THAI AT GS TRAN QUANG VU

BÀI VIẾT CỦA CỐ GS.TS.TRẦN QUANG VŨ!

Sơ Lược về Thiên Văn Chúng ta nghiên cứu về Tử Vi, hẳn đều biết tên đầy đủ là Tử Vi Tinh Đẩu, nghĩa là môn Tử Vi cũng có những liên quan rất mật thiết đến Thiên Văn. Dĩ nhiên ngoài Thiên Văn, Tử Vi còn có rất nhiều thứ khác như Lịch Pháp Chiêm Bốc Triết Học... phối hợp mà thành.

Bài viết này xin đưa ra một cái nhìn đầu tiên về Thiên Văn ngày xưa, cách phân định ra Tam Viên, Nhị Thập Bát Tú, Thiên Cương Địa Sát và ảnh hưởng của Thiên Văn đến Vũ Trụ quan của Phương Đông. Mong muốn của người viết bài là cung cấp cái nhìn cơ bản và dễ hiểu về Thiên Văn cổ Phương Đông, và những liên hệ của nó đến các môn Khoa Học huyền bí.

Ngày xưa quan sát bầu trời, người cổ đã phát hiện ra rằng, có một ngôi sao luôn cố định trên bầu trời , đó là sao Bắc Đẩu (Polaris) ( dĩ nhiên Trái Đất của chúng ta có chuyển động Tuế Sai cho nên vị trí sao Polaris thay đổi sau cỡ 12000 năm, vị trí hiện nay là ở sao Alpha trong chòm Tiểu Hùng).

Người xưa nhận thấy rằng xung quanh Polaris có một số chòm sao chỉ chuyển động xung quang nó mà không bao giờ đi xuống dưới đường chân trời. Với thế giới quan trong chế độ Phong Kiến, các nhà Thiên văn đã phân bầu trời ra nhiều chòm sao và 3 khu vực gọi là TAM VIÊN lấy sao Polaris là Trung Tâm.

Tam Viên bao gồm Tử Vi Viên ở giữa, Thái Vi Viên ở phía đông và Thiên Thị Viên nằm ở phía nam tòa Tử Vi Viên.

Đề định ra 4 hướng, các nhà Thiên Văn xưa đã lấy sao Bắc Thần làm trung tâm, và chọn 4 chòm sao rất lớn là Thanh Long ( hướng Đông), Chu Tước (hướng Nam), Bạch Hổ (hướng Tây) và Huyền Vũ (hướng Bắc). Bốn chòm sao lớn này bao gồm 28 vị Tinh Tú xét theo chu kỳ chuyển động của Mặt Trăng, mà ngày nay chúng ta gọi là Nhị Thập Bát Tú.

Ngoài Tam Viên, Nhị Thập Bát Tú các nhà Thiên văn xưa còn nhận thấy 7 Đại Diệu Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ Nhật Nguyệt là sáng nhất trên bầu trời ( dĩ nhiên là với mắt thường). Do sự du nhập của Phạn Lịch mà có thêm hai sao La Hầu và Kế Đô. Chín sao này được gọi là Cửu Diệu.

Ngoài những sao kể trên, bầu trời còn hàng hà sa số các vì sao khác nữa, mà các nhà Thiên Văn gọi chung là Thiên Cương và Địa Sát.

Chúng ta sẽ đi lần lượt từ Tam Viên đến Nhị Thập Bát Tú , Cửu Diệu , Thiên Cương Địa Sát và cuối cùng là ứng dụng.

về cách phân chia bầu trời, chúng ta nên biết qua về Ngũ Phục ( cách phân chia đất ngày xưa của các Hoàng Đế Trung Hoa).

Từ Trung Ương ( Hoàng Cung) tính ra xa bán kính 500 dặm gọi là Triều Phục tức nơi của Vua , Hoàng Hậu, Thái Tử, Vương Hầu,...

Tiếp thêm ra xa 500 dặm nữa gọi là Hầu Phục tức nơi ở của các quan lại, hầu gia, đại thần, chư hầu.

Tiếp thêm ra xa 500 dặm nữa là Tuy Phục nơi dành cho dân cư, và quân lính, quân sự.

Xa hơn nữa là Y Phục và Hoàng Phục là các ùng ngoài nơi sự cai trị của Vua đã trở nên rất lỏng lẻo, hoang vu hẻo lánh.

Bầu trời cũng được phân chia như vậy với sao Bắc Thần ( Bắc Cực) là trung tâm.

SAO BẮC THẦN

Ngày xưa các Hoàng Đế Trung hoa xem Hoàng Cung là trung tâm của thế giới trần gian. Ứng với Sao Bắc Thần trên Trời là Trung Tâm của Thượng Giới, nơi cư ngụ của Ngọc Hoàng Thượng Đế, chúa tể của muôn loài. Cho nên họ xem Trục nối giữa sao Bắc Thần và Hoàng Cung là Trục Trời Đất, vạn vật sinh linh phải xoay quanh nó. Hoàng Đế xưng là Thiên Tử ( con trời). Xin các bạn lưu ý, việc xem Hoàng Cung là trung tâm của thế giới không chỉ có ở Trung Hoa mà ở tất cả các dân tộc khác. Người Hồi Giáo họ xem Thánh địa Mecca là trung tâm của Thế Giới, người Thiên Chúa họ xem thánh địa Jerusalem là trung tâm của Thế Giới, Louis XIV tự ví mình như Hoàng Đế Mặt Trời, mọi nơi phải xoay quanh Paris,...

Chính vì thế mà sao Bắc Thần trong tín ngưỡng người Trung Hoa vô cùng thiêng liêng, nó là nơi có Linh Tiêu Bảo Điện với 10000 phòng ( vạn tuế), còn Tử Cấm Thành của Hoàng Đế luôn luôn xây theo trục Bắc Nam, Vua ngồi quay mặt về hướng Nam xưng Trẫm là con của Trời, khi tế Trời thì chắp tay quay mặt về hướng Bắc mà lạy, đó chính là hướng về sao Bắc Thần vậy.

Tử Cấm Thành thời Minh Thanh bao gồm 9999 phòng, không có một nơi nào dám xây thành 10000 hay ứng với con số 10. Vì con số 10 là con số của Trời, chỉ có Ngọc Hoàng được sử dụng. Vua là con Trời nên phải kém đi, cho nên con số 9 ngày xưa là con số tốt nhất ở trần gian.

Ngọc Hoàng Thượng Đế ngự trên sao Bắc Thần tôn hiệu đầy đủ là : " Cao Thiên Thượng Thánh Đại Từ Nhân Giả Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn Huyền Khung Cao Thượng Đế". Cho nên mỗi một triều đại chỉ có vị Vua khai sáng mới được tôn xưng là Thái Tổ Cao Hoàng Đế ( tức thụy hiệu lấy trùng chữ CAO với Ngọc Hoàng) để ghi nhận công lao to lớn thay trời dẹp loạn. Cũng có nhiều Hoàng Đế vì khiêm cung mà không dám lấy Thụy hiệu là CAO mà lấy chữ khác ví dụ Ngụy Thái Tổ Vũ Hoàng Đế ( Tào Tháo).

Ở đây xin lưu ý một chú ý quan trọng. Có nhiều sách ghi rằng sao Bắc Thần chính là Vua dưới hạ giới, điều này là SAI. Không có vị Vua nào dám to gan thế cả. Biểu tượng cho vua là sao Tử Vi. Tử Vi là sao nào xin nói rõ hơn trong phần Tử Vi viên.nf

(Còn tiếp)

BÀI VIẾT CỦA CỐ GS.TS.TRẦN QUANG VŨ.

TỬ VI VIÊN

Tử Vi Viên là khu vực trung tâm hình tròn bao quanh Thiên Cực ( sao Bắc Thần) cách một góc 40 độ. Tử Vi Viên bao gồm 160 sao và được chia thành 30 chùm sao lớn nhỏ. Tử Vi Viên mang nghĩ là Khu Tường Vây Quanh (viên), Tử là màu đỏ tía màu của sự huyền bí thiêng liêng, Vi là Hoa ( sách sử chép có một loại hoa sắc đỏ tía gọi là hoa Tử hay Hán gọi là Tử Vi). Như vậy Tử Vi Viên chính như là khu Hoàng Thành màu đỏ tía ( Tử Cấm Thành), là nơi ở của Ngọc Hoàng Thượng Đế, tổng quản trời đất và các thần. Chính vì vậy người xưa khi quan sát Thiên Văn đã chia Tử Vi Viên thành các chòm sao có hình tượng từ Vua, Thái Tử,... cho đến chợ búa... cách tưởng tượng này tạo nên hình ảnh một xã hội trên thượng giới cũng như xã hội loài người nơi trần gian. Riêng Tử Vi Viên là hình tượng của Tử Cấm Thành dưới hạ giới nơi ở của Vua.

Chú thích các sao chính trong bản đồ trên:

1. Bắc Cực (gồm 5 sao trong chòm Tiểu Hùng Tinh)

1.1 Thái Tử sao Gamma

1.2 Hoàng Đế sao Kschi

1.3 Hoàng Tử ( Thứ Tử) sao Epsilon

1.4 Hậu cung sao Delta

1.5 Thiên Cực ( sao Bắc Thần) sao Alpha

(ghi bên trái là tên Thiên Văn cỗ Trung Hoa, ghi bên phải là theo Thiên Văn Hiện Đại)

2.Tứ Phụ (4 sao)

3.Câu Trần (6 sao)

a. Thiên Hoàng Đại Đế

4.Thiên Trụ ( 5 sao)

5.Ngự Nữ (4 sao)

b.Nữ Sử

c.Trụ Sử

6.Thượng Thư (5 sao)

7.Thiên Sàng (6 sao)

8.Đại Lý (2 sao)

9.Âm Đức (2 sao)

10.Lục Giáp (6 sao)

11.Ngũ Đế nội tọa (5 sao)

12.Hoa Cái (7 sao)

13.Cống (9 sao)

14.Tử Vi Tả Viên ( 8 sao) bao gồm

i. Tả Xu

ii.Thượng Tể

iii.Thiếu tể

iv.Thượng bật

v.Thiếu Bật

vi.Thượng Vệ

vii. Thiếu Vệ

viii.Thiếu Thừa

15.Tử Vi Hữu Viên (7 sao) bao gồm

i.Hữu Xu

ii.Thiếu Úy

iii.Thượng Phụ

iv.Thiếu Phụ

v.Thượng vệ

vi.Thiếu Vệ

vii.Thượng Thừa

d.Thiên Ất

e.Thái Ất

16.Nội Trù ( 2 sao)

17.Bắc Đẩu ( gồm 7 sao chính là chòm sao Đại Hùng Ursa major)

i.Thiên Xu sao Alpha-Duth

ii.Thiên Toàn sao Beta-Merak

iii.Thiên Cơ sao Gamma-Phecda

iv.Thiên Quyền sao Delta-Megrez

v.Ngọc Hoành sao Epsilon-Alioth

vi.Khai Dương sao Kschi-Mizar

vii.Dao Quang sao Nuy-Alkaid

Ngoài ra chùm Bắc Đẩu còn có 1 phụ tinh mà bằng mắt thường không nhìn thấy được ( sẽ nói rõ hơn về chùm Bắc Đẩu trong phần tiếp theo)

18.Thiên Thương (3 sao)

h.Huyền Qua

19.Tam Công

k.Tướng Quốc.

20.Thiên Lý

m.Thái Dương Thủ

n.Thái Tôn

21.Thiên Lao (6 sao)

22.Thế (4 sao)

23.Văn Xương ( 6 sao)

24.Nội Cấp (6 sao)

25.Tam Sư( 3 sao)

26.Bát Cốc (8 sao)

27.Phó Xá (9 sao)

28.Thiền Trù (6 sao)

29.Thiên Bồi ( 5 sao)

Nhìn tổng quan chúng ta có thể thấy ngay hình ảnh một Hoàng Cung với Vua, Hậu Cung Thái Tử ở giữa có Ngự Nữ , Đầu bếp( Thiên Trù) hầu hạ. Hai bên là hai hàng Cấm vệ Quân ví như tường thành bảo vệ ( Tử Vi tả Hữu Viên), được đứng đầu bởi các vị Đại Thần ( Thượng tể, Thái Úy,....) Ngoài cấm thành là nơi Trường Quốc Tử Giám ( Văn Xương), các nơi làm việc của toàn bộ Triều đình.

Qua đó chúng ta thấy sự thiêng liêng của Tử Vi Viên mà người xưa gán cho nó. SAO thứ hai của chòm Tiểu Hùng có tên là ĐẾ , sao này có sắc sáng đỏ tía là sáng thứ hai trong chùm Tiểu Hùng (sau sao Bắc Thần), cho nên nó có tên là sao TỬ VI, và đây chính là sao TỬ VI trong môn Tử Vi của chúng ta.

Tiếp theo xin nói về Bắc Đẩu Thất Tinh

BÀI VIẾT CỦA CỐ GS.TS.TRẦN QUANG VŨ!

Bắc Đẩu Thất Tinh nằm ngay tại cửa ra vào Tử Vi Viên, cho nên nó được ví như vị thấn thay mặt Trời nhìn xuống trần gian cai quản cuộc sống của muôn dân, xem xét người tốt xấu để định công hay phat.

Bắc Đẩu Thất Tinh bao gồm 7 sao : Thiên Xu, Thiên Toàn, Thiên Cơ, Thiên Quyền, Ngọc Hoành, Khai Dương, Dao Quang.

Trong 7 sao này thì sao Thiên Quyền là mờ nhất nhưng lại ở vị trí trung tâm, thành ra lại là quan trọng nhất , nó được xem như nơi ở của Trung Thiên Bắc Đẩu, người chuyên giữ bản mệnh của mọi người trên trần gian.

Ngày xưa khi làm lễ cúng sao giải hạn , thường sắp 7 ngọn đèn theo hướng chòm Bắc Đẩu, trong đó ngọn ở vị trí sao Thiên Quyền là ngọn đèn bản mệnh.

Người xưa đã thấy rõ vai trò rất quan trọng của chòm Bắc Đẩu trong việc xác định thời tiết, làm lịch ( sẽ nói rõ hơn trong phần ứng dụng).

Ngoài ra bên cạnh 7 sao chính chòm Bắc Đẩu còn có 1 phụ tinh nằm cạnh sao Khai Dương. Nó hợp với sao Thái Ất ở trên thành Cửu Tinh Quý Thần trong môn Thái Ất.

Chùm Bắc Đẩu Thất Tinh bao gồm 2 phần, phẩn Khôi gồm 4 sao Thiên Toàn Thiên Cơ Thiên Xu Thiên Quyền, phần tiêu gồm 3 sao Ngọc Hoành, Khai Dương , Dao Quang. Riêng sao Khai Dương có một phụ tinh quay quanh nó nữa để tạo nên một sao kép.

Trong Tử Vi sao Thiên Xu là sao Tham Lang, Thiên Toàn là sao Cự Môn, sao Dao Quang chính là sao Phá Quân.

THÁI VI VIÊN

Ngày xưa các nhà Thiên Văn phương đông gọi đường chuyển động của Mặt Trời là Hoàng Đạo, của Mặt Trăng là Bạch Đạo. Nhưng do Bạch Đạo không có tâm là ở Bắc Thiên Cực cho nên khi chia ra Tử Vi Viên thì hai phía Đông và Nam vẫn còn có khoảng trống và khoảng trống phía Đông gọi là Thái Vi Viên.

Tử Vi Viên là nơi cung cấm của Thiên Đế thì Thái Vi Viên chính là tượng trưng cho sự cao sang quý phái, nơi ở và làm việc của các Đại Thần.

Xin nhìn tổng quan bản đồ của Thái Vi Viên.

Các bạn hẳn đã thấy rõ, trong Thái Vi Viên cũng có hình ảnh của một triều đình thu nhỏ nhưng mà là của Chư hầu và thêm vào đó các sao Tam Công, CỬu Khanh chính là các đại thần trụ cột đầu triều ngày xưa tại trung ương.

Trong môn Tử Vi của chúng ta liên hệ đến Thái Vi Viên rất ít, cho nên không nói kỹ đến ở đây. Nhưng trong môn Thái Ất khi xét đến họa hại của Thủy Kích, Thái Vi Viên đóng một vai trò rất quan trọng.THIÊN THỊ VIÊN :

Thiên Thị Viên nằm ở phía Đông Tử Vi Viên, nó tượng trưng cho chốn thị tứ, chợ búa, buôn bán. Một khung cảnh đời sống hết sức thường ngày dưới hạ giới.

Chính vì thế, khi nghiên cứu về Thái Ất có sao Dân Cơ , nó chính là 5 sao nằm ở Trung Tâm chòm Thiên Thị Viên. Và do đó tính chất của Dân Cơ chủ về tài lộc, giàu có, buôn bán, là sao tụ tài, chứ không phải là sao chủ công danh quyền chức như Quân Cơ ( nằm trong Tử Vi Viên) và Thần Cơ ( nằm trong Thái Vi Viên).

