Part 7
Kim Dung
Thần Điêu Đại Hiệp
Hồi 15
Thiên La địa võng: thế nhập môn của phái cổ-mộ
Tiểu-long-Nữ dẫn Dương-Qua đến một căn phòng nhỏ xây toàn bằng đá. Mở cửa bước vào trong thấy phòng vừa chật vừa thấp, phải đi cẩn thận để khỏi va chạm. Nóc nhà cũng toàn bằng đá. Dương- Qua đi theo, lòng hồi hộp nghĩ chắc phòng này thế nào cũng có nhốt một tên Đạo sĩ của phái Toàn- Chân. Một chập sau nhìn không thấy gì hết, Dương-Qua hỏi:
- Thưa cô nương, người Đạo sĩ nhốt chỗ nào rồi?
- Tại sao lại hỏi như vậy, làm gì có Đạo sĩ!
- Thế không phải cô đã bắt Đạo sĩ đem về đây để luyện võ cho tôi sao? Tiểu-long-Nữ mỉm cười chỉ vào trong và nói:
- Ta nào có bắt Đạo sĩ, mà chỉ tìm thứ này cho ngươi thôi, tý nữa sẽ thấy.
Nói xong, nàng bước thêm vài bước rồi cúi lom khom lấy một cái túi vải đặt tại góc phòng, hí hoáy mở nút. Bỗng có tiếng vỗ cánh, ba con chim sẻ vụt bay ra.
Dương-Qua vừa ngạc nhiên vừa thích thú nhưng chưa dám hỏi, tự nghĩ:
- Chẳng lẽ nào cô nương xuất mộ đài để bắt chim sẻ ư?
Tiểu-long-Nữ bảo Dương-Qua tìm cách bắt lại ba con chim sẻ ấy cho nàng, nhưng không được làm chúng bị thương tích lũy rụng lông.
Tưởng dễ ăn, Dương-Qua vội đáp:
- Vâng tôi sẽ bắt được liền!
Nhưng sự thật đâu phải dễ. Chim sẻ vừa nhỏ vừa lanh lẹ, bay nhảy lung tung từ đông sang tây, từ cao xuống thấp. Dương-Qua chụp mãi mồ hôi nhễ nhại, hơi thở hồng hộc vẫn không chụp được con nào, phải đứng thẫn thờ nhìn theo, mặt có vẻ bẽn lẽn.
Tiểu-long-Nữ mỉm cười bảo nếu không bắt được, nàng sẽ dạy phương pháp. Lúc đầu nàng dạy lối đứng trên cao nhảy xuống để chụp.
Có tánh thông minh sẵn, Dương-Qua dư hiểu nàng lợi dụng lối bắt chim sẻ để luyện võ cho mình, nên nó chăm chú nghe và để ý bắt chước làm theo y như lời dạy.
Nói thì dễ, nhưng đưa ra làm thật quả là khó. Tuy nhiên sau khi chỉ bảo kỹ, nàng dặn thêm phải bền chí và cố gắng tập thành thuộc rồi bỏ đi ra ngoài ngay.
Suốt ngày hôm ấy, Dương-Qua mệt nhoài người không bắt được con nào. Chiều đến cơm nước xong, Dương-Qua lại lên giường lạnh luyện nội công và ngủ.
Suốt ngày hôm sau và ba bốn hôm nữa vẫn chưa bắt được con nào hết. Nó đổi cách nhảy, lối rình và chụp nhưng không kết quả, lòng vừa buồn vừa chán nhưng vẫn cố gắng tiếp tục.
Mãi đến ngày thứ năm nó mới vồ được một con. Nó hân hoan cầm con sẻ đến trình với Tiểu-long- Nữ, nhưng nàng chỉ lạnh lùng bảo:
- Một con thì được tích sự gì đâu? Phải bắt cho được ba con.
Dương-Qua nghĩ hễ bắt một con rồi thì ba con bắt chẳng khó gì. Nhưng suốt hai ngày sau vẫn không bắt được con nào nữa.
Thấy ba con sẻ đã đói và mệt nhiều nên Tiểu-long-Nữ đem gạo vào cho chúng ăn rồi thả bay mất. Đoạn nàng tìm bắt ba con khác vào thả trong phòng cho Dương-Qua tập nữa.
Mãi đến ngày thứ tám, Dương-Qua mới bắt được cả ba con sẻ. Thấy nó bắt đã thuần thục, nàng bảo:
- Thôi được rồi! Bây giờ đi theo ta tới Trùng-Dương cung. Dương-Qua ngạc nhiên quá, vội hỏi:
- Theo cô, đến đó để làm gì?
Nàng không trả lời, chỉ rảo bước đi ra, nó vội vàng chạy theo.
Sau mấy ngày luyện tập trên giường hàn ngọc và bắt sẻ, Dương-Qua thấy đã tiến bộ nhiều. Bước đi nhẹ nhàng thoăn thoắt, mạnh và chắc chắn hơn trước.
Đến gần Trùng-Dương-cung, Tiểu-long-Nữ lớn tiếng gọi:
- Triệu-chí-Kính đâu, ra đây mau!
Tiếng nói lanh lảnh vọng đi rất xa và rõ mồn một. Một chập sau cửa Trùng-Dương-cung mở rộng, có mười đạo sĩ đi ra. Hai người đi đâu dìu Triệu-chí-Kính đi chầm chậm, bước từng bước một, vẻ mặt bơ phờ mệt nhọc, mắt thâm quầng, da mét xanh, chân run lẩy bẩy.
Vừa trông thấy hai người đến gần các đạo sĩ đã rút kiếm hờm sẵn, nét mặt hầm hầm. Tiểu-long-Nữ rút bọc lấy một bình nhỏ bằng sứ đưa cho Dương-Qua bảo lớn:
- Mi đưa bình này cho Triệu-chí-Kính, đấy là mật ong trắng, dùng làm thuốc chữa nọc độc đấy. Nhìn thấy mặt Triệu-chí-Kính, Dương-Qua cảm thấy oán hận tràn trề, máu nóng xông lên, chỉ muốn túm lấy đánh cho đã giận. Nhưng không dám làm phật ý cô nương trước mặt người lạ, nó lẳng lặng tiếp lấy bình mật, nhanh nhẹn đem giao cho Triệu-chí-Kính.
Tất cả các người của Trùng-Dương-cung đoán chắc Tiểu-long-Nữ đến đánh để phục hận và trả thù cho Tôn bà, nhưng không ngờ nàng lại đem mật đến để cứu Triệu-chí-Kính, cho nên ngạc nhiên đứng ngẩn người không biết nói năng làm sao.
Đặt bình mật trước mặt Triệu-chí-Kính xong, Dương-Qua liếc nhìn y với cặp mắt khinh bỉ rồi lầm lũi chạy trở lại.
Vừa nhìn thấy Dương-Qua, Tỉnh-Quang giận sôi không dằn nổi, ở trong đám đông bước ra quát lớn:
- Thằng nhắt con, đã đến trước cửa thầy, tại sao còn bỏ chạy?
Nói xong hắn nhảy xổ theo Dương-Qua cố đánh cho được để trả mối thù trước kia bị Dương-Qua dùng "Hàm mô công" đánh gần chết, may nhờ Mã-Ngọc cứu thoát.
Tiểu-long-Nữ khẽ dặn:
- Hôm nay ngươi không được ra tay đánh đập đấy nhé!
Dương-Qua đang chạy bỗng nghe tiếng chân phía sau và thoáng một luồng gió lộng như có bàn tay chộp trên lưng.
Nhờ bao nhiêu ngày luyện công trên giường hàn thạch và tập bắt sẻ là những phương pháp tối điệu riêng biệt của phái Cổ Mộ đài, Dương-Qua đã thấy tiến bộ nhiều và chủ động được ý muốn, cử chỉ mình. Nó bình tĩnh ngồi sụp xuống, đưa tay khẽ đẩy một bên, Tỉnh-Quang đang hăm hở chạy đến, bất ngờ lại bị nó đẩy ngang một cái mất thăng bằng, té lăng đùn như trời giáng.
Khi lóp ngóp đứng dậy được thì thấy Dương-Qua đã đến bên cạnh Tiểu-long-Nữ rồi. Tỉnh-Quang tức cành hông, la hét om sòm, toan chạy đến đánh nữa, nhưng bỗng một đạo sĩ xông đến khóa cánh tay hắn lôi về hàng cũ. Tỉnh-Quang cảm thấy cánh tay tê buốt, toàn thân cứng đờ không cưỡng nổi, phải riu ríu bước đi và ngó lại thấy đó là sư thúc Doãn-chí-Bình.
Doãn-chí-Bình mắng thêm mấy câu rồi đuổi hắn ra phía sau đám đông. Doãn-chí-Bình lễ phép bước tới nói:
- Đa tạ cô nương đã có lòng tốt đem thuốc cho chữa bệnh.
Nói xong cúi đầu làm lễ.
Tiểu-long-Nữ không đáp lễ chỉ nắm tay Dương-Qua bảo:
- Thôi, chúng ta về! Doãn-chí-Bình nói thêm:
- Dương-Qua là đệ tử của phái Toàn-Chân, cô nương định chiếm bắt nó hay sao? Nàng lạnh lùng đáp:
- Tôi không thích nhiều lời.
Nói xong nàng kéo Dương-Qua thoăn thoắt trở về Cổ Mộ đài. Tất cả các đạo sĩ chỉ biết ngẩn người nhìn theo cho đến khi hai người đi khuất vào rặng cây rừng đàng xa.
Về đến Cổ Mộ đài Tiểu-long-Nữ bảo Dương-Qua:
- Võ công của mi có mòi tiến bộ hơn trước chút ít, nhưng lối đánh tên đạo sĩ mập té như thế chưa phải cách chút nào.
Dương-Qua lễ phép thưa:
- Thưa cô nương, tên đạo sĩ ấy đã từng đánh tôi bị thương nặng, tiếc rằng cô nương đã ra lệnh nên hôm nay tôi chưa được cơ hội đánh trả thù cho hả dạ. Nhưng thưa cô nương, vì sao tôi không được đánh hắn?
Tiểu-long-Nữ bắt đầu đáp:
- Không phải là mi không được đánh hắn, nhưng ta thấy võ nghệ mi còn non kém, chưa muốn cho thi thố trước mặt người. Lối đánh ngã sấp không phải cách. Cần đánh cho hắn ngã ngửa mới được. Dương-Qua mừng rỡ hỏi ngay:
- Thưa cô nương, làm sao đánh được như thế, cô nương dạy tôi nhé!
Tiểu-long-Nữ bảo Dương-Qua giả làm lão đạo sĩ mập còn mình giả làm Dương-Qua. Nàng vừa nói chuyện vừa chầm chậm đi tới.
Dương-Qua thích chí tiến tới toan chụp lấy Tiểu-long-Nữ. Nhưng Tiểu-long-Nữ hình như nhìn thấy phía sau cho nên hễ nó đuổi mau thì nàng bước mau, nó đuổi chậm thì nàng bước chậm lúc nào khoảng cách giữa hai người cũng độ một thước.
Dương-Qua vừa cười vừa nói lớn:
- Tôi bắt cô nương đây nè
Nói xong nó lạc mình về phía trước, hai tay ôm choàng ngang eo ếch nàng. Tiểu-long-Nữ vẫn điềm nhiên không tránh né, chờ khi tay Dương-Qua đến gần sát, nàng dùng vai hất vào hàm nó. Dương- Qua bị một sức mạnh đẩy mạnh về phía sau loạng choạng mất thăng bằng. Nàng tiếp luôn dùng tay đánh vào hai tay nó để nó khỏi băm vào lôi nàng ngã theo.
Cả đầu và lưng ngã về sau, hai tay không chống đỡ được. Dương-Qua bị ngã bật xuống, toàn thân ê ẩm.
Tiểu-long-Nữ cầm tay mặt của nó kéo đứng dậy. Dương-Qua mừng rỡ nói rối rít:
- Cô nương tài tình quá, lối đánh thật tuyệt diệu.
- Mi cố tập bắt sẻ cho thuần thục, tự nhiên sẽ biết những thế đánh hay ho như vừa rồi.
- Tôi đã tập bắt được rồi cơ mà. Nàng mỉm cười nói:
- ồ, thế đã ra gì mà gọi là bắt được rồi! Nếu vậy, hóa ra võ thuật của phái ta dễ dàng quá sao?
Dương-Qua không dám nói nhiều, chỉ đứng lặng yên. Thấy nó im lặng tỏ vẻ phục thiện, nàng đưa tay bảo:
- Thôi, đi theo ta.
Dương-Qua ngoan ngoãn bước theo. Hai người đi đến một căn phòng đá khác. Phòng này rộng hơn phòng trước, có nhốt sẵn sáu con chim sẻ. Phòng lớn, sẻ lại nhiều hơn, bắt được chúng không phải dễ. Nhưng nhờ được Tiểu-long-Nữ chỉ cách bắt có qui củ và truyền thụ thuật khinh công nên sau chín ngày tập luyện, Dương-Qua đã bắt được trọn sáu con sẻ.
Cứ như thế tiếp tục, những phòng sau càng rộng hơn, số chim lại tăng thêm nữa, cuối cùng đến nhà đại sảnh, số chim sẻ tăng đến 81 con.
Ngày bắt sẻ, đêm nằm luyện công trên hàn thạch, sắc diện của Dương-Qua có mòi hưng vượng thêm, da mặt hồng hào, sức lực tăng tiến rõ rệt. Ba tháng sau nó đã bắt luôn một lúc cả 81 con sẻ.
Thấy nó tập luyện tiến bộ nhiều, Tiểu-long-Nữ mừng rỡ lắm. Một ngày kia nàng bảo:
- Hôm nay chúng ta xuất mộ tìm bắt nữa.
Suốt ba tháng liền cầm chân trong Mộ đài, nay được đi ra ngoài thật không có gì đáng mừng hơn nữa, nên Dương-Qua cuống quít vâng dạ luôn mồm.
Tiểu-long-Nữ bảo:
- Có gì mà cuống quít như thế! Lối tập luyện này không thể vội vàng hấp tấp được. Phải làm thế nào cho cả 81 con sẻ không bay thoát được.
Nói xong nàng bắt cả 81 con nhốt vào một cái túi xách đi ra khỏi Mộ đài.
Lúc này đã bước qua thượng tuần tháng ba, khí trời mát mẻ, cây cối đua nhau đâm chồi nẩy lộc đầy nhựa sống. Hoa rừng nở khắp nơi, bướm lượn từng đoàn, phơi màu sắc rực rỡ tưng bừng.
Nhìn cảnh vật ngày cuối xuân, ngửi mùi hoa rừng ngào ngạt, Dương-Qua cảm thấy cõi lòng rạo rực như một luồng sinh khí mới chạy khắp huyết quản, tâm hồn thơ thới hân hoan.
Tiểu-long-Nữ tháo dây cột túi vải cho bầy sẻ cất cánh tung bay. Nàng lấy tay gạn giúp chúng bay ra từng đàn theo thứ lớp khỏi xô đẩy nhau. Vừa được tự do, 81 con sẻ mặc tình vỗ cánh bay tứ hướng. Nhưng nàng vận khí chuyển nơi tay, dang rộng hai tay một vòng lưới bủa. Lạ thay, cả 81 con sẻ hình như bị một lực gì bao phủ không thoát đi xa được, chỉ quanh quẩn quanh nàng chừng non một thước.
