Uylix trừng trị bọn cầu hôn đoàn tụ với gia đình
Hai cha con gặp nhau, bày mưu trừng trị bọn cầu hôn
Uylix, sau một giấc ngủ dài tỉnh dậy. Chàng không thấy mình ở giữa con thuyền nữa mà nằm trên mặt đất. Chàng bật dậy ngơ ngác nhìn khắp chung quanh. Đây chính là quê hương thân thiết của chàng, chàng đang đứng trên mảnh đất yêu dấu mà đã bao năm trời nay chàng không nguôi mong nhớ. Thế nhưng chàng vẫn không nhận ra được. Nữ thần Atêna để bảo vệ chàng đã bao phủ lên cảnh vật xung quanh một màn sương mù dày đặc. Chàng lo lắng băn khoăn tự hỏi, không biết mình đang ở mảnh đất nào đây, mình đã lạc bước đến xứ sở nào, mình liệu có gặp được những người trần thế không. Họ hung dữ, man rợ hay hào hiệp quý người trọng khách. Chàng nghĩ đến những tặng phẩm quý giá mà chàng được những người Phêaki ban cho, giờ đây thật khó xử. Biết cất giấu chúng ở đâu được? Nếu không, chúng sẽ rơi vào tay những kẻ tham tàn độc ác. Vì không nhận được mình đã ở ngay trên mảnh đất quê hương nên chàng đâm ra nghi ngờ những người Phêaki. Uylix cho rằng có lẽ họ đã đưa chàng tới một mảnh đất nào khác, họ đã nhầm lẫn, và nếu quả thật như vậy thì họ chẳng phải là những người tài giỏi và sáng suốt gì cho cam!
Trong lúc băn khoăn và lo lắng như vậy, Uylix bỗng thấy trời sáng hẳn lên, và trước mặt chàng hiện ra vị nữ thần Atêna con gái của Dớt. Nữ thần nhìn thấy chàng, mỉm cười, và phẩy tay một cái. Sương mù tan đi. Cảnh vật hiện ra tươi sáng rực rỡ. Uylix bàng hoàng. Quê hương đây! Quê hương yêu dấu là đây! Còn nỗi vui nào hơn nỗi vui này đối với người anh hùng đã bao nhiêu năm lưu lạc nơi đất khách quê người, Uylix xúc động. Chàng quỳ xuống cúi hôn mảnh đất quê hương, mảnh đất đã sản sinh ra lúa mì nuôi dưỡng chàng từ tuổi thơ cho đến lúc trưởng thành. Chàng giơ hai tay lên trời cầu khấn thần linh, bảy tỏ lòng cảm tạ của chàng, và xin các vị thần phù hộ cho chàng thoát khỏi mọi tai họa, cho con chàng trưởng thành nối nghiệp của chàng.
Nữ thần Atêna có đôi mắt sáng ngời truyền cho chàng phải mau mau đem những quà tặng cất giấu vào trong hang sâu. Nữ thần sẽ giúp chàng một tay để công việc hoàn tất được mau chóng. Thế là hai người, một vị nữ thần và một người anh hùng trần thế bắt tay vào việc Chẳng mấy chốc bao nhiêu của cải, báu vật đã được giấu kín trong hang sâu, sắp xếp đâu vào đấy. Nữ thần Atêna lấp cửa hang lại bằng một tảng đá to, chắc chắn. Xong xuôi công việc, nữ thần cất tiếng nói với chàng:
- Hỡi Uylix, con trai của lão vương Laéctơ, dòng dõi của Dớt! Hỡi người anh hùng có trăm nghìn mưu kế! Giờ đây đã trở về đến quê hương. Công việc đầu tiên của người là phải nghĩ mưu tìm cách trừng trị bọn cầu hôn láo xược. Bọn chúng từ ba năm trời nay ngày ngày đến tán tỉnh, thúc ép Pênêlôp vợ người phải mau mau tái giá. Chúng đã đem biết bao lễ vật đến dâng nàng. Nhưng nàng chỉ đáp lại chúng bằng những dòng nước mắt. Trái tim nàng chỉ chờ đợi ngày về của người chồng thân yêu. Để yên lòng chúng, nàng đã hứa hẹn này, khác nhưng trong trái tim nàng suy tính những điều khác chẳng phải như những lời nàng đã hứa hẹn với bọn chúng đâu...
Hỡi Uylix, người anh hùng nổi danh vì lòng kiên định và đầu óc khôn ngoan! Bây giờ ngươi đã về đến quê hương. Để thực hiện ý định trả thù, ngươi không được trở về nhà ngay. Ngươi phải thay hình đổi dạng và giấu kín tung tích. Ta sẽ giúp hai cha con ngươi gặp nhau để bàn định kế sách đối phó với bọn cầu hôn tham tàn và độc ác.
Nói xong nữ thần Atêna cầm chiếc đũa thần đụng vào người Uylix. Nàng biến người anh hùng cường tráng xinh đẹp thành một ông già hành khất, áo quần rách rưới, thân hình tiều tụy. Nàng ban cho ông già một chiếc gậy và một cái túi vá víu để đi ăn xin. Nàng lại không quên ban cho ông già một chiếc thừng để quấn ngang người thay chiếc đai lưng. Thế rồi mỗi người đi mỗi ngả. Nữ thần Atêna đi đến Lakêdêmôn báo tin cho Têlêmac mau trở về gặp cha. Còn Uylix với thân hình tiều tụy, bẩn thỉu của một ông già hành khất chống gậy cất bước đi về phía trại nuôi lợn do Ơmê, một người lão bộc trung thành của chàng trông nom, cai quản.
Uylix từ bờ biển đi theo con đường mòn đầy sỏi đá chạy qua một khu rừng để đến trại nuôi lợn. Chàng đi từ sáng cho đến quá trưa thì tới nơi. Khi Uylix đặt chân đến cửa trại thì người lão bộc Ơmê đang lúi húi làm đáp. Ông lão cắt cắt gọt gọt ở một tấm da bò ra một mảnh và ướm thử vào chân. Chẳng có ai ngoài ông lão cả. Hẳn rằng mấy chàng mục đồng đã xua lợn đi chăn. Bỗng mấy con chó trông thấy người lạ sủa váng lên và lao ra. Uylix nhanh trí ngồi thụp xuống và đưa gậy ra xua xua trước mặt không cho chúng xông vào gần. Nghe tiếng chó sủa, Ơmê liền đứng bật dậy chạy ngay ra cổng... Vừa chạy ông lão vừa thét mắng lũ chó, vừa nhặt gạch đá ném chúng. Lũ chó vội chạy mỗi con một nơi, ông lão Ơmê bèn đến an ủi người hành khất già nua và mời cụ vào trong trang trại. Cụ dẫn Uylix về lều, trải ổ, lấy da dê phủ lên mời Uylix nghỉ. Cảm kích trước tấm lòng nhân hậu của ông già chăn lợn, Uylix cầu xin thần Dớt và các vị thần bất tử ban cho ông già niềm vui và tuổi thọ. Trong khi Uylix ngồi nghỉ, ông lão Ơmê ra chuồng lợn bắt hai con lợn sữa làm thịt. Ông xiên thịt vào những chiếc que dài và nướng chín chúng trên những ngọn lửa hồng. Sau đó ông pha rượu và bày thịt trân trọng mời Uylix:
- Hỡi cụ già bất hạnh! Xin mời cụ ăn đi! Đây là lợn sữa, món ăn chỉ dành cho kẻ tôi đòi. Còn lợn to và béo thì dành cho bọn cầu hôn. Thần linh đã bắt tôi phải chịu nhiều đau khổ. Lúc nào tôi cũng khóc than và thương tiếc cho ông chủ của tôi. Tôi nuôi lợn để cho bọn chúng ăn còn chủ của tôi chẳng biết ngài còn sống hay chết. Nếu ngài còn sống thì lại phải sống cảnh màn trời chiếu đất, đói khát, lang thang đây đó nơi đất khách quê người. Chính vì để bảo toàn danh dự cho Agamemnông và Mênêlax nên ngài đã tham dự vào cuộc viễn chinh sang thành Tơroa. Thành Tơroa đã bị hạ mười năm nay rồi mà ông chủ cho đến nay vẫn chưa thấy về. Ở nhà, những kẻ quyền quý ngày ngày kéo nhau đến cầu hôn, thúc ép nàng Pênêlôp phải mau mau chọn một người trong bọn chúng để làm chồng. Hẳn rằng chúng nghe ai nói hoặc đoán rằng, chàng Uylix con của lão vương Laéctơ đã chết. Vì thế cho nên chúng không đến nhà người ta dâng lễ vật cầu hôn cho đúng đắn rồi ra về mà ngược lại, thật quá đáng, quá thể cứ kéo nhau đến ở lỳ nhà người ta bắt người ta phục dịch cơm rượu, chè chén. Chúng bắt tôi mỗingày phải dâng cho chúng một con lợn béo mập, mỗi ngày mỗi người chăn dê của ông chủ phải nộp cho chúng một con dê. Ông chủ tôi có mười một đàn dê thả ăn ở cuối đảo giao cho mười một người tin cẩn trông nom. Còn rượu thì chúng uống vô hồi kỳ trận, bao nhiêu vò rượu, bình rượu, thùng rượu để trong kho đều bị đem ra cho chúng nếm. Cứ thế chúng ăn uống, chè chén suốt ngày, suốt đêm. Thử hỏi của cải của ông chủ tôi dẫu đã từng nổi tiếng ở hòn đảo Itac này, liệu có đến ngày kiệt quệ không? Bọn cầu hôn độc ác này chúng chẳng biết kính sợ thần linh, chúng không biết rằng Dớt và các vị thần Ôlanhpơ coi trọng lẽ công bằng và sẽ trừng phạt những kẻ đã gây ra những cảnh trái tai chướng mắt, ức hiếp, cưỡng bức, ép buộc những người đồng loại.
Cụ già chăn lợn kể như vậy. Trong khi đó Uylix cứ lặng lẽ uống rượu, ăn thịt. Chàng chàng nói chẳng rằng một câu nhưng vừa ăn vừa thầm suy tính cách trừng trị bọn cầu hôn.
Ăn xong, Uylix và cụ già trò chuyện hồi lâu. Chàng hỏi ông già về lai lịch nguồn gốc. Và chàng cũng kể cho ông già biết nguồn gốc lai lịch của mình... Nhưng là một câu chuyện bịa. Chàng kể về dòng dõi cao quý của mình, về những nỗi gian truân của mình trong cuộc chinh chiến thành Tơroa trở về đã bị bão đắm thuyền, chàng lạc bước đến xứ sở của những người Têpơrốt. Ở đây chàng đã được nhà vua Phiđông đón tiếp niềm nở, và cũng chính ở đây chàng nghe nhà vua nói đến Uylix như một vị khách quý đã gửi lại nhà vua bao của cải quý báu, chiến lợi phẩm từ thành Tơroa đưa về. Sở dĩ Uylix phải gửi lại của cải là vì chàng phải tới Đôđôn tìm đến cây sồi thiêng liêng của thần Dớt để xin thần ban cho một lời chỉ dẫn. Trải bao năm xa quê hương, chàng muốn được biết nên trở về bằng cách nào, trở về bí mật, lặng lẽ, âm thầm hay cứ đường đường chính chính mà về? Như vậy Uylix chắc chắn còn sống và chắc chắn trở về.
Câu chuyện của Uylix cùng với niềm tin và thái độ quả quyết của chàng đã làm cho ông già chăn lợn Ơmê tin tưởng rằng chủ mình còn sống và sẽ trở về khôi phục lại quyền lực ở hòn đảo Itac quanh năm bốn bề sóng vỗ này. Đêm đến, trời lạnh, Uylix lại bịa ra một chuyện kể để gợi ý ông già chăn lợn ban cho mình quần áo để ngủ qua đêm. Làm như vậy thì tốt hơn, bởi vì dù sao lúc này chàng cũng chỉ là một ông già hành khất mà một người hành khất không thể vòi vĩnh xin xỏ quá đáng.
Lại nói chuyện về Têlêmac, được nữ thần Atêna giúp đỡ, xin được thuyền và thủy thủ, lên đường đi tìm cha. Chàng đi qua Pilôx và tới xứ Lakêđêmôn quê hương của người anh hùng Mênêlax. Tại đây chàng được Mênêlax và Hêlen rất đỗi yêu quý. Nữ thần Atêna đã nhanh chóng tới đây, nhẹ nhàng lướt vào phòng ngủ của Têlêmac nhắc nhở chàng trai phải mau trở về quê hương, không nên kéo dài cuộc hành trình. Tuân theo lời chỉ dẫn của nữ thần, Têlêmac từ biệt Mênêlax và Hêlen ra về.
Một buổi sáng kia con thuyền của Têlêmac trở về hòn đảo Itac. Thuyền cập bến. Têlêmac truyền cho bạn hữu và anh em thủy thủ đưa con thuyền về bến cảng ở đô thành. Còn chàng, chàng sẽ trở về đô thành sau, vào chiều tối để mở tiệc thiết đãi anh em.
Têlêmac đến trại nuôi lợn của ông già Ơmê vào lúc trời vừa mới sáng. Lũ chó thấy người quen chạy đến quấn quít vẫy đuôi vui mừng. Lúc này cụ già Ơmê đang pha rượu cho bữa ăn. Thấy Têlêmac đi vào và đến ngay trước mặt cụ, cụ sửng sốt, ngạc nhiên đến nỗi buông rơi bình rượu trên tay. Cụ chạy đến ôm chầm lấy Têlêmac, hôn lên trán, lên đôi mắt đẹp đẽ tinh anh và đôi bàn tay của chàng - người chủ trẻ tuổi của cụ. Nước mắt cụ trào ra vui mừng sung sướng. Cụ nghẹn ngào cất tiếng nói:
- Con ơi! Thế là con đã trở về, con đã về! Têlêmac thân yêu của ta! Từ ngày con xuống thuyền để tới đô thành Pilôt ta những tưởng chẳng còn được gặp lại con. Vậy mà giờ đây con đã về và lại đến thăm ta ở trại nuôi lợn này. Trước đây ít khi con đi thăm đồng, thăm trại. Con chỉ ở trong thành. Mọi người bảo rằng con thích ở trong ấy để đương đầu với bọn cầu hôn láo xược.
Hai người trò chuyện hồi lâu. Têlêmac hỏi người lão bộc Ơmê về tình cảnh gia đình mình ra sao kể từ khi chàng rời nhà ra đi. Ơmê đáp lại, kể cho chàng rõ ngọn ngành. Cụ già còn giới thiệu cho Têlêmac biết về lai lịch của người hành khất. Và cụ xin phép Têlêmac vào thành để báo cho Pênêlôp biết tin Têlêmac đã trở về.
Ở trại nuôi lợn lúc này chỉ có hai cha con Uylix. Nhưng Têlêmac chưa nhận ra người cha thân yêu của mình vì nữ thần Atêna đã biến Uylix thành một người ăn mày già nua và xấu xí. Nữ thần Atêna theo dõi mọi công việc. Và nữ thần chỉ chờ có lúc này, khi cụ già Ơmê ra đi, chỉ còn hai cha con Uylix. Nữ thần bèn hiện ra dưới dạng một người phụ nữ xinh đẹp. Nàng đứng trước mặt Uylix nhưng ở xa xa. Và chỉ có một mình Uylix là nhìn thấy nàng, còn Têlêmac thì không hay biết gì. Bởi vì các vị thần có quyền, có phép muốn cho ai được biết, được gặp là tùy theo ý muốn của các vị Nữ thần nháy mắt ra hiệu. Uylix hiểu ngay. Chàng rời căn lều ra ngoài sân đến trước mặt nữ thần với thái độ kính cẩn. Nữ thần bèn lên tiếng:
- Hỡi Uylix, dòng dõi của đấng phụ vương Dớt, con trai của Laéctơ, người anh hùng trăm mưu nghìn kế. Bây giờ là lúc hai cha con nhà ngươi gặp nhau và bàn định với nhau cho thật kỹ kế sách trả thù bọn cầu hôn láo xược. Phải bàn định cách trở về tòa lâu đài sao cho được an toàn, bảo vệ được tính mạng. Ta sẽ luôn theo dõi và giúp đỡ ngươi, bởi vì ta cũng nóng lòng được sao vào cuộc chiến đấu. Nói xong, nữ thần Atêna cầm chiếc đũa thần vàng quệt nhẹ vào người Uylix. Thế là phút chốc từ một ông già hành khất bẩn thỉu tiều tụy, Uylix trở thành một người anh hùng tuấn tú oai phong lẫm liệt. Nữ thần Atêna ra đi và chàng Uylix trở vào trong lều. Têlêmac ngỡ ngàng khi nhìn thấy cha mình. Vì sao lại có sự biến đổi đột ngột như vậy. Cậu kinh ngạc cất tiếng van xin:
- Hỡi người khách lạ! Người đã thay hình đổi dạng khác hẳn. Vừa mới đây người còn là một ông già tiều tụy, rách rưới mà bây giờ người như là một dũng tướng, áo quần lành lặn, sang trọng, da dẻ hồng hào. Chắc chắn rằng người là một vị thần sống trên bầu trời cao bát ngát. Vậy xin người hãy phù hộ chúng tôi, rủ lòng thương chúng tôi. Chúng tôi xin dâng cúng những lễ vật thật hậu hĩ để tạ ơn người. Xin người tha chết cho chúng tôi.
Uylix giải thích cho con biết rõ mọi chuyện. Chàng ôm lấy con hôn, nước mắt chảy tràn trên khuôn mặt cương nghị và dày dạn nắng mưa. Còn Têlêmac sau phút ngỡ ngàng, được lời giải thích của cha, cậu bình tâm lại. Cậu nhận ra trước mặt cậu đích thực là người cha thân yêu của mình. Người cha đã anh dũng chịu đựng bao nhiêu gian truân, khổ nhục, lưu lạc khắp góc bể chân trời, giờ đây đã về với quê hương thân yêu, đã về với cậu. Têlêmac ôm lấy cha. Trái tim cậu nôn nao xúc động. Và cậu khóc nức nở, khóc vì mủi lòng thương cha, thương cho số phận bất hạnh của mẹ cậu và cậu từ khi cha vắng nhà, khóc vì vui mừng. Còn Uylix cũng không sao ngăn nổi những tiếng nấc nghẹn ngào và những dòng nước mắt.
Khi hai cha con đã nguôi cơn xúc động, Uylix bàn bạc với con cách đối phó và trừng trị bọn cầu hôn. Theo mưu kế của chàng, Têlêmac phải tuyệt đối không được để lộ ra cho ai biết chuyện Uylix đã về. Uylix sẽ cải trang làm người hành khất trở về. Têlêmac phải tìm cách đưa vũ khí ở trong phòng lớn giấu và nhà kho... Uylix dặn đi dặn lại người con trai yêu quý của mình phải hết sức bình tĩnh và kiên nhẫn, không được nổi nóng, hành động bột phát khi chưa có ám hiệu của Uylix.
Uylix gặp Pênêlôp
Sáng hôm sau, Têlêmac từ trại nuôi lợn trở về thành. Việc Têlêmac trở về khiến cho Pênêlôp xiết bao vui mừng và bọn cầu hôn vô cùng tức tối vì âm mưu phục kích ám hại Têlêmac bị thất bại. Ông già chăn lợn Ơmê và người hành khất Uylix trở về thành sau. Họ đến tòa lâu đài, lúc này bọn cầu hôn đang chè chén ở gian phòng lớn. Thấy ông già Ơmê dẫn một người ăn mày rách rưới vào phòng tiệc, tên cầu hôn Ăngtinôôt một tên ngỗ ngược nhất trong bọn cầu hôn cất lời chửi mắng, sỉ nhục Uylix. Hắn ném ghế vào đầu Uylix. Lòng đầy tức giận nhưng Uylix nhẫn nhục chịu đựng. Nghe tiếng chửi rủa và xô xát, Pênêlôp đến can ngăn, bênh vực người hành khất bị bạc đãi. Nàng ra lệnh cho ông già Ơmê dẫn Uylix vào phòng bên để nàng hỏi han tin tức về Uylix, xem người hành khất này liệu có tận mắt gặp Uylix không hay chỉ nghe nói đến chàng. Ông già Ơmê bèn cất tiếng đáp lại lời nàng ngay:
- Hỡi Pênêlôp kính yêu! Con xin thuật lại cho bà được rõ. Chính lão hành khất này kể cho con nghe những câu chuyện thật ly kỳ và hấp dẫn. Lão ta đã đến trại nuôi lợn của con. Con đã giữ lão ta ở lại đấy ba ngày ba đêm. Chính lão ta nói với con là lão sinh trưởng trong một gia đình quyền quý dòng dõi vua Minôt ở đảo Cơret. Lão đã tiếp đãi Uylix như một vị thượng khách của gia đình. Nhưng rồi Uylix lại ra đi. Và lão nghe nói Uylix còn sống, đã gửi lại nhiều của cải ở xứ Tepơrôt để sau khi ở Đôđôn về là lên đường trở về quê hương.