Sau đây là hình ảnh của Thiên Thị Viên : (Bị mất ảnh)

Đến đây chúng ta kết thúc việc khảo cứu về Tam Viên và trước khi chuyển sang phần tiếp theo: NHỊ THẬP BÁT TÚ , tôi muốn các bạn có một cái nhìn tổng quan về Tam Viên bằng hình vẽ dưới đây(Bị mất hình).

NHỊ THẬP BÁT TÚ

Xung quanh TRUNG THIÊN có các hướng của nó Đông Tây Nam Bắc được đại diện bởi 4 chòm sao rất lớn là THANH LONG, BẠCH HỔ, CHU TƯỚC, và HUYỀN VŨ.

Phương Đông đại diện bở chòm THANH LONG ( rồng xanh), chính vì thế Phương Đông tượng trưng cho Mộc và có màu xanh. bao gồm:

1.Giác Mộc Giảo( cá sấu)

2.Cang Kim Long(rồng)

3.Đế Thổ Bức(dơi)

4.Phòng Nhật Thố (thỏ)-> đứng chính giữa chòm Thanh Long là MÃO

5.Tâm Nguyệt Hồ (Cáo)

6.Vĩ Hỏa Hổ (Hổ)

7.Cơ Thủy Báo(Báo)

Phương Bắc đại diện bởi chòm HUYỀN VŨ (Rùa Đen), chính vì thế Phương Bắc tượng trưng cho Thủy có màu đen, bao gồm:

1.Đẩu Mộc Giải( con giải)

2.Ngưu Kim Ngưu(trâu)

3.Đề Thổ Lạc(nhím)

4.Hư Nhật Thử(chuột)->đứng chính giữa chòm Huyền Vũ là TÝ

5.Ngụy Nguyệt Yến ( chim yến)

6.Thất Hóa Trư (lợn)

7.Bích Thủy Dư(cừu)

Phương Tây đại diện bởi chòm BẠCH HỔ(Hổ Trắng), do vậy phương Tây tượng trưng cho Kim khí có màu trắng, bao gồm:

1.Khuê Mộc Lang(chó sói)

2.Lâu Kim Cẩu(chó nhà)

3.Vị Thổ Trệ (chim trĩ)

4.Mão Nhật Kê (gà)->đứng giữa chòm Bạch Hổ là DẬU

5.Tất Nguyệt Ô( quạ)

6.Chủy Hỏa Hầu(khỉ)

7.Sâm Thủy Viên(vượn)

Phương Nam đại diện bởi chòm Chu Tước( chim sẻ đỏ), do vậy phương Nam tượng trưng cho Hỏa có màu đỏ, bao gồm:

1.Tỉnh Mộc Hãn(bò)" có sách ghi Tỉnh Mộc Ngạn"

2.Quỷ Kim Dương(dê)

3.Liễu Thổ Chương(cheo)

4.Tinh Nhật Mã(ngựa)->đứng giữa chòm Chu Tước là Mã

5.Trương Nguyệt Lộc(hươu)

6.Dực Hỏa Xà(rắn)

7.Chân Thủy Dẫn( giun)

28 vị sao trên sách xưa gọi là Nhị Thập Bát Tú chia làm 4 khu vực quanh Hoàng Đạo. Người Trung Quốc tin rằng mỗi một vị thần coi giữ 1 sao, quyền năng ảnh hưởng mạnh mẽ lên con người phàm trần. Dựa vào đó họ đã chọn ra 12 con Địa Chi để thể hiện sự ảnh hưởng này. Trong 12 con này, những con tôi gạch chân ở trên, đứng giữa chòm sao tượng cho CHÍNH Đông, Tây, Nam, Bắc. Do vậy mà Tý Ngọ Mão Dậu chính là Tứ Chính vậy

Nhị Thập Bát Tú dựa trên chu kỳ của Mặt Trăng, chính xác ra là 29,24 ngày. Nhưng do họ xác định được 28 sao, thành ra mỗi 1 ngày Mặt Trăng đi qua xấp xỉ 1 sao. Và họ coi chu kỳ của Mặt Trăng xấp xỉ 28 ngày.

Xuất phát từ những sai số Thiên Văn này mà Âm Lịch của tổ tiên chúng ta càng tính về sau càng sai, và việc chỉnh sửa Lịch là điều bắt buộc.

BÀI VIẾT CỦA CỐ GS.TS.TRẦN QUANG VŨ.

Các sao chính của Thái Ất gồm có:

Thái Ất

Văn Xương

Kể Thần

Thuỷ Kích

Thần Hợp

Kể Định

Tương ứng với Thái Ất có Đại Du và Tiểu Du cũng là Thái Ất nhưng có chỗ khác nhau rất căn bản.

Văn Xương còn có tên là Chủ Mục , theo sau nó có hai sao

Chủ Đại Tướng

Chủ Tham Tướng

Thuỷ Kích còn có tên là Khách Mục, theo sau nó cò hai sao

Khách Đại Tướng

Khách Tham Tướng

Kể Thần còn có tên là Kể Mục, theo sau nó cò hai sao

Kể Đại Tướng

Kể Tham Tướng

Kể Định còn có tên Định Mục, theo sau nó có hai sao

Định Đại Tướng

Định Tham Tướng

Thêm vào các sao chính trên, môn Thái Ất còn kể đến các thần ( sao ) sau cũng không kém phần quan trọng

Ngũ Phúc

Quân Cơ

Thần Cơ

Dân Cơ

Tứ Thần

Thiên Ất

Địa Ất

Trực Phù

(còn tiếp)

BÀI VIẾT CỦA CỐ GS.TS.TRẦN QUANG VŨ.

Các Thần ở trên có vai trò điều hoà trời đất, trên thì điều chỉnh Âm Dương gây ra mưa gió sấm chớp, lũ lụt. Dưới điều chỉnh sông núi mùa màng, quyết định thịnh suy bĩ thái, trị loạn của cả một thời đại, một vương triều.

Khi dùng nó đề dùng xem về Số mệnh cần cân nhắc nặng nhẹ thịnh suy thì cho biết thịnh suy sướng khổ, Phúc Hoạ của cả một đời người.

Khi dùng vào việc binh nó cho phép xem ngày khởi binh, xem cách hành quân, xem địch đến nhiều hay ít, xem xét thắng bại, lợi hại rõ ràng. Cần cân nhắc kỹ càng khi áp dụng.

Ngoài ra nó còn dùng để tiên đoán về thiên tai, giặc giã, ốm đau bệnh tật.

Môn Thái Ất khi tinh thông có thể xem xét thịnh suy bĩ thái của cả Trời Đất Người, không gì là thoát khỏi bàn tay của nó.

(còn tiếp)

BÀI VIẾT CỦA CỐ GS.TS.TRÂN QUANG VŨ.

Phép xem Thái Ất gồm 4 kiểu:

-Niên kể: dùng để tiên đoán hoạ hại, phúc đức, thịnh suy, thiên tai của một quốc gia. Vua chúa dùng nó để sửa đức cho đúng với điềm trời báo.

-Nguyệt kể: dùng cho các bậc Tể Phụ, để an dân trị quốc, báo mưa nắng, trị loạn giúp Vua trị dân, giúp dân thu hoạch mùa màng, phòng chống thiên tai

-Nhật kể: dùng cho mỗi người chúng ta để tự đoán định cuộc đời mình.

-Thời Kể: chuyên dùng cho việc dùng binh

Ngoài ra cón có hai kiểu xem là

-Thần kể: dùng nó để trợ chủ.

-Định Kể: dùng nó để trợ khách.

Hai phép sau cùng rất khó, bản thân tôi nghĩ chắc không có một ai hiện nay có thể nói là biết dùng ( một phần cũng vì tài liệu ghi chép rất mù mờ và thất lạc kể cả Hán và Việt).

Ở đây xin nhấn mạnh vào Nhật Kể để xem số mệnh cuộc đời của mỗi người.

Thái Ất không chú trọng vào số mệnh mà mình phải gánh, nó thiên về điềm báo của trời ứng trên lá số của anh mà anh phải sống làm sao để tai ương ít, phúc đức nhiều. Chính vì thế nhiều khi hai lá số Thái Ất giống nhau nhưng lại hai số phận khác hẳn nhau.

Mấu chốt của Nhật kể là an được quẻ Ất để xem xét tổng quát về cuộc đời Vận Hạn, sau đó nhập Quẻ.

(BÀI VIẾT CỦA CỐ GS.TS.TRẦN QUANG VŨ)

Thái ất Nhật Kể Cái này xin được mở ra để chúng ta xem xét tổng quan về phép đoán vận mệnh của Thái Ất.

1. Thái Ất Nhật Kể nhập cục:

1.1Dẫn Nhập:

Phép xem Nhật Kể tức là tính toán số ngày tích lại đến ngày sinh để vào cục.

Sách Tàu họ chép Nhật Kể có mốc tính là vào ngày mồng 1 tháng Giáp Tý năm thứ nhất niên hiệu Cảnh Bình ( đời Tống Phế Đế Lưu Huệ (423-424)), nhằm ngày

19/2 năm 423 sau Công Nguyên - Dương Lịch.

Còn Thái Ất Thần Kinh chép là sau Đông Chí chọn ngày Giáp Tý gần nhất để làm mốc tính.

Thực tế ra phép Thái Ất là phép đếm rồi chia lấy số dư gọi là TOÁN, đếm thì phải có MỐC để đếm giống như Vật Lý phải có Hệ Quy Chiếu.

Tôi chọn theo Thái Ất Thần Kinh, sau này tôi sẽ chứng minh hai cách tính trên là gần như là như nhau bằng Đồng Dư thức và Lịch Pháp.

Còn một vấn đề nữa là sách Tàu họ ghi sau Hạ Chí đến trước Đông Chí thì dùng Cục Âm. Từ Đông Chí sang đầu Hạ Chí thì dùng Cục Dương cho Nhật Kể.

Thái Ất Thần Kinh chép ngoài Thời Kể thì không dùng Cục Âm cho các Kể khác. ( Chỉ có một ngoại lệ duy nhất là dùng Nhật Kể để xem ngày ra quân thì có chia ra Độn Âm Cục và Độn Dương Cục).

Về Thiên Văn và Khí Hậu thì bắt đầu từ Đông Chí đến đầu Hạ Chí khí dương bắt đầu sinh và phát triển đến cực thịnh. Hạ Chí đến đầu Đông Chí thì khí Âm bắt đầu hình thành và phát triển đến cực thịnh. Cho nên mới có cái lý chia ra xen hai kiểu Độn Cục Âm hay Dương như trên.

Riêng về cái này, tôi không dám bảo ai đúng ai sai, chỉ xin lần lượt trình bày cả hai cách để mọi người cùng suy nghĩ, tự đoán cho mình xem cái nào đúng hơn.

1.2 Cách tính:

Cách tính như sau từ sau tiết Đông Chí của năm trước đó chọn ngày Giáp Tý gần nhất để làm mốc tính. Đếm từ ngày Giáp Tý đó đến NGÀY SINH của mình được bao nhiêu ngày gọi là số TÍCH NHẬT.

Ví dụ:

Nam sinh ngày 17 tháng 1 năm 1980 ( Âm Lịch) - Bát Tự sẽ là :

Canh Thân Mậu Dần N.Ất Hợi Đinh Hợi

+Đổi ra Dương Lịch là ngày 3 tháng 3 năm 1980.

+Ta thấy ngày ĐÔNG CHÍ gần nhất trước ngày 3/3 năm 1980 là ngày 22 tháng 12 năm 1979. Từ ngày Đông Chí này ta tìm ngày Giáp Tý gần nhất là ngày 23/12 năm 1979.

+Như vậy ngày 23/12 năm 1979 là mốc để tính Tích Nhật.

Ta tính từ ngày 23/12 đến ngày 3/3 thì có tất cả là 72 ngày. Như vậy TÍCH NHẬT là 72.

+Lấy TÍCH NHẬT chia cho 72, số thành cộng với 1 là số Nguyên, số dư là số Cục.

Như trường hợp trên, 72 chia 72 được 0 dư 72 -> như vậy là vào cục 72 - Nguyên thứ nhất.

TÍCH NHẬT là nòng cốt của phép Nhật kể để an các sao trong Quẻ Ất, phải tính rất cẩn thận, nếu sai coi như toàn bộ sai.

Trước khi vào việc an sao tôi xin trình bày sơ qua về bản đồ Thái Ất, nó cũng tương tự như trong Tử Vi chúng ta có Lá Số gồm 12 Cung.

Một lá số Thái Ất bao gồm 16 cung: có 12 cung Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất , Hợi và thêm 4 cung Càn nằm chen giữa Tuất và Hợi, Cấn nằm giữa Sửu và Dần. Tốn nằm giữa Thìn và Tỵ, Khôn nằm giữa Mùi và Thân.

Bốn cung Càn, Cấn, Tốn , Khôn chính là bốn góc của Lá Số Thái Ất. Trên 16 cung này lần lượt ghi tên 16 Thần của môn Thái Ất ( tên của 16 Thần, cũng như vị trí đóng xin xem Hình Vẽ).

16 cung này được chia ra làm các cung Chính Thần vị và các cung Gián Thần vị.

Chính Thần Vị gốm 8 cung : CÀN được phối số 1, NGỌ ( ứng quẻ LY) được phối số 2, CẤN được phối số 3, MÃO ( ứng quẻ CHẤN) được phối số 4, cung chính giữa được phối số 5, cung DẬU ( ứng quẻ ĐOÀI) được phối số 6, cung KHÔN được phối số 7, cung TÝ ( ứng quẻ KHẢM) được phối số 8, cung TỐN được phối số 9. ( Xin xem thêm hình vẽ)

Các cung Chính Thần Vị cần phải nhớ kỹ đó lBốn cung Chính Thần Vị là CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN có tình thông thần:

+Cung CÀN thông thần với hai cung kẹp hai bên là cung Tuất và cung Hợi

+Cung KHÔN thông thần với hai cung Mùi và Thân

+Cung CẤN thông thần với hai cung Dần và Sửu

+Cung TỐN thông thần với hai cung Tỵ và Thìn.

Thế nào là THÔNG THẦN? Nó có nghĩa là bốn cung CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN thông với các cung đã kể trên, sau này ví dụ Mệnh an tại cung THÂN hay cung MÙI thì phải xem cả các Sao đóng tại cung KHÔN vì đó là cung Thông Thần của bản Mệnh, quan trọng như các sao Tọa Thủ trong mệnh không kém tý nào cả.

Hay ví dụ như cung xung chiếu của cung Dần là cung Thân không chưa đủ mà nó chính là hai cung THÂN + KHÔN.

Xin mọi người lưu ý kỹ, việc về các cung Thông Thần rất dễ thiếu sót khi xem lá số và dể sai vì Tam Hợp và Xung Chiếu nó hơi khác so với Tử Vi.

Trong môn Thái Ất không xét đến cung Nhị Hợp.à các cung nào và được phối với con số nào.

Gián Thần Vị gồm các cung Dần, Thìn, Tỵ, Mùi, Thân, Tuất, Hợi và Sửu. Các cung Gián Thần Vị không được phối với số nào cả.

Sau khi đã hình dung rõ ràng về hình ảnh một Lá Số Thái Ất như thế nào, xung chiếu, tam hợp chiếu và đặc biệt là khái niệm về các cung Thông Thần, chúng ta mới có thể đi vào an các sao của Thái Ất và bắt đầu luận đoán.

Phép an cung Mệnh Thân:

Sau khi in ra Tứ Trụ của Giờ, Ngày Tháng Năm sinh, ta lấy CHI của Tháng Sinh trỏ lên CHI của Năm Sinh đếm theo chiều THUẬN đến CHI của Giờ Sinh, dừng lại ở đâu thì an cung Mệnh tại đó, khi đếm bỏ qua 4 cung CÀN CẤN TỐN KHÔN không kể.

Ví dụ như Lá Số đã nói ở trên (17 tháng 1 năm Canh Thân, giờ Hợi)

đổi ra Tứ Trụ sẽ là :

Canh Thân Mậu Dần N.Ất Hợi Đinh Hợi

Lấy CHI của Tháng Sinh là DẦN để lên cung THÂN ( CHI của Năm Sinh). Từ cung Thân kể là DẦN, đếm theo chiều thuận Dần ở cung Thân, Mão ở cung Dậu, Thìn ở cung Tuất, Tỵ ở cung Hợi ( bỏ qua cung CÀN), Ngọ ở cung Tý, Mùi ở cung Sửu, Thân ở cung Dần ( bỏ qua cung CẤN), Dậu ở cung Mão, Tuất ở cung Thìn, Hợi ở cung Tỵ (bỏ qua cung TỐN)-> Mệnh an tại cung TỴ.

Sau đó lần lượt Dương Nam, Âm Nữ theo chiều thuận; Âm Nam Dương Nữ theo chiều nghịch lần lượt an 12 cung ( cũng bỏ qua 4 cung CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN không tính).