Đoạn nàng vung tay xoay múa một hồi, chưởng lực từ ngón tay chuyển đi chia thành 81 luồng điện lực cho 81 con chim, hút chúng lại gần, không con nào chạy thoát. Nàng túm từng con bỏ vào túi. Dương-Qua trân trối nhìn, lòng lạ lùng say mê vừa nể vừa kinh ngạc.
Nó muốn hỏi, nhưng bỗng nghĩ bụng "cô nương đã dạy ta luyện công tập võ, ta cần chú tâm theo dõi để ghi lòng tạc dạ từng cử chỉ, từng điệu bộ để thấm nhuần mà tập luyện.
Nó chăm chú ngưng thần theo dõi từ lối vận chuyển xuất động nội công từ động tác một, thật là phân minh rành mạch vô cùng linh động, kỳ diệu.
Nhờ khiếu thông minh thiên phú, nó hiểu rõ rành và ghi nhớ nằm lòng để sau tập lại.
Giữ chúng một chập, nàng thu hồi dưỡng lực, phóng tay cho chúng được tự do như mở trói, 81 con chim sẻ được tự do vỗ cánh tung trời bay bổng.
Nhưng nàng múa hai vạt áo, gây thành sức gió, hút cả ầy chim sẻ cách rơi xuống đất, chim kêu chíp chíp rối rít. Mãi một chập sau chúng mới bay trở lại được.
Dương-Qua vô cùng thán phục bản lĩnh cực kỳ siêu việt và lối tập luyện kỳ lạ của nàng, kéo vạt áo Tiểu-long-Nữ và nói:
- Cô nương, tôi thấy bác Quách-Tỉnh còn kém cô nương xa, vì bác ấy không có lối luyện công này. Nàng mỉm cười nhìn thẳng vào mắt nó ôn tồn nói:
- Lối xuất nội công này gọi là "Thiên la địa võng thế", một bài nhập môn của phía Cổ-mộ đài của chúng ta đó. Mi cố sức mà luyện tập cho được nhé.
Nàng tuần tự chỉ vẽ cho nó từng cách tập, biết từng đường xuất nhân điện lực tích tụ ở đơn điền ra ngón tay, cả thảy 10 đường, mỗi đường có một động tác khác nhau.
Sau đó, liên tiếp mười ngày trọn, Dương-Qua lần lượt học hết một bài thế "Thiên la địa võng". Tiểu-long-Nữ khi thấy Dương-Qua tập luyện đã thuần thục, nàng đưa ra một con sẻ và tập cho
Dương-Qua biết cách dùng điện lực kìm chế không cho nó bay thoát, nàng dạy cách điện dụng đúng phép, chuyển ra đầu ngón tay để cho chim không bay, không nhúc nhích được. Lúc đầu Dương-Qua giữ được một giây, nhưng vì yếu sức, sơ hở, chim sẻ thừa cơ đã bay mất. Tiểu-long-Nữ dùng phép xuất nội công ra bắt trở lại.
Ngày ngày lần lượt trôi qua, việc tập luyện vẫn được tiếp tục. Dương-Qua luyện nội công đến lối vận dụng ra ngoài thành chưởng lực, không kể sớm tối, ngày đêm, gió mưa, nóng rét.
Qua hạ sang xuân, thấm thoắt Dương-Qua đã lớn như thổi. Từ một chú bé nay đã thành một thiếu niên, thân hình vạm vỡ, tiếng nói sang sảng, gương mặt đẹp thanh tú, không còn giống ngày nào trong Cổ Mộ đài.
Nhờ sự tập luyện đúng cách, sức khỏe dồi dào, lối đi đứng vững vàng, da đỏ hồng hào, hơn nữa một phần nhờ thiên tư đĩnh ngộ và Tiểu-long-Nữ tận tình dạy bảo nên bản lĩnh tăng tiến rất mau.
Cuối thu, dượt tập thuần thục các thế "Thiên la địa võng", chưởng pháp của Dương-Qua trở nên thâm
hậu vững vàng, phát xuất mau lẹ, có thể sử dụng kìm chế được 81 con chim sẻ, mặc dầu đôi lúc sơ hở vẫn còn để một vài con bay thoát.
Một buổi sáng, Tiểu-long-Nữ bảo Dương-Qua:
- Đến nay chưởng lực và nội công của mi đã tiến bộ nhiều. So với nhiều người trong giới võ lâm, chưa chắc mấy ai đối địch nổi. Bây giờ mi hãy tìm tên đạo sĩ mập ngày nọ khiêu khích hắn đấu một trận xem thử sức lực ra sao.
Nghe nói, Dương-Qua như cởi mở tấm lòng, tự thấy như lớn hơn trước nhiều. Nó hân hoan hỏi:
- Thưa cô nương, có phải cô nương muốn tôi đấu với tên Triệu-chí-Kính hay không?
Vốn biết rõ Triệu-chí-Kính là một cao thủ có hạng, thuộc hàng đệ tam đệ tứ của Toàn-Chân phái, đã từng nổi tiếng trên giang hồ, so với hắn tài nghệ của Dương-Qua còn thua kém xa, nên nàng lặng yên không trả lời.
Thấy Tiểu-long-Nữ làm thinh không đáp, Dương-Qua biết ý vội hỏi:
- Thưa cô nương, tôi chắc chưa đủ sức đấu với hắn. Thôi tôi cố gắng luyện tập ít năm nữa chẳng muộn gì. Chừng nào võ nghệ vượt được hắn sẽ tính sau. Thưa cô nương võ nghệ của phái Cổ Mộ đài tài hơn hẳn bên Toàn-Chân nhiều phải không?
Tiểu-long-Nữ đưa mắt nhìn tấm đá gắn trên nóc nhà có khắc chữ và nói:
- Lời nói tiên tri khắc trên đá này cho biết ta và mi có thể tin nhau được. Trước đây ta có đấu với lão đạo sĩ họ Khưu bên Toàn-Chân thì quả võ nghệ ta còn kém hắn. Nhưng như thế đâu phải là phái ta thua môn phái Toàn-Chân. Chẳng qua vì ta chưa luyện được đến chỗ tuyệt diệu của võ thuật Cổ-Mộ đài. Nghe Tiểu-long-Nữ bảo Khưu-xứ-Cơ hơn nàng; Dương-Qua không được hài lòng vội hỏi tiếp:
- Thưa cô nương chỗ tuyệt diệu ấy là gì cô đã bắt đầu tập chưa và đã đến mức nào rồi?
- Bây giờ mi đã nhận ta là thầy trước bàn thờ Tổ sư phu nhân thì ta cũng có thể kể cho mi nghe một ít lai lịch về người. Tổ sư vốn họ Lâm tên gọi Triều-Anh đã nổi danh trên võ lâm nên cách bảy mươi năm về trước giới giang hồ đã có câu:
Nam Lâm Bắc Vương Bà lại hơn ông
Nam-Lâm tức là tổ sư phu nhân của ta quê ở Quảng-Tây, Bắc-Vương là Vương-trùng-Dương quê ở Sơn-Đông.
Trong thời bấy giờ hai vị là người giỏi nhất trong hạng võ nghệ cao cường, khó mà phân biệt ai hơn ai kém. Sau này vì phải lo khởi nghĩa đánh giặc Kim nên Vương-trùng-Dương phải gác việc tập luyện để lo việc nước. Trong lúc đó tổ sư phu nhân vẫn tiếp tục trau dồi bản lĩnh. Như thế đương nhiên phải vượt hẳn Vương-trùng-Dương một bực, nghĩa là bà đã thắng ông.
Sau này vì thất bại trong việc lớn, Vương-trùng-Dương phẫn chí lui về trong Cổ Mộ này để trau dồi lại võ nghệ.
Khi ấy tổ sư phu nhân lại xuất bước giang hồ làm việc nghĩa và có dụng ý chờ đợi Vương-trùng- Dương hạ sơn lần nữa. Một thời gian dài trôi qua hai người không hề gặp nhau. Sau đó không hiểu vì một lẽ gì bất hòa cả hai đánh cá với nhau và đấu võ. Vương-trùng-Dương thua nên nhường Cổ-Mộ đài cho phu nhân. Ta sẽ đưa mi đi coi để thấy các di tích của hai vị tiền bối ấy.
Tất cả các nơi trong Cổ-Mộ đài đều kiến trúc bằng đá. Không hiểu các vị đã dùng cách nào xây dựng nên.
Ngay sau đó, Tiểu-long-Nữ dẫn Dương-Qua đến một căn nhà kiến trúc thật lạ lùng. Bên ngoài hẹp, bên trong rộng hình như cái thang, phía đông có một khoảnh hình bán nguyệt và phía tây một khoảnh hình tam giác.
Thấy lạ lùng quá, Dương-Qua hỏi:
- Thưa cô nương, tại đây kiến trúc sao kỳ lạ thế này? Tiểu-long-Nữ đáp:
- Chính đây là nơi Vương-trùng-Dương dùng để luyện võ. Phía trước hẹp để xuất chưởng lực tập trung, phía sau rộng để sử dụng quyền thuật, bên khoảnh tròn để sử dụng bát xà mâu. Dương-Qua chạy tung tăng khắp nơi nhìn kỹ và nhận thấy đây quả là một cung đài vừa sâu vừa cao. Nhưng Tiểu- long-Nữ đưa tay trở lên trên mà bảo rằng:
- Nơi đây thể hiện tất cả những cái tinh túy ảo diệu nhất của võ nghệ mà Vương-trùng-Dương đã ghi chép.
Nhìn theo ngón tay của Tiểu-long-Nữ, Dương-Qua nhận thấy có khắc sâu vào đá những nét ngòng ngoèo như chữ bùa hay hình chữ cổ tự, chỗ sâu chỗ cạn, nét nào cũng rõ ràng tinh xảo, diễn tả sự linh động của sự kỳ diệu tinh vi.
Bước qua một bên, Tiểu-long-Nữ khép một cánh cung thì thấy một cánh cửa đá từ từ mở rộng. Nàng đốt một cây đèn cầy soi đường và nắm tay Dương-Qua dắt vào.
ở đây cũng có một căn phòng nữa bằng phòng bên kia, xây toàn bằng đá, phía trước rộng, phía Tây tròn và phía Đông hình ba góc.
Nhìn kỹ trên nóc đá, Dương-Qua cũng trông thấy những nét chữ và dấu hiệu khắc sâu diễn tả những phù chú và có nơi chạm hình người.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Chốn này thì chép lại tất cả những linh diệu kỳ ảo của vũ thuật của tổ sư phu nhân.
Xưa kia Tổ sư phu nhân chiếm lại tòa Cổ-Mộ của Vương-trùng-Dương không phải vì tài nghệ mà nhờ xảo kế. Thật ra bản lãnh của người so với Vương-trùng-Dương vẫn còn thua sút. Nhưng suốt bao nhiêu năm sống ẩn dật tại đây, người đã khổ tâm nghiên cứu tất cả những tinh diệu đã học phối hợp với võ nghệ của Vương-trùng-Dương rồi sáng chế ra được một pho võ công hết sức tinh vi. Tất cả nhưng thế độc đáo của người đều có ghi khắc vào đây để lưu hậu thế.
Nghe nàng kể, Dương-Qua vừa mừng vừa kỳ lạ, nên khi Tiểu-long-Nữ dứt lời nói đã nói ngay:
- Thưa cô nương, như vậy thật là lạ lùng đáng phục thật. Bọn Khưu-xứ-Cơ, Xích-đại-Thông và bọn bên phái Toàn-Chân dẫu có tài giỏi bất quá cũng như Vương-trùng-Dương là cùng. Pho võ công này tổ sư phu nhân đã dùng cả võ thuật của hai người chế biến thêm ra thì quả đã đều một mức cao diệu hơn rồi. Nếu cô nương luyện xong các ngón này, chắc chắn sẽ thắng được bọn họ dễ dàng như bỡn. Tiểu-long-Nữ nói:
- Đúng đấy, nhưng chỉ tiếc ta không có người phụ giúp. Dương-Qua đáp ngay:
- Tôi xin lãnh phần ấy.
Tiểu-long-Nữ điềm tĩnh nhìn nó rồi bảo:
- Mi không làm được việc ấy đâu.
Dương-Qua cụt hứng và bẽn lẽn đỏ mặt làm thinh nhìn nơi khác. Tiểu-long-Nữ giải thích thêm:
- Môn võ thuật nầy Tổ sư phu nhân đặt tên là "Ngọc-Nữ Tâm-Kinh". Luyện môn nầy cần phải có hai người để hòa hợp công lực và phù trợ lẫn nhau mới có kết quả. Xưa kia Tổ sư phu nhân đã có dạy cho ta với một người nữa gần đến mức thành công.
Dương-Qua bỗng nghĩ được một cách để chữa thẹn và để tâng bốc Tiểu-long-Nữ:
- Tôi là học trò của cô, chắc có thể luyện với cô được chứ? Tiểu-long-Nữ trầm ngâm một chập đoạn đáp nho nhỏ:
- Cũng được, để ta thử xem đã. Bây giờ mi cần luyện cho biết tất cả các môn võ công của môn phái cho thành thuộc để gây của một nền tảng căn bản vững chắc, sau đó mới học đến các ngón võ Toàn- Chân phái. Khi ta nhận thấy có đủ điều kiện sẽ cho luyện "Ngọc-nữ Tâm-kinh".
Từ đó trở đi, ngày ngày Tiểu-long-Nữ truyền thụ cho Dương-Qua tất cả các môn quyền thuật, chưởng thuật, cách sử dụng đủ loại binh khí, ám khí của Cổ Mộ đài.
Một năm trôi qua, nàng tận tình dạy bảo từ lý thuyết đến thực hành. Thời gian tuy ngắn, nhưng nhờ đêm đêm Dương-Qua luyện nội công trên giường hàn thạch, mức tiến bộ nhanh chóng lạ thường, hơn nữa vốn nhờ bản chất thông minh lanh lợi, nghe ít hiểu nhiều, nên bản lãnh cũng có thể ngang với người thường khổ luyện năm bảy năm.
Võ nghệ của phái Cổ-Mộ đài đã bốn đời truyền thụ, từ người sáng lập cho đến các đệ tử nối tiếp đều là đàn bà, cho nên bản chất nặng về phụ nữ, mềm yếu linh động, ẻo lả, tuy đẹp mắt nhưng thiếu tính chất sâu sắc, cường dũng. Dương-Qua bình sinh phù táo, khinh động nên rất hợp với môn pháp này. Thời gian qua, Tiểu-long-Nữ ngày càng lớn thêm, càng đẹp, mỹ miều. Nhan sắc nàng càng lộng lẫy, duyên dáng, từ thân mình tuyệt mỹ do công phu khổ luyện, đến nước da trắng mịn như tuyết khuôn
mặt sáng rỡ, đôi mắt đen láy, đẹp vô ngần.
Năm ấy, Dương-Qua cũng được 16 tuổi, nó đã thành một thiếu niên đẹp trai, thân hình cân đối, bề cao đã bằng sư phụ rồi? Tuy nhiên Tiểu-long-Nữ xem nó như con nít, nên không e ngại gì về vấn đề nam nữ gần nhau.
Hai thầy trò chung sống với nhau, ngày càng thắm thiết. Tiểu-long-Nữ thương mến tánh ngoan ngoãn, khéo léo và siêng năng của Dương-Qua. Đối với sư phụ, Dương-Qua luôn luôn tỏ lòng kính mến, trọng vọng không bao giờ làm trái ý thầy.
