than dieu dai hiep chuong 6 - 10
Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 6 : Mối Thâm thù trong cổ miếu
Người ngã từ trên mái nhà xuống hình như đã trúng phải một quả chưởng thôi sơn, nên thân mềm nhũn, chân tay bụi xụi.
Phàm trong nguyên tắc vũ công một vũ sĩ bị té bất kỳ trường hợp nào, thân hình phải co lại, tay ôm chặt lấy chân, đều thu gọn vào giữa hai đầu gối, như vậy tai nạn sẽ được hạn chế mà tính mạng sẽ được bảo đảm.
Nhìn qua lối rơi của người bạn trận, bọn người Quách-Tỉnh có cảm giác như người ấy phải bị một tai họa ghê gớm.
May thay, lúc đó Hoàng-Dung phóng mình ra kịp, đưa tay đỡ. Nạn nhân vừa được húng đặt xuống đất thì Hoàng-Dung đã bung người nhảy lên mái ngói. Quách-Tỉnh cũng nhảy theo.
Chỉ trong loáng mắt Hoàng-Dung đã chặn đứng đối phương để so tài sao thấp.
Hoàng-Dung biểu diễn những đường võ cực kỳ lợi hại, đến liên tiếp trong mười hiệp nàng mới cảm thấy võ công của nàng lúc nầy còn tinh tế hơn cách đây mười năm.
Mà đối thủ của nàng lúc đó không ai xa lạ chính là lão Tây-độc Âu-dương-Phong vậy.
Âu-dương-Phong cũng tỏ ra không kém, quả là danh bất hư truyền. Lão tiến thối công thủ một mực chín chắn, trầm tĩnh không để lộ một sắc thái nào để cho đối thủ có thể đo lường được sức lực và chiến thuật của mình.
Hoàng-Dung đánh một lúc bỗng la lớn:
- Âu-Dương tiên sinh:
Tây-Độc nghe tiếng kêu ngơ ngác hỏi:
- Ngươi gọi ta là gì?
Đường quyền của lão trở nên chểnh mảng, lão lui về thế thủ.
Chính vì hai tiếng "Âu-dương" đã nhắc cho lão nhớ mang máng cái gì trong ký ức, nhưng lão không rõ hai tiếng đó do đâu mà lão có cảm giác quen thuộc.
Vừa chống đỡ những đòn chưởng của Hoàng-Dung, lão vừa hỏi:
- Ngươi vừa gọi ta là gì nhỉ?
Quách-Tỉnh điềm tĩnh chờ Hoàng-Dung trả lời, nhưng Hoàng-Dung biết lão còn trong điên dại, chưa thoát khỏi việc uất ức phát khởi từ lúc thất bại ở Hoa-sơn, nên nàng ranh mãnh trả lời:
-Tôi gọi tiên sinh là... Triệu-Tiễn, Tôn-Lý, là Châu-Ngô Trần-Vương.
Hoàng-Dung đọc một tràng tên họ cốt để làm rối loạn thêm tinh thần Âu-dương-Phong.
Tội nghiệp cho lão đã ngơ ngác lại càng ngơ ngác không hiểu gì cả.
Quách-Tỉnh vốn tánh thuần hậu không nỡ để cho vợ mình tấn công một ông lão còn đang trong tình trạng bất thường nên xen vào nói:
- Ông lão ơi! Ông nên đi nơi khác! Tốt hơn đừng bao giờ ta gặp nhau nữa.
Giữa lúc đó, bỗng từ đàng sau có tiếng hét lớn:
- Mày chính là tên độc ác nhứt đời, đã một tay sát hại năm vị anh hùng huynh đệ của đời ta.
Tiếng hét vừa dứt thì bóng cây thiết trượng vừa bổ xuống ngang lưng Âu-dương-Phong.
Tiếng thét ấy chính là của Kha-trấn-ác, thủ lãnh nhất hùng nổi tiếng đất Giang-nam.
Quách-Tỉnh hoảng kinh vội la lớn:
- Hãy khoan tay! Sư phụ!
Nhưng đã trễ, cây thiết trượng đã bổ nhào xuống lưng Âu-dương-Phong.
Mà lạ thay! Cây thiết trượng vừa đánh xuống lại dội lên rồi văng khỏi tay Kha-trấn-ác kéo cả người theo.
Chiếc vũ khí nầy vốn nặng ngàn cân, lại bị tung rất mãnh liệt, lúc rơi vào mái nhà phá tan một lỗ ngói, đến lúc rớt xuống đất trúng phải một khách trú đang mơ màng giấc điệp, làm cho người khách nầy bị gãy cả hai chân, nên la thảm thiết.
Quách-Tỉnh thấy Kha-trấn-ác cùng vũ khí rơi xuống một lượt, chàng không lo ngại cho sinh mạng Kha-trấn-ác mà chỉ lo việc Âu-dương-Phong đuổi theo. Chàng liền nhảy ra nghênh địch, hét lớn:
- Âu-dương-Phong! Hãy xem đây!
Đoạn Quách-Tỉnh múa hai tay thành hai vòng khuyên, thoăn thoắt tới lui vừa thủ thế vừa khiêu khích.
Đó là ngón võ đắc ý nhất của Quách-Tỉnh, một trong mười tám đường độc đáo gọi là "Giáng long" mà từ mười năm trước Quách-Tỉnh nhờ nó mới nổi tiếng khi đương cự với các anh hùng trong thiên hạ.
Âu-dương-Phong vừa vận dụng quá nhiều sức lực để đánh bật Kha-trấn-ác, nên cảm thấy trong người thiếu hơi thở, lại đứng ngược chiều gió nên càng thấy ngột ngạt khó chịu.
Trước ngón đòn danh tiếng của Quách-Tỉnh, Âu-dương-Phong không thể khinh địch, lão liền xoay lại tránh hướng gió, và phóng mình xuống để thi thố ngón "Hàm mô công". Thế là hai kỳ phùng địch thủ đã đem sở trường của mình để đối chọi với nhau.
Quách-Tỉnh càng tiến sát vào địch thủ thì chưởng lực càng tăng. Mà Âu-dương-Phong càng chờ đợi thì chưởng lực càng tập trung thêm.
Khi hai bên sắp sáp chiếu, Âu-dương-Phong miệng "ngoạp! ngoạp! ngoạp!" mấy tiếng, hai tay tung ra như hai lưỡi búa. Nhưng gặp phải chưởng lực "Giáng long" của Quách-Tỉnh làm cho thân thế hai địch thủ đều tăng lên cao chấn động cả một bầu không khí.
Đã mười năm qua không gặp nhau lần này quả thật là lần kỳ ngộ giữa đôi anh hùng.
Cuộc đấu của họ ngày nay không phải hào hùng trong đường quyền hay đấu pháp, mà chính trong nội công chiến đấu. Họ đóng phí sức lực vào những ngón võ tầm thường, vào chưởng lực để thách thức nhau sức chịu đựng sức tập luyện công phu. Cho nên mỗi lần chưởng lực gặp nhau là mỗi lần bị sức phản ứng. Sức phản ứng phát ra làm rung rinh mọi vật, lá cây rơi lác đác, ngói nhà nứt răng rắc.
Cuộc đấu chiến chỉ trong giây lát mà một khoảng mái nhà làm đấu trường chịu không nổi bị vẹo xuống vỡ lở như một chiếc bành tráng bể. Hai đối thủ cùng bị rơi xuống đất một lúc. Tình cờ họ lại rơi ngay vào phòng, nơi mà người khách bất hạnh bị chiếc thiết trượng của Kha-trấn-ác làm gãy chân lúc nãy. Nào ngói, nào gạch, nào cây cối chôn lấp nạn nhân, chỉ còn nghe tiếng rên siết.
Hai hiệp sĩ đứng trên đống ngói vụn, họ vờn nhau xung quanh một cột trụ trên tiếng rên thảm thiết của kẻ khốn nạn. Không ai mà cả hai đối thủ đều chẳng dám vận dụng chưởng lực sợ thân hình của nạn nhân sẽ bị nát bấy dưới mấy bàn chân tưa.
Hoàng-Dung vừa nhảy xuống thấy tình thế không lợi cho Quách-Tỉnh vì đối với Tây-độc Âu-dương-Phong mà chiến đấu ngoài vòng chưởng lực Giáng-long thì khó mong thắng được.
Như thế, Hoàng-Dung thấy trước cái hại của Quách-Tỉnh nên lanh trí la lớn:
- A! Trương-Ba! Lý-Bôn! Triệu-Năm! Hãy xem đây.
Dứt lời, nàng đánh một chưởng rất nhẹ vào lưng Âu-dương-Phong. Chưởng ấy thuộc vào loại Lạc-Anh chưởng pháp: một loại chưởng tuy nhẹ nhàng song trúng phải thì dù gân cốt có luyện tập cường tráng như Âu-dương-Phong cũng phải tê liệt và nội tạng sẽ bị hoàn toàn rối loạn.
Tuy nhiên, Âu-dương-Phong vừa nghe Hoàng-Dung thốt lên câu nói dị thường, biết rằng nàng dùng thủ đoạn tâm lý để tấn công bất ngờ nên lão đã chuẩn bị trước.
Quả nhiên, đòn chưởng Lạc-Anh vừa hạ xuống thì bị quả thôi sơn của Tây-độc đánh bạt đội trúng Quách-Tỉnh văng ra xa còn Hoàng-Dung té xuống đất.
Muốn áp đảo đối phương, Âu-dương-Phong một lúc phải dùng quả thôi sơn đánh ngã hai đối thủ, nên ông ta cũng lăn lộn, vì ông ta đã đánh phải tấm giáp bào bằng da nhím của Hoàng-Dung. Chính tấm giáp này đã làm cho Âu-dương-Phong lảo đảo.
Cả ba đấu thủ đều lo lắng sợ phần thất bại về mình. Họ không còn kể gì đến nạn nhân bị gãy chân rên siết nữa, họ vận dụng hết chưởng lực để một còn một mất trong trận đấu cuối cùng.
Nhưng chưởng lực họ càng tập trung thì không khí càng ngưng đọng khiến cho hơi thở của mỗi người dần dần đi đến chỗ ngột ngạt.
Bỗng Quách-Tỉnh và Âu-dương-Phong cùng thổi lên một lượt vừa để ra hiệu khai chiến, vừa để thu hút một ít không khí dự trữ cho cuộc đấu.
Không khí vốn đã bị ngưng đọng vì chưởng lực tập trung lại bị đốt phá vì âm thanh của hai tiếng thét cùng phát đi một lúc làm chấn động cả toà nhà mái tường ào ào sập đổ. Mọi người trong khách điếm tưởng như đến giờ tận thế kéo nhau chạy ra khóc lóc. Tiếng kêu ơi ới giữa cảnh ngói đổ nhà tan.
Quách-Tỉnh và Âu-dương-Phong hét xong thì người nào cũng bị máu trào ra khỏi họng, lại gặp lúc tường xiên nhà sập, khói bụi mịt mờ, không còn thấy ai nữa.
Mãi đến lúc vợ chồng Quách-Tỉnh dìu nhau ra khỏi nơi đó thì không còn thấy bóng Âu-dương-Phong đâu nữa.
Một người a hoàn mách lại rằng nó có thấy bóng một lão già phi thân ngược đầu về hướng đông.
Hoàng-Dung gặp Kha-trấn-ác đang bế Quách-Tỉnh vào lòng liền nói:
- Thưa sư phụ, nhờ sư phụ trao lại con bé Quách-Phù cho con và cõng Quách-Tỉnh ra khỏi nơi nầy tìm chốn trú ẩn rồi sẽ hay.
Thế rồi, cả bọn người cõng người dắt cùng nhau tiến về hướng đông.
Bấy giờ, Quách-Tỉnh tinh thần vẫn minh mẫn nhưng không nói được vì chưởng lực của Âu-dương-Phong đánh trúng vào lưng và cũng vì phí sức quá nhiều vào việc tập trung chưởng lực.
Nằm trên lưng Kha-trấn-ác lắc lư theo nhịp bước. Quách-Tỉnh lần lần lấy lại sức, hơi thở điều hoà và chưa được bao nhiêu thì Quách-Tỉnh tỉnh hẳn.
Chàng nói với Kha-trấn-ác:
- Thưa sư phụ, con đã hồi sinh, xin sư phụ để con xuống.
Kha-trấn-ác mừng rỡ hỏi:
- Con đã bình phục sao?
Quách-Tỉnh gật đầu thưa:
- Lão Âu-dương-Phong quả thật lợi hại! Giao đấu với hắn chỉ mấy hiệp mà tổn đến bao nhiêu sức lực.
Rồi Quách-Tỉnh nhìn quanh không thấy Dương-Qua đâu liền hỏi:
- Dương-Qua sao không thấy tung hành?
Kha-trấn-ác không biết Dương-Qua là tên đứa bé nên ngơ ngác nhìn, Hoàng-Dung vội đỡ lời đáp:
- Anh đừng bận tâm. Chúng ta hãy tìm nơi trú ngụ đã. Còn thằng bé em sẽ đi tìm sau.
Bấy giờ trời đã mờ sáng, vạn vật bắt đầu hiện ra dưới màn sương đục. Quách-Tỉnh nói:
- Thương tích của anh đã đỡ. Vậy để anh cùng em đi tìm Dương-Qua.
Hoàng-Dung cau mày nói:
- Thằng bé nầy lanh lợi lắm! Hơi đâu mà lo.
Quả thật, Hoàng-Dung vừa dứt lời thì thấy xa xa bên kia đường sau một phiến đá trắng thấp thoáng bóng một đứa bé. Hoàng-Dung băng đường chạy đến xem thì quả nhiên là Dương-Qua.
Thằng bé cười hì hì thưa:
- Thưa chú! Thưa thím!
Giọng nói nọ tự nhiên và dịu dàng như đã quen thuộc từ lâu. Và hình như nó đã quen dùng lối xưng hô thân mật này đối với người xa lạ.
Hắn nói tiếp:
- Con chờ mãi chú thím mới đến.
Hoàng-Dung nghi hoặc nhưng chưa khám phá ra được điều gì khả dĩ đành phải làm lơ để dò xét. Nàng giả như không quan tâm, nói:
- Thôi, cháu hãy mau theo chúng ta.
Dương-Qua vừa cười, vừa lểnh mểnh chạy theo sau.
Quách-Phù bấy giờ đã tỉnh ngủ, thấy Dương-Qua, mừng rỡ nói:
- Anh đi đâu đến bây giờ mới thấy mặt.
Dương-Qua trả lời:
- Tôi đi bắt dế! Thật vui đáo để.
Quách-Phù bĩu môi hỏi lại:
- Vui gì tuồng chơi dế! Anh thấy vui thế nào?
Dương-Qua kể:
- Trời ơi! Sao lại không vui! Này, một con dế lớn đấu với ba con dế nhỏ, rồi hai con dế nhỏ nữa phụ lực. Thế là tất cả có năm con dế nhỏ đấu với một con dế lớn. Nhưng con dế lớn một mình cự cả năm con dế nhỏ, hẩy con này ngã bên này, con kia ngã bên kia...
Nói đến đây Dương-Qua im bặt, khiến cho Quách-Phù tò mò hỏi:
- Thế rồi sao nữa?
Dương-Qua chẩu miệng nói:
- Bảo rằng chơi dế không vui sao còn hỏi làm gì?
Quách-Phù phật ý không thèm hỏi, cũng chẳng nhìn mặt Dương-Qua nữa.
Hoàng-Dung tinh ý, biết đứa nhỏ nầy không phải quá ngây ngô đơn giản, liền hỏi dò:
- Thế sao cháu bảo là mãi đi tìm chúng ta? Thì giờ đâu mà cháu đi coi đá dế. Chẳng hay dế ấy của ai vậy?
Dương-Qua không suy nghĩ, trả lời:
- Cháu vừa xem đấu dế, vừa chờ chú thím. Cháu đến đây thì dế đã tản mác hết rồi.
Cả đoàn người vừa đi vừa nói chuyện, phút chốc đã đến một thôn nhỏ. Họ gõ cửa một thất viên lớn mà chủ nhân nổi tiếng là người trọng khách.
Thấy Quách-Tỉnh thọ thương, chủ nhân sai gia đình dọn dẹp chỗ nghỉ ngơi rồi lo cơm nước.
Quách-Tỉnh ăn qua loa mấy miếng rồi lên giường an giấc. Còn Hoàng-Dung thấy chồng ngủ ngon, biết thương tích không đáng kể, liền vào phòng riêng để xem lại chiếc giáp lông nhím mà nàng dùng làm vật hộ thân. Đó là một bảo vật của Đào-hoa đảo đã từng cưú mạng Hoàng-Dung nhiều lần. Nhưng khi Hoàng-Dung vừa cởi nó ra thì thấy sau lưng chiếc giáp đều bấy nát, nàng lấy tay rờ áo thì chiếc giáp rơi ra một mãnh lớn đúng hình chiếc chưởng thôi sơn của Âu-dương-Phong.
Hoàng-Dung vừa khiếp sợ chưởng lực của Âu-dương-Phong vừa tiếc cho một bảo vật bị huỷ phá.
Nàng trở lại bên cạnh chồng cầm chiếc quạt phe phẩy cho Quách-Tỉnh ngủ. Đôi mắt nàng lim dim mà trong trí nàng lại hiện ra hình ảnh của thằng bé Dương-Qua với trăm ngàn câu hỏi thắc mắc.
Rõ ràng lúc Âu-dương-Phong đánh hạ Vũ-tam-Thông rơi xuống đất, Dương-Qua đã cùng Quách-Tỉnh nhảy lên mái ngói chứng kiến. Thằng bé lại có mặt lúc các đấu thủ đấu nhau ở trên đống ngói vụn. Hoàng-Dung lại còn nhớ rõ lúc nàng nhảy xuống lỗ hổng để bảo vệ Quách-Tỉnh thì nó cũng có mặt bên cạnh. Nhưng lạ thay, nơi nó đứng cũng không ngoài tầm chưởng lực của Âu-dương-Phong, thế mà sao nó không sợ hãi, mà vì sao Âu-dương-Phong lại không hạ nó? Rồi đến lúc cả đôi vợ chồng bị đả thương sao nó lại biến mất giữa cảnh nhà hư đổ nát để rồi xuất hiện đúng lúc tại nơi đây?
Nhưng nỗi thắc mắc nầy Hoàng-Dung một mình tự tìm lấy câu giải đáp, và nhất cử nhất động đều để ý đến Dương-Qua.
Đêm hôm ấy, không có gì lạ xảy ra. Kha-trấn-ác và Dương-Qua cùng nghỉ chung một phóng nhỏ. Vào khoảng nửa đêm, Dương-Qua thức dậy, rón rén mở cửa, nhẹ nhàng bước ra ngoài. Nhìn lại nó thấy Kha-trấn-ác ngủ say trong mỏi mệt, nó leo qua đầu tường, vừa định buông người xuống thì hai con chó trông thấy cất tiếng sủa. Nó đã chuẩn bị trước hai cục xương bò từ bữa ăn chiều, liền quăng ra. Hai con chó được mồi ngon dành nhau tha chạy mất.
Bấy giờ Dương-Qua cẩn thận nhảy xuống. Và sau khi nhìn sao nó hướng về phía tây đi thẳng.
Đi được bảy tám dặm đường đến một ngôi cổ miếu, Dương-Qua bước vào đẩy cổng, gọi nhỏ:
- Cha ơi! cha! Con đến đây!
Có tiếng đáp nhỏ của Âu-dương-Phong. Hắn mừng rỡ chạy vào thấy nghĩa phụ của hắn đang nằm dài trước một pho tượng, hơi thở mệt nhọc.
ấy vì Âu-dương-Phong đã có tuổi mà đấu với Quách-Tỉnh một đối thủ anh hùng, nên mất nhiều sức và lâu phục hồi. Còn Quách-Tỉnh trong tuổi thành niên, dẫu mệt nhọc nhưng dễ mau lại sức.
Dương-Qua ngồi một bên, rút trong túi lấy ra mấy chiếc bánh lột vỏ đút vào miệng Âu-dương-Phong.
Lão già ăn xong hỏi:
- Bọn chúng bây giờ ở đâu?
Dương-Qua nhất nhất kể lại đầu đuôi mọi chuyện cho Âu-dương-Phong nghe.
Chắc độc giả thắc mắc tại sao Dương-Qua biết Âu-dương-Phong ngụ nơi cổ miếu mà tìm đến.
Nguyên vì khi Dương-Qua cùng vợ chồng Quách-Tỉnh trú ngụ trong khách điếm thì vào khoảng nửa đêm Âu-dương-Phong đến tìm, thăm nghĩa tử.
Tình cờ đêm ấy Vũ-tam-Thông sau khi bị Lý-mạc-Thu đả thương cũng đến trú ngụ cùng một khách điếm. Cả đêm bị vết thương hành, Vũ-tam-Thông không thể nào chợp mắt được. Bỗng nghe tiếng động trên mái nhà, Vũ-tam-Thông ngỡ Lý-mạc-Thu trở lại, nên mặc dù đang đau ông ta cũng đăng thân lên mái nhà để nghênh chiến.
Chẳng ngờ trên mái nhà không phải là Lý-mạc-Thu mà lại là Âu-dương-Phong, một địch thủ đã từng làm đánh gục Vũ-tam-Thông lúc thiếu thời.
Thật ra, Vũ-tam-Thông không có ý đấu với Âu-dương-Phong trong lúc nầy, nhưng đã gặp tất phải ra tay. Hai bên đánh chưa đầy mười hiệp, Âu-dương-Phong dùng chưởng thuật đánh rơi Vũ-tam-Thông xuống đất. Rồi kế đó là cuộc đấu chiến với vợ chồng Quách-Tỉnh. Mọi việc đều xảy ra trước mắt Dương-Qua cả.
Đến khi cả hai bên đấu thủ đều thọ thương, và nhân giữa cảnh nhà hư bụi đổ, Dương-Qua thấy không ai chú ý đến mình nhân cơ hội đăng thân theo bóng nghĩa phụ.
Lão già ban đầu phi thân quá mau, Dương-Qua theo không kịp nhưng về sau dần dần thương thế trầm trọng, tốc độ giảm dần. Rồi cuối cùng phải nhờ Dương-Qua dìu đi Âu-dương-Phong mới đến được ngôi cổ miếu để ẩn trú.
Dương-Qua tuy còn bé, song trí óc vô cùng minh mẫn. Nó tự bảo rằng nếu nó không trở về với bọn Quách-Tỉnh thì nhất định họ sẽ đi tìm và như thế sẽ làm lộ tung tích của Âu-dương-Phong.
Nghĩ như thế, nó trở ra đường lớn đón chờ nhập bọn để rồi nửa đêm hôm sau nó lại lén đến cổ miếu để thăm viếng Âu-dương-Phong.
Sau khi ăn mấy chiếc bánh, Âu-dương-Phong thấy hơi khỏe, nói với Dương-Qua:
- Tên họ Quách vừa ăn một quả chưởng của ta, trong bảy ngày nữa chưa chắc nó đã bình phục hẳn. Nó chưa bình phục thì vợ nó không thể rời. Như thế cha không sợ chồng nó đến đây. Cha chỉ sợ tên chột mắt thế nào nó cũng tìm đến vì chính tay cha đã sát hại năm anh em chúng nó nhân cơ hội nầy nó đánh trả thù. Tiếc rằng sức khỏe của cha chưa hồi phục được...
Âu-dương-Phong nói đến đây thốt ra một tràng ho làm dứt cả tiếng.
Dương-Qua ngồi bên cạnh đưa tay vuốt ngực nghĩa phụ, và trong óc lay hoay tìm cách đối phó với Kha-trấn-ác.
Được một lúc, hắn lẩm bẩm:
- Tốt lắm! Ta sẽ có kế làm cho lão già mù lòa đến đây phải mang họa.
Nó chạy đến bàn thờ lấy hai chân đèn và chiếc lư hương đổ tro xuống đất bước lại khung cửa ra vào.
Nó đóng nhẹ cánh cửa lại, leo lên trên đầu cửa, cột lỏng chiếc lư đồng vào đấy; rồi nhảy xuống tháo hai chân đèn bỏ rải rác ngay ở lối vào.
Bố trí xong, nó leo lên giá chuông nấp ở đấy. Chiếc chuông nầy nặng vào khoảng hai ba ngàn cân treo lủng lẳng trên không buộc vào giá chuông bằng một sợi dây thừng rất thô và chắc.
Dương-Qua vừa leo, lên giá chuông thì bỗng bên ngoài có tiếng vi vút quen thuộc rõ ràng là chiếc thiết trượng của Kha-trấn-ác đang phi thân đến.
Âu-dương-Phong cũng nghe biết địch thủ sắp đến nơi, liền thu hết tàn lực gượng dậy để ứng địch.
Alert | IP Printer-friendly page | Edit | Reply | Reply With Quote | Top
Author dongta
Author Info Member since Nov-22-01:563 posts, 1 feedbacks, 2 points
ID/Subject 1. "Tiếp Theo Hồi 6"
Date/Time Jan-12-02, 06:10 PM ()
Message
In response to message #0
Trong bóng tối lờ mờ cha con Âu-dương-Phong đang chờ đợi phút kinh khủng sắp diễn biến.
Kha-trấn-ác tuy mắt đã loà song trí còn minh mẫn lắm. Lão dự đoán thế nào sau một trận thư hùng với Quách-Tỉnh, Âu-dương-Phong cũng phải kiệt sức, tìm nơi thanh vắng ẩn thân. Mà trong vùng đó chỉ có cổ miếu là chỗ thanh vắng nhất thời theo lời dân hàng xóm cho lão biết. Lão quyết tìm đến nơi để thanh toán mối cựu thù. Vì vậy lão lợi dụng lúc nửa đêm xách thiết trượng ra đi. Trước khi đi, lão khẽ gọi Dương Qua xem hắn còn thức song chẳng thấy Dương-Qua trả lời, lão ngỡ nó đang say sưa giấc điệp nên an lòng dời gót. Lão nhẹ nhàng phi thân qua bức tường, đinh ninh với sức lực mình còn đủ để đương đầu với Âu-dương-Phong một trận tử thù.
Khi đến cổ miếu, lão để ý nghe ngóng xem hơi thở của Âu-dương-Phong trông thương thế nặng nhẹ thế nào.
Rồi lão lần tay đẩy nhẹ tấm cửa. Bỗng "rầm" một tiếng chiếc lư đồng treo lủng lẳng rơi xuống va vào trán lão, khiến trán lão máu me lai láng. Quá tức bực, lão quơ cây thiết trượng múa quanh và lần bước tiến sâu vào.
Thì chân lão đâm phải mấy chiếc chân đèn bỏ lão dưới đất làm cho lão mất thăng bằng lảo đảo.
Đến lúc giữ lại được thế quân bình, lão thét lớn:
- Âu-dương-Phong! Hãy sẵn sàng đền tội. Ngày nay mày còn khoác lác nữa chăng?
Dứt lời, lão quất mạnh cây thiết trượng nhắm vào lưng Âu-dương-Phong.
Lúc đó, Âu-dương-Phong đã đem hết tàn lực chống lại cây thiết trượng quái ác ấy. Ông ta quyết định làm cho cây thiết trượng dội lên một phen nữa để cả vũ khí và thân mình Kha-trấn-ác phải nẩy ngược lên.
Song cả hai đều tính sai cả. Kha-trấn-ác vì quá hậm hực, quyết trả cựu thù nên đánh xuống quá mạnh làm cho cây thiết trượng trệt sang một bên, không trúng vào Âu-dương-Phong chỉ làm cho khoảng đất bị vỡ tung nhiều mảnh.
Đánh trật một đòn quyết liệt, Kha-trấn-ác giận dữ, múa chiếc thiết trượng vù vù làm cho Âu-dương-Phong phải mệt nhọc né tránh mới thoát khỏi:
Âu-dương-Phong đang trong bệnh hoạn, làm thế nào cự với Kha-trấn-ác lâu dài được. Cuối cùng Âu-dương-Phong mệt sức, để cho thiết trượng đành toạt vào vai máu chảy đầm đìa.
Đáng lẽ những kẻ tầm thường thì một khi thiết trượng đã trúng phải tất tâm hồn mê loạn, song Âu-dương-Phong không hề gì, nội tạng vẫn sảng khoái như thường ấy là nhờ sức nội công của lão đã đến mức siêu việt.
Dương-Qua đứng bên cạnh nhìn thấy nghĩa phụ bị thương tới tấp nó nóng lòng muốn xông vào trợ lực, nhưng xét lại sức lực nó đối với Kha-trấn-ác chẳng khác nào hạt cát trong bãi phù sa, nó đành đấm bụng đứng nhìn vậy.
Kha-trấn-ác đánh trúng Âu-dương-Phong một trượng nhưng thấy Âu-dương-Phong vẫn bình thản, hơi thở vẫn trong tình trạng khỏe khoắn, lấy làm lạ nghĩ thầm:
- Quái lạ! Cây thần trượng của ta chưa bao giờ mất hiệu lực, sao nay đánh trúng Âu-dương-Phong mà hắn vẫn còn đủ sức đương cự được.
Nghĩ như thế, Kha-trấn-ác càng tức giận, vung thiết trượng đánh tới tấp vào đối phương.
Nhưng lạ thay, lão cảm thấy cây thiết trượng của lão như đánh vào tấm đệm lông mềm nhũn. Lão dừng tay nghe ngóng thì thấy hơi thở của Âu-dương-Phong vẫn điều hòa.
Càng tức giận hơn, Kha-trấn-ác quyết tìm đích cho được đầu Âu-dương-Phong bổ xuống.
Nhưng Âu-dương-Phong vốn tay anh hùng trong thiên hạ, đâu dễ gì chịu bỏ thân dưới cây thiết trượng kia, lão vươn mình tới ôm chầm vào mình Kha-trấn-ác. Thế là Kha-trấn-ác không còn cách gì vận dụng cây thiết trượng nữa. Hai bên dằng co nhau.