1.Mệnh

2.Huynh Đệ

3.Phu Thê

4.Tử Tức

5.Tài Bạch

6.Điền Trạch

7.Quan Lộc

8.Nô Bộc

9.Tật Ách

10.Phúc Đức

11.Tướng mạo

12.Phụ Mẫu

Cung an THÂN được an như sau:

Xem NGÀY SINH có CHI gì thì an cung THÂN vào cung có ĐỊA CHI tương ứng trong Lá Số Thái Ất.

Ví dụ như Lá Số trên sinh ngày Ất Hợi cho nên cung An THÂN an ở cung Hợi.

Khác với Tử Vi, cung an THÂN trong môn Thái Ất có thể an tại bất kỳ 1 trong 12 cung.

Phép an sao Thái Ất:

Thái Ất hành 3 ngày thì qua một cung, lần lượt qua 8 cung Chính Thần Vị , tổng là 24 ngày thì hết một chu trình.

Sao Thái Ất được an như sau:

+Lấy TÍCH NHẬT chia cho 24 lấy SỐ DƯ

+SỐ DƯ này là Số Bị Chia đem chia cho 3, ta thu được Thương Số và Số Dư.

+Bắt đầu khởi từ cung CÀN ( cho Dương Cục) chuyển theo chiều thuận và từ cung TỐN ( cho Âm Cục) chuyển theo chiều ngược, lần lượt đi qua các cung CHÍNH THẦN VỊ theo đúng thứ tự số phối của các cung CHÍNH THẦN, không vào cung GIỮA, mổi cung kể 1 lần, đếm đến THƯƠNG SỐ + 1 thì dừng lại và an sao Thái Ất ở đó.

Ví dụ

TÍCH NHẬT 12.

+12 / 24 được 0 dư 12

+Số dư 12 chia 3 được 4 dư 0

Như vậy là Thái Ất đã đi qua 4 cung trong tổng số 8 cung Chính Thần ( chưa hết 1 chu kỳ) và đang ở cung thứ 4 được 3 ngày ( tức ngày cuối cùng). Ta khởi từ cung CÀN ( vì được phối số 1), sau đó đếm đến cung NGỌ ( phối số 2), cung CẤN ( phối số 3) cung CHẤN ( phối số 4) -> an Thái Ất ở cung CHẤN ( tức cung Mão). cho Dương Cục

Nếu là Âm Cục chúng ta khởi từ cung TỐN ( phối số 9 ) đếm ngược lại cung có số 8 là cung TÝ, cung có số 7 là cung KHÔN, cung có số 6 là cung DẬU -> đã đi được 4 cung vậy Thái Ất an tại DẬU.

Ví dụ 2

TÍCH NHẬT 31

+Lấy 31 chia 24 được 1 dư 7

+Lấy 7 chia 3 được 2 dư 1

như vậy Thái Ất đã đi hết 1 Chu Kỳ 24 ngày và đang ở ngày thứ 7 của Chu kỳ thứ 2.

7 chia 3 được 2 dư 1, như vậy Thái Ất đã ở cung 1 được 3 ngày, cung 2 củng 3 ngày và đang ở cung thứ 3 mới được 1 ngày ( còn 2 ngày nữa mới sang cung thứ 4).

Dương Cục : cung thứ nhất là cung CÀN, cung 2 là cung NGỌ -> như vậy Thái Ất đang ở cung CẤN được 1 ngày

Âm Cục: cung thứ nhất là cung TỐN, cung 2 là cung TÝ-> như vậy Thái Ất đang ở cung KHÔN được 1 ngày.

An sao Văn Xương ( hay còn gọi là THIÊN MỤC)

Văn Xương được an như sau:

+Tích Nhật chia cho 18 lấy số dư.

+Khởi từ cung Thân ( cho Dương Cục) hoặc cung Dần ( cho Âm Cục) chuyển xuôi 16 thần ( nghĩa là đi theo chiều xuôi lần lượt qua 16 cung) , nếu gặp Càn Khôn thì lưu 2 Toán ( cho Dương Cục) , gặp Cấn Tốn thì lưu 2 toán ( cho Âm Cục).

Ví dụ: Tích Nhật 82

+ 82 chia 18 được dư 10.

+Từ cung Thân bắt đầu đếm 1, Dậu là 2, Tuất là 3 , đến cung CÀN phải lưu 2 Toán cho nên đếm 4 và 5, Hợi là 6, Tý là 7, Sửu là 8, Cấn là 9, Dần là 10-> an Văn Xương tại cung DẤN

+Nếu là Âm Cục thì từ cung Dần đếm là 1, Mão là 2, Thìn là 3, TỐN phải lưu hai Toán cho nên đếm 4 và 5, Tỵ là 6, Ngọ là 7, Mùi là 8 , Khôn là 9, Thân là 10 -> an Văn Xương tại THÂN

An sao Kể Thần ( hay còn gọi là Văn Kể hoặc Kể Mục)

Kể Thần được an như sau:

+Tích Nhật chia cho 12 lấy số dư.

+Khởi cung Dần ( cho Dương Cục), cung Thân ( cho Âm Cục) lần lượt đi theo chiều nghịch qua 12 cung ( bỏ 4 cung Càn Khôn Cấn Tốn), đi hết số dư dừng lại thì an Kể Thần.

Ví dụ: Tích Nhật 82 ( như trên)

+82 chia 12 dư 10

+Khởi từ cung Dần kể là 1, đếm theo chiều nghịch đến Sửu là 2, Tý là 3, Hợi là 4, Tuất là 5, Dậu là 6, Thân là 7, Mùi là 8, Ngọ là 9, Tỵ là 10 -> an Kể Thần tại Tỵ.

+Nếu là Âm Cục khởi từ cung Thân là 1, đếm theo chiều nghịch đến Mùi là 2, Ngọ là 3, Tỵ là 4, Thìn là 5, Mão là 6, Dần là 7, Sửu là 8, Tý là 9 , Hợi là 10-> an Kể Thần tại Hợi

An sao Thủy Kích ( hay còn gọi là KHÁCH MỤC)

Sao Thủy Kích an dựa vào hai sao Văn Xương và Kể Thần.

+Tìm trên Lá số xem Văn Xương và Kể Thần ở cung nào.

+Từ cung có Kể Thần đếm theo chiều thuận đến cung có Văn Xương xem tất cả có bao nhiêu cung ( khi đếm phải tính luôn cả 4 cung Càn Khôn Cấn Tốn).

+Khởi từ cung Cấn đếm theo chiều thuận đến số cung đã tính ở bước 2, dừng lại ở đâu an Thủy Kích ( ở đó) -> dùng cho Dương Cục

+Khởi từ cung Thân đếm theo chiều nghịch đến số cung đã tính ở bước 2, dừng lại ở đâu an Thủy Kích ở đó -> dùng cho Âm Cục

Ví dụ : như trên Tích Nhật 82 , ta đã tìm được Văn Xương an ở cung Dấn. Và Kể Thần an ở cung Tỵ.

+Từ cung Tỵ đếm theo chiều thuận đến cung Dần thì có tất cả là 13 cung. Tỵ, Ngọ, Mùi, Khôn, Thân, Dậu, Tuất, Càn, Hợi, Tý, Sửu, Cấn, Dần.

+Từ cung Cấn chuyển theo chiều thuận 13 cung sẽ đến cung CÀN-> an Thủy Kích ở CÀN

Đối với Âm Cục ta cũng làm tương tự như trên, nhưng Thuỷ Kích khởi từ cung THÂN chuyển ngược.

An sao Kể Định ( hay còn gọi là Định Mục):

Muốn xác định Kể Định phải dựa vào Văn Xương, Thái Tuế và Thần Hợp:

+Sinh vào NGÀY nào thì an Thái Tuế tại cung có ĐỊA CHI tương ứng trong Lá Số.

+Tìm ngày NHỊ HỢP với NGÀY SINH và an vào cung đó Thần Hợp.

+Từ cung an Thần Hợp đếm theo chiều thuận đến cung an sao Văn Xương xem có bao nhiều cung ( khi đếm phải đếm luôn cả 4 cung CÀN KHÔN CẤN TỐN).

+Từ cung an Thái Tuế đếm đi theo chiều thuận bấy nhiêu cung như đã tính ở bước 2 , dừng lại ở đâu thì an Định Mục ở đấy.

Ví dụ : Tích Nhật 82 tức sinh ngày Ất Dậu

+An Thái Tuế tại Dậu

+Cung Nhị Hợp với cung Dậu là cung Thìn-> an Thần Hợp tại Thìn

+Như đã biết, Văn Xương an ở cung Thần.

+Từ cung Thìn đến cung Thân theo chiều thuận gồm có 7 cung

+Khởi từ cung Dậu theo chiều thuận 7 cung sẽ đến cung Cấn-> an Định Mục tại Cấn

Toán Chủ và hai sao Đại Tướng Chủ, Tham Tướng Chủ:

Đại Tướng Chủ và Tham Tướng Chủ là hai tướng phụ tá của Chủ Mục. Nó nắm quyền binh sinh sát trong nội phủ, cai quản binh quyền ở gần Vua.

Để an hai vị Tướng này phải tính Toán Chủ.

Toán Chủ được tính như sau:

+Xác định Thái Ất và Văn Xương đang ở các cung nào cung nào.

+Đi theo chiều thuận từ Văn Xương đến cung CHÍNH THẦN gần Thái Ất nhất, và cộng toàn bộ những chữ số được gán cho các cung CHÍNH THẦN ( xem ảnh lá số) lại, được bao nhiêu đó là Toán Chủ. Lưu ý nếu Văn Xương đứng ở cung CHÍNH THẦN thì chỉ tính cung Chính Thần, các cung Gián Thần bỏ qua. Nếu Văn Xương đứng ở cung GIÁN THẦN thì chỉ cung Gián Thần nơi Văn Xương đứng tính là 1 rồi cộng với các cung CHÍNH THẦN khác, các cung GIÁN THẦN còn lại cũng bỏ qua.

Ví dụ như trên ta tính được Thái Ất an ở Tốn, Văn Xương ở Thân

( Nhật Kể 72)

+Theo chiều thuận từ Văn Xương đến Thái Ất thì cung CHÍNH THẦN gần Thái Ất nhất là cung MÃO có biệt số là 4.

+Văn Xương ở Thân là cung GIÁN THẦN như vậy tính là 1, sau đó các cung CHÍNH THẦN còn lại từ THÂN -> MÃO là DẬU có biệt số 6, CÀN có biệt số 1, TÝ có biệt số 8 CẤN có biệt số 3.

+Cộng hết lại : 1 + 6 + 1 + 8 + 3 + 4 = 23.

Như vậy Toán Chủ là 23.

Sau khi tính được Toán Chủ nếu lớn hơn 10, 20, 30 thì bỏ chứ số hàng chục chỉ lấy chữ số hàng đơn vị. Xem chữ số này là số mấy thì an Đại Tướng Chủ vào cung có số tương ứng.

Ví dụ Toán chủ được 15 , bỏ số 1 đi còn lại số 5, số 5 là số của cung Giữa-> an Đại Tướng Chủ ở cung giữa.

Toán chủ được 27, bỏ đi số 2 còn lại số 7, số 7 là số của cung KHÔN-> an Đại Tướng Chủ ở KHÔN

Toán chủ được các số tròn chục như 10, 20, 30, 40 ,... thì bỏ chữ số hàng đơn vị mà lấy chữ số hàng chục.

Ví dụ Toán chủ được 10, bỏ số 0 đi còn lại số 1, số 1 là số của cung CÀN-> an Đại Tướng chủ ở cung CÀN

Sau khi an Đại Tướng Chủ, ta lấy số của cung an Đại Tướng Chủ nhân 3 lên, nếu lớn hơn 10 thì bỏ đi chữ số hàng chục, chỉ lấy chữ số hàng đơn vị, xem chữ số này ứng với cung nào thì an Tham Tướng Chủ vào cung đó.

Ví dụ Đại Tướng Chủ ở cung giữa mang số 5. Lấy 5 * 3 = 15, bỏ 1 còn số 5-> Tham Tướng Chủ cũng ở cung giữa.

Đại Tướng Chủ ở cung Khôn mang số 7. Lấy 7* 3= 21, bỏ số 2 còn số 1-> an Tham Tướng Chủ ở cung CÀN.

Toán Khách và hai Khách Tướng : Đại Tướng Khách, Tham Tướng Khách:

Toán Khách được xác định như sau:

+Xem trên bản đồ Thái Ất thấy Thuỷ Kích đóng ở cung nào, kể từ cung này theo chiều thuận, đếm đến cung CHÍNH THẦN gần Thái Ất nhất.

+Cộng toàn bộ những số ở các cung CHÍNH THẦN đã đi qua, bỏ qua các cung GIÁN THẦN, nếu Thuỷ Kích nằm tại cung Gián Thần thì chỉ tính cung Gián Thần này 1, các cung Gián Thần khác đều bỏ qua. Kết quả được bao nhiêu chính là Toán Khách.

Ví dụ:

Thuỷ Kích đóng tại cung Khôn, Thái Ất đóng tại cung Tốn. Theo chiều thuận ta thấy cung CHÍNH THẦN gần cung TỐN nhất là cung CHẤN ( Mão).

Thuỷ Kích đóng tại cung Chính Thần cho nên bỏ qua hết các cung Gián Thần, đi từ cung KHÔN đến cung CHẤN sẽ đi qua các cung CHÍNH THẦN sau ĐOÀI, CÀN, KHẢM, và CẤN. Cộng hết các số phối tại các cung Chính Thần lại ta được: 7+6+1+8+3+4=19-> Toán Khách là 19.

Cũng như trên nhưng nếu Thuỷ Kích nằm ở cung Mùi, thì do Mùi là cung Gián Thần nên tính thêm là 1, còn các cung Gián Thần khác đều bỏ qua hết, và chúng ta được Toán Khách là 20.

Sau khi tính được Toán Khách chúng ta an hai vị Khách Tướng là Đại Tướng Khách và Tham Tướng Khách.

Toán Khách nếu lớn hơn 10 thì bỏ chữ số hàng chục chỉ lấy chữ số hàng đơn vị. Nếu Toán Khách được các số tròn chục 10, 20, 30,... thì bỏ chữ số hàng đơn vị mà lấy chữ số hàng chục. Sau đó an Đại Tướng Khách vào cung Chính Thần có số tương ứng.

Ví dụ nhu trên ta tính được Toán Khách 19, bỏ 1 còn 9 như vậy Đại Tướng Khách an tại cung mang số 9 là cung TỐN.

Lấy số cung của cung an Đại Tướng Khách nhân 3, nếu lớn hơn 10 thì bỏ chữ số hàng chục chỉ lấy chữ số hàng đơn vị, an Tham Tướng Khách vào cung có số tương ứng vừa tính được.

Ví dụ ta thấy ở trên Khách Đại Tướng an ở cung 9, lấy 9 nhân 3 = 27, bỏ 2 còn 7-> an Tham Tướng Khách tại cung mang số 7 là cung KHÔN

Toán Kể - Kể Đại Tướng, Kể Tham Tướng:

Bắt đầu từ cung an Kể Thần đi theo chiều thuận đến cung CHÍNH THẦN gần Thái Ất nhất:

+Nếu Kể Thần đóng tại cung Chính Thần thì cộng tất cả các số gán cho các cung CHÍNH THẦN kể từ cung Kể Thần đóng đến cung Chính Thần gần Thái Ất nhất, các cung Gián Thần bỏ qua.

+Nếu Kể Thần đóng tại cung Gián Thần thì tính cung Gián Thần này là 1 , các cung Gián Thần khác bỏ qua và làm như bước trên.

Ví dụ: Thái Ất đóng tại cung CẤN, Kể Thần đóng tại cung Tuất.

+Theo chiều thuận thì cung Chính Thần gần Thái Ất nhất là cung KHẢM biệt số 8.

+Cung Tuất là cung Gián Thần, cho nên tính là 1, sau đó cung CÀN là Chính Thần được 1, cung Khảm được 8-> Toán kể là 1+1+8=10.

Khi tính được Toán Kể , nếu là các số tròn chục như 10,20,30,40 thì bỏ hàng đơn vị lấy hàng chục, nếu là số không tròn chục thì bỏ hàng chục lấy hàng đơn vị.

An Kể Đại Tướng và cung CHÍNH THẦN có biệt số tương ứng vừa tìm được ở bước trên.

Lấy biệt số cung Kể Đại Tướng nhân 3, nếu lớn hơn 10 thì bỏ đi hàng chục chỉ lấy hàng đơn vị, và an Kể Tham Tướng vào cung CHÍNH THẦN tương ứng với số vừa tìm được.

Ví dụ: + Ở trên ta tính Toán Kể la 10, như vậy bỏ 0 lấy 1, 1 là biệt số của cung CÀN-> an Kể Đại Tướng vào cung CÀN

+ Lấy 1*3 = 3, như vậy an Kể Tham Tướng vào cung có mang biệt số 3 là cung CẤN.