Dương-Qua còn khéo léo tìm hiểu tánh ý của thầy để chiều chuộng. Gặp việc gì Tiểu-long-Nữ không bằng lòng thì dù có muốn hết sức nó cũng không dám nói ra lời, lắm khi còn tìm lời biện bác bào chữa bênh vực quan niệm của nàng nữa.
Vốn có bản chất lãnh đạm từ ngày tấm bé, Tiểu-long-Nữ lúc nào cũng có vẻ lạnh lùng, ít khi để ý hay bàn cãi nhiều. Mỗi khi nghe Dương-Qua bàn luận nàng thường làm thinh. Đã từng quen với tánh ý ấy rồi, nên Dương-Qua không còn nhận thấy nữa, vì vậy nên trong sự giao thiệp hàng ngày không hề có sự bất mãn hay phiền lòng.
Một ngày kia Tiểu-long-Nữ bảo Dương-Qua:
- Đến nay mi đã học hết môn võ của phái Cổ Mộ đài, mai đây ta sẽ luyện cho mi các môn võ của phái Toàn-Chân.
Qua nhiều ngày sau, Tiểu-long-Nữ cứ dựa theo các dấu hiệu chỉ dẫn trên phiến đá để giảng dạy cho Dương-Qua. Nhưng phù chú văn tự, hình vẽ kỳ lạ đều do Vương-trùng-Dương dùng mũi kiếm khắc sâu vào đá trên xà nhà.
Lâm triều Anh và Vương-trùng-Dương vốn là hai bạn chí thân đã từng am thạo vũ thuật bản lãnh của nhau.
Võ thuật của Vương-trùng-Dương đã cao siêu rồi. Lâm-triều-Anh còn dùng nó để biến chế thêm nữa, cao siêu hơn, và thích hợp với bản chất của phụ nữ hơn. Triều-Anh tự luyện thật tinh thục, truyền lại cho A-Hoàn. A-Hoàn truyền lại cho Tiểu-long-Nữ và ngày nay Tiểu-long-Nữ truyền đến Dương- Qua.
Trong mấy ngày đầu, Dương-Qua tập thấy tiến bộ lạ thường, bởi vì nó có căn bản sẵn, khi nghe nói đã lãnh hội được ngay. Nhưng từ mười ngày sau nó không thấy tiến nữa mà càng tập càng lùi là khác. Càng luyện nó càng cảm thấy toàn thân rung động, tay chân hình như bị giảm bớt năng lực. Sự thay đổi kỳ lạ đột ngột này làm cho Tiểu-long-Nữ hết sức ngạc nhiên. Nàng suy nghĩ, cố tìm ra nguyên nhân vì sao có hiện tượng này.
Dương-Qua thì buồn vô cùng nhưng không dám hé môi.
Sau một thời gian suy nghiệm, Tiểu-long-Nữ đã tìm ra nguyên nhân của sự trở ngại này nên nàng bảo Dương-Qua:
- Thôi đừng buồn phiền làm gì nữa. Ta đã hiểu nguyên nhân này rồi. Bây giờ ta cứ đi tìm cho được một tên đạo sĩ bên phái Toàn-Chân rồi buộc hắn phải truyền dạy cho mi những khẩu quyết nhập môn của phái này, như thế là vừa xong chứ có khó gì đâu. Thôi chúng ta đi ngay bây giờ thì vừa.
Lời nói của Tiểu-long-Nữ làm cho Dương-Qua bỗng sực nhớ lại những khẩu quyết do Triệu-chí- Kính đã buộc nó học thuộc lòng:
"Phải sử dụng cân lực dần dần", ở đoạn giữa lại có nói:
"Sức mạnh không phải do đâu đưa đến mà chỉ do tứ nội tại con người phát sanh ra.
"Vận dụng tâm lực mà để tâm rung động, thì chẳng khác nào thu vào tay này mà dùng tay khác vứt đi, lực lượng tự nhiên xuất mà không biết nữa. Như nước triều chảy, như sấm rung động, là những điểm thuyết yếu. Như đi thuyền trên sóng, phải chầm chậm vậy.
Thêm đoạn sau có nói:
"Phép luyện căn cứ ở quẻ Dịch. Dịch là biến động, thay đổi mãi mãi. Thay đổi có thể dùng sang lực bên trong phù trợ bên ngoài cho nên gân có thể cứng rắn như sắt vậy".
Tiểu-long-Nữ nghiêng tai chú ý nghe đọc, suy nghĩ một chập và nói:
- Thôi được rồi! Trước kia tiên sư có dạy ta tập luyện được nửa chừng rồi bỏ dở, nguyên nhân cũng vì thiếu căn bản nhập môn. Khi học đến đoạn giữa của môn phái Toàn-Chân bỗng dừng lại không tiến được nữa. Rất tiếc lúc đó phu nhân đã qua đời nhưng không thể hỏi han tập thêm tới nơi tới chốn. Phàm không học được từ đầu khẩu quyết chân truyền của một môn phái không làm sao đoạt được đến mức thành công mỹ mãn. Tiên sư vốn giàu lòng tự ái, người nhất định bác bỏ ý kiến của ta muốn yêu cầu cho qua bên Trùng-Dương cung học các khẩu quyết nhập môn của phái này. Ngày nay mi học cũng khá nhiều nhưng vẫn chưa đầy đủ để luyện tập.
Dương-Qua cố nhớ lại hết tất cả khẩu quyết do Triệu-chí-Kính đã truyền dạy và đọc cho nàng nghe thêm. Những khẩu quyết này nó học như vẹt chứ chưa bao giờ được thực hành luyện tập.
Nhưng đối với Tiểu-long-Nữ nhờ có bản lãnh, nên sau một hồi suy nghĩ nàng đã quán thông được ý lý, phối hợp đối chiếu với lý thuyết đã được Tần-nam-Cầm đã dạy, tức cũng là pháp huyền môn mà Mã-Ngọc đã chân truyền cho người khác.
Nghiên cứu hai sự hiểu biết này trong vòng mấy tháng, Tiểu-long-Nữ và Dương-Qua đã thấu triệt được tất cả những gì do Vương-trùng-Dương đã ghi khắc trên nền đá kia.
Một ngày kia, sau khi hai người đang tập luyện kiếm thuật trong căn nhà đá, Tiểu-long-Nữ bỗng dừng kiếm, buồn rầu nói với Dương-Qua:
- Mấy lúc này ta mắc phải một khuyết điểm lớn là tự phụ, xem thường võ thuật của phái Toàn-Chân. Ngày nay phái này đã nổi danh đệ nhất thiên hạ, lại một chân truyền chính cống, đáng kể là đệ nhất võ lâm. Thật ra bấy giờ ta mới nhận thấy võ thuật Toàn-Chân thật kỳ ảo, biến hóa vô cùng, càng luyện càng thấy tinh vi huyền diệu.
Mặc dầu ta đã tìm hiểu được các căn bệnh kỳ yếu, nhưng về mặt tập luyện thực hành làm sao cho tay chân theo kịp sự hiểu biết của óc não, hễ tâm động thì tay cứng, sức lực tự nhiên phát ra, chẳng biết còn phải bao nhiêu năm tháng nữa mới thành công được.
Vốn còn non như con nghé đâu biết sợ oai cọp, Dương-Qua đáp:
- Thưa cô nương, võ thuật Toàn-Chân tuy cao siêu, nhưng Tổ sư phu nhân đã nghiên cứu kỹ, biến chế hết những cái tinh túy, tìm cách khắc chế nó rồi, ta chỉ theo đó mà luyện tập cũng như bước theo một kẻ dẫn đường, chắc chắn một thời gian ngắn cũng đoạn kết quả mong muốn. Như thế dù võ thuật Toàn-Chân có cao cũng không vượt nổi võ thuật của Tổ sư ta.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Kể từ ngày mai ta cần luyện lại "Ngọc-nữ Tâm-knh" đi thôi.
Ngày hôm sau, hai người đưa nhau đến gian phòng đá thứ hai, theo các dấu hiệu phù chú ghi khắc sẵn để tự luyện.
Môn pháp này có phần dễ dàng hơn pháp môn Toàn-Chân phái nhiều. Sở dĩ trước kia Lâm-triều-Anh sáng chế môn nầy để khắc phục võ thuật Toàn-Chân của Vương-trùng-Dương, căn cứ vào pháp môn của mình, biến đổi thêm phần tinh diệu nữa, cho nên cả hai có căn bản hiểu rõ võ thuật của đôi bên rồi, nên học rất dễ.
Sau một thời gian học hết các khẩu quyết, thực hành xong "Ngọc-nữ Tâm-kinh" pháp môn đến mức có thể sử dụng phát huy ngoại công được rồi, hai người cùng nhau đấu dượt. Có khi Dương-Qua dùng kiếm pháp Toàn-Chân đấu với Tiểu-long-Nữ sử dụng Ngọc-nữ kiếm pháp. Cũng có khi Tiểu- long-Nữ dùng kiếm pháp Toàn-Chân khắc chế Ngọc-nữ kiếm pháp do Dương-Qua sử dụng. Nhưng bất cứ trong trường hợp nào Ngọc-nữ kiếm pháp vẫn thấy trội hơn và có thể khắc phục rất hiệu quả từng thế một của võ thuật Toàn-Chân phái, mặc dầu được người sử dụng linh hoạt tài tình đến đâu cũng vậy. Ngoại công tập xong, tiếp đến luyện nội công. Môn nội công của Toàn-Chân cũng đã huyền diệu không lường. Muốn sáng chế ra một môn khác biệt nữa đâu phải chuyện dễ. Tuy nhiên với một ý chí mạnh mẽ muốn tiến bộ vượt bực hơn người, Lâm-triều-Anh đã vận dụng tất cả học lực, kinh nghiệm sẵn có, đồng thời sử dụng lối luyện công trên giường hàn thạch, nên đã khai ra một môn mới riêng biệt. Phép luyện công trên giường hàn thạch của bà tuy rất khó nhọc đòi hỏi cả một sự quyết tâm, chịu đựng kiên trì, nhưng lúc đã có theo học được thì mức tiến bộ thực phi thường. Khổ luyện trong một thời gian, nhưng kết quả vượt hẳn bên Toàn-Chân phái.
Sau khi nhìn một đoạn chữ khắc trên nóc nhà, Tiểu-long-Nữ bỗng thở dài rồi lặng thinh chỉ lắc đầu không nói gì nữa. Liên tiếp mấy ngày sau nàng cũng chỉ giữ một thái độ yên lặng và sau cùng vẫn lắc đầu rồi thở dài mấy cái.
Dương-Qua e ngại hỏi:
- Thưa cô nương, đoạn này khó tập lắm sao?
Tiểu-long-Nữ nhìn Dương-Qua một chập rồi điềm nhiên nói:
- Trước kia nghe sư phụ dạy ta phép "Ngọc-nữ Tâm-kinh" này phải có hai người cùng luyện tập một lúc. Ta những tưởng có thể cùng tập với mi nhưng đến nay mới biết không thể được.
Dương-Qua hết sức kinh ngạc vội hỏi:
- Tại sao vậy hở cô nương?
Tiểu-long-Nữ ngập ngừng một chập rồi nói:
- Nếu mi là gái thì mới được.
Dương-Qua ngẩn ngơ một chập rồi hỏi liến thoắng:
- Sao lại có việc phân biệt nam và nữ như thế? Hễ có đủ sức lực và có ý chí thì trai hay gái cũng có thể tập luyện được chứ.
Tiểu-long-Nữ lắc đầu không đáp, một chập sau mới nói:
- Không thể khác giống được. Mi cứ nhìn trên những nóc nhà thì tức khắc hiểu.
Dương-Qua nhìn theo tay nàng chỉ, thấy trên mặt đá có những hình người khắc bằng mũi kiếm, cả thảy chừng mười người, mỗi người một kiểu, toàn là đàn bà lõa thể không mặc y phục. Bấy giờ Dương-Qua mới hiểu:
- Thưa cô trong lúc luyện nội công "Ngọc nữ Tâm kinh" không thể mặc y phục phải không? Tiểu-long-Nữ đáp đúng như thế và lời ghi chú cũng có dạy rõ như sau:
Khi luyện nội công sức nóng trong người bốc ra cần phải để cho nó tản thoát hết đi. Vì vậy lúc tập phải tìm nơi khoáng đãng, không có người và không mặc quần áo. Nếu không, nhiệt khí uất tích sẽ nhiễm vào trong, nếu ít thì lâm trọng bệnh, nếu nhiều thì có thể chết".
Dương-Qua thản nhiên nói:
- Như thế thì ta không mặc quần áo tập luyện chứ sao. Tiểu-long-Nữ mắc cỡ đỏ mặt, nói:
- Khi tập luyện phải truyền khí lực cho nhau, ta với mi nam nữ cách biệt, nếu không mặc quần áo ở trước mặt nhau thì còn ra thể thống gì nữa.
Phàm trai mười sáu gái mười ba là đến tuổi dậy thì, cần phải giữ gìn khi tiếp xúc giao thiệp. Dương- Qua đã mười sáu tuổi rồi nhưng bản chất hồn nhiên, nó chưa hề biết gì về tình ái và chưa để ý đến vấn đề nam nữ. Thấy sư phụ nó đẹp đẽ tuyệt vời nó càng thấy vui mừng thích thú. Nó cũng nhận nếu nữ sư phụ và nó cùng lõa thể trong lúc tập luyện thì có sự bất tiện, nhưng vì lẽ cũng không hề để ý và chưa biết giải thích ra sao.
Về phần Tiểu-long-Nữ tuy đã hai mươi hai tuổi đầu nhưng từ bé đến giờ sống trong Cổ Mộ đài, cuộc đời riêng biệt không hề tiếp xúc với người ngoài nên đối với Dương-Qua càng ngây ngô hơn nữa.
Ngoài ra vì cần phải tu tâm khổ luyện nên vấn đề tình dục và nam nữ càng không hề có một ý thức gì. Hai thầy trò tuy là nam nữ thanh niên chung sống với nhau tại chốn hoang vu vắng vẻ, sớm hôm
gặp gỡ nhưng rất tự nhiên và lúc nào cũng đối xử với nhau không hề có ý thức gì vượt ngoài vòng lễ nghi. Hôm nay khi đề cập tới việc lõa thân để tập luyện nội công, họ cảm thấy có điều gì chướng và khó chịu. Nhưng chỉ có thể thôi chớ không hề có ý nghĩ gì khác.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Ta cần phải đào luyện môn nội công tinh thục hơn nữa. Nếu luyện thành thục cũng đủ sức đánh bại những tay cự phách nhất của phái Toàn-Chân. Vì vậy tưởng không cần luyện môn nội công này nữa. Biết sư phụ không muốn tiếp tục luyện "Ngọc-nữ Tâm-kinh" nữa, nên Dương-Qua cũng thuận theo không hề đòi hỏi.
Một ngày kia sau khi tập luyện xong, Dương-Qua xuất Mộ săn bắn ít thú rừng về làm lương thực. Vừa bắn được một con nai rồi nó bỗng gặp một con thỏ lông đỏ, đầu đen, rất tinh khôn và nhảy mau lẹ. Lúc bấy giờ thuật khinh thân đã tiến một bực nhưng vẫn chưa lanh bằng thỏ. Nhưng vì tuổi trẻ nhiền anh hùng tính, Dương-Qua tự nhiên nảy ý nghĩ muốn đuổi bắt thỏ cho kỳ được, không dùng đến ám khí để sát hại. Nghĩ xong, nó vận dụng khinh thân đuổi thỏ chạy khắp rừng cố làm cho đuối sức rồi sẽ bắt. Cuộc đuổi bắt tiếp tục thỏ trước người sau, càng lâu càng đi xa. Khi đến gần chóp núi, con thỏ chạy ngoặc vào một cái miếu mọc đầy hoa hồng, rồi biệt tích tìm không ra. Dương-Qua chắc lưỡi thầm tiếc con thỏ đẹp đã uổng công trình quần đuổi nửa ngày ngày để sẩy mất.
