng vào cung đến mãi công sau Vườn Ngự uyển mới ngừng.

Người đàn bà xuống xe, nhìn thấy phong cành nơi đây đồ sộ nguỵ nga khác hẳn mọi nơi, bất giác giạt nẩy mình. Tên thái giám tiến ngay lại trước mặt và nói cho nàng biết duyên cớ. Hắn còn nói thêm nếu được nhà vua sủng hạnh, thì đến ngay chồng nàng cũng được hương giàu sang phú quý nữa. Người đàn bà này vốn chẳng phải loại trinh tiết đáng trọng gì nên khi nghe nói tới chuyện hoàng đế sủng hạnh, nàng sung sướng đến nhảy lên được. Thế là nàng chịu ngay, và hý hừng bước theo Tiểu Như Ý tiến thẳng vào vườn Ngự uyển bái kiến Khang Hi hoàng đế ở Giáng Tuyết trại.

Nhà vua vừa thấy người đàn bà bước vào, vui mừng không tả xiết vội chạy tới cầm tay và kéo nàng vào lòng mình. Tên thái giám Tiểu Như Ý thấy vậy vội tránh đi nơi khác.

Đêm hôm đó Khang Hi hoàng đế lưu hành ngay tại Giáng Tuyết trại. Ngài chiếu cố tới người đẹp luôn một lèo đến mười hôm, không thèm ra khỏi trại môn nữa. Rồi một đạo Thánh chỉ hạ xuống, phong ngay người đẹp làm Vệ phi. Ngài cũng cho vời chồng của người đẹp vào cung thưởng cho chức ngự tiền thị vệ quan. Vợ chồng nhà này thường qua mặt hoàng đế ngấm ngầm thì thụt với nhau. Vệ phi có điểm đặc biệt là trong người nàng luôn luôn tiết ra một mùi thơm phức ai ngửi thấy cũng phải khoái thích mê luyến. Những nơi nàng đi qua thường phảng phất mùi hương không tan, người ở xa cũng có thể ngửi thấy. Những áo lót của nàng quyện mùi hương hết sức nồng nàn, giặt đến mấy cũng không hết. Mỗi khi nàng tắm, nước tắm còn lại phát ra một mùi thơm ngát, đến nỗi bọn cung nữ không muốn đổ đi nữa.

Nhân đó hoàng đế sủng ái thật hết sức đặc biệt. Ngài thường gọi nàng là Hương mỹ nhân. Không ngờ Vệ phi mới vào cung có bảy tháng đã sanh hạ một thằng bé mập mạp kháu khỉnh tiếng khóc giòn đã to lớn. Hoàng đế ngài lấy làm yêu quý vô ngần. Bởi yêu mẹ nên ngay từ lúc thằng bé mới sinh hoàng đế đã có ý muốn lập làm thái tử. Ngài đặt tên thằng bé là Dân Trinh. Về sau, nó này trở thành Ung Chính hoàng đế.

Thời đó, bọn cung nữ được Khang Hi hoàng đế lâm hạnh nhiều lắm, và cũng khá nhiều cô sinh con. Vệ phi sợ đám anh em đông đảo này tranh nhau, nhất là con nàng lại đích thị là con của người chồng cũ, thảng hoặc có kẻ điều tra ra, thì khó lòng làm được thái tử cho nên nàng thường khẩn cầu với hoàng đế về vụ này. Khang Hi hoàng đế vị nể nên cung vui lòng đáp ứng, nhưng Dân Trinh còn nhỏ tuổi quá, bởi vậy việc lập thái tử tạm đình lại, ít năm nửa sẽ xét.

Nhưng trong số ít năm đợi chờ đó, nhà vua còn sáng tạo ra biết bao chuyện phong lưu kỳ thú nữa. Bao nhiêu việc lớn của triều đình ngài phó thác cho vài vị cô mệnh đại thần trong số này có một vị tên Ngao Bái, tính tình hết sức gian ác độc địa. Bái ỷ thế mình là lão thần của tiên hoàng nên quát tháo doạ nạt cả hoàng đế. Khang Hi có khuyên y từ từ bàn tính thì y cũng bất chấp, lại còn doạ cáo quan. Y ngấm ngâm kết bè lập đáng nhân hối lộ, tập trung quyền hành vào tay mình.

Một hôm Ngao Bái cưỡng bức nhà vua phái phong cho ông nội y làm Trần quốc công nhưng nhà vua không chịu. Bái lấy làm giận lắm, mặt hâm hầm nói:

- Thần chịu trọng trách cố mạng, thế mà xin có một việc nhỏ cũng không được, vậy làm đại thần mà làm gì?

Nói xong Bái đập mạnh xuống bàn một cái thị oai rồi hằn học tính bước ra khỏi điện. Lúc đó, đứng cạnh có một vị lão thần tên gọi Mã Ni Cáp Đặc cười nhạt nói:

- Còn quý đại thần mở miệng nói cố mạng, đóng miệng nói cố mạng, vậy xin hỏi ngài có thủ chiếu của Tiên đế không đã?

Ngao Bái nghe nói liền quay lại hỏi ngược lại vị đại thần kia:

- Quý đại thần có thủ chiếu của tiên đế không mà dám hỏi câu đó?

Mã Ni Cáp Đặc nghe hỏi gật đầu rồi thanh thả rút tờ thủ chiếu trong tay áo ra. Khang Hi hoàng đế xem tờ thủ chiếu mới biết là thủ chiếu của tiên đế, phía trong còn có ngự ấn đóng son đỏ chói và ghi tên "cố mệnh đại thần" duy chỉ có mình Mã Ni Cáp Đặc mà thôi. Thế là Khang Hi hoàng đế nổi cơn hung, quát bảo Ngự tiên thị vệ bắt trói Ngao Bái tức khắc, giao cho Hình bộ thấm vấn kết tội mạo xưng cố mạng đại thần, hỗn xược khi quân.

Thấy hoàng đế bắt tội tên gian ác, bọn ngự sử cũng dâng lên một tờ sờ nói Bái phạm có đến hai mươi tội lớn. Tức thì hoàng đế hạ chỉ, sai đem Bái ra ngoài chợ chặt đầu chính pháp.

Sau khi giết Ngao Bái, Khang Hi hoàng đế bèn nghĩ tới việc lập thái tử để về sau khỏi bị bọn đại thần quây phá lôi thôi. Rồi cũng vì việc lập thái tử này ngài nhớ lại lời khẩn cầu của Vệ phi. Nhưng ngài lại nghĩ rằng mình có đến ba mươi lăm hoàng tử cả thảy, nếu lấy đệ tứ hoàng tử Dân Trinh, e rằng bọn này không phục chăng. Theo lý ra Dân Nhung tuổi lớn hơn cả, tự nhiên được lập làm thái tử. Nhưng Vệ phi lại là người được sủng ái nhất, chẳng lẽ lại làm cho nàng phật ý. Vừa đi vừa nghĩ bất giác ngài đã tới cung Thuý Hoa. Vệ phi chạy ra tiếp giá, đón vào nội viện. Khi vào bên trong ngài thấy hai chiếc lồng bên trong có rất nhiều chuột bạch, mỗi lồng ước tới hai trăm con. Ngài bèn hỏi thì Vệ phi tâu nói là nước Xiêm La vừa đem triều cống nên để đó.

Khang Hi hoàng đế nhìn hai lồng chuột, sực nhớ lại chuyện mình vừa tính, bèn sai người cho gọi đệ nhị hoàng tử và đệ tứ hoàng tử vào cung. Một lát sau, nhị hoàng tử là Dân Nhung, tứ hoàng tử là Dân Trinh vâng chiếu có mặt. Muốn thử xem tâm địa của hai hoàng tử, nhà vua bèn thưởng hai lồng chuột cho hai người. Hai vị hoàng tử bưng lồng chuột tạ ơn rồi ra về.

Qua ngày hôm sau, ngài cho mấy tên nội giám thân tín ngầm tới cung hai vị hoàng tử để dò xét nghe ngóng. Khi trò về, bọn nội giám tâu rằng:

- Nhị hoàng tử khi về tới cung liền tha cả lồng chuột, còn bảo nhốt chung tội nghiệp mất hết tự do chi bằng thá quách.

Tứ hoàng tử lại khác. Khi về tới cung, tứ hoàng tử bèn đem hai trăm chuột chia làm ba đội dạy chúng đánh lộn. Con nào không nghe theo lệnh tức thì đập chết. Chơi kiểu đó, mới được một ngày, hai trăm chuột bị đập chết không còn một mống.

Khang Hi hoàng đế nghe tâu xong, bỗng nhiên sinh lòng chán ghét Dân Trinh vô hạn. Do đó, bèn có ý muôn lập Dân Nhung làm thái tử. Ngài bèn ngầm sai người gọi Đại học sĩ Minh Châu tới để thương lượng. Minh Châu cũng hết sức đề cử nhị hoàng tử. Thế là Khang Hi hoàng đế quyết định xong.

Cách ít hôm, mọi người thấy một đạo Thượng dụ hạ xuống lập Dân Nhung làm thái tử, một mặt đưa Dân Nhung vào ở trong Đông cung. Bá quan văn võ đều dâng sớ chúc mừng. Hoàng đế ban yến ngay điện Sùng Chính. Bên Đông cung thì thật là vô cùng náo nhiệt, trái lên bên Thuý Hoa cung thì lại hoang vắng lạnh lẽo hết sức. Hai mẹ con Vệ phi ngầm sai người gọi quan thị vệ vào cung bàn tính. Thị vệ quan bảo Vệ Phi:

- Xưa kia, vợ chồng ta hoà thuận sung sướng biết dường nào. Thế rồi bà bị tên hôn quân này cướp đem vào cung. Lúc đó, ta nghĩ tới chuyện giết hắn. Nhưng chỉ vì trong bụng bà còn có cái bào thai năm tháng cho nên ta nghĩ một khi hạ sanh trai tất ngày kia nó phải được nối ngôi làm vua, và ta trở thành vua cha. Nay con ta không được làm vua nữa, điều đó cũng chẳng sao bởi vì ta đã có chủ ý. Thế nào nó cũng được làm vua ta mới nghe.

Nói quyết vậy xong, họ Vệ còn bàn tính với Vệ phi một lúc lâu nữa mới ra về. Vệ phi lại cho gọi Dân Trinh tới, bảo theo họ Vệ xuất cung du ngoạn. Họ Vệ đem Dân Trinh về nhà mình rồi ngầm sai người mời một nhà sư Lạt Ma tới truyền thụ bản lãnh bùa chú luyện khí cho Dân Trinh.

Họ Vệ lại còn mời rất nhiều võ sĩ vê nhà để luyện võ cho Dân Trinh, nào múa đao đánh thương, nào dương cung bắn tên, nào là đủ lối đánh quyền nội ngũ hành, ngoại ngũ hành gì gì nhiều lắm. Dân Trinh vốn tính trẻ con, hiếu động ham chơi, bởi thế rất khoái các ngón đấm đá. Hằng ngày, Trinh lẻn ra khỏi cung để luyện tập võ nghệ làm vui. Hơn nữa, Dân Nhung được phong lam thái tử, Dân Trinh tỏ ý bất phục. Trinh càng cố gắng luyện võ cho có bản lĩnh rồi sẽ tìm cách cướp ngôi hoàng đế của anh. Trinh ở trong cung đem ý này nói với bọn anh em Dân Đế tám người. Bọn này cũng vốn ghét Dân Nhung, nên khi nghe Dân Trinh nói vây thì khoa chân múa tay, lấy làm khoái chí lắm, rồi cùng theo Trinh ra ngoài luyện võ chuẩn bị để đâm chém một keo. Bọn Dân Trinh, Dân Đế, Dân Ngay, Dân Đường còn lập một cơ quan, ngầm sai người đi mời các Tiêu sư ở các Tiêu cục về truyền thụ võ nghé. Tin tức đó loan ra, tức thì những tay hảo hán giang hồ ùn ùn kéo tới. Dân Trinh nhờ được mẹ là Vệ phi giúp đớ, bèn lấy tiền của trong Đại nội ra để chu liệu. Nhờ đó, Trinh mời được rất nhiều tay hảo hán nổi danh đương thời: nào là Độc tý Kim Cương Thiết Toái Lý, nào là Lãm Hai Giao, Điên hoà thượng, tên nào tên nấy đều kỳ quái, ghê khiếp cả.

Bên ngoài, bọn này làm cho thiên hạ một phen náo loạn cả lên, thế mà trong cung Khang Hi hoàng đế và thái tử Dân Nhung y như người nằm trong trõng chẳng nghe biết tý gì.

Hồi đó, Khang Hi hoàng đế có mời một nhà sư gọi là Diệu Giác hoà thượng. Nhà sư này rất thông thạo kinh điển, lại giỏi thuyết pháp. Ngài đưa vào ở trong lĩnh thất Doanh đài để ngày ngày thuyết pháp. Nghe nhiều, ngài cũng có đôi phần lãnh ngộ.

Thái tử Dân Nhung thì theo Đại học sĩ Minh Châu nghe giảng giải văn học. Minh Châu vốn bà con thân thích với hoàng đế, tuy làm đến tướng quốc, nhưng Minh Châu dốt bất thòng vặn mặc, chỉ nhờ tính giảo hoạt khôn khéo, đã từ chức nhỏ Bộ tào leo lên tới chức Đại học sĩ. Y biết nhà vua và thái tử chú trọng về thơ phú, bèn gọi một số đông văn nhân về cung đốn đầy đù để cho họ làm thơ, làm văn rồi nhận lấy là của minh đem dâng vào cung. Nhà vua và thái tử rất lấy làm khen. Nhân dịp. Chảu liền khuyên nhà vua cố gắng sáng tạo một sự nghiệp văn học để làm cái kế lưu danh muôn thuở. Bọn văn sĩ đại thần như Trưong Anh, Nguy Duệ Giới thấy vậy, cũng hùa theo:

- Xin nhà vua thiết lập Tu thư quán. Bọn này với Minh Châu vốn đã thông đồng với nhau từ trước, bởi vậy trước mặt Khang Hi hoàng đế, họ hùa nhau khải tấu để thực hiện cho kỳ được.

Thế là hoàng đế hạ chỉ, thiết lập Tu thư quán, triệu thỉnh văn nhân bốn phương, biên soạn các sách Khang Hi tự điển, Tử sinh tinh hoa, Bội văn vận phủ.

Con trai của Minh Châu tên gọi Nạp Lan Dung Nhược thường đến Tu thư quan, hề thấy ai có tài thì biếu tiền, tặng vàng, mời về phù sáng tác văn chương thay cho cha mình.

Có một hôm Minh Châu tướng quốc ngồi hầu chuyện hoàng đế ở Tây thư phòng. Khi nói tới một đoạn chuyện cũ trong sách Trang Tử Nam hoa kính, hoàng đế bèn cho gọi một tên nội giám đi lấy cuốn sách này. Tên thái giám đi lấy, nhưng không lấy cuốn Trang Tử Nam hoa kính mà lại lấy nhầm cuốn Lão Tử Đạo đức kinh, hoàng đế bực mình, giậm chân chửi tên thái giám là "đồ ngu" rồi quay sang bảo Minh Châu:

- Cái lũ ngu này, thật là chán. Xưa nay thường nói "tay ngọc thêm hương đọc sách khuya" thì không biết cảnh tượng đó tuyệt biết dường nào! Trẫm nghĩ rằng người con gái tay ngọc thêm hương ấy hắn chẳng thô lỗ như bọn này. Trẫm tính tuyển mấy đứa con gái nhà tử tế, không hiểu thi thư đưa vào cung làm nữ quan, trông coi thư phòng cho trẫm, há có nên chăng?

Minh Châu nghe ý kiến đó, về nhà lập tức sai người tới vùng Tô, Hàng chọn mua một số gái đẹp, mặt mày xinh xẻo, chưa có bó chân của các gia đình nghèo đem về nuôi trong biệt thự của mình rồi mời thầy dạy học đủ thơ phú văn chương.

Bọn gái đều vào tuổi mười ba, mười bốn; được cái trời cho thông minh, nên chưa đầy bốn, năm năm, mà thi ca, từ khúc múa hát, đàn địch, thảy đều thông thạo. Lúc đó, chúng đã lên mười bảy, mười tám cả. Đứa nào đứa nấy đều xinh đẹp quyến rũ. Trong số đẹp nhất phải kể Kiều Hạnh, Tân Mai, Thanh Đào, Lệ Phương. Bốn đứa này quả thiệt quốc sắc thiên hương, nghiêng thành đổ nước. Tướng quốc Minh Châu khoan khoái trong lòng cho rằng chuyến này có thể làm đẹp lòng được vị hoàng đế khả kính của mình. Thế rồi Châu sửa soạn để đưa bốn trang tuyệt sắc mỹ nhân này vào cung.

Hồi 51 Khang Hi hoàng đế tuần du phuơng nam

Tướng quốc Minh Châu tính đưa bọn gái đẹp vào cung cho Khang Hi hoàng đế. Không ngờ có kẻ nào đó đến mách với tướng quốc phu nhân, bảo quan ông lấy một lúc những ba mươi sáu cô hầu thiếp hiện đang để ở biệt thự ngoài thành tây để ngày đêm thủ lạc. Bà tướng quốc vốn thuộc loại sư tử Hà Đông, vừa nghe xong, tức thì tam bành lục tặc nổi lên. Bà chẳng cần hỏi kỹ; bắt đóng xe đưa bà đi ngay tới biệt thự ngoài thành tây. Bà không thấy quan ông ở đây mà chỉ thấy một ông giáo già. Ông giáo già lật đật đem ba mươi sáu cô gái ra bái kiến. Bà tướng quốc đưa mắt nhìn một lượt thấy cô nào cô nấy như hoa như liễu. Bà chẳng nói một lời nào, chỉ bảo ông giáo già rút lui. Lúc đó, bà mới cho gọi hết các cô lại gần để quan sát và hỏi han cẩn thận. Trong bọn con gái, bà thấy có mười hai cô đẹp nhất. Bà liền cho giữ lại rồi lập tức truyền lệnh bày tiệc thiết đãi. Bọn con gái này vừa mới lớn lên nào đã biết gì, nói nói cười cười ăn uống say sưa bí tỉ. Bà tướng quốc thiết đãi xong bữa tiệc, bèn lấy xe về phu.

Mọi người thấy phu nhân đi đi về về, chẳng giận mà cũng không vui, không nói mà cũng chẳng cười đều tỏ ý kỳ lạ. Có ngờ đâu ngày hôm sau, vào lúc tảng sáng, người ta đã thấy mười hai cô gái tuyệt sắc được biệt đãi hôm qua đã nằm chết cong queo trên giường từ lúc nào. Tân Mai, Lê Phượng, Kiều Hạnh, Thanh Đào, bốn ả cũng chẳng thoát được vận số. Đến lúc rõ chuyện, quan ông tướng quốc chỉ còn biết thở vắn than dài, cho vác mấy cái xác đi chôn chứ còn biết làm gì được hõn nữa. Từ đó quan ông sợ quan bà đến vở vía, vội đem hai mươi bốn cô cô còn lại nhất tề cho chở về quê quán hết. Nhưng rồi cũng từ đó giữa quan ông và quan bà tình nghĩa mỗi ngày mỗi nhạt, mỗi ngày mỗi cay cú ghét bỏ. Quan tướng quốc suốt ngày chỉ uống rượu làm thơ với bọn tân khách, không thèm đặt chân tới cửa buồng the của bà nhà nữa.

Khí quan ông được lệnh Đông cung triệu vào đàm luận văn chương, quan tướng quốc lại có dịp bầu bạn với đám tao nhân mặc khách, kể cũng khuây khoả đôi phần. Thái tử vốn đối tốt với ông cho nên thường giữ ông ở lại trong cung.

Hồi đó có một vị tổng đốc Vân Quý tên gọi Phạm Thừa Động về kinh bệ kiến thấy hoàng đế và thái tử trở thành hai con mọt sách, bèn dâng lên một tờ sớ ý nói bản triều lấy việc mã thượng mà được thiên hạ, thiết tưởng con cháu không nên bỏ phế võ công. Khang Hi hoàng đế vốn trọng Phạm Thừa Động nên khi đọc xong tờ sớ lập tức truyền chỉ mở trường luyện từ cỡi ngựa bắn cung trên Liễu đê trong vườn Sương Xuân Uyên. Lúc đó thái tử cùng các hoàng tử Dân Trinh, Dân Đề, Dân Nga, Dân Đường đều đứng trước phụ hoàng đợi chỉ. Hoàng đế bèn hạ lệnh cho thái tử và bọn hoàng tử từng cặp so tài bắn cung và các loại binh khí. Trong số hoàng tử xem ra chỉ có Dân Trinh là bản lãnh cao cường hơn hết. Thái tử Dân Nhung bản chất văn nhược nên việc đao cung có chiều thua xa, thậm chí cung bắn đến ba tên mà chả có tên nào trúng đích khi đua ngựa trên Liễu đê (bờ đê có trồng liễu hai bên), thái tử lại cũng thua nữa.

Khang Hi hoàng đế thấy vậy bực tức quá, bèn cho gọi võ sư của thái tử tới quở trách ngay trước mặt. Vị võ sư vô cùng xấu hổ, đến cả thái tử cũng xấu hổ không kém. Khi về tới Đông cung, thái tử tập họp các vị sư phó lại để bàn luận.

Giữa lúc đó, có một tên nội giám vào báo cho thái tử biết bọn hoàng tử Dân Trinh, Dân Nga có lập một võ trường ở ngoại thành để ngày đêm luyện tập. Thái tử giật mình kinh sợ. Một vì sư phó đề nghị:

- Nếu vậy, chi bằng ta cho mời mấy nhà sư Lạt ma ở Tây Sơn về dạy bí pháp bùa chú, và cả những tay dũng sĩ về truyền thụ mười tám ban võ nghệ cho thái tử. Như thế tất không còn phải lo ngại gì nữa.

Thái tử nghe xong lấy làm hợp lý lắm, lập tức cho xây cất mật thất và võ trường ngay trong Đông cung rồi ngày ngày theo nhà sư Lạt ma và các võ sư tới luyện tập.

Thái tử còn sai người đi khắp nơi bỏ tiền ra để mời những tay võ sĩ hiệp khách về cùng sớm hôm giúp việc luyện võ. Cũng vì vậy nên thành Bắc Kinh hồi đó tụ tập không biết bao nhiêu là tay hảo hán. Họ thường ra phố nhậu nhẹt chán rồi gây sự. Viên quan địa phương biết mà vẫn phái làm ngơ.

Giữa lúc tình trạng đua tranh đến lúc khẩn trương thì bỗng Vệ phi chết. Khang Hi hoàng đế cố nhiên là thương xót vô cùng. Ngay cả viên quan thị vệ họ Vệ cũng bi thương không kém. Họ Vệ bèn lui ra khỏi cung bày mưu lập kế cho Dân Trinh hãm hại thái tử.

Từ khi Vệ phi mất, Khang Hi hoàng đế đâm ra chán cả mọi sự, sống trong cung điện chẳng thấy thú vị gì nữa.

Tuy trong tam cung lục viện có biết bao nhiêu cung tần mỹ nữ bầu bạn bên cạnh nhưng đối với ngài thực chẳng có ai bằng được Vệ phi. Suốt ngày ngài thở vắn than dài ăn không ngon ngủ không yên. Có khi ngài nhớ tới Vệ phi lại cũng có khi ngài nhớ phụ hoàng của ngài.

Lúc đó, quan tài của Vệ phi được đưa ra quan ngoại mai táng. Khang Hi hoàng đế vẫn nhớ tới tình xưa nghĩa cũ bèn lấy danh nghĩa thăm viếng Phục lang để đưa linh cữu Vệ phi tới chôn cât ở Sơn Hải quan. Chính ngài đốc suất xây lăng đắp mộ.

Công việc tang ma đã xong, nhưng Khang Hi hoàng đế không muốn trở về cung. Ngài bèn hạ chỉ Nam tuần, lấy cớ là đi quan sát tình cảnh khổ cực của dân. Ngài lại hạ chỉ sai thái tử Dân Nhung lo việc quốc giám.

Sau đó, ngài cùng với văn võ đại thần, vương công bối lặc chọn đúng ngày mồng một tháng chín niên hiệu Khang Hi thứ hai mươi ba khởi trình ra khỏi kinh đô. Quan đại học sĩ Trương Anh cùng với nội đại thần Giác La Vũ Truất Nạp, thống lĩnh khắp triều văn võ tiễn đưa xa giá Nam tuần.

Lần đi tuần du này hoàng đế hạ chỉ cho các châu huyện trên đường ngài đi qua vẫn phải làm việc như thường, không được đón rước cung đốn, nếu trái chỉ sẽ bị cách chức và hỏi tội. Ngài ngồi trên một chiếc thuyền nhỏ của dân chúng lặng lẽ chèo tới chân núi Ngũ Đài sơn, ngồi kiệu lên núi rồi ngừng lại nơi chùa Thanh Lương.

Nhà sư trụ trì chùa này thấy nhà vua đến bất ngờ, sợ muốn chết, vội vội vàng vàng chạy ra tiếp giá và mời vào phương trượng. Bọn nội giám đã chuẩn bị sẵn đèn nhang, mời ngài lễ Phật. Lễ xong Khang Hi hoàng đế bèn hỏi:

- Trẫm nghe nói đã từ lâu có một vị cao tăng tu tại chùa. Vậy nay ở đâu?

Nhà sư trụ trì hồi đáp:

- Tâu bệ hạ! Vị cao tăng hiện thiền toạ trong thảo xá trên ngọn núi cao. Có nhiều đàn việt muốn qua thăm nhưng người đều từ chối.

Khang Hi hoàng đế nói:

- Trẫm nhất định phải lên yết kiến ngài bằng được.

Nói đoạn, ngài bảo bọn thị vệ và nội giám ở lại chùa, chỉ ngài với một chú tiểu sa di dẫn lộ leo ngược lên chóp núi, theo đường mòn quanh bên tả, rẽ lên hữu: vất vả lắm mới tới nơi.

Hoàng đế mồ hôi toát ra nhễ nhại, đành phải ngồi lại dưới gốc cây cổ thụ nghỉ mệt. Ngài phóng tầm mắt ra xa, thấy một toà thảo xa, bèn đứng dậy bước tới. Một chú tiểu đồng từ trong ngôi nhà đi ra hỏi, nhưng ngài không đáp, chỉ quay lại hỏi chú tiểu sa di xem vị cao tăng ở trong căn nào trong thảo xá.

Chủ tiểu chỉ vào căn bìa bên phải, ngài bèn chạy tới chỉ thấy một vị hoà thượng râu tóc bạc trắng nhắm mắt ngồi xếp bằng tròn trên một chiếc bồ đoàn.

Khang Hi hoàng đế chăm chăm nhìn vị hoà thượng một lúc lâu, rồi bỗng không nhịn được nữa, bèn chạy vụt vào miệng thốt lên một tiếng "phụ hoàng", đổi gối quỳ gập xuống mặt đất.

Vị hoàng thượng nghe gọi mở mắt ra nhìn, nhưng rồi lại từ từ nhắm mắt, không nói lời nào - Người ta chỉ biết Khang Hi hoàng đế sau đó thì thào những gì không rõ, một lúc lâu mới cáo biệt xuống núi. Đi đến giữa đường, ngài dặn dò chú tiểu chớ có phao tin ra ngoài, đồng thời trông nom vị cao tăng nọ cho chu đáo thì tương lai thế nào cũng có chỗ đẹp. Chú tiểu sa di vốn tính thông minh, bèn nói: "Tuân chỉ".

Khang Hi hoàng đế rời khỏi núi Ngũ Đài sơn bèn hướng về ngả Tế Nam tiến phát. Vì ngài có chỉ cấm hẳn địa phương đón rước cung đốn, cho nên khi ngài tới hành cung Tế Nam quan Tuần phu Sơn Đông Tiền Ngọc suất lĩnh các tỉnh văn võ quan viên lớn nhỏ tới thỉnh an chiếu lệ rồi đều trở về phủ nha làm việc như thường.

Khang Hi hoàng đế chờ cho bọn quan lại đi hết rồi, bèn cải trang thường phục rồi cùng một tên thị vệ thân tín lẻn ra cửa sau, tới một quán nhỏ uống trà để hỏi dò dân tình phong tục hành vi của quan lại mãi tới lúc trời xế chiều, ngài lại mới lẻn về hành cung.

Cơm tối xong, ngài cùng với quan tướng quốc Trương Ngọc Thư chong đèn đánh cờ. Hai người vốn là hai tay cao cờ nên gặp lúc kỳ phùng địch thủ thật không còn gì thú vị hơn nữa.

Cuộc cờ kéo dài mãi tới nửa đêm mà hai tay cờ vẫn còn hăng tiếp. Nhà vua giơ cao một con cờ, và giữa lúc đang say sưa xuất thần, bỗng ngài nghe tiếng ngựa hí người la ngoài tường. Bọn thị vệ và nội giám ai nấy mặt đều biến sắc. Hoàng đế một mặt hạ tay đặt mạnh con cờ xuống bàn, một mặt sai nội giám ra ngoài tra hỏi. Một lát, tên nội giám trở vào tâu:

- Tâu bệ hạ! Con ngựa Xích Ký của bệ hạ buộc ở hậu viên đã bị trộm lấy rồi!

Khang Hi hoàng đế nghe xong cả giận, ngẩng mặt bảo Trương Ngọc Thư:

- Con Xích Ký vốn do bộ lạc Khách Nhĩ Khác triều cống đấy! Đã bảy, tám năm nay, trẫm chưa hề xa nó một ngày. Không ngờ tới nơi này thì bị mất trộm. Tên trộm nào đó kể cũng táo gan thật, chẳng biết lão Tiền ở địa phương này đã làm được những việc gì nhỉ?

Mấy lời nói này, khi truyền tới tai Tiều tuần phủ đã khiến cho họ Tiền bạt vía kinh hồn, tưởng như trời đất sắp sụp đổ đến nơi. Sáng hôm sau, Tiền tuần phủ vội vã tới hoàng cung, tự bỏ hết mũ mãng, quỳ mọp ở ngoài cổng để đợi chỉ, một mặt nhờ nội giám vào trong cầu khẩn Trương tướng quốc thế mình xin tội trước Hoàng đế. Nhưng không ngờ sáng mai thức dậy, hoàng đế đã quên bẵng chuyện mất ngựa tối qua rồi. Báo hại quan tuần phủ Tiền Ngọc phải bỏ ra đến một ngàn lạng bạc mua một con ngựa màu vàng lúa, bộ mã khá tốt, bước đi hay lắm, để đem dâng hoàng đế. Chưa hết, ông còn phải bỏ thêm năm vạn lạng bạc hối lộ bọn nội giám thị vệ để nhờ bọn họ nói tốt cho mình trước mặt hoàng đế.

Qua ngày thứ ba, Khang Hi hoàng đế lại lên đường, hướng về tỉnh Giang Tô tiến phát. Tiền Ngọc tiễn hoàng đế ra khỏi thành xa đến mấy dặm mới trở về. Ông vừa bước vào nha môn thì đã thấy một hàng chữ viết trên tường từ lúc nào, chính giữa công đường: "Kẻ trộm ngựa của nhà vua đó là Đậu Nhị Đôn tỉnh Sơn đông!"

Tuần tiễu phủ xem hết câu, bất giác giật mình đánh thót một cái. Ông tức tốc hạ lệnh đóng ngay cổng thành để ruồng bắt. Ruồng bắt đã mười ngày mà tuyệt nhiên chẳng thấy Đậu Nhĩ Đôn hình bóng nơi nào.

Đậu Nhĩ Đôn vốn một tay đại hán nổi danh tỉnh Sơn Đông.

Suốt một giải Sơn Đông, Trực Lệ, Hà Nam, Đôn hoành hành chằng coi quan quân, pháp luật ra gì. Cái khoái nhất của Đôn là gian dâm với phụ nữ. Con gái người ta đang ngủ trong phòng tới nửa đêm, Đôn dỡ ngói nhảy xuống bắt cóc. Vừa đặt chân vào phòng, hắn đã bảo ngay cô gái: "Đậu gia gia lại rồi đó, hãy ưng thuận đi nghe không?" Nếu cô gái bằng lòng ưng chịu, tức thì hắn lấy chăn quấn lại cặp nách mang đi. Hắn phi thân nhảy ra, rồi chạy một mạch về nhà tha hồ mà gian dâm. Sau khi thoả mãn, hắn lại cho vào chiếc chăn quấn chặt mang về nhà cô gái, bỏ vào phòng như cũ. Người con gái cài lại then cửa, rồi lên giường nằm ngủ như lúc đâu hôm, coi như không có chuyện gì xảy ra. Thật là người chẳng biết, quỷ không hay. Nhưng nếu cô gái giữ lòng trinh bạch không chịu. Đôn giết chết ngay, hoặc cũng có khi cướp mang về nhà rồi không bao giờ thả ra nữa. Bởi vậy, những cô gái dù có xảo quyệt tinh quái đến đâu cũng đành phải nhẵn nhục, mặc tình hắn làm gì thì làm. Tuy thế, đôi khi Đôn cũng cho những gia đình nghèo túng khá nhiều tiền bạc. Bạn hữu của Đôn rất đông ở vùng Tế Nam, thảng hoặc có kẻ giang hồ mãi võ ngang qua tỉnh thành, ắt thế nào cũng phải tới thăm viếng hắn trước. biếu xén chút ít thì lúc đó có làm ăn gì mới mong trót lọt, trái lại nếu không biết mà qua mặt thể nào hắn cũng mang huynh đệ của hắn tới đánh phá cho một phen đến tới bời hoa lá không còn cách gì làm ăn được nữa.

Bỗng một năm nọ, có một ông lão đầu lâu tóc bạc đem hai cô con gái tuyệt đẹp đến thành Tế ngay tại miếu Thái Ngạc. Hai cô gái này đều nhỏ nhắn xinh xinh, mặc một chiếc áo xanh, một chiếc quần hồng, đi đi lại lại, múa võ làm vui khiến khán già đứng xem ai cũng mê hồn lạc phách. Thế mà đến lúc xin tiền đều quái lạ nhất là khán giả ai cũng lắc đấu nghẹo cổ rồi rút lui sạch, chẳng một ai cho một đồng kẽm nào. Ông lão chưng hửng ngạc nhiên, cúi đầu buồn bực vô hạn. Giữa lúc đó bỗng có một tên đại hán lướt tới trước mặt ông lão giơ cao bàn tay to tướng y như chiếc nạng đập mạnh xuống hai ông lão rồi quát lớn.

- Thằng giặc già này! Mi có nhận ra Đậu Nhĩ Đôn đất Sơn Đông này không?

Ông lão nghe quát, liền quay đầu lại ngước mắt nhìn tên đại hán từ đầu tới chân lại từ chân tới đâu hai ba lần thấy hắn đứng ưỡn ngực liếc méo hẳn đôi mắt, một tay chống mạng vào sườn, một tay mân mê hai viên đạn sắt. Ngắm nhìn một lát để đo dò xong, ông lão trả lời với giọng khinh khi lạnh nhạt:

- Ai thèm biết đến mi là Đậu Nhĩ Đông, Đậu Tam Đôn mà làm gì? Huống hồ ta làm ăn theo nghề nghiệp của ta, biết đến mi cũng vô ích!

Câu trả lời của ông lão làm cho Đậu Nhĩ Đôn mở to mắt. trợn trừng con ngươi, những đường gân xanh ở trên mặt nổi hẳn lên như những chiếc dây thừng. Hắn chẳng để cho ông lão nói thêm, giơ thẳng cánh thoi cho một đấm vào giữa ngực ông lão như trời giáng.

Hồi 52 Cất chức viên tri huyện

Ông lão đầu râu tóc bạc thấy Đậu Nhĩ Đôn giơ thắng cánh giáng quyền vào ngực mình, song ông không thèm đỡ mà cũng chẳng thèm tránh. Đậu Nhĩ Đôn càng hăng tiết, đấm luôn một hơi ba đấm. Điều kỳ quái đối với hắn là ông lão vẫn ngồi yên như chẳng có chút gì tỏ ra đau đớn hoặc sợ hãi. Bọn huynh đệ của Đôn đứng đằng sau thấy chuyện lạ, mặt ngây ra tỏ ý hoảng sợ hết sức, Đôn mắc cỡ quá vội đem bọn huynh đệ rút lui, mặt tên nào tên nấy teo lại như cái bị rách. Ông lão sau đó cũng thu lượm đồ đạc rồi quay về khách điếm an nghỉ.

Nửa đêm hôm đó, giữa lúc ông lão đang ngủ say, có một bóng người nhảy vù từ bên ngoài qua cửa sổ vào phòng. Khi vừa đặt chân vững phía trong, cái bóng đen tay cầm chắc con dao nhọn hoắt, nhè đầu ông lão chém mạnh xuống một nhát, tiếng dội lên nghe chát chúa. Có ai ngờ được cái bóng đen chém như vậy mà ông lão kia vẫn thản nhiên nằm ngủ như không có chuyện gì xảy ra, tiếng ngáy nghe như sấm. Tên thích khách bị một phen hoảng hồn, đứng thộn người ra.

Mãi một lúc sau ông lão mói dần dần tỉnh lại, mở mắt thấy Đậu Nhĩ Đôn còn đứng ngây người ở trước giường bèn nói với một giọng bình thản:

- Thằng bé nào ở đâu tới phá giấc ngủ của ông nội nó đó?

Đậu Nhĩ Đôn đến lúc này đã quá sợ, hai chân mềm ra như bún, vội quỳ phịch xuống đất miệng khấn cầu ông lão nhận hắn làm đồ đệ. Ông lão lúc đầu ngơ đi, chẳng thèm trả lời. Đôn tái tam khẩn cầu, đập đầu lia lịa dưới đất, lúc đó ông lão mới khứng chịu. Thế rồi hôm sau ông lão mang hắn đi, và từ đó, người ta còn trông thấy Đậu Nhĩ Đôn ở đất Tế Nam nữa.

Năm năm sau, lại thấy Đậu Nhĩ Đôn trở về với một cô vợ tuyệt đẹp. Người Tế Nam ai cũng nhận ra đó là cháu gái của ông lão đầu râu tóc bạc ngày nọ.

Ông lão này họ Thạch, vốn là bộ tướng của vị tướng quân nhà Minh Trương Thương Thuỷ. Người con gái đó là cháu ngoại của ông. Sau khi Trương tướng quân thua chạy, ông bèn đem hai người con gái, giả danh mãi võ để triệu tập anh hùng hào kiệt bốn phương mong khôi phục lại Minh triều. Thế rồi khi gặp Đậu Nhĩ Đôn xin nhập môn làm đồ đệ, ông bèn mang cà một kho võ nghệ truyền thụ cho Đôn. Ông còn đem cả cô cháu gái gả cho Đôn nữa, và khuyên Đôn từ nay về sau nên ăn ở sao cho trở thành người tốt. Ông cũng không quên giao cho Đôn nhiệm vụ chiêu tập bọn huynh đệ ở quê nhà để chờ cơ hội mà phục thù cho Minh triều.

Khang Hi hoàng đế Nam tuần chuyến này có qua địa phận Tế Nam. Đôn cho rằng cơ hội đã tới bèn đưa vợ con vào ẩn tạm trong rừng sâu rồi ngay đêm hôm đó, dùng khinh công dạ hành nhảy vào hành cung định hành thích vua Thanh.

Trong khi rình mò, Đôn thấy phía sau viện có con ngựa Xích Ký tốt quá. Đôn vốn tính thích ngựa coi ngựa tốt như mạng mình nên khi thấy đã bèn tính đánh trộm trước đã rồi sau sẽ hay. Con ngựa thấy có người tới trộm giật mình hí vang trời và cấp đá tứ tung. Bọn thị về vội vã chạy ra xem thì chỉ kịp thấy Đôn đã nhảy lên lưng phóng nước đại như bay, thoắt một cái đã xa đến mấy dặm rồi. Đôn đem ngựa vào giấu mãi tận trong rừng sâu xong mới ra ngoài thành lần nữa, nhưng Khang Hi hoàng đế đã đăng trình về phía Tô Châu rồi.

Thuyền của nhà vua qua Đan Dương, Thường Châu, Vô Tích, đều không đậu bến nào. Đúng ngày hai mươi sáu tháng mười thì Khang Hi hoàng đế tới Hữ Dã quan tỉnh Tô Châu. Quan tuần phủ Giang Tô là Thang Bân đem tất cả nha lại ra tiếp giá. Khang Hi hoàng đế cưỡi ngựa đi qua cửa thành, dân chúng trăm họ quỳ hai bên đường phố nghênh đón. Nha vua truyền lệnh bảo dân chúng đứng lên. Khi thấy ông già bà cả, trẻ nít con côi, nhà vua nhảy xuống ngựa, lại gần hỏi han. Ngài đi bộ tới cầu tiếp giá, trước chùa Thuỵ Quang, ngồi nghỉ chốc lát, rồi có quan tuần phú dẫn lộ vào xem một xưởng dệt.

Hồi đó có một vị tên gọi Tổng Mục Trọng đã từng làm phủ đài tỉnh Giang Tô, nay đã cáo lão về vườn hiện ẩn cư tai thành Tô Châu. Nhà vua bỗng nhớ tới ông, vội cho người đi kiếm ông tới hành cung để trò chuyện giai khuây. Qua ngày hôm sau, nhà vua sai bọn nội giám đưa biếu họ Tống bốn con dê sống, tám con gà trống thiến, tám cái đuôi hương lộc, hai mươi bốn bao thịt nai khô và bốn bao cá khô. Ngài lại còn truyền chỉ bảo họ Tống cách nấu đậu hũ để cho ông lúc về già lấy kế sinh nhai.

Qua ngày thứ ba, quan tuần phủ tới hành cung thỉnh an nhưng từ phía trong truyền ra bảo thánh cung không được khoẻ , nhất thiết quan nha miễn vào bái kiến. Thực ra đó chỉ là lời thoái thác, chứ hoàng đế có đau yếu gì đâu. Ngài đã từ sáng sớm đi cùng tên thị vệ thân tín lẻn xuống một chiếc thuyền con vào trong các thôn xóm hoặc thị trấn du ngoạn rồi.

Có một hôm, thuyền của nhà vua cập bến cầu Thất Lý, trong vòng thành huyện Hoa Đình. Khang Hi hoàng đế bước lên bờ thấy một quán rượu cất ngay bên cạnh cầu, tên tiểu nhị đang đứng bên quầy hàng. Ngài bèn thả bộ vào quán.

Tiểu nhị chạy lại hỏi khách. Ngài bảo lấy ba xị rượu rồi ngồi một mình độc ẩm. Một lúc sau, thấy khách trong quán đã lui hết, ngài bèn gọi tiểu nhị lại ngồi cạnh hầu chuyện. Ngài hỏi tên tiểu nhị:

- Người làm ăn vất vả cả ngày như vậy, tiền công được bao nhiêu?

Tên tiểu nhị đáp:

- Công xá của bọn tôi ít ỏi lắm. Bọn tôi chỉ nhờ vào chút tiền thưởng khi bán rượu mới đủ sống. Thực ra số tiền thưởng này góp nhóp lại kể cũng khá. Nhưng từ khi Kim đại lão gia đáo nhiệm tới nay thì ngài quyên thu hết, khiến bọn tôi chẳng còn được một cắc tiền thưởng nào nữa. Hiện nay bọn tôi chỉ còn nhờ vào số tiền công mạt rệp này nên không biết lấy gì độ nhật đây.

Nói xong, tiểu nhị thở dài, tỏ vẻ chán nản. Hoàng đế cúi đầu để suy nghĩ điều gì đó. Lát sau bỗng ngài hỏi tiểu nhị.

- Trong thành này, có vị quan nào lớn hơn viên quan huyện không?

Tiểu nhị đáp:

- Mấy hôm nay nghe nói có đức vạn tuế ngài tới, nên tỉnh phái một vị đề đốc đại nhân đem quân đến đây để bảo vệ.

Khang Hi hoàng đế biết vậy, liền bảo tiểu nhị lấy bút đem lại Ngài viết mấy chử xong đóng cái dấu nhỏ rồi bỏ vào bao thơ dán kín. Ngài gọi tiểu nhị bảo:

- Người đem bao thơ này tới nha môn của quan đề đốc. Ta với quan đề đốc vốn chỗ bạn thân. Một khi bao thơ này đến tay ngài, ta tin chắc bọn ngươi khỏi phải đóng tiền quyên nữa.

Tiểu nhị nghe bảo, nhưng đời nào dám làm theo. Về sau viên chưởng quỹ thay hắn liều mạng ra đi. Đặt chấn tới cổng nha môn của quan đề đốc, viên chưởng quỹ thấy bọn sai nha tàn ác dữ tợn mà phát hoảng. Y còn hoảng sợ hơn khi chúng hỏi y tới có việc gì. Viên chưởng quỹ lật đật thò tay vào trong bọc, rút bao thơ ra, tay run run đưa cho chúng. Bọn nha lại thấy chỉ là một bao thơ thường nên nhận xong rồi ném đại vào trong phòng. Viên chưởng quỹ thấy bọn chúng xem thường vội bảo người khách đưa thơ cần hồi âm ngay. Bọn sai nha vẫn bất chấp, chẳng thèm để ý. Tên Chưởng quỹ vật nài, ba bốn lần nữa thì vừa may một vị nhị gia từ bên trong bước ra. Bọn sai nha bèn đưa bao thơ cho vị này để đưa vào cho quan đề đốc.

Bao thơ đưa vào trong, chỉ một lát sau bỗng mọi người nghe ba tiếng pháo nổ vang trời. Tức thì cửa chánh môn mở toang.

Đề đốc đại nhân đích thân le te chạy ra tiếp đón viên chưởng quỹ vào trong một cách vô cùng trịnh trọng. Bọn sai dịch lúc nãy đứng hai bên mặt mày ngơ ngác, miệng há hốc chẳng hiểu sự thể ra sao. Quan đề đốc vội vàng đốt đèn nhang sáng rực cả công đường. Ông đặt bao thơ lên trên hương án, rồi đứng ngay ngắn phía trước làm lễ Tam quy cứu khấu. Lễ xong, ông quay lại chắp tay trịnh trọng lạy viên chưởng quỹ ba lạy. Viên chưởng quỹ chẳng hiểu ra sao, vội quỳ xuống đáp lễ mãi không thôi. Quan đề đốc, sau đó cho người đi gọi ngay viên tri huyện Hoa Đình. Viên tri huyện chẳng biết chuyện gì vội vàng đội nón mặc áo, leo lên kiệu, tức tốc ra đi. Quan đề đốc vừa thấy mặt Kim tri huyện bỗng sa sầm nét mặt, hét một tiếng "Quỳ xuống nghe chỉ". Kim tri huyện hoảng hồn bạt vía, vội nằm bò xuống đất không dám động cựa.

Quan đề đốc bước tới vài bước, cầm bao thơ mở ra tuyên đọc:

"Tri huyện Hoa Đình Kim Vũ, hối lộ tham nhũng khiến dân hết đường sinh sống, nên Trẫm giao cho quan đề đốc bối xích lại ngay và đợi chỉ. Khâm thử".

Kim tri huyện chưa nghe hết, mặt hắn đã xám ngoét như cục đất thó. Bọn sai nha được lệnh, trước hết lột mũ, rồi sau mới còng tay và đẩy tắp vào nhà lao.

Hạ ngục viên tri huyện xong quan đề đốc bắt đem kiệu tới, leo lên ngồi trên, cho cả viên chưởng quỹ cùng ngồi, chạy như bay tới cầu Thất Lý. Nhưng khi quan đề đốc bước vào tửu điếm thì hoàng đế đã ra đi từ lâu. Quan đề đốc vội truyền lệnh cho các pháo thuyền khắp nơi đều phải đuổi gấp để bảo vệ nhà vua. Ngự thuyền chỉ là một chiếc thuyền nhỏ, mà pháo thuyền lại thuộc loại lớn kềnh càng đồ sộ cho nên quan đề đốc tìm kiếm mất mấy ngày phí công mà vẫn chẳng thấy, trái lại, chỉ làm cho địa phương này náo động lên một phen mà thôi.

Khi Khang Hi hoàng đế đến Tô Châu, bọn quan lại ở đây mới biết rằng ngài vừa mới du hành ra ngoài, ông nào ông nấy lũn cũn chạy tới hành cung thỉnh an. Ở lại ít hôm, hoàng đế lúc đó mới trở gót về kinh, khi đi qua Giang Minh, ngài bỗng sực nhớ tới quan chức Tào Dần, bèn truyền dụ cho Dần tới tiếp giá. Dần đưa ngài về Nha môn Chức tạo. Dần vốn là một quan viên sai khiến của nhà vua, điều lý các việc. Hoàng đế đãi ngộ Dần như một vị thân thần. Mẹ của Dần là Tôn thị, lúc trẻ cũng có vào cung.

Sau khi tiếp giá, Tào Dần và hoàng đế trò chuyện vui đùa y như người trong nhà. Hoàng đế lại còn triệu bà Tôn thị ra mắt ngài, rồi cả đến bọn cháu chắt thảy đều được ban thưởng rất nhiều tài vật. Ngài lại viết ba chữ "Huyện thuỵ đường" để thưởng cho Dần.

Dần có cái vườn hoa rất lớn. Hoàng đế ở lại đây vài hôm nữa rồi xa giá mới thẳng về Bắc Kinh.

Trong khi vua cha Khang Hi Nam tuần thì thái tử Dân Nhung ở nhà Giám quốc được yên ổn, không có chuyện gì xảy ra. Nhưng vốn là một "con mọt sách", suốt ngày chúi mũi vào đống sách, cho nên việc triều chính thẩy đều phó mặc bọn đại thần, thân vương bối lặc lo liệu, duy chỉ có hoàng tử Dân Trinh, vì thấy vua cha tuần du khỏi kinh thành, càng ngày càng tỏ ra phóng túng bạt mạng, chẳng đếm xia gì tới luật pháp. Bỗng một hôm, thái tử Dân Nhung ra Nam Uyển đi săn, ngẫu nhiên thấy một đội thị vệ cưỡi ngựa từ phía Nam chạy tới, hộ tống một chiếc xe, phía trước có rất nhiều nghi trượng lại có cả bọn sư Lạt ma cầm pháp khí đi trước dẫn đường. Thái tử tưởng lầm là Khang Hi hoàng đế đã trở về, vội chạy lại đón giá. Chẳng ngờ người ngồi trên xe chỉ là tứ hoàng tử Dân Trinh. Nhung lấy làm bực lắm, song lại nghĩ tới tình nghĩa anh em nên đành tránh ra bên cho đoàn xe ngựa của Trinh đi qua.

Đợi đến Khanh Hi hoàng đế về triều, thái tử Nhung diện kiến vua cha mới đem việc tứ hoàng tử mạo dung nghi trượng hoàng đế tâu lên. Hoàng đế nghe xong tức giận lắm, liền phái người tới thu hết đồ nghi tượng, lại còn gọi Dân Trinh vào cung, chửi mắng cho một trận nên thân.

Bị một mẻ chua cay tứ hoàng tử Dân Trinh hậm hực oán hận lắm, về nhà thu xếp hành lý, đem thêm mấy tay võ sư, ra khỏi kinh thành, chạy thẳng về hướng Tây Nam.

Trong lúc đi đường Trinh bảo với bộ hạ là cả bọn quyết đi đất chạy bộ chứ nhất định không dùng xe dùng ngựa, như thế một là để tập luyện gân cốt, hai là để tìm kiếm anh hùng hảo hán ở dọc đường. Trinh cùng bộ hạ đi đến chân núi Trung Sơn vào trọ trong lữ điếm thì lúc đó trời cũng vừa tối. Bọn võ sư cùng bọn thị vệ thấy trăng trong gió mát nên ngồi cả trước thềm để vừa ngắm trăng vừa nói chuyện vãn với nhau, Trinh một mình ở trong phòng buôn quá, bèn lẻn ra ngoài tản bộ.

Về phía đông lữ điếm có một khu rừng tùng, trăng chiếu ánh lung linh. Dưới mặt đất, bóng trăng không chiếu tới được nên hình ảnh mập mờ. Trinh khoanh tay, từ từ bước tới cạnh khu rừng. Bỗng tai Trinh nghe có tiếng gió lộng vù vù. Trinh gấp rút đi tới và vòng một vòng ra trước thì thấy trên một khoảng đất trống về mé đông khu rừng có một nhà sư tay cầm thiền trượng đang múa tít loang loáng dưới trăng.

Trinh xem nhà sư múa một lát cảm thấy chân tay ngứa ngáy nên liền tuốt yêu đao, xông vào vòng chiến. Nhà sư thấy có người đánh trả mình bèn múa cây thiền trượng vèo vèo lúc ẩn lúc hiện như một con rắn vây bọc lấy đối thủ. Trinh đem hết tài nghệ luyện tập lâu nay ra ứng phó, nhưng đánh đã một lúc lâu mà vẫn không tìm được cách nào để hạ thủ.

Rồi thủ pháp của Trinh mỗi lúc thêm bấn loạn, tay chân Trinh đã có phần tên mỏi rã rời, trong lúc đó cây thiền trượng của nhà sư càng lúc càng nhanh, càng lúc càng bám sát lấy Trinh. Trinh thấy thế giật mình biết nhà sư này chẳng phải tay vừa.

Trong lúc Trinh còn đang suy nghĩ để so đo đánh giá thì cây thiền trượng đã như một trái núi Thái Sơn từ trên cao vụt tới chỉ cần nghe tiếng gió cũng đã nghe ghê hồn rồi.

Trinh hoảng quá, vội nhảy lùi ra sau mấy bước, rồi bỗng quỳ xuống đất miệng kêu: "Xin sư phụ tha mạng". Nhà sư thu cây thiền trượng, hồ hố cười lớn đoạn quay mình tới gốc cây tùng lượm gói đồ lên, co chân phóng đi. Trinh đời nào chịu bỏ, vội đuổi theo. Khi tới gần, Trinh vội ôm cánh tay nhà sư, khẩn khoản xin nhà sư cho làm đệ tử. Nhà sư nghe lời Trinh có vẻ thực thà, liền nhìn Trinh từ đầu tới cuối rồi gật đầu ưng chịu.

Trinh như mở cờ trong bụng, vội quay về khách điếm kể lại cho bọn tuỳ tùng nghe mọi việc vừa xảy ra rồi bảo chúng quay trở về kinh chờ đợi. Còn Trinh thì theo chân nhà sư ra đi. Hai thầy trò ngày đi đêm nghỉ, trèo núi vượt đèo, trải qua không biết bao nhiêu đường đất. Bình sinh Trinh đâu phải nếm cảnh gian lao khố cực như thế này nhưng vì muốn học tập bản lãnh, cho nên đành phải nhẫn nại chịu đựng. Hai người đi như vậy đã nhiều ngày bỗng một hôm tới một ngọn núi cao. Thầy trò cùng trèo lên. Khi tới được đỉnh núi thì Trinh đã mệt nhoài, mồ hôi ra như tắm. Nhà sư co chân bước những bước vừa cao vừa dài tới một chóp núi. Một toà miếu lớn hiện ra, mé trên cửa treo tấm biển viết ba chữ lớn: "THIẾU LÂM TỰ". Mãi lúc đó Trinh mới rõ sự thể, và từ đó về sau Trinh theo sư phụ, cùng bọn sư huynh sư đệ ngày ngày luyện tập.

Trinh sống với bọn đồng môn nơi đây mười phần hoà thuận. Có kẻ hỏi Trinh lai lịch quê quán thì Trinh chỉ bảo mình quê ở Bảo Định Phú còn câu chuyện hoàng tử, hoàng cung Trinh tuyệt đối giữ kín không cho ai hay. Trinh có tật xấu là ăn quá nhiều khiến bọn đồng môn ai cũng cười Trinh và đem sánh với vị sư phó trước đây.

Vị sư phó của họ tên gọi Chính Giác. Lúc mới tới chùa, Chính Giác chỉ là một nhà sư nấu bếp. Chính Giác ăn quá nhiều. Mỗi lần cùng ăn cơm với bọn đồng môn, Chính Giác ăn không được no, chỉ lưng lửng phần nào, miệng còn chép chép muốn ăn thêm. Bởi vậy, Chính Giác tính chuyện trộm đồ ăn thừa còn lại trong bếp đem giấu trong một khẩu chuông cổ bỏ đã lâu đời đằng sau viện, để lúc vắng người ra đó ăn thêm. Khẩu chuông cổ này bằng đầu người, nặng có tới ngàn cân, vứt ở trong xó viện đã từ lâu lắm, không ai có thể xê dịch nó nổi. Chính Giác trời sinh có một sức mạnh như thần. Ông nâng lên đặt xuống khẩu chuông như cầm bát cơm vậy. Về sau, nhà sư trông coi việc bếp nước thấy hôm nào cũng mất đồ ăn, bèn len lén điều tra. Nhà sư này theo dõi Chính Giác tới sau viện thì bắt được quả tang Chính Giác đang nhấc bổng khẩu chuông lên để đặt gói đồ ăn trộm ở nhà bếp vào trong. Thế là chuyện vỡ lớ. Mọi người ai nấy đều ngạc nhiên. Vị hoà thượng trụ trì cho gọi Chính Giác tới, khuyên không nên lấy trộm cơm nữa, và hứa cho ăn thả cửa, thật no đủ thì thôi. Hoà thượng trụ trì lại hỏi Chính Giác có một thần lực như vậy, tại sao không đi đầu quân phò vua giúp nước thì Chính Giác đáp:

- Đệ tử nghe nói trên núi Nga Mi có một vị Thái sư phó tinh thông quyền thuật. Môn bách bác thần quyền của ngài được coi vô địch. Nhưng ngài chỉ chuyên truyền thụ cho đệ tử Phật môn mà thôi. Đệ tử không có vị hoà thượng trụ trì tên tuổi nào giới thiệu cho nên ngài chẳng chịu thu nhận. Nay sư phó cấp cho đệ tử một phong thư giới thiệu giúp đệ tử tới núi Nga Mi học thành tài trở về, đệ tử không bao giờ dám quên đại đức của sư phó.

Vị hoà thượng trụ trì thấy Chính Giác thành tâm cầu học, nên viết ngay bức thư giới thiệu. Chính Giác cầm thơ đi thẳng tới núi Nga Mi, mãi tám năm sau mới về thì vị trụ trì đã mất. Thế là toàn thể tăng ni trong chùa tôn Chính Giác lên làm trụ trì.