Toán Định - Định Đại Tướng - Định Tham Tướng:

Tìm Định Mục an tại cung nào, đếm theo chiều thuận đến cung CHÍNH THẦN gần Thái Ất nhất. Công toàn bộ biệt số của các cung CHÍNH THẦN vị khi đi qua, nếu Định Mục ở cung Gián Thần thì tính là 1, các cung Gián Thần khác bỏ qua, nếu Định Mục ở cung Chính Thần thì bỏ toàn bộ các cung Gián Thần không kể.

Ví dụ:

+Định Mục đóng tại cung Dần, Thái Ất đóng tại cung Khôn.

+Theo chiều thuận từ cung Dần thì cung CHÍNH THẦN gần Thái Ất nhất là cung Ngọ (LY) có số 2.

+Định Mục ở cung Gián Thần ( Dần) cho nên tính là 1, lần lượt đi qua Mão (Chấn) (3), TỐN (9) , NGỌ (LY) (2)-> Toán Định là 1+3+9+2=15

Tính Toán Định xong nếu lớn hơn 10 thì bỏ hàng chục chỉ dùng hàng đơn vị, nếu là số tròn chục thì bỏ hàng đơn vị mà lấy hàng chục. An Định Đại Tướng vào cung tương ứng với số vừa tìm được.

Lấy số cung của Định Đại Tướng nhân với 3, lớn hơn 10 thì chỉ dùng hàng đơn vị, bỏ hàng chục, an Định Tham Tướng vào cung tương ứng với số vừa tìm được.

NGŨ PHÚC:

Ngũ Phúc là đệ nhất phúc tinh, đi đến đâu nơi đấy không binh cách, có nó nơi Thân Mệnh thì Phúc, Lộc, Thọ, Khang Ning.

Ngũ Phúc ở trong tòa Tử Vi Viên, đi lần lượt qua 5 cung là CÀN, CẤN, TỐN, KHÔN và cung GIỮA. Mỗi cung lưu trú 45 ngày. Dùng 225 ngày để đi hết một chu kỳ

Muốn an sao Ngũ Phúc ta làm theo các bước sau đây:

+Tích Nhật cộng với doanh sai là 115.

+Lấy kết quả tìm được chia cho 225 , lấy số dư.

+Lấy số dư vừa tìm được chia 45, tìm Thương Số.

Thương số bằng 1 -> Ngũ Phúc ở cung CẤN

Thương số bằng 2 -> Ngũ Phúc ở cung TỐN

Thương số bằng 3 -> Ngũ Phúc ở cung KHÔN

Thương số bằng 4 -> Ngũ Phúc ở cung Giữa

Thương số bằng 5 hoặc 0 -> Ngũ Phúc ở cung CÀN

Ví dụ: Tích Nhật 255

+Lấy 255 + 115 = 370

+370=225 * 1 + 145-> Số dư của phép chia 370 cho 225 là 145

+Lấy 145 đem chia cho 45 được 3 dư 10.

+Thương số là 3-> Ngũ Phúc an tại cung KHÔN.

TAM CƠ ( hay là Quân Cơ, Thần Cơ, Dân Cơ)

Quân Cơ, Thần Cơ, Dân Cơ đi qua 12 cung ( Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi), không đóng tại 4 cung CÀN, KHÔN, CẤN , TỐN.

Quân Cơ khởi từ cung Ngọ, ở mỗi cung 30 ngày, mất 360 ngày để đi hết một chu kỳ. Thần Cơ khởi từ cung Ngọ, ở mỗi cung 3 ngày, mất 36 ngày để đi hết một chu kỳ. Dân Cơ ở cung Tuất, mỗi một cung ở một ngày, mất 12 ngày để đi hết một chu kỳ.

Đế an Tam Cơ, chúng ta làm một bước chung như sau: Lấy Tích Nhật thêm doanh sai 250.

+Với Quân Cơ: lấy số vừa tính được ở trên chia cho 360 lấy số dư. Đem số dư này chia cho 30 lấy Thương Số. Khởi từ cung Ngọ tính là 1, đếm theo chiều thuận đến (Thương Số + 1), dừng lại ở cung nào thì an sao Quân Cơ tại cung đó.

+Với Thần Cơ: lấy số Tích Nhật thêm 250, chia 36 lấy số dư. Đem số dư này chia cho 3 lấy Thương Số. Khởi từ cung Ngọ tính là 1, đếm theo chiều thuận đến (Thương Số + 1) , dừng lại ở cung nào thì an sao Thần Cơ tại cung đó.

+Với Dân Cơ: lấy Tích Nhật thêm 250, chia 12 lấy số dư, khởi từ cung Tuất là 1, đếm theo chiều thuận đến Số Dư, dừng lại ở cung nào thì an Dân Cơ ở cung đó.

4 vị Thần hung : Tứ Thần, Thiên Ất, Địa Ất, Trực Phù:

+Bốn vị Thần hung này lần lượt đi qua 9 cung Chính Thần, Giáng Cung, Minh Đường, Ngọc Đường. Sách Thái Ất Thần Kinh chép : Giáng Cung ở cung Tỵ, Minh Đường ở cung Thân, Ngọc Đường ở cung Dần; sách của Tàu chép Giáng cung là cung 9 TỐN, Minh Đường là cung 1, Ngọc Đường là cung 7. Tôi chọn theo Thái Ất Thần Kinh.

+Bốn vị Thần Hung này hành qua 12 cung, mỗi cung ở 3 năm, như vậy cần 36 năm để đi hết một chu kỳ.

+Để an chính xác bốn vị Thần Hung chúng ta làm như sau:

.Các bạn nên viết ra tờ giấy theo thứ tự sau: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Tỵ Thân Dần

.Lấy Tích Nhật chia cho 36 lấy số dư.

.Số dư đem chia cho 3 lấy Thương số và Dư số (2)

.Tứ Thần khởi từ cung 1 và đếm là 1, theo chiều thuận lần lượt đi qua các cung đã viết theo thứ tự như trên, đến (Thương số +1) dừng lại ở cung nào an Tứ Thần vào cung đó.

.Thiên Ất khởi cung 6, Địa Ất khởi cung 9, Trực Phù khởi cung 5 và cũng đếm hoàn toàn như vậy, hết vòng thì quay lại.

Ví dụ : Tích Nhật được 39

+Lấy 39 chia 36 dư 4

+3 chia 3 được 0 dư 3

+Như vậy Tứ Thần an ở cung 2, Thiên Ất ở cung 7, Địa Ất cung Tỵ, Trực Phù cung 6.

Tiểu Du và Tiểu Du Thiên Mục:

Riêng trong phép Thái Ất Nhật Kể, Tiểu Du luôn đồng cung Thái Ất, và nó chính là Thái Ất.

Tiểu Du Thiên Mục cũng chính là Văn Xương, nhưng vị trí đứng thì khác:

+Tích Nhật chia 18 lấy số dư

+Khởi từ cung KHÔN đếm theo chiều thuận đến hết số dư, dừng lại ở đâu, an Tiểu Du Thiên Mục ở đó. (Khi qua CÀN hay KHÔN phải tính 2 lần).

Sau này khi luận về Mệnh, Tiểu Du Thiên Mục cũng chính là Văn Xương, có nó nhập miếu ở Mệnh, mà trong 4 Trụ chính , Thân Mệnh lại có thêm Văn Xương nữa là cách hai Văn Xương đi cùng nhau. Nếu cả hai sao này đều nhập miếu thì tài năng vượt trội hẳn người thường, học một biết mười, sau này là trụ đá của nhà nước.

Ngoài những sao đã an ở trên, còn có một sao nữa là PHI PHÙ nó là ác thần, sao này chỉ có bảng liệt kê vị trí đứng của nó, chứ cách an ra sao thì không thấy nói đến ( tài liệu gốc bị mất mấy trang nói về cách an sao Phi Phù), cho nên bạn nó có điều kiện thì tìm bảng này ở trong Thái Ất Thần Kinh để tự an sao PHI PHÙ cho mình.

Như vậy sau khi an xong chúng ta thấy: Sao chủ là THÁI ẤT và TIỂU DU. Đi theo nó có tất cả 4 Mục ( 4 Mắt)

+ Văn Xương ( và Tiểu Du Thiên Mục) hay là Chủ Mục nó là phụ tướng của Thái Ất, soái lãnh binh quyền ở gần Vua. Theo hầu nó có Đại Tướng Chủ và Tham Tướng Chủ

+Kể Thần hay là Kể Mục là con rồng đuốc của Thái Ất, đo độ số của Thái Ất ở chốn U Minh, là thần hiệu lệnh truyền đạt ý chỉ của Trời. Nó dùng để trợ CHỦ, nắm quyền giám sát. Theo hầu nó có Kể Đại Tướng và Kể Tham Tướng.

+Thuỷ Kích hay là Khách Mục giữ vai trò khích bác bên ngoài, đến Thượng Đế cũng phải e dè. Là Hung Thần chủ tai hoạ binh đao hạn hán. Nắm giữ uy quyền sinh sát và huỷ diệt. Theo hầu nó có Đại Tướng Khách và Tham Tướng Khách.

+Kể Định hay là Định Mục là phụ tướng của Thái Tuế, đo lường độ số hiện tại của Thái Ất, nó nắm vai trò trợ khách. Theo hầu nó có Định Đại Tướng và Định Tham Tướng.

Như vậy Thái Ất là Vua thống cả bầu trời, đứng trước sao Bắc Thần thụ mệnh của Thiên Đế cai quản về thiên tai lũ lũt dịch bệnh..... liên quan đến nó có 4 MỤC, mỗi Mục chia nhau nắm giữ những phận sự khác nhau, tương hỗ hoặc tương phản nhau. Hoà thì CÁT mà không HOÀ thì hung. Cho nên thuật Thái Ất chú trọng nhất vào con TOÁN, Toán Hoà thì Cát, Toán không hoà thì Hung. Toán Hoà dầu có bị Yểm, Bách, Tù, Giam, Kích cũng ít tai nạn, Toán Không Hoà dầu Mệnh có quý thần cũng không bền lâu.

Ngũ Phúc là chòm sao Thiên Hoàng Đại Đế nằm trong Tử Vi Viên, chủ ban ân, giáng phúc. Nơi nào gặp Thuỷ Kích hay Đại Du hình sát nếu có Ngũ Phúc thì tai ương bay sang phương đối xung. Mệnh Thân có nó chủ Phúc Lộc Thọ Khang Ninh.

Quân Cơ nằm gần sao Bắc Thần trong Toàn Tử Vi Viên ( trong Quân Cơ có sao Tử Vi của chòm Tiểu Hùng) chủ phúc đức, quyền hành, phú quý. Thân Mệnh, hay 4 trụ chính có nó là tối quý.

Thần Cơ nằm trong toà Thái Vi Viên, chủ về phúc đức, thông minh, tài năng an bang định quốc. Nhập miếu ở Mệnh Thân hay bốn trụ chính là quan đến Tam Công.

Dân Cơ nằm trong toàn Thiên Thị Viên, có nó ở Mệnh Thân hay 4 trụ chính tuy không làm quan Thanh Hiển xong cũng là phú gia địch quốc ít ai bì. Cung Tài Bạch có Dân Cơ là tối quý.

Sau đây tôi chấm dứt về phần an sao. Bắt đầu từ lần sau xin nói về thế thức Yếm, Tù Bách Cách, về con Toán của Thái Ất.

Hy vọng khi đọc xong các bạn đã có thể tự an cho mình một Lá Số Thái Ất

Thái Ất và các thể thức biến hóa:

Thần Thái Ất động không ngừng, cứ 3 đơn vị thời gian rời 1 cung, hành 1 chu kỳ hết 24 đơn vị thời gian. Trong quá trình di chuyển tất không thể không gặp các cách sau đây:

YẾM:

+ Thủy Kích cùng cung Thái Ất gọi là Yểm. Gặp Thái Tuế thì cha con dễ ly tán hoặc bất hòa không ở chung với nhau. Hạn Dương Cửu mà gặp thì nhà dễ bị trộm cắp hoặc có việc liên quan đến pháp luật hình ngục.

+ Nếu trong lá số bị Yểm thì khi hạn đến cung đó nếu rơi vào lúc tuổi trẻ sẽ bị nhọt sảy, khó nuôi, đời sống cực khổ, rượu chè. Rơi vào lúc trung tuần (từ ngoài 40) thì phá tán sản nghiệp, lúc tuổi già thì bệnh tật ốm đau nặng.

KÍCH:

+Thủy Kích ở trước cung Thái Ất là Ngoại Kích, Thủy Kích ở sau cung Thái Ất là Nội Kích.

+Nếu Thủy Kích nằm ở cung CHÍNH THẦN và cách Thái Ất 1 cung GIÁN THẦN thì gọi là CUNG KÍCH.

+Nếu Thủy Kích nằm ở cung GIÁN THẦN và sát ngay cung Thái Ất thì gọi là THỜI KÍCH.

+Thái Tuế mà gặp thì gia đạo xảy ra lục đục, nhà cửa đất đai bị cháy, bị mất cắp.

+Số hạn mà gặp thì quan chức mất hết, tính mạng nguy, bệnh tật liên miên.

+Cung Kích tai nạn đến chậm, Thời Kích tai nạn đến nhanh.

BÁCH

+Thủy Kích cùng 8 Tướng ở trước hay sau Thái Ất gọi là BÁCH.

+Thái Tuế mà gặp tai họa đều phát. Hạn gặp thì tổ nghiệp tan tành, phá gia bại sản.

CÁCH

+Thủy Kích ở cung Xung chiếu với Thái Ất gọi là CÁCH, Thủy Kích cùng với 4 Tham Tướng ở cung xung chiếu với Thái Ất cũng gọi là CÁCH.

+Thân, Mệnh bị Cách là có họa lớn. HẠN mà gặp tai họa hình ngục đếu phát. Nếu Thủy Kích lại cùng Thái Tuế xung Thái Ất thì thê thiếp không vẹn toàn.

+Người già mà gặp hạn này tất phải đoán là hạn chết.

+Tám Tướng cùng Văn Xương hoặc chỉ Tám Tướng cùng cung Thái Ất gọi là TÙ.

+Hạn Dương Cửu mà gặp nếu lại ở 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu, Tốn, Càn thì tất phát bệnh điên cuồng loạn trí.

+Hạn Bách Lục mà gặp cùng Thái Tuế, Toán lại không hòa tất tật bệnh kinh quái, hại vợ hại con.

TÍNH

+Văn Xương cùng Thái Ất cùng cung gọi là TÍNH ( Chặn). Hai tướng Khách cùng cung Văn Xương, hoặc hai Tướng Chủ gọi là Khách chặn chủ, hai tướng Chủ ở cùng cung Thủy Kích hoặc hai Tướng Khách gọi là Chủ chặn Khách.

+Ngày giờ mà gặp lục thân không hòa, gia đình bất an.

+Số hạn mà gặp nếu rơi vào cung Mệnh là hạn chết, rơi cung Cha Mẹ là mất cha mẹ, vào cung Thê Thiếp mà mất vợ mất chồng, vào cung Quan là mất quyền.

ĐỐI

+THái Ất và Văn Xương đối nhau gọi là ĐỐI, Khách Chủ 4 Tướng mà đối cung Thái Ất cũng là ĐỐI

+Thủy Kích đối cung Văn Xương gọi là GIAM.

+Hạn mà gặp nếu Toán không hòa thì bệnh nặng, có khi mạng vong.

(BÀI VIẾT CỦA CỐ GS.TS.TRẦN QUANG VŨ)

TOÁN HOÀ - TOÁN KHÔNG HOÀ :

Trong môn Thái Ất Nhật Kể, Toán tuy không đóng vai trò quan trọng sống còn như trong Thái Ất thời kể, nhưng không thể xem thường nó được.

Mệnh Thân rất tốt nhưng Toán không hoà, hạn đến các cung có Yểm, Kích, Cách, Bách thì hoạ đến thân, quan chức mất hết, có khi vong mạng.

Toán hoà, Mệnh Thân tốt dù có bị Yểm Kích Cách Bách cũng là tai nạn nhỏ dễ tránh.

1. Toán như đã trình bày từ trước gồm Toán Chủ, Toán Kể, Toán Khánh và Toán Định. Để xem xét HOÀ hay không HOÀ cần phải để ý bốn Mục : Chủ Mục ( Văn Xương) cho Toán Chủ, Kể Mục (Kể Thần) cho Toán Kể, Khách Mục ( Thuỷ Kích) cho Toán Khách, Định Mục cho Toán Định.

+Khi các MỤC đóng ở cung CHÍNH THẦN thì ta gọi là các MỤC đóng ở cung Dương, đóng ở các cung GIÁN THẦN thì ta gọi là các MỤC đóng ở cung Âm.

+Chủ Mục đóng tại cung Dương, Toán Chủ là số CHẴN; Chủ Mục đóng tại cung Âm, Toán Chủ được số LẺ thì ta gọi Toán Chủ HOÀ. Chủ Mục đóng tại cung Âm , Toán chủ được Chẵn; hay là Chủ Mục đóng tại cung Dương mà Toán Chủ được Lẻ thì ta gọi TOÁN CHỦ không HOÀ. Đối với Kể Mục, Khách Mục, Định Mục xét hoàn toàn tương tự như trên.