Dương-Qua đứng ngẩn ngơ nhớ nhung chú thỏ và đưa mắt nhìn thấy cái miếu bề dài độ mười trượng, mùi hương bay lên ngào ngạt khắp xung quanh hoa hồng mọc bao phủ từng lớp, hết lớp này đến lớp khác, những cánh hoa vừa thơm vừa đẹp, mơn mởn nằm trên thảm lá xanh tươi, chẳng khác nào một nhà kết hoa, càng trông càng tuyệt vời.
Dương-Qua thích quá lại gần quan sát, đưa tay ngắt một mớ hoa hồng, định mang về tặng Tiểu-long- Nữ.
Nhưng khi về khoe với Tiểu-long-Nữ, nàng thản nhiên bảo:
- Ta không ưa hoa, mi giữ lấy mà chơi.
Dương-Qua tiu nghỉu một chập nhưng bỗng sực nhớ một điều, vội nói:
- Tôi không có chủ định hái hoa về cho cô nương, nhưng muốn điềm chỉ cho một chỗ rất thích hợp để luyện nội công Ngọc-nữ Tâm-kinh. Nơi miếu này hoàn toàn hoang vu vắng vẻ, hoa hồng bao phủ tứ bề, ở cách nhau vài thước không trông thấy. Dù phải lõa thể theo điều kiện bắt buộc cũng tiện không ai trông thấy. Khi nàng luyện tập tôi sẽ ở đàng cuối miếu canh phòng cho nàng, cũng như nàng sẽ coi chừng hộ khi tôi luyện tập.
Phàm phép luyện nội công lúc nào cũng phải lặng lòng không gợn một chút lo nghĩ xao xuyến, tâm tư hết sức bình thản để dốc vào sự tập nội tâm, gạt bỏ tất cả những gì thuộc ngoại cảnh, không được để ý đến điều mắt thấy tai nghe.
Khi đang tập luyện, nếu có ai phá rối, hay địch tấn công thì hết sức nguy hiểm, đã làm hỏng mất cả
phép nội công mà còn có thể mất mạng như chơi. Vì vậy lúc tập cần có người canh giữ, đề phòng mọi bất trắc có thể xảy ra.
Xưa kia Hoàng-Dung tập nội công bị tả công khí xâm nhập, Quách-Tỉnh đứng canh phòng, trời đang mưa lớn, mẹ của Dương-Qua là Tần-nam-Cầm, lúc còn là gái tân phải cắm dù che mưa, không dám đưa vào nhà dụt vì tránh giật mình trong lúc tham thiền nhập định dễ gây nguy hại đến mạng sống của nàng.
Lúc tham thiền nhập định luyện công chẳng những phải có bản lĩnh cao mà còn phải có chí cương quyết giữ được tâm thần khỏi rung động và kỵ nhất là những sự náo động bất ngờ có thể xảy đến. Vì vậy nên yếu tố vắng vẻ của nơi luyện tập và cần người canh giữ cần thiết lắm.
Nghe Dương-Qua nói đến miếu nầy, Tiểu-long-Nữ nhận thấy có lẽ được, muốn quan sát lại.
Nàng liền xuất Mộ Đài, phi thân lên ngọn cây cao nhất đưa mắt nhìn vào hướng ấy, trông thấy tòa cổ miếu nằm khuất trong rặng hoa hồng tứ bề vắng lặng, tĩnh mịch, ngoài tiếng suối reo, gió thổi, chim kêu, không thấy một điều gì có thể làm xao động, thật là một nơi hết sức thuận lợi cho công cuộc luyện công.
Nàng nói với Dương-Qua:
- Ta rất đồng ý với mi. Vậy chiều nay, chúng ta cùng tới đó để luyện tập.
Nàng đã học thuộc lòng từ lâu tất cả khẩu quyết "Ngọc-nữ âm-kinh" nay đọc mấy câu cho Dương- Qua nhớ.
Vào khoảng canh hai, hai thầy trò đưa nhau đến miếu ấy tìm chỗ sân bằng phẳng kín đáo nhất để tập. Rừng khuya lặng lẽ, mọi vật lắng trong màn sương, cả tòa miếu chìm trong rặng hoa hồng mùi thơm ngào ngạt. Cả hai người ngồi cách nhau một đoạn, có thể nói chuyện được, nhưng không nhìn thấy nhau, cởi hết y phục để bắt đầu luyện tập.
Dương-Qua cố ý đánh dấu hướng ngồi của sư phụ đề phòng lúc bất trắc có thể vận nội công hỗ trợ lẫn nhau. Họ ngồi cách nhau độ hơn một sải tay.
Kể từ hôm ấy trở đi, cứ đêm đêm họ đưa nhau vào đấy tập luyện, ban ngày về Cổ-Mộ để nghỉ sức dưỡng thân.
Lúc bấy giờ đang giữa mùa hè, khí hậu oi bức, nên tập về đêm mát mẻ dễ chịu hơn.
Thời gian thấm thoát đã hơn hai tháng, Tiểu-long-Nữ đã luyện đến phần thứ bảy của chín đoạn phép Ngọc-nữ tâm-kinh.
Trong quy tài tập luyện số lẻ là "âm tiến", số chẵn là "dương thoái". Khi đó Dương-Qua cũng luyện đến phần thứ sáu.
Tối hôm ấy trời mát trăng song, giữa miếu hồng, hai người đang ngồi luyện tập, nhiệt khí trong người bốc ra ngùn ngụt, hòa lẫn mùi hoa thơm ngào ngạt. Trăng sáng vằng vặt vừa đứng đỉnh đầu, hai người sắp hoàn thành đoạn 6 và đoạn 7 của Ngọc-nữ tâm-kinh, thì bỗng đàng xa có tiếng chân
bước dồn dập khua lá động xào xạt hướng về miếu hồng. Hai người vừa đi vừa nói chuyện lớn tiếng, làm náo động cả cảnh rừng đêm lặng lẽ. Họ vừa nói vừa đi, bước chân càng lúc càng gần.
Khi ấy Dương-Qua sắp hoàn thành đoạn chót của buổi tập, còn Tiểu-long-Nữ mới bước qua giai đoạn vận khí vào, tức là phần quan trọng nhất. Nàng đang tập trung hết tư tưởng vào việc tập luyện nên không nghe biết sự gì bên ngoài nữa.
Khi nghe có tiếng nói, Dương-Qua thất kinh vội vàng xả hết trọc khí ở đan điền thật hết để hoàn tất buổi tập, thì tiếng chân bước càng gần thêm, giọng người nói nghe rõ mồn một.
Dương-Qua lắng nghe đó là Triệu-chí-Kính và Doãn-chí-Bình đang cãi cọ lẫn nhau. Triệu-chí-Kính nói:
- Thôi sư đệ chối cãi làm chi nữa, để ta trình lại Khưu-sư-bá xét định. Doãn-chí-Bình giận dữ đáp:
- Anh cứ buộc tôi làm gì. Tôi thừa hiểu rồi, trong hàng ngũ các đệ tam đại, đệ tứ đại sau này, anh tưởng tôi không thể đoạt được hàng trưởng giáo chăng?
Triệu-chí-Kính cười mãi nói:
- Anh không giữ được quy tài, phạm giới cấm thì làm sao có đủ tư cách để thành người đứng đắn của các đại đệ tử nhóm này được.
- Tôi đã làm gì mà gọi là phạm giới cấm? Triệu-chí-Kính nổi nóng quát lớn:
- Thôi đừng già mồm ngụy biện nữa. Ngươi há biết hết bổn giới trong luật của môn phái rồi sao? Ngươi đã phạm vào luật giới dâm nghe chưa?
Dương-Qua núp trong đám hoa hồng, vội ngẩng đầu lên dòm thấy hai người đang ngồi đối diện nhau. Dưới ánh trăng, sắc mặt của Doãn-chí-Bình tái mét, mắt trợn ngược, môi run run, hình như không kìm chế được nỗi bực tức.
Hắn cố dằn lòng hỏi tiếp:
- Ta phạm giới dâm chỗ nào?
Nói xong, hắn đưa tay nắm chuôi kiếm. Triệu-chí-Kính liếc qua một cái và nói tiếp:
-Từ ngày gặp Tiểu-long-Nữ cô nương bên Hoạt-tử-Nhân Mộ-Đài, thì anh đã xiêu hồn thất phách, không lúc nào là không mơ tưởng đến hình bóng người đẹp. Đứng đâu cũng mơ tưởng được ôm ấp nàng vào lòng, nói với nàng những câu tình tứ nồng nàn. Như thế anh gọi là xứng đáng một kẻ chân tu, làm sao đủ tư cách điều khiển cả một hàng đại đệ tử được?
Đối với kẻ tu hành, hành động ấy không phải phạm giới dâm sao?
Dương-Qua lúc nào cũng tôn sùng sư phụ xem như một đấng thiêng liêng. Khi nghe Triệu-chí-Kính nói những lời ấy thì bực tức vô cùng. Tuy chưa hiểu rõ ý của các danh từ, nhưng suy nghiệm cũng
đoán biết đó là những lời không chính đáng.
Vừa lúc đó nghe Doãn-chí-Bình dằn giọng hỏi lại:
- Thôi đừng ăn nói hồ đồ nữa? Anh có bằng chứng gì để nhận xét và quả quyết được như thế? Triệu-chí-Kính cười nhạt nói:
- Tôi làm sao nhìn thấy lòng anh được. Sở dĩ tôi quả quyết như vậy là gì những bằng cớ. Khi mơ tưởng đến Tiểu-long-Nữ, anh đã viết tên nàng trên giấy, trong lúc ngủ mê anh đã gọi tên nàng. Đây có phải bút tích của anh không?
Nói xong hắn thò tay vào túi rút ra một mảnh giấy đưa trước mặt Doãn-chí-Bình vừa nói tiếp:
- Tôi sẽ trình giấy nầy lên Khưu-sư thúc, người phụ trách dạy dỗ anh và đồng thời cũng trình lên Mã- Ngọc sư bá để hai vị nhận xét việc làm của anh.
Không chị nổi nữa, Doãn-chí-Bình rút kiếm đâm vào người Triệu-chí-Kính. Triệu-chí-Kính nghiêng người tránh khỏi đường kiếm, rồi cười ha hả:
- Anh tưởng anh giết tôi để phi tang, vì tôi không còn sống để phát giác tội lỗi của anh phải không? Đâu có dễ dàng như vậy.
Nói xong hắn bỏ mảnh giấy vào túi, lùi ra sau hai bước tránh luôn hai đường kiếm của Doãn-chí- Bình vừa phóng ra như gió.
Qua đường kiếm thứ tư, Triệu-chí-Kính cũng vung kiếm đấu lại. Dưới ánh trăng sáng như ban ngày, hai làn kiếm loang loáng, nhấp nháy như sao sa. Hai đạo hữu của Toàn-Chân phải kịch chiến cùng nhau trên sân hồng hoa miếu.
Vốn là hai cự phách của phái Toàn-Chân, thuộc hàng đệ tam đại đệ tử, một người đứng đầu nhóm đệ tử của Khưu-xứ-Cơ, một người đứng đầu nhóm đệ tử của Vương-xứ-Nhất, cho nên cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt.
Doãn-chí-Bình nghiến răng, mím môi đưa toàn lực đổ vào làn kiếm, liều chết chiến đấu. Triệu-chí- Kính bất đắc dĩ mới ra tay tự vệ, nhưng thỉnh thoảng thốt ra những lời khiêu khích chọc giận, làm Doãn-chí-Bình mất bình tĩnh, do đó đường kiếm bị giảm bớt phần hiệu lực.
Núp trong bụi hoa hồng, Dương-Qua chú mục theo dõi, hai tay cự phách của phái võ Toàn-Chân quyết đấu, từ bước tiến, thoái, đến các thế né, đỡ, đường kiếm biến hóa phi thường, ảo điệu vô cùng tận. Tuy không được thâm hậu, nhưng nó nhận thấy sự chỉ dạy của Tiểu-long-Nữ rất đúng phép.
Cả hai người quay cuồng xoắn với nhau giữa làn kiếm lấp lánh không ngừng. Doãn-chí-Bình càng tăng gia sức tấn công, còn Triệu-chí-Kính vẫn bình thản né đỡ và một chập sau cười nhạt nói rằng:
- Chúng ta đã hiểu nhau quá nhiều, các thế võ cùng giống nhau, đầu dánh nhau suốt đêm cũng không ích gì đâu. Anh nên bỏ ý định hạ sát tôi thì hơn.
Nói xong hắn cười ha hả. Doãn-chí-Bình càng bực tức gia tăng sức tấn công. Nhưng ngọn nào cũng bị hắn chặn được hoặc tránh né rất dễ dàng.
Hai người càng đấu càng xê dịch đến gần phía Tiểu-long-Nữ. Dương-Qua thất kinh hét lớn:
- Coi chừng! Hai tên đạo sĩ kia, nếu bây đến gần làm kinh động đến cô nương ta, sẽ mất mạng ngay, nghe chưa!
Kim Dung
Thần Điêu Đại Hiệp
Hồi 16
Ngọc-Nữ Tâm-kinh
Nhưng bỗng thình lình Triệu-chí-Kính phản công xông đến đánh luôn ba ngón liên tiếp mạnh như vũ bão, buộc Doãn-chí-Bình phải thối lui trở về võ điện.
Nhờ vậy mà hai người xa dần chỗ ngồi của Tiểu-long-Nữ. Dương-Qua đang mừng rỡ thì kế đó Doãn-chí-Bình thay đổi chiến thuật, chuyển kiếm sang tay trái, vận dụng chưởng lực ra tay phải, tung ra một luồng nhân điện hết sức mãnh liệt.
Triệu-chí-Kính vừa đánh vừa cười:
- Dẫu anh xử dụng ba tay cũng chẳng làm gì tôi được đâu.
Nói xong y cũng vận dụng chưởng lực ra tay trái nghênh chiến tức thì.
Cả hai vừa sử dụng kiếm pháp, vừa sử dụng nhân điện phổ thành nhân điện tấn công dồn dập, miếng đánh, miếng đỡ càng lúc càng thêm gay cấn.
Trong lúc ấy Tiểu-long-Nữ vẫn tập trung tư tưởng vào việc luyện công, chẳng hề để ý hay biết gì về ngoại cảnh.
Dương-Qua thì thấp thỏm theo dõi, lòng hồi hộp sợ hãi khi thấy hai người đến gần sư phụ, và vui mừng khi họ ra xa.
Sau một chập Doãn-chí-Bình quát to lên một tiếng vận dụng đủ mười hai thành công lực, tung ra một ngọn độc hiểm để kìm chế đối phương. Vì sự tấn công đột ngột và dũng mãnh, Triệu-chí-Kính cảm thấy lâm vào thế hạ phong, tay chân luống cuống không phối hợp được chưởng lực, bắt đầu e ngại và cảm thấy đối thủ quyết tâm hạ sát mình, vì lẽ mình hiểu thấu mối tình thầm lặng bất chính của y đối với người đẹp.
Trước kia hai người đã không ưa gì nhau. Nay do việc này đã gây thêm xa cách thù hận đến nỗi nảy sanh ý nghĩ sát hại lẫn nhau không nương tay.
