Điônidôx trở thành một vị thần Ôlanhpơ

Trải qua bao gian truân vất vả, Điônidôx với những chiến công và những phúc lợi ban cho loài người, được các vị thần của thế giới Ôlanhpơ khâm phục và thừa nhận. Nữ thần Hêra cũng không nuôi giữ mối thâm thù với đứa con riêng của chồng mình nữa. Hội nghị các vị thần phê chuẩn việc công nhận danh hiệu "vị thần của thế giới Ôlanhpơ" cho Điônidôx. Trước khi lên thiên đình để bắt đầu một cuộc đời mới, Điônidôx xuống âm phủ đón mẹ. Con được lên hàng ngũ các vị thần danh tiếng biết bao, lẽ nào để mẹ cam chịu cuộc đời của một người trần tục, đoản mệnh, là một vong hồn sống dưới quyền cai quản của thần Hađex? Xêmêlê vốn là người thiếu nữ trần tục. Vì thế cho nên nàng chỉ mới chứng kiến người bạn tình của mình giáng sấm sét là đã ngã lăn ra chết. Nay Điônidôx được đứng vào hàng ngũ các vị thần bất tử của thế giới Ôlanhpơ, ắt hẳn không thể bằng lòng với cái gốc tích là con của một người trần đoản mệnh. Điônidôx không bằng lòng như thế mà các vị thần Ôlanhpơ cũng không bằng lòng như thế. Vì thế Xêmêlê được lên thiên đình và được đổi tên là Tiônê(1). Còn chuyện này nữa ta cũng cần phải kể là, Điônidôx trên đường trở về Hy Lạp qua đảo Naxôx đã đón nàng công chúa Arian, con của vua Ninôx ở đảo Cret, đưa đi và cưới nàng làm vợ. Vì sao nàng Arian công chúa ở đảo Cret lại đến đảo Naxôx để Điônidôx đón được? - Đó là một chuyện liên quan đến con quái vật Minôtor và người anh hùng Hy Lạp Têdê mà đến đoạn sau chúng ta sẽ rõ.

[(1) Thyoné, tiếng Hy Lạp: Điên cuồng]

Thần thoại Điônidôx có một nguồn gốc xa xôi từ phương Đông. Những tài liệu khảo cổ học cho chúng ta biết sự thờ cúng Điônidôx ở Hy Lạp đã có từ thiên niên kỷ II tr.C.N. Lúc đầu Điônidôx là vị thần của sự phì nhiêu đất đai trồng trọt gắn với nhiều đặc điểm của sự thờ cúng tô tem với những nghi lễ đổi lốt, thay hình. Do nguồn gốc này mà chúng ta thấy trong đám rước, đoàn xa giá Điônidôx, những người hành lễ thường khoác một tấm da thú (trong huyền thoại Điônidôx, vị thần này đã từng hóa mình thành dê, bò, sư tử, hổ, báo ...). Từ những nghi lễ diễn xuất này dần dần hình thành nghệ thuật sân khấu Hy Lạp: bi kịch và hài kịch. Trong những thế kỷ sau này khi nghề trồng nho và sản phẩm rượu nho phát triển đem lại một nguồn lợi lớn cho nhân dân, Điônidôx trở thành vị thần Rượu Nho, bảo vệ cho nghề trồng nho, ép rượu. Tính chất phóng túng, "bốc", "tếu", của những tập tục, nghi lễ thờ cúng Điônidôx càng soi sáng và chứng minh cho sự chuyển biến đó. Điều đặc biệt là trong những ngày tiến hành những nghi lễ diễn xuất - tôn giáo thầm kín (mystère), con người được thoát khỏi những sự ràng buộc, cấm đoán thường ngày, được phá bỏ mọi phép tắc trong sinh hoạt hàng ngày. Người Hy Lạp xưa kia gọi kiểu nghi lễ tôn giáo - thần thoại như thế là nghi lễ Orgi (Orgies) (Orgiasme). Đó là kiểu nghi lễ tôn giáo thầm kín tiến hành vào ban đêm ở trong rừng, trong núi. Những người hành lễ hình thành một đám rước đuối, nhảy múa điên cuồng trong điệu nhạc giậm giật, kích động. Nghi lễ Orgi không áp dụng đối với tất cả sự thờ cúng các vị thần mà chỉ áp dụng đối với một số các vị thần, trong đó có Đêmêtê, Perxêphôn, Điônidôx. Ngày nay từ ngữ "orgi" ngoài ý nghĩa lịch sử là một tôn giáo còn mang thêm một ý nghĩa nữa chỉ sự phóng đãng, trụy lạc điên loạn (Orgie). Do nguồn gốc đó thần Điônidôx có một biệt danh là Lidi (Lisye), tiếng Hy Lạp nghĩa là: "giải thoát", "buông thả", "nở tung", "bung ra". Là vị thần của sự phì nhiêu, của cây nho, có nghĩa là của cây cối, của loài thực vật, Điônidôx đồng thời trở thành vị thần của sự sinh-tử-tái sinh của thiên nhiên. Trong cuộc đấu tranh với tầng lớp quý tộc thị tộc để xây dựng nhà nước Cộng hòa dân chủ chủ nô, nhà cầm quyền Pidixtơrat ở Aten đã sử dụng việc thờ cúng như một vũ khí. Việc thờ cúng Điônidôx dần trở thành phổ biến khắp đất nước Hy Lạp và nổi bật lên như là một tôn giáo chính thức của nhà nước Aten (thế kỷ VI.Tr.C.N). Êlơdix trước đó là một trung tâm thờ cúng nữ thần Đêmêtê, nay thêm vào Điônidôx. Nơi đây nổi tiếng về những nghi lễ diễn xuất - tôn giáo thầm kín (mystère) thờ cúng nữ thần Đêmêtê, Perxêphôn và tiếp đến là Điônidôx. Lúc đầu những nghi lễ này mở rộng cho nhân dân tham gia nhưng từ thế kỷ V tr.C.N chỉ giới quý tộc mới được tham gia, từ đó dần hình thành một giáo đoàn Điônidôx còn có một tên nữa là Điônidôx Dagrêôx (Zagréos). Biệt danh này gắn liền với việc đưa tôn giáo Điônidôx vào phạm trù của học thuyết tôn giáo - thần thoại Orphixme (Orphisme). Chuyện về Dagrêôx như sau:

Thần Dớt biến mình thành một con rắn để che mắt Hêra, đến ái ân với Perxêphôn. Cuộc tình duyên của hai ngươi đem lại cho họ một đứa con trai, tên gọi là Dagrêôx nhưng thực ra là Điônidôx mà Dớt sẽ trao cho nó nhiệm vụ cai quản thế gian. Để tránh sự truy lùng của Hêra, thần Dớt giao cho các thần Quyret nuôi Dagrêôx. Nhưng không thoát, Hêra biết chuyện bèn gọi các Tităng đến giao cho nhiệm vụ phải thanh trừ Dagrêôx. Biết mình đang lâm vào một tình cảnh hiểm nghèo, Dagrêôx biến mình thành đủ thứ, khi thì ông già, bà lão, con gái, trẻ thơ; khi thì hổ, báo, sư tử, dê, cừu, chồn, cáo... và cuối cùng biến mình thành một con bò mộng. Các Tităng biết, lập tức xông đến vặn sừng con bò và dùng những hàm răng sắc nhọn xé xác ngay con vật rồi chia nhau mỗi thần một mảnh, ăn sống nuốt tươi Dagrêôx. Thần Dớt nổi trận lôi đình, dồn mây mù, giáng sấm sét, thiêu chết ngay lũ Tităng khốn kiếp. Từ tro tàn của thi hài những Tităng nảy sinh ra loài người. Còn Dagrêôx, chút thi hài vương vãi được thần Apôlông thu lượm và chôn cất tại Đenphơ. May mắn làm sao, nữ thần Atêna tìm thấy trái tim của Dagrêôx còn nóng, còn đập, đem về trao cho Dớt. Lúc này thần Dớt đang đắm say trong cuộc tình duyên với Xêmêlê. Được quả tim của Dagrêôx, thần Dớt bèn trao cho Xêmêlê và bảo Xêmêlê nuốt luôn vào bụng. (Có chuyện kể, Dớt nuốt). Từ đó Xêmêlê thai nghén trong lòng một đứa bé: Điônidôx, nhưng thực ra là Dagrêôx. Sau này khi Dớt sinh Điônidôx (từ đùi ra) chính là sinh lại Dagrêôx, chính là Dagrêôx được phục sinh hay cũng có nghĩa là Điônidôx đã được sinh ra hai lần: lần đầu, Dagrêôx, lần sau, Điônidôx. Lần đầu con của Dớt và Perxêphôn, lần sau, con của Dớt và Xêmêlê. Dagrêôx với Điônidôx tuy hai là một, tuy một mà lại là hai.