2. Sau khi đã xem xét hết 4 MỤC, thì xem đến Thái Ất. Thái Ất đóng cung Dương, Toán được Chẵn hay Thái Ất đóng cung Âm, Toán được Lẻ ta nói Toán Hoà, nếu không như thế thì là Toán Không Hoà. Lần lượt xét qua Toán Chủ, Toán Kể, Toán Khách, Toán Định để biết Hoà hay không Hoà

Toán nếu thoả mãn được cả 2 điều kiện trên là rất tốt, nếu chỉ thoả điều kiện 1 mà không thoả 2 thì vẫn coi là TOÁN HOÀ, điều kiện 1 bị vi phạm là Toán không HOÀ. Cho nên Điều Kiện 1 là quan trọng hơn điều kiện 2.

Khi Toán đã HOÀ, lại chia ra 3 loại: Thượng Hoà, Trung Hoà, Hạ Hoà

+Thượng Hoà là các Toán mang số 14, 18 : cả đời vinh hiển, làm quan cao, giàu có, đời sống phong thịnh, đất trời khánh hội.

+Trung Hoà là các Toán mang số 23,29,32,36: phúc lộc dày, tai nạn không gặp.

+Hạ Hoà là các Toán mang số 12,16,21,27,34,38: tài lộc đầy đủ, ít tai nạn

Được 3 loại Toán Hoà này thì dù có vận hạn xấu, cũng ít lo tai nạn, đổi hung hoá cát.

Khi Toán không HOÀ, ta chia ra xét những trường hợp sau:

+Toán được 13,19,31,37 gọi là toán tạp trùng dương. Gặp phải Toán này là người tẹp nhẹp, chậm chạp, gặp Vận Hạn xấu, hạn Dương Cửu, hạn Bách Lục chắc chắn gặp kiện cáo, hình ngục tù tội. Nếu không cũng phải gió cắn răng mà chết.

+Toán được 24,28 gọi là toán tạp trùng âm. Gặp phải Toán này là người phiêu lưu, gặp vận số xấu thì mất của, mất việc, nếu hạn quá xấu có thể mạng vong.

+Toán được 11,17 gọi là toán nội âm trùng dương. Gặp phải Toán này là người cuộc đời gặp nhiều trở ngại. Nếu bị Ép, Yếm tất phát cuồng, lâm vào hình ngục. Hạn Dương Cửu, Bách Lục tất không tránh khỏi tai hoạ.

+Toán được 33, 39 gọi là toán thuần dương. Gặp phải Toán này là người hung bạo. Gặp hạn Dương Cửu, Bách Lục tất tai nạn tổn hao điền sản của cải mạnh mẽ, nếu hạn quá xấu tất chết nơi tù ngục.

+Toán được 22, 26 gọi là toán thuần âm. Gặp phải Toán này là người quá nhu nhược, vận hạn xấu tất vướng vào tranh cãi, kiện tụng. Người nữ mà gặp là phường đa dâm, bất chính.

+Toán vô thiên: nghĩa là Toán được số từ 1 đến 9 ( chưa tròn chục) : khắc hại cha, lúc bé ở gần khiến cho cha phá sản, mất nghiệp.

+Toán vô địa: nghĩa là toán được 1-> 4; 11->14; 21->24; 31->34 ( chữ số hàng đơn vị nhỏ hơn 5): khắc hại mẹ, sau này lớn lên khắc hại vợ, phá bỏ hết sản nghiệp.

+Toán vô nhân: nghĩa là toán được các số tròn chục 10, 20, 30, 40: có nghịêp nhưng phá bỏ hết, có quan không chính, việc làm hư dối, dai dẳng, ăn mặc không đủ.

Chú thích:

+ 1-> 4 nghĩa là 1, 2, 3, 4. 11->14: 11,12,13,14;.....

+Khi xem xét Toán Hoà hay không hoà phải xem xét cẩn thận từng bước như trên lần lượt cho Toán Chủ, Toán Kể, Toán Khách, Toán Định. Nếu Toán Hoà, phải xem mình được Thượng, Trung hay Hạ Hoà, nếu không nằm trong số đó thì chỉ là bình thường. Nếu Toán không hoà, phải xem mình bị vướng vào những loại nào, nếu không vào các loại đã kể trên thì củng chỉ là bình thường, không đáng lo lắm.

+Toán vô thiên, vô địa, vô nhân gọi chung là Toán TAM TÀI KHÔNG, nếu vận hạn đến cung có Yểm, Kích, Cách, Tính lại có Sát Thần hãm là những người lục thân xa lìa, phá tán tổ nghiệp, làm điều bất chính. Mệnh dù có Cát Thần, Phúc Thần đến cứu giúp cũng vẫn không khỏi gian nan vất vả, khắc hại mẹ cha, sau này lìa xa bản quán.

VẬN HẠN

Vận Hạn trong môn Thái Ất rất phức tạp, cho nên tôi sẽ trình bày từ từ từng bước một các loại Vận Hạn, và phân tích kỹ lưỡng ảnh hưởng của nó.

Vận Hạn trong môn Thái Ất bao gồm Hạn Dương Cửu, Hạn Bách Lục, Hạn Lưu Niên, Hạn Lộc và Hạn Mã. Trong đó quan trọng nhất phải kể đến Hạn Dương Cửu và Hạn Bách Lục. Để luận đoán vận hạn đòi hỏi phải có kiến thức về Kinh Dịch và 64 Quẻ Dịch. Cho nên điều kiện là đã biết và hiểu 64 quẻ Dịch. Nếu không thì không xem nổi Vận Hạn trong môn Thái Ất.

1. Hạn Dương Cửu

Để tính hạn Dương Cửu chúng ta làm theo các bước sau:

+Tìm CAN của NGÀY SINH và xem CAN này hoá thành HÀNH nào trong Ngũ Hành

. Giáp Kỷ hoá Thổ

. Ất Canh hoá Kim

. Bính Tân hoá Thuỷ

. Đinh Nhâm hoá Mộc

. Mậu Quý hoá Hoả

+Sau đó tìm vị trí TRƯỜNG SINH của HÀNH này đóng ở cung nào thì dùng cung đó để khởi tính Hạn. Trong HÀ ĐỒ: Trời lấy 1 mà sinh Thuỷ, lấy 2 mà sinh Hoả, lấy 3 sinh Mộc, lấy 4 sinh Kim và lấy 5 sinh Thổ. Cho nên khi đã định được vị trí cung Trường Sinh của Hành hợp hoá Can Ngày, ta khởi như sau:

. Hành Thổ thì Trường Sinh ở Ngọ, ở cung Ngọ ghi số 5

. Hành Kim thì Trường Sinh ở Tỵ, ở cung Tỵ ghi số 4

. Hành Thuỷ thì Trường Sinh ở Thân, ở cung Thân ghi số 1

. Hành Mộc thì Trường Sinh ở Hợi, ở cung Hợi ghi số 3

. Hành Hoả thì Trường Sinh ở Dần, ở cung Dấn ghi số 2

Ví dụ: Nam, sinh ngày Mậu Dần.

+Mậu hoá HOẢ, Hoả Trường Sinh ở Dần

+Bắt đầu từ cung Dần theo chiều THUẬN ( cho con trai), theo chiều NGHỊCH ( cho con gái). Đây là con trai ( trong ví dụ) cho nên sẽ đi theo chiều thuận.

Chúng ta ghi ở Dần số 2 ( tức là năm 2 tuổi bắt đầu vào hạn Dương Cửu và hạn ở cung Dần), sang cung Mão ghi số 4 ( tức là từ năm 4 tuổi hạn Dương Cửu bắt đầu đi vào cung Mão),.... cứ tính như vậy lần lượt đi qua 12 cung ( không tính các cung CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN).

Ví dụ: Nữ, sinh ngày Giáp Tý.

+Giáp hoá Thổ, Thổ Trường Sinh ở Ngọ.

+Ghi ngay ở cung Ngọ số 5. Do là con gái nên đi theo chiều nghịch. Như vậy cung Tỵ ghi số 10,..... tức là ( bắt đầu từ năm 5 tuổi hạn Dương Cửu ở Ngọ), bắt đầu từ năm 10 tuổi hạn Dương Cửu ở Tỵ ,....

* Ghi chú: bản thân tôi nghi ngờ vị trí Trường Sinh của hành Thổ ở Ngọ, đúng ra là nên ở DẦN, nhưng sách ghi nguyên bản như vậy nên tôi chép ra y nguyên không dám sửa chữa. Các bạn dùng kiểm tra Vận Hạn rồi tự điều chỉnh.

+ Hạn Dương Cửu đến cung nào, nếu gặp Cát Thần Phúc Thần thì đời hoạnh phát. Toán Hoà lại không bị Yểm Kích Cách Bách Tính thì đường lối thênh thang, làm gì cũng suôn sẻ. Trái lại nếu gặp Hung Thần, lại ở 4 cung sau Tý Ngọ Mão Dậu, thì rất hung. Toán Hoà thì tai hoạ đến nhanh mà qua cũng nhanh, Toán không hoà tất thân mang hoạ, rơi vào cung nào cung đó chịu.

Như gặp cả Hung Thần và Cát Thần phải chia ra xem Hung Thần đóng ở cung đó là nơi Sinh Vượng hay Tử Tuyệt, nếu đóng nơi Sinh Vượng thì tai hoạ to, đóng nơi Tử Tuyệt thì Hung Thần hết lực không thành hoạ. Cát Thần cũng vậy nếu Vượng Tướng mới hoạnh phát được, chứ còn bị Tử Tuyệt cũng chỉ là cái vỏ không có chất, hữu danh vô thực, không tác dụng cứu giải.

HẠN BÁCH LỤC

Để tính hạn Bách Lục chúng ta cần biết sơ về Hà Đồ và số của Ngũ Hành phối trong Hà Đồ.

Trong Hà Đồ chúng ta có:

+Trời lấy 1 sinh Thuỷ và Đất lấy 6 để thành Thuỷ, như vậy Tổng số SINH THÀNH cho Thuỷ là 6+1=7.

Thiên Can Nhâm, Quý; Địa Chi Tý, Hợi thuộc Thuỷ cho nên được phối với số 7.

+Trời lấy 2 sinh Hoả và Đất lấy 7 để thành Hoả, như vậy Tổng số SINH THÀNH cho Hoả là 2+7=9.

Thiên Can Bính, Đinh; Địa Chi Tỵ, Ngọ thuộc Hoả cho nên được phối với số 9.

+Trời lấy 3 sinh Mộc và Đất lấy 8 để thành Mộc, như vậy Tống số SINH THÀNH của Mộc là 3+8=11

Thiên Can Giáp Ất; Địa Chi Dần, Mão thuộc Mộc cho nên được phối với số 11.

+Trời lấy 4 sinh Kim và Đất lấy 9 để thành Kim, như vậy Tống số SINH THÀNH của Kim là 4+9=13

Thiên Can Ật, Canh; Địa Chi Thân, Dậu thuộc Kim cho nên được phối với số 13

+Trời lấy 5 sinh Thổ và Đất lấy 10 để thành Thổ, như vậy Tổng số SINH THÀNH của Thổ là 5+10=15

Thiên Can Mậu, Kỷ; Địa Chi Thìn Tuất Sửu Mùi thuộc Thổ cho nên được phối với số 15.

Để tính hạn Bách Lục, chúng ta dùng CAN CHI của Giờ Sinh và Ngày Sinh.

+Dùng ngày sinh và giờ sinh đổi ra số theo như số phối đã chỉ ở trên cho Địa CHi và Thiên Can cùng ngũ hành nạp âm của Can Chi Ngày, Giờ. Cộng hết tất cả các số lại.

+Sau khi tìm ra đem Tổng số trên công với 55 ( số Trời Đất).

+Lấy số vừa tìm được đem chia cho 60 lấy phần dư , phần dư này gọi là SỐ CHỊU KHÍ.

+Từ NGÀY SINH kể là số 1 chuyển ngược vòng Lục Thập Hoa Giáp đến Số Chiu Khí, dừng lại ở đâu đó là Ngày Chịu Khí. Xem Ngày Chịu Khí có CAN CHI gì và tìm xem CAN của Ngày Chịu Khí hoá hợp thành Ngũ Hành nào và mang số mấy ( về Thiên Can hợp hoá - xin xem lại phần Hạn DƯƠNG CỬU )

+Xem Ngũ Hành hợp hoá của CAN Ngày Chịu Khí Trường SInh ở cung nào thì cung đó là cung khởi tính Hạn Bách Lục. Đại Hạn 10 năm 1 cung ( không tính 4 cung Càn Khôn Cấn Tốn) đi theo chiều thuận cho Nam, chiều nghịch cho Nữ. Tiểu Hạn 1 năm 1 cung ( không tính 4 cung Càn Khôn Cấn Tốn) đi theo chiều nghịch cho Nam và chiều thuận cho Nữ.

Ví dụ :

Nam, sinh ngày Mậu Dần, giờ Canh Thân. Phải tìm hạn Bách Lục??

+Đổi hết CAN CHI của Ngày Giờ Sinh ra số :

Mậu là Thổ -> 15

Dần là Mộc -> 11

Mậu Dần nạp âm là Thổ -> 15

Canh là Kim ->13

Thân là Kim -> 13

Canh Thân nạp âm là Mộc -> 11

Lập tổng: 15+11+15+13+13+11=78

+Cộng với số Trời Đất 55 : 78+55=133.

+Đem 133 chia cho 60 lấy số dư. 133 =60*2 + 13-> số dư là 13

+Từ Ngày Sinh là Mậu Dần tính là 1 chuyển ngược vòng Lục Thập Hoa Giáp như vậy là Đinh Sửu mang số 2, Bính Tý mang số 3 ,.... cho đến Bính Dần thì thấy mang số 13 = SỐ CHỊU KHí thì dừng lại -> Ngày CHịu Khí là BÍNH DẦN.

+BÍNH, TÂN hoá Thuỷ, mang số 1. Thuỷ Trường Sinh ở THÂN.

+Như vậy từ cung Thân khởi 1 Tuế. Do là con trai cho nên Đại hạn đi theo chiều thuận và Tiểu Hạn đi theo chiều nghịch. Như vậy từ 1 - 10 tuổi , Đại Hạn Bách Lục ở cung Thân , 11-20 tuổi ở cung Dậu, 21-30 tuổi ở cung Tuất, 31-40 tuổi ở cung Hợi,.....

Tiểu Hạn năm 1 tuổi ở cung Thân, 2 tuổi ở cung Mùi, 3 tuổi ở cung Ngọ,.....

PHI LỘC - PHI MÃ

Để Tính hạn Phi Lộc và Phi Mã căn cứ vào CAN của Năm Sinh. Xem CAN Năm Sinh hợp hoà thành Hành nào, Hành này Trường Sinh ở đâu thì đó là nơi khởi tính Hạn.

Hạn Lộc đi xuôi, hạn Mã đi ngược , cứ 10 năm đi qua 1 cung.

Ví dụ :

Sinh Năm Quý Hợi.

Mậu Quý hoá Hoả , khởi 2 ở cung Trường Sinh của Hoả là Dần. Như vậy từ lúc 2 tuổi đến 11 tuổi hạn Mã ỡ Dần. Từ 12-21 tuổi ở Sửu ,....

Từ 2 đến 11 tuổi hạn Lộc ở Dần, từ 12-21 tuổi ở Mão ,....

Hạn Lộc chủ về phát tài, có lộc. Lộc rơi vào đâu, ở cung đó sẽ có Lộc ăn.Nếu đi với Hung Thần sẽ biểu hiện cho việc mất của ( nếu ở cung Tài), mất nhà đất ( nếu ở cung Điền). Cân nhác Cát Hung để rõ được Lộc hay mất Lộc.

Hạn Mã chủ về hanh thông, di chuyển. Nếu cung nhập hạn xấu là chủ tai nạn.

Tôi chỉ trình bày ở đây hạn Dương Cửu , Bách Lục, Phi Mã, Phi Lộc... ngoài ra nhiều dị bản còn có cả Đại Hạn, Tiểu Hạn,.... thực tế ra là chỉ làm cho Thái Ất thêm rắc rối.

Bắt đầu từ bài sau, tôi sẽ luận về tính chất các sao của Thái Ất.

(BÀI VIẾT CỦA CỐ GS.TS.TRẦN QUANG VŨ)

THÁI ẤT

Thái Ất là tôn thần của Thiên Đế, đứng đầu 16 Thần. Nó ở hành 3 năm , 3 tháng, 3 ngày, 3 giờ 1 cung Thần. Chỉ đóng tại 8 cung Chính Thần và không vào Trung Cung. 3 khoảng đơn vị thời gian này lại chia ra Lý Thiên, Lý Địa, Lý Nhân.