Đấu thêm mấy hiệp nữa, Doãn-chí-Bình mím môi, tay trái phóng thẳng thanh kiếm, tay phải tung ra một chưởng đồng thời đá liên tiếp ba ngọn cước theo "Liên hoàn thế" một ngón tuyệt diệu bí truyền của phái Toàn-Chân vào hạ bộ đối thủ.
Triệu-chí-Kính vung kiếm một vòng che đỡ đồng thời nghiêng mình một bên để tránh chưởng lực và cước ác nghiệt. Nhưng vì ánh kiếm của Doãn-chí-Bình phóng quá mạnh toàn thân tung lên cao gần một trượng. Nếu người khác thì ngọn quyền này phối hợp với chưởng lực của hai tay Doãn-chí-Bình tận lực phóng ra, có thể gãy xương dập ngực ngay. Nhưng Triệu-chí-Kính nhờ khổ công đào luyện, nên mặc dầu bị đánh tung lên bất ngờ vẫn giữ được bình tĩnh và uốn mình nương theo đà bay lên, lộn luôn một vòng, hạ chân xuống đất một cách nhẹ nhàng.
Dương-Qua hồi hộp nhìn theo thấy chỗ hắn rơi đúng là nơi Tiểu-long-Nữ đang luyện công, nếu không trúng ngay đầu nàng thì cũng rơi ngay vào bụi hoa hồng bên cạnh. Lúc bấy giờ Tiểu-long-Nữ đang lõa thể, vì ánh trăng không chiếu vào chỗ ấy, nên người vô ý không nhìn thấy nàng.
Dương-Qua thất kinh vội vàng vận dụng chưởng lực vào hai tay theo thế "Sư-tử hí cầu" đẩy mạnh vào lưng Triệu-chí-Kính. Tiếp đến y phi thân nhảy đến, dùng sức xô người hắn bay bổng về phía trước vài trượng.
Tuy vậy, một nửa thân hình trắng như tuyết của Tiểu-long-Nữ đã hiện ra lồ lộ dưới ánh trăng.
Thân hình Triệu-chí-Kính rơi xuống rất mạnh, làm gẫy mấy nhánh cây răng rắc, khiến Tiểu-long-Nữ giật mình, toàn thân rung động mồ hôi toát như tắm. Tất cả khí lực đang vận dụng nửa chừng bỗng thối lui dồn hết xuống dưới bụng, khiến nàng tức thở chịu không nổi té xỉu ngất đi.
Doãn-chí-Bình vừa thấy Dương-Qua đột nhiên xuất hiện chưa hết ngỡ ngàng, bỗng nhìn rõ ràng thân hình người ngọc mà mình hằng mơ tưởng, lồ lộ dưới trăng trong đám hoa hồng, thật hết sức kinh ngạc, ngỡ là chiêm bao. Hắn chỉ biết trợn mắt, há miệng đứng nhìn, không nói năng gì hết.
Triệu-chí-Kính đã lăn mình một vòng đứng dậy được. Là người có bản lĩnh, sự té ngã như thế đâu có nghĩa lý gì và mặc dầu bị té hắn vẫn giữ đủ sức bình tĩnh nhận định tình hình xung quanh và nhìn thấy rõ ràng Tiểu-long-Nữ.
Hắn reo to lên:
- ồ, bọn này đã rủ nhau lén lút tới nơi này làm điều bất chính đây mà. Dương-Qua nghe nói nộ khí xung thiên trợn mắt quát lớn:
- Hai tên đạo sĩ khốn kiếp này, khôn hồn nên mau mau rút lui khỏi nơi đây, trở về chỗ võ điện của bây.
Vừa thét, y vừa cởi áo đưa cho Tiểu-long-Nữ bảo nàng mặc vào. Nhưng chờ một chập không thấy sư phụ đáp lời hay cử động gì, y chột dạ quay đầu lại nhìn, nhận thấy nàng đã ngất xỉu nằm im trên mặt đất.
Dương-Qua bỗng nhớ đến lời Tiểu-long-Nữ dặn:
"Trong khi luyện nội công phải đề phòng xung quanh, dẫu một bóng thỏ chạy qua cũng có thể gây thành đại họa". Triệu-chí-Kính đã rơi mạnh bên cạnh nàng, thế nào cũng khiến nàng giựt mình và tai hại này quả thật không thể nhỏ.
Vừa nghĩ đến đó, hắn vội vã chạy đến bên Tiểu-long-Nữ, cởi luôn chiếc áo lót của mình quàng cho nàng và đưa tay lên rờ trên trán thấy mồ hôi đầm đìa, lạnh ngắt. Hắn lật đật quơ luôn cái áo đắp kín người nàng, nắm vai nàng lay mạnh và hỏi:
- Cô nương ơi sao thế cô nương?
Tiểu-long-Nữ chỉ ú ớ nho nhỏ không nói nên lời. Dương-Qua nói thêm:
- Bây giờ tôi cần đưa cô nương về tịnh dưỡng cho bình phục rồi trở lại đây đánh chết hai tên đạo sĩ khốn kiếp này mới được.
Tiểu-long-Nữ không trả lời, toàn thân mềm lả trong tay Dương-Qua. Dương-Qua vội ôm sư phụ vào lòng chạy vụt qua trước mặt hai đạo sĩ. Doãn-chí-Bình ngẩn ngơ đứng ngó không thốt nên lời, còn Triệu-chí-Kính cười ha hả nói lớn:
- Này sư đệ, ý trung nhân của sư đệ đã lõa thể ra chốn này cùng chàng thanh niên đẹp trai này, sao sư đệ không giết ngay tình địch có hơn là cố tâm đi giết hại ta.
Doãn-chí-Bình vẫn ngẩn ngơ không nói nên lời. Nhưng Dương-Qua nghe nói tức giận vô cùng, vội đặt Tiểu-long-Nữ dựa vào một gốc cây, lấy quần áo của nàng lót sau lưng cho êm, đưa tay bẻ một cành cây làm khí giới, rồi tung mình nhảy đến trước mặt Triệu-chí-Kính quát lớn:
- Tên đạo sĩ khốn nạn hãy câm mồm đừng nói hồ đồ bậy bạ.
Sau hai năm trời xa cách, Dương-Qua đã lớn nhiều, từ một đứa con nít, ngày nay nó đã trở thành một thanh niên tuấn tú, lúc đầu Triệu-chí-Kính nhìn không ra, nhưng sau khi nghe tiếng nói quen quen, y định thần xem lại, biết là Dương-Qua, học trò cũ của mình lúc trước. Bị xô té nhào lại bị chửi mắng, Triệu-chí-Kính quá tức quát lớn:
- Dương-Qua, mày là đứa súc sinh! Dương-Qua nạt lại:
- Chính mi mới là đồ súc sinh chứ ai. Mi mắng ta bao nhiêu cũng được, sao cả gan dám nói xấu cô nương ta?
Triệu-chí-Kính cười gằn nói:
- Ta nghe truyền rằng phái Cổ Mộ đài chỉ kết nạp đồ đệ phụ nữ, đâu ngờ ngày nay lại xảy ra sự tình tệ như thế này. Một nàng mệnh danh là Ngọc-tuyết Bàng-thanh, trưởng môn phái lại đi phá lệ, kết nạp và truyền nghề cho một thanh niên tuấn tú, rồi những đêm trăng tỏ lại đưa nhau vào chốn thâm u vắng vẻ, chiếu đất màn trời, để làm điều tồi bại, thật đáng kính thầy. Các ngươi tưởng đấu nhẹm được mãi sao?
Dương-Qua nghe nói đang suy nghĩ định đối đáp, vì thật ra hắn chưa hiểu hết ý nghĩa lời nói của Triệu-chí-Kính. Khi ấy Tiểu-long-Nữ vừa chợt tỉnh nghe câu nói ấy tức giận tràn hông. Khí uất cuồn cuộn dâng lên nàng cố tâm đè nén xuống, giằn co một chập, không thể nào chịu đựng nổi nữa, vì đã
bị nội thương nặng, không còn đủ hơi sức kìm hãm, nàng chỉ thốt lên được một câu:
- Mi ăn nói quá hồ đồ, chúng ta đâu có...
Rồi máu tươi hộc ra cuồn cuộn, nàng tắt lời không nói được nữa.
Doãn-chí-Bình thất sắc chẳng biết nói gì, bước dần đến và hỏi Dương-Qua.
- Vậy ngươi đến chốn nầy làm gì?
Đã có định kiến sẵn là Doãn-chí-Bình muốn đến gần để ám hại sư phụ, nên Dương-Qua không thèm trả lời, vung tay đánh ra một quyền ngay mặt Doãn-chí-Bình thật mạnh. Doãn-chí-Bình khom người tránh được và đáp ngay bằng một đường móc trái bằng tay phải. Dương-Qua đã học thuộc lại các thế võ của phái Toàn-Chân, thêm am thạo hết những phương pháp để khắc chế cho nên tránh đỡ quá dễ dàng. Vì vậy hắn vung hai tay lanh như chày máy, vừa đỡ vừa thoi liền mấy thế, tấn công tới tấp, khiến Doãn-chí-Bình phải né tránh và thối lui xa dần chỗ Tiểu-long-Nữ.
Kể về mức luyện tập và võ thuật thì Dương-Qua còn kém thua Doãn-chí-Bình. Nhưng nhờ các môn khắc chế do Lâm triều Anh đã tìm trước để đối phó với các môn võ Toàn-Chân phái, cho nên việc chống đỡ dễ dàng, và ngoài ra, Dương-Qua cũng nhờ đó, có đủ sức để ứng phó với bất cứ một đệ tử nào của bên Trùng-Dương cung.
Vốn trước kia Lâm triều Anh nghiên cứu, sáng chế ra những thế võ này, bà chỉ âm thầm truyền lại cho đệ tử, luôn mấy đời các đệ tử cũng chỉ luyện tập, trau dồi thêm chứ chưa hề ra thi thố hay tranh đấu cùng ai, cho nên tác dụng chưa rõ ra sao, và cũng chưa kẻ nào biết tới.
Ngày nay bất ngờ Dương-Qua đem ra áp dụng, khắc chế được tất cả các thế tấn công của Doãn-chí- Bình một cách rất lợi hại. Tuy chưa đến nỗi ngã gục hay thua chạy dài, nhưng Doãn-chí-Bình rất kinh ngạc thấy tài nghệ của Dương-Qua hết sức tính điệu và dần dần y lâm vào thế hạ phong, phải đi thụt lui đến cạnh chỗ Triệu-chí-Kính đang đứng.
Dương-Qua để ý đứng thở một chập, day qua Tiểu-long-Nữ nói:
- Thưa cô nương an tâm, cô nương cho phép tôi mang cô nương về lo chạy chữa xong sẽ trở lại đánh bọn này một trận để trả thù cho cô nương.
Nàng cố gắng nói qua hơi thở:
- Không, không cần, mi cứ đánh chúng nó một trận ngay bây giờ. Ta không chịu nổi để chúng nó... hỗn láo... nói xấu như thế được.
Dương-Qua đáp:
- Xin tuân lệnh cô nương.
Nói rồi, hắn đưa tay bẻ một cành cây gần đó rồi phóng thẳng một đường vào ngay ngực Triệu-chí- Kính. Triệu-chí-Kính vung kiếm ra gạt mạnh. Lưỡi kiếm chẻ trúng đầu nhánh cây làm tróc mấy miếng dăm văng mạnh vào bàn tay hắn, làm toạc hai ba đường rườm máu, khiến hẳn phải thối lui ôm tay xuýt xoa một chập.
Tức thời Dương-Qua vận dụng chưởng lực vào bàn tay, đánh mạnh vào phía má bên trái của Triệu- chí-Kính.
Nhờ sự luyện tập bền chí trên giường hàn thạch, mức nội công của Dương-Qua đã hết sức thâm hậu, nên chưởng lực tung ra quá mạnh, kìm chế đối phương không nhúc nhích nổi. Biết không thể nào tránh kịp, Triệu-chí-Kính đành nghiến răng, vận sức vào đầu chịu trận. Nếu cần phải đối phó với chưởng lực này, Triệu-chí-Kính không đủ gân sức để giữ lấy thanh trường kiếm nữa.
Nhờ già công tập luyện có đủ nghị lực để nhận định tình hình, nên Triệu-chí-Kính đành vứt bỏ thanh kiếm, cúi đầu xuống sát đất để tránh lằn chưởng của Dương-Qua, một tay đưa ra để dò xét chiều hướng của chưởng lực đối phương, rồi lăn vòng qua một cái lẹ như chớp chụp lại thanh kiếm và tung mình đứng dậy chuẩn bị tấn công lại.
Trong khi nghiên cứu võ học của phái Toàn-Chân, Lâm-triều-Anh đã gia tâm phân tách từng thế võ, tiên đoán được mọi sự biến chuyển để định cách ứng phó, chế phục hết sức xảo điệu, cho nên bất kỳ thế võ nào của Toàn-Chân phải có cao siêu đến đâu cũng có sẵn một thế khác để đối phó.
Triệu-chí-Kính đâu có ngờ như vậy, cho nên trong bụng đinh ninh rằng thế độc đáo vừa rồi có thể chuyển bại thành thắng như chơi. Nhưng Dương-Qua đã nắm lòng từng thế đi nước bước của đối phương rồi, nên chỉ nhìn qua mỗi một động tác nhỏ đã đoán trước được thế võ đó và tấn công được ngay.
Sau khi dò biết chiều hướng xuất phát chưởng lực của Dương-Qua, Triệu-chí-Kính đột nhiên nắm lấy tay đối phương rút mạnh để chận đứng luồng nhân diệt xuất phát.
Nhưng Dương-Qua đã tiên đoán được, xông đến lẹ như chớp tay trái chặn lấy tay cầm kiếm của Triệu-chí-Kính, hắn hoảng sợ vội rút tay về, nhưng đã muộn. Dương-Qua đoạt lấy thanh kiếm, dí vào ngực và hét lớn:
- Mi đã tận số rồi!
Triệu-chí-Kính hoảng hốt nhảy lùi lại một bước, nhưng Dương-Qua đã lẹ làng tung chân trái đá quẹt ngang một ngọn. Bị ngọn cước ấy, Triệu-chí-Kính mất đà bật ngửa trên cỏ. Dương-Qua vung kiếm chỉ thẳng vào bụng hắn muốn đâm sâu một nhát cho rồi đời bỗng nhiên có một luồng gió mát thổi lộng tới, đồng thời có tiếng thét lớn:
- Mi cả gan hạ sát sư phụ à?
Dương-Qua vội thu kiếm, hoành thân chém một vòng ra phía sau, vừa kịp chận đứng ngọn kiếm giải vây của Doãn-chí-Bình. Trong bụng Dương-Qua thầm khen phục Doãn-chí-Bình đã tiếp cứu kịp thời.
Nhưng khi hai luồng kiếm vừa chạm nhau, Dương-Qua cảm thấy hổ khẩu tê rần như chạm phải một luồng nhân điện và toàn thân cũng bị rung động, không thể điều khiển cánh tay theo ý muốn nữa, vội vàng định thần vận nội công lấy lại thế quân bình. Tuy nhiên nội công của Doãn-chí-Bình có phần
thâm hậu hơn một bực, cho nên sau mấy đường kiếm, Dương-Qua có vẻ lúng túng lối đánh rời rạc dần.