Nghe nói, Pênêlôp càng nóng lòng được gặp người hành khất. Nhưng người hành khất - Uylix nhờ Ơmê tâu lại với Pênêlôp xin người hãy bình tâm chờ đến chiều tối. Khi ấy chỉ có một mình Pênêlôp nói chuyện sẽ thuận tiện hơn. Lúc này nhà cửa đang đông người, lại có những người tính khí chẳng lành e rằng nếu họ biết chuyện có thể sinh sự lôi thôi.
Pênêlôp nghe ra có lý. Nàng khen người hành khất có đầu óc thận trọng, khôn ngoan. Và nàng vui lòng chờ cho đến khi chiều tàn nắng tắt.
Bọn cầu hôn vẫn chê chén và bầy ra hết tiệc này đến tiệc khác. Chúng vui đùa một cách khả ố, nhảy múa, ca hát nhộn nhạo chẳng còn ra thể thống gì. Têlêmac nhìn thấy chúng vô cùng căm tức. Cậu không chịu được nữa. Nhưng cậu phải dằn lòng và khéo léo mời chúng về lấy cớ là trời đã tối.
Sau khi bọn cầu hôn ra về, Uylix nhắc Têlêmac thực hiện việc cất giấu vũ khí. Nữ thần Atêna cầm đuốc soi sáng cho Têlêmac hoàn thành mau chóng công việc. Trong phòng chỉ còn lại Uylix. Lúc này Pênêlôp mới từ trên lầu cao đi xuống. Nàng xuống để hỏi chuyện người hành khất đã đem lại chút ít tin tức về người chồng thân yêu xa vắng đã lâu ngày của nàng. Nàng sai người nữ tì đem đến một chiếc ghế đẹp đẽ và trải lên mặt ghế một tấm lông cừu để người hành khất già nua ngồi đối diện với nàng, kể chuyện cho nàng nghe. Khi người hành khất ngồi xuống ghế, nàng Pênêlôp nổi danh vì đức tính kiên trì và thận trọng bèn cất tiếng:
- Hỡi người khách lạ! Trước hết ta muốn hỏi chuyện điều này: cụ là ai, từ phương trời xa xăm nào lạc bước đến đây? Quê hương cụ ở vùng nào, một hòn đảo quanh năm sóng vỗ hay một miền đồng bằng vàng rượi lúa mì?
Uylix, người anh hùng nổi danh vì mưu kế và tài bịa chuyện, lễ phép đáp lại lời Pênêlôp. Nhưng chàng không trả lời ngay câu hỏi của Pênêlôp mà gợi ý khéo léo để Pênêlôp bộc bạch hết tâm tư tình cảm của mình. Pênêlôp đã kể lể như sau:
- Hỡi người khách lạ! Từ ngày Uylix chồng ta tham gia cuộc viễn chinh sang thành Tơroa thì ta sống trong nỗi lo âu và thương nhớ. Ngày đêm ta chỉ mong mỏi ngày về của chàng. Thành Tơroa đã bị hạ, nhiều người anh hùng Hy Lạp đã trở về quê hương, thế mà Uylix thân yêu của ta vẫn chẳng có tin tức gì. Ta những tưởng số phận của ta đen bạc đến thế là cùng, nào ngờ giờ đây một vị thần nào đó lại giáng xuống cho ta một nỗi đau khổ nữa. Những lãnh chúa cai quản các hòn đảo xung quanh Itac đều đến đây ngỏ ý cầu hôn với ta. Mặc dù lòng ta không ưng thuận nhưng họ vẫn cứ đến thúc ép ta. Tệ hại hơn nữa họ lại ngang nhiên bất kể sớm khuya tiệc rượu, chè chén, tiêu xài phung phí tài sản của gia đình ta. Ta nghĩ ra một cách để trì hoãn câu trả lời. Ta nói với họ: "... Hỡi các vị cầu hôn quyền quý! Các vị ngỏ ý cầu hôn với ta, thúc giục ta phải lựa chọn một người trong số các vị. Nhưng ta xin các người hãy rộng lòng thư thả cho ta làm xong một việc hiếu nghĩa. Bố chồng của ta là lão vương Laéctơ hiện nay tuổi già, sức yếu chẳng rõ còn sống được bao ngày. Nỗi nhớ thương đứa con trai lại càng làm cho cụ héo hon, rầu rĩ. Ta lẽ nào đành lòng đi bước nữa khi chưa lo liệu chu tất cho cái ngày cụ nằm xuống từ giã cõi đời. Vậy xin các vị hãy cho phép ta được dệt xong tấm vải liệm dành cho cụ. Nếu ta không lo liệu chu tất việc này thì mai đây khi cụ nằm xuống ta sẽ bị chê trách và mang tiếng xấu không gì rửa được...". Ta đã nói với họ như vậy. Mặc dù họ là những kẻ hống hách, kiêu ngạo song họ cũng phải bằng lòng. Thế là ta bắt đầu dệt vải, Nhưng ngày ta dệt, đêm đêm ta lại tháo ra. Cứ thế ta làm cái công việc dã tràng xe cát ấy suất ba năm ròng. Nhưng đến năm thứ tư do sự phản bội, tư thông của bọn nữ tì nên đám người cầu hôn biết rõ chuyện. Thế là họ kéo đến mắng ta luôn, thậm chí dùng những lời lẽ thô bạo, bất nhã đối với ta. Thế là ta buộc phải dệt xong tấm vải. Giờ đây ta không còn cách gì trì hoãn việc hôn nhân này được nữa rồi. Bọn cầu hôn thúc ép khiến cha mẹ ta cũng phải bảo ta: "... Thôi thì con hãy chọn lựa một trong đám ấy mà kết hôn cho nó xong chuyện đi! Chứ chẳng ở vậy mãi như thế này được. Kéo dài mãi cái tình cảnh này bọn họ đâu có chịu". Đấy, cụ xem, chỉ vì Uylix vắng nhà mà xảy ra biết bao nỗi cơ cực. Thân ta thì như thế rồi. Còn con trai ta thì bực tức căm giận bọn cầu hôn đã phá hoại tài sản của gia đình nó. Bây giờ nó đã lớn khôn. Nó có thể cai quản lấy tài sản. Nhưng mình nó làm sao chàng lại được với bọn cầu hôn. Ta mà đi bước nữa thì của cải lại theo ta mà về nhà chồng...
Đấy tình cảnh ta là như thế. Ta đã nói hết để cụ biết. Bây giờ xin cụ hãy nói cho ta biết về cuộc đời của cụ.
Uylix đáp lại Pênêlôp. Chàng kể, vẫn là câu chuyện bịa, chàng sinh ra ở đảo Crét là con trai của Đơcaliông hào hiệp và là cháu nội của vị vua Minôt, một người được Dớt tin cẩn mến yêu. Tên chàng là Êtôn. Chính tại đảo Crét chàng đã gặp người anh hùng Uylix trên đường sang thành Tơroa do bị bão phải ghé thuyền dừng lại hòn đảo quê hương của chàng. Chính chàng đã tiếp đãi Uylix tại lâu đài của vua cha như một vị khách quý... Chàng kể ta mỉ từ quần áo của Uylix đến cả hình dáng người tùy tòng của Uylix tên là Ơvibat... và tiếp theo bao chuyện nữa. Chàng bịa ra nhiều tình tiết nữa nhưng với tài kể chuyện khéo léo của chàng nên câu chuyện cứ như là có thực. Pênêlôp lắng nghe, trong lòng vô cùng xúc động, nước mắt lặng lẽ tuôn rơi trên khuôn mặt xinh đẹp nhưng buồn bã, ngậm ngùi của nàng.
Nhìn thấy vợ khóc, trái tim Uylix đau đớn xót thương. Nhưng chàng cố kìm lòng, cố nín nhịn ngăn không cho nước mắt trào ra, bởi vì chàng phải thực thi kế sách trả thù bằng một lời thề thiêng liêng:
- Hỡi Pênêlôp, người nổi danh vì lòng kiên định và óc khôn ngoan! Xin thần Dớt và tất cả những người trong gia đình thân yêu của người anh hùng Uylix không thể chê trách chuyện chứng giám cho lời nói của lão. Lão quả quyết rằng thế nào Uylix cũng sẽ về. Và chỉ trong năm nay thôi khi tuần trăng này hết, tuần trăng khác mọc lên Uylix sẽ tới mảnh đất này, ngôi nhà này...
Pênêlôp bày tỏ lòng cảm ơn đối với lão hành khất đã mang lại niềm tin cho nàng. Nàng cầu khấn thần linh cho những điều lão nói được thực hiện. Nàng sai bà già Ơriclê rửa chân cho Uylix để bày tỏ lòng quý trọng khách. Uylix từ chối nhưng không được. Trong khi bà già rửa chân cho Uylix trong một chiếc chậu đồng đẹp đẽ bằng nước nóng, bà thấy ở cổ chân Uylix có một cái sẹo. Bà nhận ra lão hành khất mà bà đang rửa chân chính là Uylix mà xưa kia bà đã nuôi nấng bế ẵm từ lúc lọt lòng mẹ. Chiếc sẹo này là do vết răng của một con lợn rừng gây ra. Xưa kia vào lúc Uylix đã trưởng thành, một hôm chàng về thăm ông ngoại. Chàng được ông cho tham dự một cuộc săn. Và chính trong cuộc đi săn này chàng đã bị thương, con lợn rừng từ trong bụi rậm thấy bị bao vây đâm bổ ra lao vào Uylix... Mặc dù bị lợn rừng làm bị thương, Uylix vẫn không để nó chạy thoát. Chàng kịp thời giáng cho nó một ngọn lao mạnh vào vai khiến nó bị thương nằm vật ra. Và chàng bồi tiếp mấy đòn nữa kết liễu cuộc đời con thú.
Bà già Ơriclê nhận ra vết sẹo của chính người bà nuôi nấng, chăm nom, người mà bà đã nhớ thương, mong đợi. Bà xúc động, luýnh quýnh buông tay để bàn chân Uylix rơi mạnh xuống thành chậu.
Chiếc chậu bị đổ, nước chảy ra lênh láng trên nền nhà. Nước mắt bà trào ra. Bà nghẹn ngào đứng dậy ôm lấy đầu Uylix vào lòng. Nhưng Uylix nắm chặt lấy cổ tay bà già, bóp mạnh, ra hiệu. Chàng vội nói và nói chỉ đủ Ơriclê nghe thấy:
- Già ơi! Già phải im ngay, không được hé răng nói nửa lời nửa tiếng cho ai biết chuyện con đã trở về, cả Pênêlôp cũng không được nói. Nếu già để lộ chuyện này là già hại con đấy. Già thương yêu con xin già ghi nhớ cho điều đó...
Nghe Uylix nói như vậy, bà già Ơriclê bèn vào trong nhà bưng ra một chậu nước khác để tiếp tục rửa chân cho Uylix. Tiếp đó, Pênêlôp lại cho gọi lão hành khất đến để nghe nàng hỏi chuyện. Nàng kể cho lão nghe một giấc mộng lạ kỳ, một giấc mộng như tiên báo cho nàng biết Uylix sẽ trở về trừng trị bọn cầu hôn. Nàng nói, nàng không tin vào giấc mộng nói trên sẽ trở thành hiện thực, bởi vì những mộng. triệu thường khó hiểu, khó bề đoán định. Còn bây giờ phải tính đến việc trả lời bọn cầu hôn. Nàng có ý định bày ra một cuộc tỉ thí. Nàng nói cho Uylix biết:
- Hỡi lão hành khất già nua đáng kính! Dù sao ta cũng phải nói cho cụ biết một điều quan trọng nữa. Ngày mai ta sẽ phải trả lời bọn cầu hôn. Không còn cách gì trì hoãn được nữa rồi. Cụ ơi, ngày mai là cái ngày bất hạnh của ta, ngày mai ta phải từ giã ngôi nhà thân yêu của Uylix. Ta quyết đính nên cho bọn cầu hôn một cuộc tỉ thí. Ta sẽ đem cây cung của Uylix ra tuyên bố lời thách thức như sau: "Hỡi các vị vương tôn công tử cao quý! Xin các vị hãy thử tài cao thấp! Ai là người giương được cây cung này và bắn một phát tên xuyên qua lỗ của mười hai chiếc rìu xếp thành một hàng dọc kia thì ta xin theo người ấy. Ta sẽ cam lòng từ bỏ những kỷ niệm đẹp đẽ ấm cúng tuổi xuân của ta, những kỷ niệm ta sẽ không bao giờ quên được để về làm vợ người đó...".
Người anh hùng Uylix nổi danh vì đầu óc mưu trí và tinh khôn đáp lại lời nàng:
- Hỡi Pênêlôp! Thưa bà, bà đã có lòng tin cẩn đem chuyện đó ra nói cho lão biết thì lão xin thưa rằng, xin bà hãy thực hiện ý định đó ngay, cho mở cuộc tỉ thí ngay trong ngôi nhà này của bà đừng chậm trễ, bởi vì linh tính báo cho lão biết người anh hùng Uylix sẽ trở về đây trước khi những kẻ đó giương được cây cung và bắn được mũi tên của họ xuyên qua lỗ những chiếc rìu...
Đêm đến, Pênêlôp trở về nghỉ trên cầu cao. Còn lão hành khất Uylix ở dưới nhà, nằm trên nền đất đã được các nữ tì của Pênêlôp lót đệm trải chăn.
Cuộc chiến đấu với bọn cầu hôn
Thực hiện ý định của mình, nàng Pênêlôp thận trọng, con gái của người anh hùng Icariốt, hôm sau sai gia nhân sửa soạn gian phòng lớn cho cuộc tỉ thí. Trái tim nàng buồn khôn xiết khi nàng bước vào căn phòng riêng của vợ chồng nàng. Từ ngày chồng nàng ra đi, nàng ngủ ở trên tầng gác cao. Hôm nay nàng lên căn phòng chứa chất bao kỷ niệm êm ấm hạnh phúc của nàng để lấy chiếc cung và ống tên của chồng nàng đem xuống cho bọn cầu hôn tỉ thí, cuộc tỉ thí sẽ quyết định số phận nàng. Ngồi trong phòng, đặt chiếc cung vào lòng, nàng bưng mặt khóc nức nở. Sau đó nàng đem cây cung và ống tên đến gian phòng lớn nơi bọn cầu hôn đã tề tựu đông đủ. Đi theo nàng là hai người nữ tì xinh đẹp rất đỗi trung thành. Đứng trước bọn cầu hôn đông đảo, nàng cất tiếng nói:
- Hỡi các vị cầu hôn hống hách đã ngày ngày đến căn phòng này chè chén, khi chủ nó vắng nhà. Đây là một điều kiện mà không một ai có thể khước từ nếu người đó muốn kết hôn với ta. Xin các vị lắng nghe cho rõ. Ta chỉ kén chọn được một người trong số các vị để làm chồng thôi, vì thế đây là lúc các vị phải trổ tài cao thấp trong một cuộc tỉ thí mà ta sẽ nói rõ sau đây. Ta long trọng tuyên bố rằng vị nào giương được cây cung trứ danh này để bắn một phát tên xuyên qua mười hai cái lỗ của mười hai cây rìu xếp thành một hàng dọc kia ta xin theo người ấy. Người ấy sẽ được quyền làm chồng ta. Việc thật đơn giản. Trân trọng mời các vị hãy trổ tài để ta được ngưỡng mộ một anh hùng đã chiến thắng trong cuộc thử thách...
Người đầu tiên xin được tỉ thí là gã cầu hôn Laôdét. Nhưng hắn chẳng thể nào giương nổi cây cung. Tiếp đó nhiều vị nữa quyết vượt qua thử thách để đoạt được nàng Pênêlôp cùng với của cải nhiều vô kể của nàng nhưng không sao vượt nổi. Chỉ còn lại Ăngtinôốt và Ơrimac, hai con người danh tiếng cao lớn, to khỏe như hai vị thần xưa nay chưa từng chịu bó tay quy hàng trong những cuộc đua tranh, là chưa vào cuộc. Cuối cùng, Ơrimac đứng ra thử sức. Hắn ráng hết sức kéo dây cung cho căng để có thể khi buông tay làm mũi tên bay đi nhưng ba lần hắn chịu thất bại. Hắn buông cây cung và kêu lên những lời thất vọng. Ăngtinôốt thấy vậy liền tuyên bố hoãn cuộc tỉ thí đến ngày mai. Ngày mai những người tham dự cuộc tỉ thí sẽ làm một lễ hiến tế vị thần xạ thủ Apôlông, người bắn tên xa muôn dặm, bách phát bách trúng, cầu xin thần phù hộ cho rồi mới tiếp tục. Và bọn cầu hôn hết thảy đều tán thưởng. Chúng thét gọi những nữ tì rót rượu vang, dâng thịt tiếp cho chúng chè chén và chúng mơ tưởng đến thắng lợi ngày mai. Bây giờ đến lúc người anh hùng Uylix thực thi mưu kế của mình. Chàng ra khỏi gian phòng lớn đến gặp hai người đầy tớ trung thành là ông lão chăn lợn Ơmê và người chăn cừu Philêtiốt báo cho họ biết rằng mình là Uylix, người chủ của họ đã cải trang trở về để trừng trị bọn cầu hôn. Họ lập tức đi đóng chặt các cửa ngõ trong nhà. Sau đó Uylix trở lại gian phòng lớn và đứng lên xin phép được tỉ thí. Bọn cầu hôn nhao nhao phản đối. Chúng khinh thị người hành khất, chế giễu lão chẳng biết thân biết phận nghèo hèn của mình mà lại dám "đũa mốc chòi mâm son", chẳng biết "Khánh vàng còn chẳng ai ăn ai. Huống chi mảnh chĩnh ở ngoài bờ tre".
Nhưng nàng Pênêlôp khôn ngoan đứng ra bảo vệ cho quyền được tham dự thi tài của người hành khất bằng những lời lẽ khéo léo không thể bác bỏ được. Và Uylix đứng ra trổ tài. Chàng cầm ấy cây cung, tay trái đưa lên ngang vai, tay phải cầm dây cung kéo mạnh. Dây cung căng ra và rít lên như tiếng rít của con chim nhạn. Bọn cầu hôn sửng sốt. Chàng buông tay. Mũi tên bị dây cung nẩy bật đi kêu đánh tách một cái và xuyên qua mười hai lỗ của mười hai chiếc rìu bay vọt ra ngoài. Chàng nhìn Têlêmac nháy mắt ra hiệu. Têlêmac liền đeo gươm vào sườn và lấy dao nhọn cầm tay lăm lăm chờ đợi.
Uylix cất tiếng nói dõng dạc:
- Cuộc tỉ thí vô cùng khó khăn như vậy là đã kết thúc. Giờ đây ta xin nhằm cho một cái đích khác mà các vị quyền quý ở đây chưa ai nhằm bắn. Ta muôn biết xem liệu thần Apôlông có ban cho ta vinh dự bắn trúng cái đích đó không?
Nói xong Uylix nhằm Ăngtinôốt bắn một phát tên. Phát tên bay đi xuyên trúng họng tên cầu hôn hung hăng nhất, đúng vào lúc hắn đang cầm cốc rượu sắp đưa lên miệng. Ăngtinôốt bật ngửa người ra, máu trào ra mũi, chân giãy giụa đạp vào bàn làm thức ăn, bánh mì, thịt quay đổ xuống đất. Bọn cầu hôn hoảng hốt, chạy nhớn nha nhớn nhác đưa mắt quanh phòng mong tìm được một thứ vũ khí gì đó treo trên tường. Một tên cầu hôn lớn tiếng quát:
- Này hỡi cái thằng tứ cô vô thân, cha vơ chú váo kia! Tại sao ngươi lại lấy Ăngtinôốt thần thánh của chúng ta ra làm một cái đích để ngươi nhắm bắn! Ngươi đã phạm một tội ác, giết chết một người cao quý nhất trong số những người cao quý ở hòn đảo Itac này. Ngươi sẽ bị trừng phạt khủng khiếp.