Kha-trấn-ác chân vừa bị dẫm phải mấy chân đèn nên bị vẹo đứng không vững, bị Âu-dương-Phong vật ngã nhào xuống đất.
Âu-dương-Phong quyết không thả, hai tay ôm chặt lấy bụng Kha-trấn-ác lăn lộn mấy vòng, bỗng tay lão chạm phải một vật cứng.
Thì ra đó là một con dao đồ tể trước kia Trương-kha-Sanh thường dùng vào việc hạ trâu bò tế lễ.
Tuy gọi thế, nhưng thật ra Trương-kha-Sanh chưa bao giờ nhúng lưỡi dao đó vào máu súc vật mà chỉ dùng nó để làm vật hộ thân. Khi Trương-kha-Sanh lâm trận ở Mông-cổ dưới thời Đại-Hán bị chết về tay Trần-lập-Phong, thì Kha-trấn-ác lấy làm của mình, và luôn luôn đeo theo mình để làm vật kỷ niệm. Từ đó, Kha-trấn-ác luôn luôn nâng niu con dao chẳng bao giờ lìa, xem như một kẻ thân yêu.
Trong lúc vật lộn cùng Âu-dương-Phong, cán dao ló ra ngoài. Âu-dương-Phong bắt được cơ hội tốt, chợp lấy cán dao rút ra, và đâm vào bụng Kha-trấn-ác.
Kha-trấn-ác kinh hãi, thóp bụng lại, vận nội công chống cự một tay xô địch thủ ra, một tay tha thiết trượng về đánh bạt lưỡi dao qua một phía, rồi nhắm vào đối thủ múa tới tấp.
Chiếc thiết trượng lần này trúng vào đầu Âu-dương-Phong, song trong lúc hỗn loạn Kha-trấn-ác đã cầm ngược vũ khí nên không gây nguy hiểm gì. Mặc dù thế, đòn đó cũng đã làm cho Âu-dương-Phong hoa mắt, ù tai, chiếc dao đồ tể văng bổng trên không trung bắn trúng vào cái chuông đồng to lớn, phát ra một tiếng ngân chát chúa.
Tiếng chuông ngân dài và lớn làm át cả hơi thở của Âu-dương-Phong, khiến Kha-trấn-ác mất hẳn phương hướng của địch thủ. Ông ta chờ tiếng chuông dứt sẽ tấn công trở lại.
Bấy giờ ánh trăng khuya vừa lên tận giữa miếu, soi rõ hình dạng Kha-trấn-ác đang trong thế đợi chờ vô cùng rùng rợn. Đầu tóc bồm xồm, cặp mắt mù loà không còn sinh khí, quần áo rách tả tơi. Một làn máu đỏ từ trên trán nhểu xuống thấm qua thân áo chảy đến giữa bụng. Lão đợi cho tiếng chuông ngân dứt để tìm nơi có hơi thở của đối phương mà đánh.
Dương-Qua lanh trí, biết rõ sự chờ đợi của lão già, liền lách mình đến lượm con dao rồi thoăn thoắt trèo lên giá chướng lấy cán dao gõ mạnh vào.
Tiếng chuông này chưa dứt đã tiếp đến tiếng chuông khác, khiến cho Kha-trấn-ác hoang mang không thể nào tìm hiểu vị trí của đối thủ.
Tức giận Kha-trấn-ác một lần nữa, múa thiết trượng vù vù. Thiết trượng càng múa bao nhiêu thì Dương-Qua càng đánh chuông bấy nhiêu. Tiếng chuông kêu vang tai, nhức óc.
Cuối cùng, Kha-trấn-ác không chịu nổi tiếng chuông dùng tay để nghe ngóng.
Và cũng nhớ thế, Âu-dương-Phong có đủ thì giờ để tìm cách đối phó.
Những tiếng chuông bất thường kia nếu đã giúp cho Âu-dương-Phong tránh được cây thiết trượng của Kha-trấn-ác thì nó lại cho Âu-dương-Phong mối sợ hãi.
Bởi vì trong đêm vắng, tiếng chuông ngân liên hồi, nếu vợ chồng Quách-Tỉnh hay được đến tiếp cứu thì tánh mạng Âu-dương-Phong khó bảo toàn. Như thế mối nguy cơ lại còn trầm trọng hơn.
Âu-dương-Phong nghĩ nên đào tẩu là hơn, bèn lui chân về phía hậu viện.
Kha-trấn-ác tuy mù lòa cũng rất tinh anh, biết rằng đối phương có thể lợi dụng lúc ông ta dừng tay để thoát thân, nên thiết trượng bất thần vụt về phía hậu môn một cái.
Đang bước lui, bị đòn thiết trượng, Âu-dương-Phong lúng túng phải né sang một bên, và gây ra tiếng động.
Thế là Kha-trấn-ác lại có dịp theo dõi đối thủ. Lão hét lớn:
- à! Tao biết mày sống dai. Nhưng lần nầy, mày phải tuyệt mạng! Dẫu mày có còn sống sót đi nữa cũng phải chịu tàn tật như tao.
Nói xong, tiến đến hậu môn, Âu-dương-Phong phải thụt lùi núp vào giá chuông. Và Kha-trấn-ác cố đuổi theo không bỏ. Hai người vờn nhau chạy xung quanh giá chuông như hai đứa bé chơi cái trò chơi đuổi bắt.
Dương-Qua đứng trên nhìn xuống thấy tình thế đoán biết nếu cuộc đuổi bắt này kéo dài thì nhất định nghĩa phụ nó phải kiệt sức, và không thể nào thoát khỏi tay Kha-trấn-ác.
Một ý kiến đột phá trong trí óc thằng bé tinh khôn. Nó ra hiệu cho nghĩa phụ nó phải thay đổi chiến thuật và thoát ra khỏi phạm vi của chiếc chuông. Nhưng Âu-dương-Phong đang chú mục vào Kha-trấn-ác, không để ý đến dấu hiệu của Dương-Qua.
Dương-Qua không biết làm sao, mà cũng chẳng dám lên tiếng liền leo ra phía ngoài có ánh trăng chiếu vào. Nó lấy tay ra hiệu Bóng đen của nó nhờ ánh trăng phản chiếu đã làm cho Âu-dương-Phong lưu ý.
Thấy bóng tay thằng bé khoát qua khoát lại, Âu-dương-Phong tưởng nghĩa tử có dụng ý bảo mau rời bỏ ngôi miếu, liền lập tức vụt chạy về phía tiền điện.
Kha-trấn-ác rất thính tai. Lúc bấy giờ chuông hết ngân, mọi vật im phăng phắc nên hướng chân của Âu-dương-Phong lão nghe rõ mồn một.
Lão mừng thầm vì địch thủ đã bước vào tử lộ.
Thật vậy, Âu-dương-Phong thoát ra phía tiền điện chỉ là mớ thoát ra khỏi điện chứ làm sao có lối thông ra đường.
Kha-trấn-ác trầm tỉnh và thận trọng hướng tai theo tiền điện, nhất định lần nầy đối thủ không bao giờ có thể thoát thân.
Trong lúc đó, Dương-Qua lẹ làng cởi hài ra, đi chân không, bò nhẹ về phía hậu điện, rồi bất thình lình đạp xuống đất một tiếng thật mạnh như tiếng động của một người chạy. Kha-trấn-ác ngạc nhiên không hiểu sao cả. Rõ ràng tai lão nghe có tiếng người ở hậu điện, và cũng rõ tai lão vừa nghe tiếng người chạy ra phía tiền điện.
Trong lúc Kha-trấn-ác đang trừ trù suy nghĩ, đứng ngay dưới chiếc chuông thì Dương-Qua nhẹ nhàng nhón chân bước vào, leo lên giá chuông dùng chiếc dao đồ tể cắt sợi dây thừng buộc chuông.
Chiếc dây thừng cứng quá, mặc dù dao rất bén nhưng úp ngay đầu Kha-trấn-ác.
May thay! Kha-trấn-ác lúc đó chống ngược cây thiết trượng cản hướng về chiếc chuông, nên chuông rơi nhờ thiết trượng không trúng đầu. Chiếc chuông chạm phải thiết trượng vang lên một tiếng rơi lật nghiêng sang một phía, úp Kha-trấn-ác vào trong. Thất kinh, Kha-trấn-ác bò ra khỏi chuông nhưng vừa ra khỏi chưa kịp đứng dậy thì cây thiết trượng chịu không nổi trọng lượng của chiếc chuông nên gãy làm đôi, và đè một nửa cây thiết trượng dưới đất.
Cũng may, nếu cây thiết trượng gãy lúc nãy thì tánh mạng Kha-trấn-ác đã quy thiên rồi.
Chẳng hiểu rõ sự việc ra sao. Kha-trấn-ác nghĩ rằng trong điện hẳn có một con quái vật theo phá phách ông ta.
Nghĩ thế, lão chỉ còn có cách tạm lánh mình rồi sẽ tính.
Lão bò lần ra phía ngoài và tẩu thoát.
Đứng phía ngoài điện nhìn vào thấy Kha-trấn-ác thoát chết Âu-dương-Phong chép miệng nói:
- Thật đáng tiếc! Thật đáng tiếc!
Dương-Qua lúc đó mới bò lần từ trên giá chuông xuống, mừng rỡ chạy đến bên Âu-dương-Phong nói:
- Cha ơi! Lão mù đó nhất định không dám đến đây nữa đâu. Cha cứ lo tịnh dưỡng tâm thần.
Âu-dương-Phong lắc đầu nói:
- Không đâu con ạ! Cha với nó có mối thù sâu như biển cả. Chẳng qua vì mất thiết trượng nên nó tạm lánh để tìm phương kế, sớm muộn gì nó cũng trở lại. Hễ còn chút hơi thở là nó còn phải trả thù.
Dương-Qua nói:
- Hay là cha con ta xa lánh nơi này, tạm tránh những nguy cơ dồn dập.
Âu-dương-Phong buồn bã, nói:
- Không được! Hiện giờ cha mang thương nặng gần kiệt sức không thể nào chạy đi đâu xa được.
Dương-Qua hỏi:
- Thế thì chúng ta phải làm sao để tránh sự trả thù của lão già mù lòa kia?
Âu-dương-Phong suy nghĩ một hồi, đưa mắt nhìn chiếc chuông, nằm nghiêng trên nửa cây thiết trượng, nói với Dương-Qua:
- Còn có cách này! Cha sẽ chen mình vào trong chiếc chuông con ở ngoài nắm cây thiết trượng xeo lên cho chiếc chuông úp cha vào trong. Như thế rất bảo đảm. Cha sẽ tránh được bàn tay của hắn.
Dương-Qua hỏi:
- Thế rồi lúc muốn ra cha làm sao ra được? Vả lại lúc cha đói bụng con làm sao chuyền đồ ăn vào?
Âu-dương-Phong trả lời:
- Con đừng lo! Cha chỉ cần được yên ổn ngồi trong chuông độ bảy ngày đêm, không cần ăn uống gì cả, cha sẽ lấy ngay lại được sức lực như xưa. Chừng đó, chẳng những cha đẩy hỏng chiếc chuông lên một cách dễ dàng mà còn đủ sức để đương đầu với bọn chúng nữa. Cha chỉ sợ có một điều rủi Kha-trấn-ác đến đây giở chuông lên thì thiệt mạng.
Dương-Qua nói:
- Lão già ấy cũng đang trong thương thế rất nặng, làm gì mà phá nổi chiếc đại đồng chung. Nhưng thôi, con sẽ làm theo ý cha để cầu may.
Âu-dương-Phong liền bước đến ngồi gần bên chuông Dương-Qua cột dây vào đầu thiết trượng hè hụi một hồi, nhờ sức của Âu-dương-Phong phụ vào mới lật úp chiếc chuông lại được. Âu-dương-Phong ngồi gọn vào trong.
Dương-Qua kêu nghĩa phụ mấy tiếng không nghe Âu-dương-Phong lên tiếng hắn biết nghĩa phụ hắn đã được an toàn liền quay gót ra đi.
Nhưng vừa đến cửa, nó lại nẩy ra một ý kiến. Nó quay vào điện lấy con dao rạch máu độc ở vết thương hoà một ít nước xung quanh chiếc đại đồng chung, nó tin chắc bất cứ một người nào rờ tới chiếc chuông đó sẽ bị nhiễm độc của Xích-luyện thần chưởng.
Thi hành xong diệu kế. Dương-Qua băng mình chạy một mạch về khách điếm. Nó chỉ sợ Kha-trấn-ác về trước biết được sự vắng mặt của nó thì nguy.
Nhưng về đến nơi, thấy cánh cửa sau khách điếm còn mở rộng, Kha-trấn-ác chưa về. Thế là nó an tâm vào phòng leo lên giường đắp mền giả ngủ để chờ nghe động tịnh. Lòng nó băn khoăn tự hỏi chẳng biết vì đâu lão già mù lòa đó đến bây giờ vẫn chưa về đến.
Cho đến gần sáng thì có tiếng gõ cửa. Dương-Qua làm như người vừa mới ngủ thức dậy, mở cửa ngạc nhiên thấy Kha-trấn-ác trong một trạng thái vô cùng bi đát, đầu tóc lão bơ phờ, quần áo lam lũ, mặt mày đầy máu đứng giữa ngưỡng cửa đưa hai tay ra như muốn quờ quạng một cái gì đã mất.
Thấy hai bàn tay của lão đã bị thâm đen, Dương-Qua khi ấy đã trở lại cổ miếu và đã thử lật chiếc chuông lên để hạ nốt Âu-dương-Phong, nhưng thằng bé làm bộ không biết gì, la lớn:
- Trời ơi! Ông làm sao thế hở ông? Sao hai bàn tay của ông đen thâm như vậy? Chết rồi! Ông lại bị mò phải kim độc của Lý-mạc-Thu rồi!
Vợ chồng Quách-Tỉnh nghe lạ chạy đến, thấy thế ngạc nhiên, ông lo lắng, hỏi:
- Thưa sư phụ! Sư phụ vì sao lại thế!
Kha-trấn-ác lắc đầu buồn rầu không trả lời.
Hoàng-Dung chợt thấy hai bàn tay thâm đen của lão, kinh ngạc nói:
- ái chà! Lại con nữ tặc Lý-mạc-Thu nữa rồi!
Dứt lời, nàng hướng về phía Quách-Tỉnh, nói:
- Anh chưa được khỏe hẳn, vậy cứ để một mình em đi tìm nó mà rửa hận! Em sẽ cùng nó sống mái một phen anh nhé!
Nói xong nàng thoăn thoắt ra đi.
Kha-trấn-ác vội lên tiếng gọi lại:
- Không phải con nữ tặc Lý-mạc-Thu.
Hoàng-Dung dừng bước, quay đầu lại hỏi:
- Thưa sư phụ! vậy nó là ai?
Kha-trấn-ác trầm ngâm im lặng.
Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung đã thừa hiểu tâm trạng của Kha-trấn-ác. Ông lão không bao giờ chịu nói tên kẻ chiến thắng mình.
Với một quá khứ oai hùng vẻ vang, dọc ngang trong chốn giang hồ làm sao người hiệp sĩ già nầy không có dòng máu tự trọng. Khổ nỗi ngày nay trước sức yếu thân tàn, bệnh tật. Kha-trấn-ác hết thảm bại trước Lý-mạc-Thu lại đến Âu-dương-Phong. Vợ chồng Quách-Tỉnh biết thế không dám hỏi nữa. Mà có hỏi đến đâu, câu trả lời cũng chẳng bao giờ đến, chỉ khiêu lên lòng bực tức đau buồn của Kha-trấn-ác mà thôi.
Vợ chồng Quách-Tỉnh đinh ninh rằng lão vừa bị nhục trước một kẻ vô danh tiểu tốt nào đó.
Hoàng-Dung tỏ ý đưa mọi người trở lại Đào-hoa đảo để có dịp dưỡng bệnh, rồi mình sẽ ra đi tìm kiếm Xích-luyện tiên tử.
Quách-Tỉnh thấy sư phụ mình trọng bệnh như thế này nên cũng bằng lòng.
Thế là đoàn người thuê thuyền tiến thẳng về đảo Đào-hoa.
Chiều hôm ấy họ neo thuyền ở một ven biển để thổi cơm.
Quách-Phù nguyên đã giận thái độ của Dương-Qua nên suốt cả ngày đường không hề chuyện vãn. Khi thuyền đậu, Quách-Phù ngồi một mình nhìn ra cửa thuyền ngắm cảnh trên bờ, chợt ngó thấy dưới gốc cây thùy liễu có hai đứa bé đang ngồi khóc.
Nhìn kỹ, nó nhận ra đó là Vũ-tu-Văn và Vũ-đôn-Nhu hai đứa con trai của Vũ-tam-Thông và Vũ-đại-Nương.
Quách-Phù cất tiếng gọi:
- Kìa! Các anh làm gì đấy?
Tu-Văn nín khóc, nhìn Quách-Phù đáp:
- Tao đang khóc, mày không thấy sao mà hỏi.
Quách-Phù hỏi:
- Vì sao lại khóc? Bị mẹ đánh chăng?
Vũ-tu-Văn đáp lời trong nước mắt:
- Mẹ tao mất rồi còn đâu mà đánh.
Hoàng-Dung rõ được tông tích hai đứa bé, ngạc nhiên nhảy vội lên bờ, nhìn thấy chúng ngồi bên cạnh thây Vũ-tam-nương. Người thiếu phụ nầy thân thể đều bầm đen, đúng là đã chết vì bất độc của Xích-Luyện thần chưởng.
Hoàng-Dung ôm hai đứa bé hỏi lại sự tình, và hỏi thăm tin tức của Vũ-tam-Thông.
Đôn-Nhu thưa:
- Cháu chẳng biết cha cháu hiện giờ trôi dạt nơi đâu.
Tu-Văn nói:
- Cha cháu thấy mẹ cháu mất trí óc đã điên dại lại càng trở nên hỗn loạn. Chúng cháu gọi thế nào cha cháu cũng bỏ đi, và hiện giờ chẳng biết đi đâu.
Dứt lời, cả hai đứa bé đều nổi lên khóc một lượt.
Hoàng-Dung hỏi:
- Hai cháu có đói không?
Hai đứa bé nghe hỏi mới nhớ lại rằng suốt ngày hôm ấy chúng nó chưa ăn một vật gì trong miệng. Chúng thôi khóc và vật dần xuống.
Hoàng-Dung thương tình đưa chúng nó xuống thuyền bảo phụ thuyền dọn cơm, và cả đoàn cùng chung ăn uống.
Ăn xong, Hoàng Dung lo quan quách chôn cất Vũ-tam-nương tử tế, rối sáng hôm sau lại nhổ sào nhắm đảo Đào-hoa xuôi sông.
Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 7 : Bốn trẻ đồng môn
Chẳng bao lâu thuyền cặp bến đảo Đào-hoa. Trong suốt cuộc hành trình, Quách-Tỉnh nhờ Hoàng-Dung săn sóc nên thương tích thuyên giảm khá nhiều, vả lại được một thời gian nghỉ ngơi sức lực chàng bình phục như xưa.
Vợ chồng Quách-Tỉnh không lúc nào quên nghĩ đến Âu-dương-Phong. Họ lấy làm lạ chẳng biết tại sao đã mười năm qua ông lão anh hùng nầy vẫn còn giữ được sức lực tài năng và phong độ tự thuở nào, mặc dù tuổi đã về chiều. Thì ra con người kỳ dị ấy bất chấp cả thời gian.
Đó là vợ chồng Quách-Tỉnh chưa chứng kiến vụ phục thù của Kha-trấn-ác đối với Âu-dương-Phong nơi cổ miếu. Nếu họ thấy trận phục thù đó họ còn ngạc nhiên sức dẻo dai của Âu-dương-Phong hơn nữa. Sáng hôm ấy, sau khi bàn bạc cùng nhau, Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung gọi Dương-Qua vào cật vấn về sự việc quá khứ. Dương-Qua đang cùng con bé Quách-Phù bắt dế, nghe kêu nó đã đoán biết là nó sắp trả lời những câu hỏi khó khăn nên đã dự ý trước.
Nguyễn Dương-Qua cùng người mẹ là Trần-nam-Ngân trước đây sống về nghề bắt rắn nơi chân núi Trường-Lĩnh. Nghề bắt rắn vốn không phải là nghề kiếm ăn dư giả, nhưng cũng nhàn hạ. Ban đêm họ chỉ vất vả mấy tiếng đồng hồ lục lạo ở các ven rừng ở bờ bụi may ra cũng đủ độ nhật trong một ngày.
Đối với Trần Thị, nghề nghiệp và sinh kế không quan trọng bằng việc giáo dục con. Ngày nào cũng như ngày nào, người mẹ kiên trinh ấy quyết tâm rèn luyện cho con mình mong trở thành người lý tưởng.
Những lời giáo huấn môn phong trước đây đã vun đúc vào cho Dương-Qua một tâm tánh phong nhã. Trần thị lại đem những ngón sở trường trong vũ thuật mà bà đã góp nhặt trên bước phiêu lưu giang hồ để truyền lại cho Dương-Qua, đứa con duy nhất của bà.
Từ khi Dương-Qua trí khôn mới bắt đầu thành hình đã tỏ ra thông minh đáo để. Nó học đâu nhớ đó. Không một quyển sách nào, một lời giáo huấn nào của từ mẫu răn dạy mà nó không thuộc làu. Đến như việc bắt rắn, nó chẳng học tập gì cả, cứ hàng đêm xách đèn theo mẹ, ấy thế mà mới vừa lên tám nó đã có nhiều kế hoạch bắt rắn thông thạo hơn người mẹ là khác.
Những lúc cùng nhau lặn lội dưới chân Trường-sơn để theo dấu vết những con rắn, người mẹ thường kể cho Dương-Qua nghe là trên đời này chỉ có một người, hay đúng hơn là một danh nhân lấy việc nuôi rắn để mưu đồ việc lớn. Danh nhân ấy có thể sai khiến được rắn thành hàng ngũ, lập thành trận thế và điều khiển theo binh pháp. Danh nhân ấy hiện trú ẩn nơi Bạch-đà-Sơn.
Câu chuyện nầy làm cho Dương-Qua lưu ý và thích thú nhất. Có nhiều lúc Dương-Qua mơ ước được thành danh nhân đó, nên nó tự mình bắt rắn huấn luyện theo mơ tưởng.
Lần lần Dương-Qua nuôi được một đoàn rắn tinh khôn, biết nghe theo mệnh lệnh của nó.
Tuy nhiên, nó vẫn chưa thỏa, ước mong sao một ngày nào đó nó gặp được vị danh nhân để có thể sai khiến theo phép thuật danh truyền.
Mẹ con sống với nhau được mười năm thì một hôm người mẹ rủi ro bị rắn độc cắn, trong người quên mang theo thuốc giải độc nên ngất lịm, nằm mê mang dưới chân núi. Dương-Qua vội chạy về nhà lấy thuốc giải độc, nhưng đến nơi, nọc độc đã thấm vào tim, người mẹ chỉ còn là một cái xác không hồn.
Còn biết làm sao hơn, Dương-Qua khóc lóc một hồi rồi đành nuốt hờn chốt cất người mẹ, trở về sống cô đơn nơi chân núi với túp lều tranh trên đồi, nó chỉ còn một con chim hồng và đàn rắn làm bạn.
Song lẽ, đã mất mẹ, người mẹ yêu dấu kia, nó còn thiết gì căn lều ở chân núi Trường Lĩnh nữa, một hôm nó bỏ nhà đem con chim nhỏ và đàn rắn đi phiêu bạt đó đây, hi vọng hão huyền sẽ được gặp vị danh nhân Bạch-Đà-Sơn để học thuật luyện rắn.
Chẳng ngờ bước phiêu lưu, tình cờ đã đưa đẩy nó gặp gỡ Lý-mạc-Thu để mất cả chim hồng và đàn rắn khôn, và thân nó bây giờ chỉ trơ trọi một mình không biết đâu nương tựa...
Bao nhiêu câu chuyện về dĩ vãng nó đem kể lại cho vợ chồng Quách-Tỉnh nghe.
Nghe đến đây, Hoàng-Dung căm tức Lý-mạc-Thu đã sát hại con chim hồng mà chính con chim ấy trước đây Hoàng-Dung đã từng nâng niu.
Tiếp đó, Hoàng-Dung lại cật vấn đến việc Dương-Qua ở đâu lúc Vũ-tam-Thông và Âu-dương-Phong đấu nhau. Làm sao Dương-Qua lại quen biết Âu-dương-Phong và Âu-dương-Phong là ai.
Dương-Qua cảm biết Hoàng-Dung là kẻ linh lợi, một kẽ hở nhỏ cũng đủ để Hoàng-Dung thấu hiểu sự tình và khai thác hành tung nên nó một mực tỏ ra rất thản nhiên, một mực tỏ ra thành khẩn để lập lại những điều mà nó đã sắp đặt trước. Thỉnh thoảng nó kể những mẩu chuyện xen vào ăn khớp với người nầy người kia để đánh trống lảng.
Nghe thằng bé kể lời lẽ tự nhiên, sự việc hợp tình hợp lý, lại tuổi tác nó còn nhỏ bé. Hoàng-Dung thật khó lòng nghi ngờ. Tuy nhiên, nàng cũng khó mà tin cậy trước cái vẻ tinh khôn của nó.
- Cháu ngoan lắm! Thôi cháu hãy ra ngoài chơi với anh em họ Vũ đi.
Dương-Qua ra khỏi phòng, Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung tiếp tục bàn bạc.
Quách-Tỉnh nói:
- Này em Dung! Chắc em hiểu rõ lòng anh. Ngày nay anh gặp được cháu Dương-Qua anh tưởng như cuộc hội ngộ trời cho thật lấy làm vui sướng.
Nguyên vì thuở trước ông thân sinh Quách-Tỉnh cùng ông nội Dương-Qua là đôi bạn chí thiết. Bấy giờ nhân hai người vợ cùng có thai, đôi bạn thân bèn uớc hẹn cùng nhau, hễ sanh đồng trai thì cho chúng làm anh em, đồng sinh gái thì cho chúng làm chị em, nếu sanh một trai một gái thì cho chúng làm vợ chồng. Sau đó mỗi người vợ đều sinh mỗi người một trai. Bởi vậy Dương-Khang và Quách-Tỉnh theo lời nguyện ước của song thân kết làm anh em, xem nhau như ruột thịt mặc dù khác họ.
Về sau Dương-Khang vì mạo nhận giặc cướp làm cho cha già bị chết thê thảm ở miếu Thiết-Phương Gia-hưng-vương. Từ đó Quách-Tỉnh buồn bã thương nhớ không nguôi. Nay tình cờ gặp đặng Dương-Qua, con của người anh em, Quách-Tỉnh xiết bao mừng rỡ.
Hoàng-Dung tuy hiểu rõ tình ý của chồng, song không muốn chồng mình đem tình cảm đối với Dương-Qua như thế, và ngại rằng với Dương-Qua như thế, và ngại rằng với lời ước hẹn của phụ thân, Quách-Tỉnh sẽ buộc gả con bé Quách-Phù cho Dương-Qua mà lòng nàng không thích.
Hoàng-Dung bảo:
- Như thế em không bằng lòng.
Quách-Tỉnh ngạc nhiên nhìn vợ, hỏi:
- Em không bằng lòng điều gì?
Hoàng-Dung đáp:
- Điều rất đơn giản là em không muốn gả Quách-Phù cho Dương-Qua, con một tên tướng cướp.
Quách-Tỉnh nói:
- Dẫu em cho nó có thành tích bất hảo đi nữa cũng nên nghĩ đến lời thề ước của tiều nhân. Vả lại Dương-Qua diện mạo khôi ngô, cử chỉ linh lợi, tư cách thông minh. Nếu chúng ta gia công rèn luyện chắc chắn sau này tương lai phải vẻ vang tươi sáng.
Hoàng-Dung lắc đầu, nói:
- Em chỉ ngại nó quá thông minh mà hỏng.
Quách-Tỉnh mỉm cười, nói:
- Thế sao em cũng thông minh và lanh lợi mà không hỏng. Có gì phải e ngại?
Hoàng-Dung cũng mỉm cười:
- Nhưng em nhờ gặp được người chồng tuấn kiệt như anh.
Quách-Tỉnh nhún vai nói:
- Nhưng sao em chắc rằng Dương-Qua không phải là người chồng lý tưởng của Quách-Phù? Biết đâu khi lớn lên Quách-Phù lặn lội đó đây mà không sao tìm được người chồng thông minh tuấn kiệt như Dương-Qua.
Hoàng-Dung bỉm môi, nói:
- Chà quí quá!
Sau mấy câu trò đùa, Quách-Tỉnh nghiêm trang nói:
- Lúc sinh tiền thân phụ thường nhắc với anh rằng khi Dương-thúc-Tâm lâm chung, thúc phụ tỏ ý hy vọng anh có thể giữ trọn lời thề. Nếu nay anh không săn sóc Dương-Qua coi như con đẻ thì anh đã phụ lòng thân sinh, và chữ hiếu anh không làm tròn, mà chữ nghĩa cũng chẳng đầy đủ.
Dứt lời, Quách-Tỉnh buông tiếng thở dài.
Tiếng thở dài đầy tình cảm và nhơn nghĩa đã làm cho tâm hồn lẫn lý trí Hoàng-Dung phải dao động.
Hoàng-Dung hạ thấp giọng nói:
- Em nói thế chứ đôi trẻ còn nhỏ đã gấp gì định đoạt. Ngày sau, nếu Dương-Qua quả là người tốt thì anh muốn thế nào em xin nghe theo thế ấy, không có gì làm cho anh băn khoăn.
Quách-Tỉnh liền đứng dậy, hai tay chấp lại trịnh trọng nói:
- Đa tạ nương tử bằng lòng bỉ nhân vô cùng cảm kích.