Thái Ất hành Lý Thiên thì tạo ra mưa gió, bão lụt , trời trăng đổi vần; hành Lý Địa thì gây ra động đất , sâu bệnh, mùa màng thất bát; hành Lý Nhân thì gây ra tật bệnh, chết người số lượng lớn. Đó là khi xem về Tuế Kể , dựa vào điềm trời báo này mà Vua phải nghiêm chỉnh sửa mình , sửa sang Pháp Luật, thì mưa thuận gió hoà, dân sống yên vui.

Ở Kể Ngày, Mệnh Thân có sao Thái Ất chủ công danh, quyền lực, có tư cách lớn với đời.

Thái Ất nhập miếu tại Dần, Mão, Hợi, Mùi ; đắc địa tại Tý, Hợi, Thìn, Tuất; hãm tại Thân, Dậu, Ngọ, Tỵ. Thái Ất cư Hợi là Khoa Danh, ở Dần là nơi Vượng địa, ở Mão là nhập miếu. Ví Mệnh Thân ở các cung trên có Thái Ất lại thêm Kể Thần, Quân Cơ, Thần Cơ, Dân Cơ là người học nghiệp tinh thông, thi cử đỗ đạt, trên đời hiếm có.

Thái Ất nhập miếu mà gặp phải Thuỷ Kích là phá cách chủ cuộc đời lận đận khắc hại cha mẹ, duy có hai tuổi Mậu Quý Thái Ất + Thuỷ Kích tại hai cung Dần , Tuất là bậc chân nhân Thiên Tử.

Thái Ất gặp Thiên Ất là chủ về văn chương sắc cạnh, hùng hổ chứ không cẩm tú trau chuốt.

Thái Ất gặp Ngũ Phúc là bậc anh linh tuấn kiệt, sinh con quý tử, công huân sự nghiệp rạng rỡ. Nhưng nếu ở hai cung Ngọ, Dậu là nơi hãm của Ngũ Phúc và Thái Ất thì cuộc đời thất bại, hoàn toàn là phá cách, chỉ trông mong vào vận hạn để mát mặt một thời gian , kết cục cũng không toàn vẹn.

Thái Ất đi cùng Thần Cơ là người có hình dung thần thái, tướng mạo hiền, là bậc siêu quần, nếu có đi tu cũng là bậc chân nhân tiên giả. Nếu có thêm Đại Tướng Chủ và Đại Tướng Khách từ các cung Xung Chiếu và Tam Hợp chiếu vào là bậc sang nơi điện các, không ở ngôi Vua nhưng quyền nghiêng thiên hạ, nắm giữ binh quyền.

Thái Ất đi cùng Quân Cơ là bậc văn võ toàn tài , nhưng ăn về Hậu vận, thưở thiếu thời khó khăn.

Thái Ât đi với Phi Phù ở cung hãm là người cả đời lêu lổng, hại vợ con. Nếu có Ngũ Phúc thì cuộc đời dễ chịu hơn nhưng vợ con cũng không toàn vẹn.

Tóm lại chúng ta thấy THÁI ẤT cũng như Tử Vi, Thái Tuế trong Tử Vi rất cần các Cát Thần đồng cung sẽ là người có tư cách lớn, nắm quyền trong thiên hạ. Ngược lại nếu gặp các Hung Thần thì cũng lẹt đẹt, vướng vào luật pháp tù tội.

Ví dụ như Ngày Sinh xung đối với cung an Thái Ất thì ta gọi là Thái Tuế bị xung. Thái Tuế tượng Vua, xung Vua chẳng yên bao giờ , cho nên mệnh bị Xung Thái Tuế là cách cuộc đời gặp nhiều bất mãn, phải đấu tranh cực khổ

Ngoài ra khi xem Lá Số Thái Ất phải chú ý kỹ đến 4 Trụ : Năm, Tháng, Ngày, Giờ. Ví dụ: Nhâm Tý Nhâm Tý N.Đinh Sửu Quý Sửu

Khi tính toán sẽ thấy Mệnh an ở Sửu, cung an Thân cũng ở Sửu. Ngoài việc xem xét kỹ cung Mệnh Thân phải chú ý rất kỹ cung Tý nữa ( vì nó là Trụ Năm và Trụ Tháng). Tầm quan trọng của nó không kém gì Mệnh Thân. Phép xem Thái Ất do chú ý cả Mệnh Thân và Bốn Trụ đồng thời Vận Hạn cho nên rất phức tạp.

NGŨ PHÚC

Ngũ Phúc nằm trong Tòa Tử Vi Viên hầu Ngọc Hoàng Thượng Đế. Ngũ Phúc nhập miếu tại Thân, Dậu, Thìn, Tuất.

Mệnh, Thân có Ngũ Phúc mà Mệnh Thân lại đóng ngay trên ngôi Ngày Giờ , cho hai tuổi Đinh Nhâm là bậc chân nhân xuất thế, điềm báo của Thiên Tử xuất hiện. Các tuổi khác cũng phú quý hội đủ Phúc, Lộc, Thọ, Khang, Ninh.

Ngũ Phúc cho hai tuổi Đinh, Nhâm là sao đầu trời Lộc , cư Thìn, Tuất là đáy lộc, cư Thân là khoa danh.

Ngũ Phúc đồng cung Quân Cơ, Thần Cơ, Dân Cơ thì lộc trập trùng, xuất tướng nhập tướng. Ngũ Phúc ở Thân đồng cung có Văn Xương là trụ đá của nhà nước, đồng cung Đại Tướng Chủ là tướng nơi nội phủ, nắm giữ binh quyền, quý không nói hết.

Ngũ Phúc ngoài tác dụng công danh, lộc, quyền nó còn là đệ nhất giải thần trong môn Thái Ất. Nó gặp hung thần cũng chế bớt cái hung của hung thần, gặp nhiều hung thần một lúc thì đời vất vả nhưng cũng không đến nỗi tuyệt mệnh.

Kỵ đồng cung với Thái Ất, Phúc giảm đi một nửa, đời nhiều lận đận. Đồng cung Thủy Kích ở Mệnh Thân, năm tháng ngày giờ thì tai họa bay sang phương đối xung.

Duy ở hai cung Dần Mão là nơi Ngũ Phúc hãm cho nên mất hết tính cứu giải, công danh. Mệnh Thân có Ngũ Phúc hãm thì cả đời tập tễnh, nếu cung Tật Ách đóng vào đây thì sức khoẻ yếu như sên.

Ngũ Phúc rơi vào trung cung thì không được hưởng gì từ sao Ngũ Phúc, thật là đáng tiếc lắm.

Ngoài ra Ngũ Phúc còn là sao chủ thiện, là đài các thần, có nó ở Mệnh Thân là người lương thiện , dáng vẻ cao sang.

Ngũ Phúc là đệ nhất phúc thần nhưng rất ngại gặp Phi Phù và Thủy Kích. Chỉ trừ khi gặp Thủy Kích ở Tuất mà phải là hai tuổi Mậu Quý thì đại phát phúc, nếu gặp vận hạn tốt sẽ là Vua sáng nghiệp thời thái bình.

Các bạn khi học Thái Ất với tôi, nên đọc thật kỹ bài SƠ LƯỢC VỀ THIÊN VĂN mà tôi đã viết.

Thái Ất trong Tam Thức thiên về Thiên do nó nghiên cứu sự chuyển động của các Tinh Tú ảnh hưởng lên Trái Đất, lên con người khác hẳn với Độn Giáp vốn bản chất là Địa Lý. Cho nên học Thái Ất mà Thiên Văn không biết 1 tý gì thì e có học đến già cũng chỉ biết KINH dạy rằng.... chứ không thể hiểu được bản chất sâu sắc của nó là gì.

Ngoài ra phải nói trước phép xem Thái Ất cái thần diệu không phải là xem MỆNH cho con người, các bạn có thể xem bằng Tử Vi đơn giản hơn nhiều. Thái Ất thần diệu ở chỗ xem xét cho cả 1 dân tộc quyết thịnh suy bĩ thái cho 1 quốc gia và để dùng binh.

Có một số tác giả họ cứ cố quy hết Thái Ất ra quẻ để luận đoán, làm như vậy có một lợi thế lớn là đơn giản hoá được Thái Ất, nhưng lại đánh mất đi cái thần là THIÊN VĂN.

Tôi xem Thái Ất chú trọng vào các Thần và Toán, sau đó mới dùng quẻ để bổ sung cho nó, chứ không dùng quẻ làm cái chính.

Thái Ất có nhiều chỗ rất khó hiểu, bản thân tôi cũng chỉ dám nhận là người đứng ở ngoài cửa và nhìn vào 1 khu vườn mênh mông chứ chưa dám nhận là người đặt chăn lên ngưởng cửa, nói chi đến chuyện bước vào khu vườn đó. Cho nên khi tôi trình bày mọi người nên suy nghĩ cho kỹ đừng vội tin ngay, phải sửa chữa cho tôi để chúng ta cùng nhau khai mở được một chút gì đó về môn đệ nhất Tam Thức này.

(BÀI VIẾT CỦA GS.TS.TRẦN QUANG VŨ)

Thái Ất - một cái nhìn tham chiếu!! Ai cũng biết môn Thái Ất và môn Độn Giáp có những liên quan mật thiết đến nhau , và như vô tình hai môn này có rất nhiều điểm tương đồng. Bản thân tôi cũng luôn có ý tưởng phải chẳng Thái Ất và Độn Giáp chính có cùng một nguồn, phải chăng Thái Ất nó chính là phần bao quát hơn , tổng quát hơn của Độn Giáp... phải chăng Thái Ất chính là đứng đầu trong Tam Thức thống nhất đạo của mọi nhà...???

Những câu hỏi như vậy làm tôi băn khoăn và day dứt hàng chục năm nay. Sách Tàu sách Ta về Thái Ất và Độn Giáp tương đối ít nhưng xin thưa bản thân tôi KHÔNG TIN vào sách của mấy ông Tàu, kẻ cứ tự coi mình là chân lý... nếu sách Tàu về Thái Ất mà đúng thì Tứ Khố Toàn Thư, Thái Ất Thông Giải,... đầy ra đấy sao chẳng có ông nào dùng nó để luận đoán... xin đừng nói rằng : "Thái Ất khó, ít có ai thông hiểu "... câu này vô lý lắm... chẳng nhẽ dân tộc 1,3 tỷ dân như Tàu lại không tìm nổi một người thông hiểu Thái Ất và Độn Giáp.

Những truyền thuyết của cụ Trạng Trình về bộ Thái Ất Thần Kinh có thể cho ta thấy... dân Tàu dù có là Gia Cát Lượng cũng chỉ thông hiểu được phần nào của Thái Ất mà thôi, người thực sự có thể nói thấu hiểu được Thái Ất chắc trong lịch sử chỉ có cụ Trạng Trình - một người VIỆT NAM....

Chính vì thế mà tôi có cùng quan điểm như anh Thiên Sứ là Thái Ất nó là môn huyền môn chính thống của dân tộc Việt của nền Văn Hoá Việt.

Với môn Thái Ất, phương châm nghiên cứu của tôi là : "Khoan đã, tại sao Thánh lại dạy như thế? Lão Thánh này dạy đúng hay dạy bậy??? ", sách Tàu hay sách ta đều có giá trị ngang nhau hết, chủ yếu là mình phải tự mày mò, tìm hiểu để nó biến thành của mình , của riêng mình không phụ thuộc gì vào sách vở cả. Hơn nữa Thái Ất là một môn KHOA HỌC cho nên xuất phát điểm của nó phải là một nền tảng rất tự nhiên, hiển nhiên trong cuộc sống chứ không phải là một thứ gì đó NHÂN TẠO. Và con đường mà tôi chọn là con đường THIÊN VĂN.

Nếu lấy sao Bắc Thần làm tâm và dựa vào Nhị Thập Bát Tú để phân định ra 4 hướng chính , 8 phương. Quan sát chùm Bắc Đẩu Thất Tinh, theo Thiên Văn Hiện Đại thật ra là 8 sao do 1 sao là sao kép , và đứng giữa chùm Bắc Đẩu Thất Tinh với sao Bắc Thần là 1 ngôi sao cũng rất sáng... gọi là sao Thái Ất. Thái Ất này cộng với 8 sao trong chòm Bắc Đẩu để tạo nên cái gọi là Cửu Tinh Quý Thần. Bằng quan sát với một cái kính Thiên Văn các bạn có thể dễ kiểm chứng là sao Thái Ất này sau xấp xỉ 2 ngày (24 h : 1h âm lịch = 2h Dương lich) thì quay về đúng vị trí cũ. Cái này nó chính khẳng định cho câu nói : "Thái Ất hành 3 giờ, 3 ngày, 3 tháng, 3 năm ở 1 cung , hành qua 8 cung , không vào cung giữa ". Thái Ất không bao giờ đi vào cung giữa ( vị trí của sao Bắc Thần chiếm đóng ).

Thái Ất thì vậy... như vậy Đại Tướng Khách Tướng mà vào trung cung hết thì sao??? Sách Thái Ất Thần Kinh không hể nhắc đến chuyện này mà chỉ nói là Đại Tướng Chủ ở trung cung cho nên Không Toán.... thật ra cái này có đúng không??? Nhất là khi dùng Thái Ất cho việc dùng binh ( Kể Giờ) vị trí của các Đại Tướng và Tham Tướng vô cùng quan trọng... nó mà vào cung giữa thì thế nào???

BÀI VIẾT CỦA GS.TS.TRẦN QUANG VŨ)

Như đã nếu ở trên, Thái Ất không bao giờ vào trung cung bởi vì Thái Ất không bao giờ đồng cung , hay nói khác đi là đi vào địa phận của sao Bắc Thần.

Người xưa tin tưởng rằng : sao Bắc Thần luôn cố định trên bầu trời cho nên nó là hình ảnh của Thượng Đế chí tôn. Còn chòm Bắc Đẩu Thất Tinh là thần của Thiên Đế , nó trấn giữ ngay cửa ra vào Tử Vi Viên. Bắc Đẩu Thất Tinh này là nơi chuyên giữ sổ sinh tử coi xét về vận mệnh của con người, quản từ đời sống thường ngày cho đến công danh bổng lộc, sống chết. Chính vì thế mà Gia Cát Lượng khi muốn xin thêm tuổi thọ phải đặt 7* 7 = 49 ngọn đèn theo 7 phương vị khác nhau của chòm Bắc Đẩu Thất Tinh, trong đó ngọn đèn bổn mệnh đặt ngay tại vị trí của sao Thiên Quyền của chòm Bắc Đẩu Thất Tinh.

Và chòm Bắc Đẩu Thất Tinh này cùng các thần khác đựơc cai quản bởi thần Thái Ất. Thái Ất đứng ngay giữa sao Bắc Thần và chòm Bắc Đẩu, nó thay trời đứng đầu 16 thần. Nắm ngôi vị chủ tể.

Khi Thái Ất bị xung với Thái Tuế, Thái Tuế tượng là Vua dưới hạ giới. Vua bị xung với Thái Ất thì chắc chắn là không có gì tốt đẹp, thường là băng vong , và cứ khi nào Thái Ất xung Thái Tuế là có sao chổi ( bất kể lớn nhỏ ) phạm vào địa phận của toà Tử Vi Viên. Lịch sử ghi chép rất rõ ràng : Năm thứ 8 đời Lữ Hậu, sao chổi rất lớn hiện ra đi vào địa phận toà Tử Vi Viên, chạy sát sang toà Thái Vi , Lữ Hậu nói : " Đó là điềm vì ta ". Tháng 8 năm đó Lữ Hậu băng. Và còn nhiều nhiều nữa mà các bạn có thể tìm đọc trong chính sử.

Bàn về các Đại Tướng, Tham Tướng Chủ và Khách. Đại Tham Tướng Chủ an theo Chủ Mục , Đại Tham Tướng Khách an theo Khách Mục. Bất cứ 1 trong 4 tướng này mà vào trung cung ( lưu ý : 4 vị tướng này không hề có trên bầu trời, họ đặt ra với mục đích sâu xa nhất là dùng binh.) , tức là 4 Tướng phạm vào địa phận của sao Bắc Thần. Bắc Thần là Thượng Đế chí tôn , cho nên bất cứ Tướng nào phạm vào thì đó đều là điềm không hay, nếu Toán lại không hoà thì tối hung. Cho nên khi hành quân , cứ thấy Đại Tướng Chủ Khách mà vào trung cung là Toán Chủ Khách không tính và án binh bất động ( nên nhớ là dùng binh phải xem KỂ GIỜ ).

Kể Đại Tướng là an theo Kể Thần, nó đo độ số u minh của Thái Ất... nhưng U Minh là cái gì?? Trong TH cả Toán Chủ và Khách đều không hoà, việc ra quân bất lợi thì phải xem đến Kể Đại Tướng... Kế Đại Tướng không ép, cách, Toán Kể hoà, Cửa Kể đủ thì mai phục chờ tiến binh sẽ lợi cho chủ, ngược lại thì nên án binh bất động.