Tôn giáo - thần thoại Orphixmơ dựa vào huyền thoại này và một số biểu tượng tôn giáo của các xã hội phương Đông: Ai Cập, Ấn Độ, Irăng gải thích về cuộc sống như sau: con người có hai bản chất. Bản chất cao cả: thần thánh (Dagrêôx). Bản chất thấp hèn: (Tităng). Vì thế mỗi người sống trong cuộc đời này phải luôn luôn quan tâm đến, lo lắng đến việc tẩy rửa khỏi bản thân mình cái bản chất thấp hèn mà ai ai cũng có do tổ tiên lưu truyền lại, để chuẩn bị cho một cuộc sống đẹp đẽ hơn, cao thượng hơn ở thế giới bên kia. Linh hồn của con người là bất tử. Nó trú ngụ trong một thể xác không bất tử. Thể xác này in dấu, mang trên mình nó biết bao tội lỗi xấu xa từ các thế hệ trước truyền lại. Khi thể xác chết, linh hồn nhập hóa vào một hình hài, thể xác khác, có thể là hình hài con người, có thể là hình hài con vật, cứ thế tiếp diễn, duyên khởi trùng trùng, sinh sinh hóa hóa. Trải qua những thể nghiệm như thế trước mỗi lần nhập hóa vào một hình hài, linh hồn đã từng phải sống dưới âm phủ địa ngục để ăn năn sám hối, nhờ đó nó dần dần trở nên cao cả hơn. Chỉ có những ông đồng, bà cất (myste) nghĩa là những người đã hiến trọn mình cho nghi lễ diển xuất tôn giáo thầm kín (mystère) Orphixmơ mới biết được những pháp thuật chuyển linh hồn từ một hình hài này nhập hóa vào một hình hài khác, từ cuộc sống của một con vật sang cuộc sống hoàn thiện, toàn mỹ, trọn phúc, sạch tội, vĩnh hằng. Những tín đồ của tôn giáo Orphixmơ phải kiêng giết súc vật và ăn thịt. Trong khi chịu lễ họ được rửa tội bằng sứa để nhờ đó họ có thể thấy được con đường lên cõi phúc đời đời... (một vì sao trên bầu trời cao xa).

Tôn giáo Orphixmơ ra đời và phát triển vào quãng thế kỷ VIII tr.CN du nhập vào vùng đồng bằng Attích, Aten dưới thời Pidixtơrat, sau đó lan truyền khắp nước Hy Lạp (từ VI-III tr.C.N) Trong thời kỳ thống trị của đế quốc La Mã, tôn giáo này vẫn được truyền giảng rộng rãi và có khá đông tín đồ trong mọi tầng lớp nhân dân Hy Lạp, La Mã. Qua việc miêu tả sơ lược về tôn giáo Orphixmơ, chúng ta có thể nhận thấy ngay, nhận thấy một cách dễ dàng rằng, Thiên Chúa giáo cũng có những nội dung tương tự, gần gũi như tôn giáo Orphixmơ. Thật vậy, tôn giáo Orphixmơ cũng như một số tôn giáo khác ở vùng Trung Cận Đông khu vực Đông đế quốc La Mã, đã là một gia tài vật liệu phong phú, là những tiền đề, những dữ kiện quan trọng để Thiên Chúa giáo có cơ sở xây dựng nên hệ thống của mình. Với tư cách là một hệ tư tưởng, Thiên Chúa giáo buộc phải tiếp thu di sản tư tưởng của quá khứ. Nhưng với tư cách là một hệ tư tưởng tôn giáo mới, Thiên Chúa giáo không thể không sáng tạo ra những tư tưởng mới, những biểu tượng thần thoại - tôn giáo mới để đáp ứng một nhu cầu tâm lý, tư tưởng của khối quần chúng đông đảo bị đọa đày, đàn áp đến cùng cực, đang trông chờ một sự giải phóng, một sự thiết lập lại công lý xã hội. Song cái khối quần chúng bị áp bức trong đế quốc La Mã trải qua nhiều cuộc khởi nghĩa bị thất bại, đã mất lòng tin vào sức mạnh và năng lực của mình, một sức mạnh và năng lực rời rạc, lẻ tẻ, tự phát, thiếu một lực lượng xã hội đóng vai trò tiên phong tổ chức lại, do đó, lại trông chờ, tin tưởng vào một sức mạnh và năng lực siêu nhiên, có nghĩa là thần thánh, Chúa Cứu Thế, sự chuộc tội, tu thiện của con người. Để trở thành một hệ tư tưởng tôn giáo mới, Thiên Chúa giáo trước hết phải xóa bỏ bản chất đa thần giáo và chật hẹp của thị tộc, bộ lạc của những tôn giáo - thần thoại cổ đại. Nếu không, Thiên Chúa giáo không thể trở thành một tôn giáo có tính chất thế giới.