Hoàng-Dung cũng thủ lễ, chấp tay bái chồng, trịnh trọng thưa:
- Thưa phu quân! Thiếp bằng lòng trong tương lai, nếu Dương-Qua là người tốt.
Quách-Tỉnh nghiêm trang, nói với giọng cương quyết:
- Dương-Khang, cha của Dương-Qua sống trong Vương-phủ Kim-quốc có thể có những điểm hư hỏng, nhưng Dương-Qua nếu đã được giáo dục trên đảo Đào-hoa không có lý gì lại không trở nên một chàng trai tuấn kiệt! Điều đó em khỏi lo!
Hoàng-Dung mỉm cười nói sang câu chuyện khác, không bàn luận đến việc Dương-Qua nữa.
Tuy nhiên, chúng ta cũng nên xét qua đôi tâm hồn non trẻ của Dương-Qua và Quách-Phù.
Ban đầu, lúc mới gặp nhau, cô bé Quách-Phù vốn có ác cảm với Dương-Qua, không chịu làm bạn với nhau. Nhưng trẻ thơ dễ quên, chẳng bao lâu Quách-Phù lại rủ Dương-Qua đi bắt dế ngoài khuê viên. Và bao nhiêu hiềm khích đều quên hết.
Lúc Dương-Qua bị Hoàng-Dung gọi vào chất vấn. Quách-Phù ngồi đợi mãi một lúc mới thấy Dương-Qua trở ra.
Dương-Qua nghe trong lùm cây có tiếng nói xì xào liền đưa mắt nhìn vào, thấy anh em họ Vũ ra đấy tự bao giờ, và cũng đang cùng với Quách-Phù bắt dế. Vũ-đôn-Nhu tay xách một chiếc lồng tre nhỏ, Quách-Phù bưng một cái thẩu lớn, cả hai đang lum khum nhìn xuống một tảng đá, nơi đấy Tu-Văn đang ra sức lật lên một vừng đất.
Vừng đất vừa lật lên, một con dế rất lớn nhảy phóc ra, Tu-Văn hối hả đuổi theo chụp.
Quách-Phù mừng rỡ, reo lên:
- A! Dế lớn quá! Anh bắt cho em nhé!
Tu-Văn cẩn thận cầm con dế trao cho Quách-Phù, nói:
- Con dế này đẹp lắm, xin biếu cô nương.
Quách-Phù cầm lấy, mở nắp thần bỏ vào. Qua làn thủy tinh con dế quả có một thân hình vô cùng đẹp đẽ. Màu vàng sẫm, đầu vuông, càng lớn, vế to, chắc chắn nó là một cự tướng trong làng dế.
Vũ-tu-Văn nói:
- Dế này phải gọi là vô địch đại tướng quân.
Rồi Tu-Văn quay lại nói với Dương-Qua.
Nầy Dương huynh! Số dế của Dương huynh bắt được có con nào địch lại với con nầy chăng. Nếu có, đem ra đấu một trận thư hùng cho biết sức.
Dương-Qua thấy Tu-Văn có vẻ khiêu khích, tỏ ý bất bình nhưng không nói gì cả, lấy giỏ dế của mình ra, lựa một con lớn nhất, hùng dũng nhất thả vào bồn đấu.
Con dế lớn màu vàng sẫm thấy bóng địch thủ liền gáy lên một tiếng, giương hai càng múa râu lên trời trong dáng điệu rất dũng mãnh.
Qua một lúc, nó tung hai chiếc đùi đá lại vào con dế của Dương-Qua một đòn làm cho con dế của Dương-Qua khiếp quá, quay đầu bỏ chạy.
Quách-Phù vỗ tay reo mừng với sự đắc thắng của con dế mình.
Dương-Qua bực tức, nói:
- Như thế dân đã thắng! Còn nhiều con dế khác nữa chứ!
Nói xong, Dương-Qua đưa ra một con dế khác thả vào bồn nhưng ba lần đều bị thất bại. Lần nào dế của Dương-Qua cũng bị con dế màu sậm kia cắn đá tơi bời sứt cánh, cong càng, bể bụng.
Dương-Qua bị chạm tự ái, nói lớn:
- Thôi, tôi chẳng thèm chơi dế nữa đâu.
Đoạn nó bỏ đi. Nhưng nó vừa bước được mấy bước. Tu-Văn lắng tai nghe trong lùm cây có tiếng đổ rào, thanh âm nghe kỳ lạ. Vũ-đôn-Nhu vỗ tay nói:
- Trong bụi nầy chắc còn có một con dế oai hùng không kém.
Rồi nó chạy đến phanh phui bụi cây để thu hồi, nhưng vừa vạch lùm cây, nó bỗng kinh hãi la lớn nhảy ra đằng sau:
- Ôi chao! Con rắn!
Dương-Qua nghe là rắn liền nhảy đến thì quả nhiên đó là một con rắn độc, thân mình điểm hoa mai có khoanh tròn dưới bụi cây, đầu ngóc cao và lưỡi lè ra trông dáng điệu hung hăng lắm!
Như đã biết Dương-Qua vốn sống về nghề bắt rắn cho nên nó không hoảng hốt như mấy đứa trẻ kia, bình tĩnh tiến sát vào một tay phe phẩy trước đầu rắn, một tay đập dưới đất.
Con rắn hấp tấp mổ vào tay Dương-Qua chưa trúng đích thì đã bị bàn tay kia của Dương-Qua tóm vào cổ quật xuống đất chết tươi.
Bọn trẻ khen tài Dương-Qua và đang xúm nhau nhìn xác con rắn thì bỗng nghe có tiếng dế reo. Rồi một con dế nhỏ từ dưới xác con rắn bò ra, thân mình nó xấu xí đến kỳ dị, màu đen như thân, đôi cánh chẳng có một đốm hoa nào tô điểm.
Quách-Phù nhìn Dương-Qua cợt đùa nói:
- Kìa Dương huynh! Con dế của Dương huynh đó sao chẳng bắt.
Dương-Qua phật ý, song cũng đáp lời:
- Vâng! Thì tôi sửa soạn bắt nó đây.
Dứt lời, Dương-Qua cúi xuống bắt lấy con dế và thả vào chiếc bồn thủy tinh của Quách-Phù:
Lạ thay, con dế lớn màu đỏ sậm, vừa trông thấy con dế đen liền nép mình khiếp sợ. Dế đen tiến đến tới đâu là dế đỏ sậm thụt lui đến đó.
Đối với các con dế khác, dế lớn oai hùng, vểnh râu múa càng như thế mà với con dế đen nhỏ nầy thì lại tỏ ra khiếp nhược chạy tròn theo hình bồn thủy tinh.
Chưa đủ, để tỏ ra nhục nhã hơn nữa, con dế lớn muốn thoát ra ngoài bồn. Nhưng đâu có được với con dế nhỏ. Nó búng mình nhảy theo cắn ngay vào bụng, dùng hai càng bật mạnh. Chỉ một đòn thôi, con dế lớn đã vỡ bụng chết ngay.
Thật ra cuộc đấu này không có gì kỳ lạ. Phàm loài dế có những loại sống trong hang của các loài vật khác thường hay nhiễm lấy màu sắc và độc tính của những loại đồng cư. Chẳng hạn như dế cùng sống với cóc người ta gọi là dế cóc thì cánh có lốm đốm hoa: dế cùng sống với rắn thì gọi là dế rắn. Dế này nhiễm độc, cắn vào vật nào thì vật ấy chết tươi. Nhưng chỉ có giữa loài dế mới phân biệt được.
on dế Dương-Qua vừa bắt chính là loại dế rắn.
Quách-Phù thấy dế lớn chết, tỏ vẻ không vui, suy nghĩ một hồi rồi nói với Dương-Qua:
- Anh cho em xin con dế "tiểu hắc quỉ" nầy nhé!
Tiểu hắc quỉ là Quách-Phù muốn ám chỉ con dế vừa nhỏ vừa đen nhưng độc ác.
Dương-Qua được dịp kiêu hãnh đáp:
- Cô nương xin làm gì con vật xấu xí này! Sao cô nương lại nguyền rủa nó là tiểu hắc quỉ?
Quách-Phù bị chạm tự ái bĩu môi nói:
- Không cho thì thôi! Coi bộ quí lắm đấy.
Dứt lời, Quách-Phù lật úp chiếc bồn xuống, trút con dế đen ra ngoài đất rồi lấy chân chà nát.
Dương-Qua thấy thế nổi giận mặt đỏ phừng phừng, đưa tay tát vào con bé một cái nên thân.
Bị cái tát bất ngờ, Quách-Phù xửng vững mặt mày. Cô ta đứng trân chưa kịp suy xét xem có nên khóc hay nên không thì Vũ-tu-Văn đã tiến đến sừng sộ:
- Đồ vũ phu! Sao lại đánh người ta.
Dứt lời Tu-Văn đấm vào bụng Dương-Qua một thôi.
Vũ-tu-Văn vốn được người mẹ cố công rèn luyện nên đánh rất đúng cách. Dương-Qua bị đánh bất ngờ, đau quá đưa tay thoi lại. Nhưng Tu-Văn né kịp sang bên rồi thuận để đánh tới.
Dương-Qua nhảy chồm lên, quyết cùng Tu-Văn một trận kịch chiến. Khốn thay lúc đó Đôn-Nhu cũng chạy đến kịp đưa chân khoèo vào chân Dương-Qua làm cho Dương-Qua té nhào dưới đất. Vũ-tu-Văn liền nhảy phóc vào người Dương-Qua, gối lên bụng, hai đầu gối kẹp vào hông. Rồi hai anh em họ Vũ thi nhau dùng cả bốn tay thoi Dương-Qua tới tấp.
Dương-Qua tuy lớn tuổi hơn anh em họ Vũ, song không thể một mình đương cự cả hai. Phần thì võ nghệ Dương-Qua cũng chẳng luyện tập là bao lại ở trong thế bị động nên không dư sức vận dụng nội công để chiụ những đòn tán loạn đó.
Hai anh em họ Vũ thắng thế vừa cười vừa thói vào Dương-Qua bình bịch. Nhưng tuyệt nhiên, chúng không dám động đến mặt mày sợ vợ chồng Quách-Phù biết được thì khốn.
Quách-Phù thấy anh em họ Vũ đánh Dương-Qua ban đầu lấy làm đắc ý. Nhưng sau thấy Dương-Qua đau đớn quá cũng động lòng và lo ngại.
Tuy nhiên, cô bé này rờ lên mặt cảm thấy dấu tay của Dương-Qua còn nóng rát trên vừng má, tức giận nói với anh em Tu-Văn:
- Cứ đánh nữa đi! Đánh nữa đi!
Hai anh em họ Vũ nghe lời cổ võ của Quách-Phù lại càng hăng lên nữa, ráng sức thoi thật mạnh vào người Dương-Qua.
Dương-Qua bị kẹt dưới sức nặng của Tu-Văn vê hai đầu gối đau đớn, không thể nào vùng vẫy được, đành nằm im thiêm thiếp chịu đựng những quả đấm liên hồi.
Đến lúc hắn nghe tiếng Quách-Phù cổ võ, bảo anh em Tu-Văn đánh nữa, hắn lẩm bẩm:
- A! Con bé này độc ác thật. Rồi sau này mày sẽ biết tay tao.
Trong lúc đó hai anh em Vũ-tu-Văn thi nhau đánh vào người nó như đánh vào một bị gạo. Dương-Qua quá đau đớn, co rút người lại, hai tay quờ quạng dưới đất. Bỗng tay nó vướng phải một vật gì lạnh buốt. Thì ra đó là xác con rắn chết lúc nãy.
Một ý kiến nảy nở trong óc, Dương-Qua nắm lấy đầu con rắn vung lên. Hai anh em Vũ-tu-Văn thất kinh, ngỡ con rắn sống lại, vội bỏ Dương-Qua kéo nhau chạy.
Thừa thế, Dương-Qua tung người dậy, đánh vào mũi Vũ-tu-Văn một đòn rất hiểm độc, rồi bỏ chạy.
Vũ-tu-Văn bị trúng phải, máu mũi vọt ra lai láng. Hai anh em tức giận băng mình đuổi theo Dương-Qua. Quách-Phù cũng hăng máu, chạy theo rất gấp, miệng la lớn:
- Bắt nó cho được! Hãy bắt nó cho được!
Dương-Qua chạy một hồi quay đầu lại thấy Tu-Văn mặt mày quần áo đều nhuộm máu. Biết rằng nếu anh em họ Vũ đuổi kịp ắt nó không thoát được hiểm nghèo. Nó liền nhắm hướng về phía đồi núi chạy một mạch.
Vũ-tu-Văn tay bị đánh trúng mãi song thương tích không lấy gì làm nhục. Nó chỉ tức giận Dương-Qua đã làm nhục nó trước mặt Quách-Phù mà thôi.
Thấy bị đuổi quá gấp, Dương-Qua liền leo lên đồi núi. Vốn quen sống với đồi núi, Dương-Qua trèo núi rất nhanh. Chẳng mấy chốc nó leo lên tận đỉnh.
ác hại thay, đỉnh núi ấy phía bên kia dốc đứng thẳng, nếu vượt qua sẽ bị lăn nhào xuống nát thây.
Tình trạng ấy khiến Dương-Qua bối rối quay đầu nhìn anh em họ Vũ đang lần mò đuổi đến.
Nó chỉ vào đỉnh núi la lớn:
- Nầy nầy! Nếu chúng mày tiến lên một bước nữa ta nhảy qua bên kia đấy!
Anh em Vũ-tu-Văn nhìn thấy dốc núi ghê sợ, hoang mang không biết có nên đuổi theo nó nữa chăng.
Qua một hồi suy tính, Vũ-tu-Văn cương quyết nói lớn:
- Mày muốn nát xương thì nhảy qua đó. Chúng tao đâu thèm quan tâm đến sinh mạng mày.
Dứt lời hai anh em họ Vũ ra sức đuổi nó.
Thấy không thể hăm dọa được anh em Tu-Văn. Dương-Qua phân vân không biết xử trí cách nào, thì chợt nó trông thấy gần đấy có một tảng đá lắc lư bên sườn núi tựa hồ như chỉ dựa vào một điểm tựa mong manh.
Dương-Qua chạy đến định núp mình vào tảng đá. Nhưng tay nó vừa mò tới thì tảng đá bỗng sụt xuống lăn theo sườn núi phát ra những tiếng ầm ầm như sấm, đất bụi tung lên mịt mù, trông rất khủng khiếp.
Tảng đá lăn xuống đúng vào chỗ anh em họ Vũ.
Vũ-tu-Văn và Vũ-đôn-Nhu hồn vía không còn, mặt mày xanh nhợt không còn biết tránh đi đâu, chỉ chờ tảng đá lăn xuống nghiền nát mà thôi.
Trong lúc nguy hiểm, bỗng hai anh em Tu-Văn cảm thấy như mình bay lơ lửng trên không và thoát dần ra khỏi đám bụi mờ.
Thì ra, hai con thần ưng chẳng biết từ đâu đến cứu đứa bé thoát cơn nguy khốn. Hai con thần ưng đưa hai đứa bé thẳng ra bể khơi.
Hoàng-Dung đang ngồi trong nhà bỗng nghe một tiếng ầm kinh dị, rồi tiếp đến tiếng kêu của thần ưng. Nàng đoán có việc chẳng lành, liền vụt chạy ra ngoài, thấy cát bụi bay mịt trời ở nơi sườn núi. Lại thấy Quách-Phù đang ẩn mình trong hốc đá. Nàng hốt hoảng chạy đến ôm chầm lấy con, đưa ra khỏi chỗ hiểm nghèo.
Hai con thần ưng thấy Hoàng-Dung liền hạ xuống bỏ hai anh em họ Vũ trên đất và thốt ra những tiếng kêu như muốn tường trình công việc vừa xảy ra.
Hoàng-Dung ôm lấy đứa con gái hỏi:
- Việc gì như thế?
Quách-Phù ngả đầu vào lòng mẹ, sụt sùi kể lại câu chuyện nào Dương-Qua tát vào mặt nó, nào Dương-Qua thoi vào người Tu-Văn vọt máu, nào Dương-Qua xô đá định giết anh em họ Vũ. Con bé đề cao việc anh em họ Vũ, bênh vực nó, tuyệt nhiên không hề nói đến lỗi lầm của anh em họ Vũ đối với Dương-Qua.
Nghe kể, Hoàng-Dung sửng sốt không nói nên lời.
Alert | IP Printer-friendly page | Edit | Reply | Reply With Quote | Top
Author dongta
Author Info Member since Nov-22-01:562 posts, 1 feedbacks, 2 points
ID/Subject 1. "Tiếp Theo Hồi 7"
Date/Time Jan-12-02, 06:07 PM ()
Message
In response to message #0
Bấy giờ Quách-Tỉnh cũng chạy đến xem thấy cơ sự trước mắt lấy làm kinh ngạc, lo ngại vì sợ Dương-Qua trốn mất nên chạy đi tìm.
Quách-Tỉnh đi lùng một hồi lâu trong chân núi chẳng thấy bóng Dương-Qua đâu, liền đưa tay lên miệng làm loa, rống lên một tiếng như sấm động.
- Dương-Qua ơi! Dương-Qua ơi!
Tiếng kêu dội ra hàng chục dặm, nhưng rồi dư âm cũng chìm đắm trong tĩnh mịch của núi rừng, không có một lời hồi đáp.
Ngỡ là Dương-Qua có thể vượt biển bơi vào đất liền, nên Quách-Tỉnh dùng thuyền bơi quanh đảo. Nhưng rồi cũng vô hiệu. Trời tối dần, màn đêm bao phủ cảnh vật, Quách-Tỉnh phải trở về với một mối buồn man mác.
Nguyên lúc Dương-Qua vừa đụng vào tảng đá, tảng đá vừa lăn xuống thì nó cũng mất thăng bằng rơi xuống một cái hốc lớn. Kế đó nó thấy đôi thần ưng cắp anh em họ Vũ, rồi đến Hoàng-Dung xuất hiện, nó ái ngại trong lòng, nghĩ rằng nếu nó trở về thế nào việc chẳng lành cũng xảy ra. Nó liền tìm một khe đá kín đáo hơn lẩn trốn.
Bỗng nó nghe tiếng Quách-Tỉnh gọi, nhưng nó chẳng đáp lại, nép mình nằm im thin thít đến nỗi dẫu Quách-Tỉnh có đến gần cũng không thể nào trông thấy.
Rồi nó ngủ thiếp đi từ lúc nào không biết. Đến khi thức dậy, nó thấy bốn bề quạnh vắng, màn đêm bao phủ mịt mùng, chỉ còn nghe tiếng côn trùng rỉ rả trong canh khuya.
Nó cảm thấy bụng nó đói như cào, nó lần bước ra ngoài khe đá. Gió lạnh lùa vào mặt, ánh sao vàng nhấp nhánh đầy nỗi cô đơn.
Nhìn xuống chân núi về phía trang trại, nó thấy ánh đèn còn leo lét qua các khe cửa. Một vài bóng đen thấp thoáng trong sân, nó tưởng tượng đến một khung cảnh ấm êm trong gia đình với Quách.
Vừa đói cơm vừa khát nước, vừa thèm thuồng cái cảnh đoàn viên, nó muốn quay về sống chung với họ Quách, nhưng nó lại sợ. Hoàng-Dung, một con người lanh lợi thông minh không có một điều gì có thể qua mắt được. Nó trù trừ suy tính mãi. Nhưng rồi cuối cùng nó thích cảnh tự do, không muốn đem vào người nó một ràng buộc nào.
Nó trở lại khe đá đánh một giấc ngon lành cho đến sáng.
Ngày hôm sau, nó vẫn nằm trong khe đá, không dám ló mặt ra ngoài, vì nó biết Quách-Tỉnh thế nào cũng đang đi tìm kiếm.
Rồi đến lúc chiều tối, nó lại lần ra ngoài, nhìn cảnh tấp nập vui vẻ của trang trại như muốn khêu gợi lòng khát khao của nó. Tuy nhiên, nó hình dung nét mặt nghi ngờ của Hoàng-Dung và dáng điệu nham hiểm của Quách-Phù, nhất định nó không trở về.
Sống trong tình trạng đó hai ngày thì người nó lả đi vì đói khát, nó nhất định phải tìm phương sống. Nó liền trèo qua bên kia đỉnh núi mò đến một con suối bắt nhái ở hai bên bờ cỏ đánh lửa nướng ăn.
Nhưng khi đánh lửa nó lại sợ vô tình chỉ nơi trú ẩn mình cho Quách-Tỉnh, nên nó rất cẩn thận. Trước khi mẹ nó thường nói những lúc cần thiết phải thổi lửa mà không muốn lên khói thì phải dùng những que củi thật khô, bóc hết vỏ. Trường hợp nó xét thấy cần cẩn thận hơn, nó chỉ dùng hai lõm cây khô để tránh khói.
Đang ăn mấy con nhái nướng ngon lanh, bỗng nó nghe bên sườn núi có tiếng rắn kêu. Nó rón rén bước ra xem, thì ra một con rắn đang oanh hùng với một con cóc. Con rắn hổ phóng cổ lên bằng nắm tay, đầu dựng đứng toan áp đảo con cóc vàng.
Cóc ta lấm la lấm lét, chú mục nhìn theo đầu rắn, hai chân trước ghì xuống đất, hai chân sau tọa lạc trong thế sẵn sàng tung bắn.
Bỗng con rắn hổ đâm vào thân cóc. Nhưng cóc không nao núng ngẩng cao đầu lên để nghênh địch. Và khi rắn xông vào thì cóc đã phì một đám bọt trắng làm cho rắn tối mặt mày. Rắn liền cuộn tròn thân hình trong thế thủ, nhưng hình như độc cóc nơi bọt trắng bắt đầu thấm dần vào mồm mép của rắn, nên rắn dần dần cảm thấy suy yếu, cuối cùng tự xét mình không đủ sức đương cự, liền bỏ cóc lẩn tránh vào bụi cây.
Đắc thắng, cóc kêu lên mấy tiếng giống như là tiếng kêu của Tây-độc Âu-dương-Phong lúc đánh thế võ "hàm mổ công" vậy. (Hàm mổ có nghĩa là con cóc, con nhái).
Dương-Qua kinh ngạc, tự hỏi:
- Phải chăng Tây-độc Âu-dương-Phong đã quan sát lối tấn công kỳ dị của loài cóc để sáng tạo ra thế võ "hàm mổ công".
Đang suy nghĩ, bỗng từ sườn đồi có tiếng gọi của Quách-Tỉnh, tiếng gọi nghe thiết tha và cảm mến. Tuy nhiên, Dương-Qua tự nghĩ rằng Quách-Tỉnh là người thù của nghĩa phụ nó, nếu nó trở về với Quách-Tỉnh không khỏi bị đánh tan xương.
Nghĩ thế nó trở vào khe đá trốn. Nó vật mình nằm xuống phiến đá, bỗng nó thấy từ bên ngoài, Âu-dương-Phong rón rén bước vào, vỗ nhẹ vào đầu nó, nói:
- Cha trở lại tìm con! Từ nay không còn gì ngăn cách cha con ta nữa. Cha tiếp tục dạy con võ nghệ để sau này lớn lên con sẽ là một hiệp sĩ vô địch trong thiên hạ.
Nói xong, Âu-dương-Phong dựng nó đứng dậy, và hai cha con moi người thủ thế trên phiến đá như hai võ sĩ đang hờm đấu với nhau.
Lạ thay, Dương-Qua nhận thấy lần này Âu-dương-Phong không có một lời chỉ dẫn về mỗi động tác của chân tay, mà cứ nhìn nó với cặp mắt đầy sát khí rồi liên hồi tấn công vào nó như đang tấn công một địch thủ chân chính. Nó có cảm giác như nó đang đương đầu với một địch thủ và nó thầm bảo có lẽ lần này nghĩa phụ nó đã áp dụng một phương pháp giáo dục thực tiễn hơn chăng.
Bỗng lão già hô lên những tiếng "ngoạp, ngoạp" chấn động cả khe núi khiến cho nó nhớ lại cuộc đấu hồi nãy giữa cóc và rắn.
Vì đãng trí nên thiếu đề phòng nó bị một quả chưởng thôi sơn của Âu-dương-Phong đánh trúng làm cho nó bật ngửa trên phiến đá đau điếng cả người. Nó lấy tay ôm mặt suýt xoa, nhưng vừa ôm mặt thì bỗng nó tỉnh dậy, đưa mắt nhìn bốn phía, không thấy Âu-dương-Phong đâu cả. Nó mỉm cười biết rằng nó vừa qua một giấc mộng.
Nó bước ra khỏi khe đá, leo xuống núi để tìm thức ăn thì bắt đầu từ trong một lùm cây tiếng rống của Quách-Tỉnh vang lên:
Dương-Qua! Dương-Qua!
Nó bối rối định vụt chạy, nhưng không còn kịp nữa, chân nó lính quýnh vấp vào một tảng đá ngã xuống và Quách-Tỉnh nhảy đến ôm chầm nó vào mình.
Dương-Qua nhắm mắt lại, tưởng rằng Quách-Tỉnh sẽ nổi giận đánh cho nó một trận nên thân.
Nhưng không, Quách-Tỉnh vẫn thiết tha, dịu giọng nói:
- Cháu Qua! Sao cháu dại dột muốn bỏ chú mà đi?
Lại thấy nó lả người đi vì đói, Quách-Tỉnh liền vác nó lên đem về trang trại.
Mọi người thấy Dương-Qua trong tình trạng hôn mê liền ra công săn sóc, nào thuốc men, nào hoa quả. Tuyệt nhiên không một ai đả động đến những sự việc vừa qua.
Chẳng mấy bữa, Dương-Qua được bình phục sức lực như xưa.
Vào một bữa ngày lành tháng tốt. Quách-Tỉnh cho thiết lập hương án ở sảnh đường, thỉnh bài vị của Lục-quái Giang-nam, mời sư phụ Kha-trấn-ác đứng làm chủ lễ và tập họp cả gia đình lẫn gia nhân chứng kiến.
Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung mỗi người trịnh trọng đứng vào hai bên bàn án, còn bên trẻ Quách-Phù, Vũ-tu-Văn. Vũ-đôn-Nhu và Dương-Qua gọn gàng trong bốn bộ y phục hiệp sĩ quỳ sát trước hương án Lục-quái Giang-Nam.
Giữa bầu không khí trang nghiêm của sảnh đường, tiếng chiêng trống nổi lên vang dội. Mọi người im phăng phắc.
Chiêng trống vừa dứt, Quách-Tỉnh bước ra, hướng về bức di-họa của Lục-quái bái mấy bái rồi thưa với Kha-trấn-ác:
- Thưa sư phụ, hôm nay con là Quách-Tỉnh, xin phép sư phụ được nhận bốn trẻ môn đệ của võ phái Giang-Nam chúng ta. Tre già măng mọc là lẽ đương nhiên của tạo hoá. Song trong vườn võ nghệ, măng non cần phải được uốn nắn để lúc thành tre mới hữu dụng.
Đoạn, Quách-Tỉnh quay về phía bốn môn đệ nói:
- Quách-Phù, Vũ-tu-Văn, Vũ-đôn-Nhu, Dương-Qua, các con hãy bái lạy di-họa của Lục-quái Giang-nam đi. Trước linh hồn của sáu vị anh hùng quá cố, và trước sự chứng kiến của sư phụ ta, các con hãy thề trở nên những môn đồ xứng đáng, và hãy xem nhau như ruột thịt.
Lời nói nghiêm trang, đầy thiện chí của Quách-Tỉnh vừa dứt thì bốn trẻ cùng một lúc cung kính lạy trước hương án, rồi lần lượt xá Kha-trấn-ác, Quách-Tỉnh rồi đến Hoàng-Dung.
Cuộc lễ xong, Quách-Phù níu áo mẹ nũng nịu:
- Lúc nãy trước bàn thờ vì trang nghiêm quá con không dám nói chứ bắt con kết nghĩa với Dương-Qua con không bằng lòng đâu.
Hoàng-Dung đang suy nghĩ lời nói của con, chưa kịp trả lời thì Quách-Tỉnh đã quắc mắt nói:
- Con không được tỏ ra bội ước như vậy! Phàm trong môn phái nhà ta, lời thề là trọng. Tính mạng có thể mất chứ danh dự nhất định không thể để mờ phai. Nhất là lời thề trước Thất-quái Giang-nam, sáu chết một còn, lại càng quan trọng lắm. Ta nay còn phải trọng lời thề mà khắc cốt ghi lòng.
Đoạn hướng về mọi người, Quách-Tỉnh nói tiếp:
- Tính tôi, công phu vũ nghệ học hỏi cũng có thể gọi là khá nhiều, ngoài căn bản do Thất hiệp truyền thụ, tôi đã từng thao luyện vũ pháp nội công của phái đoàn Toàn-Chân và của Tâm-Đại-Tông Đông-Nam-Bắc. Nhưng để bắt đầu, tôi xin truyền dạy cho môn đệ những ngón vỡ lòng mà Kha-sư-phụ đã truyền giáo cho tôi.
Trong lúc Quách-Tỉnh nói, Hoàng Dung để ý vẻ mặt trầm ngâm của Dương-Qua, và nhớ lại hành tung khả nghi của đứa bé nầy, bụng bảo dạ:
- Cha thằng bé nầy thực ra không phải ta giết, nhưng việc đó ngoài ta ra có ai biết được. Ai cũng nghĩ rằng ta đã sát hại cha nó. Mà nếu mọi người đều nói như vậy thì nó không thể nghĩ khác đi được. Nay Quách-Tỉnh lại đem những bí quyết của môn phái mà truyền dạy tất sau này đi học. Chi bằng...
Nghĩ đến đây, Hoàng-Dung liền nói với chồng:
- Anh ạ! Em nghĩ rằng một mình anh phụ giáo cho cả thì sẽ quá vất vả. Xin anh giao Dương-Qua để em thay anh giáo dục.