Định Đại Tướng được an từ Định Mục nó đóng vai trò trợ giúp cho Thái Tuế ( Định Mục an dựa vào Thần Hợp).

Trong môn Thái Ất có một thần tối cao đó là thần Ngũ Phúc. Ngũ Phúc chính là chòm Tiểu Hùng gồm 5 sao , trong đó sao Bắc Thần đứng đầu. Ngũ Phúc đi đến đâu thì giáng phúc đến đấy.... chỉ trừ hai cung Dần Mão là nơi hãm địa. Ngũ Phúc vào trung cung thì giáng phúc cho bốn phương, dù có chiến tranh cũng ít thiệt hại, chết người. Do Ngũ Phúc là Bắc Thần tối cao cho nên quyền giải hạn của nó rất lớn , Thái Tuế xung Thái Ất nhưng có Ngũ Phúc thì tai hoạ không còn. Đại Du hành sát đến đâu, nơi đấy binh lửa rợp trời, nếu có Ngũ Phúc tai hoạ giảm đi một nửa.

(BÀI VIẾT CỦA CỐ GS.TS TRẦN QUANG VŨ)

Xem Thiên Văn đoán Vận Hạn

Mỗi năm cầm quyển lịch vạn niên lên, điều đầu tiên mà hàng triệu hàng tỷ người chúng ta xem chắc chắn là rà tìm xem năm nay chúng ta bị hạn sao gì chiếu. Theo kiến thức ít ỏi của tôi thì sách Lịch Vạn Niên đưa ra 9 sao hạn : Thái Dương, Thái Âm, La Hầu, Kế Đô, Thổ Tú, Mộc Đức, Hoả Đức, Thuỷ Diệu và Thái Bạch.

Những sao trên các sách Lịch Vạn Niên đưa ra có sao xấu, sao tốt, tốt cho nữ, xấu cho nam hay ngược lại và cách cúng hoá giải. Nhưng thật sự có đúng là như vậy không? Nguyên nhân từ đâu mà có những sao này?

Để đi sâu phân tích về 9 sao hạn này chúng ta cần biết về Thiên Văn, tính chất của nó. Thực tế ra thì những gì mà Lịch Vạn Niên nói về 9 sao này quả thật là một mớ hổ lốn, chẳng đâu vào đâu, chỉ để lường gạt mà thôi. Họ không hiểu gì về những kiến thức của Phương Đông ngày xưa.

Bài viết này xin phân tích lần lượt 9 tinh đẩu trên, nó là sao nào trên bầu trời, ảnh hưởng ra sao theo 2 quan niệm Cổ điển và Hiện đại nhằm cung cấp một cái nhìn đúng đắn về 9 tinh đẩu này.

Quan sát Thiên Văn từ xa xưa, ông cha ta đã để ý đến 7 tinh đẩu sáng nhất mà chúng ta nhìn thấy trên bầu trời là Mặt Trời, Mặt Trăng, và 5 hành tinh Kim Mộc Thuỷ Hoả Thổ. 7 tinh đẩu này được gọi là Thất Đại Diệu và người xưa tin rằng cai quản nó là 7 vị Tinh Quân , có quyền năng rất lớn và ảnh hưởng cực mạnh lên số phận con người.

THÁI DƯƠNG

Thái Dương là Mặt Trời là tinh hoa của ban ngày, là tinh hoa của tạo hoá, ban phát sư sống cho muôn loài, được cai quản bởi Thái Dương Đế Quân, ngự tại cung Quang Minh, cầm đầu trong Thất Đại Diệu. Không một ai là không được hưởng ân huệ của Thái Dương. Chính vì thế mà hạn đến sao Thái Dương là hạn rất tốt nhưng sách Lịch Vạn Niên lại nói tốt cho nam mà xấu cho nữ... thật là vô lý quá.

Khoa học hiện đại cũng đã chứng minh, sự ảnh hưởng của Mặt Trời lên con người chúng ta là lớn nhất trong tất cả các tinh đầu. Khi Mặt Trời vào chu kỳ hoạt động mạnh thì chúng ta được tác dụng rất tích cực của nó , các nhà khoa học còn chứng minh được rõ ràng, những nhà khoa học tài năng của thế kỷ 20 này đều được sinh ra vào đúng chu kỳ hoạt động mạnh của Mặt Trời.

Đó là hiện đại, còn ngày xưa chưa có khoa học như thời nay cho nên họ mới tin là Thái Dương Đế Quân chiếu Mệnh thì rất may mắn và phải cúng để giải hạn. Thực tế ra Mặt Trời tác động lên chúng ta là bằng Lực Hấp dẫn và Từ Trường của nó, có cầu cúng thì Định Luật Newton cũng vẫn thế, chẳng giải quyết được gì.

THÁI ÂM

Thái Âm là Mặt Trăng , là tinh hoa của ban đêm, được cai quản bởi Thái Âm thần quân ngự tại cung Quảng Hàn. Thái Âm ban phát ân huệ của nó cho mọi người , người xưa tin rằng Thái Âm tượng cho người mẹ , là sự dịu dàng, phú quý. Hạn đến sao Thái Âm là rất tốt... hic thế nhưng sách Lịch Vạn Niên lại nói tốt cho nam không tốt cho nữ... thật tôi chẳng thể hiểu được.

Khoa học hiện đại cũng đã chứng minh, ảnh hưởng về lực hấp dẫn của Mặt Trăng lên chúng ta chỉ đứng sau Mặt Trời , về Từ Trường chỉ thua Mặt Trời và Mộc Tinh. Người xưa thì tin rằng, Thái Âm mang lại sự quyền quý cao sang , và khoa học hiện đại cũng chỉ ra sự ảnh hưởng của Thái Âm lên mỗi chúng ta. Và Lực Hấp Dẫn hay Từ Trường của nó dù có cầu cúng thì nó vẫn được tính bằng Định luật của Newton và các phương trình của Maxwell... như vậy cầu cúng để làm gi?????

MỘC ĐỨC

Mộc Đức chính là sao Mộc , sách xưa gọi là Đông Chấn Cửu Khí Mộc Đức tinh quân. Vượng ở hướng chính đông, là Tuế Quân, đứng đầu cai quản các thần. Người Phương Đông xưa cũng đã tin tưởng rằng Thái Tuế ảnh hưởng cực mạnh lên con người, ảnh hưởng này có cả tốt và xấu. Người Phương Tây thì tin rằng sao Mộc là nơi ngự của thần Jupiter ( Goethe) vị thần tối cao của các thần, thần sấm sét đầy quyền năng. Chính vì thế mà hạn đến sao Mộc Đức thì có cả tốt và xấu.

THỔ TÚ

Thổ Tú chính là sao Thổ , sách xưa gọi là Trung Ương Nhất Khí Thổ Tú tinh quân. Phương Đông nghiên cứu thấy nó chuyển động rất chậm chạp cho nên tin rằng nó là thần của Thiên Đế đi tuần vòng quanh để kiểm tra công việc của các thần. Cho nên hạn đến sao này là sao xấu vì gặp THANH TRA có vui vẻ bao giờ ... ngay ở Phương Tây họ cũng gán sao Thổ là nơi ngự trị của thần Saturn ( cha của Jupiter, bị con lật đổ) tưởng trưng cho sự già nua chết chóc. Như vậy hạn đến sao này đa phần là xấu , khoa học hiện đại cũng khẳng định sao Thổ làm triết giảm ảnh hưởng của Mộc Tinh lên Trái Đất.

THUỶ DIỆU

Thuỷ Diệu chính là sao Thuỷ, sách xưa gọi là Bắc Khảm Lục Khí Thuỷ Diệu Tinh Quân. Sao này chuyển động rất nhanh, cho nên phương Tây gán nó cho thần Mercury , thần truyền tin, buôn bán và lường gạt. Còn Phương Đông dựa vào đó để an sao Thiên Mã. Chính vì thế hạn đến sao này chủ yếu thiên về kinh doanh buôn bán, nhưng cẩn thận bị lừa, nói chung là tốt có xấu có.

HOẢ ĐỨC

Hoả Đức chính là sao Hoả, sách xưa gọi là Nam Ly Thất Khí Hoả Đức Tinh Quân. Sao này ở Châu Âu tượng trưng cho thần chiến tranh, còn Phương Đông ta thì đó là thần Huỳnh Hoặc. Ảnh hưởng của nó là xấu, hạn đến sao Hoả Đức là hạn sự việc bất ngờ đến, nhưng kết quả không rõ ràng, tốt không ra tốt, xấu kh6ng ra xấu ( do sự nhập nhằng của Huỳnh Hoặc )

THÁI BẠCH

Thái Bạch chính là sao Kim , sách xưa gọi là Tây Đoài Ngũ Khí Thái Bạch Kim Tinh hoặc là Trường Canh Tinh, do sao này mãi đến gần sáng mới tắt, sáng một mình khi những sao khác đã tắt. Từ quan sát đó mà người xưa tin rằng Thái Bạch tượng cho sự cô độc, là tài tinh quyền tinh. Hạn đến sao Thái Bạch là chủ sự việc kéo dài nhưng rồi cũng thành công, và đặc điểm nổi bật của nó là cô độc.

LA HẦU - KẾ ĐÔ

Hai sao này là hai sao không có thực trên bầu trời. Nó xuất phát từ việc quan sát Nhật Thực, Nguyệt Thực. Người xưa không thể giải thích về hai hiện tượng này cho nên họ nghĩ Mặt Trời Mặt Trăng bị ăn mất và rất sợ hãi. Tại Ấn Độ họ tin rằng có hai vị ác thần đã che mất Mặt Trời Mặt Trăng , vị thần che mất Mặt Trời là Rahu và che Mặt Trăng là Kethu.

Sau này sự du nhập của Phạn Lịch vào Trung Hoa, tên được hán hoá thành ra La Hầu và Kế Đô. La Hầu tối hung cho Nam vì nó che mất Mặt Trời, Kế Đô tối hung cho Nữ vì nó che mất Mặt Trăng. Cho nên hai vị tinh đẩu này tuy không có thật nhưng cũng được xếp ngang hàng với 7 vị Tinh Quân ở trên thành Cửu Đại Diệu.

Hạn đến sao này là xấu, nhưng thực tế ra nó chẳng có ảnh hưởng gì đến chúng ta cả. Một sự lo lắng thừa.

Bài này tôi có gắng trình bày dễ hiểu, không dám đả kích ai, chỉ mong đem lại một cái nhìn khoa học hơn về 9 vị sao hạn này, giúp chúng ta bớt lo lắng để tập trung vào việc khác.

BÀI VIẾT CỦA CỐ GS.TS.TRẦN QUANG VŨ)

Tính chất các THẦN trong Thái Ất Nhật Kể ! Sau khi an xong toàn bộ các sao của Thái Ất, khởi tính vận hạn. Và sau một thời gian bận rộn quá, tôi xin viết tiếp về Thái Ất Nhật Kể , phần này là tính chất các sao dùng đẻ luận đoán Lá Số Thái Ất.

Tôi sẽ viết thật từ từ, 1 tuần từ 1 đến 2 sao , để các bạn có thể từ từ dùng nó mà luận đoán được cho Lá số Thái Ất của mình.

Môn Thái Ất rất khó, mong mọi người kiên trì, đừng vội nản. Tôi xin hết lòng giúp sức, trình bày dễ hiểu.

Đại Du

-Sách Thái Ất Thần Kinh viết Tiểu Du cũng là Thái Ất và Đại Du. Thật ra điều này không chính xác. Thái Ất và Tiểu Du là một, nhưng Đại Du thì không.

-Đại Du là hoá khí của Kim Thần, giữ việc "hoá vật" tại cung Khôn. Nó thuộc KIM , tính cứng rắn , nghiêm khắc lạnh lùng. Hành 36 năm qua 1 cung, 288 năm đi hết một chu kỳ. Nó là thần giữ oai huỷ diệt tại Thượng Giới. Đi đến đâu, nơi đấy tan hoang, binh cách nổi lên , can qua máu đổ. 12 năm Lý Thiên khiến cho trời trăng biến động, 12 năm Lý Địa khiến cho đất đai mùa màng sinh biến, 12 năm Lý Nhân khiến cho dịch bệnh phát sinh, người chết vô số. Nơi nào phải đạo, Vua biết thuận lẽ trời, thì Thần ban phúc, nơi nào vô đạo thì thần thực hiện quyền Chấp Pháp.

-Đại Du miếu tại Thân Dậu , Đắc địa tại Thìn Tuất Sửu Mùi, Hãm tại các cung còn lại. Nhập miếu nơi Mệnh Thân của người chủ bản tính cô độc, quyết đoán, suy luận cao cường, ứng biến giỏi , gian hùng và có cá tính cứng cỏi. Nơi đắc địa là người quyết đoán, quyền biến. Hãm chủ sự cứng đầu, ngu dốt và độc ác.

-Đại Du chủ thông thái cao cường. Vào Tứ Trụ ( đặc biệt là ở Ngày Giờ và Mệnh Thân an ngay tại ngôi ngày giờ) là chủ uy quyền sinh sát, lạnh lùng. Đi cùng Đại Tướng Chủ là cực oai quyền , đi cùng Văn Xương là thông kim bác cổ, trụ đá của nhà nước.

-Đi cùng Đại Tướng Khách là chủ oai quyền sinh sát ngoài biên cương. Tính nóng nảy cứng rắn.

-Đi cùng Kể Thần là bậc quan thanh hiển, tài lương đống.

-Đi cùng Quân Cơ là người có tài lãnh đạo, uy quyền cao. Đi cùng Thần Cơ là bậc quý nơi điện các. Đi cùng Dân Cơ là năm quyền tài chính, tài lộc chất đầy nhà.

-Đại Du kỵ đi kèm 4 vị hung thần ( Tứ Thần, Thiên Ất, Địa Ất, Trực Phù) , chủ sự cô độc và hiếu sát.

-Đại Du đi kèm Phi Phù, Thuỷ Kích đó là số khắc hại mẹ cha, sau này là vợ con, ra ngoài hay bị điều tiếng , ít người quý mến.

-Đại Du nơi hãm địa nếu không có Đại Tướng Chủ, Khách nhập miếu để cứu giải sẽ là người ngu độn, độc ác, cứng đầu.

-Đại Du đi cùng Tiểu Du là người tính cách rất quyết đoán , nhưng hơi cứng rắn quá có thể dẫn đến chém giết dễ dàng.

Tiểu Du ( hay cũng chính là Thái Ất)

-Kinh chép : Tiểu Du là tượng Vua, khi chinh chiến là tướng giỏi , chủ thông thái cao cường. Lá hoá khí của Mộc Thần, vượng tại Đông Phương. Tướng tại cung Thuỷ, hình khắc tuyệt tại Kim cung.

-Tiểu Du nhập miếu lại ở 4 trụ Thân Mệnh ( đặc biệt là Thân Mệnh đóng ngay tại Ngày Giờ ) là người rất thông thái cao cường. Danh tài đủ cả. Ở cung hãm thì suy nghĩ tiểu nhân, có phần cố chấp , cả đời lận đận.

-Kỵ nhất là đi cùng Thuỷ Kích chủ yếm, hạn Dương Cửu Bách Lục đến nơi ở đất Tuyệt thì khó tránh khỏi cái chết. Công danh bị thăng giáng thất thường. Bất đắc chí trong quan trường.

-Không nên đi cùng Văn Xương vì chủ văn tài nhưng kém tú. Tài năng cao nhưng không được công nhận.

-Thái Ất đi vào cung Dần Mão thì công huân vượt bậc, chức đến Thủ Tướng. Ở Thân Dậu thì cả đời tập tễnh. Cư cung Hợi Tý là đệ nhất văn tinh, tính chất siêu quần bạt chúng về học nghiệp đăng khoa.

-Đi cùng Ngũ Phúc , Kể Thần thì thiên tư thanh nhã, bậc quý nơi triều đình. Đi cùng Quân Cơ, Thần Cơ là bậc Tể Tướng chấp chưởng quyền hành.

-Tiểu Du vượng tướng đóng cung Tử Tức đến hạn Mã, lại có nhiều Cát Tinh thì sinh con thần đồng, sau này tài lương đống.

-Tiểu Du hãm địa đi cùng Thiên Ất Địa Ất là người ác ngược, cả đời thương đau, cô độc.