Uylix quắc mắt nhìn chúng, quát lớn:
- Hỡi lũ chó má điên cuồng! Các ngươi tưởng rằng ta đã bỏ mình ở thành Tơroa rồi ư? Không về nửa ư? Vì thế nên các ngươi đến đây tự do hoành hành phá hoại tài sản của ta, thúc ép vợ ta, cưỡng hiếp những nữ tì của ta. Các ngươi chẳng kính sợ thần linh và cũng không biết đến lẽ phải thông thường là ác giả ác báo. Giờ đây thì đòn trừng phạt đã treo lơ lửng trên đầu các ngươi rồi đấy!
Uylix nói vậy. Lũ cầu hôn sợ tái xanh xám cả người. Chúng có ngờ đâu đến tình cảnh này, chúng cứ tưởng Uylix bắn nhầm phải Ăngtinôốt.
Ơrimac thấy tình cảnh nguy ngập, cửa phòng đóng chặt, vũ khí không có trong tay, nếu muốn thoát chết thì chỉ có cách van xin Uylix, và Ơrimac đã cất lời van xin tha tội và hứa bồi thường lại gấp bội số của cải mà chúng đã làm tổn hại. Nhưng Uylix quyết không tha cho những kẻ đã gây ra bao nỗi đau khổ, cơ cực cho gia đình chàng. Chàng thách thức giao đấu. Bọn cầu hôn hoảng hồn. Ơrimac lên tiếng kêu gọi bọn chúng bình tĩnh chấp nhận cuộc giao đấu để tìm cách giải thoát:
- Hỡi các bạn thân thiết! Tình hình này buộc chúng ta chỉ còn một phương kế để cứu sống lấy mình là chấp nhận cuộc giao tranh với Uylix. Hãy rút kiếm ra, hãy lấy bàn làm lá chắn chống lại những mũi tên ác hiểm của hắn. Hãy cùng nhau xông thẳng vào hắn đánh bật hắn ra khỏi ngưỡng cửa để chúng ta vượt ra ngoài đô thành kêu cứu. Hãy dũng cảm chấp nhận thách thức! Tên khốn khiếp kia ắt phải đền tội.
Nói xong Ơrimac vung thanh kiếm đồng sắc nhọn xông vào Uylix với một tiếng thét lớn. Nhưng mũi tên của Uylix bay nhanh đã xuyên ngay vào ngực y. Y buông thanh kiếm đưa tay ôm ngực ngã lăn ra đất, giãy chết.
Tên cầu hôn Ămphinômốt cầm kiếm xông vào Uylix toan đánh bật Uylix ra khỏi cửa. Têlêmac luôn sẵn sàng. Từ phía sau, cậu phóng ngọn lao nhọn xuyên qua lưng đâm phá ra trước ngực tên cầu hôn láo xược Ămphinômốt đổ sập mặt xuống đất. Têlêmac không chạy đến bên thi hài tên cầu hôn để rút ngọn lao ra. Cậu sợ kẻ thù nhằm lúc đó xông lên đâm kiếm vào người cậu. Cậu chạy vội đi lấy vũ khí cho mình và cho cha, cho hai người gia nhân trung thành: bốn chiếc khiên, tám ngọn lao, bốn mũ trụ đồng. Tất cả bốn người đứng trấn giữ ở cửa. Uylix tiếp tục bắn tên vào lũ cầu hôn. Mỗi mũi tên bay đi và đã làm tròn nhiệm vụ quang vinh của nó: kết liễu cuộc đời một tên cầu hôn. Nhưng ống tên đã cạn. Uylix bèn đội mũ trụ lên đầu, khoác khiên vào vai và cầm lấy hai ngọn lao đồng để tiếp tục chiến đấu.
Thắng lợi tưởng như cầm chắc trong tay thì bỗng đâu nảy ra một tình hình rắc rối, bất lợi. Tên chăn dê Mêlăngtiốt, một kẻ phản phúc đã từng lăng nhục, xua đuổi Uylix khi chàng giả dạng làm người hành khất đến căn phòng lớn và cung cúc tận tụy phục vụ, hầu hạ bọn cầu hôn, giờ đây tìm cách giúp đỡ chúng. Hắn luôn được ra ngoài nhờ ở một chiếc cửa ngách nào đó và chạy đến chỗ để vũ khí. Hắn chạy đi chạy lại đem đến cho bọn cầu hôn mười hai chiếc khiên, mười hai ngọn lao đồng và mười hai chiếc mũ trụ bằng đồng. Thấy bọn cầu hôn bỗng dưng có khiên, lao và mũ trụ, Uylix bối rối, chột dạ. Chàng nói với Têlêmac:
- Têlêmac con ơi! Con xem ngày xem có đứa nào nối giáo cho giặc làm cho cuộc giao tranh của chúng ta sinh chuyện khó khăn như thế này. Tìm cách đối phó trừng trị ngay Têlêmac đáp lại lời cha:
- Cha ơi! Cha tha tội cho con. Vì con sơ ý không đóng kín bịt chặt hết mọi cửa nên mớicòn có một lối thoát ra ngoài, do đó một kẻ phản phúc nào đấy đã đi lấy vũ khí đem về cho bọn chúng. Hẳn lại là gã Mêlăngtiốt!
Và cậu ra lệnh cho ông già Ơrimac:
- Lão Ơrimac ơi! Lão tìm cách bịt ngay cái cửa ngách nào đó lại và theo dõi xem tên phản phúc nào đã chi viện vũ khí cho bọn cầu hôn.
Ơrimac tuân lệnh ra đi và chỉ một lát đem tin về:
- Hỡi Uylix, người anh hùng trăm nghìn kế, con nuôi của Dớt và con đẻ của lão vương Laéctơ! Chính tên Mêlăngtiốt đốn mạt đã làm cái công việc phản phúc nguy hiểm đó. Ta thấy nó chạy đến nhà kho chứa vũ khí. Ta thì già yếu, nghe mình giết hắn thì khó mà bắt sống hắn để giải về đây thì chẳng được nên ta phải về đây để trình báo với ngài!
Uylix người anh hùng kiên định đáp lại:
- Hỡi Ơrimac và Philêtiốt! Dù bọn cầu hôn có liều mạng đến đâu để tìm cách vượt ra khỏi phòng này thì ta và Têlêmac cũng quyết đánh bật chúng trở lại. Hai người hãy yên tâm. Ngay bây giờ hai người lập tức đến chỗ nhà kho tìm cách bắt sống bằng được tên phản phúc ấy. Hãy trói hắn lại, nhốt hắn trong nhà kho, đóng chặt cửa lại. Chúng ta sẽ tính chuyện với quân đốn mạt ấy sau khi trừng trị xong bọn cầu hôn.
Tuân lệnh Uylix, hai gia nhân của chàng vội đến nhà kho. Hai người nấp rình sau cánh cửa, mỗi người một bên. Tên chăn dê Mêlăngtiốt lúc này đang lục tìm vũ khí trong kho. Hắn lấy được vũ khí đem ra đến cửa thì ập một cái, như một cơn gió mạnh, ông già Ơrimac và người chăn chiên Philêtiốt xông ra chặn đường quật ngã Mêlăngtiốt, túm lấy tóc hắn lôi tuột vào trong nhà kho. Họ trói quặt tay tên phản phúc về sau lưng và không quên quấn thêm nhiều vòng đây nữa quanh người hắn. Sau đó họ treo hắn lơ lửng giữa nhà. Rất nhanh chóng, họ rời khỏi nhà kho, đóng chặt cửa lại, trở lại cùng với cha con Uylix trấn giữ trước cửa gian phòng lớn. Nữ thần Atêna lúc này cũng đến bên Uylix khích lệ lòng dũng cảm của chàng. Nàng chưa lao vào cuộc giao tranh đẫm máu lúc này mà biến mình thành một con chim én bay vụt lên đậu ở trên xà nhà.
Bọn cầu hôn dưới sự cầm đầu của Agiêlaốt không hề nản chí. Chúng quyết chiến để thoát ra ngoài bằng được. Agiêlaốt ra lệnh cho sáu người, chỉ sáu người thôi, cùng một lúc phóng lao và chỉ nhằm vào Uylix. Theo hắn thì một khi Uylix đã bị đánh gục thì ba người kia đối với bọn chúng chẳng đáng kể gì.
Thế là cả sáu tên cầu hôn cùng một lúc phóng mạnh sáu ngọn lao đài nhọn hoắt. Nữ thần Atêna thấy vậy bèn ra tay. Nàng làm cho những ngọn lao bay không trúng đích như bọn cầu hôn mong muốn. Đứa thì phóng lao trúng tường, đứa thì phóng lao trúng cánh cửa, đứa thì trúng bậu cửa... Và tất thảy sáu ngọn lao phóng đều vô ích. Uylix liền ra lệnh đánh trả. Bốn ngọn lao phóng đi và bốn ngọn lao đều làm tròn nhiệm vụ quang vinh của mình. Bốn tên cầu hôn đều bị lao nhọn xuyên trúng ngực, trúng bụng ngã vật xuống đất giãy giụa. Bọn còn lại liền lui sâu vào cuối căn phòng. Bốn người liền xông lên rút những ngọn lao đồng ở bốn xác chết đẫm máu ra để có vũ khí tiếp tục chiến đấu. Bọn cầu hôn lại phóng lao. Lần này Têlêmac bị một ngọn lao sướt qua cổ tay, không gây nguy hiểm, còn Ơrimac thì suýt chết. Một ngọn lao bay lướt trên vai ông gia rơi xuống đất. Phe Uylix tiếp tục tấn công. Lại bốn tên cầu hôn nữa đền tội. Nữ thần Atêna xuất hiện. Từ trên xà nhà cao nàng hiện ra, giương chiếc khiên danh tiếng lẫy lừng của mình ra. Bọn cầu hôn trông thấy nữ thần với chiếc khiên ấy sợ hãi rụng rời. Chúng không còn hồn vía nào để tiếp tục cuộc giao tranh. Chúng la hét bỏ chạy hòng tìm một lối thoát ra ngoài. Nhưng vô ích. Hai cha con Uylix và hai người đầy tớ trung thành xông vào lũ cầu hôn phóng lao, vung kiếm đâm chém. Họ không gặp một sự kháng cự nào nữa. Chỉ phút chốc xác bọn cầu hôn nằm ngổn ngang trên nền nhà, máu chảy lênh láng, thật rùng rợn.
Trong đám bọn cầu hôn có người ca sĩ Phêmiốt chẳng có lao dài và kiếm nhọn. Lão chỉ có cây đàn và lời ca. Sợ hãi trước cái chết kề bên, lão vứt vội cây đàn xuống đất, chạy đến quỳ trước mặt Uylix ôm lấy đầu gối của chàng mà cất tiếng van xin:
- Hỡi Uylix, ta xin ngài đừng giết ta! Xin ngài đừng cự tuyệt lời cầu xin của ta! Nếu ngài giết một nghệ nhân đã từng hát và chỉ có việc chuyên hát cho các vị thần bất tử và những người trần đoản mệnh nghe, để làm vui lòng họ thì sau này ngài sẽ lấy làm ân hận. Chính nhờ thần linh truyền dạy mà ta biết đàn ca. Hơn nữa ta đến nhà này đem tiếng đàn và lời ca của mình phục vụ cho bọn cầu hôn trong những lúc chúng say sưa chè chén chẳng phải do lòng ta muốn và thích thú. Ta phải đến và vị bọn họ đông người có quyền lực và sức mạnh hơn ta, ép buộc ta. Chính cậu Têlêmac là người có thể xác nhận điều ta nói là đúng.
Têlêmac nghe lão ca sĩ thần thánh nói như vậy. Cậu bèn nói với cha:
- Xin cha hãy ngừng tay! Xin cha đừng trừng trị lão vì lão không có tội. Và nếu Mêđông, người truyền lệnh còn chưa bị ngọn lao hay mũi kiếm của cha con ta hay của ông già Ơrimac và bác Philêtiốt thì xin cha hãy tha cho ông ấy nữa. Ông ta là người tốt bụng. Khi cha vắng nhà chính ông ấy đã chăm nom, săn sóc con.
Têlêmac nói vậy và Mêđông lúc đó nấp dưới một chiếc ghế bành trùm kín người bằng một tấm da bò để tránh cái chết nghe thấy hết. Ông lập tức chui ra, quỳ trước Têlêmac, van xin cậu nói với người cha thân yêu đừng giết ông vì ông vô tội, vì ông cũng rất căm ghét bọn cầu hôn.
Uylix vui vẻ nói với hai người:
- Con trai ta đã bênh vực cho các người thì các người không việc gì mà phải lo sợ. Ta muốn hai người hiểu biết điều này và sẽ nói cho mọi người khác cùng biết: ở hiền thì gặp lành, ở ác thì gặp ác. Vì trong cuộc sống, ăn ở hiền lành thì bao giờ cũng tốt hơn, quý hơn là ăn ở độc ác. Nhưng thôi các người hãy lui ra ngoài sân kia để chúng ta hoàn thành nốt những công việc phải làm.
Bốn người sục sạo khắp gian phòng lớn xem có còn tên cầu hôn nào lẫn trốn để hòng thoát chết không, nhưng không thấy. Uylix liền lệnh cho gia nhân đưa xác của bọn cầu hôn nằm ngổn ngang trong gian phòng lớn ra ngoài. Chàng chỉ dẫn cho mọi người cách rửa ráy gian phòng và bàn ghế sao cho thật sạch sẽ không còn mùi tanh tưởi của cuộc đổ máu khủng khiếp vừa rồi. Cuối cùng, chàng ra lệnh trừng trị những nữ tì phản phúc và tên chăn dê Mêlăngtiốt đốn mạt. Đòn trừng trị thật khủng khiếp và rùng rợn. Thật chẳng đáng kể ra chuyện này vì nó không còn chút gì là văn minh nhân đạo.
Pênêlôp nhận ra chồng
Tuân lệnh Uylix, bà già Ơriclê lòng tràn đầy mừng rỡ hớn hở lên tầng cao báo cho Pênêlôp biết tin người chồng thân yêu của nàng đã trở về, đang ở dưới nhà chờ đón nàng. Bà bước đi vội vã, hấp tấp nên cứ luôn bị vấp ngã. Bà đến đầu giường Pênêlôp cất tiếng gọi:
- Pênêlôp! Pênêiôp hỡi! Dậy đi con! Dậy đi, mau lên! Con hãy xuống ngay dưới mà xem. Điều mà con ngày đêm mong ước bây giờ đã thành sự thật. Uylix đã về. Chàng về rồi, chàng ở dưới nhà ấy! Chàng đã trừng trị bọn cầu hôn hống hách, cậy quyền thế ức hiếp con người.
Chàng đang mong gặp con đấy!
Pênêlôp thận trọng đáp lại:
- Già ơi! Già nói gì mà kỳ lạ như vậy. Già không biết ta đang ngủ sao? Có lẽ già đã mất trí rồi đó vì thế nên mới nói ra cái chuyện vô lý, nhảm nhí như vậy. Ta mấy hôm nay trong người mệt nhọc ưu phiền, ngủ chẳng ngon giấc. Thế mà vừa chợp mắt đi tưởng được ngủ một giấc cho lại sức thì già lại lên đánh thức ta vì một chuyện hồ đồ, khó tin như vậy. Ta giận lắm. Nhưng thôi ta tha tội cho. Già hãy xuống nhà đi. Bà già nhũ mẫu Ơriclê đáp:
- Hỡi Pênêlốp thân yêu! Già không nói sai đâu. Đích thực hai năm rõ mười là Uylix đã về. Chàng đang ở tại nhà, ở dưới nhà chờ con. Chàng chính là người khách lạ, ông lão hành khất mà con đã tiếp đãi và truyền cho ta rửa chân cho ông lão ấy. Têlêmac biết việc này từ lâu nhưng nó khôn ngoan giữ kín mưu kế mà hai cha con đã bày đặt ra để trừng trị xong bọn cầu hôn mới biểu lộ niềm vui.
Bà già nói vậy khiến cho Pênêlôp mừng rỡ cuống cuồng. Nàng nhảy ra khỏi giường, ôm chầm lấy bà lão, nước mắt chan hòa.
Nàng nói:
- Già ơi! Vậy thì đầu đuôi câu chuyện ra sao? Nếu Uylix đã về thì mình chàng làm sao có thể giết được bọn cầu hôn? Mình chàng làm sao địch lại với bọn chúng đông đảo gấp bội? Ơriclê trả lời:
- Già không biết gì và cũng không được chứng kiến cuộc giao tranh xảy ra như thế nào, vào lúc nào. Ngồi ở trong phòng, già và các nữ tì chỉ nghe thấy tiếng xô xát và tiếng kêu la, rên rỉ của những người bị thương đau đớn đang chờ chết mà thôi. Ôi chao! Già và đám nữ tì sợ run bắn cả lên. Cửa ngõ đều đóng chặt chẳng làm sao mà ngó ra ngoài được. Thế rồi Têlêmac đến gọi già. Già sang căn phòng lớn thì thấy Uylix đang đứng giữa những xác chết nằm ngổn ngang trong phòng. Người chàng bê bết máu đỏ và bụi đen. Bây giờ thì xác bọn cầu hôn đã đưa khỏi phòng, xếp gọn vào một góc sân rồi. Còn Uylixđ ã sai nữ tì rửa ráy gian phòng. Chàng sai già đem diêm sinh và lửa đến để chàng tẩy uế gian phòng. Già tuân theo lời chàng làm ngay không chậm trễ. Tiếp đó chàng bảo già lên gác cao mời con xuống. Vậy con hãy cùng xuống nhà với già để gặp chàng, để cho già được chứng kiến niềm vui đoàn tụ của hai con. Xuống đi con! Xuống đi.
Nhưng Pênêlôp vẫn không tin ngay được vào cái sự thật quá đỗi lạ lùng mà bà già đã kể ra. Nàng có biết đâu được mưu trí cao sậu của chồng nàng. Nàng vẫn chưa tin Uylix đã trở về. Còn việc bọn cầu hôn bị trừng trị thì nàng cho rằng đã có một vị thần nào phẫn nộ trước sự xấu láo của chúng, bắt chúng phải đền tội. Bà già Ơriclê lại thuyết phục Pênêlôp. Bà kể lại việc bà rửa chân cho người hành khất, bà nhận ra được vết sẹo do xưa kia Uylix đi săn bị lợn rừng húc. Bà nói đến việc Uylix đưa tay bịt miệng bà lại và cấm không cho bà được tiết lộ với ai việc chàng đã trở về...
Hai người từ trên lầu cao bước xuống dưới nhà. Pênêlôp trong lòng thật phân vân, băn khoăn. Có thật là Uylix đã về không? Nếu thật chàng đã về thì nàng nên đứng xa để hỏi chuyện cho hai năm rõ mười, ngọn ngành sáng tỏ hay nên chạy đến ôm chầm lấy mà hôn, đưa tay chàng lên miệng mà hôn? Nàng đi xuống nhà, bước qua ngưỡng cửa bằng đá và đến ngồi trước mặt Uylix lưng tựa vào một bức tường. Còn Uylix đã ngồi từ trước, lưng tựa vào một cái cột cao. Cả hai người đều lặng thinh không nói. Ánh lửa hồng cháy bập bùng hắt ánh sáng lên khuôn mặt những người ở trong gian phòng. Pênêlôp thì ngỡ ngàng, trong lòng ngổn ngang trăm mối. Uylix thì cúi nhìn xuống đất chờ xem vợ mình sẽ đối đãi với mình như thế nào.
Nhưng Pênêlôp vẫn im lặng. Khi thì nàng nhìn con người ngồi trước mặt nàng đúng là chồng nàng, người anh hùng Uylix thân yêu của nàng, khi thì nàng lại ngỡ ngàng cảm thấy như một người xa lạ. Têlêmac thấy vậy liền cất lời trách móc:
- Mẹ ơi! Mẹ thật lạnh lùng, tàn nhẫn. Trái tim mẹ độc ác quá chừng! Sao mẹ lại ngồi xa cha con thế kia? Sao mẹ không đến bên cha con, vồn vã hỏi han cha con? Thật không có một người vợ nào cứng rắn, sắt đá đến mức sau hàng chục năm trời người chồng đi biền biệt, chìm nổi trong bao nhiêu nỗi gian truân, bây giờ trở về được đến nhà đến cửa, thấy vợ, thấy con mà vợ thì ngồi cách xa chồng như vậy chẳng nói chẳng rằng như vậy. Sao mẹ lại lạnh lùng, cứng rắn đến thế?