Quách-Tỉnh chưa kịp đáp lời vợ, Kha-trấn-ác tán thành nói:
- Như vậy, rất phải! Thế thì hai con đua nhau dạy bảo để ta xem đồ đệ nào mau tiến bộ hơn.
Quách-Tỉnh vẫn thường công nhận vợ thông minh lanh lợi hơn mình, nếu Dương-Qua được vợ chỉ giáo thì thấy không trở ngại, liền nói:
- Tốt lắm! Em sẽ giúp anh trong việc đào tạo chúng nó.
Hoàng-Dung nói:
- Phàm trong nguyên tắc dạy dỗ điều cầu yếu là phải liên tục và duy nhất. Vậy thiết tưởng chúng ta phải qui định một nhiệm vụ hẳn hoi. Người nào phụ trách môn đồ nào phải chịu trách nhiệm môn đồ ấy. Anh không cần lo cho Dương-Qua, ngược lại em cũng không cần để ý đến ba đứa trẻ kia. Mỗi đứa bé có một khả năng, tâm trạng và hoàn cảnh đặc biệt. Thế thì việc giáo dục không thể đem áp dụng một phương pháp giống nhau.
Quách-Tỉnh vô tâm, không hiểu được dụng ý của vợ, trả lời:
- Điều đó có gì mà phải phân trần.
Hoàng-Dung liền gọi Dương-Qua lại bảo:
- Qua nhi! Hãy theo ta vào đây.
Dương-Qua tuy còn nhỏ tuổi song đã có đủ thông minh để suy luận. Nó hiểu phần nào dụng tâm của Hoàng-Dung song nó vẫn có ác cảm với ba đứa trẻ kia, không muốn cùng chung tập luyện, nó hoan hỉ được một mình một trường theo thọ giáo với Hoàng-Dung.
Hoàng-Dung bắt nó vào thư phòng, đặt nó ngồi trước một án thư, rồi lấy ra mấy quyển sách cũ kỹ, giảng:
- Từ nay mặc dù theo cuộc lễ chính thức vừa qua, thân phụ của con là Quách-Tỉnh, song ta được ủy thác để chăm sóc giáo dục con, con phải vâng lời ta dạy bảo. Điều trước tiên con phải biết dưới sư phụ của con lại có bảy sư phụ danh truyền là Thất-quái Giang-nam, Kha-Công là đại-sư, còn nhị sư là Châu-Thông có văn tài đặc biệt. Vậy ta giảng cho con nghe những tuyệt tài trong văn chương của Châu-Công.
Dứt lời, nàng giở quyển thư cổ ra đọc:
- Vở viết: học nhi thời tập chi, bất diệt diệt hồ? Thư bảng tự viễn phương lai, bất diệt lạc hồ.
Đó là hai câu rút trong Luân ngữ.
Dương-Qua nghe đọc lấy làm kỳ quái, nó thầm bảo:
- Tại sao bảo nó thọ giáo vũ nghiệp mà lại đem mang văn chương ra giảng dạy?
Tuy nhiên, nó chẳng dám nói gì cả cứ cắm đầu suy nghĩ.
Suốt mấy ngày liền, Hoàng-Dung cứ đem sách ra giảng tuyệt nhiên không đả động gì đến võ nghệ, hết sách này đến sách khác.
Một hôm, sau buổi học, Dương Qua lững thững dạo gót ra ngoài. Cảnh trí núi rừng trùng trùng điệp điệp, hồ rộng mênh mang nó chạnh lòng nhớ đến nghĩa phụ, người độc nhất đã cứu vãn tâm hồn nó một mối cảm giác thân yêu.
Để giải buồn, nó đảo thân qua lại, dùng hai tay cắm đầu xuống đất, chổng chân ngược lên trời, bắt chước theo lối đi của Âu-dương-Phong thuở nọ. Rồi nó ôn lại ngón võ "Hàm-mô Công" mà Âu-dương-Phong đã truyền dạy lỡ dở từ dạo nào. Nó cũng chua chân, chong tay, cong mình, y hệt điệu bộ của Tây-độc Âu-dương-Phong. Nó vận dụng các bắp thịt rồi cũng tung người lên với những tiếng kêu "ngoạp, ngoạp".
Mồ hôi nó toát ra như tắm, và cảm thấy trong người thanh sảng, nhẹ nhàng. Nó có cảm giác như đã tìm ra bí quyết của ngón võ đó.
Thế là ngay từ lúc hôm ấy, cứ mỗi chiều lúc mãn học, nó ra ven đồi, giữa cảnh rừng nước bao la, ôn luyện võ nghệ, vừa bồi dưỡng thể chất vừa giải thoát linh hồn.
Ngày tháng êm đềm trôi trên đảo Đào-hoa, Hoàng-Dung cứ một mực dạy cho nó về kinh nghĩa. Hết Luận-ngữ đến Manh-tư rồi đến Trung-dung. Thằng bé tỏ ra thông minh đáo để, nó nhớ làu làu bất kỳ kinh sách nào đã dạy.
Thật ra Hoàng-Dung vốn có thành kiến với văn nghiệp cho nên nàng quan niệm rằng văn chương chẳng qua là món để đầu độc tư tưởng con người. Dẫu có thông minh trí tuệ đến đâu cũng chẳng làm được điều gì gọi là anh hùng trong thiên hạ.
Với quan niệm đó, Hoàng-Dung đem áp dụng để ngăn cản bước tiến về võ nghệ của Dương-Qua. Khi dạy đến Tứ-thư. Ngũ kinh, Hoàng Dung đã sửa soạn cho thằng bé một tương lai nhìn vũ trụ qua những câu "Tứ viết".
Tuy nhiên, với sức thông minh của nó, Hoàng Dung cũng đã nhiều lần kinh ngạc, tự bảo:
- Nếu trau dồi nó trong vũ nghiệp, thằng bé sau này hẳn trở nên bậc phi thường.
Còn Dương-Qua, lại có quan niệm khác. Nó bất chấp phân biệt quan niệm văn chương hay vũ thuật, nó chỉ ước lượng việc cần thiết đối với nó là phải đối phó với Hoàng-Dung. Nó nghĩ ngợi phương pháp giáo dục của Hoàng-Dung và lúc nào nó cũng cho Hoàng-Dung đối xử với nó đầy ác ý.
Nó hoài tưởng đến Âu-dương-Phong, một người thân nhất trên đời mà nó còn tin tưởng được.
Vậy để đối phó với pháp thuật Hoàng-Dung nó nghĩ một cách đơn giản là chỉ việc dùng pháp thuật của Âu-dương-Phong là có thể chống đối nổi.
Nó không hiểu rằng trong giới hảo hán đương thời môn phái của Âu-dương-Phong cũng như môn phái của Bạch đà Sơn không được xem là chính thống. Những lối phi hành lộn ngược những thế võ Hàm mô công chẳng qua là những tà thuật mà hiệp sĩ chính thống ai cũng xem như trái với võ đạo.
Một chiều, sau khi xem xong quyển Tả truyện, Dương-Qua rời khỏi thư phòng, rảo bước về phía ven biển với ý nghĩ mong ước được thoát ly khỏi hải đảo. Nó nhìn đàn hạc trắng bay bổng lên cao, thèm thuồng mọi cái tự do trong cuộc sống. Nó mới được có đôi cánh như con chim hạc để bay đi tìm nghĩa phụ.
Bỗng đằng sau nó có những tiếng hô và những tiếng thở. Nó nấp sau mỏm đá nhìn qua kẽ lá, thấy Quách-Tỉnh đang kiên nhẫn dạy hai anh em họ Vũ một miếng võ gia truyền.
Thật ra, quan sát kỹ lối biểu diễn của Quách-Tỉnh thì miếng võ này tuy lợi hại nhưng không đến nỗi học tập khó khăn lắm. Thế mà hai anh em họ Vũ tập đi, tập lại năm lần bảy lượt vẫn chưa đạt được ý muốn của Quách-Tỉnh.
Dương-Qua than:
- Nếu sư phụ trực tiếp dạy mình như thế thì mình đã tiến bộ biết bao. Hai đứa bé ngu xuẩn nầy tại sao lại may mắn gặp được vũ sư lỗi lạc dường ấy.
Nó tiếc cho nó! Nó tiếc không được trực tiếp thọ giáo với Quách-Tỉnh.
Nhưng một ý nghĩ bỗng đột xuất:
- Vì sao mình lại không học lén? Nếu trong trường văn chương đã có kẻ học lén mà trở nên thánh hiền thì trong võ thuật mình lại không thể học lén để thành hiệp sĩ sao?
Nghĩ như thế, nó rời khỏi nơi ẩn núp, cởi trần ngay ra và biểu diễn lại ngón võ của Quách Tỉnh đã dạy cho hai anh em họ Vũ.
Rồi từ đấy mỗi chiều, sau khi rời khỏi thư phòng nó lại bôn ba đến nơi ven rừng để học lén.
Một hôm, nó ham tập luyện nhiều quá nên trong người mỏi mệt nó nằm trên một phiến đá cheo leo nơi bãi biển, ngủ thiếp đi lúc nào không hay biết.
Bỗng có tiếng sắt chan chát từ mé biển vọng lên làm nó giật mình tỉnh giấc. Nó nhìn nơi phát ra tiếng động thì thấy có một chiếc thuyền vừa cập bến, đang thả neo.
Bấy giờ trời đang tối mịt, nó phải vận dụng nhỡn quang mới trông thấy hai người ăn mặc rất gọn ghẽ, mắt đăm đăm quan sát tứ phía rồi nhảy lên bờ. Cả hai bò sát trên mặt đất, hướng về trang trại.
Dương-Qua cho đó là hai tên đạo tặc, lấy làm tội nghiệp cho chúng đã dại dột dấn thân vào tử địa.
Thật vậy, Đào-hoa đảo là một sào huyệt hiểm trở mà không có kẻ nào có thể lọt vào nếu không có người hướng dẫn. Nó thở dài, tiếc cho hai mạng người sắp rơi vào tay Hoàng-Dung.
Nó lại nhìn sang phía khác và ngạc nhiên nhận thấy dưới gốc cây thúy liễu có bóng một thiếu nữ vận y phục màu trắng đang đảo thân di động. Thiếu nữ ấy dùng tay dí ngược đầu xuống đất. Thì ra đó là cô bé Quách-Phù. Có lẽ nó trộm thấy Dương-Qua tập luyện nên cố tình bắt chước chăng?
Hai tên lạ mặt bò dần tới. Và trong lúc Quách-Phù đang chú tâm lo giữ thăng bằng cho thân hình đảo ngược, hai tên kia bất thình lình áp đến Quách-Phù trói gô lại, đứa bịt mồm đứa nắm tay lôi xuống mé biển.
Dương-Qua sửng sốt, chưa biết phải nên hành động thế nào cho có hiệu quả. Nó chờ xem hai tên lạ mặt kia có những hành động gì.
Hai tên lạ mặt đặt Quách-Phù trong một lùm cây, trói gô chân tay nó lại, lấy áo nhét mồm, rồi tiếp tục hướng về phía trang trại. Chúng tiến rất nhanh và tỏ vẻ thông thạo như những người đã từng lui tới vậy.
Tuy nhiên, chốc chốc chúng dừng lại, tụm dần vào nhau để bàn bạc những gì không rõ.
Dương-Qua tự nghĩ:
- Nếu kêu cứu chắc gì Quách-Tỉnh đã ra kịp, trong lúc đó chúng có thể thủ tiêu mất con bé Quách-Phù thì còn gì.
Trong lúc suy tính nó nhìn con thuyền, nhìn mặt biển, với ý nghĩ thoát ly đột phát trong óc nó. Có lẽ đây là cơ hội ngàn năm một thuở giúp cho nó thoát thân.
Thế là nó bỏ hẳn ý định phát giác hai tên lạ mặt. Nó chạy xuống biển với ý định lấy trộm chiếc thuyền để vượt biển ra khơi, vào đất liền.
Nhưng lúc nó chạy gần đến chiếc thuyền thì bỗng trong khoang thuyền có tiếng lách tách. Rồi cửa khoang mở một người nhảy lên bờ...
Nó nép mình quan sát sự thể. Hai tên lạ mặt lúc này trở lại, đứa đi trước dáo dáo xem chừng, đưa đi sau vác Quách-Phù lên vai lểnh mểnh dò từng bước một.
Nhưng lạ thay! Nó lại trông thấy một đứa thứ ba! mà đứa thứ ba nầy chắc chắn không phải là đồng bọn, vì nó đang nép mình ẩn núp để quan sát như Dương-Qua, đặc biệt hơn nữa đôi mắt nó chăm chăm gờm vào hai kẻ lạ mặt.
Đợi cho người lạ mặt thứ nhất tiến đến gần, người thứ ba nhảy chồm ra, đưa tay thoi vào hông rất mạnh. Người lạ thứ nhất ngất xỉu xuống bãi cát không kịp la lên một tiếng và tên đi sau vác Quách-Phù cũng không kịp trông thấy nữa.
Người lạ mặt thứ hai đem Quách-Phù đặt vào khoang thuyền xong, không thấy bạn đồng hành đâu, lấy làm lạ lên tiếng hỏi:
- Kìa lão đại! Lão đại còn làm gì nữa mà chưa vào thuyền.
Tên sát nhân vừa rồi vẫn núp bên cạnh Dương-Qua giả giọng khàn khàn đáp:
- Thật kỳ quái! Thật kỳ quái!
Tên lạ mặt thứ hai ngạc nhiên bỏ Quách-Phù dưới thuyền lên khoang thuyền nhảy nhanh về phía có tiếng nói.
Thừa dịp đó, Dương-Qua nép mình bò ra phía mé biển, lao lên khoang thuyền, nấp vào bên kia ẩn thân.
Từ chỗ núp Dương-Qua lắng tai nghe những tiếng thình thịch. Nó đoán chắc rằng tên sát nhân ban nãy đã hạ thủ luôn người lạ mặt thứ hai nữa rồi.
Thật vậy, chỉ chốc lát một người co chân nhảy vào thuyền. Người đó là Dương-Qua nhận đúng là người đã núp bên nó và đã sát hại người lạ mặt đi đầu lúc nãy.
Tuy nhiên, bây giờ người ấy mặt mày lấm tấm máu, quần áo tả tơi, dáng điệu trông dễ sợ làm sao!
Dương-Qua liền vận dụng thế võ Hàm-mô-công, thân hình cong rúm, chân tay co quắp, miệng kêu lên mấy tiếng "ngoạp! ngoạp" rồi tung người đâm bổ vào bụng tên sát nhân.
Bất ngờ bị trúng phải một thế võ sức nặng ngàn cân, tên sát nhân văng bổng người lên, rơi xuống biển.
Dương-Qua thở khì một tiếng nó không ngờ thế võ nó rèn luyện lâu nay lại đưa đến một kết quả khả quan như vậy.
Chưa kịp mừng, Dương-Qua đã nghe tiếng Quách-Tỉnh bất thần hỏi.
- Qua nhi! Con học thế vó Hàm-mô-công ở đâu thế? Có phải Âu-dương-Phong đã truyền dạy cho con chăng? Lão ta bây giờ ở đâu.
Dương-Qua ngẩng đầu lên thấy Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung đồng nhảy xuống thuyền cùng một lúc.
Rồi không đợi nó trả lời, Quách-Tỉnh nhảy vội xuống nước vời lên sát nhân lên, rồi la lớn:
- Em Dung ơi! Đây là bạn của ta mà!
Tên sát nhân miệng trào máu, vừa tức giận nắm lấy Dương-Qua hét lên:
- Tại thằng ranh con nầy sanh chuyện.
Bàn tay Hoàng-Dung nắm vào như xé thịt. Dương-Qua cảm thấy đau nhói cả người, nhưng nó nhất định cắn răng chịu đau không rên rỉ.
Quách-Tỉnh đến bãi cát nhìn mặt hai xác chết thấy trong túi áo một tên có bản đồ Đào-hoa đảo liền kêu Hoàng-Dung, nói:
- Em Dung, hãy đến xem cái nầy!
Lúc đó Hoàng Dung mới thả Dương-Qua ra, nhảy đến bên Quách-Tỉnh cùng xem bản họa đồ.
Hai vợ chồng bàn luận trông có vẻ quan trọng lắm. Một hồi lâu, Kha-trấn-ác đến. Cả ba cùng tiếp tục thảo luận.
Khi mọi người như đã thảo luận xong, cùng nhau về phía Dương-Qua, làm cho Dương-Qua có cảm giác bối rối lạ lùng. Nó đưa tay chỉ vào khoang thuyền nói:
- Thưa sư phụ, Quách-Phù đang bị chúng nó trói bỏ nơi đây.
Mọi người xúm lại cởi trói cho Quách-Phù và thấy Quách-Phù không bị thương tích gì nên rất hoan hỉ.
Trên đường về, Quách-Tỉnh bảo Dương-Qua:
- Này Qua nhé! Con không thể ở yên trên đảo này được. Ta phải đưa con đến Trùng-Dương-cung ở Chung-Nam-Sơn để tìm giáo chủ của phái Toàn-Chân mà xin thọ giáo võ nghệ mới được.
Dương-Qua nghe nói biết đó là kết quả cuộc bàn bạc quan trọng của vợ chồng Quách-Tỉnh vừa rồi. Nó im lìm nghe theo chẳng dám thưa hỏi gì cả.
Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 7 : Bốn trẻ đồng môn
Chẳng bao lâu thuyền cặp bến đảo Đào-hoa. Trong suốt cuộc hành trình, Quách-Tỉnh nhờ Hoàng-Dung săn sóc nên thương tích thuyên giảm khá nhiều, vả lại được một thời gian nghỉ ngơi sức lực chàng bình phục như xưa.
Vợ chồng Quách-Tỉnh không lúc nào quên nghĩ đến Âu-dương-Phong. Họ lấy làm lạ chẳng biết tại sao đã mười năm qua ông lão anh hùng nầy vẫn còn giữ được sức lực tài năng và phong độ tự thuở nào, mặc dù tuổi đã về chiều. Thì ra con người kỳ dị ấy bất chấp cả thời gian.
Đó là vợ chồng Quách-Tỉnh chưa chứng kiến vụ phục thù của Kha-trấn-ác đối với Âu-dương-Phong nơi cổ miếu. Nếu họ thấy trận phục thù đó họ còn ngạc nhiên sức dẻo dai của Âu-dương-Phong hơn nữa. Sáng hôm ấy, sau khi bàn bạc cùng nhau, Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung gọi Dương-Qua vào cật vấn về sự việc quá khứ. Dương-Qua đang cùng con bé Quách-Phù bắt dế, nghe kêu nó đã đoán biết là nó sắp trả lời những câu hỏi khó khăn nên đã dự ý trước.
Nguyễn Dương-Qua cùng người mẹ là Trần-nam-Ngân trước đây sống về nghề bắt rắn nơi chân núi Trường-Lĩnh. Nghề bắt rắn vốn không phải là nghề kiếm ăn dư giả, nhưng cũng nhàn hạ. Ban đêm họ chỉ vất vả mấy tiếng đồng hồ lục lạo ở các ven rừng ở bờ bụi may ra cũng đủ độ nhật trong một ngày.
Đối với Trần Thị, nghề nghiệp và sinh kế không quan trọng bằng việc giáo dục con. Ngày nào cũng như ngày nào, người mẹ kiên trinh ấy quyết tâm rèn luyện cho con mình mong trở thành người lý tưởng.
Những lời giáo huấn môn phong trước đây đã vun đúc vào cho Dương-Qua một tâm tánh phong nhã. Trần thị lại đem những ngón sở trường trong vũ thuật mà bà đã góp nhặt trên bước phiêu lưu giang hồ để truyền lại cho Dương-Qua, đứa con duy nhất của bà.
Từ khi Dương-Qua trí khôn mới bắt đầu thành hình đã tỏ ra thông minh đáo để. Nó học đâu nhớ đó. Không một quyển sách nào, một lời giáo huấn nào của từ mẫu răn dạy mà nó không thuộc làu. Đến như việc bắt rắn, nó chẳng học tập gì cả, cứ hàng đêm xách đèn theo mẹ, ấy thế mà mới vừa lên tám nó đã có nhiều kế hoạch bắt rắn thông thạo hơn người mẹ là khác.
Những lúc cùng nhau lặn lội dưới chân Trường-sơn để theo dấu vết những con rắn, người mẹ thường kể cho Dương-Qua nghe là trên đời này chỉ có một người, hay đúng hơn là một danh nhân lấy việc nuôi rắn để mưu đồ việc lớn. Danh nhân ấy có thể sai khiến được rắn thành hàng ngũ, lập thành trận thế và điều khiển theo binh pháp. Danh nhân ấy hiện trú ẩn nơi Bạch-đà-Sơn.
Câu chuyện nầy làm cho Dương-Qua lưu ý và thích thú nhất. Có nhiều lúc Dương-Qua mơ ước được thành danh nhân đó, nên nó tự mình bắt rắn huấn luyện theo mơ tưởng.
Lần lần Dương-Qua nuôi được một đoàn rắn tinh khôn, biết nghe theo mệnh lệnh của nó.
Tuy nhiên, nó vẫn chưa thỏa, ước mong sao một ngày nào đó nó gặp được vị danh nhân để có thể sai khiến theo phép thuật danh truyền.
Mẹ con sống với nhau được mười năm thì một hôm người mẹ rủi ro bị rắn độc cắn, trong người quên mang theo thuốc giải độc nên ngất lịm, nằm mê mang dưới chân núi. Dương-Qua vội chạy về nhà lấy thuốc giải độc, nhưng đến nơi, nọc độc đã thấm vào tim, người mẹ chỉ còn là một cái xác không hồn.
Còn biết làm sao hơn, Dương-Qua khóc lóc một hồi rồi đành nuốt hờn chốt cất người mẹ, trở về sống cô đơn nơi chân núi với túp lều tranh trên đồi, nó chỉ còn một con chim hồng và đàn rắn làm bạn.
Song lẽ, đã mất mẹ, người mẹ yêu dấu kia, nó còn thiết gì căn lều ở chân núi Trường Lĩnh nữa, một hôm nó bỏ nhà đem con chim nhỏ và đàn rắn đi phiêu bạt đó đây, hi vọng hão huyền sẽ được gặp vị danh nhân Bạch-Đà-Sơn để học thuật luyện rắn.
Chẳng ngờ bước phiêu lưu, tình cờ đã đưa đẩy nó gặp gỡ Lý-mạc-Thu để mất cả chim hồng và đàn rắn khôn, và thân nó bây giờ chỉ trơ trọi một mình không biết đâu nương tựa...
Bao nhiêu câu chuyện về dĩ vãng nó đem kể lại cho vợ chồng Quách-Tỉnh nghe.
Nghe đến đây, Hoàng-Dung căm tức Lý-mạc-Thu đã sát hại con chim hồng mà chính con chim ấy trước đây Hoàng-Dung đã từng nâng niu.
Tiếp đó, Hoàng-Dung lại cật vấn đến việc Dương-Qua ở đâu lúc Vũ-tam-Thông và Âu-dương-Phong đấu nhau. Làm sao Dương-Qua lại quen biết Âu-dương-Phong và Âu-dương-Phong là ai.
Dương-Qua cảm biết Hoàng-Dung là kẻ linh lợi, một kẽ hở nhỏ cũng đủ để Hoàng-Dung thấu hiểu sự tình và khai thác hành tung nên nó một mực tỏ ra rất thản nhiên, một mực tỏ ra thành khẩn để lập lại những điều mà nó đã sắp đặt trước. Thỉnh thoảng nó kể những mẩu chuyện xen vào ăn khớp với người nầy người kia để đánh trống lảng.
Nghe thằng bé kể lời lẽ tự nhiên, sự việc hợp tình hợp lý, lại tuổi tác nó còn nhỏ bé. Hoàng-Dung thật khó lòng nghi ngờ. Tuy nhiên, nàng cũng khó mà tin cậy trước cái vẻ tinh khôn của nó.
- Cháu ngoan lắm! Thôi cháu hãy ra ngoài chơi với anh em họ Vũ đi.
Dương-Qua ra khỏi phòng, Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung tiếp tục bàn bạc.
Quách-Tỉnh nói:
- Này em Dung! Chắc em hiểu rõ lòng anh. Ngày nay anh gặp được cháu Dương-Qua anh tưởng như cuộc hội ngộ trời cho thật lấy làm vui sướng.
Nguyên vì thuở trước ông thân sinh Quách-Tỉnh cùng ông nội Dương-Qua là đôi bạn chí thiết. Bấy giờ nhân hai người vợ cùng có thai, đôi bạn thân bèn uớc hẹn cùng nhau, hễ sanh đồng trai thì cho chúng làm anh em, đồng sinh gái thì cho chúng làm chị em, nếu sanh một trai một gái thì cho chúng làm vợ chồng. Sau đó mỗi người vợ đều sinh mỗi người một trai. Bởi vậy Dương-Khang và Quách-Tỉnh theo lời nguyện ước của song thân kết làm anh em, xem nhau như ruột thịt mặc dù khác họ.
Về sau Dương-Khang vì mạo nhận giặc cướp làm cho cha già bị chết thê thảm ở miếu Thiết-Phương Gia-hưng-vương. Từ đó Quách-Tỉnh buồn bã thương nhớ không nguôi. Nay tình cờ gặp đặng Dương-Qua, con của người anh em, Quách-Tỉnh xiết bao mừng rỡ.
Hoàng-Dung tuy hiểu rõ tình ý của chồng, song không muốn chồng mình đem tình cảm đối với Dương-Qua như thế, và ngại rằng với Dương-Qua như thế, và ngại rằng với lời ước hẹn của phụ thân, Quách-Tỉnh sẽ buộc gả con bé Quách-Phù cho Dương-Qua mà lòng nàng không thích.
Hoàng-Dung bảo:
- Như thế em không bằng lòng.
Quách-Tỉnh ngạc nhiên nhìn vợ, hỏi:
- Em không bằng lòng điều gì?
Hoàng-Dung đáp:
- Điều rất đơn giản là em không muốn gả Quách-Phù cho Dương-Qua, con một tên tướng cướp.
Quách-Tỉnh nói:
- Dẫu em cho nó có thành tích bất hảo đi nữa cũng nên nghĩ đến lời thề ước của tiều nhân. Vả lại Dương-Qua diện mạo khôi ngô, cử chỉ linh lợi, tư cách thông minh. Nếu chúng ta gia công rèn luyện chắc chắn sau này tương lai phải vẻ vang tươi sáng.
Hoàng-Dung lắc đầu, nói:
- Em chỉ ngại nó quá thông minh mà hỏng.
Quách-Tỉnh mỉm cười, nói:
- Thế sao em cũng thông minh và lanh lợi mà không hỏng. Có gì phải e ngại?
Hoàng-Dung cũng mỉm cười:
- Nhưng em nhờ gặp được người chồng tuấn kiệt như anh.
Quách-Tỉnh nhún vai nói:
- Nhưng sao em chắc rằng Dương-Qua không phải là người chồng lý tưởng của Quách-Phù? Biết đâu khi lớn lên Quách-Phù lặn lội đó đây mà không sao tìm được người chồng thông minh tuấn kiệt như Dương-Qua.
Hoàng-Dung bỉm môi, nói:
- Chà quí quá!
Sau mấy câu trò đùa, Quách-Tỉnh nghiêm trang nói:
- Lúc sinh tiền thân phụ thường nhắc với anh rằng khi Dương-thúc-Tâm lâm chung, thúc phụ tỏ ý hy vọng anh có thể giữ trọn lời thề. Nếu nay anh không săn sóc Dương-Qua coi như con đẻ thì anh đã phụ lòng thân sinh, và chữ hiếu anh không làm tròn, mà chữ nghĩa cũng chẳng đầy đủ.
Dứt lời, Quách-Tỉnh buông tiếng thở dài.
Tiếng thở dài đầy tình cảm và nhơn nghĩa đã làm cho tâm hồn lẫn lý trí Hoàng-Dung phải dao động.
Hoàng-Dung hạ thấp giọng nói:
- Em nói thế chứ đôi trẻ còn nhỏ đã gấp gì định đoạt. Ngày sau, nếu Dương-Qua quả là người tốt thì anh muốn thế nào em xin nghe theo thế ấy, không có gì làm cho anh băn khoăn.
Quách-Tỉnh liền đứng dậy, hai tay chấp lại trịnh trọng nói:
- Đa tạ nương tử bằng lòng bỉ nhân vô cùng cảm kích.
Hoàng-Dung cũng thủ lễ, chấp tay bái chồng, trịnh trọng thưa:
- Thưa phu quân! Thiếp bằng lòng trong tương lai, nếu Dương-Qua là người tốt.
Quách-Tỉnh nghiêm trang, nói với giọng cương quyết:
- Dương-Khang, cha của Dương-Qua sống trong Vương-phủ Kim-quốc có thể có những điểm hư hỏng, nhưng Dương-Qua nếu đã được giáo dục trên đảo Đào-hoa không có lý gì lại không trở nên một chàng trai tuấn kiệt! Điều đó em khỏi lo!
Hoàng-Dung mỉm cười nói sang câu chuyện khác, không bàn luận đến việc Dương-Qua nữa.
Tuy nhiên, chúng ta cũng nên xét qua đôi tâm hồn non trẻ của Dương-Qua và Quách-Phù.
Ban đầu, lúc mới gặp nhau, cô bé Quách-Phù vốn có ác cảm với Dương-Qua, không chịu làm bạn với nhau. Nhưng trẻ thơ dễ quên, chẳng bao lâu Quách-Phù lại rủ Dương-Qua đi bắt dế ngoài khuê viên. Và bao nhiêu hiềm khích đều quên hết.
Lúc Dương-Qua bị Hoàng-Dung gọi vào chất vấn. Quách-Phù ngồi đợi mãi một lúc mới thấy Dương-Qua trở ra.
Dương-Qua nghe trong lùm cây có tiếng nói xì xào liền đưa mắt nhìn vào, thấy anh em họ Vũ ra đấy tự bao giờ, và cũng đang cùng với Quách-Phù bắt dế. Vũ-đôn-Nhu tay xách một chiếc lồng tre nhỏ, Quách-Phù bưng một cái thẩu lớn, cả hai đang lum khum nhìn xuống một tảng đá, nơi đấy Tu-Văn đang ra sức lật lên một vừng đất.
Vừng đất vừa lật lên, một con dế rất lớn nhảy phóc ra, Tu-Văn hối hả đuổi theo chụp.
Quách-Phù mừng rỡ, reo lên:
- A! Dế lớn quá! Anh bắt cho em nhé!
Tu-Văn cẩn thận cầm con dế trao cho Quách-Phù, nói:
- Con dế này đẹp lắm, xin biếu cô nương.
Quách-Phù cầm lấy, mở nắp thần bỏ vào. Qua làn thủy tinh con dế quả có một thân hình vô cùng đẹp đẽ. Màu vàng sẫm, đầu vuông, càng lớn, vế to, chắc chắn nó là một cự tướng trong làng dế.
Vũ-tu-Văn nói:
- Dế này phải gọi là vô địch đại tướng quân.
Rồi Tu-Văn quay lại nói với Dương-Qua.
Nầy Dương huynh! Số dế của Dương huynh bắt được có con nào địch lại với con nầy chăng. Nếu có, đem ra đấu một trận thư hùng cho biết sức.
Dương-Qua thấy Tu-Văn có vẻ khiêu khích, tỏ ý bất bình nhưng không nói gì cả, lấy giỏ dế của mình ra, lựa một con lớn nhất, hùng dũng nhất thả vào bồn đấu.
Con dế lớn màu vàng sẫm thấy bóng địch thủ liền gáy lên một tiếng, giương hai càng múa râu lên trời trong dáng điệu rất dũng mãnh.
Qua một lúc, nó tung hai chiếc đùi đá lại vào con dế của Dương-Qua một đòn làm cho con dế của Dương-Qua khiếp quá, quay đầu bỏ chạy.
Quách-Phù vỗ tay reo mừng với sự đắc thắng của con dế mình.
Dương-Qua bực tức, nói:
- Như thế dân đã thắng! Còn nhiều con dế khác nữa chứ!
Nói xong, Dương-Qua đưa ra một con dế khác thả vào bồn nhưng ba lần đều bị thất bại. Lần nào dế của Dương-Qua cũng bị con dế màu sậm kia cắn đá tơi bời sứt cánh, cong càng, bể bụng.
Dương-Qua bị chạm tự ái, nói lớn:
- Thôi, tôi chẳng thèm chơi dế nữa đâu.
Đoạn nó bỏ đi. Nhưng nó vừa bước được mấy bước. Tu-Văn lắng tai nghe trong lùm cây có tiếng đổ rào, thanh âm nghe kỳ lạ. Vũ-đôn-Nhu vỗ tay nói:
- Trong bụi nầy chắc còn có một con dế oai hùng không kém.
Rồi nó chạy đến phanh phui bụi cây để thu hồi, nhưng vừa vạch lùm cây, nó bỗng kinh hãi la lớn nhảy ra đằng sau:
- Ôi chao! Con rắn!
Dương-Qua nghe là rắn liền nhảy đến thì quả nhiên đó là một con rắn độc, thân mình điểm hoa mai có khoanh tròn dưới bụi cây, đầu ngóc cao và lưỡi lè ra trông dáng điệu hung hăng lắm!
Như đã biết Dương-Qua vốn sống về nghề bắt rắn cho nên nó không hoảng hốt như mấy đứa trẻ kia, bình tĩnh tiến sát vào một tay phe phẩy trước đầu rắn, một tay đập dưới đất.
Con rắn hấp tấp mổ vào tay Dương-Qua chưa trúng đích thì đã bị bàn tay kia của Dương-Qua tóm vào cổ quật xuống đất chết tươi.
Bọn trẻ khen tài Dương-Qua và đang xúm nhau nhìn xác con rắn thì bỗng nghe có tiếng dế reo. Rồi một con dế nhỏ từ dưới xác con rắn bò ra, thân mình nó xấu xí đến kỳ dị, màu đen như thân, đôi cánh chẳng có một đốm hoa nào tô điểm.
Quách-Phù nhìn Dương-Qua cợt đùa nói:
- Kìa Dương huynh! Con dế của Dương huynh đó sao chẳng bắt.
Dương-Qua phật ý, song cũng đáp lời:
- Vâng! Thì tôi sửa soạn bắt nó đây.
Dứt lời, Dương-Qua cúi xuống bắt lấy con dế và thả vào chiếc bồn thủy tinh của Quách-Phù:
Lạ thay, con dế lớn màu đỏ sậm, vừa trông thấy con dế đen liền nép mình khiếp sợ. Dế đen tiến đến tới đâu là dế đỏ sậm thụt lui đến đó.
Đối với các con dế khác, dế lớn oai hùng, vểnh râu múa càng như thế mà với con dế đen nhỏ nầy thì lại tỏ ra khiếp nhược chạy tròn theo hình bồn thủy tinh.
Chưa đủ, để tỏ ra nhục nhã hơn nữa, con dế lớn muốn thoát ra ngoài bồn. Nhưng đâu có được với con dế nhỏ. Nó búng mình nhảy theo cắn ngay vào bụng, dùng hai càng bật mạnh. Chỉ một đòn thôi, con dế lớn đã vỡ bụng chết ngay.
Thật ra cuộc đấu này không có gì kỳ lạ. Phàm loài dế có những loại sống trong hang của các loài vật khác thường hay nhiễm lấy màu sắc và độc tính của những loại đồng cư. Chẳng hạn như dế cùng sống với cóc người ta gọi là dế cóc thì cánh có lốm đốm hoa: dế cùng sống với rắn thì gọi là dế rắn. Dế này nhiễm độc, cắn vào vật nào thì vật ấy chết tươi. Nhưng chỉ có giữa loài dế mới phân biệt được.
on dế Dương-Qua vừa bắt chính là loại dế rắn.
Quách-Phù thấy dế lớn chết, tỏ vẻ không vui, suy nghĩ một hồi rồi nói với Dương-Qua:
- Anh cho em xin con dế "tiểu hắc quỉ" nầy nhé!
Tiểu hắc quỉ là Quách-Phù muốn ám chỉ con dế vừa nhỏ vừa đen nhưng độc ác.
Dương-Qua được dịp kiêu hãnh đáp:
- Cô nương xin làm gì con vật xấu xí này! Sao cô nương lại nguyền rủa nó là tiểu hắc quỉ?
Quách-Phù bị chạm tự ái bĩu môi nói:
- Không cho thì thôi! Coi bộ quí lắm đấy.
Dứt lời, Quách-Phù lật úp chiếc bồn xuống, trút con dế đen ra ngoài đất rồi lấy chân chà nát.
Dương-Qua thấy thế nổi giận mặt đỏ phừng phừng, đưa tay tát vào con bé một cái nên thân.
Bị cái tát bất ngờ, Quách-Phù xửng vững mặt mày. Cô ta đứng trân chưa kịp suy xét xem có nên khóc hay nên không thì Vũ-tu-Văn đã tiến đến sừng sộ:
- Đồ vũ phu! Sao lại đánh người ta.
Dứt lời Tu-Văn đấm vào bụng Dương-Qua một thôi.
Vũ-tu-Văn vốn được người mẹ cố công rèn luyện nên đánh rất đúng cách. Dương-Qua bị đánh bất ngờ, đau quá đưa tay thoi lại. Nhưng Tu-Văn né kịp sang bên rồi thuận để đánh tới.
Dương-Qua nhảy chồm lên, quyết cùng Tu-Văn một trận kịch chiến. Khốn thay lúc đó Đôn-Nhu cũng chạy đến kịp đưa chân khoèo vào chân Dương-Qua làm cho Dương-Qua té nhào dưới đất. Vũ-tu-Văn liền nhảy phóc vào người Dương-Qua, gối lên bụng, hai đầu gối kẹp vào hông. Rồi hai anh em họ Vũ thi nhau dùng cả bốn tay thoi Dương-Qua tới tấp.
Dương-Qua tuy lớn tuổi hơn anh em họ Vũ, song không thể một mình đương cự cả hai. Phần thì võ nghệ Dương-Qua cũng chẳng luyện tập là bao lại ở trong thế bị động nên không dư sức vận dụng nội công để chiụ những đòn tán loạn đó.
Hai anh em họ Vũ thắng thế vừa cười vừa thói vào Dương-Qua bình bịch. Nhưng tuyệt nhiên, chúng không dám động đến mặt mày sợ vợ chồng Quách-Phù biết được thì khốn.
Quách-Phù thấy anh em họ Vũ đánh Dương-Qua ban đầu lấy làm đắc ý. Nhưng sau thấy Dương-Qua đau đớn quá cũng động lòng và lo ngại.
Tuy nhiên, cô bé này rờ lên mặt cảm thấy dấu tay của Dương-Qua còn nóng rát trên vừng má, tức giận nói với anh em Tu-Văn:
- Cứ đánh nữa đi! Đánh nữa đi!
Hai anh em họ Vũ nghe lời cổ võ của Quách-Phù lại càng hăng lên nữa, ráng sức thoi thật mạnh vào người Dương-Qua.
Dương-Qua bị kẹt dưới sức nặng của Tu-Văn vê hai đầu gối đau đớn, không thể nào vùng vẫy được, đành nằm im thiêm thiếp chịu đựng những quả đấm liên hồi.
Đến lúc hắn nghe tiếng Quách-Phù cổ võ, bảo anh em Tu-Văn đánh nữa, hắn lẩm bẩm:
- A! Con bé này độc ác thật. Rồi sau này mày sẽ biết tay tao.
Trong lúc đó hai anh em Vũ-tu-Văn thi nhau đánh vào người nó như đánh vào một bị gạo. Dương-Qua quá đau đớn, co rút người lại, hai tay quờ quạng dưới đất. Bỗng tay nó vướng phải một vật gì lạnh buốt. Thì ra đó là xác con rắn chết lúc nãy.
Một ý kiến nảy nở trong óc, Dương-Qua nắm lấy đầu con rắn vung lên. Hai anh em Vũ-tu-Văn thất kinh, ngỡ con rắn sống lại, vội bỏ Dương-Qua kéo nhau chạy.
Thừa thế, Dương-Qua tung người dậy, đánh vào mũi Vũ-tu-Văn một đòn rất hiểm độc, rồi bỏ chạy.
Vũ-tu-Văn bị trúng phải, máu mũi vọt ra lai láng. Hai anh em tức giận băng mình đuổi theo Dương-Qua. Quách-Phù cũng hăng máu, chạy theo rất gấp, miệng la lớn:
- Bắt nó cho được! Hãy bắt nó cho được!
Dương-Qua chạy một hồi quay đầu lại thấy Tu-Văn mặt mày quần áo đều nhuộm máu. Biết rằng nếu anh em họ Vũ đuổi kịp ắt nó không thoát được hiểm nghèo. Nó liền nhắm hướng về phía đồi núi chạy một mạch.
Vũ-tu-Văn tay bị đánh trúng mãi song thương tích không lấy gì làm nhục. Nó chỉ tức giận Dương-Qua đã làm nhục nó trước mặt Quách-Phù mà thôi.
Thấy bị đuổi quá gấp, Dương-Qua liền leo lên đồi núi. Vốn quen sống với đồi núi, Dương-Qua trèo núi rất nhanh. Chẳng mấy chốc nó leo lên tận đỉnh.
ác hại thay, đỉnh núi ấy phía bên kia dốc đứng thẳng, nếu vượt qua sẽ bị lăn nhào xuống nát thây.
Tình trạng ấy khiến Dương-Qua bối rối quay đầu nhìn anh em họ Vũ đang lần mò đuổi đến.
Nó chỉ vào đỉnh núi la lớn:
- Nầy nầy! Nếu chúng mày tiến lên một bước nữa ta nhảy qua bên kia đấy!
Anh em Vũ-tu-Văn nhìn thấy dốc núi ghê sợ, hoang mang không biết có nên đuổi theo nó nữa chăng.
Qua một hồi suy tính, Vũ-tu-Văn cương quyết nói lớn:
- Mày muốn nát xương thì nhảy qua đó. Chúng tao đâu thèm quan tâm đến sinh mạng mày.
Dứt lời hai anh em họ Vũ ra sức đuổi nó.
Thấy không thể hăm dọa được anh em Tu-Văn. Dương-Qua phân vân không biết xử trí cách nào, thì chợt nó trông thấy gần đấy có một tảng đá lắc lư bên sườn núi tựa hồ như chỉ dựa vào một điểm tựa mong manh.
Dương-Qua chạy đến định núp mình vào tảng đá. Nhưng tay nó vừa mò tới thì tảng đá bỗng sụt xuống lăn theo sườn núi phát ra những tiếng ầm ầm như sấm, đất bụi tung lên mịt mù, trông rất khủng khiếp.
Tảng đá lăn xuống đúng vào chỗ anh em họ Vũ.
Vũ-tu-Văn và Vũ-đôn-Nhu hồn vía không còn, mặt mày xanh nhợt không còn biết tránh đi đâu, chỉ chờ tảng đá lăn xuống nghiền nát mà thôi.
Trong lúc nguy hiểm, bỗng hai anh em Tu-Văn cảm thấy như mình bay lơ lửng trên không và thoát dần ra khỏi đám bụi mờ.
Thì ra, hai con thần ưng chẳng biết từ đâu đến cứu đứa bé thoát cơn nguy khốn. Hai con thần ưng đưa hai đứa bé thẳng ra bể khơi.
Hoàng-Dung đang ngồi trong nhà bỗng nghe một tiếng ầm kinh dị, rồi tiếp đến tiếng kêu của thần ưng. Nàng đoán có việc chẳng lành, liền vụt chạy ra ngoài, thấy cát bụi bay mịt trời ở nơi sườn núi. Lại thấy Quách-Phù đang ẩn mình trong hốc đá. Nàng hốt hoảng chạy đến ôm chầm lấy con, đưa ra khỏi chỗ hiểm nghèo.
Hai con thần ưng thấy Hoàng-Dung liền hạ xuống bỏ hai anh em họ Vũ trên đất và thốt ra những tiếng kêu như muốn tường trình công việc vừa xảy ra.
Hoàng-Dung ôm lấy đứa con gái hỏi:
- Việc gì như thế?
Quách-Phù ngả đầu vào lòng mẹ, sụt sùi kể lại câu chuyện nào Dương-Qua tát vào mặt nó, nào Dương-Qua thoi vào người Tu-Văn vọt máu, nào Dương-Qua xô đá định giết anh em họ Vũ. Con bé đề cao việc anh em họ Vũ, bênh vực nó, tuyệt nhiên không hề nói đến lỗi lầm của anh em họ Vũ đối với Dương-Qua.
Nghe kể, Hoàng-Dung sửng sốt không nói nên lời.
Alert | IP Printer-friendly page | Edit | Reply | Reply With Quote | Top
Author dongta
Author Info Member since Nov-22-01:562 posts, 1 feedbacks, 2 points
ID/Subject 1. "Tiếp Theo Hồi 7"
Date/Time Jan-12-02, 06:07 PM ()
Message
In response to message #0
Bấy giờ Quách-Tỉnh cũng chạy đến xem thấy cơ sự trước mắt lấy làm kinh ngạc, lo ngại vì sợ Dương-Qua trốn mất nên chạy đi tìm.
Quách-Tỉnh đi lùng một hồi lâu trong chân núi chẳng thấy bóng Dương-Qua đâu, liền đưa tay lên miệng làm loa, rống lên một tiếng như sấm động.
- Dương-Qua ơi! Dương-Qua ơi!
Tiếng kêu dội ra hàng chục dặm, nhưng rồi dư âm cũng chìm đắm trong tĩnh mịch của núi rừng, không có một lời hồi đáp.
Ngỡ là Dương-Qua có thể vượt biển bơi vào đất liền, nên Quách-Tỉnh dùng thuyền bơi quanh đảo. Nhưng rồi cũng vô hiệu. Trời tối dần, màn đêm bao phủ cảnh vật, Quách-Tỉnh phải trở về với một mối buồn man mác.
Nguyên lúc Dương-Qua vừa đụng vào tảng đá, tảng đá vừa lăn xuống thì nó cũng mất thăng bằng rơi xuống một cái hốc lớn. Kế đó nó thấy đôi thần ưng cắp anh em họ Vũ, rồi đến Hoàng-Dung xuất hiện, nó ái ngại trong lòng, nghĩ rằng nếu nó trở về thế nào việc chẳng lành cũng xảy ra. Nó liền tìm một khe đá kín đáo hơn lẩn trốn.
Bỗng nó nghe tiếng Quách-Tỉnh gọi, nhưng nó chẳng đáp lại, nép mình nằm im thin thít đến nỗi dẫu Quách-Tỉnh có đến gần cũng không thể nào trông thấy.
Rồi nó ngủ thiếp đi từ lúc nào không biết. Đến khi thức dậy, nó thấy bốn bề quạnh vắng, màn đêm bao phủ mịt mùng, chỉ còn nghe tiếng côn trùng rỉ rả trong canh khuya.
Nó cảm thấy bụng nó đói như cào, nó lần bước ra ngoài khe đá. Gió lạnh lùa vào mặt, ánh sao vàng nhấp nhánh đầy nỗi cô đơn.
Nhìn xuống chân núi về phía trang trại, nó thấy ánh đèn còn leo lét qua các khe cửa. Một vài bóng đen thấp thoáng trong sân, nó tưởng tượng đến một khung cảnh ấm êm trong gia đình với Quách.
Vừa đói cơm vừa khát nước, vừa thèm thuồng cái cảnh đoàn viên, nó muốn quay về sống chung với họ Quách, nhưng nó lại sợ. Hoàng-Dung, một con người lanh lợi thông minh không có một điều gì có thể qua mắt được. Nó trù trừ suy tính mãi. Nhưng rồi cuối cùng nó thích cảnh tự do, không muốn đem vào người nó một ràng buộc nào.
Nó trở lại khe đá đánh một giấc ngon lành cho đến sáng.
Ngày hôm sau, nó vẫn nằm trong khe đá, không dám ló mặt ra ngoài, vì nó biết Quách-Tỉnh thế nào cũng đang đi tìm kiếm.
Rồi đến lúc chiều tối, nó lại lần ra ngoài, nhìn cảnh tấp nập vui vẻ của trang trại như muốn khêu gợi lòng khát khao của nó. Tuy nhiên, nó hình dung nét mặt nghi ngờ của Hoàng-Dung và dáng điệu nham hiểm của Quách-Phù, nhất định nó không trở về.
Sống trong tình trạng đó hai ngày thì người nó lả đi vì đói khát, nó nhất định phải tìm phương sống. Nó liền trèo qua bên kia đỉnh núi mò đến một con suối bắt nhái ở hai bên bờ cỏ đánh lửa nướng ăn.
Nhưng khi đánh lửa nó lại sợ vô tình chỉ nơi trú ẩn mình cho Quách-Tỉnh, nên nó rất cẩn thận. Trước khi mẹ nó thường nói những lúc cần thiết phải thổi lửa mà không muốn lên khói thì phải dùng những que củi thật khô, bóc hết vỏ. Trường hợp nó xét thấy cần cẩn thận hơn, nó chỉ dùng hai lõm cây khô để tránh khói.
Đang ăn mấy con nhái nướng ngon lanh, bỗng nó nghe bên sườn núi có tiếng rắn kêu. Nó rón rén bước ra xem, thì ra một con rắn đang oanh hùng với một con cóc. Con rắn hổ phóng cổ lên bằng nắm tay, đầu dựng đứng toan áp đảo con cóc vàng.
Cóc ta lấm la lấm lét, chú mục nhìn theo đầu rắn, hai chân trước ghì xuống đất, hai chân sau tọa lạc trong thế sẵn sàng tung bắn.
Bỗng con rắn hổ đâm vào thân cóc. Nhưng cóc không nao núng ngẩng cao đầu lên để nghênh địch. Và khi rắn xông vào thì cóc đã phì một đám bọt trắng làm cho rắn tối mặt mày. Rắn liền cuộn tròn thân hình trong thế thủ, nhưng hình như độc cóc nơi bọt trắng bắt đầu thấm dần vào mồm mép của rắn, nên rắn dần dần cảm thấy suy yếu, cuối cùng tự xét mình không đủ sức đương cự, liền bỏ cóc lẩn tránh vào bụi cây.
Đắc thắng, cóc kêu lên mấy tiếng giống như là tiếng kêu của Tây-độc Âu-dương-Phong lúc đánh thế võ "hàm mổ công" vậy. (Hàm mổ có nghĩa là con cóc, con nhái).
Dương-Qua kinh ngạc, tự hỏi:
- Phải chăng Tây-độc Âu-dương-Phong đã quan sát lối tấn công kỳ dị của loài cóc để sáng tạo ra thế võ "hàm mổ công".
Đang suy nghĩ, bỗng từ sườn đồi có tiếng gọi của Quách-Tỉnh, tiếng gọi nghe thiết tha và cảm mến. Tuy nhiên, Dương-Qua tự nghĩ rằng Quách-Tỉnh là người thù của nghĩa phụ nó, nếu nó trở về với Quách-Tỉnh không khỏi bị đánh tan xương.
Nghĩ thế nó trở vào khe đá trốn. Nó vật mình nằm xuống phiến đá, bỗng nó thấy từ bên ngoài, Âu-dương-Phong rón rén bước vào, vỗ nhẹ vào đầu nó, nói:
- Cha trở lại tìm con! Từ nay không còn gì ngăn cách cha con ta nữa. Cha tiếp tục dạy con võ nghệ để sau này lớn lên con sẽ là một hiệp sĩ vô địch trong thiên hạ.
Nói xong, Âu-dương-Phong dựng nó đứng dậy, và hai cha con moi người thủ thế trên phiến đá như hai võ sĩ đang hờm đấu với nhau.
Lạ thay, Dương-Qua nhận thấy lần này Âu-dương-Phong không có một lời chỉ dẫn về mỗi động tác của chân tay, mà cứ nhìn nó với cặp mắt đầy sát khí rồi liên hồi tấn công vào nó như đang tấn công một địch thủ chân chính. Nó có cảm giác như nó đang đương đầu với một địch thủ và nó thầm bảo có lẽ lần này nghĩa phụ nó đã áp dụng một phương pháp giáo dục thực tiễn hơn chăng.
Bỗng lão già hô lên những tiếng "ngoạp, ngoạp" chấn động cả khe núi khiến cho nó nhớ lại cuộc đấu hồi nãy giữa cóc và rắn.
Vì đãng trí nên thiếu đề phòng nó bị một quả chưởng thôi sơn của Âu-dương-Phong đánh trúng làm cho nó bật ngửa trên phiến đá đau điếng cả người. Nó lấy tay ôm mặt suýt xoa, nhưng vừa ôm mặt thì bỗng nó tỉnh dậy, đưa mắt nhìn bốn phía, không thấy Âu-dương-Phong đâu cả. Nó mỉm cười biết rằng nó vừa qua một giấc mộng.
Nó bước ra khỏi khe đá, leo xuống núi để tìm thức ăn thì bắt đầu từ trong một lùm cây tiếng rống của Quách-Tỉnh vang lên:
Dương-Qua! Dương-Qua!
Nó bối rối định vụt chạy, nhưng không còn kịp nữa, chân nó lính quýnh vấp vào một tảng đá ngã xuống và Quách-Tỉnh nhảy đến ôm chầm nó vào mình.
Dương-Qua nhắm mắt lại, tưởng rằng Quách-Tỉnh sẽ nổi giận đánh cho nó một trận nên thân.
Nhưng không, Quách-Tỉnh vẫn thiết tha, dịu giọng nói:
- Cháu Qua! Sao cháu dại dột muốn bỏ chú mà đi?
Lại thấy nó lả người đi vì đói, Quách-Tỉnh liền vác nó lên đem về trang trại.
Mọi người thấy Dương-Qua trong tình trạng hôn mê liền ra công săn sóc, nào thuốc men, nào hoa quả. Tuyệt nhiên không một ai đả động đến những sự việc vừa qua.
Chẳng mấy bữa, Dương-Qua được bình phục sức lực như xưa.
Vào một bữa ngày lành tháng tốt. Quách-Tỉnh cho thiết lập hương án ở sảnh đường, thỉnh bài vị của Lục-quái Giang-nam, mời sư phụ Kha-trấn-ác đứng làm chủ lễ và tập họp cả gia đình lẫn gia nhân chứng kiến.
Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung mỗi người trịnh trọng đứng vào hai bên bàn án, còn bên trẻ Quách-Phù, Vũ-tu-Văn. Vũ-đôn-Nhu và Dương-Qua gọn gàng trong bốn bộ y phục hiệp sĩ quỳ sát trước hương án Lục-quái Giang-Nam.
Giữa bầu không khí trang nghiêm của sảnh đường, tiếng chiêng trống nổi lên vang dội. Mọi người im phăng phắc.
Chiêng trống vừa dứt, Quách-Tỉnh bước ra, hướng về bức di-họa của Lục-quái bái mấy bái rồi thưa với Kha-trấn-ác:
- Thưa sư phụ, hôm nay con là Quách-Tỉnh, xin phép sư phụ được nhận bốn trẻ môn đệ của võ phái Giang-Nam chúng ta. Tre già măng mọc là lẽ đương nhiên của tạo hoá. Song trong vườn võ nghệ, măng non cần phải được uốn nắn để lúc thành tre mới hữu dụng.
Đoạn, Quách-Tỉnh quay về phía bốn môn đệ nói:
- Quách-Phù, Vũ-tu-Văn, Vũ-đôn-Nhu, Dương-Qua, các con hãy bái lạy di-họa của Lục-quái Giang-nam đi. Trước linh hồn của sáu vị anh hùng quá cố, và trước sự chứng kiến của sư phụ ta, các con hãy thề trở nên những môn đồ xứng đáng, và hãy xem nhau như ruột thịt.
Lời nói nghiêm trang, đầy thiện chí của Quách-Tỉnh vừa dứt thì bốn trẻ cùng một lúc cung kính lạy trước hương án, rồi lần lượt xá Kha-trấn-ác, Quách-Tỉnh rồi đến Hoàng-Dung.
Cuộc lễ xong, Quách-Phù níu áo mẹ nũng nịu:
- Lúc nãy trước bàn thờ vì trang nghiêm quá con không dám nói chứ bắt con kết nghĩa với Dương-Qua con không bằng lòng đâu.
Hoàng-Dung đang suy nghĩ lời nói của con, chưa kịp trả lời thì Quách-Tỉnh đã quắc mắt nói:
- Con không được tỏ ra bội ước như vậy! Phàm trong môn phái nhà ta, lời thề là trọng. Tính mạng có thể mất chứ danh dự nhất định không thể để mờ phai. Nhất là lời thề trước Thất-quái Giang-nam, sáu chết một còn, lại càng quan trọng lắm. Ta nay còn phải trọng lời thề mà khắc cốt ghi lòng.
Đoạn hướng về mọi người, Quách-Tỉnh nói tiếp:
- Tính tôi, công phu vũ nghệ học hỏi cũng có thể gọi là khá nhiều, ngoài căn bản do Thất hiệp truyền thụ, tôi đã từng thao luyện vũ pháp nội công của phái đoàn Toàn-Chân và của Tâm-Đại-Tông Đông-Nam-Bắc. Nhưng để bắt đầu, tôi xin truyền dạy cho môn đệ những ngón vỡ lòng mà Kha-sư-phụ đã truyền giáo cho tôi.
Trong lúc Quách-Tỉnh nói, Hoàng Dung để ý vẻ mặt trầm ngâm của Dương-Qua, và nhớ lại hành tung khả nghi của đứa bé nầy, bụng bảo dạ:
- Cha thằng bé nầy thực ra không phải ta giết, nhưng việc đó ngoài ta ra có ai biết được. Ai cũng nghĩ rằng ta đã sát hại cha nó. Mà nếu mọi người đều nói như vậy thì nó không thể nghĩ khác đi được. Nay Quách-Tỉnh lại đem những bí quyết của môn phái mà truyền dạy tất sau này đi học. Chi bằng...
Nghĩ đến đây, Hoàng-Dung liền nói với chồng:
- Anh ạ! Em nghĩ rằng một mình anh phụ giáo cho cả thì sẽ quá vất vả. Xin anh giao Dương-Qua để em thay anh giáo dục.
Quách-Tỉnh chưa kịp đáp lời vợ, Kha-trấn-ác tán thành nói:
- Như vậy, rất phải! Thế thì hai con đua nhau dạy bảo để ta xem đồ đệ nào mau tiến bộ hơn.
Quách-Tỉnh vẫn thường công nhận vợ thông minh lanh lợi hơn mình, nếu Dương-Qua được vợ chỉ giáo thì thấy không trở ngại, liền nói:
- Tốt lắm! Em sẽ giúp anh trong việc đào tạo chúng nó.
Hoàng-Dung nói:
- Phàm trong nguyên tắc dạy dỗ điều cầu yếu là phải liên tục và duy nhất. Vậy thiết tưởng chúng ta phải qui định một nhiệm vụ hẳn hoi. Người nào phụ trách môn đồ nào phải chịu trách nhiệm môn đồ ấy. Anh không cần lo cho Dương-Qua, ngược lại em cũng không cần để ý đến ba đứa trẻ kia. Mỗi đứa bé có một khả năng, tâm trạng và hoàn cảnh đặc biệt. Thế thì việc giáo dục không thể đem áp dụng một phương pháp giống nhau.
Quách-Tỉnh vô tâm, không hiểu được dụng ý của vợ, trả lời:
- Điều đó có gì mà phải phân trần.
Hoàng-Dung liền gọi Dương-Qua lại bảo:
- Qua nhi! Hãy theo ta vào đây.
Dương-Qua tuy còn nhỏ tuổi song đã có đủ thông minh để suy luận. Nó hiểu phần nào dụng tâm của Hoàng-Dung song nó vẫn có ác cảm với ba đứa trẻ kia, không muốn cùng chung tập luyện, nó hoan hỉ được một mình một trường theo thọ giáo với Hoàng-Dung.
Hoàng-Dung bắt nó vào thư phòng, đặt nó ngồi trước một án thư, rồi lấy ra mấy quyển sách cũ kỹ, giảng:
- Từ nay mặc dù theo cuộc lễ chính thức vừa qua, thân phụ của con là Quách-Tỉnh, song ta được ủy thác để chăm sóc giáo dục con, con phải vâng lời ta dạy bảo. Điều trước tiên con phải biết dưới sư phụ của con lại có bảy sư phụ danh truyền là Thất-quái Giang-nam, Kha-Công là đại-sư, còn nhị sư là Châu-Thông có văn tài đặc biệt. Vậy ta giảng cho con nghe những tuyệt tài trong văn chương của Châu-Công.
Dứt lời, nàng giở quyển thư cổ ra đọc:
- Vở viết: học nhi thời tập chi, bất diệt diệt hồ? Thư bảng tự viễn phương lai, bất diệt lạc hồ.
Đó là hai câu rút trong Luân ngữ.
Dương-Qua nghe đọc lấy làm kỳ quái, nó thầm bảo:
- Tại sao bảo nó thọ giáo vũ nghiệp mà lại đem mang văn chương ra giảng dạy?
Tuy nhiên, nó chẳng dám nói gì cả cứ cắm đầu suy nghĩ.
Suốt mấy ngày liền, Hoàng-Dung cứ đem sách ra giảng tuyệt nhiên không đả động gì đến võ nghệ, hết sách này đến sách khác.
Một hôm, sau buổi học, Dương Qua lững thững dạo gót ra ngoài. Cảnh trí núi rừng trùng trùng điệp điệp, hồ rộng mênh mang nó chạnh lòng nhớ đến nghĩa phụ, người độc nhất đã cứu vãn tâm hồn nó một mối cảm giác thân yêu.
Để giải buồn, nó đảo thân qua lại, dùng hai tay cắm đầu xuống đất, chổng chân ngược lên trời, bắt chước theo lối đi của Âu-dương-Phong thuở nọ. Rồi nó ôn lại ngón võ "Hàm-mô Công" mà Âu-dương-Phong đã truyền dạy lỡ dở từ dạo nào. Nó cũng chua chân, chong tay, cong mình, y hệt điệu bộ của Tây-độc Âu-dương-Phong. Nó vận dụng các bắp thịt rồi cũng tung người lên với những tiếng kêu "ngoạp, ngoạp".
Mồ hôi nó toát ra như tắm, và cảm thấy trong người thanh sảng, nhẹ nhàng. Nó có cảm giác như đã tìm ra bí quyết của ngón võ đó.
Thế là ngay từ lúc hôm ấy, cứ mỗi chiều lúc mãn học, nó ra ven đồi, giữa cảnh rừng nước bao la, ôn luyện võ nghệ, vừa bồi dưỡng thể chất vừa giải thoát linh hồn.
Ngày tháng êm đềm trôi trên đảo Đào-hoa, Hoàng-Dung cứ một mực dạy cho nó về kinh nghĩa. Hết Luận-ngữ đến Manh-tư rồi đến Trung-dung. Thằng bé tỏ ra thông minh đáo để, nó nhớ làu làu bất kỳ kinh sách nào đã dạy.
Thật ra Hoàng-Dung vốn có thành kiến với văn nghiệp cho nên nàng quan niệm rằng văn chương chẳng qua là món để đầu độc tư tưởng con người. Dẫu có thông minh trí tuệ đến đâu cũng chẳng làm được điều gì gọi là anh hùng trong thiên hạ.
Với quan niệm đó, Hoàng-Dung đem áp dụng để ngăn cản bước tiến về võ nghệ của Dương-Qua. Khi dạy đến Tứ-thư. Ngũ kinh, Hoàng Dung đã sửa soạn cho thằng bé một tương lai nhìn vũ trụ qua những câu "Tứ viết".
Tuy nhiên, với sức thông minh của nó, Hoàng Dung cũng đã nhiều lần kinh ngạc, tự bảo:
- Nếu trau dồi nó trong vũ nghiệp, thằng bé sau này hẳn trở nên bậc phi thường.
Còn Dương-Qua, lại có quan niệm khác. Nó bất chấp phân biệt quan niệm văn chương hay vũ thuật, nó chỉ ước lượng việc cần thiết đối với nó là phải đối phó với Hoàng-Dung. Nó nghĩ ngợi phương pháp giáo dục của Hoàng-Dung và lúc nào nó cũng cho Hoàng-Dung đối xử với nó đầy ác ý.
Nó hoài tưởng đến Âu-dương-Phong, một người thân nhất trên đời mà nó còn tin tưởng được.
Vậy để đối phó với pháp thuật Hoàng-Dung nó nghĩ một cách đơn giản là chỉ việc dùng pháp thuật của Âu-dương-Phong là có thể chống đối nổi.
Nó không hiểu rằng trong giới hảo hán đương thời môn phái của Âu-dương-Phong cũng như môn phái của Bạch đà Sơn không được xem là chính thống. Những lối phi hành lộn ngược những thế võ Hàm mô công chẳng qua là những tà thuật mà hiệp sĩ chính thống ai cũng xem như trái với võ đạo.
Một chiều, sau khi xem xong quyển Tả truyện, Dương-Qua rời khỏi thư phòng, rảo bước về phía ven biển với ý nghĩ mong ước được thoát ly khỏi hải đảo. Nó nhìn đàn hạc trắng bay bổng lên cao, thèm thuồng mọi cái tự do trong cuộc sống. Nó mới được có đôi cánh như con chim hạc để bay đi tìm nghĩa phụ.
Bỗng đằng sau nó có những tiếng hô và những tiếng thở. Nó nấp sau mỏm đá nhìn qua kẽ lá, thấy Quách-Tỉnh đang kiên nhẫn dạy hai anh em họ Vũ một miếng võ gia truyền.
Thật ra, quan sát kỹ lối biểu diễn của Quách-Tỉnh thì miếng võ này tuy lợi hại nhưng không đến nỗi học tập khó khăn lắm. Thế mà hai anh em họ Vũ tập đi, tập lại năm lần bảy lượt vẫn chưa đạt được ý muốn của Quách-Tỉnh.
Dương-Qua than:
- Nếu sư phụ trực tiếp dạy mình như thế thì mình đã tiến bộ biết bao. Hai đứa bé ngu xuẩn nầy tại sao lại may mắn gặp được vũ sư lỗi lạc dường ấy.
Nó tiếc cho nó! Nó tiếc không được trực tiếp thọ giáo với Quách-Tỉnh.
Nhưng một ý nghĩ bỗng đột xuất:
- Vì sao mình lại không học lén? Nếu trong trường văn chương đã có kẻ học lén mà trở nên thánh hiền thì trong võ thuật mình lại không thể học lén để thành hiệp sĩ sao?
Nghĩ như thế, nó rời khỏi nơi ẩn núp, cởi trần ngay ra và biểu diễn lại ngón võ của Quách Tỉnh đã dạy cho hai anh em họ Vũ.
Rồi từ đấy mỗi chiều, sau khi rời khỏi thư phòng nó lại bôn ba đến nơi ven rừng để học lén.
Một hôm, nó ham tập luyện nhiều quá nên trong người mỏi mệt nó nằm trên một phiến đá cheo leo nơi bãi biển, ngủ thiếp đi lúc nào không hay biết.
Bỗng có tiếng sắt chan chát từ mé biển vọng lên làm nó giật mình tỉnh giấc. Nó nhìn nơi phát ra tiếng động thì thấy có một chiếc thuyền vừa cập bến, đang thả neo.
Bấy giờ trời đang tối mịt, nó phải vận dụng nhỡn quang mới trông thấy hai người ăn mặc rất gọn ghẽ, mắt đăm đăm quan sát tứ phía rồi nhảy lên bờ. Cả hai bò sát trên mặt đất, hướng về trang trại.
Dương-Qua cho đó là hai tên đạo tặc, lấy làm tội nghiệp cho chúng đã dại dột dấn thân vào tử địa.
Thật vậy, Đào-hoa đảo là một sào huyệt hiểm trở mà không có kẻ nào có thể lọt vào nếu không có người hướng dẫn. Nó thở dài, tiếc cho hai mạng người sắp rơi vào tay Hoàng-Dung.
Nó lại nhìn sang phía khác và ngạc nhiên nhận thấy dưới gốc cây thúy liễu có bóng một thiếu nữ vận y phục màu trắng đang đảo thân di động. Thiếu nữ ấy dùng tay dí ngược đầu xuống đất. Thì ra đó là cô bé Quách-Phù. Có lẽ nó trộm thấy Dương-Qua tập luyện nên cố tình bắt chước chăng?
Hai tên lạ mặt bò dần tới. Và trong lúc Quách-Phù đang chú tâm lo giữ thăng bằng cho thân hình đảo ngược, hai tên kia bất thình lình áp đến Quách-Phù trói gô lại, đứa bịt mồm đứa nắm tay lôi xuống mé biển.
Dương-Qua sửng sốt, chưa biết phải nên hành động thế nào cho có hiệu quả. Nó chờ xem hai tên lạ mặt kia có những hành động gì.
Hai tên lạ mặt đặt Quách-Phù trong một lùm cây, trói gô chân tay nó lại, lấy áo nhét mồm, rồi tiếp tục hướng về phía trang trại. Chúng tiến rất nhanh và tỏ vẻ thông thạo như những người đã từng lui tới vậy.
Tuy nhiên, chốc chốc chúng dừng lại, tụm dần vào nhau để bàn bạc những gì không rõ.
Dương-Qua tự nghĩ:
- Nếu kêu cứu chắc gì Quách-Tỉnh đã ra kịp, trong lúc đó chúng có thể thủ tiêu mất con bé Quách-Phù thì còn gì.
Trong lúc suy tính nó nhìn con thuyền, nhìn mặt biển, với ý nghĩ thoát ly đột phát trong óc nó. Có lẽ đây là cơ hội ngàn năm một thuở giúp cho nó thoát thân.
Thế là nó bỏ hẳn ý định phát giác hai tên lạ mặt. Nó chạy xuống biển với ý định lấy trộm chiếc thuyền để vượt biển ra khơi, vào đất liền.
Nhưng lúc nó chạy gần đến chiếc thuyền thì bỗng trong khoang thuyền có tiếng lách tách. Rồi cửa khoang mở một người nhảy lên bờ...
Nó nép mình quan sát sự thể. Hai tên lạ mặt lúc này trở lại, đứa đi trước dáo dáo xem chừng, đưa đi sau vác Quách-Phù lên vai lểnh mểnh dò từng bước một.
Nhưng lạ thay! Nó lại trông thấy một đứa thứ ba! mà đứa thứ ba nầy chắc chắn không phải là đồng bọn, vì nó đang nép mình ẩn núp để quan sát như Dương-Qua, đặc biệt hơn nữa đôi mắt nó chăm chăm gờm vào hai kẻ lạ mặt.
Đợi cho người lạ mặt thứ nhất tiến đến gần, người thứ ba nhảy chồm ra, đưa tay thoi vào hông rất mạnh. Người lạ thứ nhất ngất xỉu xuống bãi cát không kịp la lên một tiếng và tên đi sau vác Quách-Phù cũng không kịp trông thấy nữa.
Người lạ mặt thứ hai đem Quách-Phù đặt vào khoang thuyền xong, không thấy bạn đồng hành đâu, lấy làm lạ lên tiếng hỏi:
- Kìa lão đại! Lão đại còn làm gì nữa mà chưa vào thuyền.
Tên sát nhân vừa rồi vẫn núp bên cạnh Dương-Qua giả giọng khàn khàn đáp:
- Thật kỳ quái! Thật kỳ quái!
Tên lạ mặt thứ hai ngạc nhiên bỏ Quách-Phù dưới thuyền lên khoang thuyền nhảy nhanh về phía có tiếng nói.
Thừa dịp đó, Dương-Qua nép mình bò ra phía mé biển, lao lên khoang thuyền, nấp vào bên kia ẩn thân.
Từ chỗ núp Dương-Qua lắng tai nghe những tiếng thình thịch. Nó đoán chắc rằng tên sát nhân ban nãy đã hạ thủ luôn người lạ mặt thứ hai nữa rồi.
Thật vậy, chỉ chốc lát một người co chân nhảy vào thuyền. Người đó là Dương-Qua nhận đúng là người đã núp bên nó và đã sát hại người lạ mặt đi đầu lúc nãy.
Tuy nhiên, bây giờ người ấy mặt mày lấm tấm máu, quần áo tả tơi, dáng điệu trông dễ sợ làm sao!
Dương-Qua liền vận dụng thế võ Hàm-mô-công, thân hình cong rúm, chân tay co quắp, miệng kêu lên mấy tiếng "ngoạp! ngoạp" rồi tung người đâm bổ vào bụng tên sát nhân.
Bất ngờ bị trúng phải một thế võ sức nặng ngàn cân, tên sát nhân văng bổng người lên, rơi xuống biển.
Dương-Qua thở khì một tiếng nó không ngờ thế võ nó rèn luyện lâu nay lại đưa đến một kết quả khả quan như vậy.
Chưa kịp mừng, Dương-Qua đã nghe tiếng Quách-Tỉnh bất thần hỏi.
- Qua nhi! Con học thế vó Hàm-mô-công ở đâu thế? Có phải Âu-dương-Phong đã truyền dạy cho con chăng? Lão ta bây giờ ở đâu.
Dương-Qua ngẩng đầu lên thấy Quách-Tỉnh và Hoàng-Dung đồng nhảy xuống thuyền cùng một lúc.
Rồi không đợi nó trả lời, Quách-Tỉnh nhảy vội xuống nước vời lên sát nhân lên, rồi la lớn:
- Em Dung ơi! Đây là bạn của ta mà!
Tên sát nhân miệng trào máu, vừa tức giận nắm lấy Dương-Qua hét lên:
- Tại thằng ranh con nầy sanh chuyện.
Bàn tay Hoàng-Dung nắm vào như xé thịt. Dương-Qua cảm thấy đau nhói cả người, nhưng nó nhất định cắn răng chịu đau không rên rỉ.
Quách-Tỉnh đến bãi cát nhìn mặt hai xác chết thấy trong túi áo một tên có bản đồ Đào-hoa đảo liền kêu Hoàng-Dung, nói:
- Em Dung, hãy đến xem cái nầy!
Lúc đó Hoàng Dung mới thả Dương-Qua ra, nhảy đến bên Quách-Tỉnh cùng xem bản họa đồ.
Hai vợ chồng bàn luận trông có vẻ quan trọng lắm. Một hồi lâu, Kha-trấn-ác đến. Cả ba cùng tiếp tục thảo luận.
Khi mọi người như đã thảo luận xong, cùng nhau về phía Dương-Qua, làm cho Dương-Qua có cảm giác bối rối lạ lùng. Nó đưa tay chỉ vào khoang thuyền nói:
- Thưa sư phụ, Quách-Phù đang bị chúng nó trói bỏ nơi đây.
Mọi người xúm lại cởi trói cho Quách-Phù và thấy Quách-Phù không bị thương tích gì nên rất hoan hỉ.
Trên đường về, Quách-Tỉnh bảo Dương-Qua:
- Này Qua nhé! Con không thể ở yên trên đảo này được. Ta phải đưa con đến Trùng-Dương-cung ở Chung-Nam-Sơn để tìm giáo chủ của phái Toàn-Chân mà xin thọ giáo võ nghệ mới được.
Dương-Qua nghe nói biết đó là kết quả cuộc bàn bạc quan trọng của vợ chồng Quách-Tỉnh vừa rồi. Nó im lìm nghe theo chẳng dám thưa hỏi gì cả.
Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 9 : Quách Tỉnh với trận Bắc đẩu Thiên cang
Thấy thế Quách-Tỉnh nghĩ thầm:
- Đúng là Thất tử Toàn-Chân rồi, nhưng chắc có một vị trong bảy người bị thất tịch nên được thay thế vào một nữ. Đã mười năm qua, việc liên lạc với Trùng Dương Cung bị gián đoạn nên ta chẳng biết.
Nắm được địch tình, rõ được ý đích, và đoán được địch pháp, Quách-Tỉnh thấy việc phá trận "Bắc-đẩu Thiên-cang" chẳng khó khăn gì. Theo binh pháp, trận nầy có một yếu điểm là Bắc đẩu tinh vị, hễ chiếm được yếu điểm đó thì có thể thao túng được mọi kế hoạch tấn công. Cũng như công dụng của sao Bắc đẩu trên trời lúc ban đêm nó hướng dẫn chắc chắn cho mọi người dùng đường đúng lối. Tinh vị Bắc đẩu trong thế trận là chủ não của cuộc chiến, là bản doanh của tham mưu, mà nữ đạo cô đang giữ trọng yếu.
Và, người ta cũng phải lưu ý ở thế trận nầy là địa vị tối thượng của tinh thần.
Bắc-đẩu-trận không phải ai cũng có thể cho vào làm tinh binh, mà phải có những người và võ nghệ tuyệt luân, sức điều động tinh thần phải vượt qua sức mạnh của vũ khí mới có thể làm đúng theo pháp thuật.
Ngược lại, Bắc đẩu trận thường chỉ được bố trí để tấn công những người xuất chúng, đáng gọi là địch thủ.
Quách-Tỉnh đã rõ thông tài năng của Thất tử Toàn-Chân, lại hiểu rõ cái lợi hại của trận pháp nên không dám khinh thường, thận trọng từng hành động, cố đừng lầm lộn lọt vào tầm chi phối của quần tinh lúc di chuyển.
Đột nhiên, bảy đạo nhân như thiếu kiên nhẫn, tung kiếm chuyển từ thế thủ sang thế công tấn thối qua lại theo luật di chuyển của quần tinh trong trận pháp.
Quách-Tỉnh lợi dụng sự di chuyển trong đêm tối của phương vị, tấn công vào tinh vị Bắc đẩu, khiến cho đạo cô lọt ra ngoài vòng hệ thống và sáu vì sao kia rối loạn tinh thần, thiếu phối hợp, mất liên hoàn và người nào người nấy phải sử dụng võ khí để hộ thân.
Thế là trận pháp tan vỡ, chỉ còn lại vũ tài thuần túy, do sức lực từng người gánh vác lấy phương vị đã có, rất dễ dàng cho Quách-Tỉnh đối phó.
Đạo cô như rõ tài nghệ của Quách-Tỉnh, liền la lớn:
- Biến trận! Biến trận!
Thế là hàng ngũ bảy vị đạo nhân rối loạn, mỗi người tự mình đông xông tây đột để tự bảo vệ, không còn tiến thối theo thế liên hoàn của trận pháp nữa.
Trong ánh tối lờ mờ, các chiếc trường kiếm tung tăng lồng lộn. Giữa sự rối rắm của vũ khí đó, người nào cũng có thể nhầm phương vị mình với đồng bọn.
Quách-Tỉnh cố nhiên nắm vững tình thế, chỉ cần áp dụng thuật tấn công gián tiếp lúc phối hợp với địch thủ này để phản kích đối thủ kia, lúc vận dụng đường kiếm của đối phương để chống đỡ lại đối phương.
Mặc dù tiếng thép va chạm liên hồi, mà Quách-Tỉnh không cần phải ra tay, dụng sức.
Vị đạo cô cảm thấy cả bọn đều nằm trong thế "đương kế tựu kế" của Quách-Tỉnh, liền lớn tiếng ra lệnh, mục đích để củng cố tinh thần sáu vị đạo hữu.
- Giải thác! Giải thác!
Thác có nghĩa là lầm lẫn. Phàm trong qui tắc võ nghệ bấy giờ, khi các cấp chỉ huy hô lên lệnh "giải thác" có nghĩa là kế hoạch đầu tiên đã hỏng nhưng không phải vô phương bổ cứu.
Sáu vị đạo sư nghe lệnh hiểu ngay rằng đây mới chỉ là thất bại trong chiến thuật, còn có kế hoạch mới sắp được thi hành để bổ trợ. Họ lại hăng say cố gắng chiến đấu để chờ lệnh chỉ huy.
Vị đạo cô sau khi ra lệnh "giải thác" liền rút ra khỏi vòng chiến, để triệu hồi sáu vị đạo hữu kia ra ngoài, bày bố một kế hoạch mới.
Nhưng lạ thay! Cả sáu vị đạo nhân không người nào rời khỏi vị trí được, họ tưởng chừng như họ bị buộc vào một sợi dây vô hình, quây quần xung quanh đối thủ để rồi chống đối lẫn nhau, bảo vệ cho đối phương.
Dương-Qua đứng nấp trong một bụi rậm gần đấy, xem xét thế trận lấy làm kỳ dị.
Quách-Tỉnh, một mình đứng giữa bảy đối thủ, sắc mặt vẫn tươi tắn không gợn chút lo âu. Qua ánh trăng mờ xuyên vào các cành cây kẽ lá. Dương-Qua nhận rõ đôi mắt Quách-Tỉnh tròn xoe rực hào quang sáng chói, gườm gườm vào đối thủ giống hệt đôi mắt của một con rắn đang chú mục vào con mồi.
Nếu kẻ nào tinh xảo về trận pháp hẳn thấy rõ Quách-Tỉnh đang vận dụng tinh thần để trấn áp và điều khiển đối phương.
Bởi vì, thế trận Thiên-cang Bắc-đẩu là một trận thế tinh thần Quách-Tỉnh muốn thắng tất phải tập trung trí óc. Hơn nữa, Quách-Tỉnh đã chiếm được tinh vị chủ não, cho nên lại càng phải huy động mãnh liệt toàn bộ hệ thống cân não để làm tê liệt mọi ý phản công của địch.
Trong lúc đó, sáu vị đạo nhân kiếm vẫn cầm tay, múa tung tăng mà vẫn không sao tiến đến gần Quách-Tỉnh. Họ chỉ biết gờm vũ khí, đi tròn xung quanh Quách-Tỉnh như những vệ tinh di chuyển quanh một vì sao chính.
Vị đạo cô vẫn còn ở ngoài vòng chi phối của Quách-Tỉnh, tuy tài nghệ xa hơn đồng bọn, song nàng vẫn lo ngại chẳng chóng thì chầy, mãnh lực tinh thần của đối phương sẽ áp đảo trọn bộ.
Mà quả thật không sai, chỉ chốc lát, đạo cô cảm thấy như mình bị vương vấn trong hành động, đầu nặng trĩu, trí óc cảm thấy lờ mờ thiếu sáng suốt.
Bấy giờ là lúc Quách-Tỉnh chủ động toàn bộ. Quách-Tỉnh rất khoái chí.
Thì ra đây là một cuộc kỳ ngộ bất ngờ đã cho nhà hiệp sĩ đảo Đào-hoa thử lại tài nghệ mình sau mười năm cư tịnh. Tài nghệ đó đã tỏ ra toàn vẹn, và quý hơn nữa là Quách-Tỉnh vẫn còn sung sức để đương đầu với một biến hóa khác thường qua mười năm tiến triển của Trùng-Dương-Cung.
Tuy nhiên, Quách-Tỉnh vốn có tánh tự nhiên, chẳng bao giờ dám tự phụ, vì vậy trước thắng lợi dễ dàng ấy, Quách-Tỉnh tự hỏi phải chăng mình đã gặp phải các đấu thủ non nớt, chưa nắm vững quy luật và nguyên tắc của trận "Bắc đẩu Thiên-cang".
Không lý gì một tài nghệ hèn mọn của mình rèn luyện qua mười năm lại có thể chiến thắng những bí quyết nơi Trùng-Dương-Cang một cách dễ dàng như vậy.
Mặc dầu vẫn lo ngại sẽ phải đương đầu với một trận thế mới mẻ và nguy hiểm hơn, song Quách-Tỉnh vẫn vui lòng vì đã rửa nhục được với những vị đạo nhân ngạo nghễ, dám ngang nhiên nhục mạ mình với những lời chửi rủa: nào dâm tặc, nào dùng yêu pháp...
Nghĩ như thế, Quách-Tỉnh thấy cần phải có đôi hành động hi lộng hơn, liền cất tiếng gọi Dương-Qua với giọng nói oang oang như sấm:
- Qua nhi! Hãy xem chú sử dụng pháp thuật.
Dứt lời, Quách-Tỉnh nhún mình nhảy tung lên một đỉnh núi chênh vênh gần mé lò. Cả bảy đạo nhân cảm thấy khó chịu, toàn thân bị bao trùm bởi một mành lưới mà Quách-Tỉnh đã nắm vững đầu dây.
Theo bí pháp của trận, hễ Bắc vị tinh chuyển về đâu thì cả quần tinh hộ vệ phải chuyển theo, nếu không sẽ tan vỡ. Mãnh lực chi phối của Quách-Tỉnh vô cùng chặt chẽ, khiến cả bảy đạo nhân vẫn không sao thoát khỏi. Và muốn được an toàn họ tất phải hướng theo Quách-Tỉnh.
Thế là cả bọn nhún mình bay lên đỉnh núi. Nhưng chưa định vị trí thì Quách-Tỉnh đã nhảy tuốt lên ngọn cây và cúi đầu nhìn các đạo nhân rên la đau đớn.
Tinh nghịch, Quách-Tỉnh lại còn ngoái cổ nói xuống với đạo nhân:
- Hãy coi gió lộng đây nầy!
Dứt lời, Quách-Tỉnh phồng ngực thổi một hơi dài, làm rung động xào xạc cả cây lá, và làm tung bay y phục lướt thướt của các đạo nhân, người nào người nấy mặt mày trắng nhợt.
Một đạo nhân tức giận nói:
- Thằng quỷ sứ ma đầu này chẳng biết tung tích ở đâu mà pháp thuật cao cường! Phái Toàn-Chân chúng ta phen nầy không tránh khỏi nhục nhã.
Dẫu tức giận, nhưng ý thức sinh tồn buộc họ phải tìm những cứ điểm trên cây để có thể nấp tạm trong phạm vi tự phạt của hệ thống Bắc-đẩu.
Quách-Tỉnh thấy thế ái ngại, cảm giác mình đi quá xa trong trò chơi độc, liền dịu giọng nói:
- Thôi thế cũng vừa đủ. Tại hạ xin xuống vậy...
Nói rồi Quách-Tỉnh nhảy xuống chễm chệ đứng giữa bảy vị đạo nhân, nhưng vẫn không thoát ra ngoài hệ thống điều khiển, ôn tồn chắp tay thưa:
- Thật ra Tỉnh tôi có lỗi nặng đối với quý đạo huynh, xin quý đạo huynh miễn chấp và cho phép Tỉnh tôi được vào yết kiến Khưu chân nhân.
Một trong bảy vị đạo nhân tên là Thiên-Quyền, vốn tính tình táo bạo, thấy đối phương võ nghệ cao cường nhưng lại khiêm nhượng, lòng không thích, hét lớn nói:
- Dâm tặc! Chúng ta vốn là các đạo sĩ của phái Toàn-Chân rất ghét những sự xảo trá. Nhà ngươi muốn đến Chung-nam-Sơn để giở trò vô sỉ thì nói phứt cho rồi, đừng mượn kế bái yết người nầy người nọ làm chi.
Quách-Tỉnh tỏ vẻ ngạc nhiên, hỏi:
- Tôi làm điều gì mà bảo là vô sỉ?
Thiên-Quyền nói:
- Cứ xem võ công và yêu pháp của nhà ngươi thì cũng đủ rõ cần gì phải chối cãi? Bần đạo lấy tình thật khuyên ngươi nên hạ sơn đi là hơn.
Tuy trong căm tức nhưng lời nói của đạo nhân hàm chứa ý thức khâm phục tài nghệ của Quách-Tỉnh không ít, Quách-Tỉnh liền thưa:
- Tôi từ phương Nam băng ngàn vượt núi đến đây, khổ nhục đã nhiều, chỉ mong được bái yết Khưu chân nhân, nay nếu đã đến nơi mà phải xuống núi thì công phu đó đạo huynh không nghĩ tưởng hay sao?
Thấy Quách-Tỉnh vẫn khăng khăng nói ý muốn gặp Khưu chân nhân, Thiên-Quyền đạo nhân lạnh lùng nói:
Alert | IP Printer-friendly page | Edit | Reply | Reply With Quote | Top
Author dongta
Author Info Member since Nov-22-01:560 posts, 1 feedbacks, 2 points
ID/Subject 1. "Tiếp Theo Hồi 9"
Date/Time Jan-12-02, 06:01 PM ()
Message
In response to message #0
- Thế nhà ngươi muốn gặp Khưu chân nhân với dụng ý gì?
Quách-Tỉnh nói:
- Thưa đạo nhân! Tôi từ nhỏ đã thụ đại ân của Mã và Khưu chân nhân. Nay mười năm xa cách tình thầy trò, lòng nhớ nhung lưu luyến, muốn được thăm viếng một phen.
Tuy lời nói của Quách-Tỉnh rất thành thực nhưng không làm sao trấn áp được ác cảm của các vị đạo nhân đã có thành kiến từ lúc mới gặp. Họ đều nhìn nhau lắc đầu cười thầm.
Quách-Tỉnh thấy thế lại cố gắng biện bạch thêm một lần cuối cùng, đem câu chuyện của Ngọc-dương-Tử, Vương-xứ Nhất chẳng quản nguy hiểm đã một lần cứu mạng cho Quách-Tỉnh lại tại Triệu-vương-phủ, ân nghĩa đó Quách-Tỉnh vốn khắc cốt ghi lòng.
Quách-Tỉnh nói:
- Tôi chắc rằng các đạo huynh đều là môn đệ của Vương chân-nhân, mà tôi là kẻ thụ ân của Vương chân-nhân. Nếu Vương-chân-nhân có tại nơi nầy thì cuộc trùng phùng giữa chúng ta thật đáng mừng như cuộc kỳ ngộ hiếm có. Tại sao các đạo huynh lại khư khư thành kiến để anh em cùng một nhà sát hại lẫn nhau.
Thật vậy, trừ vị đạo cô ra, sáu vị đạo nhân kia đều là môn đệ của Vương-xứ-Nhất. Song họ nhất định không nhận lời thành thật của Quách-Tỉnh. Họ hầm hầm nổi giận, tung kiếm vùn vụt, hướng về phía Quách-Tỉnh.
Nhanh nhẹn, Quách-Tỉnh ẩn mình trong phạm vi của tinh vị Bắc-đẩu. Vị đạo cô chống kiếm đứng yên lặng còn sáu đạo sư kia quay kiếm xung quanh Quách-Tỉnh như một quần tinh di động.
An toàn trong tinh vị Bắc-đẩu, Quách-Tỉnh hét lên một tiếng thất vọng:
- Tôi là Quách-Tỉnh đây! Các đạo huynh hãy cố gắng tìm hiểu ý nghĩa thượng sơn của tôi. Vì sao quý đạo huynh lại cứ khăng khăng cho tôi là kẻ thù của quý vị? Như thế tôi biết phải làm sao để quí vị tin?
Thiên-Quyền đạo chân quát:
- Đừng nói vô ích. Người đã đoạt mất sáu thanh trường kiếm của phái Toàn-Chân. Vậy hãy đoạt luôn bảy thanh trường kiếm nầy nữa đi.
Rồi một vị đạo sư mặt lầm lì trong bọn phụ họa:
- Dâm tặc! Mày đã từng mặt dạn mày dày đến nhà họ Long bần tiện mua con gái của người ta là đồ đệ của môn phái Toàn-Chân.
Quách-Tỉnh như bỡ ngỡ lạ lùng trước lời nói không vô duyên cớ ấy, cất tiếng hỏi:
- Ô hay! Con gái của nhà họ Long nào. Tôi là Quách-Tỉnh từ Đào-hoa-đảo đến đây nào có biết?
Một vị đạo nhân cười ha hả nói:
- Thôi, đừng có giả bộ để đóng trò! Dâm tặc đi tìm dâm phụ thì có điều gì lạ đâu. Chỉ cần nhà người chớ nên mạo nhận mình là người của môn phái Toàn-Chân.
Quách-Tỉnh nói:
- Quý vị bảo ai là dâm tặc?
Một đạo sư đáp:
- Ta gọi ngươi là dâm tặc chứ còn ai nữa. Nếu không phải là dâm tặc ngươi hãy nguyền rủa con dâm phụ kia một lời cho chúng ta xem.
Quách-Tỉnh lại càng ngạc nhiên. Vốn là một kẻ đạo đức và trung hậu, Quách-Tỉnh nghĩ rằng con gái nhà họ Long với mình nào có quen biết, lại không oán không thù, nay vô cớ chưởi của người ta là vô lễ.
Nghĩ như vậy, Quách-Tỉnh nói:
- Tại sao quý vị bắt tôi phải chửi rủa người tôi chưa hề biết đến?
Các đạo nhân cho rằng Quách-Tỉnh làm bộ ngớ ngẩn, đồng cười rộ lên một lượt nói:
- Đó! Đã rõ ràng còn chối cãi vào đâu được nữa.
Trước thái độ hồ đồ của các đạo nhân, Quách-Tỉnh nghĩ không còn cách gì hơn là phải mở đường thượng sơn bằng võ thuật.
Quách-Tỉnh buồn rầu nói:
- Như thế này tôi biết làm sao? Nếu chu đạo huynh còn cản trở tôi nữa đừng trách tôi vô lễ.
Quách-Tỉnh nói chưa dứt lời thì bảy lưỡi kiếm đã vung lên một lượt, thành một hàng rào sáng giời. Một vị đạo nhân nói:
- Nếu nhà ngươi muốn chúng ta tin lời thì chớ nên dùng yêu pháp.
Quách-Tỉnh biết cả bọn đều nao núng tinh thần, liền nói:
- Vâng! Tôi không bao giờ dùng đến tà thuật, mà chỉ vận dụng thần lực thôi. Tuy nhiên, đối với hạng phàm phu tục tử, thần lực và tà pháp nào có gì khác nhau đâu?
Thật thế lời nói của Quách-Tỉnh không phải là ngụy ngôn. Thần lực và tà pháp trong võ nghệ chỉ là những phương tiện để đạt đến kết quả là làm cho đối phương thúc thủ. Nếu không phải chính người vận dụng phương tiện ấy thì ai là người phân biệt được. Chẳng khác nào trên đường hành đạo, vương đạo và bá đạo là hai lối đi khác nhau, song vẫn cùng đạt một mục đích duy nhất là chinh phục lòng người.
Quách-Tỉnh nghiêm nghị nói:
- Tỉnh tôi xin nói trước, tay tôi không động đến binh khí mà tôi có thể đoạt tất cả vũ khí của quí vị.
Bảy đạo nhân nghe nói nhìn nhau nửa sợ nửa hồ nghi cho lời Quách-Tỉnh là khoa trương khoác lác.
Một vị hỏi:
- Ngươi có dùng đến chân chăng?
Quách-Tỉnh cười đáp:
- Không cần phải đụng đến sức lực của chân tay. Phàm là môn phái Toàn-Chân, vũ thuật phải đạt đến mức vô vi, nghĩa là phải khắc phục được đối phương bằng tinh thần hơn là bằng vũ khí. Cái vô vi tích cực của võ nghệ còn khó hơn cái vô vi triết lý, bởi lẽ phải chi phối vật chất (vũ khí). Tỉnh tôi chưa dám tự hào đạt đến mức siêu việt, nhưng hàng ngày đã rèn luyện nhiều để được gọi là xứng đáng với môn đồ phái Toàn-Chân.
Dứt lời, Quách-Tỉnh ném vũ khí xuống đất, đứng trơ ở giữa như một pho tượng sống, vận dụng chưởng lực tỏa ra bốn bề ngùn ngụt, bảy lưỡi kiếm chém tới không hề hấn gì cả.
Bảy vị đạo nhân múa quay cuồng như những con thiêu thân bu quanh đĩa đèn sáng rực.
Lời giải thích của Quách-Tỉnh vừa rồi đã là một cuộc tấn công mở đầu làm tâm thần bảy đạo nhân xao xuyến. Tiếp đến là hiệu lực của chưởng lực chi phối làm cho võ khí trở nên vô nghĩa.
Không ai bảo nhau mà bảy đạo nhân người nào cũng cảm giác rằng nếu Quách-Tỉnh ra tay thì cả bọn không thoát khỏi vòng nguy hiểm.
Sự hoang mang tinh thần ấy nằm trong dụng ý của Quách-Tỉnh nên lúc Quách-Tỉnh nhận xét được trạng thái, liền quyết định hành động ngày.
Chúng ta ai cũng hiểu rằng khi một sức mạnh quay tròn chung quanh một cái trục, sức mạnh ấy tùy thuộc vào một ly tâm.
Ví như ta buộc một cục đá vào đầu một sợi dây quay tròn, sức quay càng nhanh thì sức ly tâm càng mạnh, đến khi thả đầu dây thì cục đá được thoát khỏi tầm ly tâm văng xa tùy theo sức mạnh của ly tâm.
Quách-Tỉnh nắm vững quy luật đó trong thế trận nhưng việc thả đầu dây vô hình không phải là việc khó, mà khó là làm cách nào làm tách rời chuôi kiếm khỏi tay bảy đạo nhân mà tánh mang bảy đạo nhân không bị nguy khốn.
Quách-Tỉnh dùng thần lực làm biến hóa sức chi phối của mình đối với thần trạng của bảy đạo nhân, và từ đó gây cho đối thủ có những cảm giác trọng lượng khác nhau đối với võ khí mỗi người đang nắm giữ.
Thật vậy, có lúc các đạo nhân cảm thấy như thanh kiếm mình nặng ngàn cân, có lúc cảm thấy thanh kiếm nhẹ như lông hồng.
Rồi nhân việc thay đổi trọng lượng đột ngột đó, Quách-Tỉnh hét lớn.
- Bay! Bay
Tiếng hét ầm vang như sấm làm cho các đạo nhân tâm thần rối loạn, tay chân bủn rủn, thanh trường kiếm trong tay văng bổng lên trời không kịp giữ lại.
Quách-Tỉnh cười khanh khách, trong lúc mọi người mặt mày khủng khiếp, đứng trân trân không nói nên lời.
Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 10 : Chung-nam-sơn khói lửa
Bảy đạo nhân mặt như chàm đổ, đứng thẳng không nhúc nhích. Qua một lúc, bỗng từ trong khe núi vang ra một tiếng hú, tiếng hú của các nhà quyền thuật. Bảy vị đạo nhân cùng một loạt co chân bỏ chạy, lui vào trong núi đá. Quách-Tỉnh thấy không còn ai cản trở bước tiến của mình nữa, lẩm bẩm:
- Họ thượng sơn cả rồi.
Đoạn quay lại gọi Dương-Qua sửa soạn cuộc hành trình. Nhưng Quách-Tỉnh gọi hai lần không thấy Dương-Qua trả lời đâu cả.
Lấy làm lạ, Quách-Tỉnh rảo bước tìm vào bụi rậm thì thấy nơi bụi có một chiếc hài nhỏ bị rơi tại đó.
Quách-Tỉnh lượm chiếc hài lên xem thấy quả là chiếc hài của Dương-Qua, ngạc nhiên tự nghĩ:
- Ngoài bảy vị đạo nhân kia có lẽ còn có một người nữa phục kích đâu đây, và đã bắt cóc thằng bé này trong lúc mình đang say chiến đấu. Nhưng người ấy là ai? Không lẽ người của Trùng-Dương-Cung! Vì người của Trùng-Dương-Cung nhất cử nhất động phải làm việc "Đại nghĩa". Dù họ có hiểu lầm mình chăng nữa lẽ nào họ lại có thể làm trò trẻ nít thế kia.
Quách-Tỉnh lấy hơi chạy nhanh lên núi. Đường núi khấp khểnh quanh co, có chỗ đứng đứng lên như những vách đá khổng lồ, có chỗ nhỏ hẹp phải lách mình, phải nghiêng người mới qua được.
Đi chưa được bao lâu, bỗng mây đen kéo tới nghịt chân trời, bầu trời trắng đã chìm trong bóng tối đen đặc.
Quách-Tỉnh nghĩ bụng:
- Vùng này hiểm trở, đường lối lạ chưa hề quen các đạo nhân lại cố ý hãm hại ta, vậy ta phải cẩn thận lắm mới được.
Nghĩ vậy, Quách-Tỉnh dò lần từng bước một. Qua một lúc gió thổi mây đen bay về phía chân trời, ánh trăng huy hoàng tỏa xuống khắp đồi cây kẽ lá, rọi vào các mặt phẳng của mấy phiến đá bên đường lóng lánh như pha lê.
Cảnh vật êm đềm lặng lẽ, Quách-Tỉnh nghe rõ từng hơi thở, của lối một trăm người đang ẩn núp đâu đây. Mặc dù chưa thấy bóng dáng họ, Quách-Tỉnh hình dung một số đông người đang mai phục và một cuộc trả thù sắp diễn ra.
Tuy lòng không hề dao động, Quách-Tỉnh cũng mong cho việc rắc rối có thể tránh khỏi liền lách mình rẽ vào một lối khác.
Con đường đó đưa Quách-Tỉnh đến một thung lũng rất rộng bốn mặt có núi bao vây, chính giữa là một gò cát phẳng phiu, xa xa về phía chân núi có một cái hồ lớn, ánh trăng rọi vào mặt hồ lấp loáng như bạc.
Bỗng một tiếng hú vang lên, trước mặt hồ hiện ra lối một trăm bóng đen, hay nói đúng hơn là một trăm đạo nhân, đồng phục màu tro, đầu thắt khăn vàng, tay mỗi người đều cầm một thanh trường kiếm lóng lánh.
Họ sắp thành hàng gồm có 14 tổ, mỗi tổ 7 người, bố trí thành hình Thiên cang Bắc đẩu. Rồi mỗi tổ lại dàn thành hình "đại Bắc-đẩu" trong thanh thế rất oai nghi lẫm liệt.
Cứ hai Bắc đẩu thì một ô thế này, một ô thế khác, dựa theo lý sinh khắc chế hóa để nương tựa nhau.
Quách-Tỉnh không ngờ họ lại dùng thanh thế đối với mình như vậy, trong lòng không vui tự nghĩ:
- Từ trước đến nay mình chưa hề được nghe Khưu chân nhân nói tới cái thế Bắc đẩu đại trận này, chỉ có Trùng-Dương đại sư truyền dạy mà thôi. Thế thì chắc có Trùng-Dương đại sư truyền dạy cho họ bao nhiêu năm nay nên họ mới có thể tinh thục như vậy được.
Một người trong thế trận hú lên một tiếng ra hiệu, tức thì chín mươi tám vị đạo nhân phi chuyển từ thế này sang thế khác tiến lui từ hệ thống trận pháp rất linh động và biến ảo. Họ vây Quách-Tỉnh vào giữa, và mỗi người đều rất kiếm ra khỏi vỏ, mắt không chớp trừng trừng nhìn nhau lặng lẽ chẳng nói một lời.
Quách-Tỉnh khoanh tay nói:
- Tôi xin thành thực muốn lên núi Bảo-sơn bái huấn Khưu-chân-nhân, xin quý đạo huynh giúp đỡ cho tôi gặp người, đừng cản trở làm gì mà bận tâm quý vị. Thật ra tôi chẳng có ý gì xấu cả.
Đạo nhân râu dài chẳng biết thành tâm hay có ý trêu tức, nói:
- Tôn huynh võ nghệ cao cường sao lại không biết tự trọng lại nhận làm gì vào hàng ngũ của bọn hèn yếu chúng tôi? Bần đạo dám kính xin có đôi lời nhủ cùng tôn huynh chẳng nên dùng kế nhu mì, lời lẽ đường mật mà dối người. Bần đạo biết rằng sư huynh đã mười năm nay từng được khổ công rèn luyện tài nghệ đã đến mức tuyệt luân, vậy còn đến đây làm gì cho mất công đối phó.
Đạo nhân râu dài nói với giọng trầm trầm, nhấn mạnh từng tiếng oang oang, chứng tỏ trong người có một sức nội công đã khá uyên thâm.
Lời nói đó dầu thành khẩn hay có dụng ý vẫn làm cho Quách-Tỉnh tự thấy buồn cười, nghĩ thầm:
- Chẳng biết lão già này xem ta là hạng người thế nào? Nếu hắn đã thấy được vẻ nhu mì của ta thì sao hắn lại nghi ngờ thiện ý của ta được.
Nghĩ đoạn Quách-Tỉnh nói:
- Xin đạo huynh cứ cho tôi được bái yết Khưu chân nhân thì sẽ rõ được hư thực.
Đạo nhân râu dài nói:
- Nếu tôn huynh khăng khăng không chịu tỉnh ngộ, còn dùng cách lừa dối chúng tôi thì thôi hãy cứ phá toàn bộ "Thiên cang Bắc đẩu trận" của sư phụ đã truyền dạy chúng tôi đi.
Quách-Tỉnh đáp:
Kẻ hèn này tài nghệ thấp kém, lại ở giữa nơi xa lạ này đâu dám dại dột chống đối với quý huynh là những trang anh hùng nơi Trùng-Dương-Cung. Xin quý huynh coi kẻ hèn này như một đứa con nít mà đưa vào yết kiến Khưu chân nhân là vinh hạnh biết chừng nào".
Đạo nhân râu dài chẳng biết vì ý gì, nổi giận lớn tiếng thét:
- Thôi đừng có dùng lối nhu mì bên ngoài để lừa dối mà bên trong dùng nội công để hãm hại chúng ta. Nhà ngươi nên lưu ý rằng nếu cứ các khí cục điếm đàng ấy thì có trở về Nam Sơn trước mặt sư phụ ở chốn điện đài, ngươi cũng chẳng thể nào được người dung thứ.
Dứt lời đạo nhân vung kiếm lên, tức thì ngàn vạn tiếng ù ù chuyển động. Chín mươi tám thanh kiếm đều tung ra một lượt như một trận cuồng phong, loang loáng phản chiếu vào ánh trăng như một vùng màu bạc.
Quách-Tỉnh lòng rầu rầu nghĩ:
- Họ dàn trận đủ mọi ưu thế, còn ta một thân cô độc, làm sao chiếm nổi cái thế ưu tiên của "Bắc đẩu tinh vị" được. Nếu không chiếm được tinh vị ấy đành chịu thúc thủ mà thôi.
Trong lúc Quách-Tỉnh chưa nghĩ ra phương kế gì để chiến đấu thì hai cánh cửa thế "Bắc đẩu đại trận" gồm chín mươi tám vị đạo sĩ tài cao đã khép chặt lại. Vũ khí tỏa ánh sáng như muôn ngàn đạo hào quang, không để hở một chỗ nào địch thủ có thể thoát ra được.
Vị đạo sĩ râu dài kêu lớn nói:
- Tôn huynh hẳn đã từng phen lăn lộn ở chiến trường, vậy cứ thử xuất trận xem sao.
Quách-Tỉnh thầm nhủ:
- Bắc đẩu đại trận tuy khó phá nhưng ta thử xem trận pháp của họ ra sao. Nếu không gặp điều gì trở ngại rủi ro thì thật ra phần thắng bại cũng chưa biết đâu mà lường trước được.
Trong lúc Quách-Tỉnh trầm ngâm suy tính thì đột nhiên thế trận nhẹ nhàng chuyển về hướng Tây Bắc. Mười tám cánh tay giơ cao vẫy vẫy như mười tám con rồng ở thế "tiềm long vật dụng". Nghĩa là muời tám con rồng còn ở ẩn chưa thi thố tài năng. Mười tám cánh tay ấy, cứ cái này co, cái kia duỗi, tạo nên một uy mãnh như muốn đun đẩy người khác phải lùi đi.
Còn bảy đạo nhân khác chuyển biến từ phải sang trái để dẫn đầu cho nên thế trận từ từ di chuyển.
Quách-Tỉnh trông thấy liền xuất thần. Bao nhiêu thần lực về cân não tập trung vào bảy vị đó.
Tức thì bảy đạo nhân đó nao núng phải vận dụng hết thần lực để cưỡng lại.
Nhưng rồi họ thấy uy mãnh của thần lực đối phương chuyển lần vào cảm giác của họ khiến cho họ không còn tự chủ nữa; mặt mày họ cảm thấy như có đất bụi bám vào.
Đạo nhân râu dài cảm thấy đối phương có một sức mạnh thần lực phi thường mới vừa chuyển tâm linh mà đã làm cho bảy đạo nhân cao cường bị áp đảo lấy làm kinh sợ.
Thần lực của Quách-Tỉnh vừa vận dụng chẳng những trấn áp bảy đạo nhân di động mà làm lay chuyển luôn cả mười bốn tổ trong Bắc đẩu trận nữa.
Bấy giờ Quách-Tỉnh lại vận dụng sức nội công tăng lên gấp mười.
Thật vậy, nếu Quách-Tỉnh không có sức nội công uyên thâm đó thì làm sao đẩy lui được thần lực của chín mươi tám vị đạo nhân kia.
Quách-Tỉnh lại nhớ đến ngày đại chiến tại Quần-sơn thuở nọ nên nghĩ rằng mình chẳng nên kéo dài cuộc chiến đấu với các đạo nhân ấy.
Nghĩ vậy, Quách-Tỉnh áp dụng chiến thuật phi thân vượt ra ngoài vòng vây để tránh cuộc chạm trán tổn thương đến sinh mệnh.
Quách-Tỉnh phi thân từ đầu này sang đầu kia, từ điểm này qua điểm khác làm cho thế trận xao động lạ thường, mũi gươm tua tủa như những làn sóng bạc nhấp nhô dưới đêm trăng nơi bể cả.
Mặc dù cố tình không phạm đến sinh mạng mọi người nhưng Quách-Tỉnh phi thân một hồi vẫn không tìm ra kẽ hở để thoát ra.
Chàng lẩm bẩm:
- Từ trước đến nay ta chưa hề gặp phải trận nào lợi hại như vầy. Muốn thoát khỏi vòng vây không phải dễ. Mà không thoát khỏi vòng vây thì làm sao yết kiến Khưu đạo trưởng.
Quách-Tỉnh nghểnh cổ lên nhìn thấy phía trên bên phải dãy núi đá xa xa có một tòa lâu đài hùng vĩ ra vẻ một chốn đạo trường. Quách-Tỉnh nghĩ rằng phải vận dụng nội công kêu gọi thì chắc ở Trùng-Dương-Cung có thể nghe tiếng được.
Bèn vận khí xuống đan điền đợi đến khi thấy đàn diễn minh tinh đã ngưng khi đã tụ đầy đủ, liền phát ra một tiếng hú, tiếp theo với giọng nói vang vang:
- Đệ tử Quách-Tỉnh cần bái yết! Đệ tử Quách-Tỉnh bái yết!
Tiếng nói to như sấm, như tiếng rồng gầm ầm ầm chuyển động làm cho các đạo sĩ phải ù tai mờ mắt, lảo đảo mất cả khí thế của những kẻ đang hăm hở muốn tấn công người.
Lão đạo nhân râu dài nói:
- Tôn huynh quỷ quyệt quá, toan dùng nhu kế để lường gạt ta. Bây giờ thì các tiểu xảo đó đã lộ ra rồi đừng hòng gạt ta nữa.
Quách-Tỉnh nghe nói nổi giận, nghĩ bụng:
- Trận nầy do lão đạo sư râu dài đó điều khiển. Ta chỉ cần hạ được hắn là trận thế chẳng khác nào như rắn không đầu, có khó gì không phá nổi.
Quách-Tỉnh giơ tay lên hướng về phía đạo nhân. Chưởng lực phát xuất làm cho đạo nhân râu dài tái mặt. Nhờ đó, Quách Tỉnh hiểu rằng trận nầy cốt làm sao nhử địch, công kích người chủ súy là trận thế phải núng.
Quách-Tỉnh chỉ bước năm bảy bước rồi dừng lại theo lối "cảm tĩnh thế". Nhưng áp lực phía sau lại gia tăng, cả hai bên cũng thêm sức nặng nề.
Trong cảnh nguy hiểm ấy, Quách-Tỉnh vẫn điềm nhiên không chút sợ sệt. Dũng khí như dần dần một lúc một tăng thêm Quách-Tỉnh nghĩ thầm:
- Bọn nầy quả hiểu lầm ta là tên dâm tặc nào đó chúng muốn biết lòng ta đã xuất gia tầm đạo, lấy từ bi hỉ xả làm hoài bão có bao giờ muốn gây chuyện sát sinh. Nhưng họ xâm phạm đến tính mạng ta thì ta làm sao có thể để yên được.
Nghĩ như thế Quách-Tỉnh liền nhún mình phi thân lên một tảng đá cao, dùng chân đá nhẹ vào một tiểu đạo nhân, đưa tay trái đoạt lấy thanh trường kiếm của hắn.
Vừa giật được thanh trường kiếm, thì về phía sau bên tay mặt bảy thanh kiếm đã kề tới. Chàng liền tung kiếm ứng chiến.
Tám thanh kiếm giao nhau, tiếng loảng choảng nghe kinh hồn. Chỉ chốc lát bảy thanh kiếm kia đều bị gãy làm đôi rơi xuống đất, còn kiếm của Quách-Tỉnh vẫn y nguyên không hề hấn gì cả.
Thật ra, thanh kiếm của Quách-Tỉnh cũng chỉ là một thanh kiếm thường như mọi thanh kiếm khác, song được Quách-Tỉnh vận dụng nội công truyền ra đầu kiếm nên có một sức bén nhọn phi thường, các kiếm khác chạm vào đều phải gãy nát.
Bảy đạo nhân kia kinh hãi mặt như chàm đổ để chỉ còn biết đứng đờ người ra. Bỗng phía bên kia, hai toán "bắc đẩu trận" chuyển về phía trước để ứng chiến. Toán thì cầm kiếm tay mặt, toán thì cầm kiếm tay trái như để hỗ trợ cho nhau, mười bốn người dồn khí lực vào thành một.
Quách-Tỉnh lại một lần nữa dùng thần lực vung kiếm áp đảo cả mười bốn thanh kiếm kia.
Trong số mười bốn đạo nhân ấy có người toan tìm cách đoạt lấy thanh kiếm của Quách-Tỉnh. Nhưng kẻ ấy có biết đâu rằng thanh kiếm Quách-Tỉnh bây giờ không còn là loại kim khí sáng loáng thông thường mà nó đã trở nên dẻo mềm như xương thịt, cứng mạnh như sức thiên thần.
Quách-Tỉnh dùng thần lực đo lường sức mạnh hợp nhất của mười bốn vị đạo nhân kia, thấy sức mạnh họ còn ấu trĩ, không đáng kể. Quách-Tỉnh hét lên một tiếng:
- Phường tiểu nhân.
Rồi chàng vận dụng sức từ đơn điền lên tiếp khí để tiếp tục trận đấu.
Mười hai thanh kiếm bị gãy một lúc, chỉ còn lại hai thanh kiếm bay vụt ra khỏi tay hai đạo nhân, rớt nguyên vẹn dưới đất.
Mười bốn đạo nhân kinh hãi rút lui về đàng sau, Quách-Tỉnh than tiếc:
- Thực vũ thuật ta chưa đến mức tuyệt luân nên còn sót lại hai thanh kiếm bay đi không bị gãy.
Các đạo sĩ khác thấy thế, trong lòng đều nao núng, vẻ lo âu lộ ra trên nét mặt.
Hai mươi mốt vị đạo sĩ kia tuy mất vũ khí, song họ vẫn còn chiến đấu bằng cách dùng tay không gây khó để tương trợ.
Quách-Tỉnh sử dụng kiếm thuật đã tuyệt diệu, song chàng vẫn còn áy náy, chưa lấy thế làm vừa lòng.
Chàng tự hỏi:
- Sao trận thế của họ lại bền vững đến thế nhỉ?
Chàng đoán biết rằng Khưu-chân-nhân quen lối dùng trận thế vương đạo đã từ bao năm, chắc dàn ra thế Bắc đẩu trận này hẳn là vi điệu lắm. Nếu các đạo nhân kia biết cách biến hóa thì chàng làm sao thoát khỏi được. Tốt hơn, chàng phải ra tay trước thì hơn.
Nghĩ thế, Quách-Tỉnh gọi lớn:
- Nếu quý đạo huynh không dành cho tôi đường rút thì đừng trách tôi vô lễ đối với quý huynh.
Đạo sĩ râu dài cho rằng dù võ thuật Quách-Tỉnh có cao siêu đến đâu cũng không thể nào thoát khỏi thần diệu của Bắc-đẩu-trận.
Do đó, ông ta coi tiếng thét của Quách-Tỉnh cũng chỉ là những tiếng cười nhạt, nào có nghĩa lý gì. Và, Quách-Tỉnh càng giận dữ thì cái nguy hiểm càng đến với Quách-Tỉnh nhiều hơn.
Quách-Tỉnh nhún người xuống phi thân sang phía đông bắc, và đoán rằng phía đối diện hai tổ ở phía tây nam tất nhiên sẽ di chuyển theo hộ trợ. Quách-Tỉnh bèn dùng phép thuật chỉ mũi kiếm vào sau lưng, tức thì mười bốn đạo nhân ở tổ tây nam bị thần chưởng điểm vào các huyệt Dương-cốc, tay họ bị bủn rủn, mình mẩy rời rã, phải buông thả vũ khí.
Mỗi người bị pháp thuật chỉ ngọn kiếm đó, vội nhảy xổ về phía sau, nhìn vào cổ tay thấy cốc huyết bị vết quần hồng rớm máu mà ngoài da không bị thương tích gì cả. Các đạo nhân khác đều khiếp vía nghĩ bụng rằng nếu Quách-Tỉnh không nhân nhượng có lẽ tay họ bị cắt đứt hết rồi.
Từ nãy đến giờ đã có hơn ba mươi lăm thanh kiếm bị rời khỏi tay các đạo sĩ. Đạo nhân râu dài dường như căm tức lắm, biết rằng Quách-Tỉnh chưa đem hết tài lực, nếu cứ dây dưa mãi thế trân sẽ lâm nguy, ông ta liền ra lệnh siết chặt vòng vây, đối phó một phen quyết liệt.
Quách-Tỉnh nghĩ rằng:
- Các đạo nhân này thực không hiểu gì cả, không chịu nghe lời van xin chỉ mực liều chết để hãm hại người khác mà thôi.
Chàng phi thân cấp thời đến chiếm ngôi Bắc đẩu tinh vị. Lão đạo nhân liền vận dụng hai toán liên hoàn đến ứng phó.
Như thế tức là Bắc-đẩu đại trận có tới mười bốn ngôi bắc đẩu tinh vị, Quách-Tỉnh một mình làm sao chiếm trọn cả được. Chàng chỉ tận dụng thuật phi thân chiếm lấy một ngôi chủ vị rồi sau lần lượt chiếm tới ngôi chủ vị thứ nhì.
Với kế hoạch ấy, Quách-Tỉnh đã làm cho thế trận rối loạn không ít. Lão gia râu dài xem chừng không lợi liền huy động các đạo nhân kia theo trận pháp lấy tĩnh chống động.
Từ trước đến giờ, Quách-Tỉnh dùng thuật phi thân di chuyển rất lẹ làng, hễ có chỗ sơ hở nào là Quách-Tỉnh gây xao động cho chỗ ấy. Bao giờ các đạo nhân đổi chiến thuật, có giữ thế thủ bằng cách bất động. Mười bốn thế dựa vào thần lực của mười bốn tinh vị, dù Quách-Tỉnh có lanh lẹ cũng không thể xông tới chiếm được.
Quách-Tỉnh nghĩ thầm:
- Các đạo nhân này quả thật trận pháp tinh vị. Ta muốn phá ngay cũng khó, chỉ khơi nguồn cho một cuộc máu lửa mà thôi chi bằng tiếp tục gọi đến Trùng-Dương-cung xem sao.
Nghĩ vậy, Quách-Tỉnh ngẩng đầu về phía võ điện, chợt thấy nơi võ điện nguy nga có mấy lằn sáng tiếp do có tiếng thép vọng từ xa.
Lấy làm lạ, Quách-Tỉnh quay đầu nhìn về phía đạo nhân râu dài thì thấy vẻ mặt ông ta đang có gì lo âu khó đoán được.
Quách-Tỉnh như hiểu ra điều gì, lẩm bẩm:
- Có lẽ kẻ nào đã lọt vào Trùng-Dương-Cung gây rối. Bây giờ ta phải đợi xem tình hình ra sao đã.
Bỗng nhiên, Quách-Tỉnh cảm thấy trong người nóng nảy, bèn dùng ấn quyết "Rồng lên mặt ruộng" để xét đoán.
Lúc đó chín mươi tám vị đạo nhân cũng ấn quyết theo thế của Quách-Tỉnh, làm cho Quách-Tỉnh bị sức cản không thể nào nhận rõ tình địch được.
ấn quyết như thế là để mở thần nhãn, thần nhĩ. Cái khó là làm sao để giữ cho hai tay được thăng bằng. Thấy Quách-Tỉnh đang mở thần nhãn, thần nhĩ để dò đoán địch tình nên các đạo nhân kia phải phá cho kỳ được.
Cánh bên phải thì ấn quyết ngược lại tay trái của Quách-Tỉnh, còn cánh bên trái thì ấn quyết ngược lại tay mặt của Quách-Tỉnh làm cho Quách-Tỉnh rối loạn ấn quyết không mang lại được kết quả mong muốn.
Quách-Tỉnh thấy thế liền chuyển qua thế "Cảng long hữu bối". Thế nầy hai bên phải giao hoàn quân binh, nên chênh lệch một tí sẽ gây nguy hiểm đến tánh mạng.
Quả thật, thế "Cảng long hữu bối" của Quách-Tỉnh đã làm cho hai cánh hữu tả của "bắc đẩu trận phải lung lay. Chỉ phút chốc có hàng mười đạo nhân bị thương.
Sở dĩ Quách-Tỉnh gây được trạng huống nầy là vì chàng nắm được chỗ sơ hở của người chủ súy.
Đạo nhân râu dài đã dùng tĩnh chống động nhưng lầm tưởng không được ổn định, hỉ nộ thường phát hiện trong trận là một điều tối kỵ trong việc dùng pháp thuật "vô vi thanh tịnh" vậy.
Lợi dụng tình thế, Quách-Tỉnh phi thân nhảy về phía trước như bay. Các đạo sĩ đều đuổi theo bén gót.
Quách-Tỉnh vượt đến bờ hồ, nhìn thấy có ánh sáng ngời trên mặt nước, liền cúi xuống để xem cảm ứng ra sao. Chàng lấy thanh kiếm chống xuống mặt nước thì mũi kiếm nhảy vồng lên mấy cái, Quách-Tỉnh liền phi thân, đặt chân lên đầu thanh kiếm nhảy vọt sang bên kia bờ.
ấy vì kiếm kia tuy bằng thép song được thần lực của chàng truyền vào thì không còn là thanh kiếm thường nữa.
Các đạo nhân đuổi theo, tai nghe văng vẳng có lệnh vượt qua bốn năm mươi người phi thân qua mà không hãm nổi nên bị chìm xuống nước, người nầy cỡi trên vai người khác. Còn có một số đạo nhân vì chưa học môn thủy tính nên chìm nổi bập bềnh, kêu cứu vang trời.
Đã thế còn nói gì đến chuyện truy kích Quách-Tỉnh được nữa.
Đang lúc hàng ngũ Bắc-đẩu-trận rối loạn thì bỗng nhiên có tiếng chuông ngân vang từ Trùng-Dương-Cung truyền lại âm thanh nghe rõ là tiếng kêu cứu.
Quách-Tỉnh khi thoát khỏi vòng vây của các đạo nhân, vội vã phi thân về phía Trùng-Dương-cung. Nghe tiếng chuông kỳ lạ liền ngẩng đầu lên nhìn.
Chàng nhận ra phía sau Trùng-Dương cung lửa cháy nghịt trời, ngạc nhiên lẩm bẩm:
- Môn phái chính truyền của võ thuật sao ngày nay có người dám đến tấn công. Ta phải cấp tốc tiếp cứu mới được.
Bỗng phía sau Quách-Tỉnh lại có tiếng thét vang trời của các đạo nhân đang chỉ gươm về phía địch nhân đang phá cung điện của đạo trưởng.
Quách-Tỉnh lẩm bẩm:
- Hẳn bây giờ các đạo huynh mới thấy được tôi là bạn hay là thù. Trong lúc đạo trưởng lâm nguy chắc quý đạo huynh không hẹp hòi gì mà không nhận tôi cùng một hàng ngũ.
Bấy giờ mọi người đều rã chân về phía Trùng-Dương cung.
Năm xưa, trên sườn núi êm đềm tĩnh mịch ở miền Mông-cổ, Mã-Ngọc đã truyền cho Quách-Tỉnh thuật phi thân, có ngờ đâu hơn mười năm sau, thuật này lại dùng để giải nguy cho môn phái mình.
Quách-Tỉnh nhờ thuật phi thân ấy có thể nhún mình một cái mà nhảy đi hàng mấy chục trượng. Từ bờ hồ phi về Trùng-Dương điện, chàng chỉ mất trong khoảng thời gian chốc lát là sẽ tới nơi.
Lửa khói bốc lên cao ngất trời, sức nóng xông ra chịu không nổi. Khí thế của lửa mỗi lúc một lan rộng thêm. Có điều lạ là mấy trăm đạo sĩ ở Trùng-Dương điện, ai cũng vũ nghệ cao cường mà chẳng thấy một ai ra tiếp cứu.
Quách-Tỉnh lấy làm kinh hãi khi thấy tòa võ điện đồ sộ nguy nga mỗi lúc một tan dần dưới sự tàn phá của hỏa lực.
Chàng bèn phi thân qua bức tường cao, vào tới sân trong thì chỉ thấy đông nghẹt những người đang hùng hổ đánh nhau.
Quách-Tỉnh định thần nhìn kỹ thì thấy bốn mươi chín đạo sĩ mặc áo vàng hợp thành bảy thế Bắc-đẩu-trận đang chống với sáu bảy mươi kẻ địch. Bọn nầy tầm thước chẳng đều nhau, có người cao kẻ thấp, người mập kẻ ốm. Họ thuộc vào môn phái khác, có
Alert | IP Printer-friendly page | Edit | Reply | Reply With Quote | Top
Author dongta
Author Info Member since Nov-22-01:559 posts, 1 feedbacks, 2 points
ID/Subject 1. "Tiếp Theo Hồi 10"
Date/Time Jan-12-02, 05:59 PM ()
Message
In response to message #0
kẻ dùng binh khí, có kẻ dùng nội công chuyển ra bàn tay cố hết sức mình để tấn công. Họ là những người võ nghệ cũng khó, nhân số lại đông nên đua nhau hăng say trong máu lửa. Tuy nhiên, họ chiến đấu rời rạc, trông cậy vào từng sức cá nhân nên lực lượng không được thống nhất.
Ngược lại, về phía các đạo nhân Trùng-Dương điện, tuy ít hơn nhưng theo Bắc-đẩu trận, được sự liên hoàn tương trợ gây nên một thế thủ rất vững chắc.
Quách-Tỉnh thấy cuộc chiến hỗn loạn, toan lên tiếng hỏi để rõ căn nguyên, thì bỗng chàng cảm thấy từ bên phía trong điện có tiếng gió vun vút thổi ra. Với hơi gió đó, Quách-Tỉnh biết rằng bên trong hẳn có người đang chiến đấu, mà kẻ đang chiến đấu trong đó hẳn có một tài lực đáng kể.
Chàng lách mình sang Bắc-đẩu trận. Các đạo sĩ và mọi người đang chiến đấu thấy một bóng người luồng qua giữa rừng kiếm thì thất kinh, toan đuổi theo. Nhưng chỉ trong nháy mắt bóng Quách-Tỉnh đã mất hút vào nội điện.
Vào đến nội điện, Quách-Tỉnh thấy ánh sáng lập lòe của mười cây nến vẫn đang cháy. ánh lửa đằng sau chiếu đến cùng với những làn khói làm cho ánh sáng của nến chỉ là một thứ ánh sáng của những đóm lửa tàn.
Giữa điện, bảy vị đạo nhân với bảy bàn tay trái nắm chặt vào nhau, ngồi theo lối tọa kiết già trên bảy chiếc mâm, tay phải thì giơ lên, phóng tầm lực để chống lại với mười mấy địch nhân đang vây quanh.
Quách-Tỉnh không để ý đến những kẻ đứng đó là ai, chỉ nhìn vào phía bảy vị đạo nhân, thấy trong số đó có ba người già và bốn người trẻ. Ba người già là Mã-Ngọc, Vương-xứ-Cơ và Vương-xứ-Nhất. Còn bốn người trẻ chàng chỉ biết có một mình Doãn-chí-Bình thôi. Bảy vị nầy ngồi theo các tinh vị trên trời, từ sao Đạo-quang tới sao Thiên-khu. Trong bảy người có một người ngồi cúi mặt xuống không trông thấy gì cả.
Nhìn kỹ, Quách-Tỉnh cảm thấy Mã-Ngọc tiên sinh nét mặt đỏ bừng, máu nóng bốc lên cuồn cuộn biết rằng bảy vị đó đang ở trong trạng huống nguy ngập, Quách-Tỉnh hét lớn:
- Những thằng giặc kia! Chúng bay gan dạ dường nào mà dám đến Trùng-Dương võ điện này phá phách.
Dứt lời, Quách-Tỉnh đưa tay tóm hai địch thủ gần nhất toan ném ra cửa.
Nhưng võ thuật hai người nầy đâu phải hạng thường. Họ vận nội công làm cho hai chân như cắm chặt xuống đất, không một sức mạnh nào lay chuyển nổi.
Quách-Tỉnh cả kinh, nghĩ thầm:
- Những tên giặc nầy từ đâu đến lại có bản lãnh dường ấy? Chẳng trách hôm nay Trùng-Dương cung bị phá phách là phải.
Chàng vận nội công nắm chặt vào lưng rồi thốt nhiên buông ra, co chân đá vào hông địch thủ một cái. Hai địch thủ đang vận khí ngàn cân để chống đỡ, không ngờ lại bị một đòn cước dường ấy chẳng kịp đề phòng, hai cái xác tung bổng lên trời, lọt qua ngoài khung cửa, làm gãy cả một chấn song.
Hai địch thủ khác nhảy xông vào tiếp cứu, quát:
- Mày là ai?
Quách-Tỉnh đang ở trong thắng thế, cứ ngậm miệng giữ lấy sức không thèm đáp lời, tung hai tay một lượt như hai quả chùy hướng về địch thủ. Chưởng lực quá mạnh, khiến cho hai địch thủ chưa đến sát mình Quách-Tỉnh đã bị dội lại, lưng họ va vào bức tường như một tấm ván đổ. Máu hồng từ bên trong phụt ra miệng mũi. Họ chỉ lảo đảo được một chốc rồi ngã quỵ xuống.
Chỉ trong chốc lát mà chàng đã hạ được bốn người, khiến cho các địch thủ kinh khủng, không còn ai dám liều lĩnh xông vào tiếp ứng nữa.
Bấy giờ Mã-Ngọc, Khưu-xứ-Cơ nhận ra được Quách-Tỉnh lòng mừng rỡ nghĩ bụng:
- Đã có người này đến đây rồi thì phái Toàn-Chân của chúng ta không còn lo sợ gì nữa.
Còn Quách-Tỉnh sau khi hạ bốn địch thủ vì lòng sùng kính tổ sư, không kể gì đến việc kẻ địch đang bao quanh, vội quỳ xuống trước mặt Mã-Ngọc lạy và nói:
- Đệ tử Quách-Tỉnh xin bái yết Tiên-sinh.
Ngày nay, Mã-Ngọc, Khưu-xứ-Cơ và Vương-xứ-Nhất cả ba đều râu tóc bạc phơ, tuổi già đã làm mất những nét hùng mạnh trong con người siêu việt đó.
Ba người nhìn Quách-Tỉnh gật đầu đáp lễ, với những nụ cười sung sướng.
Bỗng Doãn-chí-Bình la lớn:
- Quách đại huynh coi chừng.
Nghe tiếng gió vù vù từ xa, hướng đến sau gáy, Quách-Tỉnh biết ngay có kẻ đang tiến đánh tập hậu, liền cúi xuống hai tay chống đất rồi tung mình lên để rơi trên mình hai địch thủ. Hai gối chàng đánh vào lưng hai đối thủ làm cho họ té sấp và cũng làm cho hai địch thủ bủn rủn tay chân, họ chỉ còn là hai cái xác dùng để cho Quách-Tỉnh quỳ hai gối lên trên.
Mã-Ngọc mỉm cười, nói:
- Đã mười năm ta không gặp con, ngày nay lại được thấy võ nghệ con tiến bộ rất nhiều.
Quách-Tỉnh quay thẳng người thưa:
- Xin đạo trưởng cho đồ đệ lãnh ý về việc đối xử với những tên ác tặc này.
Mã-Ngọc chưa kịp đáp lời thì Quách-Tỉnh đã nghe hai giọng cười vang vang trong điện. Một giọng rất chói tai và một giọng êm ái.
Quách-Tỉnh quay lại, thấy đằng sau có hai người. Một người mặc áo đỏ khăn vàng, hình dung khô đét như một que củi, có vẻ là một nhà sư Tây-tạng, còn một người nữa mặc áo vàng, tay cầm chiếc quạt, tuổi còn trẻ, dáng điệu tao nhi như một chàng công tử.
Cả hai đều phong độ điềm tĩnh khác thường, làm cho Quách-Tỉnh không dám khinh khi.
Quách-Tỉnh cúi đầu chào hai người thưa:
- Hai vị là ai? Đến đây có việc gì?
Chàng trai có vẻ công tử mỉm cười, hỏi lại.
- Thế mày là ai? Đến đây có việc gì?
Quách-Tỉnh ôn tồn nói:
- Tôi họ Quách tên Tỉnh, vốn là đồ đệ của các tôn sư đây.
Chàng công tử nói:
- A! không ngờ trong Toàn-Chân phái cũng có được những nhân vật như thế!
Quách-Tỉnh nhận xét chàng công tử đó tuy tuổi chưa đầy ba mươi mà vẻ kiêu ngạo quá lắm, coi Quách-Tỉnh không ra gì cả. Chàng cũng muốn hỏi xem họ là ai và nói rõ cho họ biết mình tuy là đồ đệ của mấy vị đó, nhưng không phải là người hiện ở trong phái Toàn-Chân. Tuy nhiên, thấy vẻ kiêu ngạo của thanh niên, Quách-Tỉnh lại không muốn tỏ bày. Bản tính Quách-Tỉnh là người ít nói, không hay biện bác.
Chàng hỏi:
- Hai người có thù gì đến Toàn-Chân giáo mà sai người đến gây chuyện, đốt phá đền đài?
Người có dáng công tử cười lớn, hỏi lại:
- Mày là kẻ nào mà dám xen vào hỏi đến chuyện này.
Quách-Tỉnh giận dữ, đáp:
- Ta là ta! Dẫu ta xen vào thì mày làm gì?
Lúc ấy ngọn lửa nơi điện cứ cháy lan ra mãi. Cứ đà ấy thì chẳng mấy chốc Trùng-Dương cung sẽ thành tro khói. Chàng công tử phe phẩy chiếc quạt có hình bông mẫu đơn màu trắng. ánh lửa chói sáng trông rất đẹp mắt.
Hắn nghe Quách-Tỉnh thách thức liền tiến lên một bước, vừa cười vừa nói:
- Mày mà đỡ nổi ba mươi thế võ của tao thì tao tha chết cho cả bọn đạo sĩ này được. Mày vui lòng chứ?
Chẳng thèm đáp, Quách-Tỉnh lấy tay phải hất chiếc quạt của hắn, kéo mạnh về phía mình. Với lối dằng co đó, nếu chàng công tử kia không dùng khí lực sẽ phải vấp ngã về phía trước. Trong bất ngờ chàng công tử không đến nỗi té nhưng cũng bị loạng choạng đôi chút.
Quách-Tỉnh giật mình, nghĩ thầm:
- Hắn nhỏ tuổi mà chịu đựng nổi sức mạnh của ta thì kể ra cũng là cừ khôi đó. Sao từ trước đến nay ta chưa từng được nghe tên tuổi?
Nghĩ vậy, Quách-Tỉnh liền vận khí lên quát vào mặt chàng công tử đó một tiếng.
Tiếng quát là một sức nội công tỏa ra, làm cho mặt chàng công tử đỏ ửng biến thành trắng toát như mặt ngọc.
Thấy vậy, Quách-Tỉnh lại nghĩ thầm:
- Té ra hắn đã vận sức nội công thượng thặng để chống lại tiếng quát của ta. Nếu ta quát thêm mấy tiếng nữa chẳng những hắn phải bị thương mà nội tạng của hắn cũng đều hôn mê nữa.
Tuy nhiên, Quách-Tỉnh vốn là võ nhân từ, biết chàng trai kia đã lập tuyện đến mức đó không phải là ít công phu. Chàng không muốn hại mạng của một thanh niên còn đầy hy vọng.
Quách-Tỉnh nhìn mặt chàng công tử mỉm cười, cái cười tỏ ý biết sức nội công còn non kém của đối phương.
Chàng công tử lợi dụng lúc Quách-Tỉnh mỉm cười, sức nội công không còn nữa, đưa tay giật cây quạt lại. Nhưng lạ thay! chàng vận hết sức lực mà cây quạt cũng không nhúc nhích.
Đó là vì sức lực của Quách-Tỉnh còn truyền sang cây quạt nên vẫn còn có sức mạnh.
Biết thế yếu chàng công tử vội vàng buông tay nhảy ra phía sau cúi đầu bái Quách-Tỉnh và hỏi:
- Xin cho biết quý danh.
Quách-Tỉnh nói:
- Tiểu danh không đáng kể. Mã, Khưu và Vương chân nhân đây vốn là bực sư phụ của ta.
Chàng công tử bán tin bán nghi, nghĩ rằng:
- Vừa rồi phái Toàn-chân bị đánh đến nửa ngày nếu không nhờ Thiên-cang Bắc-đẩu trận hợp lực nhau để thủ thế thì họ làm sao cầm cự nổi. Nếu cứ đánh tay đôi thì cả môn phái nầy chưa ai địch nổi ta tại sao trong bọn lại có một người võ nghệ cao cường đến thế nhỉ?
Chàng công tử quay ra ngắm dung nhan Quách-Tỉnh, trông Quách-Tỉnh ăn mặc quần thô kệch như một nông dân, lấy làm lạ, muốn hỏi vài lời xã giao.
Song chàng chưa kịp hỏi, chỉ vừa nói được câu:
- Võ nghệ của ông quả đã đến mức tuyệt vời. Kẻ hèn xin hẹn mười năm nữa sẽ hội ngộ.
Thì đàng xa bỗng vang vang tiếng nhạc. Tiếng nhạc êm đềm khiến ai cũng phải xúc động.
Quách-Tỉnh vội đáp lễ chàng công tử, và nói:
- Mười năm nữa ta sẽ gặp ngươi tại đây.
Chàng công tử từ từ lui gót ra khỏi cửa, quay lại thưa:
- Cuộc so tài giữa chúng tôi và môn phái Toàn-Chân hôm nay tôi chịu thua.
Theo tập quán của giới giang hồ thì nếu có một địch thủ đã chịu thua và hẹn ngày rửa hận thì ngày đó chưa đến dù có gặp nhau cũng không được ra tay. Bởi vậy, khi nghe chàng công tử nói, Quách-Tỉnh vội đáp lời:
- Đó là lẽ dĩ nhiên, khỏi phải thắc mắc.
Chàng công tử vái chào sắp sửa bước ra. Khưu-xư-Cơ thốt nhiên hét lớn:
- Không cần đợi đến mười năm Khưu đây sẽ tìm đến tận nhà ngươi.
Tiếng quát như sấm làm cho chàng công tử ù tai, choáng váng chàng cũng biết ra rằng các đạo sư đó chưa trổ hết tài năng, nên sợ quá từ từ lui ra ngoài.
Bên ngoài, tiếng thép loảng choảng dần dần thưa, rồi im bặt Quách-Tỉnh đoán biết họ đã rút lui toàn bộ.
Nhìn vào trong điện Quách-Tỉnh lại thấy đàng sau chỗ Mã-Ngọc ngồi còn mấy người nằm dài dưới đất. Đó là Quảng-tử-Ninh và Xich-đại-Thông. Mặt họ trắng nhợt như đã bị thương quá nặng.
Sở dĩ Mã-Ngọc và sáu người kia cố ngồi yên khi ngọn lửa đã bốc cháy gần kề là để bảo vệ sinh mạng cho hai người ấy.
Quách-Tỉnh vội bước vào, cởi đạo bào thì thấy ngực họ có in một vết bàn tay tím bầm ăn sâu vào trong thịt. Chàng cảm thấy lo sợ vì trong nghề võ chàng chưa hề được nghe nói đến miếng võ gây thương tích cho địch nhân như thế.
Chàng thầm nghĩ:
- Mình an cư nơi Đào-hoa đảo suốt mười năm trời không dễ thế sự có những đổi thay lớn lao mà mình không hay biết.
Rồi chàng cúi xuống điểm vào hai huyệt nơi hai bên hông Xích-đại-Thông.
Điểm như thế tuy không làm bệnh nhân lành vết thương nhưng cũng làm cho bệnh nhân đỡ đau trong khoảng thời gian mười hai tiếng đồng hồ.
Bốn bề lửa cháy rần rần, không còn có cách gì cứu chữa nổi nữa.
Khưu-xứ-Cơ vừa bồng Xích-đại-Thông dậy vừa nói:
- Thôi! Chúng ta rút đi nơi khác là hơn.
Quách-Tỉnh sực nhớ đến Dương-Qua, liền hỏi:
- Tôi có đem theo một đứa nhỏ, chẳng biết nó đã bị vào tay đại huynh nào bắt giữ, xin giao lại cho tôi, đừng để nó bị lửa thiêu.
Từ trước đến giờ, Khưu-xứ-Cơ và các vị đạo hữu lo để ý đến việc chống kẻ địch không để ý đến việc gì khác. Bất ngờ Quách-Tỉnh vừa dứt lời thì một đứa bé từ trên không rơi xuống đúng phải giữa điện, mặt mày hí hửng, nói:
- Thưa chú, cháu có mặt đây rồi.
Quách-Tỉnh vui mừng, vừa ngạc nhiên hỏi:
- Sao cháu lại trốn trên xà nhà. Có gì nguy hiểm chăng?
Đứa bé ấy đúng là Dương-Qua! Nó nhanh nhẩu đáp:
- Thưa chú, lúc chú với thằng đạo sư khốn kiếp...
Quách-Tỉnh chận lời, mắng:
- Đừng vô phép! Hãy ra lạy sư phụ đi nào!
Dương-Qua lè lưỡi quì trước Mã-Ngọc, Khưu-xứ-Cơ, Vương-xứ-Nhất lạy mấy lạy. Khi đến Doãn-chí-Bình là người trẻ tuổi hơn, thằng bé quay sang hỏi Quách-Tỉnh:
- Người nầy chắc không phải sư phụ như thế con không cần lạy.
Quách-Tỉnh nói:
- Vị đó không phải là sư phụ, nhưng là sư bá. Vậy con phải lạy ra mắt.
Dương-Qua tuy trong bụng không muốn nhưng phải tuân lời Quách-Tỉnh, lạy mấy lạy.
Quách-Tỉnh thấy Dương-Qua chỉ lạy Doãn-chí-Bình chứ không lạy ba đạo sư trung niên khác, thì mắng:
- Dương-Qua! Sao cháu vô lễ thế!
Dương-Qua cười hề hề, nói:
- Đợi con lạy đủ ba vị nữa thì có một việc gấp không còn cứu kịp
Biết Dương-Qua là đứa cơ xảo, Quách-Tỉnh hỏi:
- Việc gấp gì cần phải cứu?
Dương-Qua thưa:
- Có một vị bị trói ở phòng gần đây, nếu không cấp thời đi cứu sợ người ấy sẽ bị chết cháy mất.
Quách-Tỉnh vội vã hỏi:
ở phòng nào? Tại sao cháu biết?
Thằng bé mỉm cười nói:
- Để cháu nghĩ coi! à, nơi gian phòng đàng sau xa! Còn tại sao bị trói cháu quên mất.
Doãn-chí-Bình thấy Dương-Qua nói giọng nửa thật nửa đùa trong lúc mọi người đang nóng ruột lấy làm bực tức, lườm thằng bé một cái rồi chạy vụt sang dãy phòng phía đông.
Doãn-chi-Bình lục lạo khắp nơi nhưng không thấy bóng của một người nào cả, miệng lẩm bẩm rủa liên hồi.
Qua khỏi mấy dãy phòng dùng làm nơi trú ngụ của các đạo sư, và đến gian phòng dùng để tập luyện võ công, Doãn-chi-Bình mở ra một cánh cửa thì thấy khói lửa mịt mù, trong góc một gian phòng hẹp có một đạo sư bị trói nằm trên giường, miệng ú ớ nói không ra tiếng.
Doãn-chi-Bình bước vội đến mở trói, kéo mạnh đạo nhân ấy dậy, thì thấy chân tay buộc bằng một sợi dây luộc, sợi dây mà các đạo sư thường dùng tập luyện võ công.
Sợi dây ấy quá chắc, Doãn-chi-Bình phải dùng kiếm cắt đứt ra mới được.
Đạo nhân tay chân được cởi mở, đưa tay rút đùm giẻ trong miệng ra, thở hào hển.
Lửa cháy rần rần, Doãn-chi-Bình thấy không tiện ở đấy han hỏi lý do, nên đưa vai cõng đạo nhân chạy biến ra ngoài.
Trong lúc đó, Khưu-xứ-Cơ, Quách-Tỉnh và Dương-Qua đã ra khỏi võ điện, đứng trên một mô đất cao, đưa mắt nhìn ngọn lửa đang tàn phá ngôi đền đài đồ sộ, công trình mà bao nhiêu thế hệ đã đóng góp vào để dựng nên.
Quách-Tỉnh hỏi:
- Chúng ta không còn phương nào cứu chữa nổi sao!
Khưu-xứ-Cơ buồn bã gật đầu nói:
- Đành chịu thôi! Trên núi nầy chỉ có một con suối nhỏ, sức nước không đủ áp đảo sức lửa bạo tàn đó.
Quách-Tỉnh đau lòng toan hỏi xem kẻ đến phá đều là ai, nhưng chưa kịp mở lời thì đàng sau Doãn-chi-Bình hấp tấp cõng một đạo nhân bước tới, đặt trước mặt mọi người với vẻ mặt chua chát.
Đạo nhân đó bị sặc khói, mặt mày đen như lọ, nước mắt ràn rụa. Ông ta dụi mắt mấy cái mới mở được, và khi trông thấy Dương-Qua ông ta như một con hổ dữ, chồm tới toan túm lấy Dương-Qua xé ra từng mảnh cho hả giận.
Dương-Qua lanh lẹ né sang một bên, miệng cười hề hề.
Đạo nhân kia nắm hụt, đưa tay chỉ vào mặt Dương-Qua chưởi rủa:
- Thằng ranh con khốn kiếp! Mầy toan giết ta ư?
Vương-xứ-Nhất hỏi:
- Tỉnh-Quang! Có việc gì lại tức giận đến thế? Hãy nói ra đây cho chúng ta rõ!
Vị đạo nhân gọi là Tỉnh-Quang vừa được thoát chết, tâm thần đều loạn, khi thấy Dương-Qua, kẻ thù mình, toan túm lấy đánh một trận trả thù, ông ta quên rằng mình đã làm một việc vô lễ, trước mặt vị sư bá là Vương-xứ-Nhất. Khi nghe Vương-xứ-Nhất nói, Tỉnh-Quang giật mình biết đã phạm tội vô lễ, liền chắp tay thưa:
- Đệ tử vô ý phạm tội vô lễ thật đáng chết.
Vương-xứ-Nhất nói:
- Có gì mà đáng chết, hãy nói cho ta biết việc giận dữ của con
Tỉnh-Quang nói:
- Đệ tử ngày nay thật là đứa vô dụng. Đệ tử đã cho thằng nhãi ranh đó chà đạp trên danh dự...
Nói đến đây, Tỉnh-Quang lườm lườm Dương-Qua ý muốn xông đến, nhưng trước mặt các vị đạo sư, Tỉnh-Quang không dám, liền kể:
- Đệ tử phụng mệnh sư thúc Triệu-chí-Nguyên đứng gác ở sau vườn. Sau đó Triệu sư thúc trao đứa bé nầy, và cho biết hắn là một địch thủ rất lợi hại của môn phái ta, bảo đệ tử phải đem hắn nhốt trong tịnh thất phía đông. Ngồi trong đó một lúc, hắn bảo là hắn mắc tiểu, và yêu cầu cởi trói cho hắn. Đệ tử thấy hắn có vẻ tinh ranh nên không chịu cởi trói, phải chính tay cởi quần cho hắn đi tiểu. Hắn đi tiểu xong, thừa lúc đệ tử đang thắt quần lại, hắn đưa tay xô mạnh đệ tử, khiến đệ tử phải té nhủi xuống đất...
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top