Nhà sư Chính Giác, quyền pháp quả thực cao cường, thiên hạ đều biết tiếng. Số môn đệ tới Chùa xin lãnh giáo, tăng có, tục có lên tới hơn một ngàn người, người nào người nấy đều được Chinh Giác hoà thượng tận tâm chỉ bảo. Hoàng tử Dân Trinh hồi đó cũng theo bọn môn đệ cố công luyện tập. Tạo luyện hơn một năm ròng rã, Trinh đã lãnh hội được môn bách bát thần quyền. Trinh bèn xin sư phó trở về nhà.

Sư phó Chính Giác gật đầu, và sau đó cho gọi 108 nhà sư môn đệ vây Trinh vào giữa để hai bên tỷ đấu quyền thuật.

Đứng trước 108 địch thủ Trinh không hề có chút sợ hãi. Trinh phải lần lượt đấu hết người này tới kẻ kia. Bọn địch thủ đấu càng về sau càng hung dữ khiến Trinh phải đem hết công lực và tài nghệ chống đỡ mới thoát hiểm. Cuối cùng Trinh đã đánh lui được đủ 108 người sát hạch mình.

Theo quy lệ của chùa Thiếu Lâm thì hễ ai nhập môn vào chùa đều phải có lệ nghinh tống (đón rước và tiễn đưa): khi vào chùa, được học nghề, phải bốc nổi cái chuông đã đặt ở ngay trước cổng rồi cố sức mang được vào bên trong thì lúc đó mới được thu lưu. Kẻ nào không làm nổi thì nhà chùa nhất định không nhận. Rồi đến khi học đã thành tài muốn ra khỏi chùa để hạ sơn, bắt buộc phải qua ba từng cổng. Cống thứ nhứt có tám vị hoà thượng tay cầm dao chực sẵn. Đánh thoát được cổng thứ nhất mới tới cổng thứ hai. Cổng này có tám vị hoà thượng tay cầm gậy chực sẵn. Đánh thoát được cổng thứ hai rồi lại còn cái cổng chót, là cống thứ ba. Cổng thứ ba có tám vị hoà thượng đứng chờ, không có binh khí, nhưng dùng quyền cước tấn công, tám vị hoà thượng này đều là những tay võ có bản lĩnh cao cường, quyền pháp tinh thông, thoát khỏi được không phải là chuyện dễ. Người muốn ra phải theo ngưỡng cửa mà ra. Bởi vậy, Dân Trinh đã muốn hạ san, ắt không thể nào không theo qui củ của nhà chùa. Trinh bèn tung mình qua từng cửa thứ nhất, may sao tránh được đao của bọn hoà thượng. Qua từng cửa thứ hai Trinh đang tìm cách thoát đi, thì vừa lúc ngoài sơn môn chạy tới một đám đông thị vệ và nội giám. Bọn người này chính là bọn thủ hạ của Trinh trở lại tìm chủ. Đến lúc đó, cả bọn tăng tiểu trong chùa mới biết Trinh là một vị hoàng tử. Nhà sư trụ trì bèn quát bảo mọi người lui ra rồi đích thân đưa Trinh ra khỏi chùa.

Theo ý của Dân Trinh thì nhất định phải đánh phá cho kỳ được ba từng cửa mới ra. Nhưng hoà thượng Chính Giác không cho, còn nói:

- Đường đường một vị hoàng tử, con không nên quá cố chấp và liều lĩnh.

Khi tạm biệt, hoà thượng Chính Giác tặng Trinh một cây thiền trượng bằng sắt, bảo để dùng làm kỷ vật về sau. Lại nói:

- Bản lãnh của hoàng tử đã có thể tung hoành thiên hạ. Nhưng nếu gặp nữ nhân, nên đặc biệt cẩn thận đề phòng.

Dân Trinh nhất nhất lĩnh hội, rồi cáo biệt xuống núi. Khi về tới vùng Sơn Tây ngụ tạm trong khách điếm, bỗng nghe có tiếng quát tháo om sòm bên ngoài. Trinh cho người chạy ra hỏi xem, mới biết một tên đại hán đang muốn đánh chết một người nào đó, trong khi khách qua đường xúm lại cố khuyên hắn bớt giận. Tên đại hán ấy chẳng những không nghe ai mà còn quát lớn:

- Ta vốn là võ sư của đương kim điện hạ. Nếu ta có gây ra án mạng thì đã có điện hạ của ta lo liệu chứ ta đâu có sợ gì.

Lời nói hách dịch đó quả đã khiến Dân Trinh cả giận. Trinh cầm cây thiết trượng chạy tới, thì một cảnh tượng vừa thương tâm vừa đáng giận hiện ra trước mắt. Trên mặt đất, Trinh thấy một người nằm cong queo giữa đường, đầu vỡ máu chảy lênh làng, chết tự bao giờ. Đứng phía trước là một tên đại hán, một tay chống nạnh, tay kia chỉ vào thây người chết, mặt hầm hầm giận dữ, miệng bô bô chửi rủa. Chung quanh, một số đông khách qua đường xúm lại tạo thành một cảnh vô cùng huyên náo.

Hoàng tử Dân Trinh đẩy đám đông lách vào trong rồi tiến lên hỏi tên đại hán. Không ngờ, hắn càng làm tàng, gân cổ nói phách:

- Lão gia đây muốn đập chết đứa nào thì cứ đập. Lão gia đang chờ đứa nào tới vuốt râu cọp. Mi liệu có ba đầu sáu tay không mà dám nhảy vào hỏi lão gia?

Dân Trinh chưa nghe tên đại hán nói hết câu, máu hoả đã bốc cao ngút, liền cất cao cây thiền trượng múa một vòng rồi đập mạnh vào sọ hắn. Một tiếng "bốp" vang lên, tức thì tên đại hán ngã quay đơ ra đất, đầu vỡ, máu vọt ra có vòi, nằm ngất lịm như kẻ chết rồi.

Cảnh tượng xảy ra quá đột ngột khiến bọn chưởng quỹ, tiểu bảo trong khách điếm sợ hãi cuống cuồng, ùa nhau chạy tới nắm lấy áo Dân Trinh không chịu buông. Trinh bèn cho một tên thị vệ theo bọn tiểu bảo tới huyện nha thụ lý bản án, còn mình thì rời khỏi địa phận Sơn Tây trở về Bắc Kinh.

Khi về tới nhà, Dân Trinh thấy có một số đông kiếm khách và Lạt ma tăng tới thăm hỏi. Nhân lúc vui tiệc, Trinh cho mọi người nghe chuyện mình đánh chết tên võ sư như thế nào. Bỗng một vị Lạt tăng trong cử toạ lên tiếng nói:

- Không xong rồi! Võ sư đó vốn là một tên tâm phúc của thái tử. Gia đình hắn có chuyện nên xin thái tử về quê ở Sơn Tây. Nay hắn bị chủ tử đập chết, thái tử đời nào lại chịu bỏ qua mà không can thiệp chứ?

Dân Trinh nghe xong, chẳng thèm để ý, liền quát bảo lấy thêm rượu. Hôm đó uống quá nhiều, Trinh say bí tỉ. Bọn thị vệ phải xúm lại khiêng vào phòng trong. Ngủ một giấc mãi tới nửa đêm Trinh mới tỉnh lại, miệng khát đòi nước.

Tên thị vệ vội dâng chén nước sâm. Trinh đang định giơ tay đỡ lấy thì bỗng thấy từ ngoài cửa sổ một đạo bạch quang bay vụt vào chạm ngay giữa song cửa đánh rầm một tiếng, rồi lại quay vút ra ngoài. Trinh vội tuốt lẹ cây bảo kiếm đeo bên hông tên thị vệ. Vừa định chạy ra, bỗng thấy một vị Lạt ma hối hả chạy vào, tay lắc lắc ra dấu, miệng thầm bảo Trinh:

- Bên ngoài đang kịch chiến ác liệt, hoàng tử hãy coi chừng.

Trinh vội lôi tên thích khách từ đâu tới thì vị Lạt ma tăng lắp bắp nói được hai tiếng: "Thái tử", rồi im bặt. Một đạo bạch quang lóe sáng như điện chớp lại từ bên ngoài cửa sồ bay vút vào, tạo thành một chuỗi âm thanh ghê rợn. Một tiếng "phập" chát chúa vang lên. Trinh vội nhìn vào chỗ phát ra âm thanh thì đó là một cây bảo kiếm bị ném đã cắm sâu vào thành giường cán còn lắc lư rung động, lưỡi kiếm phát ra những luồng sáng xanh lóe đến lạnh người. Vị Lạt ma tăng vội nắm áo Trinh kéo sang một bên, đồng thời thổi tắt hết đèn đóm trong phòng.

Bên ngoài, gần khắp cả khuôn viên, tiếng binh khí chạm nhau loảng xoảng chứng tỏ cuộc so gươm đấu chưởng kinh hồn đang diễn ra. Một lúc lâu sau người ta mới thấy tiếng binh khí xa đi và mất dần.

Lúc này trời đã sáng và Trinh cũng đã tỉnh rượu. Trinh bèn mở cửa viện ra xem thì thấy cây cối trong vườn bị kiếm chém rụng hết, cành lá trơ trọi chẳng khác gì những cái cán cờ dựng đứng lên trời. Trên mặt đất nằm la liệt những tử thi.

Trinh quan sát cẩn thận mới hay đó là xác đám tay chân thái tử, ngoài ra cũng có xác một số kiếm khách của Trinh nữa.

Hoàng tử Dân Trinh thấy tình hình như vậy, lấy làm căm phẫn lắm, lập tức triệu tập bọn kiếm khách và võ, sư lại để bàn tính trả thù. Vốn là những tay cao thủ võ lâm, cả bọn đều hăng hái quyết tử, đồng thanh nói:

- Xin cho phép bọn tôi đêm nay tới Đông cung, quyết lấy cho kỳ được đầu thái tử về nạp cho chủ tử.

Trình bèn sai dọn tiệc. Cả bọn cơm no rượu say rồi kẻ nào kẻ nấy giắt dao, xách kiếm lên đường. Thế rồi cả đêm hôm đó, đám bách tính có nhà ở gần hoàng thành chỉ nghe thấy tiếng đao kiếm rộn ràng, ào ạt như tiếng gió gào, tiếng mưa thét làm vang động cả một góc trời.

Qua ngày thứ hai, người ta chỉ thấy bọn nội giám trong Đông cung tất tưởi ra ngoài phố mua tới hơn chục cổ quan tài đem về. Bên Đông cung đã thế thì bên phủ của Dân Trinh cũng chẳng thua gì. Ở đây, người ta cũng thấy bọn thị vệ hối hả ra chợ mua khá nhiều áo quan khiêng về phủ.

Nguyên lai chuyện ác chiến hôm đó, thái tử đã sớm dò được tin tức, cho nên một mặt ẩn trốn vào nơi kín đáo, một mặt đặt bọn kiếm khách phục sẵn khắp trong Đông cung..

Cuộc ác đấu này đã lượm hết mỗi bên hơn mười mạng. Từ đó, mối thù giữa thái tử và Ung vương càng ngày càng thắt, khó lòng gỡ nổi.

Thái tử Dân Nhung biết chẳng chóng thì chầy hoàng tử Dân Trinh cũng sẽ trả thù. Bởi vậy, Nhung cho người mang theo vàng bạc ra khỏi kinh thành, tới các miền như Sơn Tây, Hà Nam, Sơn Đông, mời các vị cao thủ võ lâm về để bảo hộ cho mình. Ung vương được tin đó, bèn thảo luận với bọn thủ hạ kiếm khách, cũng đi mời các tay võ hiệp bản lãnh cao cường về để so tài cao thấp với phe Đông cung. Trong bọn có một vị Lạt ma tăng khuyên Dân Trinh nên đích thân xuất kinh phỏng tầm, một là để tránh tai mắt Đông cung, hai là để kết liên với bọn giang hồ hành hiệp. Ung vương nghe lời nói có lý, bèn đem theo vài tên thị vệ võ sư lại ngầm lén ra đi.

Trên đường đi, Ung vương Dân Trinh chú ý tới hành vi của những anh hùng hảo hán, và cũng gặp được một vài tay.

Trong bọn này, có một người tên gọi là Bạch Long đạo nhân, rất lợi hại về môn phóng phi đao, có thể lấy thủ cấp người đứng xa trăm bước như chơi. Trinh bèn xin Bạch Long đạo nhân truyền thụ ngón võ tuyệt luân này lại cho mình thì vị đạo nhân trả lời:

- Võ công này của bần đạo chỉ dành riêng cho mình, chứ không thể truyền cho người khác. Nếu chủ tử muốn học thì phải học sư phụ của bần đạo tên là Cam Phượng Trì, một đại hiệp vùng Giang Nam mới được.

Ung vương vốn mộ tiếng Cam Phượng Trì đã lâu, nên nay nghe Bạch Long đạo nhân nói vậy, bèn theo gót tới Giang Nam phỏng tầm. Khi tới đất Kim Lăng, Ung vương được tin hiệp sĩ họ Cam đang ở trong nhà một vi thân sĩ họ Kim. Vương bèn theo Bạch Long đạo nhân tới nhà họ Kim để bái kiến…

Cam Phượng Trì hiệu xưng là Giang Nam đệ nhất hiệp. Quyền pháp của họ Cam có đủ bí quyết của lương gia nội ngoại. Suốt cả hai miền Đại Giang nam bắc không ai có thể thắng nối họ Cam. Cam Phượng Trì hay can thiệp những chuyện bất bình. Bởi vậy, các bậc thân sĩ miền Giang Nam thường luân phiên mời ông ta về nhà, bầy rượu ngon, tiệc hậu cung đón Cam Phượng Trì nhậu say, đến lúc cao hứng, bèn trổ tài, cho chủ nhân khai tâm chút bản lãnh của mình. Có một hôm nhà họ Kim mời khá đông quý khách tới chè chén tại Hoa sanh. Chủ nhân mời Cam Phượng Trì ngồi ghế trên nhất.

Khi rượu được nửa cuộc, họ Cam bỗng lên tiếng một cách trịnh trọng:

- Ngoài cửa sổ, hoa mai đương độ nở tươi, đáng lý bọn ta phải vừa thưởng hoa vừa uống rượu mới phải! Thế mà nay cứ đóng cửa im ỉm như thế này, há chẳng phải là vô tình với cảnh tạo hoá hay sao?

Nói đoạn, Cam Phượng Trì vận khí thổi phù, khiến tám tấm cửa sổ phía nam bật ra, tiếng gió rung lên phần phật.

Mùi thơm của hoa mai ùa vào phòng. Đám tân khách kẻ nào cũng vỗ tay đôm đốp, miệng thì khen lấy khen để. Một vị khách trong bọn nói:

- Nghe đại hiệp rất cao thủ đoạn, có thể bắn trúng ngoài trăm bước, trăm phát chắc trăm. Rất mong đại hiệp cho cả toạ thưởng chút ít tài nghệ hôm nay.

Cam Phượng Trì đang cao hứng liền cho người cầm bút ra cây mai đánh dấu trước những đoá hoa và chỉ cần cho biết rõ đoá hoa thứ mấy cũng như cành thứ mấy là đủ. Đoạn họ Cam vo tròn một miếng giấy rồi búng vút ra của sổ, bắn vào cây mai. Mọi người chỉ thấy hoa mai, hết đoá này tới đoá kia, rơi xuống mặt đất lả tà. Xem kỹ lại thì ra đó toàn là nhưng đoá hoa mai đã được đánh dấu từ trước. Cử toạ đến lúc đó thảy đều giật mình. ai cũng phải cho là kỳ dị.

Tiệc tan, chủ nhân mời khách tới Tây trang du ngoạn. Tây trang vốn là trang trại của chủ nhân. Vài nếp nhà tranh, đôi nóc lều nát điểm xuyết cho cảnh đồng quê thêm phần thanh tịnh hữu tình, càng làm cho khách thích thú. Nhưng giữa lúc đang ngắm cảnh, bỗng một chú mục đồng vừa khóc vừa chạy lại nói với Kim chủ nhân:

- Ông ơi! Hai con trâu húc nhau từ trưa tới giờ vẫn chưa thôi ông ạ!

Cả bọn theo chú bé chăn trâu ra sau trại xem, quả nhiên thấy hai con trâu mộng đang dùng sừng kìm nhau, nhất định không bên nào chịu buông. Cam Phượng Trì bước tới dùng tay gạt đôi cặp sừng ra, rồi thuận thế nắm lấy, đẩy mạnh một cái khiến hai con trâu bị xô sang hai bên khu ruộng. Người ta chi thấy mấy cặp giò của đôi trâu cắm ngập vào lòng đất bùn, cố rút mãi mà vẫn không lên được. Khách đứng xem thẩy đều cảm phục. Cam Phượng Trì sau đó tiến tới đưa hai cánh tay sắt ra nâng hai con trâu lên nhẹ nhàng như ta nâng cái ghế gỗ, giúp chúng thoát khỏi ruộng sình.

Chính giữa lúc họ Cam đang biểu diễn vài ngón võ mọn thì người nhà chạy tới báo có Bạch Long đạo nhân từ trên Kinh xuống cầu kiến. Cam Phượng Trì nghe nói đồ đệ tới, trong lòng rất lấy làm vui mừng, bèn nhờ ngay căn nhà khách của họ Kim để tương kiến.

Hoàng tử Dân Trinh yết kiến Cam Phượng Trì, rồi thác rằng mình là họ Lý. Bạch Long đạo nhân cũng nói thêm vào rằng họ Lý, nghe danh của sư phụ đã lâu nên tới bái phòng.

Bạch Long đạo nhân xin sư phụ tiến kinh một thể với mình, đồng thời cũng không quên ca tụng Dân Trinh nào là khảng khái ham điều nghĩa, nào là bản lãnh cao cường…

Cam Phượng Trì nghe xong, chẳng nói năng gì, dẫn cả hai vào tương kiến với Kim chủ nhân. Tối hôm đó Kim bày tiệc đãi Dân Trinh. Rượu đến nửa cuộc, Cam Phượng Trì có ý muốn thỉnh giáo bản lãnh. Trinh không từ chối, bèn dùng phép vận khí của phái Thiếu Lâm tựa sát lưng vào chân tường rồi đẩy nội lực tung người lên cao, vượt hẳn ngọn tường, sau đó lại từ từ rơi xuống như chiếc lá thu rơi. Cam Phượng Trì miệng nở nụ cười tinh quái, thong thả đứng lên, rồi cũng bước lại đứng phía chân tường, bảo Dân Trinh vận hết sức bình sinh mà đấm. Trinh cũng muốn thử xem bản lĩnh của họ Cam, cho nên vận nội lực vào cánh tay tống một quyền như trời giáng vào bụng. Chỉ thấy Cam Phượng Trì thót bụng một cái, khiến cả cái bụng bự lúc trước chỉ còn mỏng như tờ giấy.

Nắm đấm của Trinh khi tới bụng họ Cam thì chẳng khác gì đấm vào chính bức tường. Trinh vội rút ra nhưng lạ thay, nắm đấm của mình đã bị cái lỗ rốn của họ Cam hút chặt vào, không cách gì kéo ra được. Lát sau, Cam Phượng Trì cười lên kha khá rồi "buông" bụng ra, lúc đó Trinh mới thu được quyền về.

Sau khi tiệc tan bọn Bạch Long đạo nhân cùng vào ngủ chung một phòng với Cam Phượng Trì. Thấy không có ai, Bạch Long đạo nhân bèn thì thầm kể cho Cam Phượng Trì biết Dân Trinh chính là đương kim tứ hoàng tử, đối đầu với thái tử có ý tranh đoạt địa vị, nên tới mời sư phụ tiến kinh.

Cam Phượng Trì nghe đoạn, xua tay mấy cái liền rồi bảo:

- Không được đâu! Ta chẳng đi đâu!

Bạch Long đạo nhân cầu khẩn ba, bốn lần nhưng Cam Phượng Trì vẫn lắc đầu nguầy nguậy khiến hoàng tử Ung Vương nằm gần bèn nổi đoá, đứng vụt dậy chộp lấy tà áo Cam Phượng Trì. Họ Cam lập tức khoát tay một cái, quay mình nhanh như chớp vút đi, không thấy bóng dáng đâu nữa. Bạch Long đạo nhân chạy khắp cả trong ngoài căn nhà để tìm kiếm nhưng vẫn bặt tham hơi. Rồi bỗng Dân Trinh nhác thấy có đôi bàn chân thò ra ở sau cái quầy áo. Hai người vội chạy lại khiêng quầy áo ra thì thấy Cam Phượng Trì đang đứng sau đó, thân hình dán sát vào vách tường y như một tờ giấy mỏng.

Bạch Long đạo nhân chắp tay lạy mấy lạy rồi mời Cam Phượng Trì bước xuống cho nhưng họ Cam vẫn đứng nguyên vậy Dân Trinh chạy tới kéo mạnh xuống nhưng Cam vẫn cứ trơ trơ như đá, không một mảy may nhúc nhích. Dân Trinh đem bài thần chú Lạt ma ra niệm, Cam vẫn không hề lung lay. Dân Trinh lúc đó đã nổi đoá, tự nhủ: "Con người bản lãnh cao cường như vầy nếu không về với ta để sau này thái tử mời được rồi chống lại ta thì thật nguy hiểm. Chi bằng nhân lúc này ta kết quả luôn tính mạng của hắn đi cho xong". Nghĩ vậy, Trinh rút lẹ cây chuỳ thủ, dùng tận lực bình sinh đâm thốc vào Cam Phượng Trì nghe đến phập một tiếng ghê người.

Cùng lúc tay này đâm tới thì tay kia Trinh nắm lấy Bạch Long đạo nhân kéo chạy đi. Hai ngươi ra tới bờ sông, nhảy đại xuống thuyền, hối thúc chèo lẹ về hướng Bắc.

Trong phòng, Cam Phượng Trì khi thấy Dân Trinh và Bạch Long đạo nhân trốn đi rồi, bỗng phá lên cười sằng sặc. Mọi người chung quanh vội chạy tới hỏi han, mới biết Cam Phượng Trì chẳng hề hấn gì cả, thật là tài tình và đáng sợ. Kim chủ nhân bèn hỏi họ Cam lý do không chịu đi với Tứ hoàng tử vào kinh thì ông đáp:

- Vì Tứ hoàng tử này có cái tướng đế vương thật đấy, nhưng vì xương gò má phía ngoài quá độ nên nhất định sẽ là kẻ vong ân bội nghĩa, tại hạ không đi theo y là vì vậy.

Cả bọn nghe Cam Phượng Trì nói, tỏ ý rất bội phục.

Khi Dân Trinh về tới Bắc Kinh thì cũng là lúc Khang Hi hoàng đế tuần hành Tô Châu lần thứ ba vừa về tới. Nhân dân khắp thành ai cũng bàn tán về chuyện hoàng đế bị ám sát hụt ở Thái Hồ. Trinh được tin vội chạy vào cung thỉnh an.

Lúc đó có một vị vua Mông Cổ tên gọi Tắc Ngác Ngạch đứng bên, bèn thuật lại sự thể cho Dân Trinh nghe:

- Hoàng thượng gặp thích khách ở Thái Hồ, đó là chuyện có thực. Tân vương tối hôm đó cũng có mặt tùng giá trong đoàn. Vượt khỏi Kim Sơn tới Tô Châu, cả đoàn người nán lại đây ba ngày rồi sau mới đi Thái Hồ. Hoàng thượng thấy bốn mặt hồ có đến bảy mươi hai ngọn núi chọc trời, ngọn gần ngọn xa tất cả tạo thành một cảnh trí vô cùng ngoạn mục. Bởi vậy, ngài lấy làm thích thú, bèn ngồi trước mũi thuyền để vừa ngắm cảnh vừa lưới cá. Thuyền ngài bắt được hai con cá chép, ngài lại càng thích thú hơn nữa. Ngài bảo tuỳ tùng lấy hai đỉnh vàng y ra thưởng cho bọn dân chài. Giữa lúc tất cả đương vui thích cười nói thì bỗng một tên đại hán chạy như bay trên mặt nước rồi nhảy phóc vào ngự thuyền. Trong nháy mắt, người ta chi thấy cây bảo kiếm trong tay tên đại hán vung lên như một làn chớp nhè ngay mặt hoàng đế chém tới. Ấy cũng may hoàng thượng quả có phúc lớn bằng trời khiến ngài vội né sang bên tránh thoát được mũi kiếm. Một đạo hào quang vụt nhanh về phía sau, tức thì tên thái giám trúng kiếm chết ngay, trong khi dư âm "nguy rồi" của hoàng đế còn vang trong không trung. Bọn thị vệ miệng vừa la "Có thích khách" tay vừa tuốt đao khỏi vỏ nhất tề xông tới nghinh địch. Lúc đó, tiểu vương tôi đang ở phía sau, nghe phía trước la hét om sòm, vội chạy tới, thấy tên đại hán đang xông vào khoang cố giết hoàng đế cho bằng được. Tiểu vương tôi liền dùng hết sức bình sinh đánh bật địch thủ ra phía ngoài khoang. Tên thích khách thấy tiểu vương tôi sức quá mạnh, biết khó có bề thủ thắng, bèn quay mình nhảy ùm xuống nước mất dạng, chẳng biết bơi về phương nào.

Khang Hi bị một phen chết hoảng, lấy làm giận lắm, bèn cho gọi Lưỡng Gia tổng đốc là Trương Bằng Phiên và Giang Tô tuần phủ là Tống Lạc tới mắng nhiếc khiến bọn Tống, Trương chỉ còn biết quỳ mọp trên đất, dập đầu cầu xin tha tội. Được tha về, bọn Trương, Tống hú vía, vội phát cáo thị khắp ba huyện Trường, Nguyên, Ngô cấp thời bắt giặc, mặt khác, triệu thỉnh các tay hảo hán tới bảo hộ thánh giá.

Lúc đó, có hai vị anh hùng, hưởng ứng lời triệu, tìm đến. Một người tên gọi Bạch Thái Quan còn một người không tên tuổi. Khi Trương tổng đốc đưa vị anh hùng không tên tuổi này tới yết kiến hoàng thượng thì ngài thấy ông ta mình chỉ mặc có một chiếc áo bằng da cá và nhân đó, ông ta xin ngài đặt cho một cái tên. Khang Hi hoàng đế liền gọi luôn là Ngư Xác (có nghĩa là xác cá). Ngài hỏi Ngư Xác có bản lãnh gì thì Xác tâu:

- Tiểu nhân có thể đi trên mặt nước như đi trên đất bằng, lại cũng có thể nằm chìm hẳn trong nước được ba ngày ba đêm liền. Tiểu nhân còn có một cái dây lưng quần có thể địch nổi muôn quân ngàn ngựa.

Nói đoạn, Ngư Xác thò tay cởi ngay chiếc dây lưng ra. Chiếc dây lưng này vốn làm bằng thép luyện. Khi buộc vào, nó chẳng khác gì một chiếc dây lưng bằng tơ còn khi cầm trên tay múa tít, nó bắn ra tứ phía một đạo hào quang lạnh người. Hoàng đế bảo bốn mươi tên thị vệ, kẻ nào cũng lăm lăm kiếm, xông lên tấn công Xác thử xem. Đánh một lúc lâu, bọn thị vệ không có cách nào lại gần được Xác. Hoàng đế xem trận đấu, tán thán luôn mồm. Thế là ngài giữ Xác lại cạnh mình, cho sung chức Thị tùng võ quan.

Còn nói đến Bạch Thái Quan, thì trước hết phải kể ngay rằng hắn là đứa vô loại. Lúc thiếu thời, hắn chỉ thích gian dâm phụ nữ. Hắn tung mình nhảy một cái, có thể qua bức tường cao vài chục trượng. Dù cô gái có là một tiểu thư khuê các, một khi đã lọt vào mắt hắn. Có một hôm, Quan nghe nói nhà họ Thanh ở Dương Châu có một cặp chị dâu, em chồng, hai người đều xinh đẹp đến mê hồn, nên hắn mò tới, dò xét kỹ rồi mới nhảy qua tường vào nhà. Giữa lúc định cưỡng hiếp, hắn bỗng bị một chiếc côn lớn phang vào sau ót, đến nỗi ngất lịm ngay đi. Đến khi tỉnh lại, hắn thấy mình đã bị trói chặt, phía trước một ông lão ngồi ngất ngưởng đang sai bảo gia nhân ôm củi, gánh rơm tới để thiêu sống hắn. Quan biết ngày tàn đã đến nên dùng hết sức bình sinh giãy đạp lăn lộn khắp phòng.

Chỉ trong nháy mắt bao nhiêu đồ đạc trong nhà, nào ghế nào bàn đều đổ gãy ngổn ngang hết. Sức của hắn mỗi lúc mỗi hăng, dữ tợn đến không ai chống nổi, khiến đèn đóm rớt đổ lung tung. Lửa bốc cháy, căn nhà sáng rực lên như ban ngày.

Bọn người nhà vội hò nhau cứu hoả, không còn thì giờ nghĩ tới Bạch Thái Quan nữa. Hắn bèn nhân cơ hội đó, cởi bỏ được dây trói, trốn chạy một mạch, nhiều năm không dám quay về quê nữa… Mãi lâu lắm, hắn mới ngầm lẻn về cho vơi nỗi nhớ.

Lúc vừa về tới cổng nhà, hắn thấy phía xa có một đứa bé đang chạy chơi trước cửa miếu Quan đế. Đứa bé giơ thẳng tay cứ nhè con sư tử đá đấm mãi, đến nỗi đá cũng phải tóe lửa ra.

Bạch Thái Quan xem một lúc, cho là quái dị. Hắn tự nhủ: "Thằng bé này có một bản lĩnh phi thường như vậy, một khi lớn lên, nó sẽ ăn đứt cả mình". Nghĩ vậy, trong lúc thảng thốt hắn vụt sinh lòng đố kỵ, liền xông tới đánh thằng bé. Nó đau quá, miệng vừa khóc vừa doạ:

- Lão kia, nỡ ăn hiếp một thằng bé ư? Rồi đây cha ta là Bạch Thái Quan sẽ về đây báo thù cho ta.

Nói xong, thằng bé trào máu miệng chết luôn. Bạch Thái Quan lúc đó mới biết rằng mình đã tự tay đánh chết con mình, lòng hối hận quá, nhưng đã muộn. Hắn quay mình bỏ đi rồi từ đó, hối cải lỗi xưa, chuyên can thiệp chuyện bất bằng để cứu người.

Có một hôm, Bạch Thái Quan tới miếu nghi đình tỉnh Tô Châu, vào ngủ trọ trong một khách điếm. Nửa đêm, hắn bỗng nghe tiếng đàn bà rên rỉ khóc lóc phía ngoài tường. Hắn vội tung người vọt lên nóc nhà xem, định thần nhìn kỹ, thì thấy một cảnh tượng vừa kỳ quái vừa ghê tởm. Một cô con gái đang độ xuân bị lột truồng như nhộng nằm ngửa trên giường, phía trước đặt một thau nước nóng. Một nhà sư vừa đen vừa xấu cầm chiếc khăn tay dúng nước bốc hơi nghi ngút, đang kỳ cọ khắp bụng cô ta. Trong khi lang bạt giang hồ Quan đã được nghe nói có một ác tăng từ Tây Tạng tới chuyên gian dâm phụ nữ, lại còn phá bào thai trẻ con trong bụng mẹ. Mỗi khi bắt gặp đàn bà chửa, tên ác tăng bèn rửa sạch cái bầu rồi lấy bào thai đem luộc chín trong nước sôi. Không ngờ tin đồn đó nay lại là chuyện có thực. Bởi vậy, Bạch Thái Quan đùng đùng nổi giận. Hắn phóng mình xẹt tới như một luồng điện. Lúc đó tên ác tăng Tây Tạng, ngồi quay lưng ra phía ngoài. Chủ ý của Quan là mượn tạm cái "bộ tam sự" của hắn nhưng không ngờ hắn biết được, quay ngoắt lại phóng một cước trúng vào mặt Quan. Quan lẹ như chớp nắm ngay được chân phải hắn.

Tên ác tăng vội phóng luôn chân trái, thế đá đó gọi là "uyên ương song phi" vốn nổi tiếng lợi hại trong chốn giang hồ. Nhưng đối với ai kia, chứ với Bạch Thái Quan thì cái phép hoá giải có gì khó. Thế là Quan xuất luôn tay hữu chộp luôn nốt chân này rồi thuận thế lăng mạnh phía trước. Tên ác tăng Tây Tạng bị một cái đẩy quá mạnh đâm thủng cả vách ván lọt ra ngoài rơi bịch xuống đất như một cái bị, đầu bể tan, óc vọt ra tứ phía, chết không kịp ngáp.

Hồi 53 Một cái án văn tự đời Thanh

Cuộc ác chiến tuy ngắn nhưng cũng đủ cho mọi người xóm giềng chung quanh biết được, họ đổ xô tới xem. Người chồng cớ cô vợ vừa được cứu thoát vội quỳ xuống trước Bạch Thái Quan dập đầu tạ ơn. Thế rồi, bọn dân xóm cũng đều bước tới chắp tay lạy chào và nói với Quan:

- Tên ác tăng này tới đây đã lâu, chuyên hãm hiếp đàn bả con gái, gây sóng gió khắp vùng. Có người báo tới nha môn, quan tri huyện phái quân tới lùng bắt, nhưng đều bị hắn đánh cho tơi bời câ. Bọn quan quân hoảng qua, bò trốn về thành hết, không còn dám bén mảng tới nữa. Nay hắn đã bị đền tội, háo hán thực là vị ân nhân của dân chúng vùng này vậy.

Nói đoạn, họ níu kéo, mời mọc cho kỳ đưọc Bạch Thái Quan về nhà một vị thân sĩ trong làng, dọn rượu thết đãi. Qua ngày hôm sau, quan tri huyện được tin, vội cho người mang kiệu tới đón Quan về nha. Đó chính là lúc Khang Hi hoàng đế gặp thích khách ở Thái Hồ, rồi chiêu thỉnh hảo hán bốn phương cho nên viên tri huyện bèn bảo cử Bạch Thái Quan ra cho quan tuần phủ sau đó lại báo tiếp lên cho quan tổng đốc. Vị quan tổng đốc bèn đem Bạch Thái Quan và Ngư Xác cùng mười mấy vị hảo hán khác tới bệ kiến hoàng đế. Khang Hi thấy Quan bản lĩnh cao cường bèn cho sung chức Thị tùng võ quan. Ngoài ra, các tay hảo hán khác cũng đều được sung vào chân thị vệ, nhất tề đưa cả về kinh.

Ung vương nghe Tái Lăng Ngạch kể lại một lượt câu chuyện xảy ra, trong lòng vừa lấy làm kỳ lạ vừa ghen tức. Vương tự nghĩ:

- Thiên hạ sao lại có kẻ bản lĩnh cao cường đến thế nhỉ? Tiếc thay họ lại không ở trong phủ ta cho!

Đứng nghe chuyện còn có cả một bọn đông anh em như Dân Đệ, Dân Nhung, Dân Dị, Dân Đường, Dân Chỉ, Dân Kỳ, Dân Ngà, Dân Tường, Dân Đề, cho nên Vương không tiện nói ra điều gì, đành lặng thinh. Vương vốn ăn ý với đại ca Dân Đệ, hai anh em bèn quay về nhà riêng bàn tính đại sự. Vương còn dò được tin hoàng thượng đã phái Ngư Xác tới đông cung để bảo hộ thái tử, mặc khác sai Bạch Thái Quan tới Tô Châu giúp quan địa phương lùng bắt tên thích khách ở Thái Hồ.

Tên thích khách ở Thái Hồ là Kim Phi, nguyên là một tên đại đạo nổi danh suốt dọc Cam Túc, Thiểm Tây. Những tay hảo hán giang hồ thường gọi hắn là Kim gia gia. Vì Kim chỉ thường xuất hiện ở mấy tỉnh Thiềm Tây, Cam Túc, Tứ Xuyên, cho nên một giải Giang Chiết đều không ai hay biết hành tung của hắn. Bản lĩnh của hắn còn cao hơn Bạch Thái Quan một bậc. Tại vùng Tứ Xuyên, hắn chuyên ẩn nấp ở những nơi đèo non thác nước, chờ dịp cướp bóc. Hắn thường mặc một bộ y phục màu anh lục, bơi lội trong nước y như cá khi thấy có thuyền đỗ bến, tức thì nhảy lên cướp của giật đồ. Tuy nhiên, hắn không bao giờ hại người. Tên tuổi hắn càng ngày càng lớn Những tay hảo hán suốt giải Tràng Giang đều qui phục hắn, cộng có tới hơn ngàn. Hắn bèn chiếm cứ một ngọn núi trên con đường Nghi Xương. Nhiều tay hảo hán đem vợ con quyến thuộc tới chân núi dựng nhà mở phố. Dần dần, cả một khu đất rộng ở chân núi đã trở thành một thôn phường, trong đó trai gái già trẻ đều là huynh đệ của hắn.

Phen này, Kim Phi do sự phó thác của Thạch Bá Tổng, bộ hạ của di thần nhà Minh là Trương Thương Thuỷ do thám được tin Khang Hi hoàng đế Nam tuần, bèn tới Tô Châu để hành thích. Phi rời khỏi Kim Sơn thẳng tới Thái Hồ, chém Khang Hi một kiếm không trúng bèn quay về chốn cũ.

Đến khi thánh chỉ hạ xuống bắt các phủ huyện lùng kiếm thích khách, và khi bọn chức sắc Ngô huyện điều tra ra lý lịch của tên Kim Phi thì chẳng kẻ nào dám tới Nghi Xương bắt hắn cả. Đúng lúc đó, hoàng thượng phái Bạch Thái Quan đi do thám trên ngọn núi, mới biết núi đó gọi Độc Long Cương và thôn phường phía dưới gọi là Độc Long Thôn. Bạch Thái Quan kéo toàn ban bộ khoái tới Nghi Xương, lên bờ, mướn một chiếc xe lớn gấp rút lên đường. Đi được vài ngày, cả bọn thấy một toà núi đá tai mèo, bốn mặt toàn những mỏm đá cheo leo vây quanh, phía dưới cây cối um tùm, bóng tối âm u, trông thật đáng sợ.

Cỗ xe lớn của bọn Quan đang chạy lẹ trên đường, bỗng thấy phía trước cũng có một cỗ xe từ từ đi tới, trên xe có một cô gái tuyệt đẹp và một đứa bé độ mười ba tuổi, ngồi trên.

Cỗ xe của bọn Quan chạy lẹ nên chẳng mấy chốc đã tới gần, chỉ nghe cô con gái ngồi trên xe cất tiếng bảo đứa bé:

- Bạch Thái Gia tới đấy! Mau nhường đường cho ngài đi, nghe không?

Bạch Thái Quan nghe đoạn, lòng lấy làm lạ. Nhìn mặt người con gái thì quả là không quen biết, cũng không thề nhận ra là ai. Đứa bé nhảy phắt khỏi cỗ xe đã nép cạnh đường, bước tới. Thấy đứa bé tỏ ra nhanh, nhẹn, có sức mạnh, lòng Quan đã nản lắm. Tới chân núi, cả bọn bèn tìm một khách điếm trọ lại.

Sáng ngày hôm sau trở dậy, Bạch Thái Quan ra quầy trả tiền, thấy cô gái ngồi quay đích thị là cô gái ngồi trên xe gặp trên đường hôm qua. Quan muốn thử xem bản lĩnh, bèn ném từng đồng một hết số tiền vào mặt quầy phía trong, trước mặt cô gái. Cô ta thấy cử chỉ của Quan, miệng nở một nụ cười, giơ tay vỗ nhẹ lên mặt quầy, tức thì tất cá số tiền của Quan vừa ném vào bỗng vọt bắn lên cao, tung ra ngoài hết.

Bị trả đũa lại. Bạch Thái Quan tự nhủ thôn dân làng này hẳn đều là những tay có bản lĩnh, trong lòng càng nản nhiều hơn. Giữa lúc do dự, Quan thấy một đại hán chạy từ ngoài cửa vào. Khi thấy Quan, y liền cúi đầu chào:

- Tiểu chủ của tại hạ được biết Bạch Thái Gia đã tới, nên bảo tại hạ tới mời một mình ngài lên núi. Bạch Thái Quan hỏi sơn chúa là ai thì đại hán đáp:

- Sơn chúa chính là Kim gia gia đó!

Bạch Thái Quan tới lúc này chẳng thể do dự được nữa, bèn dặn bảo bọn bô khoái ở lại khách điểm chờ đợi rồi một mình theo đại hán lên núi.

Ngọn núi Độc Long này khá cao, đại hán nhảy từ mỏm đá này tới mỏm đá kia đi vun vút. Bản lĩnh phi hành của Quan cũng chẳng kém. Chỉ mấy chục lần nhảy, quanh theo vài eo núi, hai người đã tới lưng chừng núi. Kim Phi đứng đó tự bao giờ, khi thấy Bạch Thái Quan, liền đón tiếp lên núi, tự giới thiệu tên tuổi của mình. Bốn, năm chục tay hảo hán đứng phía sau cũng đều tiến lên, nhất nhất giới thiệu. Xong xuôi, cả bọn đưa Quan vào đại sảnh.

Trang viên nơi đây quả là lớn, sảnh đường cũng rộng rãi hết sức. Giữa đại sảnh, đã thấy một chiếu rượu sửa soạn tươm tất. Kim Phi mời Bạch Thái Quan ngồi vào ghế nhất. Bọn hảo hán cũng nhất tề ngồi xuống. Trước mặt mọi người, đũa không thấy, chỉ có vài con dao nhọn sắc. Trước mặt Quan cũng vậy, đến ngay dao cũng không. Trên bàn, nào gà, nào vịt đủ món nhưng chưa ai biết làm cách nào mà ăn. Một lát sau, chủ nhân lên tiếng nhắc bọn huynh đệ kính khách. Bọn hảo hán tay cầm dao nhọn xóc luôn những miếng cá bự chĩa thẳng vào miệng Bạch Thái Quan. Họ Bạch cũng muốn nhân dịp này cho đối thủ biết rõ ban lĩnh của mình. Khi thấy ngọn dao sắc đâm gần tới, Quan liền há miệng đớp ngay lấy, hai hàm răng cắn chặt lại. Một tiếng rắc nổi lên khô khan trong miệng Quan: lưỡi dao đã gãy, miếng cá bự trôi qua cổ họng xuống bụng trong nháy mắt.

Các hảo hán lần lượt hết người này đến người kia đều tiến lên kính khách theo kiểu đó. Quan thảy đều thong dong ăn uống, miệng không một chút nào sây sát. Thành thử bao nhiêu dao để trên bàn khi nãy đều bị Quan cắn cụt hết. Trước mặt Quan, chỉ thấy một đống lưỡi dao to sụ. Cử toạ đều lớn tiếng khen ngợi.

Sau đó, một tay đại hán bưng mâm bánh bao tới, khói bốc lên nghi ngút. Bạch Thái Quan cầm ngay lấy một chiếc bỏ vào miệng nhai nhồm nhoàm. Trong bánh có đến hơn chục cái đinh sắt. Nhưng Quan vẫn nhai một cách tự nhiên, chẳng mấy chốc Quan ngậm nắm đinh sắt hướng vào bức tường phía trước, thổi phù một cái. Nắm đinh sắt vút ra cắm phập vào tường, y như chúng đã được đóng chắc từ thuở nào.

Kim Phi thấy vậy bất giác cũng phải thốt lời khen! Phi đứng dậy tiễn khách, Bạch Thái Quan tự nhận đông quá khó địch, lại thấy thủ hạ của Kim nhiều tay ban lĩnh cao cường, thành thử khối hào khí chứa chất trong lòng lâu nay bỗng tan biến như tuyết rơi băng rã. Quan ra tới cống ngoài, thấy cánh cửa đóng kín. Từ bên cạnh cổng, một chú bé chạy ra, khẽ nâng cánh cửa để lấy lối cho khách qua. Quan nhìn tấm cửa, ước lượng ít ra cũng phải ngàn cân. Quan đến lúc đó quả đã thảy chết mất quá nửa nhuệ khí. Khi xuống tới chân núi, Quan xấu hổ, chẳng dám tới gặp lại bọn bộ khoái thủ hạ của mình và lẹ như một làn khói. Quan mất hút luôn trong đám sương mờ bên đèo.

Lại nói Khang Hi hoàng đế ỷ có Ngư Xác bảo hộ nên lại sửa soạn cuộc tuần du Giang Nam lần thứ tư, lần tuần du này quả thật khác xa mấy lần trước. Hoàng đế đem theo một đại đội ngự lâm quân, dọc đường còn có quân lính địa phương yểm trợ.

Khi đi đường, Khang Hi hoàng đế dò biết được còn có rất nhiều văn nhân có ý không phục nhà Thanh, thường sáng tác thơ văn phỉ báng triều đình. Ngài bèn hạ một đạo mật dụ cho các tuần phủ, tư đạo nơi ngoại tỉnh bảo họ tra xét khắp nơi, hễ thấy có bài văn thơ nào phỉ báng bản triều thì phải báo ngay không được dấu giếm hoặc chậm trễ. Không ngờ đạo mật dụ đó vừa mới xuống được ít hôm thì một cái án văn tự lớn lao xảy ra làm chấn động cả miền Triết Giang và Hồ Châu.

Số là miền này có một phú ông họ Trang tên Đình Lũng, đọc sách không bao nhiêu nhưng lại háo danh, chỉ thích có tác phẩm lưu lại nhân thế, tạc vào nơi danh sơn. Bởi vậy, ông ta mới ngày ngày vác bút đề thơ. Ông ta vừa ngâm vừa viết, chẳng biết đã viết những gì. Viết vậy suốt một năm rưỡi trời mà chưa ra được một cuốn sách nào. Bỗng một hôm, ông ta nghĩ ra được một diệu kế. Vốn sẵn tiền, ông ta liền vác tiền đi mua văn của bọn văn nhân cùng quẫn, lấy những bản thảo của họ làm của mình. Không biết ông ta mua ở đáu về được một tập bản thảo - bộ "Ô Trình Chu thị minh sử". Ông ta lấy làm khoái lắm, bèn góp nhặt những sự thực thời vua Sùng Trinh rồi đổi tên tác giả sang tên mình. Ông ta lại còn mời mấy cụ đồ nổi danh, nào là họ Lục, họ Tra, nào là họ Phạm giúp ông làm mấy bài bạt vào cuốn sách, rồi cho khắc và đem in. Ông ta tưởng đó là một tác phẩm trứ danh, cho rằng xưa kia Khổng Tử làm Kinh Xuân thu, Tư Mã Thiên làm bộ Sử ký bất quá cũng chỉ như vậy mà thôi. Ông còn cao hứng đến cái độ cho sách của mình có thể tạo thành thế chân vạc với hai bộ sách Sử ký và Xuân thu. Ông ta có ngờ đâu vui lắm thì khổ nhiều! Thời kỳ đó chính là hồi bọn quan địa phương đang ngấm ngầm điều tra những trước tác phỉ báng triều đình.

Khi tra ra bộ minh sử này, viên tri phủ Hồ Châu cho là hệ trọng bèn đích thân tiến kinh để cáo mật. Quan thượng thư bộ hình vội vào tâu hoàng đế. Thế là một đạo thánh chỉ ha xuống, bắt phải tra xét nghiêm ngặt. Tin tức truyền đi nhanh như chớp. Trang Đình Lũng biết việc nguy rồi, bèn uống thuốc độc tự vẫn. Khi thánh chỉ tới nơi thì Trang Đình Lũng đã chết.

Triều đình bèn cho quật mồ băm thây, đồng thời cho bắt tất cả bọn nhà in đem chém chết. Ba cụ đồ họ Phạm, họ Tra, họ Lục cũng được tin nhanh lắm. Các cụ đã dự tính trước, thanh minh rằng những bài bạt của sách đó là do Lũng giả tạo chứ không phải các cụ làm. Nội vụ xong xuôi, cả ba cụ được miễn tội nhưng đều khuynh gia bại sản.

Tử đó về sau, bọn văn nhân hoảng hồn bạt vía, đều rụt cô lại như cổ rùa, chẳng còn dám viết lách lấy một chữ: Khang Hi hoàng đế quả đã mười phần khoái trí. Ngài du ngoạn bên ngoài một thời gian lâu rồi mới trở về kinh. Nhưng ngài không ngờ, ngay tại kinh, thái tử cùng bọn Trực vương, Ung vương lại gây ra một chuyện lớn khác…

Hồi 54 Các Hoàng tử tranh nhau ngôi Thái tử

Trong cuộc Nam tuần lần thứ tư này, Khang Hi hoàng đế lại giao cho hoàng thái tử Dân Nhung giám quốc như cũ.

Trực Quận vương Dân Đê, Ung Quận vương Dân Trinh trong lòng rất lấy làm ghét thái tử. Hai người ngầm khiển tướng điều binh đến hành thích thái tử kể đã khá nhiều lân, nhưng Đông cung có đông người bảo vệ nên chưa từng bị độc thủ của họ. Duy chỉ có mỗi lẩn đại chiến thi hai bên lại hết mất vài ba tay hảo hán.

Dân Nhung căm giận Dân Trinh đến cốt tuỷ. Nhung bèn đem trọng lễ ra bên ngoài, mời rất nhiều vị đạo nhân tới Đông cung làm phép để thu hồn nhiếp phách xác của Trinh. Trong vương phủ của Dân Trinh, những tay pháp sĩ mới về cũng không ít. Mỗi lần bên Đông cung thi hành pháp thuật là mỗi lần bị bên Ung vương phủ phá giải tiêu hết. Về sau, thái tử Dân Nhung mời được một vị Thiết quan đạo sĩ (đạo sĩ đầu đội mũ sắt) từ Giang Tây tới. Vị đạo sĩ này có một pháp thuật hết sức kỳ lạ. Pháp khí của ông ta tên là Huyết trích tử. Đây là một cái mũ bằng sắt. Khi Thiết quan đạo nhân niệm thần chú, Huyết trích tử liền bay lên trên không, lén vào nhà kẻ thù, chụp vào đầu, lập tức cắt đứt đầu địch nhân rồi lại bay lên không trở về. Người bị cụt đầu không chảy một giọt máu nào nơi cổ, bởi vậy nó mới có cái tên là Huyết trích. Khi nó tới thì dù ở giữa đám ngàn quân vạn ngựa đi nữa cũng vẫn bị cắt đầu ngọt xớt. Pháp khí lặng lẽ tới cũng như lặng lẽ đi, vừa nhanh lại vừa không có tiếng động, chỉ nháy mắt là đầu đã mất tiêu từ lúc nào, khiến đối phương có lưu ý đề phòng tới đâu cũng vô hiệu.

Ung vương dò biết được tin này, trong lòng rất lấy làm lo sợ Vương bèn củng mấy vị sư Lạt Ma thương nghị. Trong bọn, có người đứng lên nói:

- Trừ phi mời được vị Đại Lạt Ma của tại hạ tới, chứ còn không ai trừ được tên đạo sĩ mũ sắt này đâu.

Ung vương nghe đoạn, bèn đích thân tới Ung Hoà cung, mời nhà sư Đại Lạt Ma. Lúc đầu Đại Lạt Ma không chịu, nhưng về sau, khi vương hứa hê việc thành thì sẽ có thưởng hậu, Đại Lạt Ma mới vui lòng mang pháp khí tới Vương phủ.

Nhà sư Đại Lạt Ma trước hết lấy một cuộn kinh Phật, bảo Ung vương đội lên đầu, phía trên dùng mũ chụp lên. Cuốn kinh Phật có một pháp lực vô biên, có thể chống lại được với Huyết trích tử. Đại Lạt Ma còn lấy một căn tinh thất phía ngoài phòng ngủ của Ung vương, ngày đêm ngồi đó để phòng vệ Ung vương vốn có bốn vị phi tử. Nguyên phi tên Nữu Cô Lộc với Ung,vương, hai người ân ái hết sức mặn nồng. Nay thấy chồng có nạn, bà bèn hầu hạ ngày đêm bên cạnh.

Một hôm, vào giữa lúc đêm khuya canh vắng, bà Nữu Cô Lộc cùng Ung vương đang nằm trên giường chung gối trò chuyện, bỗng thấy từ ngoài cửa một vật gì tròn tròn đen đen bay vút vào chạm vào đầu. Ung vương nghe chát một tiếng. May cho Ung vương trên đầu có cuộn kinh Phật sớm tối không rời nên pháp khí kia không thể hại được tính mạng của vương. Bà Nữu Cô Lộc nằm bên cạnh sợ quá, la rầm lên. Phía ngoài, nhà sư Đại Lạt Ma, vội nhảy ra khỏi tĩnh thất quan sát, chỉ thấy cái pháp khí nọ đang bay từ trong phòng Ung vương ra. Nhà sư Đại Lạt Ma lẹ tay vội cởi tuột chiếc áo cà sa trên mình, vung lên như một cái ltới, chụp lấy pháp khí.

Khi pháp khí nọ bị chiếc cà sa chụp thì người trong phủ nghe tin, vội chạy tới thỉnh an. Ung vương bị pháp khí đập mạnh vào trán gây thương tích, đau nhưng cũng cố gượng ngồi dậy. Nhà sư Đại Lạt Ma lấy Huyết trích tử từ trong chiếc áo cà sa ra đưa cho Ung vương, miệng nói:

- Đây là một lợi khí sát nhân độc nhất vô nhị, vương gia hãy giữ lấy, về sau nhờ nó có thể chế phục được thiên hạ đấy!

Ung Vương tiếp lấy xem qua, thấy Huyết trích tử vốn là một chiếc mũ sắt đen thui, ánh sáng lạnh bắn ra bốn phía khiến ai trông thấy cũng phải mất vía bạt hồn.

Qua ngày hôm sau, Trực vương Dân Đê được tin, vội chạy lại xem. Trinh bèn đem tình hình nội vụ ra kể hết. Đê thấy lúc đó không có ai, bèn cầm tay Trinh kéo vào một căn mật thất, thì thào bảo Trinh:

- Ta hiện mời được một vị Đại Lạt Ma tên gọi Ba Hán Cách Long từ Mông Cổ tới. Đạo thuật của ông này rất cao. Ông ta có thư phù niệm chú, trấn ém được hồn người. Bọn ta chỉ cần dò hỏi niên can tám chữ (năm, tháng, ngày, giờ sinh) của thái tử rồi viết lên tờ giấy, đút vào bụng hình nộm, một mặt mời Ba Hán Canh Long lập pháp bùa, niệm thần chú bảy ngày bảy đêm thì thái tử bên Đông cung thế nào cũng phát điên, không còn hay biết gì nữa. Đến lúc Dân Nhung không còn làm Thái tử được nữa thì bọn ta hai đứa sẽ tính toán với nhau sau.

Trinh nghe đoạn bỗng nghĩ ra một kế, bèn nói ngay cho Đê nghe. Xong đâu đấy, bọn Đê, Trinh liền cho mời nhà sư Đại Lạt Ma tới, đưa cho hai ngàn lạng bạc và nhờ nhà sư cứ như thế như thế hành sự.

Lại nói thái tử Dân Nhung thấy Thiết quan đạo nhân không thành công, trong lòng hết sức buồn bã. Ít hôm sau, thái tử bỗng tự nhiên mê mê man man, nhuốm bệnh nặng. Ban đầu, lúc thì nóng, lúc thì lạnh nhưng về sau bệnh càng ngày càng trầm trọng, cuối cùng thái tử đâm ra điên cuồng, miệng nói huyên thuyên, đôi má đỏ như lửa, hễ thấy người là đánh. Bên Đông cung, từ dưới lẽn trên, ai cũng đâm hoảng.

Tướng quốc Trương Anh mời ngự y lại trị bệnh cho thái tử. Nhưng có ngờ đâu vị ngự y đã nhận bạc hối lộ của Đại Lạt Ma, bèn lấy hai viên A Cô Ma hoàn cho thái tử uống. Thái tử ngủ một đêm dậy, quả nhiên bệnh tình giảm nhẹ đi nhiều, nhưng lại bị cái chứng "dâm" kinh khủng. Suốt ngày, thái tử chỉ cùng bọn phi tần mây mưa trăng gió. Thế mà vẫn chưa đã thái tử hễ thấy con cung nữ nào là lôi lên giường con ấy.

Đê và Trinh hai vương được tin đó, đều đem các phúc tấn đến Đông cung vấn an. Chẳng ngờ thái tử thấy anh em hai người này tới, chẳng nói chẳng rằng, chỉ trợn mắt nhìn chằm chặp vào mặt bà chị dâu là Tố Luân phi tử và cô em dâu là Nữa Cô Lộc phi tử. Nhìn đến lúc xuất thần, thái tử bỗng nhảy chồm tới, giơ hai tay ra ôm chầm lấy Nữa Cô Lộc. Bà Nữa nhanh chân né, kịp tránh thoát. Thấy hụt bà Nữa, thái tử quay sang bà chị Tố Luân. Bà bị thái tử hai tay ôm quàng lấy eo ếch rồi siết chặt, mặc cho bà vùng vẫy giãy giụa cách nào cũng không thoát ra được.

Dân Đê trông thấy, bất giác cả giận, vội chạy tới đẩy mạnh khen thái tử bật ra, té ngửa trên mặt đất. Đê hầm hầm tức giận, kéo tay vợ chạy khỏi cung. Đê tính tới tâu ngay việc này cho phụ hoàng rõ, nhưng bà Tố Luân phi tử cố can:

- Phụ hoàng vừa ở Giang Nam về chưa được bao ngày. Ta hãy cố nhịn vài hôm đợi khi phụ hoàng nhàn rảnh, lúc đó tấu minh cũng chẳng muộn.

Đê nghe lời vợ, tạm thời nín nhịn lòng giận tức.

Giữa lúc đó bỗng từ quan ngoại có tin quân báo về việc người Nga La Tư đem đại binh mã tiến đánh Mông Cổ. Khang Hi hoàng đế bèn hạ dụ sai bọn Đô thống Bành Công Xuân đốc lính tới miền ái Quân, hợp với quân của Tát Bố Tố đánh thốc tới Nhã Khắc Tát. Phá tan được thành Nhã Khắc Tát, Thanh quân mới cùng người Nga đính ước giảng hoà.