Pênêlôp thận trọng đáp lại:
- Con ạ! Lòng mẹ kinh ngạc quá chừng! Mẹ không sao nói được nên lời, mẹ cũng không thể hỏi han, nhìn thẳng vào mặt người mà mới đây chỉ là một lão hành khất kể chuyện cho mẹ về Uylix còn đang trên đường trở về quê hương mà bây giờ lại đã là người chồng của mẹ. Dù sao con cứ yên tâm. Nếu đích thực đây chính là Uylix, Uylix đã trở về thì con có thể tin chắc rằng thế nào cha con và mẹ cũng sẽ nhận được ra nhau một cách dễ dàng, bởi vì cha và mẹ có những kỷ niệm riêng, những dấu hiệu riêng chỉ có hai người biết với nhau còn người ngoài chẳng ai biết được. Vì thế con chẳng nên vội trách cứ mẹ làm gì.
Pênêlôp nói như vậy. Uylix cao quý và kiên định mỉm cười. Rồi chàng nói với Têlêmac như sau:
- Têlêmac con! Đừng làm phiền lòng mẹ! Mẹ con xem ra còn muốn thử thách cha đấy. Nhưng thế nào rồi mẹ cũng sẽ nhận được cha thôi. Chắc chắn là như thế. Hiện giờ người cha còn bẩn thỉu, áo quần rách rưới, đúng là một kẻ hành khất mà. Vì thế nên mẹ con khinh thị chưa dám nhận cha đâu. Tuy nhiên về phần cha con ta thì cũng phải tính đến chuyện đối phó với gia đình bọn cầu hôn. Chúng ta đã sát hại bao nhiêu chàng trai của những gia đình quyền quý. Anh em, họ hàng của những người đó hẳn oán thù chúng ta và sẵn sàng đòi nợ máu. Con nên suy nghĩ.
Nói xong, Uylix vào phòng tắm. Và khi chàng từ phòng tắm đi ra thì trông đẹp đẽ uy nghi như nuột vị thần. Chàng lại trở về chỗ cũ, ngồi đối diện với Pênêlôp. Pênêlôp vẫn im lặng. Bực mình, Uylix nói:
- Nàng thật là người sắt đá. Trái tim nàng lạnh giá như một tảng băng chắc. Có lẽ các vị thần đã ban cho nàng trái tim ấy để nàng khác hẳn những người đàn bà trần thế vốn mang tiếng là yếu đuối và dễ xúc động. Bởi vì chẳng có một người vợ nào đối đãi với chồng như nàng, người chồng bao nhiêu năm xa cách bây giờ trở về những tưởng được vợ vồn vã hỏi han, ân cần chăm sóc thì lại chỉ được sự im lặng, lạnh lùng. Thôi, thôi, già ơi! Già hãy kê cho tôi một chiếc giường để tôi ngủ một mình như hàng bao nhiêu năm nay tôi vẫn thường ngủ. Thật là buồn chán quá đỗi!
Nghe Uylix nói vậy, nàng Pênêlôp khôn ngoan đáp lại:
- Thật là kỳ lạ! Không, ta chẳng kiêu kỳ, khinh rẻ một ai, ta cũng không ngạc nhiên đến rối tâm loạn trí. Ta biết rõ chàng, chồng ta như thế nào khi chàng từ giã Itac ra đi trên con thuyền có những mái chèo dài. Này, hỡi Ơriclê. Già ơi! Già hãy cùng gia nhân vào trong căn phòng riêng của ta khiêng chiếc giường đẹp đẽ, vững chắc do chính bàn tay khéo léo của Uylix đóng, ra ngoài này. Sau đó già dọn giường, lót đệm trải chăn cho sạch sẽ cẩn thận để vị khách cao quý của chúng ta nghi.
Pênêlôp nói vậy để thử xem con người mà nàng bán tín bán nghi là chồng mình có đích thực thật không. Những Uylix giật mình sửng sốt nói với Pênêlôp ngay:
- Nàng ơi! Nàng vừa nói một điều làm cho trái tim ta đau nhói. Quả thật nó xúc phạm đến ta. Ai là người đã khiêng chiếc giường của ta, đã khiêng nó đi, dời nó đi một chỗ khác, trước cái ngày hôm nay rồi? Đây là một việc cực kỳ khó khăn mà chắc rằng nếu không có thần linh giúp đỡ thì một người trần thế có tài khéo léo đến đâu cũng không làm nổi. Đối với một vị thần thì hẳn rằng việc xê dịch dời nó đi chỗ khác thật dễ đàng. Nhưng còn đối với người trần thì không có một người nào ở thế gian này dù có sức lực đang trai khỏe mạnh như hùm như sói cũng không lay chuyển được chiếc giường. Bởi vì chiếc giường được đóng rất khác thường, kỳ lạ. Chính ta, ta đo đạc, xẻ gỗ... và đóng nó chứ không phải một người thợ nào hết. Nguyên trong sân nhà ta có một chồi cây ôliu lá dài xanh tốt, to như một cây cột. Ta tính toánxây cất gian phòng riêng của vợ chồng ta quanh cây ôliu đó. Ta đã lấy đá tảng xếp cho thật khít và cất lăn gian phòng với bốn bức tường dày dặn. Ta lợp mái kỹ lưỡng rồi mới lắp những cánh cửa bằng gỗ tấm, đóng rất chắc chắn. Sau đó ta chặt hết cành của cây ôliu lá dài, giữ lại một đoạn gốc hơi cao, và ta đẽo gọt đoạn này cho thật vuông vắn để làm một cái chân giường. Ta đã đục, khoan quanh đoạn này để lắp đặt với những bộ phận khác cho được dễ dàng. Ta đã bào nhẵn và đánh bóng chiếc giường đó của ta. Ta lại dùng vàng bạc, ngà voi nạm vào đầu giường. Cuối cùng, ta trải lên chiếc giường một tấm da màu đỏ mới tinh, rất đẹp. Đấy là dấu hiệu riêng biệt mà ta kể lại với nàng. Nhưng nàng ơi! Ta muốn biết liệu cái giường đó có còn ở nguyên chỗ cũ hay không? Hay là một người nào đó đã chặt tận gốc cây ôliu để dời chiếc giường đi nơi khác.
Uylix nói thế. Pênêlôp lắng nghe từng câu từng lời và nàng bàng hoàng cả người, chân tay như run bên. Uylix đã kể lại tỉ mỉ, chính xác, rõ ràng đúng như sự thật. Nàng chạy đến ôm chầm lấy Uylix, nước mắt chan hòa, hôn tới tấp lên vầng trán của chàng.
- Uylix hỡi! Xin chàng đừng giận! Bởi vì chàng lúc nào cũng là con người khôn ngoan hơn những người khác. Ôi chao! Các vị thần đã giáng xuống cuộc đời chúng ta biết bao nỗi bất hạnh. Các vị thần đã ghen ghét chúng ta. Các vị chẳng muốn cho chúng ta được hưởng niềm vui bên nhau, được cùng nhau hưởng hạnh phúc của tuổi xuân và cùng nhau đi đến tuổi già. Xin chàng đừng giận em, cũng đừng oán trách em về nỗi đã gặp chàng mà vẫn không tin, không chạy tới ôm chàng. Bởi vì từ ngày chàng ra đi trái tim em luôn sống trong nỗi lo âu phấp phỏng. Có người sẽ đến đây dùng những lời lẽ ngọt ngào để dụ dỗ lừa dối em. Trên đời này chẳng thiếu những người mà đầu óc chỉ có tính chuyện lừa đảo và làm hại người khác. Nếu như nàng Hêlen người đất Acgốt, con gái của thần Dớt, biết trước được rằng sẽ có ngày những người con trai anh dũng của những người Akêen lại đưa nàng về nơi quê cha đất tổ thì nàng hẳn chẳng trao gửi tấm thân mình vào một chiếc giường của người khách xa lạ. Chắc chắn một vị thần đã khơi lên những dục vọng thấp hèn trong trái tim nàng chứ không phải chính nàng. Trái tim khốc hại, cái lỗi lầm đã gây ra cho chúng ta bao nhiêu đau khổ. Giờ đây chàng đã nói với em những bằng chứng chẳng thể gì chối cãi được, chàng tả lại chiếc giường thân thiết ấy mà chỉ có chúng ta và một người nữ tì biết, người nữ tì tên là Áctarit mà cha em đã cho theo hầu phòng của chúng ta. Chàng đã thuyết phục được em, trái tim em hoàn toàn thuộc về chàng mặc dù nó vốn rất ương bướng.
Nàng nói như vậy khiến Uylix rất đỗi xúc động. Chàng ôm lấy người vợ thủy chung của mình, người vợ xiết bao thân thiết của cuộc đời chàng mà khóc. Dịu hiền thay đất liền khi nó hiện ra trước mặt những khi bị thần Pôdêiđông gây bão tố làm đắm con thuyền của họ bằng sóng cả gió to. Họ đã bơi trên biển khơi hung bạo điên cuồng. Họ bị dìm xuống biển khơi trắng xóa sao thoát nổi để bơi được vào bờ. Còn những người sống sót mình bám đầy bọt nước sung sướng đặt chân lên mảnh đất liền mà họ thiết tha mong đợi. Cũng vậy, Pênêlôp gặp lại chồng với niềm sung sướng khôn tả. Nàng nhìn chồng âu yếm, nhìn đắm đuối như không biết chán và đôi cánh tay trắng muốt của nàng như không sao rời khỏi được cổ chàng. Hai vợ chồng đã kể lại cho nhau nghe những nỗi đau khổ, nhớ thương mà mình đã phải chịu đựng trong những năm tháng xa cách.
Trong khi đó, Ơrinômê và bà già nhũ mẫu Ơriclê dọn giường. Têlêmac và ông lão chăn lợn Ơmê, bác chăn chiên Philêtiốt cùng với những nữ tì tưng bừng ca múa, vui chơi.
Ngày hôm sau, Uylix rời khỏi đô thành về quê thăm cha là lão vương Laéctơ. Từ ngày Uylix ra đi và vắng bặt tin tức hàng chục năm trời, cụ buồn rầu rời bỏ đô thành về quê sống với ruộng vườn. Cụ chẳng thiết ăn ngon, mặc đẹp, chẳng nằm chăn êm đệm ấm, vứt bỏ hẳn cung cách sống sang trọng trước kia ở đô thành. Ngay cả mùa đông cụ cũng ngủ trong nhà với gia nhân, nằm bên cạnh bếp lửa. Cụ sống với nỗi buồn rầu và mong đợi triền miên, ngày trở về của đứa con trai yêu quý. Ngày ngày cụ làm vườn, cuốc đất, tưới cây, trồng rau, chăm bón... Thành thạo như một người nông dân.
Uylix trở về thăm cụ, lòng bùi ngùi xúc động khi chàng thấy cụ không nhận được ra chàng. Cụ không tin rằng con mình còn sống mà trở về. Nhưng bằng những dấu hiệu chắc chắn mà chỉ có cụ và những người thân thích trong gia đình biết, những dấu hiệu mang một kỷ niệm không thể nào quên được, cụ đã nhận ra con. Cụ ôm choàng lấy cổ con trai yêu quý, xúc động ngất đi trong vòng tay của con. Chờ đến khi cha mình hồi tỉnh, Uylix dìu cụ vào trong nhà. Và hai cha con đã kể lại cho nhau nghe những nỗi niềm tâm sự trong những ngày xa vắng.
Còn cụ bà, Ăngticlê, mẹ của Uylix thì từ khi Uylix vắng nhà cụ thương nhớ, sầu não khôn nguôi. Tình cảnh lại càng chán nản hơn khi cụ thấy ngày ngày bọn cầu hôn đến thúc ép Pênêlôp, phá hoại tài sản của Uylix. Nỗi ưu phiền và lòng thương nhớ con đã làm tuổi già của cụ càng héo hon ủ rũ. Và chúng đã cướp đi cuộc sống êm dịu như mật ong của người mẹ kính yêu của Uylix.
Ơpitet đòi trả thù, nữ thần Atêna hòa giải
Nữ thần Tiếng Đồn, người đưa tin nhanh nhẹn của thần Dớt có nhiều mắt, lắm mồm chứng kiến cảnh lũ cầu hôn bị trừng trị đã chạy khắp nơi khắp chốn trong thành kể lại cái chết khủng khiếp của bọn chúng, số phận bất hạnh của bọn chúng. Thân nhân của những kẻ bị giết nghe tin, lập tức mọi đường mọi nẻo kéo nhau đến gào thét, khóc than trước cửa lâu đài của Uylix. Họ mang thi hài của bọn cầu hôn ra khỏi sân và làm lễ tang chôn cất chúng. Thi hài của những kẻ ở đô thành khác không ở trên hòn đảo Itac thì được đưa xuống những con thuyền chạy nhanh và những người đánh cá đảm đương trách nhiệm đưa thi hài của người đô thành nào về đô thành ấy. Khi việc chôn cất đã xong xuôi, những người Itac kéo nhau đến quảng trường họp, lòng bừng bừng căm giận. Ơpitet là người đầu tiên đứng lên cất tiếng nói trước hội nghị. Bởi vì ông ta có con bị giết và con ông là Ăngtinôốt, người đầu tiên trong số bọn cầu hôn bị Uylix thần thánh giết chết. Đứng lên vừa khóc con vừa nói, ông ta kêu gọi trả thù. Những người Itac bị kích động lòng bừng bừng phẫn nộ, quyết lấy máu rửa hờn, đòi trả nợ máu.
Nhưng Mêđông, người truyền lệnh khôn ngoan đứng lên can ngăn họ. Ông nói cho mọi người biết việc Uylix trừng phạt bọn cầu hôn là theo ý muốn của thần thánh. Chính một vị thần đã xuống giúp đỡ Uylix, khích lệ Uylix và làm cho bọn cầu hôn kinh hồn táng đởm chẳng có đầu óc và sức lực nào mà giao tranh với Uylix.
Tiếp lời người truyền lệnh Mêđông là lão anh hùng Halitecet. Trong tất cả những người Itac, ông nổi danh vì tài hiểu biết. Ông chẳng những thông hiểu quá khứ mà còn đoán. trước được tương lai. Ông lấy lời lẽ ân cần thuyết phục mọi người, chỉ ra cho mọi người thấy lỗi lầm của họ là đã không ngăn cản việc làm rồ dại, bất công của con em mình. Ông khuyên mọi người đừng nên gây chuyện với Uylix vì như thế là chuốc tai họa vào thân. Sau khi nghe Mêđông và Halitecet nói, quá nửa đám người dự hội nghị ở quảng trường kéo nhau ra về. Số còn lại dưới sự cầm đầu của Ơpitet, nghe theo lời kích động của hắn, lập tức bảo nhau đi lấy vũ khí, võ trang khiên giáp sáng ngời hùng hùng hổ hổ kéo nhau đi báo thù.
Nữ thần Atêna chẳng rời mắt khỏi những diễn biến ở hòn đảo Itac dưới quyền cai quản của người anh hùng danh tiếng Uylix. Nàng lập tức lên thiên đình tường trình mọi việc cho đấng phụ vương Dớt được biết để xin người quyết định: chiến tranh hay hòa giải. Thần Dớt không muốn cuộc tranh chấp kéo dài. Thần phán truyền cho nữ thần Atêna biết chủ kiến của mình. Nữ thần Atêna được lệnh của Dớt liền băng mình khỏi đỉnh Ôlanhpơ cao ngất bốn mùa mây phủ để xuống Itac.
Trong khi đó dưới sự cầm đầu của Ơpitet, một khối người đông đảo lao nhọn chĩa nhăm nhăm về phía trước, tiến đến cung điện của Uylix. Thấy vậy, Uylix cùng con trai là Têlêmac và các gia nhân lập tức khoác khiên vào vai, đeo kiếm bên sườn, lao nhọn cầm tay sẵn sàng nghênh chiến. Cả lão vương Laéctơ và ông già Đôliốt người bạn thân thiết của lão vương, lúc này đã trở về đô thành, cũng vũ trang khiên giáp sáng ngời. Uylix dẫn đầu, mọi người tiến bước theo sau. Nữ thần Atêna đến bên lão vương Laéctơ khích lệ cụ. Và cụ đã giáng đòn đầu tiên khai chiến. Được nữ thần Atêna truyền cho sức mạnh, cụ giương ngọn lao dài lên đầu, ngả người về phía sau lấy đà rồi phóng mạnh. Ngọn lao bay đi trúng đầu Ơpitet. Chiếc mũ trụ bằng đồng chẳng ngăn nổi mũi lao nhọn xuyên mạnh từ bên này sang bên kia. Ơpitet đổ xuống không kêu được một tiếng. Thế là Uylix và các bạn chiến đấu xông vào đám người đông đảo đâm chém. Chúng lần lượt ngã xuống rên la. Bỗng nhiên một tiếng thét ầm vang nổi lên khiến cho quân sĩ hai bên đều rùng mình kinh hãi. Nữ thần Atêna hiện ra trên bầu trời, ngay trên đầu họ truyền phán:
- Hỡi nhân dân Itac! Hãy chấm dứt cuộc giao tranh khủng khiếp này ngay! Đừng làm máu chảy đầu rơi thêm nữ! Hãy ngừng chiến ngay lập tức!
Thần Dớt, để làm cho lời nói của nữ thần Atêna thêm phần hiệu quả, liền vung tay. Một tiếng thét rung chuyển trời đất giáng xuống ngay trước mặt quân sĩ hai bên. Bên Uylix lập tức thu quân. Còn bên Ơpitet thì như rắn mất đầu vứt vũ khí cuống cuồng bỏ chạy.
Từ đây một cam kết thiêng liêng giữa hai phe đã xóa bỏ mối thù giữa họ với nhau. Và mọi người sống hòa hiếu trong tình bằng hữu. Công lao tạo dựng nên sự nghiệp này là của nữ thần Atêna, con gái của đấng phụ vương Dớt.
Agamemnông
Agamemnông bị mưu sát
Việc Hoàng tử Parix con của lão vương Priam ở thành Tơroa sang đất Hy Lạp quyến rũ nàng Hêlen xinh đẹp, vợ của người anh hùng Mênêlax, đã gây nên một sự căm phẫn trong toàn dân Hy Lạp. Các vị anh hùng theo lời kêu gọi của anh em Atơrát tức Agamemnông và Mênêlax, đều đồng thanh nhất trí cất quân sang thành Uylix hỏi tội lũ người đã xúc phạm đến danh dự và truyền thống quý người trọng khách của người Hy Lạp, đòi bằng được nàng Hêlen về. Agamemnông được cử làm Tổng chỉ huy, thống lĩnh các đạo quân trên toàn đất Hy Lạp vượt biển tiến hành cuộc viễn chinh.
Từ biệt người vợ trẻ đẹp là nàng Clitemnextơrơ ra đi, Agamemnông an ủi nàng và hứa: chừng nào mà thành Tơroa bị hạ, quân Hy Lạp giành được toàn thắng thì chàng lập tức báo tin ngay về nhà để Clitemnextơrơ biết. Cách báo tin như sau: quân lính theo lệnh chàng sẽ đất một đống lửa thật to trên một ngọn núi cao. Nhận được tín hiệu này, các nơi sẽ lại đất lửa, cứ thế ngọn lửa từ ngọn núi này truyền tin cho ngọn núi khác. Chẳng bao lâu ở cung điện của chàng tại đô thành Argôx mọi người có thể biết tin thành Tơroa đã thất thủ, quân Hy Lạp đại thắng, biết rất nhanh. Và Clitemnextơrơ có thể yên tâm tính ngày để chuẩn bị đón chàng.
Nhưng cuộc chiến tranh Tơroa không thể kết thúc chóng vánh. Các vị thần đã quyết định: quân Hy Lạp phải mất mười năm trời giao tranh, vây hãm thành Tơroa, phải hao binh tổn tướng kể có hàng ngàn người mới có thể giành được toàn thắng.
