Than Dieu Dai Hiep - Hoi 4 + 5
Hồi 4
Những vị anh hùng trên đảo Đào-Hoa
Vũ-tam-nương bị rơi kiếm vội cúi sát xuống đất để tránh. Mảnh kiếm gãy bắn tung rớt lên mái tóc của nàng làm cho nàng hốt hoảng hét lên. Kha-trấn-ác nghe tiếng biết việc chẳng lành liền vung thiết trượng chống đỡ. Chuôi gươm gãy của Vũ tam nương ngay lúc ấy văng về phía Kha-trấn-ác kịp lúc lão đưa thiết trượng ra, hai vũ khí chạm nhau nẩy lửa xẹt ra một vệt sáng loè.
Lý-mạc-Thu lại suy nghĩ:
- Nếu ta mặc nhiên tha chết cho Kha công mà không cho biết ý định của ta e lão hiểu lầm tài nghệ của ta chăng. Chi bằng ta cho lão một phen khiếp vía là hơn.
Nghĩ thế, nàng tung chiếc phất trần quanh mặt Kha-trấn-ác và trở lại trò chơi mèo giỡn chuột lúc ban nãy. Thỉnh thoảng nàng dùng phất trần phẩy nhẹ trúng thiết trượng buộc Kha-trấn-ác phải huy động cả sức lực để giữ cho thiết trượng khỏi rơi.
Cứ mỗi lần phất trần chạm vào thiết trượng là mỗi lần toàn thân Kha-trấn-ác phải dụng vận hết toàn lực. Nhưng ác thay, hết đòn nầy đến đòn khác, khiến cho ông lão qua một lúc không còn hơi sức nào để chống đỡ nữa. Còn Lý-mạc-Thu như đùa giỡn vẻ mặt tươi như đoá hoa trong nắng sớm.
Cuối cùng, Kha-trấn-ác không còn đủ sức để cống hiến cho cái trò chơi quái quắc của Lý-mạc-Thu, lão buông thiết trượng đứng ưỡn ngực, hét lớn:
- ác tặc! Đây nầy! Mi hạ sát ta đi! Đồ khốn kiếp.
Lý-mạc-Thu cười lớn, đưa chiếc phất trần giả vờ đâm vào cái bụng nhăn nheo của lão. Chiếc phất trần còn cách bụng lão độ vài phân nàng dừng tay lại, rồi vừa cười vừa nói:
- Ta đâu muốn hại tánh mạng lão. Ta đã nói lão là người ngoại cuộc, ta không có thù oán kia mà!
Nàng vừa dứt lời, bỗng đằng sau có tiếng động. Nàng quay lại thì thấy Vũ tam nương mặt hầm hầm xông vào cứu mạng Kha-trấn-ác.
Nhanh như chớp Lý-mạc-Thu nhảy phóc người lên không trung rồi thuận tay đánh vào gò má của Vũ-tam-nương.
Ngón chưởng này nàng thường tung ra trong cơn giận! Nó đột ngột và nặng nề quá sức làm cho Vũ-tam-nương mất thăng bằng ngã lăn xuống đất.
Đánh xong đòn Xích luyện thần chưởng. Lý-mạc-Thu hét lên:
- Tặc nữ! Ta đã bảo ngươi không phải là kẻ liên can, ta đã tha chết sao còn liều lĩnh.
Dứt lời, nàng phi thân biến mất.
Bị trúng phải thần chưởng. Vũ tam nương nằm bất tỉnh. Còn Kha-trấn-ác lúc đó vẫn còn có cảm giác như có phiến đá ngàn cân đè nặng trên bụng. Lão thở khò khè toàn thân mệt mỏi.
Qua một lúc, Vũ tam nương lần lần hồi tỉnh, nghe tiếng răn rắt bên tay, mở mắt nhìn thấy ngọn lửa tàn phá gia trang đã lần hồi cháy về phía mình. Nàng thất kinh gượng dậy đỡ Kha-trấn-ác tránh ra xa để khỏi nguy hiểm.
Bấy giờ lão già cơn mệt cũng vừa lắng dịu, nghĩ đến vợ chồng Lục-lập-Đỉnh liền cùng với Vũ tam nương đến nơi. Nhìn hai cái xác nằm sóng sượt, Vũ tam nương cũng như Kha-trấn-ác không khỏi bùi ngùi thương xót.
Vợ chồng Lục-lập-Đỉnh chưa chết. Họ vẫn còn trong thoi thóp nhưng không thể nào sống được lâu.
Kha-trấn-ác và Vũ tam nương đều ở trong tình trạng khó xử.
"Để họ lại ư?"
Đã là hiệp sĩ ai lại có thể nhẫn tâm trước những sinh mệnh đang hấp hối!
Nhưng mang họ theo thì sau một cơn kiệt lực, cả hai đều chưa đủ sức cứu lấy mình còn mong gì cứu lấy người khác.
Trong lúc lương tâm hai người đang giày vò phân vân trước sinh mạng vợ chồng Lục-lập-Đỉnh thì đằng xa có tiếng gọi:
- Nương tử! Nương tử có hề gì không?
Đúng là tiếng kêu của Vũ-tam-Thông. Vũ tam nương mừng rỡ vô cùng. Càng mừng hơn nữa khi nàng nghĩ rằng chắc Vũ tam Thông không còn điên khùng như trước nữa nên mơí biết mà đến trong lúc nguy nan.
Vũ-tam-Thông áo quần tả tơi, hướng về phía lửa cháy, miệng la:
- Nương tử ơi! Nương tử có hề gì không?
Vũ-tam-nương cảm động, chạy ra ôm choàng lấy chồng, kéo về phía vợ chồng họ Lục đang nằm thoi thóp.
Vũ-tam-Thông không nói rằng gì cả, với tay kẹp mỗi người vào nách rồi cắm đầu chạy.
Kha-trấn-ác tuy chưa được giới thiệu cùng đôi vợ chồng họ Vũ, song nhận biết họ là kẻ hào hiệp nên lặng lẽ phi thân theo sau.
Chẳng mấy chốc, Vũ-tam-Thông đã dẫn mọi người lâm nạn ấy đến một sơn động.
Thật ra, phủ Hồ-Châu vốn ít núi non, toàn là đồng bằng phì nhiêu, nên nơi nào có ngọn đồi cao, có một số hang hố thì ở đấy dân cư gọi là sơn động.
Vừa bước vào sơn động, Vũ-tam-nương đã thấy ngay Vũ-đôn-Nhu, Vũ-tu-Văn, Trình-Anh, Lục-vô-Song đều có mặt nơi đó. Chúng đều được bình an vô sự và đang chơi đùa với nhau. Ngoài ra còn một đứa bé gái ra vẻ con nhà trâm anh quyền thế, trạc tuổi Trình-Anh và Lục-vô-Song sắc diện hiện ngang. Trông cái nhìn của đứa bé gái ấy, người ta cảm thấy có một sự cách biệt về tính tình, khó hoà mình với các em bé kia được. Em bé đó chính là Quách-Phù, ái nữ của Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung.
Quách-Phù thấy Kha-trấn-ác bước vào, liền nói:
- Công công ơi! Chẳng biết vì sao đôi chim ưng bay mất tích.
Cháu gọi thế nào nó cũng không về.
Trình-Anh và Lục-vô-Song ôm chầm lấy thi xác của của vợ chồng Lục-lập-Đỉnh vừa khóc vừa than.
Bỗng Kha-trấn-ác buột miệng hét:
- Không xong rồi! Chúng ta đã vô tình chỉ đường cho con quỉ cái đó đến tìm mồi.
Vũ-tam-nương nghe nói thất sắc nhưng chưa hiểu ra sao.
Kha-trấn-ác giải thích:
- Con ác tặc đó đã thanh toán Lục gia trung chỉ còn hai đứa bé nầy nữa. Nhưng nó chưa biết hai đứa bé nơi nào thì...
Vũ-tam-nương chợt hiểu ra nói tiếp:
- à! Đúng rồi! Quái thật! hắn dụng ý tha mạng chúng ta để lò la tông tích hai đứa bé.
Vũ-tam-Thông hầm hầm nét mặt, la lớn:
- A! Con ác tặc nầy xem ra lợi hại quá! Ta phải cùng nó một còn một mất mới được.
Dứt lời, lão nhảy phóc ra cửa đứng án ngự như giữ thế và chờ đợi.
Lục-lập-Đỉnh tuy xương đầu đã bị nát vụn nhưng trong lòng còn ấp ủ đôi việc chưa được nói ra, nên dãy dụa kéo dài thì giờ lâm chung qua một lúc, chàng dốc hết tàn lực, mở to đôi mắt quay về phía Trình-Anh trối:
- Châu Anh! cháu hãy đỡ cậu dậy! Nơi bụng cậu có một vuông lụa bạch, cháu... hãy lấy ra...
Tiếng nói mệt nhọc nhỏ dần. Trình-Anh cúi sát dần xuống để nghe cho rõ nhưng chỉ còn nghe được mấy tiếng thì thào.
Trình-Anh vâng lời vén bụng Lục-lập-Đỉnh lên rút ra vuông lụa bạch, trên vuông lụa có thêu đoá hoa hồng.
Đoá hoa hồng nầy thật là kỳ dị. Nhìn qua thì cực kỳ diễm lệ, nhưng nhìn kỹ thì cực kỳ hiểm hóc. Ai nhìn lâu cũng phải rỡn óc.
Lục-lập-Đỉnh nghĩ một lúc rồi cố nói tiếp:
- Cháu Trình-Anh! Cháu hãy buộc vuông lụa nầy vào cổ, và không được giây phút nào cởi bỏ ra! Cháu nghe rõ chưa?
Trình-Anh tuy nhận ra được câu nói nhưng không hiểu ý nghĩa ra làm sao liền cúi xuống gần, nhưng Lục-lập-Đỉnh chỉ còn mở to đôi mắt có ý dặn dò, không nói nữa.
Là lời di chúc, Trình-Anh không muốn để phiền lòng người chết, vội gật đầu.
Giữa lúc đó, Lục-đại-nương đang mê man bất tỉnh, thoạt nghe lời trối của chồng, nàng bừng tỉnh lại, và nói:
- Vì sao chẳng truyền lại cho Vô-Song lại truyền cho Trình-Anh?
Lục-lập-Đỉnh cố nói lời sau cùng:
- Không! Ta không thể phụ lời ký thác của cha mẹ Trình-Anh.
Lục-đại-nương nói tiếp:
- Ông thật lòng dạ sắt đá! Con đẻ không thương lại thương cháu.
Dứt lời, đôi mắt Lục-đại-nương trắng chợt theo khuôn mặt.
Lục-vô-Song nãy giờ khóc than không để ý những lời đối đáp của cha mẹ nó.
Lục-lập-Đỉnh như chưa hết nỗi nuối tiếc, ngẩng đầu nhìn vợ nói:
- Nếu phu nhân thương con thì hãy để cho nó cùng theo chúng ta về suối vàng là hơn.
Nguyên cái vuông lụa có thêu đoá hoa hồng là vật kỷ niệm đầu tiên của Lý-mạc-Thu thân tặng cho Lục-triển-Nguyên để thắt chặt mối thâm tình. Khi lâm chung, Lục-triển-Nguyên đoán biết hai mối tình ngang trái của mình và vợ sẽ đưa đến hai mối thù oan nghiệt, không thể không đi họa đến con cháu về sau.
Do đó, lúc lâm chung Lục-triển-Nguyên trao vuông lụa cho Lục-lập-Đỉnh và dặn: "Mối thù của Vũ-tam-Thông nếu hắn tìm đến thì con liệu tránh được thì tránh bằng không thì đương đầu đấu chiến. Với Vũ-tam-Thông bắn không đến nỗi làm cho con thiệt mạng. Còn đối với Lý-mạc-Thu, một tay võ nghệ cao cường lại có lòng hiểm độc, nếu hắn tìm đến thì cách đối phó duy nhất để bảo tồn sinh mệnh là tròng vuông lụa này vào cổ hắn. Hắn sẽ nhớ lại mối tình đầu mà không đủ can đảm để tàn nhẫn nữa.
Tuy nhiên, Lục-lập-Đỉnh vốn con người tự phụ, cho đến phút lâm chung, cũng không sử dụng vuông lụa theo lời trăng trối của người cha, dù là để cứu mạng.
Trình-Anh là cháu ruột của Lục-lập-Đỉnh. Cha mẹ Trình-Anh, từ lúc nhỏ đã ký thác con cho Lục-lập-Đỉnh nuôi dạy. Thường ngày Lục-lập-Đỉnh cũng tỏ ra nghiêm khắc với Trình-Anh, nhưng đến lúc lâm chung Lục-đại-nương không ngờ chồng mình có thâm tình với cháu như thế.
Riêng Trình-Anh, cô ta hiểu nỗi bất bình chính đáng của Lục-đại-nương nên cầm vuông lụa đưa cho Lục-vô-Song và nói:
- Em hãy giữ lấy của này cho vui lòng mợ.
Lục-lập-Đỉnh nghe lời nói ấy mở vội đôi mắt, với vẻ nghiêm nghị, nói:
- Vô-Song! Con không được giữ vuông lụa nầy.
Vũ-tam-nương thấy việc éo le gay cấn, đề nghị:
- Chúng ta hãy xé vuông lụa làm đôi, cấp cho mỗi đứa một nửa. Như thế mới ổn thoả. Xin gia chủ vui lòng theo giải pháp đó.
Lục-lập-Đỉnh muốn trả lời song không còn đủ sức nữa. Tiếng nói ngập ngừng rồi nghẹn trong cổ họng. Cuối cùng Lục-lập-Đỉnh gật đầu.
Vũ-tam-nương liền lấy vuông lụa xé toạc ra làm hai mảnh đưa cho hai em bé mỗi em một nửa.
Bấy giờ Vũ-tam-Thông đang án ngự ngoài cửa động, nghe tiếng khóc chợt quay vào thấy trên hai gò má vợ một bên có một vết trắng như bạc, một bên có một vết đen như lọ, chẳng biết duyên cớ vì đâu, ngạc nhiên hỏi:
- Vì sao lại thế nầy?
Vũ-tam-nương nghe hỏi nhớ lại độc chưởng của Xích-Luyện Tiên tử, bèn lấy tay xoa lên hai gò má thì bấy giờ hai gò má đã tê cóng.
Nàng hốt hoảng, than:
- Chết rồi! Thiếp đã bị nhiễm độc của Xích-Luyện thần chưởng:
Bỗng ngoài cửa động có tiếng cười sằng sặc, hỏi vọng vào:
Có hai đứa bé trong đó chăng? Bất luận sống hay chết hãy mau đem ra giao lại cho ta.
Tiếng cười và tiếng nói trong như chuông ngân.
Vũ-tam-Thông xoay người trở lại.
Quả nhiên, Lý-mạc-Thu đứng đấy tự bao giờ với dáng điệu vô cùng ngạo nghễ.
Vũ-tam-Thông nhìn Lý-mạc-Thu ngạc nhiên: Bốn mươi năm trời, từ khi gặp nhau lần chót, người thiếu phụ này cũng vẫn giữ nguyên nhan sắc, cũng vẫn yêu kiều diễm lệ như xưa. Vũ-tam-Thông có cảm giác như con đạo cô này thách đố cả thời gian để mãi mãi tồn tại gieo hoạ vào bao nhiêu thế hệ về sau.
Nhìn thấy Lý-mạc-Thu cầm chiếc phất trần phe phẩy nơi tay Vũ-tam-Thông hiểu rõ mối nguy cơ đang chờ đợi mọi người, nhưng trong tay lão không có vũ khí.
Bởi vì, vào động tức là thả cho con ác tặc theo vào, còn chống cự biết dùng vật gì ngăn cản.
Chỉ loáng mắt, Vũ-tam-Thông nhanh trí nhảy đến một cây cổ thụ cạnh cửa động, ôm chầm gốc cây hô lớn:
- Lên.
Gốc cổ thụ bật lên tận gốc rễ cành lá rườm rà. Vũ-tam-Thông cầm múa tròn, tiến sát vào người Lý-mạc-Thu mục đích vây Lý-mạc-Thu vào giữa tàng cây rườm rà để mọi người có đủ thì giờ trốn thoát.
Lý-mạc-Thu hiểu ý, lùi mấy bước, vừa cười vừa nói:
- Vũ công còn mạnh đấy chứ!
Vũ-tam-Thông dừng tay, trả lời:
- Đã bốn mươi năm trời chẳng gặp nhau, nay tôi trông Lý cô nương vẫn còn đẹp lắm.
"Lý cô nương" là một lối gọi mà cách bốn mươi năm về trước không một chàng trai hảo hớn nào không tìm dịp để được gọi nàng như thế. Nhưng từ khi mối hận tình đã khiến Lý-mạc-Thu trở thành một đạo cô độc ác thì lối gọi Lý cô nương cũng cùng với thời gian bị chôn lấp. Vả lại, ngày nay cũng chẳng còn gì dám gọi Lý mạc Thu với tiếng gọi êm đềm như thế.
Mặc dù Lý mạc Thu con tim đã bị giá lạnh, giá lạnh đến chua chát, bẽ bàng trong dĩ vãng, nhưng không thể không chạnh lòng khi nghe có người còn nhắc đến tên Lý cô nương.
Thật vậy! Đã biết bao nhiêu chàng trai phong lưu đua tài tranh nhau gọi "Lý cô nương".
"Lý cô nương", "Lý cô nương" một âm thanh dung hoà trong cuộc sống đào hoa, hay tiếng kêu hối hận của một kẻ vong tình đang bị lương tâm cắn xé?
Nhưng nhắc đến ba tiếng "Lý cô nương" Lý mạc Thu lại cảm thấy sống dậy trong lòng mình ba tiếng "Hà nguyên Quân" ba tiếng tình địch trong đời nàng.
Cảm giác như thế, sắc mặt Lý mạc Thu bỗng cay cú chẳng khác gì đoá hoa hồng trên khuôn lụa bạch.
Vũ tam Thông cùng với Lý mạc Thu đều là những kẻ không may trên tình trường thì tâm tánh có khó gì mà không thông cảm.
Cũng như cách đây mười năm sau khi thất tình, một ngày nọ Vũ tam Thông gặp một đoàn phiên xa gồm có mười người của Hà thị phiêu cục. Chẳng may cho đoàn người này trong hắn chữ Hà thị phiêu cục sơn trắng phiên xa, chữ Hà to lớn đập mạnh vào trí óc của Vũ tam Thông khiến cho chàng trai thất tình ấy nhớ lại tên người yêu rồi nổi cơn điên giết cả mười tên lão phiêu. Tội nghiệp cho những tên này, đến lúc bị tàn sát cũng chẳng biết nguyên do.
Ngay nay Vũ tam Thông hẳn rõ tâm trạng Lý mạc Thu hơn ai hết. Thấy sắc mặt nàng thay đổi, Vũ tam Thông hồi hộp cho sinh mạng của Trình Anh và Lục vô Song.
Lý mạc Thu nghiêm sắc mặt, nói:
- Chính ta đã in chín bàn tay máu vào Lục gia trang. Ta chưa hạ thủ được chín mạng lẽ nào ta chịu dừng tay. Vậy Vũ tam ca hãy vui lòng nhường bước.
Vũ Tam Thông nói:
- Hai vợ chồng Lục công đã chết; vợ chồng Lục lập Đỉnh đã thọ độc vì tay người. Nay chỉ còn một đứa bé nhỏ, ngươi nỡ nào nhẫn tâm như vậy.
Lý mạc Thu điểm nụ cười trên khuôn mặt lạnh lùng, nói:
- Vũ tam ca! Hãy nói là còn hai đứa bé thì đúng hơn. Nhưng thôi! Hãy nhường lối cho ta đi.
Vũ tam Thông xoay ngang cây cổ thụ rào kín lối vào động và dằng từng tiếng:
- Này Lý cô nương! Thế thì Lý cô nương quả là trắc dạ lang tâm. Hà nguyên Quân...
Nghe nói đến "Hà nguyên Quân" Lý mạc Thu biến sắc lần nữa, hét:
- Ta phải nói để ngươi rõ. Trước mặt Xích Luyện tổ sư ta đã có lời thề. Nếu trước mặt ta, kẻ nào nói đến tên "Hà nguyên Quân" thì kẻ đó phải chết, hoặc ta phải chết. Nay Vũ tam ca tự nhiên bắt ta phải trọng lời thề, vậy ngươi đừng oán ta nhé.
Dứt lời, nàng tung chiếc phất trần đánh vào đầu Vũ tam Thông.
Chiếc phất trần đánh xuống mau như chớp nhoáng. Nhưng Lý-mạc-Thu đã quên rằng con người điên dại đầu óc bồm xồm kia là cao đệ của Nhất-Đẳng Đại-sư, và Lý-mạc-Thu còn quên một điều nữa là Vũ-tam-Thông ngày nay đâu phải Vũ-tam-Thông bị rơi vũ khí trước ngực của Lục-triển-Nguyên bốn mươi năm về trước. Vận dụng tất cả mọi kinh nghiệm của bốn mươi năm lăn lóc trên vũ trường, Vũ-tam-Thông dùng hai bàn tay làm bung cây cổ thụ như một chiếc dây cung để đỡ ngón đòn độc hiểm của Xích-Luyện Tiên-tử.
Lý-mạc-Thu thấy khí thế của Vũ-tam-Thông quả nhiên lợi hại, nàng liền nép mình theo hướng gió, bay xa khỏi tầm cổ thụ và quan sát từng khe hở của Vũ-tam-Thông để tấn công cho có hiệu quả hơn.
Lý-mạc-Thu đảo qua đảo lại liền hồi, khiến cho Vũ-tam-Thông không kịp day trở tàng cây cổ thụ nặng nề ấy.
Nhân lúc đối phương lúng túng, Lý-mạc-Thu nhảy vụt xuống đưa chân đạp vào gốc cây cổ thụ.
Con người Lý-mạc-Thu mong manh, thơ nhi liễu yếu nhu đào, ấy thế mà sức đạp của nàng lại nặng nề có đến ngàn cân, khiến cho gốc cây phải lún xuống đất.
Thế là hai đối thủ dằng co nhau một cây cổ thụ. Một bên đè gốc, một bên đè ngọn.
Nhưng Lý-mạc-Thu ghì được ưu thế, lại có vũ khí trong tay, còn Vũ-tam-Thông đã không có vũ khí, hai tay lại bận giữ ngọn cây.
Lý-mạc-Thu cười khúc khích như để hoan thưởng cái lợi thế của mình. Trong lúc đó, Vũ-tam-Thông bắt đầu nao núng, mối lo ngại bắt đầu vẩn vơ trong trí óc.
Thật ra, Vũ-tam-Thông không hề lo ngại cho mình, bởi vì từ khi biết tia tình địch lẫn người yêu đã hoá ra người thiên cổ, ông ta không còn tha thiết đến cuộc sống như đã thiết tha trong bốn mươi năm qua rèn luyện võ nghệ để rửa hận thù. Nay trước nguy cơ hăm doạ sanh mạng của con cháu người yêu và của vợ con mình khiến Vũ-tam-Thông vụt ra ý nghĩ cần phải sống để bảo vệ kẻ thân yêu. Bấy giờ Vũ-tam-Thông lo mối nguy hại chung hơn là lo cho bản thân.
Trong lúc ông ta đang lo suy nghĩ thì Lý-mạc-Thu vẫn cười ngạo nghễ trong đắc thế. Nàng đạp chìm gốc cây cổ thụ xuống đất rồi bước lần về phía Vũ-tam-Thông tay lăm lăm chiếc phất trần như chực kết thúc sinh mạng đối thủ.
Vũ-tam-Thông nhìn con ác tặc lẩn lẩn tiến đến đang chờ đợi một định mệnh khắt khe cho cả một đoàn người vô tội.
Trong lúc nguy cấp, bỗng từ đàng sau Lý-mạc-Thu từ trên trời, lao xuống hai vệt đen, tiếp theo những tiếng kêu lạ lùng quái dị.
Vũ-tam-Thông ngạc nhiên thấy đó là hai con chim ưng khổng lồi sà xuống bấu vào Lý-mạc-Thu chúng dùng mỏ và móng nhưng bấu xé liên hồi, thay phiên nhau tấn công tới tấp.
Lạ lùng hơn nữa trong động có tiếng the thé của cô bé Quách Phù đang điều khiển cặp chim:
- Thần ưng! Thần ưng! Hãy mổ xé xác con quái tặc ấy.
Đôi chim ưng vô cùng khôn lanh, lúc bay về phía tả, lúc sà xuống phía hữu, đến như Lý-mạc-Thu lanh lẹ dường ấy mà cũng phải lúng túng trong lúc tránh né.
Tuy nhiên, qua một lúc, Lý-mạc-Thu lấy ngay được bình tĩnh. Vì qua vài đợt tấn công nàng đã xác định được giá trị của đôi chim. Nàng tin rằng pháp thuật của nàng có thừa để đối phó.
Tuy nhiên, đánh hạ đôi chim là việc nàng còn phải suy tính. Bởi vì nàng thừa hiểu chỉ có đảo Đào-hoa mới có đôi chim ấy. Vậy đương đầu với đôi chim ưng tức là chuốc lấy hậu quả oan thù với họ Quách, điều mà Lý-mạc-Thu không bao giờ nghĩ đến.
Trong lúc nàng còn lưỡng lự chưa quyết thì đôi chim vẫn hăng say trong lợi thế, cứ áp đảo luôn hồi.
Bỗng con chim mái bất đồ trúng phải chiếc phất trần của Lý-mạc-Thu sa xuống đất kêu một tiếng thất thanh.
Quách-Phù thấy thần ưng bị hạ, từ trong động hô to:
- Thần ưng! Thần ưng! không có gì phải sợ, hãy cắn chết con nữ tặc ấy cho ta.
Lý-mạc-Thu liếc mắt nhìn vào động thấy người ra hiệu lệnh cho đôi chim là một cô gái nhỏ, sắc mặt lạ lùng. Nàng nhíu mày lẩm bẩm:
- Thôi, đúng rồi! Con bé này phảng phất giống nhan sắc của Quách phu nhân. Đích thị nó là đứa con gái của đôi hiệp sĩ ở đảo Đào-hoa.
Nghĩ như thế, Lý-mạc-Thu càng phân vân, chỉ đánh cầm chừng.
Vũ-tam-Thông thấy có đôi thần ưng trợ lực, thay đổi chiến thuật. Ông ta nhặt một tảng đá lớn ở góc động ném vào chậu cây cổ thụ, rồi đỡ nhẹ cây cổ thụ lên kê vào hòn đá. Đoạn ông ta bất thần dồn hết sức lực đè ngọn cây xuống khiến cho gốc cây bật lên và tung Lý-mạc-Thu bay vút lên trời.
Đôi chim ưng tưởng Lý-mạc-Thu phi thân trốn thoát liền vỗ cánh đuổi theo.
Trong lúc Lý-mạc-Thu lơ lửng giữa không trung không có điểm tựa để sử dụng mảnh lực chiếc phất trần thì bị đôi chim vây hãm rất ngặt. Nàng túng thế liền tung bửu bối từ trong tay áo nàng bay ra ba chiếc kim châm hổ phách. Hai chiếc nhắm hướng hai con chim ưng và một chiếc nhắm bụng Vũ-tam-Thông phóng tới.
Ba chiếc kim bắn rất chính xác. Đôi chim bị thương quằn quại bay vút tận mây xanh. Còn Vũ-tam-Thông chợt thấy một tia sáng xẹt tới ông ta vội nhảy tránh sang một bên. Nhưng đã trễ, chiếc kim son trúng vào bàn toạ bên trái khiến cho toàn thân lão run lẩy bẩy ngã xỉu xuống đất dãy đành đạch.
Chỉ chốc lát, Vũ-tam-Thông bất tỉnh.
Quách Phù thấy thế sốt ruột từ trong động cất tiếng lanh lảnh gọi đôi chim ưng:
- Thần ưng hãy trở lại mau! Thần ưng hãy trở lại mau!
Nhưng vô hiệu! Đôi chim ưng bay vút một mạch.
Bấy giờ, Lý-mạc-Thu là đà người xuống vừa cười vừa hỏi:
Này em bé! Có phải em thuộc dòng họ Quách chăng?
Quách-Phù thấy Lý-mạc-Thu tỏ vẻ hiền lành khả ái, bao nhiêu ác cảm trong người bỗng chốc tiêu tan, nó vội hỏi:
- Thưa cô nương! Em đúng là họ Quách. Còn cô nương là ai?
Lý-mạc-Thu không đáp, chỉ cười rồi nói:
- Em hãy đến đây! Ta dắt em đi chơi! Vui lắm.
Dứt lời, Lý-mạc-Thu lẹ làng bước đến cầm tay Quách-Phù dắt đi.
Kha-trấn-ác từ trong động vác thiết trượng chạy vội ra, chận Quách-Phù lại, và nói:
- Phù nhi! con hãy theo ta trở về.
Lý-mạc-Thu nhín Kha-trấn-ác cười lớn, nói:
- Công công sợ ta ăn thịt con bé nầy sao?
Vừa nói nàng vừa kéo Quách-Phù theo mình.
Quách-Phù ngoảnh lại nói với Kha-trấn-ác:
- Công công để cho cháu đi chơi với cô nương một chốc cháu trở về ngay.
Kha-trấn-ác không biết làm sao đành đứng nhìn con đạo cô quyến rũ Quách-Phù.
Bỗng nhiên đôi chim ưng bay trở về kêu lên những tiếng áo não.
Quách-Phù quay đầu nhìn lại. Kha-trấn-ác hy vọng những tiếng kêu của đôi chim ưng sẽ làm cho Quách-Phù đổi ý.
Nhưng không, Quách-Phù liền ra hiệu:
- Thần-Ưng! Hãy đến đây cùng ta! Hãy theo ta!
Đôi Thần-Ưng ngoan ngoãn bay theo. Nhưng lạ thay, giữa đôi chim ưng có một con chim nhỏ màu hồng nằm ngay đỉnh đầu Lý-mạc-Thu đâm bổ xuống.
Hoảng hốt, Lý-mạc-Thu đưa phất trần ra đỡ. Con chim nhỏ khôn ngoan và lanh lẹ vô cùng. Như một con thoi, nó tránh né chiếc phất trần của Lý-mạc-Thu rất ngoạn mục.
Lý-mạc-Thu phải một phen kinh hãi. Tuy nhiên, nàng vẫn giữ được bình tĩnh khen:
- ái chà! Con chim nhỏ này hay lắm.
Bỗng phía sau có tiếng động khác thường. Một cậu bé độ 14, 15 tuổi, mình mặc thanh y, vừa vỗ tay vừa ca hát điệu hành quân lời lẽ rất vô nghĩa. Một đoàn rắn độ ngàn con, một màu thanh trúc sắp thành hàng ngũ chỉnh tề, ngoan ngoãn vâng theo lời ca tiến đến trước mặt Lý-mạc-Thu như một dòng nước cuộn.
Đến đây thằng bé ngồi dưới một gốc cây, nhìn con chim màu hồng đang hăng say tấn công Lý-mạc-Thu. Còn Lý-mạc-Thu vừa đương đầu với con chim, vừa tính toán cách nào để sẽ phải đối phó với đoàn rắn.
Bỗng như nàng sực nhớ điều gì, liếc nhìn thằng bé lẩm bẩm:
- Thằng bé này diện mạo khôi ngô, mày ngài mắt lớn, môi đỏ, trân tròn, phải chăng nó là đệ tử của Âu-dương-Phong ở đất Tây-Vục hiệu là Tây-Độc.
Thật vậy, trong giới hảo hớn không ai là không biết! Âu dương Phong, một hiệp sĩ Giang Nam nổi tiếng một thời, nay về già ẩn trú tại Tây-Vục, lấy thuật nuôi rắn bày thế trận để tiêu khiển.
Lý-mạc-Thu kiểm điểm những biến cố trong ngày, cho rằng những việc xảy đến không phải do sự tình cờ. Nhất-Đảng Đại-sư, Đào-hoa-đảo, Bạch-đa-sơn nhất định không phải vô tình mà phái người đến gặp ta một lúc.
Nghĩ thế, Lý-mạc-Thu chưa vội kết thúc cuộc đấu chiến với con chim nhỏ màu hồng đó. Nàng kéo dài cuộc chống đỡ để có đủ thì giờ quan sát địch thủ.
- Nầy em bé! Có phải em ở Bạch-đà-sơn chăng?
Đứa bé thấy Lý-mạc-Thu tỏ cử chỉ dịu dàng liền đứng dậy đáp:
Thưa, em họ Dương. Nhưng tại làm sao cô nương bảo em ở Bạch-dầu-sơn?
Thừa cơ hội Lý-mạc-Thu đang nói chuyện, con chim nhỏ đâm bổ vào đầu Lý-mạc-Thu một đòn rất lợi hại. Nhưng cũng nhanh như chớp, Lý-mạc-Thu đưa bàn tay trái lên chụp gọn con chim nhỏ vào lòng bàn tay.
Thằng bé sợ Lý-mạc-Thu bóp chết con chim la lớn:
- Cô nương đừng vội giết chết con chim hồng
Lý-mạc-Thu cười:
- A ra con chim nầy của em. Vậy ta trả cho em đây
Nàng trao con chim hồng cho thằng bé.
Bàn tay xinh xắn của Lý-mạc-Thu vừa mở, con chim hồng ngỡ rằng nó đã được tự do, vội cất cánh bay bổng lên không trung.
Nhưng Lý-mạc-Thu tập trung nhân lực vào đôi mắt hướng về con chim hồng, và xoè bàn tay ra, vận động mấy ngón tay, tức thì con chim hồng nhỏ kia cảm thấy như có một sức mạnh đè nặng trên mình nó. Nó không thể tự do hành động theo ý muốn mà phải lệ thuộc theo sự điều khiển của Lý-mạc-Thu từ dưới đất.
Đó là phép chưởng lực mà chỉ kẻ nào có võ thuật tuyệt luận mới có thể vận dụng nổi. Chính vì cái tuyệt luận đó đã làm vang danh Xích-luyện thần chưởng trong khắp vũ lâm bão hoa.
Bấy giờ Vũ tam nương ở trong động nhìn ra lo ngại vì thấy chồng nàng nằm sóng sượt dưới đất.
Nàng nóng ruột muốn xông ra cứu trợ, nhưng đoàn rắn của thằng bé đã tràn đến nơi, con nào cũng ngẩng cổ như muốn chực cắn người. Nàng gọi lớn:
Vũ quân! Vũ quân! Có bề chi chăng?
Vũ tam Thông nghe tiếng vợ kêu muốn gượng dậy nhưng không thể nào dậy nổi. Quách-Phù không ngớt miệng kêu cặp chim ưng, nhưng chúng đã bay mất dạng tự lúc nào.
Lý-mạc-Thu nghĩ thầm:
- Thế này thì quả nhiên vợ chồng Quách-Tỉnh và Âu dương Phong đã có mặt đâu đây. Nhưng dẫu sao nhất định họ cũng không thể làm gì ta được.
Lý-mạc-Thu tin tưởng ở mãnh lực tuyệt đối của Xích luyện thần chưởng, nên nàng ngạo nghễ quay gót bước vào cửa động.
Thằng bé thấy thế gọi lại, bảo:
- Hãy đứng yên! Nếu cô nương tiến bước đàn rắn độc sẽ cắn ngay.
Lý-mạc-Thu thâu hồi con chim hồng vào tay trái, dùng tay mặt khoát mấy cái vào không trung tức thì đàn rắn tán loạn bỏ hàng ngũ bò lảng ra tứ phía.
Lý-mạc-Thu tiến vào động Vũ tam nương liền xách kiếm ra cản lại. Lý-mạc-Thu dùng phất trần quất mạnh vào thanh kiếm, lưỡi kiếm văng về phía Vũ-tam-Thông chém sâu vào trán.
Lý-mạc-Thu dõng dạc bước vào động và thả con chim hồng ra. Lần nầy nàng để cho nó được tự do, không dùng chưởng lực điều khiển nữa, vì nàng mắc bận tìm Trình-Anh và Lục-vô-Song.
Khi đã thấy mặt hai đứa bé này, Lý-mạc-Thu xốc tới, hai tay cặp nách mỗi đứa bé mỗi bên rồi uốn mình phi thân ra ngoài. Trình-Anh và Lục-vô-Song dãy dụa thế nào cũng không nổi.
Bấy giờ thằng bé trông thấy vội nhảy theo ôm chầm lấy thân hình Lý-mạc-Thu kéo lại.
Hai tay Lý-mạc-Thu bận kẹp hai đứa bé không còn cách nào đối phó với thằng bé nên để mặc cho nó ôm sát vào thân.
Ngày nay, Lý-mạc-Thu không còn ở tuổi hoa niên, mặc dù nhan sắc bên ngoài vẫn chưa kém sút tí nào, Lúc nàng còn là một thiếu nữ, cái thời nàng dan díu với Lục-triểu-Nguyên, tuy trong tình nồng thấm đượm, nàng vốn con nhà khuê các trâm anh lại thêm thừa hưởng gia phong hiệp sĩ, do đó giữa đôi trai gái chưa bao giờ xảy ra chuyện ong bướm mây mưa. Những lúc lửa tình bừng dậy, đôi bạn trẻ đều nhớ lời giáo huấn của gia phong nên vẫn kiên nhẫn chờ ngày xe tơ kết tóc.
Nhưng rồi mối hận tình đột xuất, Lý-mạc-Thu những tưởng bao nhiêu mỹ tính của mình đã bị tan theo mối tình hận ngàn đời. Mãi suốt bốn mươi năm phiêu lưu trên bước giang hồ, ngày đêm nàng chỉ để tâm hờn oán, không bao giờ con tim bị lay động.
Nàng có ngờ đâu, con tim cứng cỏi vì uất hận kia cũng có lúc nổi dậy trong khoảnh khắc vì cảm xúc nhất thời.
Thật vậy, sự cọ xát với thằng bé chưa đến tuổi dậy thì, mà cả thân mình nàng cảm thấy mềm nhũn. Thằng bé chỉ níu kéo, cốt để cứu thoát hai đứa bé, nó ngờ đâu sự đụng chạm ấy làm cho Lý-mạc-Thu ngây ngất, toàn thân như bị một sức mạnh vô hình làm tan biến.
Trước đây cũng đã có lần nhiều tay hiệp lữ giang hồ không cầm lòng được trước sắc đạp kiều diễm của Xích-Luyện Tiên-tử nên cũng có nhiều kẻ buông lời lả lơi trêu ghẹo, tỏ ý khêu gợi nhưng những lần ấy Lý-mạc-Thu không hề mảy may đồng tình mà trái lại nàng đã đem con tim sắt đá nhử mấy gã si tình kia vào con đường chết. Họ đều chết nhục nhã như mấy tên bảo tiêu.
Tuy nhiên, dẫu con tim Lý-mạc-Thu có thay đổi cũng chỉ phút chốc. Qua một phút yếu mềm vì cảm giác, nàng tự chủ được ngay lòng tự ái của một Xích-Luyện Tiên-tử lại nổi dậy xua đuổi cả lầm lỗi của xác thịt, Lý-mạc-Thu trở nên giận dữ thả Trình-Anh và Lục-vô-Song xuống để đối phó với thằng bé lạ lùng kia. Nàng định ôm thằng bé quật vào tảng đá cho nát thây, nhưng bỗng nghe tiếng kêu của nó:
- Cô nương! Xin cô nương nhẹ tay.
Tiếng nói của nó hình như có một cái gì nhẹ nhàng quyến rũ khiến Lý-mạc-Thu không đủ can đảm hành động theo ý định.
Giữa lúc Lý-mạc-Thu đang bị dằng co hai mặt tâm thần, một đằng là thù hận, một đằng là thiện cảm của ân tình thì bỗng đâu con chim hồng lợi dụng cơ hội ấy, nhanh như chớp, bay sà xuống mổ vào con mắt của Lý-mạc-Thu.
Than ôi! Thế là nhan sắc kiều diễm của Lý-mạc-Thu đã bắt đầu huỷ hoại! Chỉ vì một phút yếu mềm của tâm tình mà người mỹ nữ nổi tiếng ở đất Giang-nam đã trở thành một mắt.
Một dòng máu đỏ loét từ từ chảy xuống trên gò má nõn nà của Lý-mạc-Thu. Nàng đưa tay chùi vết máu với lòng căm hờn sâu thẳm. Nét mặt nàng trở nên đanh ác phi thường. Tất cả đối thủ trước mắt, từ Vũ-tam-nương trong động, Vũ-tam-Thông dưới đất, cho đến ba đứa bé thảy đều chờ đợi một cơn bão táp kinh khủng của Lý-mạc-Thu.
Trước tiên, Lý-mạc-Thu quắc nhìn con chim hồng đang bay lượn trên không. Nàng tập trung chưởng lục ngửa bàn tay dùng các ngón tay điều khiển. Con chim hồng đang tung tăng bỗng rơi xuống nằm gọn trong bàn tay Lý-mạc-Thu.
Rồi năm ngón tay nàng bóp lại, thân hình của chim hồng nát bấy như tương, xương thịt lông lá trộn lẫn.
Nàng chưa hả giận thì bỗng đâu cặp chim ưng lại cùng nhau bay đến, nhắm thẳng vào đầu Lý-mạc-Thu đâm bổ vào.
Bấy giờ, Lý-mạc-Thu đã trở nên nhanh nhẹn như trước, tránh né mấy lần rồi tung tay áo phóng vào hai con Thần ưng hai chiếc kim ngân châm. Nhưng lạ thay, kim vừa phóng ra thì bỗng có một vật cứng ném từ đâu không rõ đánh loạt hai mũi kim rơi xuống đất.
Lý-mạc-Thu ngạc nhiên nghĩ thầm:
"Quái lạ! Người ném dị vật vào kim châm tất có một sức mạnh phi thường và một tài năng tuyệt thế mới có thể hạ nổi bửu bối lợi hại nầy."
Đây là lần đầu tiên mà bí quyết gia truyền của môn phái Xích-luyện bị chạm phải một đối thủ cừ khôi.
Lý-mạc-Thu quyết định nên tạm rút lui khỏi vòng chiến, và trước khi rút lui ít ra nàng cũng phải thanh toán hai đứa bé Trình-Anh và Lục-vô-Song để kết thúc chương trình rửa hận đối với gia đình họ Lục.
Nàng nhảy chồm tới, nắm vào lưng Trình-Anh. Nhưng khi bàn tay nàng sắp bóp cổ con bé thì nàng chợt thấy vuông lụa có thêu hoa hồng, mảnh lụa chính tay nàng đã tặng cho Lục-triển Nguyên để kỷ niệm mối tình đầu.
Một lần nữa, con tim của Lý-mạc-Thu trở nên mềm yếu. Bao nhiêu tình cảm của thời hoa niên nổi dậy làm cho tâm hồn nàng ngây ngất, tay nàng không thể hạ thủ nổi Trình-Anh.
Nàng suy nghĩ:
Thì ra Lục-triển-Nguyên không bao giờ quên ta!
Không kết liễu được sinh mệnh Trình-Anh. Lý-mạc-Thu quay sang Lục-vô-Song và cũng nắm cổ Lục-vô-Song toan bóp chết. Nhưng nàng cũng lại chợt thấy vuông lụa có thêu hoa hồng đeo ở cổ con bé. Nàng dừng tay thốt lên một tiếng lạ lùng!
- ủa! Ta chỉ tặng Lục-triển-Nguyên có một vuông lụa, cớ sao nay lại có đến hai. Như vậy một thật một giả chăng?
Nghĩ thế, Lý-mạc-Thu còn trù trừ chưa quyết. Nàng buông tay xô Lục-vô-Song ngã về một bên.
Bỗng nghe sau lưng nàng có hơi gió động, nàng đoán biết có chuyện chẳng lành, vội quay chiếc phất trần ra đón đỡ.
Quả nhiên, có một viên đá từ đâu ném đến, chạm phải cây phất trần rơi xuống.
Lý-mạc-Thu cảm thấy nguy cơ dồn dập, nếu còn ở lại tất khó nổi thoát thân với người ném đá bí mật nầy. Nàng kẹp Lục-vô-Song vào nách, phi thân biến mất về phía chân trời.
Trình-Anh thấy Lục-vô-Song bị bắt đem đi, liền cắm cổ chạy theo và la lớn:
- Biểu muội! Biểu muội ôi!
Nhưng Trình-Anh làm sao theo kịp con ác tặc đã đụng lối kinh công thần tốc?
Mặc dầu thế, Trình-Anh vốn có tánh kiên nghị, không bao giờ chịu bỏ dở một ý định nên vẫn tiếp tục đuổi theo. Cô bé vừa kêu, vừa chạy mãi.
Cho đến mấy dặm đường, Trình-Anh gặp một con suối chảy ngang không thể nào qua được mới dừng chân lại, lòng ray rứt đau đớn vô cùng.
Nhưng chỉ chốc lát Trình-Anh lại thấy bóng dáng của đạo cô hiệp đến.
Thì ra đó là Lý-mạc-Thu, nhưng bên nách không còn thấy Lục-vô-Song đâu nữa.
Trình-Anh thấy Lý-mạc-Thu trở lại, khiếp sợ, nhưng tình thương em làm cô ta liều lĩnh, gào thét:
- Đạo cô! Hãy trả Lục-tiểu-muội cho tôi! Đạo cô giấu Lục tiểu muội nơi đâu?
Lý-mạc-Thu nhìn thẳng vào mặt Trình-Anh thấy phảng phất hình ảnh của tình địch mình thuở trước, bao nhiêu hờn oán dồn lên tận nét mặt, nàng hầm hầm rút phất trần tung mạnh vào Trình-Anh. Nhưng lạ thay, chiếc phất trần của nàng bị tung ngược trở lại như vướng phải một cản trở bất ngờ.
Và, đạo cô cảm thấy cả thân mình cũng bị tung lên cao đến mấy trượng rồi rơi xuống.
Biết gặp phải địch thủ nguy hiểm. Lý-mạc-Thu múa tít chiếc phất trần quanh người để đề phòng sự công kích bất thình lình.
Bỗng Lý-mạc-Thu thấy bên cạnh Trình-Anh xuất hiện một quái nhân, mặc chiếc thanh bào, sắc diện lạ lùng không giống người chết mà cũng không giống người sống. Lý-mạc-Thu đoán biết tài nghệ của người nầy tất phải cao hơn mình. Nhưng tại sao trong giới võ lâm một tài nghệ như thế mà nàng chưa bao giờ nghe ai nói đến.
Nàng vừa định lên tiếng hỏi, thì quái nhân đã nói với Trình-Anh:
- Cháu ơi! con nữ tặc đó là loài hung ác. Cháu để ta trừ nó đi nhé!
Trình-Anh cản lại, nói:
- Không, không! Cháu sợ lắm! Cháu sợ lắm!
Quái nhân nói:
- Cháu đừng sợ! cháu chỉ cần ừ một tiếng là ta ra tay ngay. Hay là ta để cho cháu đánh nó cũng được.
Trình-Anh một mực sợ sệt, nói:
- Không không! Cháu không dám.
Vị quái nhân rút trong túi áo một hòn sạn nhỏ ném nhẹ vào phía Lý-mạc-Thu. Hòn sạn trúng đâu không rõ nhưng Lý-mạc-Thu dừng ngay chiếc phất trần không múa máy được nữa. Nàng đứng trân trân như một pho tượng.
Quái nhân dắt tay Trình-Anh từ từ tiến sát, khoá tay Lý-mạc-Thu lại, và lấy tay Trình-Anh đánh mạnh vào đầu vào lưng của con nữ tặc.
Ban đầu Trình-Anh còn rụt rè, e sợ, nhưng thấy đánh mãi mà Lý-mạc-Thu vẫn không hành động gì được nên cô ta mới an lòng. Trình-Anh nghĩ đến những hình ảnh của những người thân yêu ở Lục gia trang đã chết vì tay con nữ tặc nên không còn cầm được lòng căm tức. Cô ta thoi mạnh vào đầu Lý-mạc-Thu mấy cái cho hả dạ.
Lý-mạc-Thu vẫn cầm chiếc phất trần trong tay mà đứng yên để mặc cho Trình-Anh đánh.
Nỗi nhục nhã tràn trề. Qua một lúc, Lý-mạc-Thu hét lên một tiếng, tung bửu bối ném về phía quái nhân. Mười chiếc kim châm bất thần phóng ra một lượt, nhưng đều bị quái nhân tung sạn ném rơi xuống đất. Duy chỉ còn hai chiếc kim châm đâm trúng vào bụng Trình-Anh.
Thì ra đó là độc kế của Lý-mạc-Thu. Tám chiếc kim nàng phóng về quái nhân chỉ cốt "dương đông kích tây" giữ tay quái nhân để cho hai chiếc kim độc kia kết liễu sinh mệnh của Trình-Anh.
Thi hành xong độc thủ, Lý-mạc-Thu phi thân biến mất, lòng vẫn thắc mắc không rõ quái nhân đó là ai mà dám trêu Xích-luyện Tiên tử nhục nhã đến thế.
Quái nhân áo xanh thấy Trình-Anh biến sắc, biết cô ta trúng phải kim độc liền cấp tốc kẹp Trình-Anh vào nách rồi phi thân biến về hướng Tây.
Hồi 5
Đứa bé lạc loài
Nhắc lại Kha-trấn-ác thấy Lý-mạc-Thu đến cũng đột ngột mà đi cũng đột ngột, rồi hai đứa bé Trình-Anh, Lục-vô-Song bị mất dạng, lòng áy náy không an, ngồi thừ ra suy tính.
Thằng bé có chim hồng thấy thế dõng dạc nói:
- Thôi! Ông đừng phiền muộn! Để cháu đi cứu hai em về.
Dứt lời, hắn nhắm phía Lý-mạc-Thu bỏ đi ban nãy đuổi theo.
Chẳng mấy lúc, nó lạc mất phương hướng, bốn bề mênh mông trời đất. Không biết đâu là đâu nữa cả. Nó cắm cổ chạy một hơi lâu thì may thay nó nghe được tiếng gọi của Trình-Anh.
- Biểu muội ơi! Biểu muội ơi!
Nhưng nó có cảm giác tiếng gọi càng tắt dần. Ngơ ngẩn, nó tìm một nơi cao nhất, nhìn quanh tứ phía, nhưng không thấy một bóng dáng ai.
Đang lửng lơ trên đường, bỗng mắt nó thấy một vật sáng chói lấp lánh trên cỏ xanh, ngay ở gần chân nó.
Nó cúi xuống xem, đó là mười chiếc kim châm dài độ năm phân, chiếc nào cũng có chạm hoa rất đẹp.
Nó lượm một chiếc cầm nơi tay ngắm nghía. Bỗng nó thấy một con cóc từ đâu nhảy đến chạm vào một chiếc kim khác rồi lăn ra chết tức thì.
Thấy là lạ, thằng bé tỏ ra khoái chí, nó ngồi chồm hỗm xuống cúi đầu xem, nào kiến, nào đế, nào ong thay phiên động vào các chiếc kim rồi lăn ra chết.
Xem một hồi, nó đứng dậy bước đi trong tay vẫn giữ chiếc kim đã lượn. Nó suy nghĩ về đặc tính lạ lùng của chiếc kim thấy một đàn kiến, nó liền lấy kim thử lại, quả nhiên mỗi lần chiếc kim đến đâu là đàn kiến lăn ra chết như rạ. Thử vào các loại côn trùng thì thứ nào gặp kim cũng đều ngã ra chết như nhau.
Nó nhảy nhót mừng thầm, tưởng bắt được bửu bối có thể đem về giúp nông dân bảo vệ mùa màng.
Nhưng nhìn lại, nó bỗng thấy tay nó tím bầm, và những ngón tay nó bắt đầu thấy tê cóng.
Biến sắc, nó thở dài vứt cây kim xuống đất hét lớn:
- Thôi chết rồi! Ta đã nắm phải chiếc kim có chất độc! biết làm sao bây giờ.
Tay nó cứ mỗi lúc lại đen thâm hơn và tê buốt nhiều hơn. Nó khóc thét lên, lấy tay mài vào cây, vào cỏ, như càng cọ xát thì bàn tay càng đen thâm rất chóng.
Vốn đã sống với rắn độc từ nhỏ, thằng bé hiểu ngay chất độc này có thể dày vò cơ thể, nó hoảng sợ khóc rống lên thảm thiết.
Bỗng đằng sau lưng nó có tiếng người. Một giọng khàn khàn như phái xuất từ dưới mặt đất đưa lên. Nó ngoái cổ nhìn lại thì thấy một ông lão! Vâng, đúng là một ông lão, nhưng lại "đứng" chổng ngược đầu xuống đất hai chân thẳng lên trời.
Thằng bé hoảng sợ, quên mất tai nạn của mình hiện tại, trố mắt nhìn, rồi hỏi:
- Thưa ông! Ông là ai? Tại sao ông không đứng bằng hai chân, lại đứng bằng cái đầu?
Ông lão không nói, nhào lộn mấy vòng rồi vẫn đứng bằng lối chổng đầu xuống đất.
Thằng bé hoảng sợ định bỏ chạy, nhưng với tánh tò mò, nó muốn hiểu ông lão ngược đời đó là ai nên đánh bạo hỏi:
- Thưa ông, ông là ai?
Ông lão nói:
- Ta là ai? Nếu ta biết là ai thì còn nói gì nữa?
Nghe thế, thằng bé kinh hồn đâm đầu chạy. Nhưng có chạy đến đâu cũng thấy ông lão ngược đời đó chổng cẳng trước mặt.
Mệt quá! Cuối cùng thằng bé nằm dài úp bụng xuống đất.
Bấy giờ, ông lão mới từ từ nói:
- Con chạy đi đâu cũng vô ích, chất độc đang ngấm vào người con rất gấp.
Đến đấy thằng bé mới nhớ lại nỗi nguy hiểm của mình, nó khóc lên, nói:
- Ông ơi! Ông cứu con với!
Ông lão lắc đầu! Mỗi lần ông ta lắc đầu là toàn thân rung chuyển vì ông ta dùng đầu làm chân.
Lão nói:
- Khó cứu lắm con ơi! Khó cứu lắm!
Thằng bé chăm chú nhìn ông lão rồi nói:
- Không! Ông có thừa bản lãnh để cứu con! Xin ông thương giùm tánh mạng! Ông cứu con với!
Giọng nói thiết tha của thằng bé có cái gì dễ mến, ông lão hỏi lại:
- Sao con biết ta có thể cứu con?
Thằng bé nghe ông lão nói biết chừng ông lão đã xiêu lòng nó liền tấn công theo cái lối "đả xà tuỳ côn" mà nó thường áp dụng để bắt rắn.
- Ông ơi! Con biết chứ! Vì nếu ông lộn ngược lại, đứng bằng chân như mọi người thì chắc trên trần thế này không ai bằng ông được.
Ông lão cười lớn, bảo đứa bé:
- Này, con hãy lộn ngược lại cho ta xem mặt thử nào.
Thằng bé ngoan ngoãn vâng lời chống hai tay, lộn xuống đất đưa hai chân lên trời như ông lão.
Ông lão lần đến nhìn tận mặt thằng bé, thấy thằng bé mặt khôi ngô sáng sủa, mày rô miệng rộng trán cao, xem rất thông minh tuấn tú. Ông lão lẩm bẩm gì không nghe được, nhưng nét mặt ông ta dần dần như suy nghĩ điều gì.
Thằng bé ngay mà lo sợ ông ta đổi ý kiến, không chịu giải cứu cho nó thì tánh mạng nó tiêu ma. Nó liền lấy giọng thảm thiết van lơn:
- Ông ơi! Ông thương tình cứu lấy con.
Ông lão mỉm cười;
- Thôi được! Cứu con thực ra chẳng khó khăn gì. Nhưng cốt yếu con phải chịu điều kiện này mới được.
Thằng bé hỏi:
Ông muốn gì con cũng xin chịu.
Ông lão nói:
- Ông chỉ muốn có điều là ông bảo gì con cũng phải nghe theo.
Thằng bé có ý nghi hoặc, hỏi:
- Sao? Ông bảo gì con cũng nghe ư? Thế ông bảo con làm điều trái với danh dự, với luân thường con cũng phải làm?
Thấy thằng bé do dự, ông lão tỏ ý giận nói:
- Nếu không nghe thì mày chết mặc mày. Ta đi đây.
Nói xong ông lão dùng tay và đầu chạy như bay.
Thằng bé hoảng hốt chạy theo níu lại khẩn khoản:
- Thưa ông đừng vội giận! con hứa sẽ làm theo ý muốn của ông bất cứ việc gì.
Ông lão dừng lại nói:
- ừ! Có thế chứ! Nhưng con phải lấy danh dự thề mới được.
Thằng bé ranh mãnh thưa:
- Vâng, con thề rằng nếu ông cứu con khỏi nhiễm độc ông bảo gì con cũng nghe. Nếu con bội ước con sẽ chết vì chất độc.
Thề như thế thằng bé nghĩ cũng chẳng làm sao. Nếu lão đã cứu khỏi nhiễm độc rồi thì làm sao chất độc nhiễm lại mà chết đi được.
Ông lão nhìn nó một lúc rồi lấy tay nắm vào vai nó quay đi quay lại vài lần bỗng nhiên tay nó có cảm giác bớt tê.
Tiếp đó, ông lão lại nói tiếp:
- Con ôi! Con dễ mến quá!
Thằng bé muốn cho ông lão chữa mau khỏi nên thúc giục:
- Ông ôi! Ông hãy quay mạnh vai của con đi ông.
Ông lão dịu dàng bảo:
- Con ôi! Con hãy gọi ta bằng cha!
Thằng bé phụng phịu, nói:
- Không được! Cha con đã chết rồi làm sao con còn gọi ông bằng cha!
Ông lão nhíu mày, nói:
- à, thế ra ông mới bảo một lần đầu mà con không nghe theo. Con đã quên lời thề rồi sao?
Thằng bé nghĩ thầm:
- Lão bắt mình gọi lão bằng cha có lẽ lão muốn tìm con nuôi.
Thật ra, thằng bé mồ côi cha từ thuở nhỏ, lòng nó đang khát vọng mối mông chiều trong tình cha con. Nó muốn được có cha như mọi đứa trẻ diễm phúc khác. Tuy nhiên đối với ông lão nầy điên không ra điên, tỉnh không ra tỉnh, thật nó khó lòng nhận làm nghĩa phụ.
Thấy nó do dự, ông lão nói:
- Được! Nếu con không gọi ta là cha thì có đứa bé khác sẽ gọi. Không thiếu gì đứa muốn gọi ta bằng cha nhưng ta đâu có bằng lòng.
Đoạn ông lão thốt ra một tràng tiếng lạ lùng chẳng hiểu ý nghĩa ra làm sao cả.
Thằng bé lại sợ ông lão giận bỏ đi nên nó vồn vã:
- Thưa cha! Bấy giờ cha định đi đâu?
Nét hân hoan lộ trên nét mặt nhăn nheo của lão khi nghe đứa bé gọi mình bằng cha, lão đáp:
- Con cưng của cha! Cha phải dạy con phương pháp trừ độc mới được.
Rồi lão kéo thằng bé vào lòng nói tiếp:
- Con đã trúng phải chất độc trong kim băng phách của Lý-mạc-Thu. Trong thiên hạ chỉ có hai người trị được độc tinh nầy. Một là vị Hoà thương nhưng vị này cũng phải hàng chục năm công phu mới chữa nổi, còn hai là cha của con.
Thằng bé hốt hoảng nói:
- Thế thì cha của con nay đã chết rồi biết làm sao?
Ông lão cười xoà, nói:
- Thế con không phải là con của lão ư? Từ nay cha đi đâu con phải theo đó nhé.
Giữa lúc đó trên nền trời bỗng xuất hiện hai bóng chim ưng. Hai con chim quần một hồi rồi từ từ hạ xuống, xa xa có tiếng huýt gió vọng lại, âm thanh trầm bổng như tiếng tiên.
Ông lão giật mình kinh ngạc nói:
- Chính nó rồi! Ta không thể gặp nó được! Không thể nào gặp nó được!
Dứt lời, lão đăng thân trốn mất để thằng bé lại vừa ngẩn ngơ vừa lo sợ.
Nó kêu thất thanh:
- Cha! Cha ơi!
Bỗng nghe tiếng gió xao động sau lưng, nó quay lại thì không phải ông lão mà là đôi hiệp sĩ một trai một gái vừa phi thân đến và dừng chân dưới một gốc cây. Nam hiệp sĩ tuổi khoảng ba mươi lăm, thân hình vạm vỡ, mày rậm, mắt to, dáng người khoáng đại. Còn nữ hiệp sĩ tuổi độ ba mươi, tuy không còn độ thanh xuân, song nhan sắc hoa hờn nguyệt thẹn.
Hai con chim ưng theo tiếng huýt gió là đà bay quanh đôi hiệp sĩ, và cuối cùng mỗi con đậu vào vai mỗi người rít lên những tiếng kêu, thé thé như muốn kể lại một việc gì.
Nữ hiệp sĩ dịu dàng đưa tay vỗ vào cánh chim ưng, trỏ tay về phía thằng bé nói với người bạn đồng hành:
- Này anh! Anh xem người thiếu niên kia giống ai?
Nam hiệp sĩ không đáp, hỏi:
- Vì sao cặp thần ưng lại đến đây? Chẳng biết ở đảo có việc gì xảy ra chăng?
Hai vị hiệp sĩ nầy chính là Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung. Hai vợ chồng đang đi kiếm Hoàng-dược-Sư. Họ đi lùng khắp các quận huyện ở Giang-Nam, nhưng đến đâu Hoàng-công cũng biệt vô âm tín. Hoàng-Dung vốn biết thân phụ mến cảnh Giang-nam, nên từ Đại-giang ở miền Bắc lần thẳng đến Tiên-Hà ở miền Nam và không một nơi nào nổi danh thắng cảnh mà vợ chồng nàng không đặt chân tới để tìm kiếm.
Hôm ấy, nhân đến trấn Lăng-Hồ, phủ Hồ-Châu thì vừa thấy khói lửa ùn ùn nổi lên, dân trong trấn dắt nhau chạy đi cầu cứu, hỏi ra mới biết Lục gia trang đang bị hoả hoạn.
Quách-Tỉnh đoán chắc đây là trang thất của Lục-triển-Nguyên, vị lão anh hùng ở trấn Lăng-Hồ mà trước đây tuy chưa quen biết, Quách-Tỉnh từng nghe danh và hâm mộ.
Hai vợ chồng vụt chạy đến thì quả nhiên lửa đã tàn phá hết trang trại. Từ trong đống lửa toả ra mùi hôi khó chịu của thây ma người và vật bay khét lẹt.
Hoàng-Dung nhìn phong cảnh tiêu điều nói:
- Anh Quách-Tỉnh! Em nghi trong đám cháy này có điều quái lạ. Lục-triển-Nguyên là một vị lão anh hùng khét tiếng ở trấn này, còn Lục phu nhân cũng là tay nghĩa hiệp vậy thì vì sao trong đám cháy tầm thường vợ chồng không thoát thân được, và toàn thể gia nhân lại phải chết trong đống lửa. Nhất định phải có một bàn tay oán cừu nào hành động.
Quách-Tỉnh tuy đã trung niên, song máu nghĩa hiệp còn hăng, nhất là việc phó nguy cứu khổn thì lại càng không thể bỏ qua được, liền nói:
- Em nói đúng đấy! Chúng ta phải tìm cho ra tên thủ phạm mà cật vấn cho biết rõ nguyên do.
Đôi vợ chồng lùng quanh trang trại nhưng chẳng thấy dấu vết nào của hung thủ. Lúc trở về đến một bức tượng sắp đổ, Hoàng-Dung chỉ tay la lớn:
- Anh ơi! Hãy xem cái gì lạ kìa!
Quách-Tỉnh nhìn theo tay trỏ của Hoàng-Dung thì thấy trên bức tường có dấu năm bàn tay ấn vào.
Bức tường đó trước kia Lý-mạc-Thu đã ấn đến chín bàn tay nhưng vì sụp đổ mất hết bốn dấu, chỉ còn có năm dấu mà thôi.
Quách-Tỉnh kinh ngạc buột mồm la lên:
- Xích luyện Tiên tử!
Hoàng-Dung tiếp:
- Đúng nó rồi! Chính là con ác tặc Lý-mạc-Thu tài nghệ phi thường nhưng cũng độc ác phi thường chẳng kém gì Tây độc Âu dương Phong. Nó đã đến đất Giang-nam nầy rồi thì nhất định chúng ta cùng nó có dịp so tài.
Quách-Tỉnh nói:
- Con yêu nữ nầy không dễ gì đánh hạ nó mau đâu. Tốt hơn chúng ta lo đi tìm nhạc phu trước đã.
Hoàng Dung cười chế diễu:
- Thì ra người ta tuổi càng cao thì gan lại càng nhỏ ư?
Quách-Tỉnh điềm đạm nói:
- Lời em nói quả không sai! Anh còn nhớ lúc chúng mình độ tuổi thanh xuân nào có biết gì trời cao đất rộng, cứ hăm hở băng mình đến núi Hoa-sơn để tranh đoạt cái danh hiệu hão huyền "đệ nhất vũ công". Với cái tuổi này, dẫu có ai đem võng giá đến rước cũng chẳng thèm đi.
Hoàng-Dung cười xoà, nói:
- Chà! Quí hoá quá! Đến như đem kiệu rước cũng chẳng đi?
Hai người vừa đi vừa chuyện trò vui vẻ nhưng mắt luôn luôn để ý đến mọi khác lạ chung quanh.
Bỗng nhiên khi họ bước đến bên hồ vọng nguyệt trông thấy một vết sáng nhấp nhánh. Thì ra đó là hai chiếc kim châm, một chiếc rơi ngoài đất, một chiếc chìm dưới nước, cá trong hồ chết nổi lình bình.
Hoàng-Dung liền rút một chiếc khăn túi làm bao tay, nhặt chiếc kim châm lên, cẩn thận bọc lại và cho vào túi áo.
Hai người tiếp tục cuộc tìm kiếm hướng về phía khu rừng, mỗi người trong óc đang đuổi theo một ý nghĩ không ai nói với ai câu nào nữa, cho đến lúc họ gặp lại đôi thần ưng và đứa bé nói trên.
Thấy Quách-Tỉnh đã không trả lời câu hỏi về thằng bé, lại còn lo lắng có việc gì xảy ra ở đảo Đào-hoa, Hoàng-Dung tiếc đã không đem Quách-Phù theo cho được yên tâm, nàng nói:
- Nếu biết mình nhớ con thế nầy trước kia thà đem Quách-Phù theo còn hơn.
Bỗng có một mùi hôi tanh khó chịu phát ra bên cạnh. Hai người tìm tòi khắp nơi nhưng không thấy mà mùi hôi tanh cứ phảng phất như gần lắm.
Qua một lúc, Quách-Tỉnh mới tìm ra nơi chân đôi chim ưng bị một vết thương lở loét.
Quan sát kỹ thì thấy vết thương khác thường, thịt nơi vết thương đen và thâm tím, nhưng đôi chim không tỏ vẻ đau đớn gì.
Quách-Tỉnh lấy làm lạ nói:
- Vết thương gì thế nầy? Vì sao cả đôi chim ưng cùng bị. Chúng là Thần ưng làm sao có thể đả thương dễ dàng đến thế?
Nhìn lại thằng bé, Quách-Tỉnh chợt thấy nơi tay nó cũng đen thâm.
Chàng buột miệng nói:
- Người thiếu niên kia cũng trúng phải cùng một độc thủ chăng?
Hoàng-Dung liền chạy đến, vén tay áo đứa bé lên, lấy dao rạch vết thương và vuốt cho maú độc chảy ra. Nhưng lạ lùng làm sao, máu nó vẫn đỏ tươi, lại phảng phất một mùi thơm phưng phức khiến cho vợ chồng Quách-Tỉnh có cảm giác như hương thơm của đêm tân hôn tự thuở nào.
Hoàng-Dung ngơ ngẩn nói:
- Tại sao nó trúng độc mà lại không nhiễm độc?
Lạ lùng thật? Nhưng nàng đâu có biết hắn vừa được dưỡng phụ của hắn cứu chữa.
Hoàng-Dung trầm ngâm suy nghĩ rồi cũng lấy ra một viên thuốc đưa cho thằng bé. Nó bỏ vào mồm nuốt nghe mát dịu.
Hai con chim ưng cũng được Hoàng-Dung nhét thuốc vào mỏ mỗi con hai viên giống như thứ thuốc mà thằng bé đã uống.
Thời khắc trôi trong lặng lẽ, ray rứt. Bỗng Quách-Tỉnh đưa tay lên mồm hú lên một tiếng kinh hồn, khiến cho thằng bé hồn phi phách lạc. Tiếng hú trầm bổng khi lên khi xuống, lúc khoan thai lúc nhặt nghe như nhịp tiếng của thiên binh vạn mã. Tiếng hú làm xao động cả rừng cây, chim chóc đang đùa hót đều phải im tiếng, có con quá khiếp sợ sà xuống đất như một chiếc lá rơi. Tiếng hú ước chừng dội ra xa đến hàng chục dặm đường.
Hoàng-Dung hiểu ngay đó là tiếng tuyên chiến của Quách-Tỉnh nhắn gởi Lý-mạc-Thu, bèn đưa tay lên hú theo. Hai tiếng hú quyện nhau, một tiếng trầm trầm hùng dũng, một tiếng thánh thót như chuông ngân tự hồ đôi chim bằng đang thênh thang giữa không trung.
Tất cả dân cư trong vùng đều nghe rõ tiếng hú ấy, người nào cũng ngẩng đầu nghe ngóng tìm hiểu, nhưng dù không tìm ra lời giải thích họ cũng dự đoán có sự khiêu khích binh đao.
Ông lão già đi ngược đầu nghe tiếng hú lại càng phi thân hơn nữa.
Còn người đạo sĩ áo xanh đang ẵm Trình-Anh nghe tiếng hú liền cười bảo:
- Thế là họ đã đến! Bà con ta cần nên tránh xa.
Lý-mạc-Thu đang cặp nách Lục-vô-Song phi thân về nơi ẩn trú, nghe tiếng hú liền dừng chân, rút chiếc phất trần ra nghĩ thầm:
- Nghe Quách-Tỉnh là tay anh hùng nghĩa hiệp nổi tiếng trong giới giang hồ hảo hớn, ta thử đến gặp xem có đúng với lời đồn chăng?
Nhưng rồi nàng lại nghe tiếng hú trong trẻo của Hoàng-Dung. Nàng có cảm giác như mình bị cô độc trước sự gắn bó của đôi hiệp khách kia, nàng bỏ ý định chưa vội tìm Quách Tỉnh. Nàng thong thả ôm Lục-vô-Song bỏ đi, trong lòng lo lắng trăm bề.
Lại nhắc đến Vũ-tam-nương sau khi Lý-mạc-Thu biến dạng liền bước tới đỡ chồng dậy và cùng hai con từ biệt Kha-trấn-ác.
Còn Kha-trấn-ác sau khi bị thất thủ trước Xích-Luyện Tiên-tử, sợ con nữ tặc đến nữa, ông ta liền dẫn cô bé Quách-Phù đi nơi khác.
Vừa đi được một đoạn đường nghe tiếng hú, Kha-trấn-ác biết vợ chồng Quách-Tỉnh đến nơi đây liền hướng về phía có tiếng hú ấy.
Quách-Phù nhảy nhót mừng rỡ sắp gặp mặt song thân.
Nhưng khi gần đến nơi, con bé bỗng thừ ra suy tính:
Ông ơi! Mình tự nhiên bỏ đảo ra đi, nay gặp song thân cháu thế nào cũng bị song thân con rầy la! Vậy ông nhận giùm rằng ông đưa con đi tìm ông ngoại nhé!
Kha-trấn-ác quắc mắt, nói:
Con thật quá quắt! Đòi bỏ đảo ra đi bây giờ lại bắt ông nhận lấy lỗi ấy. Lần nầy ông không nghe theo lời con đâu.
Con bé ranh mãnh níu áo ông lão làm ra bộ hối hận nói:
Nếu ông không nhận giùm lỗi của cháu, cháu quyết bỏ đi nơi khác không bao giờ dám gặp song thân.
Kha-trấn-ác biết rõ tánh bướng bỉnh của Quách-Phù sợ nó bỏ đi thật nên lưỡng lự.
Quách-Phù liền chạy núp sau một gốc cây đứng yên. Kha-trấn-ác vì loà mắt không trông thấy nó vội gọi lớn.
Phù-nhi! Phù-nhi! Hãy trở lại đây! Ông bằng lòng nhận lấy lỗi ấy.
Con bé nhảy ra cười khì, nói:
Con biết mà! Thế nào ông cũng chịu nhận. Ông cưng con lắm phải không ông? Con biết ông không nỡ để song thân con quở mắng.
Thế rồi một già một trẻ, tay dắt tay vui vẻ tiến về phía vợ chồng Quách-Tỉnh.
Gia đình gặp nhau mừng rỡ.
Quách-Phù ôm chầm lấy mẹ và nói:
Ông nhất định dắt con đi tìm cha mẹ và ông ngoại, mẹ có giận chăng?
Hoàng-Dung vốn biết tánh nết của con nên cũng gật đầu tỏ vẻ hân hoan rồi cùng Quách-Tỉnh đến thỉnh an Kha-trấn-ác.
Quách-Phù lại thấy cha mình trầm lặng không nói đến mình sợ cha quở mắng, liền kiếm cớ dắt thằng bé đến gần lùm cây, bảo:
- Nầy! Chúng ta cùng đi hái hoa chơi. Anh hái hoa kết vòng cho em mang nhé!
Thằng bé ngoan ngoãn bước theo! Quách-Phù thấy bàn tay đứa bé có một vết bầm, máu chảy ri rỉ, liền đứng đằng xa, và nói:
- Tay anh sao mà giống tay người sắp chết thế. Em không thèm chơi với anh đâu.
Dứt lời, Quách-Phù bỏ chàng thiếu niên đi chơi chỗ khác.
Thấy hai đứa bé mỗi đứa đi một đường, Quách-Tỉnh ngỡ thằng bé không muốn chơi với con mình, liền nói:
- Kìa em bé! Vết thương của em chưa khỏi đâu. Hãy ở lại đây chớ vội đi mà nguy hiểm.
Thằng bé vừa bị lời nói kiêu căng của Quách-Phù, lòng tự ái bị chạm nét mặt dàu dàu, chẳng còn kể đến ai nữa, cứ tiếp tục lủi thủi ra đi.
Quách-Tỉnh vốn sẵn có cảm tình với thằng bé, vội chạy đến nắm tay nó hỏi:
- Vì sao em bị thương như thế?
Thằng bé bực mình trả lời cộc lốc:
- Can dự gì đến ai mà hỏi.
Rồi nó dằng tay ra, tung chân bước tới.
Quách-Tỉnh thấy mặt mày thằng bé phảng phất giống một người cố tri, liền theo hỏi:
- Này em! Em tên họ là gì?
Thằng bé nghĩ thầm:
"Đã muốn hỏi tên, ta cho một tên giả xem sao". Hắn nói:
- Tôi dòng họ Tần, tên là Tác-Xà.
Lời nói ấy làm cho Quách-Tỉnh thất vọng, nhưng chưa thôi, Quách-Tỉnh còn muốn hỏi nữa, nhưng thằng bé cứ vùng vằng mãi không chịu đáp lời.
Đằng kia, mẹ con Hoàng-Dung đang tâm sự với nhau. Quách-Phù kể cho mẹ nghe những biến cố vừa xảy ra từ chuyện gia đình họ Lục đến chuyện đôi chim ưng rồi đến chuyện con chim hồng mổ vào mắt Lý-mạc-Thu.
Hoàng-Dung nghe đến đó liền hỏi:
- Thế con chim hồng đó có phải đến cùng một lúc với người thiếu niên này chăng?
Quách-Phù gật đầu.
Hoàng-Dung liền dắt con chạy đến bên Quách-Tỉnh và thằng bé, nói:
- Phải em họ Dương tên Qua chăng. Mẹ em là dòng dõi họ Tần phải không?
Chính người thiếu niên đó là Dương-Qua. Khi thấy mình lộ tông tích, Dương-Qua nổi giận hầm hầm, chất độc trong người thừa cơ hội ngấm vào rất mau làm cho choáng váng rồi ngã xuống đất bất tỉnh.
Hốt hoảng, Hoàng-Dung đỡ nó dậy, lay mấy lần và điểm luôn mấy huyệt hồi sinh, nhưng nó vẫn chưa tỉnh. Đôi mắt nó thiêm thiếp, hơi thở thoi thóp trông rất yếu ớt.
Quách-Tỉnh ra dáng suy nghĩ vừa lo mừng. Chàng nói:
- Thôi đúng rồi! Nó là con của Dương-Khang.
Hoàng-Dung thấy tình trạng của Dương-Qua tối nguy ngập, nhiễm độc trầm trọng không biết cách nào để chữa được giữa nơi hoang vắng, liền tỏ ý kiến:
- Chúng ta phải mau mau mang nó về khách điếm rồi ra phố bổ thuốc mới mong điều trị.
Quách-Tỉnh theo lời cõng Dương-Qua. Còn mọi người cũng nhanh chân theo sau hướng về phía thị trấn.
Đến khách điếm họ đặt Dương-Qua vào phòng an nghỉ rồi lo đi tìm dược liệu; Hoàng-Dung bươn bả chạy ra phố, nhưng rủi thay phố xá ở đây nhỏ bé, mười vị thuốc trong toa chỉ tìm được năm vị còn biết làm sao!
Quách-Tỉnh buồn bã vô hạn, bảo vợ:
- Hay là chúng ta đi vào rừng tìm thuốc?
Thấy vẻ băn khoăn của Quách-Tỉnh, Hoàng-Dung rõ tâm trạng của chồng từ khi Dương-Khang mất, không lúc nào Quách-Tỉnh khuây tình thương nhớ. May gặp được con của người xưa, những tưởng ít ra cũng được khuây khỏa đôi phần, ngờ đâu Dương-Qua lại ở vào tình trạng hiểm nghèo ấy.
Tuy không tin tưởng trong rừng có thể tìm được thuốc giải độc cho Dương-Qua, nhưng Hoàng-Dung cũng chiều theo để an ủi lòng chồng.
Hai người dặn Quách-Phù không được ra khỏi khách điếm và gởi gắm Dương-Qua cho Kha-trấn-ác xem chừng.
Dương-Qua mê man đến khuya vẫn chưa tỉnh. Kha-trấn-ác thỉnh thoảng vào phòng xem chừng thấy thế buồn bực vô cùng, song ông ta cũng chẳng dám ở luôn bên cạnh Dương-Qua, vì sợ cô bé Quách-Phù đang đêm buồn bực bỏ ra ngoài thì khốn.
Dương-Qua mê man như thế chẳng biết đã bao lâu, nhưng đến một chừng nào đó nó nghe như có người đấm bóp vào ác huyệt, lúc ở bụng, lúc ở vai nó, nó có cảm giác đau điếng rồi nó dần dần tỉnh lại, trong người sảng khoái. Nó từ từ mở mắt thì thấy một bóng người vụt ra nơi cửa sổ. Dương Qua dụi mắt, lồm cồm ngồi dậy, lần bước ra phía cửa sổ, rồi đánh phóc một cái, nó nhảy theo cái bóng người vừa biến đi.
Trên mái ngói, một ông lão, đoạn ông lão cắm đầu xuống đất chổng chân lên trời và đã bắt nó gọi bằng cha. Đích thị lão già kỳ dị ấy rồi.
Dương-Qua hỏi:
- Có phải ông đó không?
Bóng người trả lời:
- Sao con không gọi bằng cha?
Dương-Qua miễn cưỡng nói:
- Cha đấy ư? Thưa cha! Cha từ đâu đến?
Ông già hoan hỉ gọi:
- Con! Con ơi! Con hãy lại đây.
Dương-Qua nhảy lên mái ngói rất gọn gàng đu mình về phía ông già. Tuy nhiên sức nó còn yếu nên bị ngã quỵ xuống, và la lên một tiếng:
- Chao ôi!
Ông lão vốn đi ngược thân nên hạ mình xuống một cách lẹ làng đưa bàn tay đỡ lấy Dương-Qua bồng lên trên mái.
Phút chốc, nơi phòng trong có tiếng lao xao, và ánh đèn sáng rực, ông lão sợ mọi người phát giác tung tích của mình vội vã xốc ngược Dương Qua, và cứ cài đà ngược thân băng mình phi hành xuất dạng.
Kha-trấn-ác nghe tiếng động nhảy lên mái nhà nhưng không còn kịp nữa. Lão xem xét bốn bề không còn dấu vết gì nên trở lại phòng riêng.
Lão già kỳ dị chạy ra khỏi thị trấn đến một nơi đồng không mông quạnh, liền dừng chân, đặt Dương-Qua xuống đất và nói:
- Bây giờ con hãy tiếp tục học tập cách chữa độc.
Dương-Qua thực hành theo lời chỉ giáo của lão, chẳng mấy chốc nó cảm thấy sức lực bình phục như xưa.
Lão già khen:
- Con thật quả thông minh dĩnh ngộ hơn cha hồi nhỏ nhiều. Thật con xứng đáng là con của cha đó.
Lão già ôm Dương-Qua vào lòng mà trí tưởng tượng như đang ôm đứa con thật của lão. Hai dòng nước mắt của lão từ từ chảy xuống đôi gò má nhăn nheo của một người cha đau khổ.
Dương-Qua từ nhỏ bị mồ côi cha, đến lúc lên năm người mẹ bị rắn độc cắn chết, thế là thằng bé mồ côi phải một mình sống trong khổ cực, nay đây mai đó tìm kế sanh nhai. Trong cuộc sống lưu linh đó, đã nhuộm cho thằng bé đầy đắng cay tủi nhục. Trái tim non nớt của nó phải cứng rắn lên và chất chứa đầy ác cảm với xã hội loài người. Đối với lão già kỳ dị xưa nay chưa hề quen biết nay phải nhận làm cha, dẫu rằng cha nuôi nó cũng không thể không nghi ngờ dè dặt. Ai dám bảo lão già kia không lợi dụng tình phụ tử thiêng liêng để nhử nó vào vòng cạm bẫy. Mặc dầu nó tha thiết tình gia đình thật, song đời đã bắt nó có nhiều quan niệm ác cảm.
Tuy nhiên, những giọt nước mắt của ông lão làm cho nó cảm động. Nó ôm chặt vào cổ ông ta sụt sùi nói:
- Cha! Cha!
Nó kêu lên những tiếng "cha" rất tha thiết và thành thật.
Và, đôi già trẻ cùng một nhịp yêu đương. Họ ôm nhau, nhìn nhau với những quan niệm sống mãi không rời. Người ta tưởng như không có cái gì có thể chia rẽ được mối tình thiết tha đó.
Đôi mắt lão già ước chừng như muốn nói với Dương-Qua:
- Con ơi con! Từ nay kẻ nào xúc phạm đến tánh mạng của con tức là đã xúc phạm đến tánh mạng của cha vậy".
Dương-Qua ôm ông lão kêu cha không biết chán.
Trong phút thống thiết, ông lão vui vẻ bảo con:
- Con ơi! Cha sẽ truyền cho con ngón võ đắc ý nhất và lợi hại nhất của đời cha.
Dứt lời, ông lão ngồi chồm hỗm xuống đất, tất cả sức nặng con người chỉ tựa vào mỏm hai ngón chân, hai ngón tay co rút lại.
Dương-Qua nhìn thấy ông ta giống như một pho thần tượng chạm trong thế bất động nhưng linh hoạt lạ thường, từ cặp mắt đứng trông như thoát ra hai luồng hào quang đầy sát khí, khiến cho đối phương phải bị áp đảo ngay lúc ban đầu không kịp đối phó.
Bỗng lão già rống lên mấy tiếng "oạng! oạng! oạng!" như tiếng ễnh trong, toàn thân tung khỏi điểm tựa như một phát tên, hai tay vụt tung ra đấm một bức tường đất gần đấy, bức tường tan biến thành khói bụi mịt mờ, và khi khói bụi lắng xuống, ông lão vẫn y nguyên trong thế cũ, vững chắc như bình địa.
Dương-Qua khâm phục vô cùng, nói:
- Thưa cha, ngón võ ấy gọi là gì mà cao kỳ thế? Con có thể học được chăng?
Lão già đáp:
- Ngón đó gọi là "Hàm mổ công" con chỉ cần chịu khó tập luyện là thành.
Dương-Qua đáp:
- Nếu con học được ngón võ đó nhất định không còn ai dám khinh con nữa.
Lão già nhướng mắt với vẻ tự cao tự đại nói:
- Ai dám khinh con, thì kẻ ấy sẽ bị ta đánh ta xương nát thịt.
Lão già ấy không phải ai xa lạ trong giới võ lâm mà chính là Tây-độc Âu-dương-Phong. Từ ngày tuân kiêm ở Hoa-Gia bị Hoàng-Dung dùng kế đánh bại ông ta cầm tức như điên như dại. Đã mười năm qua ông ta không còn biết mình là ai nữa. Có những lúc trí nhớ trở lại nhưng lờ mờ. Âu-dương-Phong tự hỏi:
- Ta là ai nhỉ?
Nhưng lục soát trong ký ức, Tây-Độc vẫn không sao tìm ra một tia sáng.
Gần đây, Âu-dương-Phong đã khổ công ôn luyện món "Cửu âm chân kinh" nên sức lực có gia tăng, và trí não cũng có phần sáng sủa đi nhiều. Nhưng có sáng suốt là sáng suốt với việc đời, còn về dĩ vãng chẳng biết sự tức bực trước kia đến độ nào đã làm cho ông ta quên bẵng đi cả dĩ vãng. Ông ta vẫn có lúc điên điên dại dại không thể nào nhớ được những sự tình trong quá khứ.
Và câu hỏi "Ta là ai?" cứ lảng vảng trong trí. Âu-Dương-Phong vẫn không tìm ra câu giải đáp.
Thế là Âu-Dương-Phong ra công tập luyện cho Dương-Qua ngón võ "Hàm mổ công" một ngón võ lợi hại biến hoá tinh vi ảo điệu vô cùng, một ngón võ đã từng làm chấn động giới võ lâm đương thời mà từ trước đến nay ông ta nhất quyết không truyền dạy cho ai dẫu là con ruột của mình.
Dương-Qua khổ công tập luyện, nhưng khốn nỗi, Dương-Qua căn bản võ công chưa có bao nhiêu nên không thể nào thu nhận nổi, dẫu cố gắng cũng chẳng đoạt được mức tinh vi.
Âu-dương-Phong rất bực mình muốn tát vào mặt Dương-Qua mấy cái cho đã giận, nhưng không nỡ vì Dương-Qua với vẻ mặt hiền lành cương quyết, cố gắng tập luyện.
Dạy mãi mà không được, Âu-dương-Phong chán nản nói với Dương-Qua:
- Thôi, ta hãy tạm nghỉ đến mai sẽ hay.
Dương-Qua vâng lời, nhưng nhớ lại thái độ kiêu căng của con bé Quách-Phù, chê bàn tay đen nhiễm độc, Dương-Qua không muốn trở về với Quách-Tỉnh nữa. Nó nói:
- Cha ôi! Con theo cha, không muốn trở về với họ nữa.
Tuy Âu-Dương-Phong mơ hồ đối với tình quá khứ, mà việc hiện tại rất minh mẫn dị kỳ, vì thế ông khuyên Dương-Qua:
- Con hãy nghe cha, trí óc của cha ngày nay bất thường lúc điên, lúc dại, nếu con theo cha con có thể luỵ vào thân. Thôi, con cứ trở về với họ, lúc nào có cơ hội cha con ta sẽ trùng phùng, và lúc đó chẳng có một mãnh lực nào có thể xa cách cha con ta được.
Dương-Qua từ khi mất mẹ chưa bao giờ được nghe những lời nói thành thực và thống thiết như vậy. Nó vòng tay thưa:
- Vâng! Con xin nghe theo lời cha chỉ giáo. Nhưng xin cha hãy sớm tìm con nhé!
Âu-dương-Phong gật đầu, nói:
- Con khỏi phải lo. Dù con ở nơi chân trời góc bể, hoặc bất cứ nơi nào cha cũng tìm được.
Dứt lời, Âu-dương-Phong xốc Dương-Qua phi thẳng đến khách điếm.
Kha-trấn-ác đến phòng lần đầu chẳng thấy Dương-Qua trên giường, vừa lạ lùng vừa lo lắng. Lúc trở lại lần nữa thì Dương-Qua đã về, hắn nằm sải trên giường. Kha-trấn-ác định vào hỏi thì bỗng trên mái ngói có tiếng động. Nhờ thính tai, Kha-trấn-ác nhận ra đó là hành động của đôi hiệp sĩ cao cường vừa về. Ông ta chạy sang phòng bên, đem Quách-Phù vào giường Dương-Qua rồi vác thiết trượng đứng canh chừng.
Quả nhiên, tiếng động phi hành dần dần tiến gần, và có giọng nói nho nhỏ:
- Em Dung! Em xem có phải chính nó không?
Một giọng khác đáp:
- Kỳ quái thật! Chẳng biết có phải nó không?
Nghe rõ giọng nói đó là giọng nói của vợ chồng Quách-Tỉnh, Kha-trấn-ác yên tâm, mở cửa mời hai người vào.
Hoàng-Dung hỏi:
- Thưa sư phụ, chẳng hay sư phụ có thấy việc gì vừa xảy ra không?
Kha-trấn-ác đáp:
- Chẳng có việc gì cả.
Hoàng-Dung nói:
- Không lý chúng ta nhìn lầm.
Quách-Tỉnh nói:
- Không! Nhất định là nó!
Kha-trấn-ác hỏi:
- Nó là ai thế?
Hoàng-Dung lấy tay kéo áo Quách-Tỉnh ý không muốn để Quách-Tỉnh trả lời. Nhưng Quách-Tỉnh đối với sư phụ bao giờ cũng tỏ ra thành kính không giấu giếm một việc gì dẫu là việc nhỏ mọn, liền thưa:
- Thưa sư phụ, nó chính là Âu-dương-Phong.
Bình sanh Kha-trấn-ác chỉ ngại độc nhất có Âu-dương-Phong, nên khi nghe Quách-Tỉnh nói đến tên ông ta biến nhẹ, hạ giọng nói nhỏ:
- Âu-dương-Phong? Thế ra nó chưa chết sao?
Quách-Tỉnh nói:
- Chúng con vừa đi kiếm thuốc về bỗng thấy trên mái ngói có một bóng người khả nghi có lối phi thân đặc sắc. Chúng con liền đuổi theo nhưng không tìm thấy tông tích gì cả. Từ dáng điệu cho đến lối phi thân, bóng ấy giống hệt Âu-dương-Phong không khác gì cả.
Kha-trấn-ác vốn biết môn đệ của mình cẩn thận và chín chắn khi nói điều gì thì đã cân nhắc và suy nghĩ kỹ. Bởi thế, Kha-trấn-ác không còn nghi ngờ gì nữa, và tin chắc Tây-độc Âu-dương-Phong hiện giờ còn lẩn quẩn đâu đây.
Quách-Tỉnh quay về phía Dương-Qua, thấy sắc diện của thằng bé trở nên hồng hào, hơi thở điều hoà và đang ngủ say, lấy làm mừng rỡ, gọi vô nói:
- Em Dung ơi! Nó đã tỉnh rồi!
Thật ra Dương-Qua lúc ấy giả ngủ để nghe trộm câu chuyện của mấy người. Được biết tên nghĩa phụ mình là Âu-Dương-Phong và thấy cả ba hiệp sĩ đều sợ uy danh của nghĩa phụ nó nên lòng nó rất hoan hỉ.
Hoàng-Dung đến sát bên giường Dương-Qua, xem lại sắc mặt và vết thương ở bàn tay rồi lấy làm kinh ngạc.
Đôi vợ chồng đã lùng khắp mọi nơi nhưng chưa tìm ra những dược thảo cần thiết, đành thất vọng trở về không ngờ bệnh nhân không cần thang thuốc mà trở lại trạng thái bình thường như thế. Sự việc làm cho vợ chồng Quách-Tỉnh thắc mắc không ít.
Thậy vậy, chỉ có phép lạ mới có thể cứu Dương-Qua thoát khỏi tử thần.
Qua ngày sau, mọi người từ biệt khách điếm trở về đảo Đào-Hoa.
Nhưng tối hôm đó, trên đường về họ lại ghé vào một tửu điếm để nghỉ chân.
Kha-trấn-ác và Dương-Qua nghỉ một phòng, còn vợ chồng Quách-Tỉnh và con gái nghỉ một phòng.
Vào nửa đêm, bỗng nghe trên mái ngói có tiếng động, rồi kế đến nơi phòng bên cạnh có tiếng la lớn. Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung chồm dậy, phóng mình ra cửa sổ thì thấy hai cái bóng người đang quần nhau chiến đấu vô cùng kịch liệt. Một lúc, bỗng nghe một tiếng phịch, rồi một xác người từ trên đỉnh mái nhà rơi xuống.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top