Chẳng bao lâu sau quân thám lại báo tin về bộ lạc Cát Nhĩ Đan xứ Mông Cổ liên hiệp với người Nga La Tư tạo phản.

Khang Hi hoàng đế bèn phong Dụ Thân Vương Phúc Toàn làm Phủ viễn đại tướng quân cùng với hoàng tử Dân Đê đem quân xuất cửa Cổ Bắc, đồng thời phong Cung Thân Vương Thường Ninh làm An Bắc đại tướng quân cùng với Giản Thân Vương Nhã Bố đem quân xuất cửa Hỉ Phong nghênh địch.

Ai ngờ quân Cát Nhĩ Đan mười phần kiêu dũng, vừa công phá quân Mông Cổ của A Lạp Ni lại vừa đánh vào Ô Châu Mục, Trấn, thẳng tới đánh tan quân của Cung Thân Vương, sau đó tiến sâu vào miền đông bắc Đa Luân của O Lan Bố Thông.

Phía Thanh binh may được Dụ Thân Vương dùng hoả pháo đánh được Đà Thành (dùng lạc đà làm thành để vây địch) của Cát Nhĩ Đan, khiến bộ lạc này đại bại, phải lui về miền Y Lạp Cổ Khắc Tam Hồ Khắc Đồ.

Dụ vương đang định xua quân xông thẳng vào miền này thì bỗng được tin Khang Hi hoàng đế nhuốm bệnh nặng tại thành Bắc lạc, đành ban sư trở về bắc Kinh.

Hồi đó, thái tử Dân Nhung bệnh càng ngày càng nặng. Cơn điên làm cho thái tử chẳng khác gì con loài thú, thấy người là đánh, thấy vật là phá. Đám phi tử nơi Đông cung ngày đêm chỉ khóc ròng. Bệnh của Thái tử quả đã đến lúc vô phương cứu chữa. Khang Hi hoàng đế mới về nên hoàng hậu có ý muốn giấu chuyện này đi, bởi vì ngài đang bệnh, lại vừa chịu cảnh chiến tranh quá vất vả gian lao.

Qua năm sau, bộ lạc Cát Nhĩ Đan lại đem ba vạn kỵ binh, tiến dọc theo sông Lục Liễu xuống đánh phá Khách Nhĩ Khách rồi tiến luôn tới đánh Ban Nhan Ô Lan.

Lúc đó Khang Hi hoàng đế sức khỏe đã hồi phục, bèn quyết ý ngự giá thân chính đem mười vạn đại quân chia làm ba lộ

Đông, Trung và Tây. Đại nguyên soái Đông lộ là Hắc long giang tướng quân Tát Bô Tố, Đại nguyên soái Tây lộ là đại tướng quân Phi Dương Cố đem đội cường binh Cam Thiểm từ Ninh Hạ vượt sa mạc dọc theo sông Thổ Lạp, đánh thốc vào mặt sau của địch. Còn Trung lộ thì hoàng đế đảm nhận trọng trách chỉ huy. Ngài xua quân theo cửa Độc Thạch tới Đa Luân Bạc, rồi hướng về phía tây sa mạc, lại theo đường Khoa Bố Đa dọc hữu ngạn sông Lục Liên, qua núi Ngách Nhĩ Đức Ni Đà La Hải Sơn.

Quân Cát Nhĩ Đan thấy lều vàng, cờ long độc của Khang Hi hoàng đế, hoảng hồn bạt vía, vội theo đường núi Đà Nặc Sơn chạy trốn. Hoàng đế xua quân đuổi tới Tháp Mễ Nhĩ thì kịp. Hai quân liều chết chiến đấu. Cát Nhĩ Đan lại đại bại. Tây lộ, Đông lộ hai chi quân mã lúc đó cũng đã hướng về phía hông bao vây địch, khiến chúa Cát Nhĩ Đan không đường trốn chạy. Khang Hi hoàng đế khuyên hàng nhưng Cát Nhĩ Đan đã uống thuốc độc chết trong Ô doanh. Hàng binh đem thây Cát Nhĩ Đan dâng vào trung quân. Từ đó các bộ lạc miền Khách Nhi Khách đều qui hàng Thanh triều. Khang Hi hoàng đế ban sư về kinh trong lòng hết sức hân hoan.

Về tới kinh, Khang Hi hoàng đế mới nhớ tới thái tử, bèn triệu sư phó của thái tử là Hùng Tử Lý vào cung tương kiến.

Bọn nội đại thần Sách Ngạch Đồ biết dấu giếm không xong bèn cho đưa thái tử vào theo. Bọn hoàng tử Dân Đê, Dân Chỉ, Dân Trinh, Dân Dị, Dân Đường, Dân Tường, Dân Đề tất cả anh em hơn mườì người đều đứng cả một bên. Thái tử Dân Nhung thấy vua cha mà cũng chẳng biết hành lễ thinh an, chỉ một mực chân nhảy miệng kêu cuồng loạn. Khang Hi hoàng đế thấy thế rất lấy làm lạ, vội hỏi, mới biết thái tử bị bệnh quá lâu, vô phương cứu chữa. Ngài lập tức toạ triều, hỏi các đại thần văn võ xử tại cách nào đối với thái tử, thì từ đại học sĩ Trương Anh, Trương Đình Ngọc, bối lặc Long Khoa Đa đến đại tướng Miên Canh nghiêu, các lão Trần Thế Quan, vốn thuộc phe Ung vương, tất cả đều một giọng tâu xin truất phế thái tử. Hoàng đế cũng biết Dân Nhung bệnh đã đến mức đó thì không còn có thể làm thái tử được nữa nên hạ một đạo chỉ dụ phế thái tử làm thứ nhân (người dân thường), phải dọn ra khỏi Đông cung.

Tin này truyền tới tai các hoàng tử, ông nào ông nấy tỏ vẻ vui mừng khôn tả. Ông nào cũng hy vọng mình được ngồi vào ngôi vị đó. Trong số này, phải nói ông hoàng Bát A Kha Dân Dị lòng tối thâm hiểm, lúc nào cũng rắp tâm mưu đồ cái địa vị ấy. Ông ta ngầm bỏ ra rất nhiều tiền bạc, mua chuộc bọn đại thần A Linh A, Tán trận đại thần Ngạc Luân Đại, Thượng thư Vương Hồng Tự, Thị lang Khuê Tự. Khéo thay lúc đó hoàng đế lại có thánh chỉ xuống sai bọn Đạt Nhĩ Hán Thân Vương là Ngạch Luân Đại hội họp đủ các đại thần Mãn Hán cùng bàn việc kế lập thái tử.

Thế là bọn nội đại thần A Linh A, bèn ngầm viết ba chữ Bát A Kha rồi đưa vào cung. Ngờ đâu Khang Hi hoàng đế lại rất ghét Bát A Kha, ghét vào bực nhất trong số các hoàng tử.

Bát A Kha không những mặt mũi đã xấu mà phẩm hạnh lại quá tệ Hoàng đế đoán biết bên trong hẳn còn tệ đoan gì đây, bèn nhân lúc ngồi toạ triều, truy vấn về chuyện này.

Hồi 55 Đổi gái lấy trai

Khang Hi hoàng đế thanh sắc đều oai tợn khiến Mãn triều văn võ đại thần kẻ nào cũng sợ hãi. Đại học sĩ Trương Ngọc Thư bèn đem việc giao hảo giữa Bát A Kha với bọn đại thần A linh A như thế nào và tự ý lập đảng ra sao, nhất nhất tâu rõ, Khang Hi hoàng đế nghe tâu, nổi trận lôi đình, lập tức hạ chỉ bắt cả bọn đại thần này giao cho Khang Thân vương Xuân Thái thẩm vấn định tội. Cùng với việc này, việc hoàng tử Dân Đê mời nhà sư Đại Lạt Ma vào phủ dùng pháp thuật trấn ếm hồn phách của thái tử cũng bị bại lộ tùm lum…

Sở dĩ việc hoàng tử Dân Đê mượn người ếm thái tử đến phát điên bị hại lộ chỉ tại tên nội giám Vy Phượng tố giác. Vy Phượng vốn là nội giám bên Đông cung, nhưng lúc đó được điều động sang phủ Trực Quận vương làm sai dịch. Khi tên tiểu thái giám vừa cho hắn biết chuyện, hắn tức khắc ngầm vào đại nội cáo biến.

Khang Hi hoàng đế nghe được tin động trời này, lập tức hạ lệnh cho viên Nội đại thần đem theo viên quan thị vệ, xông thẳng vào phủ Trực Quận vương, quỷ không hay người không biết. Quả nhiên trong vườn hoa phía sau, họ đào lên được một thằng bù nhìn bằng cỏ, trong ruột có viết chữ tên tuổi ngày sinh tháng đẻ của thái tử và ở giữa ngực có cắm sâu một chiếc đinh sắt, trên mặt thì bôi máu chó cùng khắp. Ngoài ra, lại có năm cái thân hình quỷ quái cắt băng giấy cùng chôn một chỗ trong đám đất bùn.

Khang Hi hoàng đế nhìn thấy những dụng cụ trấn ếm, tức giận đến điên người, giậm chân chửi bới om sòm. Ngài bèn hạ lệnh bắt cả số can phạm giao cho Tôn nhân phủ thẩm vấn.

Ngài còn hạ chỉ cách hết chức tước của Bát A Kha Trực Quận vương, cấm cố vương ngay trong vương phủ, đem tất cả đám nô bộc của vương thưởng cho hoàng tử thứ mười bốn là Dân Đề và đem Đại Lạt ma Ba Hán Cách Long trục hồi Mông Cổ.

Mọi việc vừa xong thì bệnh tình của thái tử Dân Nhung cũng vừa hết. Tư cách đúng mực ngày trước lại trở về. Bởi thế, hoàng đế vẫn lập Nhung làm thái tử và vẫn để ở trong Đông cung như trước. Ngài lại giao triều chính cho thái tử giám quốc để ngài lại đem một ban đại thần thân tín tuần du miền Giang Nam lần thứ sáu.

Bọn hoàng tử thấy Dân Nhung lại được làm thái tử như cũ, kẻ nào cũng lấy làm ghen tức, nhưng chẳng làm gì được lúc này. Tứ hoàng tử Dân Trinh vẫn theo kế hoạch cũ, kết thân với bọn đại thần, cung dưỡng bọn hiệp khách. Trong số đại thần phải kể đến Miên Canh Nghiêu, Các lão Trần Thế Quan là hai người giao tình rất mật thiết với Trinh. Hai vị Miên, Trần thường vào trong vương phủ. Bà phi tử Nữu Cô Lộc cũng mười phần thân mật với Miên, Trần. Đôi khi bà phi Nữu cũng tới chơi nhà hai vị này nữa.

Họ Miên có một cô vợ bé tên Tiểu Bình, rất xinh đẹp, tính tình lại nhu thuận. Vương phi trông lấy làm yêu, lúc về nhà, bà kể lại cho Ung vương nghe. Vương vốn hiếu sắc, nghe vương phi nói, giận không có cách gì gọi Tiểu Bình tới phủ để xem mặt. Rồi lúc đó gặp Miên đại tướng, vương bèn hỏi ngay chuyện Tiểu Bình, thêm vào khá nhiều điều ngưỡng mộ ca tụng. Miên đại tướng quân lại cũng là tay hảo hán, mười phần khẳng khái.

Bởi vậy, qua ngày hôm sau, người ta đã thấy một chiếc xe đưa Tiểu Bình vào phủ để hầu vương. Chỉ một việc này đủ làm cho Ung vương cảm kích tấm lòng quý hoá của Miên đại tướng. Từ đó, hai người giao tình càng ngày càng mật thiết thâm hậu.

Một trong những mỹ nhân tuyệt thế như vậy mà tại sao Miên đại tướng quân lại chịu buông nhẹ vào tay kẻ khác?

Trong việc này quả thực có một duyên cớ đặc biệt. Nguyên lai Miên đại tướng quân rất ghét loại gái trông thì đẹp nhưng xài không khoái. Đại tướng họ Miên người chẳng những cao lớn lại còn to mập mỗi ngày nếu không có năm cô gái vạm vỡ hầu hạ thì không thể nào ngủ được. Do đó, bọn giai nhân mỹ mạo đối với họ Miên bất quá chỉ để ngắm như nhìn một bức hoạ, chứ thực ra ông ta không cần. Trong phủ, có nuôi mười cô thôn nữ Sơn Đông luân phiên hầu hạ ông. Tiểu Bình tuy gọi là vợ bé nhưng đối với Miên đại tướng thì chẳng ăn nhằm gì, nên ông ta khẳng khái trao tặng cho Ung vương.

Ung vương từ khi được người đẹp Tiểu Bình chẳng khác gì được trân châu bảo ngọc. Vương một niềm sủng ái, ôm ấp ngày đêm, nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa. Vương phi Nữu Cô Lộc lúc đó lại có bầu, vương gia tha hồ rỗi rảnh để phục vụ mỹ nhân, Ung vương tuổi chẳng còn nhỏ gì mà con cái vẫn chưa có đứa nào, bởi thế ngày đêm mong mỏi bà Nữu Cô Lộc sinh cho một cậu con trai. Lúc đó bà Trần Các Lão cung có bầu đồng thời với vương phi, nên hai người mỗi khi gặp nhau thường cười nói trò chuyện. Vương phi còn hứa hẹn nếu hai người sanh trai cả thì chẳng nói làm chi, nhưng nếu sinh một trai một gái thì thế nào cũng thành sui gia với nhau.

Bà Các lão Trần Thế Quan nghe câu chuyện này vội nói với vương phi:

- Thật chẳng dám! Bọn tôi chỉ là loại cỏ nội hoa hèn, đâu có dám sánh với dòng giống thiên thần của hoàng gia.

Câu chuyện trên đây bất quá chỉ là chuyện vui giữa bọn đàn bà với nhau không ngờ kẻ nói thì vô tâm, nhưng người nghe lại hữu ý. Bà Trần Các lão cáo từ lui ra khỏi phủ thì vương phi cũng chạy vào nội thất. Mụ quản gia của vương phi thấy không có ai trong phòng, vội nói nhỏ với vương phi:

- Vương gia há chẳng thường oán nương nương không có con trai đó sao? Ngài thấy nương nương chưa từng sinh được một trai nào nên ngài đâm ra buồn chán, mặc sức thăm hoa hái cỏ bên ngoài. Già này có một kế xin hiến cho nương nương. Nếu phen này nương nương may mà sinh trai thì khỏi phải nói, nhưng nếu sinh gái thì thiết tưởng nương nương lên làm như vậy như vậy… Có thế mới không lo hỏng việc.

Bà vương phi nghe kể, gật đầu lia lịa khen hay. Tớ thầy hai người từ đó tâm đầu ý hợp, chỉ còn đợi lúc thuận lợi thi hành.

Lại nói Ung vương chỉ mưu đoạt ngôi thái tử, cho nên bên ngoài thì chiêu mộ rất nhiều những tay anh hùng hảo hán, còn bên trong triều đình thì kết giao với những viên quan cao cấp như Trương Đình Ngọc, Long Khoa Đa, Miên Canh Nghiêu, Trương Anh, Trần Thế Quan. Những vị này đều là bè đảng của vương, mỗi khi lui trào trở về đều tụ tập tại Ung vương phủ, thương nghị cơ mật đại sự.

Có một lần, Trần Thế Quan luôn ba ngày không tới khiến Ung vương bối rối không biết đường nào mà rờ. Nguyên lai Trần Thế Quan làm đến chức Các lão, tay nắm đại quyền của triều đình, cho nên mọi việc Ung vương đều cần phải thảo luận với ông ta. Mãi tới ngày thứ tư, Trần Các lão mới tới. Ung vương hỏi xem trong nhà có việc gì xảy ra thì ông ta vừa cười vừa nói:

- Chẳng dám giấu quý vị. Hạ quan đã ngũ tuần mà dưới gối vẫn còn không có trẻ làm vui. Hôm trước đây, nội nhân của hạ quan đã nằm nôi. Nhờ hồng phúc của vương gia, nội nhân sinh hạ được đứa con trai, bỏi vậy hạ quan phải ở nhà để lo liệu mọi việc, thành thử bỏ bê bao nhiêu công vụ.

Mọi người nghe đoạn, ai cũng quay mặt về phía Các lão chúc mừng. Sau đó, cả bọn ráp lại bàn bạc. Miên Canh Nghiêu lên tiếng trước.

- Hôm qua, vừa có tin báo từ biên phòng cho biết binh mã của bạo Chúa Cát Nhĩ Đan đã tiến tới miền Ô Chu Mục Tần. Hoàng đế xuất quan lần này chính là một cơ hội ngàn năm một thuở, thiết tưởng không nên bỏ lỡ.

Hội nghị tiếp tục bàn tính thêm vài việc đại sự nữa rồi mới giải tân ra về. Khi Ung vương lui vào nội thất thì vương phi Nữu Cô Lộc cũng từ trong phòng bước ra đón rước. Vương thấy bà mang một cái bụng chình ình, bỗng nhớ đến câu chuyện của Trần Thế Quan, liền đem việc sinh trai của bà Trần ra nói cho vương phi nghe.

Vương phi nghe đoạn, trong lòng hết sức lo lắng. Bà nghĩ tới cái bầu của mình, chẳng biết sau này sinh trai hay gái.

Càng nghĩ, bà càng thấy lòng nóng ran như lửa đột. Bà ngầm đưa mắt cho mụ quản gia. Mụ này sẽ gật đầu mỉm cười. Sau đấy không đầy ba hôm, Vương phi nằm nôi, vương gia biết chuyện, vội cho người hỏi xem trai hay gái thì bên trong báo ra bảo:

- Thật đáng mừng cho vương gia! Lại thêm một vị tiểu vương gia nữa rồi!

Ung vương nghe đoạn, mười phần vui vẻ. Các văn võ quan viên cung tới chúc mừng. Qua ngày thứ ba, trong phủ vương gia có đặt tiệc, nhộn nhịp đến bảy ngày mới hết. Trong dịp này, tất nhiên, các bà mệnh quan nhất tề tới vương phủ để thỉnh an vương phi… Theo tục kiêng cữ của vương phi, khi đứa bé ra đời chưa đầy một tháng, không cho ai được thấy mặt, bởi vậy các bà quan tới thăm đều không biết mặt ngang mũi dọc thằng bé thế nào.

Vương phi Nữu Cô Lộc sợ không thể tin cậy được người khác, nên mọi việc đều phó thác cho mụ quản gia. Mụ này vốn tính khôn hơn người hơn nữa trong nhà lại chỉ có một mình mụ ta với ngươi nhũ mẫu trông nom mọi việc tã lót, vú sữa cho đứa bé nên câu chuyện hoàn toàn được giữ kín. Trong phủ tuy có đến tám cung nữ hầu hạ vương phi nhưng chúng chỉ được ở trong phòng chầu chực. Vương phi có vị đại phu tới coi mạch hốt thuốc điều dưỡng. Hàng ngày lại có các bà quan tới nói chuyện giải buồn. Trong số các bà quan thì bà Trần Các lão thân với vương phi nhất. Nhưng lúc đó, bà Trần sinh chưa đầy tháng nên không thể tới vương phủ. Vương phi sốt ruột, mỗi ngày ít ra cũng nhắc tới bà Trần ba, bốn lần.

Vương phi chờ đã chán chê mới đủ tháng thì không may bà Trần lại nhuốm bệnh nặng, không ra được khỏi cửa. Tin này càng làm cho vương phi nóng lòng sốt ruột đến muốn phát điên lên, nhưng đành vậy, chẳng còn cách nào khác. Thế rồi đến lúc đầy tháng, chính vương phi phải tự mình lên xe tới phủ Các lão để thăm bà Trần. Bà Trần thấy Vương phi tới thăm mình bèn cho bế cậu bé ra cho xem. Thật là một đứa bé mặt mũi đầy đặn, da thịt trơn trắng. Vương phi lấy làm mừng lắm, ôm vào lòng coi như một bửu bối độc nhất vô nhị. Vương phi thương lượng với bà Trần cho các cơ thiếp xem qua. Bà Trần trong lòng tuy không vui nhưng lại nể mặt Vương phi, đành phải gật đầu. Thế là cậu bé được sửa soạn ăn mặc đàng hoàng.

Bà Trần cho người nhũ mẫu của con mình bế lấy, rồi lên xe, theo vương phi tiến vào phủ.

Nhũ mẫu bế cậu bé bước vào nội viên, tức thì có mụ quản gia trong vương phủ chạy ra đón lấy, bế lên nhà trên, còn dặn với nhũ mẫu ở nhà dưới chờ đợi. Nơi nhà dưới, có khá nhiều các bà, các mụ, các thị nữ. Họ vây lấy người nhũ mẫu, chuyên dài chuyện ngắn huyên thiên. Họ còn đem rượu thịt mời mọc ăn uống. Mãi tới chiều, nhũ mẫu đã chếnh choáng say. Rồi mụ quản gia bế cậu bé trở ra, trên mặt phủ chiếc khăn vàng có thêu đôi rồng bằng gấm. Nhũ mẫu giơ tay đón lấy cậu bé ẵm vào lòng, định giở tấm khăn vàng lên xem nhưng mụ quàn gia vội ngăn lại, bảo tiểu quan nhân đã ngủ say và giục bế ngay về nhà. Một thị nữ bưng ra một cái tráp nhỏ và một gói bạc bảo để thưởng cho nhũ mẫu. Cái tráp đó do vương phi tặng cho cậu bé làm lễ kiến diện. Nhũ mẫu được bạc rồi, trong lòng vô cùng sung sướng, lên xe trở về.

Khi cậu bé về tới nhà, bà Trần Các lão thấy con mình ngủ say, vội đỡ lấy để nhẹ xuống giường. Bà mở cái tráp nhỏ ra xem, bỗng giật mình sợ hãi, vì thấy bên trong có mười hạt Đông Châu lớn bằng hạt nhãn, sáu viên hột xoàn, rồi nào là hổ phách, nào là ngọc mắt mèo, nào là xuyến, nào là vòng bảo thạch. Tất cả những thứ này đều là bảo vật cực quý trong đại nội. Nhưng đáng chú ý hơn cả là một cành trâm pha lê thuý, một cành trâm nữa bằng dương hi bạch ngọc và còn đến hai chục đôi vòng tai bằng chân tứ phi thuý bảo thạch. Lễ kiến diện như vậy kể sơ cũng phải tới trăm vạn lạng bạc.

Bà Trần Các lão xem xong rồi nói:

- Bà vương phi cho chú bé nhà mình là con gái hay sao mà thưởng trâm và vòng như thế kia? Chẳng lẽ chú bé nhà mình chải tóc kỳ đầu lại đeo vòng tai? Quả thực buồn cười nhỉ?

Nhũ mẫu nói tiếp:

- Cỏ lẽ vương phi kỹ lưỡng quá cho nên trâm vòng để sau này cậu bé nhà mình lớn lên lấy vợ dùng làm sính lễ hẳn?

Giữa lúc hai người đang hí hửng cười nói với nhau, thì cậu bé trên giường tỉnh dậy khóc vang lên. Nhũ mẫu vội chạy lại bế, chợt nghe miệng mụ ta la lên một tiếng: "Ối chao!" hoảng hốt. Bà Trần giật nẩy mình, vội chạy ra xem, cũng kêu lớn một tiếng: "Kỳ quái" và khóc rống lên:

- Con tôi đâu mất rồi? Trời ơi là trời!

Tiếng kêu khóc của bà Trần chẳng mấy lúc đã làm hoảng hết cả mọi người trong phủ. Họ vội chạy tới thăm hỏi. Các lão Trần Thế Quan lúc đó đang tiếp khách tại nhà trên, bỗng thấy đứa tiểu đồng hối hả xông vào sảnh, bất chấp cả khách, miệng thở hổn hển nói bà có việc xin mời ông vào nhà trong.

Trần Thế Quan trừng mắt nhìn đứa tiểu đồng. Khách thấy thế cáo từ ra về. Các lão đứng lên tiễn khách xong, mới quay vào nhà trong vừa chạy vội vừa hỏi:

- Xảy ra chuyện gì mà hối hả quá vậy?

Hồi 56 Vua Khang Hi gạt lệ phế Thái tử

Trần Các lão, miệng thì hỏi tên tiểu đồng, chân thì tông mạnh cánh cửa phòng để vào trong. Ông nhìn thấy phu nhân nước mắt đầy mặt, tay vỗ bàn, miệng kêu om sòm:

- Trời ơi! Thằng bé nhà ta rõ là con trai, thế mà vào vương phủ có một buổi bỗng biến thành con gái, ông ạ!

Trần Thế Quan nghe đoạn, đã hiểu cớ sự, vội xua tay nói:

- Đừng có làm om sòm lên!

Nói xong, ông đuổi hết mọi người trong phòng ra, đóng cửa lại, rồi mới gọi nhũ mẫu lại gần bên mà cật vấn. Nhũ mẫu gạt lệ, đem chuyện tới vương phủ như thế nào, mụ quản gia bế cậu bé vào trong chuyện mãi tới chiều mới bế trả lại ra sao, không cho lật cái khăn phủ mặt cậu bé thế nào và khi về tới nhà cậu bé hoá thành cô bé ra sao, từ đầu chí cuối kể lại một lượt rành mạch không sót một chi tiết nhỏ nào, chỉ bỏ quên có một việc là y thị quá chén say chếnh choáng trong vương phủ mà thôi.

Trần Các lão nghe xong câu chuyện càng hiểu rõ thêm, bèn bảo nhũ mẫu:

- Trai hay gái chẳng kể gì! Trẻ nào cũng cần cho ăn no ngủ kỹ là được rồi, còn chuyện tới vương phủ từ nay cấm không được nhắc tới nghe không? Nếu người lắc lém cái mồm thì trước hết ta lấy đầu ngươi đó, nhớ chưa?

Nói xong, ông quát bảo nhũ mẫu ra ngoài ngay. Nhũ mẫu hoảng hồn bạt vía, vội bế cô bé rút êm theo cửa hậu. Lúc đó Trần Thế Quan mới bảo vợ:

- Này bà! Việc không có gì khó hiểu cả. Vương phi sinh hạ một tiểu công chúa nhưng vì bà ta chót nói dối vương gia là một tiểu vương gia, nên mới bảo đem thằng bé nhà mình vào cung rồi thừa dịp đánh đổi. Bây giờ, việc chạy vào vương phủ để đòi con về hẳn không được rồi. Ngay cả nếu tùm lum lên thì chẳng những mạng thằng bé khó toàn mà toàn gia đình mình cũng hết sống nổi nữa. Thôi, bà ơi! Già này xin bà từ nay chớ nhắc tới chuyện đó. Số vợ chồng mình mà có con trai thì rồi thế nào chả có. Bà đã sinh một đứa trai thì lo gì lại chả sinh đứa thứ thứ ba.

Trần phu nhân nghe chồng nói đầy đủ góc cạnh của câu chuyện mới vỡ lẽ, hết mọi nghi ngờ. Toàn gia Trần Các lão hình như không ai hay biết có chuyện đó xảy ra.

Tính đủ hai tháng vương phi mới bế cậu bé ra cho Ung vương nhìn mặt. Vương vừa nhìn qua thấy cậu bé mũm mĩm trắng trẻo, hơn nữa lại là con của phi tử Nữa Cô Lộc, thì lấy làm yêu quý lắm. Người trong phủ đều gọi cậu bé là Từ vương gia.

Trần Thế Quan rất sợ việc đổi con này bị bại lộ, liên luỵ tới mình nên ông dâng sớ xin Khang Hi cho trở về quê vui thú điền viên. Hoàng đế cố giữ lại mà không được, đành phải ưng thuận. Ung vương thấy mất một tay thân tín thì lòng buồn khôn xiết. May cho vương còn có Ngạc Nhĩ Thái và Trương Đình Ngọc hai người đem hết tâm lực để phò trợ nên chẳng bao lâu phần nửa các hoàng tử đều trở thành tâm phúc của vương.

Trong số các hoàng tử, có Dân Chỉ, Dân Kỳ, Dân Hựu, Dân Nga, Dân Đường, Dân Đào, Dân Đê tự lập môn phái riêng, nhất định không chịu đi cùng một đường với Ung vương. Bọn này một mặt thực hiện âm mưu của mình một cách kín đáo một mặt tìm cách lấy lòng vua cha. Khang Hi hoàng đế bèn phong Dân Chỉ, Dân Kỳ, làm Thân vương; Dân Hựu, Dân Nga làm Quận vương; Dân Đường, Dân Đê làm bối tử.

Ung vương được tin này, càng lấy làm giận. Trong bọn hoàng tử vừa kể trên phải nói Dân Dị, Dân Đường là hai đối thủ đáng ngại nhất của vương. Thâm tâm bọn này là hoạt động ngấm ngầm để mưu đoạt ngôi thái tử cho bằng được. Họ chẳng cần luyện tập võ nghệ, chẳng cần bầu bạn các tay hảo hán, chỉ thông đồng với mấy tên thái giám rồi nhờ đó giao kết với bọn phi tần, ngày ngày đem chuyện tồi bại của thái tử ra nói với nhà vua. Chuyện nói xấu càng ngày càng nhiều. Có kẻ nói thái tử nhiều lúc vào cung đùa cợt với cả phi tần. Cung có kẻ nói thái tử kết ngầm bọn hư đảng mưu sát hoàng đế, bao chuyện động trời như vậy, dù là gan đồng dạ sắt cũng phải nổi đoá, huống hồ một người như Khang Hi hoàng đế. Hơn nữa, những chuyện kể đây lại đều từ miệng mấy bà phi cưng quý nhất thì làm sao Khang Hi lại không tin. Thế là ngài truyền lệnh cho Tôn Nhân phủ, phế ngay thái tử. Nhưng Cố Luân công chúa cố tâm khuyên can đôi ba lần. Bà nói:

- Hoàng thượng hãy bớt giận. Phế lập thái tử là một đại sự chứ không phải việc thường. Ngài nên bàn tính cẩn thận với các vị đại thần trước đã.

Qua ngày hôm sau, biên viễn có tin cấp báo, nói bộ lạc Cát Nhĩ Đan làm phản, hết sức ngang ngược. Các bộ lạc Xa Thần, Trát Tát Khắc bị chiếm cứ, đều cho người chạy tới kinh đô cáo cấp năm lần, bảy lượt. Khang Hi hoàng đế được tin lập tức toạ trào, cùng các vị đại thần thương nghị, rồi xuống luôn mấy đạo thánh chỉ. Đạo thứ nhất phong Dụ Thân Vương Toàn Phúc làm Phủ Viễn đại tướng quân, Dân Đê làm Phủ Viên phó tướng quân, đem theo năm vạn người ngựa xuất binh ra Bắc Cổ Khẩu. Đạo thứ nhì phong Cung Thân vương Thượng Ninh làm An Bắc đại tướng quân, Giản Thân vương Nhã Bố Hoà và Tín Quân Vương Ngạc Lễ làm phó tướng quân đem theo năm vạn người ngựa xuất binh ra Hi Phong khẩu. Đạo thứ ba khiến bọn Nội đại thần là Đông Quốc Cương, Đông Quốc Suy, bọn đại thần là Sách Ngạc, Đồ Minh Châu, bọn A Mật Đạt đô thống là Tô Noa Lạt Khắc Trì, Chương Xuân A, Tịch Đát Nặc Mại, bọn Hộ quân thống lĩnh là Miêu Tề Nạp, Dương Dại, bọn Tiền phong thống lĩnh là Ban Đạt Nhĩ, Sa Mai Đồ Đô tuỳ doanh tham tán quân vụ, đem tất cả mười vạn đại binh rầm rầm rộ rõ kéo thốc ra quan ngoại.

Không ngờ, một lực lượng hùng hậu như vậy mà suốt một năm trời từ mùa thu xuất quân tới mãi mùa hạ năm sau vẫn chưa đẩy lùi được bọn Cát Nhĩ Đan. Khang Hi hoàng đế trong lòng càng thêm nóng nảy bực dọc. Ngài bèn tự mình điều động ngự lâm quân mã kéo tới miền Bác Lạc Hà để đốc chiến. Đồng thời ngài hạ lệnh thái tử Dân Nhung ở lại kinh đô giám quốc.

Khi Khang Hi hoàng đế vừa ra tới quan ngoại thì không ngờ cáo trạng tội ác của thái tử cũng bay theo ra như bươm bướm. Có tờ tố cáo thái tử khi lăng tôn thất, có tờ tố cáo nhiễu hại bách tính, có tờ tố cáo tự tiện cướp đoạt cống vật, có tờ tố cáo làm loạn cung đình, có tờ khủng khiếp hơn, tố cáo âm mưu thí nghịch phụ hoàng. Hoàng đế xem rồi lòng giận tức xưa lại nổi dậy, gần như phát điên lên. Ngài lập tức hạ một đạo thánh chỉ, cho người về ngay kinh triệu thái tử ra quan ngoại.

Mấy ngày sau, thái tử Dân Nhung đã tới hành dinh. Nhung vào trướng quỳ trước mặt phụ hoàng. Khang Hi hoàng đế nghe Nhung nói khùng khùng điên điên thì bực tức đến cùng độ. Ngài tuốt cây bội đao, vung lên chém Nhung một nhát. May thay lúc đó có ông cậu Đông Quốc Duy đứng bên cạnh đỡ kịp. nên không việc gì. Hoàng đế vỗ bàn quát mắng um xùm, rồi nhỏ lệ ròng ròng xuống đôi má. Ngài rủa thái tử hành động bậy bạ. Chỉ vì nể mặt người mẹ mà ngài nín nhịn hai mươi năm trời và tha tội cho thái tử đó thôi. Bây giờ, tội ác càng ngày càng nhiều, thái tử lại dám tự ý kết đảng, làm nhục đại thần, sinh tính hung ác, mưu hại anh em, thậm chí nhiễu loạn cả cung đình, mưu thí cả vua cha. Người như thế quả đã cuồng vọng, bội nghịch đến quá mức, thử hỏi ngài còn muốn để lại trên đời này mà làm gì?

Khang Hi hoàng đế chửi rủa đến nỗi ngất xỉu luôn. Lúc tỉnh dậy, ngài vẫn thấy thái tử quỳ trước mặt, bèn nhảy tới phía trước, giơ thẳng cánh tát hai cái vào mặt thái tử rồi quát lớn:

- Cút ngay đi cho rảnh mắt ta!

Hôm sau, mọi người thấy một đạo thánh chỉ hạ xuống, phế bỏ thái tử, giao binh quyền lại cho Khang Thân vương, rồi bãi giá hồi kinh. Về tới kinh, Khang Hi hoàng đế sai cầm tù Dân Nhung, rồi triệu tập đại thần bàn chuyện lập thái tử mới. Bọn đại thần anh nào cũng vì sự biệt đãi của hoàng tử mình phò trợ, nhân dịp này hết sức hết lòng đề cử chủ mình.

Hồi đó, Bát hoàng tử Dân Dị đã ngầm biếu xén rất nhiều châu báu vàng ngọc cho quốc cữu Đinh Quốc Duy và đại học sĩ Mã Tề để họ ngầm sai bọn Nội đại thần A Linh A; Tán trật đại thần Ngạc Luân Đại, Thượng thi Vương Hồng Tư, Thị lang Khuê Tự và cả Ba Hỗn Đại, làm tờ sớ tâu lên nói Bát A Ca (Dân Dị) có thể kế vị.

Khang Hi hoàng đế xem xong tờ sớ, chẳng ngờ nổi trận lôi đình, quát:

- Bát A Ca ít khi chăm lo đến công việc. Huống hồ trước đây, hắn còn bị nghi là mưu hại thái tử. Mẹ hắn lại xuất thân nơi bần tiện thì làm sao lập hắn được?

Ngài phái người bí mật điều tra, quả nhiên tra ra việc Dân Dị tư thông với bọn đại thần. Qua ngày thứ hai, hoàng đế lên điện, lớn tiếng quát hỏi. Ba Hỗn Đại giật mình kinh hoảng, mồ hôi toát ra như tắm, vội quỳ xuống đất, đem chuyện Đông Quốc Duy cùng Mã Tề hai người chi vẽ bọn y bảo tấu cho Bát A Ca như thế nào kể lại một lượt. Khang Hi hoàng đế nghe xong, long nhan càng giận dữ. Ngài lập tức cách chức tất cả bọn quan lớn nhỏ; lại cách luôn cả tước vị Thân vương của Dân Dị. Đông Quốc Duy nhờ được cái thế quốc cữu nên chỉ bị quở trách vài câu rồi đuổi ra khỏi kinh sư, vĩnh viễn không được vào cung. Đại học sĩ Mã Tề bị kết án ly gián tình cốt nhục trong hoàng gia, tội rất nặng, hạ chỉ giao hình bộ chém đầu. Các quan văn võ Mãn triều cực lực tâu xin miễn tội, lúc đó hoàng đế mới khoan hồng, chỉ cách tước danh. Dân Dị cũng bị giao về hình bộ nghiêm hành quản thúc.

Sau khi xảy ra việc động trời này, bá quan văn võ miệng đều câm lại như hến, chẳng còn kẻ nào dám ho he xin xỏ cho ai. Ngay cả hoàng đế cũng chẳng thèm nói tới việc lập thái tử.

Mãi về sau, khi thấy hoàng đế bớt giận rồi thì hoàng hậu mới lên tiếng khuyên nhủ:

- Lập thái tử vốn là việc quốc gia đại sự. Bệ hạ hiện có một số đông hoàng tử, ngài không thể không lập người kế ngôi. vì có thế mới tránh khỏi chuyện biến loạn trong tương lai được.

Hoàng đế thấy hoàng hậu nói phải, liền bàn tính với bà, hỏi xem hoàng tử nào xứng đáng, thì bà nói:

- Thập tứ hoàng tử Dân Đường, tính vốn hiên hậu, có thề lập làm tự quân được.

Câu nói này của hoàng hậu thật rất hợp ý hoàng đế. Song, thập tứ hoàng tử hiện còn nhỏ tuổi, nếu đem công bố thánh chỉ ra, e rằng có kẻ mưu hại mất. Nghĩ tới chỗ này, bỗng ngài nhớ tới Ngạc Nhĩ Thái và Trương Đình Ngọc. Hoàng hậu cùng hùa thêm, nói hai người này vốn có bụng trung thành có thể ký thác được, thánh chỉ liền hạ xuống, truyền Trương, Ngọc hai người vào cung gấp để bàn tính việc lớn.

Được hỏi về chuyện lập thập tứ hoàng tử lên làm thái tử, Ngạc Nhĩ Thái bỗng nghĩ ra một kế bèn đề nghị với Khang Hi hoàng đế:

- Xin thánh thượng tự tay viết chiếu truyền ngôi rồi bí mật đem giấu tại mặt sau tấm biển lớn của điện Chính Đại Quang Minh. Đợi khi nào thánh thượng trăm tuổi, lúc đó Cố mệnh đại thần sẽ tới lấy chiếu thư tuyên đọc. Các hoàng tử thấy thủ bút của thánh thượng, tất nhiên không còn ai có thể tranh vào vào đâu được nữa.

Khang Hi hoàng đế gật đầu khen hay. Ngài nhớ tới quốc cữu Long Khoa Đa, liền cho triệu về cung, mặt khác và tự tay mình thảo tờ chiếu. Chiếu như sau:

"Dân Nhung nhuốm chứng tật khó dạy bảo, đã bị truất phế. Sau khi yến giá, trẫm truyền ngôi lại cho thập tứ hoàng tử Long Khoa Đa vốn là nguyên cữu (quốc cữu đầu tiên), Ngạc Nhĩ Thái, Trương Đinh Ngọc đâ từng chịu cái ơn tri ngộ đặc biệt của Trẫm: các ngươi phải đồng tâm hợp lực phò trợ tự quân, làm sáng tỏ lẽ trời, chớ có bạc ơn mà hỏng trọng trách khiến phụ ý trẫm, Khâm thử".

Ba vị đại thần chịu cố mệnh của hoàng đế, đem tờ chiếu giấu kín vào sau tấm biển lớn tại điện Chính Đại Quang Minh. Xong đâu đấy họ rút êm ra khói cung, ai về nhà nấy.

Cách lập đi chiếu này của Thánh tổ còn được dùng liên tiếp bảy đời về sau, suốt từ Ung Chính, Càn Long, Gia Khanh. Đạo Quang cho tới mãi Hàm Phong, Đồng Trị, Quang Tự. Sau đó cũng là việc về sau, chưa cần nói tới. Lại nói chuyện quốc cữu Long Khoa Đa vừa đặt chân tới phủ đã thấy tên nội giám của Ung quán vương ngồi đợi đó từ lâu. Hai bên thì thầm. Đa bảo tên nội giám hẹn gặp Ung vương tối hôm đó, vào canh ba bốn khắc. Tên nội giám vội quay về vương phù hồi bẩm.

Trời đêm qua canh ba, Long Khoa Đa lặng lẽ bước ra cửa sau rồi tới cống hậu cung Ung vương, lẻn vào bên trong. Khi tới một mật thất, ông đã thấy đại học sĩ Trương Đinh Ngọc, tướng quân Ngạc Nhĩ Thái đều đã có mặt tại đây. Ngoài ra còn có vài vị quân sư, một đám đông kiếm khách. Lát sau, Ung vương bước vào mật thất. Cả bọn thì thào bàn tán với nhau suốt tới sáng mới nghỉ ăn cháo yến rồi giải tán. Long Khoa Đa, Ngạc Nhĩ Thái, Trương Đình Ngọc lại thượng triều như cũ. Hoàng đế thăng điện, nhưng lúc này ngài không lớn tiếng, nặng mặt như hôm qua nữa.

Quan Binh bộ thượng thư xuất ban tâu:

- Muôn tâu thánh thượng! Văn thư cáo tiệp của Khang Thân vương từ tám trăm dặm vừa mới về tới, nói bộ chúa Cát Nhĩ Đan đã đại bại ở Đại Tích sơn, chạy trốn suốt đêm tới Cương A Não Nhĩ. Hiện nay quân ta đã thu phục toàn bộ Cát Nhĩ Đan, bộ chúa đã đích thân tới đại doanh của ta nộp khoản đầu hàng Khang thân vương bất nhật ban sư về kinh.

Khang Hi hoàng đế nghe tin này, lòng vô cùng hoan hỉ, liền truyền chỉ khen thưởng, chuẩn bị tiệc mừng chiến thắng, đợi khi Khang thân vương về là đích thân xa giá tới để khao thưởng. Chẳng bao lâu, Khang thân vương thống lĩnh đại binh về tới kinh. Hoàng đế ngự giá ra khỏi thành đón rước. Mười vạn đại quân vừa nhìn thấy hoàng đế nhất tề tung hô vạn tuế. Ngài ngồi ngay trên ngựa, ban thưởng rượu mừng.

Qua ngày hôm sau, Khang thân vương đem theo cả bọn quan viên tướng tá tùng chinh vào triều tạ ơn, hoàng đế ban yến ngay tại Sùng Chính điện, hạ thánh chỉ thăng cấp cho mọi người, ban thưởng cho Khang Thân vương chức Tử cấm thành kỵ mã.

Lúc này, trong nước thái bình, bốn bề thịnh trị, Hoàng đế lại Nam tuần lần thứ sáu. Nội đại thần sớm đã tống đạt văn thư đi khắp các tỉnh miền Giang Nam phải chờ chực tiếp giá suốt lộ trình.

Đã năm lần Nam tuần, hoàng đế lần nào cũng tới miền Tô Châu du ngoạn. Đất này có một vị thân sĩ giàu có vào bậc nhất, họ Uổng tên Uyển. Mỗi lần xa giá tới, vị Uổng thân sĩ này đều đem bọn sĩ phu toàn thành ra đón. Trong trang viên của họ Uổng có một khu vườn bài trí rất đẹp gọi là Sư tử lâm.

Nơi đây được coi là một trong nhưng thắng cảnh nổi danh nhất miền Giang Nam. Lần Nam tuần đầu tiên vào năm thứ hai mươi ba niên hiệu Khang Hi, hoàng đế đã có tới Sư tử lâm một lần. Ngài đối với Uổng Uyển rất thân tình. Lúc lâm biệt, ngài có thưởng cho Uổng Uyển một cuốn sổ trong có thủ bút của ngài. Cuốn sổ này tất nhiên truyền tới tay con trai Uyển, lúc đó mới có tám tuổi, tên gọi Uổng Nguyên. Quang cảnh tiếp giá của cha xưa thế nào, Nguyên đều nhớ rành rọt trong đầu.

Khi Thánh Tổ trở về kinh, những đồ ngự dụng đều được cất giấu và niêm phong cẩn thận. Lần Nam tuần thứ sáu này tính ra cách lần đầu có hơn hai mươi năm.

Thế rồi công văn hoả tốc tới Tô Châu. Đám thân sĩ lại một phen cuống quýt cả lên. Viên tuần phủ Tô Châu ngày đêm chỉ có một việc bàn tính với đám thân sĩ về việc tiếp giá. Trong bọn thân sĩ, tuy có kẻ đã tiếp giá lần trước nhưng ngoài hai mươi năm rồi, họ đã già lẫn cả, không còn làm được việc gì.

Còn mấy kẻ hậu bối chưa từng được thấy quang cảnh vĩ đại này, thử hỏi có dám ra đảm nhiệm trọng trách tiếp giá? Tuần phủ Tô Châu bèn đưa ra ý rằng, lại để gia đình họ Uổng nhận lĩnh việc này, lấy cớ rằng hoa viên nhà họ Uổng rộng lớn, gia tài lại sung túc, bao nhiêu những đồ ngự đụng ngày trước vẫn còn nguyên cả.

Uổng Nguyên thấy mọi người chứng khẩu đồng từ, cũng chẳng cần thoái thác làm gì nữa, liền nhận lĩnh trách nhiệm.

Gia đình họ Uổng có hai vị tiểu thư, nàng lớn tên Liên, nàng nhỏ tên Dung. Cả hai nàng đều mặt tươi như hoa phù dung, thân hình lả lướt như cành dương liễu. Cô chị mười bảy, còn cô em mười sáu - cái tuổi của xuân tình đương độ.

Thành Tô Châu khắp ba hạng người, từ thượng lưu, trung lưu cho tới hạ tiện, ai chẳng nghe danh hai người đẹp của nhà họ Uổng. Biết bao nhiêu quan gia quý tộc đã tới cầu hồn, nhưng Uổng Nguyên đều một mực từ chối, chỉ vì y không muốn xa hai cô con gái quý của mình. Liên và Dung đang ở trong hoạ viên, nhưng vì việc hoàng đế sắp tới nên phải đi vào nội viên, chẳng mấy chốc ngày mồng một tháng hai đã tới. Hôm đó người ta thấy hai tên nội giám đem mật dụ của hoàng đế tới Tô Châu, xông thẳng vào nha môn phủ đài. Viên phủ đài Tô Châu vội mở ra xem mật dụ, bèn cho quan lại, thân sĩ Tô Châu tới Trấn Giang đón rước. Hai tên nội giám còn nói thêm:

- Thánh chỉ của hoàng thượng còn bảo bọn tôi tới Tô Châu kiếm cho kỳ được một trăm cô gái con nhà lương gia sẵn sàng để đợi lệnh. Vậy xin cố lo cho đủ số trăm người trong ba ngày để bọn tôi mang đi.

Phủ đài nghe tới chuyện này, tuy thấy chẳng ra thể thống gì cả nhưng không thể bác bỏ, ngay đêm hôm đó, triệu tập thân sĩ trong vùng lại để hàn tính. Một vị thân sĩ đứng lên nói:

- Việc này dễ quá mà! Xứ Tô Châu nhà mình có thiếu gì cô đào con hát. Ta chỉ cần chọn đúng một trăm đứa xinh đẹp, ăn mặc lịch sự rồi đưa đi là xong.

Viên phủ đài nghe ra, vỗ tay khen hay, rồi tức khắc cho sai nha đi lùng khắp nơi, bắt tất cả cô đào, con hát, đĩ điếm về nhà, đích thân chọn lựa đúng một trăm đứa, giao cho hai tên nội giám mang đi. Đồng thời, ông tập họp tất cả văn quan võ tướng, cùng thân sĩ toàn tinh tới Trấn Giang đón giá.

Cách đó vài hôm, hoàng đế ngồi thuyền tới Hữ Dả quan rồi lên bờ. Mười sáu tên thái giám khiêng một cỗ kiệu chạm rồng, chạy thẳng vào hoa viên của Uổng thân sĩ mới hạ xuống. Uổng Nguyên thấy hoàng đế giáng lâm nhà mình, lấy làm vinh hạnh đến tột bực, suốt ngày chờ chực ngoài cổng. Hoàng đế ngự trong hoa viên, ngày đêm vui đùa với bọn cô đào, con hát, nào gối dài, nào chan ấm, phè phỡn hành lạc. Phía ngoài. phu đài cho tập hợp hết bọn quan chức đứng đợi lệnh. Bọn thái giám canh cửa không cho một kẻ nào vào trong. Đám quan lại đành phải hùn nhau kiếm một số tiền là mười vạn lạng bạc "hiếu kính" lũ thái giám, lúc đó chúng mới chịu vào thông báo giùm. Hoàng đế nhất nhất truyền kiến. Người cuối cùng là Uổng Nguyên, được vào trò chuyện mãi tới canh hai mới lui gót trở ra.

Từ hôm đó, hoàng đế ngày nào cũng truyền gọi Nguyên vào hầu chuyện. Nguyên cũng chuẩn bị rất nhiều những món ăn đồ chơi đặc biệt để dâng lên ngài. Quan hệ giữa hai người thành ra hết sức mật thiết. Hoàng đế bảo Nguyên:

- Ngày xưa, nhiều vị vua có thiếu gì bạn áo vải. Nay trẫm muốn cùng khanh kết nghĩa anh em có được không?

Nguyên nghe xong, giật mình hoảng sợ, vội bò sát xuống đất, dập đầu lia lịa, tâu:

- Kẻ vi thần thực không dám thu mệnh!

Hoàng đế đích thân bước tới nâng Nguyên dậy mà bảo:

- Xin cho mời phu nhân và tiểu thư ra đây cho Trẫm được gặp một lần và nhận làm chỗ người nhà.

Lệnh của hoàng đế ban ra, thử hỏi Nguyên làm sao dám trái lời. Nguyên chạy đi gọi vợ là Phương thị và hai con gái là Uổng Liên, Uổng Dung ra hoa viên. Được ra chầu vua, hai cô Liên, Dung trang điểm lộng lẫy, vàng ngọc châu báu gắn đầy người, môi son má phấn, mắt phượng mày ngài, xinh đẹp không để đâu cho hết.

Hoàng đế vừa nhìn thấy bóng hai nàng đã hết lời khen ngợi. Ngài hạ lệnh đặt tiệc, tự tay chuốc chén, bồi tiếp ba mẹ con. Tiệc vui kéo dài mãi tới lúc trăng lên đèn mở, thế mà ba mẹ con vẫn chưa thấy ra cho. Nguyên trong lòng lo lắng cuống quýt cả lên nhưng biết làm sao được kia chứ? Nguyên đứng phía ngoài cống, lăng xăng chạy đi chạy lại, hòng có tí tin tức gì lọt ra. Nhưng buồn thay, tịnh vô âm tín! Mong mãi Nguyên mới thấy vợ bước ra, hỏi tới con gái, thì thị chỉ thở dài và lắc đầu nói:

- Hoàng thượng lưu chúng lại trong phòng rồi?

Nguyên nghe xong như bị ai nện cho một cùi vào đầu, chỉ còn biết tròn xoe đôi mắt và giậm chân xuống đất thình thịch, nhưng rồi cũng đành chịu chứ làm gì hơn được nữa.

Luôn một hơi ba ngày ba đêm, hoàng đế chẳng truyền ai cả. Qua ngày thứ tư, tên thái giám canh cửa bỗng truyền lệnh, nói hoàng thượng muốn hồi kinh. Bọn văn quan võ tướng Tô Châu lại một phen chạy vạy đến bở hơi tai. Họ rối rít, nào nghị trình này nọ để tống tiễn bọn thái giám, nào lo liệu mười sáu chiếc quan thuyền để đưa hoàng đế xuống ngự.

Uổng Nguyên cũng theo sau đoàn người tiễn đưa. Chính mắt Nguyên nhìn thấy hai cô con gái cưng được đưa xuống thuyền. Rồi một tiếng thanh la vang dậy, long kỳ kéo lên, ngự thuyền rời bến và xa dần.

Uổng Nguyên tiễn đưa thánh giá xong, cúi đầu buồn bã trở về. Vừa về tới nhà Nguyên đã thấy rất đông thân hữu kéo tới để chúc mừng. Ai cũng nói chẳng bao lâu nữa y sẽ trở thành quốc trượng.

Qua ngày thứ ba, bỗng từ nơi phủ đài một viên võ tuần bộ chạy tơi bảo:

- Hôm nay, phủ đài vừa mới tiếp được một công văn rất khẩn yếu, xin mời ngài tới gấp nha môn để thương nghị.

Uổng Nguyên nghe xong chẳng hiểu sự thể ra sao, đành phải leo lên kiệu đi ngay tức khắc. Khi tới phủ nha, Nguyên thấy vị phủ đài cùng khá đông quan lại, thân sĩ ngồi trong, vẻ mặt người nào cũng hớt hơ hớt hải, lấm lét nhìn vào chiếc án thư phía trên có đặt một bức công văn. Bọn này thấy Uổng Nguyên vào liền cầm đưa cho Nguyên xem, thì ra đó là bức công văn từ Hoài Ân phủ gửi tới, nội dung nói thánh giá qua địa phận vào ngày mai mười bốn tháng hai và tính ra thì ngày hai mươi sáu sẽ tới Tô Châu.

Mọi người có vẻ lo sợ, vì lúc này họ mới biết rõ hoàng đế hôm trước là hoàng đế giả, còn người sắp tới đây mới chính là Khang Hi hoàng đế. Kẻ nào nhìn thấy bức công văn đó còn được, chứ với Uổng thân sĩ thì thật là cả một chuyện trời sập trước mắt ông. Ông giậm chân thình thịch xuống đất, miệng lắp bắp nói:

- Hỏng… bét! Hỏng… bét rồi! Tội nghiệp cho hai con gái tôi! Trời ơi!

Uổng Nguyên còn chưa nói hết câu thì hai dòng lệ đã tràn xuống đôi gò má xám ngoét. Bọn quan lại đứng chung quanh, kẻ dỗ người khuyên. Có kẻ an ủi:

- Đứa nào cả gan giả dạng hoàng đế, bọn tôi thế nào cũng tầm nã được, đem về kêu án tử hình. Lúc đó hai vị thiên kim tiểu thư sẽ lại "châu về hợp phố" thôi.

Phủ đài cũng lên tiếng:

- Câu chuyện nầy xảy ra tất cả bọn ta đều liên can. Vậy xin chư vị nhân huynh tuyệt đối giữ kín, chớ có tiết lộ cho bất cứ kẻ nào khác hay được. Thử hỏi chư vị còn muốn sống nữa hay không?

Lời nói nửa như nhắn nhủ nửa như doạ nạt này quả đã làm cho bao nhiêu cái mồm câm lại như hến. Rồi không ai bảo ai, tự biết phận mình tất cả lặng lẽ rút để mai đây lại phải lo liệu chương trình tiếp giá lần nữa.

Tháng hai ngày hai mươi sáu, hoàng đế giá lâm Hồ Khẩu, rồi ba mươi, lên chơi Đặng uý sơn. Lão hoà thượng Tế Chí chùa Thánh Ân năm xưa tiếp giá thì còn trẻ, nay đã bảy mươi ba tuổi, đầu tóc bạc phơ, quỳ mọp ngoài sơn môn đón giá. Khang Hi hoàng đế sai thái giám ban thưởng cho nhà sư già hai cân nhân sâm và không biết bao nhiêu là hoa trái, dưa cáp mật, quả phiên bà, trái nho, trái tùng… Thánh tổ giơ tay ra vuốt mớ râu tóc bạc phơ của hoà thượng Tế Chí rồi nói:

- Hoà thượng già rồi. Đến ngày mười hai tháng ba, hoà thượng nên tới Ký Sương Viên núi Huệ Sơn vùng Vô Tích mà ở.

Ký Sương Viên là khu vườn trong đó có cây cổ thụ, thân cây có tới ba người ôm mới xuể. Thánh tổ thường đi bách bộ dưới bóng cây này. Sau đó, khi về kinh rồi, ngài thường có thư hỏi xem cây cổ thụ còn không. Hồi đó, có một vị thân sĩ tên gọi Tra Thận Hành, có làm một bài thơ nói cây được binh an gởi trình hoàng đế. Bài thơ như sau:

Cao tận mây xanh khoát mấy ôm.

Khum khum cành lá hỏm nên vòm

Bình an xin báo thiên nhan rõ.

Danh mộc Giang Nam chỉ một chòm

Sau khi gặp hoà thượng Tế Chỉ ở Hoa Sơn, hoàng đế về tới kinh, trong lòng thường nhắc nhở tới. Về sau, khi thánh tổ sáu mươi chín tuổi thì hoà thượng Tế Chí đã tám mươi tám thế mà vẫn còn khang kiện. Ngài bèn sai một viên quan tới Vô Tích đón hoà thượng về kinh, cử hành Thiên Tẩu Yến. Thiên Tẩu Yến là gì? Đó là yến tiệc do nhà vua thết một ngàn ông lão từ sáu mươi lăm tuổi trở lên, bất luận là Mãn hay Hán.

Các vị bô lão này được đưa tới đây bằng noãn kiệu, dự yến liên tiếp trong ba ngày. Hoà thượng Tế Chí được mời lên ghế chủ toạ trong buổi tiệc. Ngoài ra, hoàng đế còn bày một chiếu rượu đặc biệt toàn tế tửu để thưởng cho Tế Chí hoà thượng.

Ngài ngồi cạnh để chuốc chén, lòng đầy vui vẻ. Ba ngày sau tiệc mới tan. Hoàng đế ban thưỏng cho mỗi người một bức tự hoạ đem về nhà. Suốt cả năm đó, thánh tổ hết sức hứng khoái tháng giêng tháng hai, ngài tuần hạch Cơ Điện. Từ tháng tư đến tháng chín, ngài tuần hạch Nhiệt Hà. Qua tháng mười, ngài tuần hạch Nam Uyển, tổ chức cuộc săn bắn. Ngài cưỡi ngựa bắn cung còn rất mạnh. Nhưng đến tháng mươi một, có một hôm, ngài bỗng nhuốm lại bệnh, chẳng mấy bệnh đã trở thành trầm trọng. Ngài bèn hạ lệnh cho rời giá từ Nam Viên qua Sướng Xuân Viên để về dưỡng bệnh tại Ly cung.

Hồi 57 Sửa di chiếu, Ung vương cướp ngai vàng

Tin Khang Hi hoàng đế dưỡng bệnh ở Sướng Xuân Viên bay tới tai Ung quận vương Dân Trinh, tức thì vương chạy đến thỉnh an. Không ngờ bệnh tình của hoàng đế đã quá trầm trọng, trong lòng lại phiền bực trăm phần nên ngài không muốn gặp mặt họ hàng thân thích.

Dân Trinh đành phải lui ra ngoài, bí mật dò la tin tức.

Hầu hạ bên cạnh hoàng đế lúc đó, ngoài vài tên nội giám thân cận và cung nữ ra, chỉ có ba vị đại thần là quốc cữu Long Khoa Đa, tướng quân Ngạc Nhĩ Thái, đại học sĩ Trương Đinh Ngọc cùng ba vị ngự y lo liệu thuốc thang mà thôi.

Ba vị đại thần này vốn thuộc cánh của Ung vương, điểu đó khỏi cần nói. Ngay cả bọn thái giám và cung nữ thường ngày cũng được vương biệt đãi. Cho nên nhất cử nhất động, nhất ngôn nhất ngữ của hoàng đế đều được chúng mật báo cho vương hay.

Trong đám cung nữ hầu cận, có một nàng vốn là con gái của Quý Tá Lĩnh. Nàng vào cung đã được bốn năm, tính tình lanh lẹ mà thân hình lại đẹp đẽ. Nhờ đó, nàng được phái tới Sướng Xuân Viên, chuyên hầu hạ những khi hoàng đế đến đây lâm hạnh với hoàng hậu. Nàng thấy Ung vương tướng mạo rất oai dũng, biết thế nào vương cũng có ngày phát đạt, bởi thế khi thấy vắng người, nàng bèn lẻn vào phòng cạnh chỗ Ung vương chờ chực để chu liệu đầy đủ trà nước, cơm rượu cho vương. Ung vương ở một mình trong phòng, bỗng nhiên có người tri kỷ thử hỏi còn gì sung sướng hơn. Thế rồi lửa gần rơm, phát hoả. Trong lúc mùi mẫn, Ung vương hứa với nàng, khi nào lên ngôi hoàng đế, sẽ phong cho nàng làm quý phi. Nàng cung nữ họ Quý nghe nói càng cảm kích bội phần, từ đó đem hết lòng phụng sự.

Ung vương cùng Long Khoa Đa bàn tính, giả tạo chỉ ý của hoàng đế, tuyên cáo ra ngoài, nói hoàng đế trong lúc bệnh hoạn, buồn phiền, bất luận nội ngoại thân thích, cấm không được ai bước vào vườn. Tội nghiệp cho bọn phi tần, quận vương, công chúa, cả những thân thuộc quý tộc, thảy đều bị chặn lại ngoài cổng. Ngay cả hoàng hậu cũng chỉ được đứng ngoài khấu đầu thỉnh an mà thôi. Bên trong, Ung vương một mình tha hồ thao túng, muốn làm trời làm đất gì cũng chẳng ai biết, ai hay.

Bệnh tình Khang Hi hoàng đế càng ngày càng nặng. Đám ngự y đủ mặt, anh, nào anh nấy khoanh tay vô sách, chỉ biết ngày đêm hầu hạ bên giường, đổ nước sâm cho hoàng đế cầm hơi mà thôi.

Chẳng bao lâu đã tới cuối ngày cuối tháng một mùa đông. Trời lạnh thấu xương. Khang Hi hoàng đế nằm trên long sàng, hơi thở đã có phần khó khăn. Ngài tự biết mình không còn sống được bao lâu nữa, lào thào bảo Long Khoa Đa cho gọi thập tứ hoàng tử tới, nhưng Đa đã mưu tính trước, vâng lệnh hoàng đế trở ra, bèn gọi ngay Ung vương vào phòng, Hoàng đế lúc đó hơi thở đã gần tàn.

Long Khoa Đa chạy ra khỏi vườn, thấy nào phi tần, nào hoàng tử, đông đến cả trăm đang chờ chực ngoài cổng vườn, liền cố ý lớn tiếng bảo:

- Hoàng thượng có chỉ, các vị hoàng tử tới thăm bất tất phải vào trong. Ngài có lệnh chỉ triệu có mỗi mình Tứ hoàng tử vào kiến giá mà thôi.

Nói đoạn, Đa gọi kẻ thân tuỳ dắt ngựa lại, nói đi tìm Tứ hoàng tử. Đa giơ roi quất ngựa. Ngựa lồng bốn vó phi như bay, vút cái đã ra khỏi cửa cung. Chạy tới điện Chính Đại Quang Minh, Đa sai tên thái giám tâm phúc lẻn vào trong lấy tờ di chiếu của Khang Hi hoàng đế cất giấu ở phía sau tấm biển lớn Đa cầm lấy di chiếu mở ra rồi sửa chữ "thập" (mười) ra chữ vu (cho) trong câu: "Truyền ngôi cho hoàng tử thứ mười bốn" thành câu: "Truyền ngôi cho hoàng tử thứ tư (đổi câu "Truyền vị thập tứ hoàng tử" ra "Truyền vị vu tứ hoàng tử").

Sửa xong, Đa lại đặt tờ di chiếu vào chỗ cũ, lẻn ra khỏi cửa điện, phóng như bay về vườn Sướng Xuân.

Hôm đó, Khang Hi hoàng đế ngất đi đến mấy lần. Mãi tới chiều hôm ngài mới dần dần tỉnh lại. Ngài mở mắt nhìn, thấy bên cạnh giường có một người đang quỳ, tay bưng bát nước sâm giơ cao lên, miệng luôn luôn gọi "phụ hoàng, phụ hoàng".

Khang Hi hoàng đế mơ mơ màng mang, tưởng đó là thập tứ hoàng tử, bèn giơ tay ra sờ vào mặt. Ung vương, thừa cơ hội đó, ghé sát lại bên, hoàng đế mở to mắt nhìn kỹ một hồi, mới nhận ra là tứ hoàng tử Dân Trinh, bất giác khí uất nổi lên, chỉ còn gầm được một tiếng: "Mày ư?" rồi im luôn. Miệng ngậm một lúc lâu mà không còn mấp máy nữa. Thì ra ngài đà chết sau khi nói xong tiếng "Mày ư?".

Dân Trinh thấy vậy, bèn giả bộ bi thương đau khổ, khóc rống lên. Bọn thái giám đứng phía ngoài nghe tiếng khóc, vội chạy vào tay chân bấn loạn, kẻ chạy đi lấy nước, kẻ chạy đi lấy áo để tắm rửa và thay đối y phục cho hoàng đế.

Long Khoa Đa lúc đó cũng đã có mặt tại bên trong, vội nâng Ung vương dậy. Vương ghé vai Đa hỏi nhỏ:

- Đại sự xong rồi chứ?

Đa chỉ gật đầu, không nói năng gì. Một lát sau, tin buồn đã bay ra tới cửa cung. Bọn phi tần, hoàng tử tông cửa ùa vào. Lúc đó, ngoài hoàng tử Dân Nhung bệnh hoạn, Dân Đê, Dân Dị bị giam cầm, Dân Đề xuất chinh nơi quan ngoại thì có tam hoàng tử Dân Chỉ, thất hoàng tử Dân Hựu, cửu hoàng tử Dân Đường, thập hoàng tử Dân Nga, thập tam hoàng tử Dân Tường, và các hoàng tử Dân Kỳ, Dân Tư, Dân Ngẫu, Dân Lộc, Dân Lễ, Dân Hi, Dân Vi, Dân Cổ, Dân Kỳ, Dân Bí - cả thảy là mười sáu vị. Bọn phi tần trong tam cung lục viện theo chân mười sáu vị hoàng tử chạy tới bên ngự sàng, bò mọp xuống đất, cất tiếng khóc om sòm. Hồi lâu Long Khoa Đa mới bước tới khuyên thôi và lớn tiếng nói:

- Nước không thể một ngày không vua, dân không thể một ngày không chúa. Nay Đại hành hoàng đế đã xa giá về trời. Bản đại thần chịu sự ký thác của tiên đế. Xin mời chư vị quận vương mau tới điện Chính Đại Quang Minh để nghe bản đại thần tuyên đọc di chiếu.

Các vị hoàng tử nghe nói vua cha có di chiếu, kẻ nào cũng nghi nghi hoặc hoặc, chẳng biết ai sẽ là người thừa kế vị. Trong bọn, Dân Đường, Dân Nga là tỏ ý lo lắng bôn chồn nhất - hai anh em nhà này chỉ sợ kẻ khác cướp mất cái ngai vàng mơ ước bấy lâu, liền ba chân bốn cẳng chạy một mạch tới điện Chính Đại Quang Minh chờ đợi trước.

Một lát sau, khắp triều văn võ đều tới đông đủ. Dưới thềm, ba ngàn quân ngự lâm xếp thành hàng, đông như kiến. Trong ngoài im phăng phắc. Bỗng người ta thấy Long Khoa Đa, Ngạc Nhĩ Thái, Trương Đinh Ngọc, ba người chạy thẳng lên điện.

Trên điện đã bày một hương án. Ba người nhìn lên không, hành lễ xong bèn tiến về phía sau tấm biển lớn để thỉnh di chiếu.

Long Khoa Đa đứng ra ngay giữa điện, lớn tiếng tuyên đọc.

Khi đọc tới câu "Truyền ngôi cho tứ hoàng tử…" từ phía dưới thềm bỗng nổi lên tiếng ồn ào ầm ĩ. Đại thần trực điện nhảy lên quát im, lúc đó mới đọc nốt được tờ di chiếu.

Từ nãy đến giờ, tứ hoàng tử Dân Trinh cũng cùng với mọi người quỳ dưới thềm nghe chỉ. Di chiếu vừa đọc xong, toàn ban thị vệ xúm lại rước Dân Trinh lên điện. Tứ hoàng tử Dân Trinh chẳng khiêm nhường khách khí gì, bận ngay mũ áo hia đai hoàng đế vào. Vương từ từ bước lên ngai báu. Dưới điện, ba ngàn ngự lâm quân tung hô vạn tuế. Văn võ bá quan lần lượt tiến lên triều kiến.

Đại lễ xong tân hoàng đế xuất lĩnh các vị quân vương, bối tử, thân vương đại thần, quay về vườn Sướng Xuân, thiết lĩnh tế lễ, theo chế thành phục.

Hồi 58 Đoạt ngai vàng, Ung Chính trả thù

Khang Hi hoàng đế băng hà. Dân Trinh âm mưu với bọn đại thần cướp được ngôi báu. Lễ đăng quang thật chớp nhoáng giữa một cuộc hỗn độn trong đám hoàng tử và triều thần đông đảo, sau khi đọc tờ di chiếu đã bị sửa chữa một cách tài tình.

Hàng ngàn ngự lâm quân, sau khi nghe đọc tờ di chiếu, liền chạy xô lại, công kênh hoàng tử Dân Trinh lên ngai vàng và toàn thể triều đình quỳ mọp xuống đất, tung hô vạn tuế.

Đây là vị vua thứ năm của Thanh triều, vị vua mà người Trung Quốc khi nói tới, ai cũng phải rùng mình. Lễ đăng vị đã xong, Dân Trinh tất nhiên phải lo ngay đến việc tang lễ cho cha và bắt đầu củng cố ngai vàng của mình, nhất là đối phó với một số đông anh em đã từ lâu cũng nhằm nhè ngôi báu như mình và coi mình như kẻ thù bất cộng đái thiên.

Qua ngày hôm sau tất cả triều thần đưa di thể của tiên hoàng tớì đại nội Bạch Hổ điện để khâm liệm nhập quan. Tân hoàng đế hạ thánh chỉ cải niên hiệu gọi Ung Chính nguyên niên. Vị hoàng đế Ung Chính này nổi tiếng là người thâm độc bạo tàn nhất trong lịch sử nhà Thanh.

Khi còn quỳ dưới đất nghe đọc di chiếu, kẻ nào ở phía dưới làm ầm ĩ om sòm, ngài đều để ý và nhớ kỹ. Thế rồi sau khi đăng vị, đạo thánh chỉ đầu tiên của ngài là cách tuột tước vị của Dân Đường, Dân Nga, bảo rằng hai vị hoàng tử này nhiễu loạn cung đình phạm tội đại bất kính, lập tức bắt ngay, giao cho Tôn nhân phủ thẩm vân.

Dân Đường chịu không nối nghiêm hình, đành nhận tội và khai cùng với Dân Dị ở bên ngoài kết bè lập đảng ra sao để mưu hại Dân Nhung. Về sau thấy Nhung bị bệnh điên, trở thành vô dụng rồi thì quay ra mưu hại Dân Trinh. Nhưng không ngờ Trinh có nhiều tay hảo hán dưới trướng khiến bọn Đường thúc thủ vô sách. Bởi vậy, khi thấy Trinh được làm vua, khí uất nổi dậy trong lòng, họ mới gây huyên náo tại điện Chính Đại Quang Minh là như thế. Tôn nhân phủ ghi chép đầy đủ khẩu cung, tâu lên Ung Chính hoàng đế. Ung Chính bèn cho điệu Dân Dị từ trong lao ra để tự mình thẩm vấn, Dân Dị thấy Dân Đường đã cung nhận hết tội lỗi, biết không thể che giấu gì được nữa, đành chỉ còn nước cầu xin Ung Chính mở lượng khoan hồng tha mạng. Một đạo thánh chỉ hạ xuống giao bọn Đường cho Tôn nhân phủ giam cấm trong lao, bắt gọi Dị là "A kỳ" (nghĩa là con heo), còn Đường là "Tắc tư hắc" (nghĩa là chó).

Qua ngày hôm sau Ung Chính lại đem Dân Nga ra thẩm vấn. Nga quả xứng đáng là một quân vương, đệ tử chính truyền của phái Thiếu Lâm, không một hoàng tử nào có thể sánh kịp. Nga có bản lĩnh cùng mình, bay trên mái nhà như tên bắn, chạy trên đầu tường như vượn núi, tay cứng như sắt, quyền chắc như đồng, ba, bốn chục người đừng hòng đến gần được bên. Chính Ung Chính khi còn là quân vương đã nhiều lần bị Nga đánh ngã. Bởi vậy ngài thấy y là sợ và rồi cũng vì vậy, ngài đâm ra thù hận, coi y như cái đinh trong mắt. Hôm nay, ngài đã lên ngôi hoàng đế, nhất định phải báo thù xưa.

Dân Nga lúc đó bị Tôn nhân phủ bắt trói điệu tới. Đến lúc đem thẩm vấn, Nga chẳng thèm mở miệng khai báo một lời. Quan phủ doãn nổi giận bèn cho gọi binh sĩ dùng hình tra tấn nhưng mọi người giật mình vì chỉ thấy Dân Nga há mồm cười lên sằng sặc như chàng thèm coi ai ra gì, kế cả Ung Chính… Rồi bỗng nghe vút một tiếng, Nga đã tung mình bay lên nóc nhà như một con chim én, chẳng còn thấy hình bóng đâu nữa. Phủ doãn hoảng hốt chạy tới tâu rõ với Ung Chính nhưng Ung Chính cũng đành chịu vậy chứ còn biết làm sao.

Ung Chính hoàng đế sực nghĩ ra điều gì liền cho đi mời nhà sư Lạt Ma tới đùng pháp thuật để giết Nga, nhưng nhà sư lắc đầu nói:

- Hắn có trong mình đạo Kim phù đệ nhất Đạt lạc thì những kẻ phù chú tầm thường làm sao lại gần được hắn.

Ung Chính hỏi nhà sư:

- Có thể cướp được đạo Kim phù đó chăng.

Nhà sư lại nói:

- Lúc bình thường thì chả có cách gì hạ thủ được hắn đâu. Chỉ khi nào hắn giao cấu với đàn bà thì mới mong cướp được đạo Kim phù đó thôi.

Ung Chính nhớ kỹ lời nhà sư Lạt Ma, bèn dặn dò tên thái giám tâm phúc bố trí kế hoạch lừa Nga.

Lại nói Dân Nga sau khi trốn thoát khỏi Tôn phủ, đâm ra cuồng vọng phóng túng, chẳng kiêng dè ngán sợ một ai.

Nga khoái nhất là uống rượu. Tửu điếm lớn nhỏ khắp kinh thành, chẳng chỗ nào là không có gót chân y lui tới. Nga ăn vận theo kiểu bình dân, cho nên chẳng ai ngờ được y là hoàng tử. Mỗi khi tới một tửu điếm nào, Nga thường gọi điếm tiểu nhị lại cùng uống rượu. Ngoài cửa Đông hoa có một tửu điếm tên gọi Thái Bạch lâu cất được một thứ rượu hảo hạng. Điếm tiểu nhị tên là Dư Tam, tính tình hoà nhã. Nga rất khoái tên tiểu nhị này, thường tới đây uống rượu. Nga kéo Dư Tam ngồi vào đối ẩm rồi tán gẫu hết chuyên kinh đến chuyện phường, hết chuyện to đến chuyện nhỏ. Tam cũng một tay tửu lượng rất cừ. Thường hai người đối ẩm với nhau tới khuya mà vẫn không chán.

Hai người rỉ rả với nhau cả những chuyện nơi ngõ liễu hoa tường, chốn nương dâu bãi bộc. Những chuyện phong lưu tình tứ này đối với Nga hình như còn xa lạ lắm, nhưng với con người lòng đầy buồn chán, đang tìm cách giải khuây thì có gì mà chẳng được chẳng hay. Ngờ đâu, nay nói một chuyện, mai nói một chuyện, nói riết rồi tự nhiên Nga cũng cảm thấy thèm muốn. Thấy Nga đã đến lúc khoái thích, Tam lại kể ra nhưng chỗ nào có chị em xinh đẹp, hấp dẫn khiến Nga đâm ra ngứa ngáy, thèm muốn khắp mình.

Hôm nay cũng vậy, giữa lúc muốn điên lên ấy, Nga bỗng thấy một cô gái hết sức tình tứ xuất hiện bên cạnh vò rượu của mình. Nàng khẽ nghiêng chiếc vai tròn trĩnh, cúi thấp cặp má đào điểm nhạt lượt phấn mỏng và ngồi xuống ghế phía trước chàng. Chốc chốc nàng lại liếc cặp mắt đa tình sắc như dao về phía Nga, khiến hồn phách Nga như bị nàng thu mất sạch. Nga như người say, bất giác vỗ bàn khen tuyệt, nhưng vì trong quán còn đông khách, chưa tiện nhảy chồm lên mà kéo người đẹp vào lòng.

Khách mỗi lúc một thưa, rồi kẻ cuối cùng cũng biến nốt trước ngọn đèn mờ tỏ. Nga nhìn người đẹp càng thấy nàng đẹp thêm. Cặp má hồng của nàng càng tươi thêm, càng mịn thêm. Đã đến lúc chịu không nổi nữa. Nga bèn khẽ gọi nàng một tiếng, bỗng nàng hé đôi môi son thắm mỉm cười rồi quay sang nhìn phương khác. Nỗi lòng của Nga, Dư Tam hiểu rõ cả. Hắn khà khà cười lớn rồi nói:

- Tương Như mua rượu, có gái Trác đốt lò hương. Tam muội nhà ta hôm nay được quý nhân thưởng thức, quả thực đã có cái may duyên ngộ ba sinh.

Nói đoạn, Tam lấy tay vẫy cô con gái và nói:

- Muội hãy lại hầu thiếu gia mấy chung rượu, có hề gì!

Cô gái nghe đoạn, bèn đứng dậy, miệng cười chúm chím, chạy tới ngồi kề vai Nga, nhưng chỉ thấy nàng cúi đầu mà chẳng nói câu nào. Nga nhìn người đẹp kỹ hơn, càng nhìn càng thấy nàng đẹp hơn bội phần.

Nga thấy người rạo rực đến cùng độ rồi không giữ nổi nữa, Nga nắm lấy ngón tay búp măng của người đẹp, còn tay kia nâng một lỵ rượu lên mời. Người con gái tươi cười uống cạn chung rượu trong tay Nga. Nga luôn miệng khen hay, đến khi nhìn lên thì điếm tiểu nhị Dư Tam đã tránh mặt đi từ lúc nào, Trong phòng vắng chỉ còn lại hai người. Thế rồi những tiếng thì thào êm ái được dịp tuôn mãi ra không ngớt càng, làm cho đôi trai tài gái sắc thêm phần thèm muốn, khát khao…

Hồi 59 Trừ đối thủ Ung Chính dùng kế độc

Đêm càng khuya canh càng vắng. Người con gái lấy tay kéo vạt áo Nga đứng dậy bước đi. Không hiểu tại sao, Nga đứng dậy ngoan ngoãn bước theo. Hai người một trước một sau, bước vào gian phòng có màn lụa trướng thêu, có kính quý lược ngà, có gối êm nệm ấm, khiến kẻ gan lim dạ sắt cũng phải lạc phách tiêu hồn.

Người con gái tỏ ra vô cùng tình tứ. Nàng giúp Nga cởi bỏ áo ngoài rồi đưa chàng lên giường nằm nghỉ. Nàng cũng tự thay bộ quần áo ngủ mỏng tanh, chui vào chăn, kề đầu mặt má bên cạnh chàng, để mùi thơm phưng phức xông vào mũi chàng. Không còn cầm lòng được nữa, Nga quay mình ôm ghì người con gái vào lòng…

Giữa lúc chàng đang mê đắm tận hưởng khoái lạc, bỗng có một tiếng xẹt ngoài cửa sổ rồi một đại hán nhảy vụt vào phòng. Hắn trước hết giơ tay cướp lẹ chiếc áo dài có đeo đạo kim phù của Dân Nga rồi mới quay mình lại, tay cầm cây cường đao sáng quắc đâm thẳng về phía hai người. Nga vội đẩy mạnh người con gái đang ôm trong lòng bật văng ra xa, quát lên một tiếng: "Mau!". Bỗng từ trong miệng chàng, không biết bao nhiêu là "kim xà"(1) bay vun vút về phía tên đại hán.

Từ ngoài cửa sổ, bốn, năm tên đại hán khác, tay đều cầm bảo kiếm, nhảy vào vây lấy chiếc giường buồng màn gấm, tấn công ráo riết. Chẳng ngờ kim xà bắn ra hết sức lợi hại, khiến đao kiếm của bọn đại hán gần như trở thành vô dụng. Bọn sát thủ thấy đánh mãi khó bề thắng nổi bèn phát lên một tiếng "Rút!", tức thì cả bọn nhảy vù ra, chạy trốn mất dạng.

Bọn chúng về cung tâu Ung Chính hoàng đế. Ung nghe nói lấy làm lạ vội hỏi vị quốc sư, quốc sư nói:

- Đó là Linh Xà trận của Bà La Môn giáo. Bệ hạ yên tâm. Phàm học môn Linh Xà trận này, phải thề với đất trời là không được tham phú quý cõi nhân gian. Xét ra Dân Nga quyết không có ý phản nghịch đâu mà ngài lo.

Ung Chính nghe lời vị quốc sư nửa tin nửa ngờ. Mãi về sau, nhân lúc Nga bị bạo bệnh, mất hết nội lực, ngài cho đi bắt về giam trong lao, dùng độc kiếm hạ thủ. Trước khi chết Nga còn đấu với bọn lực sĩ ba ngày liền, giết luôn một hồi ba tay kiếm khách của Ung Chính.

Nhổ được cái đinh trong mắt rồi, từ đó Ung Chính mới thấy lòng khoan khoái. Chẳng ngờ chưa được mấy hôm ngài lại được tin cấp báo từ biên cảnh về, nói La Bốc Tàng Đan Luật miền Thanh Hải dẫn dụ Đại Lạt ma Sát Hãn Nặc Môn, nhè giữa lúc thế tôn mới đăng vị, nơi cung đình có nhiều biến cố, thừa cơ tạo phản. Trước hết La Bốc sai người tới khuyên Quận vương Nhan Nhĩ Đức Ni và Thân vương Sát Hãn Đan Luật, để hai người cùng cất binh đánh thốc vào quan nội nhưng hai vị vương này không nghe. La Bốc nổi đoá, liền điều động binh mã tới cưỡng ép hai vị vương phải xua quân đánh Thanh triều. Thấy tiến thoái vô lộ, hai vị vương chỉ còn cách viết văn thư cáo cấp về Bắc Kinh.

Ung Chính hoàng đế xem văn thư, lòng do dự chưa quyết, bỗng viên nội thị chạy tới báo có quốc cữu Long Khoa Đa xin vào bệ kiến. Hoàng đế nói luôn mấy tiếng.

- Xin mời vào.

Khi hai người gặp nhau, Ung Chính nói:

- Quốc cữu tới thật đúng lúc quá!

Nói đoạn, ngài bèn cầm tờ văn thơ cáo cấp nơi quan ngoại đưa cho Đa. Đa xem xong liền nói:

- Thần cũng vì việc này mà tới. Bệ hạ há chẳng thường nói đến công lao phò trợ của Miên Canh Nghiêu mà chưa từng báo lại, chẳng thường bảo Dân Đê chinh chiến bao lâu, rất được ai nấy quan tâm, đáng nên lo ngại đó sao? Hơn nữa, khi còn làm quận vương, bệ hạ chiêu nạp rất nhiều hảo hán, nuôi họ trong phủ, nay việc lớn đã thành, bọn họ cậy mình có công thường hoành hành bất pháp chốn kinh thành, chẳng ra thể thống gì cả. Nhân dịp biên quan có biến, chi bằng hệ hạ xuống một đạo chỉ dụ phong Dân Đê làm Phủ viễn đại tướng quân, Miên Canh Nghiêu làm phó tướng quân, còn bọn anh hùng hảo hán chiêu nạp trước đây, cũng đều phong cho họ làm quan võ rồi giao cho Miên Canh Nghiêu đem theo ra Thanh Hải, như thế tất tránh được chuyện gây rối làm bậy nơi kinh kỳ.

Ung Chính hoàng đế nghe xong, bèn nói:

- Kế tuy hay đấy nhưng hiềm nỗi lão Miên kia đã từng gian khổ bao năm mà chỉ cho y làm phó tướng, e rằng bẽ mặt y quá Lại nữa, cho Dân Đê làm đại tướng quân, sợ rằng thế lực hắn thêm lớn, khó có thể chế phục được sau này. Còn bọn anh hùng hảo hán cũng chẳng chắc gì giữ nổi họ được mãi nơi Thanh Hải, rồi đến một ngày nào đó trở về họ vẫn tính nào tật ấy, tình trạng đâu có hơn gì ngày trước.

Long Khoa Đa nghe xong, cười nói:

- Bệ hạ khỏi lo. Thần đã có dụng ý ở chỗ này…

Sau đó, Đa ghé sát tai Ung Chính thì thầm nói về dụng ý của mình. Ung Chính bất giác vỗ tay đánh đét khen hay và gật đầu lia lịa tỏ ý phục Đa.

Qua ngày sau, Ung Chính hoàng đế toạ trào, phong Dân Đê làm Phủ viễn đại tướng quân, Miên Canh Nghiêu làm phó tướng quân, đi chinh tiễu quan ngoại. Mặt khác ngài cho gọi Ngạc Nhĩ Thái cất mật dụ trong tay áo, tới gặp Miên Canh Nghiêu dặn Nghiêu y kế thi hành như vậy… như vậy…

Miêu Canh Nghiêu nhận mật dụ, suốt mấy ngày liền tập hợp bọn giang hồ hảo hán, cắt cử họ, kẻ thì làm phó tướng, kẻ thì làm tham tán, kẻ thì đô thống, đô đồng, thiên tổng, bá tổng, đủ cấp quan lớn quan nhỏ trong quân ngũ.

Bọn hảo hán được làm quan, anh nào anh nấy khoái trí lắm, diễu võ dương oai, vác kiếm vác đao đi. Khi tám vạn đại binh đã đủ số, Ung Chinh hoàng đế truyền lệnh cho phó tướng đem quân mã đi trước. Đến hôm xuất quân, nhổ lều trại lên đường, đấng thiên tử đích thân ra khỏi thành tiễn đưa. Thế rồi ba tháng hành quân liên miên không ngừng, đại binh đã tới biên cảnh Tứ Xuyên, hợp nhất với bốn vạn quân nữa của phó tướng Nhạc Chung Kỳ, rồi mới ùn ùn kéo thẳng ra Thanh Hải cự địch.

Hai tháng sau, khi tướng Nghiêu đã vạn dặm nơi sa trường rồi, Ung Chính hoàng đế mới cho Dân Đê xuất binh, mang ấn tướng đại soái, đem theo một trăm thân binh, mặc áo thường, bỏ bớt đồ nhu tòng, gấp rút lên đường. Đê tới Tứ Xuyên, được tin Nghiêu đã xua quân ra quan ngoại, trong lòng rất lấy làm nghi hoặc, tự nghĩ sao phó tướng không đợi quân lệnh của đại tướng mà lại tự ý xuất binh. Giữa lúc phân vân buồn bã, Đê bỗng được báo có thánh chỉ tới. Đê vội bày hương án đón nhận.

Một thái giám tuyên đọc.

"Phủ viễn đại tướng quân, lập tức miễn chức, Ấn thụ đại tướng giao lại cho Miên Canh Nghiêu, được phong làm Phủ viễn đại tướng quân, Nhạc Chung Kỳ làm tham tán".

Dân Đê nghe thánh chỉ xong, quay đầu lại sau, thì đã thấy ông tướng Miêu Canh Nghiêu quỳ cạnh mình từ lúc nào để tiếp chỉ. Đến lúc đó, Đê mới rõ hoàng đế đã dùng kế điệu hổ ly sơn để diệt trừ đối thủ. Quân đội hiện không còn ở bên mình, binh quyền lại đã mất vào tay kẻ khác, thử hỏi Đê còn biết làm cách nào hơn mà không, trao trả ấn tín, phất tay áo ra đi? Đê đã trở thành người không quyền không thế, do đó hành tung của Đê chẳng ai thèm để ý tra hỏi tới nữa.

Sau chuyện này ít lâu, người ta thấy ở thành Quảng Đông tại chợ Châu có một ngôi hàng buôn bán của chủ nhân người họ Lương lâu nay buôn thua bán lỗ, vốn liếng gần tới chỗ khánh kiệt. Từ ông chủ tiệm cho tới bọn làm công, cả nhà đều buồn rười rượi, ngồi so ro suốt ngày trong tiệm, chẳng biết làm cách nào hơn. Năm hết tết đến chủ nợ kéo tới đòi tiền gây gổ om sòm. Ông chủ họ Lương suốt ngày thở vắn than dài, Buồn quá, ông bèn bảo tên gia nhân ra bờ sông chiêu thần tài cầu may.

Nguyên lai, theo tục lệ của bọn con buôn tỉnh Quảng Đông thì mỗi khi buôn bán thua lỗ, họ ra bờ sông trồng một cây cờ phan, trên ngọn treo một chiếc đèn đỏ gọi chiêu thần tài.

Gia nhân nhà họ Lương vừa mới trồng cây cờ phan ngoài bờ sông và chưa treo xong chiếc đèn đỏ thì đã thấy một chiếc thuyền hàng lớn ghé vào đỗ lại. Từ trên mũi thuyền, một người ăn mặc kiểu nô bộc, mũi lớn như mũi trâu, nói tiếng Bắc Kinh, bước xuống tìm hỏi ông chủ quán có nhà không. Ông chủ họ Lương vội vàng chạy ra, kế đó lếch thếch theo lên chiếc thuyền hàng vừa mới đô bến. Ông chủ họ Lương thấy một người đàn ông vào trạc trung niên, mặt mũi khôi ngô, cử chỉ đàng hoàng, tự xưng là họ Kim, cất tiếng nói:

- Chuyến này tôi có đem theo rất nhiều trà, quả, hàng hoá từ Bắc Kinh tới Quảng Đông để bán nhưng tìm mãi mà chẳng ra nhà quen. Nay thấy cửa hàng ông treo đèn đỏ cầu thần tài nên tôi vội tới để nhờ ông giúp cho một việc.

Ông chủ họ Lương thấy thuyền của vị khách thương họ Kim chất hàng cao như núi, trị giá ra cũng bốn năm chục vạn lạng bạc thì đâu có dám tính đến chuyện mua bán. Thành Quảng Đông hồi đó thiếu nhiều hàng miền bắc cho nên ông ta nghì nếu mua được thuyền hàng này thì nhất định đại phát tài.

Nhưng ông tự nghĩ minh làm gì có tiền mà mơ ước. Nỗi băn khoăn tiếc nuối hiện rõ trên nét mặt ông. Người khách thương họ Kim đoán biết niềm tâm sự của ông bèn nói:

- Tôn ông không có vốn, chuyện đó cần gì. Trong thuyên tôi hiện có tới bốn mươi vạn lạng bạc hàng. Tôi tạm gửi ông, để nhờ ông bán dần cho. Tôi không cần ông trả nửa đồng kẽm nào bây giờ đâu. Tôi đợi tới ngày này năm sau sẽ kết sổ tiền hàng cũng chẳng muộn!

Lương chủ nhân nghe ông khách nói vậy, sung sướng đến phát điên lên. Ông chắp tay vái dài, miệng cảm tạ rối rít, cho dọn một bữa rượu thịnh soạn để khoản đãi khách quý, đồng thời thuê phu bốc hàng về nhà. Ông khách họ Kim ăn xong nói gọn một câu: "Chẳng dám phiền", rồi bước lên thuyền đi luôn.

Thế là từ đó, ông chủ tiệm họ Lương trở thành người bán giùm hàng cho vị khách thương phương bắc. Không đầy nửa năm, tất cả hàng hoá đều bán hết sạch, lời lãi lên tới mười vạn lạng bạc. Ông đem một ít lời ra làm vốn mở phố sinh lợi, còn bao nhiêu thì đợi ông khách quý trở lại thanh toán. Ngày tháng qua mau năm lại sắp hết. Ông chủ tiệm họ Lương cho quét dọn nhà trên nhà dưới, sửa soạn tiệc rượu. Hôm đó ông khăn đóng áo dài, đợi khách.

Đêm hôm đó, quả nhiên ông khách quý tới nơi, mười chiến thuyền lớn đậu thành hàng ngoài bến trước tiệm, thuyền nào thuyền nấy đầy ắp đủ thứ hàng nam, hàng bắc, lại còn cả sâm, quế, nhung, yến, không thiếu vị nào. Người khách bước lên bờ, vừa trông thấy ông Lương là tay bắt mặt mừng, tươi cười vồn vã, cất giọng nói:

- Lần này, tôn ông nhất định phải bận lắm rồi đấy. Thuyền của bọn tôi hiện có đến bốn trăm vạn lạng bạc hàng. Tôn ông phải nghĩ cách bốc ngay hàng về kho đi.

Lương chủ nhân một mặt đon đả mời ông khách quý đánh chén, một mặt triệu tập hết bọn thương gia toàn thành lại để bàn tính việc bốc và chứa hàng. Thế rồi trong chốc lát, năm bảy trăm phu khuân vác đã tề tựu đông đủ. Tiếng "dô ta", tiếng hò hát vang động khắp mấy khu phố.

Ông Lương ngồi hầu rượu khách quý, đến lúc cơm no rượu say rồi mới khệnh khạng bưng một chồng sổ sách ra để mời khách kết toán. Ông khách đẩy chồng sổ sách sang bên, bảo Lương:

- Thôi, tôn ông tính đúng rồi, hà tất phải xem lại, hãy để đó bán sau.

Nói đoạn, ông khách đứng dậy, cáo từ rồi đi luôn. Lúc từ biệt, ông khách còn dặn thêm:

- Chuyến này, xin hẹn ba năm sau, tôi sẽ lại tính toán sổ sách tiền nong với tôn ông. Bây giờ chẳng gấp gì!

Nói vừa dứt, ông khách nhẩy lên thuyền, nhổ neo giong buồm, thuận gió như bay, chẳng bao lâu đã mất dạng.

Ông chủ tiệm họ Lương sau khi tiễn đưa ông khách kỳ lạ lên đường rồi, đem hết tài ba ra kinh doanh. Tiệm ông càng ngày càng phát đạt. Không đầy ba năm, mười chiếc thuyền hàng lại đã bán xong, ông lại khăn đóng áo dài ngồi đợi khách.

Rồi một hôm, vào đêm trừ tịch, ông khách kỳ lạ kia lại tới. Vừa thấy chủ nhân, ông khách đã tươi cười chào hỏi. Ông Lương cho dọn rượu và trình bày với khách việc mình buôn bán hàng hoá thế nào.

- Số hàng của tôn ông đã bán xong, hiện được lời trên sáu trăm vạn lạng bạc. Số tiền đó hiện gửi tại các ngân hàng tỉnh Quảng Châu. Vậy xin tôn ông cho biết tôn kiến ra sao.

Người khách nghe xong, liền nói:

- Hãy đem số tiền chia đôi: một nửa gửi vào ngân hàng Đức Dụ tại Hán Khẩu, còn một nửa vẫn để lại Quảng Châu, sau này sẽ tính.

Lương chủ nhân được lệnh của ông khách lập tức tới các ngân hàng để lo liệu mọi việc cho xong.

Chẳng mấy ngày lại đã mồng năm tháng giêng. Ông khách lần này ở lại tiệm ông Lương, bên cạnh chỉ có một tên gia nhân. Tuy ngày nào cũng như ngày nấy khách được chủ nhận cung phụng nào cơm ngon canh ngọt, nào rượu nồng dê béo, nào cao lương mỹ vị nhưng khách vẫn cảm thấy nỗi cô đơn lạnh lẽo trong những đêm trường vắng lặng nơi đất khách quê người.

Chú thích:

(1) Tên gọi một loại vũ khí rất nhọn và cực độc.

Hồi 60 Ra đi chẳng hẹn ngày về

Chủ nhân họ Lương thấy ông khách quý của mình một thân cô quạnh buồn bã, bèn vắt óc nghĩ cách giải buồn cho khách. Số là ở Quảng Châu vào đầu tháng giêng thường có những thuyền hoa nhởn nhơ trên sông Châu Giang, vui nhộn hết chỗ nói. Trai thanh gái lịch phô quần diện áo, khoe phấn đua hương, nườm nượp suốt ngày đêm. Tiếng tơ đồng nỉ non thánh thót, tiếng sáo thổi vi vu như đưa hồi vào cõi mộng, không lúc nào ngừng. Trong đám nhà trò con hát cũng có nhiều ả xinh, Lương bèn gọi tới hầu hạ ông khách quý trong chiếc ghe tứ động.

Chiếc ghe tứ động được trang trí hết sức lịch sự, trang nhã có khoang trong kết hoa tươi thắm, cửa sổ treo đèn đỏ rực. Ông khách chễm chệ ngồi bên trong. Lương gọi dọn tiệc, rồi viết bức hồng tiên, tuyên triệu hết những danh hoa trong xóm chị em tới. Ông khách quý được suy tôn lên ghế nhất cầm trịch, năm bẩy chục em út quây chung quanh để bồi tiếp, mua vui.

Thôi thì phấn hương, thôi thì oanh yến - chiếc ghe bỗng biến thành một nơi khoe sắc phô thanh xưa nay ít thấy. Ông khách tuy tay hữu ôm, tay tả bế nhưng thực ra chẳng có một cô gái nào được ông để lại mắt xanh. Một lát sau, ông lấy cớ ra ngoài, rồi nhân đó biến luôn vào khoang sau mất dạng.

Không ngờ, nhờ đó, ông mới được nghe tiếng nỉ non than khóc hình như của một người con gái. Ông theo tiếng khóc lần tới, thì ra ở khoang chót tận sau lái có một cô gái đang bị mụ đầu lột truồng như nhộng, đánh tới tấp, nằm lăn trên sàn ván. Chiếc roi trong tay mụ đầu càng vụt càng nhanh, chẳng tiếc thương gì làn da non mịn trên tấm thân như ngọc như ngà, chỉ vài phút sau đã thấy máu bật ra từng vết dài khắp mình. Ông khách nhìn cảnh tượng, động lòng bất nhẫn, thốt lên một tiếng "đáng thương" rồi bước lẹ tới giật lấy chiếc roi của mụ dầu, bế xốc nàng lên, đưa ra khoang trước.

Khoang trước lúc đó đã đầy nghẹt các cô. Ông khách bất chấp, thản nhiên lùa tay vào trong túi lấy khăn tay ra, vừa lau nước mắt cho nàng, vừa hỏi tên họ. Người con gái nằm trong lòng ông vừa thút thít vừa trả lời:

- Tên em là Tiểu Yến. Từ khi cha mẹ bán em vào chiếc thuyền hoa này, thường bị mụ đầu đánh mắng, bảo em lạnh nhạt với khách khiến không đắt hàng.

Ông khách nghe nàng nói, nhìn kỹ gương mặt của nàng, dù đầu bù tóc rối, mặt mũi lọ lem nhưng vẫn xinh đẹp tuyệt trần. Ông liền mở chiếc áo tràng bào đang quàng lấy người nàng ra thì, trời ơi, cả một tấm thân tuyệt đẹp lồ lộ hiện Ta trước mắt khiến ông cầm lòng không được, bèn đưa tay vuốt ve làn da mịn màng, nõn nà còn hằn những vệt roi rớm máu.

Tiểu Yến xấu hổ, vội kéo vạt áo che kín thân mình đôi má hồng lên, nguýt ông khách, thì thào bên tai ông:

- Đừng làm thế, người ta cười chết.

Nhưng, khì nàng quay đầu nhìn một lượt thì chủ nhân họ Lương, và năm bảy chục cô đào kia đã rút lui từ lúc nào, bỏ lại họ một mình, tha hồ trò chuyện.

Thế rồi từ đó, ông khách đâm mê luyến Tiểu Yến, đi cũng có đôi, nằm cũng có đôi, luôn một lèo hơn tháng trời, chẳng thèm ra khỏi cửa khoang ghe nữa.

Lúc này, Tiểu Yến đâu có còn là Tiểu Yến ngày nọ. Nàng tô điểm lộng lẫy, vàng ngọc đầy mình, suốt ngày quấn quýt bên ông khách vô danh, có hành tung, kỳ dị. Đôi trai tài gái sắc ân ái muôn phần đằm thắm. Thường chỉ có ông Lương đến gặp đôi phút, nói đôi ba lời rồi lại đi, chứ tuyệt nhiên chẳng có kẻ nào dám tới quấy phiền họ.

Ngày tháng thoi đưa, chớp mắt đã xuân đi hạ tới. Ông khách quý bỗng bảo muốn trở về Bắc. Hỏi ông về Bắc là về đâu, ông chẳng chịu nói. Ông chỉ dặn dò chủ nhân họ Lương đem ba vạn lạng bạc chia làm ba: một vạn lạng thì tậu một biệt thự rộng rãi đồ sộ bên dòng Châu Giang, trồng cây, ươm hoa thật trang nhã một vạn lạng thì cấp cho người đẹp Tiểu Yến để giúp nàng hoàn lương và lấy tiền chi dụng hằng ngày, còn một vạn lạng thì cấp cho chính ông Lương.

Lúc lâm biệt, chú nhân họ Lương hỏi ngày nào trở lại, ông khách đôi mắt bỗng đỏ hoe và nói bằng một giọng hết sức cảm động.

- Ta đi lần này hành tung vô định. Nếu việc ta làm thành công thì bằng rày sang năm ta trở lại. Quá hạn đó, ta e kiếp này không có dịp gặp bọn ngươi nữa.

Ông nói đoạn quay sang thì thầm với Tiểu Yến:

- Ta với nàng yêu thương nhau đã bao ngày tháng thế mà họ tên ta nàng cũng chưa được biết. Thôi để ta: nói cho nàng nghe. Tên ta là Dân Đê, nếu nàng có nhớ đến ta, thì lúc vắng người, nàng cứ gọi đến tên ta tức là ta đã biết rồi đó.

Tiểu Yến nghe xong, khóc lóc thảm thiết, nhiều lần đến ngất đi. Thế rồi giữa lúc nàng đau khố tới cùng cực, Dân Đê dứt áo ra đi.

Người đẹp Tiểu Yến ở trong biệt thự nhớ nhung chờ đợi đã ba năm mà Dân Đê vẫn mất tăm chẳng thấy trở về. Mãi sau nàng mới đem tên họ của người khách nói cho chủ nhân họ Lương hay, lúc đó mới biết Dân Đê chính là anh em với đương kim hoàng đế. Lương giật mình hoảng sợ, từ đó không bao giờ dám nhắc tới chuyện này nữa.

Về sau Dân Đê, Dân Dĩ, tuy không biết rõ tung tích nơi đâu nhưng vẫn còn đôi ba tin tức có thể truy tìm. Tin tức này phát xuất từ một vị tú tài thanh bạch người phủ Cương Đức tỉnh Hà Nam, họ Trang tên Tuân. Trang Tuân đã có mấy đời tổ phụ giữ trọng nhiệm về giáo dục. Thân phụ là Trang Sĩ Hiếu đậu cử nhân từ lúc còn rất trẻ, chính Trang Tuân cũng đã đỗ tú tài Tuân sớm tối mong mỏi công danh phú quý, một ngày mai bay bổng với đời. Ngờ đâu Tuân chỉ đỗ có một lần tú tài đó rồi thôi. Khi Tuân hai mươi tuổi, cha mẹ lần lượt qui tiên. Tuân vốn là người không biết lo liệu gánh vác gia đình, thành thử miệng ăn núi lở, phong bao lâu cả một sản nghiệp của cha ông để lại đã thấy có bề khó giữ. Tuân quyết tâm lập chí, cố theo đuổi sự nghiệp văn chương, nên tinh thực hiện kế sách "dìm thuyền đập nồi", bán cho kỳ hết mấy mẫu bạc điền, xách gói ra đi. Tuân lên kinh đô, bỏ một số tiền quyên lấy đanh nghĩa giám sinh để vào trường thi múa bút so văn, ai ngờ Tuân thi luôn ba khoa, rớt vẫn hoàn rớt, vẫn lại ông tú xác xơ như xưa. Từ đó, buồn chán nghiệp văn lại thêm túng đói Tuân lưu lạc đến nơi kinh thành, ngày ngày thổi sáo giải buồn ngoài chợ Ngô. May cho Tuân là có ông chủ quán của một khách điếm nọ giúp cho một chỗ ngồi trước cống điếm để bói toán kiếm ăn độ nhật.

Ngoài cửa Địa An môn, khách khứa đi lại đông đảo, quang cảnh vô cùng náo nhiệt. Đây cũng là nơi bọn thái giám trong cung nội lai vãng hằng ngày. Bọn này vốn có tính mê tín. Bởi thế cứ mỗi khi có chuyện gì khó xử, lo lắng là lại tới hỏi Trang Tuân. Điểm đặc biệt là trong đám thái giám, người phủ Chương Đức tỉnh Hà Nam chiếm một phần lớn. Do đó, Tuân chơi thân với bọn này, hằng ngày nhắc lại những điều xa xưa nơi quê hương bản quán. Thế rồi không biết từ đâu, một truyền mười, mười truyền trăm, tới tai tên trùm thượng y giám là thái giám Lưu Vĩnh Trung. Trung với Tuân vừa là đồng hương lại vừa là bà con thân thuộc của nhau. Trung nghe bọn đàn em thường nói tới Tuân, bèn nhân lúc rỗi rảnh chạy ra cửa Địa An môn tìm. Từ xa, Trung đã thấy Tuân với chiếc bàn con dùng làm nới bói toán, kê cạnh cổng khách điếm.

Trung bước nhanh tới, gọi lớn:

- Tuân đại ca!

Tuân nghe có người gọi mình vội ngước đầu lên nhìn, thấy Trung hơi quen quen nhưng vì lâu năm không gặp nên nhất thời không nhận nổi. Tuân ngờ ngợ một lát rồi mới sực nhớ, vội cười nói:

- Túc hạ có phải Lưu nhị ca của Lưu gia trang ta không?

Lưu thái giám gật đầu, cười khà khà, ra chiều mừng rỡ.

Trang Tuân vội dọn dẹp đồ lề rồi dắt tay Trung kéo vào quán hàn huyên. Trung khoe với Tuân mình được làm tồng quản thượng y giám, ngày ngày được gặp mặt thái tử và được thái tử tin dùng. Trung còn khoe trong cung hoa lệ ra sao, đồng bọn đông đảo như thế nào, xoay tiền kiếm lợi đủ cách ra sao, khiến Tuân nghe mà đầy thèm khát.

Qua ngày hôm sau, tổng quản thái giám Lưu Vĩnh Trung lại mời thầy bói Trang Tuân tới gặp tài Đại bằng lan tửu lẩu.

Nhậu được một lát Tuân hỏi Trung:

- Đồng bọn của nhị ca ở trong cung có bao nhiêu người?

Trung tổng quản bóp trán suy nghĩ một chập rồi nói:

- Ước tính có tới hơn hai ngàn.

Rồi Trung vừa bấm đốt ngón tay, vừa tính vừa kể:

- Tại Càn Thanh cung, có hai viên tổng quản, bốn viên thử lãnh với hai mươi bốn tên thái giám; ba viên thủ lĩnh quét dọn với tám mươi sáu tên quét dọn. Lại Chiêu Nhân điện có hai viên thủ lĩnh với mười tám tên thái giám. Tại Hoàng Đức điện có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám. Tại Mậu Cần điện có một viên thủ lĩnh với chín tên thái giám. Dưới sáu gác chuông đánh hiệu có mười bốn tên thái giám, sáu viên thủ lĩnh chấp sự với sáu mươi sáu tên thái giám. Tại phòng ngự trà có hai viên thủ lĩnh với năm mươi hai tên thái giám; hai viên thủ lĩnh đưa rước vua lên kiệu xuống kiệu với ba mươi bảy tên thái giám. Tại Khôn Minh cung có hai viên thủ lĩnh với mười bốn tên thái giám. Tại Đông Noãn điện có hai viên thủ lĩnh với tám tên thái giám. Tại Tây Noãn điện có hai tên thủ lĩnh với chín tên thái giám: Tại Giao Thái điện có hai tên thủ lĩnh với năm tên thái giám. Tại Duyến Chi cung có hai viên thủ lĩnh với hai mươi tên thái giám. Tại Trường Xuân cung có hai tên thủ lĩnh với mười sáu tên thái giám. Tại Vĩnh Thọ cung có hai viên thủ lĩnh với mười tên thái giám. Tại Đức Khôn cung có hai viên thủ lĩnh với mười sáu tên thái giám. Tại Vĩnh Hoà cung có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám. Tại Khải Trường cung có hai viên thủ lĩnh với mười tám tên thái giám. Tại Thừa Kiến cung có hai viên thủ lĩnh với mười lăm tên thái giám. Tại Hàm Phúc cung có hai viên thủ lĩnh với hai mươi tên thái giám. Tại Sư Tú cung có hai viên thủ lĩnh với hai mươi tên thái giám. Tại Canh Long cung có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám. Tại Cảnh Nhân cung có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám. Tại gần cứa Quang Tả môn có sáu tên thái giám. Tại Ngự thư phòng, có hai viên thù lĩnh với mười tên thái giám. Tại Cổ đông phòng có hai viên thủ lĩnh với tám tên thái giám. Tại Nam thư phòng có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám. Tại thư phòng của các hoàng tử có mười lăm tên thái giám. Tại Tây thư phòng có năm tên thái giám. Tại Phiên thư phòng có bốn tên thái giám, tại Kinh sự phòng có một viên thủ lĩnh với hai mươi sáu tên thái giám, sáu tên ngự tiền thái giám, mười hai tên đợc thanh thư thai giám. Tại Càn Thanh cung có hai viên thủ lình với tám tên thái giám. Tại Nhật Tinh môn có hai viên thủ lĩnh với bảy tên thái giám. Tại Nguyệt Hoa môn có hai viên thủ lĩnh với tám tên thái giám. Tại Nội Tả môn có hai viên thủ lĩnh với mười bốn tên thái giám. Tại Nội Hữu môn có hai viên thủ lĩnh với hai tên thái giám. Tại Cảnh Hoa môn có hai viên thủ lĩnh với tám tên thái giám. Tại Long Phúc môn có hai viên thủ lĩnh với bảy tên thái giám. Tại Cơ Hoá môn có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám. Tại Đoan Tắc môn có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám. Tại Cần Quang tả môn có bảy tên thái giám. Tại Dưỡng Tâm điện có hai viên thủ lĩnh với hai chục tên thái giám, hai viên thủ lĩnh đã tảo (coi việc quét dọn) với mười hai tên thái giám đã tảo năm tên thái giám tiễn tượng (thợ làm tên) năm tên thái giám án ma, hai thái giám thiết tượng (thợ sắt), hai tên thái giám học thuốc tây, một tên thái giám hoa tượng (thợ vẽ) mười tên thái giám điểu thương. Tại Dưỡng Tâm lộ phòng có ba tên thái giám. Tại phòng khăn áo có một viên thủ lĩnh với mười tên thái giám. Tại đại điện nuôi chim ưng có hai viên thủ lĩnh với hai mươi bốn tên thái giám. Tại phòng nuôi chó lớn, chó bé có hai viên thủ lĩnh với ba mươi tám tên thái giám. Tại phòng nuôi bổ câu có năm tên thái giám. Tại ngự hoa viên có ba viên thủ lĩnh với năm chục tên thái giám. Tại Bắc Tiêu hoa viên có hai tên thủ lĩnh với mười tên thái giám. Tại Đại Khung điện có hai viên thủ lĩnh với bảy tên thái giám. Tại Trung Chính điện có mười bốn tên thái giám. Tại Khâm An điện có hai viên thu lĩnh với ba mươi bốn tên thái giám. Tại phòng bếp nước có một viên thủ lĩnh với mười sáu tên thái giám. Tại phòng củi đuốc có một viên thủ lĩnh với hai mươi tên thái giám. Tại phòng lò sưởi có hai viên thủ lĩnh với mười bảy tên thái giám. Tại sở Triệu Tường có hai viên thu lĩnh với mười bốn thái giám. Tại thư phòng có sáu tên thái giám. Tại Ngộ Hỉ sơ có hai viên thủ lĩnh với mười ba tên thái giám Tại sở nội có một viên tổng quản chín viên thu lĩnh với năm mươi ba tên thái giám. Tại Vĩnh An đình, có ba viên thủ lĩnh với hai mươi lăm tên thái giám. Tại Nam phủ tây lộ, có ba viên thú lĩnh với ba mươi tám tên thái giám. Tại Nam phủ trung lộ, có ba viên thu lĩnh với mười lăm tên thái giám. Tại Nam Huân điện có một viên thủ lĩnh với ba mươi bốn tên thái giám. Tại Ham An cung có hai viên thủ lĩnh với bốn mươi tên thái giám. Tại Phật đường ở Từ Ninh cung có hai viên thủ lãnh với tám tên thái giám; còn có hai viên thủ lĩnh Lạt ma với ba mươi tên thái giám, hai viên thủ lĩnh tụng kinh với mười sáu tên thái giám, hai viên thủ lĩnh giữ cửa với mười hai tên thái giám, hai viên thủ lĩnh hoa viên với bốn tên thái giám, hai viên thủ lĩnh đã tảo với mười hai thái giám đã tảo. Tại Ninh Thọ cung có hai viên thủ lĩnh với mười tên thái giám. Tại Dục Khánh cung có bốn viên Diện thượng thủ lĩnh với sáu mươi tên thái giám; còn có một viên thủ lĩnh coi chim ưng với mười lăm tên thái giám; một viên thủ lĩnh gác cổng với mười một tên thái giám; một viên thủ lĩnh phòng chó với ba mươi tên thái giám; hai viên Chấp sự thủ lĩnh, với mười tám tên thái giám; hai viên thủ lĩnh phòng trà với hai mươi hai tên thái giám, năm tên thái giám điểu thương; một viên thủ lĩnh đã tảo với hai mươi tên thái giám, một trăm tên thái giám duệ tiền (trước vua), một trăm thái giám A Ca hạ, lại một trăm lẻ hai tên thái giám A ca hạ, sáu mươi tám tên thái giám A ca hạ, lại tám mươi thái giám A ca hạ nữa. Tại kho đông có sáu thái giám A ca hạ, lại kho tây có bốn tên thái giám A ca hạ…

Lưu tổng quản kể một hơi, thao thao như nước chảy khiến Trang Tuân nghe đến đầu nặng mắt hoa. Đợi cho Trung tạm ngưng Tuân mới lên tiếng nhờ vả.

- Trong cung nội đã dùng tới không biết cơ man nào thái giám như vậy, thì thêm một tiểu đệ có lẽ cũng chẳng nhiều gì. Tiểu đệ cầu mong nhị ca đưa giúp vào cung làm một tên thái giám, để khỏi phải đói rét vất vả như nay ở ngoài đời.

Trung nghe Tuân nói xong, không khỏi vỗ tay xuống bàn đến bốp một cái rồi phá lên cười bảo:

- Cái ông Trang lão gia này quả thật hồ đồ quá sức! Thiến dái đâu có phải chuyện đùa! Lão gia tuổi tác như thế kia e rằng chết thì phí đi. Nếu lão gia muốn làm ăn thì tớ giúp cho việc này: Số là nơi đây, bọn tớ có cái món thầu áo long bào, thường giao dịch thơ từ với bọn hãng dệt Giang Nam. Nếu không ngại cái chuyện phải vào luồn ra cúi thì lão gia hãy nhận làm một tên chạy cờ đi đã rồi ta tính.

Trang Tuân nghe xong, sướng đến mê người, vội ngỏ lời cảm tạ. Từ đó, Tuân trở thành viên thư ký cho Lưu tổng quản.

Phàm những tin riêng đi lại giữa Trung và các quan tỉnh phủ đều do tay Tuân viết giùm. Tuân được Trung chiếu cố nên chẳng bao lâu tình cảnh của Tuân đã mát mặt, khỏi phải lo sinh kế nữa. Tuy nhiên, Tuân vẫn thèm thuồng vì chưa được biết cung điện thế nào, du ngoạn thích thú ra sao, bởi thế Tuân thường nói với Trung nhờ y đưa vào cung chơi một phen cho biết. Lưu tổng quản chẳng khó dễ gì với Tuân, vui lòng ngay, nhưng bảo chờ khi có cơ hội tốt đã.

Sau đó ít hôm, áo long bào của xưởng dệt Giang Nam đã đưa tới. Trung bèn đem mười tám thái giám đến gia môn nội phủ để lĩnh về. Nhờ dịp tốt đó Trung bảo Tuân cải trang thành thái giám, đeo lính bài, trà trộn vào bọn mười tám tên thái giám kia, cũng vác kiện áo long bào, lần lượt đi hàng một tiến qua cửa Càn Thanh mà vào cung. Qua khỏi cửa cung, Tuân thấy tường vách cao nghệu, cung điện nguy nga đồ sộ, sắc ngói vàng xa tít tắp, nào gác hoạ thêu hoa, nào mái cong, cột chạm, bất cứ cái gì cũng làm cho Tuân mắt hoa đầu choáng.

Qua khỏi Càn Thanh môn là đến Càn Thanh cung. Bước vào cung, Tuân thấy về phía đông toà môn lâu treo tấm biển khắc ba chữ Hoàng Dực điện, về phía tây cũng một toà môn lâu treo tấm biển Chiêu Nhận điện về phía bắc là một cổng lớn, mặt đông đề ba chữ Đông thư phòng, mặt tây đề ba chữ Tây thư phòng, bên trong thấp thoáng bóng người mặc triều phục đi lại. Ngoài cổng, bốn, năm tên thái giám đang đợi chờ.

Khi thấy Lưu tổng quản đi tới bọn thái giám tiến lên đón rước, cười cười nói nói. Đoàn người đi quanh về ngả Tây thư phòng. Sau Tây thư phòng có một dãy tịnh thất ở phía bên kia bức tường, trên cao viết mấy chữ Nam thư phòng, bên trong có tiếng người nói chuyện. Đoàn người vác những kiện áo long bào vẫn đi tiếp. Họ rẽ về dãy hành lang phía tây, rồi qua dãy hành lang phía bắc. Nơi đây cũng có mấy căn nhà trên có tấm biển đề mấy chữ Phiên thư phòng. Lưu thái giám đưa đoàn người xuyên qua Nguyệt Động môn đến ba căn phố trệt, bảo một tên đỡ mấy kiện áo trên vai thay cho Tuân rồi dặn Tuân ngồi chờ nơi đây…

Trang Tuân theo lời dặn của Lưu tổng quản, lẻn vào trong căn phố trệt, tựa cửa sổ ngồi xuống, phóng tầm mắt nhìn qua song cửa. Tuân chỉ thấy bọn thái giám tụm năm túm ba kéo nhau qua phía trước cửa sổ, có bọn thì vội vã hấp tấp, có bọn lại đủng đỉnh như không phải lo bận điều gì, miệng thì thào bàn tán với nhau, cũng có kẻ tay cầm những cái hộp nhỏ đi qua đi lại. Tuy vậy, bọn nào cũng chỉ thì thào trò chuyện chứ đố ai dám cười to nói lớn.

Giữa lúc đang nhìn ngắm đến xuất thần, Tuân cảm thấy như có bàn tay ai vỗ nhẹ vào vai mình. Tuân vội quay đầu lại thì ra là Lưu tổng quản. Lưu lúc đó tay không. Tuân biết Lưu đã làm xong mỏi việc. Tuân theo Lưu tồng quản ra khỏi cản nhà trệt rồi qua cửa Nguyệt Hoa môn, đối diện Nguyệt Hoa môn là một một toà đại điện trên đề Mậu Cần điện phía trong có đủ ngai vàng trướng gấm hết sức trang nghiêm. Tuân và Lưu tống quản lại quanh Càn Thanh cung. Đối diện cung cũng có một cung điện lớn, treo màn gấm sặc sỡ trên cỏ tấm biển đề "Khôn Ninh cung". Về phía hành lang mặt đông có một toà đại điện gọi Đông Noãn điện. Về phía hành lang mé tây có một toà đại điện gọi Tây Noãn điện. Thẳng về phía bắc là toà Khâm An điện. Đi vòng qua Khâm An điện thì đến Ngự hoa viên và cửa Thành Võ. Trung và Tuân, một thái giám thực, một thái giám giả, hai người không đi vào cửa này mà lại quanh về phía đông mà ra. Trước hết họ qua Chung Tuý cung, sau đó xuyên qua Tràng Xuân cung. Cảnh Nhân cung, Cảnh Dương cung, Thừa Kiến cung, Diên Hỉ cung rồi trở lại Chiêu Nhân điện như cũ.

Nghỉ một lát, Lưu tổng quản lại đưa Trang Tuân theo Tư Đức điện quanh về ngã Dực Khôn cung, rồi Vĩnh Hoà cung, Hàm Phúc cung, Vĩnh Thọ cung, Khải Tường cung, Sử Tú cung, xem cho kỳ hết mọi cung, mọi điện. Thực là nhà cửa san sát, lâu đài rực rỡ, không thể tả xiết cái cảnh phú quý hoa lệ.

Trang Tuân đi tới đâu, miệng khen lấy khen để tới đó. Nhưng Trung xua tay bảo Tuân im lặng, bởi vì trời lúc này đã quá ngọ, vào giấc nghỉ trưa: Dọc đường hai người ít gặp bọn thái giám và cung nữ.

Khi xem xong khắp nơi trong cung nội, Trung và Tuân bước qua cửa Thần Vô tới Ngự Hoa viên. Trong vườn, đình, đài thấp thoáng hoa cỏ tốt tươi, tiếng chim hót líu lo vang lên bên tai càng làm cho du khách thêm phần thú vị. Nơi đây năm bước một lầu, mười bước một gác, quả đúng như thế thật!

Giữa lúc hai người đang đi sâu vào nơi muôn tía nghìn hồng thì bỗng phía sau, một tên tiểu thái giám vừa chạy theo vừa gọi Lưu tống quản:

- Trương tổng quản có câu chuyện muốn nói với lão gia đấy?

Lưu tổng quản nghe đoạn vội dừng bước rồi vừa chỉ tay vừa bảo Trang Tuân:

- Lão gia cứ đi về phía trước, xuyên qua khóm cây kia, tới một toà đại sảnh quay mặt ra cả bốn phía, ngồi đợi một lát. Tại hạ đi chắc không lâu sẽ trở lại ngay.

Nói đoạn Trung quay đi. Tuân thong thả bước ra khỏi những lùm hoa, quả nhiên thấy một toà đại sảnh bốn mặt đều có cửa, có bao lơn bao quanh và có đặt rất nhiều chậu cảnh, bồn hoa. Bước vào đại sảnh Tuân thấy trên vách tường bốn mặt đều vẽ phong cảnh rất u nhã, chen lẫn những bài thơ, chữ viết đẹp như cắt. Tuân vốn người đọc sách, hễ thấy chữ, thấy thơ là thích, là quý, bèn gắn mũi vào tường, đọc hết bài thơ này đến bài phú nọ.

Giữa lúc mê mải đọc, Tuân bỗng nghe có tiếng quát từ xa vọng lại, Tuân giật mình, ngẩng mặt lên nhìn qua ngách cửa sổ, thấy máy tên nội giám đang khiêng một cỗ noãn kiệu đi tới trong kiệu là một người đàn ông có vẻ oai võ đáng sợ. Tuân nghi là hoàng thượng giá tới, hoảng hồn bạt vía, cảm thấy đôi chân bỗng mềm ra như bún, muốn run mà run không nổi, muốn bước để trốn mà bước không xong. Nhưng rồi thấy giữa sảnh có một chiếc sập lớn, Tuân gắng hết bình sinh lết vào dưới gầm sập, để tai hướng ra ngoài nghe ngóng.

Một loạt tiếng giầy lộp cộp bước từ ngoài vào. Rồi một người leo lên ngồi trên sập. Trong sảnh lặng lẽ như tờ, ngoài những tiếng sột soạt của bộ quần áo mới chạm va vào nhau. Một phút im lặng đi qua…

Tuân bỗng nghe người ngồi trên sập cất tiếng nói:

- Đem bọn chúng lên đây cho ta.

Tiếng nói của người này hết sức lớn, có một âm hưởng dữ tợn. Tiếp đó, có vài ba người khác xuất hiện. Rồi những tiếng xích sắt rổn rảng vang trên nền nhà. Ba người vừa mới xuất hiện, bị bắt quỳ trên nền gạch. Trong đó có một người tỏ vẻ quật cường hết sức, mặc cho bọn thị vệ tả hữu quát bảo y quỳ xuống mà y vẫn không chịu. Đã thế y lại còn lớn tiếng quát rầm lên:

- Dân Trinh! Mi là một đứa lòng lang dạ sói, vô cùng hiểm độc! Ta với mi vốn anh em cốt nhục chứ chẳng xa lạ gì! Mi cưỡng chiếm ngai vàng làm hoàng đế, việc đó ta chẳng thèm nói tới làm chi. Vậy mà đến tính mạng bọn ta, mi cũng chẳng chịu dung tha, nhất định mưu hại cho kỳ được. Ta hỏi mi, chứ hai vị ca ca Dân Dị, Dân Đường tội gì mà mi bắt gọi là chó là heo? Đã thế mi lại còn giam cầm tù đầy họ, còn ta, tên Dân Đê này, từ lúc phụ hoàng còn tại thế ta đã từng nắm binh mã nam chinh bắc phạt, lập biết bao công lao cho triều đình, nay không luận công hành thưởng chăng nữa, cũng không đến nỗi phải tù đầy giam câm như một tên tử tội. Ta nói để mi biết cái ngai hoàng đế mi đang ngự chính là của ta chứ đâu phải của mi. Mi mãi thông với quốc cữu Long Khoa Đa lẻn đến sửa chiếu chỉ, đổi câu: "truyền vị thập tứ hoàng" ra "truyền vị vu tứ hoàng tử" để cướp ngôi báu của ta. Mi tưởng những hành động gian lận xảo trá đó dễ không ai biết chăng? Hừ! Hừ! Dân Trinh! Mi rồi đây chết khó toàn thây đó.

Người, ngồi trên sập bị kẻ kia chửi bới một phen quá xá, bất giác máu hoả bốc lên, ra lệnh:

- Bất tất nói nhiều! Bay đâu! Đem hoá chúng thành tro ngay cho ta!

Bọn thị vệ tả hữu dạ ran, vâng lệnh. Tuân ghé mắt, thấy một vật gì như cái chiếu trải trên mặt đất, được cuộn lại mở ra mấy lần trong chốc lát rồi chỉ nghe bọn thị vệ báo cáo rằng ba thân vương đều đã hoá thành tro cả. Người ngồi trên sập cười nhạt mấy tiếng, đứng dậy. Mấy tiếng quát ồm ồm nổi lên như khi tới, tức thì bọn nội giám lại ghé vai khiêng chiếc kiệu thoăn thoát bước đi, nhẹ nhàng thanh thản như không có chuyện gì xảy ra.

Trang Tuân nằm dưới gầm sập, thấy cái cảnh khủng khiếp quá đến nôi y đâm ra như ngớ ngẩn. Mãi tới khi Lưu tổng quản quay về nơi đại sảnh, tìm thấy y dưới gầm sập kéo ra, thấy y ngây ngây ngốc ngốc, miệng cứ lập bập nói mãi câu "Làm tôi sợ đến chết, đến chết mất" thì chẳng hiểu ra sao cả, Lưu tổng quản vội đưa Tuân về khách điếm, miệng y vẫn cứ lảm nhảm không thôi: "Làm tôi sợ đến chết mất".

Từ đó, Tuân đâm ra điên thật, hễ gặp ai là y nói câu "Làm tôi sợ đến chết mất".

Lưu tổng quản tới thăm Tuân đôi ba lần, cho mời cả danh sư tới bắt mạch hốt thuốc cho Tuân. Nhưng thuốc đổ vào miệng Tuân chỉ như nước đố vào lỗ cống, thoáng cái đã tiêu đi đi mất mà bệnh vẫn hoàn bệnh. Lưu tổng quản đành chịu chẳng biết làm cách nào hơnl, chỉ còn biết nhờ người đưa y về quê dưỡng bệnh. Thương thay cho Tuân, điên luôn một lèo mười lăm lăm trời, đến khi Ung Chính hoàng đế đã chết, Tuân mới dám đem câu chuyện khủng khiếp trên nói ra cho người ngoài biết.

Chỉ vì Khang Hi hoàng đế có dạ khoan hồng nên Ung Chính mới sinh lòng độc, lại còn hành xử quá đáng đối với các hoàng tử cùng bà con thân thuộc như vậy. Thủ hạ của Chính đã đông, tai mắt lại lắm. Chính ngài cũng thường cải trang thành kiếm khách, vi hành ra ngoài điều tra. Dù cho ai ngồi trong phòng kín đến đâu chỉ cần có nửa câu phỉ báng hoàng đế, tức thì cái sọ của người đó lập tức bay mất. Từ khi Ung Chính hoàng đế thu được, cái gọi là Huyền trích tử rồi lại được vị quốc sư truyền thụ Chú ngũ Lạt Ma thì ngài muốn giết ai là được ngay. Ngài chẳng cần động thủ mà chỉ cần niệm câu thần chú, tức thì Huyết trích tử đi lấy ngay đầu người ấy đem về cho ngài.

Cần nói thêm về cái gọi là Huyết trích tử. Đấy là một trái cầu tròn làm bằng thép luyện, bên trong gài hơn mười lưỡi dao bén nhọn như hình cánh chim, mỗi khi cơ quan hoạt động tức thì những lưỡi dao đó xoay tròn như vành bánh xe, xoay tít. Câu thần chú niệm vừa xong, chiếc thiết cầu đó được ma lực điều động, bay vút lên không, tìm tới chỗ người sẽ bị giết, ngoạm cái đầu người đó vào giữa rồi bay về nộp chủ. Giết người không thấy, máu, biến hiện không tung tích quả là một vật hết sức quái đản, xưa nay chưa từng thấy. Ung Chính hoàng đế nhờ cái vật quái dị đó đã bí mật giết chết bao nhiêu người không, tính xuể

Nói đến tài, trinh thám của ngài thì không một ai là không bội phục. Vào năm Ung Chính thứ sáu, đúng ngày rằm tháng một, các nha môn lớn nhỏ trong kinh thành thảy đều an nhàn vô sự Quan lại lớn bé ai cũng đều về nhà uống chén rượu đoàn viên với gia đình và vui hưởng ngày lễ Nguyên tiêu. Nha môn của nội các vốn không có cư xá cho các quan viên, nên chỉ còn lại có hơn bốn mươi người, cả thầy cả tớ, lo giải quyết công văn qua lại. Tối hôm đó, ngay cả bọn nhân viên này cũng chuồn đi đâu hết, duy chỉ có một người họ Lam ở lại để lo liệu việc đèn nhang. Gia đình họ Lam ở xa, mãi tận miền Phù Dương tỉnh Triết Giang. Lam ngồi một mình buồn, lại thêm trăng sáng vằng vặc trên không nên đối cảnh sinh tình, động lòng nhớ tới quê hương. Để giải buồn, ông đi mua ba can rượu Thiệu Hưng, thái một mâm thịt bò để ngay giữa đại sảnh, vừa ngắm trăng vừa nâng chén. Rượu đã chếnh choáng, nghĩ tới tình cảnh lìa xa gia đình đã tám năm trời đằng đẵng, công việc trong nha môn nội các thảy đều lo liệu hết sức cẩn thận, thế mà chẳng được thăng quan tiến chức gì, ông thở luôn một lúc đến ba tiếng dài lê thê…

Giữa lúc buồn nản đến cực độ ấy, Lam bỗng thấy một đại hán thân hình cao lớn, vẻ mặt oai nghiêm, mình mặc bộ đồ đen, chân đi một giày đăng khoái. Lam nhận lầm đại hán vừa tới ra người gác tại cổng nha, bèn mời cùng ngồi đánh chén với mình cho vui. Đại hán chẳng khách sáo gì, tiếp lấy ly rượu Lam mời, nốc một hơi cạn sạch. Xong đại hán nọ cất tiếng hỏi tên, phẩm hàm chức tước của Lam. Ông Lam liền cười bảo:

- Nói làm gì đến quan chức! Đệ chỉ là một tên cung sư hạng bét nơi đây thôi!

Đại hán nọ lại hỏi giữ việc gì thì Lam đáp:

- Chuyên thu phát công văn giấy tờ.

Đại hán nọ lại hỏi bọn đồng sự có bao nhiêu thì Lam đáp:

- Có bốn mươi sáu người.

Đại hán nọ hỏi thêm cả bọn bỏ đi đâu hết thì Lam đáp:

- Họ đi xem hội, tìm vui hết ráo rồi!

Đại hán nọ lại hỏi tại sao không đi chơi với họ thì Lam nghiêm mặt đáp:

- Đương kim hoàng thượng đối với công vụ rất nghiêm khẩn. Nếu cả bọn đí cả, vạn nhất có chuyện gì, thử hỏi ai gánh chịu trách nhiệm?

Đại hán nọ nghe câu nói này xong thốt lên lời khen, rồi uống tiếp ly rượu nữa, lại hỏi:

- Người ở đay đã bao năm rồi?

Lam đáp;

- Đã tám năm.

Đại hán nọ lại hỏi: "Lương lậu bao nhiêu?" thì Lam cười buồn:

- Hai trăm lạng mỗi năm.

Đại hán nọ hỏi có muốn làm quan không, Lam đáp với giọng chán nản:

- Sao lại không muốn? Đệ chỉ nghĩ mình không có phúc phận nên đành để ngoài tai việc đó đấy thôi?

Đại hán nọ hỏi muốn làm quan gì thì Lam bỗng vén tay áo, vỗ phịch một cái xuống bàn, nói:

- Quan lớn thì đệ chẳng màng chi. Đệ chỉ mong được làm chức quan thuế bến sông tinh Quảng Đông.

Đại hán nọ hỏi chức quan thuế có lợi gì thì Lam giải thích.

- Làm quan thuế, chỉ cần nói riêng về bổng lộc, mỗi năm đã có tới năm trăm lạng bạc rồi. Bọn thuyền buôn xuất khẩu kính biếu hằng ngày nữa, lợi ấy cũng không nhỏ đâu.

Đại hán nọ nghe xong biết vậy, chẳng hỏi gì thêm, đứng dậy từ giã ra đi.

Thế rồi qua ngày hôm sau, một đạo thánh chỉ hạ xuống điều động Lam Lập Trung, một viên chức nhỏ bé, tới giữ chức quan thuế tại bến sông tỉnh Quảng Đông. Khắp triều văn võ ai cũng phải ngạc nhiên về việc điều động một nhân viên hạng chót mà phải hoàng thượng đặc giáng thánh chỉ như vậy. Thực ra việc này chỉ riêng có Lam Lập Trung là biết được mà thôi.

Chuyện đáng cười nhất là sau khi Trung được đi nhận chức mới thì không biết bao nhiều kẻ tới xun xoe lấy lòng Trung.

Hồi đó, có một vị đại thần tên gọi Vương Vân Cẩm vốn là tân khoa trạng nguyên. Ung Chính hoàng đế rất trọng Vương, bởi vậy văn võ khắp triều ai nấy đều lon ton chạy tới xu phụng ông. Cứ mỗi ngày bài chầu trở về, ông lại thấy xe ngựa đứng nghẹt cả cổng. Vương trạng nguyên chẳng ham thích gì, duy chỉ khoái có trò đánh bài lá. Những lúc rỗi rảnh, ông tổ chức ngay tại nhà một vài cuộc đỏ đen với đôi ba người bạn đồng liêu chẳng phải để ăn thua mà là để giải trí. Có một bận, bài. Ông ù lớn. Ông bày lên bàn để tính tiền. Bỗng một trận gió ào tới, quét tất cả phần bài của ông xuống đất. Mọi người vội tụt xuống đất lượm bài lên nhưng khi xét thì thiếu mất một cây bài. Vương trạng nguyên biết vậy, chẳng cần kiếm, cho người nhà lấy một cây bài khác thế vào, lại đánh tiếp.

Qua ngày hôm sau, trạng nguyên Vương Vận Cẩm vào chầu, Ung Chính hoàng đế hỏi ông tối qua ở nhà có thú gì tiêu khiển không thì Vương trạng nguyên cũng nói thực là chơi bài. Ung Chính nghe xong cười khà khà nói:

- Vương Vân Cẩm thực chẳng nói dối trẫm.

Sau đó lại hỏi thêm:

- Trẫm nghe nói nhà ngươi ăn một ván bài khá lớn nhưng bị gió quét đi mất một cây bài, nhà ngươi hình như bực mình lắm. Thế hôm nay đã tìm thấy chưa?

Vương Vân Cẩm nghe đoạn sợ quá, chỉ còn cách dập đầu tâu:

- Tâu thánh thượng Thánh thiên tử xét rõ muôn dặm. Cây bài bị gió quét đi nay thần vẫn chưa tìm ra.

Ung Chính hoàng đế lúc đó thò tay cầm lấy cây bài đặt lên long án từ lúc nào, giơ lên nói:

- Vương Vân Cẩm! Nhà ngươi xem có phải cây bài này không?

Vương nhìn xem thì đúng là cây bài mất hôm qua, vội đập đầu tâu "phải".

Ung Chính hoàng đế nói tiếp:

- Trẫm đã tìm giùm cho nhà ngươi rồi. Vậy nên về nhà ngay mà chơi tiếp đi.

Nói đoạn ngài đứng dậy lui trào.

Từ khi xảy ra chuyện này, văn võ khắp triều anh nào anh nấy sợ Ung Chính hoàng đế một phép, cho tiền cũng chẳng giám thì thào bàn tán lấy một nửa lời về triều chính. Và cũng từ đó, Ung Chính hoàng đế mới được gối cao ngủ kỹ, khỏi lo chuyện âm mưu này nọ. Hằng ngày, ngài ở miết trong cung vua, nô đùa với bọn cung tần mỹ nữ.

Hồi này ngài đã đưa con gái của Quý Tả Lãnh lên làm Quý phi. Ngoài ra, ngài còn phong cho bốn cô nữa được ngài sủng ái lúc bình nhật cũng vào chức đó. Tuy nhiên, trong số mấy quý phi này chỉ có nàng họ Quý là được ngài sủng ái nhất, cứ mỗi lần bãi chầu lui cung là ngài lại tìm nàng để trò chuyện vui đùa với nhau. Nàng quý phi họ Quý lại có cái duyên đặc biệt là hễ nheo mày cười lại khiến cho ai cũng phải mê hồn lạc phách, tấm thân của nàng lại tròn trĩnh, mũm mĩm mịn mát như tơ, từ làn da đến thớ thịt, nhất nhất cái gì cũng có thể gây được những khoái cảm mê ly. Thành thử hoàng đế nhà ta chẳng ngày nào quên được nàng, đến nỗi ngài phải tặng nàng biệt hiệu "ôn nhu tiên tử".

Vị Đại Lạt ma Tây Tạng nghe nói nhà vua khoái việc phong lưu chơi bời, liền cho Tiểu Lạt ma mang tới cho ngài một lọ thuốc hoàn Acotô. Acơtô là một loại thuốc kích dục, uống một vài viên thì được chứ nếu uống nhiều vào sẽ phát cuồng. Lúc trước Đại A Kha Dân Nhung sở dĩ phát điên đến chết là chỉ tại uống thuốc này quá nhiều.

Ung Chính hoàng đế từ khi được thuốc này, quả đã trở thành vô địch về khoản mây mưa. Càng sướng, càng khoái, ngài càng biết ơn vị Đại Lạt ma. Cũng chính vị này đã có công lớn trong việc giúp ngài mưu đoạt ngai vàng, bởi vậy ngài tin cậy lắm. Để tạ lại tình tri ngộ, Đại Lạt ma nhà ta truyền thụ cho hoàng đế khá nhiều "bí thuật". Trước đấy, hoàng đế đã sai xây cất một toà cung điện trên núi Tây Sơn trong đó có một ngôi miếu Lạt ma. Nhưng đến nay muốn cho tiện việc qua lại sớm chiều để vấn kế, ngài truyền lệnh xây cất một toà cung điện khác ở ngày sau hoàng cung.

Phủ Nội vụ phụng mạng hoàng đế ra lệnh tập hợp hết những tay thợ khéo ở kinh đô, một mặt cho nội giám đi về vùng Giang Nam kiếm gỗ. Hoàng đế còn đặc phái một vị Lạt ma sung chức Khâm sai đại thần cùng lo về việc này. Vị Khâm sai này tới Giang Nam, cậy uy thế của hoàng đế, tham nhũng, nhiễu hại quá tệ tới đâu là bắt người ta phải "biếu kính" y tới đó, bắt cả quan địa phương phải kiếm gái cho y. Khi tin đồn ra ngoài, một truyền mười mười truyền trăm, nhiều bà đẹp như mộng, nhiều cô còn nguyên xi, vội vàng đem mình vàng tới tự dâng hiến. Số phụ nữ tình nguyện quá đông đến nỗi vị Lạt ma xài không xuể. Y lại nghĩ cách làm tiền, đặt ra cái lệ là hễ vợ con của các nhà quan mà muốn vào hầu thì phải có lễ đưa vào trước, ít thì một trăm lạng nhiều thì một ngàn lạng. Cả vùng Giang Nam, đàn bà con gái bị tên Lạt ma này làm ô uế chẳng biết bao nhiêu mà kể, y lẩn quẩn ở đây ăn tha hồ chơi, mãi tới năm sau mới về kinh.

Công việc xây cất bắt đầu. Năm sáu trăm tay thợ khéo làm việc liên miên ba năm, toà cung điện Lạt ma mới hoàn tất. Ngày khánh thành chính là ngày vị Đại lạt ma kia thu nạp Ung Chính làm đệ tử và phong cho tước vị "Mạn thù sư lợi Thái Tông hoàng đế". Sau đó vị Đại Lạt ma đưa hoàng đế đi xem điện. Trong điện khắp nơi đắp những pho tượng phật, tượng nào tượng nấy kỳ hình quái trạng đủ kiểu, trông ghê khiếp đến rợn người. Ngay giữa quỉ thần điện, ở phía trong, có đắp một tượng thần ác ma cao hai trượng, mặt chó, đầu mọc hai sừng, tay ôm một nữ thần tuyệt đẹp như ôm con kỹ nữ, còn chân thì đạp lên trên mình một đám gái đẹp, thân thể loã lồ.

Ung Chính hoàng đế thấy vậy, trong lòng khoái thích lắm. Ngài bèn đặt tên cho toà cung điện này là Ung Hoà cung, lấy cái ý Ung Chính hoàng đế qui y Lạt ma giáo. Đồng thời, ngài ra sắc lệnh cho trong cũng như ngoài thành phải xây cất miếu Lạt ma đúng theo kiểu cách ở cung Ung Hoà.

Từ đó, bọn Lạt ma đắc thế tên nào cũng làm quan đâm ra hoành hành bất pháp. Trong kinh thành hồi đó có một câu đồng dao như sau:

Muốn có được chức kinh quan,

Cắt râu, cạo tóc đi làm Lạt ma!

Ung Chính hoàng đế cho rằng ngài đã báo đáp phần nào công lao của vị Đại Lạt ma đã từng giúp ngài cướp đoạt ngai vàng. Ngài cũng không quên công lớn của quốc cữu Long Khoa Đa và Ngạc Nhĩ Thái và cả Trương Đinh Ngọc. Ngài bèn hạ chỉ sai cất một toà lâu đài rộng lớn ở phía bắc phố chợ cho Ngạc Nhĩ Thái, bên trong trưng bày toàn đổ ban thưởng của nhà vua. Chỉ nguyên có một toà phủ để ban thưởng đó, hoàng đế cũng tốn mất tới bốn vạn lạng bạc. Hoàng đế còn phong cho Ngạc Nhĩ Thái làm Văn Đoan công. Mặt khác, ngài cũng phong cho Trương Đinh Ngọc làm Văn Hoà công, lại còn cho làm tể tướng nắm tất cả những việc quân quốc đại sự. Trương Đinh Ngọc nói điều gì hoàng đế không bao giờ không chuẩn y. Khi Ngọc chết, ngài còn đem cả bài vị vào nhà Thái Miếu cúng kiềng. Ân sủng như thế kể đã đến cực điểm.

Ngoài mấy vị kể trên, còn một kẻ được hoàng đế kính trọng ghê gớm nữa. Đó là Miên Canh Nghiêu. Qua năm thứ hai, Nghiêu cùng với Nhạc Chung Kỳ bình định xong Thanh Hải, Tây Tạng, hoàng thượng xuống chỉ phong cho Nghiêu tước Công đệ nhất đẳng, ngay cả đến thân phụ Nghiêu năm đó đã lớn tuổi mà cũng được mang tước đó và còn gia hàm thái phó. Nhạc Chung Kỳ cũng được Phong tước Công đệ tam đẳng. Hoàng đế còn trao chức Thiểm Cam tổng đốc cho Nghiêu, giục ban sư về trước để đáo nhiệm.

Đại tướng Miên Canh Nghiêu tiếp được thánh chỉ, lập tức diễu võ dương oai, ban sư về kinh. Bọn quan huyện, quan châu suốt dọc đường đón rước, ngựa trước ngựa sau, nườm nượp như nước chảy. Đối với đại tướng họ Miên thì bọn này chỉ như bùn, như đất dưới chân, chẳng có nghĩa lý gì hết. Quan viên tại các tỉnh, trấn thì từ hàng tuần phủ trở xuống, võ thì từ tướng quân trở lui, kẻ nào thấy Nghiêu mà chả sợ đến toát mồ hôi.

Chỉ cần một lời nói nhỏ đắc tội khiến đại tướng quân trừng mắt lên là đủ để cho kẻ kia sợ đến mất mật. Tuy nhiên, nói sợ thì sợ thật nhưng lòng họ oán hận không nguôi, kẻ nào cũng chỉ chờ dịp báo thù.

Nghiêu đại tướng có một tên tâm phúc làm chức trung quân quan tên gọi Lục Hổ Thần. Thần thấy đại tướng của mình tác oai tác phúc khó tránh được tai hoạ, nhân lúc vắng vẻ bèn vào thực tâm khuyên can mong Nghiêu dè dặt canh chừng.

Nghiêu lúc đó quá chén, chếnh choáng say, nghe lời Thần bất giác thẹn quá hoá giận, liền vỗ bàn đập ghế mắng:

- Tao đây đã thế hoàng thượng đánh lấy cả giang sơn này ngài thấy tao còn phải sợ huống hồ mi. Mi là cái thá gì mà dám dạy bảo cả tao?

Mắng xong, Nghiêu quát: "Chém!", tức thì đao phủ thủ cháy tới trói Thần lại, đẩy ra ngoài viên môn. May số Thần chưa chết nên gặp được Nhạc Chung Kỳ đang bước vào trướng.

Thần vội hô cứu mạng và nhờ Kỳ nói giùm Nghiêu. Ngày thường quân lệnh của Nghiêu một khi đã ra là đố kẻ nào dám cản, ngoại trừ Kỳ, bởi chi có Kỳ là được Nghiêu kính trọng mà thôi.

Cuối cùng vì nể mặt Kỳ, Nghiêu tha chết cho Thần, quân tiền phong lúc đó đã tới Lư Cầu Kiều, Nghiêu bèn phạt Thần làm tên lính canh gác dưới cầu.

Miên, Nhạc hai vị tướng quân chỉ huy đại đội binh mã tiến thẳng về kinh. Tin báo về tới cung. Ung Chính hoàng đế hạ chỉ cho Miên đại tướng đóng quân lại ngoài thành tạm nghỉ.

Hoàng thượng muốn xuất thành đích thân tới khao quân.

Hồi đó đang vào tháng sáu, trời nắng như thiêu như đốt, Ung Chính hoàng đế cỡi loan xa có tiền hô hậu ủng, xuất thành.

Mặt trời gay gắt trên không. Hoàng đế ngồi trong loan xa, mồ hôi chảy thành giọt đầy mình. Khi ra khỏi thành, ngài bỏ xe lên ngựa. Ánh mặt trời lúc này càng nóng dữ. Tả hữu thị vệ, không một kẻ nào là không toát mồ hôi dầm dề. Chạy một lúc, cả đoàn vào nghỉ trong một khu rừng cây cao lá rậm. Phía dưới bóng cây có vây màn trướng bằng vải đoạn vàng. Chính giữa là chiếc ngai vàng của hoàng đế. Ung Chính hoàng đế xuống ngựa, bước tới toạ ngồi chỉnh chện. Bọn thái giám kẻ cầm quạt thì quạt lẹ, kẻ cầm khăn thì làu vội, kẻ dâng trà mát thì dâng nhanh.

Một lát sau bỗng mọi người nghe quân lệnh vang tới. Ai cũng biết đó là dấu hiệu của Miên đại tướng đã tới. Ung Chính hoàng đế bước ra khỏi trướng, nhảy lên mình ngựa đứng đợi.

Ngài phóng tầm mắt ra xa, chỉ thấy phía trước mặt cờ quạt thành hàng thẳng tắp, đao kích chĩa lên trời tua tủa, toàn thể quân đội đứng im phăng phắc dưới mặt trời nóng bỏng, đến nỗi con ruồi bay cũng nghe tiếng. Quân sĩ mặt đổ mồ hôi tí tách thế mà chẳng kẻ nào dám lau. Đội quân tiền phong tiến tới trước mặt hoàng đế hành lễ rồi tách ra hai bên phải trái để lộ ở chính giữa một cây cờ đại, trên mặt thêu một chữ "Miên" rất lớn.

Rồi, Miên đại tướng quân đầu đội mũ trụ mình mặc áo giáp, cưỡi ngựa đứng dưới ngọn cờ cao nghệu. Về phía hoàng đế thì hai bên, văn từ thượng thư, thị lang, võ từ cửu môn đề đốc trở xuống, đều chiếu theo phẩm trật mặc tiến y mãng bào, kẻ nào kẻ nấy bị nắng thiêu, mồ hôi chảy ra thấm ướt cả mấy lần áo. Miên đại tướng quân cùng Nhạc tướng quân vừa thấy hoàng đế ngự giá tới, vội nhảy xuống ngựa, lom khom quỳ làm đại lễ. Sau đó, nào tổng binh, đề trấn, nào trấn hiệp, đô thống, tất cả, các quan dưới trướng Nghiêu đều lần lượt tiến lên triều kiến.

Hoàng đế truyền lệnh ban yến. Miên đại tướng theo, chân hoàng thượng bước vào trướng chia phận vua tôi ngồi xuống.

Rồi cả bọn vương công đại học sĩ bối lặc, bối tử đều ngồi cả hai bên bồi yến. Cửu môn đề đốc, binh bộ thượng thư củng các võ quan tại kinh đô thì bồi tiếp Nhạc Chung Kỳ và bọn quan viên xuất chinh ở phía ngoài trướng. Ly, tách chạm nhau rổn rảng. Vua tôi vào tiệc, thật là vui vẻ. Trong bữa tiệc, hoàng đế cũng nói tới chuyện giết Dân Dị, Dân Đường. Miên Canh Nghiêu nghe xong, bất giác mình ớn da gà, miệng tuy không nói ra nhưng trong lòng cũng phải ghê khiếp cái tâm địa hiểm độc của nhà vua mà tự nhủ từ nay về sau cũng phải lưu ý đề phòng đôi phần. Hoàng đế lại hỏi tới bọn anh hùng hảo hán xuất chinh ra sao thì Miên đại tướng hồi tấu:

- Thần vâng mật chỉ của hoàng thượng nên khi tới Thanh Hải, Tây Tạng, bắt được vợ con của tướng giặc, thấy đứa nào cũng đẹp bèn đem thưởng hết cho họ làm vợ. Ngay đến em gái của mẹ La Bốc, thần cũng gả luôn cho tên giữ Huyết trích tử nữa. Hiện nay cả bọn đều bị nữ sắc làm mê luyến, tự nguyện ở lại biên ải cho tới già chứ không đòi về kinh sư nữa.

Ung Chính hoàng đế nghe xong cười nói:

- Quốc cữ diệu toán, thật ít người kịp.

Ngài nói tới đây thì tiệc cũng vừa chấm dứt. Miên Canh Nghiêu đứng dậy cáo từ:

- Vị thần vì quân vụ bận thân, chẳng đám ở lâu thêm nữa.

Hoàng đế tỏ thái độ ân cần, đích thân đưa Nghiêu ra ngoài trướng. Ngài ngẩng lên thì thấy toàn thể quân đội đông hàng ngàn vạn vẫn y nguyên giáp trụ, đứng thẳng tắp, im phăng phắc dưới mặt trời như thiêu như đất. Ánh nắng chiếu vào mặt kẻ nào kẻ nấy sạm lại, thế mà chẳng một ai nhúc nhích, cử động. Hoàng đế thấy vậy trong lòng lấy làm bất nhẫn, bèn quay sang bảo nội giám:

- Người truyền dụ xuống bảo chúng hãy cởi bỏ áo giáp ra.

Tên nội giám vội chạy ra, lớn tiếng hô vang:

- Hoàng thượng có chỉ: binh sĩ các người hãy cởi bỏ áo giáp ra!

Chẳng ngờ tên thái giám hô luôn một hơi đến ba lần mà cả đoàn quân sĩ hình như điếc cả, vẫn đứng im phăng phắc, không động cựa. Tên thái giám chẳng biết làm cách nào khác, đành quay về tâu lại với hoàng đế.

Lúc đó, Miên Canh Nghiêu đang nói chuyện với hoàng đế nên chẳng để ý tới việc truyền dụ của ngài. Đến lúc hoàng đế nghe tên thái giám hồi tấu mới biết thánh chỉ của mình chẳng ăn thua gì, bèn bảo Miên Canh Nghiêu:

- Trời nắng quá! Đại tướng hãy truyền lệnh cho binh sĩ cởi giáp cho đỡ nóng.

Miên Canh Nghiêu nghe lệnh, vội rút trong bọc ra một cây cờ hồng nhỏ, rồi chỉ một cái phất, tức thì những tiếng rổn rảng, rầm rập vang động một phương trời, ba vạn người ngựa đã nhất tề cởi bỏ hết áo giáp khiến một khu đồng trống rộng rãi bỗng đầy ngộn, nào giáp nào trụ, cao như một trái núi.

Ung Chính hoàng đế thấy cảnh tượng đó, bất giác giật mình đánh thót một cái. Ngài nghĩ bụng, ví thử kẻ kia nhất đán biến tâm thì tính mạng mình hẳn đã nằm trong tay hắn rồi.

Ngài càng nghĩ càng bồn chồn trong dạ. Miên Canh Nghiêu lúc đó lấy làm đắc ý lắm. Y tâu:

- Trong quân chỉ biết có quân lệnh chứ không biết có hoàng mệnh. Xin bệ hạ xét rõ cho.

Ung Chính nghe xong lời nói này của Nghiêu lại càng cụt hứng bội phần. Ngài im lặng, chẳng nói chẳng rằng. Nghiêu nhìn thấy nét mặt nhà vua bỗng trở nên nghiêm nghị, không vui, thì lòng đã đoán rõ vài phần. Y vội cáo từ hồi dinh.

Từ đó về sau, Ung Chính hoàng đế đối với Miên Canh Nghiêu bề ngoài tuy tỏ vẻ kính trọng đặc biệt nhưng bề trong lại theo dõi từng bước. Ngài truyền lệnh cho triều thần thu xếp một toà phủ đệ cực kỳ rộng lớn hoa mỹ cho Nghiêu ở kinh đô. Đồng thời mật phái rất nhiều tay chân thám giám sát nội tình trong phủ đại tướng quân…

Hồi 61 Miên Canh Nghiêu, một dữ tuớng

Hạn kỳ nán lại kinh đô đã mãn, đại tướng quân Miên Canh Nghiêu bèn từ biệt hoàng thượng, phó nhiệm Thiểm Cam tổng đốc. Dọc đường có quan địa phương đón tiếp đầy đủ. Trong đoàn còn có mấy tay thám tử của hoàng đế trà trộn vào và sau này nhất cử nhất động của Miên đại tướng, chúng đều báo mật về kinh cả. Thế mà Miên chẳng biết gì, cứ y như người nằm ngủ trong trống. Miên đại tướng cậy mình là một vị công thần trụ cột, hơn nữa lại vừa mới bình định được Thanh Hải, Tây Tạng, cho nên trời thì cao, hoàng đế thì xa Nghiêu đâm ra ỷ thế làm càn. Trước đây đã có nói qua tinh lực của Nghiêu quả thật hơn người. Cứ mỗi tối, trước khi ngủ, thế nào Nghiêu cũng phải có năm, bảy cô gái vạm vỡ, lực lưỡng thay phiên nhau hầu hạ. Vô phúc đêm nào mà không có gái đô vật thì đêm đó đừng hòng Nghiêu ngủ được. Thực ra, thì Nghiêu cũng có năm thê, bảy thiếp, bà nào, cô nào cũng mắt phượng mày ngài, phấn điểm son tô, nhưng trước mắt Nghiêu, đó chỉ là những bức tranh để ngắm, để khen, để ve vuốt tí tẹo cho vui vậy thôi.

Đến năm Miên đại tướng làm Thiểm Cam tổng đốc thì đã nhiều tuổi, tinh lực xem đã suy giảm đáng kể. Bởi vậy Miên đã có phần thua sút trong những cuộc chinh chiến trên giường.

Hơn nữa, bọn gái đô vật của Nghiêu cũng đã trên dưới ba mươi cả, Nghiêu thấy hết khoái nên đâm ra chán ghét, bèn đem phân phát hết cho bọn đàn em dưới trướng rồi cho người đi lùng khắp miền Thanh Hải, Tây Tạng bắt bọn gái Hồi trẻ măng về thay thế. Chưa đầy nửa năm mà Nghiêu đã vét về được hơn mười cô vừa trẻ vừa khỏe hết chỗ nói. Từ đó Nghiêu suốt ngày nọ sang đêm kia hú hí với bọn gái Hồi.

Qua năm thứ ba, Miên đem đại đội người ngựa xuất tuần các miền Thiểm, Canh, Thanh, Tạng. Khi tới miền Tây Ninh, có một vị tạng cổ bối lặc tên gọi Thất Tín ra đón rước: Nghiêu có cái tính tệ nhất là môi khi tới địa phương nào, y thường bắt không những chức sắc mà còn cả quyến thuộc của bọn này ra tiếp rước, rồi thấy có bà có cô nào trông vừa mắt là y chọc ghẹo, làm nhiều điều thương luân bại lý, mất cả thể thống.

Bọn quan lại địa phương tự nghĩ thân hèn phận mọn đành nhẫn nhục chịu đựng, dám giận mà chẳng dám nói năng, hành động gì.

Lần này Nghiêu đại tướng tới Tây Ninh. Tất nhiên, bọn chức sắc địa phương lại phải đem đủ vợ con thân thích ra đón rước. Đám phụ nữ vùng này chẳng có mống nào ra hồn, song lại có con gái của Thất Tín tên gọi là Giai Đặc cách cách đẹp như tiên nga giáng thế. Giai Đặc cách cách vừa duyên dáng, quyến rũ lại vừa quý phái đài các, khiến Miên mới trông thấy đã mê tơi. Đêm hôm đó Nghiêu đặt giường ngủ trong phủ của Thất Tín. Nửa đêm Nghiêu thức giấc dậy, ao ước tới người đẹp Giai Đặc như muốn điên lên được. Nghiêu bèn gọi tên tiểu đồng tâm phúc, giao chiếc quân lệnh cho hắn, bảo vào nhà trong truyền gọi Giai Đặc cách cách ra thị tẩm (hầu hạ để giúp giấc ngủ được yên ổn). Giai Đặc cách cách nhìn thấy quân lệnh, phần sợ hãi, phần thì cũng ưa thích cái oai danh của vị đại tướng quân, nên nàng theo đứa tiểu đồng lẻn ra nhà ngoài bầu bạn với Nghiêu đại tướng một đêm cho biết mùi phong lưu của cuộc đời. Không ngờ chỉ một đêm đó thôi mà hai người đâm ra cảm nhau, gần như không muốn rời nhau ra nữa.

Qua ngày hôm sau, Thất Tín bối lặc biết chuyện thì ván đã đóng thuyền, hơn nữa ông cũng sợ cái thế lực ghê gớm của quan đại tướng quân nên đành giao viên ngọc minh châu của mình cho Miên Canh Nghiêu. Nghiêu được người đẹp Giai Đặc, mười phần sủng ái. Suốt dọc đường tuần tiễu biên cương, Nghiêu đem người đẹp theo ở lỳ trong trướng, quên phứt luôn bọn gái Hồi cướp vét về từ mấy năm trước. Nghiêu muốn làm đẹp lòng người đẹp bằng cách phô trương cái thế lực khủng khiếp của mình, bèn truyền lệnh bắt quân môn đề đốc là Phú Ngọc Sơn phải canh cửa thổi tù và phía ngoài để giữ yên cho hai vợ chồng y vui giấc điệp. Đường đường một vị đề đốc mà nay phải thổi còi canh đêm thì còn gì là thể diện của quan triều đình nữa chứ? Vậy mà Sơn cung phải vâng lệnh. Bên ngoài quân môn đề đốc Phú Ngọc Sơn thổi tù và gác cổng vất vả chừng nào thì bên trong, Nghiêu đại tướng ôm người đẹp Giai Đặc hú hí thú vị chừng nấy.

Nghiêu cùng người đẹp nằm trong trướng, đêm đêm nghe tiếng tù và "á um, á um" lúc cao lúc thấp, lúc xa lúc gần, lòng lấy làm sung sướng lắm. Giai Đặc cách cách nghe tiếng tù và, bèn hỏi ai thổi ở bên ngoài. Nghiêu sướng đến phát điên, ôm ghì người đẹp vào lòng rồi cười nói:

- Chỉ có cưng của ta ngủ trong này mà ta phải bắt quân môn đề đốc đứng ngoài giữ cửa đấy!

Giai đặc cách cách không tin, giẩu mỏ bảo:

- Thiếp chẳng tin đâu! Có ai làm tới đề đốc đại nhân mà lại chịu đi canh cửa cho tướng quân bao giờ?

Nghe câu nói như chế giễu mình, Nghiêu bực mình bảo nàng:

- Nàng không tin ư? Để ta cho gọi vào cho nàng xem.

Nói đoạn Nghiêu bảo tên tiểu đồng ra gọi Phú đề đốc vào trình diện. Tên tiểu đồng ra ngoài một lát rồi đưa vào một người. Nghêu nhìn xem thì không phải đề đốc Phú Ngọc Sơn mà chỉ là một tên tham tướng thủ hạ của Sơn thôi. Nghiêu hỏi Phú đề đốc đi đâu, tên tham tướng biết nguy rồi, vội quỳ nói:

- Phú đề đốc có chút việc gấp phải về trướng một lát. Bởi vậy ông cho gọi tiểu chức gác thế.

Miên Canh Nghiêu nghe đoạn cười nhạt một tiếng quát lớn:

- Tên Phú Ngọc Sơn này quả to gan thật. Hắn lại dám trái quân lệnh, bắt chém cả cho ta!

Lời nói còn chưa dứt, đao phủ thủ đã xông vào, bắt ngay tên tham tướng kéo ra khỏi dinh. Một lát sau, đã thấy đưa vào hai cái đầu vừa bị cắt, máu còn chảy tong tong, một cái của viên đề đốc, còn cái kia của viên tham tướng. Nghiêu hạ lệnh cho đem đi…

Từ khi giết viên đề đốc Phú Ngọc Sơn thì các tay thủ hạ của Nghiêu xem ra có phần bất phục. Song Nghiêu vẫn như người nằm trong trống chẳng hiểu gì, cứ điềm nhiên giữ cái thói tác oai tác quái như cũ.

Hôm đó, Nghiêu đi tuần biên cảnh trở về, ở trong nha môn quan tổng đốc. Con trai cả của Nghiêu tên Miên Bân đã được phong tử tước, đứa thứ nhì tên Miên Phú được phong đệ nhất đẳng nam tước. Cả hai cậu trai này đều có quân sĩ trong tay, đóng quân ở bên ngoài.

Miên Bân được tin cha giết Phú đề đốc, gây nhiều hờn oán, bèn tự ý quay về dinh xin bái kiến Nghiêu:

- Cha con chúng ta hoàn toàn trông vào lòng quân: Lòng quân mà tan thì nguy hiểm muôn phần. Nay cha giết mất Phú đề đốc là người vô tội, lòng quân thực đã có nhiều kinh hãi.

Bân nói chưa xong Nghiêu đã đùng đùng nổi giận, quát lên như sấm:

- Nghiệt súc! Mi dám đổ dầu vào lửa, xúi giục bộ hạ mưu hại cha mi à? Ta phải giết mi trước đã.

Tiếp đó là tiếng gầm "Trói lại" vang dậy, làm tung cả mấy cánh rèm che ngoài cửa sổ. Bốn, năm tên gia tướng dữ như cọp hung hăng như sói, ùa vào trói gô lấy Bân. Vợ Bân là Vu phu nhân lúc đó nấp đằng sau tấm bình phong nghe trộm, thấy Miên làm dữ tính giết chồng mình, hoảng hồn bạt vía, chạy như điên vào nhà trong, quỳ xuống trước mặt mẹ chồng kêu khóc van cầu bà cứu mạng chồng. Trần thị chỉ sinh hạ có mỗi mình Bân, nghe chuyện cuống lên. Phiền cho bà là đã từ lâu hai vợ chồng gần như tuyệt sạch ân tình, tự đi van xin, bà cho rằng ăn thua gì, liền nghĩ ngay tới vị giáo sư ở trong nhà là Vương Hàm Xuân tiên sinh, vì bà biết Nghiêu chỉ kính trọng có vị tiên sinh này mà thôi. Tiên sinh họ Vương nói gì là Nghiêu nghe ngay, không hề từ chối. Cho là đắc sách, hai mẹ chồng nàng dâu Trần thị vội đứng dậy, có bọn a hoàn nâng dắt, hối hả chạy ra phía sau đại sánh, quanh về ngả thư phòng.

Lúc đó, ông giáo Vương Hàm Xuân đang dạy học cho đứa con út của Nghiêu là Miên Thành, bỗng thấy hai mẹ con Trần thị mặt mày rũ rượi, lệ tràn đôi mi, hối hả chạy vào rồi cùng quỳ xuống, van nài ông đi cứu mạng cho Miên Bân. Vương tiên sinh vò đầu bứt tóc, thoạt tiên chẳng hiểu chuyện gì, sau khi nghe Vu phu nhân, vợ Bân, lược thuật câu chuyện, mới ba chân bốn cẳng chạy vội lên đại sảnh. Ông bước vào cửa sảnh thì thấy đại công tử Miên Bân đang bị bốn tên gia tướng trói điệu ra ngoài, mặt mày ủ dột, cúi gầm như không muốn nhìn ai nữa. Vương Hàm Xuân vội cản lại, rồi chạy vội vào đại sảnh.

Ông thấy Nghiêu mặt hầm hầm, đang ngồi sau án thư. Nhưng lạ một nỗi là đang giận dữ như vậy mà vừa thấy ông, Nghiêu lại vui vẻ, đứng lên để rước ông vào. Vương Hàm Xuân ngồi xuống, trước hết nói vài câu thăm hỏi rồi mới dần dần đưa tới câu chuyện của Miên Bân, dùng lời lẽ hết sức ôn tồn, khuyên giải một hồi, rồi thêm:

- Đại công tử vốn là người con hiếu thảo. Hắn sợ kẻ bộ hạ âm mưu ám toán đại tướng quân nên mới dám nói thẳng để can gián ngài đó thôi.

Bình nhật Miên Canh Nghiêu rất tin và nghe Vương tiên sinh. Giờ cũng vậy, sau khi nghe lời can gián của ông, Nghiêu bất giác giật mình tỉnh ngộ, vội truyền lệnh tha ngay. Miên Bân khỏi chết vội vào tạ ơn cha và ông giáo họ Vương rồi ra sau viện bái kiến mẫu thân.

Trên đại sảnh, Miên Canh Nghiêu sai bày tiệc khoản đãi Vương.

Số là cha của Nghiêu tên Miên Hà Linh, vốn giàu cỏ, gia tài bạc triệu, thế mà vào hồi ba mươi tuổi chỉ sinh có một đứa con trai tên gọi Miên Hi Nghiêu rồi thôi. Đằng đẵng mười năm sau, ông đã tứ tuần mà bà nhà vẫn đực ra đấy, chẳng đẻ đái thêm gì nữa. Ông buồn lắm. Nào ngờ qua năm sau, bà bỗng có bầu và sinh hạ Miên Canh Nghiêu.ỏng sướng hết chỗ nói, cưng Nghiêu hết mức. Nghiêu lên tám vẫn chưa đi học, ông bèn mời một ông giáo bụng đầy ắp chữ nghĩa cho Nghiêu nhập môn. Nào ngờ, Nghiêu vốn được cưng chiều đâm ra lếu láo, vừa hung dữ vừa thô lỗ, chẳng thèm học, chẳng thèm đọc sách, hễ thấy ông thầy là mở mồm chửi. Ông thầy tức quá bỏ đi. Một hơi sáu bảy ông thầy khác được mời về nhà đều chịu chung cảnh ngộ.

Ngày tháng qua mau, Nghiêu càng ngày càng lớn, trời sinh lại được cái xương rắn như đồng, gân bền như thép, thành thử về sau gặp thầy chẳng thèm chửi nữa mà đánh thẳng tay. Nhiều ông thầy bị thoi vào mặt, bị đá vào hông đến vỡ mày vẹo háng, tức quá chỉ còn biết chửi rầm lên rồi xách khăn gói ra đi. Từ đó về sau, chẳng còn có thầy nào dám bén mảng tới nhà Nghiêu để dạy học nữa. Thế là Miên Canh Nghiêu tha hồ chạy nhảy rong chơi, làm cho cả cái trang viên lớn rộng của gia đình náo loạn cả lên. Tường Nghiêu cũng phá. Nhà Nghiêu cũng đập. Cây cối Nghiêu cũng chém, chặt sạch tiêu. Bất cứ cái gì Nghiêu thấy thích là làm, bất chấp ngay cả bố mẹ. Nghiêu đã mười hai tuổi mà chữ nhật là một vẫn chưa biết, chữ đại là lớn vẫn không hay. Ông già Miên Hà Linh thấy con như vậy lấy làm chán nản, buồn bã vô cùng.

Một hôm, ông Linh đem con ra ngoài cổng dạo mát, bỗng thấy một thầy tướng tay lắc xâu chuông, từ xa tiến lại. Khi tới gần, thầy tướng bỗng ngừng bước, nhìn vào mặt Miên Canh Nghiêu xem kỹ một lát rồi bảo:

- Chà! Quả thực là một vị đại tướng quân!

Hồi 62 Một phương pháp dạy trẻ kỳ tuyệt

Thầy thì phán thằng bé có số đại tướng nhưng Miên Hà Linh đâu có tin, bèn gặng hỏi. Thầy tướng xem đi xem lại đôi ba lần rồi cả quyết nói:

- Ghê thật! Làm đẹp mặt cho gia đình sau này chính là nó! Nhưng làm tan cửa nát nhà lại cũng là nó! Nó cần phải đọc nhiều sách thì may ra mới thoát khỏi hoạ này!

Nghe thầy tướng nhắc đến chuyện đọc sách, ông Linh chạnh lòng, thở dài nói:

- Thằng bé này hư hỏng quá rồi. Nó lại kỵ nhất là việc đó.

Thầy tướng nói:

- Thưa lão ông, nếu lão ông tin mà uỷ thác, vãn sinh sẽ xin cố giúp cho cháu trở thành người văn võ toàn tài.

Miêu Hà Linh bèn mời thầy tướng về nhà nghỉ lại. Đêm đó thầy tướng bèn đem lai lịch của mình cũng như cách thức giáo dưỡng thằng bé kể cho ông Linh nghe. Ông phục hết chỗ nói, muốn thầy tướng nhận ngay Nghiêu làm học trò. Thầy bảo:

- Hãy khoan! Xin lão ông xuất ra cho hai vạn lạng bạc giao cho vãn sinh lo liệu mọi thứ đã.

Ông Linh không do dự chút nào, tức tốc làm theo, còn cho quyền thầy tuỳ nghi sử dụng. Từ đó về sau, toàn gia họ Miên đều gọi thầy tướng là tiên sinh.

Tiên sinh nọ lấy tiền xong, chẳng thèm nói tới chuyện dạy dỗ gì Nghiêu hết. Ông đem số tiền mua một miếng đất trống ở đằng sau Miên gia trang, mướn rất nhiều thợ gấp rút xây cất một toà hoa viên tráng lệ với nhiều cây cối xum xuê hoa lá ở trung tâm, ông lại cho xây một thư viện chứa đầy sách.

Cuối đông năm đó, toà hoa viên mới được xây cất xong. Chung quanh, ông lại cho xây hai lần tường vây kín, chỉ để một cái cửa nhỏ ở về hướng tây nam thông ra ngoài mà thôi.

Thế rồi tiên sinh nọ chọn đúng ngày mười sáu tháng giêng năm sau, là ngày lành tháng tốt, khai tâm cho tên học trò duy nhất Miên Canh Nghiêu của ông.

Hôm đó, Miên Hà Linh cho mời thân bằng cố hữu tới dự bữa tiệc đãi tiên sinh. Rượu xong, chính Miên Hà Linh đưa Miên Canh Nghiêu tới để làm lễ nhập môn. Ông Miên chắp tay lạy tiên sinh nọ ba lạy rồi gởi lời ký thác, xong cáo từ quay về. Tiên sinh nọ tiễn Miên Hà Linh ra khỏi hoa viên bằng cái cửa nhỏ duy nhất nọ, rồi sai thợ hồ xây bít luôn lại, chỉ trừ có một cái lỗ nhỏ đủ để đưa cơm nước vào trong mà thôi.

Toà hoa viên xây cất tráng lệ cho nên Miên Canh Nghiêu bị nhốt bên trong mà cũng không lấy làm buồn chán lắm. Nghiêu tung tăng chạy nhảy, rong chơi suốt ngày, tha hồ muốn làm gì thì làm, chẳng ai thèm nói tới. Vị tiên sinh khả kính nọ thì suốt ngày ngồi trong thư viện, tay không rời sách, cũng chẳng thèm để ý tới Nghiêu, cũng chẳng bao giờ bắt Nghiêu mó đến bút giấy. Nghiêu được hoàn toàn tự do, khoái lắm, thế là cứ việc chạy nhảy suốt ngày trong hoa viên, không có chỗ nào là không đạp chân tới. Nhưng có điều lạ là Nghiêu chẳng bao giờ bén mảng tới thư phòng, chẳng bao giờ chuyện trò lấy nửa lời với tiên sinh nọ. Thư phòng đối với Nghiêu dường như là một cấm địa mà chính Nghiêu tự nhủ phải chừa ra.

Càng được tự do, Nghiêu càng thấy khoái. Nghiêu cởi hết quần áo, ở truồng nồng nỗng, nhảy đại xuống ao bơi lội, bắt cá. Lại có lúc Nghiêu leo lên cây hái trái ăn, phá tổ chim chơi.

Mùa xuân, Nghiêu lấy sáo ra thổi vang lên. Mùa hè Nghiêu vác cần ra ao câu cá. Mùa thu, Nghiêu đuổi ve, bắt dế suốt ngày. Mùa đông Nghiêu nghịch tuyết rỡn cười. Một năm có bốn mùa thì không mùa nào là Nghiêu không có cái thú để tiêu khiển. Chơi những trò đó chán rồi, Nghiêu lại có lúc cuốc đất, đào hố, trồng cây…, thôi thì đủ trò của một thằng nhỏ mười hai, mười ba, nghịch ngợm khôn ranh.

Nghiêu tự do tự tại như vậy được một năm, thì tường đổ, vách xiêu, hoa tàn, nước cạn, thậm chí những trụ đá xây hết sức vững chắc cũng bị Nghiêu đập gục xuống hết. Không chỗ nào là còn lành lặn dưới sự tàn phá của Nghiêu. Riêng toà thư viện đã trở thành cấm địa đối với Nghiêu thì quả thực Nghiêu không bao giờ đụng tới. Tiên sinh nọ thấy Nghiêu phá phách đến quỷ khốc thần sầu như vậy mà vẫn mặc, chẳng thèm "hừ" lên một tiếng nhỏ nào.

Ít lâu sau nữa, Miên Canh Nghiêu chơi nghịch đã chán hết mọi chỗ mọi trò rồi, bèn liều lĩnh mò vào thư phòng tính chuyện quấy phá. Để "lấy đà", cu cậu mặt hầm hầm, mắt trợn ngược lên, làm oai quát bảo:

- Mau mở cửa ra cho ta! Ta muốn ra khỏi nơi đây.

Tiên sinh nọ mặt lạnh như tiền, đáp:

- Khu vườn này không có cửa. Mi muốn ra cứ việc nhảy qua tường mà ra.

Nghiêu thấy tiên sinh nọ không chịu, liền xắn tay áo giơ cao quả đấm, thoi mạnh một cú vào mặt ông. Chỉ thấy ông quắc mắt lên giơ bàn tay ra chộp ngay lấy cánh tay Nghiêu, văn mạnh. Nghiêu la lên oai oái và giẫy đành đạch. Tiên sinh quát lớn:

- Quỳ xuống!

Nghiêu sợ đau, lúc này chẳng quỳ cũng chẳng được. Tiên sinh thả tay, Nghiêu vội lủi đi, mất hút.

Luôn một lèo, hơn mười ngày, Nghiêu trốn biệt, chẳng dám bén mảng đến thư phòng. Mùa thu đã lại về, phong cảnh có điều tiêu sơ Nghiêu không còn thấy cảnh đẹp nữa, liền lẻn tới thư phòng, thấy tiên sinh nọ đang cúi đầu xem sách. Nghiêu rón rén lại bên bàn, đứng một lúc rồi bỗng mở miệng nói:

- Này lão kia, một toà hoa viên rộng lớn thế mà ta chơi cũng đã chán rồi. Cuốn sách nho nhỏ kia, sáng xem đến tối, tối xem đến sáng. Có gì hay trong đó mà lão xem mãi thế?

Tiên sinh nghe Nghiêu nói xong, cười lên khà khà, bảo:

- Thằng nhỏ, mày biết gì! Cuốn sách này còn có những cảnh trí rộng lớn bằng vạn lần khu vườn kia, suốt đời cũng khó xem hết được, mày không biết, thật đáng tiếc!

Miên Canh Nghiêu nghe xong bảo:

- Lão thử nói ta nghe có gì vui trong đó?

Tiên sinh lắc đầu:

- Thầy mày chẳng lạy mà lại dám bảo nói cho mày nghe hở? Đâu có dễ thế chú bé.

Nghiêu nghe đoạn dựng ngược đôi mày, giơ thẳng cánh tay đập cái rầm xuống mặt bàn, quát.

- Lạy! Lạy cái con khỉ ấy à! Đừng hòng!

Quát xong, Nghiêu khoát tay làm bộ, huênh hoang bước ra khỏi phòng. Tiên sinh mặc kệ, chẳng thèm gọi lại.

Lại hơn mười ngày sau, Nghiêu quả đã chịu hết nổi, bèn chạy vào thư phòng, quỳ xuống đất lạy thầy và nói:

- Xin thầy dạy cho con với.

Tiên sinh nâng Nghiêu dậy, bảo ngồi xuống. Bộ sách đầu tiên mà ông dạy cho Nghiêu là bộ Thuỷ Hử. Ông đem những chuyện trong Thuỷ Hử ra kể. Nghiêu nghe khoái bằng chết, thôi thì khoa chân múa tay, lắm lúc như điên như dại. Tiên sinh giảng tiếp Tam Quốc Chí, rồi Tống Nhạc Phi, rồi những chuyện anh hùng, hiệp khách ly kỳ khác. Sau nữa, ông giảng tới binh thư, sử ký kinh điển, rồi các loại sách về khoa học.

Những lúc rỗi rảnh, ông lại dạy cách dương cung bắn tên hạ cờ, dần dần về sau dạy đủ mười tám ban võ nghệ, không một ban nào là không đến độ tinh vi. Ông còn dạy cả cách ra quân bày trận, phép chạy trên tường, bay trên mái nhà. Thế rồi, sau tám năm công phu đằng đẵng, ông dạy Nghiêu thành một người văn võ toàn tài. Đến lúc đó ông mới bảo Nghiêu phá tường mà ra.

Miên Canh Nghiêu trở về nhà, bái kiến phụ thân. Ông Miên Hà Linh sau tám năm không gặp, nay thấy con trở về với toàn tài văn võ, bản lãnh phi thường thì làm sao chẳng mừng. Ông vội tới lạy tà tiên sinh nọ. Tiên sinh chỉ chào rồi cáo từ ra đi mặc cho cha con họ Miên khẩn khoản lưu lại. Tiên sinh nọ chỉ dặn đi dặn lại Nghiêu có một câu "cấp lưu dũng thoái" (nghĩa là đi thì cho nhanh mà về thì cũng cho lẹ).

Đến lúc này, đại tướng quân Miên Canh Nghiêu phú quý đã tột bực. Mỗi lúc nhớ tới vị thầy xưa, Nghiêu lại thấy kính trọng vô bờ. Cũng bởi lẽ đó nên Nghiêu hết sức kính trọng Vương tiên sinh hiện dạy học cho con mình.

Ông Vương Hàm Xuân tuy không phải là một ông thầy văn võ toàn tài như tiên sinh thuở nọ nhưng ở trong nhà họ Miên, ông luôn tỏ ra ngay thẳng trung hậu, nên được Nghiêu tin cậy ký thác mọi việc cho. Ngoài việc dạy cho cậu út học, ông còn trông coi cả việc nhà cho Nghiêu. Những lúc nhàn rỗi, Miên thường tới gặp ông để trò chuyện.

Vương tiên sinh vốn nhân hậu nên khi thấy Miêu đại tướng quân giết chóc quá nhiều thì lòng ông không yên. Phải cái Miên tính nóng như lửa, việc khuyên can nhiều khi cũng chẳng dễ dàng gì. Trong nhà đã có hai đầu bếp, một hầu gái mất mạng vì ông khiến ông suốt đời không thể nào quên được. Cứ mỗi khi nằm, ông lại giở cuốn kinh Kim Cương ra tụng niệm, mong siêu sinh tịnh độ cho những oan hồn đã chết vì mình. Ông nguyện rằng công quả này sê không bao giờ sao nhãng, cho mãi tới khi ông chết. Gia nhân thứ nhất họ Hồ, làm cho Miên đã bốn năm. Một hôm, Miên mời khách dự tiệc. Trong bữa có món đặc biệt tên gọi "Nguyên quần", do Miên bảo làm.

Ông thầy Hàm Xuân bữa đó ngồi ghế nhất. Khi gia nhân dâng bát Nguyên quần, ông không biết món gì liền hỏi thì Miên giải thích đó là món thịt ba ba cắt ở chung quanh cái viền thịt trên lưng ba ba. Giải thích xong, Miên bèn lấy thìa múc lên đãi khách.

Ông tiếp lấy miếng thịt. Miên hỏi mặn nhạt ra sao, ông chưa kịp đáp, chỉ nhíu đôi lông mày, lắc nhẹ cái đầu một cái. Không đáp kịp chỉ tại miếng thịt nóng quá, khiến đầu lưỡi của ông gần như tê đi, không nói được. Miên thấy thế cho là ông chê món ăn không ngon, bèn khẽ hất đầu ra hiệu cho đám thị vệ túc trực bên ngoài. Một lát sau, ông thấy một tên thị vệ chạy từ ngoài vào, tay bưng chiếc mâm sơn đỏ, trên phủ một tấm khăn đỏ. Tên thị vệ quỳ xuống, miệng bẩm lớn:

- Hồ nhà bếp nấy món không ngon. Nay đã chém đầu đem nộp.

Nói đoạn thị vệ giở tấm khăn đỏ ra. Ông thấy một cái đầu người vừa mới cắt xong, máu đang còn ứa. Tân khách trong tiệc, người nào người nấy ghê quá, quay mặt không dám nhìn , ông hỏi tại sao thì Miên đại tướng giải thích:

- Bản chức thấy tiên sinh nhíu đôi mày, biết món ăn không ngon nên đã bảo nô dịch chặt đầu tên nhà bếp.

Ông vừa nghe đoạn, bất giác chồm dậy, luôn miệng nói:

- Tội quá! Tội quá!

Rồi ông giải thích lý do tại sao lại nhíu đôi mày và lắc đầu Miên đại tướng mới vỡ lẽ nhưng đâu thèm để ý, chỉ cười xoà một tiếng coi như xong.

Hồ nhà bếp chết rồi, ít lâu sau lại đến Tiền nhà bếp. Anh nhà bếp họ Tiền này biết rõ lý do cái chết của người đi trước cho nên hết sức cẩn thận: Cứ mỗi bữa định nấu món gì, Tiền nhà bếp lại tới hỏi Vương gia sư trước đã. Sự khôn ngoan ấy đã giúp cho anh ta được yên ổn, không xảy ra chuyện gì.

Vương tiên sinh vốn người Hàng Châu. Một hôm, ông nhớ tới món đậu hũ xứ Hàng, liền bảo Tiền nhà bếp làm cho một nồi. Miên đại tướng thường ngồi ăn với Vương tiên sinh, khi thấy chén đậu hũ, đột nhiên cả giận quát:

- Đậu hũ là món tồi tệ nhất, tại sao dám đem đãi tiên sinh? Bay đâu? Chém!

Ông thầy họ Vương nghe quát, hoảng quá, vội bảo món đậu hũ chính là do ông bảo làm. Miên đại tướng không ngờ món này ngon thật, bèn dặn Tiền đầu bếp bữa nào cũng phải có một chén cho Vương tiên sinh. Vương ăn mãi cũng chán nhưng không dám nói. Về sau Tiền nhà bếp bận việc nhà xin cáo về, một anh bếp mới tới nghe nói Vương thích món đậu hũ liền bắt chước anh bếp cũ làm theo. Miên đại tướng nếm thử, không ngờ đậu hũ vừa đắng vừa mặn, thế là đùng đùng nổi giận, quát chém, khiến Vương tiên sinh vội can mà không kịp.

Ít lâu sau, Tiền nhà bếp xong việc nhà, trở lại bếp nhà Miên. Y lại chế món đậu hũ, mùi vị thật hết sức ngon thơm.

Vương tiên sinh lấy làm lạ, bèn cho gọi tới hỏi xem thì mới biết rằng: Cứ mỗi nồi đậu hũ phải lấy một trăm bộ óc cá mè trộn vào mới được ngon thơm như vậy.

Vương nghe xong luôn mồm nói:

- A di đà phật! Anh bếp mới nọ thật là oan, như thế thì làm sao anh ta biết được! Thôi từ mai anh bỏ cái món đó đi nhé!

Ít hôm sau, Miên Canh Nghiêu lại nghĩ ra một món nhậu đặc biệt. Ngài cho mời một số tân khách tới dự tiệc. Vương tiên sinh lần này cũng vẫn ngồi ghế nhất. Rượu được vài tuần, Miên truyền lệnh bưng ra. Người ta thấy bọn gia nhân vội vã sắp đặt, cứ trên mỗi bàn đặt một cái bếp hoả than, trong nòi nào xáo gà, nào vây cá sôi sùng sục, khói bốc nghi ngút. Trước mỗi thực khách, chúng để tiếp một cái mâm đầy đủ đồ gia vị, một cái dùi bạc, một con dao bạc, một cái thìa bạc. Khách khứa chẳng ai hiểu ra sao.

Đợi một lát, lại thấy bọn gia nhân đặt trước mặt mỗi thực khách một cái lồng nhỏ bằng gỗ, bên trong nhốt một con khỉ nhỏ, đầu nhô lên trên chóp lồng, chìa hẳn ra bên ngoài, cứng ngắc không thể cựa quậy, y như bị cùm chặt vào đó, còn cổ thì bị khoá chặt vào những thanh lồng, khiến khỉ ta không thể thò lên thụt xuống được. Bầu không khí ồn ào trong bữa tiệc bỗng dưng biến mất. Mọi người im lặng, đợi chờ một sự lạ nào đó sắp xảy ra.

Miên đại tướng quân động thủ trước. Ngài cầm dùi bạc, giơ cao lên, đập mạnh vào sọ con khỉ, thủng thành một lỗ lớn. Đoạn, ngài cầm thìa bạc thọc vào sọ khỉ, múc óc ra, nhúng nhúng vào nồi hoả than rồi bỏ vào miệng, ăn hết sức ngon lành. Xong ngài lại lấy con dao bạc cắt cái sọ khỉ khác bỏ vào nước đang sôi.

Nhiều thực khách thấy cách ăn của Nghiêu cũng bắt chước theo. Thế là cả bữa tiệc rùm lên vì tiếng kêu la thàm thiết của lũ khỉ, tiếng đập đôm đốp của dùi, tiếng xẻo tiếng cắt xoèn xoẹt của dao. Rồi tiếng người khen ngon, kẻ khen tuyệt, ồn ĩ cả lên.

Vương gia sư ngồi trên ghế nhất nhìn cử toạ, thấy mặt mũi tối sầm lại. Ông thác cớ nhức đầu, rút lui về phòng, thiếu điều nôn thốc nôn tháo.

Bữa tiệc kéo dài mãi tới mặt trời gác núi mới tan. Tính ra đến gần một trăm con khỉ đã thiệt mạng. Nghiêu đại tướng quả được một bữa mãn nguyện. Ngài vào thư phòng thăm Vương tiên sinh, cũng vừa lúc con a hoàn dâng trà lên cho Vương.

Ông đứng lên để đón Nghiêu, không ngờ trật tay nghe đánh choang một tiếng, chiếc chén ngọc đã rớt, bể tan trên mặt đất, còn nước trà bắn tung tóe lên cả áo quần mình. Ông lấy khăn, vừa cúi xuống lau những giọt nước trà trên quần áo, tai đã nghe thấy tiếng gió vút, vội ngẩng lên thì đã thấy đầu con a hoàn bị Nghiêu chém đứt, lăn lông lốc trên sàn nhà.

Vương tiên sinh lúc này không nhịn được nữa, đành phải lên tiếng khuyên can Nghiêu. Ông còn nói thêm:

- Người đời thường nói công cao át cả chúa, đó là điều không lợi Đại tướng quân ở nơi đây, nhất cử nhất động e khó qua được tai mắt của hoàng thượng. Thiết tưởng đại tướng quân nên làm nhiều điều nhân đức, cố kết lòng quân mới phải.

Giữa lúc Vương tiên sinh đang can gián Nghiêu, từ bên ngoài bỗng trình vào một phong văn thư. Nghiêu mở xem, nhận ra là thư của tâm phúc từ kinh gửi tới. Đọc chưa xong, hùng khí của Nghiêu vốn cao đến vạn trượng, bỗng thấp hẳn xuống chỉ còn độ vài gang. Nghiêu lắp bắp nói:

- Hỏng rồi Hỏng rồi!

Vương tiên sinh tiếp lấy thư, xem qua, bất giác cũng phải nhíu đôi lông mày lại, mặt lộ vẻ buồn thảm vô hạn…

Hồi 63 Huỷ diệt công thần

Thì ra khi Miên Canh Nghiêu đáo nhiệm, nhất cử nhất động của Nghiêu đều có thám tử của Ung Chính hoàng đế đặt ngầm chung quanh tâu báo thường xuyên về triều. Thế rồi Đô ngự sử dâng sớ cực lực lên án Nghiêu. Trong thì sáu bộ Chính Khanh, ngoài thì tuần phủ, tướng quân, tất cả dâng sớ hạch tội Nghiêu, có mấy điều rất nguy hiểm như: âm mưu phản loạn, coi thường nhân mạng, cưỡng dâm phụ nữ, giết hại đề đốc.

Miên Canh Nghiêu xem xong thư, biết tính mạng mình khó toàn, bèn sửa soạn ngay đêm đó chút đồ tế nhuyễn. Rồi giao cậu nhỏ Miên Thành cho Vương tiên sinh đem về phương nam dạy dỗ để giữ lại giòng máu cho họ Miên. Vương tiên sinh vừa đem Thành ra đi thì thánh chỉ từ Bắc Kinh tới/

Thánh chỉ nói:

"Gần đây Miên Canh Nghiêu cử bậy tên Hồ Kỳ Hằng làm tuần phủ lại dung túng bọn Kim Nam Anh nhũng nhiễu lê dân trại Nam Bình rồi dùng lời lẽ che đậy, tâu báo về triều.

Nghiêu lại còn dấu giếm triều đình cả việc dàn đói ở các vùng Thanh Hải, Mông Cổ, thật không thế tha thứ được. Miên Canh Nghiêu trước đâu có đến nỗi đó. Hoặc y cậy mình có công cho lên kiêu láo, hoặc y chém giết quá nhiều cho nên hôn am. Con người đã như vậy thì làm sao còn có thể giữ chức Xuyên Thiểm tổng đốc. Trẫm xét Miên Canh Nghiêu còn có thế luyện tập được cho quân sĩ, bởi vậy trẫm điều động y bổ sung chức tướng quân tỉnh Chiết Giang và Hàng Châu. Còn ngôi tổng đốc thì Phân Uy tướng quân Cam Túc đề đốc kiêm lý tuần phủ Nhạc Chung Kỳ mau tới Tây An đảm nhận. Ấn tín của Phủ Viễn đại tướng quân thì gửi về kinh. Ấn tín của Phân Uy tướng quân nếu thấy vô dụng thì cũng gửi về kinh luôn".

Nhạc Chung Kỳ chơi thân với Miên Canh Nghiêu, nên khi được tin này, Kỳ vội tới Tây An tiếp thu ấn tín, đồng thời lấy lời an ủi và giúp Nghiêu dâng sớ xin được bảo toàn. Kỳ còn sai một trăm tên thân binh hộ vệ cho Nghiêu ở dọc đường.

Nghiêu và Kỳ hai bên gạt lệ chia tay nhau.

Khi tới Nghi Trưng thuộc tỉnh Giang Tô, Nghiêu thấy trước mình có hai đường thuỷ - bộ: đường thuỷ xuôi về nam thẳng tới Hàng Châu còn đường bộ ngược lên bắc dẫn tới Bắc Kinh.

Nghiêu tự nghĩ mình từng đã đem hết tâm lực ra để giúp hoàng đế nay chi bằng tới Kinh điện cầu chút ân huệ, biết đâu ngài chả nghĩ tới công trạng thuở nọ mà cho hồi nguyên chức. Nghĩ vậy Nghiêu tự ý thảo sớ trong đó có hai câu như sau: "Nghi trưng thuỷ bộ chia đường. Thần tới đây yên lặng đợi sắc lệnh của thánh thượng" (Nghi trưng thuỷ lục phân trình. Thần chì thử tĩnh hậu luôn âm). Hai câu này, đối với Nghiêu, bất quá chỉ là mong hoàng thượng hồi tâm chuyển ý. Nào ngờ Ung Chính hoàng, đế xem xong tờ sớ, lại càng nghi Nghiêu còn ý phản loạn, muốn đem quân về kinh để uy bức ngài. Thế là ngài giao ngay tờ sớ cho nha môn lại bộ duyệt xét.

Từ xưa, người ta thường nói: dậu đồ bìm leo. Huống hồ Miên Canh Nghiêu ngày thường uy phúc tự chuyên, đắc tội rất nhiều với quan trường cho nên cả bọn này chúng khẩu đồng từ, cùng nói Nghiêu đã được ân huệ lớn mà còn cuồng vọng làm nhiều điều bất pháp đến thế, tội thật cực lớn, và xin hoàng đế cách chức Nghiêu tức khắc, truy hồi những ân thưởng đã ban. Tiếp đó, dân cư dọc bên đường cũng đầu đơn gửi về triều đình bướm bướm, tố Nghiêu nhiễu loạn dân lành. Điều này rõ ràng là do kẻ thù Nghiêu xúi bảo.

Ung Chính hoàng đế xem đơn, tức giận đến cùng độ, chỉ nội một đêm mà ngài hạ đến mười tám đạo chỉ dụ, giáng luôn một lèo vị Xuyên Thiểm tổng đốc phủ viên, đại tướng quân uy danh hiển hách là Miên Canh Nghiêu xuống mười tám cấp, biến thành một tên lính canh giữ cổng thành Hàng Châu tại cửa Võ Lâm. Đến nước này, Miên Canh Nghiêu cũng đành cam chịu, đem theo vài tên lính già, đến Hàng Châu lâm quan giữ cửa thành, hễ thấy các quan lớn trong thành ra hay từ ngoài vào thì phải sửa mũ, xốc áo để tiếp rước và đưa tiễn. Cửa Võ Lâm lại náo nhiệt đông đúc nhất, mỗi ngày ra vào không biết bao nhiêu vị quan. Nhưng cái điều thú vị nhất là tướng quân Hàng Châu lúc đó chẳng phải ai xa lạ mà lại chính là thủ hạ của Nghiêu, trước đây đã từng làm quan trung quân, suýt bị Nghiêu giết, xin mãi mới toàn mạng, chi bị giáng xuống làm tên lính gác dưới gầm cầu.

Vị tướng quân đó, chính là Lục Hổ Thần.

Uất hận vì Nghiêu hại mình, Lục Hố Thần tìm cách chui luồn cửa khác. Sau ba năm, Thần lại lên tới chức đề đốc. Thần nghe nói Nghiêu bị tội, phát lạc tại Hàng Châu làm quan giữ cổng thành, liền hết sức vận động để được làm tướng quân Hàng Châu, thật là "oan gia đường hẹp". Thần vừa đáo nhiệm có một hôm, liền chỉnh đốn toàn quân tiến vào thành. Quan viên văn võ đều đứng tại cổng thành đón tiếp, duy chỉ có mình anh quan giữ cổng Miên Canh Nghiêu là tự do tự tại, coi như không có chuyện gì. Nghiêu mặc áo, bào vào rồi xếp bằng ngồi nhìn mặt trời. Khi Lục Hổ Thần đi qua trước mặt, Nghiêu vẫn chẳng thèm để ý. Thần nổi giận đùng đùng, quát lớn:

- Miên Canh Nghiêu! Mi có nhận ra ta đây không? Tại sao mi không quỳ lạy?

Nghiêu nghe xong, nhìn Thần cười lạt nói:

- Mi bảo ta ư? Chính ta mới bảo mi phải quỳ ngay xuống!

Thần ha hả cười lớn:

- Ta đường đường là một vị quan đầu phẩm, thế mà mi dám bảo ta phải quỳ trước một tên canh cửa? Ha ha! Ha ha!

Nghiêu lại bảo Thần:

- Mi không quỳ trước một tên canh cổng, nhưng nếu thấy hoàng thượng, chắc mi quỳ chứ?

Thần gật đầu bảo:

- Cái đó tự nhiên!

Nghiên không vội gì, từ từ đứng dậy bảo Thần:

- Mi có thấy ta ngồi trên cái gì không?

Thần liếc mắt nhìn xem, thì ra đó là cái Long điếm(1) cũ mà Khang Hi hoàng đế đã thưởng cho Nghiêu, Nghiêu còn thò tay vào bọc lấy tấm vạn tuế bài ra đật lên trên Long điếm, xong rồi quát lên một tiếng lớn:

- Lục Hổ Thần! Quỳ xuống!

Thần lúc đó ngoan ngoãn như một con cừu non, vội quỳ xuống đất, làm lễ Tam quy cửu khấu. Thấy Thần hành lễ xong, Nghiêu mới đem vạn tuế bài cất đi!

Việc nhục nhã không ngờ này càng làm cho Thần căm thù Nghiêu. Thần về tới nha môn, ngay đêm đó dâng sớ về triều tố Nghiêu có năm tội đại nghịch, chín tội khi võng, mười sáu tội thiện chuyên, mười tám tội tham vàng, sáu tội kỵ khắc, mười lăm tội xâm thực, bốn tội tàn nhẫn, cộng tất cả là chín mươi hai tội và chiếu luật thì phải xử lăng trì.

Bản tấu này quả đã là một Thôi mệnh phù đòi mạng Nghiêu. Một đạo thánh chỉ ban xuống đại ý nói:

"Cô nghĩ cái công bình định Thanh Hải của Miên Canh Nghiêu khi giao cho thông lĩnh bộ quân A Tê đồ giám nên Cô cho Nghiêu tự xử lấy. Miên Phú (con trai thứ hai của Nghiêu ỷ thế cha, không điều gì ác mà không làm) lập tức đem chính pháp. Miên Hà Linh (cha Nghiêu), Miên Hy Nghiêu (anh Nghiêu) hãy đoạt lại tước vị, cho miễn xử phấn. Còn gia sản của họ Nghiêu thì tịch biên sung công hết".

Đạo thánh chỉ này ban xuống tức là toàn gia họ Nghiêu tan tành rồi! Việc này tuy do tội kiêu ngạo của Nghiêu gây ra nhưng thực cũng do cái thâm ý của Ung Chính hoàng đế muốn huỷ diệt công thần mà có. Mặc dầu đã loại bỏ được Miên Canh Nghiêu, nhưng còn có quốc cữu Long Khoa Đa, Đại học sĩ Trương Đinh Ngọc và tướng quân Ngạc Nhĩ Thái, ba người này trước đây đã cùng hoàng đế mật mưu hành sự, cho nên ngài lúc nào cũng canh cánh bên lòng, muốn trừ cho bằng hết.

Khổ cái là ngài không tìm ra được nguyên do nào.

Hồi đó, phàm các vị quan lớn được triều đình cho ra ngoài tức thì hoàng đế sai một người thân tín ngầm sung vào hàng mạc hữu(2) hoặc làm một kẻ thân tuỳ để giám sát cử chỉ và hành động của vị quan đó mật báo về cung. Trong số quan ngoại phóng này, có vị tổng đốc Hà Đông tên Điền Văn Kính.

Kính vốn tương đắc với bọn đại thần Ngạc Nhĩ Thái và Lý Mẫn Đạt. Khi được ngoại phóng, Lý Mẫn Đạt có tiến cử một vị mạc hữu tên gọi Ổ Sư Gia cho Kính, nhắn với Gia là người do Đạt tiến cử, nên Kính đặc biệt xem trọng và thường bàn bạc mọi chuyện với Gia.

Một hôm, Gia hỏi Kính:

- Minh công có muốn làm một vị danh thần không?

Trước câu hỏi đó, Kính đương nhiên gật đầu.

Gia lại nói:

- Minh công đã muốn làm một vị danh thần, thì tôi đây cũng muốn làm một kẻ danh mặc.

- Làm một danh mặc là làm thế nào?

Gia đáp:

- Xin minh công giao cho đại quyền, mọi việc khỏi cần phải hỏi tới làm gái:

- Kính hỏi lại:

- Tiên sinh muốn làm việc gì vậy?

Gia đáp tiếp:

- Tôi tính thay ngài dâng một bản tấu chương. Ngài không cần phải đọc. Bản tấu chương này sẽ giúp ngài đạo công cáo thành.

Kinh thấy Gia nói có vẻ chắc chắn lắm bèn gật đầu ưng chịu. Thế là ngay đêm đó, Ổ Sư Gia thức trắng, cố viết cho kỳ xong bản tấu chương rồi xin Kính gửi đi.

Bản tấu chương về tới triều, Ung Chính hoàng đế mở xem thì thấy đó là bản đàn hặc quốc cữu Long Khoa Đa. Bản tấu chương tố cáo Đa bênh che Miên Canh Nghiêu; lại huênh hoang chứa ngọc điệp, âm mưu nhiều chuyện bất pháp…

Hoàng đế xem xong bản tấu thấy rất hợp với ý ngài, ngài bèn hạ chỉ tước bỏ hết quan tước của Long Khoa Đa, giao cho Thuận Thừa quận vương là Tích Bảo nghiêm hình thẩm vấn.

Long Khoa Đa vốn là một nguyên, huấn đại thần, khi thấy hoàng đế bỗng trở mặt, đời nào chịu. Bởi thế lúc Thuận Thừa quận vương lấy cung, Long Khoa Đa cứ oang oang chửi bới.

Đa lại còn vạch ra hết cả những chuyện xưa, khi Ung Chính còn là một quận vương, mưu hại thái tử ra sao, tự cải di chiếu thế nào… không sót điều gì. Tố mãi đến lúc đã mới thôi.

Thuận Thừa quận vương thấy Long Khoa Đa khi quân đến vậy, không dám hạch hỏi nhiều thêm nữa, bèn một mặt tống Đa vào lao, một mặt nghi tấu, nói Đa phạm toàn trọng tội, xin chém lập tức.

Đông Thái Phi được tin này, vội đích thân tới khẩn cầu Ung Chính tha mạng cho anh. Lúc đó, hoàng đế cũng nghĩ tới công lao thuở trước, tha cho Đa tội chết và hạ một đạo dụ, nói:

"Long Khoa Đa vốn một cựu thần tiên triều. Trẫm nghĩ tới đó nên tha cho tội chết. Đa phải cất một ngôi nhà ba gian ở phía ngoài Sướng Xuân viên và tự giam mình viễn tại đây. Vợ con khỏi tội chết gia sản khỏi bị tịch biên".

Chuyện này xảy ra, Ung Chính hoàng đế lại nhẹ thêm được một phần tâm sự. Cũng từ đó, Điền Văn Kính oai danh nổi lên cao ngất. Hoàng thượng truyền dụ ghi công, lại thưởng thêm khá nhiều trân bảo phẩm vật. Còn Ổ Sư Gia được Kính tặng một ngàn lạng bạc.

Gia thấy tổng đốc trọng dúng mình, đâm ra làm tàng. Y chiếm độc quyền kiện tụng, cưỡng dâm phụ nữ, không có gì bậy mà y không làm. Tin đồn đến tai tổng đốc, Kính lập tức loại Gian ra khỏi nha môn. Y bèn làm một toà nhà ở ngay trước cống nha, suốt ngày chỉ rỡn chơi, hỏi liễu tìm hoa.

Một điều hết sức kỳ lạ là từ khi Điền Văn Kính đuổi Ổ Sư Gia đi rồi mời một vị mặc hữu khác thay thế, thì mỗi lần dâng sớ tấu việc, Kính đều bị bác hồi, có khi lại còn bị truyền chỉ trách mắng là khác. Kinh đâm hoảng, đành nhờ người tới mời Ổ Sư Gia vào nha như cũ, nhưng Gia làm cao, không thèm tới. Mãi về sau, nhờ người trung gian cố sức giàn xếp, Gia mới đưa ra hai điểu kiện: một là làm việc ở nhà, khỏi cần phải vào phủ, hai là mỗi ngày tổng đốc phải trả công cho y một nén vàng. Bởi muốn giữ yên ngôi vị. Điền tổng đốc chẳng còn biết làm cách nào, đành phải nhất nhất đáp ứng điều kiện của Gia. Và Gia cũng từ đó, hôm nào thấy trên bàn tại nhà riêng có nén vàng thì y làm việc, còn hôm nào không thấy là y gác bút ngay. Đến khi Điền Văn Kính qua đời người ta vẫn thấy ân điển của hoàng đế còn trọng hậu. Thánh chỉ hạ xuống ban thuỵ cho Kính là Đoan Túc, được xây cất đền thờ ở trong thành Khai Phong và nhập tự trong đền Dư Tinh hiền lương từ. Sau đó ít lâu Ổ Sư Gia bỗng biến mất, chẳng ai còn thấy tung tích đâu nữa. Thì ra đó chính là người của hoàng đế sai tới để giám sát hành động của tổng đốc Điền Văn Kính.

Hồi đó có một vị án sát sứ tỉnh Phúc Kiến tên gọi Vương Sĩ Tuấn tiến kinh bệ kiến. Khi ra về, Tuấn được Đại học sĩ Trương Đinh Ngọc tiến cử một thân tuỳ. Người này tỏ lòng hết sức trung thành. Ngày tháng thoi đưa, đã ba năm trôi qua, Vương Tuấn nhân có việc cần, muốn lên kinh thỉnh huấn thì người thân tuỳ nọ trước đó ba hôm cũng xin cáo từ ra về. Tuấn giữ lại bảo:

- Nhà ngươi ở kinh. Ta cũng muốn tiến kinh. Bọn ta cùng đi một chuyến có phải tiện không?

Người thân tuỳ nọ tươi cười nói:

- Xin nói thực để ngài rõ: tôi vốn chẳng phải kẻ thân tuỳ nào cả mà chính là người của hoàng đế đặt ngầm nơi đây đề coi xét hành vi của đại nhân đấy! Đến nay đã ba năm qua, tôi nhận thấy án sát sứ quả là người thanh chính, cho nên tôi về kinh trước, thế cho đại nhân mà tâu báo hoàng thượng đó thôi.

Vương Sĩ Tuấn nghe xong, hoảng hồn bạt vía, chỉ còn biết chắp tay hướng về phía người thân tuỳ nọ mà lạy lấy lạy để, miệng lắp bắp:

- Mọi… điều… nhờ lão ca chiêu liệu giùm cho với…!

Tin này đồn ra ngoài, tức thì bọn quan viên ngoại nhiệm, anh nào anh nấy nơm nớp lo sợ, lúc nào cũng đề phòng có kẻ dò xét mình. Kẻ lo sợ nhất lại chính là Ngạc Nhĩ Thái và Trương Đinh Ngọc. Hai vị đại thần này, qua vụ án Long Khoa Đa, đều rõ dụng ý của Ung Chính hoàng đế. Họ cảm thấy nguy và cùng tìm cách thoát hiểm. Trương Đinh Ngọc vốn tinh ranh khôn khéo, vội dâng sớ cáo lão về quê. Hoàng đế giả đò giữ lại. Sau thấy Ngọc cố nài nỉ, hoàng đế mới chuẩn tấu. Lúc tiễn hành, ngài ban yến ở Sùng Chính Điện. Giữa buổi tiệc, ngài dùng ngự bút, viết một câu đối tặng Ngọc đem về nhà treo. Câu đối như sau:

Văn trị nhật trong sáng

Ơn trời xuân mênh mang

Ngọc về lại hoá hay. Hoàng đế muốn mua lòng y nên thường lấy tiền bạc trong nội khố thưởng cho. Mỗi lần thưởng như vậy có đến cả vạn lạng. Trong khoảng mười năm, ngài thưởng tới sáu lần. Nhiều lần Ngọc dâng sớ từ tạ, nhưng thánh chỉ hạ xuống nói:

- Thân phụ ngươi thanh bạch truyền gia. Ngươi tuân theo gia huấn nên tuyệt không có chuyện ăn hối lộ. Trẫm không đành lòng thấy ngươi túng quẫn.

Trương Đinh Ngọc không còn cách gì từ chối, bèn xây cất một toà Tứ Kim viên (Vườn cho vàng), mục đích tỏ lòng cảm kích ân điển của hoàng đế. Ngọc có một người thị tên gọi Diêu thị, tuổi trẻ ở goá mà có mưu trí. Nàng xét thấy thủ đoạn huỷ diệt công thần của Ung Chính hoàng đế, biết ngài là con người lật lọng phản trắc nên bảo rõ cho Ngọc hay rồi chuyển hết đồ tế nhuyễn của riêng tây, gia tài của Ngọc về nhà riêng của mình.

Quả nhiên vài năm sau, không ngoài sự dự liệu của Diêu thị, hoàng đế hạ thánh chỉ sai tổng đốc Lưỡng Giang tra xét gia sản của Ngọc, tịch biên và sung công. Anh em bạn hữu của Ngọc sợ bị liên luỵ, bèn quyên góp mười vạn quan tiền đem đặt vào nhà Ngọc, đợi tra xét. Về sau Lưỡng Giang tổng đốc đem mười vạn gia tài của Ngọc sung vào Giang Ninh khố.

Tuy nghe cuối cùng có thánh chỉ ban xuống trả gia sản lại nhưng Ngọc cũng chẳng dám lĩnh về nữa…

Mưu toan huỷ diệt công thần của Ung Chính chưa phải đến đây là hết, nó còn gây tai hoạ cho nhiều người sau này nữa.

Chú thích:

(1) Vật dùng lót chỗ ngồi cho Hoàng đế.

(2) Người giúp việc trong trướng.

Hồi 64 Những cái án văn tự

Lại nói ông thầy Vương Hàm Xuân đem cậu nhỏ Miên Thành, con thứ ba Miên Canh Nghiêu, ngày đêm gấp rút đăng trình. Trên đường về, ông được tin Nghiêu bị giáng xuống chức tướng quân Hàng Châu. Vài hôm sau, ông lại nghe luôn một lúc mười tám đạo thánh chỉ, giáng Nghiêu mười tám cấp, làm một tên quan giữ cổng thành. Rồi khi về tới nhà, ông lại được tin Nghiêu đã chết và nhị công tử đã bị chính pháp. Tiểu công tử được hung tin của cha, nhưng không dám khóc, không dám mặc hiếu phục. Ông Xuân đổi họ tên cho nó, gọi là Hoàng Tồn Niên.

Gia đình Vương Hàm Xuân ngụ tại một phố nhỏ thành Dương Châu. Khi về tới nhà, Xuân không còn thấy ba căn phố trệt xưa kia nữa mà lại là một toà nhà rộng lớn có lầu cao mái dài, còn trong nhà thì Vương phu nhân mặc toàn lụa là gấm góc, con ăn đứa ở từng lũ, ngựa nhốt đầy cả chuồng.

Thấy lạ, Xuân hỏi vợ mới biết rằng ba năm về trước, đại tướng quân Miên Canh Nghiêu đã cho người tới làm nhà cho ông, lại còn cho vợ ông một món tiền lớn là hai mươi vạn lạng bạc tuỳ ý sử dụng. Nay đã đem tiểu công tử họ Miên về nhà riêng cũng đem tất cả nhà cửa, tiền bạc giao lại cho y. Nhưng Hoàng Tồn Niên nhất định không chịu nhận. Ông không biết làm cách nào nữa. Về sau Vương phu nhân nghĩ ra một cách là đem gả cô con gái Bích Vân cho Tồn Niên, đồng thời để Niên ở rể luôn.

Lúc này, ông Vương Hàm Xuân còn được tin Quốc cữu Long Khoa Đa đã bị giam giữ. Trương Đinh Ngọc xin lui về hưởng già, ông thở dài nói:

- Chim bay hết thì cung bị gác. Thỏ khôn chết thì chó bị thịt! Đó chính là sự đáp ứng xứng đáng cho các công thần. Quả thực là quá ác độc!

Lại nói Ung Chính hoàng đế thấy những kẻ đối đầu với mình đã chết hết, những tay công thần đã bị diệt sạch rồi thì ngài hẳn được thư thái trong lòng, tha hồ gối cao ngủ kỹ mới phải chứ? Chưa, bởi vì ngài vẫn còn một điều đáng ngại là con trai của thái tử Dân Nhung tên gọi Hoằng Triết, đem theo vợ con hiện cư ngụ tại Trịnh gia trang ngoài thành Bắc Kinh. Ngài sợ Triết rắp tâm báo thù cho cha, bởi vậy thường sai bọn tay chân tới nhà Triết để dò xét. Dân Nhung trước đây bị giam ở trong lao, sau đó lại bị Ung Chính sai người đánh thuốc độc chết thử hỏi Hoằng Triết là con sao không ôm hận phục thù, tất nhiên nhiều khi không khỏi buột miệng oán trách. Vợ của Hoằng Triết là phu nhân Qua Nhĩ Giai người rất hiền. Bà thường hay khuyên chồng ăn nói nên giữ gìn cẩn thận, kẻo khó thoát nguy.

Không ngờ những lời oán hận của Hoằng Triết, Ung Chính hoàng đế đều đã biết rõ cả. Một hôm, bỗng có hai tên nội giám mang theo năm, sáu chục lính xông vào phủ, bắt hai vợ chồng Triết điệu về kinh, và đưa vào trong cung. Ung Chính hoàng đế thăng điện, đem hai vợ chồng Triết ra, đích thân thẩm vấn. Ngài vừa nhìn thấy Triết, vụt nhớ lại những lời chửi bới oán hận, bất giác cơn giận bốc cao đến mấy trượng.

Định hạ lệnh xử ngay, bỗng ngài liếc thấy cô cháu dâu, tức là phu nhân Qua Nhĩ Giai, quỳ bên cạnh Triết có một sắc đẹp quả là tuyệt, da ngà mặt hoa, duyên dáng, quyến rũ, thân dài mà đầy đặn. Ung Chính gần đây nghe lời bọn hoà thượng Lạt ma chơi gái, đã có một sự từng trải đặc biệt về đàn bà.

Ngài liền hỏi cô cháu dâu bao nhiêu tuổi thì được biết tuổi mới ba mươi. Tuổi ba mươi là cái tuổi lửa tình đang vượng.

Đứng trước sắc đẹp của mỹ nhân, ngài chẳng còn để ý tới việc khác Ngài không thèm hỏi tội Hoằng Triết nữa, vội bước xuống bảo toạ, đích thân giơ tay nâng bà Qua Nhĩ Giai đứng dậy. Ngài quên luôn đó là cô cháu dâu của ngài, dắt tay chạy tuốt vào thâm cung…

Qua ngày hôm sau, một đạo thánh chỉ ban xuống, tha cho Hoằng Triết trở về Trịnh gia trang, đã thế lại còn phong cho Triết làm quân vương nữa. Hoằng Triết nghĩ rằng, cha thì bị người giết, vợ thì bị người cưỡng đoạt, mình còn mặt mũi nào sống trên đời nữa. Bởi vậy nhân lúc vắng người, Triết lấy cây bảo kiếm kề vào cổ và chỉ với một nhát, vong hồn đã theo cha về suối, vàng.

Ung Chính hoàng đế từ khi cướp được cô cháu dâu, ngày đêm vui thú mây mưa chẳng thiết gì tới việc khác. Ngài cao hứng đến mức đem bà Qua Nhĩ Gia và quý phi tới cung Ung Hoà để xem ngày "Phật mừng" (Hoan hỉ phật). Hôm đó vị quốc sư của ngài cũng đem bọn sư Lạt ma tới cung Ung Hoà để "nhảy phật" (khiêu phật), thành thử ngài được một bữa vui thoả thích. Nhảy phật là gì vậy? Đây là một nghi lễ của bọn sư Lạt ma Tây Tạng thời đó. Cứ mỗi tháng họ chọn một ngày đại cát để đưa một số đông nữ đệ tử vào cung Ung Hoà, trước hết cởi bỏ hết quần áo ở phòng ngoài rồi vào cung bắt đôi mà giao cấu dưới tượng phật. Bọn nữ đệ tử này quá nửa đều thuộc con nhà quan, cô nào cũng xinh đẹp cả. Vả lại, nếu không đẹp thì đâu có được vào.

Từ đó trở về sau, Ung Chinh hoàng đế cứ khi nào rảnh lại đến Ung Hoà cung để du hí, quên phứt chương trình huỷ diệt công thần của ngài.

Cách sau đó ít hôm, bỗng có viên tổng đốc Chiết Giang tên là Lý Vệ bí mật dâng sớ nói Giang Tây học chính là Tra Tự Đình ra đề thi trong có bốn chữ "Duy dân sở chỉ" quả là có dấu hiệu phản nghịch. Lần này Đình ra đề thi hai chữ "Duy chỉ" (rút ngắn bốn chữ Duy dân sớ chỉ) lây hai chữ "Ung Chính", niênhiệu của hoàng đế mà bỏ mất cái đầu, là để trù ếm hoàng đế, rõ là một kẻ đại nghịch bất đạo.

Ung Chính hoàng đế đọc xong tờ sớ, đột nhiên nổi giận đùng đùng, tức khắc hạ dụ cách chức Tra Tự Đình, bắt giải cho Hình bộ giam xét hỏi, Một đạo chỉ ban xuống cho Lý Vệ như sau:

"Tra Tự Đình vốn là viên đại thần hành tẩu trong nội đình, về sau được giữ chức nội các học sĩ. Nhận thấy Đình ăn nói dối trá, lại có tướng ác dữ khiến ai thấy cũng phải cho rằng tâm thuật của y không ngay. Triều đình nhân khuyết chỗ, bất đắc dĩ phái y đi Giang Tây, nay xét lại đề thi có bốn chữ "Duy dân sở chỉ" thì đúng là y có ý oán hận. Đình đã có ý xấu đó tất nên bình nhật phải có bút tích ghi chép, cần phải tới nơi tra xét. Việc tra xét này giao cho Chiết Giang tổng đốc Lý Vệ cấp tốc thi hành!"

Lý Vệ được chỉ ý, liền đem mấy chục tên thân binh, hùng hùng hổ hổ kéo tới nhà Tra Tự Đình khám xét. Bà Tra lão thái thái, tức là mẹ Đình, sợ quá ngất đi. Vợ Đình là bà Chúc phu nhân thấy thế vội quát mắng bọn thân binh không được hỗn, rồi đưa tất cả gia đình lớn nhỏ ra ngoài.

Lý Vệ lục lọi tra xét mãi, suốt cả buổi mà chẳng thấy giấy má, thư từ, chữ nghĩa, trước tác gì tỏ ý phản nghịch cả. Mãi sau, Vệ tìm được một cuốn nhật ký cất trong rương sách. Vệ cầm về nha môn, bắt chước kiểu chữ của Đình viết thêm vào nhiều chuyện hoang đường nguy hại cho Đình rồi gởi về Kinh.

Thế là một đạo thánh chỉ hạ xuống ghép Tra Tự Đình vào tội phản nghịch, tức khắc đem chính pháp. Người con trai cả Tra Tự Đình cũng bị xử chém. Còn gia thuộc của Đình thì bị sung quân lên mãi Hắc Long Giang, khiến một dòng họ quan sai đang yên ấm, đang sung sướng bỗng chốc tan tành.

Tại sao Lý Vệ lại thù hận Tra Tự Đình đến thế? Câu chuyện chỉ do cô tiểu thư mà ra. Đình có đứa con gái tên gọi Thiếu Vân, năm đó mười bảy tuổi, dung mạo tuyệt đẹp, lại phải cái hết sức đa tình. Ngoài ra Đình còn nuôi một đứa trẻ mồ côi, con của một người bạn, tên gọi Từ Ngọc Thành… Ngọc Thành lớn lên cũng hết sức bảnh trai, chơi rất thân với Thiếu Vân. Thế rồi hai cô cậu đã ngầm ước việc chung thân với nhau.

Việc này, bà mẹ của Vân cũng đã biết. Càng lớn, Thành càng khôi ngô tuấn tú lại chịu khó chăm học, mới mười sáu tuổi đã đỗ tú tài. Còn Vân, sắc đẹp đồn dậy trong ngoài, ai biết cũng trầm trồ khen ngợi.

Hồi đó, Lý Vệ với Tra Tự Đình là bạn thân với nhau. Vệ nhờ người đánh tiếng cầu hôn Thiếu Vân cho con trai mình.

Đình về nhà bàn tính với vợ, Chúc thị mới đem nỗi niềm tâm sự của con gái nói cho chồng biết. Đình vốn cưng con gái, không muốn gây đau khổ cho con, bèn cứ nói thực ra và cự tuyệt bên họ Lý. Không ngờ, Vệ bèn đem lòng thù oán, lúc nào cũng chỉ tìm sơ hở của Đình để trả hận. Đình là người có tính cao ngạo, không chịu chiều đời thì làm sao bảo ông ta chịu khuất được. Rồi cũng từ đó, đôi bên nhạt nhau, và từ nhạt đến thù kể cũng chẳng bao xa. Trước đó vài năm, chính Đình đã dâng sớ tố cáo Vệ nhưng vì mả nhà Vệ còn vượng nên chẳng thể lay chuyển được y. Lần này, đến lượt Vệ báo thù. Đình bị giam trong lao Hình bộ, chỉ còn đợi có thánh chỉ xuống là chính pháp. Uất ức quá, Đình tắt thở ngay trong lao.

Ấy thế mà Ung Chính hoàng đế cũng chẳng tha, vẫn bắt mang Đình ra băm xác để thị chúng. Tiểu thư Thiếu Vân theo mẹ là bà Chúc thị bị sung quân lên miền Hắc Long Giang, dọc đường chịu không biết bao nhiêu là đói rét khổ cực, may nhờ được Từ Ngọc Thành chung tình, lo liệu giúp đỡ, hai mẹ con nàng mới được yên ổn tới nơi. Thành đem sở học ra để dạy học nuôi thân, đồng thời nuôi sống cả hai mẹ con Thiếu Vân.

Sau khi án văn tự xảy ra, Ung Chính hoàng đế rất lưu ý tới trước tác của bọn văn thân. Ngài dặn dò đám đại thần tâm phúc sục sạo tra xét khắp nơi… Thế rồi, chỉ ít hôm sau, một án văn tự khác lại đến. Đó lấ cái án Lục Mai Sinh. Sinh vốn là một nhân viên cung sự của bộ Lễ. Nhân vì xét tâm lý của các vị vương thỉnh cầu phong vương kiến địa, Sinh bèn sáng tác mười bảy Thiên "Thông giám luận", nội dung nói chế độ phong kiến hữu ích như thế nào! Chế độ quân quyền tệ hại ra sao? Có kẻ muốn thủ lợi bèn đem văn bản của Sinh đến mật cáo với Thuận thừa quân vương Tiểu Bảo.

Thuận thừa quân vương được uỷ thác của Ung Chính hoàng đế nhưng chưa tìm ra được vụ nào, nay vớ được bản văn "Thông giám luận" này chẳng khác gì vớ được vàng. Nắm được bằng chứng chắc chắn, Vương quan trọng hoá vấn đề lên, rồi viết sớ tâu:

"Thông giám luận" chỉ là những lời lẽ của kẻ bất bình. Những lý lẽ trình bày về cái hay cái lợi của triều đình đều láo xược tỏ ý mỉa mai rõ rệt tội thật khó dung".

Ung Chính xem tờ sớ, nổi giận đùng đủng, lập tức hạ chỉ kết án Lục Mai Sinh tà thuyết loạn chính, chém đầu tức thì.

Lục Mai Sinh vừa bị giết xong, chẳng ngờ hai vụ án văn tự khác lại xảy ra, gây náo loạn cả trong ngoài. Vụ thứ nhất tại Chiết Giang, do bộ sách "Tây chinh tuỳ bút" của Uổng Cảnh Kỳ. Nội dung của bộ sách này có nhiều lời lẽ phỉ báng triều đình hoàng thượng, ca tụng Miên Canh Nghiêu. Viên địa phương quan tra ra, vội báo lên triều đình. Một đạo thánh chi ban xuống hạ lệnh chém đầu Uổng Cảnh Kỳ, đồng thời phát vãng vợ con Kỳ lên Hắc Long Giang sung quân. Thứ nhì là vụ thị lang Tiền Danh Thế, vốn là tri gia của Miên Canh Nghiêu. Nghiêu còn sống, Thế sáng tác rất nhiều thơ văn ca tụng. Những bài này sau cũng bị quan địa phương phát giác và cấp báo về kinh. Lại một đạo thánh chỉ ban xuống kết tội. Thế là xuẩn nịnh quyền quý, lập tức cách tuột chức tước, may mà thoát khỏi tội chết.

Ung Chính hoàng đế dùng những thủ đoạn độc ác như vậy, tưởng rằng sẽ đàn áp được lòng người. Ai ngờ, hoàng đế càng hung ác bao nhiêu thì nhân tâm càng phẫn nộ bấy nhiêu, khiến ngài lại càng ăn ngủ không yên bấy nhiêu.

Nhân một hôm nhàn rảnh, Ung Chính hoàng đế chợt nhớ tới tên đại đạo Ngư Xác vẫn chưa trừ được. Đây là một mối lo lớn lúc nào cũng nơm nớp trong đầu. Ngài được tin Ngư Xác thường xuất hiện tại Hổ Vi Sơn, vùng Hoài Bắc, đánh cướp bọn khách thương qua lại, bèn hạ một mật chỉ cho tổng đốc Lưỡng Giang là Vũ Thành Thuỵ tới truy nã và nếu bắt được lập tức chính pháp Ngư Xác.

Vũ Thành Thuỵ vốn là một tay cừ khôi trong việc dẹp cướp. Thuỵ nhận thánh chi, lập tức cho tay chân bí mật dò thám và được tin Xác ở ngay trong Hổ Vi Sơn, cũng lại biết Xác chỉ đánh cướp của bọn tham quan ô lại, gian thương, ác bá mà thôi. Lúc trước Xác được Khang Hi hoàng đế mời về triều để bảo vệ thái tử Dân Nhung. Về sau, khi thái tử bị phế, Ung Chính hoàng đế đã có lần mời Xác về giúp, nhưng vì cảm, kích ân đức của thái tử, Xác không chịu, đem người con gái tên gọi Ngư Nhương vào ở trong Hổ Vi Sơn chuyên ra tay nghĩa hiệp giúp dân chúng địa phương dẹp bỏ những chuyện bất bình. Do đó dân tình thảy đều cảm kích và hàm ơn Xác.

Nay được tin triều đình ban lệnh truy lùng Xác, ai nấy đều vội đi báo tin ngay, Xác nghe xong chẳng đổi sắc mặt, chỉ đem Ngư Nhương tới gửi một người bạn tên gọi Cầu Nhiêm Công.

Cách vài hôm tổng đốc Lưỡng Giang đích thân tới gặp Xác. Gặp Thuỵ, Xác chẳng thèm úp mở gì, kể toạc ra Ung Chính là người tàn bạo ra sao và mình một đời hành hiệp thế nào cho Thuỵ nghe. Thuỵ cho Xác biết về vụ thánh chỉ ban xuống. Xác tuyệt nhiên không chút sợ hãi, tự mình chạy tới nhà lao Giang Minh chịu giam cầm. Thế rồi vài ngày sau, trên giới giang hồ đồn rầm lên rằng tên đại đạo Ngư Xác đã bị Lưỡng Giang tổng đốc điệu từ lao ra chính pháp rồi.

Tin tức này loan đi, truyền đến tai cô con gái Ngư Nhương khiến nàng khóc đến chết đi sống lại mấy lần. Và cũng từ đó, nàng quyết chí báo thù cho cha, theo Cầu Nhiêm Công luyện tập võ nghệ để chờ dịp hạ thủ. Đó là việc trong tương lai, ta hãy nán lại ít lâu.

Lại nói Ung Chính hoàng đế sau khi đã giết được Ngư Xác thì trong thiên hạ coi như không còn ai là đối thủ nữa.

Lòng ngài vô cùng khoan khoái. Nào ngờ chẳng được mấy hôm, Tứ Xuyên tổng đốc Nhạc Chung Kỳ mật tấu Tăng Tính người Hồ Nam kết đảng mưu phản. Ung Chính hoàng đế nghĩ uy vũ của mình đến thế mà vẫn còn có tên Tăng Tính nào đó còn dám mưu đồ nọ kia thì lạ thật. Phải dùng hắn làm tấm gương cho kẻ khác mới xong. Ngài bèn phái ngay hai viên đại thần, một Mãn một Hán, tới Tứ Xuyên hợp lực với Nhạc Chung Kỳ để tra xét và dẹp bỏ vụ này.

Tăng Tính là ai mà dám đối đầu với Ung Chính hoàng đế như vậy? Xin thưa: Tăng Tính hiệu là Bô Trạch, vốn là một kẻ sĩ có sở học uyên bác của tỉnh Hồ Nam. Tính thấy các vua quan nhà Thanh áp bức dân Hán quá đáng, trong lòng phẫn hận, thường có ý nghĩ tập hợp bạn bè cùng chí hướng khởi nghĩa, đuổi người Mãn, khôi phục lại Trung nguyên.

Một hôm, Tính gặp Trương Hy cũng ngụ trong xóm. Hy vừa mượn được cuốn sách bình luận về thời cuộc do Lã Văn Thôn sáng tác, nội dung quá nửa nói về sự khác biệt giữa Hoa và Di (Hoa là Trung Hoa, Di là những quốc gia nhỏ chung quanh Trung Quốc như Mông, Mãn v.v…); cũng nói cả về sự giao tỉnh giữa vua tôi phải như bạn hữu; lại nói cả đến việc dọn dẹp bọn ngoại bang để cứu Trung Quốc, đó là sứ mệnh của người quân tử. Tóm lại suốt cuốn sách, chỗ nào cũng có lời lẽ bài xích người Mãn. Tính xem xong, không khỏi vỗ bàn khen tuyệt.

Lã Văn Thôn hiệu là Lưu Lương, vốn một văn nhân nổi tiếng đất Hồ Nam. Học trò của Thôn rất đông, đều là những người thành đạt cả. Khang Hi hoàng đế biết danh tiếng của Thôn, bèn phái người tiến cử Thôn ứng thí vào Bác học hồng tư khoa. Thôn trong lòng ghét cay ghét đắng người Mãn, bảo Thôn làm quan nhà Thanh sao được. Thôn liền cắt tóc đi tu, rồi trốn biệt vào rừng sâu làm hoà thượng. Con trai Thôn là Lã Nghi Trung, cũng người có chí khí. Trung nối chí cha, bèn cùng bọn môn sinh của cha mình như Nghiêm Hồng Lục, Thám Tại Khoan, kết thành hội nhóm rồi đem tác phẩm của cha sao chép thành nhiều bản để phân phát cho cả hội cùng đọc.

Trương Hy vì thế cũng sao được một bản cất trong nhà. Khéo thay hôm đó Tăng Tính bắt gặp, xem xong lấy làm khoái, bèn hỏi Lã Nghi Trung hiện ở đâu thì được Hy cho biết đang ở ngay trong thành. Thế là ngay đêm đó, Tính bắt Hy đưa tới gặp Trung cho bằng được. Sau đó Trung cũng mời Tính đến gặp một số anh em của mình. Từ đó, hai bên hợp một thành một đảng lớn.

Tính một hôm nói với mọi người là có biết Tứ Xuyên tổng đốc Nhạc Chung Kỳ và kế hoạch của mình là dùng ba tấc lưỡi thuyết Kỳ dấy binh ở Tứ Xuyên, trong khi bọn Tính nổi đậy ở Hồ Nam để hưởng ứng. Tất cả nghe xong vỗ tay cho là diệu sách và sửa soạn lên đường đi Tứ Xuyên dụ thuyết…

Hồi 65 Nữ hiệp Lã Tứ Nương

Tăng Tính cùng bọn Trương Hy lên đường đi Tứ Xuyên gặp Nhạc Chung Kỳ. Tính thuyết Kỳ:

- Ngài vốn là con cháu của Nguyên soái Tống triều Nhạc Phi thuở nào. Còn đương kim hoàng đế Mãn Thanh lại chính là con cháu Kim Ngột Truật lúc trước. Hiện ngài làm tổng đốc thống lĩnh đại binh, đứng trước thù nhà nợ nước, lẽ nào ngài không báo đền?

Mới đầu, Kỳ nghe lời Tính nói, lòng cũng có vẻ cảm động. Nhưng khi nhớ tới cái chết của Miên Canh Nghiêu, Kỳ bất giác giật mình, lòng lạnh hẳn đi. Sau một hồi đàm luận, Kỳ biết rõ rằng Tính chỉ là một anh tú tài làm phản, chẳng có chút thực lực nào. Kỳ lập tức biến kế, một mặt giả đò lập thệ kết minh với bọn Tính, một mặt ngầm tống đạt công văn cho tuần phủ Hồ Nam dặn y canh chừng bọn Lã Nghi Trung. Rồi đích thân Kỳ gửi một tập hồ sơ mật lên kinh.

Mấy hôm sau, người ta thấy hai vị quan lớn do Ung Chính hoàng đế phái tới Tứ Xuyên, bắt tất cả bọn Tăng Tính, Trương Hy. Khi bị đem thẩm vấn, Tăng Tính chẳng thèm giấu giếm, công khai bộc lộ tâm trạng của mình. Hai vị Khâm sai liền áp giải cả bọn can phạm tới Hồ Nam. Trong khi đó, tuần phủ Hồ Nam cung đã bắt Lã Nghi Trung cùng bọn gia nhân và môn sinh như Thầm Tại Khoan, Nghiêm Hồng Lực.

Bọn Khâm sai cứ tình vậy vào tâu. Thánh chỉ của hoàng đế truyền xuống nói bọn Tính và Hy bị Lã Văn Thôn dùng tà thuyết cám dỗ, chi là tòng phạm được gia ơn phóng thích, chỉ có Lã Nghi Trung mới là tên đại nghịch bất đạo, tức thì trảm quyết chết thảy toàn gia. Lã Văn Thôn còn bị quật mồ, thây đem băm nát. Bọn môn sinh Thẩm, Nghiêm đều nhất luật xử trảm. Cái án tày trời này giết chết một trăm hai mươi ba người, đến nỗi bách tính kẻ nào kẻ nấy hoảng hồn bạt vía, oán giận khôn nguôi.

Gia đình họ Lã bị giết gần như chẳng sót một ai. Giữa lúc hỗn loạn, may chỉ còn lại một đứa con gái nhỏ của Lã Nghi Trung mà thôi. Đứa bé gái nhà họ Lã này tên gọi Lã Tứ Nương, là con gái thứ tư của Lã Nghi Trung, gọi Lã Văn Thôn là ông nội. Năm đó nàng mới mười bốn tuổi. Lúc tuần phủ Hồ Nam phái binh tới bắt toàn gia thì nàng đang ngồi chơi bên hàng xóm, mãi sau mới biết, vừa khóc vừa tính chạy tới nha môn thăm hỏi cha mẹ. Người con gái hàng xóm vốn đa mưu vội can ngăn và ngầm đem nàng gửi vào gia đình họ Chu ở trước cổng nhà Lã Văn Thôn. Chu ông, nhà có vườn rộng, thường nuôi tới hơn trăm tráng đinh. Mỗi khi rỗi rảnh. hết việc đồng áng, bọn này thường mời thầy về dạy võ nghệ cho họ. Ngay cả Chu ông cũng nhân đó học năm ba miếng võ chơi. Ông thầy võ hồi đó đã hơn sáu chục tuổi, thân hình cao lớn, hai bên cằm mọc hai chòm râu dài, phất phơ trước gió.Ông đi quyến, múa kiếm vẫn còn vững chãi, nhanh nhẹn lắm.

Lã Tứ Nương ở trong nhà Chu công, thường núp sau bức bình phong xem trộm cảnh tập võ. Tuy chỉ là một đứa con gái mười bốn tuổi nhưng nàng lúc nào cũng nhớ tới mối thù cha mẹ. Nàng giận mình là đàn bà con gái yếu ớt, thường thắc thỏm không biết cách nào để trả mối huyết hải oan cừu này. Thấy có thầy tới dạy võ, nàng lấy làm mừng, cho là dịp may đã đến với mình.

Một hôm, Chu công đang cùng ông thầy võ già ngồi uống rượu ở nhà trước, bỗng một cô gái chạy từ sau tấm bình phong vụt ra, quỳ xuống trước mặt ông thầy, miệng nói:

- Xin người thu con làm đệ tử?

Người con gái đó chính là Lã Tứ Nương. Lúc đầu, ông thầy già không muốn nhận nhưng nàng cứ quỳ mà khẩn khoản mãi, lệ nhỏ ròng ròng. Chu công thấy nàng thành tâm đồng thời sợ nàng lỡ lời lộ ra là con gái Lã Nghi Trung bèn vội nhận nàng là em gái mình và cùng xin hộ với nàng. Ông thầy võ tưởng thật mới chịu thu nhận.

Từ đó, Lã Tứ Nương theo bọn tráng đinh luyện tập võ nghệ. Nàng sẵn mối căm thù hun đúc, hơn nữa có trí thông minh, thân thể lại mềm dẻo nên chăng mấy lúc tài nghệ đã vượt hẳn bọn con trai. Ông thầy võ rất lấy làm mừng, rồi từ đó ông đặc biệt chú ý tới nàng, đem hết bản lĩnh của mình truyền dạy cho.

Ba năm qua, Lã Tứ Nương võ nghệ đã tới chỗ cao cường. Đánh quyền, múa kiếm, kinh công… thảy đều thông thạo. Ông thầy lại dạy cả nàng phép "luyện khí" và phi kiếm, thường chỉ đệ tử chân truyền của chùa Thiếu Lâm mới được truyền thụ.

Ba năm sau, Lã Tứ Nương không còn có môn võ gì mà nàng không biết, không hay, không tinh. Nàng có thể vận nội lực gắn chặt lưng mình vào vách tường mà lên xuống tuỳ ý. Nàng cũng có thể giấu phi kiếm dưới cườm tay, phóng ra xa, lấy đầu người một cách lẹ làng, thần diệu. Bản lĩnh này trong phái Thiếu Lâm chỉ ba người có được: người thứ nhất là Thiếu Lâm Tăng, người thứ nhì là Ung Chính hoàng đế và người thứ ba là Cầu Nhiêm Công. Ông thầy võ truyền thụ võ nghệ cho Lã Tứ Nương chính là Cầu Nhiêm Công đó.

Cầu Nhiêm Công vốn cũng giận Ung Chính hoàng đế quá độc ác, giết chết bao bạn hữu và đồ đệ của mình, nên ông đã kết thân với bọn hảo hán trên giới giang hồ, ngầm mưu việc chống lại nhà Thanh. Nay được một nữ đệ tử xứng đáng, lòng ông sung sướng quá, bèn đặt cho Tứ Nương một cái tên là Hiệp Nương. Ông khuyên nàng nên lấy điều nghĩa hiệp làm trọng. Ông bảo nàng:

- Bản lĩnh của con ngày nay, trừ Thiếu Lâm Tăng ra, có thể coi như số một rồi đó.

Lã Tứ Nương học được một bản lĩnh tuyệt luân như vậy đáng lý phải mừng mới đúng, đằng này nàng vẫn đau khổ ngấm ngầm, trong lòng lúc nào cũng nhớ tới cái chết thảm khốc của cha mẹ. Nàng có cả một bầu tâm sự não nề, nhưng chẳng biết thổ lộ cùng ai. Nhất là lúc đó nàng đã trưởng thành, nỗi niềm thầm kín của người con gái mười tám, đôi mươi quả đã có những phút xốn xang, hồi hộp, khó nói nên lời. Lòng nàng hoạ chỉ có Chung Dung Kính, con trai của Chu công, mới hiểu được. Và cũng vì vậy, Kính hết dạ chiếu cố tới nàng.

Chu Dung Kính thua Lã Tứ Nương hai tuổi. Tuy vậy, chàng luôn tỏ ra người lớn trước nàng. Kính để ý tới Tứ Nương kể từ lúc nàng đặt chân tới nhà chàng. Nào khi ăn khi uống, nào những chuyện ấm lạnh mà bọn gia nhân không kịp xét tới, chàng đã ngầm thu xếp cho nàng hết sức đầy đủ và cẩn thận. Gặp những mùa có trái ngon, hoa đẹp, chàng đều mua, đưa vào phòng cho nàng. Tuy tình nặng như thế nhưng Kính chẳng bao giờ đám chọc ghẹo, cười cợt nàng. Có điều lạ là nàng tuy đẹp như hoa mai trước gió, như bông hạnh nở bên tường nhưng tính tình lại lạnh như băng. Nàng vẫn biết Kính hết dạ chung tình với mình, bao bọc mình nhưng nàng phải cố tâm thoát khỏi lưới tình chỉ vì nàng còn chất chứa trong lòng một mối huyết hải thâm thù.

Trong lòng nàng cũng vấn vương xao động, nhưng bề ngoài vẫn tỏ ra nghiêm nghị, lạnh lùng. Có lúc nàng quá thương tâm, chỉ còn biết khóc, khóc đến không còn nước mắt. Thật đáng thương cho một người con gái chưa đến tuổi thành niên đã chẳng may gặp cơn gia biến, bơ vơ giữa cõi đời. Nhiều đêm, vào lúc canh khuya vắng lặng, nàng thức giấc nghĩ tới mối chung tình của Dung Kính rồi miên man nghĩ đến số kiếp khổ sở của mình mà buồn bã ê chề. Nàng úp mình trên gối ấm ức khóc mãi không thôi.

Cứ mỗi đêm nàng khóc và qua ngày hôm sau, đôi mắt nàng đỏ ngầu, thì Dung Kính lại lén ra mua một chiếc khăn tay mới, đặt trên gối của nàng.

Ít lâu sau, chàng và nàng đã đến lúc nín nhịn không nổi nữa liền thổ lộ chân tình cho nhau. Thế rồi cứ mỗi lần gặp Tứ Nương, Dung Kính lại khuyên nàng nên cẩn trọng thân thể. Nàng thấy chàng vừa nói đến chuyện đó thì liền lấy tay áo che mặt, quay gót chạy đi.

Có một hôm, trời hết sức nóng nực. Chàng và nàng bất ngờ gặp nhau dưới hiên nhà. Chàng nhìn vào mặt nàng và hỏi:

- Tối qua chị lại khóc phải không? Chị nên bỏ qua mọi việc. Cha mẹ chị đã mất cả. Tôi lại vì điều trai gái tỵ hiềm mà không thể an ủi chị được. Chẳng may chị khóc đến sinh bệnh thì tôi còn biết làm sao đây?

Lúc đầu thoạt nghe, nàng bất giác mặt đỏ tía tai, xấu hổ không biết để vào đâu, nhưng về sau bỗng đôi hàng lệ của nàng cứ lã chã như những hạt châu rơi xuống. Nàng vội quay mặt đi, chạy một mạch về phòng đau đớn oà lên khóc Nàng nghĩ tới mối tình tha thiết của Kính. Nhưng nàng không thể vì tình yêu của chàng mà quên đi việc lớn của mình! Bởi vậy nàng nghĩ tốt hơn hết là nên sớm ly khai với chàng. Nghĩ tới đây, nàng liền quyết định là ngay tối hôm đó, nàng sẽ ra đi.

Trời tối, trăng trong gió mát như gợi lòng khách giang hồ, Lã Tứ nương nai nịt gọn gàng phi thân nhảy qua bờ tường rồi loáng một cái đã mất hút. Đây là lần đầu tiên nàng được nếm mùi vị chốn gió sương. Nàng đi đã xa, đưa tay sờ vào túi, mới biết khi ra đi chẳng đem theo chút tiền bạc nào. Làm sao bây giờ? Nàng đành lột vàng, tháo xuyến ra bán lấy tiền lộ phí. Nàng nghĩ ra được một cách kiếm tiền. Nàng thuê hai người giúp việc, rồi với một chiếc thanh la, kiếm chỗ mãi võ.

Một cô gái vừa trẻ vừa tuyệt sắc thì ai mà bỏ qua được. Thế là cả phố cả phường đổ xô lại để xem người đẹp hơn là xem võ nghệ. Rồi thì anh nào anh nấy đua nhau ném tiền tặng thưởng cho nàng đến dốc cạn cả hầu bao. Nàng lại đi tìm chỗ khác để đánh thanh la chiêu khách. Cứ thế nàng độ nhật sinh nhai trên đường, bất giác đã hơn một tháng.

Hôm đó, nàng tới địa phận Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây. Phủ Thái Nguyên vốn là một nơi thị tứ náo nhiệt, khách thương qua lại rất nhiều. Những chàng công tử thấy Tứ Nương một mình mãi võ, đều cho là nàng mượn cớ kén chồng. Nhìn vào khuôn mặt xinh đẹp, thân hình óng chuốt của nàng, chàng nào cũng lắc lém, tít mắt khen tuyệt. Tức cười nhất là có mấy cậu dại gái võ vẽ đôi chút quyền cước, cả gan nhảy lên đài tỉ võ với nàng để được mong động chạm đôi chút cho hả nỗi thèm thuồng.

Tứ Nương đọc rõ tâm địa bụng chúng, liền đặt ngay điều kiện như sau: hai bên tỉ võ đều phải bỏ tiền đặt cuộc năm chục lạng bạc, ai thắng sẽ lấy cả. Tiền thì chúng có thừa, bèn nhận lời ngay. Nàng còn giả bộ kém cỏi, vờn đối thủ mãi rồi mới kín đáo, bằng thế võ hiểm, quật ngã. Những tên khác hí hửng đua nhàu vào đấu như thiêu thân lao vào lửa. Thực ra chúng chỉ mong được chút hương thơm của nàng rồi thì đù đau, dù mất tiền cũng vui lòng. Nàng chỉ việc bỏ tiền vào túi sau mỗi chiêu thức nhẹ nhàng và kín đáo. Chỉ một buổi nàng đã được tới năm trăm lạng bạc. Nàng sợ quan phủ sở tại đem lòng ngờ vực, bèn rời Thái Nguyên qua Sơn Đông.

Dọc đường, còn thiếu gì kẻ mắc vào cái lưới nhan sắc mà hiểu kính tiền lộ phí cho nàng.

Một hôm nàng tới Thiên Tân, theo lệ thì nàng thường kiếm chỗ sau khu Chiêu khách tỉ võ, nhưng khi vừa tới, nàng bỗng thấy một vị hoà thượng vừa lớn, vừa mập mạp, tay bưng hai trăm lạng bạc lớn tiếng nói:

- Này nàng! Ta đem hai trăm lạng bạc này đánh cuộc đây! Nếu nàng thắng ta thì khỏi nói, hai trăm lạng bạc này tất nhiên về tay nàng rồi. Nhưng nếu ta thắng thì chỉ cần từ nay nàng bỏ nghề mãi võ, theo ta về chùa làm một mụ hoà thượng bà bà là xong.

Lã Tứ Nương vừa xấu hổ vừa giận, lập tức đem tuyệt chiêu Kim cương quyền của sư phụ truyền thụ ra đối phó. Không ngờ nhà sư giao thủ với nàng được có môi một chiêu bỗng quát lên một tiếng "Ngừng tay!" rồi bảo:

- Đúng là sư muội của ta rồi! Khỏi cần giao đấu nữa, hai trăm lạng bạc này ta giúp sư muội đem theo lành lộ phí. Sư muội miễn thứ cái tội lỗ mãng cho ta nhé.

Nói đoạn nhà sư vòng tay từ biệt, quay gót đi luôn. Lã Tứ Nương được hai trăm lạng bạc của nhà sư, cũng bỏ nghề mãi võ luôn. Nàng lẻn vào thành Bắc Kinh, mướn một căn nhà trọ và một đứa tớ gái giúp việc trong nhà. Hồi ấy, khắp kinh thành Bắc Kinh chỗ nào cũng đầy rẫy bọn trinh thám của hoàng đế dò xét tình hình dân chúng. Thấy nàng có hành tung bất minh, chúng đã tới tra hỏi đôi ba lần. Nàng coi bộ tình hình có vẻ không ổn, bèn tới ở trong một toà cổ miếu, tường xiêu mái sụp, ngày đêm làm mồi cho mưa nắng. Giữa lúc cô tịch âm thầm dó, nàng bỗng thấy một bóng người cao lớn nhảy vút qua đầu tường, để rơì tấm thân nặng ước trăm cân xuống đất nhẹ nhàng như một chiếc lá rụng. Nàng vội búng ra một kiếm. Không ngờ lưỡi kiếm vừa phóng ra đã bị đại hán nọ tiếp gọn trong lòng bàn tay mình.

Dưới bóng trăng mờ, nàng định thần nhìn kỹ thì chẳng phải ai xa lạ, mà chính là sư phụ nàng. Cầu Nhiêm Công, với bộ râu dài trắng như cước đang phất phơ trước gió, khà khà cười lớn, rồi bảo nàng:

- Thật là đi rách cả đôi giầy sắt mà chẳng thấy. Nay gặp được con quả chẳng phí công tí nào!

Nói đoạn, Cầu Nhiêm Công nắm lấy tay nàng chạy ra khỏi miếu thì đã thấy có một người con gái khác đang đứng chờ.

Lại nói Lã Tứ Nương lén bỏ Chu gia ra đi, đối với kẻ nào khác chẳng nói làm chi nhưng đối với Chu Dung Kính thì quả là nỗi đau khổ lớn nhất rồi. Suốt ngày Kính bỏ ăn, bỏ ngủ như cuồng như điên. Phụ thân của Kính thấy vậy, bất nhẫn lắm. Ông nghĩ Tứ Nương đi phen này hẳn chỉ là tới Bắc Kinh để báo thù. Bởi vậy, ông nói sự thể cho Cầu Nhiêm Công biết và muốn Công đi Bắc Kinh trợ giúp nàng.

Chu Dung Kính nằng nặc đòi đi theo. Cầu Nhiêm Công còn có một nữ đồ đệ tên Ngư Nhương, cũng kéo đi luôn. Thế là ba người thu xếp hành lý lên đường. Đi tới đâu, Cầu Nhiêm Công dò la tin tức tới đó và nghe được khách bộ hành đồn đại có một cô gái tuyệt đẹp, bản lĩnh cao cường đi mãi võ khắp nơi. Công nghĩ người con gái đó phải là Lã Tứ Nương chứ không còn ai. Nhưng khi tới Bắc Kinh thì Công lại bặt tin nàng. Công suy nghĩ cẩn thận, cho rằng Tứ Nương rắp tâm mưu đồ đại sự thì tất nhiên là phải tìm nơi hoang vắng mà ẩn náu cho nên bặt tin nàng là vậy. Công liền đi kiếm một khách điếm vào trọ. Thế rồi đêm, vào lúc canh khuya tứ bề vắng lặng. Cầu Nhiêm Công đem theo Ngư Nhương, phi thân nhảy lên nóc nhà, đi tìm Tứ Nương. Hôm đó Công nhảy vào toà cổ miếu và đã tìm được nàng, dắt ra giới thiệu với Ngư Nương đứng đợi ngoài cổng. Tứ Nương thấy Ngư Nương tuổi suýt soát với mình, và dung nhan cũng chẳng thua mình, tự nhiên thân với nhau ngay. Nàng hỏi Ngư Nương lên kinh làm gì thì Ngư Nương kể cho nàng chuyện cha mình là Ngu Xác bị hoàng đế bắt tội chết, nàng lên kinh tìm cách báo thù.

Hai người cùng một chí lại càng thân nhau hơn. Nhưng người sung sướng nhất đời lúc này phải kể Chu Dung Kính. Chàng nắm lấy tay áo nàng, khẩn khoản khuyên nàng chớ lên mạo hiểm, e nguy đến tính mạng. Nàng nào có nghe Kính song cũng tự nhủ:

- Dung Kính đối với ta quả thật chung tình. Ta e rằng trên thế gian này khó có thể tìm ra một người thứ hai như vậy. Phen này, nếu lo xong việc lơn ta sẽ cùng chàng tính chuyện trăm năm.

Hồi này, nàng đã có sự lịch duyệt trên chốn giang hồ không còn e lệ rụt rè như xưa, nên bèn thành thực bày tỏ nôi niềm tâm sự cho Kính nghe:

- Tấm thân này vốn dĩ là đã là của chàng rồi. Song hiện thiếp còn muốn mượn chàng để dùng vào việc lớn đã. Sau khi trả thù xong, chàng muốn thế nào thiếp sẽ theo như thế! Còn lúc này quả thiếp không thể nào tuân theo lời chàng được.

Mấy lời khiến Chu Dung Kính nghe xong vừa mừng vừa lo, chẳng biết khuyên nhủ ra sao nữa.

Cầu Nhiêm Công mướn một căn nhà ngoài cửa Tây Tiên môn cho cả bốn thầy trò làm chỗ cư ngụ lâu dài. Công nói thác đây là một gia đình có cha, có con trai, con dâu đầy đủ. Nhờ đó không có một ai nghi ngờ gì cả.

Hồi này, Ung Chính hoàng đế cũng đã được bọn thám tử cho biết là trong kinh thành có một số đông thích khách đang tìm cách hành thích ngài. Hoàng đế vội hạ mật lệnh phòng bị khắp nơi, canh chừng đủ chốn, một mặt ngầm dặn bộ binh nha môn tra xét kẻ ra ngườì vào nghiêm mật.

Lễ Tế trời đã tới. Khâm thiên giám chọn được ngày tốt, mời hoàng đế xuất thành đi làm lễ. Ung Chính nghe phong thanh bên ngoài nhiều chuyện đáng ngại, đã có ý không đi.

Nhưng ngài nghĩ lại, cho rằng nếu nằm mọp trong cung không dám thò cổ ra ngoài thì cũng làm sao khiến chúng lộ mặt ra mà bắt. Hơn nữa bách tính thấy ngài bỏ cả tế lễ sẽ bàn tán cười chê thêm phiền. Ngài đành liều mạng một keo, tức thì truyền chỉ bày giá tế trời, một mặt điều động thị vệ để hộ giá xuất cung.

Hôm đó các đường phố đều có bộ quân canh gác, Cửu môn đề đốc cho người ngựa phòng bị tra xét suốt dọc đường. Từng đội tay cầm đao thương sáng quắc, đứng dọc theo con lộ, nước chảy cũng khó thông. Hai bên đường, dựng lên nhũng tấm thiên mạn trướng năm sắc rực rỡ, chạy mãi tới trước mặt Thiên đàn (đàn cao để tế trời).

Từ trong hoàng thành đi ra, từng cặp loan nghi từ từ tới trước đàn, rồi tiến lên phía trên. Các quan lớn văn võ khắp triều chia hai hàng đứng thăng tắp hai bên. Ung Chính hoàng đế bước từ trên xe loan dư xuống. Đội lính thị vệ vây kín lấy ngài, rầm rộ đưa ngài lên đàn cao. Trên mặt đài có đầy đủ đồ tế lễ.

Ung Chính hoàng đế tính quay mình trở xuống. Bỗng ngài nghe có tiếng động phát ra từ tấm màn Thiên mạn, ngài vội búng ngón tay một cái, tức thì một đạo bạch quang bay vụt tới đó. Và chỉ vài giây sau đó, một cái đầu con hồ ly từ trên cao rớt phịch xuống đất. Hoàng đế nhìn thấy rõ rồi, lòng hết lo ngại. Bọn thị vệ tả hữu đều đồng thanh hô vạn tuế…

Đứng sau Ung Chính hoàng đế lúc bấy giờ có Ngạc Nhĩ Thái. Hoàng đế quay lại cười bảo Thái:

- Trẫm nghe nói có một bọn thích khách đang tính mưu sát trẫm. Hôm nay, trẫm thử một chút thủ đoạn để cho bọn chúng biết mà liệu, chớ dại mà nhảy vào lưới, chui vào rọ.

Nói xong, ngài cười nhạt một tiếng, càng khiến Ngạc Nhĩ Thái mắt đổ hào quang, toàn thân toát mồ hôi lạnh, miệng chỉ còn biết dạ liên hồi.

Ung Chính hoàng đế về tới cung, dù sao lòng cũng buồn bã chẳng vui. Ngài nhớ lại thuở trước, khi còn học võ tại chùa Thiếu Lâm, có một vị hoà thượng mặc áo vải sắt, bản lĩnh coi như đứng bậc nhất trong môn phái. Y cũng có tài búng kiếm đầu tay. Nếu y còn sống, lại ngả theo kẻ thù của ta xúi giục, không nguy hại cho ta lắm sao? Ta không đề phòng không được.

Nghĩ như vậy, Ung Chính hoàng đế liền cho gọi Ngạc Nhĩ Thái vào cung cùng nhau thương nghị. Thái nói:

- Thần nghe đồn tên trọc ấy hiện đang ở Giang Nam, hoành hành bất chấp, chắc chẳng có kẻ nào xúi bảo nổi hắn ta. Đúng ra, ta phải bắt hắn mà giết đi để trị hại cho dân ấy chứ!

Ung Chính hoàng đế nói:

- Bọn hảo hán trước kia hiện chẳng còn ai. Biết sai ai đi làm cái việc này cho được.

Thái cố moi tìm trong óc, bỗng sực nghĩ ra tướng quân Nhạc Chung Kỳ năm nọ có nói tới một vị sư tên gọi Đại Nham hoà thượng, hiện đang trụ trì tại chùa Thiên Ninh. Thái bèn tâu với Ung Chính, xin hoàng đế hạ một mật chỉ xuống cho Tô Châu phủ đài, bảo đi mời Đại Nham diệt trừ nhà sư mặc áo vải sắt. Ung Chính nghe tâu, lấy làm đắc ý lắm, khen phải luôn mồm. Thái lui ra khỏi cung, vội thực hiện kế hoạch đã định.

Hồi đó, Thiết bố sam hoà thượng (nhà sư mặc áo vải sắt) đang trụ trì tại một ngôi chùa lớn trên núi Nga Mi, tỉnh Tứ Xuyên. Tên trọc này thường phái bọn đệ tử xuống núi chặt lấy đầu người để cung cấp cho y mỗi ngày ba bộ óc. Đám dân quanh vùng liên tục thấy mất đầu người trong đêm khuya, kẻ nào kẻ nấy kinh hồn táng đởm, trốn chạy sạch, đến nỗi thôn xóm vắng tanh, chẳng còn lấy một bóng người.

Về sau, tên trọc mặc áo vải sắt này bỗng lại trở chứng, đòi ăn thai nhi còn trong bụng mẹ. Y lại phái đệ tử xuống núi, mò vào nhà người, nếu thấy có đàn bà chửa tức thì hãm hiếp rồi mổ bụng lấy cái thai nhi đem về. Bọn đồ đệ của y tên nào cũng thuộc loại dâm ác kinh người, không ai dám ngăn trở chúng cả.

Hồi đó Bạch Thái Quan ở nhà rỗi rảnh, nghe nói phong cảnh núi Nga Mi tỉnh Tứ Xuyên hữu tình xinh đẹp, liền tới du lãm. Vốn tay giang hồ lịch duyệt nên khi tái xuất, Quan thường chỉ thích đi đêm. Quan hôm đó ngẫu nhiên tới một thôn phường. Trời đã vào khuya. Quan đi qua một căn nhà thấp lè tè, có mái che sát xuống phía trước. Bên trong ngọn đèn vàng nhạt còn leo lét cháy, phóng ánh sáng lờ mờ qua chiếc cửa sổ lọt ra ngoài. Bỗng Quan thấy một bóng người lượt qua, mà bóng ấy dường như có cái đầu trọc. Bạch Thái Quan trong lòng lấy làm nghi hoặc: tên trọc này đang đêm lẻn vào nhà người thì ắt hẳn "phi đạo tắc dâm" chứ không thể là người lương thiện được. Nghĩ vậy Quan liền dừng bước nghe ngóng, thì bỗng phía trong có tiếng đàn bà khóc rồi tiếng van nài cầu khẩn:

- Thầy tha cho tôi đi! Đau đến chết mất!

Bạch Thái Quan lại càng nghi, bèn giở tài nghệ, cậy mở cửa phòng rồi lẻn vào, thấy một người đàn bà còn trẻ, nằm trần truồng trên giường, và tên trọc đầu đang dùng tay làm gì đó nơi bụng dưới của người đàn bà. Bạch Thái Quan đùng đùng nổi giận, tóm ngay lấy cổ áo tên trọc xách bổng lên như một con gà rồi ném huỵch xuống đất. Tên trọc ngã quay đơ, không thể ngồi dậy nổi. Quan tức thì giơ cao nắm đấm to bằng cả cái tô canh, cứ mặt tên trọc mà nện xuống. Lúc này đã có nhiều người nghe động mà chạy tới. Họ can Bạch Thái Quan ngừng tay, và quát hỏi tên trọc kia. Hắn vội khai việc này thật chẳng do tại tôi. Sư phụ tôi buộc phải đi lấy cho bằng được cái thai nhi nên mới xảy ra nông nỗi.

Bạch Thái Quan hỏi:

- Sư phụ mi là ai?

Tên sư đáp:

- Là Thiết bố sam hoà thượng.

Trên giới giang hồ, Quán đã được nghe đồn về Thiết bố sam, nên bảo:

- Thật là một tên dâm ác. Để ta hỏi tội hắn!

Trời cũng vừa sáng. Quan ăn no rồi áp giải tên sư trọc ra đi, bảo một người trong xóm dẫn đường.

Bọn Quan đi mãi tới lúc mặt trời lặn mới tới chân núi Nga Mi. Quan thấy trước mặt có một nhà sư đang ngồi hóng mát dưới gốc cây đại thụ bèn cho rằng cũng một hạng như tên trọc bị bắt, liền quát lớn:

- Thằng trọc kia! Đừng hòng chạy!

Quát vừa xong, Quan nhảy vọt tới. Hai tay kình địch đấu đã hai mươi hiệp mà vẫn chưa thấy bên nào thua sút, trái lại càng đánh càng hăng. Giao đấu đã đến lúc một mất một còn, nhà sư bỗng nhảy ra ngoài vòng chiến, hỏi Quan:

- Mi có phải môn đồ của tên sư mặc áo vải sắt đó chăng?

Quan đáp:

- Ta tới để bắt thằng trọc đó đây! Có phải mi là đồ đệ của hắn không?

Nhà sư kia cũng nói;

- Ấy chính ta cũng tới để bắt thằng trọc đó.

Quan bụng bảo dạ, đánh nhau mãi té ra mới biết tay phải đánh tay trái, bèn hỏi:

- Hảo hán vâng lệnh ai tới đây vậy?

Nhà sư kia, tức Đại Nham hoà thượng, nghe hỏi bèn lấy tay vỗ đánh phạch một cái vào ngực, rồi vừa chìa ngón tay ra vừa bảo Quan:

- Ta vâng lệnh của phủ đài Giang Tô, dám hỏi hảo hán vâng lệnh ai mà tới?

Bạch Thái Quan bèn đem chuyện gặp tên trọc đang hành sự ở trong xóm kể một lượt cho Đại Nham nghe.

Đại Nham nghe xong, nổi nóng, chửi um lên:

- Thằng trọc khốn kiếp! Mi đã làm bại hoại cả qui củ của nhà Phật ta!

Quát xong, sư Đại Nham tuốt cây yêu đao đến soạt một tiếng và người ta chỉ thấy ánh kiếm loáng tròn một vòng, tức thì đầu tên trọc kia đã lăn lông lốc trên mặt đất. Đại Nham hành động mau lẹ lạ lùng, đoạn quay ngoắt lại, giơ tay vẫy vào đám rừng một cái, tức khắc nhảy ra đến mười lăm, mười sáu đại hán. Đại Nham đem bọn đại hán chạy lên trên núi.

Lên tới cửa sơn môn, Đại Nham cùng Bạch Thái Quan chia làm hai đường đánh thốc vào trong. Quan muốn chiếm thượng phong, tung người bay lên nóc nhà trước. Sư Đại Nham cắt cử bọn đại hán tuỳ tùng xong, đích thân tới mở cửa sơn môn, tiến vào hỏi Thiết bố sam. Tên tăng giữ cửa thấy Đại Nham cũng là một nhà sư nên không nghi ngờ gì, liền đưa vào nội viên, mời ngồi tạm trong phòng khách rồi bước vào trong trình chủ.

Sư Đại Nham ở phòng khách ra hiệu cho bọn đại hán theo vào rồi theo gót tên tăng lần bước mãi vào trong, cả hai loanh quanh bước qua mấy căn phòng rộng thì tới một gian, ngay chính giữa có đặt một chiếc giường tre, trên có một tên trọc to lớn, mình trần trùng trục đang ngồi cạnh một cô gái má trát đầy phấn, đang gãi lưng cho y. Lại còn một cô gái nữa đang bưng một chén trà dâng tới. Cô gái này thấy tên tăng giữ cửa bước vào liền dừng lại, nói to lên:

- Sư phụ! Có người tới đó!

Lão mập trọc nghe gọi liền quay lại, thấy đằng sau tên tăng giữ cửa còn có một nhà sư, liền chỉ tay hỏi:

- Lão kia là ai vậy?

Sư Đại Nham không để cho lão trở tay kịp, bước lẹ tới xuất thủ, túm ngay một chân y và giữ chặt lấy. Thiết bố sam vốn bản lĩnh cao cường, vội phóng đôi cước uyên ương tung vào mặt Đại Nham vừa để tháo gỡ ngón cầm ná thủ, vừa tấn công đối phương. Sư Đại Nham thấy lão trọc bị bắt chân trái tức thì hắn phóng chân phải đá ngược lên, biết đó là môn đệ phái Thiếu Lâm nên vội buông tay ra.

Thiết bố sam liền đứng bật dậy, đưa tay lên đầu giường kéo ra một chiếc áo vải, đánh vụt tới. Thật là kỳ quái, khi chiếc áo vải đã nằm trong tay lão trọc liền, biến thành một cây gậy sắt khi vung lên nghe vù vù rợn cả tóc gáy. Chính nhờ chiếc áo vải này mà thiên hạ phong cho y cái danh hiệu "Thiết bố sam".

Bọn đại hán thấy cuộc đấu đã mở màn, vội vàng tham chiến. Họ xông cả vào, vây lấy Thiết bố sam.

Lão trọc vung chiếc áo vải sắt chỉ đông đánh tây, chỉ nam đánh bắc, tung hoành khắp bốn mặt. Hai bên ác đấu đến hàng giờ rồi mà bọn Nham vẫn không tới gần được y. Tuy nhiên, cậy đông người, bọn Nham vây chặt vòng này tới vòng khác khiển Thiết bố sam cũng khó lòng thoát thân. Y đang định phi thân lên nóc nhà để thoát đi, không ngờ có một tiếng gầm vang rồi từ trên nóc, một bóng người nhảy vút xuống như một con đại bàng, thẳng cánh giáng một đao xuống đỉnh đầu Thiết bố sam. Chiếc đầu trọc của y chẳng khác gì một trái dưa bị chẻ làm đôi, lưỡi dao còn đi ngọt xuống tới mãi cổ mới chịu ngừng. Thế là Thiết bố sam chỉ trong nháy mắt đã lìa đời. Dân chúng khắp các thôn phường chung quanh được tin Thiết bố sam đã chết, kẻ nào kẻ nấy mừng rơn như chính mình vừa được cứu sống, bèn đem thây y chặt thành trăm miếng, mang về nhà rán mỡ đất đèn.

Bạch Thái Quan chẳng thèm từ biệt Đại Nham hoà thượng, nhảy vút lên mái nhà bỏ đi mất dạng. Tổng đốc Tứ Xuyên Nhạc Chung Kỳ vội đưa sư Đại Nham về nha môn, mời ở trong một tịnh xá để cung dưỡng. Mấy hôm sau, thánh chỉ từ Bắc Kinh đưa tới, thưởng Đại Nham hoà thượng một vạn lạng bạc, Nhạc đại tướng quân còn phái tài quan hộ tống nhà sư về nam, đồng thời gửi mấy chục đạo trát lệnh cho các quan địa phương dọc đường phải chuẩn bị xe thuyền để đón đưa cẩn thận, không được sơ sót.

Đại Nham hoà thượng về tới Dương Châu, bèn mua gạch mua gỗ, xây cất thánh điện, cạnh điện làm một toà Ngô viên (Vườn ngô), trong vườn kiến thiết một toà Hoa nghiêm đường hết sức tráng lệ. Tất cả những sở phí xây cất đều do các thân hào địa phương quyên giúp. Từ đó sư Đại Nham ngày ngày thường hội khách tại Hoa nghiêm đường uống rượu, luận bàn kinh sử.

Hồi 66 Hai đạo bạch quang trong cung cấm

Tại Dương Châu hồi đó có ba tay anh chị cậy mình có sức khỏe hơn người, chuyên doạ nạt dân chúng. Một tên gọi Nguỵ Ngũ, giỏi cưõi ngựa lại hiểu được tiếng ngựa. Mấy năm trước, có một vị Long Sơn tổng binh tới Dương Châu duyệt binh, bỗng đàn ngựa trong tàu thảy đều hí vang lên. Nguỵ Ngũ nghe đoạn bảo mọi người:

- Quan tổng binh này ba tháng nữa thì chết.

Vị quan tổng binh này về nhà bỗng nhiên ba tháng sau chết thật.

Tên thứ hai gọi Trương Âm Nguyên, rất giỏi múa song đạo Khi Nguyên đã múa lên rồi thì dù có nước tạt cũng không lọt tới người y giọt nào tới mấy chục người cũng chẳng thề gần y được. Tên thứ ba gọi Tiết Tam, thường sử dụng một cây cung cứng nặng tới năm mươi thạch. Hồi đó người Dương Châu thường gọi bọn này là Nguỵ Mã, Trương Đao, Tiết Ngạch Cung.

Từ khi Đại Nham hoà thượng tới Dương Châu, ba tên này thường tỏ vẻ không phục, thỉnh thoảng lại tới kiếm chuyện song đều bị Đại Nham đánh cho liểng xiểng. Chúng không còn mặt mũi nào ở lại nữa, bèn kéo nhau đi mất dạng.

Một hôm Đại Nham hoà thượng tiễn khách từ phương trượng đi ra, vừa tới chỗ bực thềm, bỗng một chiếc ly hương bằng đồng bay vụt tới. Đại Nham mắt lẹ tay nhanh đón bắt ngay được Thì ra Tiết Tam tới báo thù. Không ngờ, Tiết Tam khi ném cái lư hương, dùng sức quá nhiều nên miệng hộc máu ra lênh láng, hối hả chạy về nhà, hộc máu tiếp mấy keo nữa thì chết.

Trương Âm Nguyên giận lắm, xách song đao tới Hoa Nghiêm đường quyết đấu với Đại Nham hoà thượng. Mới được có vài hiệp. Trương đã bị Đại Nham chặt mất một cánh tay. Còn lại có mình Nguỵ Ngũ.

Ngũ biết nếu đem tài sức mà đánh thì không thể thủ thắng, bèn rắp tâm dùng mưu. Y dò biết Đại Nham bị hắc lào cùng mình nên mỗi buổi sáng khi thức dậy thường lấy nước nóng tắm rửa, liền nhè đúng lúc đó cùng bọn lâu la tông cửa nhảy vào khoa kiếm chém tới. Đại Nham hoà thượng tay không, toàn thân lại trần như nhộng, thử hỏi làm sao mà địch nổi.

Tuy có giết được nhiều tên, nhưng cuối cùng Đại Nham vẫn bị Ngu chặt mất một chân, chết ngay trong phòng tắm.

Tin Đại Nham hoà thượng chết báo tới kinh đô, Ung Chính hoàng đế tuy ngoài mặt tỏ vẻ thương tiếc, nhưng bên trong lại mừng thầm, cho rằng hạng người có bản lĩnh như vậy còn sống trên đời chỉ là một mối lo cho ngài. Những tay võ nghệ cao cường như Đại Nham mà giá như đều chết cả, chỉ còn lại bọn giá áo túi cơm thì có còn gì để cho ngài phải sợ nữa.

Từ đó, Ung Chính hoàng đế lại mải vui như cũ, chẳng thèm đề phòng gì nữa.

Lại nói Lã Tứ Nương ngụ trong kinh thành ngày ngày dò la tin tức, song chưa tìm được một cơ hội nào để hạ thủ, thành thử trong lòng bực dọc hết sức. Chu Dung Kính và Cầu Nhiêm Công khuyên nàng hãy nên nhẫn nại đợi thời cơ. Hồi đó, khắp kinh thành đồn rầm lên rằng Bảo Thân vương sắp làm lễ Đại hôn. Bảo thân vương chính là cậu bé mà hoàng hậu Nữu Cô Lộc sai mụ quán gia đánh tráo ở nhà Trần Thế Quan hồi trước, đặt tên là Hoàng Lịch, càng lớn càng tỏ ra khôi ngô tuấn tú, tính tình lại ôn hoà, nói năng linh lợi. Trong bọn hoàng tử anh em chẳng một ai được cả người lẫn nết như Lịch. Ung Chính hoàng đế tất nhiên không biết vụ trao đổi kia, cho nên yêu quý Lịch hết sức đặc biệt.

Hoàng hậu Nữu Cô Lộc được biết Hồ Bắc tướng quân Thường Minh có một cô con gái xinh đẹp tuyệt trần. Vợ Thường Minh là Quách Nhĩ Ngạch vốn ở cạnh nhà hoàng hậu. Lúc nhỏ tuổi, hai bên rất thân nhau. Về sau, bà Quách thường được hoàng hậu tuyên triệu vào cung chơi và cũng rất yêu quý cô con gái của bà, vẫn thường cho nào là khăn tay, nào là đồ trang sức, nào những món cần dùng linh tinh không biết bao nhiêu mà kể! Khi Thường Minh đem gia đình đi Hồ Bắc để nhận chức tướng quân thì hoàng hậu vẫn nhớ tới bà Quách và cô con gái cưng của bà, nên thường nhắc tới gia đình nhà họ Thường trước mặt Ung Chính hoàng đế. Nhân vui câu chuyện, Ung Chính bảo:

- Hậu đã yêu quý cô con gái nhà này thì chi bằng cưới cho thằng Hoàng Lịch, có phải lúc nào cũng được gặp mặt không?

Lời nói đó khiến bà Nữu Cô Lộc tỉnh ngộ. Thế rồi, chờ đến năm đúng tuổi làm lễ Đại hôn cho Bảo Thân vương, bà giục Ung Chính hoàng đế hạ thánh chỉ định việc hôn lễ, phong con gái Hồ Bắc tướng quân Thường Minh làm Phú Sát phúc tấn. Một mặt, điều động Thường Minh về kinh làm quân sư đại thần, mặt khác giao hai vị đại thần thân tín là Ngạc Nhĩ Thái và Sử Dĩ Trực làm ông mối. Ung Chính đem khu vườn Viên Minh mà Thánh Tổ đã thưởng cho ngài, thưởng lại cho Bảo Thân vương để đôi tân hôn hưởng tuần trăng mật.

Hôm đó khắp vườn treo đèn kết hoa rực rỡ, tiếng đàn sáo vang lừng. Người ta rước cô dâu Phú Sát vào vườn Viên Minh làm lễ giao bái. Bảo Thân vương thấy bà phúc tấn Phú Sát xinh đẹp tuyệt trần thì không còn muốn rời xa nửa bước. Hoàng hậu Nữu Cô Lộc thấy con và dâu thương yêu nhau như vậy cũng lấy làm sung sướng trong lòng.

Không ngờ vui lắm lại buồn nhiều, ở đời có chuyện gì là hoàn toàn cả đâu! Số là từ khi Bảo Thân vương cưới vợ, Ung Chính hoàng đế thấy trong người không được mạnh như xưa.

Bệnh căn chỉ là do ngài đam mê sắc dục quá độ mà ra. Thường mỗi ngày ít ra cũng phải có hai nàng phi luân phiên hầu hạ thì ngài mới yên giấc được. Lúc đầu, ngài còn nhờ thuốc hoàn A Tô Cơ của nhà sư Lạt ma để miễn cưỡng chống đỡ, nhưng về sau thuốc này xem chừng cũng trở thành vô dụng. Thì ra ngài đã đến lúc liệt bại hoàn toàn rồi. Bọn phi tần được sủng ái đêm nào cũng tìm đủ kiểu để kích thích ngài nhưng ngài chẳng động cựa gì được nữa.

Hoàng hậu Nữu Cô Lộc liền đuổi hết bọn phi tần, đích thân mình ở bên cạnh hầu hạ thuốc men cho hoàng đế. Bên cạnh ngài còn có hai viên ngự y, một người họ Thái, một người họ Phương, luân phiên túc trực ngày đêm trong cung để xem mạch hốt thuốc. Nhờ đó bệnh tình của Ung Chính ngày một, thuyên giảm. Đột nhiên bọn thái giám trong cung nội một hôm la hoảng và đồn rầm lên rằng, suốt dãy cung Trường Xuân, cung Chung Tuý đêm nào cũng nghe tiếng chân chạy nhảy trên mái ngói, rồi lại có tiếng mở đóng cửa, tiếp đó, bọn thái giám thị vệ ở các cung Dực Khôn, cung Vĩnh Hoà cũng đồn rằng cứ mỗi đêm trên nóc nhà thường thấy có hai đạo bạch quang bay đi bay lại và đã có vài cung nữ bị giết tại Thiên Cung. Chẳng mấy chốc những tin quái đản này đồn dậy khắp trong ngoài, khiến cả một toà hoàng thành rộng bát ngát, người đông như kiến mà kẻ nào cũng hoảng hồn bạt vía.

Hoàng hậu Nữu Cô Lộc vội sai bọn thị vệ bốn mặt truy tầm nhưng tuyệt vô tung tích. Thế mà tin đồn vẫn càng ngày càng dữ. Thậm chí, bọn thái giám và cung nữ ở các cung Diên Hy, cung Thừa Kiền, cung Cảnh Dương, cung Cảnh Nhân, Cung Hàm Phúc, cung Vĩnh Thọ, cung Khải Tường, cung Sử Tú còn thấy hai đạo bạch quang kia không chỉ bay đi bay lại trên nóc nhà nữa mà ngay ở cả trong nhà, mỗi khi họ chợt tỉnh giấc trong đêm trường thanh vắng.

Ung Chính hoàng đế lâm trọng bệnh nằm trên giường, được những tin đó, biết rằng có duyên cớ, nhưng chẳng tiện nói ra. Hồi đó, Sử Dĩ Trực thống lĩnh quân Dũng Kiện, vốn là người thân tín hoàng đế. Đoàn quân Dũng Kiện do các tướng quân ở các tỉnh tiến cử về Kinh, toàn là những tay hảo hán có đủ kỳ tài dị năng, luyện tập thành thục cả. Đoàn quân này gồm có bốn ngàn người. Ung Chính hoàng đế thấy cung nội mất an ninh, bèn truyền Sử Dĩ Trực vào cung, bảo đem toàn bộ quân Dũng Kiện vào, túc trực khắp các nơi mọi chốn.

Thành thử cung cấm thình lình đầy nhóc thêm bốn ngàn quân nữa. Lạ thay, đạo bạch quang cũng chẳng thấy, mà tiếng động, tiếng vang gì cũng tắt lịm luôn. Sức khỏe của Ung Chính hoàng đế càng ngày càng khá hơn, cuối cùng ngài đã nhờ Hoàng hậu dìu ngồi đậy, và đi lại được như thường. Thấy ngài mạnh rồi, bà Nữu Cô Lộc mới trở về cung riêng. Tính ra Ung Chính hoàng đế bệnh mất mấy tháng mới khỏi.

Trong lúc ngài nằm liệt giường, Bảo Thân vương cũng đem cả phúc tấn hằng ngày vào cung thăm hỏi bệnh tình. Đến khi khỏi bệnh, ngài nhớ tới con và dâu, cặp vợ chồng trẻ đang tuần trăng mật yêu thương nhau, nên nói thác ra là đi dưỡng bệnh để tới vườn Viên Minh với con. Bọn phi tần sủng ái cũng được đem theo để hầu hạ. Cô dâu Phú Sát đã đẹp đã xinh lại khéo chiều chồng nên Ung Chính hoàng đế càng lấy làm mừng. Ngài ngâm viết tên Bảo Thân vương vào di chiếu.

Vườn Viên Minh quả là vĩ đại. Chu vi xấp xỉ bốn mươi dặm, bên trong đầy những ao, hồ lớn, câ những khu vườn cây rất rộng, rất âm u. Ngoài ra, còn có nhiều trái núi nhỏ, nhiều ngôi tháp cao có đủ hoa cỏ bốn mùa, có nhiều cây trái quanh năm.

Bảo Thân vương cùng vợ là Phú Sát, suốt ngày bắt bướm tìm hoa, đùa giỡn với nhau. Lúc đầu, cặp vợ chồng trẻ này còn trong tuần trăng mật, gắn vào nhau như keo sơn, như nhựa dính, chuyên tìm những nơi vắng vẻ có hồ, có núi u tĩnh để tìm vui, đuổi hết bọn cung nữ và thái giám hầu hạ cho khỏi vướng mắt. Nhưng về sau, hai người chơi mãi rồi chán, cảm thấy cũng có lúc buồn. Bảo Thân vương tuy có cả một bọn phi tần, thị nữ, nhưng đối với vương, chẳng ai đẹp bằng Phú Sát, cho nên vương chẳng thèm để ý tới ai. Vương thường tự nhủ: một khu vườn nổi tiếng như Viên Minh mà không có người đẹp để làm bạn thì uổng quá. Phúc tấn thì đẹp đấy, nhưng nàng không có bạn, thành thử cũng thấy thiêu thiếu cái gì đó. Từ đó, vương để tâm đi tìm một người đẹp đem về để làm bạn với vợ mình.

Có mấy tên thái giám tinh ý, biết được nỗi lòng của Bảo Thân vương, nên thường lẻn đưa vương ra khỏi vườn Viên Minh đi tìm gái. Suốt một giải Nam Trì Tử đầy rẫy thanh lâu, Vương lui tới đây tìm khoái lạc, thích thú lắm. Hằng ngày vương nói thác là đi đọc sách tại nhà Hàm Đức thư ốc nhưng toàn là đi tìm gái. Vương rất lấy làm khó chịu bởi vì phụ hoàng hiện ở trong vườn Viên Minh, cứ mỗi buổi sáng phải mang thân tới thỉnh an. Do đó, vương nảy ra ý kiến là kiếm mấy kỹ nữ đưa vào Viên Minh. Thực ra, trong bọn này, có khá nhiều cô đẹp và duyên dáng. Điều kỳ lạ là chẳng có cô nào chịu vào với vương cả. Vương đành chỉ còn có cách thỉnh thoảng lẻn ra mua vui, chỉ cần qua mắt được hai người là bà Phú Sát và phụ hoàng là yên chí.

Bao nhiêu chuyện phong lưu khoái lạc đó, vương đã giấu được khá lâu rồi. Một hôm vương chui từ cái ổ yên vui ra thì trời vần còn sớm. Hơi men chếnh choáng, vương lẻn vào phòng ngủ của bà Phú Sát. Trong phòng im lặng như tờ. Hai con thị nữ nằm ở bên ngoài đang ngáy khò khò. Vương mặc kệ chúng không thèm đánh thức, lê bước vào phòng, có ý muốn xem người đẹp của mình lúc nằm ngủ đẹp đến thế nào. Vương bỏ giầy ra, nhón chân bước đến bên giường. Vương lấy làm lạ là hôm nay dưới chân giường lại có hai đôi giầy gấm thêu hoa thò ra ngoài màn, rõ ra rằng trên giường hiện có hai người đàn bà nằm ngủ. Vương thấy Phú Sát, phúc tấn của vương, còn người kia vương không nhận ra được là ai, thuộc gia tộc nào. Hai người đẹp đó đang mơ màng giấc điệp, tay ôm lấy lưng nhau, mặt kề sát mặt nhau, hơi thở đều đều. Bảo Thân vương ghé mặt sát xuống giường nhìn kỹ, bất giác thần hồn bay bổng mãi tận trời xanh. Thì ra người đàn bà nằm cạnh vợ vương có một sắc đẹp tuyệt trần khiến vương say như vừa nốc cả chục vò rượu quý. Mặt nàng trái xoan, đôi mày cong vút như lá liễu, cái mũi dọc dừa thon thả, đôi má ửng hồng như trái đào chín, đôi môi đỏ thắm mọng, khẽ hé ra như đang nở một nụ cười hàm tiếu. Nhưng chỗ hấp dẫn nhất đối với vương phải là cái cổ trắng như ngọc như ngà, buông loã xoã mớ tóc mây đen óng ánh. Mỹ nhân lại còn khéo cài một bông cúc đỏ lớn vào lọn tóc khiến màu trắng của nước da nơi cổ càng đẹp thêm. Tay nàng thon thon, mũm mĩm như búp măng, còn đang cầm chiếc khăn tay màu hồng nhạt. Thật là vô cùng quyến rũ, nhất là cái thế nằm duyên dáng và khêu gợi trên chiếc giường thất bảo vây màn bát tiên.

Bảo Thân vương ngắm nhìn người đẹp một lúc lâu, bất giác lòng xao xuyến. Vương liền khẽ kéo cái khăn trong bàn tay người đẹp, đưa lên mũi hít một hơi dài. Hương thơm phưng phức bay thốc vào mũi, vương bất giác cảm thấy tim mình đập mạnh, máu trong huyết quản như sôi lên. Vương không chịu nổi nữa, cất vội chiếc khăn hồng vào bọc, rồi cúi thấp hẳn xuống, đặt ngay cái mũi sát vào làn da trắng như ngọc của người đẹp, vừa hôn vừa hít một hơi thật mạnh, rồi vội chạy ra sau giường nấp trốn.

Người đàn bà bị vương hôn, giật mình tỉnh dậy khẽ lên tiếng gọi bà Phú Sát:

- Này em! Này em!

Bà Phú Sát nghe gọi, giật mình tỉnh giấc, bèn cười nói:

- Bọn mình nói chuyện rồi ngủ lúc nào không hay biết chị nhỉ?

Người đàn bà nọ nói:

- Này em? Trong nhà này có mèo hoang thì phải. Chị đang nằm ngủ, bỗng nghe một con mèo nhảy chồm lên giường hít một cái mạnh vào má chị. Chị giật mình tỉnh dậy thì nó đã nhảy đi.

Giọng nói của người đẹp nghe thật êm ái và lôi cuốn, khiến Bảo Thân vương nấp ở phía sau như phát cuồng lên. Vương đánh liều vọt ra, cười nói:

- Thật đúng quá! Chú mèo hoang chính là ta đây!

Nói đoạn vương liền chắp tay lạy người đẹp luôn mấy cái khiến người đàn bà nọ phải vội vàng hoàn lễ. Vương quay mặt về phía bà Phú Sát bảo:

- Lúc đó, ta tưởng vị thái thái này là mình cơ, nên định ghé sát vào tai mình để gọi dậy. Nhưng khi nhìn kỹ lại mới biết lầm, ta vội chạy trốn ra sau giường. Không ngờ vị thái thái này ăn nói quả lợi hại, chửi ngay ta là mèo hoang. Chửi là mèo hoang ta xin chịu, nhưng đáng phục nhất là ông trời già kia. Mình đã là người đẹp, thế mà vị thái thái này còn đẹp hơn, có lẽ chẳng phải người trần mà chính là người tiên, có phải không mình?

Được Bảo Thân vương tâng bốc lên tận mây xanh, người đàn bà nọ làm sao mà chẳng sung sướng, đôi má ửng hồng lên, chỉ cúi đầu ngồi mân mê tà áo, chẳng nói được câu nào.

Bà Phú Sát nghe chồng nói vậy, liền chẩu môi cười nói:

- Này ông vương gia của tôi ơi! Ông đã có lần nào thấy mèo hoang đâu mà khi nghe chị tôi chửi đã vội vơ vào mình. Đây là chị tôi. Ngày trước, khi còn ở nhà, hai chị em chơi đùa vui vẻ biết bao nhiêu. Nhưng từ lúc ông xách tôi vào cái vườn này thì chị em tôi đành chịu cảnh phân ly. Nhớ tôi quá chị tôi mới lẻn vào thăm, không ngờ lại chạm trán ông. Ông đã bảo nàng là tiên trên trời, thì hãy mau tới bái kiến đi. Bái kiến xong rồi thì phải bước đi ngay đấy nhé!