Và bây giờ đang là năm thứ mười của cuộc chiến tranh. Kể từ năm này, nữ hoàng Clitemnextơrơ đêm nào cũng sai một tên quân hầu leo lên mái cao của tòa lâu đài để canh chờ, ngóng đợi ánh lửa tín hiệu chiến thắng. Ròng rã suốt đêm này qua đêm khác, tháng này qua tháng khác, người lính đêm đêm căng mắt dõi nhìn vào bóng tối. Mệt mỏi, mỗi khi ngả mình xuống chiếc ổ ướt đẫm sương đêm, anh lính không dám buông mình cho giấc ngủ ngon lành lôi cuốn. Anh sợ hãi giấc ngủ sẽ làm anh phạm tội. Buồn chán, anh than vãn cho cảnh gia đình của chủ tướng Agamemnông chẳng còn cái nền nếp như xưa. Anh chỉ có một ước ao, mong sao cho cái ánh lửa tín hiệu chiến thắng xuất hiện, xuất hiện sớm ngày nào hay ngày ấy để chấm dứt cho anh nỗi vất vả nhọc nhằn. Nhưng có lẽ người trông chờ, mong đợi cái ánh lửa tín hiệu chiến thắng, nung nấu nhất, khắc khoải nhất chẳng phải là anh lính gác, mà là nữ hoàng Clitemnextơrơ.
Thế rồi vào một đêm ánh lửa xuất hiện. Người lính gác trên nóc lâu đài bỗng nhìn thấy ánh lửa rực sáng lên từ phía xa. Khi đó đêm đen đang nhạt dần và bình minh sắp đến. Ánh lửa xuất hiện xa xa ở dãy núi trước mặt mới đầu sáng lóe, chập chờn rồi ngày càng bùng to lên bốc cao lên. Đích thực là ánh lửa tín hiệu chiến thắng rồi! Người lính gác reo to lên, kêu gào lên cho mọi người trong đô thành được biết: Thành Tơroa đã bị hạ! Thành Tơroa đã bị hạ! Ngọn lửa báo tin chiến thắng đang bùng cháy kia kìa! Chủ tướng Agamemnông sắp trở về! Chủ tướng Agamemnông sắp trở về! Người lính gác sung sướng, mừng rỡ đến trào nước mắt. Thế là cuộc chiến tranh Tơroa đã kết thúc. Rời nóc tòa lâu đài, chạy vội đến nơi nữ hoàng Clitemnextơrơ đang nghỉ để trình báo tin vui.
Nhận được tin chiến thắng, Clitemnextơrơ ra lệnh cho các nữ tỳ mau mau sắm sửa lễ vật để tạ ơn thần thánh. Bà ta tỏ vẻ vui mừng khôn xiết nhưng thật ra trong thâm tâm mưu tính một vụ sát nhân hiểm độc. Cuộc chiến tranh Tơroa kéo dài đằng đẵng hết năm này qua năm khác, Clitemnextơrơ không chế ngự được nỗi buồn khi vắng chồng nên đã thay lòng đổi dạ. Bà đem lòng yêu Egixtơ, một hoàng tử, con của Tiextơ. Hai người đã ăn ở với nhau ngay trong cung điện từ nhiều năm nay. Vì thế nếu Agamemnông trở về thì thật nguy hiểm. Chắc chắn rằng không thể che giấu Agamemnông câu chuyện phản bội đó được. Như lời phán truyền của thần thánh: Thành Tơroa sẽ bị hạ vào năm thứ mười. Và đương nhiên Agamemnông sẽ trở về. Clitemnextơrơ phải tính chuyện này. Nàng mong đợi cái ánh lửa chiến thắng kia nung nấu trong lòng là để lo liệu chuyện đó cho yên. Tình thế bức bách này nếu không hạ sát Agamemnông thì chắc rằng Agamemnông cũng chẳng tha nàng. Lối thoát duy nhất để cứu mạng mình là phải hạ thủ Agamemnông ngay, không để cho Agamemnông biết chuyện mà nổi giận giáng đòn trừng phạt xuống số phận mình. Clitemnextơrơ đã suy tính như thế.
Được tin thành Tơroa bị hạ, Agamemnông sắp trở về, nhân dân trong đô thành Argôx liền kéo đến tụ tập trước cung điện để bày tỏ niềm vui. Người người nhà nhà đều hân hoan chuẩn bị lễ đón mừng vị vua của họ, người lãnh sứ mạng tổng chỉ huy các đạo quân Hy Lạp, trở về với vinh quang rực rỡ của chiến thắng. Các vị bô lão muốn lễ đón chủ tướng Agamemnông phải được tổ chức rất trọng thể ở trong cung điện. Tuy nhiên các vị vẫn còn ngờ vực. Các vị chưa thật tin vào ánh lửa tín hiệu đó. Biết đâu, chuyện đó chẳng phải là trò chơi nguy hiểm của các vị thần? Và làm sao mà có thể biết tin nhanh đến thế? Nữ hoàng Clitemnextơrơ thuật lại mật hiệu mà chồng bà, chủ tướng Agamemnông trước khi lên đường, dặn lại. Bỗng một người đưa tin đến báo: đoàn quân chiến thắng dưới sự thống lĩnh của chủ tướng Agamemnông sắp tới. Clitemnextơrơ tỏ vẻ hết sức xúc động trước thông báo của người lính truyền tin. Bà vội vã vào cung điện để sắm sửa những lễ nghi đón tiếp cho xứng đáng với danh dự và chiến công của chồng bà nhưng thực ra bà cũng đồng thời chuẩn bị cho việc thực thi âm mưu ám hại người chồng.
Chẳng bao lâu đoàn xe của đại quân xuất hiện. Agamemnông oai phong lẫm liệt trên cỗ chiến xa dẫn đầu đoàn quân chiến thắng. Các chiến sĩ hùng dũng tiến bước sau những cỗ chiến xa. Họ đội trên đầu, quàng vào cổ những vòng nguyệt quế cũng như nhiều thứ lá, thứ hoa đẹp khác nữa để biểu thị niềm kiêu hãnh của người chiến thắng. Theo sau họ là những nữ tù binh cùng với những chiếc xe chất đầy của cải chiến lợi phẩm. Ngay chủ tướng Agamemnông cũng có một nữ tù binh dùng làm tỳ thiếp. Đó là nàng Caxxăngđrơ có tài tiên đoán, con của lão vương Priam. Nàng ngồi trên cỗ xe đi kề bên Agamemnông, mặt buồn rười rượi. Nàng buồn cho số phận bất hạnh của mình và hai đứa con còn măng sữa. Nàng buồn hơn nữa cho tai họa mà nàng đã tiên đoán thấy sắp giáng xuống đầu Agamemnông mà nàng không cách gì cứu vãn được. Nhân dân đứng hai bên đường tung hô, hết đợt này đến đợt khác những lời chúc tụng, ngợi ca đoàn quân anh hùng. Niềm vui rạng rỡ trên từng khuôn mặt, từng khóe mắt, nụ cười.
Nhiều người xúc động đến trào nước mắt.
Clitemnextơrơ đích thân ra đón chồng từ ngoài cung điện. Bà đã ra lệnh cho gia nhân trải thảm đỏ suốt một quãng đường khá dài. Bà đón chồng với những nghi lễ trọng thể như những nghi lễ người ta thường hiến dâng cho các vị thần.
Agamemnông từ trên xe bước xuống. Ông kính cẩn cúi chào mảnh đất quê hương Argôx. Ông bày tỏ lòng cảm ơn các vị thần đã phù hộ cho ông giành được chiến thắng trong cuộc giao tranh và ban cho ông niềm hạnh phúc tuyệt diệu là có được ngày hôm nay. Ông cầu xin quê hương, tổ tiên, các vị thần đã ban cho đạo quân Argôx vinh quang của chiến thắng thì hãy gìn giữ vinh quang đó mãi mãi. Ông tỏ ý hài lòng trước những nghi lễ đón tiếp ông quá trọng thể, Ông nói với Clitemnextơrơ:
- Hỡi Clitemnextơrơ, người con gái của nàng Lêđa xinh đẹp! Nàng đã tổ chức lễ đón tiếp ta quá ư xa hoa và trọng thể. Nàng đã trải thảm đỏ dưới chân ta. Những lễ nghi như vậy vốn không phải dành cho những người trần thế đoản mệnh. Chỉ các bậc thần linh bất tử mới xứng đáng với những nghi lễ ấy. Còn ta, ta chỉ là một người trần tục, một người trần tục bình thường. Nếu ta đặt chân lên tấm thảm đó thì chính là ta đã tự mua thù chuốc oán vào người. Lẽ nào ta không biết điều đó? Lẽ nào ta lại không biết sợ phạm vào tội ngạo mạn, kiêu căng khi đặt chân lên tấm thảm đỏ được thêu dệt rất công phu này? Hỡi Clitemnextơrơ! Ta muốn được tôn kính hợp với tư cách và cương vị của ta: một con người chuẩn mực không phải một vị thần bất tử.
Nhưng Clitemnextơrơ cố sức thuyết phục Agamemnông tiếp nhận nghi lễ đón tiếp đã dành cho ông. Agamemnông đành nhượng bộ song ông quyết định tháo dép, đi chân không lên tấm thảm đỏ vô cùng quý giá để vào cung điện. Ông cho rằng hành động như vậy sẽ không gây nên sự giận dữ, ghen tức của thần linh. Còn Clitemnextơrơ, trước khi nối gót theo bước chân chồng vào cung điện, bà khẩn cầu thần Dớt phù hộ cho bà, hoàn tất những điều bà mong muốn. Bà lại còn xin thần hãy suy nghĩ đến những điều mà thần cần phải tiếp tục phù hộ cho bà để mong muốn của bà được hoàn tất trọn vẹn, mỹ mãn. Bà không quên ra lệnh cho Caxxăngđrơ vào cung điện. Nhân dân vẫn đứng chờ ở ngoài cung điện. Không ai muốn ra về. Dường như họ linh cảm thấy có một điều gì chẳng lành sẽ xảy ra, sắp xảy ra đối với quê hương, đất nước họ.
Caxxăngđrơ mặc dù được lệnh phải vào cung điện ngay, nhưng nàng vẫn nấn ná đứng ở ngoài. Tài tiên đoán của nàng chẳng giúp ích gì được cho ai, ngay cho bản thân nàng. Nàng đã tha thiết khuyên can Agamemnông, người chủ của mình và cũng đồng thời là người bạn tình của mình, đừng nên trở về quê hương. Nhưng không được. Giờ đây nàng biết rõ tai họa thảm thương không chỉ giáng xuống đầu Agamemnông mà còn giáng xuống cả số phận đen bạc của nàng. Nàng nói lên những điều dự cảm đen tối cho mọi người nghe. Nàng nhắc đến mối thù dòng họ giữa hai anh em Atơrê và Tiextơ ăn thịt con. Nàng nói thẳng ra rằng chủ tướng Agamemnông sẽ bị giết. Nàng than khóc cho số phận của mình. Và trước khi đi vào cung điện để đón nhận cái chết, nàng bẻ gãy cây vương trượng và dứt những tua vải của nó ra vứt xuống đất.
Bỗng từ trong cung điện vang ra một tiếng kêu kinh hoàng:
- Trời ơi! Họ giết tôi! Tôi bị đâm chết rồi! Trời ơi!
Một sự im lặng bao trùm lên không khí ở ngoài cung điện, nơi nhân dân vẫn đứng chờ. Lại có tiếng kêu tiếp. Lần này yếu hơn:
- T...ôi bị đâm chết r...ồi. Trời ơi..!
Nhận ra tiếng vị vua của mình, người chủ tướng đã thống lĩnh các đạo quân Hy Lạp giành chiến thắng trong cuộc viễn chinh sang thành Tơroa, kêu la, rên rỉ, nhân dân nháo nhác cả lên. Họ bàn tán, hò nhau phá cửa cung điện để vào xem sự thể hư thực ra sao. Đang khi ấy thì Clitemnextơrơ từ trong cung điện bước ra. Bà ta xuất hiện trước nhân dân để công bố cho mọi người biết: chính tay bà đã giết Agamemnông để thanh toán một món nợ máu từ xưa. Với một thái độ lạnh lùng và trâng tráo, Clitemnextơrơ như một con quỷ dữ kể lại mình đã thực hiện việc mưu sát chồng như thế nào. Agamemnông vào cung điện. Chàng đi tắm. Tắm xong, Agamemnông mặc áo. Nhưng chiếc áo to rộng và dài đó lại bị khâu bít ở hai cổ tay khiến Agamemnông cứ lúng túng trong tấm áo. Tấm áo như một chiếc lưới chụp vào người Agamemnông. Chính vào lúc đó Clitemnextơrơ xuất hiện với cây rìu hai lưỡi. Mụ dùng rìu chém liên tiếp hai nhát vào người Agamemnông. Agamemnông lảo đảo rồi gục ngã. Mụ bổ tiếp một nhát thứ ba, kết liễu cuộc đời người chồng của mình.
Nghe Clitemnextơrơ thuật lại vụ mưu sát khủng khiếp, nhân dân căm phẫn, chất vấn, kết tội. Bằng giọng lưỡi ngụy biện trâng tráo, Clitemnextơrơ biện hộ cho tội ác của mình:
- Này hỡi chúng dân Argôx! Các người thật là ngu xuẩn và bất công. Các người kết án ta, đòi trục xuất ta khỏi đô thành. Các người nguyền rủa ta. Được! Nhưng các người hãy cho ta hỏi lại một điều. Vì sao khi Agamemnông đang tay bắt Ixphigiêni con gái ta để làm lễ hiến tế thần linh, cầu xin cho đoàn thuyền Hy Lạp được gió để ra khơi thì không một ai trong số các ngươi lên tiếng kết tội hắn đòi trục xuất hắn ra khỏi đô thành? Vì sao các người lại đóng vai một quan tòa khắc nghiệt như thế đối với hành động của ta? Còn đối với hắn thì lại rộng lòng dung thứ. Các người đừng đe dọa ta. Ta sẵn sàng chấp nhận một cuộc đọ sức. Này ta nói thêm cho các người rõ: ta không hề mảy may sợ hãi. Chừng nào mà chàng Egixtơ thân yêu của ta còn là người bạn tình chung thủy của ta, chàng sẽ là tấm khiên dày và rộng che chở cho cuộc đời ta. Ta thề trước công lý quyết sẽ báo thù cho con gái ta và ta đã thực hiện. Các người cũng nên nhớ rằng Agamemnông đã gây ra cho ta bao nhiêu đau khổ trong nỗi cô đơn. Còn hắn thì vui thú hết với cô ả Cridêix lại đến Caxxăngđrơ! Cả hai, hắn và cô ả Caxxăngđrơ giờ đây đã chịu sự trừng phạt xứng đáng. Ta đã cho chúng vĩnh viễn nằm bên nhau như chúng đã từng chung thủy với nhau. Cả hai đứa con của bọn chúng, ta cũng cho đi theo bố mẹ. Nghe những lời Clitemnextơrơ biện hộ cho tội ác tày trời của mụ, nhân dân lại càng căm phẫn và kinh tởm mụ đàn bà mặt người dạ thú. Egixtơ thấy vậy đứng ra đối đáp nhằm trấn áp sự phản kháng của nhân dân. Với giọng nói hống hách, y đe dọa sè bắt hạ ngục những ai công kích, kết án hành động của Clitemnextơrơ và của y. Cũng như Clitemnextơrơ, y cho rằng Agamemnông bị giết là hợp đạo lý Atơrê, cha của Agamemnông xưa kia đã giết con của Tiextơ, nấu cỗ, mời Tiextơ ăn. Là con của Tiextơ, ngay từ nhỏ Egixtơ đã bị Atơrê trục xuất cùng với cha. Và bây giờ đây, Egixtơ được công lý đưa trở về thành Argôx, để trả lại mối thù xưa, chính Egixtơ là người bày mưu đặt kế cho cuộc sát hại Agamemnông, còn Clitemnextơrơ là người thực hiện.
Sự công phẫn của nhân dân chẳng vì những lời đe dọa của Egixtơ mà dịu bớt. Nhân dân vạch trần hành động hèn nhát của Egixtơ, phải mượn tay một người đàn bà để sát hại một vị anh hùng. Bất lực và tức giận điên cuồng trước những lời công kích, Egixtơ tuyên bố.
- Hỡi dân chúng của đô thành Argôx! Ta long trọng tuyên bố cho các ngươi biết: kể từ ngày hôm nay ta là vua của xứ Argôx, toàn bộ cơ nghiệp cũng như của cải của Agamemnông, những chiến lợi phẩm mà Agamemnông đã đưa từ thành Tơroa về sẽ thuộc quyền sử dụng của ta. Kể từ ngày hôm nay, mọi công dân, già cũng như trẻ nhất nhất đều phải tuân theo lệnh của ta. Kẻ nào chống đối, kháng cự, không chấp hành mệnh lệnh sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc.
Orextơ báo thù
Agamemnông lấy Clitemnextơrơ sinh được bốn người con: ba gái, một trai. Gái là Cridôtêmix (Chrysothémis), Elêchtơrơ (Électre) , Iphigiêm (Iphigénie) . Trai là Orextơ (Oreste). Khi Agamemnông bị mưu sát, Orextơ mới hơn mười tuổi. Elêchtơrơ nhanh trí cho người đưa em sang lánh nạn ở xứ Phôkiđ. Vua xứ Phôkiđ là Xtơrôphiôx, vốn là em rể của Agamemnông, đã chăm nom nuôi nấng Orextơ như con cái trong nhà. Một tình bạn thân thiết đã hình thành giữa Orextơ và Pilađ (Pilade) người con trai của nhà vua.
Năm tháng trôi đi, Orextơ đến tuổi trưởng thành. Giờ đây chàng đã là một thanh niên cường tráng, thông minh, nhanh nhẹn, tràn đầy sức sống. Và nghĩa vụ đầu tiên của người thanh niên này là phải rửa sạch mối thù cho cha để giành lại ngôi báu. Nhưng chàng không thể thực hiện ngay được. Một việc trọng đại như thế phải được thần thánh chỉ bảo, chàng lặn lội tới đền thờ Đenphơ để xin thần Apôlông ban cho một lời chỉ dẫn. Thần Apôlông tuyền phán:
- Orextơ hỡi! Nợ máu phải trả bằng máu. Công lý chẳng tha những kẻ gây tội ác và tiếm quyền.
Tuân theo lời chỉ dẫn của thần, Orextơ lên đường trở về quê hương Argôx để thực hiện sứ mạng. Cùng đi với chàng có người bạn chí thiết gắn bó từ tuổi thơ là Pilađ.
Sau nhiều ngày miệt mài cất bước trên những dặm đường cát bụi, một ngày kia, hai người, Orextơ và Pilađ, đặt chân đến mảnh đất Argôx, quê hương thân yêu của Orextơ. Việc đầu tiên của họ là viếng mộ Agamemnông.
Nhìn thấy mộ cha, Orextơ xúc động quỳ xuống cầu khấn. Chàng cầu xin thần Hađex của thế giới âm phủ hãy rủ lòng thương đến số phận bất hạnh của cha chàng, hãy bảo vệ chàng và giúp đỡ chàng trong sự nghiệp lớn lao mà chàng sắp thực hiện. Chàng cầu khấn linh hồn người cha danh tiếng của mình:
- Agamemnông cha ơi! Hôm nay đứa con trai của cha đã khôn lớn và trở về quê hương. Nó đến nơi yên nghỉ của cha để khóc thương cho số phận của cha, để cầu khấn linh hồn cha. Cha ơi! Cha có nghe thấy không tiếng nói của con, tiếng con đang gọi cha, cầu khấn cha! Con đã cắt một nắm tóc để hiến dâng cho thần Sông Inacôx, vị thần đã nuôi nấng con cũng như nuôi nấng những người Argôx. Và giờ đây, bên mộ cha, con hiến dâng linh hồn cha một nắm tóc nữa của con để bày tỏ lòng biết ơn công lao nuôi dưỡng của cha. Số phận nghiệt ngã đã không cho con được nhìn thấy cha lần cuối cùng khi cha vĩnh viễn về vương quốc của thần Hađex, không cho con được hôn cha trước khi họ làm lễ khâm liệm và mai táng thi hài của cha. Và con cũng chẳng được khóc thương cha...