Tiểu Du là Sao Mộc

Ở Hợi là khoa danh

Mùi là nơi đáy lộc

Dần là vào Hầu

Nhập miếu ở Chấn cung

Như hãm đi cùng thần hung

Cùng Thuỷ Kích thời cả đời đau khổ

Mệnh có Thái Ất chủ khoa danh

Miểu Mão, Hầu Dần việc dễ thành

Tới cung Thân Mệnh , Chủ Mục trợ

Thanh nhàn, dư sức hái công danh

Du Phúc ( Tiểu Du và Ngũ Phúc) đến cung Vượng thật hay

Là khách anh linh tú lệ này

Đợi buổi cưỡi trâu sinh quý tử

Công huân sự nghiệp đợi chờ ngày

Du cùng Quân Cơ với Kể Văn ( Kể Văn là Thần kể)

Gặp nơi Vượng Tướng khó cùng khăn

Vào Thân , chiếu Mệnh khi hạn gặp

Duy võ, duy văn, phúc định vần

Du miếu đi cùng với Thần Cơ

Hình dung thần thái, dáng người hiền

Lá bậc siêu quần, bậc địa tiên

Chủ Khách hai tướng cùng chiếu xứ

Không trong đài các, nắm binh quyền

Du đi cùng Ngũ Phúc chốn hãm

Dù có Cát Thần chiếu cũng không tốt

Ngũ Phúc không thành Phúc

Ví vào Ngọ Dậu trong

Mộc Tù, Kim kích khắc

Đất lỡ bại khôn mong

Du cùng Phi Phù ở nơi ác tuyệt ( Thân Dậu)

Du trong đất hãm định không tinh

Thích rượu thàm hoa phản đến mình

Ví có cát thần lai cứu trợ

Con thì ấm ớ, vợ cuồng kinh

Trên đây là các câu phú của cụ Trạng Trình để lại nói về sao Tiểu Du Thái Ất , các bạn xem cho kỹ, cân nhắc nặng nhẹ mà đoán cho số của mình.

Tiểu Du Thiên Mục ( cũng chính là Văn Xương)

- Văn Xương chính là chòm Bắc Đẩu Thất Tinh, là phụ tướng của Thái Ất nắm quyền sinh sát nơi khu phủ , là sao cát tập trung mọi quyền của Thiên Đạo. Quyền của Thiên Đạo là oai nghiêm, quý tướng, bằng sắc khôi việt ấn tín, tước lộc tam công. Tư Lệnh Thái Sư chỉ đem lại lợi cho người, chưa hề gây hại cho ai, là gốc của Toán chủ, đỉnh tiên tri.

-Văn Xương ở nơi Thân Mệnh đóng tại Ngày Giờ chủ văn hay chữ tốt, học vấn rộng rãi, thành người thanh kỳ, bao hàm nhân nghĩa, có tài kinh luân quán thế vô cùng.

-Nhập miếu ở Thìn Thân Hợi Sửu , đắc tại Tỵ Mùi Ngọ Tuất Dậu , hãm tại Dần Mão Tý. Ở cung Hợi là quan thanh hiển, ở cung Thân Thìn bậc tể phụ , ở cung Sửu là bậc Giáo Sư đầu ngành danh tiếng vang thiên hạ.

-Đi cùng Ngũ Phúc làm quan đến Tam Công.

-Cùng Ngũ Phúc, Quân Cơ, Thần Cơ, Dân Cơ, Kể Thần, Đại Tướng Chủ vinh hiển từ rất sớm , phú quý gồm hai. Cách này không nên có thêm Thái Ất ( Tiểu Du) vì tuy có văn hay chữ tốt hơn đời nhưng mà khó tránh cảnh bất toại chí. Dầu có toại chí công danh cũng được danh mất lợi.

-Gặp Thuỷ Kích là có văn mà kém tú.

-Gắp Thái Ất, Tứ Thần văn có hay nhưng không hiển đạt.

-Số kiểu như Gia Cát Lượng là phải có Văn Xương nhập miếu hội cùng Ngũ Phúc Quân Cơ. ( rất kỵ có thêm Thái Ất và Tứ Thần đồng cung).

-Vận hạn đến cung Văn Xương nhập miếu ở Thân Sửu Thìn Hợi cũng danh vang ngàn dặm về khoa danh.

-Văn Xương đi cùng Đại Tướng Khách chủ nho nhã, thanh lịch xương thịnh. Đi cùng Đại Tướng Chủ là sứ thần văn vũ , nếu thêm Quân Cơ Ngũ Phúc là bậc Thiên Tử quyền uy. Có thêm Thuỷ Kích chiếu đó là bậc anh hùng khai sơn mở nước nhưng hơi tàn bạo ( giống như Thành Cát Tư Hãn, Tần Thuỷ Hoàng,....)

-Văn Xương đi cùng Kể Thần quán các văn chương , đi kèm Thần Cơ hiển vinh, đi kèm Dân Cơ phú quý song toàn từ nhỏ

-Số đa mưu túc kế lắm mưu thâm đó là khi Văn Xương đi cùng Tứ Thần, Tiểu Du ở nơi kích khắc.

-Văn Xương vào đất hãm thì văn từ dối trá, về già vẫn chưa thành đạt, ví có sao lành đến cứu thì thành đạt chưa bao lâu cũng sẽ chết.

Đa phần sách Tàu an Tiểu Du và Tiểu Du Thiên Mục như sau :

-Từ Dần Thượng Cổ Giáp Tý tích đến năm xem, được bao nhiều đem chia 24... lấy số dư, chia 3 để tìm cung an Tiểu Du. Tích tuế từ Dần Thượng Cổ Giáp Tý chia 18 lấy số dư khởi từ Khôn đếm theo chiều thuận để an Tiểu Du Thiên Mục.

Sách Thái Ất Thần Kinh ghi cách an khác ( Tiểu Du chính là Thái Ất). Tôi theo Thái Ất Thần Kinh.

Về cơ bản Tiểu Du khác Thái Ất ở chỗ nào? Tiểu Du như nhau trong Âm và Dương Độn còn Thái Ất thì an cho Âm DƯơng Độn khác nhau.

Còn Đại Du thì an như sau : Tích từ ngày Giáp Tý gần nhất sau Đông Chí, thêm sai 34. Đem kết quả chia cho 288 , lấy số dư. Số dư đem chia cho 36 , thương số là số cung của Đại Du ( khởi từ Khôn qua Khảm, Tốn , Càn, Ly, Cấn, Chấn , Đoài).

Đại Du Thiên Mục

Các sách Thái Ất khi xem về Nhân Mệnh thường bỏ qua sao Đại Du Thiên Mục ( đơn cử là Thái Ất Thần Kinh)... thực tế ra Thần Đại Du Thiên Mục là rất quan trọng.

Đại Du Thiên Mục khác hắn với Tiểu Du Thiên Mục (Văn Xương)... nó không chủ về khoa bảng tài năng, mà nó là hoá khí của Thổ Thần là MỤC của thần Đại Du. Nơi thượng giới là thần chấp pháp, giám sát các vị Đại Tướng và Tham Tướng.

Đại Du Thiên Mục đóng vào Mệnh Thân Ngày Giờ chủ uy nghiêm, đài các, thiết diện vô tư.

Để hiểu rõ hơn tôi xin phân tích thêm về một chữ này...chữ MỤC nhằm giúp chúng ta hiểu rõ hơn về các thần như Thiên Mục, Địa Mục, Định Mục, Kể Mục.

Thật ra chữ Mục có nghĩa là Mắt. Môn Thái Ất có sao đứng đầu là Thái Ất, nó là thần đứng đầu chưởng quản 16 thần nơi thượng giới. Phụ giúp cho nó có Văn Xương... do chòm Bắc Đẩu Thất Tinh ( Văn Xương) ở ngay trong toà Tử Vi Viên rất gần sao Thái Ất cho nên nó là Chủ Mục - tướng nắm giữ oai quyền ở gần Vua- quyền sinh sát rất lớn , giúp việc cho nó là Đại Chủ và Tham Chủ.

Khi nhập miếu tại Thân Tý Thìn Hợi-tính chất quyền lực của Văn Xương còn hơn cả Đại Tướng Chủ.

Còn Thuỷ Kích đó chính là sao chổi, nó là 1 sao lạ từ bên ngoài đi vào cho nên còn gọi là KHÁCH MỤC. Tính chất của nó là điềm hung, khi xâm nhập vào toà Tử Vi Viên (Quân Cơ) là bị ếm. Vận hạn gặp thì không thể sống nổi. Chính vì thế mỗi khi Thuỷ Kích xuất hiện thì nơi đó binh cách nổi lên, Thái Ất lại hành lý nhân thì điềm có THIÊN TỬ xuất hiện... dựa vào tính chất này mà cụ Trạng Trình có thể tiên đoán :

Đụn Sơn phân giới

Bò Đái thất thanh

Nam Đàn sinh thánh

Dĩ nhiên là không chỉ dựa vào những điều nói trên... mà cụ Trạng phải chia phận dã để xét xem năm đó Thuỷ Kích đi đến đâu.... và nhiều nhiều nữa mới có thể đoán được... nhưng tôi chắc chắn việc tiên đoán Thánh nhân ra đời cụ Trạng phải dựa vào thần Thuỷ Kích và Ngũ Phúc.

Thời Tần Hán, chia nước làm Tỉnh , Châu. Đứng đầu ở chính quyền Địa Phương là chức MỤC... ví dụ đọc Tam Quốc Chí có thấy Lưu Bị năm 217 tiến vào Hán Trung là tự phong làm Ích châu MỤC.... chính vì thế Mục ở đây chủ yếu là Quyền giám sát, thay Vua để thi hành chính lệnh. Các danh từ Thiên Mục, Địa Mục... cũng từ đấy mà ra để gọi cho các sao Văn Xương, Thuỷ Kích ,.....

Như vậy tôi hi vọng mọi người có thể hiểu đúng và rõ tại sao lại gọi Văn Xương là Thiên Mục,.... và tính chất của các MỤC chủ yếu là quyền lực và giám sát.

THUỶ KÍCH

Thuỷ Kích là Khách Mục , thuộc về Hoả. Bản chất nóng nảy, đi đến đâu gieo tai hoạ đến đấy. Ở Thượng Giới nắm quyền kích bác đến Thượng đế còn phải sợ.

Thuỷ Kích miếu tại Dần Ngọ Tuất Tỵ. Dần là vào Hầu, Tỵ Ngọ là vào miếu, ở Tuất là đáy lửa. Đắc địa tại Thìn Sửu , hãm tại các cung còn lại.

Thuỷ Kích vào Thân Mệnh Ngày Giờ hoặc ở cạnh bên, hoặc chiếu thì khắc hại lục thân, bản tính cương cường nóng nảy. Gieo hoạ tại hai cung Hợi Tý. Ngày giờ sinh bị Thuỷ Kích đối xung là số mạng yểu. Vận hạn gặp phải Thuỷ Kích ít người sống được.

Kích nhập miếu ở Dần thì quyền cao lộc hậu , ở Ngọ vị đến Tam Công, ở Tuất tài lộc bậc kinh quốc. Can Ngày sinh là Mậu hay Quý , tứ trụ có Thuỷ Kích mà Mệnh Thân có Tam Cơ, Đại Chủ, Ngũ Phúc đó là số mệnh của bậc Thiên Tử. Các CAN khác mà gặp phải thì sự nghiệp phát lẫy lừng nhưng kết cục bi thảm.

Thuỷ Kích rất kị đi kèm Thái Ất hay Văn Xương. Đi kèm Thái Ất là thể thức ẾM Mệnh Thân gặp phải thì hình ngục tù đày, cả đời lao đao. Vận hạn gặp phải thì Mệnh đến suối vàng, tai nạn đều phát. Đi kèm Văn Xương là Khách Chủ ép nhau, văn chương có hay nhưng kém tú. Đi kèm Tham Chủ, Tham Khách là số phận bạc bẽo, hay bị người khác phản bội. Đi kèm Đại Tướng Khách là người tàn bạo, anh em ruột thịt tương tàn, nếu có nhiều Cát Tinh cứu giải thì là bậc trí thức danh giá ẩn đời...

Duy có sao Đại Tướng Chủ là chế được hung của Thuỷ Kích, nhưng tại Tỵ Ngọ thì chế không nổi. Mệnh có Đại Chủ mà có thêm Thuỷ Kích chiếu là cách cực oai quyền, thích chém giết sát phạt.

Thuỷ Kích gặp Phi Phù chiếu Ngày Giờ sinh thì khắc vợ hại con , có thể goá bụa hoặc tuyệt tự.

Thuỷ Kích đi kèm Ngũ Phúc thì cả đời lận đận, đi kèm Tứ Thần Trực Phù là hạng ham mê dâm dục , gái là phường dâm đãng, con hát.

Thuỷ Kích bản chất của nó là hao tán, phá hoại. Nhưng khi nhập miếu thì sự nghiệp công danh phát như lôi, không gì bì kịp. Chính vì thế những vĩ nhân lưu danh sách sử không thể thiếu Đại Tướng Chủ thủ Mệnh và có kèm thêm Thuỷ Kích cùng rất nhiều Phúc Thần để cứu giải.

Thần nhập miếu tại Thìn Tuất Dần , đắc địa tại Sửu Mùi Tỵ Ngọ , hãm tại các cung còn lại. Đến đất Thìn Tuất là chấp pháp của Thiên Đế , đến Dần là thần Giám sát hiệu lệnh của Trời, nắm oai quyền điều khiển Chủ và Khách.

Đại Du Thiên Mục đi đến đất hãm là người khắc nghiệt , tính cương mãnh, nhiều khi thái quá.

Do bản chất là thần chấp pháp cho nên khi đi kèm các sao chủ chém giết, tàn bạo như Thuỷ Kích, Tứ Thần, Thiên Ất, Địa Ất, Trực Phù thì Đại Du Thiên Mục lại có hình ảnh là con dao đồ tể.

Đại Du Thiên Mục đi kèm Đại Tướng Chủ là quyền thay Vua nơi triều đình, đi cùng Đại Tướng Khách là quyền thay Vua về đối ngoại. Tước bậc đến khâm sai. Đi kèm Ngũ Phúc Quân Cơ là uy quyền cao lắm.

Mệnh nắm quyền cao thì Mệnh Thân Tứ Trụ không thể thiếu Đại Du Thiên Mục đi kèm với các thần Ngũ Phúc, Quân Cơ, Thần Cơ, Đại Chủ, Đại Khách, Thái Ất, Văn Xương. Đặc biệt khi có Thuỷ Kích ở Dần cùng Đại Du Thiên Mục đó là cách cực oai quyền, nắm quyền sinh sát, nhưng khắc hại lục thân vợ con.

Tiểu Du Thiên Mục là mục của Tiểu Du, hoàn toàn như Văn Xương. Mệnh có Tiểu Du Thiên Mục cũng như có Văn Xương.

(BÀI VIẾT CỦA CỐ GS.TS.TRẦN QUANG VŨ)

Bản đồ 9 phận dã !! Cửu thiên : Còn gọi là Cửu dã.

Thuật ngữ của thuật chiêm tinh thiên văn dùng để phân chia khu vực tượng sao dựa theo Nhị Thập Bát Tú.

Bầu trời sao thành 9 khu vực và 9 phương vị (8 hướng và Trung Tâm), tức Cửu thiên, bao gồm :

Quân thiên ở giữa có các sao Giốc, Cang, Đê

Thương thiên phương đông có các sao Phòng, Tâm, Vĩ

Biến thiên phương đông bắc có các sao Ki, Đẩu, Ngưu

Huyền thiên phương bắc có các sao Nữ, Hư, Nguy, Thất

U thiên phương tây bắc có các sao Bích, Khuê, Lâu

Hạo thiên phương tây có các sao Vị, Ngang, Tất

Chu thiên phương tây nam có các sao Từ, Sâm, Tỉnh

Viêm thiên phương nam có các sao Qủy, Liễu, Thất tinh

Dương thiên phương đông nam có các sao Trương, Dực, Chẩn .

Ngoài ra ứng với Cửu Thiên là 9 khu vực hay còn gọi là 9 PHẬN DÃ, gọi là Cửu châu: Dự châu, Chu; Dực châu, Tấn; Dõan châu, Vệ; Thanh châu, Tề; Tư châu; Lỗ, Dương châu, Triệu; Kinh châu, Sở; Ung châu. Tần; U châu, Yên.

Có thể tham khảo thêm trong Thái Ất Thần Kinh để thấy rõ hơn.

Những gì ghi chép ở trên theo tôi nó như thế này :

+Quan Sát này không thể nào như thế nếu đứng tại đài thiên văn ở Nam Kinh hay Bắc Kinh, mà phải đứng về phía Nam sông Dương Tử rất gần với Vĩ độ 23.9 độ Bắc là chính xác nhất ( tức rất gần với Việt Nam).

+Tại nơi tôi cư trú có hơi sai lệch đi 1 chút so với phận dã này ( Thủ đô Vienna của Áo Kinh độ cao hơn Bắc Kinh)

Như vậy xin mạo muội mà đoán mò :

+ Người Trung Hoa phải chăng chỉ là sao chép lại bản đồ Cữu Dã từ một nền văn minh khác ở phương Nam.

+ Họ sao chép nhưng đã không biết chọn lọc chỉnh sửa cho nên năm 1645 chính tại Bắc Kinh, Khang Hy phải mời chiêm tinh gia Phương Tây dùng Toán và Thiên Văn Phương Tây làm lại Lịch cũng như bổ sung chỉnh lý cho bản đồ 9 Phận Dã này...

Nếu ý kiến của tôi có gì sai mong mọi người bỏ qua và coi như chưa hề nhìn cũng như nghe thấy....

Rất cảm ơn

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #mhds