Doãn-chí-Bình càng phấn khởi tấn công tới tấp để hạ sát ngay đối thủ. Chẳng ngờ đấy chỉ là đụng ý nghi binh của Dương-Qua để gây tinh thần tự kiêu tự đại của Doãn-chí-Bình.
Sau vài hiệp thình lình Dương-Qua vứt kiếm, tung cả song chưởng đập mạnh vào ngực rồi lẹ như chớp chụp lại thanh kiếm, phổ hết điện lực vào tấn công luôn. Bất ngờ bị tấn công cả hai thế Doãn- chí-Bình thất kinh, mồ hôi xuất đầm mình, vội vàng tập trung hết công lực để đối phó với thế võ cực kỳ hiểm hóc này. Nhưng vì hai luồng chưởng lực quá mạnh, Doãn-chí-Bình phải lật đật buông kiếm chốp hai chưởng trước mặt để đón đỡ chưởng lực đối phương.
Nhưng khi vừa chạm vào tay Dương-Qua, y cảm thấy một luồng điện nóng rần rật chuyển vào thân hình, khiến cánh tay tê tái và toàn thân rung động. Cũng may là sức đào luyện của Dương-Qua chưa đến mức thâm hậu, khiến y cũng phải bại người ngã quay ra liền lúc đó. Doãn-chí-Bình run lẩy bẩy và cảm thấy hình như có một mũi dùi xuyên vào ngực, chạy khắp nội tạng đau nhức chịu không nổi, muốn tắt thở, y vội vàng rút tay lại ấp lên ngực, hít mạnh vào một hơi vận dụng nội lực để chống lại cơn đau nhức.
Dương-Qua đưa tay chụp lấy luôn thanh kiếm của Doãn-chí-Bình rồi hai tay múa tít lên xông vào tấn công cả hai người. Hai đại đệ tử của phái Toàn-Chân bị một thiếu niên bất ngờ xung xích mãnh liệt không kịp xoay trở, tay chân cuống cuồng suýt nữa bỏ mạng. Mỉa mai hơn nữa thiếu niên nầy trước kia đây một thời gian ngắn, là đệ tử của họ! Cả hai mệt thở hổn hển, tay run, mồ hôi nhễ nhại, cử động hết muốn nổi. Bấy giờ mỗi người đều cuống cuồng không còn dám tự phụ khinh thường như lúc đầu nữa.
Hai người cùng hiệp sức bồi dưỡng cho nhau, phối hợp quyền lực thủ thế, không dám nghĩ đến tấn công nữa.
Dương-Qua tuy có binh khí trong tay, đang thẳng thế, nhưng hai người biết chéo phối hợp lối liên hoàn để ứng phó, nên hắn cũng chưa dễ gì hạ sát được.
Kiếm pháp của Cổ-Mộ đài tuy khắc chế được kiếm pháp của Toàn-Chân phái, nhưng nhờ hai người có công phu võ thuật già dặn, tập luyện nhiều năm hơn, sự phối hợp giao đấu được chặt chẽ cho nên tuy Dương-Qua thắng thế mà vẫn không thể nào hạ thủ được.
Nhờ sức nội công thâm hậu, Triệu-chí-Kính vươn lên dần dần chống cự hữu hiệu những đường kiếm của Dương-Qua. Riêng Doãn-Chí-Bình sau một hồi định tâm giữ được bình tĩnh chỉ chú ý đối phó. Hai cao thủ đem hết tài nghệ được bí truyền để đánh một thiếu niên miệng còn hơi sữa, dầu may ra thắng được cũng chẳng được có giá trị gì, huống chi hiện tại phần thua đã nghiêng về mình quá rõ rệt. Phần nữa, Doãn-chí-Bình luôn luôn lo âu băn khoăn chẳng rõ Tiểu-long-Nữ ra sao nên gọi lớn:
- Bớ Dương-Qua, sao ngươi không lo săn sóc đến sức khỏe của cô nương lại cứ cố tình tranh đấu mãi
với chúng ta hay sao?
Dương-Qua vẫn không ngừng tấn công và đáp lớn:
- Ta đã nhận lệnh cô nương phải hạ sát hết hai đứa bay, rồi sẽ hay. Doãn-chí-Bình cười lớn:
- Mi tưởng dễ hạ thủ anh em ta đấy à! Mi lầm rồi. Thôi hãy thu xếp đưa cô nương về mà điều trị cho mạnh đã. Mi nên thưa với cô nương nên bỏ qua đi cho, vì bất ngờ để xảy ra câu chuyện hôm nay, ta hết sức ân hận và cũng không ngờ đến. Nếu cô nương cố chấp ta nguyện xin lấy sanh mạng mà tạ lỗi cùng nàng. Miễn cô nương, ban cho một lời nói, nếu cần, ta có thể tự vẫn không chút ngần ngại để nàng được vui lòng.
Mi không tin lòng ta ư. Đây nầy, một việc làm đầu tiên của ta sẽ giúp cho mi và nhất là cô nương hiểu rõ.
Nói xong, Doãn-chí-Bình tập trung ý chí, mắt sáng ngời, hai tay chắp lại, vận dụng nhân điện, như chớp xông vào cướp thanh kiếm rồi múa lên một vòng chặt đứt một lòng ngón tay trỏ và ngón tay vô danh của mình rơi xuống đất.
Hành động ấy diễn ra quá đột ngột ngoài sự dự đoán và óc tưởng tượng của Dương-Qua. Nó bàng hoàng suy nghĩ và nhận thấy những lời nói trước kia của Doãn-chí-Bình quá thành thật không có một ẩn ý gì khác.
Nhưng nó nghĩ thêm:
- Ta chưa đủ sức hạ thủ một lần cả hai đứa thì ngay bây giờ cứ tập trung mũi dùi vào tên đạo sĩ đáng ghét kia trước đã. Còn đầu óc của Doãn-chí-Bình có thật tình hay không, rồi hạ hồi phân giải.
Bỗng Doãn-chí-Bình nói tiếp với một giọng ân cần chí thiết:
- Ngay cả mạng sống của ta, nếu cô nương thấy cần, chỉ ban một lời, ta cũng không hề luyến tiếc. Dương-Qua đáp lại nho nhỏ:
- Ta hiểu, thôi rồi hãy hay!
Nói xong, hắn múa tít thanh kiếm tiến về phía Triệu-chí-Kính.
Thình lình bị tấn công mãnh liệt, Triệu-chí-Kính đang ở tư thế phù trợ chiến đấu qua thế phải chịu đựng một mình tất cả sự tấn công của đối thủ, nên bất thần không phản ứng kịp. Hắn giật mình thì vừa lúc ấy mũi kiếm đã đâm thẳng vào bụng dưới. Thật không hổ thẹn đại đệ tử một danh môn chánh phái đã trên hai mươi năm khổ luyện. Khi mũi kiếm Dương-Qua chọc qua lằn áo rạch một đường dài, tự nhiên Triệu-chí-Kính nhanh như điẹn chớp, thóp bụng, cong mình lại như con tôm, bước lùi ra sau một tí, tung một ngọn cước đá mạnh vào cổ tay của Dương-Qua làm văng thanh kiếm lên cao như sao xẹt, chuyển bại thành thắng.
Bị rơi kiếm bất ngờ, Dương-Qua chuyển lực xòe bàn tay chặt mạnh vào đầu gối của địch, trúng nhằm huyệt đạo, Triệu-chí-Kính cảm thấy tê rần cả người, đầu gối run lẩy bẩy, rồi không gượng nổi
té nhào xuống cỏ không cử động.
Dương-Qua nhặt thanh kiếm dí vào cổ Triệu-chí-Kính hét lớn:
- Trước kia ngươi xưng sư phụ ta để dày vò đầy đọa ta. Ngày nay ngươi không phải sư phụ ta nữa. Ta sẽ cho lưỡi kiếm này xuyên qua cổ để kết liễu đời người cho rồi.
Nói rồi Dương-Qua ấn mạnh một tý, làn thép cửa rách một lớp da cổ, máu đỏ chảy một đường dài.
Triệu-chí-Kính vừa đau đớn, vừa uất ức, nét mặt tái mét lại càng tái thêm. Mặc dầu đã kề bên cái chết, nhưng sự phẫn nộ làm y không biết sợ hãi, trừng mắt nhìn Dương-Qua nói lớn:
- Súc sinh, ngươi cứ giết ta đi! Đồ hèn hạ, đồ phản thầy!
Dương-Qua nổi nóng, mím môi định nhấn mạnh một cái để kết liễu tánh mạng hắn, nhưng Tiểu- long-Nữ đã gọi giật lại:
- Dương-Qua, không nên giết sư phụ. Ngươi buộc hắn thề giữ kín việc nầy thì tha mạng hắn cũng được.
Lời nói của Tiểu-long-Nữ làm Dương-Qua chợt tỉnh nghĩ lại và tuyệt đối tuân theo. Hắn nhìn Triệu- chí-Kính nói:
- Cô nương ta đã dạy, mi nghe chưa. Nếu muốn sống phải thề đi.
Tuy bản chất khẳng khái, tiết tháo, lúc nóng giận càng ươn gàn hơn. Hơn nữa, trước một sự mất còn của sanh mạng mình, Triệu-chí-Kính không biết làm sao hơn, đành nói nhỏ:
- ừ ta thề như vậy đó! Dương-Qua quát lớn:
- Đâu có nói suông như vậy được. Người cần có sự cam kết nghiêm chỉnh để giữ lấy lời thề mới được.
Triệu-chí-Kính ngoan ngoãn long trọng thề:
- Câu chuyện hôm nay đã xảy ra giữa bốn người được chứng kiến, tôi lấy danh dự thề không bao giờ thổ lộ cho người thứ năm nữa, nếu tôi không giữ được lời hứa thề danh dự tiêu tan không xứng đáng người của môn phái, người đời sẽ khinh miệt tôi, trong võ lâm sẽ xem tôi như cỏ rác, sau này sẽ chết đường chết chợ, chết một cách khổ sở không toàn thây.
Dương-Qua và Tiểu-long-Nữ vốn người chất phác, nghe hắn thề độc như vậy là tin ngay. Dương- Qua thu kiếm, quay qua phía Tiểu-long-Nữ chăm sóc cho sư phụ. Đối với Doãn-chí-Bình thì những lời thề ấy có nhiều ẩn ý khác, huống chi bản chất của Triệu-chí-Kính như thế nào y cũng hiểu quá rồi. Doãn-chí-Bình đang bâng khuâng chưa biết nói những gì, kế thấy Dương-Qua bồng Tiểu-long- Nữ phi thân phóng trước mặt, thẳng hướng về phía Cổ-Mộ đài, y càng thêm bàng hoàng, tâm thần bấn loạn như trải qua một cơn bão lòng mãnh liệt. Y âm thầm nhìn lại hai ngón tay bị chặt đứt, máu tươi còn rỉ rả chảy, sự đau đớn của thể chất và nỗi xót xa của tâm hồn chưa biết bên nào nặng hơn.
Dương-Qua bồng Tiểu-long-Nữ chạy về đến Cổ-Mộ đài, đặt nàng trên giường hàn thạch. Tiểu-long-Nữ ngó lên nhìn hắn và nói nho nhỏ:
- Ta yếu quá đâu đủ sức chống lại sức lạnh của giường này, Dương-Qua chợt nhớ lại, vội bồng nàng lên chạy qua đặt trên giường của Tôn bà.
Tiểu-long-Nữ nằm im, thở nhè nhẹ, thân hình mềm nhũn như không còn hơi sức, da mặt trắng bạch, mồ hôi rịn ướt trán, đôi mắt nhắm nghiền. Dương-Qua lau mồ hôi cho nàng. Bỗng Tiểu-long-Nữ mở mắt, kêu lên một tiếng và hộc luôn mấy búng máu tươi. Dương-Qua chưa kịp mặc áo và vì đang cúi xuống nhìn nàng, nên bị máu phun đầy cả ngực.
Nàng nhắm mắt, mím môi cố vận khí lực đè nén cơn tức, nhưng càng vận dụng bao nhiêu, máu càng trào thêm bấy nhiêu.
Dương-Qua cuống cuồng lấy tay bịt mồm nàng cho máu bớt chảy và cuối cùng không biết làm gì hơn nữa, chỉ ôm mặt khóc lớn.
Nghe tiếng khóc, Tiểu-long-Nữ nhìn hắn và cười nhạt:
- Ta chỉ muốn máu trào cho hết mà không được. Dương-Qua bệu bạo nói:
- Không nên đâu, cô nương đừng nghĩ và đừng làm như thế. Cô chưa thể chết được đâu. Tiểu-long-Nữ hỏi:
- Mi sợ chết không?
Dương-Qua hết biết đáp ra sao, chỉ ấp úng:
- Thưa... tôi... tôi đấy à... Thưa cô nương, tôi... Nhưng Tiểu-long-Nữ đã cất lời:
- Trước khi ta chết, ta phải giết ngươi đã.
Trước đây hai năm, Tiểu-long-Nữ đã nói câu này một lần. Không ngờ bây giờ nàng nhắc lại. Dương- Qua không biết đáp thế nào chỉ nhìn nàng ngơ ngác.
Thấy dáng điệu của nó như vậy, Tiểu-long-Nữ nói thêm:
- Ta phải giết mi, nếu không ta về âm phủ gặp Tôn bà ta biết nói năng làm sao? Ta đã hứa cùng Tôn bà dạy dỗ, chăm nom, săn sóc mi, nếu ta chết đi, bỏ ngươi một mình bơ vơ, lấy ai là người giúp đỡ. Ta không nỡ để ngươi một thân một bóng quạnh hiu không người thương yêu chăm sóc. Chừng ấy cuộc đời mi sẽ ra sao? Ta chết cũng không yên tâm được.
Dương-Qua bối rối, chưa biết đối đáp làm sao, chỉ đứng lặng thinh sụt sùi.
Nói xong, nàng lại mửa thêm mấy búng máu tươi, lịm dần và nằm yên bất tỉnh.
Bỗng linh tính nhắc hắn một điều. Dương-Qua chạy đi lấy bình mật ong trắng, dùng thìa múc đổ vào miệng Tiểu-long-Nữ. Mật ong trắng có đủ sức bồi dưỡng sinh khí, chữa các chứng nội thương nhiễm độc rất hiệu quả. Sau một chập, nàng thở đều, có vẻ khỏe hơn trước và nằm yên như ngủ say. Máu
cũng ngừng chảy.
Dương-Qua cảm thấy yên chí. Nhưng bây giờ hắn đã thấm mệt tay chân mỏi rã rời, đầu hoa mắt quáng, bèn ngồi bệt xuống đất dựa lưng vào giường, ôm chân nàng ngủ thiếp lúc nào không biết. Một chập sau, Dương-Qua cảm thấy một cái gì lành lạnh nơi cổ, vội mở mắt nhìn.
Tuy sống nhiều năm nơi Cô-Mộ đài, luyện tập công phu khá dày, nhưng Dương-Qua chưa đoạt được mức nhìn xuyên qua màn tối như sư phụ, cho nên mỗi đêm phải thắp nến các phòng.
Hôm nay vì có việc bận rộn bất ngờ, hắn quên thắp nến, tuy nhiên trong ánh đêm mờ mờ, hắn vẫn trông thấy Tiểu-long-Nữ điềm nhiên ngồi bên cạnh giường, tay cầm trường kiếm ví vào cổ mình. Hắn hết sức ngạc nhiên và sợ hãi vội hỏi:
- Cô nương, cô nương làm gì vậy? Tiểu-long-Nữ lạnh lùng nói:
- Ta tự thấy bịnh tình không thuyên giảm nổi. Thôi chúng ta cùng nhau đi gặp Tôn bà vậy nhé. Hoảng quá, hắn chẳng biết nói sao, chỉ lẳng lặng trố mắt nhìn nàng.