Bỗng Orextơ trông thấy từ cung điện một đám nữ nô lệ trong y phục đen đi về phía chàng. Chàng vội ra hiệu cho Pliađ biết. Hai người bèn lui bước tìm một chỗ kín đáo ở phía sau ngôi mộ, giấu mình theo dõi xem đám nữ tỳ đó làm gì. Orextơ nhận ra trong đám nữ tỳ có người chị ruột của mình là Elêchtơrơ. Nhìn thấy chị mình trong đám nữ tỳ ăn mặc như họ, tóc bị cắt ngắn như họ, Orextơ trong lòng rất đỗi xót xa. Chị đã bị đối xử tàn tệ như thế hẳn vì tội phản kháng, không thừa nhận cuộc hôn nhân của Egixtơ với Clitemnextơrơ, hẳn rằng vẫn nuôi giữ trong lòng nỗi thương nhớ người cha danh tiếng lẫy lừng. Đoàn nữ tỳ tới ngôi mộ của chủ tướng Agamemnông. Họ mang theo lễ vật, rượu thiêng để làm lễ cầu nguyện linh hồn Agamemnông theo lệnh của Clitemnextơrơ. Vì sao lại có chuyện kỳ lạ như vậy? Vì sao cái người đàn bà đã đang tâm đồng loà với tình nhân giết chồng, đầy đọa con chồng lại sai nữ tỳ đi dâng lễ vật, cầu nguyện linh hồn người chồng? Nguyên do là hôm trước, một cơn ác mộng đã trùm xuống giấc ngủ của mụ. Cơn ác mộng khủng khiếp rắc rối như thế nào ta không rõ. Chỉ rõ mụ thét lên kinh hoàng và rồi tỉnh dậy. Tỉnh dậy mà vẫn chưa hoàn hồn. Phải một lúc lâu sau mụ mới trấn tĩnh lại được và cho mời những nhà tiên tri tới để luận giải. Hết thảy các nhà tiên tri đều nói rằng, cứ như mộng triệu mà suy thì có dễ là được sự chấp thuận của thần linh, những người chết dưới vương quốc của thần Hađex, những oan hồn nổi cơn thịnh nộ đối với những kẻ đã ám hại họ. Những oan hồn này đòi Công lý phải thể hiện quyền lực của mình... Nghe lời luận giải của những nhà tiên tri, Clitemnextơrơ vô cùng sợ hãi. Và chính vì lẽ đó mà mụ sai những nữ tỳ đem lễ vật tới viếng mộ Agamemnông cầu nguyện oan hồn Agamemnông tha tội cho mụ. Nhưng những người nữ tỳ này vốn không quý mến gì Clitemnextơrơ vì đã phạm vào một tội ác kinh khủng: giết chồng. Hơn nữa vì Clitemnextơrơ thường hay làm tình làm tội, hành hạ họ vì họ là những người phụ nữ thành Tơroa bị bắt làm tù binh. Nhìn thấy họ là mụ lại nghĩ đến người chồng đã bị mụ giết, người chồng đã vì cuộc chiến với những người Tơroa này mà gây ra cho mụ biết bao đau khố tôi chỗ phạm vào tội ác.
Elêchtơrơ dẫn đầu đám nữ tỳ mang lễ vật đi cầu khấn. Nàng băn khoăn không biết nên cầu khấn như thế nào? Lẽ nào nàng lại cầu khấn cho nguyện vọng của Clitemnextơrơ: xin oan hồn Agamemnông tha tội? Nàng bày tỏ tâm sự của mình với một người nữ tỳ. Theo lời khuyên của nữ tỳ, lễ cầu nguyện sẽ thực hiện ngược lại với ý định của Clitemnextơrơ. Elêchtơrơ kính cẩn tưới rượu thiêng lên mộ cha và quỳ xuống giơ hai tay lên trời cầu khấn. Nàng cầu xin vị thần Hermex, người đưa dắt các linh hồn và Người truyền lệnh nhanh chóng, trung thành nhất tới các thần linh, hãy truyền đạt lại những mong muốn của nàng tới các vị thần âm phủ là những vị thần đã theo dõi và biết chuyện bọn gian phu dâm phụ mưu sát cha nàng. Nàng cầu xin các vị thần cũng như vị thần Đất Mẹ thiêng liêng đã sản sinh ra muôn giống loài hãy lắng nghe và chấp nhận lời khấn nguyện của nàng. Nàng cầu khấn vong hồn của người cha thân yêu, kể lại nỗi bất hạnh mà nàng và em nàng là Orextơ phải chịu đựng từ khi cha bị giết. Nàng xin cha hãy giúp cho Orextơ trở về Argôx nhanh chóng và bình yên. Nàng cầu xin Công lý hãy trả thù cho cha nàng, lũ người tàn bạo sẽ bị trừng phạt...
Cẩu nguyện, dâng lễ vật, rẩy rượu thiêng... sau khi đã làm đầy đủ và trọn vẹn những nghi lễ thiêng liêng, Elêchtơrơ và đám nữ tỳ thu xếp để ra về thì chợt Elêchtơrơ trông thấy một búp tóc đặt ở chân mộ. Nàng cầm tóc lên và bỗng nhiên bàng hoàng xúc động. Búp tóc cắt dâng ở mộ cha nàng giống tóc của nàng. Phải chăng tóc này là của Orextơ, đứa em trai thân thiết xa vắng đã lâu ngày của nàng? Nếu Orextơ đã lớn khôn trở về thì sao cậu ta lại không xuất hiện mà chỉ tới đây để đặt một nắm tóc? Có thể là tóc của người Argôx nào chăng? Elêchtơrơ để ý thấy quanh mộ có những dấu chân, và đó là dấu chân của hai người. Liệu có thể Orextơ trở về cùng với một người bạn không? Đang khi Elêchtơrơ phân vân, trao đổi với một người nữ tỳ thì Orextơ xuất hiện. Chàng đến bên người chị thân yêu của mình và khẽ cất tiếng gọi. Elêchtơrơ quay lại. Nàng không nhận ra được đứa em của mình. Đã bao năm trời xa cách, hình ảnh đứa em trai trong trí nhớ của nàng chỉ là một chú bé thơ dại. Còn giờ đây một thanh niên cường tráng đĩnh đạc, phong thái như một dũng sĩ đang đứng trước mặt nàng. Nàng ngỡ ngàng bối rối. Orextơ hiểu tình cảm của chị mình. Chàng lấy trong túi ra một bộ quần áo dâng lên trước mặt người chị thân yêu, đây là bộ quần áo xưa kia do chính tay Elêchtơrơ dệt và may cho chàng. Elêchtơrơ xúc động, ôm lấy em, nước mắt tuôn trào. Nàng kể lại cho em nghe nỗi cực nhục, cay đắng mà nàng phải sống trong cái tòa lâu đài tội lỗi. Orextơ nói ngay cho chị biết: chàng trở về Argôx theo lệnh của vị thần Apôlông. Chính thần đã phán truyền cho chàng biết, chàng phải lãnh sứ mạng đương đầu với nỗi hiểm nguy trong cuộc tử chiến với những kẻ đã giết cha chàng. Nếu chàng không hoàn thành sứ mạng trả thù cho người cha vinh quang đã bị ám hại một cách đê hèn thì nhiều thảm họa sẽ giáng xuống cuộc đời chàng. Ngôi báu của chàng sẽ mất vĩnh viễn và cuộc đời chàng cũng tiêu vong. Trí khôn, óc minh mẫn chẳng còn, những bệnh tật kỳ quái sẽ giày vò chàng liên miên hết ngày này sang tháng khác mà không phương thuốc gì cứu chữa nổi. Oan hồn của người cha sẽ nổi giận, chẳng thèm nhìn nhận đến đứa con trai. Những lời cầu khấn của đứa con trai không trả thù được cho cha trước bàn thờ trở nên vô nghĩa, bởi vì linh hồn người cha thân yêu của nó đã từ bỏ nó... Orextơ đã nói cho chị mình biết như thế. Và giờ đây hai chị em chỉ còn cách thực hiện bằng được sứ mạng mà thần Apôlông đã trao. Elêchtơrơ sẽ trở về cung điện trước để theo dõi tình hình. Nếu thấy có điều gì khả nghi thì báo cho Orextơ biết. Còn Orextơ và Pilađ sẽ đến cung điện sau.
Trước khi hành động, Orextơ dò hỏi xem giấc mộng khủng khiếp mà đêm vừa qua Clitemnextơrơ vừa gặp phải là như thế nào. Chàng muốn biết tường tận để tìm hiểu xem liệu nó có ứng nghiệm chút gì với những lời phán truyền của thần Apôlông. Orextơ được một người tiết lộ cho biết câu chuyện mộng mị đó như sau:
Clitemnextơrơ nằm mơ thấy mình sinh ra một con rắn. Bà ta đã nuôi nấng con rắn đó như một đứa con với muôn vàn tình thương yêu. Con rắn được quấn bọc trong tã lót và bú sữa từ bầu vú của bà. Và trong khi bú sữa ở bầu vú mẹ, con rắn đã hút ra từ bầu vú một cục máu, một giọt máu đỏ tươi. Và máu, máu từ vú của bà ta chảy tràn ra lênh láng, khủng khiếp... Bà ta thét lên kinh hoàng...
Nghe xong câu chuyện, Orextơ mừng thầm trong bụng. Chàng cảm thấy như thánh thần đã linh báo cho chàng biết sứ mạng trả thù luôn được thánh thần theo dõi, phù hộ.
Orextơ và Pilađ đến cung điện trong y phục cải trang của người dân miền Đôlix xứ Phôkiđ. Hai người được Clitemnextơrơ tiếp đãi trân trọng. Orextơ nói:
- Thưa bà! Chúng tôi đường đột tới cung điện nguy nga này vì một việc vô cùng quan trọng mà thực ra những người dân thường như chúng tôi vốn không có công việc gì phải lui tới những chốn cao sang như thế này. Số là nhà vua xứ Phôkiđ tên là Xtơrôphiôx được biết chúng tôi sắp lên đường đi Argôx. Nhà vua khẩn thiết nhờ chúng tôi tới cung điện Argôx báo cho vị vua ở đây biết một tin chẳng lành: Orextơ, người con trai của nữ hoàng Clitemnextơrơ đã qua đời. Nhà vua của chúng tôi muốn được biết thân nhân của chàng trai xấu số quyết định lo liệu việc mai táng như thế nào? Đưa hài cốt về quê hương Argôx hay cứ để ở Phôkiđ làm lễ tang ở đó?...
Thưa bà! Đó là tất cả những điều gì mà nhà vua Phôkiđ giao phó cho chúng tôi tới đây để tâu trình. Chúng tôi cũng mang theo đây bình đựng tro hài cốt của chàng trai bất hạnh đó. Chúng tôi chờ đợi sự trả lời của thân nhân để tâu trình lại cho nhà vua chúng tôi được biết. Vậy cuối cùng, xin bà thứ lỗi, chẳng hay bà có phải là người chủ của tòa lâu đài này không hay bà có phải là thân nhân của chàng Orextơ không? Bởi vì chúng tôi muốn chính cha mẹ của chàng trai được biết tin này và trả lời cho chúng tôi rõ ý định.
Nghe xong câu chuyện, trong lòng Clitemnextơrơ rất đỗi vui mừng nhưng bề ngoài lại làm ra vẻ u buồn sầu não. Mụ trân trọng mời hai người khách vào phòng nghỉ. Tiếp đó mụ tức tốc sai người báo cho Egixtơ, tên tiếm vương, chồng mụ, lúc này đang bận việc ở ngoài thành đô biết tin vui. Mụ mời Egixtơ về ngay để tiếp khách. Như vậy, người lãnh sứ mạng trả thù cho Agamemnông không còn nữa. Mụ không còn phải lo lắng về số phận bản thân mà mối thù giữa hai dòng họ Atơrơ và Tiextơ như lời nguyền rủa độc địa và sự tiên định của số mệnh cũng chấm dứt.
Egixtơ được tin bèn vội vã về ngay cung điện. Hắn vui mừng đến nỗi không gọi lính hộ vệ đi cùng. Vừa bước chân vào cung điện, Orextơ rình sẵn từ phòng bên, nhảy sổ ra đâm cho một nhát kiếm. Hắn chỉ kịp kêu lên một tiếng rồi ngã xuống chết tươi. Gia nhân trong lâu đài thấy chủ tướng bị giết vội hô hoán ầm lên. Clitemnextơrơ từ phòng mình vội vã chạy ra để xem sự thể ra sao. Orextơ cầm kiếm xông lên, người mẹ tội lỗi sợ hãi run lên. Mụ quỳ xuống dưới chân đứa con trai van xin:
- Orextơ hỡi con! Hãy dừng tay! Dù sao con cũng phải biết ơn và kính trọng ta là người đã sinh nở ra con, cho con bú mớm, bế ẵm con. Lẽ nào con không còn một chút tình thương đối với mẹ?
Orextơ bối rối. Người bạn Pilađ nhắc nhở chàng thực hiện nghĩa vụ mà thần linh đã giao phó. Chàng phải lựa chọn một trong hai điều khắc nghiệt: hoặc là bị thế gian thù ghét, lên án, kết tội hoặc là bị thần linh ghét bỏ, trừng phạt?
Orextơ thấy không thể cưỡng lại lời truyền phán của thần linh. Giết mẹ, chàng sẽ bị những nữ thần Êrini, những con chó cái của sự báo thù như người ta thường nói, truy đuổi. Nhưng không giết mẹ thì các vị thần, nhất là vị thần Apôlông, người đã phán truyền những lời sấm ngôn thiêng liêng quy định chonghĩa vụ và hành động của con người, cũng không tha tội cho chàng. Cuối cùng, Orextơ hành động theo nghĩa vụ mà thánh thần đã truyền phán. Và đó cũng là số mệnh đã sắp đặt. Chàng dẫn Clitemnextơrơ, người mẹ của tội ác vào trong cung điện và hành quyết. Xác chết của đôi gian phu dâm phụ Egixtơ và Clitemnextơrơ được đặt nằm bên nhau như ngụ ý một lời răn: Công lý chẳng dung tha những kẻ đã gây ra tội ác.
Được tin tên tiếm vương bạo chúa Egixtơ và mụ vợ đanh ác đã bị giết, nhân dân đô thành Argôx vô cùng hởi lòng hởi dạ. Chẳng một ai thương tiếc, than vãn cho số phận của chúng. Nhưng cũng chẳng một ai ca ngợi hành động giết mẹ của Orextơ như một chiến công.
Còn Orextơ, chàng phải thanh minh trước nhân dân về hành động của mình. Chàng cảm thấy số phận chàng như một người đánh xe ngựa mà những con ngựa đã bung ra thoát khỏi sự điều khiển của chàng. Sở dĩ chàng dám nhẫn tâm làm một việc ghê gớm như thế là vì lời truyền phán của thần Apôlông. Chính thẩn Apôlông đã làm cho trái tim chàng trở nên cứng rắn, không biết xúc động khi cầm kiếm đâm vào cổ mẹ. Song giờ đây chàng phải ra đi, tự trục xuất khỏi xứ sở này. Ngôi báu xin nhường lại cho Mênêlax trong tương lai sẽ trở về.
Bỗng trước mắt Orextơ hiện ra những nữ thần Êrini, những người đàn bà mõm chó, tóc là một búi rắn độc ngoằn ngoèo, đầu rắn cất lên tua tủa quằn quại. Những nữ thần Êrini mặc đồ đen, chĩa đôi mắt dữ tợn của mình nhìn thẳng vào mặt Orextơ như chất vấn, như tra hỏi. Orextơ rụng rời sợ hãi. Chàng ôm đầu kêu lên. Và chàng ra đi, chàng phải tới đền thờ Đenphơ cầu xin thần Apôlông bảo vệ. Những nữ thần Êrini quyết không tha tội sát nhân, hơn nữa một tội ác khủng khiếp chưa từng thấy: con giết mẹ. Các nữ thần quyết truy đuổi Orextơ đến cùng.
Orextơ thoát khỏi sự trừng phạt của nhũng nữ thần Êrini
Rời Argôx ra đi, Orextơ ngày đêm mải miết dồn bước sao cho mau chóng tới được đền thờ Đenphơ, nơi chàng sẽ nhận được sự bảo vệ của thần Apôlông. Theo sát bước chân chàng là những nữ thần Êrini hung tợn lãnh trách nhiệm trừng trị tội sát nhân, đòi nợ máu phải được trả bằng máu.
Trải qua nhiều ngày đi đêm nghỉ từ tận Argôx, từ miền Nam Hy Lạp ngược lên miền Bắc, Orextơ đã tới được đền thờ Đenphơ dưới chân núi Parnax. Chàng không chậm trễ trong việc chuẩn bị nghi lễ cầu khấn. Chàng đi vào khu thánh đường đền thờ Đenphơ, đến quỳ xuống bên hòn đá thiêng liêng Ongphalôx. Thanh gươm đeo bên sườn chàng tuột khỏi vỏ đặt bên. Chàng cầm trong tay một cành cây ôlivơ, một cây gậy to và đẹp, quấn len trắng. Còn tay kia chàng giơ cao lên trước mặt để cầu khấn. Cả hai tay chàng đều đẫm máu của tội sát nhân. Chàng cầu xin được rửa tội. Những nữ thần Êrini đâu có chịu bỏ lơi chàng. Họ xộc thẳng vào khu thánh đường thiêng liêng, chẳng hề ngần ngại nỗi hình thù khủng khiếp của mình cũng như y phục kỳ lạ không thích hợp của mình. Và họ tay roi tay đuốc chia nhau ngồi vây quanh lấy Orextơ.
Chính vào lúc đó thần Apôlông xuất hiện. Thần đã nghe được lời cầu khấn của Orextơ. Bằng tài năng và pháp thuật của mình, thần làm cho những Êrini chìm đắm vào trong một giấc ngủ say mê mệt. Những đôi mắt ngầu đỏ hung dữ của các nữ thần vốn đã bị gỉ bẩn viền quanh phút chốc nhắm nghiền lại.
Apôlông bèn truyền phán cho Orextơ biết ý định của mình:
- Orextơ con hỡi! Con cứ bình tâm. Ta đã là và mãi mãi sẽ là người bảo vệ con. Dù ta gần con hay xa con, con cứ tin rằng, chẳng khi nào ta để con rơi vào tay lũ quỷ cái hung dữ đó. Và con thấy đấy, những con chó cái ghê tởm Êrini này đã bị ta dìm vào một giấc ngủ say mê mệt. Vậy con mau mau làm theo lời ta chỉ dẫn. Con hãy lập tức rời khỏi đây và dấn mình vào một cuộc hành trình mới. Con trở lại vùng đồng bằng Attich đến đô thành Aten cầu xin nữ thần Atêna. Con hãy đến quỳ trước tượng nữ thần và xin nữ thần cứu giúp. Chúng ta sẽ tìm cách đến giải thoát vĩnh viễn cho con khỏi nỗi đau khổ, giày vò. Bởi vì chính ta đã quyết định và đòi con phải giết người mẹ của mình.
Nghe lời phán truyền của thần Apôlông, lập tức Orextơ rời khỏi đền thờ, ra đi mải miết. Thần Apôlông còn cẩn thận hơn, trao cho thần Hermex nhiệm vụ dẫn đường và săn sóc cho Orextơ.
Orextơ vừa ra đi thì linh hồn Clitemnextơrơ vụt hiện lên với vẻ giận dữ ghê gớm. Mụ chỉ tay vào những nữ thần Êrini đang ngủ say mê mệt, quát tháo ầm ĩ. Mụ đánh thức những nữ thần Êrini dậy, báo cho họ biết Orextơ đã trốn thoát khỏi vòng vây của họ. Mụ nhắc nhở đòi hỏi nữ thần Êrini phải truy đuổi ngay Orextơ, phải làm cho Orextơ không được thư thái, yên tĩnh phút nào trong tâm hồn.
Những nữ thần Êrini chìm đắm trong giấc ngủ chẳng dễ gì tỉnh lại ngay được. Giấc ngủ của thần Apôlông giáng xuống cộng với nỗi mệt nhọc trong cuộc hành trình đã làm họ mê sảng khi thì rầm rĩ khi thì quát, thét lên trong khi ngủ. Nhưng cuối cùng một Êrini tỉnh giấc và gọi hai người bạn dậy. Cả bọn tức giận điên cuồng khi biết Orextơ đã trốn thoát, không còn ở trong ngôi đền, không còn ở trong vòng vây của họ. Những Êrini trách móc thần Apôlông đã bảo vệ kẻ phạm tội, vi phạm vào đạo luật thiêng liêng của thế giới thần linh từ bao đời nay vẫn được tôn trọng. Và họ thề sẽ quyết tâm truy tìm bằng được Orextơ. Orextơ sẽ không thoát khỏi sự trả thù. Thần Apôlông nổi cơn thịnh nộ, ra lệnh cho những nữ thần Êrini phải lập tức rời bước ngay khỏi nơi thánh đường tôn nghiêm của thần, nếu chần chừ ắt không tránh khỏi sự trừng phạt. Những mũi tên bạc của thần sẽ không tha những kẻ làm ô uế nơi truyền phán những lời sấm ngôn thiêng liêng, thể hiện ý chí của Dớt. Thần chỉ mặt những nữ thần Êrini thét lớn:
- Được, các ngươi cứ làm nhiệm vụ của các ngươi! Hãy cứ truy đuổi kẻ phạm tội giết một người cùng huyết thống. Còn ta, ta quyết sẽ bảo vệ con người đó, con người đã vì huyết thống mà lãnh sứ mạng trả thù của ta giao phó. Nữ thần Atêna sẽ phân rõ đúng sai vụ án này.