Bảo Thân vương không ngờ được bà Phú Sát nói cho nghe bấy nhiêu lời, vội bước tới hành lễ, miệng nói:

- Thưa chị! - rồi hỏi thêm - Thưa chị, chị tên gì nhỉ?

Người đàn bà nọ, đứng hẳn người lên, hai tay vẫn còn mân mê mớ tóc mây buông xoã xuống đôi vai, miệng cười chúm chím, đáp:

- Tôi là Đổng Ngạch. Chồng tôi tên Phó Hằng!

Bảo Thân vương vỗ tay cười lớn nói:

- Anh Phó Hằng tôi tu đã đến mấy kiếp mà lấy được một người đẹp như tiên nga giáng thế như vậy nhỉ?

Lời tán tụng đó lại càng làm bà Đổng Ngạch thẹn thùng, đỏ mặt đến mang tai. Sợ chị mình quá xấu hổ, bà Phú Sát vội đẩy chồng ra ngoài phòng, đóng ập cửa lại. Người ta chỉ còn nghe thấy một tràng cười ầm ĩ đầy thích thú của vị vương gia có cái máu đa tình. Đổng Ngạch cũng cáo từ Phú Sát, ra khỏi vườn Viên Minh về nhà.

Bảo Thân vương từ khi gặp Đổng Ngạch, lúc nào miệng cũng nhắc tới tên người đẹp đã được dịp tặng lén một cái hôn.

Rồi cũng từ đó, vương chẳng thèm ra phố, tới các chốn thanh lâu nữa. Hết ngày này đến ngày khác vương chỉ ngồi lì, mơ tưởng đến hình dáng yêu kiều của người đẹp, cơm lắm bữa chẳng muốn ăn, ngủ lắm đêm chẳng thành giấc…

Hồi 67 Ung Chính hoàng đế bị chặt đầu

Từ ngày gặp người đẹp Đổng Ngạch, Bảo Thân vương không lúc nào là không nhớ tới cái khuôn mặt xinh xắn duyên dáng ấy. Mũi vương hình như lúc nào cũng còn ngửi thấy mùi hương kỳ lạ của phấn hoa phảng phất trên chiếc má trắng nõn nà như tuyết của người đẹp. Đối với vương, chi có phấn ấy, hương ấy mới thật là hương là phấn. Vương thường bảo phúc tấn của mình cho người đi mời bà chị vào vườn Viên Minh chơi, để lòng vơi được niềm mong nhớ.

Nàng Đổng Ngạch vốn người tinh ranh. Hễ thấy Bảo Thân vương bén mảng vào cung thì vội lánh mặt ngay, khiến vương càng muốn gặp hơn, càng mơ tưởng nhiều hơn. Đáng tiếc cho vương là đã bao ngày tháng rồi mà vẫn chưa có cơ hội tốt nào để "liều mình" một chuyến cho thoả nguyện. Bà Phú Sát cũng hiểu lòng vương nên mỗi khi Đổng Ngạch tới thăm đều cho đưa vào phòng kín để trò chuyện với nhau, không cho vương được gặp mặt.

Bảo Thân vướng đã lâu không được gặp mặt nàng Đổng Ngạch, trong lòng nóng nẩy chẳng khác gì kiến bò trên chảo rang. Vương có một thái giám còn nhỏ tuổi tên gọi Tiểu Phú Tử, rất lanh lẹ. Thấy vương gia có bầu tâm sự não nề, Phú Tử thì thầm hiến kế, như vậy, như vậy… quyết rằng vương gia sẽ được như nguyện. Bảo Thân vương nghe kế sách của Phú Tử, luôn miệng khen rồi giục Phú Tử mau thực hiện diệu kế.

Tiểu Phú Tử vâng lệnh Bảo Thân vương, trước hết tới quán Thanh Hương trong rừng trúc ở giữa vườn Viên Minh đặt giường bày kinh rồi cho hai tên tiểu thái giám cùng hai thị nữ kéo một cỗ xe tới nhà Thương Minh mời nàng Đổng Ngạch. Nàng Đổng Ngạch thấy bà Phú Sát thường cho thí nữ lại đón, nên không nghi ngờ gì cả, bèn chải qua mái tóc, trang điểm lại chút ít rồi lên xe cho chúng đưa đi.

Đúng lệ thì xe phải dừng lại ngoài cổng Tảo Viên, để cho tám tên tiểu thái giám khác khiêng kiệu đưa vào vườn. Đằng này cỗ xe loanh quanh hết ngả này tới ngả khác, đi đã khá nhiều đường đất. Gặp mùa hạ, trời nóng bức oi ả, ai nấy đều mồ hôi nhễ nhại.

Xe chở nàng Đổng Ngạch vào sâu trong vườn, ngang chỗ có cây cối xum xuê, gió mát vi vu thổi. Nàng cảm thấy khoan khoái dễ chịu, ngồi trên xe mắt ham ngắm cảnh đẹp, bất giác tới một nơi hết sức mới mẻ lúc nào không biết. Cỗ xe đứng lại. Hai thị nữ đỡ Đổng Ngạch bước xuống. Nàng đưa mắt nhìn quanh, thấy bốn bề toàn là rừng trúc vây quanh một toà trang viện nhỏ. Tai nàng nghe tiếng gió thổi vào khóm trúc ngân nga như một điệu nhạc nhẹ nhàng thanh thoát.

Cả bọn tiến vào trang viện. Một phòng khách nằm ngay ở phía trước, trên treo tấm biển đề năm chữ "Trúc lâm Thanh Hương quán". Bước vào phòng, nàng Đổng Ngạch thấy trên bốn mặt tường đều treo những bức tự hoạ (bức vẽ bằng chữ) còn bàn ghế toàn bằng tre trúc màu ngà. Căn phòng trang hoàng hết sức thanh nhã.

Hai thị nữ đưa Đổng Ngạch vào phòng bên. Nàng thấy nơi đây nào là rèm châu, giường ngà, nào là trướng gấm, bình ngọc. Trên giá gương bày đủ bộ trang điểm. Một chiếc bàn cạnh đấy, bên trên có chiếc đĩa lớn chất đầy các thứ trái cây ngon lành. Một cái chậu bằng thuỷ tinh nuôi cá vàng đặt trên chiếc án thư ngay trước cửa sổ. Bên ngoài cửa sổ, trồng một loại trúc lá xanh biếc, quần áo của mọi người đứng bên trong cũng mang một màu xanh phơn phớt.

Nàng Đổng Ngạch quan sát một lượt, bất giác thốt ra lời khen, trong khi hai thị nữ đứng phía sau quạt lấy quạt để cho nàng. Rồi một đứa thị nữ khác dâng trà lên. Nàng Đổng Ngạch bèn hỏi:

- Sao chưa thấy phúc tấn của bọn mày?

Một đứa đáp:

- Phúc tấn đang tắm rửa tại Hà Tĩnh Tiên, có dặn mời Cửu thái thái ngồi chơi một lát.

Nàng Đổng Ngạch nghe đoạn, chẳng hỏi thêm. Một lát sau, hai thị nữ khá lớn tuổi, bưng một khay lớn đủ đồ trang sức, và nói:

- Xin mời Cửu thái thái cũng hãy tắm gội đi.

Nàng Đổng Ngạch vốn tính sợ nóng, ở nhà thường tắm gội luôn, nên nghe nói vậy thì mừng lắm. Thế là bọn thị nữ vội cởi áo, cất đồ trang sức cho nàng, rồi đưa nàng vào một căn phòng kín để tắm gội. Tắm xong trở ra, nàng được bọn thị nữ giúp trang điểm lại. Rồi một bàn tay cài cho nàng đoá hoa lan vào mái tóc. Nàng Đổng Ngạch nhìn vào kính, thấy người giắt hoa vào tóc mình chẳng phải thị nữ nào mà chính là Bảo Thân vương, giật mình mắc cỡ đến nỗi đôi má ửng hồng tới tận mang tai, chỉ còn biết ngồi cúi đầu lặng thinh trước đài gương. Tuy nhiên, đôi mắt nàng vẫn lấm lét quan sát cử chỉ của Bảo Thân vương. Nàng thấy vương quỳ gối trên nền nhà, luôn miệng gọi:

- Nàng tiên xinh đẹp của tôi ơi! Sau khi được gặp chị rồi xa chị, tôi thấy như mình phải sống một cuộc đời vô nghĩa. Hôm đó, tôi mê đắm quá, đành hôn trộm một cái vào má chị, mùi hương ngào ngạt như vẫn còn vương vấn tới nay. Thật tội nghiệp cho tôi, ngày quên ăn, đêm quên ngủ. Lúc nào tôi cũng chỉ nhớ tới chị. Bao nhiêu đàn bà con gái dưới cõi thế này, tôi chẳng thèm để ý tới ai nữa. Cầu xin chị đoái thương tôi. Chị có thấy không? Gần đây thân hình tôi gầy ốm tiều tuỵ cũng chỉ vì tưởng nhớ tới chị. Nếu chị không thương tình mà cứu giúp thì tính mạng này chắc không còn bảo toàn được nữa.

Nói đoạn, Bảo Thân vương khóe thút thít như trẻ con, vừa khóc vừa lấy khăn chấm nước mắt. Nàng Đổng Ngạch nhận ra đó chính là khăn của mình. Vương nói tiếp:

- Chị cứ yên tâm! Mọi việc hôm nay tôi đã xếp đặt chu đáo Khu vườn này ở phía cực tây, rất xa nơi phúc tấn em gái chị. Bọn thị nữ và thái giám hầu hạ nơi đây đều là người tâm phúc của tôi. Nếu chị thuận tình, tôi quyết rằng bên ngoài không một ai có thể biết được. Nhưng nếu chị không bằng lòng, kêu la rầm lên, lúc đó mặt chị cũng như mặt tôi từ nay coi như bỏ rồi. Hơn nữa, nếu chị có kêu la rầm lên, thì nơi đây hoang vắng, chẳng có ai nghe thấy đâu, rốt cuộc chỉ làm cho mối giao tình tốt đẹp giữa đôi ta trở nên bẽ bàng mà thôi. Chị cứ vui lòng cho tôi đi, tôi sẽ không bao giờ quên ơn đức của chị, cho tới lúc già, lúc chết. Còn nếu chị không vui lòng cho tôi thì tôi chi xin một cái chết, chết ngay trước mặt chị để làm một tên quỉ phong lưu dưới suối vàng cũng mãn nguyện rồi.

Vừa nói, Bảo Thân vương vừa rút trong bọc ra cây bảo kiếm nhỏ rồi nhè cổ mình đâm tới. Biết Bảo Thân vương vốn là người anh hùng, tương lai còn là vị vua kế nghiệp nữa, Đổng Ngạch bỗng nảy ý cảm mến. Bảo Thân vương lại khéo miệng, một điều chị tốt, hai điều chị đẹp, khiến tính tự ái đàn bà của nàng được thoả mãn. Rồi đến lúc vương rút dao đòi tự tử, thì lòng nàng đã nhiều phần thương yêu rồi. Còn một việc bất khả kháng cho nàng nữa, khi ra khỏi phòng tắm, nàng chỉ khoác có mỗi tấm áo lụa mỏng tanh, thân hình ngà ngọc của nàng trông rõ mồn một qua làn lụa mỏng. Khi đưa nàng vào tắm, bọn thị nữ lại để xiêm áo trên chiếc giường mà Bảo Thân vương đang ngồi, chẳng dễ đàng mà lấy được. Mà có lấy được đi nữa, thì trước mặt vương, nàng cũng chẳng thể mặc vào. Đổng Ngạch thấy khó xử quá, bất giác thở dài như tỏ ý phó mặc, rồi quay ngoắt lại, cướp vội cây bảo kiếm trong tay vương, chĩa ngón tay chỏ ấn vào trán vương mà bảo:

- Ông thật là oan gia kiếp trước của tôi rồi!

Bản Thân Vương nhân cơ hội liền ôm lấy Đổng Ngạch.

Thế rồi kẻ vờ đẩy ra, người cố kéo vào, hai bên giằng co một hồi, cuối cùng thì vương cũng toại nguyện.

Việc xong xuôi, Bảo Thân vương tự tay mình lấy quần áo mặc cho Đổng Ngạch, hai người quyến luyến chẳng nỡ rời nhau, hệt như một cặp vợ chồng trong tuần trăng mật.

Thời gian sao chóng quá! Chẳng mấy chốc trời đã đổ tối, Bảo Thân vương đưa người đẹp ra khỏi phòng. Lúc lâm biệt, Đổng Ngạch đưa làn thu ba lóng lánh lườm Bảo Thân vương một cái, rồi mắng yêu vương một tiếng: "Đồ quỉ" rồi mới chịu lên xe.

Bảo Thân vương trong lòng vui sướng như điên. Thế rồi từ đó hai người hễ có gặp dịp lại lẻn ra khu rừng trúc thanh vắng u nhã này để tìm vui hưởng thú.

Trời đã sang thu, bắt đầu lạnh. Hôm đó Bảo Thân vương cùng nàng Đổng Ngạch phải kéo nhau vào một căn phòng kín trong Lộ Hương trai để thủ thỉ với nhau. Giữa lúc cặp nhân tình đang hú hí, bỗng từ phía thư viện Bích Đồng bên kìa tường dội ra một tiếng gầm vang dậy, tiếp đó là tiếng người la hét ầm ĩ…

Bảo Thân vương vội rời nàng Đổng Ngạch, chạy qua phía thư viện. Vương vừa bước được một chân vào trang viên thì đã thấy bọn thái giám lớn nhỏ hất hoảng xô ra, miệng lắp bắp bảo vương:

- Đầu của Hoàng thượng chẳng thấy đâu cả!

Toà thư viện Bích Đổng vốn là nơi Ung Chính hoàng đế hằng ngày duyệt xét mọi văn bản, tấu chương của triều đình. Hoàng đế ở trong cung bị câu thúc nhiều điều, lại thường muốn gặp Bảo Thân vương, cho nên mới tới đây tạm ở ít lâu. Từ lúc tới ngài cho thiết lập Tôn nhân phủ như cũ ngay tại sau cửa Đại cung, với đủ các cơ quan như một triều đình thu nhỏ: Lại bộ, Lễ bộ, Binh bộ, Đô sát viện, Lý phiên viện, Hàn lâm viện, Chiêm sự phủ, Quốc tử giám, Loan nghi vệ và các nha môn Đông Tứ Kỳ. Về phía tây Đại cung, ngài cho thiết lập Hộ bộ, Hình bộ, Công bộ, Khâm thiên giám, Nội vụ phu, Quan lộc tứ, Thông chính ty, Đại lý tụ, Hồng lộ tự, Thái thường tự, Thái lộc tự, Ngự thư xứ, Thượng tứ viện, Võ bị viện và các nha môn Tây Tứ Kỳ.

Hằng ngày, Ung Chính hoàng đế toạ triều tại điện Chính Đại Quang Minh. Đã một năm qua, mọi việc đều vẫn yên ổn, trôi chảy.

Không ngờ hôm đó bỗng xảy ra việc động trời là hoàng đế bị mất đầu. Mỗi khi tới mùa thu, Ung Chính hoàng đế đều ở trong Bích Đồng thư viện phê duyệt tấu chương. Trước án thư của ngài cũng như chung quanh viện đều có thị nữ và thái giám đứng hầu kín cả. Quân cấm vệ vẫn chiếu lệ cũ canh phòng khắp nơi. Trời tối, bọn thái giám đốt đèn lên. Hoàng đế giở xem tấu chương dưới ánh đèn, bỗng từ trong chòm lá rậm khóm ngõ đồng, hai đạo bạch quang bay vèo tới trước viện, tọt vào trong, rồi quanh đi quanh lại một hồi, rút cuộc chẳng thấy đâu nữa.

Bọn thái giám và cung nữ vừa thấy hai đạo bạch quang bay vụt tới, không kịp mở miệng kêu la đã bị mê mụ đi luôn.

Đến khi tỉnh lại, chúng đã thấy thân hình hoàng đế vật ra trên nền nhà. Chúng vội chạy tới nâng dậy, nhưng chẳng còn thấy đầu hoàng đế đâu nữa. Chúng hoảng quá, rồi không đưa nào bảo đứa nào, tất cả bỗng đều rú lên những tiếng ghê khiếp, vang động cả thâm cung. Bọn thị vệ đại thần nhất tề chạy ồ tới. Thấy cảnh ấy, anh nào anh nấy mặt xám lại như tàu lá, đôi chân run lên như muốn khuỵu, chẳng còn có chủ ý gì nữa.

Một lát sau, Bảo Thân vương cùng bọn phi tần hối hả kéo tới. Chui từ trong đám đông ra, Vương ôm lấy xác phụ hoàng mà khóc ầm lên. Nhưng chỉ giây lát sau, Bảo Thân vương đã bình tĩnh trở lại, cho nội giám đi mời cấp kỳ hai vị đại thần là Ngạc Nhĩ Thái và Sử Dĩ Trực tới thương nghị đại sự Bọn nội giám chạy ra khỏi vườn Viên Minh, nhảy tót lên ngựa chia nhau đi hai ngả. Ngạc Nhĩ Thái lúc đó đã sắp ngủ, bỗng nghe tiếng đập thình thình ngoài cổng lớn. Gia bộc vừa mở cổng thì tên nội giám đã chạy xộc vào, mồ hôi nhễ nhại đầy mặt, miệng thở hổn hển, nói không thành tiếng:

- Mau…mau nói, nói… với đại nhân là hoàng thượng mất… mất đầu rồi!

Câu nói đó vọng cả tới tai Ngạc Nhĩ Thái. Thái hoảng hồn bạt vía, chẳng hiểu ra sao, vội nhảy từ trên giường xuống, cuống quýt bổ nhào ra, chẳng kịp cho thắng ngựa của mình nữa, nhảy đại lên lưng ngựa của tên thái giám, giật cương phóng như điên vào ngả vườn Viên Minh. Tới cổng vườn, Thái nhảy xuống ngựa, chạy vội vào thì đã thấy Sử Dĩ Trực tới trước rồi. Nhưng lúc này có phải lúc hỏi han nhau nữa đâu. Họ chỉ biết hè nhau đi tìm đầu của hoàng thượng. Đó là điều tối hệ trọng và tối cần thiết! Cả bọn chong đèn đốt đuốc, tìm kiếm khắp chốn cùng nơi, cuối cùng lại là nàng Huệ phi thấy cái đầu bị nhét vào trong quần lót của hoàng đế. Huệ phi ôm cái đầu máu me đã bầm đen lại, trông ghê khiếp hết chỗ nói, mà nức nở khóc. Cảnh tượng thật hết sức thảm thê.

Nàng Huệ phi vốn là vợ của Hoằng Triết, con dâu của hoàng tử Dân Nhung và cũng là cháu dâu của Ung Chính hoàng đế. Nàng bị Ung Chính cưỡng bức vào cung nhưng được đối đãi ân tình và được phong làm Huệ phi. Rồi nàng đã quên hẳn chồng cũ. Thấy Ung Chính hoàng đế chết một cách thê thảm, nàng không dấu nổi bi thương, khóc lóc thảm thiết.

Ngạc Nhĩ Thái lắp cái đầu vào thây Ung Chính hoàng đế rồi sai bọn cung nhân tắm rửa và mặc quần áo vào cho ngài.

Sau đó, Thái cùng với Sử Dĩ Trực hè nhau chạy tới điện Chính Đại Quang Minh, lấy đằng sau tấm biển ra một cái hộp vàng.

Họ mở nắp hộp kéo ra tờ di chiếu, khi đọc lên mới biết di chiếu đã ghi rõ hoàng tử thứ tư là Hoàng Lịch được kế vị hoàng đế.

Thái và Trực lập tức quay lại bệ kiến Bảo Thân vương, đem theo năm trăm quân Dũng Kiện tiến vào kinh thành, đến Thái Hoà điện, đánh trống gióng chuông vang dậy. Khắp triều văn võ được lệnh triệu, vội tụ tập tại triều phòng. Ngạc Nhĩ Thái, mắt đầy lệ, bố cáo cho mọi người biết việc hoàng thượng bị giết ra sao. Bọn đại thần vây quanh Thái và Trực, im lặng nghe. Tới chỗ thương tâm nhất, bỗng một tên nội giám chỉ Ngạc Nhĩ Thái bảo:

- Ngạc Trung đường! Ông còn mặc cái áo cộc kia thì làm sao mà thượng trào?

Câu nói của tên nội giám làm cho Thái giật mình, sực nhớ ra rằng lúc ra đi quá vội, quên cả áo ngoài. Lập tức, Thái sai người về nhà lấy đủ mũ áo tiến phục cho mình. Giữa lúc đó, Sử Dĩ Trực bỗng nhớ ra một chuyện, quay lại bảo bọn đại thần:

- Hoàng thượng bị cắt mất đầu, nói ra chẳng đẹp gì. Huống hồ việc này xảy ra, bọn thần tử chúng ta đều có tội cả. Nếu ta cho đóng cửa thành lại, một mặt lục soát trong thành, một mặt gửi văn thư đi các tỉnh, cho các nha môn văn võ lùng bắt hung thủ, tất nhiên tiếng tăm đồn đại khiến dân chúng đồn đại xuyên tạc, như vậy há chẳng phải làm trò cười cho thiên hạ? Theo ý kiến của hạ quan thì chi bằng ta dấu quách chuyện này đi, một là để giữ thể diện cho tiên đế, hai là để có thể tránh được không nhiều thì ít những chuyện lộn xộn về sau. Bọn ta nên sửa đổi lời di chiếu sao cho mọi người tin rằng Tiên đế bị cấp bệnh mà mất thì mới ổn được.

Ngạc Nhĩ Thái đứng cạnh cho là phải, luôn mồm khen đúng.

Thế là Thái cầm bút sửa đổi ngay lời chiếu, Văn quan thì có Thái cầm đầu; võ quan thì có Sử Dĩ Trực điều khiển, tất cả tiến vào Thái Hoà Điện.

Cả một đám đông, nào thân vương, bối lặc, bối tử, nào lục bộ cửu khanh, văn võ quan viên nhất loạt quỳ xuống. Ngạc Nhĩ Thái bước lên điện, tuyên đọc di chiếu.

Hồi 68 Càn Long lên ngôi báu

"Trẫm nhuốm cấp bệnh, tự biết mình khó lành. Tứ hoàng tử Hoàng Lịch tỏ ra rất hiếu thảo đối với trẫm, sẽ lên kế vị hoàng đế. Khâm thử".

Khi Ngạc Nhĩ Thái đọc di chiếu, Bảo Thân vương quỳ dưới điện. Chiếu vừa đọc xong, tức thì có một đội thị vệ, cung nữ và thái giám cầm nghi trượng trên tay, đi dần xuống thềm, rước vương lên trên điện, đổi long bào, đội mũ đại mão cho vương rồi rầm rầm rộ rộ đưa vương lên ngai vàng. Phía dưới thềm, các đại thần đồng thanh, bò rạp xuống đất hành lễ, hô vang "Vạn tuế!"

Tân hoàng đế hạ chi, đổi niên hiệu là Càn Long nguyên niên, đại xá thiên hạ, một mặt phát táng Đại hành hoàng đế, một mặt ngầm hạ mật chỉ cho Sử Dĩ Trực tìm kế truy bắt hung thủ, bí mật xử chết.

Trực vâng mật chỉ, cho trinh thám đi khắp nơi truy lùng nhưng có lẽ hung thủ thấy đại thù đã báo, bèn rời xa kinh thành vào nơi thâm sơn cùng cốc, tiêu dao tự tử lâu, thử hỏi Trực làm cách nào lùng cho ra được nữa chứ!

Ta hãy kể lại chuyện Lã Tứ Nương trả thù Ung Chính hoàng đế. Nàng theo Cầu Nhiêm Công ngụ trong thành Bắc Kinh, có Ngư Nhương làm bạn. Ngoài ra còn có Chu Dung Kính, nhân vì không thể rời xa nên đành theo lên kinh với nàng. Cảm ân tình của chàng, nàng hứa sau khi báo được thù nhà, sẽ cùng chàng chắp mối lương duyên. Đối với Ngư Nhương, Dung Kính cũng đối đãi hết sức kính trọng và luôn sẵn lòng giúp đỡ. Thường thường, ba người ngồi trò chuyện với nhau trong nhà, khi nói khi cười, người ngoài nhìn vào cứ tưởng như Cầu Nhiêm Công có một cậu trai, một cô gái và một cô con dâu, mà không bao giờ có thể nghi ngờ gì khác được Công thấy nhà mình quá rảnh rỗi, sợ có kẻ dị nghị, bèn mở một tửu quán. Rượu ngon, thịt béo, cả bọn quan viên, thái giám, thị vệ trong thành cũng hay lui tới. Nhờ đó, Công mới dò ra được đường xá trong cung cấm qua miệng họ, để Lã Tứ Nương và Ngư Nhương, hai người cứ đêm khuya canh vắng, vượt tường vào cung. Họ thấy cung điện lâu đài san sát, tường góc chênh vênh, ngói vàng rực rỡ khiến tìm kiếm mãi vẫn chẳng thể biết được tẩm cung của hoàng đế ở chỗ nào. Nhưng đã tới, hai người quyết chẳng chịu về không. Nhờ bản lĩnh chạy tường bay mái, hai nàng xông qua bắc rồi vọt sang tây, chỗ nào cũng đặt chân tới. Bọn thị vệ, thái giám chỉ thấy hai đạo bạch quang bay đi bay lại khắp trong cung, như đã kể trên. Sợ hỏng mất đại sự, Công khuyên hai nàng hãy nhẫn nại, để dò xem chỗ nào đích là nơi ở của Ung Chính hãy động thủ. Vì vậy, hai nữ hiệp lại im hơi bặt tiếng một thời gian. Trong cung cấm nhờ đó cũng được yên ổn một dạo.

Cũng một phần vì sự yên ổn giả tạo đó mà Ung Chính hoàng đế thiên cư sang vườn Viên Minh. Lã Tứ Nương cùng Ngư Nhương đem theo lương khô, ẩn nấp trong những khu hẻo lánh nhất trong vườn, dò la tin tức về Ung Chính. Thế rồi cũng có lúc hai nàng nghe lỏm được bọn cung nữ và Thái giám trò chuyện, biết rằng Ung Chính ngày ngày ở lại thư viện Bích Đồng để duyệt xét mọi việc quốc sự. Thật là cơ hội trời cho. Hằng đêm hai nàng chia nhau đi dò la đường sá.

Cuối cùng, đã thuộc làu mọi đường đi lối lại, cổng ra ngõ vào trong vườn. Lúc đó chính là dịp để hai nàng trổ tài hiệp khách để hạ thủ kẻ tử thù. Và đã thành công.

Hôm đó, hai nàng nữ hiệp mang theo muộn hương (tức mê hồn hương) cho nên khi Ung Chính hoàng đế bị chặt đầu thì bọn tả hữu thị vệ cũng đều bị mê man khắp lượt, lăn quay dưới đất cả. Lã Tứ Nương cắt xong đầu Ung Chính, muốn đem về tế trước bàn thờ cha và ông nội, nhưng Ngư Nhương can bảo:

- Chị làm như vậy chỉ giúp bọn chúng tìm ra tung tích. Bỏ nó lại là hơn!

Nói đoạn, Ngư Nhương cầm chiếc đầu lâu nhét vào trong quần Ung Chính hoàng đế. Hai người nhìn nhau đắc ý mỉm cười. Rồi như một cặp nhạn, hai nàng uốn mình nhảy lên mái ngói, phóng đi, chỉ còn thấy hai cái bóng trắng mờ dần trên các nóc điện, trong vườn Viên Minh.

Cầu Nhiêm Công lập tức cho cởi dây khai thuyền. Khi bọn Ngạc Nhĩ Thái biết được tin chạy vào tới vườn Viên Minh rồi bao chuyện xảy ra tiếp theo, thì thuyền của Lã Tứ Nương xuôi gió thuận buồm, đã vượt khỏi địa phận Bắc Kinh hướng về nam mà lướt tới.

Chuyện kể cũng kỳ lạ. Khi Lã Tứ Nương chưa báo được thù cha thì lúc nào cũng mặt ủ mày chau, áo xô phấn nhạt, nhưng khi đã báo được thù rồi thì cười nói suốt ngày, nào xiêm áo, nào phấn son, đẹp ra trông thấy.

Chu Dung Kính mừng vui khôn tả, suốt ngày đêm trong đầu chỉ nghĩ tới chuyện trăm năm với nàng.

Thuyền trẩy tới địa phận tỉnh Hồ Nam, Cầu Nhiêm Công đưa Dung Kính về nhà. Phụ thân của Dung Kính gặp lại con, mừng như sống lại. Dung Kính nói với cha việc xin cưới Tứ Nương làm vợ. Cầu Nhiêm Công liền đứng ra làm chủ hôn, chọn ngày lành tháng tốt cho đôi trẻ làm lễ cưới.

Ngày vui ngắn chẳng tầy gang, vừa mấy chốc đã một tháng trôi qua, Cầu Nhiêm Công muốn cáo từ ra về. Cha con Chu Dung Kính cố giữ lại mà không được. Lã Tứ Nương nói:

- Vợ chồng con nhờ sư phụ chu toàn nên mới có ngày nay. Sư phụ lên đường, chúng con xin tiễn đưa về mãi Tứ Xuyên.

Chu Dung Kính cũng nói:

- Phải đấy! Phải đấy!

Ngư Nhương quyến luyến, không muốn rời xa Tứ Nương. Nàng nhớ tới ngày cha bị hại mà thê thảm trong lòng. Cha chết, nhà không có, biết về đâu? Càng nghĩ nàng càng buồn, bất giác đôi dòng lệ tuôn rơi lã chã. Lã Tứ Nương hết lời khuyên giải và an ủi nàng, Cầu Nhiêm Công cũng nhân đó nhận nàng là con và hứa chăm sóc cẩn thận nàng mới nguôi ngoai được.

Bốn người lại bắt đầu cuộc hành trình. Lần này, thuyền ngược sông Trường Giang. Dọc đường, cảnh núi non hùng vĩ sông nước long lanh, cây cỏ tốt tươi, làm cho mọi người đều khuây khoả nỗi sầu ly biệt.

Thuyền đã tới địa phận Tứ Xuyên. Nơi đây núi non hùng vĩ, hiểm trở hơn. Bốn người bỏ thuyền lên ngựa, theo đường bộ. Vừa tới núi Ngũ Lão, dừng ngựa trên đồi cao, họ bỗng thấy từ phía chân đồi có một ông lão với một chàng thanh niên đang cho ngựa thong thả bước ra. Ngư Nhương nhanh mắt, nhận ra ngay ông lão đó chính là Ngư Xác, cha nàng. Nàng vội ra roi quất ngựa chạy tới trước cha. Hai cha con chỉ biết ôm nhau khóc ròng.

Cầu Nhiêm Công và vợ chồng Lã Tứ Nương sau đó cũng đã tới Hai bên thi lễ. Khi hỏi ra, Công mới biết rằng kẻ bị Lưu Thành Thuỷ bắt chém chi là một tên vô lại địa phương, còn Ngư Xác thì được Thuỵ cảm cái lòng nghĩa khí mà ngầm tha, song hứa là phải biệt tăm tích, đổi họ thay tên. Nay thấy Ung Chính đã chết, Ngư Xác mới thong dong xuất hiện thế này. Cũng có lần Ngư Xác nhớ con, tìm tới Cầu Nhiêm Công nhưng không gặp vì Công đã đem Ngư Nhương đi Bắc Kinh rồi.

Lòng trời run rủi, hôm nay cha con lại gặp nhau, thật là vui mừng ngoài ý muốn. Ngư Xác tạ ơn công lao dạy dô con gái mình của Cầu Nhiêm Công, chúc mừng Lã Tứ Nương đã trả được đại thù, lại còn đẹp duyên với người chồng vừa ý.

Năm người chuyện trò vui vẻ, mãi sau Ngư Xác mới sực nhớ bèn giới thiệu cho họ biết người đi cùng ông là ai. Chàng họ Đặng, tên Vũ Cửu, người Tứ Xuyên, vốn là một vị đại tài chủ chuyên kết giao những tay anh hùng, hào kiệt. Ngư Xác hiện cũng đang được Đặng Vũ Cửu mời ở lại Đông trang, là một thôn trang ở ngay dưới chân núi Ngũ Lão, có tới hai ba trăm nóc nhà và nuôi đến năm, sáu trăm môn khách. Cửu cũng biết đôi chút võ nghệ, tuổi năm đó đã ba tám, còn có mẹ già, chưa lấy vợ. Cửu lập chí từ lúc thiếu thời, quyết lấy cho kỳ được người vợ tài mạo song toàn, bởi thế chàng chọn kén mãi tới nay mà chưa tìm được người như ý.

Hôm đó, Đặng Vũ Cửu sai bày tiệc rượu, thết đãi hai cha con nàng Ngư Nhương và ba thầy trò, vợ chồng nàng Lã Tứ Nương. Rượu đến giữa chừng, nhân nói tới võ nghệ của Ngư Nhương, Cầu Nhiêm Công liền bảo nàng múa một bài kiếm giúp mọi người hạ tửu. Ngư Nhương vâng lời sư phụ liền cởi bỏ áo ngoài, vung cặp uyên ương kiếm lấp loáng, vụt bên đông, chém bên tây. Kiếm múa càng lúc càng nhanh, mọi người chỉ còn thấy một vầng ánh sáng lăn bên này, lộn bên kia trong luồng gió kiếm vù vù nghe lạnh người.

Đặng Vũ Cửu xem thấy mê quá, nhịn chẳng được bỗng thốt lên một tiếng: "Tuyệt quá!". Tiếng khen vừa dứt thì đạo bạch quang cũng vừa phóng tới sân như một mũi tên bắn. Ngư Nhương đã thu kiếm, miệng cười tươi như hoa nở, thong thả ngồi lại vào bàn.

Mọi người trên bàn tiệc đều nâng cao ly rượu, hướng về phía Ngư Nhương cùng nói "Cung hỉ" rồi một hơi cạn chén. Bữa tiệc quả là vui hiếm có. Chủ cũng như khách, hai bên sướng ẩm mãi tới khuya mới tan.

Đêm hôm đó, Ngư Nhương đưa cha vào phòng an nghỉ rồi cũng kiếm một chỗ ở góc phòng để được ngủ gần cha mà hầu hạ khi cần. Chu Dung Kính cùng với Lã Tứ Nương, được dành riêng một phòng, còn Đặng Vũ Cửu đưa Cầu Nhiêm Công về phòng mình. Hai người lại đề cập tới võ nghệ của Ngư Nhương.

Đặng Vũ Cửu coi chừng, thấy trong phòng không còn ai, bèn đứng dậy, chắp tay lạy Cầu Nhiêm Công rồi ngỏ lời xin Công đứng làm mai cho mình cưới nàng Ngư Nương làm vợ, Cầu Nhiêm Công nghe đoạn, vừa lấy tay vỗ vào ngực mình vừa tươi cười bảo:

- Việc gì chớ cấu hôn thì cứ việc tin tưởng vào lão hán này!

Qua ngày hôm sau, quả nhiên Cầu Nhiêm Công tìm Ngư Xác để nói chuyện mai mối. Ngư Xác vui lòng lắm nhưng ông vẫn do dự:

- Cha con tôi xa nhau đã lâu, thực không rõ lòng dạ cháu nó ra sao bây giờ.

Cầu Nhiêm Công liền cho gọi Lã Tứ Nương tới, nói cho nàng rõ chuyện rồi nhờ nàng dò ý Ngư Nhương. Tứ Nương chạy về phòng, trước hết bảo chồng đi chỗ khác, rồi mới kéo tay Ngư Nhương ngồi xuống bên giường, thì thầm to nhỏ chuyện Đặng Vũ Cửu cầu hôn và cha nàng đã tỏ ý bằng lòng, tiếp đó, hỏi thẳng Ngư Nhương sẽ định liệu thế nào?

Ngư Nhương thoạt nghe chuyện vợ chồng, xấu hổ quá, chẳng nói được lời nào. Về sau bị Tứ Nương gặng mãi, nàng bất giác nhỏ đôi hàng lệ. Tứ Nương vội hỏi thì nàng nói:

- Chỉ vì ở mãi quen rồi, em chẳng muốn bỏ chị mà đi. Em chẳng muốn lấy ai, cứ ở chung với chị, như thế có, hay không?

Lã Tứ Nương phì cười, lấy tay vỗ nhẹ vào má Ngư Nhương một cái rồi bảo:

- Con bé này, nói chuyện trẻ con? Chị của em đã lấy chồng rồi. Lấy chồng thì phải theo chồng chứ, ở mãi với nhau sao được?

Ngư Nhương lắc đầu không chịu. Lúc sau mới nói:

- Nếu anh chàng Đặng đã có lòng như thế thì chị hãy bảo hắn theo chị em mình về Hồ Nam cùng ở.

Tứ Nương nghe xong lại vỗ vai Ngư Nhương, cười nói:

- Em chỉ đùa thôi! Lẽ nào lại bắt người ta phải bỏ gia tài điền sản để theo bọn mình tới Hồ Nam hóng gió tây bắc được?

Như Nhương vênh mặt lên nói:

- Nếu không chịu thế, em chẳng lấy chồng đâu!

Giữa lúc Tứ Nương đang không biết khuyên giải ra sao, bỗng Chu Dung Kính từ sau giường nhô ra, vỗ tay cười vang:

- Chị không bỏ được em, em không bỏ được chị. Đến tôi cũng chẳng thể bỏ được cô em Nhương nữa. Vậy thì để tôi đem hết dinh cơ Hồ Nam lên núi Ngũ Phong mà ở để cho hai chị em nhà này được sớm tối gặp nhau. Lúc đó hẳn cô em Nhương sẽ chịu lấy chồng chứ gì?

Ngư Nhương lườm Kính một cái thật dài rồi mới nói:

- Em chẳng chịu đâu! Can gì tới anh mà anh nói? Vợ chồng anh cũng một lòng với nhau để bắt em lấy chồng phải không? Em nhất định không lấy, xem làm gì em nào?

Lã Tứ Nương còn nói không biết bao nhiêu điều, nào là ưng chịu đem cả gia tài tới Tứ Xuyên, nào là mãi mãi ở chung với nhau, lúc đó xem chừng Ngư Nhương mới xiêu lòng phần nào, nhưng miệng vẫn không chịu nói. Nàng cúi gằm mặt xuống, tay mân mê chiếc khăn tay màu hồng nhạt. Chu Dung Kính đưa mắt cho Tứ Nương, chỉ tay ra hiệu vào chiếc khăn hồng.

Tứ Nương hiểu ý liền giật chiếc khăn rồi đưa lẹ cho Dung Kính, nói:

- Anh đem ngay chiếc khăn này lên cho sư phụ, bảo em nó đã bằng lòng rồi đó. Có khăn này làm bằng cớ, xin sư phụ cứ đứng làm mai ngay đi cho.

Chu Dung Kính cầm chiếc khăn, chạy đi báo tin mừng.

Đặng Vu Cửu thấy Ngư Nhương đã bằng lòng, mừng khôn xiết kể, liền chọn ngày lành tháng tốt để làm lễ. Riêng Ngư Nhương thấy câu chuyện đã lỡ như vậy rồi còn biết nói gì hơn, đành mời Tứ Nương tới để đặt ba điều kiện. Điều thứ nhất là phụ thân nàng cũng ở tại nhà họ Đặng và Đặng Vũ Cửu phải nuôi dưỡng mãi tới khi khuất núi. Điều thứ hai là sư phụ Cầu Nhiêm Công, Đặng Vũ Cửu cũng phải lo cung dưỡng không được thiếu sót điều gì. Điều thứ ba là chị Tứ Nương cũng như anh Dung Kính bằng lòng ở cùng trang viên với vợ chồng nàng.

Đặng Vũ Cửu nghe xong, cam đoan thoả mãn hai điều kiện thuộc về phần mình. Vợ chồng Tứ Nương cũng cam kết thực hiện. Đặng Vu Cửu bèn một mặt cho sửa sang nhà cửa, xếp đặt nơi ăn chốn ở cho hai vị lão nhân, một mặt xây cất ngay một toà nhà mới để hai vợ chồng Chu Dung Kính ở. Chu Dung Kính quay về nhà đón cha lên cùng ở với vợ chồng mình.

Đến ngày vui của Ngư Nhương. Người ta thấy không biết bao nhiêu là anh hùng háo hán giáng hồ tới mừng. Trong ngoài khắp trang, cỗ bày la liệt, tính ra có tới một trăm hai mươi mâm cả thảy. Thật là một ngày vui, say đến lệch đất nghiêng trời.

Hồi 69 Đánh Hồi bộ cướp Huơng phi

Lại nói sau khi Ung Chính hoàng đế bị bọn Lã Tứ Nương, Ngư Nhương hạ thủ, Bảo Thân vương tức thì đăng vị kế nghiệp. Việc đầu tiên mà ngài nhớ đến là cô chị vợ tên Đổng Ngạch. Ngài sợ Phó Hằng, chồng nàng Đổng Ngạch, gây điều trở ngại cho cuộc tình duyên vụng trộm của mình bèn nên ngài hạ một đạo thánh chỉ, thăng Hằng lên chức Thượng thư bộ Lễ.

Phó Hằng vốn là một viên quan nhỏ, hiện giữ chức Tiểu kinh quan, thế mà được hoàng thượng sủng ái bỗng vọt lên chức thượng thư, thử hỏi làm sao Hằng không cảm kích được. Hằng chỉ còn có mỗi ước nguyện là làm vừa lòng hoàng đế.

Càn Long thấy mình đã "mua" được Phó Hằng rồi, bèn thác cớ hoàng hậu thường nhớ tới bà chị Đổng Ngạch, liên tục triệu nàng vào cung. Và trước khi gặp cô em, bao giờ bà chị cũng phải qua hú hi với chồng cô em trước đã.

Hoàng hậu Phú Sát y như người nằm trong trống, không hay biết gì hết, lại cứ thúc chồng triệu bà chị vào cung cho mình. Thật tức cười.

Còn nàng Đổng Ngạch, từ khi gian dâm với hoàng đế, bèn tự cho mình là cao quý lắm, chẳng thèm ngủ với chồng nữa. Anh chồng bị cắm sừng Phó Hằng đã nhiều lần mò vào buồng vợ nhưng lần nào cũng bị nàng đuổi ra ngoài, đành chỉ biết chung chạ với bọn hầu thiếp mà thôi. Hằng có đến bốn nàng hầu, song không ai đẹp bằng Đổng Ngạch. Nằm với bọn thiếp mà Hằng toàn nhắm mắt tơ tưởng tới vợ mình.

Thời giờ thấm thoắt thoi đưa. Càn Long hoàng đế cùng Đổng Ngạch tư tình tính đã hai năm. Năm đó, vào một ngày xuân, Đổng Ngạch bỗng thấy mình có bầu. Chuyện động trời này nhất định không thể bịp được, dù gã chồng có ngốc tới đâu chăng nữa. Đã hai năm qua, Phó Hằng đâu có được vào buồng nàng. Thế rồi bỗng cái bầu chình ình ra thì thử hỏi Hằng không nổi máu ghen sao được. Nàng quả có sợ, bèn vội vào cung bàn tính với hoàng đế. Rồi nàng trở về nhà, dọn một bữa tiệc ngay trong phòng ngủ của mình và cho mời Phó Hằng tới. Đã quá lâu không được gần vợ, nay được gọi vào ăn nhậu rồi có lẽ còn nhiều chuyện tốt đẹp khác, Hằng sướng tưởng như điên lên được. Tối hôm đó, đích thân Đổng Ngạch ân cần ngồi hầu rượu, lại càng khiến cho anh chồng thêm khát khao chuyện gối chăn. Rượu cạn tiệc tan Hằng quả nhiên được giữ ngủ lại, sung sướng không bút nào tả xiết.

Cách ít hôm, nàng Đổng Ngạch bảo với Phó Hằng mình đã mang bầu. Thật đúng là "Song hỷ lâm môn", Hằng vừa nghe đã mừng quýnh, thét bầy đặt tiệc luôn. Hằng tuy đã có ba con trai, nhưng đều là con của các hầu thiếp. Còn chính thất Đổng Ngạch chưa từng sinh nở, thử hỏi Hằng không vui sao được!

Đổng Ngạch sinh con trai, nom kháu quá. Hằng bấm đốt tay tính nhẩm, thì ra thằng con cưng của mình ở trong bụng mẹ mới có tám tháng mà đã vội vàng chui ra: Hằng vội hỏi vợ sao lại có chuyện kỳ quặc đó. Nàng Đổng Ngạch thấy chồng thắc mắc bụng đã lo nhưng vốn xảo trá, nàng vội nói gạt đi, bảo vì mình thể chất ốm yếu không dưỡng được thai nên đã sinh thiếu tháng và đứa con cũng cần phải nuôi dưỡng hết sức cẩn thận mới mong thành người được. Nghe vợ nói, Hằng tin ngay là thật và cũng từ đó, đem hết tâm lực nuôi nấng thằng bé.

Sự thực thì thằng bé đẻ ra khỏe mạnh, tiếng khóc sang sảng như tiếng chuông. Sau khi đầy tháng, nó được mẹ bế vào cung triều kiến. Hoàng đế thấy thằng bé giống mình như đúc nom cũng khôi ngô tuấn tú, trong lòng lấy làm mừng rỡ. Ngài đặt cho thằng bé cái tên Phúc Khang An - có ý mong cho nó luôn luôn được bình an tráng kiện, lắm phúc nhiều đức Sau đó, hoàng đế cũng như hoàng hậu còn thưởng cho thằng bé rất nhiều châu báu và đồ chơi đủ thứ. Ngài còn sợ bọn nhũ mẫu bên ngoài nuôi thằng bé không được sạch sẽ, cho nên, nhân lúc hoàng hậu Phú Sát cũng sinh hạ một ông hoàng con, có đến bốn mười người nhũ mẫu, ngài bèn chia đôi số đó ra, đưa hai mươi người đến nhà Phó Hằng để bú mớm cho Phúc Khang An, Ngài còn thác cớ bảo hoàng hậu rất yêu quý thằng bé, nên một tháng đôi kỳ sóc vọng (mồng một và rằm) phải đưa thằng bé vào cung gặp mặt người.

Đến khi Phúc Khang An lên năm tuổi, hoàng đế cho triệu vào cung để cùng học tập chung thư phòng, chung thầy với hoàng tử. Hồi này, Đổng Ngạch đã có phần giảm sút nhan sắc nên Càn Long hoàng đế đã đem lòng sủng ái người khác. Mối giao tình giữa hai người cùng càng ngày càng nhạt theo.

Dù vậy Phó Hằng vẫn một ngày một thăng quan tiến chức; thăng riết một hồi, Hằng leo lên tới chức Văn hoa điện đại học sĩ.

Hằng có ba đứa trai, đứa nhỏ nhất cũng đã mười bốn tuổi. Hoàng đế hạ chỉ kén cả ba một lượt, làm phò mã hết. Ngài đem ba cô công chúa gả cho ba đứa con Hằng. Duy chỉ còn Phúc Khang An là không được ngài ban ơn đặc biệt đó mà thôi. Tuy nhiên, nói đến ân tình của hoàng đế thì Phúc Khang An, có thể nói là người số một được đặc hưởng.

Năm đó An mười hai tuổi. Càn Long hoàng đế phong cho làm bối tử, lại đem cả toàn đội quân ngự lâm giao cho An chỉ huy. Ngài còn ngầm tuyển rất nhiều những danh tướng võ sĩ để bảo vệ cho An. Bọn võ tướng này biết thâm ý hoàng đế nên mỗi khi xuất quân đều nhường công đầu lại cho An hoặc mỗi lần giao chiến với địch bèn cố ý giả thua để nhường chỗ cho An tấn công rồi đứng ngoài giúp ngầm tới thắng lợi, khiến bao nhiêu công lao tại trận tiền đều quy về tay An cả.

Nhờ đó, An xuất quân lần nào cũng thắng trận. Mỗi lần khải hoàn trở về, An đểu được hoàng đế triệu vào thưởng yến ban đồ. Trong nhà An, chỉ riêng đồ hoàng đế ban thưởng cũng đã chất ngập cả, không còn thừa một chỗ nào. Kịp đến khi Hồi bộ có Đại, Tiểu Hoà Trác Mộc cử binh mưu phản, Càn Long hoàng đế muốn khoe với thiên hạ cái bản lĩnh kinh khiếp của Phúc Khang An, bèn hạ chỉ sai An thống lĩnh đại binh, hội với Y Lê tướng quân là Triệu Huệ, xuất sư tấn công Hồi bộ.

Lúc lâm hành, Triệu Huệ thỉnh huấn Càn Long hoàng đế. Ngài rỉ tai Huệ dặn dò săn sóc Phúc Khang An. Ngài còn dặn riêng Huệ:

- Đã từ lâu, trẫm nghe nói Đại Trắc Mộc có một nàng hầu tên gọi Hương Phi. Chẳng những nàng có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành mà còn có một tấm thân ngà ngọc, lúc nào cũng tiết ra một mùi hương rất lạ. Tướng quân đi chuyến này nên đặc biệt lưu ý tới điều trẫm dặn và cố mang về nàng Hương phi cho trẫm.

Tướng quân Triệu Huệ nghe xong, đã đoán rõ tâm sự của hoàng đế, liền dạ dạ liên thành rồi cáo lui. Huệ hợp binh với An rồi rầm rầm rộ rộ kéo thốc tới Hồi hộ (bộ lạc này theo bối giáo ở mãỉ Tân Cương, gần Tây Tạng).

Hồi đó Phúc Khang An mới mười tám tuổi. An ăn mặc bảnh bao, hằng ngày thường cưỡi ngựa, đem theo một đội vệ binh ra những vùng lân cận đại doanh có rừng cây rậm rạp để săn bắn. Tuy An chịu mệnh của hoàng đế làm tới chức đốc sư nhưng lại chỉ đóng doanh trại tại một nơi biên địa nhỏ hẹp, chẳng hề xuất trận đánh nhau bao giờ. Lại có một danh sĩ cả ngày hầu cờ tiếp rượu cho An, chủ khách mặc sức chén tạc chén thủ, bỏ mặc việc chiến chinh cho tướng quân Triệu Huệ.

Tướng Huệ đem mười vạn đại binh theo đường Ô Thập đánh thốc vào Khách Thập Cát Nhĩ. Đô thống Phú Đức lại do đường Hoà Chân tiến thẳng tới Diệp Nhĩ Hương. Anh em Hoà Trác Mộc liên tiếp bại trận phải bỏ qua núi Thông Lĩnh chạy trốn. Triệu Huệ sai một cánh quân truy đuổi Phó La Ni Đô tới núi A Sở Nhĩ, giết chết vài vạn quân Hồi. Huệ thấy quân mình đại thắng, bèn huy động toàn lực, đánh vào mãi tận miền núi Ba Đạt Khắc, bên bờ sông Y Tây Hỗn Hà. Hai anh em Đại, Tiểu Trắc Mộc chạy trốn qua sông, sau đó bị tên tù trưởng vùng núi Ba Đạt Khắc bắt được, chặt đầu, đem dâng cho Huệ.

Tướng quân Triệu Huệ gan trời mà dám nhận công, vội sai đem hai thủ cấp bỏ vào hộp đóng kín, gởi qua dinh Đốc sư Phúc Khang An. An được chiến báo của Huệ bèn sửa soạn tấu chương gửi về triều. Thánh chỉ hạ xuống, phong Phúc Khang An làm Tĩnh An Bá, cho phép dùng nghi trương bậc Thân Vương.Càn Long hoàng đế còn đem Hồi bộ đổi tên ra Tân Cương, chia làm bốn trấn: Y Lê Tháp Nhĩ, Ba Cáp Đài, O Lô Mộc Tề, Khách Thập Cáp Nhĩ; đồng thời thăng Triệu Huệ lên chức Tân Cương tướng quân kiêm chức Biện sự đại thần, Phú Đức lên chức Tham tán đại thần. Cuối cùng, ngài truyền lệnh cho An ban sư hồi kinh.

Đối với tướng Triệu Huệ, còn có một việc vô cùng hệ trọng khiến ông luôn luôn tâm niệm trong lòng, không bao giờ dám lơ là. Đó là việc tìm kiếm Hương phi. Điều đáng lo cho Huệ là sau khi Đại Trác Mộc bị tù trưởng núi Ba Đạt Khắc giết rồi thì chẳng biết Hương phi phiêu bạt nơi nào. Mà cái ngày ban sư của Đốc sư Phúc Khang An lại mỗi lúc một tới gần. Huệ hết sức lo lắng, vội sai thủ hạ đi khắp nơi dò la, nhưng đều chẳng tìm ra tung tích Hương phi. Huệ lúc này không thể nói lo nữa, mà đã là sợ, sợ bởi chuyến này không tìm được Hương phi đem về kinh thì bao nhiêu công lao của mình e rằng cũng bằng không.

Tham tán đại thần Phú Đức bàn với Huệ:

- Đại Trác Mộc bị tên tù trưởng núi Ba Đạt Khắc giết chết. Vậy thì Hương phi nhất định phải lưu tới nơi này. Chi bằng bọn ta cứ truy tên tù trưởng thì thế nào cũng ra.

Lời của Đức làm cho Huệ tỉnh ngộ. Tên tù trưởng Ba Đạt Khắc chỉ vì mê mẩn Hương phi nên mới giết chết Đại Trác Mộc, chủ đích thừa hưởng cái diễm phúc kề cận người đẹp có thứ hương thơm kỳ lạ. Không ngờ Hương phi thấy chồng bị giết trong trong lòng căm thù đến cùng độ, dù cho tên tù trưởng có lừa bịp, bức bách cách nào cũng cương quyết chống lại, thề chẳng bao giờ chịu thất tiết. Đôi lần, bị bức bách quá, nàng gào thét và tìm đủ cách để tự tử chứ quyết không cho tên tù trưởng thoả mãn thú tính của y.

Tên tù trưởng Ba Đạt Khác thấy miếng thịt dê quá béo, quá thơm đã kề tới miệng mà không được nuốt, nghĩ càng tức càng thèm. Giữa lúc hắn tiến thoái lưỡng nan, bỗng tướng quân Triệu Huệ cho người tới đòi Hương phi gấp, bảo nàng là vợ của tướng giặc, một đồng trọng phạm cần giải về kinh để triều đình nghị tội.

Tên tù trưởng Ba Đạt Khắc được lệnh này mừng quá vì được dịp gỡ gạc chút lợi lộc và chút công lao đối với Thanh triều. Hơn nữa, Hương phi lại chẳng ưng chịu thì có để lại cũng vô ích. Bởi vậy, hắn bèn lên giọng yêu sách:

- Hương phi vốn là người đẹp có một không hai của Hồi bộ, chiếm được đâu có phải dễ. Hơn nữa, việc cung dưỡng hương hoa, giữ gìn nhan sắc còn là việc thật hết sức công phu. Nếu triều đình muốn lấy nàng thì cần phải có mươi đôi bạch bích của Hoà Chân mới đổi được.

Tướng Triệu Huệ lúc đó chỉ miễn sao được lòng hoàng đế, mười cặp bạch bích Hoà Chân có đáng kể gì! Thế là cuộc "mua, bán" xong xuôi.

Tướng quân Triệu Huệ đội mũ đi hia, trịnh trọng trong bộ áo trào phục, ra tận ngoài nha môn để đón rước Hương phi. Thoạt trông thầy nàng, Huệ cũng phải giật mình kinh sợ bởi cái sắc đẹp tuyệt trần kia. Mặt nàng quả đẹp như hoa, da nàng trắng như tuyết, dáng điệu yêu liều của nàng quả thật quyến rũ, bất cứ ai cũng phải mê say. Huệ lên tiếng:

- Hoàng thượng hết sức sủng ái nàng. Từ đây, nàng sẽ được tận hưởng cảnh vinh hoa phú quý. Chỉ mong nàng đừng quên tên bầy tôi nơi biên viễn này đã có công tiến cử.

Nàng Hương phi nghe Huệ nói xong chỉ mỉm cười tỏ ý như cám ơn, không nói gì. Huệ lại hỏi:

- Lần này về kinh xa xôi vạn dặm, nàng có cần đem theo gì không?

Hương phi thong thả đáp:

- Chẳng có gì mang theo! Duy chỉ có hai con a hoàn tâm phúc lúc trước, bỏ chúng không đành nên cầu xỉn quý tướng quân cho chúng cùng đi mà thôi!

Hai con a hoàn được gọi tới, Huệ dặn chúng phải mang theo tất cả những gì mà lúc bình nhật Hương phi thường dùng tới. Dù to dù nhỏ, không được thiếu món nào. Suốt dọc đường từ Tân Cương về tới Bắc Kinh, Huệ cho dựng nhiều quán khách, trong quán trần thiết màn gấm trướng hoa hết sức lộng lẫy.

Huệ còn sợ lúc đi đường nàng chịu cảnh phong sương không thấu mà giảm sút nhan sắc đi chăng, cho nên còn bắt đóng một cỗ xe bồ luân (xe có bánh quấn cỏ bồ đi cho êm), chung quanh có màn gấm che phủ để nàng nằm trong đó cho êm, cho kín đáo. Mỗi lần tới một quán khách nào, ngoài hai con a hoàn tâm phúc của nàng ra, Huệ còn phải thêm hai mươi đứa xử nữ, hai mươi tên sai quan, túc trực tại chỗ để chạy đi chạy lại cung dưỡng những thứ cần thiết cho nàng. Phía ngoài quán, còn có quân đội của Đốc sử Phúc Khang An đồn trú để bảo vệ. Mỗi ngày, Huệ đều chuẩn bị đầy đủ nào sữa dê, sữa bò, nào hoa tươi hương lạ để cho nàng tắm rửa.

Theo lời mấy con a hoàn, Hương phi hằng ngày tắm bằng sữa bò, sữa dê khiến da nàng ngày càng trắng, càng mịn thêm lên, cứ mỗi lẩn tắm xong, nàng lại xức đủ loại hương lạ có hương vị thơm phức rồi dùng trà thơm súc miệng. Bởi thế nàng có cái tên Hương.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top