Tiểu-long-Nữ hỏi:
- Sao mi sợ lắm phải không? Có gì mà sợ! Chỉ một nhát kiếm là xong, có gì đau đớn đâu mà ngại chứ.
Dương-Qua thoáng nhìn thấy ánh mắt nàng bỗng nhiên sáng ngời, và tay vẫn lăm lăm cầm thanh kiếm nên đoán chắc nàng đã quyết định hạ sát mình rồi.
Tâm linh tự vệ và bản chất ham sống tự nhiên đến, hắn bỗng nghĩ đến cách đối phó thoát khỏi luồng kiếm thép. Thình lình hắn tung mình phóng lùi ra sau một bước, rồi tung cước đá vào tay kiếm Tiểu- long-Nữ. Thanh trường kiếm rơi xuống đất.
Tuy bị thương khá nặng, nhưng nhờ bản lãnh cao siêu, Tiểu-long-Nữ vẫn giữ được bình tĩnh
chuyển thể kịp thời, phản ứng lẹ như chớp, vừa bị đá rơi kiếm, nàng tung mình vươn tay phải thu hồi lại được ngay và loang một vòng kề sát cổ Dương-Qua.
Dương-Qua vận dụng hết tâm trí chống đỡ. Nó xoay đủ thế để tránh né, nhưng hình như nàng đã tiên liệu tất cả các thế võ ấy nên thanh trường kiếm loang loáng bao quanh thân hình hắn.
Tránh né không được, Dương-Qua vận dụng những thế tấn công hạ bộ, nhưng ngón nào cũng bị Tiểu-long-Nữ đón trước, hóa giải quá dễ dàng. Thanh trường kiếm lấp loáng xoay chiều đổi hướng bao quanh mình Dương-Qua như hình với bóng, không khi nào cách xa quá ba tấc.
Dương-Qua tháo mồ hôi hột, vừa kinh hãi vừa lo âu thầm:
- Lần nầy chắc không thoát khỏi tử thần, thôi đành để cho sư phụ định đoạt tánh mạng, về âm ty gặp Tôn bà chứ sao. Nhưng phúc chí tâm linh làm nó chợt nhớ:
- Sư phụ đang bị nội thương nặng, chắc không đủ sức vận dụng thế lực, chi bằng ta dùng nhân điện để ứng phó có lẽ hơn.
Tiểu-long-Nữ cũng nhận thấy nhược điểm của mình trong lúc nầy, nên vừa nghiêng mình lách sang một bên để luồng chưởng lực của hắn phớt mạnh qua, nàng gọi nhỏ:
- Dương-Qua, đừng vận khí nữa.
Nói xong, nàng tung trường kiếm lên trời, lưỡi kiếm lộn mấy vòng rơi xuống, nàng đổi tay hứng lấy rồi theo một thế "phân hoa phất liễu", thoáng đấy đã kề vào cổ hắn ngay.
Tiểu-long-Nữ nghiêng mình thêm phía trước vài tấc, định xiên mũi kiếm qua cổ họng Dương-Qua, nhưng bỗng nhiên nàng cảm thấy mất cả sinh lực, toàn thân bủn rủn, tứ chi mệt rũ rượi, buông thanh kiếm rơi xuống đất nghe "xẻng" rất lớn.
Dương-Qua tưởng mình đã đến giờ về cõi chết, nhắm mắt đợi, bất ngờ hắn thấy Tiểu-long-Nữ ngưng lại, lảo đảo buông kiếm ngã xỉu ra đất. Như cái máy, hắn cúi xuống lượm tham trường kiếm, cắm đầu chạy thẳng ra cửa, tìm lối thoát thân.
Thoát khỏi nơi đen tối của tử thần, Dương-Qua tung mình phóng đại ra cửa, mắt bị chói lòa bởi ánh sáng của vừng thái dương tỏa qua cành cây khe lá. Gió thổi lộng mát dịu cả lòng, như được thấm nhuần một nguồn sanh khí mới. Ngàn cây đầy tiếng chim kêu ríu rít vọng đến bên tai, Dương-Qua có cảm giác như được nghe một điệu nhạc hồi sinh và bồi hồi xua đuổi ám ảnh của khung cảnh ảm đạm chết chóc trong Cổ-Mộ đài mà nó vừa thoát khỏi.
Một chập sau nó hoàn hồn định thần dừng chân lại nghỉ. Nhưng chợt nghĩ sợ Tiểu-long-Nữ dùng khinh công đuổi theo nữa, nên nó lại cuống cuồng băng mình cắm đầu chạy nữa. Tuy thời gian tập luyện chưa bao lâu nhưng sức phi hành của Dương-Qua cũng đủ lướt nhanh như gió và trên giang hồ chưa mấy tay đã theo kịp.
Băng không biết bao nhiêu dặm trường đường núi, lúc tạm dừng chân thì mặt trời đã đúng ngọ. ánh nắng gay gắt làm cho Dương-Qua cảm thấy cổ nóng như bỏng vì khát nước. Nhìn lại sau lưng không thấy bóng Tiểu-long-Nữ đuổi theo, lúc bấy giờ hắn mới yên tâm ngồi lại trên tảng đá để nghỉ.
Từ đêm đến giờ trong bụng không có một thức ăn nào, nên Dương-Qua thấy đói và xót xa như bị cào xé. Muốn đi tìm quá trong làng gần đấy mua thức gì ăn đỡ dạ, nhưng sực nhớ lại trong túi không có một đồng, nên Dương-Qua thở dài suy nghĩ. Tấm thân lưu lạc từ thuở bé, không mẹ không cha, bao lần trôi nổi cam go, chịu cực nhiều nỗi đắng cay ê chề, nên đã quen rồi, dù có phải nhịn đói vài hôm hay nằm rừng ngủ bụi, đối với Dương-Qua cũng là việc quá thông thường. Vốn bản chất lanh lẹ tháo vát, nên sau khi nghỉ xả hơi vài khắc, hắn tìm suối vốc nước uống, rồi phi thân lên một cây ý-dĩ gần nhất, cành sum sê cả trái. Bứt một mớ trái vừa sồn sồn chưa được chín mang xuống đem lại gành đá, bẻ củi khô, nhúm lửa nấu chín để ăn đỡ dạ.
Bỗng có tiếng động và từ đàng xa có bóng người lướt đến gần Dương-Qua chỉ liếc mắt nhìn lại, rồi giả bộ không trông thấy, y lẳng lặng vừa đun lửa vừa theo dõi, người này là một đạo cô, mặc áo
vàng, nét mặt sáng rỡ, dáng đi nhẹ nhàng thanh thoát thật mau và uyển chuyển, sau lưng gài một trường kiếm bao sơn màu máu trên nền áo vàng bay phât phới. Nàng lướt đi mau, tiếng gió lộng vào bao kiếm, bật thành tiếng vi vu như sáo diều. Dáng điệu nàng di chuyển quả là con người sành võ nghệ.
Dương-Qua nghĩ có lẽ người này thuộc phải Trùng-Dương, cũng đang đi giang hồ, nên chẳng muốn làm quen hay hỏi han làm gì cho bận trí. Vì vậy nên hắn vẫn lui cui chụm lửa như không trông thấy nàg.
Đạo cô tiên đến trước mặt Dương-Qua dừng lại hỏi:
- Ông bạn ơi, xin vui lòng, chỉ hộ đường lên núi phải theo ngõ nào cho đúng? Dương-Qua ngạc nhiên tự hỏi:
- ủa, nếu nàng này là đệ tử của phái Toàn-Chân sao lại không biết đường vậy à? Chắc có gì bí ẩn đây chăng.
Tuy nghĩ thế, nhưng hắn cũng chẳng muốn hỏi lại, chỉ điềm nhiên đưa tay chỉ ra phía trước nói bâng quơ:
- Theo ngõ đó thì đúng.
Nhìn thấy thiếu niên này ăn mặc lam lũ, lui cui nấu ăn, Đạo cô đoán có lẽ là một nông dân hay tiều phu của vùng này. Nàng tự thấy mình ăn mặc sang trọng, mặt mày đẹp đẽ mỹ miều, từ trước đến nay hỏi đến ai cũng được người ta vui vẻ đón mời cực kỳ vồn vã, thế mà người này lại có vẻ thờ ơ lạnh nhạt, hay là hắn chưa nhìn thấy mình chăng?
Đứng lặng một chập, nàng thấy Dương-Qua vẫn giữ thái độ bình thản, khinh khỉnh hình như không hề đoái hoài tới mình, nên bực tức bước lại gần nói gắt:
- Này anh bạn kia ơi, hãy đứng dậy, ta có chuyện muốn hỏi đây.
Đã có thành kiến với các đạo sĩ phái Toàn-Chân, nên Dương-Qua cũng bực mình, giả ngờ làm thinh không đáp lại.
Nàng nổi nóng nói lớn:
- Ê, thằng oắt kia, không nghe cô nương nói đấy à? Dương-Qua đáp:
- Có chứ, nhưng chẳng qua không muốn đứng dậy đó thôi.
Nàng nghe nói vậy, bụng nghĩ có lẽ nó chưa nhìn thấy mình, nên kiên nhẫn nói ngọt:
- Ông bạn hãy nhìn tôi một tí xem nào.
Giọng nói lần này êm dịu làm sao, nghe như rót vào tai, vừa ấm vừa thanh tao. Dương-Qua cảm thấy lòng xao xuyến vì suy nghĩ:
- Lạ thật, người con gái này là ai, mà giọng nói vừa ngọt vừa êm như vậy nhỉ? Rồi hắn ngẩng đầu nhìn lên:
- Thấy nàng đạo cô quả đẹp đáo để. Nước da trắng và hồng hồng, cặp mắt đen láy sáng như sao, mũi dọc dừa, làn môi cắn chỉ đỏ mọng dễ thương làm sao!
Một thiếu nữ xinh tươi mỹ miều khả ái như thế này, chắc không có ác ý gì. Tuy nghĩ thế, Dương-Qua vẫn làm thinh, rồi cúi xuống nhóm lửa như cũ.
Đạo cô thấy người này đã nhìn mình rồi, mà lòng không mảy may xúc động, có lẽ y là con người nông dân sơn dã mộc mạc, suốt đời chỉ lam lũ, chưa biết mùi đời, chưa có cảm giác rạo rực trước gái đẹp chăng. Nếu quả vậy thì hắn thực thà, mình cũng nên tìm cách lôi kéo thu phục được hắn có lẽ hơn. Đoán như thế nàng bỗng thấy đắc ý rồi mỉm cười hỏi thêm:
- Ông bạn làm gì thế, có thích món này không, tôi xin tặng cho đây.
Vừa nói, nàng vừa thò tay vào túi lấy ra hai thoi bạc sáng loáng, ném ngay trước mặt Dương-Qua. Dương-Qua vốn ranh mãnh lanh lẹ lạ thường. Tuy không cố tâm chọc giận nàng này làm gì, nhưng vì thấy trong lối ăn nói đối xử của nàng có vẻ kẻ cả hách dịch, cho nên nó càng giả bộ ngây ngô, nhìn sững hai thoi bạc e dè hỏi:
- Vật này là thứ gì mà sáng trắng lóng lánh, trông cũng khá đẹp đây nhỉ? Đạo cô bỗng bật cười rồi nói:
- Bạc đấy! Dùng thứ này để mua gạo, mua thức ăn ngon, sắm được quần áo đẹp. Dương-Qua giả bộ ngớ ngẩn hỏi thêm:
- Thế ra cô cho tôi đấy ư?
- Chứ sao nưa? Nếu không cho thì ta ném ra đây làm gì? à, mà ông bạn tên là gì nhỉ?
- Tôi họ Sồ, tên Ngốc-Tử. Cô không biết sao? Còn cô tên gì nhỉ? Nàng mỉm cười đáp:
- Hỏi tên ta làm gì? Cứ gọi à tiên cô cũng được à, má của cậu làm gì nhỉ? Dương-Qua nói:
- Má tôi đang kiếm củi ở trên núi kia kìa. Nàng hỏi tiếp:
- Ta muốn lên núi này lắm, nhưng ăn mặc như thế này bất tiện. Vậy cậu làm ơn dẫn tôi đến gặp má, nhớ đổi hộ bộ quần áo khác có được không?
Dương-Qua giả bộ sửng sốt đáp:
- ý! Không được đâu. Cô ăn cắp áo quần mà tôi đánh chết. Nàng cười khì khì nói:
- Ta mua trả tiền chứ ăn cắp đâu mà ngại!
Nói xong, nàng lấy thêm một thoi bạc nữa vung đến cho Dương-Qua.
Hắn đưa tay ra bắt, nhưng giả bộ hụt để cho thoi bạc chạm vào vai rơi xuống đất, rồi dùng chân đạp lên, loay hoay trượt té, nhủi về phía trước, rồi rảo bước chạy về phía đạo cô vừa chạy vừa la:
- Tại sao cô lại đánh tôi? Xô tôi. Tôi sẽ mách má tôi đánh lại cho mà xem.
Nói rồi nó ù té chạy.
Thấy bộ điên điên khùng khùng của nó, đạo cô cũng phát tức cười, vội tung một mảnh lụa trắng đến phía trước, quấn vào chân nó kéo lại.
Thấy lối tung lụa này, Dương-Qua rất ngạc nhiên, nghĩ bụng:
- ủa, đây là thế võ Cổ-Mộ đài, chứ đâu phải là người của Toàn-Chân phái. Vậy nàng này là ai? Mấy lúc nay chưa hề nghe cô nương nói đến.
Nghĩ thế nó giả bộ loạng choạng vấp ngã nhoài ra, rồi lồm cồm đứng dậy. Như một người hoàn toàn không biết gì là võ nghệ. Nó cố dẫy dụa. Nhưng chân vẫn lúng túng mắc vào giải lụa, để nàng khỏi dùng thế võ khác, lòng nó phân vân suy nghĩ mãi không hiểu nàng là ai, lên núi để làm gì? Hay để tìm cách ám hại cô nương mình chăng?
Nghĩ đến đây, Dương-Qua liên tường đến Tiểu-long-Nữ trong giờ phút này chẳng hiểu sức khỏe ra sao, hay là... đã?... bề gì rồi.
Rồi một mối lo ngại sâu sắc bỗng xâm chiếm tâm hồn nó. Quên tất cả mọi sự hiểm nghèo, Dương- Qua chỉ còn e ngại sợ Tiểu-long-Nữ đã bị nội thương mà chết rồi chăng?
Lo lắng quá, nó chỉ muốn trở lại gặp nàng, săn sóc cho nàng, mặc dầu nàng có bắt nó để giết đi, nó cũng cứ an tâm. Đang mãi hoang mang suy nghĩ, bỗng đạo cô bước đến gần, nhìn kỹ vào mặt nó. Tuy thấy mặt mày lem luốc, quần áo bẩn thỉu, nhưng vẫn có những nét rất khôi ngô tuấn tú, nàng nghĩ thầm:
- ồ, chú bé này đẹp quá, rất tiếc vì lam lũ đói khổ, nên thân hình tiều tụy thôi. Nếu được ăn no mặc đẹp, thanh niên thế gian chưa mấy ai qua khỏi hắn nổi.
Thấy Dương-Qua nhảy múa lung tung, la réo ầm ĩ, mặt mày mếu máo, nàng bỗng tức cười, đưa tay tuốt gươm đánh soẹt một cái chỉ vào mặt hắn hỏi lớn:
- Gã kia, nhà ngươi muốn chết hay sống?
Nhìn thấy nàng xuất thủ theo thế "Cầm bút điểm tự" đúng là một tử thế của phái võ Cổ-Mộ. Dương- Qua không còn nghi ngờ gì nữa, lòng đinh ninh nhất định nàng này phải là môn đồ của Lý-mạc-Thu sư bá, nhưng chưa rõ tên họ là gì, và không biết nàng lên núi làm gì, hay muốn tìm cô nương mình để sinh sự chi đây.
Thấy nàng xuất thủ gọn gàng lanh lẹ quá, Dương-Qua đoán bản lĩnh vượt cao hơn mình nhiều, nên tự nghĩ:
- Đối với hạng nầy, ta nên dùng mưu để đối phó, hơn là dùng lực.
Nghĩ thế, hắn bỗng thối lui mấy bước làm ra vẻ kinh sợ lắm, rối rít nói:
- Tôi sợ lắm, xin cô nương đừng giết, rồi khiến gì tôi cũng nghe. Đạo cô cười gằn rồi nói:
- Nếu ngươi trái ý ta, thì một nhát kiếm cũng đủ đưa hồn mi chầu diêm chúa đấy nhé!
Dương-Qua càng làm ra vẻ ngớ ngẩn sợ sệt, lật đật đáp:
- Dạ! dạ, xin nghe, xin nghe. Đạo cô loang kiếm thành một đường tròn, quả là oai nghi uyển chuyển; rồi tra kiếm vào vỏ. Dương-Qua trố mắt nhìn, há hốc mồm một chập, rồi dạ, dạ luôn quả là một thằng khùng chính cống.
Đạo cô nghĩ thầm:
- Thằng này điên điên khùng khùng, nhưng có vẻ dễ thương. Mình muốn dạy nó học võ, chẳng biết nó có học được không? Bộ tịch nó thật điên hay giả ngộ, chờ một chập sẽ rõ ngay. Trông nó có vẻ cục mịch nặng nề như chàng nhà quê chúa!
Nàng chỉ vào mặt nó bảo:
- Hãy đi vào xóm tìm cho ta một cái rìu để cần dùng, mau lên.
Dương-Qua vội vàng vâng dạ, rồi hấp tấp chạy, tập tễnh như người chưa biết tí võ nghệ nào, thỉnh thoảng quay đầu ngó lại xem chừng.
Nàng quát thêm:
- Mau đi, phải cẩn thận đấy.
- Dạ! dạ, dạ.
Dương-Qua làm ra bộ ngờ nghệch chăm chú bước vào nhà một tiều phu ở bên đường. Qua khỏi cổng nó nhìn thấy tứ bề hiu quạnh không có bóng người, nên đoán chắc chủ nhà đã đi vào rừng đốn củi.
Lẻn ra sau bếp, Dương-Qua nhìn lên vách thấy có treo một cái rìu nhỏ, vội lấy xuống, vác lên vai rồi khập khễnh trở lại trao cho đạo cô.
Tuy giả bộ đóng kịch đánh lừa đạo cô, nhưng trong lòng Dương-Qua luôn luôn suy nghĩ, băn khoăn lo lắng đến bệnh tình Tiểu-long-Nữ, không biết hiện nay ra sao.
Quá lo đến sư phụ, nét mặt nó không che đậy được nỗi buồn man mác. Đạo cô nhìn thấy nên ôn tồn hỏi:
- Ngươi có điều gì lo nghĩ mà có vẻ đăm chiêu buồn bực như người đưa đám ma vậy? Hãy cười lên một tí xem nào?
Dương-Qua bỗng cười lên khành khạch một tràng dài, không trả lời. Đạo cô cau đôi mày liếc nhìn nó bảo:
- Bây giờ ngươi theo ta cùng lên núi nghe chưa. Dương-Qua lắc đầu đây đẩy đáp:
- Không đâu, tôi phải về với má tôi để ăn cơm chứ, không về má tôi đánh đòn đau lắm cô ơi! Đạo cô xách tai nó quát lớn:
- Mày trái lệnh, tao giết chết ngay tức khắc.
Nói xong, nàng tuốt kiếm hoa lên trước mặt nó mấy vòng.
Dương-Qua cuống cuồng thụt lùi ra sau kêu la ầm ĩ như heo ròng:
- Tha tôi đi, bỏ tôi ra, ối trời ơi!
Thấy thiếu niên quả ngu ngốc ngờ nghệch nhưng nếu dùng được thì hay lắm, nên đạo cô nắm vạt áo nó kéo đi và dịu dàng bảo:
- Hãy theo ta.
Nói xong, nàng phăng phăng bước đi lên núi.
Với một người võ nghệ cao siêu, dẫu bước đi thường cũng mau lẹ thoăn thoắt. Vì đã giả bộ như người thường không biết tí võ nghệ, cho nên Dương-Qua cố ý tập tễnh bước theo, vừa đi vừa chạy thỉnh thoảng ngã quay ra đất hoặc đứng lùi lại sau một quãng sau suýt soa.
Cứ đi một chập Dương-Qua lại ngồi xệt xuống nắn bóp ống chân, thở hổn hển, khiến đạo cô phải đứng lại chờ, hoặc lớn tiếng thúc giục.
Quạu quá nàng nắm lấy tay Dương-Qua kéo xển đi tới. Dương-Qua vội vã bước theo, chân nam đá chân siêu, thỉnh thoảng giả bộ vấp nhào tới ôm choàn lấy chân của đạo cô, làm cô ta giật mình trợn mắt mắng lớn:
- Thằng ranh, mi làm gì thế? Bộ muốn chết sao?
Dương-Qua chỉ thở hổn hển, mắt ngó láo liên hình như quá mỏi mệt:
Nhìn bóng tà đã xế qua, nếu trì hoãn sẽ tối mất, nên đạo cô không e dè đưa tay quàng ngang hông Dương-Qua dùng thuật phi hành vùn vụt đi lên núi. Nàng khinh thân quá mau, không mấy chốc đã vượt qua trên mười dặm đường.
Lần đầu tiên được người đàn bà ôm choàng ngang người, Dương-Qua cảm thấy lòng rung động một cảm giác là lạ, thích thú, dễ chịu làm sao. Da thịt của nàng vừa mềm, vừa êm, vừa ấm, nó mong cứ như thế này mãi, nên vui lòng nằm yên không cưỡng lại!
Phi thân đi được một đoạn đường dài. Đạo cô liếc mắt nhìn thấy vẻ mặt Dương-Qua ngơ ngác, đôi mắt mở rộng nhìn mình có vẻ khâm phục lắm, nên nàng thấy hài lòng lắm.
Chạy thêm một chặp nàng đặt nó trên cỏ và hỏi:
- Mi thấy ra sao! Có sướng không?
Dương-Qua bỗng sa sầm nhăn nhó rồi dưa tay nắm cổ chân kêu lớn:
- ối chao, đau quá! Cô nương ném tôi mạnh quá làm tôi suýt gãy xương chân đây rồi. Nàng không giận mà trái lại thấy sung sướng nên lườm nó một cái và bảo:
- Mày lại lên cơn rồi, hèn chi gọi là thằng khũng cũng phải. Dương-Qua liến thoắng hỏi ngay:
- ủa, người ta gọi tôi là thằng khùng ư? Còn tiên cô họ là gì nhỉ?
- Thì cứ gọi là tiên cô được rồi, cần gì hỏi đến họ nữa, có ích chi đâu.
Thật ra nàng họ Hồng, tên Lăng-Ba, vốn là đại đệ tử của Xích-Luyện Tiên tử Lý-mạc-Thu. Xưa kia,
Hồng-lăng-Ba có thừa lệnh thày đến hạ sát toàn gia Lục-lập-Đỉnh, sau bị đuổi bắt phải tìm đường trồn tránh.
Dương-Qua thấy nàng tìm cách nói lảng, biết chưa thể tìm hiểu tông tích được, nên chờ cơ hội khác không dám hỏi nữa.
Đạo cô đến ngồi trên một phiến đá, lấy gương ra rồi dùng lược chải lại làn tóc mây cho thêm óng ả. Dương-Qua lén nhìn thấy nét mặt nàng khá đẹp, da trắng, tóc đen, đôi mày thanh, miệng tươi thắm. Tuy nhiên nếu so sánh với bác Hoàng-Dung, ở Đào-Hoa đảo vẫn có hơn. Nhưng so với Tiểu-long- Nữ, sư phụ mình thì còn thua xa.
Thật ra giữa Hoàng-Dung và Tiểu-long-Nữ, chưa chắc ai hơn ai, nhưng vì Tiểu-long-Nữ còn trẻ hơn, huống chi đối với Dương-Qua, nàng là người mà hắn cảm phục nhất cho nên đối với hắn, Tiểu-long- Nữ là đệ nhất mỹ nhân trong thiên hạ.
Hồng-lăng-Ba liếc nó một cái và hỏi:
- Mi làm gì mà nhìn ta kỹ thế? Dương-Qua làm bộ ngớ ngẩn đáp:
- Tôi muốn nhìn là cứ nhìn, có phải tại sao đâu? Nếu cô nương không thích thì tôi khỏi nhìn nữa chứ sao!
Nàng nghe đáp ngồ ngộ, cười xòa và hỏi thêm:
- Mi thấy ta có đẹp không?
Vừa hỏi nàng lấy lược vuốt thêm làn tóc rủ trên trán. Dương-Qua gật đầu lẩm bẩm:
- Đẹp, đẹp lắm.
Nàng thích chí hỏi thêm:
- Đẹp như thế nào mới được chứ. Hắn bỗng lắc đầu, chiếp lưỡi nói:
- Tiếc không được trắng lắm.
Mấy lúc này Hồng-lăng-Ba tự hào mình có làn da mịn trắng nhất đời, nay bỗng bị chê, lòng vừa ngạc nhiên vừa bực tức, hỏi gắt hơi lớn tiếng:
- Mi muốn chết sao mà nói bậy. Mi dám bảo ta không được trắng à? Dương-Qua lắc đầu, phùng má nói:
- Không được trắng lắm. Nàng tức mình đứng dậy hỏi:
- Thế mày chỉ kẻ nào trắng hơn tao nào? Dương-Qua điềm nhiên đáp:
- Tôi cũng không còn nhớ ai trắng hơn cô nữa.
Nàng không chịu được hỏi lớn:
- Ai nào? Cố nhớ lại xem thử? Có phải chị của mày không? Hay là bố của mày, hở thằng khùng. Làm bộ suy nghĩ một chập rồi Dương-Qua ấm ớ nói:
- Không phải, không đúng. Cô không trắng bằng con dê bạch của tôi. Lông nó trắng như tuyết cơ. Nghe nói, Hồng-lăng-Ba bỗng cười rũ rượi hết bực mình.
- Quả là đồ khùng, ai đời đem ví da người với lông dê. Nói xong nàng có vẻ hài lòng đến ôm choàng hắn băng lên núi lần nữa. Gần đến quãng đường rộng lên Trùng-Dương Cung, Hồng-lăng-Ba quẹo sang tay phải qua phía tây đi về phía Cổ-Mộ đài.
Dương-Qua theo dõi hành trình của nàng bỗng giật mình tự nghĩ:
- Cô này đến đây với dụng ý gì? Có muốn gây sự hay tìm cách hãm hại sư phụ ta chăng?
Đi thêm một khúc đường dài nữa, tới mấy chỗ rẽ, Hồng-lăng-Ba thò tay vào bọc rút ra một bản đồ, ngừng chana một chập để xem và quan sát lối đi.
Dương-Qua muốn tìm cách cản trở, và chỉ về phía rừng trước mặt vừa nói nho nhỏ ra vẻ sợ sệt:
- Thôi cô ơi, đừng vào khu rừng đó nữa, ma nhiều lắm, tôi chả dám theo đâu. Nàng trợn mắt hỏi:
- Tại sao mi biết?
- Trong rừng này có một ngôi mộ bí mật to lớn, có đầy cả hồ ly ma quỉ. Tôi nghe người ta nói như thế và không ai dám đến chỗ này bao giờ.
Hồng-lăng-Ba nghe nói lòng mừng khấp khởi. Nếu như thế thì đúng là Hoạt-tử Mộ-đài đây rồi. Nàng vốn là học trò số một của Lý-mạc-Thu, được sư phụ chân truyền võ nghệ đã vào bậc khá. Mấy lúc sau này theo Lý-mạc-Thu đi đánh bại được nhiều anh hùng trên giang hồ, nên nàng đã tự cao cho mình là người nhiều bản lãnh.
Thỉnh thoảng nàng được sư phụ kể cho biết nơi xuất phát nền võ thuật của môn phái và chính nơi
Cổ-Mộ-đài là trung tâm đào luyện nên những bí quyết cao siêu của một môn võ kỳ diệu bậc nhất trên thiên hạ là "Ngọc-nữ tâm-kinh". Môn nầy chưa mấy ai học được và nếu học được, đủ sức đối phó tất cả cao thủ trên võ lâm.
Lý-mạc-Thu chưa được chân truyền môn võ thuật này, lòng vẫn ấm ức, nên sau khi được biết sư phụ tạ thế, cố đột nhập về Mộ đài một lần quyết đoạt cho kỳ được pho "Ngọc nữ tâm kinh" nhưng không thi hành được thủ đoạn phải bỏ chạy. Vì tự cao tự đại nàng nói thật cho học trò nghe mà chỉ cho biết lý do là hiện nay Mộ ấy đã giao lại cho một sư muội là Tiểu-long-Nữ. Nàng và Tiểu-long-Nữ có nhiều điểm không hợp ý nhau nên nàng không muốn quay về nơi ấy nữa.
Thấy sư phụ nói thế, nhiều khi Hồng-lăng-Ba khuyên Lý-mạc-Thu dùng võ lực chiếm Cổ-Mộ đài để đoạt pho sách quý. Lý-mạc-Thu đâu phải không có ý nghĩ đó, nhưng ngặt vì đường đi trong Cổ-Mộ đài muôn phần bí hiểm, thêm lắm cơ quan máy móc kỳ diệu chết người nên không đủ sức thực hiện
được. Tuy nhiên nàng chỉ mỉm cười không nói ra sự thật.
Hồng-lăng-Ba thấy sư phụ hình như không còn nghĩ đến việc ấy nữa, nên nàng định thâm tìm dịp nhập Cổ-Mộ đài một chuyến.
Nhiều lúc nàng dò hỏi sư phụ lối ra vào nơi Cổ-Mộ đài, lấy bút ghi thành bản đồ để sau này sử dụng. Thừa dịp được sư phụ phái đi Trường-Tống diệt gia đình một địch thủ, sau khi làm xong công việc, nàng tự ý đi luôn đến núi Chung-Nam, tình cờ lại gặp Dương-Qua.
Chỉ được nghe Lý-mạc-Thu nói là ngôi mộ ở giữa khu rừng rậm âm u, cỏ cây bao phủ tứ bề, chứ nàng cũng chưa hình dung được thế nào cho rõ rệt. Ngoài ra Lý-mạc-Thu cho biết trong mộ khác hẳn bên ngoài và có những đường lối giao thông liên lạc hết sức bí hiểm.
Hồng-lăng-Ba sai Dương-Qua dùng sứ chặt cây phát bụi hai bên để nhìn thấy đường vào Cổ-Mộ đài.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top