Các nữ thần Êrini vội rời bước khỏi Đenphơ để đi tới Aten với nỗi hậm hực trong lòng. Như vậy là thần Apôlông mưu toan tước bỏ sứ mạng thiêng liêng và cao quý của Êrini. Không, những Êrini quyết không chịu.
Orextơ tới Aten. Những nữ thần Êrini cũng tới Aten. Một bên cầu xin được bảo vệ, che chở về hành động phạm tội của mình là do thánh thần truyền phán, áp đặt. Một bên kêu gào, đòi hỏi quyết liệt thực thi bằng được sứ mạng của mình là trừng phạt kẻ tội phạm sát nhân. Nữ thần Atêna lắng nghe những lời lẽ của hai bên và thấy thật khó phân xử. Nữ thần một mặt thấy mình không thể nào trao một con người đã cầu xin mình che chở vào tay các nữ thần hung dữ Êrini. Nhưng mặt khác, sứ mạng truyền thống từ bao đời nay của các Êrini là trừng phạt tội sát nhân. Bảo vệ Orextơ tức là vô hiệu hóa chức trách quan trọng của những nữ thần Êrini, tước bỏ sứ mạng cao cả của họ - một việc làm mà chỉ riêng nữ thần Atêna không thể quyết định. Cuối cùng, nữ thần Atêna thấy cách giải quyết tốt nhất là thành lập một tòa án để xét xử vụ việc quan trọng này. Nàng cho mời những vị quan tòa danh tiếng vốn là những bô lão đã từng xét xử những vụ kiện cáo vô cùng rắc rối tới để thành lập tòa án. Tòa án mang tên là Arêôpagiơ. Lai lịch củacái tên này vốn bắt nguồn từ một sự tích xa xưa.
Xưa kia khi những nữ chiến binh Amadôn đem quân đổ bộ lên vùng đồng bằng Attich vây đánh thành Aten thường hạ trại trên một ngọn đồi. Vào thời ấy, Aten dưới quyền cai quản của người anh hùng danh tiếng Têdê. Chính từ ngọn đồi này trước một lần xuất trận, những nữ chiến sĩ Amadôn thường làm lễ hiến tế cầu xin vị thần Chiến tranh Arex ban cho họ thắng lợi. Vì lẽ đó người ta đặt tên cho ngọn đồi là "Ngòn đồi Arex". Sau này, ở Aten, ngọn đồi Arex được dùng làm nơi xét xử các vụ việc vi phạm thể chế, tập tục, pháp luật. Vì thế tòa án mang tên "đồi Arex", tức Arêôpagiơ.
Theo lệnh triệu tập của Atêna, các vị quan tòa - bô lão kéo đến Arêôpagiơ. Mỗi người đều mang theo một cái bình và những viên sỏi để sau khi tranh cãi, kết tội, phản bác, bỏ phiếu quyết định. Nữ thần Atêna tham dự với tư cách là một quan tòa đồng thời cũng là người chủ tọa. Thần Apôlông đương nhiên phải có mặt như là một nhân chứng quan trọng của vụ án.
Phiên tòa khai mạc, Êrini lên tiếng kết tội Orextơ và đòi phải giao kẻ phạm tội cho các nữ thần để nghiêm trị vì đó là quyền lực của họ từ nghìn xưa. Orextơ đứng lên bào chữa.
Chàng chất vấn những Êrini.
- Vì sao khi Clitemnextơrơ giết Agamemnông các người không kết tội Clitemnextơrơ? Vì sao các người không truy đuổi đòi trừng phạt Clitemnextơrơ?
Êrini trả lời:
- Vì giữa hai người không có quan hệ huyết thống. Clitemnextơrơ giết một người không có quan hệ máu mủ gì với bà ta.
Orextơ vặn hỏi:
- Thế ta có chung một dòng máu với mẹ ta không?
Êrini đáp:
- Chính bà ta đã thai nghén nuôi dưỡng ngươi trong lòng và cuối cùng sinh nở ra ngươi. Ngươi dám trắng trợn chối bỏ dòng máu thân thiết của người mẹ đã mang nặng đẻ đau ra cuộc đời của ngươi ư?
Apôlông đứng lên biện hộ cho Orextơ:
- Orextơ đã hành động theo sự phán truyền của ta, một vị thần được Dớt chí tôn chí kính, toàn năng toàn quyền trao cho nhiệm vụ truyền phán những lời sấm ngôn, thể hiện ý chí của Dớt. Orextơ đã trả thù cho cha. Đó là một việc làm hợp đạo lý. Bởi vì kẻ giết chồng lại giết luôn cả người cha của những đứa con. Hơn nữa, Orextơ còn trả thù cho một vị vua danh tiếng, một người anh hùng vĩ đại đã có công lớn trong cuộc chiến tranh Tơroa. Chính người anh hùng này đã được Dớt ban cho cây vương trượng để thống lĩnh ba quân lập nên những chiến công hiển hách. Một người anh hùng kiệt xuất như thế sau cuộc chiến chinh trở về và bị lừa lọc bởi những lời lẽ tán dương hoa mỹ và sự đón tiếp xa hoa để rồi bị giết chết trong phòng tắm khi đang lúng túng trong chiếc áo đã bị khâu bít ở hai cổ tay. Đó, cái chết của người anh hùng, vị Tổng chỉ huy các đạo quân Hy Lạp trong cuộc viễn chinh Tơroa, là như thế! Ta xin hỏi: Ai là kẻ đáng bị trừng trị? Kẻ giết người cha của những đứa con, người anh hùng của nhân dân Hy Lạp hay là kẻ báo thù cho người cha ấy, người anh hùng ấy? Và...
Nhân dân đến xem phiên tòa xử vụ án quan trọng này rất đông. Họ ngồi vòng trong vòng ngoài vây quanh nơi xét xử. Họ lắng nghe chăm chú những lời kết án cũng như những lời phản bác. Và quả thật, vụ án này thật rắc rối, lý lẽ bên nào cũng dồi dào, sắc sảo, đanh thép cả.
Đến lượt nữ thần Atêna lên tiếng. Nữ thần tuyên bố, tòa ngừng làm việc để bỏ phiếu quyết định vụ án. Trường hợp khi kiểm phiếu, số phiếu bầu cho cả hai bên nguyên cũng như bên bị đều bằng nhau, nghĩa là Orextơ được bằng phiếu với những nữ thần Êrini thì Orextơ được trắng án. Orextơ là người vô tội.
Các vị quan tòa tùy theo chủ kiến lần lượt đến bỏ những viên sỏi vào một trong hai cái bình: Êrini và Orextơ. Trước khi bỏ phiếu, nữ thần nói:
- Hỡi các vị quan tòa! Hỡi tất cả những người tham dự phiên tòa hôm nay cũng như nhân dân đến xem tòa xử! Ta là người cuối cùng tỏ chủ kiến đối với vụ việc này. Ta bỏ phiếu cho Orextơ. Ta đứng về phía những người bênh vực cho Orextơ. Những người kết tội Orextơ cho rằng Orextơ giết mẹ là phạm tội giết một người cùng huyết thống, vì người mẹ và đứa con là cùng chung một dòng máu, người mẹ đã sinh ra con, nuôi nấng đứa con. Không hẳn là thế. Ta thấy cần nhắc lại lời thần Apôlông lúc nãy: không phải tự người mẹ sinh đẻ được cái mà người ta thường quen gọi là con của bà ta. Người mẹ chỉ là người nuôi dưỡng hạt giống mà bà ta đã tiếp nhận được. Người đàn ông mới là người có công sinh đẻ. Người đàn bà chỉ như một người xa lạ, ngược lại chịu trách nhiệm nuôi nấng và gìn giữ chiếc mầm non nở ra từ hạt giống do người đàn ông gieo. Lại nói như ta, ta có phải là do mẹ ta sinh ra đâu. Ta không hề biết đến mẹ. Chính thần Dớt đã sinh ra ta. Vì thế ta thuộc về huyết thống của người cha, hoàn toàn thuộc về người cha chứ không có một chút gì với người mẹ. Đó là lý do vì sao ta bênh vực Orextơ, bỏ phiếu cho Orextơ.
Atêna nói xong bèn bỏ viên sỏi của mình vào chiếc bình Orextơ. Như vậy là cuộc bỏ phiếu đã xong. Nữ thần ra lệnh kiểm phiếu. Thật hồi hộp. Các Êrini lo lắng cho địa vị và chức vụ của mình. Còn thần Apôlông cũng bồn chồn xao xuyến: một phiếu! Chỉ kém một phiếu thôi là đủ xảy ra một tai họa lớn, còn chỉ thêm một phiếu thôi là đủ để dựng lại, khôi phục lại một gia đình đã bị ly tán, đổ vỡ. Chỉ thêm một phiếu thôi là chấm dứt được mối thù dòng họ lưu truyền từ đời này qua đời khác bắt nguồn từ những lời nguyền độc địa.
Kết quả: số phiếu hai bên ngang nhau: Orextơ vô tội. Những Êrini buộc phải đình chỉ việc truy nã.
Orextơ vô cùng sung sướng. Chàng đứng lên kính cẩn cảm ơn nữ thần Atêna và thần Apôlông. Chàng cũng không quên cảm ơn nhân dân Aten và gửi lời chào tạm biệt họ trước khi chàng trở về mảnh đất Argôx thiêng liêng. Chàng cầu chúc cho đô thành Aten sẽ là đô thành bất khả xâm phạm trước mọi cuộc tiến công của những kẻ thù. Chàng cầu chúc cho xứ sở Attich muôn đời thịnh vượng, ấm no.
Việc xét xử như thế là xong. Nhưng lại xảy ra một chuyện khác. Những Êrini bất bình về việc xử án, cho rằng tòa án Arêôpagiơ đã tước đoạt quyền lực của họ, phế truất địa vị của họ, một quyền lực và địa vị đã có từ hàng bao đời nay và từ hàng bao đời nay vẫn được tôn trọng. Bất mãn, họ gào thét phản đối, tung ra những lên lẽ hằn học, nguyền rủa. Họ đe dọa sẽ giáng tai họa xuống vùng đồng bằng Attich, làm cho bệnh dịch lan tràn, hạn hán, chiến tranh, đói kém... Tình hình như vậy quả thật là vô cùng rắc rối và nguy hiểm. Nữ thần Atêna phải ra tay dàn xếp. Nữ thần mời những Êrini từ nay trở đi sẽ đảm đương một chức năng mới: ban phúc lành cho nhân dân, bảo vệ đời sống cho con người. Với chức năng này, họ sẽ chỉ bảo và dắt nhân dân đi theo con đường quang minh, chính đại của công lý, chăm nom đến đời sống sao cho mùa màng được tươi tất, súc vật được đông đàn, đạo lý được coi trọng. Họ sẽ là những vị thần sống mãi với nhân dân Aten, được nhân dân tôn kính và thờ cúng như những vị thần cao cả, thiêng liêng. Sự dàn xếp của nữ thần trí tuệ Atêna đã làm yên lòng các Êrini. Như vậy họ chẳng thiệt thòi về "quyền lợi" và mất mát chút gì về "địa vị" "chức tước". Chẳng còn gì để bất mãn nữa, những Êrini chấp nhận vui vẻ. Thế là từ nay chức năng báo thù, đòi trừng phạt kẻ sát nhân của những Êrini không còn nữa. Họ cũng không trở về thế giới âm phủ sống dưới quyền cai quản của vị thần Hađex nữa. Chức năng thay đổi thì chức danh cũng phải thay đổi. Họ được mang danh hiệu mới: Những nữ thần Ân Đức (Leo Euménides).
Nhân dân Aten, theo lệnh của nữ thần Atêna làm lễ rước những vị thần mới của đô thành mình về nơi ở mới: một ngôi đền ở trong một chiếu hang sâu dưới chân đồi Arex. Đám rước thật vô cùng linh đình và trọng thể. Đích thân nữ thần Atêna và những quan chức bô lão của đô thành Aten đi đầu đám rước dẫn đường cho những vị nữ thần Ân Đức về nơi ở Vĩnh Hằng đầy vinh quang cao quý.
Ngày nay, trong văn học thế giới, Êrini hoặc Omêniđ chuyển thành danh từ chung chỉ sự truy nã báo thù hoặc người lãnh nhiệm vụ truy nã báo thù. Arêôpagiơ chỉ một tổ chức, một cuộc họp mà thành viên là những nhà học giả đầy tài năng và uyên bác. Còn Pilađ chỉ người bạn chí cốt, trung thành.
Việc những Êrini đổi chức năng, chức danh, đúng hơn được "đề bạt" lên một chức năng, chức danh mới phản ánh bước chuyển biến tiến bộ của lịch sử xã hội. Êrini vốn là những nữ thần cư ngủ ở vương quốc của thần Hađex. Đó là nhũng nữ thần gìn giữ và bảo vệ cho huyết thống của thị tộc mẫu hệ và trật tự của thị tộc này. Vì thế, ngoài chức năng chủ yếu là đòi báo thù, đòi trả nợ máu, truy nã, trừng phạt kẻ sát nhân, Êrini còn đảm đương cả việc trừng trị tội bội ước, những giữ đúng lời nguyền, tội không quý người trọng khách. Thật ra trong thần thoại Hy Lạp, chúng ta thấy việc trừng trị những tội này phần lớn do các vị nam thần, nữ thần thực hiện. Ít thấy nói đến những nữ thần Êrini thực hiện, Êrini trừng trị kẻ phạm tội bằng hình phạt tước đoạt của hắn trí khôn và óc minh mẫn, giáng xuống cuộc đời hắn những nỗi bất hạnh khôn lường. Về lai lịch thì có nguồn kể, Êrini được sinh ra từ máu của thần Uranôx Trời - Cha nhỏ xuống Gaia Đất Mẹ. Một nguồn khác cho biết Êrini là con của thần Êrep - Chốn tối tăm vĩnh cửu và nữ thần Nix - Đêm tối mù mịt. Lúc đầu chỉ có một Êrini, sau đó ba chị em là Alêchtor (Alector), Tixiphôn (Tisiphone) và Mêder (Mégère). Thoạt đầu Êrini chỉ là linh hồn của người bị giết đòi trả thù. Linh hồn này truy nã những ai không thực hiện, làm tròn nghĩa vụ, luật lệ của sự báo thù thị tộc, thị tộc mẫu quyền cũng như thị tộc phụ quyền. Sự phát triển của kinh tế, nền kinh tế tiền tệ đã khiến cho tổ chức thị tộc phụ quyền bị suy yếu. Sự phân công giữa các ngành kinh tế chăn nuôi, nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, v.v... dẫn đến chỗ chia dân cư theo nghề nghiệp và khu vực cư trú còn lợi ích của nghề nghiệp trở thành chất keo liên kết, gắn bó con người lại với nhau. Quá trình này diễn ra đồng thời với quá trình tư hữu hóa những tài sản của thị tộc, sự phân hóa dân cư thành kẻ giàu, người nghèo, nền kinh tế hàng hóa và trao đổi hàng hóa phát triển... Tất cả những cái đó ngày càng làm cho chế độ thị tộc phụ quyền lung lay tận gốc và tạo điều kiện, đặt cơ sở cho sự ra đời của Nhà nước. Với sự ra đời của Nhà nước, tập tục, luật lệ của thị tộc trở thành một hiện tượng lổi thời và phản động. Vì Nhà nước là một tổ chức cao hơn tổ chức thị tộc, rộng lớn hơn, văn minh hơn, khoa học hơn tổ chức thị tộc, do đó nó không thể chấp nhận một cách xét xử theo tập tục, luật lệ của thị tộc vốn dựa trên mốiquan hệ huyết thống. Từ nay chức năng trừng trị kẻ phạm tội sát nhân thuộc về chính quyền. Do đó hình ảnh và chức năng những nữ thần Êrini cũng phải thay đổi. Thường những nữ thần hung dữ đòi báo thù, những Êrini chuyển thành sự giày vò, hối hận, đau khổ, cắn rứt trong lương tâm kẻ phạm tội. Đúng hơn, những nữ thần Êrini bắt kẻ phạm tội phải chịu hình phạt đó (âu cũng là một cách báo thù). Còn kẻ phạm tội trong hoàn cảnh của giai đoạn quá độ từ chế độ công xã thị tộc phụ quyền chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ có thể thoát khỏi nỗi giày vò, đau khổ, sự truy nã của những Êrini, bằng sự sám hối và tập tục rửa tội của tôn giáo. Sự ra đời và phát triển của nhà nước đã tăng cường và thúc đẩy sự phân công, đặc biệt sự phân công giữa lao động trí óc và lao động chân tay làm cho đời sống văn hóa - chính trị ngày càng có tổ chức hơn, văn minh hơn, văn hóa khoa học phát triển. Do đó việc xét xử những kẻ phạm tội cũng như xét xử phân giải những vụ việc tranh chấp trong đời sống phức tạp của xã hội côngdân, đòi hỏi phải có một cơ quan chuyên trách. Và tòa án đã ra đời. Tòa án ra đời kéo theo sự ra đời của khoa biện luận mà ngày nay chúng ta quen gọi là nghệ thuật hùng biện (đương nhiên cuộc đấu tranh chính trị giữa các phe phái đối lập cũng là một nguyên nhân phát sinh ra khoa biện luận). Công việc xét xử, kết tội phản bác dần dần trở thành một nghề chuyên môn. Đó là tất cả những mầm mống để sau này trong tiến trình lịch sử hình thành cái mà ngày nay chúng ta gọi là công việc tư pháp, pháp chế, luật học... Và đó cũng và nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự thay đổi chức danh và chức năng của Êrini. Nhà viết kịch Exkhin đã khai thác thần thoại Orextơ trả thù cho cha để viết nên bộ ba bi kịch thơ Orextơ (Orestie 458 tr.C.N). Nhờ có bộ ba bi kịch này mà chúng ta mới có một hiểu biết phong phú và sâu sắc về thần thoại đô. Giải thích ý nghĩa của Orextơ, một nhà nghiên cứu người Đức là Bacôphen vào thế kỷ XIX đã viết, đó là cuộc đấutranh giữa chế độ mẫu quyền đang suy tàn với chế độ phụ quyền vừa nảy sinh và đắc thắng trong thời đại anh hùng.
Tuy nhiên cũng có một vấn đề nữa đòi hỏi chúng ta làm sáng tỏ thêm: Orextơ được trắng án như là một thắng lợi của chế độ phụ quyền. - Đúng! Nhưng có phải đích thực là thắng lợi của chế độ phụ quyền của thời đại anh hùng không? Có những bằng chứng cho phép chúng ta đặt lại vấn đề như thế.
1. Ở thời đại anh hùng không có hình thức xét xử nào giống như hình thức xét xử ởOrextơ, xét xử bằng tòa án, có kết tội, có phản bác rồi có quyết án. Đọc anh hùng ca của Hômer, Iliát và Ôđixê chúng ta thấy đã có một hình thức xét xử với quan tòa nhưng chúng ta không thấy miêu tả một cuộc xét xử nào đạt tới một trình độ nghiêm túc tương tự như cuộc xét xử trong Orextơ . Ở thời đại anh hùng, thời đại mà tổ chức thị tộc cũ đang sống thật là mạnh mẽ nhưng bắt đầu tan rã mọi việc tranh chấp, phải xét xử đều do hội đồng gồm có các trưởng thị tộc và đại hội nhân dân đảm nhiệm: Việc tranh chấp giữa Akhin và Agamemnông về quyền lợi (người nữ tỳ Bridêix) không được giải quyết bằng xét xử. Lúc đầu Agamemnông thắng vì Agamemnông dùng quyền lực ức hiếp Akhin, tước đoạt của Akhin người nữ tỳ. Sau này Agamemnông ''thua'' phải trả lại cho Akhin người nữ tỳ Bridêix cùng nhiều của cải khác. Nguyên nhân trước hết bởi quân Hy Lạp thua to trên chiến trường và quan trọng hơn đây mới là điều quyết định, Akhin vì tình cảnh thị tộc bộ lạc, hối hận về hành động giận hờn của mình đã gây nên cái chết của Patơrôclơ, người bạn thân thiết của mình, bằng lòng nhận sự đền bù của Agamemnông xuất trận với mục đích trả thù cho Patơrôclơ. Hoàn toàn không có quyền lực công công nào xét xử trong vụ tranh chấp này giữa hai cá nhân. Trong Ôđixê, Uylix đã giết 108 tên cầu hôn, trả thù bọn chúng đã phạm tội xúc phạm đến tài sản của Uylix, cưỡng ép Pênêlôp vợ Uylix phải tái giá, mưu cướp quyền cai quản đảo Itac của Uylix. Giết tới hàng trăm người như thế nhưng không bị đưa ra xét xử ở một tòa án nào cả. Vậy thì nợ máu lại trả bằng máu, thân nhân của những người bị giết tập hợp lại quyết báo thù. Và nếu cứ thế thì trả thù báo thù hết đời này qua đời khác. Mỗi bên đều hành động theo cái lý của mình, nếu không có nữ thần Atêna đứng ra bắt hai bên phải chấm dứt hẳn cuộc giao chiến thì không biết sẽ đổ thêm bao nhiêu máu nữa. Ở đây, chúng ta cũng không thấy có một quyền lực công cộng nào đứng ra xét xử.
2. Orextơ được là người vô tội không phải bằng con đường rửa tội. Orextơ được là người vô tội bằng con đường xét xử của tòa án, một hình thức xét xử công khai và dân chủ, công bằng và hợp lý.
3. Như vậy ta thấy từ tập tục của chế độ công xã thị tộc đã chuyển sang cái mà chúng ta có thể gọi là luật pháp của nhà nước. Con đường giải quyết theo tập tục là con đường mòn, luẩn quẩn, bế tắc, không chuẩn và trước hết nó dựa trên cơ sở của tình cảm, nghĩa vụ huyết thống. Con đường giải quyết theo pháp luật của nhà nước là con đường quang minh chính đại, công khai, công bằng, dân chủ hợp lý. Đó là con đường của tư duy và lý trí. Chỉ có giải quyết bằng pháp luật của nhà nước thì mới chấm dứt được mối thù truyền kiếp giữa hai dòng họ Atơrê và Tiextơ bắt nguồn từ lời nguyền của Miêctilôx.
4. Chúng ta có thể kết luận: Orextơ được vô tội là thắng lợi của chế độ phụ quyền trongchế độ chiếm hữu nô lệ vừa mới ra đời, thắng lợi của chế độ phụ quyền của thời đại văn minh chứ không phải thắng lợi của chế độ phụ quyền ở giai đoạn cao của thời đại dã man - thời đại anh hùng. Nghĩa là thắng lợi của thời kỳ đã ra đời Nhà nước với tư cách như là một quyền lực công cộng, một mặt thực hiện chức năng tổ chức và quản lý xã hội sao cho ngày càng văn minh hơn, còn một mặt thực hiện chức năng bảo vệ và phát triển lợi ích giai cấp của Nhà nước.
5. Lại một vấn đề nữa đặt ra: cuộc đấu tranh với chế độ mẫu quyền có thể còn là một nhiệm vụ lịch sử của thời đại anh hùng nhưng có lẽ nào nó vẫn còn là một nhiệm vụ lịch sử của chế độ chiếm hữu nô lệ với tính thời sự như đã được phản ánh trong câu chuyện thần thoại Orextơ? Chúng ta có thể khẳng định rằng: vấn đề chế độ mẫu quyền không còn đặt ra đối với chế độ chiếm hữu nô lệ. Trong thần thoại Orextơ, vấn đề chủ yếu đặt ra, đặt ra với tính thời sự nóng hổi là: phải chấm dứt tập tục trả thù, đòi nợ máu theo như truyền thống, nghĩa vụ, tình cảm của quan hệ huyết thống thị tộc. Xã hội đã tiến tới chỗ có nhà nước, nó hoàn toàn không thể chấp nhận được chủ nghĩa vô chính phủ của tập tục, do tập tục sinh ra. Phải xóa bỏ tập tục, nghĩa vụ của truyền thống thị tộc vốn tồn tại với tư cách như là chuẩn mực của Công lý và việc thực hiện những tập tục, nghĩa vụ đó như là sự thực hiện Công lý. Chính vì lẽ đó những Êrini phải chuyển sang làm một nghĩa vụ mới với chức danh mới: Những nữ thần ân đức.
6. Thần thoại Orextơ rõ ràng là một thần thoại phức hợp. Có lớp thần thoại ở vào một thời kỳ xa xưa (thời đại anh hùng) và có lớp thần thoại ở vào một thời kỳ muộn hơn (thời đại ra đời Nhà nước). Sự phức hợp đó cho không ta thấy thần thoại trong lịch sử của nó diễn ra một sự vận động chuyển hóa. Sự vận động và chuyển hóa này nhằm phản ánh một thực tại hoặc phục vụ cho một khuynh hướng lịch sử - xã hội nhất định nào đó của thực tại.
Orextơ đoạt tượng nữ thần Artêmix ở Tôriđ (Tauride)
Những Êrini mặc dù đã được nữ thần Atêna ban cho một chức danh mới là nữ thần Ân Đức mà nhiệm vụ và chăm nom đến hạnh phúc của nhân dân xứ sở Attich và đô thành Aten, nhưng họ vẫn chưa thật hài lòng. Trong số họ vẫn có người truy đuổi Orextơ, giày vô chàng, bắt chàng phải sống trong nỗi đau khổ ăn không ngon, ngủ không yên. Orextơ chẳng còn phương kế nào khác ngoài phương kế cầu viện đến sự chỉ dẫn, giúp đỡ của vị thần Ánh sáng và Chân lý Apôlông.
Chàng đến đền thờ Đenphơ để cầu khấn thần. Thần phán bảo:
- Con hãy vượt biển sang xứ sở Tôriđ xa xôi ở phương Đông, đoạt bằng được bức tượng nữ thần Artêmix về. Công việc này chẳng dễ dàng. Nhiều nỗi nguy hiểm chờ đón con. Nhưng con cứ yên tâm. Ta lúc nào cũng ở bên con và giúp con vượt qua những phút hiểm nghèo.
Orextơ lên đường vượt biển. Cùng đi với chàng có người bạn thân thiết và chung thủy Pilađ. Trải qua nhiều ngày đêm lênh đênh trên biển cả, con thuyền của hai chàng thanh niên Hy Lạp đã tới xứ sở Tôriđ. Họ giấu thuyền vào một hẻm đá kín đáo và lần mò tìm đường đi tới đến thờ nữ thần Artêmix. Sau khi dò xét tình hình, hai chàng thanh niên Hy Lạp thấy rằng chỉ có lợi dụng đêm tối, đột nhập vào đền thờ, đoạt bức tượng mang đi. Và một đêm kia sau nhiều lần dò xét, tính toán trù liệu họ thực thi ý đồ của mình. Không may cho hai chàng thanh niên Hy Lạp, vào lúc họ vừa mang được bức tượng nữ thần ra khỏi đền thờ thì bị lộ. Những người dân Tôriđ phát hiện thấy họ, liền hô hoán ầm ĩ, kéo nhau truy đuổi kẻ cắp. Orextơ và Pilađ không chạy thoát được về nơi giấu thuyền. Họ bị bao vây và sau một hồi lâu kháng cự rất quyết liệt, họ bị bắt sống cùng tang vật. Những người dân Tôriđ trói chặt họ lại và giải về cung điện tâu trình nhà vua. Nhà vua nhìn thấy hai tên lạ mặt cả gan làm một việc càn rỡ xúc phạm đến tôn miếu thiêng liêng của xứ mình, lòng muôn phần giận dữ. Ông thét lớn:
- Đem ngay hai tên súc sinh này làm lễ hiến tế tạ tội nữ thần Artêmix!
Nhưng trời lúc đó còn chưa sáng. Lễ hiến tế chỉ có thể cử hành được vào ngày mai. Đến đây ta phải dừng lại nói qua một chút về phong tục của người dân Tôriđ. Là một cư dân ở xa tít tắp tận phía Đông Bắc, những người dân xứ này hầu như rất ít giao tiếp với những người ở các xứ xa lạ khác. Ở họ không có phong tục quý người trọng khách như người Hy Lạp. Họ nhìn những người ở các xứ sở khác với một con mắt xa lạ, thù địch. Vì thế bất cứ người dân của một đất nước nào đặt chân đến xứ sở của họ thì lập tức bị bắt ngay để làm lễ hiến tế cho nữ thần Artêmix. Hai chàng thanh niên Hy Lạp sắp bị giết để hiến tế không có gì là ngoại lệ cả, hơn nữa họ lại phạm trọng tội, nghĩa là đáng đến hai lần bị giết!
Sáng hôm sau khi trời vừa sáng tỏ, nhân dân Tôriđ rủ nhau kéo đến quần tụ trước đền thờ Artêmix để dự lễ hiến tế. Người chủ trì và hành lễ là viên nữ tư tế của nữ thần, nàng Iphigiêni xinh đẹp, con gái của Agamemnông và Clitemnextơrơ. Xưa kia để cho đoàn thuyền Hy Lạp được thuận buồm xuôi gió vượt biển sang thành Tơroa, nàng đã tự nguyện hy sinh thân mình để làm lễ hiến tế cầu xin nữ thần Artêmix nguôi giận phù hộ cho quân Hy Lạp. Nhưng vào lúc mũi dao nhọn của lão vương Cancáx, viên tư tế và nhà tiên đoán tài giỏi của quân Hy Lạp vừa kề vào cổ nàng thì nữ thần Artêmix bằng phép lạ thần thông biến hóa của mình đã cứu nàng, thay vào bằng một con cừu. Nữ thần Artêmix đưa Iphigiêni người trinh nữ tới xứ sở xa lạ này để nàng trông nom việc thờ phụng nữ thần. Và bây giờ người trinh nữ Hy Lạp ấy, tiên nữ tư tế ấy, sắp cầm dao nhọn chọc vào cổ hai chàng trai Hy Lạp mà không hay biết, sắp giết chết đứa em trai ruột thịt thân thiết của mình. Đêm vừa qua, Iphigiêni trải qua một giấc mộng đầy kinh hoàng: cung điện của cha nàng ở Argôx bị một cơn động đất làm sụp đổ. Chỉ còn sót lại một cây cột và từ cây cột này rủ xuống những búp tóc vàng. Còn nàng thì phải rửa sạch, lau chùi, đánh bóng cây cột ấy như làm công việc tư tế của nàng: sẽ đưa cây cột đó ra làm lễ hiến tế. Thật kinh dị và khó hiểu. Chẳng ai kịp tường giải giấc mộng kỳ lạ ấy cho nàng. Hơn nữa, bản thân nàng cũng không thể suy ngẫm được điềm báo của giấc mộng ấy vì sau bao năm xa quê hương và gia đình, nàng chắc rằng Orextơ, em trai của nàng chẳng còn sống. Vì thế giờ đây khi sắp làm lễ hiến tế, nàng định bụng sẽ giết những người lạ mặt phạm tội để dâng cúng cho vong hồn em trai nàng. Giờ hành lễ đến. Hai chàng trai bị giải đến trước bàn thờ. Iphigiêni hỏi lai lịch của họ. Được biết họ là người Hy Lạp. Iphigiêni bèn hỏi thăm họ về quê hương Argôx của nàng, về cha mẹ nàng, về người em trai của nàng là Orextơ. Hai chàng trai Hy Lạp giấu kín tông tích. Họ chỉ cho viên nữ tư tế của nữ thần Artêmix biết một tin mừng: Orextơ còn sống: "... Orextơ còn sống! Trời ơi! Em ta còn sống ư!" Iphigiêni thầm kêu lên như thế và nảy ra một ý định: chỉ giết một người để làm lễ hiến tế, còn tha cho một người, để nhờ người đó mang một bức thư về Hy Lạp báo tin cho Orextơ biết: người chị ruột của chàng là Iphigiêni hiện vẫn còn sống, hiện ở Tôriđ, là tư tế của nữ thần Artêmix. Iphigiêni bày tỏ ý định này với hai chàng trai Hy Lạp. Và thế là hai chị em nhận được ra nhau, gặp lại nhau sao bao năm trời ly tán. Thật là vui mừng khôn xiết! Nhưng họ chẳng có nhiều thời gian để hàn huyên, tâm sự. Lễ hiến tế đến lúc phải cử hành rồi. Làm thế nào bây giờ? Làm thế nào để trốn thoát khỏi mảnh đất Tôriđ này?... Trước nhà vua và đông đảo dân chúng, Iphigiêni cất tiếng:
- Hỡi vị vua đầy quyền thế của xứ sở Tôriđ! Hỡi dân chúng! Lễ hiến tế sắp sửa bắt đầu. Nhưng vừa rồi ta hỏi chuyện hai kẻ lạ mặt càn rỡ này ta được biết: chúng đã phạm tội giết người ở quê hương chúng, vì thế chúng mới bỏ trốn tới đây. Như vậy bàn tay ô uế của chúng đã xúc phạm đến nữ thần Artêmix linh thiêng của chúng ta. Chúng ta phải làm lễ tẩy uế cho bức tượng. Và cả hai tên phạm tội nữa. Những kẻ sát nhân như thế nếu chưa được làm lễ rửa tội mà đem hiến tế thần linh thì không được. Chúng ta sẽ phạm một trọng tội nếu hiến tế cho các vị thần những lễ vật không tinh khiết. Các vị thần sẽ nổi giận, giáng tai họa xuống trừng phạt đất nước chúng ta. Vì thế ta quyết định đưa tượng nữ thần Artêmix và hai kẻ phạm tội này ra ngoài bờ biển để làm lễ rửa tội. Nhà vua và chúng dân thấy có điều gì không vừa ý xin cứ truyền dạy.
Nhà vua và dân chúng nghe xong đều lấy làm phải. Vua bèn truyền cho rước tượng nữ thần Artêmix ra bờ biển. Những tăng lữ của đền thờ rước tượng đi trước, còn quân lính giải hai tên phạm tội theo sau. Iphigiêni dẫn đầu đám rước. Nàng dẫn đám rước ra quãng bờ biển nơi Orextơ và Pilađ cất giấu con thuyền. Tới nơi, Iphigiêni ra lệnh cho đám lính phải lui về phía sau, thật xa, vì nghi lễ tẩy uế, rửa tội đòi hỏi phải tiến hành bí mật. Chỉ có người chịu lễ và các tăng lữ hành lễ được biết. Người ngoài cuộc không được tham dự, không được biết. Đó là tập tục từ nghìn xưa truyền lại. Chẳng cần phải kể dài dòng ta cũng đoán biết được lễ rửa tội tiến hành như thế nào. Iphigiêni nhanh chóng cởi trói cho Orextơ và Pilađ. Và hai chàng thanh niên Hy Lạp cũng nhanh chóng chuẩn bị buồm, chèo con thuyền. Đám lính chờ ở phía sau thấy lâu sinh nghi. Chúng phá bỏ lệnh cấm chạy ra ngoài bờ biển xem sự thể ra sao. Thật lạ lùng! Người trinh nữ tư tế của họ đang ở trên một con thuyền. Còn hai tên tội phạm đang ra sức đẩy con thuyền ra khỏi vùng nước cạn. Thế là lũ lính hô hoán ầm lên và xông tới. Chúng cho rằng viên nữ tư tế của họ đã bị bắt cóc. Cần phải giải thoát cho nàng. Xung đột nổ ra: Orextơ và Pilađ chống đỡ. Tài nghệ cao cường của chàng cùng với Pilađ đã chặn đứng bọn lính lại và hơn thế nữa đánh cho chúng thất điên bát đảo phải quàng chân lên cổ mà chạy thoát thân. Mọi người xuống thuyền và ráng sức chèo để thoát khỏi vùng nguy hiểm. Con thuyền dần dần xa bờ. Xứ sở Tôriđ sau lưng họ chỉ còn là một vật xanh thẳm. Nhưng số phận đâu có dành cho con thuyền của Orextơ trở về quê hương Hy Lạp dễ dàng như thế. Một cơn bão nổi lên. Con thuyền vật vã trong sóng gió và sóng gió ném nó trở lại nơi xuất phát. Con thuyền trôi giạt vào bờ biển xứ Tôriđ. Tình hình thật muôn phần nguy ngập. Những người dân Tôriđ mà bắt được thì những người Hy Lạp cầm chắc cái chết.
Chính vào lúc nguy ngập như vậy, nữ thần Atêna đã kịp thời xuất hiện và ra tay phù trợ. Nữ thần đến cung điện của nhà vua vào lúc nhà vua đang đốc thúc tùy tướng truy đuổi. Lính tráng đã vào cơ vào ngũ. Thuyền bè, lương thực đã chuẩn bị xong xuôi. Nữ thần Atêna bèn lên tiếng phán truyền cho nhà vua xứ Tôriđ phải đình chỉ ngay việc đuổi bắt. Hãy để cho Iphigiêni và hai chàng trai Hy Lạp cùng những người đi theo trở về quê hương Hy Lạp yên bình. Hơn thế nữa, nhà vua phải cho tất cả những tăng nữ phục vụ việc thờ cúng Artêmix ở ngôi đền cùng về Hy Lạp với Iphigiêni. Thấy nữ thần Atêna xuất hiện và phán truyền như vậy, nhà vua chỉ còn biết cúi đầu tuân lệnh.
Orextơ trở về quê hương với niềm sung sướng khôn cùng. Chẳng những chàng đã được bức tượng nữ thần Artêmix về Hy Lạp mà còn đưa người chị thân thiết của mình sau bao năm xa cách, những tưởng đã thiệt phận, cùng về với bức tượng. Chàng dâng bức tượng nữ thần Artêmix cho đất Attich thiêng liêng. Nhân dân Attich dựng luôn một ngôi đền tráng lệ bên bờ biển và rước tượng Artêmix về thờ. Tiếp đó chàng trở về quê hương Argôx để đoạt lại ngai vàng. Ngai vàng lúc này do Alet con của Egixtơ chiếm giữ. Một cuộc giao đấu. Alet không chống đỡ nổi, bị giết chết. Thế là Orextơ lên ngôi vua với tất cả niềm tự hào chính đáng: xóa bỏ được tội lỗi của bản thân, lập được chiến công, dựng lại được cơ nghiệp của vua cha, thanh toán hẳn, chấm dứt được mối thù lưu truyền từ đời ông cha giữa hai dòng họ Agamemnông và Tiextơ.
Orextơ trở về quê hương. Chàng lấy Hermion, con gái của Mênêlax và Hêlen, làm vợ. Chuyện Orextơ lấy Hermion cũng khá lôi thôi: xưa kia khi cuộc chiến tranh Tơroa chưa xảy ra, Mênêlax đã từng hứa gả Hermion cho Orextơ. Nhưng rồi sau chiến tranh xảy ra và kéo dài tới chục năm trời. Để giành được chiến thắng, theo một lời sấm ngôn cơ mật mà quân Hy Lạp biết được, quân Hy Lạp phải mời được dũng sĩ Nêôptôlem con của người anh hùng Akhin, tới thành Tơroa tham chiến. Dưới quyền chỉ huy của chủ tướng Agamemnông, quân Hy Lạp đã thực hiện được việc này. Và chính Mênêlax là người góp phần quan trọng vào việc thực hiện sự việc tối ư quan trọng đó. Ông gả "béng" luôn Hermion cho Nêôptôlem để Nêôptôlem phấn khởi nhận nhiệm vụ sang giao chiến với quân Tơroa... Còn bây giờ cuộc chiến tranh Tơroa đã kết thúc. Nàng Hêlen đã trở về với Mênêlax. Vậy thì nàng Hermion tất phải trở về với Orextơ. Và cuộc "chiến tranh" giữa Orextơ với Nêôptôlem ắt phải xảy ra. Orextơ với khí thế của người giành được những thắng lợi liên tiếp lại được thần thánh phù hộ, đến nhà Nêôptôlem gõ cửa, đòi lại nàng Hermion. Xô xát, tất nhiên là xô xát vì Nêôptôlem tính nóng như lửa. Và kết thúc bằng thắng lợi của Orextơ. Nêôptôlem chết, Hermion về sống với Orextơ ở Argôx. Đôi vợ chồng này sinh được một con trai tên là Tidamơnôx (Tisaménos).
Còn Pilađ, Orextơ chắp nối xe duyên với người chị ruột của mình là Elêchtơrơ
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top