Tôn giáo Orphixmơ đã xây dựng nên những biểu tượng tôn giáo của mình và giáo lý của mình bằng cách sử dụng gia tài tôn giáo - thần thoại Ôlanhpơ. Thiên Chúa giáo cũng không thoát khỏi quy luật này. Tôn giáo Orphixmơ ra đời như là một sự đối lập lại với tôn giáo Ôlanhpơ. Sự đối lập giữa các vị thần ở đây (đề cao Điônidôx lên như là vị thần được Dớt trao cho sứ mạng cai quản thế gian) chẳng qua chỉ là sự đối lập giữa những con người trong cõi trần. Đó là sự đối lập giữa tầng lớp quý tộc công thương nghiệp, những người bình dân (démos) của thành bang (polis) với tầng lớp quý tộc, thị tộc, sự đối lập của nhà nước Cộng hòa chiếm hữu nô lệ của cơ chế polis với những tàn dư của chế độ công xã thị tộc và cuối cùng, nói chung là sự đối lập giữa giàu và nghèo trong một xã hội có ách áp bức, bóc lột giai cấp.

Nhưng còn một sự đối lập nữa quyết liệt hơn, táo bạo hơn, giàu ý nghĩa hơn ở ngay trong thần thoại Điônidôx, thần thoại Điônidôx của sự hoan lạc, cuồng nhiệt, phóng túng chứ không phải ở thần thoại Điônidôx - Dagrêôx của tôn giáo Orphixmơ. Đó là thần thoại tự đối lập với mình: thần thoại phủ nhận thần thoại. Nhân tố tạo nên sự tự phủ nhận này là nghi lễ orgi: bản chất của nghi lễ orgi là sự buông thả trong hoan lạc, phóng túng, cuồng loạn. Khi hành lễ con người sống trong niềm tin - ảo tưởng tôn giáo thoát khỏi sự cấm đoán, ràng buộc hàng ngày, say sưa, ngây ngất, "bốc giời" tưởng chừng như bản chất say sưa, hoan lạc, phóng túng của thần Điônidôx đã hòa nhập vào con người mình, tưởng chừng như bản chất thần thánh đã đồng hóa trong con người mình. Và như vậy là cái khoảng cách tách biệt giữa con người với thần thánh trong đời sống hàng ngày bị xóa bỏ. Thần thánh: con người, con người: thần thánh. Thần thánh tồn tại ở trong nội tâm con người, trong nội tâm con người có hàm chứa thần thánh. Tính chất thế tục, nhân tính, quần chúng từ đó xuất hiện. Và hiển nhiên về khách quan nó là sự phủ nhận thần thánh, thế tục hóa thần thánh. Vì lẽ đó mới có cơ sở để từ những nghi lễ thờ cúng thần Rượu Nho Điônidôx nảy sinh ra bi kịch, từ đám rước thần Rượu Nho Điônidôx nảy sinh ra hài kịch. Với bi kịch, thần thoại từ chỗ là đối tượng của sự thờ cúng thiêng liêng chuyển hóa thành vật liệu của nghệ thuật. Với hài kịch, thần thoại từ chỗ là sự thờ cúng thiêng liêng trở thành đối tượng của sự phê phán, "nhai lại" thần thoại bị hạ bệ. Tiếng cười trong hài kịch của Arixtôphan vì lẽ đó mang khuynh hướng vô thần. Và đặc biệt ở bi kịch của Ơripiđ, thần thánh đã bị phàm tục hóa, bị đặt thành vấn đề "tồn tại hay không tồn tại?".
Một ý nghĩa nữa của tính chất phóng túng, hoan lạc, ''bốc giời'' của nghi lễ orgi là nó đối lập lại với sự phóng túng, hoan lạc, ''bốc giời'' của các vị thần Ôlanhpơ, có nghĩa là sự đối lập của những người bình dân đối với tầng lớp quý tộc có đặc quyền đặc lợi.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: